A Di Đà Phật Thánh Điển

阿彌陀佛聖典

Thích Ấn Quang đại sư giám định

Cư sĩ Phạm Cổ Nông giảo khám

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo bản in của Cao Hùng Tịnh Tông Học Hội năm 2011)

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

Lời tựa ấn hành và lưu thông bộ A Di Đà Phật Thánh Điển

 

          Pháp môn Niệm Phật chính là pháp môn Tổng Tŕ trong Phật giáo, nhưng có chuyên niệm tự Phật, chuyên niệm tha Phật, và kiêm niệm tự tha Phật sai khác. “Chuyên niệm tự Phật” là như từ trong các kinh mà thấu hiểu cùng tận sâu xa Thật Tướng để mong ngộ chứng. Tức là đối với các pháp như Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại v.v… bèn dùng trí Bát Nhă chiếu soi, liễu đạt bản thể của hết thảy các pháp ấy toàn là Không, đích thân thấy tánh Chân Như mầu nhiệm sẵn có, và như Thiền Tông khán câu “người niệm Phật là ai” cùng các câu thoại đầu để mong đích thân thấy được “diện mạo sẵn có trước khi được cha mẹ sanh ra”. Trong bốn loại Niệm Phật, [cách này] được gọi là Thật Tướng Niệm Phật. “Chuyên niệm tha Phật” th́ có ba cách niệm:

          1) Quán Tưởng, có nghĩa là nương theo Thập Lục Quán Kinh để quán tưởng, hoặc là chuyên quán bạch hào, hoặc chỉ quán thân Phật cao một trượng sáu thước hoặc tám thước, hoặc quán Pháp Thân rộng lớn, và quán trọn cả mười sáu phép Quán.

          2) Quán Tượng, nghĩa là đối trước h́nh tượng Phật, tưởng tướng hảo, quang minh v.v… của Phật.

          3) Tŕ Danh, nghĩa là nhất tâm xưng niệm thánh hiệu A Di Đà Phật.

          Ba loại Niệm Phật này, tuy pháp bất đồng, thảy đều cần phải có ḷng tin chân thành, nguyện thiết tha th́ mới có thể cảm ứng đạo giao với Phật, mới có thể ngay trong đời này quyết định thoát khỏi cơi Sa Bà này, sanh về cơi Cực Lạc kia. Trong bốn loại Niệm Phật, chỉ có Thật Tướng Niệm Phật là đế lư sâu nhất, nhưng chẳng dễ tu cho lắm! Bởi lẽ, chỉ cậy vào Giới, Định, Huệ và sức tham cứu, quán chiếu của chính ḿnh, chẳng có tha lực bổ trợ. Nếu chẳng phải là kẻ túc căn chín muồi th́ ngộ c̣n chẳng dễ, huống hồ thật chứng! Chỉ có Tŕ Danh Niệm Phật thực hiện dễ dàng nhất, thành công nhanh chóng nhất. Nếu có thể nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, ắt sẽ đích thân chứng Niệm Phật tam-muội ngay trong hiện đời, lâm chung quyết định văng sanh Thượng Phẩm. Dẫu căn cơ hèn kém, chưa chứng tam-muội, nhưng do ḷng tín nguyện tŕ danh hiệu Phật, như con nhớ mẹ, thường luôn chẳng gián đoạn, tới khi lâm chung, sẽ cảm ứng đạo giao, nương theo từ lực của đức Phật, đới nghiệp văng sanh. Chúng sanh trong đời mạt chỉ có pháp này để nương cậy. Nếu không, chỉ là gieo cái nhân trong tương lai, khó đạt được lợi ích thực tế! Nếu có thể chí tâm tŕ niệm, niệm đến khi “toàn thể tâm là Phật, toàn thể Phật là tâm, ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm, vô niệm mà niệm, niệm mà vô niệm, tâm và Phật cùng hiển lộ, lại c̣n cùng mất bặt”, ắt diệu lư Thật Tướng sẽ hiển lộ tột cùng bản thể, y báo và chánh báo của cơi Tây Phương sẽ hoàn toàn phơi bày triệt để. Tức là do Tŕ Danh mà thấu đạt sâu xa Thật Tướng, chẳng tác quán mà đích thân thấy Tây Phương. [Pháp môn này] thâu nhiếp căn cơ phổ biến nhất, được lợi ích sâu nhất, lợi lạc những kẻ độn căn trong thời Mạt Pháp nhất, thỏa thích rộng lớn hoài băo xuất thế của Như Lai. V́ thế, trước nay, các bậc tri thức phần nhiều đều chú trọng môn Tŕ Danh. Đấy là nói đại lược về pháp niệm Tha Phật.

          C̣n như pháp “Tự Tha cùng niệm”, chính là cái được gọi là Thiền Tịnh Song Tu. Có người chuyên khán câu “người niệm Phật là ai” để mong minh tâm kiến tánh, chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh, tuy tợ hồ là Thiền Tịnh song tu, thật ra là “có Thiền, không Tịnh”. Đă chẳng có tín nguyện, sẽ chẳng thể nhờ vào đâu ḥng nương cậy Phật lực để đới nghiệp văng sanh. Nếu chưa đạt tới địa vị “nghiệp tận, t́nh không”, lại chẳng thể dựa vào tự lực ḥng liễu sanh thoát tử. Do vậy biết: Thiền Tịnh song tu, chỉ có người trọn đủ tín nguyện sâu đậm th́ mới có thể được lợi ích. Nếu không, cố nhiên là chẳng bằng chuyên dốc sức nơi một môn tŕ danh hiệu Phật. Pháp môn Tịnh Độ thật sự là pháp môn đặc biệt khế lư, khế cơ trong giáo pháp suốt một đời đức Như Lai. V́ thế, văng thánh tiền hiền vị nào cũng đều hướng về, ngàn kinh muôn luận đâu đâu cũng chỉ về. Ông X… ở Đông Doanh (Nhật Bản) đă trích lục các nghĩa lư xiển dương pháp Niệm Phật từ các kinh luận, soạn thành quyển Di Đà Thuyết Lâm, chia thành mười môn, lư thông suốt một hạnh, có thể hữu ích cho người tu Tịnh nghiệp. Cư sĩ Phạm Cổ Nông đặc biệt giảo khám (校勘, giảo chánh, cân nhắc, tra cứu), sửa đổi thành tác phẩm A Di Đà Phật Thánh Điển nhằm biểu thị ư nghĩa tôn sùng. Nhưng những phần trích lục trọn chẳng nêu rơ nguyên ủy, đợi lúc nào rảnh rỗi, cư sĩ ắt sẽ dựa theo các kinh để ghi rơ tường tận, ngơ hầu hết thảy mọi người biết đến pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương là đường lối cộng tu cho hết thảy thượng thánh hạ phàm, ngơ hầu chẳng đến nỗi phạm các lỗi như tự phụ là bậc thượng căn rồi chẳng chịu tu tập, mà cũng chẳng đến nỗi tự thẹn là kẻ hạ căn chẳng kham tu tập… [Ông Phạm] đă biên tập xong, sắp khắc in, sai Quang soạn lời tựa. Tôi bèn dựa theo những ǵ chính ḿnh đă biết để thưa tŕnh. Hăy nên biết pháp Niệm Phật chính là pháp môn Tổng Tŕ để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh tốt đẹp từ đầu đến đuôi. Nếu chẳng tin tưởng, xin hăy chất vấn Phổ Hiền Bồ Tát!

          Cuối Hạ năm Tân Mùi, tức năm Dân Quốc 20 (1931), Thường Tàm Quư Tăng Thích Ấn Quang kính soạn.

 

Lời tựa của bộ A Di Đà Phật Thánh Điển

 

          Vấn đề to lớn trong đời hiện thời không ǵ lớn bằng nhân sinh! Tôi chẳng hiểu [v́ sao] con người đă sanh ra đời mà [cuộc sống] lại trở thành vấn đề. Ấy là do người ta tuy sống, nhưng thiếu khuyết đạo để giúp cho sự sanh tồn, cho nên đầy dẫy những thứ gây trở ngại cho cuộc sống. Chính v́ lẽ này mà cuộc đời này khổ sở vậy.

          Đức Phật xuất thế nhằm giải quyết vấn đề nhân sinh. Trước hết, Ngài nói Tứ Đế, nêu ra Khổ Đế để mọi người liễu giải: “Đối với nhân sinh trong cơi đời này, dẫu muốn giải quyết nhưng chẳng thể được”; nhưng v́ nguyện lực đại bi, lại chẳng thể gác bỏ nhân sinh chẳng đoái hoài đến, cho nên Ngài thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, mở ra pháp môn mầu nhiệm, chỉ dẫn về Tịnh Độ. Tịnh Độ là cơi vui sướng, cơi vui sướng th́ chẳng khổ, người sống trong ấy, quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng, vô sanh mà sanh, sanh mà vô sanh. Chuyện nhân sinh trong đời người đă chẳng thành vấn đề nữa. Chúng sanh do niềm may mắn nào mà được nghe pháp này, cũng như do niềm may mắn nào mà được sanh trong cơi ấy? Trong cơi đời hiện thời, muốn giải quyết vấn đề nhân sinh mà chẳng tin đạo này, là v́ lẽ nào vậy? Thưa: “Do chưa đọc kinh Phật vậy!”

          Pháp môn Tịnh Độ, ba kinh một luận, người học tập kinh Phật đôi chút, không ai chẳng biết; há có biết trong giáo pháp suốt một đời đức Phật, các kinh điển do Ngài đă nói đều không ǵ chẳng nhằm nêu bày, tuyên dương y báo hoặc chánh báo của Tịnh Độ? C̣n như những kẻ đối với pháp môn tuyệt diệu để giải quyết vấn đề nhân sinh này, lại bảo là “không có chứng cớ đáng tin”, [khiến cho pháp này] trở thành pháp khó tin, há chẳng đáng đau xót ư? Các bậc tông sư Tịnh Độ trong nước ta thường dùng một câu Di Đà để dạy người khác chuyên tu, nhưng chưa hề bàn rộng về thánh giáo. Tuy đôi lúc cũng viện dẫn kinh luận, bất quá [viện dẫn] mấy chục bộ mà thôi, chẳng bằng bộ Di Đà Thánh Điển này đă nêu ra hơn hai trăm loại kinh! Dựa vào sự từng trải của chúng ta, theo chiều dọc, bất quá mấy chục năm mà thôi, theo chiều ngang, bất quá mấy ngàn dặm, muốn biết chuyện từ mấy ngàn năm trước, ở ngoài mấy vạn dặm, nếu chẳng dùng văn tự để làm căn cứ và quy kết th́ làm sao có thể thực hiện cho được? Huống hồ Tịnh Độ của đức Di Đà đă h́nh thành từ mười kiếp đến nay, ở ngoài mười vạn ức cơi Phật ư? Nếu bảo làm như thế bất quá là “bàn suông trên giấy”, dẫu tột cùng ngàn kinh muôn luận đều chỉ về, đối với những kẻ vẫn chẳng sanh ḷng tin, tôi chẳng biết làm như thế nào được nữa!

          Cư sĩ Cao Quán Lư căn cơ Bát Nhă sâu xa, học Phật từ độ tuổi thanh niên, đạt được sự truyền thừa của Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản, đem về [Trung Hoa] những sách vở của tông ấy. Trong số đó, có bộ Di Đà Thuyết Lâm, tập hợp khoảng mấy ngàn điều trong tạng kinh liên quan đến Di Đà Tịnh Độ. Tôi đọc xong, hết sức mừng rỡ nói: “Tác phẩm này có thể dùng để chỉ bảo kẻ không tin Tịnh Độ vậy. Tác phẩm này có thể dùng để dạy người tu Tịnh Độ mà ít học kinh Phật vậy”. Do trong ấy có những đoạn viết bằng tiếng Nhật, phải nhờ người khác dịch ra [tiếng Hán], đối với những đoạn kinh luận [đă được trích lục], lại kiểm giảo tường tận, ngơ hầu [những đoạn trích lục trong sách] chẳng khác [nguyên văn] trong kinh tạng. Đổ công suốt hai tháng mới hoàn thành bản thảo. Tôi lại phân loại nội dung của sách thành mười chương, sắp xếp mạch lạc hơn nguyên bản, bèn đổi tên sách thành Di Đà Thánh Điển nhằm tôn sùng kinh điển vậy. Những người tu Tịnh Độ niệm Phật Di Đà trong cơi đời có được sách này để đọc tụng, sẽ tránh khỏi tiếng chê cười là “chỉ biết cắm đầu hành, quên bẵng nguồn cội!” Lại nữa, kẻ chưa tu, chưa niệm, có được sách này để xem đọc, sẽ biết nhân địa sâu xa và quả địa thần diệu của đức Di Đà. Lại c̣n do thấy pháp môn rộng lớn, biển pháp sâu thẳm, có ai mà chẳng nẩy sanh hứng thú tràn trề! Đúng như thế đó! Do sách này mà tin Tịnh Độ, niệm Phật Di Đà, sanh về Cực Lạc, chứng Vô Sanh, có thể nói sách này là bảo điển để giải quyết vấn đề nhân sinh to lớn vậy. Như thế th́ sách này ra đời há chẳng phải là chuyện trọng yếu hay sao? Nay do vội xuất bản sách này, có những chỗ đoạn kinh văn được trích dẫn quá mức giản lược, chưa rảnh rỗi để tu chỉnh ngơ hầu đạt tới hoàn mỹ. Mai sau có lúc rảnh rang, sẽ lại dựa theo kinh văn và nghĩa lư trong kinh văn gốc để bổ túc những chỗ thiếu sót ấy, ngơ hầu từng chữ, từng câu đều có nguồn gốc [rơ ràng], những đại đoạn trường thiên đều phô rơ chỉ thú. Đấy chính là những điều tôi phải nên thưa tŕnh cùng độc giả vậy.

          Giữa Hạ năm Dân Quốc 20 (1931), Phạm Cổ Nông viết lời tựa tại pḥng biên tập của Phật Học Thư Cục.

 

Lời tựa tái bản

 

          A Di Đà Phật Thánh Điển do cư sĩ Cao Quán Lư thỉnh cư sĩ Phạm Cổ Nông giảo chánh, tu chỉnh vào năm Dân Quốc 20 (1931). Sách ấy được Ấn Quang đại sư đề tựa. Phật Giáo Xuất Bản Xă từng ấn hành vào năm Dân Quốc 65 (1976). Về sau, cư sĩ Thái Triều Vinh lại biên tập lần nữa, và được Ḥa Tục Xuất Bản Xă xuất bản vào năm 2002. Bản biên tập của Thái cư sĩ tuy đă nêu rơ số quyển của kinh luận, nhưng do xét thấy người học Phật trong hiện thời phần nhiều thích sử dụng đĩa CD CBETA của Trung Hoa Điện Tử Phật Điển Hiệp Hội (Chinese Buddhist Electronic Text Association - CBETA) để tra cứu tài liệu kinh luận, bổn hội (Cao Hùng Tịnh Tông Học Hội) đă đặc biệt dựa theo CD của CBETA và hai bản trước đó để đối chiếu ḥng hiệu đính lần nữa, tạo thành sách này. Cuối những đoạn kinh luận đă được trích dẫn, lại ghi rơ xuất xứ trong Đại Chánh Tạng (Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh), chẳng hạn như “T13, no.415, p.871, c17” nhằm biểu thị [đoạn kinh văn ấy] trích từ tập 13 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō Shinshū Daizōkyō), bản kinh số 415, trang 871, ḍng c17. Bổn hội ghi chú như vậy nhằm tạo thuận tiện cho người hữu tâm tu học Tịnh Độ thâm nhập Tịnh Độ, cũng như kính vâng theo lời căn dặn “nêu rơ nguồn gốc” của tổ Ấn Quang trong lời tựa.

          Năm 2010, bộ phận xuất bản của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội kính ghi.

 

A Di Đà Phật Thánh Điển (chánh văn)

阿彌陀佛聖典

 

I. Tán thán quy kính chương (讚歎歸敬章)

 

          Quả đức thù thắng, không ǵ vượt trỗi Tây Phương. Đạo tu hành đơn giản, nhanh chóng, không ǵ mau lẹ bằng niệm Phật. Do vậy, các kinh phần nhiều khen ngợi Phật Di Đà, vô lượng chư Phật không vị nào chẳng tán thán, vô tận Bồ Tát đều quy y. Công đức trang nghiêm của đức Phật ấy và cơi Phật ấy đúng là chúng ta không thể suy lường một phần trong vô lượng bất khả thuyết được! Những điều được nêu ra trong hiện thời đều là nhờ vào thánh ngôn trích từ các bộ kinh để tŕnh bày đại lược đó thôi. Thật ra, toàn bộ những ǵ được ghi chép trong sách này, không ǵ chẳng là những lời lẽ tán thán, quy kính, chứ không phải chỉ có những điều được trần thuật trong chương sách này [mà thôi]!

 

* Phật Thuyết Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Phần

(佛說大方等大集經菩薩念佛三昧分)

 

          Quá khứ hữu Phật danh Phóng Quang, diệc vô biên phương vô lượng tướng (CBETA, T13, no.41, p.871).

          過去有佛名放光,亦無邊方無量相。

          (Trong quá khứ có đức Phật tên là Phóng Quang, cũng có vô lượng không ngằn mé tướng).

 

* Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh

(佛說無量壽經)

 

          Vô Lượng Thọ Phật oai thần quang minh, tối tôn đệ nhất. Chư Phật quang minh, sở bất năng cập. Hoặc hữu Phật quang, chiếu bách Phật thế giới, hoặc thiên Phật thế giới. Thủ yếu ngôn chi, hoặc chiếu Đông phương hằng sa Phật sát. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy thượng hạ, diệc phục như thị. Hoặc hữu Phật quang, chiếu ư thất xích, hoặc chiếu nhất do-tuần, nhị, tam, tứ, ngũ do-tuần. Như thị chuyển bội, năi chí chiếu nhất Phật sát. Thị cố Vô Lượng Thọ Phật, hiệu Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Viêm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Kỳ hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, tam cấu tiêu diệt, thân ư nhu nhuyễn, hoan hỷ, dũng dược, thiện tâm sanh yên. Nhược tại tam đồ cần khổ chi xứ, kiến thử quang minh, giai đắc hưu tức, vô phục khổ năo. Thọ chung chi hậu, giai mông giải thoát. Vô Lượng Thọ Phật, quang minh hiển hách, chiếu diệu thập phương chư Phật quốc độ, mạc bất văn tri. Bất đản ngă kim xưng kỳ quang minh, nhất thiết chư Phật, Thanh Văn, Duyên Giác, chư Bồ Tát chúng, hàm cộng thán dự, diệc phục như thị. Thập phương hằng sa chư Phật Như Lai, giai cộng tán thán Vô Lượng Thọ Phật oai thần công đức bất khả tư nghị. Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực. Thập phương thế giới, vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như Lai, mạc bất xưng tán. Ư bỉ Đông phương Hằng hà sa Phật quốc, vô lượng vô số chư Bồ Tát chúng, giai tất văng nghệ Vô Lượng Thọ Phật sở, cung kính cúng dường, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn đại chúng thính thọ kinh pháp, tuyên bố đạo hóa. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy thượng hạ, diệc phục như thị (CBETA, T12, no.360)

          無量壽佛。威神光明。最尊第一。諸佛光明。所不能及。或有佛光。照百佛世界。或千佛世界。取要言之。或照東方恆沙佛剎。南西北方。四維上下亦復如是。或有佛光。照於七尺。或照一由旬。二三四五由旬。如是轉倍。乃至照一佛剎。是故無量壽佛。號無量光佛。無邊光佛。無礙光佛。無對光佛。炎王光佛。清凈光佛。歡喜光佛。智慧光佛。不斷光佛。難思光佛。無稱光佛。超日月光佛。其有眾生遇斯光者。三垢消滅。身意柔軟。歡喜踴躍。善心生焉。若在三塗勤苦之處。見此光明。皆得休息。無復苦惱。壽終之後。皆蒙解脫。無量壽佛。光明顯赫。照曜十方諸佛國土。莫不聞知。不但我今稱其光明。一切諸佛聲聞緣覺諸菩薩眾。咸共嘆譽。亦復如是。十方恆沙諸佛如來。皆共讚歎無量壽佛威神功德不可思議。無量壽佛。威神無極。十方世界。無量無邊不可思議諸佛如來。莫不稱嘆。於彼東方恆河沙佛國。無量無數諸菩薩眾。皆悉往詣無量壽佛所。恭敬供養。及諸菩薩聲聞大眾。聽受經法。宣佈道化。南西北方。四維上下。亦復如是。

          (Oai thần và quang minh của Vô Lượng Thọ Phật tôn quư bậc nhất. Quang minh của chư Phật chẳng thể sánh bằng. Có vị Phật quang minh chiếu đến một trăm thế giới Phật, hoặc một ngàn thế giới Phật. Nói tóm lại, hoặc là chiếu các cơi Phật nhiều như số cát sông Hằng ở phương Đông. Nam, Tây, Bắc phương, bốn phương bàng, trên, dưới cũng giống như vậy. Hoặc có vị Phật quang minh chiếu xa bảy thước, hoặc chiếu xa một do-tuần, hai, ba, bốn, năm do-tuần. Lần lượt gấp bội như thế, cho đến chiếu một cơi Phật. V́ thế, Vô Lượng Thọ Phật có hiệu là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Viêm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Nếu có chúng sanh gặp quang minh ấy, tam cấu tiêu diệt, thân ư mềm dịu, hoan hỷ, hớn hở, thiện tâm sanh khởi. Nếu [chúng sanh nào] ở nơi tam đồ khổ sở, thấy quang minh ấy, đều được ngưng nghỉ, chẳng c̣n khổ năo. Sau khi mạng chung, đều được giải thoát. Vô Lượng Thọ Phật quang minh rạng rỡ chiếu ngời các cơi nước Phật trong mười phương, không ai chẳng nghe biết. Không chỉ là ta nay ca ngợi quang minh ấy, mà hết thảy chư Phật, Thanh Văn, Duyên Giác, các vị Bồ Tát, đều cùng khen ngợi cũng giống như thế. Chư Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng trong mười phương đều cùng tán thán oai thần và công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Oai thần của Vô Lượng Thọ Phật vô cực. Vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới không vị nào chẳng ca ngợi. Trong các cơi Phật nhiều như số cát sông Hằng ở phương Đông, vô lượng vô số các vị Bồ Tát đều cùng đến chỗ Vô Lượng Thọ Phật, cung kính cúng dường, cùng với các vị Bồ Tát, Thanh Văn, đại chúng, nghe nhận kinh pháp, tuyên dương, lưu truyền đạo pháp để hóa độ. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới cũng đều như thế).

         

* Đại Bảo Tích Kinh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội

(大寶積經無量壽如來會)

 

          Đông phương như hằng sa giới, nhất nhất giới trung như hằng sa Phật. Bỉ chư Phật đẳng, nhất nhất xưng tán A Di Đà Phật vô lượng công đức. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, chư Phật xưng tán, diệc phục như thị. Hà dĩ cố? Tha phương Phật quốc, sở hữu chúng sanh, văn Vô Lượng Thọ Như Lai danh hiệu, năi chí năng phát nhất niệm tịnh tín, hoan hỷ, ái nhạo, sở hữu thiện căn, hồi hướng nguyện sanh Vô Lượng Thọ quốc giả, tùy nguyện giai sanh, đắc bất thoái chuyển, năi chí Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Vô lượng vô số bất khả tư nghị vô hữu đẳng đẳng vô biên thế giới chư Phật Như Lai, giai cộng xưng tán Vô Lượng Thọ Phật sở hữu công đức (CBETA, T11, no.310).

          東方如恆沙界。一一界中如恆沙佛。彼諸佛等。一一稱讚阿彌陀佛無量功德。南西北方。四維上下。諸佛稱讚。亦復如是。何以故。他方佛國。所有眾生。聞無量壽如來名號。乃至能發一念凈信。歡喜愛樂。所有善根。迴向願生無量壽國者。隨願皆生。得不退轉。乃至無上正等菩提。無量無數不可思議無有等等無邊世界諸佛如來。皆共稱讚無量壽佛所有功德。

          (Các cơi nước ở phương Đông nhiều như cát sông Hằng, trong mỗi cơi có Phật nhiều như cát sông Hằng. Các đức Phật ấy, mỗi vị đều khen ngợi vô lượng công đức của A Di Đà Phật. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới, chư Phật khen ngợi cũng giống như thế. V́ cớ sao? Tất cả các chúng sanh trong những cơi Phật ở phương khác nghe danh hiệu của Vô Lượng Thọ Phật Như Lai, cho đến có thể phát một niệm tịnh tín, hoan hỷ, yêu thích, hồi hướng tất cả thiện căn nguyện sanh về cơi của Vô Lượng Thọ Phật, tùy theo ư nguyện đều được sanh về, đắc Bất Thoái Chuyển, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Chư Phật Như Lai trong vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn chẳng có ǵ sánh bằng vô biên thế giới đều cùng ca ngợi những công đức mà A Di Đà Phật vốn có).

 

* Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh

(佛說阿彌陀三耶三佛薩樓佛檀過度人道經)

 

          A Di Đà Phật ân đức, chư sở bố thí, bát phương, thượng, hạ, vô cùng vô cực, thậm thâm vô lượng, khoái thiện bất khả ngôn. Kỳ trí huệ giáo thọ, sở xuất kinh đạo, bố cáo bát phương thượng hạ, chư vô ương số thiên thượng, thiên hạ, thậm bất nguyên dă. Kỳ kinh quyển số thậm đa, bất khả phục kế, đô vô hữu cực (CBETA, T12, no.362, p.308, c23-27).

          阿彌陀佛恩德。諸所布施。八方上下。無窮無極。甚深無量。快善不可言。其智慧教授。所出經道。布告八方上下。諸無央數天上天下。甚不原也。其經卷數甚多。不可復計。都無有極。

          (Ân đức của A Di Đà Phật đă bố thí tám phương, trên, dưới vô cùng, vô cực, rất sâu vô lượng, tốt lành chẳng thể diễn tả được. Ngài dùng trí huệ dạy bảo, nói ra những kinh giáo, đạo lư ban bố vô ương số cơi trời và nhân gian trong tám phương, trên, dưới chẳng thể kể xiết được. Số lượng các quyển kinh thật nhiều, chẳng thể tính đếm được, đều là chẳng có cùng cực).

 

* Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh

(大乘無量壽莊嚴經)

 

          Đông phương hữu Hằng hà sa số thế giới chư Phật Như Lai, xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật, bất khả tư nghị công đức. Nam phương diệc hữu Hằng hà sa số thế giới chư Phật Như Lai, xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức. Tây Phương diệc hữu Hằng hà sa số thế giới chư Phật Như Lai, xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức. Bắc phương diệc hữu Hằng hà sa số thế giới chư Phật Như Lai, xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức. Như thị tứ duy thượng hạ Hằng hà sa số thế giới chư Phật Như Lai xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức. Như thị công đức trang nghiêm Cực Lạc quốc độ, măn bỉ toán số vô lượng chi kiếp, thuyết bất năng tận. Bỉ Phật lợi lạc chư công đức, duy Phật dữ Phật năi năng tri. Thanh Văn, Duyên Giác măn thế gian, tận kỳ thần lực mạc năng trắc. Giả sử trường thọ chư hữu t́nh, mạng trụ vô số câu-chi kiếp, xưng tán Như Lai công đức thân, tận kỳ h́nh thọ tán vô tận (CBETA, T12, no.363).

          東方有恆河沙數世界諸佛如來。出廣長舌相。放無量光。說誠實言。稱讚無量壽佛。不可思議功德。南方亦有恆河沙數世界諸佛如來。出廣長舌相。放無量光。說誠實言。稱讚無量壽佛不可思議功德。西方亦有恆河沙數世界諸佛如來。出廣長舌相。放無量光。說誠實言。稱讚無量壽佛不可思議功德。北方亦有恆河沙數世界諸佛如來。出廣長舌相。放無量光。說誠實言。稱讚無量壽佛不可思議功德。如是四維上下恆河沙數世界諸佛如來。出廣長舌相。放無量光。說誠實言。稱讚無量壽佛不可思議功德。如是功德莊嚴極樂國土。滿彼算數無量之劫。說不能盡。彼佛利樂諸功德。唯佛與佛乃能知。聲聞緣覺滿世間。盡其神力莫能測。假使長壽諸有情。命住無數俱胝劫。稱讚如來功德身。盡其形壽贊無盡。

          (Phương Đông có chư Phật Như Lai trong các thế giới nhiều như số cát của sông Hằng hiện tướng lưỡi rộng dài, tỏa ra vô lượng quang minh, nói lời thành thật, ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Phương Nam cũng có chư Phật Như Lai trong các thế giới nhiều như số cát của sông Hằng hiện tướng lưỡi rộng dài, tỏa ra vô lượng quang minh, nói lời thành thật, ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Phương Tây cũng có chư Phật Như Lai trong các thế giới nhiều như số cát của sông Hằng hiện tướng lưỡi rộng dài, tỏa ra vô lượng quang minh, nói lời thành thật, ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Phương Bắc cũng có chư Phật Như Lai trong các thế giới nhiều như số cát của sông Hằng hiện tướng lưỡi rộng dài, tỏa ra vô lượng quang minh, nói lời thành thật, ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Chư Phật Như Lai trong các thế giới nhiều như cát sông Hằng ở bốn phương bàng, trên dưới như thế đều hiện tướng lưỡi rộng dài, tỏa ra vô lượng quang minh, nói lời thành thật, ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Quốc độ Cực Lạc công đức trang nghiêm như thế, dẫu trọn hết kiếp số tính đếm đều chẳng thể nói trọn. Các công đức lợi lạc của đức Phật ấy chỉ có Phật và Phật mới có thể biết, chứ Thanh Văn, Duyên Giác đầy ắp thế gian, dốc trọn hết thần lực của chính ḿnh, vẫn chẳng thể suy lường được. Giả sử có các hữu t́nh trường thọ, thọ mạng đến vô số câu-chi[1] kiếp, ca ngợi thân công đức của Như Lai, cho đến hết tuổi thọ, vẫn ca ngợi chẳng trọn hết được).

         

* Phật Thuyết A Di Đà Kinh

(佛說阿彌經)

 

          Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, hữu thất bảo tŕ, bát công đức thủy, sung măn kỳ trung. Tŕ để thuần dĩ kim sa bố địa. Tứ biên giai đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hợp thành. Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mă năo nhi nghiêm sức chi. Tŕ trung liên hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết.

          Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, thường tác thiên nhạc, hoàng kim vi địa. Trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa. Kỳ quốc chúng sanh, thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thịnh chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật. Tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành.

          Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

          Phục thứ Xá Lợi Phất. Bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu. Bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng chi điểu. Thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất ḥa nhă âm. Kỳ âm diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, như thị đẳng pháp. Kỳ độ chúng sanh, văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

          Xá Lợi Phất! Nhữ phất vị thử điểu thật thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ, vô tam ác đạo.

          Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ thượng vô tam ác đạo chi danh, hà huống hữu thật? Thị chư chúng điểu, giai thị A Di Đà Phật dục linh pháp âm tuyên lưu biến hóa sở tác.

          Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động, chư bảo hàng thụ, cập bảo la vơng, xuất vi diệu âm. Thí như bách thiên chủng nhạc, đồng thời câu tác. Văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm. Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

          Xá Lợi Phất! Ư nhữ ư vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà. Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại. Thị cố hiệu vi A Di Đà. Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật thọ mạng cập kỳ nhân dân vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp. Cố danh A Di Đà. Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai, kim ư thập kiếp.

          Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, giai A La Hán, phi thị toán số chi sở năng tri. Chư Bồ Tát chúng, diệc phục như thị. Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

          Xá Lợi Phất! Như ngă kim giả tán thán A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức. Đông phương diệc hữu A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn, nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.

          Xá Lợi Phất! Nam phương thế giới, hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn. Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.

          Xá Lợi Phất! Tây phương thế giới hữu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn. Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.

          Xá Lợi Phất! Bắc phương thế giới hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Vơng Minh Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn. Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.

          Xá Lợi Phất! Hạ phương thế giới hữu Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Tŕ Pháp Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn. Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.

          Xá Lợi Phất! Thượng phương thế giới hữu Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thụ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn. Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh (CBETA, T12, no.366).  

          舍利弗。極樂國土。有七寶池。八功德水充滿其中池底純以金沙布地。四邊階道。金銀琉璃玻璃合成。上有樓閣。亦以金銀琉璃玻璃硨磲赤珠碼瑙而嚴飾之。池中蓮花。大如車輪。青色青光。黃色黃光。赤色赤光。白色白光。微妙香潔。舍利弗。彼佛國土。成就如是功德莊嚴。又舍利弗。彼佛國土。常作天樂。黃金為地。晝夜六時。雨天曼陀羅華。其國眾生。常以清旦。各以衣?。盛眾妙華。供養他方十萬億佛。即以食時。還到本國。飯食經行。舍利弗。極樂國土。成就如是功德莊嚴。複次舍利弗。彼國常有種種奇妙雜色之鳥。白鶴孔雀鸚鵡舍利迦陵頻伽共命之鳥。是諸眾鳥。晝夜六時。出和雅音。其音演暢。五根五力。七菩提分。八聖道分如是等法。其土眾生。聞是音已。皆悉念佛念法念僧。舍利弗。汝弗謂此鳥實是罪報所生。所以者何。彼佛國土。無三惡道。舍利弗。其佛國土尚無三惡道之名。何況有實。是諸眾鳥。皆是阿彌陀佛。欲令法音宣流變化所作。舍利弗。彼佛國土。微風吹動。諸寶行樹。及寶羅網。出微妙音。譬如百千種樂。同時俱作。聞是音者。自然皆生念佛念法念僧之心。舍利弗。其佛國土。成就如是功德莊嚴。舍利弗。於汝意云何。彼佛何故號阿彌陀。舍利弗。彼佛光明無量。照十方國。無所障礙。是故號為阿彌陀。又舍利弗。彼佛壽命。及其人民。無量無邊。阿僧祇劫。故名阿彌陀。舍利弗阿彌陀佛。成佛以來。於今十劫。又舍利弗。彼佛有無量無邊聲聞弟子。皆阿羅漢。非是算數之所能知。諸菩薩眾。亦復如是。舍利弗。彼佛國土。成就如是功德莊嚴。舍利弗。如我今者讚歎阿彌陀佛不可思議功德。東方亦有阿閦鞞佛。須彌相佛。大須彌佛。須彌光佛。妙音佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。舍利弗。南方世界。有日月燈佛。名聞光佛。大焰肩佛。須彌燈佛。無量精進佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。舍利弗。西方世界有無量壽佛。無量相佛。無量幢佛。大光佛。大明佛。寶相佛。凈光佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。舍利弗。北方世界。有焰肩佛。最勝音佛。難沮佛。日生佛。網明佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。舍利弗。下方世界。有師子佛。名聞佛。名光佛。達摩佛。法幢佛。持法佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。舍利弗。上方世界。有梵音佛。宿王佛。香上佛。香光佛。大焰肩佛。雜色寶華嚴身佛。娑羅樹王佛。寶華德佛。見一切義佛。如須彌山佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。

          (Xá Lợi Phất! Cơi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức đầy ắp trong đó. Đáy ao dùng thuần cát vàng để trải đất. Đường đi, bậc thềm ở bốn phía đều do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên có lầu gác, cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mă năo để trang hoàng. Hoa sen trong ao to như bánh xe, màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng, vi diệu thơm sạch.

          Xá Lợi Phất! Cơi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế đó.

          Lại này Xá Lợi Phất! Cơi nước Phật ấy thường trỗi nhạc trời, vàng ṛng làm đất. Ngày đêm sáu thời, mưa hoa mạn-đà-la cơi trời. Chúng sanh cơi ấy thường vào sáng sớm, ai nấy dùng vạt áo, đựng các loại hoa mầu nhiệm, cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác. Ngay trong khoảng bữa ăn, trở về cơi ḿnh, dùng cơm, kinh hành.

          Xá Lợi Phất! Cơi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

          Lại này Xá Lợi Phất! Nước ấy thường có các loại chim kỳ diệu đủ màu: Bạch hạc, chim công, két (vẹt), xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng ḥa nhă. Âm thanh ấy diễn nói lưu loát Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, các pháp như vậy. Chúng sanh cơi ấy, nghe âm thanh ấy, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

          Xá Lợi Phất! Ông đừng nói các loài chim thật sự do tội báo sanh ra. V́ cớ sao vậy? Cơi nước Phật ấy chẳng có ba ác đạo.

          Xá Lợi Phất! Trong cơi Phật ấy, c̣n không có tên gọi ác đạo, huống là có thật? Các loài chim ấy đều do A Di Đà Phật muốn cho pháp âm được lưu truyền mà biến hóa ra.

          Xá Lợi Phất! Cơi nước Phật ấy, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và lưới mành báu, phát ra âm thanh vi diệu. Ví như trăm ngàn loại nhạc cùng trỗi một lúc. Kẻ nghe âm thanh ấy, tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

          Xá Lợi Phất! Cơi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

          Xá Lợi Phất! Ư ông nghĩ sao? Đức Phật ấy v́ sao có hiệu là A Di Đà?

          Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy quang minh vô lượng, chiếu mười phương cơi nước, chẳng bị chướng ngại. V́ thế, hiệu là A Di Đà.

          Lại này Xá Lợi Phất! Thọ mạng của đức Phật ấy và nhân dân của Ngài là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp. V́ thế, tên là A Di Đà.

          Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật đến nay đă là mười kiếp.

          Lại này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh Văn, đều là A La Hán, chẳng thể tính đếm mà ḥng biết được. Các vị Bồ Tát cũng giống như thế. Này Xá Lợi Phất! Cơi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

          Xá Lợi Phất! Như ta nay ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật, phương Đông cũng có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước ḿnh, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hăy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.

          Xá Lợi Phất! Thế giới ở phương Nam có Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước ḿnh, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hăy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.

          Xá Lợi Phất! Thế giới ở phương Tây có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước ḿnh, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hăy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.

          Xá Lợi Phất! Thế giới ở phương Bắc có Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Vơng Minh Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước ḿnh, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hăy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.

          Xá Lợi Phất! Thế giới ở phương dưới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Tŕ Pháp Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước ḿnh, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hăy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.

          Xá Lợi Phất! Thế giới ở phương trên có Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thụ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước ḿnh, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hăy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”).

 

* Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh

(稱讚凈土佛攝受經)

 

          Cực Lạc thế giới tịnh Phật độ trung, hữu như thị đẳng vô lượng vô biên bất khả tư nghị thậm hy hữu sự. Giả sử kinh ư bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, dĩ kỳ vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa thiệt, nhất nhất thiệt thượng xuất vô lượng thanh, tán kỳ công đức, diệc bất năng tận (CBETA, T12, no.367, p.349, b24-27)

          極樂世界凈佛土中。有如是等無量無邊不可思議甚希有事。假使經於百千俱胝那庾多劫。以其無量百千俱胝那庾多舌。一一舌上出無量聲。贊其功德。亦不能盡。

          (Trong cơi Phật thanh tịnh là thế giới Cực Lạc, có vô lượng vô biên chuyện chẳng thể nghĩ bàn rất hiếm có như thế đó. Giả sử trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp dùng vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa lưỡi, trên mỗi lưỡi đều phát ra vô lượng tiếng để khen ngợi công đức ấy cũng chẳng thể trọn hết).

 

* Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, Kim Thắng Đà La Ni Phẩm

(金光明最勝王經金勝陀羅尼品)

 

          Nam-mô Tây Phương A Di Đà Phật (CBETA, T16, no.665, p.423, c.8).

          南謨西方阿彌陀佛。

 

* Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, Đại Cát Tường Thiên Nữ Tăng Trưởng Tài Vật Phẩm

(金光明最勝王經大吉祥天女增長財物品)

 

          Nam-mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật (CEBTA, T16, no.665, p439, b27).

          南謨西方無量壽佛。

 

* Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh

(大乘入楞伽經)

 

          Thập phương chư sát độ, chúng sanh Bồ Tát trung, sở hữu pháp báo Phật, hóa thân cập biến hóa, giai tùng Vô Lượng Thọ, Cực Lạc giới trung xuất. Ư Phương Quảng kinh trung, ưng tri mật ư thuyết (CBETA, T16, no. 672, p.627, b4-8).

          十方諸剎土。眾生菩薩中。所有法報佛。化身及變化。皆從無量壽。極樂界中出。於方廣經中。應知密意說。

          (Các cơi nước mười phương, trong chúng sanh, Bồ Tát, tất cả Pháp Thân, Báo Thân, và Hóa Thân cùng với các thân biến hóa đều từ Vô Lượng Thọ trong thế giới Cực Lạc mà ra. Hăy nên biết cách nói bao hàm mật ư trong kinh Phương Quảng).

 

* Nhập Lăng Già Kinh

(入楞伽經)

 

          Nhược bất sanh bỉ tâm, thị Đệ Nhất Nghĩa tướng, Báo tướng Phật thật thể, cập sở hóa Phật tướng, chúng sanh cập Bồ Tát, tịnh thập phương quốc độ, tập khí Pháp Hóa Phật, cập tác ư Hóa Phật. Thị giai nhất thiết tùng, A Di Đà quốc xuất (CBETA, T16, no.671, p.568, b29-c5).

          若不生彼心。是第一義相。報相佛實體。及所化佛相。眾生及菩薩。並十方國土。習氣法化佛。及作於化佛。是皆一切從。阿彌陀國出。

          (Nếu chẳng sanh cái tâm ấy th́ là Đệ Nhất Nghĩa Tướng, thật thể của thân tướng Báo Thân Phật và thân tướng của Hóa Phật, chúng sanh và Bồ Tát, cùng với mười phương cơi nước, tập khí Pháp Hóa Phật và Hóa Phật được biến hiện đều là từ cơi nước của A Di Đà Phật mà ra).

 

* Bất Không Quyến Tác Đà La Ni Tự Tại Vương Chú Kinh

 (不空罥索陀羅尼自在王咒經)

 

          Nam-mô a mị đá bà da (CBETA, T20, no.1097, p.432, a15-16)

          南謨阿弭哆婆耶。

          (Namo Amitābhāya).

 

* Bất Không Quyến Tác Tâm Kinh

(不空罥索心經)

 

          Kính lễ Vô Lượng Quang Như Lai (CBETA, T20, no.1095, p.407, b10-11).

          敬禮無量光如來。

 

* Bất Không Quyến Tác Thần Biến Chân Ngôn Kinh

(不空罥索神變真言經)

 

          Kính lễ Vô Lượng Quang Như Lai (CBETA, T20, no.1092, p.229, a24).

          敬禮無量光如來。

 

* Phật Thuyết Xưng Dương Chư Phật Công Đức Kinh

(佛說稱揚諸佛功德經)

 

          Phục thứ, Xá Lợi Phất! Tây Phương khứ thử độ thập vạn ức Phật sát, hữu thế giới danh viết An Lạc. Kỳ quốc hữu Phật, hiệu A Di Đà Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư. Hiệu viết Chúng Hựu, độ nhân vô lượng. Nhược hữu đắc văn Vô Lượng Thọ Như Lai danh giả, nhất tâm tín nhạo, tŕ phúng tụng niệm, đương khởi quảng viễn vô lượng hoan hỷ, an lập kỳ ư, linh sử Chân Đế, thập vạn ức tín tâm, niệm tư Như Lai, kỳ nhân đương đắc vô lượng chi phước, vĩnh đương viễn ly tam đồ chi ách. Mạng chung chi hậu, giai đắc văng sanh bỉ Phật sát độ. Mạng dục chung thời, nhất tâm tín nhạo, niệm bất vong xả, A Di Đà Phật, tương chư chúng Tăng, trụ kỳ nhân tiền. Ma chung bất năng hủy hoại tư đẳng Chánh Giác chi tâm. Sở dĩ giả hà? Kỳ Phật Thế Tôn, hưng lập đại bi, thệ độ nhất thiết vô lượng chúng sanh, diệc phục hộ tŕ thập phương thế giới nhất thiết chúng sanh. Kỳ hữu đắc sanh An Lạc thế giới.

          Xá Lợi Phất! Kỳ Phật Thế Tôn, bổn hoằng thệ nguyện. Kỳ hữu cầu ư đệ nhất chi thừa, ư kỳ thế giới, cụ măn Như Lai chư Phật chi pháp, cụ Chánh Giác phần. Cầu Thanh Văn thừa, ư bỉ Phật sát, đắc A La Hán. Kỳ hữu văng sanh bỉ Phật sát giả, tùng kỳ sở nguyện, đại tiểu chi thừa, ư bỉ tất măn. Kỳ hữu tối hậu văn A Di Đà Như Lai danh hiệu, tán thuyết chi giả, tín bất hồ nghi, đương khởi kính tâm chí ư niệm chi như niệm phụ mẫu, tác như thị niệm. Tư đẳng phổ đương ư bỉ Phật quốc, cụ măn chúng nguyện. Kỳ hữu bất tín tán thán xưng dương A Di Đà Phật danh hiệu công đức nhi hủy báng giả, ngũ kiếp chi trung, đương đọa địa ngục, cụ thọ chúng khổ (CBETA, T14, no.434, p.99, a9-b1).

          復次。舍利弗。西方去此度十萬億佛剎。有世界名曰安樂。其國有佛。號阿彌陀如來至真等正覺明行成為善逝世間解無上士道法御天人師。號曰眾祐。度人無量。若有得聞無量壽如來名者。一心信樂。持諷誦念。當起廣遠無量歡喜。安立其意。令使真諦。十萬億信心。念斯如來。其人當得無量之福。永當遠離三塗之厄。命終之後。皆得往生彼佛剎土。命欲終時。一心信樂。念不忘舍阿彌陀佛。將諸眾僧。住其人前。魔終不能毀壞斯等正覺之心。所以者何。其佛世尊。興立大悲。誓度一切無量眾生。亦復護持十方世界一切眾生。其有得生安樂世界。舍利弗。其佛世尊。本弘誓願。其有求於第一之乘。於其世界。具滿如來諸佛之法。具正覺分。求聲聞乘。於彼佛剎。得阿羅漢。其有往生彼佛剎者。從其所願。大小之乘。於彼畢滿。其有最後聞阿彌陀如來名號。贊說之者。信不狐疑。當起敬心至意念之如念父母作如是念。斯等普當於彼佛國。具滿眾願。其有不信讚歎稱揚阿彌陀佛名號功德而毀謗者五劫之中。當墮地獄。具受眾苦。

          (Lại này Xá Lợi Phất! Từ phương Tây cơi này qua khỏi mười vạn ức cơi Phật, có thế giới tên là An Lạc. Cơi ấy có Phật hiệu là A Di Đà Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư; hiệu là Chúng Hựu, độ người vô lượng. Nếu có ai được nghe tên của Vô Lượng Thọ Như Lai, một dạ tin ưa, vâng giữ, tụng niệm, hăy nên dấy lên vô lượng niềm hoan hỷ rộng sâu, an lập ư ḿnh, khiến cho chân đế, mười vạn tín tâm niệm đức Như Lai ấy, người đó sẽ được vô lượng phước, sẽ vĩnh viễn xa ĺa nỗi khổ ách trong tam đồ. Sau khi mạng chung, đều được sanh về cơi nước Phật ấy. Khi mạng sắp hết, một dạ tin ưa, nghĩ nhớ chẳng quên bỏ th́ A Di Đà Phật dẫn các vị Tăng đứng trước người ấy. Ma trọn chẳng thể hủy hoại cái tâm Chánh Giác của những người ấy được. V́ cớ sao vậy? Đức Phật Thế Tôn ấy dấy ḷng đại bi, thề độ hết thảy vô lượng chúng sanh, lại c̣n hộ tŕ mười phương thế giới hết thảy chúng sanh để họ được sanh về thế giới An Lạc.

          Này Xá Lợi Phất! Đức Phật Thế Tôn ấy vốn có thệ nguyện rộng lớn, nếu có kẻ nào cầu Đệ Nhất Thừa, sẽ ở trong thế giới của Ngài, trọn đủ viên măn pháp của chư Phật Như Lai, trọn đủ Chánh Giác phần. Kẻ cầu Thanh Văn thừa, sẽ ở trong cơi Phật ấy, đắc quả A La Hán. Những ai đă sanh về cơi Phật ấy, tùy theo ư nguyện, thảy đều viên măn các thừa Đại hay Tiểu. Có kẻ nào đến phút cuối cùng nghe khen nói danh hiệu A Di Đà Như Lai, bèn tin tưởng, chẳng hồ nghi, hăy nên dấy ḷng cung kính, dốc chí niệm Phật như nghĩ nhớ cha mẹ, tŕ niệm như thế. Hạng người ấy sẽ trọn đủ các nguyện trong cơi Phật ấy. Có kẻ nào chẳng tin tưởng, chẳng tán thán, xưng dương công đức của danh hiệu A Di Đà Phật, mà hủy báng, sẽ trong năm kiếp, đọa vào địa ngục, chịu đủ mọi nỗi khổ).

 

* Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thần Chú Kinh

(千眼千臂觀世音菩薩陀羅尼神咒經)

 

          Na mô a mị đà bà da (CBETA, T20, no.1057a, p.84, b1).

          娜謨阿弭陀婆耶。

          (Namo Amitābhāya).

 

* Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh

(千手千眼觀世音菩薩廣大圓滿無礙大悲心陀羅尼經)

         

          Diệc ưng chuyên niệm ngă Bổn Sư A Di Đà Như Lai (CBETA, T20, no.1060, p.107, a4-5)

          亦應專念我本師阿彌陀如來。

          (Cũng nên chuyên niệm Bổn Sư của ta là A Di Đà Như Lai).

 

* Phật Thuyết A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni Kinh

(佛說阿彌陀鼓音聲王陀羅尼經)

         

          Như thị ngă văn, nhất thời, Phật tại Chiêm Ba đại thành, Già Già linh tŕ, dữ đại tỳ-kheo chúng ngũ bách nhân câu. Nhĩ thời, Thế Tôn cáo chư tỳ-kheo: “Kim đương vị nhữ diễn thuyết, Tây Phương An Lạc thế giới, kim hiện hữu Phật, hiệu A Di Đà. Nhược hữu tứ chúng, năng chánh thọ tŕ bỉ Phật danh hiệu. Dĩ thử công đức, lâm dục chung thời, A Di Đà Phật tức dữ đại chúng, văng thử nhân sở, linh kiến đắc kiến. Kiến dĩ tầm sanh khánh duyệt, bội tăng công đức. Dĩ thị nhân duyên, sở sanh chi xứ, vĩnh ly bào thai uế dục chi h́nh, thuần xử tiên diệu bảo liên hoa trung, tự nhiên hóa sanh, cụ đại thần thông, quang minh hách dịch. Nhĩ thời, thập phương hằng sa chư Phật, giai cộng tán bỉ An Lạc thế giới sở hữu Phật pháp bất khả tư nghị. Thần thông hiện hóa chủng chủng phương tiện bất khả tư nghị. Nhược hữu năng tín như thị chi sự, đương tri thị nhân bất khả tư nghị, sở đắc nghiệp báo diệc bất khả tư nghị” (CBETA, T12, no.370, p.352, b10-21).

          如是我聞。一時。佛在瞻波大城伽伽靈池。與大比丘眾五百人俱。爾時世尊告諸比丘。今當為汝演說。西方安樂世界。今現有佛。號阿彌陀。若有四眾。能正受持彼佛名號。以此功德。臨欲終時。阿彌陀佛即與大眾往此人所。令見得見。見已尋生慶悅。倍增功德。以是因緣。所生之處。永離胞胎穢欲之形。純處鮮妙寶蓮華中。自然化生。具大神通。光明赫奕。爾時十方恆沙諸佛。皆共贊彼安樂世界所有佛法不可思議。神通現化種種方便不可思議。若有能信如是之事。當知是人不可思議。所得業報亦不可思議。

          (Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Phật ngự tại đại thành Chiêm Ba, nơi ao thiêng Già Già, cùng với các vị đại tỳ-kheo, năm trăm người cùng nhóm họp. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các vị tỳ-kheo: - Nay ta sẽ v́ các ông diễn nói thế giới An Lạc ở phương Tây, nay đang có Phật hiệu là A Di Đà. Nếu có tứ chúng có thể thọ tŕ chân chánh danh hiệu của đức Phật ấy. Do công đức ấy, khi sắp mạng chung, A Di Đà Phật liền cùng đại chúng đến chỗ người ấy, khiến cho người ấy trông thấy. [Người ấy] đă thấy bèn sanh ḷng vui mừng, công đức tăng gấp bội. Do nhân duyên đó, chỗ sẽ sanh về đều vĩnh viễn ĺa khỏi thân thể trong bào thai do dục vọng ô uế hợp thành, mà thuần là ở trong hoa sen báu tươi tắn, mầu nhiệm, tự nhiên hóa sanh, trọn đủ đại thần thông, quang minh rạng rỡ. Khi ấy, mười phương hằng sa chư Phật đều cùng khen ngợi thế giới An Lạc có Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, thần thông hóa hiện các loại phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có kẻ nào có thể tin tưởng chuyện như thế này, hăy nên biết người ấy chẳng thể nghĩ bàn, đạt được nghiệp báo cũng chẳng thể nghĩ bàn).

 

* Phật Thuyết Phật Danh Kinh

(佛說佛名經)

 

          Tây Phương vô cấu thanh tịnh độ, danh vi An Lạc Diệu thế giới, bỉ tự tại Phật vô lượng thọ. Bồ Tát đệ tử hiện vi nhiễu. Nam-mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật. Nam-mô Tây Phương A Di Đà Phật (CBETA, T14, no.440).

          西方無垢清凈土。名為安樂妙世界。彼自在佛無量壽。菩薩弟子現圍繞。南無西方無量壽佛。南無西方阿彌陀佛。

          (Cơi nước thanh tịnh vô cấu ở phương Tây có tên là thế giới An Lạc Diệu, đức Phật tự tại trong cơi ấy vô lượng thọ, các vị đệ tử Bồ Tát nay đang vây quanh. Nam-mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật, nam-mô Tây Phương A Di Đà Phật).

 

* Hiền Kiếp Thiên Phật Danh Kinh

(賢劫千佛名經)

 

          Nam-mô Vô Lượng Thọ Phật (CBETA, T14, no.447a, p.378, a5-6).

          南無無量壽佛。

         

* Bách Phật Danh Kinh

(百佛名經)

 

          Nam-mô A Di Đà Phật (CBETA, T14, no.444, p.354, c23).

          南無阿彌陀佛。

 

* Phật Thuyết Bất Tư Nghị Công Đức Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh

(佛說不思議功德諸佛所護念經)

 

          Tây Phương A Di Đà Như Lai. Tây Phương Vô Lượng Quang Như Lai. Tây Phương Vô Biên Quang Như Lai (CBETA, T14, no.445).

          西方阿彌陀如來。西方無量光如來。西方無邊光如來

 

* Ly Cấu Huệ Bồ Tát Sở Vấn Lễ Phật Pháp Kinh

(離垢慧菩薩所問禮佛法經)

 

          Nam-mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Như Lai (CBETA, T14, no.487, p.690, a21).

          南無西方無量壽如來。

 

* Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ Kinh

(大毗盧遮那成佛神變加持經)

 

          Đương đắc vô lượng thọ. Ứng hiện thù đặc thân. Nhất thiết hoạn trừ tức. Thiên nhân hàm cung kính (CBETA, T18, no.848, p.20, c13-15).

          當得無量壽。應現殊特身。一切患除息。天人咸恭敬。

          (Sẽ đắc vô lượng thọ, ứng hiện thân thù đặc, hết thảy hoạn trừ dứt, trời người đều cung kính).

 

* Kim Cang Đảnh Du Già Trung Lược Xuất Niệm Tụng Kinh

(金剛頂瑜伽中略出念誦經)

 

          Quy mạng A Di Đà (CBETA, T18, no.866, p.223, c6-7).

          歸命阿彌陀。

 

* Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Bất Không Vương Bí Mật Tâm Đà La Ni Kinh

(聖觀自在菩薩不空王秘密心陀羅尼經)

 

          Hựu phục quy mạng Vô Lượng Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác (CBETA, T20, no.1099, p.444, c5-6).

          又復歸命無量光如來應供正等正覺。

          (Lại c̣n quy mạng Vô Lượng Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

* Nhất Thiết Như Lai Đại Bí Mật Vương Vị Tằng Hữu Tối Thượng Vi Diệu Đại Mạn Noa La Kinh

(一切如來大秘密王未曾有最上微妙大曼拏羅經)

 

          A Di Đà Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật năi thị tam giới trung bí mật pháp chủ đại A Xà Lê, vô tướng, vô tánh, bất sanh, bất diệt. Tuy trụ bí mật, vô bí mật tướng. Hậu A Xà Lê diệc tu như thị phân minh liễu tri (CBETA, T18, no.889, p.546, a21-24).

          阿彌陀佛毗盧遮那佛。乃是三界中秘密法主大阿闍梨。無相無性。不生不滅。雖住秘密。無秘密相。后阿闍梨亦須如是分明了知。

          (A Di Đà Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật là bí mật pháp chủ đại A Xà Lê trong tam giới, vô tánh, vô tướng, bất sanh, bất diệt. Tuy trụ trong bí mật, chẳng có tướng bí mật. Các A Xà Lê về sau cũng cần phải hiểu rơ phân minh như thế).

 

* Đại Phương Quảng Bồ Tát Tạng Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nghi Quỹ Kinh

(大方廣菩薩藏文殊師利根本儀軌經)

 

          Ngă vị lợi ích nhất thiết hữu t́nh, phục thuyết Phật danh. Nẵng-mô Vô Lượng Thọ Quyết Định Trí Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nẵng-mô Sa La Hoa Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nẵng-mô Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác (CBETA, T20, no.1191, p.892, c1-4).

          我為利益一切有情。復說佛名。曩謨無量壽決定智王如來應正等覺。曩謨娑羅華王如來應正等覺。曩謨無量壽無量光如來應正等覺。

          (Ta v́ lợi ích hết thảy hữu t́nh, lại nói danh hiệu Phật: Nam-mô Vô Lượng Thọ Quyết Định Trí Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nam-mô Sa La Hoa Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nam-mô Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác).

 

* Phật Thuyết Đại Bi Không Trí Kim Cang Đại Giáo Vương Nghi Quỹ Kinh

(佛說大悲空智金剛大教王儀軌經)

 

          Vô Lượng Thọ Như Lai nhi vi bổn tôn (CBETA, T18, no.892, p.601, b3-4).

          無量壽如來而為本尊。

          (Vô Lượng Thọ Như Lai làm bổn tôn).

 

* Kim Cang Đảnh Du Già Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu Hành Nghi Quỹ Kinh

(金剛頂瑜伽千手千眼觀自在菩薩修行儀軌經)

         

          Thứ lễ Tây Phương Vô Lượng Thọ Như Lai đẳng nhất thiết Như Lai. Như tiền triển thân, kim cang hiệp chưởng, trí ư đảnh thượng, dĩ khẩu trước địa, chí thành kính lễ (CBETA, T20, no.1056, p.72, c1-2).

          次禮西方無量壽如來等一切如來。如前展身。金剛合掌。置於頂上。以口着地。至誠敬禮。

          (Kế đó, lễ hết thảy các vị Như Lai như Tây Phương Vô Lượng Thọ Như Lai v.v… Duỗi thân giống như trước, chắp tay theo lối Kim Cang[2], đặt trên đỉnh đầu, miệng áp sát đất, chí thành kính lễ).

 

* Kim Cang Đảnh Du Già Tha Hóa Tự Tại Thiên Lư Thú Hội Phổ Hiền Tu Hành Niệm Tụng Nghi Quỹ

(金剛頂瑜伽他化自在天理趣會普賢修行念誦儀軌)

 

          Đại bi A Di Đà, thành tựu bất không nghiệp. Thử chư vô thượng tôn, ngă giai khể thủ lễ, vị dục thỉnh cầu chuyển pháp luân, xả thân cúng dường Vô Lượng Thọ. Kim Cang hiệp chưởng trí đảnh thượng, dĩ khẩu trước địa phụng kỳ thân (CBETA, T20, no.1122).

          大悲阿彌陀。成就不空業。此諸無上尊。我皆稽首禮。為欲請求轉法輪。捨身供養無量壽。金剛合掌置頂上。以口着地奉其身。

          (Đại bi A Di Đà Phật, thành tựu nghiệp bất không[3]. Con đều dập đầu lễ các vị vô thượng tôn ấy, v́ muốn thỉnh cầu chuyển pháp luân, bèn xả thân cúng dường Vô Lượng Thọ Phật. Chắp tay theo lối Kim Cang đặt trên đỉnh đầu, áp miệng sát đất để tôn phụng thân Phật).

 

* Kim Cang Vương Bồ Tát Bí Mật Niệm Tụng Nghi Quỹ

(金剛王菩薩秘密念誦儀軌)

 

          Hựu dĩ hiệp chưởng trí ư đảnh thượng, dĩ khẩu trước địa, lễ Tây Phương Vô Lượng Thọ Như Lai, dĩ thân phụng hiến (CBETA, T20, no.1132, p.571, b18-19).

          又以合掌置於頂上。以口着地。禮西方無量壽如來。以身奉獻。

          (Lại chắp tay đặt trên đỉnh đầu, áp miệng sát đất, lễ Tây Phương Vô Lượng Thọ Như Lai, đem thân dâng hiến).

 

* Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ

(金剛頂瑜伽三十七尊禮)

 

          Nam-mộ thọ dụng trí huệ thân A Di Đà Phật (CBETA, T18, no.879, p.337, b3).

          南慕受用智慧身阿彌陀佛。

          (Nam-mô thọ dụng trí huệ thân A Di Đà Phật).

 

* Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi

(瑜伽集要焰口施食儀)

 

          Nam-mô pháp giới tạng thân A Di Đà Phật (CBETA, T21, no.1320, p.474, c29).

          南無法界藏身阿彌陀佛。

 

* Nhất Thiết Bí Mật Tối Thượng Danh Nghĩa Đại Giáo Vương Nghi Quỹ

(一切秘密最上名義大教王儀軌)

         

          Tối thượng Đại Thừa ly cấu nhiễm, hỷ tương ứng hạnh cực quảng đại, thanh tịnh quang minh oánh triệt tâm. Thử tức danh vi Vô Lượng Thọ (CBETA, T18, no.888, p.538, c11-13).

          最上大乘離垢染。喜相應行極廣大。清凈光明瑩徹心。此即名為無量壽。

          (Đại Thừa tối thượng, ĺa cấu nhiễm, hỷ tương ứng hạnh cực rộng lớn, tâm quang minh thanh tịnh trong suốt, đấy bèn gọi là Vô Lượng Thọ).

 

* Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận Dị Hành Phẩm

(十住毗婆沙論易行品)

 

          A Di Đà Phật bổn nguyện như thị, nhược nhân niệm ngă xưng danh tự quy, tức nhân tất định đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị cố thường ưng ức niệm, dĩ kệ xưng tán:

          - Vô lượng quang minh huệ, thân như chân kim sơn. Ngă kim thân khẩu ư, hiệp chưởng khể thủ lễ. Kim sắc diệu quang minh. Phổ lưu chư thế giới. Tùy vật thị kỳ sắc. Thị cố khể thủ lễ. Nhược nhân mạng chung thời, đắc sanh bỉ quốc giả, tức cụ vô lượng đức. Thị cố ngă quy mạng. Nhân năng niệm thị Phật. Vô lượng lực công đức. Tức thời tất nhập Định. Thị cố ngă thường niệm. Bỉ quốc nhân mạng chung, thiết ưng thọ chư khổ. Bất đọa ác địa ngục. Thị cố quy mạng lễ. Nhược nhân sanh bỉ quốc, chung bất đọa tam thú, cập dữ A Tu La. Ngă kim quy mạng lễ. Nhân thiên thân tương đồng, do như kim sơn đảnh. Chư thắng sở quy xứ. Thị cố đầu diện lễ. Kỳ hữu sanh bỉ quốc, cụ thiên nhăn nhĩ thông. Thập phương phổ vô ngại. Khể thủ thánh trung tôn. Kỳ quốc chư chúng sanh. Thần Biến cập Tâm Thông. Diệc cụ Túc Mạng Trí. Thị cố quy mạng lễ. Sanh bỉ quốc độ giả. Vô ngă, vô ngă sở. Bất sanh bỉ thử tâm. Thị cố khể thủ lễ. Siêu xuất tam giới ngục. Mục như liên hoa diệp. Thanh Văn chúng vô lượng. Thị cố khể thủ lễ. Bỉ quốc chư chúng sanh. Kỳ tánh giai nhu ḥa. Tự nhiên hành Thập Thiện. Khể thủ chúng thánh chủ. Tùng thiện sanh tịnh minh. Vô lượng vô biên số. Nhị túc trung đệ nhất. Thị cố ngă quy mạng. Nhược nhân nguyện tác Phật. Tâm niệm A Di Đà. Ứng thời vị hiện thân. Thị cố ngă quy mạng. Bỉ Phật bổn nguyện lực. Thập phương chư Bồ Tát. Lai cúng dường thính pháp. Thị cố ngă khể thủ. Bỉ độ chư Bồ Tát. Cụ túc chư tướng hảo, dĩ tự trang nghiêm thân. Ngă kim quy mạng lễ. Bỉ chư đại Bồ Tát. Nhật nguyệt ư tam thời, cúng dường thập phương Phật. Thị cố khể thủ lễ. Nhược nhân chủng thiện căn. Nghi tắc hoa bất khai, tín tâm thanh tịnh giả, hoa khai tắc kiến Phật. Thập phương hiện tại Phật. Dĩ chủng chủng nhân duyên. Thán bỉ Phật công đức. Ngă kim quy mạng lễ. Kỳ độ cụ nghiêm sức. Thù bỉ chư thiên cung. Công đức thậm thâm hậu. Thị cố lễ Phật túc. Phật túc thiên bức luân. Nhu nhuyễn liên hoa sắc. Kiến giả giai hoan hỷ. Đầu diện lễ Phật túc. Mi gian bạch hào quang. Do như thanh tịnh nguyệt. Tăng ích diện quang sắc. Đầu diện lễ Phật túc. Bổn cầu Phật đạo thời, hành chư kỳ diệu sự. Như chư kinh sở thuyết. Đầu diện khể thủ lễ. Bỉ Phật sở ngôn thuyết. Phá trừ chư tội căn. Mỹ ngôn đa sở ích. Ngă kim khể thủ lễ. Dĩ thử mỹ ngôn thuyết, cứu chư trước lạc bệnh. Dĩ độ, kim do độ. Thị cố khể thủ lễ. Nhân thiên trung tối tôn. Chư thiên đầu diện lễ. Thất bảo quan ma-ni. Thị cố ngă quy mạng. Nhất thiết hiền thánh chúng. Cập chư nhân thiên chúng. Hàm giai cộng quy mạng. Thị cố ngă diệc lễ. Thừa bỉ bát đạo thuyền. Năng độ nan độ hải. Tự độ diệc độ bỉ. Ngă lễ tự tại giả. Chư Phật vô lượng kiếp, tán dương kỳ công đức, do thượng bất năng tận. Quy mạng thanh tịnh nhân. Ngă kim diệc như thị. Xưng tán vô lượng đức. Dĩ thị phước nhân duyên. Nguyện Phật thường niệm ngă. Ngă ư kim tiên thế. Phước đức nhược đại tiểu. Nguyện ngă ư Phật sở. Tâm thường đắc thanh tịnh. Dĩ thử phước nhân duyên. Sở hoạch thượng diệu đức. Nguyện chư chúng sanh loại. Giai diệc tất đương đắc (CBETA, T26, no.1521, p.43).

          阿彌陀佛本願如是。若人念我稱名自歸。即人必定得阿耨多羅三藐三菩提。是故常應憶念。以偈稱讚。無量光明慧。身如真金山。我今身口意。合掌稽首禮。金色妙光明。普流諸世界。隨物示其色。是故稽首禮。若人命終時。得生彼國者。即具無量德。是故我歸命。人能念是佛。無量力功德。即時必入定。是故我常念。彼國人命終。設應受諸苦。不墮惡地獄。是故歸命禮。若人生彼國。終不墮三趣。及與阿修羅。我今歸命禮。人天身相同。猶如金山頂。諸勝所歸處。是故頭面禮。其有生彼國。具天眼耳通。十方普無礙。稽首聖中尊。其國諸眾生。神變及心通。亦具宿命智。是故歸命禮。生彼國土者。無我無我所。不生彼此心。是故稽首禮。超出三界獄。目如蓮華葉。聲聞眾無量。是故稽首禮。彼國諸眾生。其性皆柔和。自然行十善。稽首眾聖主。從善生凈明。無量無邊數。二足中第一。是故我歸命。若人願作佛。心念阿彌陀。應時為現身。是故我歸命。彼佛本願力。十方諸菩薩。來供養聽法。是故我稽首。彼土諸菩薩。具足諸相好。以自莊嚴身。我今歸命禮。彼諸大菩薩。日月於三時。供養十方佛。是故稽首禮。若人種善根。疑則花不開。信心清凈者。花開則見佛。十方現在佛。以種種因緣。嘆彼佛功德。我今歸命禮。其土具嚴飾。殊彼諸天宮。功德甚深厚。是故禮佛足。佛足千輻輪。柔軟蓮華色。見者皆歡喜。頭面禮佛足。眉間白毫光。猶如清凈月。增益面光色。頭面禮佛足。本求佛道時。行諸奇妙事。如諸經所說。頭面稽首禮。彼佛所言說。破除諸罪根。美言多所益。我今稽首禮。以此美言說。救諸着樂病。已度今猶度。是故稽首禮。人天中最尊。諸天頭面禮。七寶冠摩尼。是故我歸命。一切賢聖眾。及諸人天眾。咸皆共歸命。是故我亦禮。乘彼八道船。能度難度海。自度亦度彼。我禮自在者。諸佛無量劫。讚揚其功德。猶尚不能盡。歸命清凈人。我今亦如是。稱讚無量德。以是福因緣。願佛常念我。我於今先世。福德若大小。願我於佛所。心常得清凈。以此福因緣。所獲上妙德。願諸眾生類。皆亦悉當得。

          (Bổn nguyện của A Di Đà Phật là như thế này: “Nếu có người nào nghĩ đến ta, xưng danh hiệu, tự quy y, người ấy nhất định sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. V́ thế, hăy thường nên nghĩ nhớ, dùng kệ để ca ngợi:

          - Vô lượng quang minh huệ, thân như núi vàng ṛng. Nay con dốc ba nghiệp, chắp tay dập đầu lễ. Diệu quang minh sắc vàng, lan khắp các thế giới, hiện màu tùy theo vật. V́ thế, con đảnh lễ. Nếu ai lúc mạng chung, được sanh về cơi ấy, liền đủ vô lượng đức. Do vậy, con quy mạng. Ai niệm đức Phật ấy, vô lượng sức công đức, ngay lập tức nhập Định. V́ thế, con thường niệm. Người cơi ấy mạng chung, đáng lẽ chịu các khổ, chẳng đọa ác địa ngục. Do vậy, quy mạng lễ. Nếu ai sanh cơi ấy, trọn chẳng đọa tam đồ, và làm A Tu La. Con nay quy mạng lễ. Thân trời người giống hệt, ví như đỉnh núi vàng. Chỗ tuyệt diệu dồn về. Do vậy, đầu mặt lễ. Nếu ai sanh cơi ấy, trọn thiên nhăn nhĩ thông. Mười phương đều vô ngại. Kính lạy thánh trung tôn. Các chúng sanh cơi ấy, Thần Biến và Tâm Thông, cũng có Túc Mạng Thông. Do vậy, quy mạng lễ. Kẻ sanh cơi nước ấy, vô ngă, vô ngă sở, chẳng sanh tâm đây kia. V́ thế, con đảnh lễ. Vượt thoát ngục ba cơi, mắt như cánh hoa sen, chúng Thanh Văn vô lượng. Do vậy, con đảnh lễ. Các chúng sanh cơi ấy, tánh t́nh đều nhu ḥa. Tự nhiên hành Thập Thiện. Đảnh lễ Chúng Thánh Chúa, do thiện sanh tịnh minh, vô lượng vô biên số. Đấng Nhị Túc bậc nhất. Do vậy, con quy mạng. Nếu ai nguyện làm Phật, tâm niệm A Di Đà, Ngài lập tức hiện thân. Cho nên con quy mạng. Sức bổn nguyện của Phật, mười phương các Bồ Tát, đến cúng dường, nghe pháp. Do vậy, con đảnh lễ. Các Bồ Tát cơi ấy, trọn đủ các tướng hảo, để tự trang nghiêm thân. Con nay quy mạng lễ, các đại Bồ Tát ấy, ngày tháng trong ba thời, cúng dường mười phương Phật. V́ thế, con đảnh lễ. Nếu ai gieo thiện căn. Nghi ngờ hoa chẳng nở. Kẻ tín tâm thanh tịnh, hoa nở bèn thấy Phật. Mười phương hiện tại Phật, dùng đủ mọi nhân duyên, khen công đức Phật ấy, con nay quy mạng lễ. Cơi ấy trọn trang hoàng, vượt trỗi các cung trời, công đức rất sâu dầy. Nên con lễ chân Phật. Chân Phật tướng ngàn căm, mềm mại, màu như sen, người thấy đều hoan hỷ. Đầu mặt lễ chân Phật. Bạch hào quang giữa mày. Ví như trăng thanh tịnh, sắc mặt càng rạng rỡ. Đầu mặt lễ chân Phật. Vốn khi cầu Phật đạo, làm các chuyện kỳ diệu, như các kinh đă nói, đầu mặt tiếp túc lễ. Những lời Phật ấy nói, phá trừ các gốc tội, lời hay, nhiều lợi ích, con nay xin đảnh lễ. Dùng lời đẹp đẽ ấy, cứu những căn bệnh ham lạc. Đă độ, nay vẫn độ. V́ thế, con kính lễ. Bậc quư nhất trời người, chư thiên đều đảnh lễ. Măo bảy báu ma-ni. Do vậy, con quy mạng. Hết thảy các thánh hiền, và đại chúng trời người, thảy đều cùng quy mạng. Cho nên, con cũng lễ. Ngồi thuyền bát thánh đạo, vượt được biển khó vượt. Tự độ, cũng độ người. Con lễ đấng tự tại. Chư Phật vô lượng kiếp, tán dương công đức Ngài, hăy c̣n chẳng thể hết. Quy mạng đấng thanh tịnh, con nay cũng như thế. Khen ngợi vô lượng đức. Do phước nhân duyên này, nguyện Phật thường nhớ con. Con ở trong đời trước, phước đức lớn hay nhỏ, nguyện con từ nơi Phật, tâm thường đắc thanh tịnh. Do phước nhân duyên này, sẽ đạt phước thượng diệu. Nguyện các loài chúng sanh, cũng thảy đều sẽ đắc).

 

II. Như Lai nhân hạnh chương (如來因行章)

 

          Hễ bàn đến cái quả, ắt truy t́m cái nhân. Con cháu nối nghiệp chẳng quên tổ tiên; kẻ ưa thích mong cầu Tây Phương, há có thể chẳng hỏi đến nhân địa của Phật Di Đà! Đă khen ngợi rộng khắp Phật đức, chẳng thể không biết đến bổn hạnh của Như Lai. Đấy là lư do biên soạn chương này. Nếu luận định đầy đủ về sự ban bố giáo hóa của đức Phật ấy trong muôn triệu kiếp lâu xa, dẫu các giáo điển nhiều như cát sông Hằng, vẫn chẳng thể thuật trọn! Chỉ là nêu lên một điều để liên tưởng trăm điều, từ những điều được ghi chép trong kinh tạng mà gom góp đại lược như thế đấy thôi!

 

* Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh

(佛說無量壽經)

         

          Phật cáo A Nan:

           - Năi văng quá khứ cửu viễn vô lượng bất khả tư nghị vô ương số kiếp, Định Quang Như Lai hưng xuất ư thế (năi chí hữu ngũ thập tam Phật thứ đệ xuất thế). Nhĩ thời, thứ hữu Phật, danh Thế Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thời hữu quốc vương, văn Phật thuyết pháp, tâm hoài duyệt dự, tầm phát vô thượng chánh chân đạo ư, khí quốc quyên vương, hành tác sa-môn, hiệu viết Pháp Tạng. Cao tài dũng triết, dữ thế siêu dị, nghệ Thế Tự Tại Vương Như Lai sở, khể thủ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, trường quỵ hiệp chưởng, dĩ tụng tán Phật… Pháp Tạng tỳ-kheo thuyết thử tụng dĩ, nhi bạch Phật ngôn: “Dụy nhiên Thế Tôn! Ngă phát vô thượng chánh giác chi tâm. Nguyện Phật vị ngă quảng tuyên kinh pháp, ngă đương tu hành, nhiếp thủ Phật quốc, thanh tịnh trang nghiêm, vô lượng diệu độ, linh ngă ư thế, tốc thành Chánh Giác, bạt chư sanh tử cần khổ chi bổn”.

          Phật ngữ A Nan:

          - Thời Thế Tự Tại Vương Phật cáo Pháp Tạng tỳ-kheo: “Như sở tu hành trang nghiêm Phật độ, nhữ tự đương tri”. Tỳ-kheo bạch Phật: “Tư nghĩa hoằng thâm, phi ngă cảnh giới. Duy nguyện Thế Tôn, quảng vị phu diễn Như Lai tịnh độ chi hạnh. Ngă văn thử dĩ, đương như thuyết tu hành, thành măn sở nguyện”. Nhĩ thời Thế Tự Tại Vương Phật tri kỳ cao minh, chí nguyện thâm quảng, tức vị Pháp Tạng tỳ-kheo nhi thuyết kinh ngôn: “Thí như đại hải, nhất nhân đấu lượng, kinh lịch kiếp số, thượng khả cùng để, đắc kỳ diệu bảo. Nhân hữu chí tâm tinh tấn cầu đạo bất chỉ, hội đương khắc quả, hà nguyện bất đắc?” Ư thị, Thế Tự Tại Vương Phật, tức vị quảng thuyết nhị bách nhất thập ức chư Phật sát độ thiên nhân chi thiện ác, quốc độ chi thô diệu, ứng kỳ tâm nguyện, tất hiện dữ chi. Thời bỉ tỳ-kheo, văn Phật sở thuyết nghiêm tịnh quốc độ, giai tất đổ kiến, siêu phát vô thượng thù thắng chi nguyện. Kỳ tâm tịch tĩnh, chí vô sở trước, nhất thiết thế gian vô năng cập giả, cụ túc ngũ kiếp, tư duy nhiếp thủ trang nghiêm Phật quốc thanh tịnh chi hạnh. A Nan bạch Phật: “Bỉ Phật quốc độ, thọ lượng kỷ hà?” Phật ngôn: “Kỳ Phật thọ mạng tứ thập nhị kiếp. Thời Pháp Tạng tỳ-kheo nhiếp thủ nhị bách nhất thập ức chư Phật diệu độ thanh tịnh chi hạnh, như thị tu dĩ, nghệ bỉ Phật sở, khể thủ lễ túc, nhiễu Phật tam táp, hiệp chưởng nhi trụ, bạch ngôn: “Thế Tôn! Ngă dĩ nhiếp thủ trang nghiêm Phật độ thanh tịnh chi hạnh (năi chí thuyết tứ thập bát nguyện). Pháp Tạng tỳ-kheo thuyết thử tụng dĩ, ứng thời phổ địa lục chủng chấn động, thiên vũ diệu hoa, dĩ tán kỳ thượng. Tự nhiên âm nhạc, không trung tán ngôn: “Quyết định tất thành vô thượng chánh giác”.

          Ư thị Pháp Tạng tỳ-kheo, cụ túc tu măn như thị đại nguyện, thành đế bất hư, siêu xuất thế gian, thâm lạc tịch diệt… Kiến thị nguyện dĩ, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm Tịnh Độ. Sở tu Phật quốc khôi khoách quảng đại, siêu thắng độc diệu, kiến lập thường nhiên, vô suy, vô biến, ư bất khả tư nghị triệu tải vĩnh kiếp, tích thực Bồ Tát vô lượng đức hạnh… Như thị công đức, bất khả xưng thuyết. Khẩu khí hương khiết, như ưu-bát-la hoa, thân chư mao khổng, xuất chiên-đàn hương. Kỳ hương phổ huân vô lượng thế giới, dung sắc đoan chánh, tướng hảo thù diệu. Kỳ thủ thường xuất vô tận chi bảo, y phục, ẩm thực, trân diệu hoa hương, chư cái tràng phan, trang nghiêm chi cụ, như thị đẳng sự, siêu chư nhân thiên, ư nhất thiết pháp, nhi đắc tự tại.

          A Nan bạch Phật: “Pháp Tạng Bồ Tát vi dĩ thành Phật nhi thủ diệt độ, vi vị thành Phật, vi kim hiện tại?” Phật cáo A Nan: “Pháp Tạng Bồ Tát kim dĩ thành Phật, hiện tại Tây Phương, khứ thử thập vạn ức sát. Kỳ Phật thế giới, danh viết An Lạc”. A Nan hựu vấn: “Kỳ Phật thành đạo dĩ lai, vị kinh kỷ thời?” Phật ngôn: “Thành Phật dĩ lai, phàm lịch thập kiếp” (CBETA, T12, no.360, p.266, c23-24)

          佛告阿難。乃往過去久遠無量不可思議無央數劫。錠光如來。興出於世。(乃至有五十三佛次第出世)爾時次有佛。名世自在王如來、應供等正覺、明行足、善逝世間解、無上士、調御丈夫、天人師、佛、世尊。時有國王。聞佛說法。心懷悅豫、尋發無上正真道意。棄國捐王。行作沙門。號曰法藏。高才勇哲。與世超異。詣世自在王如來所。稽首佛足。右繞三匝。長跪合掌。以頌讚佛。法藏比丘說此頌已。而白佛言。唯然世尊。我發無上正覺之心。願佛為我廣宣經法。我當修行。攝取佛國。清凈莊嚴。無量妙土。令我於世。速成正覺。拔諸生死勤苦之本。佛語阿難。時世自在王佛。告法藏比丘。如所修行莊嚴佛土。汝自當知。比丘白佛。斯義弘深。非我境界。唯願世尊。廣為敷演如來凈土之行。我聞此已。當如說修行。成滿所願。爾時世自在王佛。知其高明。志願深廣。即為法藏比丘而說經言。譬如大海。一人斗量。經歷劫數。尚可窮底。得其妙寶。人有至心精進求道不止。會當克果。何願不得。於是世自在王佛。即為廣說二百一十億諸佛剎土天人之善惡。國土之粗妙。應其心愿。悉現與之。時彼比丘。聞佛所說。嚴凈國土。皆悉睹見。超發無上殊勝之願。其心寂靜。志無所著。一切世間。無能及者。具足五劫。思惟攝取莊嚴佛國清凈之行。阿難白佛。彼佛國土。壽量幾何。佛言。其佛壽命四十二劫。時法藏比丘。攝取二百一十億諸佛妙土清凈之行。如是修已。詣彼佛所。稽首禮足。繞佛三匝。合掌而住。白言世尊。我已攝取莊嚴佛土清凈之行。(乃至說四十八願)法藏比丘說此頌已。應時普地六種震動。天雨妙華。以散其上。自然音樂。空中贊言。決定必成無上正覺。於是法藏比丘。具足修滿如是大願。誠諦不虛。超出世間。深樂寂滅。建是願已。一向專志莊嚴凈土。所修佛國。恢廓廣大。超勝獨妙。建立常然。無衰無變。於不可思議兆載永劫。積植菩薩無量德行。如是功德。不可稱說。口氣香潔。如優缽羅華。身諸毛孔。出栴檀香。其香普熏無量世界。容色端正。相好殊妙。其手常出無盡之寶。衣服飲食。珍妙華香。諸蓋幢幡。莊嚴之具。如是等事。超諸人天。於一切法。而得自在。阿難白佛。法藏菩薩。為已成佛而取滅度。為未成佛。為今現在。佛告阿難。法藏菩薩。今已成佛。現在西方。去此十萬億剎。其佛世界。名曰安樂。阿難又問。其佛成道已來。為經幾時。佛言。成佛已來。凡歷十劫。

          (Đức Phật bảo A Nan:

          - Trong quá khứ lâu xa vô lượng chẳng thể nghĩ bàn vô ương số kiếp, Định Quang Như Lai xuất hiện trong cơi đời (cho đến năm mươi ba vị Phật lần lượt xuất thế). Khi ấy, kế đó có một vị Phật, tên là Thế Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Lúc đó có quốc vương, nghe đức Phật thuyết pháp, ôm ḷng vui mừng, liền phát khởi vô thượng chánh chân đạo ư, ĺa nước, bỏ ngôi vua, hành theo hạnh sa-môn, hiệu là Pháp Tạng. Tài cao, chí nguyện mạnh mẽ, thông đạt đạo lư không ngằn mé, trỗi lạ hơn đời, đến chỗ Thế Tự Tại Vương Như Lai, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, quỳ thẳng, chắp tay, dùng kệ tụng khen ngợi Phật… Pháp Tạng tỳ-kheo nói bài kệ ấy xong, bèn bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con phát ra cái tâm Vô Thượng Chánh Giác, mong Phật hăy v́ con rộng nói kinh pháp, con sẽ tu hành, nhiếp thủ cơi Phật, vô lượng cơi nước mầu nhiệm thanh tịnh trang nghiêm, khiến cho con trong cơi đời chóng thành Chánh Giác, dứt bỏ cội nguồn của các sự khổ năo sanh tử”.

          Đức Phật bảo A Nan:

          - Khi ấy, Thế Tự Tại Vương Phật bảo Pháp Tạng tỳ-kheo: “Chuyện tu hành trang nghiêm cơi Phật, ông hăy nên tự biết”. Tỳ-kheo bạch Phật: “Nghĩa ấy rộng sâu, chẳng phải là cảnh giới của con. Kính xin đức Thế Tôn hăy v́ con diễn nói rộng răi hạnh Tịnh Độ của Như Lai. Con nghe điều ấy xong, sẽ tu hành đúng như lời dạy để thành tựu viên măn lời nguyện”. Lúc bấy giờ, Thế Tự Tại Vương Phật biết tỳ-kheo cao minh, chí nguyện sâu rộng, liền v́ tỳ-kheo Pháp Tạng nói kinh như sau: “Ví như biển cả, một người dùng đấu để đong, trải qua bao kiếp số, c̣n có thể cạn đến tận đáy, đạt được những của báu mầu nhiệm trong ấy. Người có sự chí tâm tinh tấn cầu đạo chẳng ngừng, sẽ nhất định đắc quả, có nguyện nào mà chẳng đạt được?” Do vậy, Thế Tự Tại Vương Phật liền v́ tỳ-kheo nói rộng về sự thiện ác của trời người và cơi nước thô diệu trong hai trăm mười ức các cơi Phật, ứng hợp tâm nguyện của tỳ-kheo, đều hiện cho [thấy rành rẽ]. Khi đó, tỳ-kheo nghe đức Phật nói đến những cơi nước trang nghiêm, thanh tịnh, thảy đều trông thấy, bèn dũng mănh phát khởi nguyện thù thắng vô thượng. Tâm Ngài vắng lặng, chí không dính mắc, hết thảy thế gian không ai có thể sánh bằng, trọn đủ năm kiếp, tư duy thâu góp các hạnh thanh tịnh để trang nghiêm cơi Phật.

          A Nan bạch Phật: “Trong cơi nước của đức Phật ấy, thọ lượng bao nhiêu?”

          Đức Phật đáp:

          - Vị Phật ấy thọ mạng bốn mươi hai kiếp. Khi đó, tỳ-kheo Pháp Tạng nhiếp thủ hạnh thanh tịnh từ hai trăm mười ức các cơi Phật mầu nhiệm như thế xong, đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh Phật ba ṿng rồi đứng chắp tay, bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Con đă nhiếp thủ hạnh thanh tịnh trang nghiêm cơi Phật (cho đến nói ra bốn mươi tám nguyện). Tỳ-kheo Pháp Tạng nói bài tụng ấy xong, ngay khi đó, khắp cơi đất sáu thứ chấn động, trời đổ mưa hoa đẹp đẽ, để rải lên tỳ-kheo. Tự nhiên âm nhạc ở trong không trung [có tiếng] khen rằng: “Quyết định ắt thành Vô Thượng Chánh Giác”. Do vậy, tỳ-kheo Pháp Tạng tu tập viên măn trọn đủ đại nguyện như thế, chân thật, chẳng hư dối, vượt trỗi thế gian, tịch diệt, an lạc sâu xa… Ngài đă kiến lập nguyện ấy rồi, một dạ chuyên chí trang nghiêm Tịnh Độ. Cơi Phật do Ngài tu tập bèn rộng lớn mênh mông, thù thắng vượt trỗi, tốt đẹp duy nhất, tạo lập thường hằng như thế, chẳng suy, chẳng biến. Ngài trong chẳng thể nghĩ bàn triệu ức muôn kiếp lâu xa, đă tích tập, vun bồi vô lượng đức hạnh của hàng Bồ Tát… Công đức như thế, chẳng thể khen nói được! Hơi miệng thơm sạch như hoa Ưu Bát La (Utpala, hoa sen xanh). Các lỗ chân lông trên thân tỏa mùi hương Chiên Đàn (Candana). Mùi thơm ấy xông khắp vô lượng thế giới, dung sắc đoan chánh, tướng hảo đẹp đẽ tuyệt vời. Tay Ngài thường tuôn ra của báu vô tận, quần áo, thức ăn, hoa hương quư báu mầu nhiệm, các lọng, tràng, phan, những vật trang nghiêm, những thứ như vậy, vượt trỗi các trời người, Ngài được tự tại trong hết thảy các pháp.

          A Nan bạch Phật: “Pháp Tạng Bồ Tát đă thành Phật rồi diệt độ, hay là chưa thành Phật, hay đă đang [làm Phật] trong hiện tại?” Đức Phật bảo A Nan: “Pháp Tạng Bồ Tát nay đă thành Phật, hiện đang ở Tây Phương, cách đây mười vạn ức cơi. Thế giới của đức Phật có tên là An Lạc”. A Nan lại hỏi: “Vị Phật ấy thành đạo đến nay đă trải qua bao lâu rồi?” Đức Phật nói: “Thành Phật đến nay đă qua mười kiếp”).

 

* Đại Bảo Tích Kinh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội

(大寶積經無量壽如來會)

 

          Hữu Phật xuất thế, hiệu Thế Tự Tại Vương Như Lai. Bỉ Phật pháp trung, hữu nhất tỳ-kheo, danh Pháp Xứ (CBETA, T11, no.310, p.92, c27)

          有佛出世。號世自在王如來。彼佛法中。有一比丘。名法處。

          (Có vị Phật xuất thế, tên là Thế Tự Tại Vương Như Lai, trong pháp của đức Phật ấy, có một tỳ-kheo tên là Pháp Xứ).

 

* Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh

(佛說無量清凈平等覺經)

 

          Thứ hữu Phật danh Lâu Di Tuyên La, vị chư thiên thế nhân, thuyết kinh, giảng đạo. Thế Nhiêu Vương văn kinh đạo, hoan hỷ khai giải, tiện khí quốc vị, hành tác tỳ-kheo, danh Đàm Ma Già Lưu (CBETA, T12, no.361, p.280, a24-28)

          次有佛名樓夷亘羅。為諸天世人。說經講道。世饒王聞經道。歡喜開解。便棄國位。行作比丘。名曇摩伽留。

          (Kế đó có Phật tên là Lâu Di Tuyên La (Lokêśvararāja, Thế Tự Tại Vương), v́ chư thiên, người đời nói kinh, giảng đạo. Vua Thế Nhiêu nghe kinh đạo, hoan hỷ, thông hiểu, bèn bỏ ngôi vua, hành hạnh tỳ-kheo, có tên là Đàm Ma Già Lưu – Dharmākara, Pháp Tạng)

 

* Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh

(佛說阿彌陀三耶三佛薩樓佛檀過度人道經)

 

          Thứ hữu Phật danh Lâu Di Tuyên La giáo hóa, hữu đại quốc vương, hành tác sa-môn, hiệu Đàm Ma Già (CBETA, T12, no.362, p.300, c18-21)

          次有佛名樓夷亘羅。教化。有大國王。行作沙門。號曇摩伽。

          (Kế đó, có Phật tên là Lâu Di Tuyên La giáo hóa. Có vị đại quốc vương, hành hạnh sa-môn, hiệu là Đàm Ma Già).

 

* Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh

(佛說大乘無量壽莊嚴經)

 

          Hữu Phật hiệu Thế Tự Tại Vương Như Lai, nhi ư pháp trung, hữu nhất tỳ-kheo, danh viết Tác Pháp (CBETA, T12, no.363, p.318, c5-8).

          有佛號世自在王如來。而於法中。有一比丘。名曰作法。

          (Có một vị Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai, nhưng trong pháp của Ngài, có một tỳ-kheo tên là Tác Pháp).

 

* Phật Thuyết Đại A Di Đà Kinh

(佛說大阿彌陀經)

 

          Phật hiệu Thế Tự Tại Vương Như Lai, tại thế giáo hóa, hữu đại quốc vương, văng tác sa-môn, hiệu Pháp Tạng tỳ-kheo (CBETA, T12, no.364, p.328, a15-19).

          佛號世自在王如來。在世教化。有大國王。往作沙門。號法藏比丘。         

          (Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai giáo hóa trong cơi đời, có một đại quốc vương trở thành sa-môn, hiệu là tỳ-kheo Pháp Tạng).

         

          Năm kinh trên đây đều là những bản dịch khác nhau của cùng một kinh Vô Lượng Thọ, đại ư tương đồng, v́ thế chưa biện định tường tận sự sai biệt.

 

* Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Hóa Thành Dụ Phẩm

(妙法蓮華經化城喻品)

 

          Năi văng quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghị A-tăng-kỳ kiếp, nhĩ thời hữu Phật, danh Đại Thông Trí Thắng Như Lai… Kỳ Phật vị xuất gia thời, hữu thập lục tử, kỳ đệ nhất giả danh viết Trí Tích. Chư tử các hữu chủng chủng trân dị ngoạn hảo chi cụ, văn phụ đắc thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, giai xả sở trân, văng nghệ Phật sở. Chư mẫu thế khấp, nhi tùy tống chi. Kỳ tổ Chuyển Luân Thánh Vương, dữ nhất bách đại thần, cập dư bách thiên vạn ức nhân dân, giai cộng vi nhiễu, tùy chí đạo tràng, hàm dục thân cận Đại Thông Trí Thắng Như Lai, cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán. Đáo dĩ, đầu diện lễ túc, nhiễu Phật tất dĩ, nhất tâm hiệp chưởng, chiêm ngưỡng Thế Tôn… Thập lục vương tử, giai dĩ đồng tử xuất gia vi sa-di. Chư căn thông lợi, trí huệ minh liễu… Bỉ Phật đệ tử, thập lục sa-di, kim giai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, ư thập phương quốc độ, hiện tại thuyết pháp, hữu vô lượng bách thiên vạn ức Bồ Tát, Thanh Văn, dĩ vi quyến thuộc. Kỳ nhị sa-di, Đông phương tác Phật. Nhất danh A Súc, tại Hoan Hỷ Quốc, nhị danh Tu Di Đảnh. Đông Nam phương nhị Phật, nhất danh Sư Tử Âm, nhị danh Sư Tử Tướng. Nam phương nhị Phật, nhất danh Hư Không Trụ, nhị danh Thường Diệt. Tây Nam phương nhị Phật. Nhất danh Đế Tướng, nhị danh Phạm Tướng. Tây phương nhị Phật. Nhất danh A Di Đà, nhị danh Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Năo. Tây Bắc phương nhị Phật. Nhất danh Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông, nhị danh Tu Di Tướng. Bắc phương nhị Phật, nhất danh Vân Tự Tại, nhị danh Vân Tự Tại Vương. Đông Bắc phương Phật, danh Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy, đệ thập lục ngă Thích Ca Mâu Ni Phật (CBETA, T09, no.262).

          乃往過去無量無邊不可思議阿僧祇劫。爾時有佛。名大通智勝如來。其佛未出家時。有十六子。其第一者名曰智積。諸子各有種種珍異玩好之具。聞父得成阿耨多羅三藐三菩提。皆舍所珍。往詣佛所。諸母涕泣。而隨送之。其祖轉輪聖王。與一百大臣。及余百千萬億人民。皆共圍繞。隨至道場。咸欲親近大通智勝如來。供養恭敬。尊重讚歎。到已頭面禮足。繞佛畢已。一心合掌。瞻仰世尊。十六王子。皆以童子出家為沙彌。諸根通利。智慧明了。彼佛弟子。十六沙彌。今皆得阿耨多羅三藐三菩提。於十方國土。現在說法。有無量百千萬億菩薩聲聞。以為眷屬。其二沙彌。東方作佛。一名阿閦。在歡喜國。二名須彌頂。東南方二佛。一名師子音。二名師子相。南方二佛。一名虛空住。二名常滅。西南方二佛。一名帝相。二名梵相。西方二佛。一名阿彌陀。二名度一切世間苦惱。西北方二佛。一名多摩羅跋栴檀香神通。二名須彌相。北方二佛。一名雲自在。二名雲自在王。東北方佛。名壞一切世間怖畏。第十六我釋迦牟尼佛。

          (Trong đời quá khứ vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp, lúc đó, có Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai… Khi đức Phật ấy chưa xuất gia, có mười sáu người con, người thứ nhất tên là Trí Tích. Các con mỗi người đều có các món đồ chơi quư lạ, nghe cha được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều bỏ những thứ ḿnh trân quư, đến chỗ đức Phật. Các bà mẹ của họ khóc lóc đưa tiễn. Ông nội là Chuyển Luân Thánh Vương và một trăm đại thần, cùng hơn trăm ngàn vạn ức nhân dân đều cùng vây quanh, theo đến đạo tràng, đều muốn thân cận Đại Thông Trí Thắng Như Lai, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Đă đến nơi bèn dập dầu, áp mặt sát đất lễ dưới chân đức Phật, nhiễu Phật xong xuôi, một ḷng chắp tay, chiêm ngưỡng đức Thế Tôn… Mười sáu vương tử, đều là đồng tử xuất gia làm sa-di. Các căn thông sáng, nhạy bén, trí huệ thông hiểu rơ ràng...

          Mười sáu sa-di là đệ tử của đức Phật ấy, nay đều đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trong các cơi nước ở mười phương, nay đang thuyết pháp, có vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ Tát, Thanh Văn để làm quyến thuộc. Hai vị sa-di làm Phật ở phương Đông, vị thứ nhất tên là A Súc ở trong nước Hoan Hỷ, vị thứ hai tên là Tu Di Đảnh. Hai vị Phật ở phương Đông Nam, vị thứ nhất tên Sư Tử Âm, vị thứ hai tên Sư Tử Tướng. Phương Nam có hai vị Phật, vị thứ nhất tên Hư Không Trụ, vị thứ hai tên Thường Diệt. Phương Tây Nam hai vị Phật, vị thứ nhất tên là Đế Tướng, vị thứ hai tên là Phạm Tướng. Phương Tây hai vị Phật, vị thứ nhất là A Di Đà, vị thứ hai tên Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Năo. Phương Tây Bắc hai vị Phật. Vị thứ nhất tên Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên Tu Di Tướng. Phương Bắc hai vị Phật, vị thứ nhất tên Vân Tự Tại, vị thứ hai tên Vân Tự Tại Vương. Phương Đông Bắc có Phật tên là Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy, vị thứ mười sáu là ta, Thích Ca Mâu Ni Phật).

          Trong bộ Tiểu Kinh Sớ của ngài Linh Chi có đoạn: “Vào thời đức Phật Đại Thông Trí Thắng, Di Đà là một trong mười sáu vị vương tử, Phật Thích Ca đă [thành Phật] trải qua số kiếp nhiều như vi trần, há Phật Di Đà chẳng giống như vậy ư?”

 

* Chánh Pháp Hoa Kinh (CBETA, T09, no.263)

(正法華經)

 

* Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (CBETA, T09, no.264)

(添品妙法蓮華經)

 

          Hai kinh trên đây nói giống như Diệu Pháp Liên Hoa Kinh

 

* Bi Hoa Kinh

(悲華經)

 

          Phật cáo Tịch Ư Bồ Tát:

          - Thiện nam tử! Ngă ư văng tích quá Hằng hà sa đẳng A-tăng-kỳ kiếp, thử Phật thế giới danh San Đề Lam. Thị thời đại kiếp danh Thiện Tŕ. Ư bỉ kiếp trung, hữu Chuyển Luân Thánh Vương, danh Vô Tránh Niệm, chủ tứ thiên hạ, hữu nhất đại thần, danh viết Bảo Hải, thị Phạm chí chủng, thiện tri chiêm tướng. Thời sanh nhất tử, hữu tam thập nhị tướng, anh lạc kỳ thân, bát thập chủng hảo, thứ đệ trang nghiêm… Kỳ hậu trưởng đại, thế trừ tu phát, pháp phục xuất gia, thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, hoàn hiệu Bảo Tạng Như Lai… Nhĩ thời Bảo Tạng Phật, tức vị thánh vương, thuyết ư chánh pháp, thị giáo hoan hỷ… Vương tiền bạch Phật ngôn: “Duy nguyện Như Lai, cập chư thánh chúng, ư tam nguyệt trung, thọ ngă cúng dường, ẩm thực, ngọa cụ, thang dược”. Bỉ thời, Như Lai hứa khả… Thời Chuyển Luân Vương hướng Phật xoa thủ, nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Chư Bồ Tát đẳng dĩ hà nghiệp cố, thủ thanh tịnh thế giới? Dĩ hà nghiệp cố, thủ bất tịnh thế giới?”… Phật cáo thánh vương: “Đại vương đương tri, chư Bồ Tát đẳng, dĩ nguyện lực cố thủ thanh tịnh độ, ly ngũ trược ác”… Nhĩ thời thánh vương tiền bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngă kim hoàn thành, ư nhàn tĩnh xứ, chuyên tâm tư duy, đương tác thệ nguyện. Như ngă sở kiến Phật độ, tướng mạo, ly ngũ trược ác nguyện, cầu thanh tịnh trang nghiêm thế giới”. Phật cáo thánh vương: “Nghi tri thị thời”.

          Thiện nam tử! Thời Chuyển Luân Vương đầu diện lễ Phật, cập tỳ-kheo tăng, hữu nhiễu tam táp, tức thoái nhi khứ, tiện hoàn nhập thành. Đáo sở trụ xứ, tự cung điện trung, tại nhất b́nh xứ, nhất tâm đoan tọa, tư duy tu tập, chủng chủng trang nghiêm kỷ Phật thế giới… Nhĩ thời thánh vương, tức khởi hiệp chưởng, trường quỵ hướng Phật tiền, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngă kim chân thật dục đắc Bồ Đề, như ngă tiên ư tam nguyệt chi trung, dĩ chư sở tu, cúng dường Phật cập tỳ-kheo tăng. Như thị thiện căn, ngă kim hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chung bất nguyện thủ bất tịnh Phật độ. Thế Tôn! Ngă tiên dĩ ư thất tuế chi trung, đoan tọa tư duy chủng chủng trang nghiêm thanh tịnh Phật độ”…

          Nhĩ thời, Bảo Tạng Như Lai tán Luân Vương ngôn: “Thiện tai, thiện tai! Đại vương kim giả, sở nguyện thậm thâm, dĩ thủ Tịnh Độ, thị trung chúng sanh, kỳ tâm diệc tịnh. Đại vương nhữ kiến Tây phương quá bách thiên vạn ức Phật độ, hữu thế giới, danh Tôn Thiện Vô Cấu… thanh tịnh trang nghiêm, tất như đại vương sở nguyện… Thị thời thế giới, chuyển danh An Lạc. Nhữ ư thị thời, đương đắc tác Phật, hiệu Vô Lượng Thọ Như Lai...

          Nhĩ thời thập phương như Hằng hà sa đẳng chư Phật thế giới, lục chủng chấn động. Thị trung chư Phật, tức dữ thọ kư, tác như thị ngôn: “San Đề Lam giới, Thiện Tŕ kiếp trung, nhân thọ bát vạn tuế, hữu Phật xuất thế, hiệu viết Bảo Tạng, hữu Chuyển Luân Thánh Vương, danh Vô Lượng Tịnh, chủ tứ thiên hạ, tam nguyệt cúng dường Bảo Tạng Như Lai, cập tỳ-kheo tăng. Dĩ thị thiện căn cố, quá nhất Hằng hà sa đẳng A-tăng-kỳ kiếp dĩ, thỉ nhập đệ nhị A-tăng-kỳ kiếp, đương đắc tác Phật, hiệu Vô Lượng Thọ. Kỳ thế giới danh An Lạc, thường thân quang chiếu tung quảng châu táp các Hằng hà sa đẳng chư Phật thế giới (CBETA, T03, no.157, p.179)

          佛告寂意菩薩。善男子。我於往昔過恆河沙等阿僧祇劫。此佛世界。名刪提嵐。是時大劫名善持。於彼劫中。有轉輪聖王。名無諍念。主四天下。有一大臣。名曰寶海。是梵志種。善知占相。時生一子。有三十二相。瓔珞其身。八十種好。次弟莊嚴。其後長大。剃除鬚髮。法服出家。成阿耨多羅三藐三菩提。還號寶藏如來。爾時寶藏佛。即為聖王。說於正法。示教歡喜。王前白佛言。唯願如來。及諸聖眾。於三月中。受我供養。飲食卧具湯藥。彼時如來許可。時轉輪王向佛叉手。而白佛言。世尊。諸菩薩等以何業故。取清凈世界。以何業故。取不凈世界。佛告聖王。大王當知。諸菩薩等。以願力故取清凈土。離五濁惡。爾時聖王前白佛言。世尊。我今還城。於閑靜處。專心思惟。當作誓願。如我所見佛土相貌。離五濁惡願。求清凈莊嚴世界。佛告聖王。宜知是時。善男子。時轉輪王頭面禮佛。及比丘僧。右繞三匝。即退而去。便還入城。到所住處。自宮殿中。在一屏處。一心端坐。思惟修習。種種莊嚴己佛世界。爾時聖王。即起合掌。長跪向佛前。白佛言。世尊。我今真實欲得菩提。如我先於三月之中。以諸所須。供養佛及比丘僧。如是善根。我今迴向阿耨多羅三藐三菩提。終不願取不凈佛土。世尊。我先已於七歲之中。端坐思惟種種莊嚴清凈佛土。爾時。寶藏如來贊輪王言。善哉善哉。大王今者。所願甚深。已取凈土。是中眾生。其心亦凈。大王汝見西方過百千萬億佛土。有世界。名尊善無垢。清凈莊嚴。悉如大王所願。是時世界。轉名安樂。汝於是時。當得作佛。號無量壽如來。爾時十方如恆河沙等諸佛世界。六種震動。是中諸佛。即與授記。作如是言。刪提嵐界。善持劫中。人壽八萬歲。有佛出世。號曰寶藏。有轉輪聖王。名無量凈。主四天下。三月供養寶藏如來。及比丘僧。以是善根故。過一恆河沙等阿僧祇劫已。始入第二阿僧祇劫。當得作佛。號無量壽。其世界名安樂。常身光照縱廣周匝各恆河沙等諸佛世界。

          (Đức Phật bảo Tịch Ư Bồ Tát:

          - Này thiện nam tử! Ta trong quá khứ với số lượng A-tăng-kỳ kiếp nhiều như số cát trong sông Hằng, thế giới Phật này có tên là San Đề Lam. Lúc ấy, đại kiếp tên là Thiện Tŕ. Trong kiếp ấy, có Chuyển Luân Thánh Vương, tên là Vô Tránh Niệm, làm chủ tứ thiên hạ. Vua có một vị đại thần, tên là Bảo Hải, thuộc ḍng Phạm chí, khéo biết xem tướng. Khi ấy, sanh một con trai, có ba mươi hai tướng để trang nghiêm thân thể, tám mươi thứ hảo lần lượt trang nghiêm… Về sau, [đứa con ấy] khôn lớn, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục xuất gia, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, c̣n có hiệu là Bảo Tạng Như Lai… Khi ấy, Bảo Tạng Phật liền v́ thánh vương nói chánh pháp, dạy dỗ khiến cho nhà vua hoan hỷ… Vua bạch trước Phật rằng: “Kính xin Như Lai cùng với các thánh chúng, trong ṿng ba tháng, tiếp nhận sự cúng dường thức ăn, đồ trải nằm, thuốc men của con”. Lúc ấy, Như Lai chấp thuận… Khi ấy, Chuyển Luân Vương hướng về Phật chắp tay mà bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Các vị Bồ Tát do v́ nghiệp ǵ mà giữ lấy thế giới thanh tịnh? Do v́ nghiệp ǵ mà giữ lấy thế giới bất tịnh?”… Phật bảo thánh vương: “Đại vương nên biết, các vị Bồ Tát do nguyện lực mà giữ lấy cơi thanh tịnh, ĺa ác ngũ trược”… Khi ấy, thánh vương bạch trước đức Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Con nay trở về thành, sẽ ở chỗ thanh vắng, chuyên tâm tư duy, sẽ lập thệ nguyện. Như đối với tướng mạo của những cơi Phật mà con đă được thấy, sẽ nguyện ĺa ngũ trược ác, cầu thế giới trang nghiêm thanh tịnh”. Phật bảo thánh vương: “Hăy nên biết đúng lúc”.

          Này thiện nam tử! Khi ấy, Chuyển Luân Vương đầu mặt lễ dưới chân Phật, và tỳ-kheo tăng, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, liền lui ra, quay về, lại trở vào thành, đến chỗ ḿnh ngự, ở trong cung điện của chính ḿnh, tại một chỗ kín đáo, nhất tâm, ngồi ngay ngắn, tư duy tu tập các loại trang nghiêm thế giới Phật của chính ḿnh… Khi ấy, thánh vương liền đứng dậy chắp tay, quỳ thẳng, hướng về trước đức Phật, bạch Phật rằng: “Thưa đức Thế Tôn! Con nay chân thật muốn đắc Bồ Đề, như con trong ba tháng trước, đă tu tập cúng dường Phật và tỳ-kheo Tăng, thiện căn như thế, con nay hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trọn chẳng mong giữ lấy cơi Phật bất tịnh. Thưa đức Thế Tôn! Trước đó, con đă trong bảy năm, ngồi ngay ngắn tư duy các thứ trang nghiêm thanh tịnh Phật độ”… Lúc đó, Bảo Tạng Như Lai khen Luân Vương rằng: “Lành thay! Lành thay! Đại vương nay có nguyện rất sâu, đă giữ lấy Tịnh Độ, chúng sanh trong ấy, tâm họ cũng tịnh. Đại vương! Ngài có thấy qua khỏi trăm ngàn vạn ức cơi Phật ở phương Tây, có thế giới tên là Tôn Thiện Vô Cấu… Thanh tịnh trang nghiêm, đều như đại vương mong muốn… Thế giới khi ấy, đổi tên thành An Lạc. Ông vào lúc ấy, sẽ được thành Phật, hiệu là Vô Lượng Thọ Như Lai…

          Lúc đó, các thế giới Phật trong mười phương nhiều như số cát sông Hằng, sáu thứ chấn động. Các đức Phật trong ấy liền thọ kư, nói như thế này: “Thế giới San Đề Lam, trong kiếp Thiện Tŕ, nhân loại thọ tám vạn tuổi, có Phật xuất thế, hiệu là Bảo Tạng. Có Chuyển Luân Thánh Vương, tên là Vô Lượng Tịnh, làm chủ tứ thiên hạ, suốt ba tháng cúng dường Bảo Tạng Như Lai và tỳ-kheo tăng. Do thiện căn ấy, qua một Hằng hà sa đẳng A-tăng-kỳ kiếp rồi, mới bước vào A-tăng-kỳ kiếp thứ hai, sẽ thành Phật, hiệu là Vô Lượng Thọ. Thế giới ấy tên là An Lạc. Quang minh thông thường nơi thân [đức Phật] mỗi phía đều chiếu ngang dọc giáp ṿng các thế giới Phật có số lượng nhiều như cát sông Hằng).

 

* Đại Thừa Đại Bi Phân Đà Lợi Kinh

(大乘大悲分陀利經)

 

          Nói giống như trên đây (CBETA, T03, no,158, p.233).

 

* Đại Thừa Phương Quảng Tổng Tŕ Kinh

(大乘方廣總持經)

         

          A Dật Đa! Ngă niệm quá khứ vô ương số kiếp, bỉ thời hữu Phật, danh viết Vô Cấu Diễm Xưng Khởi Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện ư thế. Thị thời bỉ Phật, thọ mạng bát vạn na-do-tha tuế, vị chúng thuyết pháp. Nhĩ thời, Vô Cấu Diễm Xưng Khởi Vương Như Lai pháp trung, hữu nhất tỳ-kheo, danh viết Tịnh Mạng, tổng tŕ chư kinh thập tứ ức bộ, Đại Thừa kinh điển lục bách vạn bộ, vi đại pháp sư. Ngôn từ thanh mỹ, biện tài vô ngại, lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh, thị giáo lợi hỷ. Nhĩ thời, Vô Cấu Diễm Xưng Khởi Vương Như Lai lâm Niết Bàn thời, cáo bỉ tỳ-kheo Tịnh Mạng ngôn: “Vị lai thế trung, nhữ chúng hộ tŕ ngă chánh pháp nhăn”.

          Nhĩ thời, Tịnh Mạng thọ Phật giáo dĩ, ư Phật diệt hậu, thiên vạn tuế trung, thủ hộ lưu thông chư Phật bí tạng. Ư thử Phương Quảng Tổng Tŕ pháp môn, thọ tŕ độc tụng, thâm giải nghĩa thú. Ư bỉ thế giới bát vạn thành trung sở hữu chúng sanh, tùy kỳ nguyện nhạo, quảng vị tuyên thuyết. Nhĩ thời, hữu nhất đại thành, danh viết Bạt Đà, văng bỉ thành trung, vị bát thập ức gia, tùy kỳ sở nhạo, nhi vị thuyết pháp. Thị thời thành trung bát thập ức nhân, hoạch tịnh tín tâm. Nhất ức nhân chúng, trụ Bồ Đề đạo. Thất thập cửu ức nhân, trụ Thanh Văn chúng, nhi đắc điều phục. Nhĩ thời Tịnh Mạng pháp sư, phục dữ thập thiên tỳ-kheo chúng, tương dữ câu văng, tu Bồ Tát hạnh.

          Nhĩ thời, Bạt Đà thành trung, phục hữu tỳ-kheo, danh viết Đạt Ma, ư Đại Thừa kinh, Phương Quảng chánh điển, thọ tŕ thiên bộ, hoạch đắc Tứ Thiền. Duy dĩ Phương Quảng không pháp, hóa bỉ thành trung nhất thiết chúng sanh, bất năng dĩ thiện phương tiện, tùy dục nhi thuyết, tác như thị ngôn: “Nhất thiết chư pháp, tất giai không tịch. Ngă sở thuyết giả, chân thị Phật thuyết. Bỉ Tịnh Mạng tỳ-kheo sở thuyết tạp uế, bất tịnh. Thử tỳ-kheo thật phi tịnh mạng, nhi xưng tịnh mạng. Hà dĩ cố? Nhi thử tỳ-kheo sở thọ chư hoa, bất tŕ cúng dường nhi tự thọ dụng, đồ hương, mạt hương, diệc phục như thị. Tịnh Mạng tỳ-kheo ngu si vô trí, bất năng tri ngă, cửu tu phạm hạnh. Bỉ kư niên thiếu, xuất gia vị cửu, ngă mạn vô tín, đa chư phóng dật. Thị chư nhân đẳng, vô sở tri hiểu, vị thị Tịnh Mạng tŕ giới tỳ-kheo”. Nhĩ thời Đạt Ma, dĩ kỳ ác tâm, báng tŕ pháp giả, thân hoại mạng chung, đọa ư địa ngục, kinh thất thập kiếp, cụ thọ chúng khổ, măn thất thập kiếp dĩ, đọa chúng sanh trung. Quá lục thập kiếp hậu, trị ngộ Hương Bảo Quang Phật, ư bỉ pháp trung, phát Bồ Đề tâm, ư cửu vạn thế, do sanh súc sanh trung. Quá cửu vạn thế dĩ, đắc sanh nhân trung, ư lục vạn thế, bần cùng hạ tiện, hằng vô thiệt căn.

          Kỳ Tịnh Mạng tỳ-kheo, ư chư pháp trung, đắc tịnh tín tâm, vị nhân thuyết pháp, bỉ ư hậu thời, đắc trị tam thập lục na-do-tha Phật, hằng vi pháp sư, cụ túc Ngũ Thông, khuyến thỉnh bỉ Phật, chuyển diệu pháp luân. A Dật Đa! Nhữ kim đương tri, quá khứ Tịnh Mạng tỳ-kheo giả, khởi dị nhân hồ? Mạc tác dị quán, kim A Di Đà Phật thị. A Dật Đa! Nhữ kim đương tri, quá khứ Đạt Ma tỳ-kheo giả, khởi dị nhân hồ? Mạc tác dị niệm, kim ngă thân thị. Do ngă quá khứ ngu si vô trí, hủy báng tha cố, thọ khổ như thị. Ngă dĩ thử nghiệp nhân duyên, cố xử ngũ trược thế, thành Đẳng Chánh Giác (CBETA, T09, no.275, p.380, a13-b25).

          阿逸多。我念過去無央數劫。彼時有佛。名曰無垢焰稱起王如來、應供、正遍知、明行足、善逝世間解、無上士、調御丈夫、天人師、佛、世尊。出現於世。是時彼佛。壽命八萬那由他歲。為眾說法。爾時無垢焰稱起王如來法中。有一比丘。名曰凈命。總持諸經十四億部。大乘經典六百萬部。為大法師。言辭清美。辯才無礙。利益無量無邊眾生。示教利喜。爾時無垢焰稱起王如來。臨涅槃時。告彼比丘凈命言。未來世中。汝眾護持我正法眼。爾時凈命。受佛教已。於佛滅后。千萬歲中。守護流通。諸佛秘藏。於此方廣總持法門。受持讀誦。深解義趣。於彼世界八萬城中。所有眾生。隨其願樂。廣為宣說。爾時有一大城。名曰跋陀。往彼城中。為八十億家。隨其所樂。而為說法。是時城中八十億人。獲凈信心。一億人眾。住菩提道。七十九億人。住聲聞眾。而得調伏。爾時凈命法師。復與十千比丘眾。相與俱往。修菩薩行。爾時跋陀城中。復有比丘。名曰達摩。於大乘經。方廣正典。受持千部。獲得四禪。唯以方廣空法。化彼城中一切眾生。不能以善方便。隨欲而說。作如是言。一切諸法。悉皆空寂。我所說者。真是佛說。彼凈命比丘所說。雜穢不凈。此比丘實非凈命。而稱凈命。何以故。而此比丘所受諸華。不持供養而自受用。塗香末香。亦復如是。凈命比丘。愚痴無智。不能知我。久修梵行。彼既年少。出家未久。我慢無信。多諸放逸。是諸人等。無所知曉。謂是凈命。持戒比丘。爾時達摩。以其噁心。謗持法者。身壞命終。墮於地獄。經七十劫。具受眾苦。滿七十劫已。墮眾生中。過六十劫后。值遇香寶光佛。於彼法中。發菩提心。於九萬世。猶生畜生中。過九萬世已。得生人中。於六萬世。貧窮下賤。恆無舌根。其凈命比丘。於諸法中。得凈信心。為人說法。彼於後時。得值三十六那由他佛。恆為法師。具足五通。勸請彼佛。轉妙法輪。阿逸多。汝今當知。過去凈命比丘者。豈異人乎。莫作異觀。今阿彌陀佛是。阿逸多。汝今當知。過去達摩比丘者。豈異人乎。莫作異念。今我身是。由我過去愚痴無智。毀謗他故。受苦如是。我以此業因緣。故處五濁世。成等正覺。

          (Này A Dật Đa! Ta nhớ vô ương số kiếp trong quá khứ, khi đó, có Phật tên là Vô Cấu Diễm Xưng Khởi Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện trong cơi đời. Khi ấy, đức Phật đó có thọ mạng là tám vạn na-do-tha năm, v́ đại chúng thuyết pháp.

          Lúc bấy giờ, trong pháp của Vô Cấu Diễm Xưng Khởi Vương Như Lai, có một vị tỳ-kheo, tên là Tịnh Mạng, tổng tŕ các kinh mười bốn ức bộ, kinh điển Đại Thừa sáu trăm vạn bộ, làm đại pháp sư. Ngôn từ trong sáng, hay khéo, biện tài vô ngại, lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh, những kẻ được Ngài chỉ dạy đều lợi lạc, hoan hỷ. Lúc đó, khi Vô Cấu Diễm Xưng Khởi Vương Như Lai sắp nhập Niết Bàn, đă bảo tỳ-kheo Tịnh Mạng rằng: “Trong đời vị lai, các ông hăy hộ tŕ chánh pháp nhăn của ta”. Khi ấy, Tịnh Mạng vâng lời Phật dạy, sau khi Phật diệt độ, trong ngàn vạn năm, thủ hộ, lưu thông kho báu bí mật của chư Phật. Đối với pháp môn Phương Quảng Tổng Tŕ này, Ngài thọ tŕ, đọc, tụng, hiểu nghĩa thú sâu xa. Trong tất cả chúng sanh nơi tám vạn thành của thế giới ấy, thuận theo sự ưa thích của họ mà rộng v́ họ tuyên nói. Lúc đó, có một cái thành lớn, tên là Bạt Đà. Ngài vào trong thành ấy, v́ tám mươi ức nhà, thuận theo sự ưa thích của họ mà thuyết pháp. Khi ấy, tám mươi ức người trong thành đó đều đạt được tâm tịnh tín. Một ức người trụ Bồ Đề đạo. Bảy mươi chín ức người trụ trong chúng Thanh Văn mà được điều phục. Lúc bấy giờ, pháp sư Tịnh Mạng lại cùng mười ngàn vị tỳ-kheo, cùng đi với nhau, tu Bồ Tát hạnh.

          Khi đó, trong thành Bạt Đà, lại có một tỳ-kheo, tên là Đạt Ma, đối với các kinh điển Đại Thừa Phương Quảng, thọ tŕ một ngàn bộ, đạt được Tứ Thiền. Sư chỉ dùng Không pháp trong [giáo nghĩa] Phương Quảng để giáo hóa hết thảy chúng sanh trong thành ấy, chẳng thể khéo dùng phương tiện, tùy ḷng mong muốn [của người nghe] để nói pháp. Sư nói như thế này: “Hết thảy các pháp thảy đều không tịch. Những điều ta nói thật sự là lời Phật nói. Những ǵ tỳ-kheo Tịnh Mạng đă nói đều là tạp uế, bất tịnh. Vị tỳ-kheo ấy chẳng thật sự là Tịnh Mạng, mà xưng là Tịnh Mạng. V́ cớ sao vậy? Tỳ-kheo ấy nhận được hoa, chẳng đem cúng dường mà để tự dùng. Hương bôi, hương bột, cũng giống như vậy. Tỳ-kheo Tịnh Mạng ngu si, vô trí, chẳng thể biết ta tu phạm hạnh đă lâu. Ông ta nhỏ tuổi, xuất gia chưa lâu, ngă mạn, bất tín, nhiều điều buông lung. Những kẻ đó chẳng hiểu biết ǵ, nói ông Tịnh Mạng ấy là tỳ-kheo tŕ giới”. Khi đó, Đạt Ma do ác tâm báng bổ người tŕ pháp, sau khi thân hư hoại, chết đi, đọa trong địa ngục suốt bảy mươi kiếp, chịu đủ mọi nỗi khổ. Trọn hết bảy mươi kiếp, đọa làm chúng sanh. Sau sáu mươi kiếp, gặp gỡ Hương Bảo Quang Phật, trong pháp của Ngài, phát Bồ Đề tâm. Trong chín vạn đời, vẫn sanh trong loài súc sanh. Sau chín vạn đời, được sanh làm người, trong sáu vạn đời, nghèo túng, hạ tiện, thường chẳng có lưỡi.

          Tỳ-kheo Tịnh Mạng ở trong các pháp, đạt được cái tâm tịnh tín, v́ người khác thuyết pháp. Về sau Ngài được gặp ba mươi sáu na-do-tha vị Phật, luôn làm pháp sư, trọn đủ Ngũ Thông, khuyến thỉnh các đức Phật ấy chuyển pháp luân mầu nhiệm. Này A Dật Đa! Ông nay hăy nên biết, tỳ-kheo Tịnh Mạng trong quá khứ há có phải là ai khác? Đừng nh́n chi khác, nay Ngài là A Di Đà Phật. Này A Dật Đa! Ông nay hăy nên biết, tỳ-kheo Đạt Ma trong quá khứ, há có phải là ai khác? Đừng nghĩ chi khác, nay chính là thân ta. Do ta trong quá khứ ngu si, vô trí, hủy báng Ngài, cho nên chịu khổ như thế. Ta do nghiệp nhân duyên ấy, cho nên thành Đẳng Chánh Giác trong đời ngũ trược).

 

* Phật Thuyết Tế Chư Phương Đẳng Học Kinh

(佛說濟諸方等學經)

 

          Đại ư giống như trên (CBETA, T09, no.274).

 

* Phật Thuyết Quyết Định Tổng Tŕ Kinh

(佛說決定總持經)

 

          Năi văng quá khứ cửu viễn thế thời, cánh lịch tam thập nhị kiếp, Diễm Khí thế giới, hữu Phật danh viết Quang Thế Âm, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, vi Phật, Thế Tôn… Ư bỉ thế thời, hữu nhất Bồ Tát, danh viết Biện Tích, đăi đắc tổng tŕ, chấp quyền phương tiện, tiến thoái tùy nghi, khai hóa nhất thiết… Bỉ thế giới hữu quốc vương, danh viết Nguyệt Thí, ái nhạo đạo pháp, khát ngưỡng kinh nghĩa, dĩ pháp tự ngu. Ư thời quốc vương, cúng dường pháp sư Biện Tích Bồ Tát, dữ kỳ cung trung quư nhân, thể nữ ngũ bách chi chúng, đại tác kỹ nhạc, dĩ bảo vi hoa, nhi tán kỳ thượng, ḥa Chiên Đàn hương, dụng đồ kỳ thể, dĩ ngũ bách cái nhi phú kỳ thượng. Ngũ bách tế diệu y phục cúng dường, trú dạ thất nhật, trụ bất cảm tọa, phụng dĩ sở an, tùy dĩ sở nghi, bất thất thời tiết, thậm kính pháp sư, tối vi vô thượng nguy nguy chi tôn, phước vô quá giả. Thời đại hào quư trưởng giả chi tử, phỉ báng hoành uổng Biện Tích Bồ Tát pháp sư, ngôn hủy pháp giới, bất tùy cấm nghiệp. Dĩ thị tội cố, đọa ư địa ngục, măn cửu vạn tuế, sanh ư nhân gian, ngũ vạn thế trung, đọa tại biên địa, di địch chi trung, mê phú tà kiến, tội cái phú tế. Lục bách thế trung, thường đương sanh manh, ấm á vô thiệt, bất năng ngôn ngữ, xuất gia vi đạo, tác sa-môn lai, cánh thất bách thế, ân cần tinh tu, bất tích thân mạng, bất đắc tổng tŕ, kim phục lai sanh ư ngă chi thế, ư sổ sổ loạn, bất năng chuyên định… Nhĩ thời Nguyệt Thí trưởng giả kim hiện tại A Di Đà thị. Kỳ Biện Tích giả, A Súc Như Lai thị. Thập trưởng giả tử giả, kim thử thập nhân, tộc tánh tử thị dă (CBETA, T17, no.811, p.771).

          乃往過去久遠世時。更歷三十二劫。焰氣世界。有佛名曰光世音至真。等正覺、明行足、為善逝世間解、無上士。道法御、天人師、為佛、世尊。於彼世時。有一菩薩。名曰辨積。逮得總持。執權方便。進退隨宜。開化一切。彼世界有國王。名曰月施。愛樂道法。渴仰經義。以法自娛。於時國王。供養法師辨積菩薩。與其宮中貴人婇女五百之眾。大作伎樂。以寶為華。而散其上。和栴檀香。用塗其體以五百蓋。而覆其上。五百細妙。衣服供養。晝夜七日。住不敢坐。奉以所安。隨以所宜。不失時節。甚敬法師。最為無上巍巍之尊。福無過者。時大豪貴長者之子。誹謗橫枉辨積菩薩法師。言毀法戒。不隨禁業。以是罪故。墮於地獄。滿九萬歲。生於人間。五萬世中。墮在邊地。夷狄之中。迷覆邪見。罪蓋覆蔽。六百世中。常當生盲。喑瘂無舌。不能言語。出家為道。作沙門來。更七百世。殷勤精修。不惜身命。不得總持。今復來生於我之世。意數數亂。不能專定。爾時月施長者。今現在阿彌陀是。其辨積者。阿閦如來是。十長者子者。今此十人。族姓子是也。

          (Trong đời quá khứ lâu xa, trải qua ba mươi hai kiếp, trong thế giới Diễm Khí, có vị Phật tên là Quang Thế Âm, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, là Phật, Thế Tôn… Ở trong thời ấy, có một vị Bồ Tát, tên là Biện Tích, đă đắc tổng tŕ, hành phương tiện quyền biến, tiến thoái thích đáng, khai hóa hết thảy… Trong thế giới ấy có quốc vương, tên là Nguyệt Thí, yêu thích đạo pháp, khát ngưỡng kinh nghĩa, dùng pháp để tự vui hưởng. Khi ấy, quốc vương cúng dường pháp sư Biện Tích Bồ Tát, bèn cùng với quư nhân và các thể nữ trong cung số đến năm trăm người, trỗi kỹ nhạc to lớn, lấy chất báu kết thành hoa, rải lên pháp sư, ḥa hương Chiên Đàn để bôi lên thân Ngài. Dùng năm trăm cái lọng che lên trên. Năm trăm y phục mềm mại, đẹp đẽ để cúng dường. Suốt bảy ngày đêm, chỉ đứng chẳng dám ngồi, chầu hầu cho pháp sư được yên ổn, thuận theo đúng lẽ, chẳng sai trái thời khắc, hết sức kính trọng pháp sư là bậc ṿi vọi vô thượng cao nhất, không ai có phước hơn được. Khi ấy, con cái của những vị trưởng giả giàu có, sang cả, phỉ báng, ngang ngược oan uổng pháp sư Biện Tích Bồ Tát, nói Ngài hủy hoại giới pháp, chẳng giữ giới cấm. Do tội lỗi ấy, họ đọa trong địa ngục, trọn chín vạn năm mới sanh trong nhân gian, trong năm vạn đời, đọa trong biên địa, trong phường mọi rợ, bị mê muội che lấp bởi tà kiến, tội lỗi che lấp. Trong sáu trăm đời, thường mù bẩm sinh, câm ngọng, không lưỡi, chẳng thể nói năng, xuất gia tu đạo, trở thành sa-môn, trong bảy trăm đời, ân cần, chuyên ṛng tu tập, chẳng tiếc thân mạng, [nhưng] chẳng đạt được tổng tŕ. Nay lại sanh trong cơi nước của ta, ư thường xuyên rối loạn, chẳng thể chuyên định… Trưởng giả Nguyệt Thí khi ấy nay là A Di Đà Phật, Biện Tích là A Súc Như Lai. Mười đứa con của các vị trưởng giả nay là mười người này, là con của những người thuộc ḍng họ quyền thế).

 

* Báng Phật Kinh

(謗佛經)

 

          Đại ư giống như trên (CBETA, T17, no.831, p.876).

 

* Phật Thuyết Như Lai Trí Ấn Kinh

(佛說如來智印經)

 

          Niệm Nhiên Đăng Phật tiền, quá bát thập ức kiếp, hữu Phật danh Nguyệt Kế, diễn thuyết thử tam-muội. Sơ hội bát thập ức na-do-tha Bồ Tát, văn Phật diễn thuyết pháp, giai đắc bất thoái chuyển. Đệ nhị hội thuyết pháp, thất thập tam do-tha. Đệ tam hội văn pháp, thất thập ức do-tha. Phật thọ vô lượng kiếp, quang lục thập do-tuần, Tăng cửu thập cửu ức, vô sanh tâm tự tại. Thời hữu Chuyển Luân Vương, hiệu danh viết Huệ Khởi, vương lănh Diêm Phù Đề, thất thập thiên do-tuần. Tịnh vương tứ thiên hạ, thể nữ lục thập ức. Kỳ vương hữu thiên tử, sở trụ danh Lạc Quang, bách thiên thành trang nghiêm. Viên quán tất cụ túc, giai phong lạc xí thịnh, do như Đao Lợi Thiên. Kỳ vương mộng văn âm. Nguyệt Kế Phật hưng thế. Bách lục thập ức chúng, câu hành nghệ Phật tiền. Thời vương văn thử kinh, thậm thâm Pháp Thân định, tức xả quốc phụng Phật. Duy nguyện tùy sở dụng. Chư thành khởi tinh xá, giai dĩ diệu chiên-đàn, kiêm thí chúng bộc sử, kim bố kinh hành địa. Thời vương cúng dường Phật, cụ măn bát vạn tuế. Chuyên tinh bất thùy ngọa, vô yếm, vô lận tích. Nhất nhật sở thiết cúng, kỳ số vô hữu lượng. Chư cúng dường thí Phật, duy cầu thử tam-muội. Nhàn cư tu tĩnh niệm. Tam-muội thậm thâm diệu. Bất dĩ hữu tướng hoạch, diệc phi xảo tiện đắc. Tức xả quốc xuất gia, bị dĩ xá-na phục. Hệ niệm tam thiên tuế, tư định bất ỷ ngọa. Phật ư thị trung gian, thuyết pháp linh khai giải, diệt độ hậu khởi tháp, lục vạn tứ thiên ức, các thí ngũ bách cái, thất bảo nhi trang nghiêm, nhất nhất bách kỹ nhạc, chiếu dĩ bát thiên đăng. Bị phục thô cấu y, thất vạn tam thiên tuế, thường thuyết thử tam-muội. Kỳ tâm vô sở dục, xưng tán bất trước danh. Bất cầu thế thắng trí. Khất hung, bất thọ thỉnh, hộ pháp y chỉ trụ. Bát vạn ức do-tha, Phật sở tŕ tịnh giới. Tất như thượng cúng dường. Cụ túc thử tam-muội. Nhược dục đắc Bồ Đề, ưng đương như Phật học… Nhĩ thời Huệ Khởi Vương, A Di Đà Phật thị. Thời vương thiên tử giả, tắc Hiền Kiếp thiên Phật. Thời đồng vương xuất gia, quyến thuộc đệ tử đẳng, ư kim tại ngă tiền, thử hội tứ chúng thị (CBETA, T15, no.633, p.471, a1-b20).

          念然燈佛前。過八十億劫。有佛名月髻。演說此三昧。初會八十億那由他菩薩。聞佛演說法。皆得不退轉。第二會說法。七十三由他。第三會聞法。七十億由他。佛壽無量劫。光六十由旬。僧九十九億。無生心自在。時有轉輪王。號名曰慧起。王領閻浮提。七十千由旬。並王四天下。婇女六十億。其王有千子。所住名樂光。百千城莊嚴。園觀悉具足。皆豐樂熾盛。猶如忉利天。其王夢聞音。月髻佛興世。百六十億眾。俱行詣佛前。時王聞此經。甚深法身定。即舍國奉佛。惟願隨所用。諸城起精舍。皆以妙栴檀。兼施眾僕使。金布經行地。時王供養佛。具滿八萬歲。專精不睡卧。無厭無吝惜。一日所設供。其數無有量。諸供養施佛。惟求此三昧。閑居修靜念。三昧甚深妙。不以有相獲。亦非巧便得。即舍國出家。被以舍那服。繫念三千歲。思定不倚卧。佛於是中間。說法令開解。滅度後起塔。六萬四千億。各施五百蓋。七寶而莊嚴。一一百妓樂。照以八千燈。被服粗垢衣。七萬三千歲。常說此三昧。其心無所欲。稱讚不著名。不求世勝智。乞匈不受請。護法依止住。八萬億那由。佛所持凈戒。悉如上供養。具足此三昧。若欲得菩提。應當如佛學。爾時慧起王。阿彌陀佛是。時王千子者。則賢劫千佛。時同王出家。眷屬弟子等。於今在我前。此會四眾是。 

          (Nghĩ tới trước thời Nhiên Đăng Phật tám mươi ức kiếp, có Phật tên là Nguyệt Kế, diễn nói tam-muội này. Hội đầu tiên là tám mươi ức na-do-tha Bồ Tát, nghe Phật diễn nói pháp, đều đắc bất thoái chuyển. Hội thứ hai thuyết pháp, bảy mươi ba na-do-tha [Bồ Tát], hội thứ ba nghe pháp là bảy mươi ức na-do-tha [Bồ Tát]. Phật thọ vô lượng kiếp, quang minh chiếu xa sáu mươi do-tuần, Tăng chúng là chín mươi chín ức vị đắc vô sanh, tâm tự tại. Khi ấy, có Chuyển Luân Vương, danh hiệu là Huệ Khởi, làm vua thống lănh Diêm Phù Đề, [thế giới ấy rộng] bảy mươi ngàn do-tuần và làm vua tứ thiên hạ, sáu mươi ức cung nữ. Vua ấy có một ngàn con trai. Chỗ vua ở tên là Lạc Quang, có trăm ngàn ṭa thành để trang nghiêm. Vườn, lầu gác đều đầy đủ, đều phong phú, vui sướng tràn trề, giống như trời Đao Lợi vậy. Nhà vua nằm mộng, nghe có tiếng bảo: “Nguyệt Kế Phật xuất hiện trong cơi đời. Một trăm sáu mươi ức chúng cùng đi đến trước Phật”. Lúc đó, nhà vua nghe kinh ấy, Pháp Thân định rất sâu, liền bỏ nước tu Phật, chỉ nguyện thuận theo những ǵ cần dùng mà lập tinh xá ở các thành. [Đối với mỗi tinh xá], đều dùng chiên-đàn mầu nhiệm [để xây dựng], lại c̣n bố thí những người hầu, dùng vàng để trải lối kinh hành. Khi ấy, vua cúng dường Phật trọn đủ tám vạn năm, chuyên ṛng chẳng ngủ nghê. Không mệt mỏi, chẳng keo tiếc. Xếp đặt cúng dường mỗi ngày, số lượng chẳng thể tính đếm được. Dâng các món cúng dường lên Phật, chỉ nhằm cầu tam-muội này. Ở chỗ thanh vắng, tu tĩnh niệm, tam-muội rất sâu mầu, chẳng do hữu tướng mà đạt được, cũng chẳng do phương tiện thiện xảo mà đắc. Vua liền bỏ nước xuất gia, mặc lấy tăng phục. Hệ niệm ba ngàn năm, do Thiền Định mà chẳng dựa hay nằm. Trong khoảng thời gian ấy, đức Phật thuyết pháp khiến cho vua khai giải. Sau khi đức Phật đă diệt độ, vua bèn dựng sáu vạn bốn ngàn ức tháp [thờ xá-lợi]. Đối với mỗi tháp, đều cúng năm trăm lọng, dùng bảy báu để trang nghiêm. Mỗi tháp đều dùng trăm thứ kỹ nhạc [để cúng dường], chiếu sáng bằng tám ngàn ngọn đèn. [Nhà vua] mặc quần áo thô xấu, trong bảy vạn ba ngàn năm, thường nói tam-muội này. Tâm Ngài chẳng có ham muốn, dẫu được khen ngợi chẳng chấp trước danh tiếng. Chẳng cầu trí thù thắng trong thế gian, khất thực[4], chẳng nhận lời biệt thỉnh, luôn chú tâm hộ pháp. Tám vạn ức na-do-tha tịnh giới như Phật đă tŕ, [Ngài thảy đều vâng giữ]. Đều cúng dường như trên, trọn đủ tam-muội này. Nếu muốn đắc Bồ Đề, hăy nên học như Phật… Vua Huệ Khởi thuở ấy, nay là A Di Đà Phật. Một ngàn con trai của nhà vua thuở đó, nay là một ngàn vị Phật trong Hiền Kiếp. Những quyến thuộc, đệ tử cùng xuất gia với vua khi ấy, nay ở trước ta, tức là tứ chúng trong hội này vậy).

 

* Phật Thuyết Huệ Ấn Tam Muội Kinh

(佛說慧印三昧經) (CBETA, T15, no.632, p.460).

 

* Phật Thuyết Đại Thừa Trí Ấn Kinh

(佛說大乘智印經) (CBETA, T15, no.634, p.474).

         

          Hai kinh trên đây đại khái giống như Như Lai Trí Ấn Kinh đă nói.

 

* Hiền Kiếp Kinh

(賢劫經)

 

          Phật ngữ Hỷ Vương Bồ Tát: - Năi văng quá khứ vô ương số kiếp bất khả xưng kế. Nhĩ thời hữu Phật, hiệu Biện Nghiêm Tịnh Lôi Âm Hống Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác. Bỉ thời, thế thời, hữu nhất pháp sư, danh Vô Lượng Đức Biện Tràng Anh Biến Âm, tằng văn Như Lai thuyết thị tam-muội định, học thị tam-muội, nhi phân biệt thuyết, dụng hóa chúng sanh, tế vô số ức bách thiên chư thiên, nhân dân, dĩ độ nhất thiết. Hữu vương thái tử, danh Tịnh Phước Báo Chúng Âm, văn thị tam-muội, tâm trung hân nhiên, tắc bách thiên giá diệu hảo chi y, dĩ phú pháp sư, khẩu phát thị ngôn, phổ sử tam giới ách nhất thiết chúng sanh, giai tất hưng lập, đắc thị tam-muội. Dĩ thị đức bổn, kiến bát thập ức Hằng sa chư Phật, tạo lập chúng hạnh, phụng b́nh đẳng pháp. Tại chư Phật sở, văn thị tam-muội, giai dĩ ban tuyên, tất năng kham nhậm, phụng thị định ư, sở sanh chi xứ, thường thức túc mạng. Tại ư Vô Lượng Đức Tịnh Phật sát, thành Tối Chánh Giác. Tịnh Phước Báo Chánh Âm vương thái tử giả, tắc kim hiện tại Tây Phương A Di Đà Phật thị dă.

          Năi văng quá khứ vô ương số kiếp bất khả xưng tải, hữu Phật hiệu Kim Long           Quyết Quang. Kỳ thọ bất khả hạn lượng, quốc danh Vô Lượng Thọ. Chúng hội bất khả xưng kế. Hữu pháp sư danh Vô Hạn Lượng Bảo Âm, hành tại mạt thế, tối hậu cùng tục, học thị tam-muội. Kỳ dư nhất thiết chư tỳ-kheo chúng, giai cộng tẫn chi. Thời bỉ pháp sư, bất hoài khiếp nhược, bất tham thân mạng. Cố phục cần tinh, giảng tư tam-muội, nhập vu sơn trung, phục chúng quả thực. Thời Tứ Thiên Vương Thiên thượng chư thiên nhân, thượng chí nhị thập tứ A Ca Ni Trá thiên nhân, giai lai thính kinh. Thời vô số chúng hàm cộng niệm chi, tâm tất luyến mộ, sầu tư dục kiến chi, dục phục thanh danh, văn kỳ pháp âm. Thời thế hữu vương, danh Sử Chúng Vô Ưu Duyệt Âm, vi Chuyển Luân Thánh Vương, văng nghệ kỳ sở, thính thị tam-muội. Dĩ đắc văn chi, hoan duyệt pháp sư, vương bạch tỳ kheo: “Tứ ư tuyên truyền, vật hoài khủng úy, ngô tự khiển nhân, cộng tương túc vệ”, khiển tam vạn nhân, tại ư tả hữu, kim dữ nhân thử, vật dĩ úy nạn, ngô đương hộ vệ, thị Phật sở thuyết, thậm nan đắc văn. Thời Chuyển Luân Vương, khiển kỳ thiên tử, dũng mănh kiệt dị, nhất nhân đương thiên, nhi vệ hộ chi. Tam vạn chúng nhân, giai dĩ cam thiện nhi cúng dường chi. Nhất thiết thi an, tùng kỳ sở tiện, thường dĩ ḥa tâm, vô thương hại ư, nhi thọ sở đương nhất thiết sở phạp. Kỳ bỉ pháp sư, kiến lập oai thần, kỷ chi thế lực, ư bán kiếp trung, diễn thị tam-muội. Dĩ thị đức bổn, tắc tất ḥa đồng. Vương chư thái tử, cập chúng quyến thuộc, cánh bát thập kiếp, kiến lục thập ức tam na-thuật chư Phật Thế Tôn, giai tùng chư Phật, đăi thị tam-muội, như tâm sở nguyện, thọ thủ Phật quốc.

          Hỷ Vương! Dục tri bỉ thời pháp sư khởi dị nhân hồ? Mạc tạo thị quán, tắc kim hiện tại A Di Đà Phật thị dă. Kỳ quốc vương danh Vô Ưu Duyệt Âm giả, A Súc Phật thị dă. Kỳ vương thiên tử, Bạt Đà kiếp trung thiên Phật hưng giả thị dă (CBETA, T14, no.425).

          佛語喜王菩薩。乃往過去無央數劫不可稱計。爾時有佛。號辨嚴凈雷音吼如來至真等正覺。彼時世時。有一法師。名無量德辯幢英變音。曾聞如來說是三昧定。學是三昧。而分別說。用化眾生。濟無數億百千諸天人民。以度一切。有王太子。名凈福報眾音。聞是三昧。心中欣然。則百千價妙好之衣。以覆法師。口發是言。普使三界厄一切眾生。皆悉興立。得是三昧。以是德本。見八十億恆沙諸佛。造立眾行。奉平等法。在諸佛所。聞是三昧。皆以頒宣。悉能堪任。奉是定意。所生之處。常識宿命。在於無量德凈佛剎。成最正覺。凈福報正音王太子者。則今現在西方阿彌陀佛是也。

乃往過去無央數劫不可稱載。有佛號金龍決光。其壽不可限量。國名無量壽。眾會不可稱計。有法師名無限量寶音。行在末世。最後窮俗。學是三昧。其餘一切諸比丘眾。皆共擯之。時彼法師。不懷怯弱。不貪身命。故復勤精。講斯三昧。入于山中。服眾果實。時四天王天上諸天人。上至二十四阿迦尼吒天人。皆來聽經。時無數眾咸共念之。心悉戀慕愁思欲見之。欲服聲名。聞其法音。時世有王。名使眾無憂悅音。為轉輪聖王。往詣其所聽是三昧。已得聞之。歡悅法師。王白比丘。恣意宣傳。勿懷恐畏。吾自遣人。共相宿衛。遣三萬人。在於左右。今與仁此。勿以畏難。吾當護衛。是佛所說。甚難得聞。時轉輪王。遣其千子。勇猛傑異一人當千。而衛護之。三萬眾人。皆以甘膳而供養之。一切施安。從其所便。常以和心。無傷害意。而授所當一切所乏。其彼法師。建立威神。己之勢力。於半劫中。演是三昧。以是德本。則悉和同。王諸太子。及眾眷屬。更八十劫。見六十億三那術諸佛世尊。皆從諸佛。逮是三昧。如心所願。受取佛國。喜王。欲知彼時法師豈異人乎。莫造是觀。則今現在阿彌陀佛是也。其國王名無憂悅音者。阿閦佛是也。其王千子。颰陀劫中千佛興者是也。

          (Đức Phật bảo Hỷ Vương Bồ Tát:

          - Trong quá khứ vô ương số kiếp, chẳng thể tính nói, khi ấy có Phật, hiệu là Biện Nghiêm Tịnh Lôi Âm Hống Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác. Trong thời ấy, đời ấy, có một vị pháp sư, tên là Vô Lượng Đức Biện Tràng Anh Biến Âm, từng nghe Như Lai nói tam-muội định này, học tam-muội này, rồi phân biệt nói, dùng [pháp này] giáo hóa chúng sanh, tế độ vô số ức trăm ngàn chư thiên, nhân dân, cứu độ hết thảy. Có một thái tử, tên là Tịnh Phước Báo Chúng Âm nghe tam-muội này, trong ḷng vui sướng, liền dùng trăm ngàn tấm áo tốt đẹp có giá trị đắp lên pháp sư, miệng thốt lời rằng: “Khiến cho hết thảy chúng sanh đang bị khổ ách trong tam giới, sẽ đều dấy khởi, đắc tam-muội này”. Do cội đức ấy, [thái tử] gặp tám mươi ức hằng sa chư Phật, tạo lập các hạnh, vâng giữ pháp b́nh đẳng. Ở chỗ chư Phật, nghe tam-muội này, thảy đều ban bố, tuyên truyền, đều có thể gánh vác, vâng giữ định ư ấy, sanh ở chỗ nào, thường biết túc mạng. Ở trong cơi Vô Lượng Đức Tịnh Phật, thành Tối Chánh Giác. Thái Tử Tịnh Phước Báo Chánh Âm nay là Tây Phương A Di Đà Phật trong hiện tại vậy.

          Trong quá khứ vô ương số kiếp chẳng thể chép kể, có Phật hiệu là Kim Long Quyết Quang, tuổi thọ của Ngài chẳng có hạn lượng, nước tên là Vô Lượng Thọ. Chúng hội chẳng thể tính đếm được. Có một pháp sư tên là Vô Hạn Lượng Bảo Âm tu hành trong đời Mạt Pháp, nghèo hèn bậc nhất, học tam-muội này. Sư bị hết thảy các vị tỳ-kheo khác đều cùng xua đuổi. Khi ấy, vị pháp sư đó chẳng ôm ḷng khiếp sợ, chẳng tham thân mạng. V́ thế, lại càng siêng năng, tinh tấn, giảng nói tam-muội ấy, đi vào trong núi, ăn các loại quả, hạt. Khi ấy, các vị trời từ trên Tứ Thiên Vương Thiên cho đến chư thiên thuộc tầng trời thứ hai mươi bốn là Sắc Cứu Cánh Thiên đều đến nghe kinh. Khi ấy, vô số đại chúng đều cùng nghĩ nhớ, tâm đều luyến mộ, buồn nghĩ mong được thấy Sư, mong khôi phục thanh danh của Ngài để nghe pháp âm. Khi đó, có một vị vua tên là Sử Chúng Vô Ưu Duyệt Âm, làm Chuyển Luân Thánh Vương, đi đến chỗ Sư, được nghe tam-muội này. Đă được nghe xong, ưa thích pháp sư, vua bạch với tỳ-kheo: “Ngài hăy mặc t́nh tuyên truyền, đừng ôm ḷng sợ sệt, ta sẽ sai người theo hộ vệ Ngài”. Vua sai ba vạn người, vây quanh pháp sư. “Nay ta cho nhân giả những người này, đừng sợ bị làm khó dễ, ta sẽ hộ vệ Ngài. Lời Phật dạy ấy, rất khó được nghe”.

          Khi đó, Chuyển Luân Vương sai một ngàn đứa con của chính ḿnh, [họ đều] dũng mănh, hào kiệt khác thường, một người có thể chống lại ngàn người để hộ vệ Sư. Ba vạn người đều dùng những món ăn ngon lành để cúng dường Sư. Hết thảy các xếp đặt thảy đều thuận tiện, thường dùng tâm nhu ḥa, chẳng có ư thương tổn, để cung cấp hết thảy những thứ đáng nên có mà bị thiếu khuyết. Vị pháp sư ấy kiến lập oai thần và thế lực của chính ḿnh, trong nửa kiếp, diễn nói tam-muội này. Do cội đức ấy, thảy đều ḥa đồng. Các thái tử của vua và các quyến thuộc trong tám mươi kiếp, thấy sáu mươi ba ức na-thuật[5] chư Phật Thế Tôn, đều từ chỗ chư Phật, đắc tam-muội này, đúng theo ḷng mong, giữ lấy các cơi Phật.

          Này Hỷ Vương! Ông muốn biết vị pháp sư khi ấy có phải là người nào khác đó chăng? Đừng xem xét nữa, vị ấy nay chính là A Di Đà Phật trong hiện tại. Quốc vương tên Vô Ưu Duyệt Âm là A Súc Phật. Một ngàn người con của vua chính là một ngàn vị Phật xuất thế trong Hiền Kiếp[6] vậy).

 

* Xá Lợi Phất Đà La Ni Kinh

(舍利弗陀羅尼經)

 

          Nhĩ thời, Phật cáo Xá Lợi Phất:

          - Năi văng cổ tích vô số A-tăng-kỳ kiếp. Thị thời hữu Phật, danh Bảo Cát Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, thập hiệu cụ túc, xuất hưng ư thế, giáo hóa chúng sanh. Thử Phật diệt độ, hữu Chuyển Luân Thánh Vương, danh Tŕ Quang Minh, thất bảo cụ túc. Bỉ vương hữu tử, danh Bất Khả Tư Nghị Công Đức Cát, niên thập lục tuế. Bỉ Phật diệt hậu, văn thuyết thử đà-la-ni, tức ư thất vạn thế trung, bất thùy miên, giải đăi. Thất vạn thế trung, bất tham vương vị, bất tích thân mạng, cập dư tài vật. Thất vạn thế trung, vị tằng tẩm ngọa, nhất hướng tọa Thiền. Thường văn cửu thập vạn ức na-do-tha chư Phật sở thuyết pháp. Kư văn pháp dĩ, Phật kư xuất gia, quá cửu thập vạn thế, đắc đà-la-ni, danh Thủ Vô Biên Môn. Đắc dĩ, vị chúng sanh thuyết, ư nhất sanh trung, giáo hóa bát thập ức bách thiên vạn na-do-tha chúng sanh, linh trụ bất thoái địa, đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          Thị thời chúng trung hữu trưởng giả tử, danh Nguyệt Cái, tùng bỉ văn thuyết Thủ Vô Biên Môn đà-la-ni. Văn dĩ tùy hỷ, dĩ tùy hỷ công đức, vị cửu thập ức vạn Phật chi sở thọ kư: “Nhữ ư thọ tŕ đà-la-ni trung, tối vi đệ nhất. Nhất thiết chúng sanh, văn nhữ sở thuyết, tất giai ái nhạo. Chư hữu vấn nạn, vô năng hoại giả. Nhữ ư lai thế, quá tam A-tăng-kỳ kiếp, giáo hóa chúng sanh, giai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          Xá Lợi Phất! Ư nhữ ư vân hà? Bỉ thời Bất Khả Tư Nghị Công Đức Cát vương tử, khởi dị nhân hồ? Tức Vô Lượng Thọ Phật thị. Trưởng giả tử Nguyệt Cái, Nhiên Đăng Phật thị (CBETA, T19, no.106, p.697, b1-20).

          爾時佛告舍利弗。乃往古昔無數阿僧祇劫。是時有佛。名寶吉光如來應供正遍知。十號具足。出興於世。教化眾生。此佛滅度。有轉輪聖王。名持光明。七寶具足。彼王有子。名不可思議功德吉。年十六歲。彼佛滅后。聞說此陀羅尼。即於七萬世中。不睡眠懈怠。七萬世中。不貪王位。不惜身命。及余財物。七萬世中。未曾寢卧。一向坐禪。嘗聞九十萬億那由他諸佛所說法。既聞法已。佛記出家。過九十萬世。得陀羅尼。名取無邊門。得已。為眾生說。於一生中。教化八十億百千萬那由他眾生。令住不退地。當得阿耨多羅三藐三菩提。是時眾中有長者子。名月蓋。從彼聞說取無邊門陀羅尼。聞已隨喜。以隨喜功德。為九十億萬佛之所授記。汝於受持陀羅尼中。最為第一。一切眾生。聞汝所說。悉皆愛樂。諸有問難。無能壞者。汝於來世。過三阿僧祇劫。教化眾生。皆得阿耨多羅三藐三菩提。舍利弗。於汝意云何。彼時不可思議功德吉王子。豈異人乎。即無量壽佛是。長者子月蓋。然燈佛是。

          (Khi ấy, đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất:

          - Trong đời xa xưa vô số A-tăng-kỳ kiếp trước, lúc đó có Phật, tên là Bảo Cát Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, mười hiệu trọn đủ, xuất hiện trong cơi đời, giáo hóa chúng sanh. Đức Phật ấy diệt độ, có Chuyển Luân Thánh Vương, tên là Tŕ Quang Minh, bảy báu trọn đủ. Nhà vua có con trai tên là Bất Khả Tư Nghị Công Đức Cát tuổi độ mười sáu. Sau khi đức Phật ấy diệt độ, [vương tử] nghe nói đà-la-ni này, liền trong bảy vạn đời, chẳng ngủ nghê, chẳng lười nhác. Trong bảy vạn đời, chẳng tham ngôi vua, chẳng tiếc thân mạng và những thứ của cải khác. Trong bảy vạn đời, chưa từng nằm ngủ, một mực ngồi Thiền. Từng nghe chín mươi vạn ức na-do-tha chư Phật thuyết pháp. Đă nghe pháp rồi, được Phật thọ kư: “Ông xuất gia, sau chín mươi vạn đời, sẽ đắc đà-la-ni, tên là Thủ Vô Biên Môn. Đă đắc, sẽ v́ chúng sanh nói, trong một đời, giáo hóa tám mươi ức trăm ngàn vạn na-do-tha chúng sanh, khiến cho họ trụ nơi địa vị Bất Thoái, sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

          Khi ấy, trong đại chúng có một đứa con của vị trưởng giả tên là Nguyệt Cái, từ nơi Sư nghe nói Thủ Vô Biên Môn đà-la-ni. Nghe xong tùy hỷ, do công đức tùy hỷ, được chín mươi ức vạn Phật thọ kư: “Trong những người thọ tŕ đà-la-ni, ông đúng là bậc nhất. Hết thảy chúng sanh nghe lời ông nói, thảy đều yêu thích. Những kẻ bắt bẻ sẽ chẳng thể phá hoại ông. Ông trong mai sau, sau ba A-tăng-kỳ kiếp, giáo hóa chúng sanh, đều đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

          Này Xá Lợi Phất! Ư ông nghĩ sao? Vương tử Bất Khả Tư Nghị Công Đức Cát thuở ấy, nào phải ai khác? Chính là Vô Lượng Thọ Phật. Con ông trưởng giả là Nguyệt Cái chính là Nhiên Đăng Phật).

 

* Phật Thuyết Vô Lượng Môn Phá Ma Đà La Ni Kinh (CBETA, T19, no.1014, p.688)

(佛說無量門破魔陀羅尼經)

 

* Phật Thuyết Vô Lượng Môn Vi Mật Tŕ Kinh (CBETA, T19, no.1011, p.680)

(佛說無量門微密持經)

 

* Phật Thuyết Xuất Sanh Vô Lượng Môn Tŕ Kinh (CBETA, T19, no.1012, p.682)

(佛說出生無量門持經)

 

* A Nan Đà Mục Khư Ni Ha Ly Đà Kinh (CBETA, T19, no.1013)

(阿難陀目佉尼呵離陀經)

 

* Phật Thuyết A Nan Đà Mục Khư Ni Ha Ly Đà Lân Ni Kinh (CBETA, T19, no.1015, p.692)

(佛說阿難陀目佉尼呵離陀鄰尼經)

 

* Phật Thuyết Nhất Hướng Xuất Sanh Bồ Tát Kinh (CBETA, T19, no.1017, p.698)

(佛說一向出生菩薩經)

         

          Những kinh trên đây nói đại đồng tiểu dị với Xá Lợi Phất Đà La Ni Kinh.

 

* Quán Phật Tam Muội Hải Kinh

(觀佛三昧海經)

 

          Ngă niệm tích tằng Không Vương Phật sở xuất gia học đạo. Thời tứ tỳ-kheo cộng vi đồng học, tập học tam thế chư Phật chánh pháp, phiền năo phú tâm, bất năng kiên tŕ Phật pháp bảo tạng, đa bất thiện nghiệp, đương đọa ác đạo. Không trung thanh ngôn: “Nhữ tứ tỳ-kheo, Không Vương Như Lai tuy phục Niết Bàn, nhữ chi sở phạm vị vô cứu giả! Nhữ đẳng kim đương nhập tháp quán Phật, dữ Phật tại thế, đẳng vô hữu dị”. Ngă tùng không thanh nhập tháp, quán Phật mi gian hào tướng, tức tác thị niệm: “Như Lai tại thế, quang minh sắc thân, hà dữ thử dị? Phật đại nhân tướng, nguyện trừ ngă tội”. Tác thị ngữ dĩ, như đại sơn băng, ngũ thể đầu địa, sám hối chư tội, quán Phật mi gian, sám hối nhân duyên. Tùng thị dĩ hậu, bát thập ức A-tăng-kỳ kiếp, bất đọa ác đạo, sanh sanh thường kiến thập phương chư Phật. Ư chư Phật sở, thọ tŕ thậm thâm Niệm Phật tam-muội. Đắc tam-muội dĩ, chư Phật hiện tiền, thọ ngă kư biệt.

          Đông phương hữu quốc danh Nghiên Hỷ, bỉ độ hữu Phật, hiệu viết A Súc, tức đệ nhất tỳ-kheo thị. Nam phương danh Quán Hỷ, Phật hiệu Bảo Tướng, tức đệ nhị tỳ-kheo thị. Tây phương hữu quốc danh Cực Lạc, Phật hiệu Vô Lượng Thọ, đệ tam tỳ-kheo thị. Bắc phương hữu quốc, danh Liên Hoa Trang Nghiêm, Phật hiệu Vi Diệu Thanh, đệ tứ tỳ-kheo thị dă (CBETA, T15, no.643, p.688).

          我念昔曾空王佛所出家學道。時四比丘共為同學。習學三世諸佛正法。煩惱覆心。不能堅持佛法寶藏。多不善業。當墮惡道。空中聲言汝四比丘。空王如來雖復涅槃。汝之所犯謂無救者。汝等今當入塔觀佛。與佛在世。等無有異。我從空聲入塔。觀佛眉間毫相。即作是念。如來在世。光明色身。何與此異。佛大人相。願除我罪。作是語已。如大山崩。五體投地。懺悔諸罪。觀佛眉間。懺悔因緣。從是已后。八十億阿僧祇劫。不墮惡道。生生常見十方諸佛。於諸佛所。受持甚深念佛三昧。得三昧已。諸佛現前。授我記莂。東方有國名研喜。彼土有佛號曰阿閦。即第一比丘是。南方名觀喜。佛號寶相。即第二比丘是。西方有國名極樂。佛號無量壽。第三比丘是。北方有國。名蓮華莊嚴。佛號微妙聲。第四比丘是也。

          (Ta[7] nhớ khi xưa từng xuất gia học đạo ở chỗ Không Vương. Khi ấy, bốn tỳ-kheo làm bạn học, học tập chánh pháp của tam thế chư Phật. Do phiền năo che lấp tâm, chẳng thể giữ vững kho báu Phật pháp, tạo nhiều nghiệp bất thiện, sắp đọa ác đạo. Trên hư không vang ra tiếng bảo: “Bốn tỳ-kheo các ông! Không Vương Như Lai tuy đă nhập Niết Bàn, những ǵ các ông đă phạm [có thể] nói là không có ai cứu. Các ông nay hăy nên vào tháp quán Phật, sẽ chẳng khác ǵ Phật đang c̣n tại thế”. Ta nghe theo tiếng nói trên không, vào tháp, quán tướng bạch hào giữa hai mày của đức Phật, liền nghĩ thế này: “Như Lai tại thế, quang minh, sắc thân khác ǵ tượng này? Nguyện tướng đại nhân của đức Phật sẽ trừ tội cho con”. Nói lời ấy xong, như núi lớn sụp đổ, năm vóc gieo xuống đất, sám hối các tội, quán giữa hai mày của đức Phật, sám hối nhân duyên. Từ đấy trở đi, trong tám mươi ức A-tăng-kỳ kiếp, chẳng đọa ác đạo, đời đời thường thấy mười phương chư Phật. Ở chỗ chư Phật, thọ tŕ Niệm Phật tam-muội rất sâu. Đă đắc tam-muội, chư Phật hiện tiền, thọ kư cho ta.

          Phương Đông có cơi nước tên là Nghiên Hỷ, cơi ấy có Phật, hiệu là A Súc, tức vị tỳ-kheo thứ nhất. Phương Nam [có cơi nước] tên là Quán Hỷ, Phật hiệu Bảo Tướng, tức vị tỳ-kheo thứ hai. Phương Tây có cơi nước tên là Cực Lạc, Phật hiệu Vô Lượng Thọ là vị tỳ-kheo thứ ba. Phương Bắc có cơi nước, tên là Liên Hoa Trang Nghiêm, Phật hiệu Vi Diệu Thanh là vị tỳ-kheo thứ tư).

 

* Quán Sát Chư Pháp Hành Kinh

(觀察諸法行經)

 

          Hựu Hỷ Vương! Tiên quá khứ thế bất khả sổ kiếp, quá bất khả sổ quảng viễn vô lượng bất khả tư bất khả lượng. Ư bỉ thời tiết, hữu Phật danh Biện Tài Anh Lạc Trang Nghiêm Vân Minh Xuất Hống Hiển Âm Như Lai. Kỳ Phật sát độ, danh Vô Biên Bảo Công Đức Trang Nghiêm, thế giới danh Vô Cấu, kiếp danh Ái Kiến… Hữu vô lượng Thanh Văn, hữu thất thập nhị câu-trí Bồ Tát Ma Ha Tát, phổ giai đắc nhẫn, đáo Quán Đảnh địa.

          Hựu Hỷ Vương! Ư bỉ Bồ Tát chúng trung, hữu Bồ Tát thuyết pháp giả, danh Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hư Minh Âm. Bỉ hữu quá lượng niệm hạnh tàm biện, ư đà-la-ni trung, du bộ tận chí, đắc Ngũ Thông Trí. Bỉ bạch bỉ Phật, linh kỳ quán dĩ, vị tứ bộ chúng, quảng thuyết thử Quyết Định Quán Sát Chư Pháp Hành tam-ma-địa. Ư bỉ thời tiết, hữu vương tử, danh Phước Báo Thanh Tịnh, đa nhân sở ái, minh thanh tự tại, nhi bỉ diệu h́nh, đoan chánh khả quán, tối thắng tịnh sắc, thành măn cụ túc. Ư Vô Thượng Chánh Giác trung, cửu dĩ phát hành… Thời bỉ vương tử, ư thuyết pháp giả biên, văn thử tam-ma-địa. Văn dĩ hoan hỷ, dũng dược, ái duyệt măn ư, thiện ư cánh sanh, nghệ hướng bỉ thuyết pháp giả Bồ Tát Ma Ha Tát sở. Đáo dĩ, đảnh lễ bỉ thuyết pháp giả túc, tôn trọng thọ giáo, hiệp chưởng nhi trụ. Ư thử tam-ma-địa trung, phục quá lượng hỷ, dục văn thử tam-ma-địa. Bỉ thuyết pháp giả phục tri bỉ quá lượng tịnh tín dĩ. Bỉ thời, quảng thuyết thử tam-ma-địa.

          Hỷ Vương! Như thị bỉ vương tử ư bỉ thuyết pháp giả biên văn thử tam-ma-địa dĩ, hựu phục quá lượng hoan hỷ, dũng dược, ái duyệt măn ư, thiện ư cánh sanh, tùy sở trước y nhi dĩ phụng phú, thuyết như thị ngôn, linh chư chúng sanh đắc thử tam-ma-địa bảo. Như thử thuyết pháp giả Bồ Tát Ma Ha Tát, bỉ dĩ ư bỉ thuyết pháp giả sở thí xả thiện căn, ư hiện pháp trung thừa sự bát thập Hằng Già hà sa chư Phật Thế Tôn. Ư bỉ chư Phật Thế Tôn sở, giai tác tối thắng cúng dường. Ư bỉ chư Phật Thế Tôn giáo pháp trung xuất gia, nhiếp thọ chánh pháp. Chư sở bất văn bách thiên câu-trí Tu-đa-la nhi năng biện thuyết. Sanh niệm thường măn, thọ biến hóa sanh, đắc Ngũ Thông Trí, đắc đà-la-ni vô ngại biện tài. Bỉ thuận thứ đệ, hành chư Trợ Bồ Đề pháp, măn dĩ ư vô biên công đức trang nghiêm Phật sát trung, chứng giác A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thọ lượng vô lượng, Thanh Văn vô lượng, Bồ Tát chúng vô lượng, quang minh vô lượng, nguyện công đức trang nghiêm vô lượng.

          Hựu Hỷ Vương! Bỉ thời tiết trung, hữu danh Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hư Minh Âm thuyết pháp giả, nhữ ư mạc tác dĩ kiến, hà dĩ cố? Bỉ Thiên Nhăn Như Lai thị giả, Bất Động Như Lai vi kư Bồ Đề. Hựu bỉ vương tử, danh Phước Báo Thanh Tịnh đa nhân sở ái minh thanh tự tại giả, bỉ Vô Lượng Thọ Như Lai tức thị bỉ thời vương tử dă (CBETA, T15, no.649, p.734)      

          又喜王。先過去世不可數劫過不可數廣遠無量不可思不可量。於彼時節。有佛名辨才瓔珞莊嚴雲鳴出吼顯音如來。其佛剎土。名無邊寶功德莊嚴。世界名無垢。劫名愛見。有無量聲聞。有七十二俱致菩薩摩訶薩。普皆得忍。到灌頂地。又喜王。於彼菩薩眾中。有菩薩說法者。名無邊功德辨幢遊戲鳴音。彼有過量念行慚辨。於陀羅尼中。游步盡至。得五通智。彼白彼佛。令其觀已。為四部眾。廣說此決定觀察諸法行三摩地。於彼時節。有王子。名福報清凈。多人所愛。鳴聲自在。而彼妙形。端正可觀。最勝凈色。成滿具足。於無上正覺中。久已發行。時彼王子。於彼說法者邊。聞此三摩地。聞已歡喜踴躍。愛悅滿意。善意更生。詣向彼說法者菩薩摩訶薩所。到已頂禮彼說法者足。尊重受教。合掌而住。於此三摩地中。復過量喜欲聞此三摩地。彼說法者復知彼過量凈信已。彼時廣說此三摩地。喜王。如是彼王子於彼說法者邊聞此三摩地已。又復過量歡喜踴躍。愛悅滿意。善意更生。隨所著衣而以奉覆。說如是言。令諸眾生得此三摩地寶。如此說法者菩薩摩訶薩。彼以於彼說法者所施捨善根。於現法中承事八十恆伽河沙諸佛世尊。於彼諸佛世尊所。皆作最勝供養。於彼諸佛世尊教法中出家。攝受正法。諸所不聞百千俱致修多羅。而能辨說。生念常滿。受變化生。得五通智。得陀羅尼無礙辨才。彼順次第。行諸助菩提法。滿已於無邊功德莊嚴佛剎中。證覺阿耨多羅三藐三菩提。壽量無量。聲聞無量。菩薩眾無量。光明無量。願功德莊嚴無量。又喜王。彼時節中。有名無邊功德辨幢遊戲鳴音說法者。汝意莫作異見。何以故。彼天眼如來是也。不動如來。為記菩提。又彼王子。名福報清凈多人所愛鳴聲自在者。彼無量壽如來即是。彼時王子也。

          (Lại này Hỷ Vương! Trong đời quá khứ chẳng thể tính đếm nổi kiếp xưa kia, vượt khỏi chẳng thể tính đếm lâu xa vô lượng chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn kiếp. Vào thời điểm đó, có Phật tên là Biện Tài Anh Lạc Trang Nghiêm Vân Minh Xuất Hống Hiển Âm Như Lai. Cơi nước Phật ấy tên là Vô Biên Bảo Công Đức Trang Nghiêm, thế giới tên Vô Cấu, kiếp tên Ái Kiến… Có vô lượng Thanh Văn, có bảy mươi hai câu-trí (câu-chi) Bồ Tát Ma Ha Tát, đều cùng đắc Nhẫn, đạt đến địa vị Quán Đảnh.

          Lại này Hỷ Vương! Trong số các vị Bồ Tát, có một Bồ Tát thuyết pháp, tên là Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hư Minh Âm. Vị ấy có niệm hạnh, tàm quư, biện tài vượt khỏi số lượng, trong các môn đà-la-ni Ngài đă dạo chơi trọn hết, đắc Ngũ Thông Trí. Vị này bạch với đức Phật ấy, xin Ngài hăy quan sát mà v́ bốn bộ chúng, nói rộng về môn Quyết Định Quán Sát Chư Pháp Hành Tam Ma Địa này. Vào thời điểm ấy, có vương tử tên là Phước Báo Thanh Tịnh, được nhiều người yêu mến, ngôn từ tự tại, h́nh tướng đẹp đẽ, đoan chánh ưa nh́n, sắc tướng thanh tịnh tối thắng, thành tựu viên măn trọn đủ. Đối với Vô Thượng Chánh Giác, vị ấy đă phát tâm tu tập từ lâu… Khi đó, vương tử từ nơi vị thuyết pháp ấy mà được nghe tam-ma-địa này. Nghe xong hoan hỷ, hớn hở, vui sướng thỏa ư, thiện ư sanh khởi, đến chỗ vị Bồ Tát Ma Ha Tát thuyết pháp ấy. Đă đến nơi, đảnh lễ dưới chân vị thuyết pháp ấy, tôn trọng, tiếp nhận lời dạy, chắp tay mà đứng. Đối với môn tam-ma-địa ấy, lại vô cùng hoan hỷ muốn nghe môn tam-ma-địa đó. Vị thuyết pháp ấy lại biết vương tử tịnh tín vô cùng, ngay khi đó, Ngài bèn nói rộng về môn tam-ma-địa này.

          Hỷ Vương! Vị vương tử đó ở nơi vị thuyết pháp kia mà được nghe về môn tam địa này như thế xong, lại hết sức hoan hỷ, hớn hở, vui sướng thỏa ư, thiện ư nẩy sanh, liền cởi áo đang mặc để dâng đắp [vị thuyết pháp ấy], nói như thế này: “Khiến cho chúng sanh có được của báu tam-ma-địa này”. Giống như thiện căn thí xả đối với Bồ Tát Ma Ha Tát thuyết pháp ấy, trong pháp hiện tại, vương tử đă thừa sự tám mươi Hằng Già hà sa chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật Thế Tôn ấy, đều thực hiện sự cúng dường tối thắng. Ngài xuất gia trong giáo pháp của chư Phật Thế Tôn ấy, nhiếp thọ chánh pháp, đối với trăm ngàn câu-trí Tu-đa-la (Khế Kinh) chưa được nghe mà có thể biện định, diễn nói. Trong cuộc đời, những điều mong muốn thường được thỏa, được sanh ra bằng cách biến hóa, đắc Ngũ Thông Trí, đắc đà-la-ni vô ngại biện tài. Vương tử thuận theo thứ tự, hành các pháp Trợ Bồ Đề, viên măn vô biên công đức trang nghiêm cơi Phật, chứng giác Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thọ lượng vô lượng, Thanh Văn vô lượng, hàng Bồ Tát vô lượng, quang minh vô lượng, nguyện công đức trang nghiêm vô lượng.

          Lại này Hỷ Vương! Trong thời gian đó, vị thuyết pháp nổi danh là Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hư Minh Âm, tâm ông đừng thấy khác lạ, v́ cớ sao? Ngài chính là Thiên Nhăn Như Lai, được Bất Động Như Lai thọ kư Bồ Đề. Lại nữa, vị vương tử ấy, tên là Phước Báo Thanh Tịnh, được nhiều người yêu mến, ngôn thuyết tự tại, Vô Lượng Thọ Như Lai chính là vương tử ấy).

 

* Phật Thuyết Hộ Quốc Tôn Giả Sở Vấn Đại Thừa Kinh

(佛說護國尊者所問大乘經)

 

          Ngă ức quá khứ vô lượng vô biên bất khả nghị bất khả thuyết A-tăng-kỳ kiếp thời, hữu Phật xuất thời, hiệu viết Thành Nghĩa Ư Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nhĩ thời, hữu đại quốc vương, danh viết Phát Quang, chủ Diêm Phù Đề. Kỳ địa quảng khoát, nhất vạn lục thiên do-tuần… Vương hữu Thái Tử, danh viết Phước Quang, chư căn cụ túc, sắc tướng đoan nghiêm, thù diệu đệ nhất… Bỉ Phước Quang Thái Tử văng nghệ Đông phương, lễ cận cúng dường Thành Nghĩa Ư Phật… Thành trung hộ thành hiền thánh, nhất thiết tiểu vương, cung tần, quyến thuộc, cập chư chúng sanh, giai hiệu Thái Tử xuất gia thế phát, tu thanh tịnh hạnh. Thời Tịnh Quang thiên tử hỗ tương cáo ngôn, nhất thiết tiểu vương cập chư nhân dân đẳng, tất giai xuất gia: “Ngă đẳng văng bỉ thừa sự Thái Tử, như cúng dường Tam Bảo”. Nhĩ thời Thành Nghĩa Ư Như Lai sở thuyết lục thập tứ câu-chi pháp tạng. Phước Quang bật-sô tất giai thọ tŕ, thông đạt vô ngại. Như thị Phước Quang bật-sô dĩ tằng thân cận cửu thập tứ câu-chi bách thiên na-do-tha Phật. Ư chư Phật sở, nhất nhất cúng dường, vô không quá giả, giai như Thành Nghĩa Ư Như Lai nhi vô hữu dị. Nhĩ thời Phát Quang thiên tử giả, khởi dị nhân hồ? Kim Vô Lượng Thọ Như Lai thị. Nhĩ thời Phước Quang Thái Tử giả, khởi dị nhân hồ? Kim ngă thân thị (CBETA, T12, no.321)

          我憶過去無量無邊不可議不可說阿僧祇劫時。有佛出時。號曰成義意如來、應供、正遍知、明行足、善逝世間解、無上士、調御丈夫、天人師、佛、世尊。爾時有大國王。名曰發光。主閻浮提。其地廣闊。一萬六千由旬。王有太子。名曰福光。諸根具足。色相端嚴。殊妙第一。彼福光太子。往詣東方。禮覲供養成義意佛。城中護城賢聖。一切小王。宮嬪眷屬。及諸眾生。皆敩太子出家剃髮。修清凈行。時凈光天子互相告言。一切小王及諸人民等。悉皆出家。我等往彼承事太子。如供養三寶。爾時成義意如來所說六十四俱胝法藏。福光苾蒭悉皆受持。通達無礙。如是福光苾蒭已曾親近九十四俱胝百千那由他佛。於諸佛所。一一供養。無空過者。皆如成義意如來而無有異。爾時發光天子者。豈異人乎。今無量壽如來是。爾時福光太子者。豈異人乎。今我身是。

          (Ta nhớ vào thuở vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ, chẳng thể nói A-tăng-kỳ kiếp trong quá khứ, khi đó có Phật xuất thế, hiệu là Thành Nghĩa Ư Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Lúc đó, có đại quốc vương, tên là Phát Quang, làm chủ Diêm Phù Đề. Đại địa rộng răi, thênh thang, một vạn sáu ngàn do-tuần… Vua có Thái Tử, tên là Phước Quang, các căn trọn đủ, sắc tướng đoan nghiêm, đẹp đẽ đặc biệt bậc nhất… Thái Tử Phước Quang đi sang phương Đông, lễ bái, thân cận, cúng dường Thành Nghĩa Ư Phật… Trong thành, các vị hiền thánh bảo vệ thành tŕ, hết thảy tiểu vương, cung tần, quyến thuộc, và các chúng sanh, đều bắt chước Thái Tử xuất gia, xuống tóc, tu hạnh thanh tịnh. Khi ấy, các thiên tử thuộc cơi trời Tịnh Quang nói với nhau, hết thảy tiểu vương và các nhân dân, đều cùng xuất gia: “Chúng ta đến thừa sự Thái Tử, giống như cúng dường Tam Bảo”. Khi đó, đối với sáu mươi bốn câu-chi pháp tạng do Thành Nghĩa Ư Như Lai đă nói, tỳ-kheo Phước Quang thảy đều thọ tŕ, thông đạt vô ngại. Tỳ-kheo Phước Quang đă từng thân cận chín mươi bốn câu-chi trăm ngàn na-do-tha Phật như vậy. Ở chỗ chư Phật, đối với mỗi vị Phật đều cúng dường chẳng hề sơ sót, đều như [cúng dường] Thành Nghĩa Ư Như Lai chẳng có khác biệt. Thiên tử Phát Quang thuở ấy, há phải ai khác? Nay là Vô Lượng Thọ Như Lai, Thái Tử Phước Quang thuở đó, há phải ai khác? Nay là thân ta vậy).

 

* Phật Thuyết Xuất Sanh Vô Biên Môn Đà La Ni Kinh

(佛說出生無邊門陀羅尼經)

 

          Xá Lợi Phất! Văng cổ quá khứ vô số quá vô số quảng đại cao viễn vô lượng kiếp. Thị thời hữu Phật, danh Bảo Cát Tường Oai Quang Vương Kiếp Như Lai.

          Xá Lợi Phất! Bỉ Bảo Cát Tường Oai Quang Vương Kiếp Như Lai bát Niết Bàn thời, hữu nhân vương danh Tŕ Quang Chuyển Luân Thánh Vương, cụ túc thất bảo. Bỉ vương hữu tử, hiệu Bất Tư Nghị Công Đức Bảo Cát Tường, niên thỉ thập lục. Tùng bỉ Phật văn thử Xuất Sanh Vô Biên Môn Đà La Ni pháp yếu. Tài văn thử đà-la-ni, tinh cần nhi trụ, thất vạn tuế vị tằng thùy miên, bất tham vương vị, cập thân mạng tài. Thất vạn tuế nhất hướng yến mặc, hiếp bất trước địa, ư cửu vạn câu-chi Phật sở, thính văn chánh pháp dĩ, tất giai tổng tŕ. Tức thừa sự bỉ Bảo Cát Tường Oai Quang Vương Kiếp Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Ư bỉ Phật nhi đắc xuất gia. Khước hậu cửu vạn tuế, thành tựu thử Xuất Sanh Vô Biên Môn Đà La Ni. Kư thành tựu dĩ, quảng vị nhất thiết hữu t́nh nhi phu diễn, tức ư nhất sanh trung, bát vạn câu-chi na-dữu-đa chúng sanh kiến lập Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

          Xá Lợi Phất! Ư bỉ hội trung hữu trưởng giả tử, danh Nhật Nguyệt Tràng, tùng pháp sư tỳ-kheo, văn thử Xuất Sanh Vô Biên Môn Đà La Ni dĩ, thâm sanh tùy hỷ. Do tùy hỷ thiện căn, ư cửu vạn câu-chi Phật sở, thính chánh pháp dĩ, tất giai tổng tŕ, tắc vi đắc thắng đà-la -ni giả, tối thắng đoan nghiêm ngữ giả, tối thắng bất đoạn biện tài giả. Bỉ đẳng chúng đa Phật, ư tam kiếp trung, cung kính thừa sự. Khước hậu tam kiếp, chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

          Xá Lợi Phất! Hoặc hữu do dự sanh nghi dị huệ giả, đương bỉ dị thời, kỳ Nguyệt Tràng trưởng giả tử, bất ưng như thị kiến. Hà dĩ cố? Kỳ Nhiên Đăng Phật, bỉ thời vi Nguyệt Tràng trưởng giả tử.

          Xá Lợi Phất! Hoặc hữu do dự sanh nghi dị huệ giả, đương bỉ dị thời, kỳ Bất Tư Nghị Công Đức Bảo Cát Tường pháp sư giả, bất ưng như thị kiến. Hà dĩ cố? Kỳ Vô Lượng Thọ Như Lai, bỉ thời vi Bất Tư Nghị Công Đức Bảo Cát Tường pháp sư (CBETA, T19, no.1009, p.678, b10-c8).

          舍利弗。往古過去無數過無數廣大高遠無量劫。是時有佛。名寶吉祥威光王劫如來。舍利弗。彼寶吉祥威光王劫如來般涅槃時。有人王名持光轉輪聖王。具足七寶。彼王有子。號不思議功德寶吉祥。年始十六。從彼佛聞此出生無邊門陀羅尼法要。纔聞此陀羅尼。精勤而住。七萬歲未曾睡眠。不貪王位。及身命財。七萬歲一向宴默。脅不着地。於九萬俱胝佛所。聽聞正法已。悉皆總持。即承事彼寶吉祥威光王劫如來應供正遍知。於彼佛而得出家。却后九萬歲,成就此出生無邊門陀羅尼。既成就已。廣為一切有情而敷演。即於一生中。八萬俱胝那庾多眾生建立無上正等菩提。舍利弗。於彼會中有長者子。名日月幢。從法師比丘。聞此出生無邊門陀羅尼已。深生隨喜。由隨喜善根。於九萬俱胝佛所。聽正法已。悉皆總持。則為得勝陀羅尼者。最勝端嚴語者。最勝不斷辨才者。彼等眾多佛。於三劫中。恭敬承事。卻后三劫。證無上正等菩提。舍利弗。或有猶豫生疑異慧者。當彼異時。其月幢長者子。不應如是見。何以故。其然燈佛。彼時為月幢長者子。舍利弗。或有猶豫生疑異慧者。當彼異時。其不思議功德寶吉祥法師者。不應如是見。何以故。其無量壽如來。彼時為不思議功德寶吉祥法師。

          (Này Xá Lợi Phất! Vô số lần vô số vô lượng kiếp cao xa rộng lớn trong quá khứ xa xưa, khi ấy, có Phật tên là Bảo Cát Tường Oai Quang Vương Kiếp Như Lai.

          Này Xá Lợi Phất! Lúc đức Bảo Cát Tường Oai Quang Vương Kiếp Như Lai nhập Niết Bàn, có vị vua trong nhân gian tên là Tŕ Quang Chuyển Luân Thánh Vương, trọn đủ bảy báu. Nhà vua có con trai, hiệu là Bất Tư Nghị Công Đức Bảo Cát Tường, mới mười sáu tuổi, từ đức Phật ấy nghe pháp yếu Xuất Sanh Vô Biên Môn Đà La Ni này. Vừa mới nghe đà-la-ni này, tinh tấn, siêng năng mà trụ, trong bảy vạn năm chưa từng ngủ nghê, chẳng tham ngôi vua, và thân mạng, tài vật. Trong bảy vạn năm, một mực yên lặng, hông chẳng đặt xuống đất, ở chỗ chín vạn câu-chi đức Phật, nghe nói chánh pháp rồi thảy đều tổng tŕ, liền thừa sự đức Bảo Cát Tường Oai Quang Vương Kiếp Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, được xuất gia nơi đức Phật ấy. Chín vạn năm sau, thành tựu môn Xuất Sanh Vô Biên Môn Đà La Ni này. Đă thành tựu rồi, rộng v́ hết thảy hữu t́nh mà giảng nói, ngay trong một đời, tám vạn câu-chi na-dữu-đa chúng sanh kiến lập Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

          Này Xá Lợi Phất! Trong hội của Ngài, có một người con của trưởng giả, tên là Nhật Nguyệt Tràng, từ nơi pháp sư tỳ-kheo, nghe môn Xuất Sanh Vô Biên Môn Đà La Ni này xong, sanh ḷng tùy hỷ sâu xa. Do thiện căn tùy hỷ ấy, ở chỗ chín vạn câu-chi Phật, nghe chánh pháp xong, thảy đều tổng tŕ, bèn là bậc thù thắng nơi đà-la-ni, ngôn ngữ tối thắng đoan nghiêm, biện tài tối thắng chẳng gián đoạn. Trong ba kiếp, đối với các vị Phật nhiều như thế, Ngài cung kính thừa sự. Ba kiếp sau, Ngài bèn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

          Này Xá Lợi Phất! Nếu có kẻ do dự, sanh ḷng nghi, nẩy sanh trí huệ khác lạ đối với trưởng giả tử Nguyệt Tràng trong thời ấy, chớ nên thấy như vậy. V́ cớ sao? Nhiên Đăng Phật chính là trưởng giả tử Nguyệt Tràng trong thuở ấy.

          Này Xá Lợi Phất! Nếu có kẻ do dự, sanh ḷng nghi, nẩy sanh trí huệ khác lạ đối với pháp sư Bất Tư Nghị Công Đức Bảo Cát Tường trong thời ấy, chớ nên thấy như vậy. V́ cớ sao? Vô Lượng Thọ Như Lai chính là pháp sư Bất Tư Nghị Công Đức Bảo Cát Tường trong thuở ấy).

 

* Hậu Xuất A Di Đà Phật Kệ

(后出阿彌陀佛偈)

 

          Duy niệm pháp tỳ-kheo, năi tùng Thế Nhiêu Vương. Phát nguyện dụ chư Phật. Thệ nhị thập tứ chương. Thế thế kiến chư Phật. Cai số vô hữu lượng. Bất phế túc mạng hạnh, công đức toại cụ thành. Thế giới danh Thanh Tịnh. Đắc Phật hiệu Vô Lượng (CBETA, T12, no.373, p.364, b12-17).

          惟念法比丘。乃從世饒王。發願喻諸佛。誓二十四章。世世見諸佛。姟數無有量。不廢宿命行。功德遂具成。世界名清凈。得佛號無量。

          (Chỉ nghĩ tỳ-kheo Pháp Tạng, vốn từ chỗ Thế Nhiêu Vương Phật, phát nguyện vượt trỗi chư Phật, lời thề gồm hai mươi bốn chương, đời đời thấy chư Phật, số lượng nhiều đến vạn muôn chẳng hạn lượng[8]. Chẳng bỏ hạnh túc mạng, công đức bèn thành tựu trọn vẹn. Thế giới tên là Thanh Tịnh, thành Phật hiệu là Vô Lượng [Thọ]).

 

* Đại Trí Độ Luận quyển thập ngũ

(大智度論卷五十)

 

          Hữu Bồ Tát Phật, tương chí thập phương, thị thanh tịnh thế giới. Thủ tịnh quốc tướng, tự tác nguyện hạnh. Như Thế Tự Tại Vương Phật tương Pháp Tích tỳ-kheo chí thập phương, thị thanh tịnh thế giới (CBETA, T25, no.1509).    

          有菩薩佛。將至十方。示清凈世界。取凈國相。自作願行。如世自在王佛將法積比丘至十方。示清凈世界。

          (Có Bồ Tát, Phật, đến khắp mười phương, chỉ bày thế giới thanh tịnh, giữ lấy cơi nước thanh tịnh để làm nguyện hạnh của chính ḿnh. Như Thế Tự Tại Vương Phật đă dẫn tỳ-kheo Pháp Tích (Pháp Tạng) đến mười phương, chỉ bày thế giới thanh tịnh).

A Di Đà Phật Thánh Điển

Phần 1 hết

 

 

 

 

 

 



[1] Câu-chi (koti), c̣n phiên âm là Câu Trí, là một ngàn vạn.

[2] Kim cang hiệp chưởng là một trong mười hai cách chắp tay trong Mật Tông. Cách này c̣n được gọi theo lối phiên âm chữ Phạn là Bát Ra Noa Ma (Praṇāma) hiệp chưởng, hoặc c̣n gọi là Quy Mạng Hiệp Chưởng, tức là mười ngón tay chắp lại với nhau, nhưng các ngón tay đan xen sao cho các ngón phải nằm trên các ngón trái.

[3] “Bất không” là nói tắt của bất không thành tựu (Amōghasid'dhi), tức là không có hạnh ǵ chẳng thành tựu viên măn.

[4] Nguyên văn là “khất hung” (乞匈). Theo Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa, Khất Hung là cách dịch khác của chữ Khất Thực. “Biệt thỉnh” là nhận lời thỉnh cầu của cư sĩ đến nhà họ thọ trai, không đi khất thực trong ngày hôm ấy.

[5] Na-thuật là cách phiên âm khác của Na Do Tha (c̣n phiên âm là Na Dữu Đa). Có đến bốn cách giải thích con số Na-do-tha, theo cách hiểu phổ biến nhất, một na-do-tha là mười lũy thừa ba mươi chín, tức là sau con số 1 có 39 con số zero.

[6] Nguyên văn Bạt Đà Kiếp, tức là nói tắt của chữ Bhadrakalpa (Hiền kiếp).

[7] “Ta” ở đây không phải là Thích Ca Mâu Ni Phật. Trong quyển 9 của kinh Quán Phật Tam Muội Hải đă chép như sau: “Khi ấy, đại chúng trong hội thấy mười phương Phật và các Bồ Tát, cơi nước lớn nhỏ như từ trong gương sáng thấy các h́nh tướng. Những đóa hoa do Bồ Tát rải lên ngài Văn Thù liền biến thành cái đài báu có bốn trụ. Trên đài có bốn đức Thế Tôn, thân tỏa quang minh nghiễm nhiên ngồi trên đó. Phương Đông là A Súc, phương Nam là Bảo Tướng, phương Tây là Vô Lượng Thọ, phương Bắc là Vi Diệu Thanh. Khi ấy, bốn đức Thế Tôn dùng hoa sen vàng rải lên Thích Ca Mâu Ni Phật. Hoa chưa chạm đến thân Phật, đă hóa thành trướng hoa, có vạn ức cánh. Trong mỗi cánh có trăm ngàn hóa Phật. Hóa Phật phóng quang, trong quang minh lại có vô số hóa Phật. Hoa trướng đă kết thành, bốn đức Thế Tôn từ hư không hạ xuống, ngồi trên thiền sàng của Thích Ca Mâu Ni Phật, nói: “Lành thay! Lành thay! Thích Ca Mâu Ni Phật! Ngài có thể v́ chúng sanh trong đời trược ác tương lai mà nói quang tướng nơi bạch hào của tam thế Phật, khiến cho các chúng sanh được diệt tội lỗi. V́ cớ sao thế? Ta nhớ khi xưa từng xuất gia học đạo ở chỗ Không Vương…”

[8] Cai () c̣n viết là “” là một con số thời cổ, bằng một vạn vạn.