Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao,
Quyển thứ ba
(phần 4)
74. Lời
tựa sách Nho Thích Nhất Quán
Nho
- Thích đạo không hai, chúng sanh và Phật tâm không hai. Do
con người có cùng một tâm này, tâm cùng một lư này, nên
hết thảy hữu t́nh đều nhờ vào Chân Như
Phật Tánh mà được kiến lập. Nhưng chúng
sanh và Phật thật khác biệt, phàm - thánh khác hẳn nhau
là v́ nhân địa mê - ngộ bất đồng, Tu Đức
thuận - nghịch sai khác. Do vậy, thánh nhân Nho - Thích
đều xuất hiện trong đời làm bậc hướng
dẫn, ngơ hầu hết thảy chúng sanh bỏ mê theo ngộ,
thấu ḍng tột nguồn, khôi phục lại bản tánh
sẵn có mà thôi! Sự phát huy tuy có Quyền - Thật, sâu - cạn,
phương tiện - cứu cánh bất đồng,
nhưng xét về đại thể th́ lư thể được
đề cao và công phu tu tập không hai.
Phật lấy Giác làm
Thể, Giác có Bổn Giác, Thỉ Giác, Bất Giác. Bổn
Giác chính là thiên chân Phật Tánh chúng sanh và Phật đều
sẵn có, tức là Tánh Đức vậy. C̣n Thỉ Giác là
diệu trí do dựa theo lư Bổn Giác, phát khởi tu tập
chân thật, đối trị phiền năo tập khí khiến
cho chúng bị tiêu diệt không c̣n sót. Đó chính là Tu Đức.
Bất Giác là mê trái Bổn Giác, sanh khởi chấp trước
vào cảnh, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm -
dâm, coi khổ là vui, lấy mê làm đức, dùng sức Phật
tánh để tạo nghiệp sanh tử. Hết thảy
chúng sanh đang mê không nương theo Chánh Giác, lầm lạc
tu tập đều là Bất Giác vậy. Bổn Giác th́
phàm - thánh b́nh đẳng, không có cao - thấp. Thỉ Giác
th́ do công phu sâu hay cạn khác biệt mà địa vị ngộ
chứng sai khác, từ Danh Tự cho đến Phần Chứng,
từ địa vị Ngoại Phàm[1]
cho đến Đẳng Giác đều thuộc trong phạm
vi Thỉ Giác. Từ Đẳng Giác lại phá một phần
vô minh th́ công Tu Đức đă đến cùng cực, Tánh Đức
hiển lộ trọn vẹn, phước huệ trọn
đủ, phiền hoặc hết sạch, viên măn Bồ
Đề, trở về chỗ không thể đắc, mới
thành bậc Đại Giác Thế Tôn, mới chứng Thỉ
- Bổn hợp nhất tối thượng thừa tối
cực, mới hoàn thành sự nghiệp tu nhân chứng quả
của bậc đại trượng phu. V́ thế, kinh
Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy
chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ, đức
tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng,
chấp trước nên chẳng chứng đắc. Nếu
ĺa hết thảy vọng tưởng, chấp trước
th́ Nhất Thiết Trí, Vô Ngại Trí đều được
hiện tiền”. Nói “hết
thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ
của Như Lai” là nói về lư tánh Bổn Giác vậy. “Do vọng tưởng, chấp
trước nên chẳng chứng đắc” chính là trái
nghịch Bổn Giác, khởi Hoặc tạo nghiệp, luân
hồi trong sáu đường. “Ĺa
vọng tưởng th́ trí huệ bèn hiện tiền”
chính là thuận theo Bổn Giác để tu dần dần
cho đến khi viên thành Phật quả. Hiểu rơ chỗ
đạt đến của lư “Tánh - Tu” này ắt chẳng
cam chịu phận phàm ngu, cũng chẳng dám đem phàm lạm
thánh, ắt sẽ thật tu, thật ngộ, mong sao thật
chứng mới thôi!
Nho th́ lấy Thành - Minh
làm gốc, Thành là Minh Đức, Minh nghĩa là “minh” (làm sáng tỏ) trong “minh Minh Đức”. Thật
ra là Thành - Minh, tức “minh Minh
Đức”. Minh Đức chính là chân tri (sự hiểu
biết chân thật) sẵn có trong tâm chúng ta. Do có “vật” là nhân dục (ḷng ham
muốn của con người), nên [Minh Đức] bị
ngăn lấp chẳng thể hiển hiện được;
như mây che mặt trời, trọn chẳng thấy
được tướng sáng. Muốn làm sáng tỏ Minh Đức
ấy th́ phải trọng ḷng kính, giữ ḷng thành, khắc
kỷ, giữ lễ th́ cái vật “nhân dục” tự chẳng có đất dung thân,
chân tri sẵn có sẽ hiển lộ toàn thể, như phù
vân (mây nổi) trôi đi, vầng mặt trời sáng rỡ.
Chân tri đă hiển lộ th́ đạt được
quyền làm chủ, kẻ hầu hạ phải nghe theo. V́
thế những ǵ ư nghĩ đến, tâm suy nghĩ đến
đều quy về chân thành, không vọng, trung chánh, chẳng
thiên lệch vậy. Đấy chính là đại pháp “tu thân, trị người” của
Khổng Tử thừa kế từ nhị đế tam
vương[2] được tŕnh
bày tóm lược như vậy, để làm khuôn phép lớn
lao cho thiên hạ hậu thế mong thành thánh thành hiền vậy.
Nếu đem so với
Phật pháp để giải thích th́ Thành và Minh Đức
chính là Tánh Đức của Bổn Giác, c̣n Minh và Minh Minh
Đức (làm sáng tỏ Minh Đức) chính là Tu Đức
của Thỉ Giác vậy. “Vật”
là vọng tưởng, chấp trước. “Cách vật” là ĺa vọng
tưởng, chấp trước. Ĺa vọng tưởng,
chấp trước liền đắc trí huệ của
Như Lai. Trừ khử vật dục của con người
th́ lương tri và Chân Tri cố hữu trong tâm chúng ta sẽ
tự hiển hiện triệt để. Do vậy, nói: “Phát huy sâu - cạn tuy khác nhau,
nhưng công phu nơi lư thể cố nhiên chẳng hai”.
V́ thế, những bậc thông minh duệ trí xưa nay
đa số đều học Phật. Do đạt
được tâm pháp của Phật nên mới hiểu thấu
đáo tâm pháp của thánh nhân tiên hiền bên Nho; bởi lẽ
nhà Nho đa phần coi trọng sự tướng, chẳng
dốc sức ngộ hiểu tâm tánh. Nếu chẳng
được Phật pháp hướng dẫn th́ chính tâm
ḿnh c̣n chưa thể hiểu biết được, huống
ǵ tâm pháp của thánh nhân ư? Do vậy, các nhà Nho câu nệ
vào h́nh tích, đa số chê trách Phật giáo là do chẳng biết
Phật pháp tuy là pháp xuất thế nhưng vẫn đầy
đủ hết thảy những thiện pháp thế gian.
Phàm là đạo luân thường, tu thân, tề gia cố
nhiên cực lực hoằng dương, chẳng sót mảy
may điều thiện nào, gặp cha nói từ, gặp con
nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng xướng, vợ
theo, tùy theo chức phận ai nấy đều tận
nghĩa, chẳng khác với những ǵ thánh nhân thế gian
đă nói. Nhưng thánh nhân thế gian chỉ dạy con
người tận nghĩa, tận phận, chứ đức
Phật c̣n chỉ dạy cặn kẽ quả báo thiện
ác của việc tận và không tận. Tận nghĩa, tận
phận chỉ có thể dạy bậc thượng trí, chứ
chẳng thể thâu nhiếp hết kẻ hạ ngu. Nếu
biết quả báo thiện ác của việc tận và chẳng
tận th́ dù là phàm ngu cũng vẫn hâm mộ thiện báo,
sợ ác quả; tuy chẳng muốn tận nghĩa, tận
phận cũng phải gắng sức tận nghĩa, tận
phận! Đấy là pháp để Như Lai phổ độ
thượng trung hạ căn.
Đời thường
có kẻ cậy vào sự hiểu biết, chẳng chuộng
thật tu, bảo xằng nhân quả là pháp Tiểu Thừa,
chẳng biết: Như Lai viên thành Phật đạo,
chúng sanh thường đắm ch́m trong sanh tử đều
chẳng ra ngoài nhân quả! Chỉ có mỗi một niệm
tâm tánh của đương nhân tuy chẳng thuộc nhân
quả, nhưng vẫn chẳng ĺa nhân quả. Muốn
vượt ra ngoài nhân quả nhưng chưa viên thành Phật
đạo sẽ trọn chẳng thể được.
Chưa thành Phật mà đă vội vàng bác bỏ nhân quả
sẽ vĩnh viễn đánh mất thiện nhân thiện quả,
thường tạo nhân ác, thường bị quả ác
đến tột cùng vị lai chẳng thể ngưng dứt.
Chẳng đáng buồn ư? Đời thường có kẻ
chẳng biết Phật pháp, cứ xằng bậy chê bai
Phật giáo, cũng có kẻ hơi biết Phật pháp tuy ngấm
ngầm tuân theo, nhưng bề ngoài chê trách. Những thứ
hành vi ấy đều do tri kiến môn đ́nh quá nặng,
chẳng thể thực sự cách vật trí tri, đến
nỗi ư có chỗ chẳng thành, tâm có chỗ chẳng chánh
vậy. Những lời lẽ ấy đều đủ
sức làm mù ḷa con mắt trí của chúng sanh, đoạn huệ
mạng của Như Lai. Bậc đại nhân thời cổ
thường lo cho điều ấy nên thuận theo căn
cơ đả phá, khiến cho những kẻ thốt ra lời
ấy và những kẻ lậm chất độc đó
đều hiểu sâu xa duyên do “đức
Phật ta giáo hóa chúng sanh chẳng những không trái nghịch
với Nho Giáo mà trái lại c̣n phát minh lớn lao Nho giáo, phụ
trợ Nho Giáo đến tột lư, tột bậc!”
Gần đây, thế
đạo nhân tâm suy hăm, yếu kém đến cùng cực, vứt
bỏ pháp của tiên thánh gần như hết thuốc chữa.
Phàm là những bậc lo cho đời không ai chẳng lấy
việc đề xướng Phật học làm nhiệm
vụ cấp bách, bởi lẽ Phật học chú trọng
minh tâm và nhân quả báo ứng. Nếu có thể hiểu
được bổn tâm của chính ḿnh, chắc chắn
chẳng đến nỗi hiểu lầm nhân quả. Nếu
thật sự không hiểu lầm nhân quả, chắc chắn
sẽ hiểu rơ bản tâm của chính ḿnh. Đă hiểu
rơ được bản tâm của chính ḿnh th́ cũng sẽ
nhờ đó thấu hiểu được tâm của bậc
thánh nhân Nho gia thời trước lẫn tâm của Như
Lai. Đấy chính là ư chỉ lớn lao Nho -Thích nhất
quán vậy.
Cư sĩ Hoằng
Đạo xưa đă trồng cội đức, dốc
ḷng tin tưởng Phật thừa, xót thương những
kẻ câu nệ, hẹp ḥi, thấy biết lầm lạc,
bèn thâu thập những lời cổ nhân đả phá, quở
trách những kiến giải lầm lạc, kết hợp
mọi ngôn luận của Nho - Thích, soạn thành một cuốn
sách, đặt tên là Nho Thích Nhất Quán, muốn đem ấn
loát lưu thông. Do Quang lúc ban đầu từng lậm chất
độc của họ Hàn, họ Âu, làm một gă Nhất
Xiển Đề, nên bảo Quang viết lời tựa, một
là để thương ḿnh, thương người, tự
xót ḿnh, xót người, hai là nhờ vào nhân duyên này tiêu diệt
tội lỗi báng pháp để mong thỏa chí nguyện văng
sanh. Do vậy, chẳng nề hà kém cỏi, gắng gượng
nêu ra những ǵ ḿnh biết; tuy văn từ chẳng
đáng để xem, nhưng xét về ư nghĩa lại có
căn cứ. Nguyện người thấy nghe đều
cách vật trí tri ḥng tự sáng tỏ Minh Đức, bỏ
ĺa vọng tưởng, chấp trước, cùng chứng
trí huệ của Như Lai th́ ư thiết tha lưu lại
giáo huấn của cổ nhân, tâm ông Hoằng Đạo soạn
sách sâu xa nhằm diễn bày được bản hoài rộng
lớn chẳng đến nỗi uổng công. Và nhờ
vào đây, thế đạo nhân tâm được chuyển
hồi cũng là điều đoán trước được,
c̣n may mắn ǵ hơn!
75. Lời
tựa sách Cận Đại Văng Sanh Truyện
Đức Như Lai
điều ngự chúng sanh, tùy cơ thuyết pháp, tuy Quyền
- Thật - Đốn - Tiệm bất đồng, Đại
- Tiểu - Thiên - Viên khác biệt, nhưng cốt yếu
đều là làm cho chúng sanh tự chứng Chân Như Phật
Tánh sẵn có nơi bổn tâm mà thôi. Nhưng Phật tánh ấy
sẵn có ngay trong tâm này, chẳng từ ngoài đến, chẳng
do ǵ khác mà được, như lấy của báu sẵn
có trong nhà tùy ư sử dụng, hiện thành. V́ thế, chứng
điều ấy là chuyện hết sức dễ dàng! Hiềm
rằng chúng sanh ở trong sanh tử đă lâu, mê hoặc
quá sâu, ví như gương báu bị bụi phủ cả
kiếp, muốn cho nó khôi phục bản thể, hiện tột
cùng ánh sáng chiếu trời soi đất, cố nhiên chẳng
phải đổ công lau chùi, mài giũa một hai ngày là có
thể đạt được ngay. Như Lai bi tâm chân thật
thiết tha, biết sự khó khăn của chúng sanh dùng tự
lực để tự chứng, dù có tu tŕ nhưng v́ phiền
hoặc chưa đoạn, hễ phải thọ sanh một
lần nữa khó khỏi lại bị mê. Từ đó,
đọa lạc th́ nhiều, siêu thăng ít ỏi.
Do vậy, đặc
biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật ngơ hầu
dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này cậy vào Phật
từ lực văng sanh Tây Phương. Người đă chứng
thánh sẽ mau thăng lên địa vị bậc thượng;
kẻ chưa đoạn Hoặc sẽ vĩnh viễn
thoát khỏi luân hồi. So với những ai chỉ cậy
vào tự lực tu Giới - Định - Huệ cho đến
khi liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh th́ khó - dễ
khác biệt một trời một vực. V́ thế, kể
từ hội Hoa Nghiêm dẫn về, từ thuở tại
Kỳ Viên diễn thuyết đến nay, ngàn kinh vạn
luận chốn chốn chỉ quy, văng thánh tiền hiền
ai nấy đều hướng về. Đến khi pháp
truyền sang Đông Chấn, Viễn Công đại sư
xướng xuất tại Lô Sơn, quần hiền
đương thời đều nhóm cả về, những
người thông suốt đời sau đều quy hướng.
Từ đấy, Tăng - tục bốn chúng hoặc là tu
trọn vạn hạnh để hồi hướng, hoặc
chuyên tŕ Phật hiệu để cầu văng sanh. Đến
khi lâm chung, chánh niệm rỡ ràng, hiện các tướng
lành để văng sanh, làm sao thấy hết, biết trọn
cho được? Những ǵ Văng Sanh Tập, Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục ghi chép chỉ là một hai phần trong
ngàn vạn phần đó thôi. Một trăm mấy
mươi năm qua, người tu pháp này há có hạn
lượng? Huống chi gần đây tầm mắt của
bậc nhân sĩ rộng mở, hạng ngầm tu hiển
hóa thật đông đảo. Trong số ấy, những
người dùng tâm Phiền Hoặc khế hợp Như
Lai trí, thoát khổ Sa Bà, dự vào hội Liên Tŕ càng đông
hơn trước, há chẳng nên ghi chép thêm để rồi
những chuyện ấy bị quên lăng hay sao? Cư sĩ
Dương Huệ Kính ở Dư Diêu[3] riêng
sưu tập những truyện đó, đặt tên là Cận
Đại Văng Sanh Truyện. Ư ông muốn những chuyện
văng sanh thu thập sau này sẽ được gộp hết
vào bản thảo, nên những danh từ xưng hô cứ
giữ nguyên văn, không sửa chữa ǵ thêm, sao cho [cách
hành văn] theo cùng một lối, cốt sao để tạo
ḷng tin, chứ không bỏ công chọn lựa, gọt
giũa. Đă thâu thập được bấy nhiêu chuyện
ấy xong, muốn khắc in, lưu truyền, xin tôi viết
lời tựa.
Trộm nghĩ: Pháp môn
tu tŕ có hai thứ bất đồng. Nếu cậy vào tự
lực tu Giới - Định - Huệ để đoạn
Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử th́ gọi là “pháp
môn theo đường lối thông thường”. Nếu
đầy đủ ḷng tin chân thật, nguyện thiết
tha, tŕ danh hiệu Phật để cậy vào Phật từ
lực văng sanh Tây Phương th́ gọi là “pháp môn đặc
biệt”. Đường lối thông thường th́ hoàn
toàn cậy tự lực, c̣n đường lối đặc
biệt th́ tự lực lẫn Phật lực đều
có. Nếu có công tu Định - Huệ đoạn Hoặc
sâu xa nhưng không chân tín, nguyện thiết, niệm Phật
cầu văng sanh th́ vẫn thuộc về tự lực. Nay
dùng thí dụ để chỉ rơ: Đường lối
thông thường giống như vẽ núi sông, ắt phải
từng nét bút, từng vạch một mới dần dần
vẽ thành. C̣n [pháp môn] đặc biệt như chụp cảnh
sông núi, dẫu cho mấy mươi tầng núi non um tùm, chụp
một cái liền đầy đủ. Lại nữa,
đường lối thông thường như đi
đường bộ, người mạnh một ngày bất
quá đi được một trăm mười dặm;
c̣n pháp môn đặc biệt như cưỡi Luân Bảo
của Chuyển Luân Thánh Vương trong một ngày liền
có thể đến khắp bốn đại bộ châu.
Chúng ta không có tư cách thành Phật ngay lập tức, lại
không có thật chứng “đoạn được Kiến
Hoặc, tùy ư chẳng tạo ác nghiệp”, nếu chẳng
chuyên tu Tịnh nghiệp để ḥng cậy vào Phật từ
lực đới nghiệp văng sanh th́ chỉ e đến
tột cùng đời vị lai vẫn cứ phải chịu
sống chịu chết trong tam đồ lục đạo
không cách ǵ thoát ra được! Chẳng đáng buồn
ư? Nguyện những người cùng hàng với tôi
đều sanh chánh tín.
76. Lời
tựa cho sách Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp Tùy Văn Lục
(tục gọi là Lương Hoàng Sám)
Tâm của
chúng ta thể vốn sáng sạch. Do vô minh nên phiền hoặc
bèn sanh. Phiền hoặc đă sanh bèn thành tối tăm,
dơ bẩn, khiến cho bản thể sáng sạch bị
ngăn lấp, chứ thật ra nó chưa hề bị tổn
giảm một mảy may nào. Muốn trở về cội,
quay về nguồn mà không cạn hết ḷng thành, dốc hết
ḷng kính, cung kính đối trước Tam Bảo sám hối
nghiệp chướng th́ sẽ không thể nào đạt
được! Các kinh Đại Thừa đều có những
đoạn văn dạy sám hối, tùy theo con người
tôn trọng pháp nào sẽ soạn sám pháp [cho kinh ấy],
như Pháp Hoa, Kim Quang Minh, Tịnh Độ, Đại Bi
v.v…
Bộ sám pháp này phô bày
tường tận tội tướng (những h́nh tướng
của tội lỗi) là v́ Lương Vũ Đế muốn
cứu độ người nguyên phối là phu nhân Hy Thị
đă mắc nỗi khổ đọa làm thân măng xà,
cũng như muốn khiến cho hết thảy nhân dân
cùng được pháp lợi thấm nhuần, bèn đặc
biệt thỉnh ngài Chí Công và các cao tăng, tra đọc
các kinh văn, soạn thành sám pháp. Nhà vua lúc ấy cũng
nâng ngọn bút sắc sảo phát huy ư chỉ đến tột
bậc. Tiếc là nhà vua chưa thông hiểu pháp môn Tịnh
Độ, nên khi sám văn soạn xong, bà Hy Thị mang thân
một vị trời trang nghiêm đẹp đẽ đến
cảm tạ. Nếu như nhà vua hiểu rơ Tịnh tông, ắt
phu nhân cậy vào Phật từ lực văng sanh Tây
Phương, cao dự hải hội, lên địa vị
Bất Thoái, há lẽ nào nhờ vào đại pháp đại
tâm này, rốt cuộc chỉ được sanh lên trời
mà thôi! Những người lễ sám đời sau đều
phải nên chú ư hồi hướng văng sanh th́ mới đạt
được lợi ích rốt ráo thật sự.
Sám pháp này lấy đại
Bồ Đề tâm làm gốc, từ đấy cạn
ḷng thành, tận ḷng kính, ngoài th́ kính mộ chư thánh,
phơi bày tội lỗi, trong th́ trọng tánh linh của
chính ḿnh, cho nên được tâm chúng sanh và tâm Phật dung
thông, cảm ứng đạo giao, tiêu trừ tội cấu
bao kiếp, khai phát tâm quang sẵn có. Lợi ích ấy chẳng
thể nào nói trọn! Lời văn tuy rơ ràng, giản dị,
so với những sám pháp của tông Thiên Thai chỉ chú trọng
đến Lư Quán, chẳng nêu rơ các tội tướng, th́
sám pháp này thích hợp khắp cả ba căn. Từ xưa
đến nay, sám pháp này chưa từng được giảng
giải hay chú giải là v́ văn lẫn nghĩa đều
rơ ràng, rộng mở, không cần phải giảng nói hay
chú giải.
Phải biết pháp
không có cạn hay sâu, chỉ cốt sao lợi người;
luật không có nghĩa lư u huyền, thế mà Đạo
Tuyên luật sư là bậc thượng căn lợi trí
c̣n phải nghe giảng mười lần cũng như đă
soạn chú sớ vẫn chưa cảm thấy hoàn toàn tường
tận, há có nên đối với riêng một pháp này lại
coi thường ư? Ngài Đế Công (pháp sư Đế
Nhàn) chùa Quán Tông, do thấy thời này đang nhằm thời
Mạt Pháp, con người đa số chẳng tự biết
tỉnh ngộ khiến cho hành vi lẫn sở học trái
nghịch nhau, nên Ngài bèn phát tâm diễn giảng, hy vọng
con người ai nấy trọng ḷng kính, giữ ḷng thành,
rửa tâm gột ư, cẩn thận dè chừng nơi những
ǵ ḿnh chưa thấy, kiêng sợ đối với những
ǵ ḿnh chưa nghe, học đi đôi với hành, ngơ hầu
đứng vững nơi không lầm lỗi mới thôi!
Ông Phương Viễn
Phàm xưa có linh căn, tuy xuất thân từ nhà giàu có, lại
khá thích thanh tu, mỗi phen được nghe diệu
nghĩa đều bèn lănh hội được. Lần
này nghe giảng bèn ghi chép lại, lại được ba
vị sư là Bảo Tịnh, Thành Nhất, Thường Tịnh
giúp đỡ biên tập thành sách. Cha mẹ ông cùng nghe giảng,
đều tận lực ghi chép cẩn thận. Có thể
nói là “thấy con liền biết
được cha mẹ”, chẳng phải là hạng
cha mẹ như thế sẽ không sanh được
người con như thế! Ông
Phương muốn đem in, xin tôi viết lời tựa.
Tôi nghĩ trong những điều quan trọng của việc
tu hành th́ Kính là bậc nhất. Ai trọng ḷng kính, giữ
ḷng thành th́ hết thảy phàm t́nh không cách nào khởi lên
được, thánh trí sẵn có tự nhiên phát hiện.
Phàm hết thảy nhân - ngă, thị - phi, vô minh, kiêu căng,
phách lối cũng như những tập khí lười
nhác, biếng trễ, chần chừ, uể oải đều
bị tiêu diệt. Huống chi cung kính đối trước
Tam Bảo phơi bày tội lỗi ắt cái tâm hổ thẹn,
kinh sợ, ư niệm mong thành thánh thành hiền như
đang đói, đang khát [mong được ăn,
được uống] sẽ tràn trề nẩy sanh. Trên
ngưỡng mộ chư thánh, dưới trọng tánh
linh của chính ḿnh, đau đáu nghĩ ḿnh và chư Phật
có cùng một tâm tánh, cớ sao các Ngài đă viên chứng tam
giác[4],
ta vẫn cứ luân hồi măi trong lục đạo? Từ
đấy, sửa đổi lỗi cũ, tu tập, bỏ
mê quy ngộ. Ví như Ma Ni bảo châu rớt trong nhà xí, liền
nhặt đem ra, gột rửa nhiều phen mong sao khôi phục
sự thanh tịnh vốn có. Đến khi đă trong sạch
đến cùng cực th́ treo trên tràng cao, ắt sẽ tùy ư
tuôn ra các báu. Đại sự nhân duyên ấy nếu chẳng
phát huy ư chỉ của văn hay nghĩa đến cùng cực
th́ rất có thể sẽ có người chẳng
được lợi ích thật sự. Cuốn Tùy Văn
Lục (sách ghi chép những lời được nghe giảng)
này đáng được lưu truyền rộng khắp.
77. Lời
tựa sách Nhân Quả Lục
Nhân quả
báo ứng chính là ảnh hưởng thuận hay nghịch
giữa nhân sự và thiên lư. V́ thế, kinh Thư chép: “Thuận theo lư dẫn đến
điều lành, trái nghịch lại th́ xấu, đều
chỉ v́ ảnh hưởng”. Người dẫu chí
ngu chắc chắn cũng không vui mừng v́ bị tai họa,
tránh điều lành, ham điều xui, mong hết thảy
những người chung quanh réo tên thóa mạ, bị thiên
địa quỷ thần đoạt hồn giết hại,
cũng như sau khi chết đi linh hồn bị đọa
vĩnh viễn trong ba đường ác, chịu đựng
khổ sở cùng cực trải trăm ngàn kiếp không thể
thoát ra! Nhưng những ǵ người ta làm đa phần
đều trái nghịch với những ǵ họ mong mỏi,
là v́ lẽ nào vậy? Là do cơi đời thiếu người
thông hiểu, chẳng đề xướng đạo
nhân quả báo ứng, sẵn quen thói tệ hại, chỉ
biết truyền cho nhau thói tự tư tự lợi mà
nên nỗi! Nếu như có ai hành động thuận theo
thiên lư, trong gia đ́nh th́ trọn hết bổn phận,
giao tế bên ngoài th́ chú trọng làm lợi cho người,
cũng như những cử chỉ tốt lành đều
phụng hành, như giúp người bị tai họa, cứu
đói, giúp người hoạn nạn, cứu người
đang gặp nguy, kiêng giết, phóng sanh, che chở,
thương tiếc sanh mạng loài vật, ăn chay, tụng
kinh, niệm Phật ngơ hầu ḿnh lẫn người
đều được lợi, u lẫn hiển cùng
được ích th́ không một ai chẳng được
gia đ́nh yên tịnh, tốt lành, con cháu thạnh vượng,
phú quư sang cả, khiến cho người khác kính ngưỡng.
Xem khắp các truyện kư, phàm những bậc hiền triết
xuất hiện, công nghiệp kiệt xuất, hoặc là
tâm lănh hội đạo được truyền bởi
chư thánh, hoặc là đức khiến cho vạn dân trọng
vọng th́ đều là do đời trước có âm
đức, hạnh đẹp “lợi người, lợi
vật, giúp cho cả người âm lẫn kẻ
dương” vậy. Nhưng đấy chỉ là những
ǵ mắt phàm thấy được mà thôi, chứ c̣n thần
thức người ấy hoặc sanh lên cung trời hoặc
cao siêu Phật quốc, phàm phu thế gian làm sao thấy hết,
biết hết cho được?
Nêu thật rơ lư nhân quả
thật ra chỉ có mỗi ḿnh kinh Phật, nhưng kinh sách
Nho giáo cũng nhiều lần nói đến. Như kinh
Thư ghi “làm thiện trăm
điều lành giáng xuống, làm điều bất thiện,
trăm tai ương giáng xuống” cũng như thuyết
“ngũ phước lục cực”
được nói đến trong sách Hồng Phạm, và
câu kinh Dịch “nhà tích thiện
ắt điều vui có thừa, nhà tích điều bất
thiện ắt tai ương có thừa”, không ǵ chẳng
phải đều là dùng lư nhân quả báo ứng để
dạy người đó sao! Nhưng v́ nói giản lược,
chỉ nói đến đời này và con cháu, chưa nói
tường tận chuyện luân hồi lục đạo
tam đồ trong quá khứ, hiện tại, vị lai; nếu
chẳng nghiên cứu sâu xa, suy nghĩ tinh tường, ắt
sẽ ngay trước mặt lại bỏ lỡ! Hơn
nữa, kẻ tục Nho thường muốn đề
cao môn đ́nh bèn tranh đua cho khác với nhà Phật, dù có
biết đi nữa cũng chẳng chịu đề
xướng, khiến cho người hiền không có cách tận
lực làm cho đời yên dân lành, mà kẻ ngu cũng luôn
ôm ấp ư niệm “mạnh ăn thịt yếu”. Do vậy,
tấn công lẫn nhau trở thành cuộc sát kiếp
xưa nay chưa hề nghe nói đến.
Người bị giết
cố nhiên ai nấy biết là đáng thảm, nhưng nỗi
thảm của kẻ giết hại c̣n khốc liệt gấp
vạn lần. Tiếc rằng người đời chẳng
biết tỏ, thấy suốt! Cái họ thấy
được như “bị người khác giết, hoặc
diệt môn tuyệt tộc” chỉ là một hai phần
trong ngàn vạn phần, c̣n sự khổ phải hứng
chịu trong tam đồ dù có hết sạch trúc cũng
khó ghi được, chẳng đáng buồn ư? Tôi
thường nói: “Nhân quả chính
là phương tiện lớn lao thánh nhân thế gian lẫn
xuất thế gian dùng để b́nh trị thiên hạ,
độ thoát chúng sanh”. Dù nhằm thuở thánh giáo
xương minh, nếu không đề xướng nhân quả
th́ c̣n chẳng thể làm cho mọi kẻ ngu dân ngấm ngầm
đoạn dứt hay giấu ác, người trí đều
tích chứa âm công lớn lao; huống chi nay đang lúc thế
đạo nhân tâm suy hoại đến cùng cực, vứt
bỏ kinh sách của thánh hiền, luân lư đổ nhào, tà
thuyết hoành hành đều đến mức cùng cực ư?
Những người có tâm lo cho thế đạo nghĩ
muốn kéo lui con sóng cuồng loạn nếu chẳng dùng
nhân quả báo ứng làm phương tiện chấn động
kẻ điếc, soi sáng kẻ đui th́ dẫu cho Phật,
Bồ Tát, thánh hiền đều cùng xuất thế
cũng không làm ǵ được, huống ǵ những kẻ
thấp kém hơn các Ngài!
Cư sĩ Kim
Xương ở Vô Tích[5] thấy
được điều này bèn chép lại những chuyện
nhân quả trong những đời gần đây và trong
đời này, ấn loát lưu truyền, mong cho ai nấy
đều ôm ḷng tự lợi lợi tha, mang hạnh tự
lập, lập người th́ thói quen càng chánh trực,
phong tục tốt đẹp, dứt bặt nhân họa mà
quyến thuộc trời cũng thường ngự xuống.
Những loài cạnh tranh với nhau đều cùng trở
thành người trong thời Hy - Hoàng. Do vậy bèn lược
thuật đại ư để cống hiến cùng người
đọc.
78. Lời
tựa cho sách Sanh Tây Kim Giám
(sau này đổi tên thành sách Tịnh Độ Thanh Chung)
Thế
giới Sa Bà dùng âm thanh làm Phật sự. Biển khổ
sanh tử, không niệm Phật chẳng thể thoát ĺa! Bao
nhiêu chúng sanh mê chân đuổi theo vọng, trái giác hiệp
trần, nhiều kiếp lâu xa luân hồi sanh tử. Do vậy,
động đến ḷng Bi Đồng Thể của
đức Thích Ca Thế Tôn ta, Ngài bèn đặc biệt mở
ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
Phương để thượng trung hạ căn dù
thánh hay phàm đều cùng trong một đời này văng sanh
Tây Phương, thành tựu cho bậc đại căn
cơ mau chứng Pháp Thân, nâng đỡ kẻ căn cơ
kém cỏi mau thoát sanh tử. Những giáo pháp khác trong suốt
một đời đức Phật đều chẳng
sánh bằng được! Do vậy, những bậc cao
nhân lỗi lạc ở Tây Thiên, Đông Độ không ai chẳng
dùng pháp này để tự hành, dạy người, bởi
pháp này chính là diệu môn để nhập đạo, là
đường tắt để thành Phật vậy.
Cư sĩ Nhị Lâm (Bành
Tế Thanh) thâu thập những nhân duyên lập pháp độ
sanh của Phật, Bồ Tát và những sự tích niệm
Phật văng sanh của cổ đức, tăng, ni, vua,
quan, nam nữ cho đến loài vật trong các đời,
lại c̣n sao lục những câu nói hoằng dương Tịnh
Độ thiết yếu soạn thành một cuốn sách,
đặt tên là Tịnh Độ Thánh Hiền Lục.
Cư sĩ Liên Quy lại soạn tiếp cuốn [Tịnh
Độ Thánh Hiền] Tục Lục, đều nhằm
làm kim chỉ nam cho những kẻ mê mất quê nhà, làm
gương báu cho những ai chẳng nhận biết chính
ḿnh. Nhưng do số quyển quá nhiều chẳng thuận
tiện cho hàng sơ cơ, nên cư sĩ [Phan] Đối
Phù muốn làm cho kẻ sơ cơ dễ nẩy sanh ḷng
tin tưởng, do vậy bèn đối với hai bộ
Chánh Lục, Tục Lục ấy, trích yếu những sự
tích rơ ràng nhất gồm hơn hai trăm chuyện, lại
viết thêm lời tán, đặt tên là Sanh Tây Kim Giám
(gương vàng sanh Tây) ngơ hầu người đọc
nh́n vào gương cổ nhân nẩy sanh ḷng kính ngưỡng,
ca ngợi. Ư ấy thật sâu xa.
Xưa kia, Tử Pḥng
(Trương Lương) muốn phá quân Sở liền truyền
quân ḿnh cùng hát những bài ca nước Sở, quân Sở
nghe hát đều muốn quay về. Huống chi
đương lúc thiên tai nhân họa liên tiếp xảy ra,
vận nước nguy ngập dân không lẽ sống này, lại
thêm tà thuyết tung hoành, bè lũ ma lừng lẫy, tà chánh
chẳng phân, không có ǵ thích đáng để theo, vừa
được nghe quang cảnh thế giới Cực Lạc
vượt ra ngoài kiếp, trang nghiêm sẵn có, há chẳng
muốn quay về để vui với thiên chân của chính
ḿnh ư? Nếu người đọc hiểu thấu suốt
sự lợi - hại giữa Sa Bà và Cực Lạc, lại
c̣n [được nghe] ca ngợi nhiều lần th́ tôi biết
cái tâm cầu sanh Tây Phương của họ sẽ
như sông ng̣i lúc vỡ đê, thế khôn ngăn được
vậy!
79. Lời
tựa cho đạo tràng niệm Phật quanh năm tại
Thê Chân thường trụ
Pháp môn Niệm
Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng
ta giống như hư không thường hằng bất biến.
Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm
tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu
giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục
đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam
đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho
nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn
chẳng biến đổi ǵ, nhưng Tướng - Dụng
cố nhiên khác nhau một trời một vực! Ví như
hư không mặt trời chiếu th́ sáng, mây đùn bèn tối.
Tuy bản thể của hư không chẳng do mây hay mặt
trời mà tăng - giảm, nhưng tướng hiển hiện
hay ngăn lấp cố nhiên có nói trọn năm cũng chẳng
hết.
Do v́ nghĩa này, Như
Lai dạy khắp các chúng sanh duyên niệm nơi Phật.
V́ thế nói: “Nếu tâm chúng
sanh nhớ Phật, niệm Phật th́ hiện tiền,
tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật
chẳng xa”. Lại nói: “Chư
Phật Như Lai là thân pháp giới vào trong tâm tưởng
của hết thảy chúng sanh. Do vậy, lúc tâm các ông
tưởng Phật th́ tâm ấy chính là ba mươi hai
tướng, tám mươi vẻ đẹp phụ, tâm này
làm Phật, tâm này là Phật. Biển Chánh Biến Tri của
chư Phật từ tâm tưởng sanh”. Hễ duyên
theo Phật giới th́ tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Nếu
duyên theo các giới chúng sanh th́ tâm này làm chúng sanh, tâm này là
chúng sanh. Hiểu rơ điều này rồi mà chẳng niệm
Phật th́ chưa bao giờ có chuyện ấy! Một pháp
Niệm Phật chính là lấy hồng danh vạn đức
của Như Lai làm duyên, mà hồng danh vạn đức ấy
lại chính là vô thượng giác đạo Như Lai
đă chứng nơi quả địa! Do dùng Quả Địa
Giác ấy làm Nhân Địa Tâm nên nhân bao trùm biển quả,
quả thấu tột nguồn nhân. Như người nhiễm
hương, thân có mùi thơm; như ṭ ṿ chúc loài sâu[6],
lâu ngày sẽ hóa thành [ṭ ṿ]. Thành Phật ngay trong đời
này, chuyển phàm thành thánh, công năng lực dụng ấy
vượt trội hết thảy những pháp môn khác trong
cả một đời giáo hóa. Bởi lẽ hết thảy
các pháp môn đều cậy vào tự lực đoạn Hoặc
chứng Chân mới liễu thoát sanh tử; c̣n pháp môn Niệm
Phật th́ tự lực lẫn Phật lực hai thứ
đều đầy đủ. V́ thế, người
đă đoạn được Hoặc nghiệp bèn mau chứng
Pháp Thân, người c̣n đầy đủ Hoặc nghiệp
sẽ đới nghiệp văng sanh.
Pháp này cực kỳ
b́nh thường, dẫu là ngu phu ngu phụ cũng đạt
được lợi ích, nhưng lại cực huyền
diệu, dẫu là Đẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng
thể vượt khỏi phạm vi pháp này. Bởi vậy,
không một ai chẳng kham tu, mà cũng không một ai chẳng
thể tu được. Hạ thủ dễ, thành công cao,
dùng sức ít được hiệu quả nhanh chóng, thật
là một pháp môn đặc biệt trong giáo pháp cả một
đời của đức Như Lai, cố nhiên chẳng
thể dùng giáo lư thông thường để biện luận
được. Chúng sanh đời Mạt Pháp phước
mỏng huệ cạn, chướng dầy, nghiệp sâu
chẳng tu pháp này, cứ muốn cậy vào tự lực
để đoạn Hoặc chứng chân ḥng liễu sanh
tử th́ khó khăn muôn phần! Trụ Tŕ chùa Thê Chân là ḥa
thượng Liên Nhân thấy được điều này
nên đặc biệt lập đạo tràng niệm Phật
suốt năm tại điện Tam Thánh, nhờ tôi giăi bày
ư ấy ngơ hầu người thấy nghe phát tâm. Do vậy,
tôi bèn viết đại lược như vậy đó.
80. Lời
tựa cho đồng tu tịnh nghiệp của Quy Tông
tinh xá
Hết
thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một
đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu
bất đồng, Quyền - Thật đều khác,
nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn
Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn
vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo
đó thôi! Nhưng v́ chúng sanh căn cơ bất nhất,
khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ
nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên -
Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử
bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp
diệu minh, nếu không phải là người túc căn
thành thục lại muốn ngay trong một đời này
hoàn thành th́ thật là hiếm có mấy ai. Đă chẳng thể
hoàn thành ngay trong một đời này th́ phải thọ
sanh lần nữa, những kẻ vừa mê vừa thoái thất
trong vạn người có đến mười ngàn, những
người vừa ngộ vừa tiến trong ức
người chẳng được ba bốn.
Cậy vào tự lực
tu Giới - Định - Huệ để đoạn phiền
hoặc chứng Niết Bàn khó khăn như thế đó,
khiến cho bản hoài phổ độ chúng sanh của
Như Lai bị ngăn trở chẳng thể thông suốt
được, đạo làm cho chúng sanh mau thoát sanh tử
bị bế tắc không thông. Nhưng đức Như Lai
đại từ ắt muốn làm cho hết thảy chúng
sanh cùng trong một đời này được liễu
thoát sanh tử siêu phàm nhập thánh nên bèn mở ra pháp môn Tịnh
Độ tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, bất luận thượng trung hạ
căn đều được độ thoát ngay trong
đời này, dùng chính tín nguyện của ḿnh để niệm
Phật cảm Phật từ bi nhiếp thọ, do cảm
ứng đạo giao nên đạt được lợi
ích ấy. Những người đă đoạn được
phiền hoặc sẽ có thể chóng chứng được
Pháp Thân, mau thành Phật đạo. Dẫu là kẻ Hoặc
nghiệp sâu dầy cũng có thể cậy vào Phật từ
lực đới nghiệp văng sanh. Do vậy, trong hội
Hoa Nghiêm các bậc Đẳng Giác Bồ Tát chứng bằng
với chư Phật c̣n phải dùng mười đại
nguyện vương dẫn về Cực Lạc; trong Quán
Kinh những tội nhân nghịch ác sắp đọa A Tỳ
địa ngục do xưng niệm hồng danh mười
lượt mà được dự vào các phẩm cuối.
Độ khắp ba căn, lợi - độn gồm
thâu, hết thảy chúng sanh trong tận pháp giới cứ
hễ có tín nguyện th́ không một ai chẳng được
thấm nhuần, viên đốn thẳng chóng, vượt
trỗi hết thảy các pháp môn. Chúng sanh đời Mạt
muốn liễu sanh tử mà chẳng tu pháp này, cứ tu
tràn lan các pháp môn cậy vào tự lực khác th́ chỉ
đạt được cái nhân đắc độ trong
tương lai, quyết khó thể đắc quả liễu
thoát ngay trong đời này!
Cư sĩ
Vương Chửng Bang ở Hạ Môn túc căn sâu dầy,
hạnh trong đời này tinh thuần, tin chắc nhân quả,
chuyên dốc tu Tịnh nghiệp, muốn cho khắp mọi
người đều sanh Tịnh Độ bèn dựng
tinh xá tại bên trái Thái B́nh Nham ở Bổn Phụ, ngơ hầu
những người cùng chí hướng tùy theo thân phận
đến đấy niệm Phật, gieo nhân văng sanh. Vào
ngày Chủ Nhật, đặc biệt thỉnh những
người thông hiểu đến giảng diễn duyên
do pháp môn Tịnh Độ và pháp tắc tu tŕ cũng
như mọi lợi ích trong hiện đời và sau khi chết
đi, cũng có thể nói ông ta là người đầy
đủ tâm đại bi, có con mắt chọn lựa pháp
vậy! Ông lại gởi thư xin tôi đề biển
tên [tinh xá] và tŕnh bày đại ư. Tôi nghĩ một pháp Tịnh
Độ chính là pháp môn thù thắng để tam thế
chư Phật dưới độ chúng sanh, để
chín giới chúng sanh trên thành Phật đạo, là pháp môn thành
thủy thành chung[7]
thù thắng, cao vượt hết thảy Thiền - Giáo - Luật,
thống nhiếp hết thảy Thiền - Giáo - Luật. Bởi
lẽ, hết thảy các pháp truy đến nguồn gốc
ban đầu th́ không pháp nào chẳng lưu xuất từ
pháp giới này, xét đến chung cục th́ không pháp nào chẳng
quy hoàn pháp giới này. Do vậy, bèn đặt tên là Quy Tông,
ngụ ư: Hết thảy các pháp môn rốt cuộc đều
quy về pháp này, giống như ư nghĩa sông ng̣i đều
chầu về biển cả vậy. Nghĩa này được
t́m ra từ chỗ “quy tông” ở cuối kinh Hoa Nghiêm, những
ai không tin được th́ xin hăy chất vấn Phổ Hiền
Bồ Tát.
Lại nữa,
phàm hết thảy những thiện tín tu Tịnh nghiệp
đều phải tận lực giữ vẹn luân thường,
ai nấy tận sức vâng giữ bổn phận, kiêng giết,
ăn chay, thanh tâm, ít ham muốn, đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều lành, dùng việc làm của chính ḿnh
để hóa độ, hướng dẫn hết thảy,
trong là cha mẹ quyến thuộc, ngoài là bầu bạn xóm
làng, khiến cho hết thảy những người cùng
hàng đều biết “tâm này
là Phật”, cố nhiên thường học theo Phật
hạnh, cùng tu Phật từ, cùng niệm Phật danh để
mong sao hết một báo thân này văng sanh Tây Phương, thoát
luân hồi huyễn vọng, chứng Phật tánh sẵn có
mới thôi!
81. Lời
tựa tŕnh bày duyên khởi của hội Phật Giáo
Đài Loan
Phật
giáo chính là cái gốc lớn lao của hết thảy các
pháp, hết thảy các giáo. V́ sao nói thế? Hết thảy
các pháp do tâm kiến lập, hết thảy phàm - thánh do tâm
xuất sanh. Hết thảy các giáo trong thế gian tuy đều
nói đến tâm, nhưng những ǵ được [các
giáo ấy] nói chỉ là luận về tác dụng của
tâm, chứ cội nguồn cùng tột của bản thể
“bất biến tùy duyên, tùy
duyên bất biến, tâm này làm Phật, tâm này là Phật, tâm
làm tam thừa, tâm là tam thừa, tâm làm lục đạo,
tâm là lục đạo ” th́ các giáo đều chưa
phát huy được! Chỉ có ḿnh đức Thích Ca Thế
Tôn ta triệt ngộ tự tâm, biết tâm của hết
thảy chúng sanh và tâm của Như Lai không hai không khác,
nhưng do mê nên chưa ngộ, oan uổng làm chúng sanh, cho nên
nói: “Hết thảy chúng sanh
đều đầy đủ trí huệ của Như
Lai nhưng do vọng tưởng, chấp trước nên
chẳng chứng đắc. Nếu ĺa vọng tưởng,
chấp trước th́ Nhất Thiết Trí, Vô Ngại Trí
đều được hiện tiền”. Lại nói: “Hết thảy chúng sanh đều
có Phật tánh, ta là Phật đă thành, các ông là Phật
chưa thành”. Đấy đều là những điều
đức Phật nói ra khi mới vừa thành Phật trong
các hội Hoa Nghiêm, Phạm Vơng. Do v́ đại căn chúng
sanh mau chóng ngộ tự tâm, nhập Phật tri kiến,
c̣n hàng tiểu căn chưa thể nhập được
ngay nên Phật thuận theo cơ nghi để thành thục
họ. Lại muốn cho hết thảy dù thánh hay phàm cùng
trong một đời này thoát ĺa sanh tử nên đặc
biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật văng
sanh Tây Phương, khiến cho hết thảy những ai
không có sức đoạn Hoặc, chẳng thể vượt
thoát ra ngoài luân hồi đều cậy vào Phật từ
lực đới nghiệp văng sanh, cao dự chín phẩm
trong hội tốt lành, thân cận ánh sáng yên vui của Phật
Di Đà, để rồi rốt ráo chứng triệt
để tự tâm mới thôi! Ḷng chân từ đại bi
vỗ về, nuôi dạy kẻ căn cơ nhỏ nhoi của
đức Như Lai có thể nói là tột bậc không c̣n
ǵ hơn được nữa!
Phật pháp tuy gọi
là pháp xuất thế gian, nhưng thật ra đạo luân
thường hiếu đễ thế gian và pháp “cách vật
trí tri, chánh tâm thành ư, tu - tề - trị - b́nh” đều
được Phật pháp phát huy đến cùng tận, chẳng
bỏ sót mảy may điều thiện nào. V́ thế,
xưa nay những vị lập đại công, dựng
đại nghiệp, hạo khí ngời trời đất,
tinh thành ḷa nhật nguyệt, lời lẽ, hành vi trở
thành pháp tắc cho cơi đời phần nhiều là do học
Phật đắc lực mà ra; những người thông
minh duệ trí vượt trỗi muôn người không ai chẳng
cung kính sùng phụng Phật pháp, hộ tŕ, lưu thông,
để về mặt ngầm là giúp cho thế đạo,
về mặt lộ là giữ yên dân t́nh, ḥng đạt
được hiệu quả thật sự là làm cho dân
chúng ngày càng hướng thiện mà chẳng biết. Những
nhà Nho câu nệ, hẹp ḥi, không có được con mắt
trí như vậy thường chỉ trích bừa băi, bảo
Phật pháp khinh miệt luân lư, vô ích cho quốc gia. Bọn
họ chấp nhặt chuyện bỏ tục xuất gia,
chẳng biết Phật giáo dạy người tận lực
giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận,
trọng ḷng kính, giữ ḷng thành, khắc kỷ, giữ lễ,
đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành,
kiêng giết, che chở sanh vật, tín nguyện niệm Phật
ngơ hầu lúc sống dự vào ḍng thánh, khi chết về
cơi Cực Lạc. Khắp trọn thế gian hết thảy
kẻ phú quư, bần tiện, trí, ngu, hiền, tệ, già, trẻ,
trai, gái, không ai chẳng thể nương theo pháp này tu tập,
há phải đâu chỉ có ḿnh người xuất gia [mới
làm được] ư?
Nếu như hết
thảy mọi người thật sự nương theo
pháp này tu tập th́ gần là hưởng niềm vui thoát khỏi
tam giới, xa là chứng quả phước huệ nhị
nghiêm. Phải biết do Như Lai nêu tỏ lư “tâm sẵn có
Phật tánh” và sự “nhân quả ba đời” nên đă khiến
cho không biết bao nhiêu kẻ ngu phu ngu phụ trở thành
thánh hiền, khiến cho không biết bao nhiêu kẻ đại
ác ngoan bướng, hung hăn dứt bỏ ḷng ác ngầm. Do vậy,
thực hành Phật pháp th́ thiên địa quỷ thần
thảy đều hiện điềm lành, huống chi là
con người? Ngay như một pháp xuất gia cũng chẳng
phải là khinh miệt luân thường; bởi lẽ những
người ấy được cha mẹ cho xuất gia,
tu tinh ṛng phạm hạnh, dùng công đức tu tŕ của
chính ḿnh để hồi hướng cho cha mẹ, mong sao
thần thức cha mẹ thoát khỏi tam giới ngự
lên chín phẩm, ngộ Vô Sanh, chứng bản tánh. So với
những kẻ hiếu dưỡng, nhưng để cha
mẹ luân hồi trong tam đồ lục đạo bao kiếp
dài lâu không nơi nương tựa, chẳng tốt
hơn lắm hay sao?
Huống chi Phật dạy
đệ tử coi hết thảy chúng sanh đều là
cha mẹ thân quyến trong quá khứ, dùng tâm từ bi hành hạnh
phóng sanh. Chẳng những đối với cha mẹ trong
đời này không nỡ ḷng coi thường gạt qua một
bên, mà c̣n đối với hết thảy những sanh vật
sống trên đất, dưới nước, bay trên không
cũng chẳng nỡ coi thường bỏ qua. Dù cho sức
chẳng thể lo hết, vẫn dùng bi tâm thiện niệm
v́ họ niệm Phật, mong cho họ mau thoát khỏi ác
đạo, mau sanh về Tây Phương mới thôi! Do vậy
nói rằng: “Nếu con người
hành theo Phật pháp sẽ thắng tàn bạo, bỏ giết
chóc, thế đạo thái b́nh vậy!” Hơn mấy
mươi năm gần đây, sát kiếp trọn khắp
trong ngoài nước, do khí ác ấy chiêu cảm thiên tai, lụt
lội, hạn hán, băo tố, động đất liên tiếp
giáng xuống, vận đời nguy ngập, dân không lẽ
sống. Những vị lo cho đời nghĩ cách cứu
văn, bèn lấy việc đề xướng Phật học
làm nhiệm vụ cấp bách. Nếu con người biết
được nhân quả ba đời, sự thật luân
hồi lục đạo và diệu đạo “nhất niệm tâm tánh của
chúng ta chẳng khác với chư Phật” th́ có ai chịu
dùng cái vốn “tâm này làm Phật,
tâm này là Phật” để tạo nghiệp sanh tử,
vĩnh viễn đọa trong ác đạo hay chăng?
Đại sư Đằng
Chiếu ở Đài Loan thương cho đời nhiều
kẻ không biết, thề muốn lợi khắp đồng
nhân nên tính lập hội Phật giáo để đề
xướng, giảng thuyết khiến cho đại chúng
đều biết. Thoạt đầu, hội ấy
định kỳ tu tŕ để làm gương mẫu ngơ
hầu phong thái ấy được lưu hành khắp
cơi, khiến cho nhà nhà Quán Thế Âm, chốn chốn Di
Đà Phật. Lại c̣n lưu thông những kinh điển
được in khắc từ các nơi, khiến cho những
ai có tín tâm hiểu được văn nghĩa đều
được đọc tụng, thọ tŕ, ḥng tận lực
thực hành luân thường, trọn hết bổn phận,
trọng ḷng kính, giữ ḷng thành, khắc kỷ, giữ lễ,
không làm các điều ác, vâng làm các điều thiện,
kiêng giết, che chở loài vật, tín nguyện niệm Phật
để mong sao sống dự vào bậc thánh hiền, mất
về cơi Cực Lạc. Lợi ích ấy chẳng thể
diễn tả được. Sư biết Quang là người
có cùng chí hướng, bèn gởi thư nhờ viết lời
tựa, nên tôi bèn diễn giải đại lược “Phật
giáo lợi khắp hết thảy hữu t́nh” vậy!
82. Lời
tựa Phát Ẩn[8] cho Ngô Tùng[9] Phật Giáo
Cư Sĩ Lâm
Phật
pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như
hư không, không ǵ lớn lao chẳng bao gồm, không ǵ nhỏ
nhặt chẳng nêu lên, vốn dùng nhất tâm để lập,
tùy cơ nghi mà thuyết pháp. Tuy gọi là pháp xuất thế
gian nhưng thật ra trọn đủ hết thảy thiện
pháp thế gian. Tuy chẳng bỏ sót mảy may điều
thiện nào, nhưng lại chẳng chấp vào một pháp
(“Chẳng chấp” là
chẳng cho đó là đức, chẳng tự măn, cho là
đủ. Nếu hiểu lầm chẳng tận lực thật
hành là “chẳng chấp” th́
lầm to mất rồi!) Chỉ v́
không chấp trước nên hành đến rốt ráo.
Xưa nay, những ai hạnh tốt đẹp hơn
người đa phần là do học Phật đắc lực
mà ra. Do vậy, từ ngay nơi cái tâm phàm phu bèn khế hợp
Như Lai Tạng, đối với mỗi một pháp thảy
đều thông đạt đến cùng tột cội nguồn,
đích thân chứng được Thật Tướng. Tuy
là lư u huyền sâu thẳm đến tột cùng, nhưng
tùy theo căn cơ lớn - nhỏ đều có thể nhập
được, trọn khắp thế gian không một ai
chẳng kham tu, mà cũng không một ai chẳng thể tu
được! Bởi lẽ con người có cùng một
tâm này, tâm cùng một lư này vậy! Phải biết vô lượng
pháp môn đều phải dùng tự lực đoạn Hoặc
chứng chân mới thoát sanh tử được; t́m lấy
một pháp nhiếp thọ chúng sanh phổ biến nhất,
cứu vớt nhanh chóng không ngằn mé, ba căn thượng
trung hạ đều cùng tu, chặng đầu, chặng
giữa, chặng cuối, Thỉ Giác, Bổn Giác chẳng
hai, chẳng đoạn phiền hoặc, chẳng cần
phải đợi đến đời khác mà liễu sanh
thoát tử siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này th́ chỉ
có ḿnh pháp môn Tịnh Độ là được như vậy.
Do vậy, bậc
thượng căn như Văn Thù, Phổ Hiền, hạ
căn như phường Ngũ Nghịch, Thập Ác đều
là những căn cơ được nhiếp thọ bởi
pháp môn Tịnh Độ. Do pháp này thật giản dị,
thật dễ dàng, thật nhanh chóng, thật viên măn, nên nó
giống như đại địa chở khắp muôn vật,
như biển cả dung nạp các ḍng nước. Phàm những
ai học Phật tu Tịnh nghiệp đều phải tận
lực giữ vẹn luân thường, tận hết bổn
phận, cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng
xướng, vợ theo, chủ nhân từ, tớ trung thành,
chỉ cốt sao chẳng thẹn với thiên chức th́ mới
tạo lập được cơ sở để học
Phật. Tiến hơn bước nữa th́ cung kính thọ
Tam Quy, kính cẩn tu Thập Thiện, đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều thiện (Chuyện
“đừng làm” và “vâng làm” phải căn cứ
nơi khởi tâm động niệm mà luận, nếu chỉ
luận trên mặt sự tướng th́ là tự dối
ḿnh, lừa người vậy), kiêng
giết, che chở loài vật, thương tiếc mạng
sống loài vật, tín nguyện niệm Phật cầu
sanh Tây Phương. Người như thế là của báu
trong thế gian, sống được nổi tiếng, chết
về cơi Phật.
Lại phải biết
dùng những chuyện ấy cảm hóa hết thảy từ
thân đến sơ, từ gần đến xa, khiến
cho hết thảy mọi người cùng thành thiện
nhân, tu chân ngay trong cơi tục, sống trong cơi trần đảm
nhận việc nước, cảm hóa những điều
tàn bạo đă phát sanh, tiêu trừ họa loạn khi c̣n
chưa chớm. Do vậy, phong tục thuần mỹ, nhân
tâm biến đổi lớn lao, tai tiêu phước thạnh,
quyến thuộc trời thường đến, công
đức ấy chẳng thể diễn tả được!
Nếu chỉ lăm lăm trộm lấy cái danh học
Phật, chẳng chuyên chú học Phật thật sự, sẽ
trở thành tội nhân đối với Phật pháp, chẳng
những cái hư danh chẳng thể đạt được
mà c̣n sẽ bị tai họa thật sự xảy đến
về sau. Ví như trẻ nhỏ vô tri, đem Ma Ni Bảo
Châu trị giá tam thiên đại thiên thế giới đổi
lấy một miếng đường để ăn.
Đường chẳng thể no bụng, lại c̣n bị
mất chỗ nương cậy cho cả một đời,
muốn chẳng chết v́ đói lạnh há có được
ư? Các cư sĩ ở Ngô Tùng mở ra Phật Giáo
Cư Sĩ Lâm muốn cho hết thảy đồng nhân dốc
chí tu tŕ, ngơ hầu ai nấy đạt được lợi
ích thật sự, xin Quang viết mấy lời để
làm bài cảnh sách. Nhân đấy bèn tŕnh bày đại ư.
Xem đó th́ biết Phật pháp là gốc của các pháp thế
gian. Những kẻ câu nệ hẹp ḥi kia do không có con mắt
trí nên chẳng thể thấy thấu suốt, bèn nói Phật
pháp diệt luân lư, vô ích cho con người, quốc gia, có
khác ǵ kẻ mù từ lúc lọt ḷng được hưởng
ân che chở, chiếu soi của bầu trời và mặt
trời nên được thành người, nhưng v́ chẳng
thấy bèn bảo là không có, chẳng đáng buồn lắm
ư?
83. Lời
tựa cho Phật Hóa Tùy San
Phật
pháp là cội nguồn của hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian. V́ thế đạo ấy không
ǵ lớn lao chẳng bao gồm, không ǵ nhỏ nhặt chẳng
nêu. Lời lẽ rộng lớn dẫu cạn hết biển
mực cũng chẳng thể viết hết được.
Nói đến Sự th́ dù kiếm lấy một chữ
cũng không thể được. Phàm là đạo “hiếu
- đễ - trung - tín - lễ - nghĩa - liêm - sỉ”, pháp “cách
vật trí tri, thành ư chánh tâm, tu - tề - trị - b́nh”, không
ǵ chẳng chỉ dạy tường tận không sót, chứ
không phải chỉ nói về nhân quả ba đời, nêu
rơ thiện ác báo ứng, xiển phát Phật tánh sẵn có
nơi tâm, sự lư đoạn Hoặc chứng chân mà thôi! Ấy
là v́ hết thảy các pháp đều vốn ở nơi
tâm, chỉ cần triệt ngộ tự tâm bèn có thể kiến
lập các pháp. Hễ biết được chỗ chỉ
quy th́ dẫu là phàm phu cũng đều có thể làm
được, đạt được. Xét đến
cái đạo cùng cực th́ dẫu là thánh nhân vẫn có
điều không biết. Do vậy, những bậc thông
minh duệ trí, những bậc cao nhân lỗi lạc vượt
trỗi mọi người thời cổ, không ai chẳng
hộ tŕ, lưu thông, ngầm tu hiển hóa c̣n e chưa xuể
nữa là!
Xét từ thời
Đông Hán, Phật pháp được truyền sang Chấn
Đán, t́m lấy bậc cao nhân kiệt xuất, đại
hưng pháp đạo th́ xứ Tần (Thiểm Tây) chúng ta
là nhất. Do Phật pháp được hưng khởi mạnh
mẽ từ đời Tấn, đương thời Phù
Tần, Diêu Tần[10]
đều đóng đô tại Trường An[11],
và ngài Đạo An đến đất Tần, ngài La Thập
vào trong ải[12],
phàm những vị kiến giải siêu việt trong hàng Tăng
- tục, kiến thức xuất chúng đều quay về
thờ hai vị ấy làm thầy. Đến thời Tùy -
Đường vẫn đóng đô tại đây. Do vậy,
hoằng tuyên pháp đạo vượt trội cổ kim.
Vào thời Đường, các tông đều có đủ
bởi quốc gia hết sức tôn sùng; do vậy, thủ
lănh các tông đa phần ngụ tại kinh đô, để
sở học, sở đắc của ḿnh về mặt
ngầm giúp cho việc b́nh trị, về mặt nổi là
giữ yên dân t́nh, sự thạnh hành của pháp đạo
[tại Trường An] xứ khác làm sao sánh bằng cho
được!
Về sau, tuy kinh đô
được dời sang xứ khác, nhưng những vị
hoằng Tông diễn Giáo, ngầm tu thầm chứng vẫn
đời đời chẳng thiếu người. Đến
cuối đời Thanh, sau cơn loạn giặc tóc dài, giặc
Hồi, nhân dân khốn khó, đạo này bị gác lại
không ai hỏi đến, nhưng mạch dây vẫn
chưa đứt. Mười mấy năm gần
đây, thế đạo nhân tâm đă hoại loạn
đến cùng cực, nhưng loạn đến cùng cực
ắt phải nghĩ đến b́nh trị, vận bỉ
đến cùng cực ắt phải nghĩ đến lúc
thái, phàm những người thấy biết thông suốt
không ai chẳng dùng việc phô rơ nhân quả, chỉ bày báo ứng,
chỉ thẳng nguồn tâm, nêu tỏ tánh thể của Phật
pháp làm đạo trọng yếu để văn hồi thế
đạo nhân tâm. Do vậy, dù Tăng hay tục đều
đua nhau đề xướng tu tŕ ngơ hầu ḿnh lẫn
người cùng thoát mê đồ, sanh lên bờ Giác. Do vậy,
đôn đốc luân thường, tinh tu Tịnh nghiệp,
sống dự vào bậc thánh hiền, thác về cơi Cực
Lạc.
Do vậy, hội Phật
Giáo ở Trường An tưng bừng thành lập, những
người cùng tỉnh đă sống nơi xứ khác, nếu
chẳng viết thư báo ắt chẳng thể diễn
đạt hết ư được. V́ thế, những chuyện
được thấy được nghe, những lư
được thấu hiểu, được ngộ giải,
những phương pháp ngầm tu thầm chứng, những
giáo huấn cách ngôn, những lời luận bàn hay đẹp,
những nghiên cứu bàn luận giữa bạn bè, những
ǵ phát huy được soi sáng bởi trí huệ, đều
chia môn phân loại, chép thành Tùy San. Đây - kia xem xét, bổ
trợ lẫn nhau, cốt sao chánh trí được khai
phát bởi các lời bàn luận, do giúp lẫn nhau lệ trạch[13] sẽ
cùng được tươi tốt rộng khắp. Sẽ
thấy do biết nhân quả nên vĩnh viễn dứt
được ác tâm “mạnh ăn thịt yếu”, tận
tâm giữ vẹn luân thường, cùng ôm ấp thiện niệm
thương dân yêu vật, trừ giết chóc, thắng hung
tàn, trở về thời Đại Đồng, phong tục
thuần mỹ, cùng làm người trong thời Hy - Hoàng. Lợi
ích ấy há thể diễn tả được ư?
Do vậy, bèn chúc rằng:
“Như Lai đại pháp là nguồn các pháp, hết thảy
các pháp không ǵ chẳng bao hàm. Giữ vẹn luân thường
đến tột bực, phát huy không sót; sự lư nhân quả
đều thích hợp cơ nghi. Tưởng nghĩ Tần
Xuyên xưa kia hiệu là Pháp Quật (hang pháp), Hiền, Từ[14],
Mật, Luật đều bắt nguồn từ đây.
Thiện Đạo, Pháp Chiếu xiển dương Liên
Tông, khiến cho khắp phàm phu cùng thoát lồng rọ. Chúng
sanh đời Mạt đoạn Hoặc không dễ, chỉ
ḿnh pháp này thật đáng nương tựa. Từ Tấn
đến Đường, hơn năm trăm năm,
pháp đạo Chấn Đán không đâu hơn được!
Từ đấy về sau, đời nào cũng có những
bậc cao nhân ngầm tu mật chứng, phần nhiều ẩn
ḿnh. Bầu trời chân tánh lư đă già dặn, nhiếp thọ
liên tŕ, trung hưng Tịnh Độ, quả thật bắt
nguồn từ đây. Nếu đức không cùng tột,
ai chịu khuất phục? Tiếc cho dấu thơm cổ
đức đă bị mất nhiều! Đến cuối
đời Thanh, chiến tranh liên miên, nhân dân tan tác, truyền
hoằng gần tiêu. Gần đây bậc thông nhân tầm mắt
rộng mở, biết nếu không dùng Phật pháp sẽ không
cách ǵ văn hồi tai kiếp. Do vậy, tụ tập Tăng
- tục những người đồng chí tùy cơ đề
xướng, dựng lập cờ pháp muốn cho khắp
tất cả được hưởng pháp lợi, đề
xuất Tùy San, lệ trạch tạo ích lợi lẫn
nhau, mong ngộ được tánh thiên (bầu trời chân
tánh). Phật do tâm làm, đạo do người hoằng, nếu
cạn ḷng thành đến mức cùng cực, gió thổi cỏ
rạp. Quang tuy tầm thường, kém cỏi cũng biểu
lộ đồng t́nh, chẳng nề ngu tối làm người
rao đường. Nguyện những người đồng
hành với tôi đều tu tịnh hạnh, ngơ hầu siêu
phàm nhập thánh ngay trong đời này”.
84. Lời
tựa duyên khởi cho Đôn Bản Học Hiệu ở
Phật Xuyên
Nho - Thích
hai giáo về mặt h́nh tướng tợ hồ khác nhau, về
gốc vốn cùng. Có kẻ chấp vào h́nh tướng mê mất
cái gốc thường bài xích Phật pháp, cho là diệt
luân lư, gây rối chánh trị nước nhà, vô ích cho xă hội,
có hại cho dân sanh. Đức Như Lai gọi những kẻ
thế trí biện thông biện luận mù quáng như thế
là “kẻ đáng thương
xót”, chẳng biết Phật pháp có đủ pháp thế
gian lẫn xuất thế gian. Nếu luận trên pháp thế
gian th́ đạo “hiếu - đễ - trung - tín - lễ - nghĩa
- liêm - sỉ”, pháp “cách vật trí tri, chánh tâm thành ư, tu - tề
- trị - b́nh” của Nho Giáo trong các kinh Đại Tiểu
Thừa không ǵ Như Lai chẳng nói trọn! Nhưng thánh
nhân thế gian chỉ căn cứ trên đời này, chỉ
dạy con người tận nghĩa, tận phận, c̣n
Phật nói đủ quá khứ - hiện tại - vị
lai ba đời, và dạy rơ thiện báo của việc tận
phận, ác báo của việc chẳng tận phận.
Người thượng căn chỉ nghe được
chuyện tận nghĩa, tận phận là chuyện nên làm
bèn dốc trọn thân gánh vác, c̣n hạng trung hạ căn
ngoài mặt kính phụng nhưng trong ḷng ngầm trái nghịch
nên không cách ǵ đối trị được. Nếu nghe
đến nhân quả ba đời, biết tận phận
th́ được thiện báo, chẳng tận phận mắc
ác báo, dẫu là kẻ ngu bướng chắc chắn
cũng chẳng vui mừng v́ bị tai họa, mang ư niệm
t́m chuyện xui, tránh chuyện hên. Do biết tam thế thiện
ác báo ứng, dù chẳng muốn tận nghĩa, tận phận,
nhưng v́ mong mỏi thiện báo, sợ ác báo nên cũng sẽ
gắng sức tận nghĩa, tận phận.
Đấy chỉ là luận
trên sự việc nông cạn, gần gũi nhất th́ đă
có thể biến kẻ ngu bướng thành người
lương thiện, chuyển thói tục tệ bạc
thành phong tục thuần hậu, huống hồ những lợi
ích sâu xa th́ bọn phàm phu thế gian kia làm sao có thể thấy
hết, biết trọn cho được! Chỉ luận
về Hiếu th́ đă trọn khắp lục đạo
cho đến tột cùng đời vị lai. Do vậy,
các kinh Phạm Vơng, Lăng Già v.v… đều dạy sanh tâm
hiếu thuận, tâm từ bi, kiêng giết, phóng sanh, bởi
lẽ hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh,
đều kham thành Phật, đều trong vô lượng
kiếp đến nay luân hồi sáu nẻo, ai nấy lần
lượt làm cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè của
nhau. Nói nghĩ đến đây, lẽ ra phải giúp cho họ
được sống yên vui, nỡ nào nhằm thỏa ham
muốn của bụng miệng mà tàn hại cha mẹ quá
khứ, chư Phật vị lai ư? Huống chi đă tạo
sát nghiệp ắt mắc chịu sát báo, ai chịu thỏa
nỗi ham muốn tạm thời của miệng bụng
để rồi trong đời vị lai thường bị
mỗi một chúng sanh từng bị ta giết hại
ăn thịt trước kia sẽ giết ăn thịt
trở lại chính ḿnh ư? Huống chi binh đao đại
kiếp trong thời gần đây thảm thương chẳng
nỡ nói, nguyên nhân đều là do sát sanh ăn thịt mà
ra. Nếu ai nấy đều y theo Phật pháp, kiêng giết,
giữ ǵn sanh mạng loài vật, ăn chay, niệm Phật,
chẳng gây nhân giết chóc th́ tự ḿnh không có quả giết
chóc, khó ǵ chẳng thắng được bạo tàn, trừ
khử giết chóc, trở thành yên ổn rất mực
ư? Xét ra, thế đạo có thái b́nh th́ cha mẹ, anh em,
vợ con, bạn bè ai nấy mới được vui
sướng, ai nấy tận nghĩa tận phận không
hối tiếc ǵ th́ mới là hợp với tâm hiếu thuận,
ư chỉ cốt lơi từ bi mà đức Phật đă nói.
Do vậy, nói: “Đức Phật dạy đạo hiếu
vừa lớn lao vừa sâu xa!”
Chân Đạt đại
sư sanh trong nhà họ Hồ ở Phật Xuyên, tuổi
nhược quan (20 tuổi) liền ngộ cơi đời
chẳng thường, bèn xuất gia nơi Tam Thánh
Đường ở núi Phổ Đà, tinh tu Tịnh nghiệp,
mong sanh về Liên Bang. Mấy mươi năm qua, cha mẹ,
anh em đều tạ thế cả, không người cúng giỗ.
Do ḷng hiếu thuận, lại nghĩ đến con em những
nhà đói rét, nghèo hèn ở nơi ấy không đủ sức
đi học, bèn đem tiền y bát dành dùm được hơn
bảy ngàn đồng giao cho người nhiệt tâm công
ích trong họ, lập ra một trường học nhỏ
mang tên Đôn Bản để con em nơi ấy đều
được đi học. Chương tŕnh học chú trọng
những chuyện như tận lực thực hành hiếu
đễ v.v… Những sách dùng để học chú trọng
vào Ngũ Kinh, Tứ Thư v.v… kèm thêm vài phần của
cách học mới, ngơ hầu giữ vẹn cái gốc trọng
đạo mà chẳng vướng khuyết điểm
không hợp thời, chẳng thích ứng vậy. Người
trong họ cảm nghĩa ấy, đem các thần chủ[15]
cha mẹ, anh em… của Sư thờ cúng trong nhà trường.
Nếu trường ấy chẳng bị phế bỏ
th́ sẽ thờ phụng măi. So với những người
có con cháu nhưng là hạng bất tiếu khiến cha mẹ
bị nhục lây, hoặc giữa chừng bỏ lửng
không cúng giỗ th́ cha mẹ, anh em v.v… của Sư vinh diệu
hơn nhiều lắm.
Lại do đất Phật
Xuyên vốn nằm trên trục lộ giao thông, thường
có người đi đường bị chết không có
quan tài khâm liệm, Sư bèn bỏ ra riêng một ngàn đồng
giao cho người quản trị nhà trường đầu
tư kiếm lời, dùng tiền lời ấy làm chi phí
mua gỗ đóng ḥm, chôn cất. Người trong địa
phương nghèo không mua nổi quan tài cũng thí cho. Ôi! Cao
đẹp thay! Tâm của sư Chân Đạt có thể nói
là b́nh đẳng công b́nh hết mực, trọn không có ư tự
tư tự lợi, khiến người trong họ cảm
kích, thờ phụng cha mẹ Sư dài lâu, những người
chỉ mưu toan cho con cháu có được lợi ích
như vậy hay chăng? Nhưng Quang lại muốn cho những
người trong họ ấy đều được lợi
ích thật sự nên chẳng ngại tŕnh bày đại
lược nỗi ḷng ngu muội. Trộm cho rằng
sư Chân Đạt xuất gia học Phật đem tiền
y bát dư ra để làm chuyện công ích cho người
quê ḿnh th́ người cùng quê cũng phải ngửa noi theo
dấu thơm ấy, ai nấy tu Tịnh nghiệp. Gian
chính giữa nhà trường nên thờ tượng Tây
Phương Tam Thánh. Người quản trị, giáo viên, học
sinh trong trường đều nên sáng chiều lễ kính
để cầu nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận,
phước cao th́ mới là lợi ích thật sự rốt
ráo. Trong trường cố nhiên nên đoạn dứt
vĩnh viễn những thứ tanh tưởi (đồ
mặn) th́ mới chẳng phụ ân nghĩa của vị
Tăng dùng tiền thập phương tín thí để lập
học hiệu. Nếu không, chẳng những không hợp
với bổn tâm của sư Chân Đạt mà cũng chẳng
phải là giữ vẹn cái gốc, tự yêu lấy ḿnh, khiến
cho chính ḿnh cùng các học tṛ hằng ngày được un
đúc trong Phật pháp mà hoàn toàn chẳng được lợi
ích thật sự ǵ! Chẳng tiếc lắm ư?
Phải biết Phật
pháp chính là gốc của hết thảy các pháp, mà trong Phật
pháp một pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ
lại là pháp môn vô thượng chí viên chí đốn,
đơn giản nhất, dễ dàng nhất, độ khắp
ba căn, lợi - độn đều thâu, thành thủy,
thành chung, là pháp hết thảy mọi người đều
nên tu tập, huống ǵ nhà trường này ư? Chớ
nói Tăng bỏ tiền lập trường nên ép người
ta học Phật. Đấy chính là tâm hiếu thuận,
tâm từ bi muốn cho hết thảy mọi người
trong trường này đều liễu sanh thoát tử, siêu
phàm nhập thánh, làm đệ tử Phật Di Đà, chứng
Phật tánh sẵn có mà thôi! Chẳng thấy hiện thời
những người bác học đa văn tri kiến sâu
xa quá nửa đều nghiên cứu tu tŕ pháp môn Niệm Phật
đó ư? Nếu sống trong nhà trường này mà chẳng
tu tŕ th́ thành ra là gánh gai bỏ vàng, đến núi báu trở
về tay không, chẳng đáng tiếc ư?
85. Lời
tụng và lời tựa bức tranh ngàn vị Phật
Tâm
như thợ vẽ khéo, vẽ được các thế
gian. Phật là chánh giác thế gian, c̣n Bồ Tát, Duyên Giác,
Thanh Văn, trời, người, A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ,
địa ngục là hữu t́nh thế gian, c̣n gọi là “mười
pháp giới”. Mười pháp giới này tuy là thánh - phàm khác
biệt, khổ - vui sai khác vời vợi, nhưng Chân
Như Phật Tánh sẵn có đều hệt như nhau,
chỉ do dụng tâm khác biệt nên mới có mười thứ
tướng biến hiện ấy. Kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật dạy: “Tâm này
làm Phật, tâm này là Phật”. “Làm Phật” là quán tưởng
tượng Phật, ức niệm Phật đức
cũng như Phật hiệu; “là
Phật” nghĩa là lúc quán tưởng, ức niệm
th́ tướng hảo trang nghiêm, phước đức,
trí huệ, thần thông, đạo lực của Phật
đều hiện trong cái tâm quán tưởng, ức niệm
ấy như gương soi h́nh, giống hệt nhau không
hai.
Như vậy, nếu
tâm chẳng làm Phật th́ tâm chẳng phải là Phật; tâm
làm tam thừa th́ tâm là tam thừa; tâm làm lục đạo
th́ tâm là lục đạo. Bản thể của tâm giống
như một tờ giấy trắng, tác dụng thiện
ác nhân quả của tâm giống như vẽ Phật hay vẽ
địa ngục, đều tùy tâm hiện. Bản thể
tuy đồng, nhưng tạo tác thật khác. V́ thế
nói: “Chỉ là thánh mất niệm
thành cuồng, cuồng khắc chế được ư niệm
bèn thành thánh”, chúng ta chẳng thận trọng nơi những
ǵ ḿnh nghĩ, ḿnh làm ư? Cư sĩ Châu Hiểu Nhai
xưa có linh căn, sanh ra liền ăn chay, khéo vẽ
người vẽ vật, bút pháp xuất thần, muốn
khiến cho diệu tướng vạn đức trang
nghiêm của Như Lai in vào tám thức điền của hết
thảy chúng sanh để nhờ vào đây, thiện
căn được tăng trưởng, mở rộng
dần cho đến khi thật sự chứng, ḥng khỏi
phụ Chân Như Phật tánh ai nấy sẵn có và tâm
Như Lai đại từ bi nhiều cách dẫn dắt.
V́ thế, ông ta kính cẩn vẽ một ngàn vị Phật
cho in thạch bản lưu thông, xin Quang viết lời tựa
để nêu bày nguyên do. Do vậy, tôi bèn phát huy đại
lược ư nghĩa “tâm làm,
tâm là” mong những ai thấy nghe đều biết
được những ǵ nên lấy nên bỏ để dốc
sức. Tụng rằng:
Phật do tâm làm,
Ngục do tâm tạo,
Lực dụng của tâm,
Thắng diệu bậc nhất.
Đă làm được Phật,
Sao tạo địa ngục?
Do mê hướng về,
Chứa nhân ác họa!
Cư sĩ Hiểu Nhai,
Muốn dẫn dắt người,
Kính vẽ ngàn Phật,
Để chỉ pháp yếu.
Khiến người thấy nghe,
Đều sanh kính ngưỡng,
Kiệt thành tận kính,
Lễ cúng quán tưởng,
Đă thấy thánh tượng,
In vào thức điền,
Do thiện căn này,
Ắt chứng nguồn tâm,
Đem in thạch bản,
Để rộng lưu truyền,
Giăi bày nguyên do
Biểu thị chút ḷng
86. Lời
tựa sách Phật Pháp Yếu Luận
Chúng sanh
hôn mê điên đảo, phiền hoặc quá đỗi, chẳng
thể tự ngộ! Trái nghịch trí huệ Như Lai sẵn
có, đuổi theo căn trần chúng sanh huyễn hiện.
Đối với sắc thanh, của cải, lợi lộc
giống như hoa đốm trên không[16],
huyễn ảnh, khởi tâm tham - sân - si, yêu - ghét, chấp
trước. Tâm đă khởi tham - sân - si th́ thân bèn tạo
giết - trộm - dâm, từ đấy trải kiếp
dài lâu báo phục lẫn nhau, từ khổ vào khổ, không
hề ngừng nghỉ. Nếu như tự tu giới thiện
thiền định, được sanh trong đường
lành trời - người, nhưng Hoặc nghiệp
chưa đoạn, phước hết lại bị đọa
lạc, luân hồi sáu nẻo trọn chẳng có lúc nào hết!
Được thân người như ở trọ, đọa
trong tam đồ như ở quê nhà. Như vậy th́ chẳng
những tam đồ đáng sợ, mà nhân thiên cũng
đáng sợ! Bởi thế, đức Đại Giác Thế
Tôn riêng rủ ḷng xót thương, thị hiện sanh trong
thế gian thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận chúng sanh nói
đủ mọi pháp. Với hàng đại căn bèn nói thẳng
Lư “nhất tâm tạo đủ”
khiến họ đích thân chứng ngộ, với tiểu
căn bèn dạy rơ Sự tam thế nhân quả khiến họ
tu tŕ dần dần. Đă biết lư này, sự này, ai chịu
ôm châu làm kẻ ăn mày, cầu vui lại bị khổ;
mà sẽ trái trần, hiệp giác, bỏ mê theo ngộ để
mong khôi phục thiên chân Phật tánh sẵn có của ḿnh chẳng
để lỡ qua! Tuy nhiên, phiền năo sâu dầy chẳng
dễ tiêu trừ, nếu không phải là kẻ thiện
căn nhiều kiếp chín muồi, thật khó thể siêu
thoát ra ngoài luân hồi ngay trong đời này!
V́ vậy, đức
Thế Tôn ta do ḷng đại từ bi, đặc biệt
mở ra pháp môn cậy vào Phật từ lực văng sanh Tịnh
Độ, để thượng thánh hạ phàm cùng
được văng sanh Tây Phương ngay trong đời
này, quả là đạo trọng yếu vỗ về, nuôi
nấng, bế bồng, nựng nịu[17],
mà cũng là diệu pháp để mau chứng Bồ Đề
vậy! Bởi lẽ, hết thảy chư Phật không
có pháp này sẽ chẳng thể viên măn Bồ Đề, hết
thảy chúng sanh nếu không có pháp này sẽ chẳng thể
thoát ngay được sanh tử. Hạ thủ dễ,
thành công cao, dùng sức ít hiệu quả nhanh. Do dùng Quả
Địa Giác làm Nhân Địa Tâm nên nhân trùm biển quả,
quả thấu nguồn nhân. Gần đây thế đạo
nhân tâm suy hoại đến cùng cực, phế kinh, phế
luận, đua nhau lập tân pháp, lầm nhân mê quả, mặc
sức làm xằng. Do vậy, thiên tai nhân họa liên tiếp
giáng xuống, giặc cướp tung hoành, dân không lẽ sống,
người lo cho đời đau buồn hết mực.
Cư sĩ Đạt
Am Phùng Bảo Anh xưa đă trồng cội đức, dốc
sức tin tưởng Phật thừa, triệt ngộ tự
tâm, thâm nhập Kinh Tạng, thương xót những kẻ
ấy mê muội bổn tâm, bèn soạn cuốn Phật Pháp
Yếu Luận để cứu đời, phát huy mọi
lẽ khế lư, khế cơ, khiến cho họ biết
được tâm ta sẵn có Phật tánh, nhưng bị
Hoặc nghiệp huyễn vọng khởi lên ngăn lấp.
Do vậy, chịu sống chịu chết trong tam đồ
lục đạo đến nỗi thân h́nh xấu hèn, thần
thức tối tăm, thọ dụng khốn khổ gian
nan, bị nguy hiểm bức bách. Ví như đặt h́nh tướng
xấu hèn trước tấm gương sáng, quyết chẳng
thể có được h́nh ảnh vi diệu trang nghiêm
đẹp đẽ. Từ đấy, gột ḷng tẩy
ư, chuyên tu giới thiện và thiền định để
làm nhân xuất thế. Lại c̣n phát Tứ Hoằng Thệ
Nguyện và Đại Bồ Đề tâm, tự hành, dạy
người cùng tu Tịnh nghiệp để mong khi báo hết
nhanh chóng văng sanh Tây Phương, thân cận Di Đà, theo gót
hải chúng mau chứng Phật tánh tâm ta sẵn có, phổ
độ vô biên chúng sanh trong pháp giới. Như thế th́
trên chẳng cô phụ Phật giáo hóa, dưới chẳng
phụ tánh linh của chính ḿnh, mà thâm tâm soạn luận của
Đạt Am, ư thiết tha lưu thông của các vị
cũng được thông suốt, vui thỏa, không tiếc
nuối vậy!
87. Lời
tựa tŕnh bày duyên khởi cho hội Thí Quan Tài Thể Nhân ở
Phổ Đà
Câu “vùi xương chôn thây” xuất
phát từ thiên sách Nguyệt Lệnh[18]. “Ân trạch thấm đến
xương khô” là câu văn nói về việc thi ân của
vua Châu, huống chi Phật pháp là đạo cứu giúp cả
thân lẫn tâm, kẻ c̣n người mất đều giúp
đỡ [lại chẳng như vậy] ư? Phổ
Đà là đạo tràng của Quán Âm Đại Sĩ, bao
triều đại đều khâm kính, khắp thế gian
tôn sùng. Do vậy, có được ba ngôi chùa[19] như
thế chân vạc, các am cùng khắp; trong nước, ngoài
nước triều yết thật là đông đảo!
Phàm là thợ cả, người sai vặt, người bán
rong, kẻ bán sức thường quá ngàn người. Nếu
đến kỳ dâng hương, con số ấy c̣n gấp
bội. V́ thế, các vị trưởng lăo trong núi thể
theo ḷng từ của Phật, mở ra y viện để
chữa trị cho hết thảy những người mắc
bệnh, hoặc là những người bán rong, bán sức bị
chết bất th́nh ĺnh, không có quan tài thật khó thể an ủi
vong linh, mở rộng sự hóa độ từ bi. Huống
chi thường có những tử thi từ biển giạt
vào, cũng như những người khổ hạnh từ
phương xa đến dâng hương bị chết bất
ngờ, cần phải tẫn liệm ngay. Nếu không sẽ
bị rữa nát, đối với chuyện giúp đỡ
người chết lẫn vấn đề vệ sinh đều
đáng phàn nàn.
Chân Đạt đại
sư liền phát tâm thí quan tài. Lại nghĩ: Nếu chẳng
lập cách, về sau sẽ khó thể duy tŕ lâu dài
được! Năm Dân Quốc thứ năm (1916), các
ông Dương Thúc Anh, Chúc Lan Phưởng, Viên Tổ Hoài,
Tào Chấn Thanh v.v… lên núi, nhân đó bàn về chuyện này. Các
ông cùng bỏ ra hai ngàn đồng, Chân Đạt đại
sư tự bỏ ra bốn ngàn đồng. Năm ngoái lại
cùng các thầy Liễu Tín chùa Phổ Tế, Đạt Viên
chùa Pháp Vũ, Liên Hy chùa Hải Ngạn, Quảng Đức
chùa Tử Trúc, Nguyện Lai chùa Hồng Phiệt, Giới
Như chùa Hồng Phiệt, Oánh Chiếu chùa Báo Bổn, Thanh
Phước chùa Hạc Minh, Khôn Sơn chùa Phổ Tuệ, Cực
Đắc chùa Bách Tử và hai vị cư sĩ Lưu Kư
Đ́nh, Trương Tông Phú cùng nhau thương lượng
bàn bạc biện pháp. Do đấy, lập ra một hội,
đặt tên là Thể Nhân, nhằm kính cẩn thể theo
ḷng Từ của Phật, nhân từ cứu giúp vong linh, khiến
cho người mất chẳng bị nỗi thảm
phơi bày thi thể, Tăng chúng trong núi không bị cười
chê là thiếu ḷng Từ. Mỗi vị đều bỏ ra
một trăm đồng, cùng với món tiền đă
quyên được bên trên, tổng cộng là bảy ngàn
hai trăm đồng dùng mua hằng sản, mời người
[soạn văn] bày tỏ, lập bia. Riêng thỉnh các vị
sư trong hội tại núi này luân lưu trông nom, dùng tô lợi
thâu thập hằng năm chi dụng hết vào việc thí
quan tài, ngơ hầu được truyền măi không bị bỏ
phế. Như thế th́ sau này những người bần
cùng mất đi đều được phước mà
viên thông đạo tràng cũng được vinh lây. Phàm
những người bỏ vốn và trông nom coi sóc đều
được tiêu trừ túc nghiệp, tăng trưởng
thiện căn. Hiện đời phước lẫn thọ
cùng vượng, làm gương mẫu cho đời, lâm
chung th́ thân lẫn tâm đều diệu, dự vào cơi
nước Phật. Muốn cho hậu nhân biết rơ nên thuật
lại duyên khởi, ngơ hầu ức vạn năm sau, bố
thí măi măi hầu đền đáp tâm cứu độ chúng
sanh của Đại Sĩ, mà cũng chẳng phụ một
phen tận tâm hộ giáo, giúp đỡ người mất
của các vị đại sư, các vị cư sĩ vậy.
88. Lời tựa cho Vạn Niên Bạ
của Tam Thánh Đường
Pháp chẳng
khởi một ḿnh, đạo do người hoằng. Thắng
địa danh lam chỉ nhờ vào người [mà
được nổi tiếng]. Có được người
th́ rừng gai góc biến thành rừng chiên-đàn; không có
người th́ hang sư tử biến thành ổ chồn
hoang. Tam Thánh Đường được sáng lập vào
năm Vạn Lịch thứ 30 (1602), khi ấy vị
Tăng tên Đại Phương kết am tranh ở
đây. Rồi hai thái giám Trương Tùy, Đảng Lễ
phụng chỉ đứng trông coi xây Tàng Kinh Các, nhàn hạ
đi đến đây, uống nước suối thấy
ngọt bèn t́m nguyên do. Biết suối này nhằm lúc khô hạn
hết sức cũng không cạn, trong chùa nhằm lúc hạn
hán cầu mưa, ắt dùng nước lấy từ con suối
này [để cầu mưa] sẽ liền được
mưa tràn trề; do vậy bèn đặt tên là Bát Công Đức
Tuyền (suối tám công đức). V́ vậy, hai ông bèn bỏ
tiền sai dựng điện Tây Phương Tam Thánh, bởi
nước tám công đức vốn có trong ao bảy báu của
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đến
thời Khang Hy nhà Thanh, vị tăng tên Hải An trùng tu. Về
sau, lâu năm, hư nát. Đầu đời Hàm Phong, do Ân
Đường Hiển Pháp Công tiềm tu tại đây, chùa
đổi tên là Như Ư Am, vẫn chỉ là mấy gian nhà
nhỏ mà thôi! Đầu đời Quang Tự, đồ
tôn đời thứ tư [của Hiển Pháp Công] là Hoa
Đức Công quyên mộ những vị trong ấp như
các ông Hồng X… dựng điện Tam Thánh, đổi lại
tên cũ. Từ đấy về sau, thế đạo
thái b́nh, lại thêm đường thuyền, đường
sắt đều thông, hương hỏa của Bồ
Tát này càng thạnh vượng. Chuyện trong am đă gần
như đâu vào đấy, Hoa Đức Công muốn lắng
ḷng chuyên tu Tịnh nghiệp, đem việc am giao cho đồ
đệ là sư Trưởng Đính, lại sai cháu là
sư Chân Đạt phụ giúp, chùa bèn được xây dựng
rộng lớn. Đến khi thầy Trưởng Đính
qua đời, thầy Chân Đạt lại càng chẳng
tiếc tâm lực, những ǵ cần sửa bèn sửa, những
ǵ nên dựng bèn dựng, chùa trở thành một ngôi già-lam
đẹp đẽ lớn lao. Về sau, nhọc nhằn
đă lâu, ư muốn tịnh dưỡng, bèn giao cho thầy
Minh Giáo trông coi mấy năm.
Năm nay, thầy Minh
Giáo lại xin thôi, thầy Chân Đạt nhân đó nghĩ
đời người tuổi thọ được mấy,
am này đă qua mấy đời Trụ Tŕ, do tâm lực mấy
mươi năm mới được điện vũ
nguy nga, liêu xá rộng răi, Tăng chúng trong am được
thanh tu, khách đến dâng hương có chỗ ở nhờ.
Đương trong lúc này, chẳng đem quy củ khóa
tŕnh trong am cũng như kinh tượng trang nghiêm, pháp khí,
đồ đạc viết hết vào sách để lại
cho mai sau th́ e rằng năm lâu tháng chầy, người
đời sau chẳng biết, rất có thể phế bỏ
quy củ, đồ vật thất lạc, khiến cho một
phen khổ tâm tạo lập đạo tràng của tiền
nhân đổ ra biển hết, toàn là khiến cho hậu
nhân ở yên nơi đây ăn luống của tín thí, chẳng
tu đạo nghiệp, há chẳng gây hận cho tiền
nhân ư? V́ đó, viên thông đạo tràng bị tước
mất sắc vẻ, Phổ Môn Đại Sĩ đành phải
ngậm buồn nơi cơi Thường Tịch Quang! Do vậy,
sai Quang lược thuật duyên khởi của am này, phàm mọi
thứ quy củ, đồ đạc v.v… đều nhất
nhất ghi cặn kẽ ngơ hầu người đời
sau có cái để tuân thủ vậy.
89. Lời
tựa cho sách Anh Minh Tập của cư sĩ Sái Bá Luân
Con
người sống trong thế gian ai nấy phải tận
hết luân thường. Nếu không, tuy mang danh là người,
nhưng quả thật có khác biệt ǵ với loài thú
đi ngang đâu? Mạnh Tử nói: “Ai cũng có thể là Nghiêu - Thuấn”. Kinh Phật
dạy: “Hết thảy chúng
sanh đều có Phật tánh, đều kham làm Phật”.
Điều cốt yếu để làm Nghiêu - Thuấn,
để làm Phật nằm ở chỗ tận lực thực
hành hiếu đễ cũng như bỏ vọng theo chân
mà thôi! Cái giúp cho chuyện này được thành tựu từ
lúc ban đầu cho đến khi cuối cùng chính là khắc
kỷ, giữ lễ, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều thiện mà thôi! Gần
đây, phái tân học trong thế gian tranh nhau học theo
phong cách Âu Tây, phế bỏ kinh điển, trái nghịch
luân thường, đến nỗi công khai đề
xướng chống đối đạo hiếu, chung vợ,
lơa thể v.v… chỉ muốn cho con người chẳng
khác ǵ cầm thú! Điên cuồng mất trí quá sức vậy!
Cư sĩ Bá Luân sống
gởi ở Đài Loan đă ba đời. Đến tuổi
nhược quan muốn trở về tổ quốc, do bà
mẹ chẳng muốn đi xa, nên gắng lưu lại
chốn xa xôi, làm việc nhiều năm. Đến khi mẹ
mất bèn ung dung trở về. Có thể nói là bậc đứng
riêng, đi một ḿnh, giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận vậy. Ông sống tạm nơi
đất Hỗ (Thượng Hải), sống bằng
nghề xem tướng. Phàm những ai đến xem bói, bất
luận tướng mạo thiện hay ác đều khuyên
nên gắng tu đức tích thiện, ngơ hầu thiện
càng thêm thiện, bất thiện cũng trở thành thiện,
phù hợp sâu xa nghĩa lư “mạng
do ta lập, phước do ta cầu” cũng như “có tâm không tướng, tướng
tùy tâm sanh; có tướng không tâm, tướng theo tâm diệt”!
Nhưng trong lúc bàn luận luôn ra rả nhắc đến
tam thế nhân quả báo ứng và pháp môn Tịnh Độ
hoành siêu khiến cho hết thảy mọi người do
đến coi bói đều được dự vào cơi hiền
thánh cũng như văng sanh nước Cực Lạc, [cũng
có công] văn hồi thế đạo nhân tâm rất lớn! Do
đây biết người có tâm cứu đời giúp
người dẫu chẳng có địa vị để
thực hành việc cai trị [theo đúng đạo
nghĩa] cũng vẫn có thể thi hành vậy. Nhân đấy
bèn đổi tên là Bá Luân, chẳng biết ư của cư
sĩ Bắc Luân[20]
có cho như vậy là đúng hay không?
90. Lời
tựa sách Giáo Hối Thiển Thuyết
Giáo dục
trong gia đ́nh, nhân quả báo ứng là nhiệm vụ trọng
yếu nhất để cứu văn thế đạo nhân
tâm trong hiện tại. Nếu chẳng bắt đầu
từ đây th́ dù có làm ǵ cũng đều thuộc về
cành nhánh, đều có thể trá ngụy. Chỉ khi nào từ
nhỏ đă dạy giữ vẹn luân thường, tận
hết bổn phận, lư nhân quả báo ứng, tập quen
thành tánh, đến khi lớn lên lẽ đâu chẳng trở
thành người hiền! Sách Luận Ngữ chép: “Thiên hạ hưng vong, thất
phu hữu trách” (Thiên hạ hưng vượng hay suy vong,
kẻ thất phu có trách nhiệm). Kẻ thất phu thân
hèn, danh kém, làm sao có trách nhiệm này cho được? Phải
biết: Quốc gia thiên hạ do từng người, từng
gia đ́nh hợp thành. Những ai có quyền lực th́ người
cùng một nhà tranh chấp, những kẻ không quyền lực
lập bè đảng cướp đoạt, cùng những
kẻ phóng đăng, lười nhác, gian trá, phạm pháp, chỉ
cầu may mắn tạm thời, chẳng đoái hoài họa
- phước về sau, đều là do từ nhỏ chẳng
được cha mẹ hiền khéo dạy, chẳng biết
lợi người chính là lợi ḿnh, hại người
c̣n tệ hơn hại ḿnh quá mức, làm lành ắt nhà ḿnh
thịnh vượng, chết đi thần thức siêu
thăng thiện đạo, làm ác ắt nhà ḿnh suy vong, đến
nỗi chết đi thần thức đọa trong ác
đạo.
Nếu như biết
âm thanh êm ái th́ tiếng vang dễ nghe, h́nh thẳng ắt
bóng ngay, trồng dưa được dưa, trồng
đậu được đậu, đă tạo nhân
như thế phải cảm lấy quả như thế,
quyết sẽ chẳng đến nỗi v́ cầu yên vui,
giàu có, sang cả cho chính ḿnh mà giết người ngập
thành, ngập đồng, khiến cho vận nước
nguy ngập, dân không lẽ sống. V́ thế, những bậc
lập đại công, dựng đại nghiệp, hạo
khí ngút trời đất, tiết tháo trong sáng ḷa nhật
nguyệt, đều ôm tấm ḷng lập ḿnh, lập
người, mang ư nguyện tự lợi, lợi người.
Do vậy, trăm ngàn năm sau vẫn được người
ta kính ngưỡng! Hiềm rằng, người đời
kiến thức hẹp ḥi, nông cạn, thường theo
đuổi chuyện trái đạo, từ bé đă không có
cha mẹ hiền khéo dạy, lớn lên lại không có thầy
tốt bạn hiền dắt d́u. Do đó, vượt lư,
trái phận đến nỗi bị giam cầm, tuy do họ
tự chuốc lấy nhưng cũng rất đáng
thương! Do vậy, các nhà ngục đều cử ra một
vị thầy giáo huấn, hằng ngày giảng cho những
tù nhân đạo lư “con người phải tận sức,
lư nhân quả không lầm lạc”, ḥng khiến cho những
người ấy gột ḷng tẩy ư, đổi ác hướng
lành, gắng trở thành lương dân, lần lượt
khuyến hóa lẫn nhau, sao cho dù ḿnh hay người đều
thuộc vào bậc hiền thánh, ngơ hầu quốc gia thiên
hạ măi măi hưởng phước thái b́nh.
Ông Thiệu Huệ Viên
đảm nhận chức thầy giáo huấn ở nhà tù
Tào Hà Kính[21]. Bản thảo giảng
dạy cho phạm nhân của ông có mấy chục thiên,
ước chừng hơn mười vạn chữ đều
là những lời khuyên họ nên giữ phận an vui với
số mạng, giữ vẹn luân thường, tận hết
bổn phận. Lại c̣n dẫn kinh trích sử, dựa
vào đời cổ để chứng minh cho hiện tại.
Văn tuy đơn giản nhưng ư chỉ thật sâu.
Tuy là để nói với những tù nhân, nhưng hết thảy
mọi người đều nên đọc để hành
theo. Những người cùng chí hướng cho là sách ấy
có ích, bèn đem in, xin Quang viết lời tựa để
hướng dẫn. Nhân đấy, Quang bèn nêu đại
lược những điều trọng yếu để
văn hồi thế đạo nhân tâm, ngơ hầu người
khắp cơi đời đều chú trọng vào giáo dục
gia đ́nh và nhân quả báo ứng, nhưng trong chuyện
giáo dục gia đ́nh th́ sự dạy dỗ của người
mẹ quan trọng nhất. Nếu như bà mẹ hiền,
ngay từ khi con cái c̣n bé đă chú trọng nêu gương giữ
vẹn luân thường, tận hết bổn phận, lại
hằng ngày nhắc nhở lư nhân quả báo ứng th́ con
cái bà ta quyết định đều thành hiền nhân, há lẽ
nào có những hành vi vượt lẽ, phạm phận,
thương thiên tổn đức ư? Mong rằng thất
phu thất phụ đều nhận lấy trách nhiệm này,
ngơ hầu người hiền vượt trội, giặc
cướp đổi ḷng, lễ giáo hưng thạnh, thiên
hạ thái b́nh. Người hiểu lư thông đạt ắt
chẳng cho lời tôi là sai lầm, xằng bậy vậy!
91. Lời
tựa tŕnh bày duyên khởi của Hoành Siêu Liên Xă
Kinh Pháp
Hoa dạy: “Ba cơi không yên khác nào
nhà lửa, các khổ đầy dẫy, thật đáng
kinh sợ”. Huống chi đang lúc đấu tranh lẫn
nhau, kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu,
phương cách giết người lạ lùng không ǵ là chẳng
có, lại c̣n đủ mọi thiên tai liên tiếp xảy
ra này! Người có trí thức do vậy bèn đề
xướng pháp môn Tịnh Độ để mong hết
thảy những người cùng hàng đều được
thoát khỏi tam giới, lên chín phẩm sen. Nếu luận
về “thụ xuất” (thoát ra theo chiều dọc) th́ nếu
không tận lực tu đạo Giới - Định - Huệ
để đoạn phiền hoặc sẽ không thể
được. Nếu phiền hoặc c̣n chút ǵ chưa
đoạn th́ vẫn không thể thoát khỏi tam giới y
như cũ, huống chi chúng sanh đời Mạt thiện
căn mỏng cạn, thọ mạng ngắn ngủi. Dẫu
người tu có ức ức kẻ, người thoát ra
khó có một hai! Do chỉ cậy vào tự lực, cho nên
khó được lợi ích thật sự.
Nếu luận về “hoành
siêu” (thoát ra theo chiều ngang) th́ chỉ nương theo pháp
môn Tịnh Độ, sanh tín phát nguyện, niệm danh hiệu
Phật, cầu sanh Tây Phương, lại thêm đôn đốc
luân thường, trọn hết bổn phận, đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều lành th́ vạn
người chẳng sót một ai đều được
văng sanh! Đă văng sanh th́ liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập
thánh vĩnh viễn ĺa các khổ, chỉ hưởng các sự
vui! Người công phu thành thục cố nhiên dự vào Thượng
Phẩm, mà kẻ lâm chung mới niệm cũng dự vào
hàng chót. Pháp này toàn cậy vào Phật lực, lợi ích so với
pháp chỉ cậy vào tự lực khác nhau như trời với
vực!
Vợ của cư
sĩ Sư Hoằng là bà Sư Thang muốn cùng những vị
anh hiền trong khuê các luôn tu tŕ Tịnh nghiệp để
mong sao trong đời này cùng thoát khỏi nhà lửa, bèn lập
một Liên Xă ở vùng phụ cận. Phân nửa do bà tự
bỏ ra, phần c̣n lại do người khác giúp đỡ.
Xây dựng đă xong, xin Quang đặt tên; nhân đó, bèn
đặt tên là Hoành Siêu, ngơ hầu hết thảy những
bậc trượng phu râu mày, những bậc khôn luân trinh
tịnh[22] sợ hăi nhà lửa
muốn thoát ra nhưng không có cách nào đều cùng
nương theo đây tu tập ḥng chào từ biệt Sa Bà
măi măi, mau về cơi Cực Lạc, hễ siêu thoát bèn nhập
thẳng vào Như Lai địa, vĩnh viễn làm người
tiêu dao tự tại. V́ thế bèn tường thuật
duyên do như vậy.
92. Lời
tựa khắc lại mộc bản sách Quán Thế Âm Bồ
Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
Tâm chúng
sanh và tâm Phật không hai, tuy mê chân đuổi theo vọng,
trái giác hợp trần, khởi tham - sân - si, tạo giết
- trộm - dâm, luân hồi lục đạo trọn chẳng
lúc ra, nhưng bản thể tịch chiếu chân thường
vẫn y như cũ, chẳng tổn thất mảy may.
V́ thế, Phật thấy hết thảy chúng sanh đều
là Phật, thương họ nghiệp chướng sâu nặng,
chẳng thể khôi phục ngay được bản thể;
do vậy, dùng đủ mọi phương tiện khiến
cho họ trồng thiện căn, trước hết dùng Dục
để lôi kéo, rồi sau mới làm cho nhập Phật
trí. Do vậy, đức Chánh Pháp Minh Như Lai thành Phật
đă lâu, tuy vẫn chẳng ĺa Tịch Quang, nhưng hiện
h́nh trong chín giới, hiện h́nh theo từng loài, tầm
thanh cứu khổ, nên dùng thân nào để độ bèn hiện
thân ấy để thuyết pháp. Những thân hiện
trong các pháp giới khác đều thuộc về bí mật,
thân Quán Thế Âm hiện trong Bồ Tát pháp giới th́ lại
hiển lộ. V́ thế, mười phương chư Phật
đều khen ngợi Quán Thế Âm Bồ Tát là bậc
đại từ đại bi thí vô úy (ban cho sự không sợ
hăi) ngơ hầu hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới
đều sanh ḷng tin tưởng, cùng được nhiếp
thọ.
Do Bồ Tát chứng tột
cùng pháp giới, tỏ bày trọn vẹn tự tánh, triệt
ngộ duy tâm, nên có thể vận dụng ḷng Bi Đồng
Thể, khởi ḷng Từ Vô Duyên, hễ khắp pháp giới
cảm bèn ứng khắp pháp giới. Tùy theo ḷng thành cơ
cảm lớn hay nhỏ sẽ được lợi ích
tương xứng. Như phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa, chương
Quán Âm Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm đă nói và những sự
tích cảm ứng phương này như đă được
ca tụng trong sách đây há thể nghĩ bàn được
ư? Ấy là v́ tâm Bồ Tát giống như hư không,
không đâu chẳng trọn khắp. Chỉ do chúng sanh
đang mê, chẳng sanh tin tưởng, ví như hư không
bị vật ngăn chướng nên biến thành cách trở,
ngăn ngại, nếu xoi một lỗ nhỏ th́ được
một khoảng không bằng cái lỗ nhỏ. Nếu xoi một
cái lỗ to sẽ được khoảng trống bằng
cái lỗ to. Nếu bỏ được hoàn toàn vật
chướng ngại th́ sẽ xen lẫn khít khao cùng hư
không bao hàm khắp muôn h́nh tượng. Do v́ chúng sanh tiểu
cảm sẽ được tiểu ứng, đại cảm
bèn được đại ứng, nên kinh Lăng Nghiêm
nói: “Cầu vợ được
vợ (cầu vợ là cầu vợ hiền thục,
trí huệ, trinh lương, nếu không cần ǵ phải
hướng về Bồ Tát mà cầu!), cầu con được con,
cầu tam-muội được tam-muội, cầu
trường thọ được trường thọ,
như thế cho đến cầu đại Niết Bàn
được đại Niết Bàn”. Nói “cầu
vợ được vợ” v.v… chính là xoi lỗ nhỏ
được khoảng trống bằng cái lỗ nhỏ,
xoi lỗ to được khoảng trống bằng cái lỗ
to. Cầu đại Niết Bàn đắc đại Niết
Bàn chính là hoàn toàn trừ bỏ được vật
ngăn lấp, bèn ḥa lẫn không xen hở cùng với
hư không bao hàm vạn tượng.
Kinh Kim Cang nói: “Ta nên diệt độ hết
thảy chúng sanh, diệt độ hết thảy chúng sanh
xong nhưng thật ra không có một chúng sanh nào được
diệt độ” v́ tâm thể của chúng sanh chính là Vô
Dư Niết Bàn, vốn chẳng hề mất đi, làm
sao có lại? Bồ Tát riêng dùng các thứ phương tiện
khiến cho chúng sanh tiêu trừ huyễn nghiệp, hồi
phục bản thể mà thôi. Lại do chúng sanh mê hoặc
sâu nặng, chẳng thể nhanh chóng phát khởi tâm Đại
Bồ Đề, v́ để tiếp dẫn kẻ sơ
cơ vào chỗ thù thắng nên thuận theo phàm t́nh của
họ, thỏa măn điều họ mong mỏi, đợi
đến khi thiện căn thành thục sẽ có thể
rốt ráo đạt ngay được lợi ích chân thật.
Đấy chính là ư chỉ căn bản của việc Bồ
Tát tùy loại hiện thân tùy tâm măn nguyện vậy.
Sách này đă được
in bản kẽm, tính in ra mấy chục vạn bộ, ngơ
hầu người khắp trong nước, ngoài nước
đều được thọ tŕ. Hiện đă in
được hơn bảy vạn bộ, như vậy
chuyện sách sẽ được lưu thông khắp pháp
giới trong tương lai khiến cho con người được
thấm đượm sự giáo hóa từ bi là điều
ắt sẽ thực hiện được! Nhưng v́ chữ
nhỏ, chẳng thuận tiện cho người già, quả
là đáng tiếc. Cư sĩ Hoa Huệ Khả ở Vô
Tích xưa đă gieo cội đức, dốc ḷng tin tưởng
Phật pháp, trông thấy sách này hoan hỷ tán thán như
đạt được của quư báu nhất, mừng rỡ
khôn cùng. Khẳng khái bỏ ra năm trăm đồng
để khắc mộc bản, ngơ hầu hết thảy
mọi người đều đọc được,
hết thảy lúc đều có thể in, có thể thỉnh.
Đúng là đời trước từng được Bồ
Tát phó chúc vây bủa ḷng từ giáo hóa ḥng lợi ích hữu
t́nh vậy! Ôi! Cao quư thay!
93. Lời
tựa cho sách A Di Đà Kinh Bạch Thoại Giải Thích
Pháp môn Tịnh
Độ quả là đường lối chung để
mười phương ba đời hết thảy chư
Phật trên thành Phật đạo dưới độ
chúng sanh, mà cũng là đạo trọng yếu để
hết thảy chúng sanh trong thời đại Mạt Pháp
cậy vào Phật từ lực, liễu thoát ngay trong một
đời này. Ấy là v́ hết thảy các pháp môn đức
Như Lai đă nói, không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng
sanh thoát sanh tử, thành Phật đạo; nhưng do
thượng căn th́ ít, trung hạ căn lại đông,
nên người được liễu thoát ngay trong một
đời dẫu nhằm thời Chánh Pháp, Tượng
Pháp c̣n chẳng thể thấy nhiều, huống ǵ thời
Mạt Pháp căn cơ con người kém hèn, tuổi thọ
ngắn ngủi, tri thức hiếm hoi, tà ma ngoại đạo
tung hoành ư? Do vậy, đức Như Lai đă xét thấu
trước cơ nghi, đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh
Độ nhằm làm cho hết thảy chúng sanh dù thánh hay
phàm, thượng trung hạ căn đều chăm chú tu
tŕ, đều cùng trong đời này văng sanh Tịnh Độ.
Bậc thượng căn th́ mau thành Phật đạo, kẻ
hạ căn cũng được dự vào ḍng thánh.
So với những pháp
môn cậy vào tự lực đă nói trong cả một
đời đức Phật [th́ pháp này] hạ thủ dễ,
thành công cao, dùng sức ít được hiệu quả
nhanh chóng. Do v́ Phật lực, pháp lực chẳng thể
nghĩ bàn, lại thêm sức Tín - Nguyện - Hạnh của
chúng sanh nên bất luận công phu sâu hay cạn, tội nghiệp
nặng hay nhẹ đều được Phật từ
lực tiếp dẫn văng sanh. Do vậy, trong các kinh Đại
Thừa, đức Như Lai đều nói kèm pháp này,
như các kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm v.v… C̣n kinh chuyên
nói [về pháp Tịnh Độ] th́ có kinh A Di Đà, kinh Vô
Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật.
Trong ba kinh này, phàm là thệ nguyện của Phật Di
Đà, sự trang nghiêm của Tịnh Độ, nhân văng
sanh của ba bậc chín phẩm, mười phương
chư Phật tán thán đều được nêu rơ không
c̣n sót.
Thế nhưng kinh A Di
Đà ngôn từ ngắn gọn, nghĩa lư đầy đủ,
dễ thọ tŕ nhất. Do vậy, cổ nhân xếp vào
khóa tụng hằng ngày, bất luận dù Tông, dù Giáo, dù Luật
đều đọc tụng trong khóa tối, nghĩa là cả
thiên hạ dù Tăng hay tục không ai chẳng lấy Tịnh
Độ làm chỗ quy hướng. Tuy hành tŕ như thế
nhưng nếu chẳng suy xét kỹ càng nguyên do Phật, Tổ
lập pháp th́ sẽ vẫn chẳng coi chuyện cầu sanh
Tây Phương là trọng. Đấy chính là “dùng hằng ngày mà không biết,
quen làm mà chẳng xem xét”. Dù là bậc cao nhân thông Tông thông
Giáo vẫn c̣n rất nhiều người đề cao
pháp môn Tự Lực, chẳng chịu tin tưởng
nương cậy Phật lực. Chí ấy cố nhiên là
cao, nhưng sự thật khó thể đạt được
ngay trong đời này. Nếu như chưa đoạn sạch
được Hoặc nghiệp, phải thọ sanh lần
nữa, quá nửa bị mê mất. Không những mọi
điều mong mỏi đều thành bánh vẽ mà c̣n có mối
lo do phước tạo nghiệp, thân sau phải đọa
lạc! Do đó, phải nói là “thật đáng kinh hăi!”
Phải biết: Pháp
môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong
giáo pháp của cả một đời đức Phật,
chẳng thể dùng những pháp môn thông thường để
bàn luận được. Nếu chẳng hiểu rơ
nghĩa này, cứ viện vào nghĩa lư của những
pháp môn cậy vào tự lực thông thường để
rồi ngờ vực lợi ích của pháp môn đặc
biệt cậy vào Phật lực, chẳng chịu tin nhận
th́ sẽ bị mất mát to lớn. Phật nói pháp này khó
tin chính là ngụ ư này vậy. Nếu không có mối chấp
ấy th́ có ai là không tin nhận, phụng hành? Gần
đây thế đạo nhân tâm suy hăm, hèn tệ đến
cùng cực hết cả thuốc chữa. Phàm những bậc
vĩ nhân kiệt sĩ có đủ chánh tri kiến không ai
chẳng lấy việc đề xướng nhân quả
báo ứng, sanh tử luân hồi làm căn cứ để
đẩy lùi cơn sóng cuồng, lấy việc tinh tu Tịnh
nghiệp cầu sanh Tây Phương làm pháp an ổn rốt
ráo. Một người xướng, trăm người
ḥa, không ai chẳng thuận theo. Do vậy, kẻ ăn
chay, niệm Phật, đổi ác tu thiện ngày thấy
càng nhiều.
Điều đáng tiếc
là hạng thiện tín thông thường chưa từng
được học hỏi, tuy hằng ngày tụng kinh
Di Đà, rốt cuộc vẫn chẳng biết kinh dạy
những nghĩa lư nào; dẫu có những bản chú giải
như Sớ Sao, Yếu Giải v.v… họ cũng chẳng
thể đọc được. Cư sĩ Hoàng Trí Hải
tâm lợi người tha thiết, đem những nghĩa
trong Sớ Sao, Yếu Giải diễn giải lại bằng
văn Bạch Thoại khiến cho những người ít
chữ nghĩa đều được hiểu rơ
nghĩa kinh. Do vậy, lại càng thêm tinh tấn, dốc kiệt
ḷng thành tu tŕ, chuyển hóa kẻ hữu duyên, trong đời
này thân tâm thanh tịnh, dự ngay vào bậc thánh bậc hiền,
lâm chung cảm ứng đạo giao, lên thẳng cơi Cực
Lạc. Lợi ích ấy làm sao diễn tả được!
Do vậy, tôi viết ư nghĩa tổng quát để cống
hiến cho người đọc.
94. Lời
tựa phổ khuyến thọ tŕ lưu thông sách Dục Hải
Hồi Cuồng
Mối họa cực thảm khốc, cực lớn, cực sâu trong thiên hạ, hễ bộp chộp động đến ắt phải táng thân mất mạng, nhưng nhiều người vẫn ưa thích theo đuổi, lăn xả thân vào dẫu chết chẳng hối th́ có lẽ chỉ ḿnh nữ sắc mà thôi! Những gă cuồng đồ buông lung nơi dục sự, ṃ hoa bẻ liễu, trộm ngọc cắp hương, diệt lư loạn luân, bại gia nhục tổ, danh xấu đồn khắp làng nước, để tiếng nhơ cho con cháu, sống chẳng được hưởng hết tuổi thọ, chết đọa măi trong đường ác, hăy khoan nói đến những gă ấy! Ngay như trong t́nh vợ chồng, những kẻ đắm ch́m trong ấy đến nỗi mất mạng kể sao cho xiết! Vốn mong cầu khoái lạc, bất ngờ chết mất, cảnh khổ góa bụa quả thật phần nhiều do ḿnh tự chuốc! Há nào phải hoàn toàn do số mạng xui khiến như thế đâu! Những kẻ lụy t́nh ham hố đều là tự ḿnh chuốc lấy tai ương. Cũng có kẻ hoàn toàn chẳng suồng să, mê đắm, nhưng do không biết kiêng ngừa, cứ mạo muội theo đuổi đến nỗi phải bị tử vong cũng rất nhiều! V́ thế thiên Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Kư có đoạn văn nói về chánh lệnh: “Chấn đạc bố cáo, linh giới dung chỉ” (gơ mơ truyền lệnh kiêng kỵ chuyện ăn nằm) (“Dung chỉ” có nghĩa là động tịnh, tức là chuyện pḥng sự (ân ái)). Ḷng thương dân của bậc thánh vương thời cổ có thể nói là chẳng bỏ sót điều nhỏ nhặt nào (Những nơi chỗ kiêng kỵ sách Thọ Khang Bảo Giám có chép rơ, hăy nên đọc kỹ).
Tôi thường nói
trong mười phần nhân dân của thế gian th́ những
kẻ chết trực tiếp v́ sắc dục chừng bốn
phần, kẻ gián tiếp bị chết cũng phải
là bốn phần, tức là do sắc dục gây hao tổn,
chịu những cảm xúc khác mà chết. Những kẻ bị
chết ấy không ai chẳng đổ thừa cho số
mạng, nào biết v́ tham sắc mà chết, đều chẳng
phải do số mạng. Nếu là mạng th́ phải là
người giữ ḷng thanh tịnh, trinh lương, không
tham dục sự; những kẻ tham sắc kia tự tàn hại
đời ḿnh, há có thể nói là v́ mạng ư? C̣n những
người do mạng mà sống, mạng hết bèn chết
th́ chẳng qua chỉ được một hai phần mà
thôi! Do vậy biết quá nửa thiên hạ đều là kẻ
chết oan uổng, mối họa này khốc liệt có một
không hai trong cơi đời, chẳng đáng buồn ư? Chẳng
đáng sợ ư?
Cũng có cách chẳng
phí một đồng, chẳng tốn chút sức mà trở
thành bậc đức hạnh cao tột, hưởng yên
vui cực lớn, để lại phước ấm vô
cùng cho con cháu, khiến đời sau được quyến
thuộc trinh lương, có phải chỉ là kiêng dè dâm
đó ư? Dâm t́nh chánh đáng giữa vợ chồng
trước kia đă tŕnh bày lợi - hại đại
lược, nay không bàn đến nữa. C̣n chuyện tà
dâm vô liêm, vô sỉ, cực uế, cực ác, chính là dùng thân
con người làm chuyện thú vật. Do vậy, gái đẹp
đến tằng tịu, nữ nhân yêu mị đến
quyến rũ, quân tử xem như mối họa
ương không ǵ lớn bằng nên bèn cự tuyệt, ắt
được phước diệu[23]
chiếu soi, hoàng thiên che chở; tiểu nhân xem điều
đó như hạnh phúc không ǵ lớn lao bằng bèn nhận
lănh, ắt đến nỗi tai tinh giáng xuống, quỷ
thần tru lục. Quân tử do họa được
phước, tiểu nhân do họa càng thêm họa. V́ thế
nói: “Họa phước vô môn,
do con người tự chuốc lấy”. Nếu đối
với cái ải nữ sắc người đời chẳng
thể thấy thấu suốt triệt để sẽ
khiến cho đức hạnh cao tột, an lạc cực
lớn, phước ấm vô cùng để lại cho con
cháu, quyến thuộc trinh lương trong đời sau bị
khoảnh khắc khoái lạc đoạt hết! Buồn
thay!
Cuốn sách Dục Hải
Hồi Cuồng của An Sĩ tiên sinh chia môn phân loại
tŕnh bày rành mạch, dùng tài văn bút khiến cho kẻ tục
người nhă cùng thích xem, viết ra văn chương
khuyên lơn lẫn răn dạy đều tha thiết.
Chuyện xưa nay những người không dâm được
phước, kẻ phạm dâm mắc họa, cội nguồn
ngành ngọn đều thuật tỉ mỉ, lớn tiếng
gào to chẳng tiếc sức. Trống khuya chuông sớm lay
tỉnh con người sâu xa, muốn khiến cho người
khắp cơi đời đều hưởng phước lạc,
ai nấy hưởng hết tuổi trời mới thôi!
Phải biết sách này tuy là để răn kiêng dâm mà soạn
ra, nhưng về nghĩa và đạo th́ phàm là những
pháp cai trị đất nước, b́nh trị cơi đời,
tu thân, tề gia, cùng lư tận tánh, liễu sanh thoát tử
thảy đều trọn đủ. Nếu khéo lănh hội
th́ thần trí sáng suốt, đâu đâu cũng thấy
được nguồn, những ǵ chạm vào mắt
đều là đạo, tâm thương đời cứu
dân có thể nói là thật thâm thiết.
Do vậy, vào năm Dân
Quốc thứ bảy (1918) Ấn Quang đặc biệt
đưa bộ An Sĩ Toàn Thư sang khắc ván tại
Tàng Kinh Viện ở Dương Châu. Năm Dân Quốc thứ
tám (1919) lại cho khắc riêng lẻ hai bộ Dục Hải
Hồi Cuồng, Vạn Thiện Tiên Tư. Năm Dân Quốc
thứ 10 (1921) lại quyên mộ in bộ An Sĩ Toàn
Thư dạng rút nhỏ, tính in mấy mươi vạn bộ
để truyền bá khắp toàn quốc. Nhưng do người
kém, đức mỏng, không cách nào cảm thông, chỉ in
được bốn vạn mà thôi. Trung Hoa Thư Cục
in riêng để bán cũng được gần hai vạn
bản. Hàng Châu, Hán Khẩu đều bắt chước
in theo, số sách được in đương nhiên
cũng không ít. Nhờ có cư sĩ Ngô Tử Tường
người đất Thái Thương, tỉnh Giang Tô
nghĩ họa hại thế gian ngày càng nặng nề, những
tân học phái đề xướng phế bỏ luân
thường, tiết hạnh, chuyên chủ trương tự
do luyến ái như đê bị vỡ, nước mặc
sức chảy ào ạt, khiến cho mọi thanh niên nam nữ
cùng bị hăm trong vùng nước xoáy của biển dục
không đáy. Ông bèn phát tâm in rộng răi bộ Dục Hải
Hồi Cuồng thí cho khắp mọi người trong xă hội
để mong đẩy lùi cơn sóng cuồng loạn. Chí
của mọi người tạo thành bức thành, nhiều
người nâng dễ giở lên, khẩn thiết xin những
bậc quân tử nhân từ trong nước phát tâm cứu
thế lớn lao, lượng sức ấn tống và
khuyên kẻ hữu duyên phổ biến lưu thông. Lại
mong cha dạy con, anh khuyên em, thầy răn tṛ, bạn bè bảo
ban nhau, khiến cho người người đều biết
họa hại, lập chí như núi, giữ thân như ngọc,
chẳng những không phạm tà dâm mà ngay cả dâm sự
chánh đáng giữa vợ chồng cũng biết chừng
mực, sẽ thấy quan - quả - cô - độc từ
đây ngày càng ít, giàu - thọ - mạnh - khỏe - yên ổn
ai nấy đều được. Thân thể, nhà cửa
do đấy được yên ổn, tốt lành, cơi
nước v́ thế an ninh, uế đức chuyển
thành ư đức (đức tốt đẹp), tai
ương biến thành may mắn, tốt lành, rốt ráo chẳng
phí một đồng, chẳng nhọc chút sức lại
được hiệu quả mỹ măn như thế
đó. Mong sao người nhân từ, bậc quân tử
đều thấy chuyện nhân chẳng nhường, vui vẻ
mà làm. Do vậy, thuật những ư chánh để cống
hiến đồng nhân.
95. Lời
tựa cho sách Thọ Khang Bảo Giám
Chẳng
có ai không muốn trường thọ, mạnh khỏe, yên ổn,
con cháu đông đảo, công nghiệp lẫy lừng, vận
may đưa tới, cũng không ai muốn bị đoản
mạng, chết yểu, bệnh tật, con cháu tuyệt diệt,
gia đạo suy đồi, hung thần ngự đến.
Đấy là mong ước thường t́nh của con
người trong khắp cơi đời, dẫu là đứa
bé con mới cao ba thước, không ai chẳng [mong muốn]
như vậy. Dẫu là kẻ chí ngu cũng hoàn toàn chẳng
vui mừng v́ bị tai họa, chán phước, ghét lành.
Nhưng kẻ háo sắc tham dâm th́ những điều tâm
họ mong mỏi và chuyện thân họ làm thật trái nghịch
nhau, đến nỗi chuyện chẳng muốn lại bị,
chuyện mong muốn không cách chi đạt được,
chẳng đáng buồn ư? Khoan hăy nói đến kẻ buông
tuồng nơi hoa nơi liễu chỉ mong mỏi chuyện
ấy; ngay trong ṿng vợ chồng, nếu cứ tham đắm
ắt sẽ bị táng thân mất mạng. Cũng có kẻ
chẳng quá tham đắm, nhưng do không biết kiêng kỵ
(những chuyện kiêng kỵ được ghi đầy
đủ ở phần sau cuốn sách, nên ở đây không
ghi rơ) cứ mạo muội theo
đuổi đến nỗi bị chết mất, thật
quá đáng thương! V́ thế, tiền hiền soạn
sách Bất Khả Lục, thuật rơ cặn kẽ mối
hại sắc dục, những câu cách ngôn khuyên răn kiêng
dâm, bớt dục, những câu chuyện chứng tỏ
phước thiện họa dâm, phương pháp tŕ giới:
ngày tháng, những lúc, những nơi chốn, những
người, những việc nên kiêng kỵ, chẳng ngại
phiền phức đều được tŕnh bày cặn
kẽ ngơ hầu người đọc biết nên kiêng dè
những ǵ. Tâm giác thế cứu dân ấy có thể nói là
khẩn thiết châu đáo, thiết tha hết sức. Ấn
Quang lại tăng đính (soạn thêm, sửa cho đúng
những chỗ bị in sai, thiếu sót) sách ấy, đặt
tên là Thọ Khang Bảo Giám, và quyên mộ để in ra
lưu truyền rộng răi, là v́ có nỗi đau ḷng chẳng
thể chịu được:
Một đệ tử
[của Quang] là La Tế Đồng, người Tứ
Xuyên, 46 tuổi, có thuyền buôn ở Thượng Hải,
tánh t́nh khá trung hậu, tin sâu Phật pháp, cùng với các ông
Quan Quưnh Chi v.v… cùng sáng lập Tịnh Nghiệp Xă. Trong những
năm Dân Quốc 12, 13 (1923-1924), thường muốn đến
núi [Phổ Đà] quy y, do bận việc nên chưa
được thỏa nguyện. Năm Dân Quốc 14 (1925)
ông ta mắc bệnh cổ trướng mấy tháng, t́nh thế
cực nguy hiểm, chữa thuốc Tàu, thuốc Tây đều
vô hiệu. Đến ngày 14 tháng Tám, thanh toán tiền thuốc,
v́ số tiền quá lớn liền bực ḿnh nói: “Từ
đây dù có chết ta cũng không uống thuốc nữa”.
Bà vợ bèn đối trước Phật cầu đảo
khẩn thiết, nguyện suốt đời ăn chay niệm
Phật cầu cho chồng được lành bệnh. Ngay
trưa hôm ấy, bệnh liền chuyển biến mạnh,
đi tiêu xả ào ạt nước ứ ra, không thuốc
ǵ mà hết bệnh.
Cuối tháng Tám, Quang
đến đất Thân (Thượng Hải), ngụ tại
chùa Thái B́nh. Ngày mồng Hai tháng Chín, đến Tịnh Nghiệp
Xă gặp Quan Quưnh Chi, ông Tế Đồng cũng có mặt.
Tuy thân thể chưa hoàn toàn khỏe hẳn, nhưng khí sắc
thuần tịnh tươi tắn không ai bằng. Gặp
Quang, ông ta vui mừng thưa: “Sư phụ đến rồi!
Xin quy y tại đất Thân, chẳng cần phải lên
núi nữa!” Ông ta chọn ngày mồng Tám cùng vợ đến
chùa Thái B́nh, cùng thọ Tam Quy Ngũ Giới. Lại thỉnh
các cư sĩ Tŕnh Tuyết Lâu, Quan Quưnh Chi, Đinh Quế
Tiêu, Âu Dương Thạch Chi, Từ Trĩ Liên, Nhậm
Tâm Bạch v.v… bồi tiếp Quang dùng cơm. Ngày mồng
Mười lại mời Quang đến nhà dùng cơm, lại
nói: “Sư phụ chính là cha mẹ của bọn đệ
tử, bọn đệ tử chính là con cái của sư
phụ”. Quang nói: “Cha mẹ chỉ lo khi con bệnh, nay bệnh
ông tuy khá, nhưng chưa b́nh phục, hăy nên thận trọng”.
Tiếc là chưa nói rơ chuyện phải thận trọng
chính là chuyện pḥng sự (ân ái). Đến hôm cuối
tháng, tại Công Đức Lâm mở hội Cảm Hóa Nhà
Tù, ông ta cũng dự hội. Buổi hội giải tán
xong, có mười mấy người giữ lại dùng
cơm. Ông ta vừa mới đến bèn cùng người
trông coi sổ sách trao đổi mấy câu rồi đi, sắc
mặt giống hệt như người chết, Quang biết
là do phạm phải pḥng sự mà ra. Rất hối tiếc
lúc đó chỉ nói “cha mẹ
chỉ lo khi con bệnh”, chưa từng nói rơ duyên do,
đến nỗi ông ta lại bị nguy ngập.
Muốn tu chỉnh sách
này để khuyên răn, nhưng bận bịu chưa làm
được. Ngày mồng Sáu tháng Chín về núi, bèn gởi
ngay một lá thư, tŕnh bày hết sức tường tận
lẽ lợi - hại, nhưng đă không c̣n thuốc ǵ cứu
được, mấy ngày sau [ông ta] bèn mất. Lúc mất,
ông Quan Quưnh Chi mời các vị cư sĩ đều đến
niệm Phật, ông La có được văng sanh Tây
Phương hay không chưa thể biết, nhưng không
đến nỗi đọa lạc. Bị bệnh nặng
mấy tháng, do Tam Bảo gia bị nên không dùng thuốc
được lành bệnh, trong ṿng mười mấy ngày
khí sắc tươi tỉnh hơn xa người b́nh
thường. Do không biết thận trọng, ngộ phạm
pḥng sự mà chết. Chẳng những tự tàn hại cuộc
đời c̣n cô phụ từ ân của Tam Bảo quá đỗi!
Quang nghe tin cáo phó, tâm đau xót, nghĩ cơi đời chẳng
biết kiêng kỵ cứ mạo muội làm chuyện
đó, đến nỗi mất mạng nhiều vô số!
Nếu chẳng lập cách ngăn ngừa, ǵn giữ
trước, thật là đánh mất đạo từ bi
cứu khổ của đức Như Lai. Tính đem Bất
Khả Lục tăng đính, ấn loát lưu truyền rộng
răi, ngơ hầu cả thế gian đều biết kiêng kỵ,
chẳng đến nỗi lầm mất tánh mạng.
Một vị cư
sĩ đem số tiền mẹ để lại là một
ngàn sáu trăm đồng, tính in thiện thư để
thí tặng, Quang bảo ông ta dùng hết số tiền ấy
để in Thọ Khang Bảo Giám ḥng cứu vớt thanh
niên nam nữ chưa bị mắc nguy th́ do cái chết của
một ḿnh ông La Tế Đồng khiến cho hết thảy
những người đọc sách này trong hiện tại
và vị lai biết phải nên thận trọng, cũng
như do xoay vần lưu thông, lần lượt khuyên bảo
lẫn nhau, sẽ khiến cho cả thế gian đều
cùng hưởng trường thọ, mạnh khỏe, b́nh
yên, nỗi khổ quan quả cô độc ngày càng ít thấy.
Như vậy do cái chết của ḿnh ông La Tế Đồng
lại khiến cho hết thảy mọi người
đều được sống thọ, khỏe mạnh,
th́ cái chết của ông Tế Đồng bèn có công đức.
Nhờ công đức ấy hồi hướng văng sanh ắt
sẽ từ tạ Sa Bà, cao đăng Cực Lạc, làm
đệ tử của Phật Di Đà, làm bạn tốt
trong hải chúng.
Mạnh Tử nói: “Dưỡng tâm không ǵ tốt bằng
bớt ham muốn”. Có người đă ít dục, tuy
không có nhiều vẫn giảm bớt dục. Cũng có
người đa dục, do có nhiều bèn giảm bớt.
Lúc mạnh khỏe c̣n nên tiết dục, huống chi lúc bệnh
nặng mới lành! Mười năm trước, con của
một vị đại thương gia, học Tây Y ở
Nhật Bản, đỗ đầu, ngồi xe điện,
xe chưa dừng đă nhảy xuống, ngă găy cánh tay. Anh
ta nhờ bác sĩ Tây Y chữa lành. Phàm bị thương ở
xương, phải kiêng nữ sắc trong ṿng một
trăm mấy mươi ngày. Cánh tay anh ta lành chưa lâu, do
mừng thọ mẹ liền trở về nước,
đêm ngủ cùng vợ, ngày hôm sau liền chết. Anh chàng
này khá thông minh, sắp thành bác sĩ sao chuyện kiêng kỵ
này lại ngờ nghệch chẳng biết để
đến nỗi khoảnh khắc khoái lạc cướp
mất tánh mạng rất trọng? Đáng buồn quá sức!
Năm ngoái, một
thương nhân đang gặp vận may, hôm trước
giành được mối lợi sáu bảy trăm đồng,
khá đắc ư. Ngày hôm sau từ chỗ người thiếp
đi đến chỗ vợ cả, người vợ
vui lắm. Lúc đó nhằm vào tháng Năm, trời thật
nóng, vợ bật quạt điện, sắp đặt
chậu tắm, lấy nước đá pha mật cho uống,
chỉ biết giải nhiệt cho mát, nào biết hễ muốn
ân ái th́ không được dùng chất lạnh. Chưa
đầy ba tiếng sau, đau bụng chết tốt! Do
vậy, biết v́ thế gian chẳng biết kiêng kỵ cứ
làm bừa đi, đến nỗi chết mất chẳng
biết mấy ngàn vạn ức! Nhưng từ xưa
đến nay, người có phước lớn nhất
không ai hơn hoàng đế. Phước lớn th́ thọ
cũng phải dài! Thử xét kỹ xem: Mười ông vua
có tám chín ông không thọ, chẳng phải là v́ dục sự
quá nhiều lại do chẳng biết kiêng kỵ đến
nỗi tự rút ngắn tuổi thọ đó ư? Người
đại thông minh trong thế gian đa phần thường
không thọ, là v́ không hiểu kỹ chuyện này mà nên nỗi!
Quang thường nói: “Người
đời trong mười phần có đến bốn phần
do sắc dục mà chết. Bốn phần tuy chẳng chết
trực tiếp v́ sắc dục th́ cũng v́ do tham sắc
dục mà bị hao tổn, chịu đủ mọi cảm
xúc gián tiếp khác mà chết. Người vốn do số mạng
mà chết, bất quá chỉ một hai phần trong mười
phần mà thôi!” Thế giới mênh mang, nhân dân đông
đảo, mười phần có tám chín phần chết v́
sắc dục, chẳng đáng buồn ư? Đấy
chính là lư do Quang lưu thông sách Thọ Khang Bảo Giám.
Mong người đời
yêu thương con cái cũng như v́ đồng bào tạo
hạnh phúc, ngừa họa hoạn, thảy đều
phát tâm ấn tống, xoay vần lưu thông, khiến cho ai
nấy biết những điều kiêng kỵ, ngơ hầu
chẳng đến nỗi lầm lạc đánh mất
tánh mạng cũng như chẳng bị tàn tật đến
nỗi không thể thành tựu. Những kẻ buông tuồng
nơi hoa nơi liễu đa số là v́ không có chánh kiến,
bị lầm lạc bởi bè bạn phóng túng, dâm thư,
đến nỗi hăm thân trong biển dục không thể
thoát được. Nếu chịu đọc kỹ th́ sẽ
biết lợi hại sâu xa, đối với những
điều quan hệ đến sự vinh diệu hay nhục
nhă của tổ tông cha mẹ cũng như sự sống
- chết, thành - bại của bản thân lẫn gia
đ́nh, cùng là con cháu hiền hay ngu, tuyệt diệt hay thạnh
vượng, đều hiểu rơ như nh́n vào ngọn lửa.
Nếu thiên lương chưa hoàn toàn mê muội, sao không mắt
nh́n đến tâm kinh hoàng, nỗ lực đau đáu ǵn giữ
ư? Sẽ thấy từ đó về sau, ai nấy vui với
mối thiên luân vợ chồng, chẳng đến nỗi
tham dục tổn thân, tề mi giai lăo[24],
vừa thọ vừa khỏe mạnh. Người ít dục
thường đông con, con họ chắc chắn thể
chất mạnh mẽ, tâm chí trinh lương, chẳng những
không bị lỗi tự hại mà chắc chắn c̣n trở
thành hạng lanh lợi làm rạng rỡ cha mẹ, Đấy
chính là điều Quang thơm thảo mong mỏi dài lâu. Nguyện
người đọc cùng thể hiện sự đồng
t́nh, tùy duyên lưu truyền th́ nhân dân may mắn lắm mà vận
nước cũng may mắn lắm.
96. Lời
tựa cho bài văn quở trách tà thuyết tự do kết
hôn
(soạn thay)
Con
người bẩm thụ khí Âm - Dương của trời
đất, nhận lănh tinh cha huyết mẹ mà sanh. Từ
lúc mới sanh cho đến năm ba bốn tuổi, nhất
cử nhất động cha mẹ đều phải
chăm sóc. Từ đấy trở đi tuy có thể tự
hành động, nhưng phàm các sự lư đều cần
đến cha mẹ sắp đặt, chỉ dạy. Nếu
không, chẳng thể sống c̣n trong cơi đời. Đến
khi trưởng thành, cha mẹ chọn lựa người
hôn phối ḥng được hưởng niềm vui có gia
đ́nh, ngơ hầu trong ngoài giúp đỡ nhau, để con
tận hết bổn phận phụng dưỡng cha mẹ,
có con cháu để pḥng lúc già - chết. Đấy là đạo
tất nhiên của trời đất, thánh nhân phỏng
theo đạo trời đặt ra lễ, ngơ hầu ai nấy
đều giữ luân thường để tận hết
đạo làm người và đạo làm con vậy! Nếu
chẳng tuân theo lễ của thánh nhân đă chế cũng
như mệnh lệnh của cha mẹ, chỉ cần hai
bên say mê nhau là thành vợ chồng th́ có khác ǵ cầm thú
đâu! Những kẻ chẳng biết tốt - xấu
chuyên bắt chước thói ác của Âu Tây, ồn ào đề
xướng tự do kết hôn, sao không đề xướng
lúc mới sanh bèn chẳng nhận sự chăm sóc, dạy
dỗ của cha mẹ để tự do khôn lớn, thành
người? Nếu như họ trong một đời
này tự do khôn lớn, tuyệt đối không phải nhận
sự chăm sóc, dạy dỗ của cha mẹ th́ cứ
tự do kết hôn, v́ sự và lư đều thật sự
hết sức chánh đáng. Nếu không thể như vậy,
sao chỉ đến lúc trưởng thành, lại có thể
tự lực lấy chuyện nam nữ luyến ái làm tiêu
chuẩn? Đấy chính là kẻ tội nhân cực nặng
nghịch trời trái lư, khinh thánh, miệt thị luân
thường. Do vậy, tâm hạnh kẻ ấy có khác ǵ cầm
thú đâu? Cư sĩ Dương Chương Phủ ở
Vô Tích soạn văn đả phá, do vậy, tôi bèn làm lời
tựa dẫn nhập để phát khởi điều
chưa phát, hầu những người đề xướng
thuyết [tự do kết hôn] đều giác ngộ!
V. Bạt[25]
1. Lời
bạt cho Quy Tâm Đường
Tâm vừa
tịch vừa chiếu, bất sanh bất diệt, rộng
răi, thấu triệt, linh thông, viên dung sống động,
là cội nguồn của hết thảy các pháp thế gian
lẫn xuất thế gian. Dù ở địa vị phàm
phu hôn mê điên đảo đầy dẫy phiền hoặc,
tâm vẫn cùng một thể giống hệt như tam thế
chư Phật, trọn chẳng khác ǵ. V́ thế, nói: “Tâm, chúng sanh, Phật, ba thứ
không sai biệt”. Nhưng do chư Phật rốt ráo chứng
đắc, nên công đức lực dụng được
phô bày trọn vẹn triệt để, c̣n phàm phu toàn thể
là mê trái nên đâm ra dùng sức công đức lực dụng
ấy khởi tham - sân - si nơi sáu trần cảnh, tạo
giết - trộm - dâm. Do Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp
cảm khổ. Ba món Hoặc - Nghiệp - Khổ dẫn khởi
lẫn nhau, nhân nhân quả quả liên tục không ngừng,
trải trần điểm kiếp luân hồi dài lâu. Dù muốn
thoát ĺa cũng không có cách ǵ! Ví như trong nhà tối chạm
phải vật báu, chẳng những không thọ dụng
được, trái lại c̣n bị thương tổn!
Mê tâm đuổi theo cảnh, trái giác hiệp trần
cũng giống như thế. Như Lai thương xót giảng
cho diệu pháp, khiến cho bỏ vọng về chân, khôi phục
tâm tánh. Thoạt đầu th́ từ nơi vọng liền
thấu hiểu tột cùng chân, kế đến th́ toàn bộ
vọng chính là chân, như gió lặng ắt sóng êm, trời nóng
băng phải tan, sóng lẫn băng trở thành nước,
nhưng sóng - băng và nước vốn chẳng phải
là hai vật! So lúc sóng chưa êm, khi băng chưa tan với
lúc sóng đă êm, băng đă tan th́ thể tánh trọn chẳng
hai, nhưng Tướng - Dụng thật sự khác biệt
rất lớn. Do vậy, có câu: “Tu
đức hữu công, tánh đức mới tỏ”.
Nếu chỉ cậy
vào Tánh Đức chẳng chú trọng Tu Đức th́
đến tột cùng đời vị lai vĩnh viễn
vẫn là chúng sanh uổng có Phật tánh, nhưng không
nơi nương tựa! V́ thế, Bát Nhă Tâm Kinh chép: “Quán Tự Tại Bồ Tát khi thực
hành sâu xa Bát Nhă Ba La Mật Đa, chiếu thấy năm Uẩn
đều không, độ hết thảy khổ ách”.
Toàn thể của Ngũ Uẩn chính là Chân Như Diệu
Tâm, nhưng do cứ một bề mê trái nên trở thành
tướng huyễn vọng. Vọng tướng đă
thành lập th́ Nhất Chân liền bị mê. Nhất Chân
đă bị mê th́ các khổ đều nhóm họp. Giống
như gió dậy th́ toàn thể nước biến thành
sóng, trời lạnh th́ nước đang mềm biến
thành cứng. “Chiếu” là
dùng Bát Nhă rất sâu bèn hiểu rơ “do mê chân nên biến thành vọng, toàn thể vọng
chính là chân”, như gió lặng, trời ấm lại khôi
phục bản thể của nước vậy!
Do vậy, biết hết
thảy pháp đều do vọng t́nh biến hiện. Nếu
ĺa được vọng t́nh th́ bản thể hoàn toàn là
không; do vậy Tứ Đại đều mất bản
tánh, sáu căn có thể dùng lẫn cho nhau. V́ thế, Bồ
Tát chẳng khởi Diệt Định mà hiện các oai
nghi, nhăn căn có thể làm được Phật sự của
nhĩ căn, nhĩ căn làm được Phật sự
của nhăn căn, vào trong đất như vào nước,
đi trong nước như đang đi trên đất,
nước - lửa chẳng thể thiêu đốt, cuốn
trôi được, tùy ư đi đứng trên hư không. Cảnh
không tự tánh, đều tùy tâm chuyển. Do vậy, kinh
Lăng Nghiêm chép: “Nếu có một
người nhận ra lẽ thật trở về nguồn
th́ mười phương hư không đều bị tiêu
tan”, đấy chính là hiệu quả thật sự của
việc “chiếu thấy
Ngũ Uẩn đều không”.
Quy là “quy đầu” (gieo trở vào), “quy hoàn” (trở về), có nghĩa là phản chiếu
hồi quang khôi phục tâm tánh vốn có vậy. Nhưng muốn
phản chiếu hồi quang, khôi phục tâm tánh vốn có mà
nếu trước hết chẳng quy tâm nơi Tam Bảo,
y giáo phụng hành sẽ không thể được! Đă
có thể quy tâm Tam Bảo y giáo phụng hành th́ sẽ tự
có thể khôi phục nguồn tâm, triệt chứng Phật
tánh. Đă khôi phục được nguồn tâm triệt
chứng Phật tánh rồi th́ mới biết tự tâm quư
báu nhất, nơi mê chẳng giảm, nơi ngộ chẳng
tăng. Chỉ là thuận theo pháp tánh bèn thọ dụng
được, hễ trái nghịch pháp tánh bèn bị
thương tổn, lợi - hại khác biệt như trời
với vực. Cư sĩ Châu Sư Đạo muốn cho
con cái cháu chắt đời đời phụng hành Phật
pháp nên lấy chữ Quy Tâm đặt tên cho ngôi nhà lớn,
thỉnh Quang đề ư nghĩa. Do vậy, bèn viết lời
này cho xong trách nhiệm.
2. Lời
bạt cho sách Phạm Vơng Kinh Tâm Địa Phẩm Bồ
Tát Giới Sớ Chú Tiết Yếu
Phật
pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như
hư không. Luận đến chỗ thiết yếu th́ chỉ
có ba pháp Giới - Định - Huệ mà thôi! Nhưng ba pháp
này dung nhiếp lẫn nhau, chẳng thể đứng tách
ra một ḿnh được! Sơ tâm nhập đạo
th́ tŕ giới là nhiệm vụ quan trọng nhất. Do vậy,
kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhiếp
tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định
phát Huệ. Đấy gọi là Tam Vô Lậu Học”. Do
vậy, lúc đức Như Lai mới thành Chánh Giác, liền
nói Phạm Vơng Kinh Bồ Tát Giới để hết thảy
Bồ Tát cùng chư thiên Thích Phạm, và vua quan, nhân dân dù
Tăng hay tục cho đến đào kép, nô tỳ, hết
thảy chúng sanh trong ba ác đạo đều cùng thọ
tŕ. Do vậy, biết Giới này chính là ḷ luyện lớn
lao để Như Lai nung phàm luyện thánh vậy.
Ấy là v́ lục
đạo chúng sanh tuy tôn - ty, sang - hèn khác nhau, đủ mọi
thứ bất đồng, nhưng nhất niệm tâm tánh
chẳng hai, chẳng khác ǵ tam thế chư Phật. Chỉ
v́ thiện - ác đời trước mỗi người
mỗi khác nên đời này quả báo bất đồng!
Đức Như Lai chỉ nh́n vào Bổn, chẳng bận
tâm đến Tích, do vậy, khuyên khắp mọi người
thọ tŕ. Nếu có thể y giáo phụng hành th́ ác nghiệp
đời trước sẽ nhanh chóng tiêu trừ, phước
huệ đời này mau được viên măn. Thoạt
đầu hiểu rơ vọng chính là chân, kế đó chỉ
có chân không vọng, tự có thể khôi phục nguồn
tâm, tự chứng diệu tánh. V́ thế nói: “Chúng sanh nhận lănh giới của
Phật liền nhập vào địa vị chư Phật,
địa vị giống với Đại Giác rồi, thật
sự là con của chư Phật”. Lại nói: “Các ông là Phật sẽ thành, ta là
Phật đă thành, thường tin tưởng như thế
th́ Giới Phẩm được đầy đủ”.
Đây chính là lời đảm bảo cho hết thảy
chúng sanh từ chính kim khẩu của đức Như Lai,
há chẳng đáng tin ư?
Cư sĩ Vô Danh
xưa đă trồng cội đức, dốc ḷng tu Tịnh
nghiệp, muốn cho ḿnh lẫn người cùng thoát luân hồi,
bèn chọn lấy những chỗ thiết yếu trong các
trước thuật Tịnh Độ soạn thành sách Tịnh
Độ Tân Yếu (những điều chỉ bày trọng
yếu về Tịnh Độ), ông lại soạn cuốn
Tục Biên của sách ấy, tính đem kinh Phạm Vơng
đặt ở đầu sách. Lại v́ kinh văn sâu xa,
uyên áo chẳng dễ suy lường hời hợt
được, khai - giá - tŕ - phạm[26]
khó thể hiểu rơ; nếu không chú giải quả thật
khó thể lợi ích rộng khắp. Do vậy, ông bèn chọn
trích những điểm trọng yếu từ sách Phạm
Vơng Kinh Chú Sớ giản lược của ông Trần Hy
Nguyện đời Thanh khiến cho dù văn hay nghĩa vừa
xem đến bèn được hiểu rơ.
Muốn hoằng
dương Tịnh Độ sao lại đặt kinh Phạm
Vơng lên đầu? Ấy là v́ muốn sanh về Tịnh
Độ th́ phải tịnh được cái tâm. Hễ
tâm tịnh cơi Phật sẽ tịnh! Muốn tịnh cái
tâm, không thể nào không tŕ tịnh giới của Phật! Nếu
tŕ giới th́ tâm tham - sân - si sẽ chẳng hiện hành,
đạo Giới - Định - Huệ được triệt
để phơi bày trọn vẹn, hằng sa công đức,
vô lượng diệu nghĩa chẳng cầu tự
được, đều hiện trong tâm. Do vậy, nói: “Giới chính là pháp giới, hết
thảy pháp quy về Giới, c̣n ǵ hơn được”.
Huống chi lại thêm chân tín nguyện thiết, chấp
tŕ vạn ức hồng danh của A Di Đà Phật th́
cái tâm Năng Niệm và đức Phật được
niệm sẽ thầm khế hợp. Trong đời này
tâm - Phật đă chẳng hai, lâm chung không sanh Tịnh
Độ th́ sanh về đâu đây? Nếu như căn
cơ kém hèn, chưa thể được như thế,
nhưng nghiêm tŕ giới luật của Phật để
thanh tịnh thân tâm, thật sự v́ sanh tử, phát tâm Bồ
Đề, dùng tín nguyện sâu tŕ danh hiệu Phật, đến
khi lâm chung cảm ứng đạo giao được Phật
tiếp dẫn văng sanh Tây Phương. Dẫu là kẻ
đới nghiệp văng sanh cũng đă vĩnh viễn
thoát luân hồi, cao siêu tam giới, luôn thân cận Phật
Di Đà, nhanh chóng chứng được Pháp Thân, huống
ǵ người nghiệp đă tận, t́nh đă không ư?
Có những kẻ tự
khoe cao minh, miệt thị giới luật và Tịnh Độ,
nói: “Tự tánh thanh tịnh, nào
có thiện - ác, tŕ - phạm, ta - người, sạch - nhơ,
chỉ mặc sức thiên chân mới chính là Như Như
Phật”. Từ đó, miệng xoen xoét nói Không, nhưng
chuyện ǵ cũng Có! Nghe lời lẽ th́ cao minh vượt
khỏi chín tầng trời, xét đến hành vi tệ hại
sâu lún chín tầng đất! Sống làm phường bại
hoại trong pháp môn, chết làm chủ nhân cơi Nê Lê (địa
ngục). So với những người đới nghiệp
văng sanh th́ lấy trời và đất để sánh ví vẫn
chẳng thể đủ để diễn tả sự
sướng và khổ được; huống ǵ so sánh với
những bậc cao hơn! Những ai muốn được
lợi ích thật sự ngay trong đời này, lâm chung quyết
định văng sanh, xin hăy thật sự thực hành bằng
việc tŕ giới niệm Phật, sẽ chẳng uổng
công đâu!
3. Lời
bạt cho bản Thạch Ấn bài Tâm Kinh chép bằng lối
chữ thảo của vị Tăng lạ lùng là Thủ Tùng
(do chữ viết liên tiếp nhau, không tách ra được nên chưa in)
Kinh
văn này tuy giản lược nhưng nghĩa lư cực
rộng sâu, Tánh - Tướng dung thông, Chân - Tục cùng mất!
Vạn pháp sâm la nhưng nhất đạo thanh tịnh. Do
vậy hễ khởi Quán Chiếu th́ xóm làng Ngũ Uẩn
nhanh chóng trống rỗng, Thật Tướng phô bày trọn
vẹn, sanh lên bờ kia Tứ Đức. Nói đến sự
rộng lớn của kinh th́ dù cạn hết biển mực
cũng chẳng thể thuật hết nghĩa đó. Nói
đến sự tinh vi th́ t́m lấy một chữ cũng
trọn chẳng thể được! Chí viên, chí đốn,
tối diệu, tối huyền. Đúng là thầy của
chư Phật, là mẹ của Bồ Tát, là cốt lơi của
sáu trăm quyển Bát Nhă[27], là
cương tông của toàn bộ Đại Tạng thánh
giáo. Ấy là v́ đức Đại Giác Thế Tôn xét
căn cơ thuyết pháp, trí huệ tự tại, hoặc
nói rộng, hoặc nói lược, diệu lư đều trọn
đủ. Ví như vầng trăng vằng vặc giữa
trời, hiện bóng trong những chỗ có nước.
Không riêng ǵ sông to biển cả đều hiện trọn
vẹn bóng trăng, mà nhỏ như một chước, một
giọt, không đâu chẳng đều hiện trọn vẹn
bóng trăng, chẳng hề khiếm khuyết. Cao quư thay,
đẹp đẽ thay! Do chúng sanh có đủ diệu
tâm “chúng sanh - Phật b́nh đẳng” nên cảm được
đức Như Lai nói kinh mầu nhiệm Chân Không Thật
Tướng này! V́ thế, từ thời Đường
đến nay, văn nhân danh sĩ thường hay biên chép,
tŕ tụng, có nhiều người đọc đến mấy
ngàn vạn bản.
Vị Tăng lạ
lùng là Thủ Tùng muốn viết kinh này ḥng nạp vào trong
tám thức điền của mọi người để
tạo chủng tử thành Phật trong tương lai, nên
bèn vận dụng thần bút tuyệt diệu chẳng thể
nghĩ bàn biên chép lưu thông. Bạn bè được tặng
tờ thiếp ấy, muốn đem in thạch bản
để lưu truyền rộng răi. Lại sợ
[người đọc] chưa thể nhận hết [mặt
chữ] nên chép thêm kinh văn theo lối chữ Khải
trong phần sau. Do vậy, tôi bèn viết lời Bạt gồm
mấy câu ngơ hầu ḿnh lẫn người đều xa
ĺa điên đảo mộng tưởng, rốt ráo Niết
Bàn. Phải biết: Kinh này ở tại đâu th́ Phật ở
nơi đó, tiêu trừ nghiệp chướng, được
nhiều tốt lành. Phải nên dốc ḷng cung kính cúng
dường, thọ tŕ, đọc tụng, chớ nên khinh
nhờn kẻo phải chuốc lấy tội lỗi, ắt
sẽ độ hết thảy khổ, thành vô thượng
đạo giống như đưa tờ bằng khoán ra
lấy lại vật cũ vậy!
4. Lời
bạt cho bài văn bia ngự chế của Thanh Thế
Tông ở chùa Pháp Vũ tại Phổ Đà
(năm Ất Măo, viết thay cho ông Triệu Hy Y)
Thanh Thế
Tông Hiến Hoàng Đế (Ung Chánh) xưa đă trồng cội
đức, thừa nguyện tái lai, thâm nhập Kinh Tạng,
thấu đạt thẳng vào nguồn Thiền, Tông - Thuyết
đều thông, ngộ chứng gần như cùng cực,
thông hiểu đạo tân truyền của Linh Sơn, Tứ
Thủy, xiển dương diệu đạo “tâm chính là Phật”. Từ khi
pháp truyền sang Chấn Đán, hai ngàn năm qua, trong các bậc
hoàng đế, Ngài quả là bậc nhất. Nếu chẳng
phải là bậc đă chứng Pháp Thân từ lâu, thị
hiện trong đời Mạt này, ở trong cơi tục hiểu
thấu lẽ chân, rộng độ hàm thức th́ sao có thể
được như vậy! Phật pháp lợi khắp
chúng sanh, Đại Sĩ tùy cơ ứng theo ḷng cảm rộng
lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Nếu
không có đại trí huệ sẽ chẳng thể h́nh dung.
Thanh Thế Tông cực lực phát huy những nghĩa lư
như mưa đúng thời nhuần thấm muôn vật,
có thể nói là khéo léo khế hợp tâm Phật, khó thể
thí dụ được! Trước kia, tôi đă đọc
sách Chiết Giang Thông Chí thấy bài văn bia này, khôn
ngăn khâm phục. Sách Định Hải Sảnh Chí
cũng chép đầy đủ. Mùa Xuân năm nay đến
lễ Đại Sĩ, thấy trước tấm bia thờ
một tượng Phật bằng ngọc, bia bị khám
thờ che khuất nên chẳng thể xem rơ được.
Là v́ khi tượng Phật bằng ngọc được
rước đến, được thờ tạm
trước bia. Sau do không đất lập điện [thờ
riêng], bèn thờ tượng vĩnh viễn ở đó. Tra
trong Sơn Chí, lại thấy thiếu mất bản
văn bày, buồn rầu khôn xiết. Nhân đó, cầm
đuốc cung kính chép lại, bèn xin vị chủ chùa cho
khắc vào bản gỗ, treo trong đ́nh. Lại khắc
kèm vào bản khắc ván của Sơn Chí, thuật hết
duyên khởi ngơ hầu các vị quân tử trong tương
lai đều được thấm nhuần mưa pháp,
cùng chứng chân thường!
5. Lời
bạt cho Lục Độ Thất
(viết thay ông Đường Hưu Tử)
Bố
thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ gọi là Lục Độ, hoặc c̣n gọi là
Lục Ba La Mật. Tiếng Phạn “Ba La Mật”, Hán dịch là Đáo Bỉ Ngạn
(đến được bờ kia), có nghĩa là nhờ
vào sáu pháp này từ bờ sanh tử bên đây vượt qua
ḍng phiền năo sang đến được bờ Niết
Bàn bên kia. Năm Độ như kẻ mù, Bát Nhă như
người dẫn đường. Năm Độ không
có Bát Nhă sẽ chẳng thể rốt ráo đến
được bờ kia. Bát Nhă như mắt, Ngũ Độ
như chân. Bát Nhă không có năm Độ kia cũng chẳng
thể rốt ráo đến được bờ kia. Đầy
đủ cả hai thứ th́ mỗi một Độ
đều đến được bờ kia, đều
được gọi là Ba La Mật. Ḥa thượng Khai
Như đặt cho thất cái tên này, đáng gọi là bậc
biết pháp, mà chí và hạnh của Ngài [từ đó] cũng
có thể suy ra được. Do vậy, viết ba chữ
này và lược thuật ư nghĩa để tặng cho.
6. Lời
bạt cho Tâm Quy Tịnh Xứ
(viết cho cư sĩ Lưu Trí Không)
Tâm linh
minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng,
có khuôn phép, riêng làm chủ của vạn tượng, vô
danh vô tướng ḥa lẫn trong các pháp, chẳng nhơ, chẳng
sạch, chẳng thể lập được mảy trần,
vừa là Sắc vừa là Không, trọn Ngũ Nhăn cũng
không thể thấy được! Xứ sở c̣n chẳng
có, tịnh do đâu mà đến? Tịnh - xứ đă
không, nương gởi vào đâu? Thật Tế lư địa
chẳng nhiễm mảy trần. Nói đến chữ Tâm
đă sớm trở thành vớ vẩn. Nếu có thể khế
nhập ngay được điều này th́ toàn thể
đại dụng của tâm sẽ phô bày triệt để,
trọn chẳng giấu diếm ǵ, liền có thể gọi
là “bậc vô tâm đạo nhân”,
liền có thể chen vai thích cánh cùng bậc Đại Sĩ
đă rỗng không các Uẩn, nắm tay nhau cùng đi, cảm
ứng khắp quần cơ, hiện thân thuyết pháp.
Trăng in trên ngàn sông, gió thổi vạn ống tiêu, trọn
pháp giới cảm bèn ứng trọn pháp giới. Nếu
như căn cơ kém hèn, chưa thể chứng nhập
bèn ước trên Sanh Diệt Môn chỉ cho phương
hướng tiến đến chứng đắc. Do
đă mê tâm đuổi theo cảnh, hướng ra ngoài t́m cầu,
nên toàn bộ trí huệ đức tướng biến
thành vọng tưởng, chấp trước, vậy th́
hăy nên chuyên tinh tu tập chỉ một pháp, chấp tŕ thánh
hiệu Di Đà, chân tín nguyện thiết, mong được
văng sanh Tây Phương. Tŕ lâu ngày, tâm và Phật hệt
như một, chẳng ĺa đương niệm triệt
chứng Ngũ Uẩn đều không. Vọng tưởng,
chấp trước đă diệt, trí huệ - đức
tướng cũng mất. Hễ tâm tịnh cơi Phật
bèn tịnh, chẳng ĺa đương xứ thầm khế
hợp cơi Tịch Quang. Chỉ có mỗi ḿnh chỗ này mới
là chỗ rốt ráo để chúng ta an thân lập mạng
vậy. Nguyện học tṛ tôi là Trí Không làm cho chúng sanh khắp
pháp giới cùng quy về đây th́ may mắn lắm thay!
7. Lời
bạt cho sách Định Hải Huyện Giám Ngục Giảng
Kinh Tham Quan Kư của Hạng Bá Xuy
Việc cai
trị trọng nơi đại thể. Đă đạt
được đại thể th́ chuyện không kể lớn
hay nhỏ đều có hiệu quả. Nếu không, chỉ
là làm dáng, khó đạt được lợi ích thật sự!
Đại thể là ǵ? Thưa: Chỉ là Thành mà thôi! Người
giữ chức vụ cai quản đất nước nếu
phát xuất từ ḷng Thành th́ tuy là dị loại vẫn
c̣n có thể cảm hóa được, huống ǵ con
người là “vạn vật chi linh”? V́ thế, những
chứng cứ lạ như hổ chẳng vào cơi, cá bỏ
sang chỗ khác v.v… được chép rơ ràng trong sử sách.
Sách Đại Học giải thích câu nói “Như bảo xích tử” (như che chở con
đỏ) của kinh Thư như sau: “Tâm thành cầu chi, tuy bất trúng bất viễn hỹ”[28]
(Dùng tâm thành mà cầu th́ dù chẳng trúng cũng chẳng xa
vậy). Dùng cái tâm “che chở
con đỏ” để che chở dân th́ không mưu tính
điều ǵ mà chẳng đúng; nói là “chẳng xa” là v́ sợ con người chẳng
chí thành đến cùng cực, chứ thật ra là thúc đẩy
sao cho chí thành đến mức cùng cực. Đây là lời
quyết đoán, chứ chẳng phải là lời nói nghi
ngờ, do dự!
Ấp lệnh Định
Hải là ông Đào Tại Đông học đạo yêu dân
cùng lư tận tánh. Đối với tâm pháp của thánh nhân
Nho - Thích đều có sở đắc lớn lao. Lo việc
cai trị chỉ lấy ḷng tự lập, lập người,
tự lợi, lợi tha làm gốc. Vừa đến nhậm
chức, bèn đau đáu nghĩ đến nỗi khổ
của kẻ dân ngu không được dạy dỗ, phạm
pháp bị tù đày. Nguyên do là chẳng biết những chuyện
nhân quả báo ứng, phước thiện họa dâm và
sanh tử luân hồi, ác báo trong tam đồ v.v… cứ một
mực có dă tâm ích kỷ, chẳng sợ mắc ác báo v́ hại
người, nên mới bị hăm vào đây. Do vậy, muốn
tuyên giảng cho họ những chuyện tam thế nhân quả,
lục đạo luân hồi, tam đồ khổ sở,
cơi Phật yên vui v.v… ngơ hầu họ hoảng sợ, kinh
hăi, mau mắn sửa đổi tâm trước, vâng phục
tuân theo, sửa đổi đức sau.
Do v́ biết một niệm
tâm tánh của chúng ta và một niệm tâm tánh của Nghiêu -
Thuấn không hai, với Phật không hai th́ ai chịu liếm
chút mật trên lưỡi dao để mắc cái họa
đứt lưỡi, nỡ để Ma Ni bảo châu tùy
ư mưa ra các báu bị ch́m đắm vĩnh viễn trong
nhà xí, chẳng những trọn không có ích ǵ, c̣n thường
bị coi là hôi nhơ giống như phẩn vậy! Từ
đấy, hành trọn vẹn đạo hiếu hữu
nhân từ và Giới - Định - Huệ. Dù chẳng thể
ngay trong đời này đạo đức bằng với
Nghiêu - Thuấn và chư Phật, nhưng ngựa mong thành
ngựa Kư th́ cũng là loài ngựa Kư, người mong thành
Nhan Hồi th́ cũng là hạng giống như Nhan Hồi,
sẽ cậy vào Phật từ lực đới nghiệp
văng sanh để thành tựu nhân duyên siêu phàm nhập thánh tối
thắng. Nếu như chân ngữ, thật ngữ của
thánh hiền, Phật, Bồ Tát dạy người chẳng
truyền sang phương Đông th́ làm sao thỏa măn tâm ấy
cho được? Nhân quả báo ứng thật sự
là phương tiện lớn lao để thánh nhân Nho Giáo giữ
yên thiên hạ, nhưng lời lẽ của họ
đơn giản, sơ sài, khiến cho nhà Nho quá quen nên chẳng
xem xét, coi nhẹ, bỏ qua, đến nỗi người
bậc thượng chỉ làm một kẻ tự giải
thoát, chứ không thể thay đổi phong tục
được, c̣n kẻ bậc hạ bèn tùy ư hoành hành, cốt
sao hưởng yên vui một thời. Do vậy, thế
đạo nhân tâm mỗi ngày mỗi đi xuống, hết
thuốc chữa!
Ông Đào bèn truyền
cho hai vị trụ tŕ chùa trước và chùa sau của Phổ
Đà[29],
chọn ra từ trong núi những vị Tăng giới hạnh
tinh nghiêm, hiểu kinh giáo thông suốt làm thầy giáo hối.
Hai vị trụ tŕ muốn chọn những vị tại
gia giỏi giang đảm nhiệm chức vụ ấy, nhưng
ông Đào cho rằng: “Dùng lời
lẽ để giáo hóa c̣n bị tranh căi, chứ dùng thân
để giáo hóa, người ta phải thuận theo”.
Giáo hóa tù nhân không chỉ ở chỗ có khả năng tuyên
thuyết! Do vậy, bèn cử pháp sư Trí Đức
đáp ứng lời mời. Đến ngày khai giảng, sự
sắp đặt, diễn thuyết, và dự trù
chương tŕnh, không ǵ chẳng đặt căn bản
trên ḷng Thành, nghiễm nhiên biến nhà ngục thành đạo
tràng, biến tù nhân thành pháp lữ, kể từ khi Định
Hải lập huyện đến nay chưa từng có chuyện
như vậy! Ấy là v́ ông Đào biết tù nhân do không
được dạy dỗ nên mới phạm pháp, căn
cứ vào ư “cách vật trí tri,
làm sáng tỏ đức sáng, đạt đến chí thiện,
con người ai cũng có thể là Nghiêu - Thuấn, ai
cũng đều có thể thành Phật” mà làm chuyện
này. Có thể nói là biết đại thể, ḷng thành son sắt,
chẳng thẹn là bậc cha mẹ của dân.
Ông lại chẳng chê
bỏ Quang là kẻ bất tài, đem bài kư sự thăm viếng
nhà tù của ông Hạng đưa cho Quang xem. Đọc
xong, khôn ngăn mừng rỡ, bèn quên ḿnh hèn kém, ghi đại
lược mấy lời bạt dở tệ, ngơ hầu
người đọc biết được tông chỉ
của việc giáo hóa trong nhà tù và ḷng thành của ông
Đào, có lẽ người bắt chước làm theo sẽ
chẳng phải chỉ có một, hai, ba, bốn, năm,
sáu, bảy kẻ mà thôi! Tuy nhiên, thuyết pháp không bắt
buộc phải sử dụng toàn là Tăng nhân. Những
ǵ được giảng nếu chẳng lấy nhân quả
ba đời, luân hồi sáu nẻo, sự khổ sở
trong tam đồ, sự yên vui nơi cơi Phật làm gốc
th́ dẫu cho giảng nói diệu nghĩa cảm được
hoa trời rơi xuống th́ cũng chẳng có hiệu quả
thật sự. V́ sao vậy? V́ không gây được xúc
động bên trong, như gió lùa qua cây cối, chỉ phớt
qua chứ chẳng ăn nhằm ǵ cả!
8. Lời
bạt cho sách Văng Sanh Luận Chú
Sanh tử
là chuyện lớn lao bậc nhất của chúng ta. Pháp môn
Tịnh Độ là diệu pháp liễu sanh tử vô
thượng. Giáo pháp được giảng trong cả một
đời đức Phật mênh mông như biển thẳm,
nhưng pháp diễn bày rốt ráo bản hoài phổ độ
chúng sanh của Phật chỉ có ḿnh pháp Tịnh Độ
mà thôi! Do dưới là phàm phu tín nguyện niệm Phật
liền được đới nghiệp văng sanh, trên là
bậc thánh nếu chịu hồi hướng sẽ mau
viên thành giác đạo. So sánh giữa việc cậy vào Phật
từ lực và chỉ cậy vào tự lực th́ khó - dễ
c̣n nhiều hơn [sự khác biệt] giữa ngày và kiếp.
Thiên Thân Bồ Tát soạn rất nhiều bộ luận
để hoằng truyền, xiển dương Phật
thừa. Ngài lại đề cao kinh Vô Lượng Thọ,
soạn ra Nguyện Sanh Kệ Luận, chỉ ra năm cách
tu (Ngũ Môn Tu Pháp) ḥng rốt ráo được văng sanh, dạy
rơ các pháp lễ bái, tán thán, phát nguyện, quán sát, hồi
hướng. Trong Quán Sát Môn, chỉ rơ sự trang nghiêm của
Tịnh Độ, pháp lực của Như Lai, công đức
của Bồ Tát, phàm những ai thấy nghe đều phát
nguyện văng sanh. Đàm Loan pháp sư soạn lời chú
thích tường tận, triệt để phơi bày trọn
vẹn thệ nguyện của Phật Di Đà và bổn
hoài của Thiên Thân Bồ Tát, giăi bày hết cả ra. Nếu
không thấu hiểu Phật tâm sâu xa, trọn đủ Vô
Ngại Biện, sao có thể làm được như vậy?
Một pháp Tịnh
Độ chính là chỗ quy hướng của hết thảy
mọi pháp. V́ thế, những vị Đẳng Giác Bồ
Tát đă chứng bằng với chư Phật trong hội
Hoa Nghiêm c̣n phải dùng mười đại nguyện
vương hồi hướng văng sanh. Các vị Văn
Thù, Phổ Hiền, Mă Minh, Long Thọ, Trí Giả, Từ Ân,
Thanh Lương, Vĩnh Minh v.v… tự hành dạy người
cùng về Tịnh Độ, nguyên do là v́ vậy. Biết
điều này th́ những người chỉ chấp vào tự
lực, chẳng nhờ vào Phật lực sẽ kinh hoảng
sợ hăi, hiểu ra, sẽ cầu trong đời này liền
được thoát khỏi cơi Sa Bà, sanh về Cực Lạc,
cùng với Quán Âm, Thế Chí v.v… các vị thượng thiện
nhân cùng ở một chỗ, thường luôn thân cận A
Di Đà Phật, ḥng chứng Vô Sanh Nhẫn, viên măn Bồ
Đề mới thôi. Lời này chẳng đáng tin th́ xin hăy
chất vấn Phổ Hiền Bồ Tát ắt sẽ tự
chẳng c̣n nghi ngờ!
9. Lời
bạt cho bản điều lệ sắc lệnh quản
lư chùa miếu của Đại Tổng Thống
Xưa
kia, khi sắp nhập Niết Bàn, đức Như Lai
đă đem pháp đạo phó chúc cho quốc vương,
đại thần hộ tŕ, lưu thông. Ấy là v́
Tăng chúng bỏ tục xuất gia, tu ṛng phạm hạnh,
đă không có của cải, lại không có quyền thế,
dầu có thể hoằng dương pháp hóa vẫn khó tránh
khỏi bị người ngoài khinh khi, lấn hiếp. Nếu
được vua quan hộ tŕ th́ pháp hóa được rộng
khắp, người ngoài chẳng dám coi thường, bởi
kẻ cường bạo ngang ngược giấu h́nh ẩn
tích, c̣n kẻ mềm mỏng lương thiện sẽ khởi
ḷng tin, gieo ḷng thành. V́ thế, lưới giáo pháp được
mở rộng, thâu tóm những loài cá trong biển khổ; chấn
hưng tông phong, thấy thấu suốt vầng trăng
nơi tự tâm. Nội hộ, ngoại hộ phải cùng
có đủ th́ pháp hóa của đức Như Lai sẽ tự
có thể theo chiều ngang trọn khắp mười
phương, theo chiều dọc thông suốt ba đời,
khiến cho hàm thức đều cùng được thấm
gội pháp trạch. Ấy là v́ do nghe Phật pháp mới biết
từ vô thủy đến nay đă mê trái bản tâm, khởi
tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, đến nỗi
sanh tử luân hồi nhiều kiếp không cách ǵ thoát ĺa.
Đă biết điều này liền muốn diệt trừ
nhân khổ, mong được quả vui. Từ đấy,
bỏ mê theo ngộ khăng khắng gắng công. Nơi tâm
bèn dứt tham - sân - si, nơi thân kiêng giết - trộm - dâm,
đổi ác tu lành, gần th́ cảm được
phước lạc nhân thiên, đoạn Hoặc chứng
chân, xa th́ thành giác đạo Bồ Đề. Do vậy, tận
lực tuân theo lời Phật dạy, ǵn giữ tự tâm
nghiêm ngặt, dẫu ở trong nhà tối pḥng kín luôn
như đối trước Phật, trời; người
mang thiện niệm, nước dứt xử phạt. Về
mặt ngầm là thầm giúp cho việc b́nh trị, dứt
họa loạn khi chưa chớm; về mặt hiển lộ
là phụ trợ cho chính sách cai trị, đề cao nhân ái
ḥa mục. Do có những lợi ích như vậy nên đế
vương các đời ở Tây Trúc và cơi này vĩnh viễn
tuân thủ lời Phật phó chúc, không ai không sùng phụng,
hộ tŕ, chỉ lo chưa được truyền bá,
lưu thông rộng răi!
Xét từ thời
Đông Hán, Phật pháp truyền sang Trung Quốc, trải
hơn một ngàn tám trăm năm, không lúc nào chẳng
như vậy. Đến cuối đời Thanh, pháp đạo
suy vi, triết nhân ngày càng hiếm hoi, kẻ tầm thường
ngày càng đông. Lại thêm đất nước lắm biến
cố, chẳng rảnh rỗi đề xướng.
Tăng đồ phần nhiều cam phận ngu hèn, chẳng
chuyên chú thanh tu, sự giáo hóa lỏng lẻo, kẻ ngoài
khinh lấn. Do vậy, những kẻ không có tín căn ḍm
ngó tài sản của Tăng, không có cách nào khác bèn mượn
cớ mở trường học để thôn tính nhà chùa.
Thường có những chuyện biến chùa Phật thành
trường học, đoạt Tăng sản để đẫy
túi ḿnh xảy ra ồ ạt. Đến năm Dân Quốc
thứ nhất (1911), nước nhà vừa lập, phong
trào ấy càng quá đáng. Đồng nhân lo lắng, bèn lập
ra hội Phật Giáo đông đảo, lắm phen khẩn
cầu chánh phủ che chở. V́ thế, vào năm Dân Quốc
thứ 4 (1915), chánh phủ bèn ban bố chánh sách quản lư tự
miếu gồm ba mươi mốt điều lệ. Ư ấy
tuy tốt lành, nhưng do chưa xét soi kỹ càng nên người
thi hành vẫn chen lẫn đôi chút ḷng riêng tư, khiến
cho mối tệ nẩy sanh, tạo thành trở ngại lớn.
Phàm những hàng Tăng - tục trong pháp môn không ai chẳng
lo ngại hậu hoạn, nhiều phen gởi thư bày tỏ
ư kiến, khẩn cầu sửa đổi.
Mùa Thu năm Dân Quốc
thứ chín (1920), cư sĩ Tŕnh Tuyết Lâu xét kỹ lợi
- hại, lại gởi thư ư kiến tŕnh lên Đại
Tổng Thống. Đă được chấp thuận, giao
cho bộ Nội Vụ bàn bạc. Đầu Xuân năm Dân
Quốc thứ 10 (1921), mới bắt đầu tu chánh
thành 24 điều. Suy xét, châm chước kỹ càng, có lợi
không hại, bèn tŕnh lên Đại Tổng Thống, để
ông ta ban sắc lệnh công bố thi hành. Nhưng sắc lệnh
của chánh phủ ban bố chẳng thể khiến cho mọi
người đều thấy được hết, nên pháp
sư Đạo Giai trụ tŕ chùa Pháp Nguyên ở Bắc
Kinh t́nh hộ giáo sâu nặng, bèn tính gấp rút in ra để
lưu thông, ngơ hầu Tăng - tục ở những chốn
sơn cùng thủy tận đều được biết,
không c̣n ngờ lo chi nữa! Sư xin tôi viết lời Bạt
để góp phần cổ vũ, khuyến khích.
Tôi nói: “Đạo pháp
của Như Lai tuy nhờ vào sức ngoại hộ,
nhưng nội hộ cũng phải có người th́ hộ
tŕ mới có hiệu quả thật sự! Ví như bên
ngoài có thành chắc, hào sâu, dù kiên cố không phá được,
ắt chẳng thua bại ngay, nhưng nếu chủ soái
bên trong hôn mê, ngu muội, chăm sóc dân cai quản lính đều
không đúng lối th́ sĩ tốt bá tánh đều thành bè
lũ phản nghịch. Dầu có thành chắc, hào sâu
cũng chẳng ích lợi ǵ! Nếu như chủ soái sáng
suốt, khéo được ḷng sĩ tốt nhân dân th́ sự
cai trị nhân từ thấm khắp, không ai không ca tụng,
tiếng tăm lan xa bốn phương, mọi người
đều quy phục th́ giặc giă, kẻ thù đều
như con đỏ, mọi kẻ phản nghịch đều
thành lương dân. Khẩn cầu những người
cùng một sắc áo, hăy phát Bồ Đề tâm, tận lực
tu Định Huệ, dùng vô thượng diệu đạo
của Như Lai để tự hành dạy người
th́ ai nấy đều cảm từ ân của Phật,
ngưỡng mộ hạnh đẹp của Tăng chúng.
Tự nhiên những kẻ không có tín tâm sẽ phát khởi
tín tâm, người đă có tín tâm càng tận lực hành Phật
đạo, sẽ thấy tàn nhẫn chuyển thành nhân từ,
chiến tranh vĩnh viễn chấm dứt, chuyển thói
tục tệ bạc thành thuần phong, vận đời
thanh b́nh, hưng thạnh. Như vậy là trên chẳng phụ
ư tha thiết hộ tŕ của quốc gia, dưới chẳng
phụ thâm tâm học Phật của chính ḿnh, ân Phật lẫn
ân cha mẹ đều kham báo đáp được muôn một
vậy. Phàm những ai cùng một sắc áo với tôi, xin
hăy gắng sức lên”.
10. Lời
bạt cho bản in lại kinh Dược Sư Như Lai
Bổn Nguyện
Phật
và chúng sanh cùng một tâm thể, nhưng sự thọ dụng
khác biệt như trời với vực là do v́ dụng tâm
chẳng đồng mà ra. Phật chỉ nghĩ dùng ḷng Vô
Duyên Đại Từ, ḷng Đồng Thể Đại Bi
để độ thoát chúng sanh, trọn không có tâm “ta - người,
đây - kia”. Dẫu cho độ tận hết thảy
chúng sanh cũng chẳng thấy tướng người
độ, kẻ được độ. V́ thế,
phước huệ được trọn đủ,
được thế gian tôn kính. Chúng sanh chỉ dốc
ḷng tự tư tự lợi, dẫu thân thiết như
cha mẹ anh em c̣n chẳng thể không có tướng
đây - kia, huống chi là người xung quanh, người
trong cơi đời ư? Do vậy, cảm lấy nghiệp
báo: Hoặc sanh trong nhà bần cùng hạ tiện, hoặc
đọa trong tam đồ ác đạo! Dẫu cho tự
tu giới thiện Thiền Định được sanh
về chỗ vui trong nhân gian hay cơi trời, nhưng do không
có tâm đại bi nên chẳng thể khế hợp Bồ
Đề được ngay. Do vậy, vừa hết
phước báo lại bị đọa lạc, chẳng
đáng buồn ư? Như vậy, [nếu] chỉ muốn
tạo lợi ích cho người khác th́ lại trở thành
làm lợi cho chính ḿnh; chỉ muốn tự lợi th́ chính
là tự hại vậy!
Dược Sư
Như Lai Bổn Nguyện Kinh chính là do đức Thích Ca Thế
Tôn ta thương xót hết thảy chúng sanh tội khổ
trong thế giới này, v́ họ nói những chuyện lợi
sanh của đức Dược Sư Như Lai trong khi tu
nhân cũng như khi đă chứng quả, quả thật
là diệu pháp vô thượng để rốt ráo ĺa khổ
được vui. Nếu chúng sanh phát được tâm
đại Bồ Đề từ bi hỷ xả thọ
tŕ kinh này, chú này và danh hiệu vị Phật này th́ xét trên mặt
hiệu quả c̣n phá rỗng toang được vô minh,
viên thành Phật đạo, huống ǵ những quả vị
khác, những phước lạc khác! Tâm Phật cố
nhiên muốn trao toàn thể vô thượng giác đạo
cho hết thảy chúng sanh, nhưng trí chúng sanh có kẻ cạn
người sâu, chẳng thể không tùy theo ḷng ưa thích của
họ mà ban thuốc, khiến cho những điều họ
mong cầu đều được như nguyện. Phải
biết: Kinh Dược Sư, danh hiệu Phật và thần
chú của Ngài chính là pháp Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác mà Phật Thích Ca, Phật Dược Sư đă
chứng đắc. Phàm ai chí thành thọ tŕ chính là dùng sự
trang nghiêm của Phật để tự trang nghiêm. Do
đó, Ngọc Lâm Thông Tú quốc sư thường tŕ kinh
và danh hiệu vị Phật này, v́ kinh này là pháp môn tổng
tŕ của Thiền, Giáo, Luật, Tịnh. V́ thế, người
thọ tŕ hoặc sanh về thế giới Tịnh Lưu
Ly, hoặc sanh sang thế giới Cực Lạc. Đến
khi phá rỗng suốt phàm t́nh, viên thành thánh trí th́ khế hợp
thẳng vào Tịch Quang, Đông lẫn Tây đều mất,
nhưng Đông - Tây đều rành rành, tùy nguyện văng
sanh, bèn cùng với Di Đà, Dược Sư về bí tạng.
Đây gọi là “hành xứ thậm thâm” của chư Phật.
Thánh Thông đại sư khắc ván lưu thông bản kinh được chép bởi Tâm An ḥa thượng, muốn cho người thọ tŕ phát khởi chánh tín, xin tôi hăy tŕnh bày đại lược, rơ ràng. Lại do bản kinh này do pháp sư Huyền Trang dịch, chỉ nêu con số tám vị Bồ Tát, không nêu rơ tên hiệu, đoạn kinh nói thần chú lại bị thiếu. Tri thức đời sau muốn cho kinh nghĩa hoàn bị, nên y theo Thất Phật Bổn Nguyện Kinh thêm vào đoạn kinh văn nói ra thần chú tổng cộng bốn trăm hai mươi tám chữ, y theo bản kinh số 12 trong kinh Quán Đảnh, thêm vào danh hiệu của tám vị Bồ Tát, v́ ba kinh này vốn là một kinh vậy. Phải biết từ xưa, chỉ dùng lá bối để biên chép, rất có thể bị thất lạc, đến nỗi những phần kinh văn được dịch hoàn bị hoặc thiếu sót khác nhau. Hậu nhân thêm vào như vậy quả thật khế hợp tâm Phật sâu xa. V́ thế, những người chú giải kinh đều cùng tôn trọng. Sợ rằng có kẻ đem đối chiếu với nguyên bản trong Đại Tạng sẽ sanh ngờ vực nên bèn ghi lại duyên khởi để mừng cho kinh văn được toàn bích vậy! (Đoạn nói ra thần chú bắt đầu từ câu “Lại này Mạn Thù Thất Lợi!” cho đến câu “sở cầu nguyện măn cho đến Bồ Đề”)
11. Lời bạt cho Văn Kinh Thất (Căn thất để nghe kinh)
Tứ
Đại vốn không, Ngũ Uẩn đều không, thoát
khỏi Căn - Trần, tâm lẫn cảnh đều tịch
th́ ǵ là kinh? Ǵ là nghe? Ǵ là thất? Nhất niệm bất
sanh, trước - sau đều dứt, linh quang riêng chiếu,
thể vốn toàn chân, có ǵ chẳng phải là kinh, ǵ chẳng
phải là nghe, ǵ chẳng phải là thất? Hiểu
được như thế th́ gọi là “khéo nghe kinh”. Nếu không, ngay trong lúc đọc tụng
kiệt ḷng thành, tận ḷng kính như đối trước
thánh dung đích thân nghe viên âm sẽ tự có thể khế
nhập sâu xa kinh tạng u viễn, tự thấy
được Phật tánh sẵn có. Nguyện những
người học tṛ của tôi hăy nhận hiểu phù hợp,
dốc ḷng tin tưởng, khế ngộ lời này th́ may
mắn lắm thay!
12. Lời
bạt cho sách Tín Nguyện Niệm Phật Quyết Định
Văng Sanh Thiển Thuyết
Pháp môn Tịnh
Độ là chỗ quy túc của các pháp. Ví như biển cả,
toàn bộ nước của sông, rạch, khe, suối trong
thế gian không ǵ chẳng đổ vào biển. Một khi
đă vào trong ấy đều cùng mang tên là Biển, đều
thành cùng một vị mặn. Tuy sâu rộng đến tột
bậc, chẳng thể cùng tột bờ đáy, nhưng nếu
luận từ chỗ nông cạn, dễ thấy th́ danh, thể,
vị, tánh cùng với chỗ sâu chẳng thể lường
cố nhiên không hai, không khác. Từ khi đức Thế Tôn
hoằng khai pháp này đến nay, chẳng biết bao nhiêu
hằng hà sa hằng hà sa số chúng sanh y giáo tu hành văng sanh
Tây Phương? Ấy là v́ lịch đại Bồ Tát, tổ
sư, thiện tri thức, trên là kính vâng ư Phật, dưới
là thuận theo cơ nghi khéo léo khuyến dụ dần dần,
khiến cho mọi người đều được
hay biết duyên do. Nhờ vậy, những người đầy
đủ thiện căn từ trước bèn đều
cùng được thoát khỏi Sa Bà, sanh sang Cực Lạc.
Cư sĩ Đồng Liên Quốc muốn đồng nhân
cùng sanh khởi chánh tín, cùng phát nguyện tha thiết, tŕ
danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, thấy những
lời của cổ đức đều là văn sâu,
nghĩa thẳm, hạng sơ cơ chẳng dễ ǵ lănh
hội được, bèn dùng những ngôn ngữ
đơn giản, gần gũi để phát huy những
ư nghĩa ấy. Do vậy, bèn đặt tên sách là Thiển
Thuyết (Lời nói nông cạn). Phải biết tuy văn
nói nông cạn, đơn giản, nhưng pháp được
nói đến chính là pháp môn rất sâu vô thượng bậc
nhất để chín giới cùng hướng về,
được mười phương chư Phật cùng
khen ngợi, được ngàn kinh đều xiển
dương, vạn luận cùng tuyên nói. Nếu người
đọc chẳng cho là pháp thiển cận, coi thường,
mà hành theo th́ tuy chưa ra khỏi Sa Bà đă chẳng phải
là người khách lâu ngày nơi Sa Bà nữa, chưa sanh về
Cực Lạc mà đă là khách quư cơi Cực Lạc.
13. Lời
bạt cho Liên Vinh Đường
Hoa sen là
vật tuy mọc lên từ bùn lầy, nhưng thể
thường thanh tịnh. Người nào đối với
hết thảy [mọi sự] đều không chấp
trước, vui với thiên chân sẵn có, sẽ coi phú quư,
bần tiện, mọi rợ, hoạn nạn như huyễn
hóa, hành xử thuận theo địa vị, thích đáng với
hoàn cảnh. Những ư niệm dâm, di, khuất, oán đều
rốt ráo chẳng sanh, gần giống như hoa sen, c̣n ǵ
vinh hơn? Luận ở mức độ cao hơn, hết
thảy các pháp đều thuộc sanh diệt, đừng
nói phú quư tôn vinh thế gian chưa đáng gọi là vinh, dẫu
cho được làm Thiên Đế cho đến trời
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng cũng chưa đáng gọi
là vinh! V́ sao vậy? Do phước trời một khi đă
hết lại đọa xuống nhân gian. Đă sanh trong
nhân gian khó tránh khỏi tạo nghiệp. Đă tạo ác
nghiệp ắt đọa ác đạo, luân chuyển bao
kiếp chẳng có lúc ra; không ǵ nhục hơn, có ǵ là vinh?
Đáng gọi là vinh chính là đoạn phiền hoặc,
thành đạo Bồ Đề, hiện thân trong pháp giới
độ thoát chúng sanh vậy. Nhưng đang thuộc
địa vị phàm phu, ngay trong đời này chắc chắn
khó được như thế. Do vậy, hăy nên thật sự
v́ sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu tŕ
danh hiệu Phật để mong văng sanh trong chín phẩm
sen báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu
thật sự được như thế th́ lúc lâm chung cảm
ứng đạo giao được Phật tiếp dẫn,
liền được văng sanh. Từ đấy vĩnh viễn
ĺa khỏi tám khổ, thường hưởng Tứ
Đức, thân cận Di Đà, tham dự vào hải chúng,
nghe pháp, thọ kư mau chứng Vô Sanh. Không chỉ chính ḿnh
như thế, nếu như lại c̣n có thể trọn
đủ ḷng đại từ bi, phát đại thệ
nguyện, rộng tu các việc thiện, giáo hóa khắp hết
thảy, dùng công đức này kính v́ hồi hướng cho
cha mẹ tổ tông cũng được nhờ vào thiện
lợi này cùng sanh về Tây Phương. Huống chi khi
đă sanh về Tây Phương, chứng Vô Sanh Nhẫn th́
chuyện thành vô thượng đạo, đạt đại
Niết Bàn, chắc chắn là chuyện quyết định
đạt được, c̣n ǵ vinh hơn được
nữa? Nghĩa của chữ “Liên Vinh” là như thế,
xin hăy nghĩ đến ư nghĩa của tên gọi mà thực
hành th́ may mắn lắm thay!
14. Lời
bạt cho nghĩa trang của Đặng Bộc Quân
Con
người không có ai chẳng mưu tính cho bản thân và
con cháu, nhưng đường lối mưu tính cố
nhiên phải nên xem xét tường tận. Nếu v́ mọi
người, v́ việc công th́ phước trạch dài lâu.
Nếu v́ ḿnh, v́ riêng tư sẽ như hạt móc mùa Xuân,
giọt sương mùa Thu. Nếu như lại c̣n mưu mẹo,
dối trá th́ khác ǵ uống phê sương, trầm độc
để cầu trường sanh, không lẽ nào chẳng
chết! Đă thế, thần thức vĩnh viễn
đọa trong ác đạo, chịu đủ họa
ương, vốn muốn lợi ḿnh, rốt cuộc thành
tự hại. Tuy do ḿnh tự chuốc lấy, nhưng thật
đáng thương xót. Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng
Yêm) đời Tống lập nghĩa trang thí cho người
trong tộc họ để họ hàng luôn được
hưởng lợi ích. V́ thế, suốt tám chín trăm
năm, ḍng dơi ông luôn hưởng điều tốt lành.
Cư sĩ Bộc Quân trên kế thừa chí cha mẹ, noi
theo dấu thơm của Văn Chánh Công, khiến cho dù con
hay cháu và người trong họ đều được
hưởng nhờ, đều nghĩ đến A Di
Đà Phật cầu sanh Tây Phương. Đấy chính là
thí cả pháp lẫn tài, giúp đỡ sắc thân lẫn huệ
mạng, phước trạch của ḿnh lẫn người
đều cùng thọ như hư không, không có tai ương.
Do vậy, bèn nêu bày nghĩa lư ẩn tàng để con cháu và
người trong họ cùng những ai thấy nghe đều
được thấm gội ánh sáng của Phật vậy!
Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao,
Quyển
3 hết
[1] Ngoại Phàm là địa vị phàm phu,
do đối ứng với Nội Phàm nên gọi là Ngoại
Phàm. Đây chính là địa vị trước khi đạt
đến địa vị Kiến Đạo. Thanh
Văn thừa coi Ngũ Đ́nh Tâm, Biệt Tướng Niệm
Trụ, Tổng Tướng Niệm Trụ đều là
Ngoại Phàm, nhưng Bồ Tát Thừa lại coi Thập
Tín Phục Nhẫn là Ngoại Phàm. Cuối quyển 17, sách
Đại Thừa Nghĩa Chương có ghi: “Nói Ngoại phàm chính là chỉ những
người hướng đến điều lành
nhưng hướng ra ngoài cầu lư, chưa thể dứt
được tướng để duyên theo Chân Tánh bên
trong, nên gọi là Ngoại. Do thân phàm phu Phần Đoạn
trong sáu đường chưa thể bỏ được
nên gọi là Phàm”. Theo Thiên Thai Tông th́ có nhiều cách giải
thích:
1. Trong Tạng Giáo, Hiền
Vị thuộc về Ngũ Đ́nh Tâm Quán là Ngoại Phàm.
2. Thông Giáo coi Càn Huệ
Địa trong mười Địa là Ngoại Phàm.
3. Biệt Giáo coi
mười địa vị thuộc Thập Tín là Ngoại
Phàm.
4. Viên Giáo coi địa
vị Ngũ Phẩm trong Quán Hạnh của Lục Tức
Thành Phật là Ngoại Phàm.
[2] Nhị đế tam vương: Nhị Đế là Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Tam Vương là vua Đại Vũ nhà Hạ, vua Thành Thang nhà Thương và Văn Vương nhà Châu, những vị này đều được coi là Thánh Quân của cổ Trung Hoa.
[3] Dư Diêu là một thành phố nhỏ ở phía Đông tỉnh Chiết Giang, phụ cận thành phố Ninh Ba. Tuy thế nơi này là quê hương của rất nhiều danh sĩ Trung Hoa như Vương Dương Minh, Hoàng Tông Hy, Hoàng Tông Vân, Nghiêm Tử Lăng, Từ Thu Bạch v.v…
[4] Có hai cách hiểu chữ Tam Giác:
1. Tam Giác là ba đức tánh của quả vị Phật: Tự Giác, Giác Tha, Giác Hạnh Viên Măn.
2. Tam Giác như trong Đại Thừa Khởi Tín Luận đề xướng: Bổn Giác, Thỉ Giác và Cứu Cánh Giác.
[5] Vô Tích là một thành phố thuộc tỉnh Giang Tô, thuộc lưu vực sông Trường Giang, ở gần Thái Hồ và Tích Sơn. Theo truyền thuyết, do mỏ thiếc ở Tích Sơn bị cạn nên mới có tên này.
[6] Dân gian Trung Hoa khi xưa tin rằng con ṭ ṿ phải bắt những con sâu đem về bỏ vào tổ của chúng, rồi cứ nhắc nhở: “Biến thành ṭ ṿ!” th́ những con sâu ấy lâu ngày sẽ biến thành ṭ ṿ chui ra. Thật ra, ṭ ṿ bắt những con sâu ấy bỏ vào tổ rồi đẻ trứng lên đó, ṭ ṿ con nở ra sẽ ăn thịt con sâu ấy. Khi ṭ ṿ con đă đủ sức, nó sẽ khoét tổ chui ra. Do vậy, dân gian tưởng lầm sâu nở ra thành ṭ ṿ. Ở đây, Tổ mượn truyền thuyết dân gian để nói cho người đương thời dễ hiểu.
[7] Thành thủy thành chung (thành ban đầu, thành sau rốt), gọi như vậy v́ hành nhân dùng pháp này để viên thành Phật đạo. Đó là “thành thủy”. Thành Phật rồi lại dùng pháp này để thành tựu chúng sanh cùng viên thành Phật đạo nên gọi là “thành chung”.
[8] Phát ẩn là tŕnh bày những nghĩa lư ẩn kín, làm cho được phô bày rơ ràng.
[9] Ngô Tùng là một thị trấn công nghiệp thuộc Thượng Hải, nằm ngay trên sông Hoàng Phố.
[10] Nhà
Tiền Tần c̣n gọi là Phù Tần, do Phù Kiên lập ra ở
đất Quan Trung. V́ Quan Trung thuộc đất Thiểm
Tây (đất Tần cũ), nên xưng quốc hiệu là
Tần. Do tham vọng, Phù Kiên xua quân đánh chiếm Đông Tấn,
nhưng bị thất trận. Trên đường rút lui,
Phù Kiên bị một bộ tướng là Diêu Trành hạ
sát, soán đoạt vương vị. Diêu Trành vẫn xưng
quốc hiệu là Tần. Sử gọi là triều đại
ấy là nhà Hậu Tần hay Diêu (Dao) Tần, và gọi triều
đại của Phù Kiên là Phù Tần.
[11] Trường An chính là thành phố Tây An ngày nay, thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây.
[12] Do ngài La Thập người xứ Quy Tư (Kuche) ở ngoài quan ải của Trung Hoa, nên việc ngài đến Trường An được gọi là “nhập quan” (vào trong ải)
[13] Kinh Dịch có quẻ Lệ Trạch Đoài, được Khổng Tử giảng là “Quân tử dữ bằng hữu giảng tập” (quân tử cùng bạn bè nghiên cứu, bàn luận, tập tành) nên kinh sách cổ thường dùng chữ Lệ Trạch để chỉ sự thảo luận, nghiên cứu giữa những người cùng chí hướng.
[14] Hiền là Hiền Thủ tông (Hoa Nghiêm tông), Từ là Từ Ân tông (tức Duy Thức tông). Gọi là Từ Ân Tông v́ ngài Khuy Cơ, cao đồ của pháp sư Huyền Trang, là người đă xiển dương tông Duy Thức đến cùng tột. Đương thời, ngài Khuy Cơ trụ tại chùa Từ Ân nên tông Duy Thức thường được gọi là Từ Ân Tông.
[15] Thần chủ là bài vị thờ người chết, khi xưa chưa có h́nh ảnh, người ta thường viết tên họ người chết làm bài vị để thờ.
[16] Nguyên văn là “không hoa”, tức khi bị mắt nhậm ta thường thấy những đốm sáng lấm tấm trong không trung. Đó gọi là “không hoa”.
[17] Ở đây Tổ dùng những h́nh ảnh cha mẹ chăm sóc, nuôi nấng con cái để h́nh dung ḷng từ ái của đức Phật.
[18] Nguyệt Lệnh là một thiên sách của bộ Lễ Kư, tức sách ghi chép các chánh lệnh trong mười hai tháng của chính quyền Trung Hoa thời cổ về quy cách tế tự, những lệnh cấm, những khuyến cáo, chức vụ của những người thực hiện các lệnh ấy.
[19] Ba ngôi chùa lớn ở Phổ Đà Sơn là Pháp Vũ, Phổ Tế và Huệ Tế.
[20] Vị cư sĩ
này vốn có tên là Bắc Luân 北崙, sau
đổi tên thành Bá Luân 伯倫
[21] Tào Hà Kính là một thương cảng trọng yếu thuộc Phố Giang Trấn, Thượng Hải.
[22] Trong kinh Dịch, quẻ Khôn là thuần Âm nên nữ giới thường được coi như thuộc quẻ Khôn, những ǵ liên quan đến nữ giới thường được đi kèm với chữ Khôn, như Khôn Thuận (sự thuận thảo của người vợ), Khôn Trinh (sự trinh liệt của nữ giới). “Khôn luân” ở đây có nghĩa là nữ giới, “khôn luân trinh tịnh” là bậc trinh liệt, trong sạch trong nữ giới.
[23] Diệu và tinh đều có nghĩa là những ngôi sao, phước diệu là ngôi sao tốt lành, tai tinh là ngôi sao rủi ro. Phước diệu và tai tinh có nghĩa là vận tốt và vận rủi.
[24] Tề mi (ngang mày): Đời Hậu Hán, vợ của Lương Hồng là nàng Mạnh Quang khi đưa cơm cho chồng đều nâng bát cơm cao ngang mày, ngụ ư kính trọng chồng như khách quư. Sau này, thường dùng chữ “tề mi” để diễn tả ư vợ chồng kính trọng lẫn nhau. “Giai lăo” là sống hạnh phúc đến răng long đầu bạc.
[25] Thông thường, Bạt là phần giới thiệu ở một tác phẩm và được ghi ở cuối sách. Ở đây, Tổ c̣n dùng chữ Bạt với ư nghĩa “một bài viết nhằm giải thích ư nghĩa tên gọi của một công tŕnh đă xây dựng xong”.
[26] Khai giá tŕ phạm là thuật ngữ trong Luật Học Phật Giáo: Khai là có trường hợp vi phạm giới cấm nhưng không bị coi là phạm giới, Giá có nghĩa là ngăn cấm. Tŕ là vâng giữ, Phạm là vi phạm. Chẳng hạn như nói dối là phạm giới, nhưng trong nhiều trường hợp phải nói dối để cứu người th́ không phạm giới.
[27] Kinh Đại Bát Nhă (Mahā-prajñāpāramitā-sūtra) gồm 600 quyển, do ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường. Trong Đại Tạng Kinh, kinh này chiếm hết ba phần tư hệ thống Bát Nhă. Có thể nói, kinh này là một bộ đại tập thành của toàn bộ những kinh văn thuộc hệ thống Bát Nhă. Trước thời ngài Huyền Trang, đă có những bản dịch một phần kinh Bát Nhă như Kim Cang Bát Nhă, Phóng Quang Bát Nhă, Tiểu Phẩm Bát Nhă, Đạo Hành Bát Nhă, Đại Phẩm Bát Nhă v.v… Do vậy, ngài Huyền Trang bèn tập hợp các bản dịch, so sánh với ba thứ bản gốc tiếng Phạn, sai các vị Gia Thượng, Đại Thừa Khâm, Đại Thừa Quang, Huệ Lăng, Khuy Cơ làm Bút Thọ (ghi chép bản dịch), Huyền Trắc, Thần Phưởng làm Xuyết Văn (nhuận sắc sửa đổi câu văn cho hoàn chỉnh, đẹp đẽ), Huệ Quư, Thần Thái, Huệ Cảnh làm nhiệm vụ Chứng Nghĩa để cùng với Ngài dịch lại kinh này tại chùa trong cung Ngọc Hoa, từ tháng Giêng năm Hiển Khánh thứ năm (660) đời Đường Cao Tông đến tháng Mười năm Long Sóc thứ ba (663) mới dịch xong. Tháng Hai năm sau, tuân theo lời thỉnh cầu của Tăng chúng, Ngài cầm bút dịch được mấy trang kinh Bảo Tích bèn ngừng v́ biết lúc thị tịch đă đến. Toàn kinh Đại Bát Nhă chia thành mười sáu hội được giảng tại bốn chỗ (núi Linh Thứu ở thành Vương Xá, vườn Cấp Cô Độc, cung trời Tha Hóa Tự Tại và Trúc Lâm tinh xá thuộc thành Vương Xá). Các hội thứ 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15, 16, tổng cộng bảy hội là do ngài Huyền Trang dịch mới, gồm 481 quyển. Bảy hội kia là bản dịch lại những bản cựu dịch.
Hội thứ nhất
tương ứng với Phạn Bản là bộ Thập
Vạn Tụng Bát Nhă
(Śatasāhasrikā-prajñāpāramitā). Hội thứ
hai tương ứng với bộ Nhị Vạn Ngũ
Thiên Tụng Bát Nhă
(Pañcavijśatisāhasrikā-prajñāpāramitā) của
Phạn Bản. Các bản Hán dịch biệt xuất từ
hội này là kinh Quang Tán Bát Nhă, Phóng Quang Bát Nhă, và Ma Ha Bát Nhă
Ba La Mật Kinh (27 quyển). Hội thứ tư
tương ứng với Bát Thiên Tụng Bát Nhă
(Astasāhasrikā-prajñāpāramitā), các kinh biệt xuất
là Đạo Hành Bát Nhă của ngài Chi Lâu Ca Sấm, Đại
Minh Độ Kinh của ngài Chi Khiêm đời Ngô, Tiểu
Phẩm Bát Nhă Kinh của ngài Cưu Ma La Thập, Phật Mẫu
Xuất Sanh Tam Pháp Tạng Bát Nhă Ba La Mật Đa của
ngài Thi Hộ. Hội thứ sáu giống với kinh Thắng
Thiên Vương Bát Nhă Ba La Mật do ngài Nguyệt Bà Thủ
Na dịch vào đời Trần. Hội thứ bảy
tương ứng với Thất Bách Tụng Bát Nhă
(Saptaśatikā-prajñāpāramitā) của Phạn Bản.
Hội này chính là bản dịch khác của kinh Văn Thù
Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhă Ba La Mật Đa do ngài
Tăng Già Ba La dịch và kinh Văn Thù Sư Lợi Sở
Thuyết Bát Nhă Ba La Mật Đa của ngài Mạn Đà
La Tiên dịch vào đời Lương (chép trong kinh Đại
Bảo Tích). Hội thứ tám chính là bản dịch khác của
kinh Nhu Đạo Bồ Tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phần
Vệ Kinh do ngài Tường Công dịch vào đời Tống.
Hội thứ chín là kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật Đa. Hội
này chính là bản dịch khác các kinh cùng mang tên Kim Cang Bát Nhă
Ba La Mật Đa do các ngài Cưu Ma La Thập, Bồ Đề
Lưu Chi, Chân Đế cũng như Kim Cang Năng Đoạn
Bát Nhă Ba La Mật Đa do ngài Cấp Đa dịch, kinh
Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật Đa do ngài
Nghĩa Tịnh dịch vào thời Đường. Hội
thứ 10 tương ứng với kinh Lư Thú Bát Nhă
(Prajñāpāramitā-naya-śatapañcāśatikā), chính
là bản dịch khác các kinh Thật Tướng Bát Nhă Ba La
Mật Kinh do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch, Đại
Nhạo Kim Cang Bất Không Chân Thực Tam Ma Da do ngài Bất
Không dịch, kinh Năng Chiếu Bát Nhă Ba La Mật do ngài
Thi Hộ dịch v.v… Những hội c̣n lại không c̣n Phạn
bản, chỉ c̣n bản dịch tương ứng bằng
tiếng Tây Tạng. Ngoài bản dịch của ngài Huyền
Trang, Tâm Kinh c̣n có sáu bản dịch khác nhau:
1. Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật
Đại Minh Chú Kinh do Cưu Ma La Thập dịch.
2. Bát Nhă Ba La Mật
Đa Na Đề Kinh do Bồ Đề Lưu Chi dịch.
3. Bát Nhă Ba La Mật
Đa Tâm Kinh do Bát Nhă và Lợi Ngôn dịch.
4. Phổ Biến Trí Tạng
Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh do Pháp Nguyệt dịch.
5. Bát Nhă Ba La Mật
Đa Tâm Kinh do Trí Huệ Luân dịch.
6. Thánh Phật Mẫu
Bát Nhă Ba La Mật Đa Kinh do Thi Hộ dịch.
Trong số này, bản
của Ngài Thi Hộ có ghi đầy đủ nơi xứ
thuyết kinh, đương cơ của pháp hội,
nhưng lời văn không được cô đọng,
trau chuốt, đặc sắc như bản dịch của
ngài Huyền Trang.
[28] Câu “như bảo xích tử” trích từ tiết Khang Cáo, chương Châu Thư của kinh Thư (tức sách Thượng Thư). Khang Cáo là đoạn sách ghi lại lời Châu Thành Vương răn dạy Khang Thúc về đạo trị dân. Trong sách Đại Học, Mạnh Tử đă giải thích câu nói “như bảo xích tử” bằng câu: “Tâm thành cầu chi, tuy bất trúng bất viễn hỹ”. Cổ thư thường dùng chữ “xích tử” để chỉ nhân dân, ư nói vua phải thương yêu nhân dân như con do ḿnh dứt ruột đẻ ra.
[29] Tức chùa Pháp Vũ và Phổ Tế.