Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao
Quyển Thứ
Nhất
(Phần 1)
Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa chuyển ngữ
Giảo chánh: Minh Tiến,
Vạn Từ, Huệ Trang, Minh Lập
Lời Giăi Bày
Nếu là một
liên hữu Việt Nam, có lẽ không ai không biết
đến Ấn Quang đại sư qua dịch phẩm
Thiền Tịnh Quyết Nghi của ḥa thượng Trí
Tịnh và Lá Thư Tịnh Độ của cố ḥa
thượng Thiền Tâm. Khi đọc Lá Thư Tịnh
Độ, chúng tôi vẫn luôn kỳ vọng sau này có
thiện duyên sẽ được đọc toàn bộ
Ấn Quang Văn Sao. Khi được quen biết với
đạo hữu Vạn Từ, anh nhiều lần khuyên
chúng tôi khi nào có dịp hăy cố dịch toàn bộ tác
phẩm này sang tiếng Việt bởi lẽ văn từ
của Tổ càng đọc càng thấm, càng thấy có
lợi ích. Những giáo huấn của Tổ rất
gần gũi, hữu ích cho thời đại chúng ta,
nhất là những giáo huấn về Tín - Hạnh -
Nguyện, xử thế, tu tŕ... Khi được biết
chúng tôi chưa có nguyên bản Ấn Quang Văn Sao, anh
đă sốt sắng lái xe đến khắp các chùa
người Hoa trong vùng Nam California để t́m cho
được một bản, nhưng cơ duyên chưa tới,
vẫn không sao t́m được. Ngay tại một
đạo tràng lớn như Phật Quang Sơn Tây Lai
Tự vẫn không c̣n một bản Ấn Quang Văn Sao
nào. Măi đến mùa Hạ năm 2001, đạo hữu
Minh Lập từ Seatle mới t́m được cho mạt
nhân bộ Ấn Quang Văn Sao (do chùa Từ Nguyện
ấn tống, không rơ năm in, và được thí
tặng bởi chùa Địa Tạng Viên Quang Tự) và
Ấn Quang Gia Ngôn Lục (do Phật Quang Viện ở
Bản Kiều, Đài Loan, 1982 ấn hành, cũng do chùa
Địa Tạng thí tặng). Khi nghe tin đă t́m
được Ấn Quang Văn Sao, đạo hữu
Vạn Từ mừng rỡ khôn xiết, anh khẩn
khoản mạt nhân hăy ráng dịch cho được
dẫu chỉ vài phần trọng yếu của tác
phẩm này, nhưng do tánh ngại khó cũng như do nhiều
chướng duyên, mạt nhân đành thoái thác, không đáp
ứng ư nguyện của người bạn đạo
thân kính.
Măi đến giữa Hè 2003, nhân đạo
hữu Vinh Quyền yêu cầu lần nữa, mạt nhân mới
đánh bạo tạm dịch thử bản Gia Ngôn
Lục. Khi đó, sau khi đọc và sửa lỗi bản
dịch, các đạo hữu Huệ Trang và Vạn Từ đă
tha thiết yêu cầu hăy dịch toàn bộ Ấn Quang
Văn Sao, bởi lẽ nếu không đọc được
toàn bộ một lá thư, chỉ đọc một vài đoạn
trích, khó thể cảm nhận trọn vẹn ư Tổ. Nhưng
nh́n vào kích thước của bộ sách này, mạt nhân thật
e ngại sức ḿnh không thể kham nổi, đành
khất lần: “Nếu ba năm sau không ai dịch tác
phẩm này, tôi sẽ đánh liều dịch thử”.
Rồi như một nhân duyên ước hẹn, cuối
năm 2003, đạo hữu Minh Tiến lại gởi
tặng một bộ Ấn Quang Văn Tập hoàn
chỉnh (gồm Ấn Quang Văn Sao, Ấn Quang Văn Sao Tam Biên và
Ấn Quang Văn Sao Tục Biên) do Cổ Tấn Báo Ân
Niệm Phật Đường ấn hành năm 2002 và
bộ Linh Phong Tông Luận (do liên xă Đài Trung ấn hành).
Những tác phẩm này do Tịnh Tông Học Hội
Đă biết ḿnh không đủ sức
mà vẫn cố gượng làm, quả thật là dối
ḿnh, dối người, tội ương khó tránh
khỏi. Thế nhưng, ngẫm lời các đạo
hữu đă khuyên: “Cứ cố hết sức ḿnh ngơ
hầu pháp nhũ của chư Tổ phần nào
được thể hiện, như sữa đem pha
nước dẫu nhạt vẫn c̣n đôi chút vị
sữa”, mạt nhân vẫn thầm mong được Tam
Bảo gia hộ để không phạm lỗi xuyên tạc
ư Tổ, ư kinh quá đáng đến nỗi lương
phương trở thành độc dược. Chỉ e nghiệp
chướng sâu dày, kiến văn quả lậu, kiến
giải quá lệch lạc đến nỗi thâm ư, bản
hoài của Tổ bị diễn đạt sai lệch hoàn
toàn, không đem lại chút lợi ích cỏn con nào cho các
liên hữu.
Ngưỡng mong, bản dịch nháp này
sẽ khiến những bậc đại tâm đại
đức, kiến văn quảng bác xót thương,
rủ ḷng từ bi phủ chính hoặc dịch lại toàn
bộ cho chánh xác khiến cho hành nhân Tịnh Độ
Việt Nam sẽ được lănh hội đúng
đắn giáo huấn quư báu của Tổ Ấn Quang. C̣n nếu
như việc làm liều lĩnh này có chút phần công
đức nào, xin hồi hướng đến bổn
sư Thượng Tọa thượng Giải hạ
Thắng, tọa chủ Bửu Quang Tự, quận 7, Sài G̣n,
lịch đại phụ mẫu, sư trưởng, tông
thân, cùng các đạo hữu Vạn Từ, Minh Lập,
Minh Tiến, Huệ Trang, các liên hữu thuộc Tịnh
Tông Học Hội Đài Loan, cùng hết thảy pháp
giới chúng sanh đều được văng sanh Cực
Lạc. C̣n như nếu việc làm liều lĩnh này
tạo thành tội nghiệp, xin tự ḿnh gánh chịu
tội ương, không dám liên lụy ân sư những liên
hữu đă hỗ trợ, khuyến khích, chịu
thương chịu khó cùng ḿnh trong suốt thời gian qua.
Ngày 13 tháng 07, năm 2005,
Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa kính bạch
I. Thư từ
1. Thư gởi Ḥa Thượng Thể
An chùa Đại Hưng Thiện
(trong bản cảo năm Mậu Tuất, đối với Giáo – Hạnh – Lư, chỉ luận về Giáo, nay dùng Giáo Lư để phân định Giáo, dùng Hạnh Quả để ước định căn cơ, tức là: nương vào Giáo Lư để khởi Hạnh, Hạnh viên măn mới chứng được Quả)
Giáo, Lư, Hạnh, Quả là cương tông[1]
của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật,
thật là đường tắt để đắc
đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều
đủ cả bốn điều này. Nhưng trong
hiện thời, nếu bỏ Tịnh Độ th́
chứng quả hoàn toàn không có. Bởi lẽ cách thánh[2]
đă xa, căn tánh con người tệ kém, không cậy
vào Phật lực, quyết khó được giải
thoát. Như pháp môn Tịnh Độ vừa nói đó,
nhiếp khắp các căn thượng, trung, hạ, cao
vượt trội Giới, Giáo, Thiền Tông. Thật là
chư Phật tâm bi triệt để, chỉ cho chúng sanh
thể tánh vốn sẵn đủ, gộp tam thừa
ngũ tánh[3] cùng
về tịnh vực[4],
dạy thượng thánh hạ phàm cùng chứng chân
thường. Chúng sanh trong chín pháp giới ĺa khỏi pháp
này, trên th́ chẳng thể viên thành Phật đạo.
Mười phương chư Phật bỏ pháp này, dưới
th́ chẳng thể lợi ích khắp mọi quần sanh.
Do vậy, văng thánh tiền hiền ai nấy đều
hướng đến, ngàn kinh muôn luận chốn
chốn chỉ quy. Kể từ sau Hoa Nghiêm dẫn về
[pháp này], các đại Bồ Tát trong tận mười
phương thế giới hải không ai chẳng cầu
sanh. Kể từ lúc diễn thuyết tại Kỳ Viên
đến nay, phàm mọi trước thuật dù Tây Thiên
hay Đông Độ, cuối cùng đều kết quy Liên
Bang.
Kể
từ khi đại giáo truyền sang Đông, Lô Sơn
khởi đầu dựng liên xă, một tiếng
xướng, trăm giọng ḥa, không ai chẳng thuận
theo; nhưng những người có công lớn lao rơ ràng
nhất th́ đời Bắc Ngụy có ngài Đàm Loan.
Đàm Loan là bậc không thể suy lường. Do có
việc xuống Nam Triều gặp Lương Vơ
Đế, sau lại trở về đất Bắc. Vơ
Đế hướng về phương Bắc, cúi
lạy nói: “Loan pháp sư là
nhục thân Bồ Tát”. Đời Trần - Tùy th́ có Trí
Giả, đời Đường có Đạo
Xước, noi theo lời dạy của ngài Đàm Loan
chuyên tu Tịnh nghiệp, suốt đời giảng ba
kinh Tịnh Độ hai trăm mấy mươi lần.
Từ cửa Đạo Xước, nẩy ra ngài
Thiện Đạo, cho đến Thừa Viễn, Pháp
Chiếu, Thiếu Khang, Đại Hạnh[5]
th́ liên phong[6] đă
thổi khắp trung ngoại[7].
Do vậy, tri thức các tông không ai chẳng lấy
đạo này để mật tu hiển hóa[8] ngơ
hầu tự lợi, lợi tha vậy. Ngay như
Thiền Tông, nếu chỉ đề khởi hướng
thượng th́ một pháp chẳng lập, Phật c̣n
không kể đến, huống ǵ niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ? Ấy là Chân Đế: Một
đă không, hết thảy đều không. Như câu nói: “Thật Tế Lư địa
chẳng nhiễm mảy trần”, hiển thị tánh
thể. Nếu bàn luận đích xác về mặt tu tŕ th́
chẳng bỏ một pháp nào, chẳng làm việc bèn không
ăn, huống chi niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ! Đấy tức là nơi Tục Đế,
một đă lập th́ hết thảy đều lập.
Như câu nói: “Trong cửa
Phật sự, chẳng bỏ một pháp”, hiển
thị tánh vốn đầy đủ.
Muốn
vứt bỏ Tục Đế để bàn Chân
Đế, sẽ không có Chân Đế. Nếu muốn
bỏ Tứ Đại, Ngũ Uẩn để t́m tâm tánh
th́ thân đă không c̣n, tâm gởi vào đâu? Nếu dùng
Tục Đế để sáng tỏ Chân Đế th́
thật có Chân Đế. Như tại mắt gọi là
thấy, nơi tai gọi là nghe, dùng Tứ Đại, Ngũ
Uẩn để hiển lộ tâm tánh vậy. Đấy
chính là ư chỉ lớn lao “ngầm tu Tịnh Độ”
của chư Tổ từ trước, nhưng chưa
truyền thuật rộng răi, rơ ràng; nếu không hiểu
sâu xa ư Tổ sẽ chẳng thể biết
được. Thế nhưng ngài Bách Trượng
lập quy chế cầu đảo cho vị tăng
mắc bệnh và hóa tống[9]
vị Tăng đă tịch, đều quy về Tịnh
Độ. Lại nói: “Tu hành
th́ niệm Phật là ổn thỏa, thích đáng”. Cho
đến ngài Chân Hiết Liễu bảo: “Một pháp Tịnh Độ nhắm thẳng vào
chuyện tiếp dẫn hàng căn khí thượng
thượng, kiêm độ hàng căn tánh trung hạ”.
Lại nói: “Trong tông Tào
Động đều chăm chú ngầm tu, bởi sanh
về Tịnh Độ thấy Phật giản dị
hơn Tông môn nhiều lắm”. Lại nói: “Dù Phật, dù Tổ, dẫu Giáo,
hay Thiền đều tu Tịnh Độ, cùng về
một nguồn”. Có thể thấy sơ lược
như thế đó.
Kịp
đến Vĩnh Minh đại sư, mang thân Cổ
Phật, thừa nguyện xuất thế, mới lưu
lại ngôn giáo rơ ràng, viết sách truyền dạy, hoằng
dương, lại sợ người không hiểu rơ
đường lối, lợi - hại hỗn loạn,
bèn cực lực nói ra bài kệ Tứ Liệu Giản, có
thể nói đă nêu được cương tông của
Đại Tạng, làm bậc dẫn đường nơi
ngơ rẽ, khiến cho kẻ học từ tám mươi
chữ ấy đốn ngộ đạo trọng
yếu xuất sanh tử, chứng Niết Bàn. Tâm đau
đáu cứu thế, thiên cổ chưa hề có. Sau
đấy, các tông sư đều lưu lại ngôn giáo rơ
ràng, riêng khen ngợi pháp này, như ngài Trường Lô Trách,
như Thiên Y Hoài, Viên Chiếu Bổn, Đại Thông
Bổn, Trung Phong Bổn, Thiên Như Tắc, Sở
Thạch Kỳ, Không Cốc Long[10]
v.v…Chư đại tổ sư tuy hoằng Thiền Tông, lại
riêng khen Tịnh Độ. Đến Liên Tŕ đại
sư đến tham học với ngài Tiếu Nham
đại ngộ rồi, bèn bỏ pháp kia, giữ lấy
pháp này: “Nếu tịnh
nghiệp mà thành th́ Thiền Tông tự đắc. Ví như
tắm trong biển cả, ắt đă dùng nước
của cả trăm sông. Thân đă ở trong điện
Hàm Nguyên, c̣n hỏi Trường An chi nữa!” Sau
đấy, Ngẫu Ích, Triệt Lưu, Tỉnh Am, Mộng
Đông v.v… chư đại tổ sư không vị nào
chẳng vậy. Ấy là bởi do thời thế mà
đặt ra nghi tắc, pháp phải hợp với căn
cơ. Nếu không như thế, chúng sanh chẳng thể
đắc độ.
Từ
đấy về sau, Phật pháp suy dần, lại thêm
giặc tóc dài[11],
giặc Hồi, pháp luân gần như ngừng xoay. Dẫu
có trí thức, nhưng ai lo nghiệp nấy, không rảnh
sức lo đến, bỏ qua đạo này không ai hỏi
đến. Nếu ai bàn đến chuyện này,
người nghe tợ hồ bị vấy bẩn. May có
một hai vị tại gia, xuất gia có đại tâm, in
khắc lưu truyền, khiến cho giáo huấn của
chư Tổ không bị diệt mất, khiến
đời sau được nghe một phần, thật
không ǵ may mắn lớn lao hơn!
Đệ[12]
là kẻ Xiển-đề[13]
xuất gia, tự thẹn căn tánh hèn kém, tội
nghiệp rộng sâu, nên với hai nẻo Tông và Giáo,
trọn chẳng dám tu bừa, lạm dự; nhưng chỉ
khá tin tưởng nơi một pháp cậy vào Phật
từ lực, đới nghiệp văng sanh. Đă
mười năm qua, sống uổng, sống phí,
chẳng được lợi ích mảy may. Nhưng
từ Tây qua Đông, từ Bắc xuống
Lại
xin Ḥa Thượng phát tâm Bồ Đề hoằng
dương pháp này; ví phỏng kinh luận Tịnh
Độ đều thông triệt hết, may mắn nào
hơn? Nếu chưa thể nghiên cứu dùi mài cùng
tận, hoặc sợ trái với tông ḿnh, chẳng dám
xứng tánh phát huy, hăy tạm ngừng tay công phu nơi hai
môn Tông và Giáo tạm thời. Phàm có ai xiển dương
Tịnh Độ, hăy b́nh tâm ḥa khí đọc thử, ngơ
hầu cái tâm “xiển dương Thiền, đè nén
Tịnh Độ” chẳng bị tơ hào vướng
mắc, ắt thấu suốt lư do Phật, Tổ riêng khen
ngợi pháp này, [thấu suốt] sự lợi - hại khi
tứ chúng tuân thủ hay chống trái pháp này, chẳng
bị môn đ́nh gây trở ngại, ḥng có thể dám
đối trước những người tu Thiền,
Giáo, Luật xứng tánh phát huy không c̣n sợ hăi.
Nhưng
sách Tịnh Độ rất nhiều, quan trọng
nhất chỉ có sách Tịnh Độ Thập Yếu.
Trong bộ Thập Yếu, đoạn nghi sanh tín th́ các sách
Hoặc Vấn, Trực Chỉ, Hợp Luận là những
công thần đột phá, tinh nhuệ nhất. Ngoài ra,
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục chép đủ sự
tích văng sanh của các Bồ Tát, tổ sư, cư sĩ,
phụ nữ và ác nhân, súc sanh, đọc rồi sẽ
biết tứ chúng thuộc Thiền, Giáo, Luật các
đời cầu sanh Tịnh Độ như mọi ngôi
sao chầu về Bắc Đẩu, như các ḍng
nước chảy về Đông. Sách Long Thư Tịnh
Độ Văn ngôn từ nông cạn, nhưng nghĩa lư
hoàn bị, là sách trọng yếu bậc nhất để
tiếp dẫn kẻ sơ cơ. Nếu muốn lợi
lạc khắp chúng sanh, vạn phần chẳng được
coi thường quyển sách này.
Đệ trước kia gặp người giỏi
Tử B́nh[14] phê
rằng: “Thọ chẳng quá ba mươi tám tuổi”, nay
sắp măn số, sợ vô thường xộc tới, nên
chuyên tŕ Phật hiệu, đợi trước lúc lâm
chung. Nếu vô thường quả thật xảy đến,
không dịp gặp gỡ lần nữa, muốn rửa
sạch cái tội hủy báng Phật pháp khi c̣n tại gia,
nên chẳng nề kỵ húy, nhặt nhạnh sơ sài món
rau dại, dâng dưới ṭa bậc đại phú
trưởng giả no đẫy tiệc vua[15], xin
thương xót nhận lấy, phước cho xứ
Tần[16]
của tôi, nêu chánh lệnh của ngài Vĩnh Minh, tuân di quy
của ngài Liên Tŕ, khiến cho ḿnh lẫn người cùng
thoát sanh tử, u - hiển cùng sanh Tây Phương, Tịnh
Độ hưng, nhưng Tông phong chẳng đọa.
Chúng sanh có phước, quốc vận thường
tốt đẹp. Đúng là “dời
hoa quyến bướm tới, mua đá được mây
giăng”. Viết thư này ḷng thành như đại
hạn mong mưa, mong mỏi niềm vui cùng về Liên Bang,
mong rủ ḷng khoan dung th́ may mắn cho pháp môn, may mắn cho
chúng sanh lắm.
2. Thư bàn luận cùng bạn hữu
về cương yếu của việc giảo chánh kinh
điển
Kinh Phật nghĩa lư vô cùng, tùy theo kiến
giải của mỗi người mà tự trước
thuật, chứ chỉ là một kinh mà thôi. Phán
định là Biệt, Viên, Chung, Đốn khác nhau là do tâm
duyên quán nên giải thích sai khác. Huống chi sau này bậc
đại hạnh đạo Thiền, ai nấy
đều thích nghe thuyết Trực Chỉ, cho là thân
thiết, thống khoái, dễ được lợi ích. Do
vậy, đa số dùng ư Tổ để giải thích ư
kinh, ép lời Phật theo lời ḿnh, phế sạch
sự tướng, chuyên bàn bổn phận. Hoặc dùng
lời cơ phong[17] để
phân tích, hoặc giải thích là biểu thị pháp, chỉ
có thể chẳng trái nghịch Tâm tông[18]
th́ đều [xem là] đáng hỗ trợ lời Phật
nói. Dẫu chẳng thể độ khắp ba căn,
xứng Phật bổn hoài, cũng có thể lợi ích
một loại căn cơ khiến họ theo
đường trở về nhà, lại hiển lộ ư
nghĩa sâu thẳm, cao xa của kinh. Phật lư viên thông,
pháp pháp quy chân, mỗi mỗi hợp đạo. Bởi cái
tâm ấy như thái hư không, không ngằn mé, chẳng v́
con người sống mỗi nơi khác nhau mà chia thành
Như
Hoa Nghiêm Luận của Lư Trưởng Giả, như Pháp
Hoa Kích Tiết của ngài Hám Sơn, như Tam Tông Thông
của ông Tăng Phụng Nghi[19]
và Thiền Tông lấy niệm Phật làm câu thoại
đầu để khán, và thuyết coi y báo, chánh báo
của Tịnh Độ như bổn phận v.v…
chẳng được nhất loạt đánh giá những
sách ấy theo cách thức thông thường bên Giáo, cho
những sách đó là lầm lạc rồi bèn sửa
đổi đôi chút. Bởi lẽ những thuyết
ấy thuộc riêng về một tông, gộp hết
thảy pháp để chỉ quy hướng thượng.
Nếu sửa đổi th́ mạch văn của phần
trước phần sau bản chú giải sẽ bị
đứt đoạn, và ư nghĩa giáo lư phần
trước, phần sau chẳng c̣n phù hợp nữa. Vừa
bị sửa đổi đôi chút th́ cả hai đàng
đều mất. Khoét thịt thành vết thương,
chỉ tổn hại vô ích. Cứ để cho bản lai
diện mục của nó được lưu thông hậu
thế. Ví như lan mùa Xuân, cúc mùa Thu, mỗi loại riêng phô
sắc, tận trung hành hiếu, cùng chấn hưng
cương thường. Sư ở tại Hải Sơn,
bảo lời chú giải kinh Pháp Hoa của ngài Hám Sơn có
những chỗ chẳng hợp với ư chỉ kinh; đó
là v́ Hám Sơn đa phần ước theo bổn phận
để bàn lẽ Trực Chỉ.
Hơn nữa, chuyện giảo chánh kinh
thật không dễ dàng. Chỉ sợ Sư không rảnh rỗi
để làm, ủy cho người khác làm. [Người
làm chuyện này] cần phải có kiến thức lỗi
lạc, mười phần tinh tế, lại phải
đôi ba lượt tra xét kỹ càng, thêm siêng tra cứu,
mới ḥng sửa đúng những sai ngoa, khiến cho
những lỗi tệ được sạch hết, thiên
chân hiển lộ triệt để. Nếu không, thà cứ
theo đúng dạng mà vẽ hồ lô, mới khỏi
đến nỗi làm mất đi sự chân xác vốn có
vậy.
3. Thư gởi Dung Minh
đại sư
Cổ nhân nói: “Thân người khó
được, khó sanh vào chính giữa đất
nước, Phật pháp khó nghe, sanh tử khó giải
quyết xong”. Chúng ta may được thân người,
sanh chính giữa đất nước, được nghe
Phật pháp. Điều bất hạnh là tự thẹn
nghiệp chướng sâu nặng, không sức đoạn
Hoặc để mau thoát tam giới, liễu sanh thoát
tử. Nhưng lại may mắn được nghe
đức Như Lai ta tâm bi triệt để nói ra pháp môn
Tịnh Độ đại quyền phương tiện
khéo lạ khiến cho hàng phàm phu sát đất
được đới nghiệp văng sanh. Thật không
c̣n may mắn nào lớn hơn được nữa!
Nếu không phải là từ vô lượng kiếp
đến nay đă trồng thiện căn sâu dầy, há
nghe được pháp chẳng thể nghĩ bàn này ư?
Chẳng gấp sanh ḷng tin chân thật, phát nguyện
cầu sanh ư?
Nay thấy tứ chúng xuất gia,
tại gia hảo tâm, đa phần chuộng cao ưa xa,
chẳng chịu nghiêm túc chuyên tu Tịnh nghiệp. Toàn là do
thiện căn đời trước cạn mỏng,
đời này chưa gặp người thông suốt, tuy
ông hơi có niềm tin đối với Tịnh Độ,
nhưng chẳng hiểu rơ lư Tịnh Độ đến
nơi đến chốn. Lại ở nơi vắng
vẻ Phật pháp không lưu truyền đến, tôi thật
ngại ông thường ngày cùng người đời thù
tạc, lâu ngày chầy tháng, cũng bị đồng hóa, “gần mực th́ đen, gần
lửa th́ cháy”, thế khó tránh khỏi! Phải luôn luôn
nỗ lực, nếu có thể hăy niệm niệm nơi
đạo, dù bận hay rảnh, chẳng ĺa danh hiệu Di
Đà. Thuận cảnh, nghịch cảnh, chẳng quên văng
sanh Tây Phương th́ có thể tùy duyên thường
trụ nơi quê cha đất mẹ. Nếu không thể
như thế, nên đến Tịnh nghiệp đạo
tràng nơi khác và thân cận Tịnh nghiệp tri thức,
mới chẳng phụ bạc mọi điều may
mắn lớn lao vừa nói ở trên cũng như
niềm may mắn không ǵ lớn lao hơn là
được nghe pháp môn Tịnh Độ.
Đế pháp sư (tức ngài Đế
Nhàn) chuyên tu Tịnh nghiệp, tôi cho rằng ông ta ắt
được lợi ích lớn lao. Bởi lẽ những
tâm nắm giữ đạo tràng đă đều chết
sạch không sót, cái tâm niệm Phật lại càng khẩn
thiết đến cùng cực. Chỉ e ông ta đă
đạt tam-muội sâu xa, tôi c̣n chưa thể nhất
tâm, ngày sau mặt mũi nào gặp gỡ ông ta. V́ thế,
với việc nhân chẳng nhường, tôi lại toan
bế quan. Nói chung vẫn ở Phổ Đà, không biết
sẽ ở chắc chắn nơi đâu. Sợ ông bỏ
lỡ pháp môn Tịnh Độ th́ đáng tiếc một
phen hộ quan[20] ba năm nhọc
nhằn, nên khôn ngăn đôi co như thế. Mong thấu
hiểu sâu xa nỗi ḷng thô lậu canh cánh th́ may mắn
lắm thay.
4. Thư gởi sư
Ngộ Khai
Trộm nghe pháp môn
Tịnh Độ là pháp phơi bày thông suốt rốt ráo
bản hoài của chư Phật, vượt trỗi
hết thảy Thiền, Giáo, Luật, thống nhiếp
hết thảy Thiền, Giáo, Luật. Nói đại
lược th́ một chữ, một câu, một sách có
thể bao quát không c̣n sót. Nói rộng th́ dù những lời
huyền diệu thuộc Tam Tạng mười hai bộ
kinh, diệu nghĩa của các tổ sư năm tông[21]
cũng không thể diễn tả trọn. Dẫu cho chúng
sanh trọn khắp đại địa cùng thành Chánh Giác,
hiện lưỡi rộng dài, dùng sức thần thông,
sức trí huệ, vi trần nói, cơi nước nói, sôi
nổi nói, nói không gián đoạn, há có thể nói hết được
ư? Ấy là v́ Tịnh Độ vốn chẳng thể
nghĩ bàn. Thử xem bộ kinh lớn Hoa Nghiêm, vua toàn Tam
Tạng, cuối cùng quy trọng nguyện vương. Áo
điển Pháp Hoa mầu nhiệm đứng đầu
các kinh, nghe đến liền được văng sanh,
địa vị bằng bậc Đẳng Giác.
C̣n như ngàn kinh vạn luận,
đâu đâu cũng chỉ quy là có lư do vậy. Văn Thù
phát nguyện, Phổ Hiền khuyến tấn; Như Lai
thọ kư trong kinh Đại Tập rằng: “Trong đời Mạt Pháp,
nếu không nhờ pháp này không thể đắc
độ”. Trong luận Tỳ Bà Sa, ngài Long Thọ
dạy giản dị là “đạo dễ hành, mau thoát
sanh tử”, nên văng thánh tiền hiền ai nấy
đều hướng về, há vô ích sao? Đúng là giáo pháp
cả một đời [đức Phật] đều
đặt để nơi pháp môn Niệm Phật. Không chỉ
như thế, phàm hết thảy cảnh giới
được tiếp xúc bởi sáu căn như núi, sông,
đại địa, sáng, tối, sắc, không, thấy,
nghe, hay, biết, sắc, thanh, hương v.v… có pháp nào không
phải là văn tự xiển dương Tịnh
Độ? Lạnh - nóng đắp đổi, già - bệnh
đưa đẩy, lụt, hạn, binh đao, dịch
bệnh, bè lũ ma, tà kiến, có thứ ǵ chẳng
phải là lời cảnh sách lay tỉnh con người
sớm cầu văng sanh? Nói rộng ra há có thể hết
được hay chăng?
Nói một chữ thống nhiếp
trọn hết th́ chính là chữ Tịnh. Tịnh
đến cùng cực ắt sáng suốt, sao không
đạt đến Diệu Giác. Một chữ này há
dễ đảm đương? Nghiên cứu bài tụng
về Lục Tức Phật[22] ắt sẽ
biết!
Một câu là Tín - Nguyện - Hạnh.
Không có Tín sẽ chẳng thể khởi Nguyện, không có
Nguyện sẽ chẳng thể dẫn dắt Hạnh.
Không có diệu hạnh tŕ danh sẽ không thể thỏa măn
sở nguyện ḥng chứng được Tín ấy. Hết
thảy kinh luận Tịnh Độ đều phát minh ư
chỉ này.
Một kệ là kệ tán Phật[23], nêu chánh báo
để nhiếp y báo; nêu lên hóa chủ để bao
gồm đồ chúng. Tuy chỉ có tám câu nhưng đă nêu
trọn đại cương của ba kinh Tịnh
Độ.
Một sách là Tịnh Độ
Thập Yếu, mỗi chữ đều là lời
hướng dẫn trong đời Mạt Pháp, mỗi
lời đều là gương báu của Liên Tông. Buồn
khóc ứa lệ, mổ tim vẩy máu, xứng tánh phát huy,
tùy căn cơ mà chỉ bày. Dẫu có ví là vớt
người chết đuối, cứu kẻ đang
bị lửa thiêu cũng không thể sánh ví được
nỗi ḷng thống thiết của bộ sách ấy.
Bỏ cuốn sách này đi th́ chánh tín không thể do đâu
mà sanh, tà kiến không do đâu mà diệt! Trong cuốn sách
ấy, quan trọng nhất là sách Yếu Giải. Sách này
chính là hướng dẫn tốt lành trên đường
hiểm để người sơ tâm nhập môn đoạn
nghi sanh tín, chỉ bày nẻo ắt phải theo để
về được bảo sở[24]. Sách Tịnh
Độ Hoặc Vấn của ngài Thiên Như, sách
Trực Chỉ của ngài Diệu Hiệp, thật là
những bậc công thần đột phá kiên nhuệ
nhất.
Hăy nên biết pháp môn Tịnh
Độ có đủ bốn pháp giới, tất cả
sự tướng đều là pháp giới sự sự
vô ngại, đọc rồi tu, chẳng thể chấp Lư
phế Sự. Nếu chấp th́ cả Lư lẫn Sự
cùng mất. Giống như người biết Ư căn
tối thắng nhưng phế bỏ năm căn th́ Ư
căn cũng không có chỗ nào để lập
được. Chỉ có dùng Sự để rơ Lư, dùng Lư
để dung Sự mới ḥng không lầm lỗi. Như
nói đến yếu chỉ Tịnh Độ th́ toàn
Sự chính là Lư, Lư - Sự viên dung, liền khế hợp
bản thể. Sớm biết Sư đă no đẫy
cỗ vua, vẫn miệt mài hiến món rau cần,
chẳng qua là để biểu thị tấc dạ
đứa con cùng quẫn[25] mong trở về
nhà, đồng thời muốn tẩy sạch tội khiên
báng pháp trước kia[26].
5. Thư trả lời
sư Hải Thự
Bạn bè gởi cho tôi bài văn
gợi ư đăng trên tờ Thời Sự Tân Báo, Quang tôi
mong tọa hạ phát huy đạo Phật, Tổ nhiệm
mầu để kết pháp duyên. Tọa hạ nêu lên
bảy đề tài:
1) Chấp tâm ở bên trong:
2) Trực chỉ
kiến tánh là tâm, không phải là nhăn.
3) Sắc Ấm vốn
là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.
4) Nhăn Nhập vốn là
Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.
5) Mười hai xứ
vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.
6) Địa đại
châu biến (trọn khắp)
7) Nhất tâm nhị môn.
sai Quang tôi soạn luận, bảo là
để làm khuôn mẫu. Quang tôi tuổi nhỏ kém học
vấn, lớn lên vô tri, lại thêm túc nghiệp sâu
nặng. Vừa sanh ra đă mắc bệnh mắt, gần
hơn mười năm qua, hết thảy kinh luận
đều chẳng thể đọc, chỉ chấp tŕ
Phật hiệu, sám trừ túc nghiệp; mong cậy vào
Phật từ lực, mau sanh về Tây Phương mà thôi.
Làm sao có thể soạn luận, huống ǵ làm khuôn mẫu
cho được? Khiêm cung tự chăn giữ ḿnh
quả thật c̣n tốt hơn, chứ ư kiến sai
lầm, sao có thể tŕnh bày tường tận cho
được? Phàm muốn phát huy những chỗ sâu
thẳm của kinh Lăng Nghiêm, của Luận Khởi
Tín, sao không lấy ư Thích Ca Như Lai và Mă Minh Bồ Tát, cùng
những chú giải kinh này, luận này của lịch
đại cổ đức? Trái lại, c̣n toan lấy ư
Quang tôi làm khuôn phép. Khác nào nhà Nho muốn phát huy học
vấn truyền thừa[27] của nhị
đế tam vương, Khổng, Mạnh, nhưng không
lấy Tứ Thư Ngũ Kinh, Thập Tam Kinh làm khuôn
mẫu, lại lấy câu ca tiếng hát của tiều phu,
mục đồng làm khuôn mẫu; người dệt
vải muốn dệt gấm cổ hồi văn
chẳng lấy cách thức của người dệt
gấm làm mẫu mực, lại lấy cách thức
của người bện chiếu cói làm khuôn mẫu. Sao
lại điên đảo đến nỗi như thế!
Tuy vậy, con người giao
tiếp với nhau, chỉ quư ở chỗ ai nấy
tận hết sức mà thôi. Xưa có đứa bé trai ôm
cát cúng Phật, Phật liền tán thán thâu nhận, bởi
lẽ cát là thứ mà sức đứa trẻ có thể lo
liệu được. Ḷng thành cúng cát và sự cúng
dường trân tu diệu vị bằng nhau chẳng khác.
Nay Quang tôi đem cát là thứ ḿnh dễ sắm sửa
được dâng lên tọa hạ. Dẫu biết là vô
dụng, giăi bày ḷng thành, cũng có thể dùng để trải
đất, mong diệt được tội cấu
của ḿnh, tăng trưởng ruộng phước cho
tôi. Do vậy, bèn đem bảy đề tài gộp cả
lại, để bàn luận hàm hồ cho xong trách
nhiệm, luận rằng:
Chấp tâm ở bên
trong, bên ngoài, hay trung gian v.v… chính là t́nh kiến của phàm
phu. Chấp tâm nhất định chẳng ở bên trong,
bên ngoài, hay trung gian cũng là t́nh kiến của phàm phu.
“Trực Chỉ Kiến Tánh là Tâm chứ không phải là
Nhăn” không đúng, dùng ngọn để tỏ bày cái
gốc, chỉ ra sóng chính là nước, đó là chân trí. V́
sao? Do Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ,
Thập Bát Giới, Thất Đại[28], mỗi mỗi
đều là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh
trọn khắp pháp giới. Nếu có chỗ nào tồn
tại và chỗ nào đó không tồn tại th́ chẳng
phải là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh v́ không trọn
khắp. Bởi lẽ Như Lai Tạng Diệu Chân Như
Tánh chứa đựng, nuôi dưỡng chúng sanh, bao quát có,
không, thế gian, xuất thế gian, không một pháp nào có
thể vượt ra ngoài, không ở trong đó
được! Dùng phàm t́nh để nh́n th́ chẳng
những Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị
Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại đều
thuộc về sanh diệt, đều chẳng phải là
Chân Như, mà ngay cả đoạn Hoặc chứng Chân,
thành Đẳng Chánh Giác cũng chẳng vượt ra ngoài
sanh diệt được!
Nh́n bằng Thánh Trí th́ chẳng
những đoạn Hoặc chứng Chân, thành Đẳng
Chánh Giác cố nhiên thuộc về Chân Như, mà ngay cả
Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ,
Thập Bát Giới, Thất Đại toàn thể là Chân
Như. Vốn từ trước đến nay, chưa
hề có được mảy may tướng sanh diệt
nào. Luận cao hơn nữa th́ Chân cũng chẳng lập
v́ Như vốn vô danh. Nhất tâm c̣n chẳng có, huống
ǵ có hai môn để luận nữa ư! Đấy là Chân
Như rốt ráo, Như Lai Tạng Diệu Tánh Chân Như
rốt ráo. Tâm rốt ráo chính là cái được gọi là
“Ngũ Uẩn đều không,
độ các khổ ách; viên măn Bồ Đề trở
về cái không thể đạt được”
vậy! Một phen bàn luận như trên chính là hai
mươi năm trước Quang tôi ngẫu nhiên mộng
tưởng viết ra, nay vâng theo nhă ư, hiến lên tọa
hạ. C̣n như nói phải luận từng phần,
tỏ tường văn nghĩa, ngữ mạch, chỉ
thú th́ không phải là chuyện Quang tôi [vốn là kẻ] tâm
mục suy đồi, học vấn hoang đường
có thể lo liệu được nổi. Thỉnh
cầu chư cổ đức và các vị giảng sư
hiện thời th́ họ sẽ có thể tŕnh bày thông
suốt bản hoài của tọa hạ, hợp với chí
vốn có của tọa hạ vậy.
6. Thư gởi sư
Căn Kỳ chùa Tứ Minh Quán Tông
Nhận được
thư và sách Hiển Cảm Lợi Minh Lục[29],
khôn ngăn hoan hỷ, biết Đế Công giảng kinh
lần này, so với lần trước càng cảm
thấy rạng rỡ hơn nữa. Nhân đó bèn
đọc một lượt xong, liền đưa cho
người khác. Có nhiều chỗ thấy nghe, thật quá
quái lạ; riêng cho rằng: “Đế Công đă chứng
thánh quả, Quan Đế c̣n chưa minh tâm”. Quang tôi nghe
vậy, bảo: Chuyện này phải nh́n từ chỗ
dụng tâm của họ Bạch và họ Quan mà xét th́
cả Sự lẫn Lư đều thỏa đáng, trọn
không mắc lỗi lạm thánh khuất hiền.
Bạch Công hăy để đó không
bàn tới. C̣n Quan Đế lúc c̣n sống là bậc đại
trượng phu phú quư không dâm, khi nghèo hèn không thay
đổi, oai vũ không khuất phục được.
Mất đi, quy y với ngài Trí Giả, nguyện v́ Già Lam
hộ tŕ Phật pháp. Từ ngài Trí Giả đến nay đă
hơn một ngàn ba trăm năm, Quan Đế làm chủ
nhân của mọi tùng lâm trong thiên hạ. Có nhiều
bậc Pháp Thân đại sĩ nương nguyện
hoằng pháp, Quan Đế đều thân cận hộ tŕ
từng vị; có lẽ đến nay vẫn c̣n chưa
hết, vậy mà vẫn phải cầu Đế Công khai
thị dứt khoát. Chẳng lẽ người thông minh
như Đế Quân[30] mà lại ngu
độn chẳng được lợi ích nơi pháp
như thế ư?
Rất có thể là nay nhằm
thời Mạt Pháp, Tăng đa phần thuộc loại
tệ hại, chỉ biết chuyện lănh thọ
đại giới bèn gọi là Tăng. Chứ c̣n danh
nghĩa, sự nghiệp của Tăng đa số trọn
chẳng biết ǵ. Người tại gia có tín tâm, nếu
có thể nghiên cứu Phật pháp, cuối cùng đều
coi rẻ tăng lữ. C̣n những kẻ không tin, thấy
các ông Tăng du hành trong nhân gian, tạo đủ mọi
nghiệp, bèn nói: “Tăng đều như thế, Phật
pháp vô ích cho nước, có hại cho đời”. Do có
những thứ tri kiến ngă mạn, tà kiến, hèn kém
như thế, Quan Đế tâm hộ pháp thiết tha,
thấy kinh sư (kinh đô) là chỗ đất trọng
yếu trong thiên hạ, cao nhân danh sĩ đều tụ
về đó, bèn hiện thân thuyết pháp, thỉnh
Đế Công khai thị ḥng trấn áp phàm t́nh ngă mạn,
tà kiến của hàng tại gia, chấn động ư
niệm xấu xa không hổ, không thẹn của những
ông Tăng hèn kém.
Cổ nhân nói Như Lai chẳng
bỏ phước nhỏ nhặt như mũi kim đâm,
nói: “Như ông già tám mươi múa may để dạy con
cháu’’. Quang tôi đối với Quan Đế cũng
nghĩ thế. Tuy là suy bậy đoán ṃ, nếu chất vấn
Quan Đế và Đế Công, các ngài đều gật
đầu mỉm cười, chẳng hé môi: “Không, không
phải như thế!” Luận như trên là ước theo
Tích mà luận. C̣n bàn về Bổn của Quan Đế và
Đế Công th́ chỉ có Quan Đế và Đế Công
tự biết, Quang tôi làm sao suy lường b́nh luận cho
được!
Căn Mẫn tuy đạo tâm
khẩn thiết, e là chưa thấu hiểu quy củ,
không hiểu cách thức dụng công, xin hăy dạy hắn
tu hành tùy sức, chớ nên gắng gượng quá đáng
đến nỗi thân tâm đều bệnh, sẽ khó
tự đạt được lợi ích nơi pháp. Nghe
ông X… chẳng khéo dụng tâm, đến nỗi thổ
huyết không ngừng. Do vậy, trở thành bỏ
phế, lơ là. Với những người sơ học
đều nên bảo cho biết ư này.
7. Thư gởi ṭa báo
Phật Học
(lược
trích)
Đại Giác Thế
Tôn trong vô lượng kiếp lột da làm giấy, chẻ
xương làm bút, trích huyết làm mực, lấy tủy
làm nước để lưu thông thường trụ
Pháp Bảo ḥng phổ độ hết thảy chúng sanh.
Một cuốn Phật Học Tùng Báo khiến cho Phật
pháp được lưu thông trong nước lẫn ngoài
nước, mọi hàm thức cùng chứng Nhất
Thừa. Nhưng thế tục đọc sách trọn
chẳng kính dè. Sáng dậy chẳng súc miệng, vào nhà xí
chẳng rửa ráy, hoặc bỏ sách nơi chỗ
ngồi, giường chơng, hoặc dùng gối đầu,
đêm nằm xem, bỏ chung với đồ lót. Sách để
đọc nơi bàn th́ bỏ lẫn lộn cùng tạp
vật. Coi lời lẽ của thánh hiền giống
như giấy tờ cũ nát, trọn chẳng dè dặt,
chẳng mảy may kính nể. Thậm chí phụ nữ nhà
thư hương, sách để đọc trong khuê pḥng
toàn là kinh truyện; tôi tớ những nhà giàu có lau chùi
đồ đạc toàn dùng [giấy in] văn
chương. Đủ mọi nỗi khinh nhờn khó
thể kể hết. Thói tệ tích tập lâu ngày, quen
đi chẳng xét. Nếu chẳng riêng nêu họa
phước, quyết định khó tránh khinh nhờn,
chưa từng được ích, trước hết đă
phải chuốc lấy đại tội. Thương
kẻ vô tri nên phải chỉ bày ngăn ngừa trước.
Theo ngu kiến, những h́nh ảnh
ngoài b́a có thể không cần phải in, ghi tên bên cạnh như
các sách in theo cách thức thông thường. Chính giữa
trích mấy câu kệ, hoặc ghi mấy câu văn xuôi, ít
th́ mấy câu, nhiều th́ hơn mười câu, nên dùng
chữ đơn giản, trong sáng, [kích thước]
chữ phải thô to, răn nhắc cho người xem phải
để tâm trân trọng, đừng làm bẩn.
Đạo mầu độ sanh của Đại Giác pháp
vương kính th́ được phước, khinh ắt
chuốc họa!
Mặt b́a trong nên dùng chữ nhỏ,
tŕnh bày rơ cuốn sách này tuy gọi là báo, nhưng thật ra
giống như kinh Phật. Vả nữa, phần
đầu có in tượng Phật, Bồ Tát, những bài
văn bên trong hoặc là trích dẫn kinh văn, hoặc nêu bày
ư nghĩa kinh, chẳng giống như ngôn ngữ cơi
tục, đáng nên kính trọng tột bậc. Lại
dẫn những đoạn kinh luận, truyện kư nêu
chứng cớ tội phước của việc kính
trọng hay khinh nhờn kinh điển, ngơ hầu kẻ
biết tốt - xấu chẳng đến nỗi giữ
nguyên thái độ cũ, lầm tạo ác nghiệp. Cứ
hai số hoặc mỗi số lại thay đổi,
hoặc xen kẽ thay đổi một lần, hoặc
vĩnh viễn không đổi chỉ dùng một loại
văn tự đều được. Nếu có thay
đổi th́ chỉ được đổi văn,
không được đổi nghĩa, ngơ hầu do
thầy nghiêm mà đạo được tôn trọng
vậy. B́a sau cuốn báo đừng in chữ để
khỏi bị bôi dơ ḥng tỏ ḷng kính trọng.
Vị tổ thứ hai mươi
mốt ở Tây Thiên (Ấn Độ) là tôn giả Bà Tu Bàn
Đầu (Vasubandhu) tự nói trong kiếp xưa khi
sắp chứng Nhị Quả, nhân v́ lầm lỗi dựa
ḿnh vào h́nh Phật vẽ trên vách nên bị thoái thất
hết sạch. Tôi nói: “Bậc Nhị Quả c̣n mất
quả vị. Nếu là phàm phu ắt vĩnh viễn
mất thân người, thường ở trong ác
đạo chẳng c̣n ngờ chi”. Ví như kẻ
cự phú phạm phải đại tội, dốc
sạch của cải trong nhà để chuộc tội
chết, c̣n kẻ nghèo ắt lập tức bị chém
đầu. Chuyện này được chép nơi chương
ghi về vị tổ thứ hai mươi là Xà Dạ
Đa tôn giả trong sách Truyền Đăng Lục. V́
thế biết tội khinh mạn chẳng phải nhỏ.
Càn là đại phụ, Khôn là
đại mẫu[31], trong bốn
biển cùng là đồng bào, triều Thanh tuy thuộc
giống Măn Châu, rốt cuộc là cùng một cha mẹ. Huống
nữa thánh đức của các đời đáng sánh cùng
trời cao đất dầy; dẫu Nghiêu, Thuấn,
Vũ, Thang cũng không hơn được thế!
Gần đây, chiến tranh, đói kém liên miên, bị lân
quốc hùng mạnh áp bức, hiến pháp, chánh trị dẫu
đổi mới, vẫn có chút sai ngoa; nhưng xét
đến ḷng nhân của vua th́ vẫn y như cũ.
Chỉ v́ cảnh duyên không tốt đẹp hơn,
đến nỗi bị lật đổ. Nay đă thành chế
độ cộng ḥa, đúng là phải nên coi như cùng
một thể.
Luận về chánh thể th́
nhiệt liệt khen ngợi chế độ cộng ḥa,
luận về triều Thanh trước kia th́ tán
dương ḷng nhân của hoàng đế. Ví như vị tân
quan sau khi nhậm chức, chẳng ngại dựng bia
lập đền để phô bày cái đức của
vị quan cũ. Sau khi chế độ cộng ḥa
được thành lập, hơn hai trăm năm vỗ
về tài bồi [của triều Thanh] há có thể quên ngay?
Tôi thấy trong số báo thứ ba, có những lời
lẽ [lên án] như độc đoán, chuyên chế, nô
lệ v.v… ḷng rất ấm ức. Phàm đất
nước ta từ khi mở cơi đến nay, bậc
đại thánh nhân kế thừa ngôi trời cai quản
thiên hạ cũng chưa chắc đă không lo nghĩ
đến điều đó; có thể là v́ các ngài sợ
dân hung bạo, chẳng tuân hành hiệu lệnh, thành ra đến
nỗi loạn vong. Đấy là bản tâm của việc
thánh nhân truyền ngôi lại cho con cháu; há phải đâu Phục
Hy, Thần Nông, Thang, Vũ muốn hưởng lợi ích
riêng! Nếu không vậy th́ chẳng đủ để
chấn chỉnh cương thường, dứt bặt
mầm mống tranh chấp, cũng là do thời thế
khiến thành như vậy; chứ không phải là các
bậc thánh như Phục Hy, Thần Nông không có đức
hổ thẹn! Ngày nay mọi người là của chung,
cộng ḥa rất mực b́nh trị cũng là do thời
thế khiến thành ra như vậy, phải đâu
người đời nay tốt đẹp hơn các
vị thánh Phục Hy, Thần Nông v.v…
Hăy nên đề cao cộng ḥa,
bất tất phải chỉ trích triều Thanh đời
trước th́ mới phù hợp với bản chất
của cộng ḥa, tránh khỏi cái tội khinh miệt
cổ thánh. Nước Tỳ Da Ly thời Phật áp
dụng cách này. Trong các kinh, Như Lai cũng chưa hề
chê trách Luân Vương đời đời truyền nhau
là sai. Đúng như Khổng tử đă nói: “Quân tử truyền cho thiên
hạ là v́ không có con nối dơi, không ai là không vậy”. Ư
nghĩa giống như ở đây. Nghĩa giống
như ở đây là v́ thích nghi với thời thế. Mùa
Hạ mặc áo mỏng, mùa Đông mặc áo cừu, khát
uống, đói ăn, chẳng thể bảo là sai, cũng
chẳng thể chấp chặt một pháp. Chỉ cầu
sao cho thích nghi th́ sẽ có đại lợi, không chút
điều tệ nhỏ. Nhưng nhân tâm bất nhất, vẫn
c̣n có những bài đăng chứa đựng ư tứ ấy,
mong hăy sửa chữa cho được hoàn thiện, ngơ
hầu đời sau đọc đến bội phục
tấm ḷng đại công vô tư của các vị.
Phật pháp giữ chí nguyện b́nh
đẳng, tất cả ngôn luận chỉ nhằm
đề cao Lư, trọn chẳng thiên vị. Do vậy,
xưa nay những bậc đại thánh đại
hiền không ai chẳng dốc ḷng đề cao vậy. Lư
thế gian lẫn xuất thế gian chẳng vượt
ngoài hai chữ “tâm tánh”, chuyện thế gian hay xuất
thế gian chẳng ngoài hai chữ “nhân quả”. Chúng sanh
ch́m đắm trong chín giới, Như Lai chứng Nhất
Thừa, nhưng tâm tánh chẳng tăng - giảm mảy
may. Sở dĩ thăng - trầm thật khác, khổ - vui
khác biệt vời vợi là do tu đức nơi nhân địa
khác nhau, đến nỗi thọ dụng quả
địa mỗi người mỗi khác.
Xiển dương Phật pháp
thật chẳng phải là chuyện dễ: Chỉ bàn
về lư tánh thời hàng trung hạ căn chẳng thể
được lợi ích. Chuyên luận nhân quả th́
bậc thượng thượng thường chán nghe
đến. Sách này phân ra mười môn cách thức khác
biệt, tốt nhất là cùng nêu lên cả Sự lẫn
Lư, theo đuổi cả Đốn lẫn Tiệm, ngơ
hầu hợp cả ba căn, lợi căn lẫn
độn căn đều được lợi ích. Nên
đăng tải những chuyện do học Phật
được đắc lực xưa nay, những
sự tích đại trung, đại hiếu, thuần
nhân, thuần nghĩa, và chuyện họa phước do
cung kính Tam Bảo hay hủy báng Tam Bảo, và những
lời lẽ tốt lành yên đời dẫn dắt cơi tục
của bậc cao nhân, những lời bàn luận chí lư
về kiêng giết, phóng sanh. Những loại sau số báo
nào cũng đăng tải th́ ngu phu, ngu phụ cũng
được lợi lạc, mà hạng thông thạo
giỏi giang do ngộ lư cũng muốn thực hiện.
Từ đấy chẳng dám lắc đầu, bịt
tai, lại c̣n gấp gáp ưa thích muốn nghe. Nhưng nhân
quả và tâm tánh nếu tách rời nhau th́ cả hai cùng
bị tổn thất, gộp lại th́ cả hai cùng
tốt đẹp. V́ thế, ngài Mộng Đông nói: “Kẻ khéo bàn tâm tánh chẳng
thể bỏ ĺa nhân quả; nhưng kẻ tin sâu nhân
quả cuối cùng ắt hiểu rơ tâm tánh. Lư này thế tất
nhiên phải như vậy”.
Nhưng chúng sanh Mạt Pháp căn
cơ hèn tệ, các pháp Thiền, Giáo chỉ cậy vào
tự lực, khế ngộ c̣n khó, huống hồ
liễu thoát? Chỉ có pháp môn Tịnh Độ cậy vào
Phật lực, chỉ cần đầy đủ ḷng tin
chân thành, nguyện thiết tha, dẫu là Ngũ Nghịch,
Thập Ác cũng có thể vĩnh viễn thoát khỏi luân
hồi, cao dự hải hội. Đối với pháp
tối thượng thừa chẳng thể nghĩ bàn này nên
bàn cả Lư lẫn Sự, khuyên răn ăn chay, bố thí,
rền tiếng hải triều, tưới mưa
đại pháp, phá tà chấp của bọn Lỗ Xuyên,
nối tiếp pháp mạch của các vị như Liên Tŕ
v.v… ngơ hầu thiên hạ đều cùng được
lợi ích nơi Phật pháp, khiến cho đại
địa cùng cảm đức của các vị, pháp tràn
ngập hoàn vũ. Cơi đời lại trở về
thời đại Đường Ngu[32], đạo thông
đến cả những loài vô h́nh trong trời
đất; ân thấu tới những dị loại bay, lặn.
Nếu luận về sự suy vi
của Phật pháp th́ thật ra không phải là vào cuối
đời Minh. Vào cuối triều Minh, các tông đều
suy. Từ thời Vạn Lịch[33] trở đi,
đột nhiên hưng thạnh, tông Hiền Thủ th́ có
ngài Liên Tŕ, Tuyết Lăng chấn hưng mạnh mẽ Viên
Tông. Tông Thiên Thai th́ có ngài U Khê, Ngẫu Ích tận lực
hoằng dương Quán đạo[34], Thiền Tông th́ ngài Huyễn Hữu[35] có bốn vị đệ
tử, nhưng Thiên Đồng, Khánh Sơn pháp
khắp thiên hạ. Tông Tào Động th́ có Thọ
Xương, Bác Sơn, đời nào cũng có cao nhân.
Luật Tông được ngài Huệ Vân trung hưng,
thật đáng là Ưu Ba[36], ngài Kiến
Nguyệt nối gót, vốn là Ca Diếp. Nhưng Diệu
Phong, Tử Bách, Liên Tŕ, Hám Sơn, Ngẫu Ích đúng là
những bậc siêu quần bạt tụy, đời
Mạt Pháp chẳng dễ thấy. Tuy chẳng bằng
thời kỳ hưng thạnh đời Đường,
đời Tống, nhưng có thể nói là Phật nhật
lại được sáng ḷa.
Kịp đến khi nhà Đại Thanh
mở nước, tôn sùng, kính trọng càng nhiều,
những bậc ẩn dật chốn lâm tuyền đa
số được lễ kính như ngài Ngọc Lâm, Hám
Phác, Mộc Trần v.v… Thanh Thế Tổ (Thuận
Trị) tuân phụng Phật chế, mở rộng
phương tiện, bỏ lệ thí tăng[37], cho
được tùy ư xuất gia, nhân đó truyền hoàng
giới, chế ra Hộ Giới Điệp, từ nay
vĩnh viễn miễn độ điệp. Phật pháp
bị suy thật sự bắt nguồn từ đây. Đương
thời cũng có cao nhân đông đảo xuất
hiện, tợ hồ hữu ích. Thanh Thế Tông (Ung Chánh) dùng
phương tiện đại quyền nương
nguyện, kiến trung lập cực[38],
phát huy ngôn luận huệ mạng của Phật, Tổ,
tinh thâm rộng răi, nhập tạng[39], lưu thông không
cần phải nói nữa. Ngoài ra, vua c̣n soạn Ngự
Chế Giản Ma Biện Dị Lục, tám quyển,
bốn tập; bạn tôi là Nhậm Thị, khất
thực ở kinh đô t́m được cuốn này ở
một chợ sách, gởi cho ông Dương Nhân Sơn,
bảo gởi sang Đông Dương (Nhật Bản), in
kèm vào trong bản Đại Tạng mới in. Tôi cho
rằng khi sách ấy được phát hành, những
người hiếu cổ thích lạ đọc thử
sách ấy, chẳng những hữu ích cho tánh mạng, mà
học thức văn chương đột nhiên cao lên
gấp bội. Ôi! Hưng thạnh thay!
Thanh Thế Tông thật sự làm cho
pháp được lưu truyền nơi Chấn Đán
(Trung Hoa), là người độc nhất vô nhị trong
các hoàng đế. Vua đă như vậy th́ tể quan,
tăng lữ ắt biết được đại
khái. Từ đời Cao Tông (Càn Long) trở đi, bậc
triết nhân ngày càng hiếm hoi, ngu phu ngày càng lắm,
lại thêm binh lửa liên miên, khiến nhiều hạng thô
bỉ, bại hoại, vô lại xen lộn vào pháp môn.
Tự ḿnh đă không biết ǵ về Phật pháp, làm sao có
thể dạy đồ chúng tu hành! Từ đấy
mỗi ngày mỗi tệ, đời sau chẳng bằng
đời trước; đến nay Tăng tuy không ít,
nhưng kẻ biết chữ mười người
chưa được một, mong chi hoằng dương
đại giáo, lợi khắp quần sanh nữa ư? Do
vậy, bậc cao thượng, ngoại trừ những
vị kiếp trước có đại căn, trông
thấy Tăng chẳng biết đạo bèn chán ghét,
chẳng dự vào Tăng chúng.
Phàm lưu truyền Phật pháp
chẳng phải là một sáng một chiều mà
được; ắt phải thâm mưu viễn lự, tùy
cơ đặt bày cách thức, những ǵ Phật chế
định cố nhiên chẳng thể không tuân, nhưng
những phương cách chế định theo thời
cũng không thể không nghiên cứu cặn kẽ, nhằm
dự pḥng thời thế biến đổi, mới không
đến nỗi nghiêng ngửa chẳng thể có sức
như Phật pháp ngày nay vậy. Nếu các vị không
thừa dịp nh́n nhận nhạy bén, tôi e lúc này, trong
nước Chấn Đán không c̣n nghe tiếng tăm,
dấu vết Phật pháp nữa! Ôi chao! Nguy hiểm thay!
Phật pháp cao sâu, chẳng phải do
sự thấy biết nông cạn mà ḥng nh́n trộm
được. Nếu muốn biết sâu xa, ắt
phải từ Giáo mà vào, rồi mới đến Thiền
Tông th́ mới khỏi bị tệ hại. Bọn Tống
Nho như Châu, Tŕnh, Trương, Châu v.v… đời
trước cố nhiên có linh căn, nhưng thoạt
đầu thân cận toàn những bậc tông sư
Trực Chỉ, đối với một buổi giảng,
một công án tợ hồ lănh hội được
sự hư linh bất muội, nhưng đối với
ư nghĩa “đầy đủ
các lư ứng với vạn sự” thật sự chưa triệt ngộ
tự tâm, bèn tự cho là đă đắc, vạch
đất làm giới hạn, chẳng chịu tiến lên.
Ấy là do dậm chân tại con đường nghĩa
lư, trọn chưa từng thật sự tận lực
tham cứu. Lại thấy nhà Thiền pháp nào, chuyện nào
cũng chỉ quy hướng thượng. Do vậy, dù có
xem kinh giáo cũng đem ư nhà Thiền ra để giải
thích, để hiểu, bảo Phật pháp chỉ có
vậy mà thôi. Với những lư thật, sự thật,
nhân quả họa phước cũng dùng ư kiến chỉ
quy hướng thượng để lănh hội,
đến nỗi mê muội tự tâm, bác không nhân quả.
Cướp lấy vật của người ta cho là gia
bảo; nhặt lấy những thứ sót thừa của
Phật pháp để chống đỡ môn đ́nh Nho Giáo.
Lại sợ hậu sinh đề cao họ Thích, bèn khéo
bày phương cách, lập kế trộm linh[40],
ngang ngược bày lời phỉ báng, phô bày họa
hại, nhốt kín hậu sinh vĩnh viễn chẳng thoát
ra được. Lại c̣n sợ hậu sinh chưa
chết ḷng trọn ư [tin theo], bèn lấy bản thân
để giảng giải: “Ta trước kia cầu
đạo, cũng từng thân cận Thích, Lăo, nhưng
đều không đạt được ǵ. Sau trở
về cầu nơi sáu kinh bèn được. Từ
đấy, phá ṿng Thích, Lăo, mỗi mỗi thấy thấu
suốt, theo thuyết thành ư chánh tâm của chư tử,
dốc sức tu dưỡng, thật đáng làm bậc
sư biểu cho cửa Nho!”
Nhưng do ư niệm phù tŕ môn phái quá
nặng, đến nỗi từ chỗ đáng biểu
dương cảm phục, lại thành ra biến sở trường
của người ta thành sở đoản, cái ḿnh có
được là từ người ta, lại nói ngược
người ta không bằng ḿnh, khiến cho thành ư chánh tâm dù
dốc ḷng thực hiện chẳng thể viên măn hoàn bị,
cắt đầu xén đuôi. Ôi! Đáng buồn đến
thế! Cư sĩ Nhất Thừa bảo là “khách vào nhà quơ giáo, ồn ào
lấn chủ”. Lời ấy thật xác đáng,
nhưng nếu không nêu rơ căn nguyên, người trong
ải (tức những kẻ chấp vào học thuyết
Tống Nho) sẽ chẳng chịu phục. Nên đem
chỗ “chư
tử học Phật được lợi ích và do dùng ư
nhà Thiền hiểu lầm giáo nghĩa, do vậy, không tin
nhân quả, chẳng tin luân hồi, không những nghịch
Phật mà c̣n trái nghịch cả kinh Nho; lại c̣n bảo là cầu đạo nơi Thích, Lăo
đều chẳng được, về sau từ sáu kinh được ích” tŕnh bày,
biện luận cặn kẽ, rơ ràng th́ chứng cớ
ăn cắp đầy đủ, chẳng những
kẻ bế quan bội phục mà c̣n ngay lập tức ra
khỏi cửa. Dẫu cho chư tử sống
lại cũng sẽ nhận lỗi tự trách, không
thể già hàm căi bướng, từ đây, huệ phong quét
sạch mây chướng, Phật nhật lại sáng
tỏa vũ trụ.
8. Trả lời thư
cư sĩ Bộc Đại Phàm
Xa nhận tờ mây,
thật hổ thẹn sâu xa. Bất Huệ[41] tôi tuổi nhỏ
kém học vấn, lớn lên vô tri, lênh đênh nẻo khách,
ăn bám Phổ Đà. Không ngờ các hạ xưa đă
vâng lời Phật phó chúc, thừa nguyện tái lai, lănh
hội được tâm tông cả Nho lẫn Phật,
thấu hiểu tột cùng bí tạng Tánh - Tướng,
tham học khắp kẻ Tăng người tục, là
bậc hào kiệt lỗi lạc chuyên tu Tịnh nghiệp.
Bậc đại nhân rộng lượng chẳng
hiềm hạ ḿnh hỏi đến. Hỏi tới kẻ
cắt cỏ mà khiêm tốn quá sức khiến
người không c̣n chỗ dung thân. Ví thử đại
địa có kẽ nứt, ắt sẽ triệt
để rúc sâu vào, dám đâu ngửa đáp. Thường
nghĩ các hạ học vấn rộng như thế,
kiến giải cao như thế, mấy câu Ngài nêu ra đó
nghĩa lư thật thiển cận, há lẽ nào thật
sự hoài nghi chẳng quyết đoán được
ư? Chắc có lẽ là muốn phát khởi đồng
nhân đó thôi. Các hạ liễu tri làm như vô tri, Bất
Huệ tôi cũng không ngại ǵ lấy không biết làm
biết. Do vậy bèn căn cứ theo từng khoản mà
phê phán, thuận theo lời lẽ mà mổ xẻ. Chẳng
dám bắt chước vị quan già đời phán án,
bất quá chỉ như khóa sinh nộp quyển đó thôi.
Tŕnh bày lời mọn giăi bày như trong phần sau có
được hay chăng? Mong ngài rủ ḷng sửa
lại cho đúng.
Niệm Phật tuy quư là tâm niệm,
nhưng chẳng thể bỏ miệng tụng. V́ ba
thứ thân - khẩu - ư hỗ trợ cho nhau. Nếu tâm
nghĩ nhớ, thân chẳng lễ kính, miệng chẳng
tŕ tụng, cũng sẽ khó được lợi ích.
Thế gian nâng vật nặng c̣n phải ḥ reo để
giúp sức, huống hồ muốn nhiếp tâm để
chứng tam-muội ư? Do vậy, kinh Đại Tập
dạy: “Niệm lớn
thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật
nhỏ”. Cổ đức nói niệm lớn tiếng
th́ thấy thân Phật lớn, niệm nhỏ tiếng
sẽ thấy thân Phật nhỏ. Nhưng phàm phu
đầy dẫy phiền năo, tâm thường hôn trầm,
tán loạn, nếu chẳng nhờ vào sức lễ
tụng của thân - miệng, mà muốn đắc
nhất tâm th́ không thể được. Nơi Thật
Tế Lư Địa mới là vô sanh diệt. Trong cửa
Phật sự, có pháp nào không phải là pháp sanh diệt?
Đẳng Giác Bồ Tát phá bốn mươi mốt
phẩm vô minh, chứng bốn mươi mốt phần
bí tạng, cũng không ra ngoài lẽ sanh diệt. Sanh
diệt ấy chính là gốc rễ sanh tử, mà cũng là
gốc của Bồ Đề, tùy thuộc người ta
sử dụng như thế nào mà thôi! Nhiếp trọn sáu
căn, tịnh niệm tiếp nối chính là đem cái sanh
diệt “trái nghịch với giác, xuôi theo trần lao”
chuyển thành sự sanh diệt “trái nghịch trần lao,
hiệp với giác” để cầu chứng
được Chân Như Phật Tánh bất sanh bất
diệt, niệm niệm nơi Tịnh Độ mới có
thể văng sanh, mà cũng là thân phận Thượng
Phẩm Văng Sanh. Nếu chấp chặt nghĩa này
để tự cầu thượng phẩm, c̣n ǵ lành
hơn? C̣n nếu chấp chặt vào nghĩa này để
dạy kẻ trung, hạ căn sẽ trở ngại
sự tiến lên của người khác không ít. V́ sao?
Bởi họ ắt sẽ nghĩ pháp này quá cao, bèn cam
phận hèn kém, chẳng chịu tu tŕ.
Hơn nữa, việc niệm
Phật tuy thuộc về ư thức, nhưng các thức
đều đủ, chẳng thấy đoạn kinh
văn đă nói “nhiếp
trọn sáu căn” trên đây hay sao? Sáu căn đă
nhiếp th́ sáu thức sẽ làm ǵ? Những ǵ sáu thức
đưa vào Hàm Tàng Thức (A Lại Da Thức) cũng
chỉ là chuyện này mà thôi. Đoạn văn “đao chém không vào” vốn không thể nghi, do các
hạ chưa phân định giới hạn giữa
Tự Lực và Tha Lực, giữa Thiền Tông và Tịnh
Tông nên đến nỗi thành một khối nghi lớn.
Một pháp Niệm Phật là nương Phật lực
thoát ra tam giới, sanh về Tịnh Độ. Nay đă
không phát nguyện, cũng không có ḷng tin (có ḷng tin chân thật ắt có
nguyện thiết tha), Tín lẫn Nguyện hoàn toàn không có,
chỉ niệm Phật tŕ danh th́ vẫn thuộc Tự
Lực. Do không Tín - Nguyện nên chẳng cảm ứng
đạo giao với Di Đà hoằng thệ. Nếu đoạn
hết Kiến Tư Hoặc, có thể được văng
sanh. C̣n nếu hoàn toàn chưa đoạn và đoạn
chưa hết th́ nghiệp căn vẫn c̣n, làm sao thoát
khỏi luân hồi cho được? Ngũ Tổ
Giới, Thảo Đường Thanh[42]
v.v… chính là những bằng chứng xác đáng. Phải
biết: Nếu bỏ tín nguyện mà niệm Phật th́ chẳng
khác ǵ nhà Thiền tham cứu. Nếu được văng
sanh th́ nhân quả chẳng khế hợp nhau vậy! Ngài
Ngẫu Ích nói: “Được
văng sanh hay không, hoàn toàn do tín nguyện có hay không? Phẩm
vị cao hay thấp hoàn toàn do tŕ danh sâu hay cạn”,
ấy là lời phán định sắt đá.
Như kinh nói “nhất tâm bất loạn” là tiếp ư đoạn
kinh văn giảng về công đức y báo, chánh báo ở
tận phía trên, nhằm dạy cho sanh tín; c̣n nếu
thừa tiếp ư của đoạn văn gần đó,
tức đoạn “chúng sanh
nghe vậy, phải nên phát nguyện, nguyện sanh cơi
ấy” th́ chính là dạy phải phát nguyện. Đă
thế, đoạn văn tiếp theo đó là khuyến
tín, khuyến nguyện, không ǵ chẳng đủ. Các
hạ cắt xén những đoạn văn trước,
chỉ chấp một câu, nên mới có mối nghi “không
trọng phát nguyện”. Lại c̣n xem “không tín nguyện nhất
tâm” và “có tín nguyện nhất tâm” b́nh đẳng như
nhau, nên mới thấy có đoạn kinh đao chém không vào,
há phải đâu không thuần nhất; sao lại nghi
ngờ chuyện “không tín
nguyện tŕ danh không được văng sanh”?
Hơn nữa, [luận về
chuyện] ngoài việc niệm Phật có niệm thứ
hai xen tạp th́ khó thể nêu hết. Chỉ nêu lên
những cái chánh th́ như cầu đại triệt
đại ngộ, cầu được Đại Tổng
Tŕ v.v… [chính là xen tạp], chứ không phải phát nguyện
là niệm thứ hai. Phải biết một pháp Tịnh
Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông.
Hạnh như ḅ kéo xe, Nguyện như người cầm
cương, Tín như người dẫn đường.
Người dẫn đường và người đánh
xe mới là chánh yếu để quyết định
sự tiến bước của con ḅ kéo xe. V́ thế, sáng
chiều phải hướng về Phật phát nguyện.
Hơn nữa, lúc không niệm Phật cũng chớ câu
nệ. Dẫu cho mỗi lần niệm cả vạn
năm cũng chẳng ngại có một ngày tạm
ngưng. Nếu bảo “có lúc không niệm, có lúc phát
nguyện sẽ thành gián đoạn, xen tạp, sẽ khó
thành tựu” th́ thử hỏi một tâm niệm ấy
cũng từng thấy sắc, nghe tiếng, mặc áo,
ăn cơm, giở tay, động chân, có hay không? Nếu
có, với những chuyện ấy đă không gián
đoạn, xen tạp, sao riêng ḿnh chuyện này (tức
chuyện phát nguyện) lại có gián đoạn, xen
tạp? Nếu không, trừ phi là bậc Pháp Thân đại
sĩ. Nhưng bậc Pháp Thân đại sĩ ở yên
một chỗ mà hiện thân khắp trần sát[43]; những gián
đoạn, xen tạp ấy c̣n nhiều không xiết! Tâm
có đủ các lư ứng với vạn sự, lẽ nào chỉ
tính đến phát nguyện và niệm Phật cùng một
lúc mà thôi! Ước theo sự tu tŕ thường ngày, nên
phát nguyện vào lúc sáng tối, cũng có khi niệm
Phật xong liền phát nguyện.
Các hạ thông đạt Tánh - Tướng
sâu xa, bảo niệm Phật và ư niệm cầu sanh
Tịnh Độ chẳng thể đầy đủ cả
hai th́ tợ hồ đối với cái lư tṛn đầy “Sự
Sự vô ngại” chưa thể tin triệt để.
Lại có đoạn ngài viết niệm này có thể chia
thành hai, một nửa quy về Phật, một nửa quy
về Nguyện. Nếu thế, một người lẽ
ra phải thành hai vị Phật! Trong cuộc sống hằng
ngày, lúc các hạ mắt thấy sắc th́ tai, mũi,
lưỡi, ư chẳng thể nghe tiếng, duyên theo pháp
ư? Nếu chúng cùng hoạt động chẳng mâu
thuẫn nhau, sao lại riêng nghi nơi chuyện này?
Phải biết Thể của một niệm tâm, tác
dụng vô lượng. Tám thức há chẳng phải là Dụng
của một tâm thể ư? Chúng đă chẳng trở
thành tám vị Phật th́ sao cái niệm này lại thành ra hai
vị Phật được? Kẻ b́nh sinh trọn không
tín nguyện, lúc lâm chung chắc chắn khó thể nhờ
vào Phật lực. Đă nói “thiện ác cùng một lúc nhanh
chóng hiện ra”, đừng nói chi bốn chữ A Di Đà
Phật không hiện bèn không được văng sanh, dẫu
có hiện cũng chẳng được văng sanh. V́ sao? Do
chẳng nguyện sanh vậy. Do chẳng cầu Phật
nên chẳng được Phật tiếp dẫn. Kinh Hoa
Nghiêm nói: “Giả sử ác
nghiệp có thể tướng th́ mười phương
hư không chẳng thể chứa đựng nổi”.
Cổ đức nói: “Như người mắc nợ,
chủ nợ nào mạnh sẽ lôi đi trước”. Tâm
t́nh lắm mối, đặt nặng nơi đâu sẽ
rơi về đó. Nay thiện - ác đều hiện, do
không tín nguyện, liền chẳng thể làm ǵ
được ác nghiệp. Phải biết: Cậy vào
Tự Lực th́ dẫu có tí ti ác nghiệp cũng chẳng
thể thoát khỏi sanh tử, huống ǵ là nhiều!
Lại nữa, không Tín - Nguyện, niệm đến
nhất tâm, trong vô lượng vô biên kẻ, họa may có
hai ba kẻ được văng sanh, quyết chẳng
thể lấy đó làm chuẩn để đoạn
thiện căn văng sanh Tịnh Độ của hết
thảy thiên hạ và người đời sau. V́ sao?
Cậy vào Tự Lực, niệm đến mức
nghiệp tận t́nh không, chứng Vô Sanh Nhẫn, cả
thế gian ít có một, hai người. Nếu như ai
nấy đều hành tŕ theo đó, bỏ Tín - Nguyện
đi không theo đuổi nữa th́ biết bao nhiêu chúng
sanh vĩnh viễn ở trong biển khổ, không nhờ
vào đâu để xuất ly được. Lời nói
ấy toàn là ngây ngô, thế mà kẻ ấy c̣n dương
dương đắc ư, cho là lời lẽ thật cao,
chẳng biết là đoạn Phật huệ mạng, là
lời cuồng vọng khiến chúng sanh bị lầm
lạc (thiện
nghiệp thế gian chẳng ra khỏi luân hồi, nếu
sánh với tín nguyện đầy đủ văng sanh
tịnh nghiệp th́ thiện nghiệp kia vẫn là ác
nghiệp).
Than ôi! Một pháp Tịnh Độ,
phải nh́n bằng con mắt riêng, chớ dùng giáo nghĩa
thông thường để so đọ. Giả sử
Như Lai chẳng mở ra pháp này th́ chúng sanh đời
mạt không thể nào thấy được cách giải
quyết sanh tử. Sách Di Đà Yếu Giải của
Ngẫu Ích đại sư Lư - Sự đều
đạt đến cùng cực, kể từ khi có kinh này
đến nay, nó là bản chú giải bậc nhất. Hành
theo sách ấy th́ ngày sau phẩm vị văng sanh của các
hạ không ai sánh bằng. Cổ nhân tu hành đều
chứng được đạo, người
đời nay tu hành ít thấy ai minh tâm. Nào có phải là do căn
tánh con người chẳng b́nh đẳng ư? Cũng
chỉ là do kính trọng hay khinh mạn mà ra! Xem khắp
truyện kư của cao nhân, đều thấy họ coi kinh
tượng như Phật sống. Sự kính nể
của họ dẫu trung thần thờ thánh chúa, hiếu
tử đọc di chúc, há tương tự được
một hai phần? Do cung kính đến cùng cực, nên có
thể đoạn Hoặc chứng chân, siêu phàm nhập
thánh. Xem Nhị Tổ đứng trong tuyết[44], [Dương, Du]
đứng trong tuyết ngoài cửa họ Tŕnh[45],
là đủ thấy. Người đời nay coi
tượng Phật như đất, gỗ, coi kinh
Phật như giấy cũ. Dẫu có tín tâm, đọc
tụng, thọ tŕ, cũng chẳng qua là để nhanh
mồm nhạy miệng mà thôi, nào có lợi ích thật
sự ǵ để bàn được nữa! Tuy gieo
được viễn nhân, nhưng cái tội khinh nhờn
chẳng thể nghĩ tưởng được
nổi. Nguyện các hạ dùng học vấn quảng bác,
ngôn từ sâu rộng, lúc đề xướng Phật
pháp, thường đem điều này lợi ích khắp
hết thảy th́ may mắn cho pháp môn lắm, may mắn
cho chúng sanh lắm đấy.
9. Trả lời thư
cư sĩ Tạ Dung Thoát ở Thái Thuận (thư
thứ nhất)
“Ngô hữu tri hồ tai! Vô tri dă! Hữu bỉ phu
vấn vu ngă, không không như dă. Ngă khấu kỳ
lưỡng đoan nhi kiệt yên!” (Tạm dịch: “Ta
biết ǵ đâu! Không biết ǵ! Có bỉ phu hỏi ta th́ là
rỗng không như thế; chuyện được
hỏi và căn cơ người hỏi phù hợp
với nhau vậy[46]”). Đấy là thánh
nhân do tâm chính ḿnh không có niệm lự nên tùy cơ
thuyết pháp dạy người, trọn chẳng thể
coi đó là lời nói khiêm. Tâm thánh nhân giống như
gương sáng rỗng rang, trọn chẳng có một
vật, nào có biết ǵ? “Bỉ
phu đến hỏi” là như Hồ đến, Hán
đến[47], “khấu lưỡng đoan nhi kiệt” là như
Hồ hiện, Hán hiện. Chữ “khấu” có nghĩa là “tức”
(chính là), “lưỡng đoan”
(hai bên) là chuyện được hỏi và căn cơ
của người hỏi, “nhi
kiệt yên” là vừa vặn phù hợp, không thái quá, không
bất cập, tức là như nhà Phật gọi là “khế
lư, khế cơ”. Nếu chỉ khế lư mà không khế
cơ sẽ không có ích ǵ cho người ấy, trở thành
lời nói thừa thăi. Như ông hỏi về nhân, về
hiếu, về chánh v.v… th́ câu hỏi giống nhau, nhưng
lời đáp khác nhau, tức là thuận theo căn cơ
của người hỏi mà đáp cho, như nh́n lỗ
tra chốt, đối bệnh phát thuốc vừa vặn
thích nghi, trọn chẳng mảy may có lỗi dạy
chẳng phù hợp căn cơ. Nếu tâm chẳng
trống không như gương, sao có thể
được như vậy?
Giải thích “không không” có nghĩa là
“bỉ phu” th́ có thể nói là uổng công đọc sách
thánh hiền. Tâm Khổng Tử chí thành không vọng, nên
bảo là “không không như dă”.
Nhan Tử kém hơn đức Thánh một bậc, tuy
chưa thể rốt ráo không vọng, mà vọng cũng
chẳng c̣n mấy, nên cũng đă mấy lần
đạt được cái không. “Ba tháng không trái nghịch” chính là chuyện này. V́
thế, phu tử bảo Nhan Tử “gần như đạt được”. Nếu
cho rằng do Nhan Tử dẫu giỏ cơm, bầu
nước mấy lần trống rỗng vẫn vui
vẻ không thay đổi nên được coi là “gần như đạt” th́ là
bỏ gốc theo ngọn, đánh mất lời bàn
luận chí lư dựa trên căn cơ để phê b́nh của
thánh nhân vậy. C̣n như luận về chuyện Tử
Cống buôn bán là tùy loại mà luận, há có thể đem
hai người ấy sánh đôi với nhau ư? Thánh nhân
do người mà luận người, há nên bắt
chước người đời sau làm thơ cử
nghiệp, phải đối nhau thật chặt chẽ
mới là hợp cách ư!
Thế nhưng các hạ chí mộ
Phật pháp, nên chẳng ngại đem tâm thánh nhân ra tùy
cơ chỉ điểm. Nếu các hạ đến
dạy trẻ học vỡ ḷng ở Tam Gia Thôn hăy nên tuân theo
lời chú giải của Châu Hy. Nếu không bọn
chấp chặt vào văn chương sẽ gièm báng tứ
tung; chẳng những không thể biết cái tâm thánh nhân, mà
trái lại c̣n hủy báng Phật pháp. Do vậy, họ
vĩnh viễn ch́m trong biển khổ, đánh mất ư
chỉ sâu xa “khấu
lưỡng đoan nhi kiệt yên” vậy!
10. Trả lời thư
cư sĩ Tạ Dung Thoát ở Thái Thuận (thư
thứ hai)
Nhận được
thư, biết các hạ chưa thọ giới Cụ Túc
và t́nh h́nh Phật pháp lưu thông tại quê hương ông,
vui khôn ngăn nổi. Tuy nhiên, trong lúc vui, tôi không thể
không hết sức lo lắng, v́ sao nói vậy? Phàm Phật
pháp là pháp chung của cả chín pháp giới, không ai không nên
tu mà cũng không ai chẳng thể tu. Người tŕ trai
niệm Phật nhiều, xét đến hiệu quả th́
người hưng long pháp đạo, phong tục
thuần thiện chỉ sợ không nhiều, chứ càng
nhiều càng tốt. C̣n như kẻ xuất gia làm Tăng ḥng
giữ ǵn đạo pháp Như Lai và lập bày cách
để lưu thông đạo pháp; nếu người
ấy lập chí hướng thượng, phát đại
Bồ Đề, nghiên cứu Phật pháp, triệt ngộ
tự tánh, rộng học Tam Học[48] nhưng riêng khen
ngợi Tịnh Độ th́ trong một đời sẽ
mau thoát khỏi khổ luân, người như vậy
chỉ sợ không nhiều, chứ càng nhiều càng
tốt.
Nếu là kẻ hơi có tín tâm, không
có đại chí, muốn dựa vào cái danh làm Tăng
để ăn không ngồi rồi, sống bám Phật
pháp, mang danh Phật tử, chứ thật sự chỉ là
gă trọc đầu. Dẫu không tạo ác nghiệp
nhưng đă là hạt giống hư hoại nơi pháp,
là phế nhân của đất nước. Nếu c̣n phá
giới tạo nghiệp, nhục lây Phật pháp, dẫu
sống trốn được phép nước, lúc chết
quyết định đọa địa ngục. Đối
với pháp, đối với bản thân, cả hai vô ích.
Một kẻ như thế c̣n chẳng được,
huống chi là nhiều!
Cổ nhân nói: “Xuất gia là chuyện của bậc đại
trượng phu, kẻ quan cao lộc cả không thể làm
được”[49], không phải là
ức chế kẻ quan cao lộc cả đề cao
Tăng Già đâu! Là v́ gánh vác gia nghiệp của Phật,
nối tiếp Phật huệ mạng, không phải là
kẻ phá vô minh ḥng khôi phục bản tánh, hoằng
dương đạo pháp ḥng lợi lạc chúng sanh
sẽ không thể làm được. Nay kẻ làm Tăng
đa số là hạng bỉ lậu, bại hoại, vô
lại, mong sống thảnh thơi, nhàn nhă, những
kẻ chỉ tŕ trai niệm Phật c̣n chưa
được mấy, huống ǵ là những người
có thể gánh vác gia nghiệp, nối tiếp huệ
mạng?
Phật pháp ngày nay lụn bại sát
đất là v́ Thanh Thế Tổ (Thuận Trị) không xét
thời cơ, ngửa tuân theo quy chế nhà Phật, bỏ
lệ Thí Tăng của triều đại trước,
vĩnh viễn miễn độ điệp[50], cho tùy ư xuất
gia, gây nên sai lầm. Phàm tùy ư xuất gia đối với
người thượng thượng căn th́ có lợi
ích lớn, nhưng với kẻ hạ căn lại có
hại lớn. Nếu như đời toàn là
thượng sĩ th́ cách thức ấy cố nhiên hữu
ích cho đạo pháp. Nhưng bậc thượng sĩ
như vẩy lân, kẻ hạ căn như lông ḅ, lợi
ích tạm thời khi ấy (trong khoảng đầu nhà Thanh đến thời Càn
Long, thiện tri thức như rừng, nên có ích), họa lan rộng
đến hậu thế. Tới nay, sự lạm
dụng, xô bồ đến mức cùng cực, dẫu có
tri thức chỉnh đốn một phen, cũng chẳng
biết bắt đầu từ đâu, chẳng đáng buồn
ư?
Từ rày về sau người
cầu xuất gia, thứ nhất phải là thật
sự phát tâm đại Bồ Đề lợi ḿnh,
lợi người, thứ hai là phải có thiên tư
hơn người th́ mới được xuống tóc.
Nếu không, không được! Nếu là nữ nhân có tín
tâm, nên bảo họ tu hành tại gia, muôn vàn chẳng cho
xuất gia. E rằng có chuyện sai xẩy đến
nỗi ô bại Phật môn chẳng nhẹ vậy!
Người nam nếu là chân tu, xuất gia càng dễ, v́ có
thể tham phỏng tri thức, y chỉ tùng lâm. Nữ dẫu
chân tu xuất gia vẫn khó, bởi hành động dễ
chuốc lấy miệng đời gièm báng, mọi việc
thường khó ḷng tùy ư được. Chọn lựa
thế độ như trên, chẳng độ ni chúng chính
là hộ tŕ Phật pháp trong đời Mạt, là yếu
nghĩa bậc nhất để chỉnh lư pháp môn. Mong hăy
tha thiết nói với lệnh sư[51] và hết thảy
những vị Tăng quen biết th́ công đức sẽ
vô lượng vô biên. Mong lắm thay, mong lắm thay!
11. Thư trả lời
cư sĩ Đặng Bá Thành (thư thứ nhất)
Kể từ khi quen
biết đến nay, chớp mắt đă sáu năm,
chẳng những tinh sương đă mấy lượt
thay đổi, mà quốc lịch cũng chẳng c̣n y
như cũ[52]. Tướng
thế gian vô thường, thật đáng than thở.
Nhận được thư, biết ông không phế
Tịnh nghiệp, thật quá tốt đẹp, nhưng
ông nói thân tâm đến nỗi chẳng an. V́ cảnh
ngộ không tốt mà đến nỗi bất an hay sao? Hay
là bệnh tật triền miên, nên đến nỗi
bất an vậy?
Nếu do cảnh ngộ không tốt
th́ hăy lùi một bước, suy nghĩ, thử nghĩ coi
trong đời kẻ hơn được ḿnh cố nhiên
là nhiều, nhưng những người không
được như ḿnh cũng chẳng ít! Chỉ
cần không đói, không rét, mong chi đại phú,
đại quư? Vui theo mạng trời, tùy ngộ nhi an (an
vui theo cảnh duyên). Như thế sẽ chuyển
được phiền năo thành Bồ Đề, há
chẳng thể chuyển ưu khổ thành an lạc ư?
Nếu bị tật bệnh dây
dưa th́ hăy đau đáu nghĩ thân này là gốc khổ,
sanh ḷng nhàm ĺa hết mức, ra sức tu Tịnh nghiệp,
thề cầu văng sanh. Chư Phật lấy khổ làm
thầy, nên thành Phật đạo. Chúng ta nên lấy
bệnh làm thuốc, mau cầu xuất ly. Phải biết
phàm phu đầy dẫy phiền năo, nếu không khổ v́
bần cùng, tật bệnh v.v... ai có thể sẽ không suốt
ngày rong ruổi trong trường thanh sắc, danh lợi,
ai chịu trong lúc đắc ư lừng lẫy, quay
đầu nghĩ đến lúc ch́m đắm trong
tương lai? Mạnh Tử nói: “Trời v́ muốn giao phó trách nhiệm lớn lao cho
người nào th́ trước hết phải làm khổ
tâm chí, nhọc nhằn gân cốt người ấy,
khiến thân người ấy đói khát, thân thể trống thiếu, gây nên
những điều trái ngược với những ǵ người
ấy làm. Do vậy, nẩy
sanh tánh Nhẫn, tăng thêm [khả năng làm
được] những điều người ấy
không thể làm”. Do vậy, biết rằng: Trời
muốn thành tựu người thường hay tạo ra
nghịch cảnh, con người chỉ nên thuận theo
mạng trời là được.
Cái gọi là “trách nhiệm lớn” như Mạnh Tử đă
nói chính là tước vị thế gian, vậy mà c̣n
phải lo âu, nhọc nhằn như thế mới
chẳng phụ ḷng trời. Huống chi chúng ta là phàm phu sát
đất, muốn trên th́ gánh vác gia nghiệp của
đấng Pháp Vương, dưới hóa độ pháp
giới hữu t́nh, nếu không bị chút nghèo - bệnh vùi
dập th́ phàm Hoặc ngày càng lẫy lừng, Tịnh
nghiệp khó thành, mê muội bản tâm, vĩnh viễn
đắm trong ác đạo đến tận đời
vị lai, không mong có lúc thoát ra. Cổ đức từng
nói: “Chẳng trải một
phen lạnh buốt xương, há được hoa mai
thơm ngát mũi”, chính là nói về điều này
vậy. Hăy nên chí tâm niệm Phật để tiêu
nghiệp cũ, trọn chẳng nên khởi ḷng bực
bội, lo nghĩ, oán trời hận người, cho là nhân
quả hư huyễn, Phật pháp không linh.
Phải biết: Chúng ta từ vô
thỉ đến nay, ác nghiệp đă tạo vô
lượng vô biên. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giả sử ác nghiệp có thể tướng th́
mười phương hư không chẳng thể chứa
đựng nổi”, huống ǵ tu tŕ lơ là, hờ
hững, há có thể tiêu hết được nổi
ư? Do vậy, Thích Ca, Di Đà, hai vị giáo chủ hai
cơi, đau đáu nghĩ chúng sanh không sức đoạn
Hoặc, riêng mở ra pháp môn cậy vào Phật từ
lực, đới nghiệp văng sanh này. Ḷng từ,
đại bi sâu thẳm, dẫu trời đất, cha
mẹ cũng chẳng thể ví bằng một phần
Hằng hà sa. Chỉ nên phát ḷng hổ thẹn, phát tâm sám
hối, sẽ được Phật gia bị, nghiệp
tiêu, thân an. Nếu bệnh khổ đến mức dữ
dội, chẳng thể nhẫn chịu được,
th́ ngoài lúc niệm Phật hồi hướng sáng tối
ra, hăy chuyên tâm dốc ư, niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ
Tát. Quán Âm hiện thân trong sát-na, tầm thanh cứu khổ.
Người nào trong lúc nguy cấp, nếu có thể tŕ
tụng, lễ bái, không khi nào không thuận theo ḷng cảm
mà ứng, Bồ Tát liền rủ ḷng từ che chở
khiến cho thoát khỏi khổ năo, được an vui.
Một pháp Niệm Phật là pháp
giản dị nhất, dễ dàng nhất, rộng
nhất, lớn nhất, nhưng phải khẩn thiết,
chí thành đến cùng cực mới có thể cảm
ứng đạo giao, được lợi ích thật
sự ngay trong đời này. Nếu biếng trễ,
lười nhác, không mảy may kính sợ, dẫu gieo
được viễn nhân, nhưng cái tội khinh nhờn
khó thể tưởng được nổi. Dẫu cho
được làm người, sanh lên trời, trọn khó
thể dự vào hải hội. Đối với
tượng Phật nên coi như là Phật thật,
chẳng thể xem như đất, gỗ, đồng,
sắt v.v... Kinh điển là thầy của tam thế
chư Phật, như xá-lợi của Pháp Thân Như Lai,
cũng nên xem như Phật thật, chẳng
được coi như giấy, mực v.v... Lúc
đối trước kinh tượng, nên như trung
thần thờ thánh vương, như con hiếu
đọc di chúc. Làm được như thế th́ không
nghiệp chướng nào chẳng tiêu, không phước
huệ nào chẳng đủ. Nay những sĩ đại
phu học Phật th́ nhiều, nhưng thảy đều
là đọc kinh văn, hiểu ư nghĩa, lấy đó để
ăn nói, ḥng được tiếng là một tay thông gia
mà thôi. C̣n như cung kính chí thành, y giáo tu tŕ, thật khó
được mấy kẻ!
Tôi thường nói: “Muốn
được lợi ích thật sự nơi Phật pháp
th́ phải hướng về cung kính mà cầu. Có một
phần cung kính th́ tiêu tội nghiệp một phần,
tăng phước huệ một phần. Có cung kính
mười phần, th́ tiêu tội nghiệp mười
phần, tăng phước huệ mười phần.
Nếu không cung kính đến nỗi khinh nhờn th́
tội nghiệp càng tăng, phước huệ càng
giảm”. Than ôi! Hễ gặp bạn tri giao, hăy nên ra
rả đem lời này bảo cho họ biết, không c̣n
pháp thí nào lớn hơn.
Pháp môn Tịnh Độ nếu tin
đến nơi, c̣n tốt chi bằng! Nếu trí ḿnh
chưa tỏ, hăy nên ngửa tin lời thành thật của
chư Phật, chư Tổ, trọn đừng có một
niệm nghi tâm. Hễ nghi ắt trái nghịch Phật, lâm
chung chắc chắn khó thể cảm thông. Cổ nhân nói: “Pháp môn Tịnh Độ chỉ
có Phật với Phật mới có thể thấu suốt
rốt ráo. Đăng Địa Bồ Tát[53] c̣n chẳng thể biết
được chút phần”. Ôi! Đăng
Địa Bồ Tát c̣n chẳng thể biết trọn
vẹn, nữa là phàm phu sát đất vọng sanh ức đoán
ư?
Nếu muốn nghiên cứu, nên xem
sách Tịnh Độ Thập Yếu. Cuốn sách này do
Ngẫu Ích đại sư chọn lấy những tinh hoa
trong các sách Tịnh Độ, khéo léo khế hợp với
thời tiết và căn cơ, thật là bậc nhất.
Mở đầu sách là Di Đà Yếu Giải, kể
từ khi đức Phật nói kinh này đến nay, trong
Tây Thiên, Đông Độ, là bản chú giải có một
không hai, nên khéo tuân thủ, chớ nên xem thường. Nay
người thông minh tuy học Phật pháp, do chưa thân
cận bậc thiện tri thức có đủ hai mắt,
thảy đều chuyên trọng Lư Tánh, bác bỏ Sự Tu[54] và nhân quả.
Đă bác Sự Tu, nhân quả th́ Lư Tánh cũng mất. Do
vậy thường có những kẻ tài cao, ngôn từ kinh
khiếp quỷ thần, xét đến hành vi chẳng khác
ǵ gă vô tri vô thức đầu đường xó chợ.
Gốc bệnh đều là do phế Sự Tu, nhân quả
mà nên nỗi, khiến bậc thượng trí nẩy ḷng
xót thương, kẻ hạ ngu dựa theo đó làm
xằng. Đấy đúng là dùng thân báng pháp, tội
lỗi vô lượng.
Sách Pháp Uyển Châu Lâm (một trăm quyển. Chùa
Thiên Ninh ở Thường Châu phân thành ba mươi
tập. Mă Năo Kinh Pḥng ở Tô Châu chia thành hai mươi
bốn tập. Bản của Mă Năo Kinh Pḥng hư nát,
mờ mịt. Bản của chùa Thiên Ninh là khắc
mới)
bàn luận chi tiết về nhân quả, Lư - Sự cùng nêu,
rành mạch phân minh. Đọc đến khiến
người không lạnh mà rét buốt; dẫu ở trong
nhà tối, pḥng kín thường như đối
trước Phật, trời, chẳng dám chớm một
tí ác niệm. Thượng, trung, hạ căn trọn
chẳng đến nỗi nhận lầm đường
nẻo, chấp Lư phế Sự, xuôi theo cái tệ thiên tà
cuồng vọng. Ngài Mộng Đông nói: “Người khéo bàn tâm tánh ắt chẳng ĺa nhân
quả. Người tin sâu nhân quả, cuối cùng ắt
hiểu được thấu suốt tâm tánh. Lẽ
tất nhiên là phải như vậy”. Mấy lời này
của ngài Mộng Đông đúng là lời bàn luận chí
lư ngàn đời chẳng thay đổi được, mà
cũng là nhát kim đâm xuống đảnh đầu
bọn rông rỡ cuồng huệ vậy. Sách này các chỗ
phát hành kinh sách đều có, hăy nên thỉnh về xem.
Lợi ích nên tự biết, cũng nên làm cho hết
thảy tri giao đều đọc sách ấy. Lệnh
đệ[55] mùa Thu năm ngoái
lên núi, tôi cũng từng đem thuyết cung kính khuyên
lơn, nhưng không biết anh ta có coi lời tôi là đúng
hay không?
12. Trả lời thư
cư sĩ Đặng Bá Thành (thư thứ hai)
Nhận
được thư, đọc thư thấy tinh
thần vui sướng. Cừ Bá Ngọc[56] khi năm
mươi tuổi, biết bốn mươi chín năm
trước sai trái. Khổng Tử tuổi gần bảy
mươi c̣n muốn trời cho sống thêm vài năm
để học xong kinh Dịch ngơ hầu khỏi mắc
lỗi lớn. Cái học của thánh nhân chưa bao giờ
chẳng đặt rốt ráo nơi khởi tâm động
niệm. Vào thời gần đây, Nho gia chỉ học
từ chương, chánh tâm thành ư gác lại chẳng
giảng. Tuy hằng ngày đọc sách thánh hiền,
trọn chẳng hiểu cái ư để lại sách răn
đời của thánh hiền. Những ǵ miệng họ nói,
những ǵ thân họ làm cùng với ngôn ngữ, hành vi
của hiền thánh khác nào tối - sáng chẳng ḥa, tṛn - vuông
chẳng khớp vậy. Hiếm hoi thay những ai rảnh
rang học hỏi cho thấu suốt những lẽ
ẩn vi!
Kinh Phật dạy người
thường hành sám hối ngơ hầu đoạn sạch
vô minh, viên thành Phật đạo. Tuy địa vị
đến bậc Đẳng Giác như Di Lặc Bồ
Tát vẫn trong mười hai thời lễ mười
phương chư Phật để mong hết sạch vô
minh, viên chứng Pháp Thân, huống ǵ những kẻ
thấp hơn! Thế nhưng phàm phu sát đất
khắp thân là nghiệp lực, chẳng sanh hổ
thẹn, chẳng tu sám hối; tuy nhất niệm tâm tánh
b́nh đẳng với chư Phật, nhưng do phiền
năo ác nghiệp chướng lấp nguồn tâm, chẳng
thể hiển hiện. Ví như tấm gương báu tṛn
lớn bao kiếp bụi phủ, chẳng những
trọn không có ánh sáng mà chất đồng cũng không
hiển hiện được. Nếu biết bản
thể cái gương bị bụi lấp ấy có
đủ ánh sáng soi trời chiếu đất, ra sức
chùi mài, ngày lại qua ngày, đổ công chẳng thôi,
chất đồng tự lộ, lại càng gia công, quang
minh dần dần lộ ra. Quang minh tuy đă phát, chùi mài
càng thêm sốt sắng, lực cực công thuần,
chất dơ hết, ánh sáng hiện, soi trời chiếu
đất, là vật quư nhất trong thế gian. Phải
biết quang minh ấy gương vốn sẵn
đủ, chẳng phải do mài mà có. Nếu không sẵn
có, do mài mà có th́ mài gạch mài đá lẽ ra cũng
phải tỏa ánh sáng.
Thêm nữa, phải
biết: Quang minh ấy gương tuy sẵn có, nhưng
không chùi sẽ vĩnh viễn chẳng có ngày tỏa sáng. Tâm
tánh chúng sanh cũng giống như thế, dẫu b́nh
đẳng với Phật. Nếu chẳng cải ác tu
thiện, trái nghịch trần lao, hiệp theo giác th́ tánh có
đủ công đức sẽ trọn chẳng thể
phát hiện. Dùng tâm thức sẵn đủ Phật tánh
để tạo nghiệp khổ trầm luân bao kiếp
dài lâu, khác nào chạm phải vật báu trong nhà tối, chẳng
những không thể thọ dụng, trái lại c̣n
đến nỗi bị tổn thương, đáng
buồn làm sao!
Một pháp Niệm Phật chính là trái
nghịch trần lao, hiệp với tánh giác, là diệu pháp
bậc nhất để phản bổn quy nguyên;
đối với thân phận người tại gia
lại càng thân thiết. Do người tại gia thân vướng
lưới thế gian, công việc đa đoan, nhiếp
tâm tham thiền và tịnh thất tụng kinh v.v…th́
hoặc là do t́nh thế chẳng thể làm, hoặc sức
không làm xuể. Chỉ một pháp Niệm Phật là
thuận tiện nhất. Sáng tối đối
trước Phật tùy phận, tùy lực, lễ bái tŕ
niệm, hồi hướng phát nguyện. Ngoài ra, đi,
đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng,
động, tịnh, mặc áo, ăn cơm, hết
thảy thời, hết thảy chỗ đều khéo
niệm. Nhưng nếu ở nơi sạch sẽ, lúc cung
kính th́ hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm
đều được. Nếu đến nơi không
sạch sẽ (như
vào nhà xí v.v…) hoặc lúc không cung kính (như ngủ nghỉ, tắm rửa v.v…) th́ nên niệm
thầm, đừng niệm ra tiếng. Không đúng
thời, không đúng chỗ chớ nên niệm [ra
tiếng]. Lúc ngủ niệm ra tiếng th́ chẳng
những không cung kính mà lại c̣n tổn khí, lâu ngày thành
bệnh. Công đức niệm thầm cũng giống
như lúc b́nh thường. Đó gọi là niệm đâu
tâm đó, gấp rút cũng như thế, lúc khốn
khổ cũng như thế.
Cư sĩ đă có thể phát lộ
sám hối, dễ tương ứng nhất đối
với pháp môn Tịnh Độ. Đấy chính là “tâm tịnh cơi nước
tịnh”. Nhưng đă biết lỗi, lại chịu
phát lộ sám hối, ắt phải cải ác hướng
thiện. Nếu chẳng đổi ác hướng
thiện th́ nói đến sám hối chỉ là bàn xuông,
chẳng được lợi ích thật sự. C̣n
như nói muốn cho tâm chẳng tham sự bên ngoài, chuyên
niệm Phật, nhưng không thể chuyên, cứ muốn
chuyên chuyện khác, chẳng thể niệm, cứ niệm
chuyện khác, chẳng thể nhất tâm, cứ muốn
nhất tâm nơi khác v.v…th́ cũng không có pháp tắc áo
diệu chi khác: Chỉ đem một chữ Chết dán trên
trán cho rủ xuống tận mày, tâm thường niệm
rằng:
- Tôi tên là… từ vô thỉ măi cho
đến đời này đă tạo ác nghiệp vô
lượng vô biên. Nếu như ác nghiệp có thể
tướng th́ mười phương hư không chẳng
thể chứa đựng. Đời trước do may
mắn nào nay được thân người, lại nghe
Phật pháp. Nếu không nhất tâm niệm Phật cầu
sanh Tây Phương, một khi hơi thở ra không hít vào,
chắc chắn hướng vào trong địa ngục,
vạc sôi, ḷ than, rừng gươm, núi đao mà thọ
khổ chẳng biết bao nhiêu kiếp. Dẫu ra khỏi
địa ngục, lại đọa vào ngạ quỷ, bụng
to như biển, họng bé như kim, bao kiếp dài lâu
đói khát, trong họng lửa cháy, chẳng nghe đến
tên nước, nước trái ép, khó được tạm
no. Dẫu thoát khỏi ngạ quỷ, lại làm súc sanh
để cho người cưỡi, hoặc gieo thân vào
nhà bếp của người. Dẫu được thân
người, ngu si vô tri, lấy tạo nghiệp làm
đức năng, coi tu thiện như gông cùm, không
biết mấy mươi năm, rồi lại
đọa lạc không biết bao nhiêu trần điểm
kiếp luân hồi lục đạo. Tuy muốn xuất
ly chẳng có cách nào.
Niệm được như thế
th́ những sở cầu như trên sẽ được
thành tựu ngay. Do vậy, Trương Thiện Ḥa, Trương
Chung Quỳ lâm chung tướng địa ngục
hiện, niệm Phật mấy tiếng liền đích
thân thấy Phật đến tiếp dẫn văng sanh. Trong
trăm ngàn vạn ức pháp môn khác của giáo pháp suốt
một đời đức Phật không hề thấy có
lợi ích như thế. Tôi thường nói: “Chúng sanh
trong chín pháp giới ĺa pháp này th́ trên chẳng thể viên
thành đạo. Mười phương chư Phật
bỏ pháp này th́ dưới chẳng thể lợi
khắp quần manh”, là nói về điều này. Nếu
tâm sanh tử quả thật khẩn thiết, tin
đến nơi, tâm chẳng sanh một niệm nghi
hoặc, th́ tuy chưa ra khỏi Sa Bà, đă không c̣n là khách
lâu ngày của Sa Bà nữa. Chưa sanh về Cực
Lạc, nhưng đă là khách quư chốn Cực Lạc.
Thấy người hiền mong được bằng,
gặp việc nhân chẳng nhường ai, há chịu
lần chần, biếng trễ, coi thường
để đến nỗi lầm lỡ một phen trở
thành lầm lỡ vĩnh viễn ư! Trượng phu có
huyết tánh trọn chẳng chịu sống làm thịt
đi thây chạy, chết mục nát cùng cỏ cây. Gắng
lên, gắng lên!
Thêm nữa, niệm Phật cố
nhiên quư ở chuyên nhất; nhưng cư sĩ trên có cha
mẹ, dưới có vợ con, những chuyện lo toan
ngoài bổn phận vọng động mong được
giàu vui, quả thật không nên. C̣n những chuyện
thuộc bổn phận phải làm, càng nên gắng sức
làm, đừng vứt bỏ hết thảy th́ mới là
tu hành. Nếu vứt bỏ hết thảy mà chẳng
khuyết chuyện nuôi nấng cha mẹ, vợ con th́
được. Nếu không, liền thành trái nghịch
với hiếu đạo; tuy nói là tu hành, nhưng thật
sự trái nghịch lời Phật dạy, điều này
lại chẳng thể không biết! Lại phải đem
lợi ích của pháp môn Tịnh Độ khuyên cha mẹ,
khiến cho họ niệm Phật cầu sanh Tây
Phương. Nếu họ tin nhận vâng làm, lúc lâm chung
quyết định văng sanh. Hễ được văng sanh th́
ngay lúc ấy siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử,
cao dự hải hội, thân cận Di Đà, măi cho
đến khi thành Phật mới thôi. Cái hiếu của
thế gian làm sao sánh bằng được! Nếu
lại có thể đem chuyện này bảo khắp
đồng nhân, khiến cho cha mẹ của họ
đều được văng sanh th́ công đức giáo hóa
ấy quy về ḿnh, khiến cho phẩm vị của ḿnh
và của cha mẹ càng cao hơn. Kinh Thi có câu: “Hiếu tử chẳng nghèo,
vĩnh viễn ban cho ngươi”. Muốn hiếu
với cha mẹ hăy nên suy nghĩ sâu xa, tận lực
thực hành.
13. Trả lời thư
cư sĩ Đặng Tân An
Mùa Xuân năm nay lệnh
huynh gởi thư đến, xem ư khẩn khoản
thiết tha. Do vậy, Quang tôi chẳng nề ḿnh bỉ
lậu, tŕnh bày đại lược. Đến
khoảng tháng Tư lại gởi một lá thư, nêu
lỗi tự trách, xin chỉ cho những điều
trọng yếu, khá phù hợp hạnh khắc kỷ,
giữ lễ, thân cận thầy bạn. Quang tôi
đọc xong, vui mừng khôn xiết. Nhân đấy,
cũng phân tích tŕnh bày cặn kẽ để trả
lời. Nay nhận được thư của cư
sĩ, tuy ngôn từ không nhiều, nhưng ư tứ cũng
chẳng kém ǵ thư lệnh huynh cho mấy. Có thể nói là
“anh lẫn em đều hy hữu”. Thiên luân, Phật pháp
đều là đồng khí liền cành, nếu không phải
là nhiều kiếp cùng trồng thiện căn,
đồng tu tịnh hạnh, há được như
thế!
Nay cư sĩ có những câu hỏi
về lợi ích, Quang tôi thật khó phúc đáp. V́ sao? Do
cư sĩ chí lớn, cái biết của Quang tôi lại
nhỏ nhoi. Lớn - nhỏ chẳng phù hợp nhau, căn
cơ - giáo pháp chẳng khế hợp! Tuy nhiên, trong
Nhất Thừa Thật Tướng, t́m tướng
lớn hay nhỏ trọn chẳng thể được!
Trong cái bất khả đắc ấy, nếu nêu ra cái
lớn th́ lớn là pháp giới, hết thảy pháp
hướng về cái lớn, không vượt qua
được. Nói đến nhỏ th́ nhỏ là pháp
giới, hết thảy pháp đi về cái nhỏ, không
lọt ra được. Quang tôi biết pháp nhỏ, chính
là pháp bao gồm pháp của hết thảy chư Phật
trong mười pháp giới.
Thiện Đạo ḥa thượng
nói: “Nếu muốn học
Giải th́ từ địa vị phàm phu cho đến
địa vị Phật, hết thảy các pháp không pháp
nào chẳng nên học. Nếu muốn học Hạnh th́
nên chọn lấy một pháp khế lư, khế cơ, tinh
chuyên ra sức mới mau chứng được lợi ích
thật sự. Nếu không, dầu trải kiếp này sang
kiếp khác vẫn khó được xuất ly”. Nói đến
pháp khế lư khế cơ th́ không ǵ bằng tín nguyện
tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Pháp
ấy được giảng đầy đủ trong
sách Di Đà Yếu Giải và các sách Tịnh Độ. Hăy
t́m lấy đầu mối, pháp này không quá rườm rà.
Phải biết Phật pháp chính là pháp chung của
mười pháp giới, không một ai chẳng nên tu,
cũng không một ai chẳng thể tu.
Ai nói Phật giáo vứt bỏ nhân
luân, hại thánh đạo th́ đều là kẻ chưa
thấy màu sắc mà bàn luận mù quáng. Do đâu mà nói
như thế? Phật đối với cha dạy từ,
đối với con dạy hiếu, đối với vua
dạy nhân, đối với bầy tôi dạy trung, phu xướng
phụ tùy, anh nhường em kính, mọi lời lẽ
tốt đẹp, mọi hạnh tốt lành trong Thế
Đế kinh Phật không ǵ không tŕnh bày rơ ràng nhân
đời trước, quả đời này, nhân
đời này, quả đời sau. Những lời
dạy về từ, về hiếu v.v… giống với Nho
Gia, nhưng giảng tường tận về nhân quả ba
đời th́ trong Nho Giáo c̣n chưa nghe đến,
huống chi chuyện đoạn Hoặc chứng chân, viên
măn Bồ Đề, quy về pháp vô sở đắc!
Tiếc cho kẻ ấy chưa thấy, nếu đọc
kỹ, nghĩ sâu, ắt sẽ đau buồn trào lệ,
tiếng rền cả đại thiên thế giới,
buồn tiếc cho tội lỗi báng Phật.
Tuy nhiên, dùng lời lẽ để
báng bổ, tội ấy c̣n nhỏ; dùng thân để báng
tội ấy lớn lắm. Nay miệng bàn Đại
Thừa, tự cho ḿnh ngộ đạo, ta chính là Phật,
cần ǵ phải niệm Phật nữa! Phiền năo chính
là Bồ Đề, cần ǵ phải đoạn phiền
năo! Dâm - nộ - si chính là Giới - Định - Huệ,
cần ǵ phải đoạn dâm - nộ - si? Do vậy,
lời nói cao vót chín tầng mây, hạnh thấp tệ
xuống tuốt chín tầng đất. Những hạng
như vậy gọi là oán gia của nhà Phật; so với
những kẻ không biết ǵ về Phật pháp mà hủy
báng tội càng sâu hơn vạn phần. [Kẻ ấy] từng
nghiên cứu Phật pháp không phải là hoàn toàn vô ích,
nhưng chỉ tạo thành cái nhân đắc độ
trong tương lai. Cái tội dùng thân để báng pháp
không biết trải bao kiếp, trong tam đồ chịu
các tội khổ.
Cư sĩ nên lấy việc nghiên cứu
kinh luận Đại Thừa khai viên đốn giải
để dẫn đường, lấy tín nguyện tŕ
danh cầu sanh Tây Phương làm Chánh Hạnh. C̣n nếu
chú tâm nơi hành sự, e làm quá mức không biết,
phước tiêu không hay. Nên đọc kỹ bộ An
Sĩ Toàn Thư và bộ Pháp Uyển Châu Lâm, sẽ tự
nhiên với mỗi pháp, mỗi sự biết
được pháp tắc, tâm tâm niệm niệm không
đến nỗi trái vượt. Nếu như sợ ḿnh
xem xét không đến nơi, hăy nên thực hành theo Công Quá
Cách của Phù Hựu Đế Quân sẽ siêu phàm nhập
thánh, đoạn Hoặc chứng Chân. Tại Chấn
Đán Trung Quốc sẽ tôn ông là bậc nhất. Công Quá
Cách là do Vân Cốc thiền sư đời Minh truyền
cho ông Viên Liễu Phàm. Chớ cho sách ấy vụn vặt
rồi coi thường. Lệnh huynh nhiều lần
viết thư cho biết sách ấy đối với thân
tâm tánh mạng có lợi ích lớn lao. Không tự oán,
tự đoạn như thế, trọn khó thể
khắc kỷ, giảm lỗi. Nay gởi kèm theo thư này,
chỉ mong cư sĩ cũng giống như lệnh huynh
tự ḿnh oán th́ tự ḿnh đoạn, ngơ hầu sau này
đoạn Hoặc chứng chân, viên măn Bồ Đề mà
thôi.
14. Thư gởi cư
sĩ Lưu Đ́nh Thành ở Phước Kiến
Chư Phật vốn do
một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong
đời. Đại sự nhân duyên vừa nói đó không
có ǵ khác hơn là muốn cho chúng sanh khai thị ngộ
nhập tri kiến Phật, ngay đó thành Phật mà thôi! Do
v́ căn tánh chúng sanh bất nhất, nên giáo pháp của
Như Lai muôn vàn sai khác. Do vậy, giáo pháp cả một
đời tùy cơ diễn sướng. Pháp môn tuy rộng
nhiều như cát bụi, nhưng hành nhân y giáo tu tŕ,
rốt ráo quy nguyên, đều chứng tự tánh chính
nơi tâm ḿnh. Nhưng trong trần sa pháp môn, t́m lấy pháp
chẳng ĺa Sự tu, phô bày trọn vẹn tâm tánh, trùm
khắp ba căn, lợi độn cùng thâu, thượng
thượng căn chẳng vượt được
ải này, hạ hạ căn cũng đến
được nơi ấy, cao trỗi hết thảy
Thiền, Giáo, Luật, thống nhiếp hết thảy
Thiền, Giáo, Luật, hạ thủ dễ, thành công cao,
dùng sức ít mà được hiệu quả nhanh,
thuận lợi nhất trong đời Mạt Pháp,
vượt thẳng ngũ trược th́ không ǵ thù
thắng siêu tuyệt như pháp tŕ danh Niệm Phật
của Tịnh Độ.
Quả thật có thể nói là chúng
sanh trong chín pháp giới ĺa pháp này trên chẳng thể viên
thành Phật đạo; mười phương chư
Phật bỏ pháp này dưới chẳng thể lợi
khắp quần sanh. Do vậy, ngàn kinh muôn luận nơi
nơi chỉ quy, văng thánh tiền hiền ai nấy đều
hướng về như các ngôi sao chầu về Bắc
Đẩu, vạn ḍng nước chảy về Đông.
Cư sĩ đă tin sâu niệm Phật, nhưng nếu chưa
tham học với Tịnh nghiệp thiện tri thức,
lại không đọc rộng các kinh luận Tịnh
Độ th́ ḷng tin chân thành, nguyện thiết tha do đâu
mà phát sanh cho được? Dẫu có thể chấp tŕ
danh hiệu, nhưng v́ chẳng cầu xuất ly, liền
thành cái quả nhân thiên, thọ hưởng si phước.
Do phước tạo nghiệp, lại ch́m trong ác
đạo. Nếu đường nẻo vẫn không
đúng, lạc vào tà kiến th́ thiện nhân lại chiêu ác
quả, phước báo nhân - thiên c̣n chưa thể được,
bao kiếp khó thoát khỏi sự khổ cùng cực trong A
Tỳ. Ví như vào biển đă không có hoa tiêu, lại
thiếu la bàn, trôi nổi trong sóng cuồng, sóng lớn,
mịt mờ chẳng biết đi về đâu! Dẫu
có thể chèo chống, lèo lái, khó khỏi bị ch́m
đắm.
Quang thuở nhỏ ít học, lớn
lên vô tri, chỉ với pháp Tịnh Độ c̣n hơi rành
rẽ, cảm ḷng thành của ông, nay đem những
điều thiết yếu nhất của kinh luận
Tịnh Độ giới thiệu sơ lược
một hai điều, mỗi điều chỉ nêu
đại ư. Nếu có thể quay về mà cầu, tâm lănh
hội, tinh thần thể hội, ắt sẽ múa tay giậm
chân mà không biết, vượt xa kẻ ngu cứ nói lem lém.
15. Thư trả lời
cư sĩ Cao Thiệu Lân (thư thứ nhất)
Ông Tạ Ân Quang lên núi
cầm theo thư của các hạ. Mở ra xem thấy tâm
mộ đạo khẩn thiết, nguyện lực
rộng lớn, thề mong thâm nhập, nhưng chẳng
cho chút ít là đủ, tôi mừng vui vô lượng. C̣n
như quá khen ngợi Bất Huệ khiến người
hổ thẹn khôn cùng. Các hạ muốn liễu sanh tử
đại sự, nhưng tuổi tác đă gần tri
mạng[57], tháng ngày c̣n
lại không nhiều, lại không có tri thức, bạn bè
hữu ích để thân cận. Nhưng không chuyên tu Tịnh
nghiệp, nhất tâm niệm Phật, lại muốn nghiên
cứu rộng răi nghĩa lư áo diệu và điển cú
của các kinh, dường như là v́ chưa biết sâu xa
duyên do của Tịnh Độ vậy. Hăy nên đến
chùa Hoa Nghiêm mượn đọc bộ Tịnh
Độ Thập Yếu và Tịnh Độ Thánh Hiền
Lục, lắng ḷng đọc kỹ, ắt tự
biết chỗ hướng về.
Hết thảy chúng sanh đều là
cha mẹ quá khứ, là vị lai chư Phật. Giết
để ăn sao nuốt cho trôi? Nếu biết nghĩa
này, dẫu táng thân mất mạng cũng chẳng thể
ăn hết thảy loại thịt. Nhưng Phật
dạy người khéo dẫn dụ dần dần,
với bậc thượng căn liền dạy
đoạn hoàn toàn. Với trung hạ căn bèn dạy giảm
dần cho đến khi hoàn toàn đoạn
được.
Bài văn Phát Nguyện tuy
văn từ rộng sâu, nhưng phải chân thật
từ tâm mà phát, vậy mới gọi là Nguyện. Nếu
không, tâm và miệng trái nghịch nhau, sao gọi là Nguyện
cho được? Với cái nguyện trong đời này
tuy cũng không trở ngại, nhưng muốn sanh con cháu
phước huệ, phải cầu nơi tích tụ âm
đức lớn lao, rộng hành phương tiện.
Huống chi các hạ năm nay tuổi đă bốn
mươi tám, đă cưới ba vợ, nhưng chỉ
sanh con gái, cho thấy đời trước đời này
đều kém tài bồi. Nay muốn chuyển hồi ḷng
trời, ắt phải chân thật sửa lỗi làm lành
như tiên sinh Viên Liễu Phàm cuối đời Minh đă
dốc sức thực hiện vậy, trọn chưa có ai
không được cảm ứng, thỏa măn điều
nguyện. Lại đừng nói nhà ḿnh bần hàn, chẳng
thể rộng tích âm đức, rộng hành phương
tiện. Phải biết: Ba nghiệp thân - miệng - ư
đều ác th́ không ǵ ác lớn hơn. Nếu như ba
nghiệp đều thiện th́ không ǵ tốt lành lớn
lao hơn.
Đối với kẻ ngu không tin
nhân quả, chẳng tin tội phước báo ứng, ương
bướng cứng đầu, hăy theo những ǵ An Sĩ
Toàn Thư đă giảng mà diễn nói khiến cho họ
bắt đầu tin nhân quả dần dần, lần
hồi sẽ tin sâu Phật pháp, cuối cùng
được văng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát
tử. Một người như thế công đức c̣n
vô lượng vô biên, huống chi nhiều người.
Nhưng chính ḿnh tận lực thực hành không sai sót
mới ḥng cảm hóa người chung quanh. Vợ con ḿnh
nếu tin nhận, phụng hành, người khác nh́n vào
thấy là thiện, há có phải v́ nhiều của cải
ư? Chỉ cầu không đói, không rét, mong chi phát tài
cự vạn? Để cho con một rương vàng đầy
không bằng dạy cho con một quyển kinh. Tổ
đức bị khuyết, bèn thẹn đến chết;
tổ nghiệp dù bị khuyết, nào thương tổn
ǵ?
Nhưng
đến giờ đây, thân không c̣n nhiều ngày tháng
nữa, nghĩ muốn nhanh chóng khôi phục [tổ nghiệp],
uổng sanh vọng tưởng, trọn không có lợi ích
thật sự ǵ. Hăy nên tùy duyên qua ngày chính là tri mạng, vui
theo lẽ trời. Sống vừa thọ vừa khỏe
trong đời, chỉ thuận không nghịch, người
đời ai không mong được vậy, nhưng người
được như thế rất ít, người không
được thật nhiều. Do đời
trước, đời này, không vun bồi lớn lao, không
nhân chẳng thể có được quả vậy. Nay các
hạ muốn sanh Tây Phương liễu sanh tử, hăy nên
nguyện thần thức của cao, tằng tổ phụ
mẫu[58] v.v… nương vào
sức tu tŕ tịnh nghiệp tự hành, dạy
người của chính ḿnh liền được
Phật từ tiếp dẫn văng sanh. Như vậy
mới đáng gọi là “đại hiếu tôn thân”
vậy. C̣n như cúng tế tổ tiên chẳng dứt và khôi
phục tổ nghiệp v.v… đều là cảnh giới
thấy biết thiển cận của khắp phàm t́nh
thế gian.
Hơn nữa, cầu
sanh Tây Phương không được sợ chết.
Nếu chết ngay ngày hôm nay th́ hôm nay bèn sanh về Tây
Phương, như câu nói:
“Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ”
(Buổi sáng nghe đạo, tối chết cũng
được); há đâu hôm nay phải chết lại
chẳng muốn chết. Đă tham luyến trần
cảnh, chẳng thể buông xuống, bèn do tham thành
chướng, cảnh Tịnh Độ không hiện,
cảnh giới theo nghiệp thọ sanh trong
đường thiện, nẻo ác bèn hiện. Cảnh
hiện sẽ theo nghiệp thọ sanh trong
đường thiện, nẻo ác vậy. Chuyện văng
sanh Tây Phương bèn thành bánh vẽ! V́ thế,
người tu Tây Phương hôm nay chết cũng
được, dẫu phải sống tới một
trăm hai mươi tuổi mới chết cũng xong.
Hết thảy phó mặc nghiệp trước, chẳng
vọng sanh so đo. Nếu tín nguyện chân thành, thiết
tha, khi báo hết mạng tận, thần thức bèn siêu
nơi tịnh vực, nghiệp trả lại trần lao,
sen nở hoa chín phẩm, trong một đời được
Phật thọ kư.
Lại nữa,
người đời không con thường lấy thêm
nhiều vợ lẽ, chẳng biết vun quén đức,
tiết dục. Làm như vậy chính là cách để
chết cho mau, chẳng phải là phương cách cầu
con. Chuyện này liên quan đến phong hóa và thờ cúng
tổ tiên, ai nấy đều mạo muội mà làm. Chuyện
liên quan mối luân thường lớn lao của con
người nên tôi cũng chẳng thẹn mà bàn bạc.
Bất Huệ tôi người kém đức mỏng,
trăm điều chẳng làm được một,
ăn bám Phổ Đà, tạm kéo dài hơi tàn, không dám làm
thầy cho người. V́ thế, trước kia ông
Tạ Ân Quang cũng nói lời ấy, nhưng đều
từ tạ chẳng nhận.
Các hạ quy y Tam Bảo th́ hăy
chọn lấy người phẩm hạnh đoan chánh,
đàng hoàng ở chỗ ḿnh, bái người ấy làm
thầy bèn trở thành đệ tử của Như Lai.
Từ đây về sau, trong thư từ chớ nhắc
đến chữ quy y nữa. Quê ngài đă không có
người thông minh, Quang tôi tự thẹn đạo
nghiệp chưa thành, chẳng dám làm thầy, nhưng
vẫn tùy duyên khai thị. Ví như người không chân,
một bước khó dời, ngồi yên giữa ngă ba, có
người muốn về thẳng quê nhà, nhưng không
biết đường lối, bèn chỉ cho người
ấy đường đúng, mau về quê nhà.
Người muốn về nhà ấy trọn chẳng v́
người chỉ đường kia không đi
được mà vứt bỏ lời ấy vậy.
16. Trả lời thư
cư sĩ Cao Thiệu Lân (thư thứ hai)
Ông gởi thư cho
biết đang lễ kinh Pháp Hoa, nhiếp tâm niệm
Phật, và muốn bớt lỗi nhưng chưa thể,
toan dựa theo Công Quá Cách để thường ngày
kiểm điểm. Đủ thấy gần đây ông
siêng năng tu, đáng cho tôi học theo, chẳng như
người đời nay chỉ muốn mua danh chuốc
dự, dối ḿnh lừa người mới cam. May
mắn thay, may mắn thay!
Lễ tụng tŕ niệm, các thứ
tu tŕ đều phải lấy thành kính làm chủ. Nếu
thành kính cùng cực th́ công đức sẽ như trong kinh
nói: “Dẫu thuộc
địa vị phàm phu, tuy chưa thể viên đắc,
nhưng sở đắc của người ấy đă
khó thể nghĩ bàn”. Nếu không thành kính sẽ giống
như diễn tuồng, khổ, sướng, buồn, vui
đều là giả vờ, chẳng do nội tâm phát ra.
Dẫu có công đức cũng chẳng thể
vượt khỏi si phước trong nhân thiên mà thôi;
nhưng ắt sẽ lại ỷ vào si phước ấy
tạo ác nghiệp, cái khổ tương lai khi nào hết
được? Hăy đem ư này bảo khắp bè bạn, ngơ
hầu tu th́ phải chân tu, hành th́ phải thật hành,
lợi ấy rộng khắp! Quy củ bái kinh [như ông] đă
lập về Lư cố nhiên vô ngại, nhưng nếu
luận về sự tướng, nếu lễ bái chung
chung th́ nên niệm Nam Mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên
Hoa Kinh, Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát,
lễ xuống, tưởng bài kệ lễ kinh như sau:
Chân không pháp tánh như hư không,
Thường
trụ pháp bảo nan tư nghị,
Ngă
thân ảnh hiện pháp bảo tiền.
Nhất
tâm như pháp quy mạng lễ
(Tạm dịch:
Chân không pháp tánh như
hư không,
Pháp bảo thường
trụ khó nghĩ bàn,
Thân con hiện bóng
trước pháp bảo,
Nhất tâm như pháp quy
mạng lễ)
Tưởng toàn bộ
kinh văn phóng quang, và những vị Phật, Bồ Tát
đă nói trong kinh đều phóng quang chiếu đến
thân ḿnh và pháp giới hữu t́nh. Nếu lễ từng
chữ hăy niệm “nhất tâm đảnh lễ
Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh chữ…. Pháp
Bảo”, lễ chữ nào niệm chữ đó, từ “như
thị ngă văn” cho đến hết kinh đều
niệm như vậy. Nhưng pháp quán tưởng thật
chẳng phải là chuyện dễ. Nếu chẳng rơ
thấu Lư và tâm thức rối loạn, rất có thể
khởi lên các ma sự. Chỉ lấy chí thành cung kính làm
chủ, quán được th́ quán. Nếu không, cứ
dốc cạn ḷng thành đến cùng cực, cứ lễ
thẳng ngay vào kinh th́ cũng được công
đức vô lượng.
Như ông lập chương tŕnh
[lễ kinh] là đối trước kinh mà lạy, lạy
xuống tưởng bài kệ, ngẩng lên lại niệm
Phật, quán Phật th́ chẳng bằng thờ kinh
trước tượng Phật, chuyên lễ một
đức A Di Đà Phật cho chuyên tinh nhất trí.
Chớ bảo duyên tưởng một vị Phật công
đức chẳng lớn bằng duyên tưởng
nhiều vị Phật. Phải biết A Di Đà Phật
là Pháp Giới Tạng Thân, một ḿnh Phật A Di Đà có
đủ toàn thể công đức của tất cả
mười phương pháp giới chư Phật, như
những hạt châu nơi cái lưới của Thiên
Đế, ngàn hạt châu in bóng trong một hạt châu,
một hạt châu trọn khắp ngàn hạt châu, nêu lên
một mà thâu trọn tất cả, chẳng thiếu,
chẳng thừa. Nếu là bậc đại sĩ tu hành
đă lâu th́ cảnh duyên rộng lớn chẳng ngại,
cảnh càng rộng tâm càng chuyên nhất. Nếu là kẻ
sơ tâm mạt học mà duyên cảnh rộng th́ tâm
thức phân tán, nhưng chướng sâu huệ cạn
rất có thể khiến cho các ma sự khởi lên. V́
thế, đức Phật Thế Tôn ta và chư Tổ các
đời đều dạy nhất tâm chuyên niệm A Di
Đà Phật là v́ lư do này. Đợi đến khi nào
niệm Phật chứng được tam-muội th́
trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa, thảy
đều đầy đủ. Cổ nhân nói: “Đă tắm trong biển cả
ắt dùng nước trăm sông. Thân đă đến
điện Hàm Nguyên, cần ǵ hỏi Trường An chi
nữa!” có thể nói là h́nh dung [ư này] khéo nhất.
C̣n như việc dứt ác tu
thiện, cật lực kiểm điểm, xét ḿnh th́ tuy
không ǵ hay hơn Công Quá Cách, nhưng nếu tâm chẳng
lấy thành kính làm chủ, dẫu hằng ngày ghi công, chép
tội cũng chỉ là viết xuông. Ở nơi đây,
chưa có sách Công Quá Cách. Theo như tôi thấy, chỉ nên
trọng ḷng kính, giữ ḷng thành, trong mười hai
thời, chẳng có một niệm hư phù lười
nhác, coi thường. Ứng xử với người
đời chỉ giữ ḷng trung hậu, khoan thứ th́
trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, ác
niệm chẳng thể khởi từ đâu
được! Ví như túc nghiệp xui khiến, ngẫu
nhiên phát sanh, nhưng luôn giữ ḷng thành kính, trung hậu,
khoan thứ, sẽ tự có thể vừa khởi niệm
liền nhận biết, biết rồi liền mất,
quyết chẳng đến nỗi phát sanh, nẩy nở
khiến cả ba nghiệp phải xuôi theo nó.
Sở dĩ tiểu nhân giả vờ
làm thiện mà thật ra làm ác là v́ nghĩ rằng
người khác không biết mà ḿnh biết, chẳng
biết rằng những kẻ không biết chỉ là phàm
phu thế gian đó thôi. Nếu là thánh nhân đắc
đạo cố nhiên biết rành rẽ; chư thiên,
quỷ thần tuy chưa đắc đạo nhưng do
quả báo đắc Tha Tâm Thông cũng đều biết
rơ ràng. Huống hồ Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
chư Phật: Tha Tâm đạo nhăn thấy trọn ba
đời như nh́n ḷng bàn tay ư! Muốn người
khác không biết, chỉ có chính ḿnh không làm mà thôi! Nếu
tự ḿnh biết th́ thiên địa, quỷ thần,
Phật, Bồ Tát v.v… không vị nào không biết, không thấy
tất cả. Nếu biết nghĩa này th́ dẫu ở
trong nhà tối pḥng kín cũng chẳng dám coi thường,
biếng nhác. Dẫu nơi người ta không biết
cũng chẳng dám manh nha ác niệm bởi thiên địa,
quỷ thần, chư Phật, Bồ Tát v.v… đều
cùng biết. Dẫu là kẻ không biết hổ thẹn,
biết được nghĩa này, cũng sẽ hổ
thẹn vô ngần, huống ǵ bậc chân tu thực
tiễn!
V́ thế, muốn giảm bớt
lỗi, trước hết phải khởi đầu từ
chỗ sợ chư thánh phàm đều biết đều
thấy. “Thấy tiên triết
nơi canh, nơi tường, cẩn thận, dè dặt
ngay cả với bóng áo”[59], vẫn chỉ là
lời nói thiển cận ước theo t́nh kiến
thế gian. Thật ra, tâm ta cùng mười phương
pháp giới bản thể hợp nhau khít khao. Do ta mê nên cái
biết bị hạn cuộc nơi một thân.
Mười phương pháp giới thánh nhân triệt
chứng Pháp Giới Tạng Tâm sẵn có nơi tự tâm,
phàm hết thảy hữu t́nh trong pháp giới khởi tâm
động niệm th́ các ngài không ǵ chẳng tự
biết, tự thấy. V́ cớ sao? V́ cùng bẩm thọ
Chân Như, ta - người không hai. Nếu biết nghĩa
này, ắt sẽ run sợ, kiêng dè, chú trọng ḷng kính, ǵn
giữ ḷng thành, thoạt đầu phải ra sức
dứt vọng, lâu ngày không vọng nào có thể khởi
được! (Ác
niệm vốn thuộc vọng tưởng, nếu không
giác chiếu sẽ thành ác thật sự. Nếu có thể
giác chiếu th́ vọng tưởng giảm, chân tâm
hiện)
17. Trả lời thư
cư sĩ Cao Thiệu Lân (thư thứ ba)
Mỗi lời trong
thư đều chân thật, muốn được
lợi ích nơi Phật pháp, chỉ v́ chưa biết duyên
do Tịnh Độ, tâm nguyện bèn thành trái nghịch
Phật nguyện. Trong thế gian, người tu tŕ
cầu liễu sanh tử th́ nhiều, nhưng thường
là dùng ngu kiến của chính ḿnh để suy lường
đại pháp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai,
đến nỗi xoay xe sai hướng[60], không thể
liễu thoát. Đời này c̣n chưa chánh kiến,
huống chi đời mai sau! Vạn nhất lại
được thân người, lại bị si
phước đă tu trong đời này làm mê, mong chi lại
càng tinh tấn cầu xuất ly nữa ư?
Phật nói hết thảy pháp môn
Đại, Tiểu, Quyền, Thật đều phải
cậy vào công lực của chính ḿnh để đoạn
Hoặc chứng chân mới thoát được sanh tử.
Nếu c̣n sót mảy may Hoặc nghiệp, sanh tử
quyết định khó ra. Do vậy, từ đời này
sang đời khác, từ kiếp này qua kiếp khác, xoay
vần tu tŕ, nếu có sức lực đầy
đủ, tiến thẳng chẳng lùi, ắt
được liễu thoát. Đa phần là đang giác
chợt mê, tiến ít lùi nhiều trải kiếp số
như bụi trần, chẳng thể xuất ly. Do
vậy, ông lẫn tôi đến nay vẫn là phàm phu,
đều là v́ không biết đến pháp môn Tịnh
Độ độ khắp ba căn, chí cực viên
đốn của Như Lai vậy. Dẫu ông chưa thân
cận tri thức nhưng đă từng tụng kinh Di
Đà, kinh Vô Lượng Thọ, Thập Lục Quán kinh, và
các bài Tịnh Độ Phát Nguyện Văn, Long Thư
Tịnh Độ Văn, Quy Nguyên Trực Chỉ, những
sách ấy thảy đều dạy văng sanh ngay trong
đời này, riêng ông lại muốn chuyển sang
đời sau.
Phật thương chúng sanh không
sức đoạn Hoặc, khó liễu sanh tử; v́
thế riêng mở pháp môn hoành siêu[61]
cậy vào Phật từ lực đới nghiệp văng
sanh. Bất luận đoạn Hoặc hay không, nếu
đầy đủ ḷng tin chân thành, nguyện thiết tha
tŕ danh hiệu Phật (đây là Chánh Hạnh) và tu tŕ các điều thiện, hồi
hướng văng sanh (đây
là Trợ Hạnh), không một ai chẳng được văng
sanh. Dẫu kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung
tướng địa ngục hiện, nếu tâm thức
không mê, nghe thiện tri thức dạy niệm Phật
cầu sanh Tây Phương. Nếu niệm được
mười tiếng, hoặc chỉ một tiếng, ngay
khi đó mạng chung cũng được văng sanh (điều này chép trong Thập
Lục Quán Kinh, Hạ Phẩm Hạ Sanh Chương là
lời chân thành từ kim khẩu). Đă văng sanh liền
được cao dự hải hội, vĩnh viễn
thoát luân hồi; dần dần tấn tu viên thành Phật
Quả. Tội nhân nghịch ác như thế nếu chẳng
được nghe pháp chẳng thể nghĩ bàn này,
trải kiếp số nhiều như vi trần, khó thoát
khỏi địa ngục. Ngạ quỷ, súc sanh c̣n khó
được sanh vào, huống ǵ lại được
làm thân người để tu hành liễu sanh tử?
Hăy nên phát tâm quyết định, lâm
chung nhất định muốn sanh về Tây Phương.
Đừng nói chi thân người tầm thường kém
cỏi chẳng muốn thọ nữa, ngay cả làm vua
trời - người và xuất gia làm Tăng, nghe một
hiểu ngàn, đắc Đại Tổng Tŕ, làm thân cao
tăng đại hoằng pháp hóa, lợi khắp chúng sanh
cũng xem như cỏ độc, rừng tội,
quyết định chẳng sanh một niệm tâm muốn
hưởng. Quyết định như thế th́ Tín -
Nguyện - Hạnh của chính ḿnh mới có thể cảm
được Phật; thệ nguyện của Phật
mới nhiếp thọ được ḿnh, cảm ứng
đạo giao được Phật tiếp dẫn, lên
thẳng chín phẩm, vĩnh viễn thoát khỏi luân
hồi. Tam Quy, Ngũ Giới là cửa ban đầu để
vào Phật pháp, tu các pháp môn khác đều nương vào
đây để nhập, huống chi pháp môn Tịnh
Độ giản dị, dễ dàng nhất, chí viên, chí
đốn chẳng thể nghĩ bàn? Chẳng soi xét tam
nghiệp, chẳng tŕ Ngũ Giới sẽ không có phần
được thân người lần nữa, huống ǵ
muốn được thân liên hoa hóa sanh, đầy
đủ quang minh tướng hảo ư?
Ông nói chiều tà đường xa,
nên theo đường thẳng tắt th́ hăy chuyên
đọc tụng ba kinh Tịnh Độ và Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, nghiên cứu chú sớ
của các kinh Tịnh Độ, c̣n các Ngữ Lục, Kim
Cang, Pháp Hoa hăy nên để ra ngoài, v́ việc nào cần
gấp th́ phải làm trước, không chia tâm làm hai
vậy.
C̣n như chuyện giảm bớt
lỗi, quả thật là công phu thiết yếu của
cả Nho lẫn Phật. Cừ Bá Ngọc lúc năm
mươi tuổi biết bốn mươi chín năm
trước sai trái, bảo với người khác: “Muốn giảm bớt lỗi
nhưng chưa thể”. Chuyện này quả thật là
dụng công nơi ư, chứ không phải là thân - miệng có
lỗi! Tại gia cư sĩ hằng ngày cùng người
đời thù tạc, phải nên khăng khắng
đề pḥng. Nếu không, chẳng những ư nghiệp
không tịnh, mà thân - miệng cũng có thể ô uế không
tịnh. Muốn cho cả ḿnh lẫn người cùng
được lợi, không ǵ bằng biết nhiều về
những lời lẽ hành vi [của cổ nhân] để
làm khuôn phép. An Sĩ Toàn Thư quả là kỳ thư bậc
nhất xưa nay dung thông tâm pháp cả Phật lẫn Nho,
tŕnh bày rơ nhân quả báo ứng và phương pháp tu tŕ cho
cả đạo lẫn tục, nên thường mở ra
xem, ngơ hầu không mối nghi nào chẳng được
gỡ, không hạnh nào chẳng cẩn thận. Pháp
Uyển Châu Lâm lại càng rộng lớn, tuy không phải
là kinh điển thậm thâm, nhưng [sách ấy giúp] kẻ
sơ tâm từ cạn vào sâu, không bị phạm lỗi
hiểu lầm. Nếu trước hết chẳng
hiểu tội phước nhân quả, lại toan ḍ ngay
vào diệu lư Đệ Nhất Nghĩa Đế Thật
Tướng, chỉ e kiến giải không rơ ràng, hiểu
nhầm ư nghĩa, coi mê là ngộ, cầu thăng lên trái
lại bị đọa!
Ông đă chuyên tu Tịnh nghiệp, nên
lấy bài Tân Định Tịnh Độ Phát Nguyện
Văn của đại sư Liên Tŕ làm chánh (Tỉnh Am Ngữ Lục
quyển Hạ có chú giải bài phát nguyện này, tự
đọc sẽ biết được chỗ hay khéo của
nó). Ông
tự lập bốn nguyện, hoặc dùng kèm hoặc không
dùng đều được. Bài nguyện văn ấy
Sự lẫn Lư chu đáo, trọn không sót một pháp,
một nghĩa nào. Ngài nói bao quát pháp giới không sót; ông nói
là đại thiên, đem so với lượng của pháp
giới khác ǵ đem một hạt bụi sánh với
đại địa, đem một giọt nước
sánh với biển cả.
Xem khắp thư ông, tợ hồ
chân thật dụng công nơi tâm địa, nhưng
kẻ học ngày nay thường hay chuyên nói lời
giả, chẳng tu thật hạnh. Ư muốn mua danh
chuốc dự để cầu thể diện, trọn
chẳng phải là chân thật tự xét, giảm lỗi mà
nói lời ấy. Đấy gọi là tự hại, là tự
vứt bỏ, là đại vọng ngữ, là không biết
hổ thẹn. Nếu không phải vậy th́ là bậc
thánh hiền. Nếu mang cái thói ấy th́ là phường
hạ lưu, là tội nhân nơi pháp, là nghịch tử
của Phật. Có th́ hăy sửa, không th́ càng cố gắng,
trực tâm trực hạnh mới hợp với Phật. Lại
tự ḿnh đă tu tŕ Tịnh nghiệp (tức là sửa lỗi hướng
thiện và niệm Phật, ngay trong đời này liền
nguyện văng sanh Tây Phương) th́ cũng nên dạy
hết thảy những người quen biết cũng tu
Tịnh nghiệp. Hăy nên dựa theo phần Phổ
Khuyến trong Long Thư Tịnh Độ Văn khiến
họ tùy phận tùy lực gieo thiện căn chẳng
thể nghĩ bàn này.
Nay đă muốn dạy người
th́ phải từ thân đến sơ, nỡ để thê
thiếp con cái chẳng được lợi ích này ư? Văn
Vương nêu gương cho vợ ḿnh, [gương
ấy] lan đến anh em, rồi lan ra khắp đất
nước khiến nước nhà yên ổn[62].
Tự hành, hóa tha trong thế gian hay xuất thế gian không
ai chẳng vậy. Ông chuyên cầu văng sanh, sáng sớm ngoài mười
niệm ra, phàm đi, đứng, nằm, ngồi, nói
năng, im lặng, động, tịnh, mặc áo, ăn
cơm, đại tiện, tiểu tiện, trong hết
thảy lúc, hết thảy chỗ, đều nên lấy
sáu chữ hồng danh đặt nơi tâm - miệng.
Nhưng ở chỗ đúng pháp, đúng thời th́
niệm ra tiếng hay niệm thầm đều tùy nghi.
Nếu nhằm lúc đại tiểu tiện, ngủ
nghỉ, chỉ nên niệm thầm, chớ niệm ra
tiếng. Niệm thầm công đức vẫn bằng
như niệm ra tiếng. Niệm ra tiếng th́ không cung
kính, nếu nằm niệm lại c̣n bị tổn khí,
không thể không biết!
Phải biết Tây Phương
Cực Lạc thế giới đừng nói là phàm phu không
hiểu, ngay cả thánh nhân Tiểu Thừa cũng không
thể hiểu nổi, bởi pháp này thuộc về
cảnh giới Đại Thừa chẳng thể nghĩ
bàn vậy. Tiểu thánh hồi tâm hướng Đại
mới ḥng đạt tới. Phàm phu nếu không dùng tín - nguyện
để cảm Phật, dẫu có tu hết thảy các
hạnh thù thắng khác cùng với hạnh tŕ danh thù
thắng vẫn chẳng thể văng sanh. Do vậy, tín - nguyện
là khẩn yếu nhất. Ngài Ngẫu Ích nói: “Được văng sanh hay không
toàn là do có tín nguyện hay không? Phẩm vị cao hay
thấp toàn là do tŕ danh sâu hay cạn”, đấy chính là
lời phán định đanh thép dẫu ngàn đức
Phật xuất thế cũng không thay đổi
được. Tin cho tới nơi, đảm bảo ông
sẽ có phần nơi Tây Phương (A Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ
Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh – c̣n gọi là Thập
Lục Quán Kinh, gọi là Tịnh Độ Tam Kinh. Thêm vào
Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm gọi là Tịnh
Độ Tứ Kinh, h́nh như chỉ có một bản
Tịnh Độ Tứ Kinh. C̣n như bản Vô
Lượng Thọ Kinh do ông Ngụy Thừa Quán khắc in
th́ lại y theo những kinh khác để tăng bổ
thêm. Về lư tuy là hữu ích, nhưng sự thật
lại sai lầm nhiều, không thể noi theo đó
được)
18. Thư trả lời
cư sĩ Cao Thiệu Lân (thư thứ tư)
Nhận được
thư, biết gần đây cư sĩ tu tŕ thân
thiết, tự trách, bớt lỗi, mong thành thánh thành
hiền, chẳng phải là uổng mang hư danh tu hành mà
thôi, mừng vui vô lượng. Phàm muốn học Phật,
Tổ liễu sanh tử, phải bắt đầu từ
hổ thẹn, sám hối, dứt ác tu thiện (hổ thẹn, sám hối,
dứt ác tu thiện chính là tự trách, giảm lỗi,
khắc kỷ, giữ lễ. Nếu có thể tự trách
sẽ tự nhiên ít lỗi, ít lỗi chính là thực hành
chuyện khắc kỷ. Đă khắc kỷ sẽ tự
nhiên giữ được lễ). Ăn chay, răn nhắc,
ư thật chân thành, thiết tha. Nhưng phải thật
sự thực hiện, tận lực mà làm. Nếu không
sẽ trở thành vọng ngữ bậc nhất trong các
vọng ngữ. Biết không khó, làm được mới
khó. Thế gian bao kẻ thông minh, đều chỉ nói
chứ không làm, hết cả đời này, uổng công
đến núi báu trở về tay không. Đáng đau
tiếc thay! Đáng đau tiếc lắm!
C̣n như vọng niệm đầy
dạ, thấp thoáng qua lại quấn quưt nơi ư
tưởng là v́ chưa thật sự đề khởi
chánh niệm vậy. Nếu như chánh niệm chân thành, khẩn
thiết, ắt ư tưởng sẽ xuôi theo chuyên chú chánh
niệm một cảnh vậy. Đấy gọi là
kiềm chế đúng pháp khiến cho giặc cướp
đều thành con đỏ. Kiềm chế sai
đường, dẫu chân tay cũng trở thành oán gia.
C̣n là phàm phu, ai không phiền năo? Phải đề pḥng
trước trong lúc b́nh thời; tự nhiên gặp cảnh
chạm duyên, phiền năo chẳng đến nỗi bộc
phát. Dẫu có phát cũng sẽ nhanh chóng giác chiếu
khiến phiền năo bị tiêu diệt.
Cảnh khởi phiền năo, nào
phải chỉ một, nhưng gây nên phiền năo nhiều
nhất chỉ có mấy cảnh như tài sắc và
thuận - nghịch mà thôi. Nếu biết của cải vô
nghĩa, hại quá rắn độc, sẽ chẳng lâm
vào cảnh phiền năo v́ lấy của cẩu thả.
[Biết] tạo phương tiện cho người,
rốt cuộc vẫn là tạo tiền tŕnh cho chính ḿnh,
sẽ không bị phiền năo khi gặp kẻ cùng quẫn,
cấp bách, hoạn nạn cầu cứu mà do tiếc
của chẳng chịu giúp cho. Về sắc th́ dẫu
đối trước dung mạo như hoa, như
ngọc, thường giữ ư tưởng coi như
chị, như em. Dẫu nh́n thấy kỹ nữ, vẫn
nghĩ như thế, sanh ḷng thương xót, sanh tâm độ
thoát, sẽ không bị phiền năo thấy sắc
đẹp động ḷng ham muốn. Vợ chồng kính
trọng nhau như khách, coi thê thiếp như ân nhân giúp ḿnh
có con nối dơi, chẳng dám coi họ như món đồ
thỏa dục hành lạc th́ không bị phiền năo do ham
sắc dục đến nỗi diệt thân, vợ không
thể sanh, con không thể thành lập. Dạy dỗ,
uốn nắn con cái từ nhỏ sẽ không có phiền
năo con cái ngỗ nghịch cha mẹ, bại hoại môn
phong. C̣n như gặp cảnh ngang trái phải sanh ḷng
thương xót, thương nó vô tri, không biết suy xét.
Lại nên nghĩ do ḿnh đời trước từng năo
hại nó nên nay mới gặp cảnh này ḥng trả nợ
xưa, tâm sanh hoan hỷ sẽ không có phiền năo ngang trái
báo thù. Nhưng những điều vừa nói trên đây là
dành dạy cho kẻ sơ cơ.
Nếu là bậc đại sĩ tu
lâu đă rơ Ngă Không th́ vô tận phiền năo đều hóa
thành đại quang minh tạng. Ví như đao do mài mà bén,
vàng do luyện được thuần, sen do bùn lầy bón
tưới mới được thanh tịnh sáng
sạch. Cảnh không tự tánh, tổn hại hay ích
lợi là do người. Tam nghiệp, tứ nghi (tứ nghi là đi,
đứng, nằm, ngồi) thường giữ như “bốn
điều không” của Nhan Uyên. Ngũ Giới, Thập
Thiện phải học theo “ba lần phản tỉnh”
của Tăng Tử. Dẫu nhà tối không ai thấy,
nhưng thiên địa, quỷ thần đều
biết. Niệm vừa mới manh nha, ẩn kín, vi tế,
tội - phước đă phân định rạch ṛi
một trời, một vực! Nếu có thể tu tỉnh
như vậy, sẽ thấy mọi cử động
đều lành, ác chẳng thể sanh từ đâu cho
được! Đây chính là quy củ rộng lớn
của việc chánh tâm thành ư, chớ cho là đạo Thích vụn
vặt, chẳng giản dị, nhanh chóng như đạo
Nho.
Nếu luận về pháp môn Niệm
Phật th́ chỉ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm
tông yếu, đầy đủ ba pháp quyết
định văng sanh. Nếu không tin thật, nguyện
thiết, dẫu có chân hạnh cũng chẳng thể văng
sanh, huống ǵ tu hành hời hợt, hờ hững ư?
Ngài Ngẫu Ích đă nói: “Được
sanh hay không toàn là do có tín nguyện hay không. Phẩm vị
cao hay thấp là do tŕ danh sâu hay cạn”. Đấy chính
là lời bàn luận thường hằng ba đời
chẳng đổi được, là đạo mầu
độ khắp ba căn vậy, phải dốc toàn thân
dựa theo đó mới ḥng chứng được ích
lợi thật sự. Ba điều Tín - Nguyện - Hạnh
đều được giải thích tường tận
trong sách Thập Yếu, nhưng trọng yếu nhất là
phần thứ ba là phần Minh Tông (minh định tông
chỉ của một bản kinh) thuộc đoạn
Ngũ Trùng Huyền Nghĩa của sách Yếu Giải
đă phát huy ba pháp này đến mức tinh xác, tường
tận nhất. Trong những phần sau, đoạn nào,
tiết nào cũng đều chỉ bày, hăy nên đọc
kỹ, không thể viết đầy đủ hết.
C̣n như niệm Phật, tâm khó quy
nhất, hăy nên nhiếp tâm khẩn thiết niệm, sẽ
tự có thể quy nhất. Pháp nhiếp tâm không pháp nào
chẳng trước hết phải chí thành khẩn
thiết. Tâm không chí thành mà muốn nhiếp tâm th́ không có
cách nào cả! Nếu đă chí thành mà vẫn chưa
thuần nhất, hăy nên lắng tai nghe kỹ, bất
luận niệm ra tiếng hay niệm thầm, đều
phải niệm từ tâm khởi, tiếng từ miệng
lọt ra, âm thanh lọt vào tai (niệm thầm dẫu miệng không động,
nhưng trong ư vẫn có tướng miệng niệm), tâm - miệng
niệm cho rơ ràng, rành mạch, tai nghe cho rơ ràng, rành mạch.
Nhiếp tâm như thế, vọng niệm tự dứt.
Nếu vọng niệm vẫn c̣n
nổi sóng, th́ dùng pháp Thập Niệm Kư Số, tức là
đem sức lực toàn tâm đặt nơi một
tiếng Phật hiệu, dẫu muốn khởi vọng
cũng không có sức. Diệu pháp nhiếp tâm niệm
Phật rốt ráo này xưa kia các vị hoằng truyền
Tịnh Độ chưa đề cập đến là v́
căn tánh con người [khi ấy] c̣n thông lợi,
chẳng cần phải làm như thế mới có thể
quy nhất được! Ấn Quang do tâm khó chế
phục, mới biết cái hay của pháp này. Càng thử
càng thấy hay, chẳng phải là nói ṃ đâu nhé.
Nguyện khắp thiên hạ những kẻ độn
căn đời sau đều cùng sử dụng khiến
cho vạn người tu vạn người về.
Pháp Thập Niệm Kư Số vừa
nói đó chính là trong lúc niệm Phật, từ một câu
đến mười câu phải niệm cho phân minh,
lại phải nhớ phân minh, đến mười câu là
thôi. Lại phải niệm từ một câu đến
mười câu, chẳng được niệm hai
mươi, ba mươi. Niệm đâu nhớ
đấy, không được lần chuỗi, chỉ
dựa vào tâm để nhớ. Nếu nhớ thẳng vào
mười câu thấy khó th́ chia thành hai hơi, tức là
từ câu thứ nhất đến câu thứ năm và
từ câu thứ sáu đến câu thứ mười.
Nếu vẫn thấy mệt, nên từ câu một
đến câu ba, từ câu bốn đến câu sáu, từ
câu bảy đến câu mười, chia làm ba hơi
để niệm. Niệm cho rơ ràng, nhớ cho rơ ràng, nghe
cho rơ ràng, vọng niệm không chỗ chen chân, nhất tâm
bất loạn, niệm lâu ngày sẽ tự
được.
Phải biết mười niệm
này giống như cách nhiếp vọng bằng pháp Thập
Niệm buổi sáng, nhưng công dụng khác xa. Buổi sáng
mười niệm th́ hết một hơi là một
niệm, chẳng luận số câu niệm Phật
nhiều - ít. Cách này lấy một câu Phật hiệu làm
một niệm, c̣n cách kia chỉ có thể niệm mười
hơi vào buổi sáng. Nếu niệm hai mươi, ba
mươi hơi sẽ tổn khí thành bệnh. Cách
niệm này một niệm là một câu Phật hiệu, tâm
biết một câu, niệm mười câu Phật hiệu,
tâm biết mười câu. Từ một đến
mười, rồi lại từ một đến
mười, dẫu cả ngày niệm mấy vạn
tiếng cũng đều nhớ như thế. Chẳng
những trừ vọng lại c̣n dưỡng thần
tốt nhất. Niệm mau hay chậm trọn không trở
ngại, từ sáng đến tối, không ǵ không thích
hợp.
So với cách lần chuỗi nhớ
số, lợi ích khác nhau một trời một vực.
Cách kia (tức cách niệm bằng lần chuỗi) thân
mệt, thần động, cách này thân nhàn tâm an. Nhưng
lúc làm việc nếu khó nhớ số th́ cứ khẩn
thiết niệm thẳng. Làm việc xong, lại nhiếp
tâm nhớ số như cũ. Dẫu ư niệm loang loáng
đến đi, cũng vẫn quẩn quanh chuyên chú
nơi một cảnh Phật hiệu. Đại Thế
Chí nói: “Nhiếp trọn sáu
căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma
Địa, ấy là bậc nhất”. Kẻ lợi
căn chẳng cần phải nói nữa, nếu là
hạng độn căn như bọn ta, bỏ pháp
Thập Niệm Kư Số này, muốn nhiếp trọn sáu
căn, tịnh niệm tiếp nối, thật khó khăn
lắm!
Lại phải biết pháp nhiếp
tâm niệm Phật này tuy cạn mà sâu, tuy nhỏ mà lớn,
là pháp chẳng thể nghĩ bàn. Chỉ nên thường
ngửa tin lời Phật, chớ v́ ḿnh thấy không
đến nơi đến chốn bèn sanh nghi hoặc,
đến nỗi thiện căn nhiều kiếp do
đây bị mất, chẳng thể rốt ráo tự
đạt được lợi ích thật sự,
đáng buồn lắm! Lần chuỗi niệm Phật
chỉ nên làm trong hai lúc đi và đứng. Nếu
tịnh tọa dưỡng thần, do tay động nên
thần chẳng an, lâu ngày thành bệnh. Pháp Thập
Niệm Kư Số này đi, đứng, nằm, ngồi,
không ǵ chẳng thích hợp. Lúc nằm chỉ nên niệm
thầm, không được niệm ra tiếng. Nếu
niệm ra tiếng th́ một là bất kính, hai là tổn
khí, hăy nhớ kỹ, nhớ kỹ!
Cư sĩ nay đă gần năm
mươi, thân bị ràng buộc, chưa tham tầm tri
thức, muốn liễu thoát trong đời này hăy chỉ
nên chuyên chú một môn Tịnh Độ. Kim Cang, Pháp Hoa hăy
gác ra ngoài, đợi đến khi thông suốt Tịnh
Độ, đă đắc nhất tâm rồi mới
lại nghiên cứu cũng không muộn. Nếu theo
đuổi ngay trong lúc này, e trí lực không đủ,
được cái kia mất cái này. Một pháp chưa tinh,
hai điều lợi đều mất! Sách Giản Ma
Biện Dị Lục thuộc Thiền Tông, dẫu bậc
thông đạt giáo lư sâu xa c̣n chưa dễ ǵ biết
được, huống là cư sĩ! Phàm những sách
vở của Thiền Tông, nhất loạt chớ nghiên
cứu, bởi Thiền Tông “ư
tại ngôn ngoại”, nếu dựa theo mặt chữ
để hiểu nghĩa sẽ hiểu lầm Phật
pháp, do nhân lành chuốc lấy quả ác! Thích Thị Kê
Cổ Lược là sách sử truyện, lấy Thiền Tông
làm chánh. Phàm những sách như thế hăy gác lại chớ
nghiên cứu th́ mới nên.
Tôi thường nói: “Muốn
được lợi ích thật sự nơi Phật
pháp, phải cầu nơi cung kính. Có một phần cung
kính th́ diệt được một phần tội
nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có
mười phần cung kính, diệt mười phần
tội nghiệp, tăng mười phần phước
huệ. Nếu trọn chẳng cung kính, dẫu gieo
được viễn nhân, nhưng cái tội khinh nhờn
chẳng thể tưởng được nổi!”
Phàm thấy hết thảy những người tín tâm,
đều đem ư này bảo họ. Đây chính là thật
nghĩa quyết định từ sơ tâm cho đến
rốt ráo. Nếu coi đó là lời bàn cổ hủ
của ông Tăng hủ bại th́ chính là tự hại,
tự vứt bỏ, nào phải là cô phụ Ấn Quang, mà
là cô phụ chính ḿnh đó thôi!
19. Thư gởi cư
sĩ Trần Tích Châu
Như Lai xuất
thế, thuyết pháp độ sanh, vốn muốn cho
hết thảy chúng sanh ngay đây được liễu
sanh thoát tử, tự chứng vô thượng giác
đạo mà thôi. Nhưng do căn cơ không b́nh
đẳng, chẳng thể rốt ráo diễn giảng thông
suốt bản hoài của Phật, chỉ đành tùy
thuận cơ nghi, khéo dẫn dụ dần dần.
Với kẻ đại căn bàn thẳng lẽ xứng
tánh, giảng cho Phật thừa khiến họ ngay trong
đời này viên chứng Phật quả, như Thiện
Tài trong kinh Hoa Nghiêm, như Long Nữ trong kinh Pháp Hoa v.v…
Hạng kém hơn th́ giảng Bồ
Tát thừa, Thanh Văn thừa khiến họ dần
dần tu tập, dần dần chứng quả. Thấp
hơn nữa th́ giảng Ngũ Giới, Thập Thiện,
khiến cho họ chẳng đọa ác đạo,
được thân trời, người, dần dần
gieo thiện căn, tùy thiện căn đă gieo lớn hay
nhỏ, trong tương lai sẽ nơi pháp tam thừa, tùy
thiện lực đời trước phát hiện mà
hoặc là nương vào Bồ Tát thừa, tu lục
độ vạn hạnh, tự chứng được
Pháp Thân, hoặc nương theo Duyên Giác - Thanh Văn
thừa, ngộ Thập Nhị Nhân Duyên và pháp Tứ
Đế để đoạn Hoặc chứng chân ḥng có
thể siêu xuất luân hồi, liễu sanh thoát tử.
Những pháp môn này tuy lớn - nhỏ
bất đồng, tiệm - đốn đều khác,
nhưng mỗi một pháp đều phải do sức
chính ḿnh tu tập sâu xa mới ḥng đoạn Hoặc chứng
chân, mới có thể vượt thoát luân hồi, liễu
sanh thoát tử. Nếu trong tam giới, hai thứ Kiến
Hoặc, Tư Hoặc dẫu c̣n sót lại mảy may chẳng
đoạn th́ căn bản sanh tử chưa thể
cắt đứt, dẫu có sức Định Huệ sâu,
vẫn cứ y như cũ không nhờ đâu
được giải thoát. Ngay như Tam Quả thánh nhân
c̣n phải sanh trong Ngũ Bất Hoàn thiên[63], phải qua
nhiều kiếp mới chứng Tứ Quả. Nếu
chứng Tứ Quả th́ căn bản sanh tử
đoạn sạch không sót; nhưng chỉ là Tiểu
Quả Thanh Văn, vẫn phải đem Tiểu Quả ḿnh
đă chứng hướng về đại đạo
của Như Lai, thừa nguyện thọ sanh trong
mười phương thế giới, rộng hành
lục độ vạn hạnh. Trên cầu Phật
đạo, dưới độ chúng sanh, tùy theo công
hạnh của chính ḿnh sâu hay cạn, là Tiệm hay
Đốn sẽ dần dần dự vào các địa
vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Đẳng Giác. Đến Đẳng Giác lại
phá một phẩm vô minh, chứng một phần tam
đức[64], liền nhập
địa vị Diệu Giác thành Phật.
Trong giáo pháp cả một đời
Như Lai, những pháp môn đă nói tuy vô lượng vô biên,
nhưng địa vị chứng nhập rốt ráo
chẳng thể vượt ngoài những địa vị
như vậy. Tuy Thiền Tông chỉ thẳng tâm
người, kiến tánh thành Phật, thật là viên
đốn thẳng chóng, nhưng kiến tánh thành Phật
là ước trên Pháp Thân vốn có, chứ chẳng luận
trên nhân quả tu chứng của phàm thánh. Nếu luận
theo địa vị tu chứng th́ cũng trọn
chẳng khác ǵ đường lối của bên Giáo.
Nhưng trong đời mạt, căn tánh con người
hèn kém, tri thức hiếm hoi, c̣n khó t́m được
người ngộ, huống hồ bậc thật
chứng!
Như Lai biết các chúng sanh chỉ
cậy vào tự lực khó thể liễu thoát, nên ngoài hết
thảy các pháp môn, riêng mở một môn Niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ: Chỉ cần chân tín,
nguyện thiết tha, dẫu kẻ Ngũ Nghịch,
Thập Ác tội lỗi cực nặng, lúc mạng
sắp dứt, tướng địa ngục hiện, có
thiện tri thức dạy cho niệm Phật. Nếu
niệm Phật được mười tiếng,
hoặc chỉ mấy tiếng, hoặc chỉ một
tiếng, cũng được Phật từ lực
tiếp dẫn văng sanh. Huống hồ những ai tu hành
sự thiện thế gian, chẳng tạo các điều
ác? Nếu là người tinh tu phạm hạnh, sức
thiền định sâu th́ phẩm vị văng sanh càng cao,
thấy Phật nghe pháp thật chóng. Dẫu là người
đại triệt đại ngộ, đoạn Hoặc
chứng chân cũng cần hồi hướng văng sanh
để mong viên chứng Pháp Thân, mau thành Phật quả.
Các pháp môn khác pháp nhỏ th́
đại căn chẳng cần tu, pháp lớn th́ tiểu
căn chẳng thể tu nổi! Chỉ có một môn
Tịnh Độ này, độ khắp ba căn, lợi -
độn gồm thâu. Trên th́ như Quán Âm, Thế Chí,
Văn Thù, Phổ Hiền chẳng thể vượt ra
ngoài pháp này, dưới th́ Ngũ Nghịch, Thập Ác,
chủng tánh A Tỳ địa ngục cũng có thể
dự vào. Nếu Như Lai chẳng mở ra pháp này th́ chúng
sanh đời mạt muốn trong đời này liễu
sanh thoát tử trọn chẳng có hy vọng ǵ! Tuy pháp môn
này rộng lớn như thế, nhưng cách tu lại
cực giản dị. Do vậy, nếu không phải là
kẻ đời trước có thiện căn Tịnh Độ
sẽ khó thể tin chắc không nghi. Chẳng những phàm
phu không tin, Nhị Thừa c̣n đa nghi. Chẳng những
Nhị Thừa không tin, quyền vị Bồ Tát rất có
thể c̣n ngờ. Chỉ có Đại Thừa Bồ Tát
thuộc những địa vị sâu xa mới có thể
triệt để thỏa đáng tin tưởng không nghi.
Có thể sanh ḷng tin sâu xa đối
với pháp này, dẫu là phàm phu đầy dẫy triền
phược th́ chủng tánh ấy đă trội
vượt bậc Nhị Thừa. Ví như thái tử
rớt xuống đất, vẫn cao quư hơn quần
thần. Tuy tài đức chưa lập, nhưng cậy vào
sức vua, cảm được báo như thế. Người
tu Tịnh Độ cũng giống như vậy. Do dùng
tín nguyện tŕ danh hiệu Phật, bèn có thể đem cái
tâm phàm phu gieo vào biển giác của Phật, cho nên ngầm
thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu. Muốn
nói pháp tu Tịnh Độ mà không nêu đại
lược sự khó khăn của các pháp cậy vào
tự lực để liễu thoát, và sự dễ dàng
của pháp cậy vào Phật lực văng sanh này th́ nếu
không nghi pháp cũng sẽ nghi chính ḿnh. Nếu có mảy may
tâm nghi sẽ do nghi mà thành chướng. Đừng nói ǵ
không tu, dẫu có tu cũng chẳng thể được
lợi ích thật sự rốt ráo. Do vậy phải nói: Một
pháp Tín phải gấp gáp suy cầu, ngơ hầu tạo ḷng
tin sâu xa đến cùng cực vậy!
Nói đến Tín th́ phải tin Sa Bà
quả thật là khổ, Cực Lạc quả thật là
vui. Sa Bà khổ vô lượng vô biên, nói tóm lại chẳng
ngoài tám khổ, tức là: sanh, già, bệnh, chết,
thương yêu phải xa ĺa, oán ghét phải gặp gỡ,
cầu không được, Ngũ Ấm hừng hực.
Tám nỗi khổ này dù sang đến cực phẩm hay hèn
như ăn mày, ai nấy đều có. Bảy nỗi
khổ đầu là quả do đời quá khứ cảm
thành. Suy nghĩ kỹ ắt tự biết, không cần
phải viết tường tận, nói nhiều quá tốn
bút mực. Cái khổ thứ tám là Ngũ Ấm hừng hực
chính là hiện tại khởi tâm động niệm và
những hành động, nói năng, chính là nhân của cái
khổ trong vị lai. Nhân quả kéo dắt nhau, nối
tiếp không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác,
không thể giải thoát!
Ngũ Ấm chính là Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Sắc chính là cái thân do nghiệp
báo cảm thành. Thọ, Tưởng, Hành, Thức chính là cái
tâm khởi huyễn vọng khi tiếp xúc cảnh. Do
những pháp “thân tâm huyễn
vọng” này bèn khởi Hoặc tạo nghiệp
nơi sáu trần cảnh như lửa cháy hừng hực
chẳng thể ngưng tắt nên gọi là “xí thạnh” (cháy hừng
hực) vậy. Ngoài ra, Ấm 陰(bộ Phụ) có nghĩa là che kín,
đồng nghĩa với chữ Ấm 蔭 (cũng có nghĩa
là che lấp, bộ Thảo), do năm pháp này che lấp chân
tánh chẳng thể hiển hiện, như mây dầy che
khuất mặt trời. Tuy mặt trời tỏa sáng
rực rỡ, trọn chẳng bị tổn giảm,
nhưng v́ mây che, nên chẳng chiếu sáng được.
Phàm phu chưa đoạn Hoặc nghiệp, bị năm
Ấm này chướng ngăn, mặt trời trí huệ
nơi bầu trời chân tánh chẳng thể hiển
hiện, cũng giống như thế. Sự khổ thứ
tám này là gốc của hết thảy các khổ.
Người tu đạo sức
Thiền Định sâu, đối với cảnh giới
sáu trần, trọn chẳng chấp trước, chẳng
khởi yêu - ghét. Từ đây gia công dụng hạnh,
tiến lên chứng Vô Sanh, Hoặc nghiệp sạch
hết, cắt đứt gốc rễ sanh tử.
Nhưng công phu này thật chẳng dễ dàng, trong
đời Mạt đạt được thật khó. V́
thế nên chuyên tu Tịnh nghiệp, cầu sanh Cực
Lạc, nương Phật từ lực, văng sanh Tây
Phương. Đă được văng sanh th́ liên hoa hóa sanh,
không có các khổ. Thuần là tướng đồng nam (bé
trai), thọ như hư không, thân không tai biến. Những
cái tên như già, bệnh, chết v.v… chẳng c̣n nghe
đến, huống ǵ thật có. Theo chân thánh chúng, thân
cận Di Đà, nước, chim, cây cối đều
diễn pháp âm, tùy căn tánh ḿnh do nghe pháp bèn chứng. Thân
c̣n trọn chẳng thể được, huống ǵ có
oán! Nghĩ đến áo bèn có áo, nghĩ ăn bèn có ăn;
lầu, gác, nhà, viện đều do bảy báu hợp
thành, chẳng nhọc sức người, chỉ là hóa ra.
Biến bảy sự khổ nơi Sa Bà thành bảy
niềm vui. Lại thêm thân có đại thần thông, có
đại oai lực, chẳng ĺa chỗ ḿnh liền có
thể trong một niệm ở khắp trong mười
phương thế giới chư Phật làm các Phật
sự, thượng cầu hạ hóa. Tâm có đại trí
huệ, có đại biện tài, từ một pháp biết
Thật Tướng của các pháp. Tùy cơ thuyết pháp
không lầm lạc, dẫu nói bằng ngôn ngữ Thế
Đế nhưng đều khế hợp diệu lư
Thật Tướng, không có nỗi khổ Ngũ Ấm
hừng hực, hưởng niềm vui thân tâm tịch
diệt. V́ thế kinh nói: “Không
có các khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên gọi là
Cực Lạc”.
Sa Bà khổ, khổ không nói nổi;
Cực Lạc vui, vui chẳng ví tầy. Tin sâu lời
Phật, trọn chẳng nghi hoặc mới gọi là chân
tín. Chớ nên dùng tri kiến phàm phu ngoại đạo
lầm sanh suy lường, bảo các thứ thù thắng
trang nghiêm mầu nhiệm trong Tịnh Độ
đều là ngụ ngôn, tỷ dụ tâm pháp, chẳng
phải là cảnh thật! Nếu có sự thấy
biết tà vạy, sai lầm như thế sẽ mất
lợi ích thật sự được văng sanh Tịnh
Độ, tai hại quá lớn! Không thể không biết!
Đă biết Sa Bà là khổ, Cực
Lạc là vui, hăy nên phát tín nguyện thiết thực,
nguyện ĺa Sa Bà khổ, nguyện được Cực
Lạc vui. Nguyện khẩn thiết như đang té trong
hầm xí mong gấp được thoát ra. Lại như
đang bị trói buộc trong lao ngục, tha thiết
nhớ đến quê nhà. Sức ḿnh chẳng thể tự
ra, ắt phải cầu người có đại thế
lực kéo ra. Hết thảy chúng sanh trong thế giới Sa
Bà đối với cảnh thuận hay nghịch, khởi
tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, ô uế diệu
giác minh tâm sẵn có, khác nào hầm xí không đáy. Đă
tạo ác nghiệp phải chịu ác báo, trải kiếp
dài lâu, luân hồi lục đạo, không được
tha khỏi lao ngục.
A Di Đà Phật trong kiếp xưa,
phát ra bốn mươi tám nguyện độ thoát chúng
sanh, có một nguyện là: “Nếu
có chúng sanh nghe danh hiệu ta, cầu sanh nước ta,
dẫu chỉ mười niệm, nếu như chẳng
sanh, chẳng lấy Chánh Giác”. A Di Đà Phật thệ
nguyện độ sanh. Nếu chúng sanh chẳng cầu
tiếp dẫn, Phật cũng chẳng làm ǵ
được! Nếu chí tâm xưng danh, thệ cầu
xuất ly Sa Bà, không ai chẳng được Phật
rủ ḷng từ nhiếp thọ. A Di Đà Phật có
đại thế lực, cứu được
người trong hầm xí không đáy, trong lao ngục không
tha, ngay đó được xuất ly, đều
được đặt yên nơi quê nhà Cực Lạc
vốn có, khiến được nhập Phật cảnh
giới, thọ dụng giống như Phật.
Muốn sanh Tây Phương, trước
hết phải có ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha.
Nếu không có ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha,
dẫu có tu hành, chẳng thể cảm ứng đạo
giao cùng Phật, chỉ được phước báo nhân
thiên và thành cái nhân đắc độ trong tương lai
mà thôi. Nếu tín nguyện đầy đủ th́ vạn
người tu vạn người về, không sót một
ai. Tổ Vĩnh Minh nói: “Vạn
người tu, vạn người về” là chỉ
những người có đủ tín nguyện. Đă có đủ
ḷng tin chân thành, nguyện thiết tha, nên lấy niệm
Phật làm Chánh Hạnh. Dùng Tín - Nguyện để
dẫn đường, Niệm Phật là Chánh Hạnh. Ba
thứ Tín - Nguyện - Hạnh là tông yếu của pháp môn
Niệm Phật. Có Hạnh nhưng không Tín -Nguyện,
chẳng thể văng sanh. Có Tín - Nguyện không Hạnh
cũng chẳng thể văng sanh. Ba thứ Tín - Nguyện -
Hạnh đầy đủ không khuyết, quyết
định văng sanh. Được văng sanh hay không hoàn toàn
do Tín - Nguyện có hay không; phẩm vị cao hay thấp hoàn
toàn do tŕ danh sâu hay cạn.
Nói đến Chánh Hạnh Niệm
Phật th́ tùy theo sức ḿnh mà lập, chẳng
được chấp cố định một pháp.
Nếu như thân không bận việc, cố nhiên phải
từ sáng đến tối, từ tối đến sáng,
đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng,
động, tịnh, mặc áo, ăn cơm, đại
tiện, tiểu tiện, trong hết thảy thời,
hết thảy chỗ, giữ cho một câu hồng danh
thánh hiệu này chẳng ĺa tâm - miệng. Nếu khi tắm
táp, súc miệng thanh tịnh xong, mũ áo tề chỉnh, và
ở nơi thanh khiết th́ niệm ra tiếng hoặc
niệm thầm đều được. Nếu lúc
ngủ nghỉ, lơa lồ, tắm rửa, đại
tiểu tiện và lúc đến những nơi ô uế
không sạch, chỉ nên thầm niệm, chớ nên niệm
ra tiếng. Công đức niệm thầm cũng giống
vậy. Niệm ra tiếng là không cung kính, chứ không
phải là ở những nơi, những lúc ấy, không
được niệm Phật! Phải biết: Trong
những nơi, những lúc ấy, không được
niệm ra tiếng. Thêm nữa, lúc nằm nếu niệm
ra tiếng, chẳng những không cung kính mà c̣n đến
nỗi bị tổn khí, không thể không biết!
Tuy là trường thời niệm
Phật không gián đoạn, nhưng cần phải vào lúc
sáng sớm hướng về Phật lễ bái xong,
trước hết niệm kinh A Di Đà một biến,
niệm chú Văng Sanh ba biến, liền niệm bài kệ tán
Phật: “A Di Đà Phật thân
kim sắc...” Niệm xong, niệm Nam mô Tây Phương
Cực Lạc thế giới đại từ đại
bi A Di Đà Phật, tiếp đó chỉ niệm sáu
chữ nam mô A Di Đà Phật, hoặc là một ngàn
tiếng, hoặc năm trăm tiếng. Nên vừa đi
nhiễu vừa niệm. Nếu không tiện nhiễu th́
quỳ hoặc ngồi, hoặc đứng niệm
đều được. Lúc niệm sắp xong, trở
về chỗ quỳ, niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh
Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát mỗi danh
hiệu ba lần. Rồi mới niệm bài Tịnh
Độ Văn để phát nguyện hồi
hướng văng sanh. Niệm bài Tịnh Độ văn
th́ phải theo văn nghĩa mà phát tâm. Nếu chẳng y
theo văn nghĩa mà phát sẽ trở thành uổng công
đọc văn xuông, chẳng được lợi ích
thật sự. Đọc Tịnh Độ Văn xong,
niệm Tam Quy Y, lễ bái lui ra. Đấy là công khóa
buổi sáng; buổi tối cũng giống như vậy.
Nếu muốn lễ bái nhiều
hơn th́ trong lúc niệm Phật, lúc trở về chỗ
th́ ngoài việc lễ Phật bao nhiêu đó, lúc xưng danh
hiệu Bồ Tát chín lần, bèn lễ chín lạy. Lễ
xong bèn phát nguyện hồi hướng, hoặc sau khi niệm
xong công khóa bèn lễ bái, miễn sao thuận tiện cho ḿnh
đều được. Nhưng phải khẩn
thiết chí thành, chẳng được láo nháo qua loa.
Bồ đoàn không được quá cao, nếu cao sẽ thành
ra không cung kính.
Nếu công việc đa đoan,
hầu như không rảnh rỗi, nên vào lúc sáng sớm, súc
miệng xong, nếu có tượng Phật bèn lạy ba
lạy, đứng ngay ngắn chắp tay, niệm nam mô A
Di Đà Phật, hết một hơi là một niệm.
Niệm đến mười hơi, bèn niệm bài
Tiểu Tịnh Độ Văn, hoặc chỉ niệm
bốn câu kệ “nguyện sanh
Tây Phương Tịnh Độ trung…” Niệm xong
lễ Phật ba lạy, rồi lui. Nếu không có
tượng Phật th́ hướng về Tây xá bái,
chiếu theo cách trên để niệm. Đây gọi là pháp
môn Thập Niệm do ngài Từ Vân Sám Chủ đời
Tống v́ hàng vua quan quá bận rộn chánh sự không
rảnh rỗi tu tŕ mà lập ra.
V́ sao phải niệm hết một
hơi? Do chúng sanh tâm tán, lại không rảnh rỗi để
chuyên niệm. Lúc niệm như thế, mượn hơi
thở nhiếp tâm, tâm tự chẳng tán. Nhưng phải
tùy theo hơi thở dài - ngắn, chẳng được
cưỡng niệm cho nhiều, hễ cưỡng niệm
sẽ bị tổn khí. Lại chỉ được
niệm mười niệm, chẳng được
niệm hai mươi, ba mươi hơi. Niệm
nhiều cũng tổn khí. Do tán tâm niệm Phật khó
được văng sanh nên pháp này có thể làm cho tâm quy
một chỗ, nhất tâm niệm Phật quyết
định văng sanh. Số câu niệm tuy ít, nhưng công
đức khá sâu. Kẻ cực nhàn hay cực bận
đều có pháp riêng, c̣n kẻ nửa nhàn nửa bận
hăy tự châm chước thời gian để
định pháp tắc tu tŕ.
Lại nữa, người niệm
Phật đối với mỗi sự phải giữ
ḷng trung hậu, khoan thứ, tâm luôn đề pḥng lỗi
hại. Biết lỗi liền sửa, thấy
điều nghĩa ắt làm, mới hợp với
Phật. Người như thế quyết định
văng sanh. Nếu không như thế là trái nghịch Phật,
quyết khó cảm thông. Lại phàm lễ bái đọc
tụng kinh điển Đại Thừa, và làm hết
thảy những chuyện có ích cho đời cho
người, đều đem chuyện đó hồi
hướng Tây Phương, chẳng nên chỉ đem
việc niệm Phật hồi hướng Tây
Phương, c̣n những công đức khác hồi
hướng cho phước báo thế gian. Làm vậy,
niệm chẳng quy nhất sẽ khó văng sanh. Phải
biết người thật sự niệm Phật
chẳng cầu phước báo thế gian, mà tự
được phước báo thế gian (như trường thọ, không
bệnh, gia đ́nh yên vui, con cháu phát đạt, các duyên
như ư, vạn sự cát tường v.v…) Nếu cầu
phước báo thế gian, chẳng chịu hồi
hướng văng sanh th́ phước báo thế gian
đạt được lại thành hèn kém, do tâm không
chuyên nhất, văng sanh lại càng khó quyết định!
Pháp môn Niệm Phật này kinh điển Đại
Thừa trong cả một đời giáo hóa [của
đức Phật] thảy đều tán dương. Trong
kinh Tiểu Thừa tuyệt chẳng nhắc đến.
Có kẻ không thông giáo lư, chê pháp này là Tiểu Thừa,
thật là vô tri tà thuyết, chớ nên nghe theo!
Lại những lời nói trong
những đàn cầu cơ, đa phần là những linh quỷ
dựa theo kiến thức của người cầu
cơ mà nói ra. Nếu nói về đạo lư thế gian may
ra chúng c̣n biết nhiều, chứ bàn về Phật pháp th́
không phải là điều chúng tự biết, bèn
đặt ra lời đồn đăi xằng bậy.
Như cuối sách Kim Cang Trực Giải, in kèm bảo
hiệu của tiên thiên cổ Phật, chính là diệt
huệ mạng, làm mù con mắt chánh pháp của
người khác, là lời tồi tệ cực ác khôn sánh.
Đem sách ấy thí cho người th́ tội lỗi vô
lượng!
Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao
Quyển
Thứ Nhất
(Phần
1 hết)
[1] Cương tông: cương lănh và tông chỉ.
[2] Cách thánh: Ư nói cách Phật, cách Bồ Tát và thánh chúng đă lâu.
[3] Ngũ tánh: năm tánh khác nhau của chúng sanh do chủng tử vốn có trong A Lại Da Thức quyết định. Đây là thuyết do tông Pháp Tướng lập ra, gồm:
1) Định tánh Bồ Tát.
2) Định tánh Duyên Giác
3) Định tánh Thanh Văn.
4) Bất định tánh tam thừa
5) Vô chủng tánh (hữu t́nh không có tánh)
[4] Tịnh vực tức là Tịnh Độ.
[5] Đại Hạnh là một vị Tăng sống vào thời Đường, người xứ Lịch Thành, Sơn Đông, không rơ họ tên. Ngài c̣n được gọi là Diệu Hạnh. Trong niên hiệu Càn Phù, giặc cướp nổi lên như ong, dân không sống yên được, Sư bèn vào Thái Sơn, kết cỏ làm áo, lột vỏ cây để ăn, chuyên hành sám pháp Pháp Hoa, Phổ Hiền suốt cả ba năm, cảm được Phổ Hiền Bồ Tát hiện thân. Do vậy càng thêm tinh tấn, sốt sắng nghĩ tưởng pháp của đức Như Lai, tu hành quên ăn bỏ ngủ. Về sau, nghĩ thân vô thường, lo thân sau không biết sẽ về đâu, bèn rút thăm một bản kinh để lựa pháp môn tu hành tối hậu. Ngài rút được kinh A Di Đà bèn sớm tối tŕ tụng, đến giữa đêm ngày thứ 21, thấy cơi đất lưu ly tịnh khiết sáng rực trước mặt, tâm nhăn rỗng rang, thấy được Phật A Di Đà và Quán Âm, Thế Chí cùng vô số hóa Phật. Từ đấy, Sư chuyên dùng pháp niệm Phật giáo hóa Tăng, tục. Đường Hy Tông nghe danh ngài, triệu vào cung giảng pháp yếu, sắc phong là Thường Tinh Tấn Bồ Tát, ban cho tước Khai Quốc Công. Một năm sau, Ngài thị hiện mắc bệnh, lại thấy đất lưu ly, bèn thị tịch trong ngày hôm đó, không rơ thọ bao nhiêu tuổi.
[6] Liên phong: Gió sen, chỉ pháp môn Tịnh Độ.
[7] Trung là trong nước, ngoại là ngoài nước. Cũng có nghĩa là tại Trung Hoa và những nước ngoài Trung Hoa.
[8] Mật tu hiển hóa: Bản thân ngầm tu Tịnh Độ, bề ngoài hoằng dương giáo pháp của tông ḿnh.
[9] Hóa tống: Làm đám ma và đưa đi thiêu hay chôn.
[10] Trường Lô Trách: Pháp sư tên là Tông Trách, người xứ Tương Dương, lúc nhỏ mồ côi, tinh thông sách Nho. Năm 29 tuổi, lễ Tú Thiền Sư ở chùa Trường Lô tại Chân Châu làm thầy thế độ, hiểu sâu xa lẽ Thiền. Sau tham yết ngài Trường Lô Ứng Phu đắc pháp, nối pháp của ngài. Sư đón mẹ về ở phía Đông phương trượng, khuyên mẹ nên xuống tóc, khuyên mẹ niệm Phật suốt bảy năm không gián đoạn. Mẹ niệm Phật qua đời. Về già, Sư xuất lănh tứ chúng kết liên xă chuyên tu niệm Phật, Sư ngồi niệm Phật qua đời năm 1092, thọ 83 tuổi. C̣n để lại hai tác phẩm là lời tựa Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh và Khuyên Người Niệm Phật Kiêm Tu Tịnh Độ.
Thiên Như Hoài: Húy là Nghĩa Hoài, người xứ Lạc Thanh, Vĩnh Gia. Cha làm nghề đánh cá, lúc bé, Sư ngồi cuối thuyền, cha bắt được con cá nào, bèn lén thả đi. Cha đánh mắng vẫn không thay đổi. Lớn lên, đến kinh đô, xin làm tiểu ở chùa Cảnh Đức. Trong niên hiệu Thiên Thánh (1023-1031), thi kinh trúng tuyển, được thọ Cụ Túc. Ngài đến tham học với Tuyết Đậu Hiển thiền sư, giữ chức thủy đầu (chuyên gánh nước), một bữa đ̣n gánh găy, chợt ngộ, được ấn khả. Sư giáo hóa độ chúng rất nhiều, thường đem pháp môn Tịnh Độ dạy người. Ai đến tham học cũng dạy: “Nếu nói ‘bỏ uế lấy tịnh, chán đây ưa kia là t́nh kiến lấy bỏ’ th́ là chúng sanh vọng tưởng. Nếu nói không có Tịnh Độ th́ là trái lời Phật, nên tu Tịnh Độ như thế nào?” Chúng im lặng, Sư tự đáp: “Sanh th́ quyết định sanh, đi th́ chẳng thật đi! Ví như nhạn bay qua trên không, bóng ch́m nước lạnh, nhạn trọn chẳng có ư để lại dấu vết, nước không có tâm giữ bóng h́nh”. Sư mất năm Trị B́nh nguyên niên (1064), thọ 72 tuổi.
Viên Chiếu Bổn: Húy là Tông Bổn, người xứ Vô Tích, Thường Châu. Năm 19 tuổi, xuất gia với ngài Đạo Thăng ở Vĩnh An Viện tại Thừa Thiên, về sau yết kiến ngài Thiên Như Hoài, được khế ngộ. Sư về trụ tŕ chùa Thụy Quang, được Tống Triết Tông ban hiệu Viên Chiếu Thiền Sư. Tuy hoằng dương Thiền Tông, nhưng Sư ngầm tu Tịnh nghiệp. Các vị Lôi Phong Tài Công, Tư Phước Hy Công nhập định, thần thức đến chơi Tịnh Độ, thấy trên ṭa sen vàng có đề tên Sư. Mọi người hỏi Sư: “Thầy truyền Trực Chỉ, sao lại được ghi danh trên đài sen?” Sư đáp: “Ở tại Tông Môn, kiêm tu Tịnh Độ!” Sư mất năm Nguyên Phù thứ hai (1099) đời Tống.
Đại Thông Bổn: Húy là Thiện Bổn, người xứ Khai Phong. Thi kinh Hoa Nghiêm đậu, được thọ Cụ Túc, tham yết ngài Viên Chiếu Bổn, thầm lănh ngộ yếu chỉ nhà Thiền, siêng tu suốt năm năm, khế ngộ. Sư vâng chiếu trụ tŕ chùa Pháp Vân, được ban hiệu là Đại Thông. Sau ngài về chùa Tượng Ô ở Hàng Châu, chuyên tu Tịnh nghiệp. Trong định thấy thân kim sắc của Phật A Di Đà. Năm Đại Quan thứ ba (1109) ngày Giáp Tư tháng Chạp, Sư gập ba ngón tay bảo môn nhân: “Chỉ c̣n ba ngày nữa thôi!” Ba hôm sau, Sư ngồi yên, hướng mặt về Tây, nhập diệt, thọ 75 tuổi.
Trung Phong Bổn: Húy là Minh Bổn, người xứ Tiền Đường. Năm 15 tuổi, quyết chí xuất gia, lễ Phật, đốt cánh tay, thề giữ Ngũ Giới, hằng ngày tụng Pháp Hoa, Viên Giác, Kim Cang, đêm thường đi kinh hành không ngủ. Sau qua tham với ngài Cao Phong Diệu thiền sư ở núi Thiên Mục. Do nh́n suối chảy được đại ngộ. Năm Đại Đức thứ 10 (1306) thời Nguyên, Sư về trụ tŕ Sư Tử Viện, thường được gọi là Trung Phong ḥa thượng.Tuy dạy Thiền, ngài vẫn đề cao Tịnh Độ. Từng soạn Hoài Tịnh Độ Thi gồm 108 bài, viết Báo Ân Viện Kư xiển minh Tịnh Độ. Đến năm Chí Trị thứ ba (1323), Sư về Đông Cương núi Thiên Mục, đang viết bèn thị tịch, thọ 61 tuổi. Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự là một sám nghi nổi tiếng của Ngài.
Thiên Như Tắc: Húy là Duy Tắc, pháp tự Thiên Như, người xứ Vĩnh Tân, huyện Cát An (Giang Tây), từng tham học với các vị Trung Phong, Đại Thiết, đắc ngộ, về trụ tŕ chùa Sư Tử Lâm ở Tô Châu. Ngài soạn Tịnh Độ Hoặc Vấn để phá các nghi hoặc, sách tấn Tịnh nghiệp và soạn bộ Lăng Nghiêm Kinh Hội Giải rất thạnh hành. Sư mất năm Chí Chánh 14 đời Nguyên (1354).
Sở Thạch Kỳ: Húy là Phạm Kỳ, người xứ Tượng Sơn, Ninh Ba. Lên chín xuất gia tại chùa Vĩnh Tộ, thọ Cụ Túc năm 18 tuổi. Đọc Lăng Nghiêm có chỗ ngộ, qua tham học với ngài Đoan Thiền Sư ở Kính Sơn. Một đêm, nghe tiếng trống bèn ngộ. Sư tin pháp môn Tịnh Độ từ nhỏ, mỗi sáng tu Thập Niệm cầu được văng sanh, chưa hề bỏ sót ngày nào. Khi về trụ tŕ chùa Thiên Ninh, Sư chuyên tu Tịnh nghiệp. Ngài dùng hiệu Tây Trai để làm thơ Tịnh Độ (được gộp thành Tây Trai Tịnh Độ Thi). Năm Hồng Vũ thứ ba (1370), Sư trụ tŕ chùa Thiên Giới, thị hiện mắc bệnh vào mùa Thu, tắm gội thay áo, viết kệ xong, bảo với Mộng Đường Khương pháp sư: “Ta đi đây!” Mộng Đường hỏi: “Đi đâu?” Đáp: “Tây Phương!’ Mộng Đường hỏi: “Tây Phương có Phật, Đông Phương chẳng có Phật sao?” Sư quát lớn, rồi nghiễm nhiên tịch diệt, thọ 75 tuổi.
Không Cốc Long: Húy là Cảnh Long, hiệu là Không Cốc, người Tô Châu. Từ bé chẳng ăn mặn, ngồi yên như đang nhập thiền. Xuất gia năm 28 tuổi, tham học với ngài Biện Sơn Lăn Vân ḥa thượng, được ấn khả. Sư kiêm tu Tịnh nghiệp, có làm 108 bài Tịnh Độ thi, Mất năm Thành Hóa thứ hai (1466) đời Minh, thọ 79 tuổi.
[11] Chỉ loạn Thái B́nh Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn.
[12] Đệ: lời tổ Ấn Quang tự xưng, coi ḿnh như vai em của ḥa thượng Thể An.
[13] Xiển Đề: Tức Nhất Xiển Đề, kẻ đoạn diệt thiện căn.
[14] Tử B́nh: Một môn bói toán, c̣n gọi là Bát Tự, dựa trên ngày, tháng, năm, giờ sanh để phán định số mạng, gần giống với Tử Vi, nhưng đơn giản hơn.
[15] Cỗ vua (vương thiện): ư nói pháp bảo tối thượng viên măn. Kinh Pháp Hoa, ngài Ca Chiên Diên ví ḿnh như kẻ được đăi bữa ăn của vua nhưng không dám ăn, dẫu nghe Phật nói ḿnh có khả năng thành Phật, nhưng không được thọ kư vẫn chưa dám tin.
[16] Tổ Ấn Quang là người tỉnh Thiểm Tây, Thiểm Tây xưa thuộc nước Tần thời Chiến Quốc.
[17] Những câu thiền ngữ giúp cho đương cơ triệt ngộ thiền cơ, c̣n gọi là chuyển ngữ hay công án.
[18] Tâm Tông: tức Thiền Tông.
[19] Tăng Phụng Nghi, tự Thuấn Vi, hiệu Kim Giản, quê ở Hành Dương, Hồ Nam, đậu Tiến Sĩ đời Vạn Lịch nhà Minh. Ông từng gặp một vị Tăng, cùng nhau tranh luận ba ngày không dứt. Do vậy tin Phật, tŕ giới, ăn chay, nghiên cứu kinh luận. Một hôm thấy trăng lặn, mặt trời mọc, hoát nhiên đại ngộ. Ông soạn bộ Tam Tông Thông gồm Thủ Lăng Nghiêm Kinh Tông Thông, Lăng Già Kinh Tông Thông và Kim Cang Kinh Tông Thông.
[20] Hộ quan: trông chừng, chăm sóc người đang bế quan tu luyện.
[21] Năm tông: năm tông phái nhà Thiền, tức Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Quy Ngưỡng và Pháp Nhăn.
[22] Lục Tức Phật: Sáu hạnh vị của Viên Giáo do Thiên Thai Trí Giả đại sư lập ra, gồm: Lư Tức Phật (chưa nghe Phật pháp, nhưng tự tánh chính là Phật), Danh Tự Tức Phật (đă nghe Phật pháp), Quán Hạnh Tức Phật (ngoại phàm, tương đương với Thập Tín của Biệt Giáo), Tương Tự Tức Phật (Nội Phàm, thuộc địa vị Thập Tín), Phần Chứng Tức Phật (bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, từ Thập Trụ trở lên), Cứu Cánh Tức Phật (quả vị Phật).
[23] Tức bài kệ tán “A Di Đà Phật thân kim sắc, tướng hảo quang minh vô đẳng luân”….
[24] Bảo sở: Nơi chốn có của báu. Kinh Pháp Hoa dùng chữ Bảo Sở để ví cho quả Chánh Giác.
[25] Kinh Pháp Hoa dùng tỷ dụ con ông trưởng giả cự phú, bỏ cha trốn sang xứ người, phải làm mướn kiếm ăn, không biết ḿnh sẵn có gia tài cự vạn. Cũng như chúng sanh có kho tàng tánh đức trong tự tâm, nhưng măi chạy theo ngũ dục, lục trần nhỏ nhặt, hư giả, bỏ quên kho báu tánh đức.
[26] Khi c̣n trẻ, do say mê Nho, tổ Ấn Quang từng viết sách công kích đạo Phật.
[27] Nguyên văn là “tân truyền”, tức cách nói gọn của thành ngữ Tân Tận Truyền Hỏa (củi hết lửa c̣n) ư nói học vấn được truyền thừa từ đời này sang đời khác.
[28] Lục Nhập: C̣n gọi là Lục Xứ, do sáu căn và sáu trần duyên nhau sanh ra nên gọi là Nhập. Sáu căn và sáu trần là chỗ nương của sáu thức nên c̣n gọi là sáu Xứ.
Thập Nhị Xứ: Mười hai pháp làm tăng trưởng tâm và tâm sở, gồm sáu căn (lục nội xứ, là sở y của tâm và tâm sở) và sáu trần (lục ngoại xứ, tức sáu cảnh được nhận biết bởi tâm).
Thập Bát Giới: mười tám pháp nơi thân con người gồm sáu thức, sáu căn và sáu cảnh sở duyên (sáu trần).
Thất Đại là Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến và Thức.
[29] Theo pháp
sư Hội Tánh, Hiển Cảm Lợi Minh Lục là bộ
sách do môn nhân thuật chuyện Quan Đế đến cầu
được khai thị với ngài Đế Nhàn. Theo Đế
Nhàn Niên Phổ ghi: “Năm Dân
Quốc thứ bảy (1918), Bắc Kinh mở hội
giảng kinh. Sư sai ông Từ Văn Úy chủ tŕ lo
liệu. Ông Từ thỉnh Sư giảng kinh Viên Giác, cho nên
mùa Xuân năm ấy, ông Từ về Nam, đến chùa Quán
Tông, đón Sư lên kinh đô… Lúc Sư giảng kinh tại
kinh đô, thành hoàng của kinh thành là ông Bạch giáng cơ
tại nhà ông Vũ Tấn Trạch tại ngơ Lưu Ly
ở phía Tây kinh thành, tự nói mỗi tối đến
chỗ Sư giảng nghe kinh, nay muốn hỏi pháp, sai
[người hầu cơ] đến thương lượng
mời Sư đến đàn cơ một phen, Sư
chấp thuận. Trước hết, thần nói bộ
hạ toàn là ngạ quỷ rất khổ, cầu xin pháp
cứu tế… Tiếp đó, nói Quan Thánh cũng muốn
hỏi pháp, hiềm là thần lực quá lớn, sợ người
hầu cơ không chịu đựng nổi, nên sai ông
Bạch chuyển lời, cho biết: Bất luận sau này
Sư giảng kinh tại đâu, ắt sẽ đến đạo
tràng ấy ủng hộ!”
[30] Chỉ Quan Đế, tức Quan Công (húy Quan Vũ, hiệu Vân Trường), thời Minh Thần Tông, ông được phong là Tam Giới Phục Ma Đại Đế Thần Oai Viễn Chấn Thiên Tôn Quan Thánh Đế Quân (do đó, dân gian thường gọi là Quan Thánh). Theo Phật Tổ Thống Kư, quyển 6, khi Trí Giả đại sư nhập định tại Ngọc Tuyền Sơn, thấy Quan Đế hiển linh, biến nơi ấy thành bằng phẳng, dâng cúng cho tổ Trí Giả lập đạo tràng hoằng pháp. Quan Đế lại xin cầu thọ Ngũ Giới với Tổ; từ đó, ông trở thành vị hộ pháp thủ hộ Già Lam. Do vậy, người Tàu c̣n gọi ông là Già Lam Bồ Tát.
[31] Quẻ Càn tượng trưng cho trời, quẻ Khôn tượng trưng cho Đất. Câu này ư nói: Trong ṿng trời đất.
[32] Đường Ngu là thời Nghiêu - Thuấn, vua Nghiêu (Y Kỳ Phóng Huân) đặt quốc hiệu là Đường, truyền ngôi cho Thuấn (Diêu Trọng Hoa), vua Thuấn đổi quốc hiệu là Ngu.
[33] Vạn Lịch là niên hiệu của Minh Thần Tông (1574-1619). Sau Thần Tông, nhà Minh chỉ truyền được ba đời nữa, tức là 25 năm sau bèn mất ngôi vào tay nhà Thanh.
[34] Gọi là Quán đạo v́ tông Thiên Thai đề xướng lối tu Chỉ Quán.
[35] Ngài Long Tŕ Huyễn Hữu (1521-1581), húy là Chánh Truyền, pháp tự Nhất Tâm, pháp hiệu Huyễn Hữu, là một thiền sư nổi tiếng của tông Lâm Tế, đắc pháp với sư Tiếu Nham Đức Bảo, bốn người đệ tử đắc pháp nổi tiếng là Mật Vân Viên Ngộ, Tuyết Kiểu Viên Tín, Khán Sơn Viên Tu, và Băo Phác Viên Liên.
[36] Tức ngài Ưu Ba Ly, vị đại đệ tử tŕ giới bậc nhất của Phật.
[37] Thí Tăng: Các tăng sĩ muốn được thọ giới phải đậu kỳ thi sát hạch về giáo pháp, kinh nghĩa.
[38] Từ ngữ này không thể dịch cho gọn nên phải để nguyên. Theo giáo sư Từ Quốc Đống tại Đại Học Hạ Môn, Trung và Cực là hai giá trị tối cao trong Nho Học, thể hiện đặc tính hợp lư hài ḥa của vũ trụ nhân sinh, tương đương với khái niệm Nhất Chân pháp giới của Phật giáo. Trung là không thiên lệch, hợp lư, thỏa đáng, Cực là cao đẹp tột bậc. Như vậy, “kiến trung lập cực” có thể hiểu là kiến lập hai mục đích nói trên.
[39] Nhập Tạng: Đưa những bản kinh Phật đă được chư cao tăng cổ đức công nhận vào Đại Tạng.
[40] Trộm linh ở đây liên quan đến từ ngữ “bịt tai trộm linh” (linh là cái chuông nhỏ có quả lắc). Đi ăn trộm cái linh, bịt tai lại để khỏi nghe tiếng linh kêu, cứ nghĩ người khác không biết.
[41] Bất Huệ: tổ Ấn Quang tự xưng, ngụ ư ḿnh không có trí huệ.
[42] Ngũ Tổ là tên núi, đồng thời là tên chùa. Sư Giới thiền sư, người thời Tống, thuộc tông Vân Môn, nối pháp của ngài Song Tuyền Sư Khoan, trụ tŕ chùa Ngũ Tổ núi Ngũ Tổ tại Tô Châu, nên thường gọi là Ngũ Tổ Giới, chấn hưng tông phong mạnh mẽ. Theo Tây Quy Trực Chỉ, quyển ba: “Thanh Thảo Đường thiền sư khá có giới hạnh, tuổi ngoài chín mươi, thường được nhà họ Tăng cúng dường hậu hĩ, bèn hứa thác sanh vào nhà ấy làm con. Sau họ Tăng sinh được một người con, cho người đến t́m Thảo Đường th́ sư đă tọa hóa”. Theo Viên Anh pháp sư, Thanh Thảo Đường là người đời Tống, là bậc tông tượng trong nhà Thiền, tuổi già, thấy vị tể tướng đă cáo lăo hồi hương hết sức vinh diệu, chợt khởi tâm niệm hâm mộ, bèn thác sanh vào nhà ấy. Về sau, trở thành tể tướng Tăng Lỗ Công. Do một tâm niệm tham luyến mà công hạnh tu Thiền cả đời bị vứt bỏ!
[43] Trần sát: cơi nước (Phật sát độ) nhiều như vi trần.
[44] Nhị Tổ Thần Quang cầu đạo với tổ Bồ Đề Đạt Ma, đứng ngoài cửa chờ Tổ đáp lời đến nỗi tuyết ngập đến tận đầu gối.
[45] Thời Tống, Dương Thời và Du Thố đến cầu học với Tŕnh Di, họ Tŕnh ngồi nhắm mắt trong nhà, Dương và Du hai người đứng chờ ngoài cửa cho đến khi họ Tŕnh nhận ra, kêu vào, tuyết xuống dày cả thước. Nho gia thường dùng điển tích “Tŕnh môn lập tuyết” này để diễn tả sự cung kính của tṛ đối với thầy (theo Vương Đồng Ức, Tân Thế Kỷ Hiện Đại Hán Ngữ Từ Điển)
[46] Câu này dịch dựa theo lời giải thích của tổ Ấn Quang trong lá thư này.
[47] Phải đọc cả đoạn này theo mạch văn, ư Tổ nói: Tâm thánh nhân như cái gương trong suốt, người Hồ đến hay người Hán đến đều hiện bóng, người nào đến hiện bóng người ấy, gương không phân biệt.
[48] Tam Học: tức Giới, Định, Huệ.
[49] Nguyên văn: “Xuất gia năi đại trượng phu chi sự, phi tướng tướng sở năng vi”. Trong bài giảng Sa Di Luật Nghi Yếu Lược, Ḥa Thượng Tịnh Không giảng chữ Tướng thứ nhất là tướng quân, chữ Tướng thứ hai là tể tướng. Ngài nói Tướng Tướng ở đây có nghĩa là người cao sang, quyền uy tột bậc.
[50] Thời Minh quy định Tăng sĩ phải trúng tuyển khoa thi sát hạch về kinh điển, giới luật. Ai trúng tuyển sẽ được cấp giấy chứng nhận gọi là độ điệp. Ai thi hỏng bị đuổi về nhà làm dân.
[51] Lệnh sư: tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng thầy người khác.
[52] Tinh sương: chỉ thời gian năm tháng. Cả câu ư nói: Không những thời gian đă thay đổi mà chế độ cũng khác xưa.
[53] Đăng Địa Bồ Tát: Hàng Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên.
[54] Sự tu: tu hành nơi mặt sự tướng,
[55] Lệnh đệ: tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng em trai người khác.
[56] Cừ Bá Ngọc: Người đời Xuân Thu, làm quan đại phu nước Vệ, là đệ tử của Khổng Tử (theo tự điển Từ Hải)
[57] Tuổi tri mạng: năm mươi tuổi, do câu nói “ngũ thập tri thiên mạng” nên thường gọi tuổi năm mươi là tuổi tri mạng.
[58] Cao, Tằng, Tổ Phụ Mẫu: Tổ là đời ông bà, Tằng là đời bố mẹ của ông bà, tức Cố; Cao là bố mẹ của Cố, ta thường gọi là ông Sơ.
[59] Nguyên văn: “Kiến
tiên triết ư canh tường, thận độc tri
khâm ảnh”. Canh tường là điển tích nói về
vua Ngu Thuấn do hâm mộ đức hạnh của vua
Đường Nghiêu nên trong suốt ba năm ăn canh
thấy bóng vua Nghiêu hiện trong bát canh, ngồi thấy
bóng vua Nghiêu hiện trên tường. Đời sau
thường dùng chữ “canh tường” để
chỉ ḷng cung kính, chí thành đến cùng cực. “Thận
độc” là ở một ḿnh, hành vi luôn dè dặt,
chẳng cẩu thả. “Khâm ảnh” là bóng chiếc áo,
lấy từ thành ngữ “khâm ảnh vô quư” (chẳng
thẹn với bóng áo). Như vậy “thận độc
khâm ảnh” ngụ ư hành vi luôn cẩn thận, nghiêm cung,
không hề phải hổ thẹn với ai, dù ngay cả
với bóng của chính ḿnh.
[60] Nguyên
văn “Bắc viên thích
việt” (càng xe vừa xoay về phương Bắc),
theo ư thành ngữ: “Bắc viên
thích Sở”. Ư nói: muốn đi về nước
Sở ở phương
[61] Hoành siêu: siêu việt tam giới theo chiều ngang. Sở dĩ gọi là Hoành Siêu v́ những pháp môn kia phải theo thứ tự vượt từ Dục Giới lên Sắc Giới, c̣n pháp môn Tịnh Độ từ nhân gian vượt thẳng sang Tịnh Độ.
[62] Đây là một câu lấy từ kinh Thi, bài Tư Tề: “Văn Vương h́nh ư quả thê, chí ư huynh đệ, dĩ ngự ư gia bang”. Sách Mạnh Tử Tập Chú giảng “h́nh” là nêu gương, làm gương, lấy thân ḿnh làm mẫu mực. “Quả thê” là tiếng Văn Vương gọi vợ (vua xưng là quả nhân), rồi chú thích câu này như sau: Văn Vương lấy thân ḿnh làm gương cho vợ, gương ấy thấu đạt đến anh em Ngài, rồi lan ra khắp đất nước khiến cho nước nhà yên ổn.
[63] Ngũ Bất Hoàn thiên: Năm tầng trời phía trên của Sắc Giới (tức Vô Tưởng, Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến và Sắc Cứu Cánh), do không c̣n dục tưởng, không đọa trong nhân gian và Dục Giới nên gọi là Ngũ Bất Hoàn. Do chư thiên cơi này toàn là thánh nhân Tam Quả, không có phàm phu thiên nên c̣n gọi là Tịnh Cư Thiên.
[64] Tam đức: Pháp Thân, Bát Nhă và Giải Thoát