Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao,
Quyển thứ nhất
(Phần thứ tư)
Chuyển ngữ: Bửu Quang
Tự đệ tử Như Ḥa
64. Trả lời
thư cư sĩ Thích Trí Châu (thư thứ nhất)
Đă ở Hàng Châu hăy nên lắng
ḷng tu đạo, cần ǵ phải chờ đến kỳ
hội dâng hương lại đến Phổ Đà?
Đại Sĩ không cơi nào chẳng hiện thân, có chỗ
nào lễ bái, cúng dường chẳng tốt? Nếu nói v́
cốt ư để gặp Quang th́ cũng không cần phải
đến. Bộ Văn Sao được in lần này có
hơn chín mươi thiên, những thứ tầm thường
đầy ắp trong bụng Quang đă lôi hết ra cả
rồi, há c̣n có bí quyết “miệng truyền tâm nhận” nào
để truyền riêng cho ông nữa ư? Quang học thức
nông cạn, không phát huy điều ǵ lớn lao, nhưng nếu
có thể hành theo đó, quyết định sẽ có ích
không bị tổn hại, quyết định liễu sanh
tử trong đời này, hầu cận Di Đà sau khi mất.
Chỉ e rằng ông coi đó là hèn kém th́ nó trở thành hèn
kém vậy! Ví như đối với tượng Phật
được làm bằng vàng, gỗ, đất nặn,
hay sơn vẽ mà kính trọng như đức Phật thật
th́ bèn có thể thành Phật. Coi những tượng ấy
chỉ là vàng, gỗ, đất nặn, sơn vẽ th́ chúng
chỉ là vàng, gỗ, đất nặn, sơn vẽ mà
thôi. Nhưng khinh nhờn vàng, gỗ, đất, sơn vẽ
th́ không bị tội khiên ǵ; nếu khinh nhờn tượng
Phật bằng vàng, gỗ, đất, sơn vẽ th́ tội
lỗi sẽ ngập trời.
Người khéo được lợi
ích th́ đối với mọi chuyện, không chuyện ǵ
không được lợi ích: Quạ kêu, sẻ hót, nước
chảy, gió động, không ǵ chẳng chỉ bày Thiên Chân[1]
con người vốn sẵn có (Thiền Tông gọi là “ư của Tổ Sư từ
trời Tây sang”), huống ǵ bộ Văn Sao của Quang, văn tuy vụng
về, chất phác; nhưng những điều được
viết trong đó bất quá đều là tùy ư tùy cơ lấy
những lời đă nói của Phật, Tổ biến
thành những lời nói thông dụng mà thôi, nào phải Quang
tự bịa ra ư? Quang chỉ truyền dịch lại
để người sơ cơ dễ hiểu đó
thôi! Dẫu là sơ cơ nhưng nếu thực hiện
đến cùng cực th́ cũng chẳng thể bỏ những
điều này để tu điều ǵ khác, bởi một
pháp Tịnh Độ là pháp thông trên thấu dưới, chẳng
giống như pháp Tiểu Thừa không thích hợp cho
người Đại Thừa tu tập!
65. Trả lời thư cư sĩ Thích Trí Châu (thư
thứ hai)
Thầy Quang Thuận đến
đây cầm theo thư của ông và hạt sen Hạ Bố
đưa cho Quang, thuật những chuyện như ông
đă trụ tại am thầy ấy v.v… Trộm nghĩ
ông đă không dư dật, sao c̣n phải bắt chước
thói người thế gian làm cái tṛ đem đào bù mận?
Ông và tôi quen biết nhau qua t́nh đạo, hăy nên trực tiếp
hành xử theo đạo. Những ǵ đă gởi đến
sẽ dùng để làm phước, cảm ơn lắm.
Lệnh nghiêm, lệnh nhạc mẫu[2]
đă sanh ḷng tin tưởng, hăy nên đem lợi ích của
Tịnh Độ khuyên chỉ, khiến cho tín tâm của họ
từ nhỏ nhặt trở thành rơ ràng. Nếu như tín
nguyện chân thiết, quyết định được
sanh về Tịnh Độ, đấy là hiếu vậy!
Cái hiếu thế gian há sánh bằng được ư?
Ông c̣n chưa hiểu rành rẽ cách tu Tịnh Độ, hăy
nên lấy việc xem đọc, nghiên cứu Tịnh Độ
làm chánh, nửa ngày học Giải, nửa ngày học Hành,
ngơ hầu rơ thấu đầu đuôi, trọn không nghi hoặc
mới được!
Lăng Nghiêm Chánh Mạch[3]
hăy khoan tính đến, dẫu có đích thân thấy
được Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh
cũng chẳng thể liễu sanh tử được
ngay. Thấy Tánh là ngộ, chưa phải là chứng; chứng
rồi mới liễu sanh tử được! Nếu chỉ
ngộ chưa chứng, dẫu chỗ ngộ cao sâu, mà nếu
hai thứ Kiến Hoặc và Tư Hoặc chẳng thể
nhanh chóng đoạn được ngay th́ chuyện luân hồi
trong ba cơi quyết chẳng thể do đâu mà thoát ĺa
được! Nếu chẳng thông hiểu Lăng Nghiêm,
nhưng tu pháp môn Tịnh Độ, ngửa tin lời Phật
quyết định không nghi, tin chân thật, nguyện khẩn
thiết, do tu thật hạnh sẽ quyết định
được văng sanh, làm người trong thế giới
Cực Lạc. Huống chi hiện tại cơi nước
nguy ngập, vẫn toan trong lúc nguy hiểm, tinh thần hữu
hạn làm những pháp vụ không cần gấp, mong
được cái tiếng đại thông gia để thỏa
thể diện đến nỗi chuyện chuyên tu của
chính ḿnh rốt cục trở thành lan man ư? Nếu
đă tin chắc, biết sâu xa pháp môn Tịnh Độ th́
có nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm và các kinh luận cũng chẳng
ngại ǵ.
Trước kia, ông đă xin Quang
khai thị, Quang gởi bộ Văn Sao cho, nhưng ông vẫn
không thể xem trọn mỗi điều, đương
nhiên Quang biết ông không biết đâu là chuyện thong thả,
đâu là chuyện gấp gáp, cứ lan man bắt chước
người thời nay nghiên cứu kinh Phật chỉ mong
thành một bậc đại thông gia đó thôi! Bộ
Văn Sao của Quang văn tự tuy kém cỏi, vẫn có
thể chỉ cho người khác đường lối
tu tŕ. Xưa kia Đại Trí luật sư[4] thông
hiểu sâu xa giáo pháp của tông Thiên Thai, nghiêm tịnh Tỳ
Ni (giới luật), hạnh nguyện tinh thuần, chí lực
rộng lớn, chỉ đối với Tịnh Độ
chẳng sanh tin tưởng. Về sau, do bệnh nặng mới
biết lỗi trước, từ đó trở đi
hơn hai mươi năm tay chẳng rời kinh, chuyên
nghiên cứu Tịnh Độ, mới biết pháp này lợi
ích siêu việt thù thắng, bèn dám đối trước mọi
người xứng tánh phát huy trọn chẳng sợ hăi.
Dẫu là đứa trẻ lên ba cũng có thể niệm
Phật, ông c̣n chưa nhận biết rơ ràng đường
lối pháp môn này, lại chẳng bị thời hạn giảng
giải [kinh điển] bức bách như vị giảng
sư muốn chống đỡ môn đ́nh, cần ǵ phải
nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm trước, chẳng coi chuyện
biết đường về nhà là cấp bách? Những lời
Quang đă nói bất quá nhằm ngăn chặn chuyện
sai để khỏi phụ ḷng gởi thư đến, chứ
nào phải là đă thật sự hiển thị ư nghĩa
trọng yếu của kinh Lăng Nghiêm! Đức Như
Lai muốn cho hết thảy chúng sanh theo đường về
nhà, v́ thế bảo hai mươi lăm vị thánh tŕnh
bày túc nhân của chính ḿnh để chúng sanh đời Mạt
bất luận căn cơ thượng, trung, hạ,
đều dùng pháp môn Niệm Phật của ngài Thế Chí
tự lợi, lợi tha, nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm nối tiếp, quay lại niệm nơi tự
tánh, tánh thành vô thượng đạo. Đây chính là điều
cư sĩ nên dốc sức, c̣n chuyện “chỉ tâm, biện
định cái Thấy, phá Ấm, siêu trược”, hăy
đợi đến khi niệm đến mức tâm - Phật
bất nhị, tâm lẫn Phật cùng mất, tự chứng
Niệm Phật tam-muội rồi hẵng tính, giống
như đức Thế Tôn cầm cành hoa giơ lên, Ca Diếp
mỉm cười vậy. Nếu không, vào biển đếm
cát đầu choáng váng, tâm mê muội, kể chuyện
ăn, đếm của báu, chẳng đỡ đói rét!
Người biết tốt - xấu quyết chẳng coi
thường lời tôi.
66.
Trả lời thư cư sĩ Thích
Trí Châu (thư thứ ba)
Ư Quang muốn cho các hạ ở
yên nơi nhà ḿnh, tu chân ngay trong cơi tục, trên có thể cảm
phát bậc trưởng thượng phát sanh ḷng tin trong sạch,
dưới có thể dắt d́u vợ con đồng thấm
ơn Phật. Nếu ông cứ muốn sống nhờ ở
chùa người ta th́ cũng được. Đối với
chuyện nghe kinh không cần phải đến chùa Linh Ẩn[5], bởi
lẽ Huệ Minh pháp sư thường bỏ bớt, nêu đại
lược ư nghĩa kinh văn, chuyên chú trọng dẫn chứng
những công án nhà Thiền; có lẽ ích lợi cho bậc
đại đạt, chứ kẻ sơ cơ sẽ bị
hoang mang, không biết về đâu. Đối với
người thông minh đôi chút rất có thể bị xen lạm
hỗn độn giữa Tông và Giáo, lỗi ấy quả
thật chẳng nhỏ cạn. Mười nguyện Phổ
Hiền, một hạnh Văn Thù[6], nếu
có thể tinh tu dẫu chẳng quán thông hết thảy kinh
luận vẫn có thể thoát nhanh khỏi lồng rọ
phiền năo, cao dự hải hội. Nếu đối với
pháp cậy vào Phật từ lực này ḷng tin không chân thật,
không dựa chắc vào, dù có thông Tông, thông Giáo cũng chỉ
là tam-muội ngoài cửa miệng. Muốn dùng tam-muội
ngoài miệng ấy để liễu sanh tử th́ đúng
là như muốn dùng bánh vẽ để khỏi đói, ắt
đến nỗi cùng đường hối hận sâu xa,
chẳng được lợi ích mảy may. Đời,
đạo hiện thời chẳng biết tương lai
sẽ như thế nào, c̣n toan dùng quang âm sắp hết
để làm chuyện không gấp rút nữa ư?
Tuy trước kia, Quang có ư nguyện
tu sửa bộ Sơn Chí[7], nhưng nếu
không được Đại Sĩ thầm gia hộ khiến
cho mục lực được sáng quyết chẳng thể
theo đuổi được. Nếu mục lực có thừa,
ở đâu mà chẳng soạn tập được, cần
ǵ phải muốn sang Hàng Châu ở nhờ chỗ người
ta! Mong hăy chuyên tâm niệm Phật, đấy mới là quyến
thuộc thật sự trong pháp môn, chớ đừng
đến núi này khiến cho đôi bên đều bị khốn
khó. C̣n chuyện ông muốn xuất gia hăy nên lễ thỉnh
bậc tri thức cao minh khác, trọn chớ v́ Quang ngăn
ngại mà bèn chẳng lễ các vị thầy khác, đến
nỗi mất lợi ích lớn lao! Đế pháp sư
(ngài Đế Nhàn) ở chùa Quán Tông, Ninh Ba, bệnh chưa
lành, cũng không cần phải qua đó nghe kinh. Cổ nhân
nói: “Thật ít hơn dối nhiều, khéo quá chẳng bằng
vụng, nói được một trượng không bằng
làm được một tấc”.
Người thật
ḷng v́ ḿnh phải suy nghĩ những câu ấy.
67. Trả lời thư cư sĩ Phạm Cổ Nông
(thư thứ nhất)
Một pháp Tịnh
Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm Tông, chỉ
khi nào có đủ ḷng tin chân thành, nguyện khẩn thiết
th́ mới dốc sức thực hành. Khi họa hại bức
bách khẩn thiết mới thành khẩn, c̣n lúc nhàn nhă vô sự
bèn hoăn đăi, đấy là bệnh chung của phàm phu.
Nhưng trong lúc này, t́nh h́nh đời đạo như đang
nằm yên trên đống củi, phía dưới đă bốc
lửa mạnh chưa đốt đến thân, nhưng nháy
mắt bèn cháy bùng toàn thể, khắp pháp giới không trốn
tránh vào đâu được, thế mà vẫn c̣n hờ hững,
coi thường để ngày tháng trôi qua, chẳng thể
chuyên chí cầu cứu nơi một câu Phật hiệu th́
cái tri kiến ấy nông cạn quá sức vậy!
Tu tŕ trong các tông của Phật pháp
ắt phải đạt đến chỗ hạnh khởi
giải tuyệt mới có ích lợi thật sự, chứ
chẳng riêng ǵ tu quán trong Tịnh tông là phải như vậy.
Nhà Thiền lấy một câu thoại đầu không có ư
nghĩa ǵ đặt vào trong tâm, coi như bổn mạng
nguyên thần, chẳng kể ngày giờ thường luôn
tham cứu câu ấy. Đến khi nào thân tâm, thế giới
thảy đều chẳng biết, mới có thể đại
triệt đại ngộ, chẳng phải là hạnh khởi
giải tuyệt hay sao? Lục Tổ nói: “Chỉ
xem kinh Kim Cang liền có thể minh tâm kiến tánh”, chẳng phải
là hạnh khởi giải tuyệt hay sao? Ngu tôi cho rằng:
Một chữ Khởi nên hiểu nghĩa là Cực, chỉ
ra sức đến cùng cực th́ mới đạt đến
Năng lẫn Sở cùng mất, nhất tâm hiển lộ
triệt để. Hạnh nếu chưa cùng cực, dẫu
có quán niệm vẫn là có Năng, có Sở. Toàn là phàm t́nh dụng
sự, toàn là tri kiến phân biệt, toàn là tri giải, sao
có thể đạt được lợi ích chân thật?
Chỉ dùng sức đến cùng cực th́ t́nh kiến
Năng - Sở mới tiêu diệt, chân tâm vốn có mới
hiển hiện. V́ thế, xưa kia có người đầu
như gỗ khô, về sau đạo phong [của vị ấy]
chói lọi cổ kim. Lợi ích đều chỉ ở một
chữ Cực mà thôi!
Người đời nay đa phần
bàn xuông, chẳng trọng thực tiễn, khuyên tu Tịnh
nghiệp hăy nên nêu cả Lư lẫn Sự, nhưng cần
nhất là phải lấy Sự làm phương cách tu tŕ,
v́ sao? V́ đối với người hiểu rơ Lư th́ toàn
Sự chính là Lư, suốt ngày Sự Tŕ chính là suốt ngày Lư
Tŕ. Nếu chưa hiểu trọn vẹn Lư - Sự, vừa
nghe đến Lư Tŕ liền cảm thấy nghĩa này thâm
diệu, lại c̣n hợp với cái tánh lười nhác, biếng
trễ, sợ tŕ niệm nhọc nhằn của ḿnh, bèn chấp
Lư phế Sự. Đă phế Sự th́ Lư cũng chỉ
thành bàn xuông. Mong các hạ đem cái lư “toàn
Sự chính là Lư” của bậc viên ngộ khuyên hết
thảy mọi người th́ lợi ích lớn lao lắm!
68.
Trả lời thư cư sĩ Phạm Cổ Nông (thư
thứ hai)
Trung Ấm[8] là
thức thần, không phải là thức thần biến
thành Trung Ấm, thế tục thường gọi là “linh
hồn” vậy. Như nói Trung Ấm cứ bảy ngày lại
sống chết một lần, bốn mươi chín ngày
bèn đầu thai v.v… chớ nên câu nệ, chấp trước.
Nói đến sự sống chết của Trung Ấm
chính là nói đến những tướng sanh diệt
được hiện trong cái tâm vô minh của Trung Ấm;
chẳng thể ngờ nghệch đem những tướng
sanh tử của người đời để luận.
Trung Ấm thọ sanh nếu nhanh th́ như trong khoảng
khảy ngón tay, liền vào trong tam đồ lục đạo;
chậm th́ bốn mươi chín ngày hoặc hơn bốn
mươi chín ngày v.v…
Kẻ mới chết có thể
cho người quen biết trông thấy trong ban ngày, ban tối,
hoặc tiếp xúc cùng người khác, hoặc nói năng,
chuyện này không phải chỉ Trung Ấm mới như vậy.
Dẫu đă thọ sanh trong đường lành, nẻo ác,
cũng vẫn có thể hiện h́nh trước người
quen biết, thân thiết. Tuy điều này do ư niệm của
chính người đó biến hiện, nhưng thực ra
do những vị thần kỳ chủ tŕ quyền tạo
hóa làm ra, ngơ hầu tỏ rơ con người chết đi
thần minh bất diệt và quả báo thiện - ác chẳng
dối vậy. Nếu không, người dương gian chẳng
biết chuyện cơi âm, cái lư luận mù quáng “con người
chết đi thân h́nh đă mục nát th́ thần thức
cũng phiêu tán” ắt sẽ được người
đời xúm nhau phụ họa; người cả cơi
đời bị hăm trong hầm sâu tà kiến “không nhân,
không quả, không đời sau, hậu thế”, khiến
cho người trông thấy điều thiện chẳng
càng dè dặt, gắng sức tu đức, kẻ ác càng
cùng hung cực ác muốn tạo ác! Tuy có lời Phật dạy,
nhưng không có ǵ để chứng minh, ai chịu tin nhận?
Do có những chuyện hiện h́nh cho thấy như thế,
đủ chứng tỏ lời Phật nói không dối, quả
báo phân minh, chẳng những người lành càng thêm hướng
đến điều lành, mà tâm kẻ ác cũng bị những
t́nh lư ấy chiết phục, cũng chẳng đến nỗi
mười phần cạn tàu ráo máng. Thiên địa, quỷ
thần muốn cho con người biết được điều
này, nên mới có chuyện người chết hiện thân
trong nhân gian, người cơi dương xử án chốn U Minh
v.v…đều nhằm để phù trợ Phật pháp, giúp
đỡ, khen ngợi trị đạo. Lư này rất vi tế,
quan hệ rất lớn. Những chuyện này xưa nay
được ghi chép rất nhiều, nhưng chưa thuật
rơ quyền ấy do đâu cũng như chưa nêu lên mối
quan hệ lợi ích của những chuyện ấy.
Trung Ấm tuy đă ĺa thân xác,
nhưng vẫn c̣n mang t́nh kiến thân xác như cũ.
Đă có t́nh kiến thân xác, cố nhiên cần phải có
cơm áo để đắp đổi. Do phàm phu nghiệp
chướng sâu nặng, chẳng biết Ngũ Uẩn vốn
không, không khác ǵ người thế gian. Nếu là bậc có
đại trí huệ sẽ ngay trong lúc thoát xác không nơi nương
dựa, Ngũ Uẩn trống không, các khổ bèn tiêu diệt,
Nhất Chân hiển hiện, nên vạn đức trọn
bày. Tuy cảnh giới ấy không nhất định phải
giống nhau, nhưng chẳng ngại tùy t́nh kiến của
mỗi người mà giúp đỡ cho. Như đốt
áo giấy cho người chết, trong tâm người sống
chỉ có ư nghĩ ban cho áo, tuy lớn, nhỏ, dài, ngắn
làm sao vừa vặn, thích hợp cho được,
nhưng do t́nh kiến của người sống và t́nh kiến
của kẻ mất kia [tương ứng], nên [những
áo ấy] đều vừa khít, thích hợp. Từ điều
này có thể thấy được cái nghĩa lớn lao “hết
thảy pháp chuyển biến theo tâm”. Sau khi chết
đi, khi chưa thọ sanh trong sáu đường, th́ gọi
là Trung Ấm. Nếu đă thọ sanh trong lục đạo
th́ chẳng gọi là Trung Ấm. Những hồn dựa
vào người khác để nói chuyện khổ, chuyện
vui đều là tác dụng của thần thức.
Đầu thai ắt phải do Thần
Thức ḥa hợp với tinh huyết của cha mẹ, lúc
thọ thai, Thần Thức đă trụ trong thai. Lúc sanh nở
từng có trường hợp tận mắt thấy
người ấy (tức người sẽ đầu
thai làm con) đi vào nhà mẹ, v́ lúc cha mẹ giao cấu
đă có Thức khác thay thế thần thức của người
ấy nhập thai. Đến lúc thành thai, Bổn Thức
(tức Thức của người thật sự sẽ
đầu thai làm con nhà ấy) đến, cái Thức thay
thế mới ra đi. Sách Dục Hải Hồi Cuồng
quyển ba, trong mục thứ mười hai, ḍng tám, chín,
mười, mười một, mười hai đă từng
hỏi về chuyện này, nhưng lời đáp chưa
trúng lư lắm! Quang bèn sửa cho đúng, hăy nên tra duyệt.
Lời đáp nguyên thủy như sau: “Ví
như trứng gà, có trứng có cồ, có trứng không có cồ.
Khi chưa có thức gá vào thai giống như trứng
chưa có cồ vậy!” Chẳng biết trứng không có cồ,
dẫu đem cho gà ấp cũng chẳng thể nở,
làm sao sánh ví cho được? Quang chỉ mong Lư được
sáng tỏ, chẳng nề hà chuyện tiếm quyền,
vượt phận, nên v́ cư sĩ tŕnh bày duyên do. Bà mẹ
của sư Viên Trạch[9]
mang thai ba năm chính là v́ lẽ này. Đấy là luận
theo lẽ thông thường.
Phải biết nghiệp lực của
chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, như người Tịnh
nghiệp đă thành, dẫu thân chưa chết nhưng thần
thức đă hiện nơi Tịnh Độ; kẻ ác
nghiệp sâu nặng, thân c̣n nằm trên giường bệnh
nhưng thần thức đă bị xử phạt nơi
U Minh. Mạng tuy chưa tận, Thức đă đầu
thai. Đợi đến lúc sắp sanh, toàn phần tâm thức
mới gieo vào trong thai ấy. Lư này cũng chẳng phải
là hoàn toàn không có; nên thông thường, đa phần là có Thức
thay thế để thọ thai vậy. Các pháp trong tam giới
duy tâm sở hiện. Chúng sanh tuy mê, nhưng nghiệp lực
của họ chẳng thể nghĩ bàn chính là do tâm lực
chẳng thể nghĩ bàn, cũng là do thần thông đạo
lực của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Hơn
mười năm gần đây, sức nh́n của Quang chẳng
ra ǵ nên chẳng thể dẫn rộng kinh luận để
làm chứng, nhưng cố nhiên lư ấy chẳng phải
do Quang bịa ra nói ṃ để phải chuốc lấy tội
lệ! Sanh tử là chuyện lớn của chúng sanh, nhân quả
là phương tiện giáo hóa lớn lao, nguyện các hạ
chẳng tiếc tướng lưỡi rộng dài dùng
nhân quả báo ứng chuyển phiền năo sanh tử thành sự
trợ giúp cho Bồ Đề Niết Bàn th́ pháp môn may lắm,
chúng sanh may mắn lắm!
69.
Thư trả lời cư sĩ Ngô Hy Chân (thư thứ nhất)
Một
pháp Niệm Phật ước có bốn thứ là Tŕ Danh,
Quán Tượng, Quán Tưởng, và Thật Tướng.
Trong bốn pháp này, chỉ có mỗi pháp Tŕ Danh nhiếp thọ
căn cơ phổ biến nhất, hạ thủ dễ
dàng nhất, chẳng đến nỗi khởi ma sự.
Như muốn quán tưởng th́ phải đọc kỹ
Quán Kinh, biết sâu xa “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, và “tâm tịnh Phật
hiện, cảnh chẳng từ bên ngoài đến, duy tâm sở
hiện”, chẳng sanh chấp trước th́ cảnh
càng thêm sâu mầu, tâm càng thêm tinh nhất. Làm được
như vậy th́ sự lợi ích của việc quán tưởng
thật chẳng nhỏ nhoi. Nếu quán cảnh không thuần
thục, chẳng rơ lư luận, do tâm bộp chộp, vọng
động muốn cảnh hiện gấp th́ toàn thể
là vọng, đều chẳng tương ứng với cả
Phật lẫn tâm liền đọa vào thai ma. Do vậy, vọng
động muốn thấy cảnh, tâm càng thêm vọng
động, ắt đến nỗi khơi động
nhiều kẻ oan gia hiện ra cảnh giới. Nhân địa
lúc ban đầu đă không thật, làm sao biết những
cảnh đó do ma nghiệp hiện ra cho được,
bèn sanh ḷng hoan hỷ lớn, t́nh chẳng tự yên, ma bèn dựa
thân, mất trí thành cuồng, dẫu có Phật sống hiện
thân cứu độ cũng không làm ǵ được! Hăy nên
tự lượng căn tánh, chớ có ham cao xa, đến
nỗi cầu được ích lại trở thành tổn
hại. Thiện Đạo ḥa thượng nói: “Chúng sanh đời
Mạt Pháp thần thức chông chênh, tâm thô, cảnh tế,
quán khó thành tựu. V́ thế, Đại Thánh bi mẫn,
riêng khuyên chuyên tŕ danh hiệu, v́ xưng danh dễ dàng, [niệm
Phật] liên tục bèn được sanh”. Thật chỉ sợ
có kẻ chẳng khéo dụng tâm đến nỗi lạc
vào ma cảnh! Hăy nên tự suy xét tường tận. Lại
nữa, chí thành khẩn thiết chính là pháp mầu nhiệm
để tiêu trừ sự vọng động, bộp chộp,
ma cảnh. Hăy nên tận tâm dốc sức mà hành th́ may mắn
lắm!
70.
Trả lời thư cư sĩ Ngô Hy Chân (thư thứ
hai)
Được dự pháp hội
Lăng Nghiêm, mừng rỡ, may mắn khôn ngằn! Một
pháp quán tưởng nếu không hiểu rơ đạo lư, không
thông thuộc quán cảnh, tâm vọng động mong gấp
đạt được, không có chí vững vàng chẳng dời,
ắt sẽ bị tổn hại nhiều, lợi ích ít.
C̣n về Thật Tướng Niệm Phật chính là diệu
hạnh theo đường lối thông thường của
hết thảy pháp môn trong cả một thời giáo hóa [của
đức Phật]. Như pháp Chỉ Quán của tông Thiên
Thai, pháp Tham Cứu Hướng Thượng của nhà Thiền
đều là nó cả, tức là niệm đức Phật
Thiên Chân[10] nơi tự tánh vậy.
Kinh Lăng Nghiêm thật sự là pháp niệm đức Phật
nơi Thật Tướng thiết yếu nhất. Lại
như Tŕ Danh Niệm Phật, quyết chí cầu sanh Cực
Lạc là vô thượng đại giáo, sao có thể nói ǵ cho
được? Mới thoạt đầu mà đă nêu bày
cái tâm, biện định cái thấy, th́ chỉ e coi vọng
là chân, hiểu lầm tin tức. Đợi đến khi
ngộ rồi hăy chỉ bày Ấm, Nhập, Giới, Đại
đều là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh, bèn biết
pháp nào, sự nào cũng đều thuộc Thật Tướng.
Đă ngộ Thật Tướng th́ trọn chẳng thể
t́m được cái tướng của Ấm, Nhập,
Giới, Đại, mà Ấm, Nhập, Giới, Đại
bày ra la liệt cũng chẳng ngại ǵ. Hai mươi
lăm pháp Viên Thông đă dạy đó, ngoại trừ pháp
Viên Thông của ngài Thế Chí là pháp dạy thẳng vào Tŕ
Danh và kiêm cả ba pháp niệm Phật kia, những pháp khác
đều là pháp môn Niệm Thật Tướng Phật.
C̣n như nhân quả của bảy đường[11],
địa vị Tứ Thánh[12],
cảnh Ngũ Ấm Ma, không pháp nào chẳng hiển thị
duyên do thuận - nghịch, mê - ngộ lư Thật Tướng.
Niệm đức Phật nơi
Thật Tướng như thế nói có vẻ dễ dàng,
nhưng tu chứng thật là khó nhất trong những
điều khó. Nếu không phải là bậc đại
sĩ tái lai, ai có thể tự chứng ngay trong đời
này? Do khó như vậy nên đặc biệt khuyên nhủ,
khen ngợi pháp Tŕ Danh Niệm Phật. Hiểu rơ điều
này rồi mà vẫn muốn cậy vào Tự Lực để
đoạn Hoặc chứng Chân, khôi phục tâm tánh vốn
có, chẳng chịu sanh ḷng tin, phát nguyện, chấp tŕ Phật
hiệu cầu sanh Tây Phương, quyết chẳng có lẽ
ấy! Do Thật Tướng trọn khắp hết thảy
pháp, một pháp Tŕ Danh là một đại pháp môn “Sự chính là Lư, tuy cạn mà sâu,
tu chính là tánh, tâm phàm phu chính là tâm Phật” vậy. Do Tŕ Danh
biết được Thật Tướng ngay nơi Thể,
lợi ích ấy rộng sâu. Ngoài cách Tŕ Danh, cứ chuyên tu
Thật Tướng th́ trong vạn người khó
được hai, ba kẻ thật chứng; nếu
được quả báo như Tô Đông Pha, Tăng Lỗ
Công, Trần Trung Tú, Vương Thập Bằng v.v… vẫn
c̣n là bậc thượng! Một sự liễu sanh thoát tử
há có thể dùng chí to, lời lẽ lớn lao để
hoàn thành được ư? Hăy nên tự suy xét cặn kẽ
th́ biết lư Thật Tướng chẳng thể không biết,
dứt ḷng nghiên cứu Lăng Nghiêm th́ phàm - thánh, nhân - quả,
mê - ngộ, tu - chứng dù Sự hay Lư đều rơ như
xem ngọn lửa. Tự lực, Phật lực, Tŕ Danh -
Thật Tướng lợi ích lớn - nhỏ cũng rơ
ràng như xem ngọn lửa. V́ thế, dù là ḿnh hay người,
đều mong lấy Tŕ Danh để tu Thật Tướng,
quyết chẳng đến nỗi ham cao chuộng xa, bỏ
pháp Tŕ Danh tu Thật Tướng khiến cho uổng có tâm
tu, nhưng chẳng chứng quả!
71.
Trả lời thư cư sĩ Ngô Hy Chân (thư thứ
ba)
Phật thấy chúng sanh đều
là Phật, chúng sanh thấy Phật đều là chúng sanh.
Phật thấy chúng sanh đều là Phật nên tùy thuận
cơ nghi v́ chúng sanh thuyết pháp ngơ hầu chúng sanh tiêu trừ
vọng nghiệp, tự chứng cái ḿnh sẵn có. Dẫu
cho hết thảy chúng sanh đều chứng được
Niết Bàn rốt ráo, Phật trọn chẳng thấy ta
là người hóa độ, chúng sanh là kẻ được
hóa độ; bởi lẽ họ chính là Phật. Chúng sanh
thấy Phật đều là chúng sanh nên chín mươi
lăm thứ ngoại đạo ở Tây Thiên (Ấn
Độ) và những nho sĩ câu nệ, hủ bại
không ai chẳng tận tâm tận lực hủy báng nhiều
cách ngơ hầu Phật pháp loạn diệt, trọn chẳng
c̣n tiếng tăm, dấu tích ǵ nữa, tâm họ mới
vui sướng! Mặt nhật rạng ngời giữa
hư không toan dùng một tay bưng bít càng khiến quang minh
Phật pháp sáng tỏ, càng phơi bày sự thiển cận,
hèn kém của chính ḿnh mà thôi! Kẻ có túc căn do nhân duyên
báng Phật, chê Phật, bèn lại quy y Phật pháp, làm
đệ tử Phật, thay Phật hoằng dương,
giáo hóa. Kẻ không túc căn sẽ do nghiệp lực
vĩnh viễn đọa trong A Tỳ địa ngục.
Đến khi nghiệp báo hết, thiện căn “nghe
được danh hiệu Phật trong kiếp xưa” bèn
phát hiện; do vậy mới nhập Phật pháp, rồi sẽ
gieo thiện căn dần dần đến khi nghiệp tận,
t́nh không mới hoàn lại cái ḿnh sẵn có mà thôi. Thật
là ơn Phật rộng lớn, sâu xa, không thể nào h́nh
dung được!
Một câu nhiễm vào thần thức,
vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo. Ví
như nghe tiếng cái trống đă bôi thuốc độc,
dù xa hay gần đều chết. Ăn chút Kim Cang, quyết
định chẳng tiêu. Sanh được ḷng tin như
thế th́ gọi là Chánh Tín, ông hăy gắng lên. Thêm nữa, kẻ
khéo được lợi ích, không ǵ chẳng phải là lợi
ích. Kẻ cam chịu tổn hại th́ không ǵ là chẳng tổn
hại. Người đời nay hay cậy vào Thế Trí
Biện Thông nghiên cứu Phật học, vừa biết
chút nghĩa lư liền bảo ḿnh đă đích thân chứng
đắc. Từ đó, tự đặt ḿnh lên cao, miệt
thị cổ kim: Đừng nói là người thời nay
chẳng thèm để vào mắt, dẫu bậc cao tăng
mấy ngàn, mấy trăm năm trước đa phần
là cổ Phật tái lai hoặc là Pháp Thân Bồ Tát thị
hiện, đều bị kẻ ấy coi là tầm thường,
chẳng đáng học hỏi. Chưa đắc nói là
đắc, chưa chứng khoe đă chứng, nghe lời
họ nói cao vượt chín tầng trời, xét cái tâm họ
hèn tệ tụt dưới chín tầng đất. Tập
nhiễm như thế phải nên trừ gấp; nếu
không, sẽ như đựng Đề Hồ trong đồ
chứa có chất độc, sẽ giết được
người.
Nếu có thể niệm niệm
quay trở lại soi xét tự tâm th́ chẳng những
được lợi ích nơi những pháp đức
Như Lai đă nói, mà với tảng đá, gạch, ngói,
đèn, lồng, trụ trống và tất cả mọi
h́nh sắc, âm thanh khắp cơi đại địa không ǵ
chẳng phải là diệu lư Thật Tướng Đệ
Nhất Nghĩa Đế. Nói “cổ kim không có ai” há từng
mộng thấy, mong hăy tin chắc, gắng sức hành.
72.
Trả lời thư cư sĩ Lục Giá Hiên
Chiều hôm qua, cư sĩ Hạc Niên đem
đến bản kinh Pháp Hoa do Trang cư sĩ chép, thấy
bút pháp của ông ta cứng cáp, tinh xảo, đẹp đẽ,
khôn ngăn khâm phục. Nhưng cách viết của ông ta vẫn
c̣n tập khí của kẻ văn nhân, đối với
chuyện lưu thông pháp đạo tợ hồ chưa
thích hợp. Như Tục Thể, Thiếp Thể, Biến
Thể[13] v.v… là thuận theo
thói tệ thế tục, lại c̣n chấp nệ vào Cổ
Thể, như chữ Ma 魔 viết thành Ma 磨, chữ Huyền 懸 viết thành Huyền 縣, Mă Năo Xa Cừ 瑪 瑙 硨 磲 viết thành Mă Năo
Xa Cừ 馬 腦 車 渠, Trận 陣 viết thành Trần 陳
v.v… mắc
lỗi trái thời[14].
Nếu nói phải y theo Cổ Văn th́ lúc này phải theo
Chánh Thể, những chữ viết như vậy đều
chẳng thích hợp, mỗi chữ đều phải sửa
đổi, không dùng được một chữ [viết
theo lối cổ] nào! Ông Dương Nhân Sơn đả
phá những người nệ cổ như sau: “Chữ viết phải theo thời,
việc ǵ cứ phải nệ cổ! Nếu như cứ
muốn theo lối cổ th́ xin trước hết hăy từ
hai chữ Nhân 人 (người) và Nhập 入 (vào) mà
sửa đổi! Chữ Nhân viết theo lối cổ là 入, chữ Nhập 入 viết
là Nhân 人. Nếu Nhân và Nhập không sửa được th́
cần ǵ phải riêng thay đổi những chữ khác! Vả
lại Cổ Thể cũng chẳng phải là những chữ
được chế ra thời Thương Hiệt[15], không biết biến
đổi đến thế nào mới
thành ra dạng như vậy!”
Ông đă chuộng
cổ hăy nên lấy “trùng văn điểu thư”[16]
làm Chánh Thể th́ tôi không c̣n cách nào chơ miệng vào được
nữa! Nếu không, rốt cuộc là vô sự bèn sanh sự,
nhọc nhằn vô ích, sống thời bây giờ lại
quay về thời cổ, bậc thánh đă có lời minh huấn.
Nếu Trang cư sĩ có chí lưu thông, hăy nên quét sạch
tập khí văn nhân, chữ nào cũng tuân theo thời bây
giờ. Phàm những lối Phá Thể[17],
Tục Thể v.v… đều nhất loạt không dùng, ngơ hầu
mỗi nét bút, mỗi vạch đều có thể làm khuôn mẫu
để khắc in, lưu truyền, khiến cho người
khác trông thấy, đọc đến, phát khởi tín tâm.
Dù Quang hèn tệ cũng sẽ làm bài tựa khen ngợi. Bản
chép kinh này nên giữ trong nhà ḥng làm di niệm cho con cháu
đời sau.
Thêm nữa, phàm chép kinh, những
chỗ giấy xếp[18]
giữa hai trang sách nên đề tên kinh, số quyển, số
trang để người đọc vừa nh́n vào liền
biết ngay. Dẫu có sắp lộn trang cũng xếp lại
không khó, sao không theo cách này khiến cho người đời
sau xem đến nếu không thông Phật pháp sẽ chẳng
bị mắc cái vạ điên đảo, lầm lẫn!
Mong hăy viết bổ túc vào chỗ giáp trang tên sách, số
trang th́ công đức chép kinh mới là viên măn! Quang mục
lực không đủ lại thêm không rảnh rỗi,
chưa thể xem trọn, chỉ tùy tiện nêu ba bốn
chữ trong bản chép ấy, những chỗ khác chưa
coi, không thể biết được!
73.
Thư trả lời cư sĩ Lưu Trí Không
Hôm qua nhận được thư
mới biết bệnh đă lâu nay mới lành, khôn ngăn
mừng vui. Sanh tử đại sự, vô thường
nhanh chóng. Kẻ nghe đến hoảng sợ không thống
thiết bằng người đích thân trải qua, hăy nên
phát khởi tâm đại Bồ Đề để dạy
người nhà, quyến thuộc và bằng hữu, người
quen biết cũ bên ngoài cũng như kẻ hữu duyên
th́ lợi ích lớn lao vậy! Trong thư ông nói hễ niệm
Phật gấp th́ bị hụt hơi là do ông chưa khéo dụng
tâm mà nên nỗi! Phàm chuyện niệm Phật phải tùy sức
mỗi người, tùy tiện niệm ra tiếng hoặc
niệm thầm, lớn tiếng hay nhỏ tiếng, không
ǵ là không được! Cớ sao cứ một mực niệm
lớn tiếng đến nỗi tổn khí mắc bệnh
vậy? Chứng bệnh nặng của ông tuy do tổn khí
mà ra, nhưng thật ra là v́ nghiệp lực từ vô
lượng kiếp đến nay biến hiện. Do ông
tinh tấn niệm Phật nên chuyển hậu báo thành hiện
báo (báo trong đời này), chuyển báo nặng thành báo nhẹ.
Căn bệnh ấy không biết đă tiêu bao nhiêu tội
tam đồ ác đạo mấy kiếp! Phật lực
khó nghĩ tưởng, Phật ân khó báo, hăy nên sanh ư tưởng
may mắn, mừng rỡ lớn lao, sanh ḷng hổ thẹn
lớn lao, sanh ḷng tin trong sạch lớn lao, dùng một
pháp Tịnh Độ để tự hành, dạy người,
ngơ hầu quyến thuộc trong nhà và hết thảy những
ai hữu duyên cùng sanh Tây Phương th́ mới chẳng phụ
căn bệnh này và Phật v́ ḿnh hiện thân vậy! Phổ
Đà không cần phải tới, bởi lẽ phí tổn
đi về nặng gấp mười lần, ở nhà niệm
Phật một là công hạnh dễ tiến, hai là chẳng
tốn kém, tốt lắm, hay lắm!
74.
Trả lời thư cư sĩ Châu Trí Mậu
Thưa cư sĩ Châu Mộc!
Nhận được thư, biết ông sanh ḷng tin trong sạch,
muốn quy y Phật pháp. Nhưng quy y Phật pháp th́ cần
phải đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
thiện, tận lực giữ vẹn luân thường, tận
hết sức ḿnh, sanh ḷng tin, phát nguyện, niệm Phật
cầu sanh Tây Phương. Lại c̣n phải kiêng giết,
cứu giúp sanh mạng, ăn chay. Nếu chẳng thể
ăn chay hoàn toàn th́ cũng chớ nên tham ăn là được
rồi! Lại nên giữ sáu ngày chay[19],
hoặc Thập Trai. Nếu không, sẽ trái nghịch với
Phật. Nay tôi đặt pháp danh cho ông là Trí Mậu, v́ tâm
tánh như cây cối: Do phiền năo chướng lấp nên
tâm tánh chẳng thể hiện, như cây khô kháo. Đă có
trí huệ th́ phiền năo chẳng sanh, cây tâm tánh cố nhiên
xum xuê, tươi tốt.
C̣n về Ngũ Giới, hăy tự
xét tâm ḿnh, nếu có thể thọ được chẳng
phạm th́ hăy hỏi Hóa Tam về quy củ thọ giới
trước đức Phật, ông ta sẽ dạy cho ông,
Quang không viết đầy đủ ra. Đă quy y Phật
pháp hăy nên đọc kỹ bộ Văn Sao, hành theo đó,
sẽ chẳng đến nỗi bị người tầm
thường gây lầm lạc. C̣n những chuyện cầu
phước báo trong đời sau và luyện đan, vận
khí của ngoại đạo để cầu thành Tiên
v.v… nếu ông thật sự lănh hội được ư
nghĩa của bộ Văn Sao, dù có trăm ngàn ngoại
đạo cũng chẳng thể dao động cái tâm ông.
Chớ bảo những điều ấy do Quang nói ra chỉ
sợ không đủ làm chứng cứ, nên biết rằng
Quang chỉ nói dựa theo ư của Phật, Bồ Tát, tổ
sư, thiện tri thức, chứ không phải do Quang tự
nghĩ ra nói bậy. Mong hăy sáng suốt xét soi th́ may mắn
lắm thay!
Tâm ông cao như trời, chí hèn
như đất, miệng tuy nói “nương theo những
ǵ Quang nói”, nhưng thật ra hoàn toàn dựa theo thiên kiến
của chính ḿnh. Pháp môn Tịnh Độ chỉ lấy Tín
làm gốc, tin đến cùng cực th́ Ngũ Nghịch, Thập
Ác đều được văng sanh. Tin chưa tới th́
dù là bậc thông Tông, thông Giáo chưa hề đoạn Hoặc
cũng chẳng có phần! Ông đă không thể thông Tông,
thông Giáo, đoạn Hoặc chứng chân, cậy vào Tự
Lực để liễu sanh tử, lại không tin Phật
lực chẳng thể nghĩ bàn, tự tánh công đức
chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có đủ ḷng tin chân
thành, nguyện khẩn thiết, niệm Phật cầu
sanh Tây Phương th́ không một ai không được
sanh. Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn viên đốn
thẳng chóng vô thượng để liễu sanh tử
ngay trong đời này. Nếu c̣n chưa hiểu rơ
phương hướng của pháp môn này, tâm cuồng vọng
ham cao chuộng xa bèn nghiên cứu Khởi Tín Luận. Khởi
Tín Luận quả thật là cương yếu để
học Phật, nhưng đối với kẻ căn
cơ kém cỏi và sơ cơ cũng khó được lợi
ích [nơi luận ấy]. Dù nghiên cứu Khởi Tín Luận
thông triệt không nghi ngờ, nhưng dụng công vẫn phải
nương vào pháp môn Niệm Phật cầu sanh th́ mới
ổn thỏa, thích đáng; huống hồ Pháp Tướng,
Thiền, Giáo dù tinh vi, áo diệu, cao sâu, vẫn không thể
mong bằng được!
Tâm ông cao như thế, chính là không
biết phân lượng của cái cao. Chí ông lại cho rằng
ḿnh căn tánh kém yếu, mong chi sanh Tây? Chỉ cần chẳng
đọa ác đạo đă rất an ủi rồi! Ông
không biết chẳng sanh Tây Phương, tương lai ắt
đọa ác đạo. Đây chính là trái nghịch lời
Phật dạy và những ǵ đă nói với Quang; sao có thể
nói là từ đầu đến cuối phụng hành lời
răn dạy, nhất tâm tŕ niệm Phật Di Đà cho
được? Nay đem cái thân của ông hứng lấy
thức nghiệp của người, lại không phải
là tư cách thượng đẳng, cái chí và tâm ông đă lập
ấy thật đáng khiến cho người khác than thở,
cười cợt! Ông nên dứt cái ḷng cuồng vọng muốn
thành bậc đại thông gia, hăy chuyên tâm nghiên cứu những
sách thuộc pháp môn Tịnh Độ. Trong Văn Sao, Quang
đă nói đầy đủ trong những lá thư gởi
cho ông Cao Thiệu Lân hoặc Từ nữ sĩ. Thuận
theo những ǵ đă khai thị, sanh ḷng tin, phát nguyện,
chẳng v́ căn khí của ḿnh hạ liệt bèn đề
cao sự văng sanh là chuyện vượt khỏi sức
ḿnh.
Phải thường dù động
hay tịnh, lấy một câu Di Đà làm bổn mạng
nguyên thần; giữ ḷng cư xử phải hợp với
tông chỉ “chớ làm các điều ác, vâng làm các điều thiện”. Nếu c̣n thừa
sức th́ tùy ư thọ tŕ, đọc tụng các kinh Đại
Thừa cũng chẳng trở ngại ǵ. Nên lấy việc
chí tâm thọ tŕ làm gốc, chớ chuyên chú mong gấp
được thấu triệt nghĩa lư. Nếu có thể
chí thành đến cùng cực sẽ tự thấu triệt
giáo lư. Nếu cứ muốn thấu triệt trước,
chẳng thuận thọ tŕ đọc tụng, dẫu thấu
triệt cũng không có lợi ích thật sự, huống hồ
thật khó thấu triệt ư? Pháp Tướng, Thiền,
Giáo nghiên cứu cả đời cũng khó nắm
được chỗ chỉ quy. Dẫu được,
ai là người có thể chẳng đoạn Hoặc nghiệp
mà liễu sanh thoát tử? Muốn đoạn Hoặc nghiệp,
liễu sanh thoát tử, chỉ sợ dù có mộng cũng
không thể mộng nổi!
Ông c̣n chưa đọc kỹ bộ
Văn Sao, nên mới nói những lời cao thấu trời
thẳm, ngơ hầu vào được chốn biển rộng.
Bộ Văn Sao đă nhiều lần nói đến những
sách nên xem và pháp tắc xem kinh, cũng như chỗ khó
được lợi ích nơi Pháp Tướng, Thiền,
Giáo. Do pháp môn Tịnh Độ cậy vào Phật từ lực,
các pháp môn khác đều phải cậy vào chính ḿnh. Một
đằng là giáo lư thông thường, như kẻ sĩ
trong đời do tư cách bèn làm quan. Một đằng là
giáo lư đặc biệt như vương tử trong
đời, dù có té xuống đất vẫn được
hết thảy quan tướng cung kính. Hai thứ pháp môn chẳng
thể đem ra đối biện được! Kẻ
phàm phu có đủ Hoặc nghiệp há nên chẳng cẩn
thận chọn lựa ư? Quỹ lưu thông kinh sách nếu
muốn tăng thêm nên làm biện pháp quyên mộ như thế
nào ư? Nếu ai có tín tâm có tài lực th́ hăy thương
lượng với họ, ngơ hầu họ giúp đỡ
th́ cũng được!
Thêm nữa, kinh điển rất
nhiều, tâm ông muốn mở rộng môn đ́nh, nhưng ở
Trịnh Châu có mấy ai thỉnh! Nên chọn những kinh sách
mà người b́nh thường có thể đọc
được, thỉnh về để sẵn. Hăy tính sẵn
những sách mà đại đa số người b́nh
thường chưa xem đến, hăy thay họ thỉnh
trước th́ sẽ giảm được tiền vốn
mà cũng chẳng đến nỗi thỉnh về bán
không được, tốn tiền nhưng chẳng có lợi
ích. Ông tự nói ngày tháng không c̣n nhiều, thực lực hữu
hạn, nên Quang mới nói như thế. Nếu không phải
như vậy th́ cứ y theo tâm tướng của chính
ḿnh mà hành, Quang cũng không miễn cưỡng ông. Làm
được một bậc đại thông gia cũng là
điều may mắn cho cửa Phật; chỉ sợ ông
không thành bậc đại thông gia được, lại
tin pháp môn Tịnh Độ chẳng tới nơi, cả
hai đầu đều hỏng! Đời này tu chút công
đức, đời sau nhất định sanh vào nhà phú
quư, ông thử chú tâm nghĩ kỹ xem: Người phú quư có
mấy ai chẳng tạo nghiệp? Ngày nay vận nước
nguy ngập, dân không sống nổi, đều là do những
người tu hành không có trí huệ, đời sau có phước
báo bèn khuấy đảo mà ra. Ông khởi vọng tưởng
khó thể cùng tận như thế, muốn chẳng đọa
ác đạo, chẳng sanh Tây Phương th́ một đời
không đọa ác đạo c̣n may ra, chứ hai đời
không đọa th́ hiếm lắm!
Phật nói kinh chú rất nhiều,
ai có thể tŕ được hết tất cả? Cổ
nhân chọn lấy những thứ trọng yếu gộp
thành khóa tụng hằng ngày, buổi sáng th́ Lăng Nghiêm,
Đại Bi, mười chú nhỏ, Tâm Kinh. Niệm xong bèn
niệm Phật bao nhiêu tiếng đó, hồi hướng
Tịnh Độ. Khóa tối th́ kinh Di Đà, Đại
Sám Hối, Mông Sơn, niệm Phật hồi hướng.
Nay tùng lâm đều muốn giảm bớt công phu, sáng chỉ
tụng chú Lăng Nghiêm, Tâm Kinh; khóa tối th́ ngày lẻ niệm
kinh Di Đà và Mông Sơn, ngày chẵn niệm Đại Sám
Hối, Mông Sơn. Ông nói Thiền Môn Nhật Tụng kinh
chú quá nhiều, không biết ngoài Khóa Tụng Sáng Tối c̣n
có phần phụ lục. Cư sĩ tại gia công khóa hoặc
chiếu theo Thiền Môn Công Khóa mà hành hoặc cũng có thể
tùy ư lập ra, như khóa sáng chuyên niệm kinh Di Đà, chú
Văng Sanh, niệm Phật, hoặc khóa sáng chuyên niệm chú
Đại Bi, niệm Phật, khóa tối th́ niệm kinh Di
Đà, chú Văng Sanh, niệm Phật, hoặc có người tŕ
kinh Kim Cang cũng được. Bất luận tụng
kinh nào, tŕ chú nào, cũng đều phải niệm Phật
bao nhiêu tiếng đó rồi hồi hướng th́ mới
hợp với tông chỉ tu Tịnh nghiệp.
Những điều ông nói chính là thấy
khác, nghĩ lệch, dẫu là hảo tâm, nhưng thật
ra tâm không có chủ định, bị chuyển theo cảnh.
Kinh nào, chú nào chẳng xưng tán công đức thù thắng?
Theo cái tri kiến của ông, hễ xem kinh này ắt phải
bỏ kinh kia, tŕ chú này ắt phải bỏ chú kia, do sức
chẳng thể xem hết, nên t́nh thế tất nhiên phải
như thế! Như vậy c̣n được gọi là bậc
chân tu hiểu rơ lư hay chăng?
Nói rộng hơn nữa, nếu
ông gặp người tham Thiền khen ngợi Thiền,
chê trách Tịnh Độ ắt sẽ theo người ấy
tham Thiền. Gặp những tông khác như Thiên Thai, Hiền
Thủ, Từ Ân[20],
Bí Mật[21], cứ hễ gặp
một vị tri thức đề xướng bèn bỏ
pháp này tu theo pháp kia, không biết ông thuộc căn tánh nào!
Muốn làm bậc đại thông gia pháp nào cũng thông
nhưng nghiệp sâu, trí cạn, không làm bậc đại
thông gia được, lại gác pháp cậy Phật từ
lực đới nghiệp văng sanh ra ngoài, đợi đến
lúc lâm chung nếu chẳng tiến vào vạc sôi, ḷ than, th́
chắc cũng đi vào thai lừa, bụng ngựa! Dẫu
may mắn không mất thân người th́ đời này tuy
không có chánh trí, nhưng c̣n có si phước do tu hành. Do
hưởng thụ si phước ấy bèn tạo ác nghiệp,
một hơi thở ra không hít vào được, bèn vào thẳng
Tam Đồ. Muốn được biết danh hiệu
thiên địa, cha mẹ c̣n không thể, huống ǵ là biết
được pháp môn Tịnh Độ nữa ư?
Ông xem bộ Văn Sao của Quang
hiểu như thế nào? Phải biết một câu A Di
Đà Phật, tŕ đến cùng cực th́ thành Phật vẫn
c̣n dư! Há nên bảo niệm kinh Di Đà, niệm Phật
chẳng diệt được định nghiệp
ư? Phật pháp như tiền, do người khéo dùng, ông
có tiền th́ làm ǵ mà chẳng được? Ông chuyên tu một
pháp, cầu ǵ chẳng được? Há cứ khăng
khăng tŕ chú này, niệm kinh này sẽ được công
đức này, chẳng được những công đức
khác ư? Hăy khéo hiểu lời Quang, tự có thể hiểu
rơ một điều th́ trăm điều sẽ rơ. Nếu
không, dù nói cho nhiều, tâm ông vẫn không có định kiến,
có ích ǵ đâu?
Phàm phu đang mê, tín tâm bất
định, nên lúc tin, lúc ngă ḷng, lúc tu, lúc tạo nghiệp,
cũng do người dạy ban đầu chẳng hiểu
đường lối mà ra. Nếu thoạt đầu, khởi
đầu từ những chuyện nhân quả thiển cận
sẽ chẳng đến nỗi có những chuyện mê hoặc,
điên đảo như thế. Tội dĩ văng dẫu cực
sâu nặng, nhưng nếu dốc chí nơi chí tâm sám hối,
sửa đổi tu tập, dùng chánh tri kiến dốc ḷng
tu tập Tịnh nghiệp, lợi ḿnh, lợi người
th́ tội chướng như sương tiêu, bầu trời
chân tánh rạng ngời. V́ thế, kinh nói: “Thế gian có hai hạng người mạnh mẽ:
một là không tạo tội, hai là tạo rồi biết
sám hối”. Một chữ Hối phải từ tâm khởi.
Tâm không hối thật sự, nói ǵ cũng vô ích! Ví như
đọc đơn thuốc nhưng không uống thuốc,
quyết chẳng mong ǵ lành bệnh! Nếu có thể theo
toa uống thuốc, sẽ được bệnh lành, thân
yên. Chỉ sợ lập chí chẳng vững, một ngày
nóng mười ngày lạnh, chỉ uổng có hư danh, chẳng
ích lợi mảy may ǵ!
75.
Trả lời thư cư sĩ X…
Dịch vốn do thánh nhân xem xét
h́nh tượng rồi lập pháp nhằm dạy cho con
người cái đạo làm sáng tỏ minh đức, tân
dân[22],
chứ chẳng phải chỉ nhằm để bói tốt
xấu mà thôi! Người đời sau học đến,
bỏ gốc theo ngọn, Dịch trở thành một nghề
khéo, đáng buồn làm sao! Thử xem phần Đại Tượng
của mỗi Quái (quẻ), lời lẽ thiết thực,
tường tận, rơ ràng. Như quẻ Càn th́ nói: “Thiên Hành Kiện, quân tử gắng
sức không ngơi”. Quẻ Khôn th́ là: “Địa Thế Khôn, quân tử dùng đức dầy
để chở vật”. Từ những Đại Tượng
của sáu mươi bốn quẻ[23],
chép thành một bức, có thể dùng làm tiêu chuẩn để
lập thân hành đạo. Do những điều ấy có
thể kế tục quá khứ, mở mang tương lai,
há phải đâu cứ khăng khăng biến Dịch
thành một nghệ thuật đoán số mạng ḥng cầu
cơm áo mà thôi? Nếu thấy lời tôi chẳng đủ
để thuyết phục, xin hăy thử đọc kỹ
phần Đại Tượng của mỗi quẻ, ắt
sẽ tự biết, huống hồ toàn văn của mỗi
quẻ và toàn văn của cả bộ Dịch vậy! Dịch
chính là cội nguồn của thánh đạo, v́ thế Khổng
Tử đọc kinh Dịch đến nỗi ba lần
đứt lề sách, đến tuổi bảy
mươi c̣n mong trời cho sống thêm vài năm để
học Dịch ḥng tránh được lỗi lớn. Tự
gắng sức không ngơi, dùng đức dầy chở vật
là như thế nào vậy? Xin hăy suy nghĩ cặn kẽ,
sâu xa th́ may mắn lắm thay!
76.
Trả lời thư cư sĩ Hoàng Trí Hải
Nhận được thư
biết ông tu tŕ nghiêm mật, mừng vui vô cùng. Người
đă ngoài năm mươi tuổi lại thêm công chuyện
đa đoan, chỉ tốt nhất là chuyên tu Tịnh nghiệp.
Nếu cứ nghiên cứu tràn lan, sợ rằng chẳng
thể thông suốt kinh luận, Tịnh nghiệp đâm ra
trở thành chuyện phụ. Nói đến sự phân biệt
giữa Tánh, Tâm và Ư, th́ Tâm đa phần là ước theo Thể
mà nói, Ư chính là niệm lự, tức là Dụng của Tâm.
Tánh chính là luận trên phương diện bản thể không
biến động của Tâm. Nếu nói chung chung th́ Tâm và
Tánh có thể dùng lẫn cho nhau, nhưng Ư th́ chỉ có thể
chỉ cho niệm lự mà thôi. Nhưng Tâm có Chân Tâm và Vọng
Tâm. Nếu ước theo Thể th́ Tâm chỉ Chân Tâm, Vọng
Tâm cũng thuộc về niệm lự, tức là vọng
niệm nơi Tâm Thể vậy. Bốn giáo Tạng, Thông, Biệt,
Viên chính là Như Lai thuận theo căn cơ của chúng
sanh nói ra những pháp phù hợp. Do có những nghĩa ấy
nên ngài Trí Giả dựa theo ư nghĩa mà lập ra những
tên gọi ấy.
1) Tạng Giáo là v́ căn tánh Tiểu
Thừa, nói ra ba tạng Kinh, Luật, Luận, do đó gọi
là Tạng Giáo. Đại Thừa cũng có ba tạng, ở
đây chỉ nói riêng về Tiểu Thừa.
2) Thông Giáo là Đại Thừa
sơ môn, do căn tánh bất đồng, độn
căn thông với Tạng Giáo ở trên, lợi căn thông
với Biệt Giáo, Viên Giáo ở phần sau, nên gọi là
Thông Giáo.
3) Biệt là khác biệt, giáo này là
pháp để dạy riêng cho Bồ Tát. Tất cả giáo lư,
trí đoạn, hạnh, vị, nhân quả, mỗi mỗi
đều khác biệt, chưa thể viên dung bao gồm lẫn
nhau như Viên Giáo, nên gọi là Biệt Giáo.
4) Viên là viên măn, viên dung. Do pháp nào
cũng viên dung, pháp nào cũng trọn đủ, nên gọi
là Viên Giáo. Giáo này là Phật pháp tối thượng, do đức
Phật đem những lư chính ḿnh đă ngộ, đă chứng,
giảng cho hết thảy đại căn Bồ Tát. Hăy
xem Giáo Quán Cương Tông[24] sẽ
tự biết được nghĩa ấy. Nếu muốn
dùng bút mực để tŕnh bày rơ, chẳng những quá tốn
công lại c̣n chẳng bằng xem sách ấy tự hiểu
vậy.
Chúng sanh đời Mạt căn
cơ mỏng ít, muốn được lợi ích chân thật
nơi giáo nghĩa Thiền Tông hết sức khó khăn, chỉ
có pháp môn Tịnh Độ là nương cậy được.
Hăy thử xem cái chết của Hiển Ấm[25] kém
xa những kẻ ngu phu, ngu phụ, những ǵ Hiển Ấm
biết được, kẻ ngu phu, ngu phụ không sao mong
bằng được, nhưng những ǵ kẻ ngu phu,
ngu phụ đạt được, Hiển Ấm lại
không sao mong bằng được. Chính là như Quang đă
nói: “Tánh thủy lặng trong, do phân biệt bèn xao động,
đục ngầu, sóng Thức bủa giăng, nhờ Phật
hiệu bèn ngừng lặng”. Do vậy, thượng
trí chẳng bằng hạ ngu, khéo quá biến thành vụng
to. Xin cư sĩ hăy chuyên chí Tịnh nghiệp, đừng
hâm mộ chuyện Tông thông, thuyết thông, ngơ hầu chuyện
liễu sanh thoát tử chẳng bị biến thành bánh vẽ.
Ông Châu Đức Quảng ngày mồng
Hai tháng Hai, ngồi niệm Phật qua đời, không có
tâm t́nh bi luyến, vẻ mặt vui vẻ, ắt vào thẳng
Liên Bang, làm đệ tử Phật Di Đà vậy! Năm
ngoái, ông Châu sanh bệnh, phát nguyện dùng một vạn
đồng ḿnh đă để dành dùng làm điều thiện.
Nhân đó, đem bảy ngàn đồng giao cho Quang, ba ngàn bốn
trăm đồng dùng in Đại Sĩ Tụng một vạn
bộ, một ngàn sáu trăm đồng in bộ Bất Khả
Lục[26], hai ngàn đồng
để in bộ Tăng Quảng Văn Sao mới san
định xong, c̣n dư ba ngàn đồng làm những thiện
sự khác. Bốn người con ông Châu đều không
dư giả lắm, nhưng có thể đem tiền cha
đă để dành v́ cha làm công đức, chẳng chịu
dùng tiền đó để tự ḿnh xài, cũng đáng nói
là đă làm được chuyện khó làm vậy!
Mong ông chuyên chí nơi Tịnh tông,
đừng bị lay động bởi thuyết “thành
Phật ngay nơi thân
này” của Mật Tông. Thành Phật ngay trong thân đời
này chính là Lư Tánh, chứ không phải là sự thật. Nếu
hiểu là sự thật th́ Tây Tạng, Đông Dương
(Nhật Bản), Phật nhiều vô kể, đừng nói
chi là hạng b́nh dân, ngay cả tâm hạnh, hành vi của Ban
Thiền[27] c̣n chưa có phong thái
của Phật, huống ǵ bảo là thành Phật được
ư? V́ ông ta nhằm lúc dân không lẽ sống, vẫn chẳng
biết tiếc thương xương máu của bá tánh, mặc
t́nh bày vẽ hao phí, tiền lọt đến tay quư như
tánh mạng, chẳng có mảy may ư niệm từ bi hỷ
xả. Hiển Ấm tự khoe ḿnh đắc chánh truyền
nơi Mật Tông, bảo Phật pháp truyền sang Đông
đến Trung Quốc, chỉ có ḿnh giáo lư của Hoằng
Pháp đại sư[28] là viên diệu,
thường chê bai tổ sư các tông phái Trung Quốc,
đều chê họ chẳng được chánh truyền
như Hoằng Pháp đại sư, nhưng lúc chết rốt
cuộc trở thành kẻ nghiệp thức mịt mờ,
không có cội gốc ǵ để nương cậy. Ông ta
đă thành Phật ngay nơi thân này, sao kết quả lại
như thế? Mong ông hăy thấu hiểu th́ may mắn lắm!
Tâm Bồ Tát ví như thái hư,
không ǵ chẳng bao gồm, muốn lợi ích chúng sanh làm
đủ mọi phương tiện, trước hết
dùng Dục để lôi kéo, sau dạy họ nhập Phật
trí, chớ nên dùng tri kiến phàm phu để suy lường
xằng bậy, bởi các ngài đă chứng Pháp Nhẫn,
trọn không c̣n Ta - Người, chỉ muốn nhiếp thọ
hết thảy chúng sanh vào trong biển pháp đại giác của
Như Lai. Nếu so lường, suy tính sẽ thuộc về
t́nh kiến, chẳng thể ngầm khế hợp với
đạo vô nhân ngă cho được! Nói các ngài bố thí
đầu, mắt, tủy, năo là thật, c̣n như nói bố
thí kỹ nữ, thể nữ v.v… bất quá nhằm diễn
tả rộng cái tâm Bồ Tát, chớ v́ lời hại ư[29]. Nếu chấp chết
vào từ ngữ để hiểu đoạn văn “kỹ
nữ đầy khắp A Tăng Kỳ thế giới” th́ sẽ an trí họ
nơi đâu? Điều này nhằm hiển thị Bồ
Tát trong ngoài đều bỏ được, trọn chẳng
tham tiếc. Trong là đầu, mắt, tủy, năo; ngoài là
quốc thành, vợ, con, chẳng sanh tham đắm một
pháp nào; v́ thế, trong sanh tử riêng Ngài được giải
thoát.
Những kẻ nhận bố thí,
được nguyện lực của Bồ Tát nhiếp
tŕ sẽ ngay trong lúc ấy hoặc vào đời sau không ai
chẳng tự hưởng lợi ích liễu sanh thoát tử.
Như vua Ca Lợi[30] cắt
chặt thân thể [của Nhẫn Nhục tiên nhân], về
sau thành người được độ đầu
tiên tức ngài Kiều Trần Như. Tâm đại Bồ
Đề lượng như thái hư sao có thể dùng tiểu
tri tiểu kiến của phàm phu để ḍ lường
cho được? Phải biết: Phàm phu chưa đắc
Pháp Nhẫn trong tâm hăy nên kính mộ đạo Bồ Tát, nhưng
hành động nên học theo những lư thông thường
của phàm phu . Nếu không, bèn đối với việc trụ
tŕ pháp đạo rất có thể bị phương ngại.
Nếu chưa chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn tức là chưa
trụ tŕ pháp đạo, cũng chẳng nên học theo những
chuyện bỏ đầu, mắt, tủy, năo v.v… của
Bồ Tát, bởi sức ḿnh chưa đủ, chẳng kham
nhẫn chịu được, dù ḿnh hay người đều
không ích lợi ǵ. Phàm phu phải hành theo những ǵ ḿnh có thể
làm th́ mới nên!
77.
Trả lời thư cư sĩ Phan Đối Phù
Trước kia đại mộng
chưa tỉnh, nên có xung đột, khôn ngăn hổ thẹn!
Nay tỉnh mộng rồi, vốn chẳng muốn nói
năng chi, nhưng sợ các hạ có chỗ chưa thấu
tỏ nên phải bèn tŕnh bày đại lược. Mạnh
Tử nói: “Có tiếng tăm
không ngờ tới, ắt sẽ bị cái vạ chê trách cầu
toàn”. Mạnh Tử nói lời ấy hết sức xác
đáng, nhưng chưa nêu rơ được nguyên do. Phật
nói hết thảy lợi, suy, đề cao, hủy báng,
khen ngợi, chê trách, khổ, vui, mỗi điều đều
có tiền nhân nên hiện thời chịu quả. Hiểu
rơ điều này th́ chỉ nên tự sám hối túc nghiệp,
hơi đâu oán trách người khác! V́ vậy, quân tử
trên chẳng oán trời, dưới chẳng hờn người,
hễ phú quư bèn sống theo phú quư, hễ bần tiện bèn
sống theo bần tiện, hễ sống nơi mọi rợ
bèn sống theo lối mọi rợ, gặp hoạn nạn
bèn thuận theo hoạn nạn, được sủng ái
bèn sợ, bị nhục chẳng oán, cảnh nghịch xảy
đến bèn thuận theo, không ǵ chẳng tự tại
tiêu dao!
Bài truyện ấy[31]
viết vào năm Dân Quốc thứ mười ba (1924), ông
ta ở công ty Duyệt Lai tại Thanh Đảo, gởi
thư cho Quang, chứ quả thật chưa gởi tác phẩm
đến, Quang cực lực chê trách, bảo ông ta hăy hủy
bản cảo đi. Đến tháng Tư năm nay, ông ta
đem cuốn Niên Phổ do ḿnh soạn đưa cho Quang
xem. Trong phần Niên Phổ năm Dân Quốc thứ mười
ba (1924) có chép đoạn văn ấy. Quang xé nát bài truyện
ấy, cực lực quở trách, bảo ông ta là người
như thế nào mà lại tự soạn Niên Phổ, cớ
sao lại bịa chuyện hăm Quang vào cái tội cực
đại “đem phàm lạm thánh, miệt thị những
bậc tri thức Tông, Giáo và những bậc hiền
sĩ, đại phu trong thiên hạ”, bảo ông ta vĩnh
viễn không được chép nữa! Đến tháng Tám,
do thúc giục nhà in ấn loát bản Quán Âm Tụng, đến
đất Thân (Thượng Hải), từ nơi chỗ
bè bạn, trông thấy bản văn của ông ta được
in dầu[32], Quang đem về xé
đi. Khi ấy, ông ta cũng đang ở nhờ chùa Thái
B́nh, tôi bảo ông ta: “Ông xưng tụng Quang như thế
này, thật c̣n hơn cầm dao giết Quang trăm ngàn vạn
lần, chớ nên lưu truyền”, không ngờ bài ấy
đă sớm gởi cho tờ Hải Triều Âm[33]
đăng báo rồi!
Đến khi các hạ gởi bài tới,
Quang vẫn cho rằng mới in chưa lâu, vẫn c̣n có thể
thâu thập được, cho nên mới bảo Úy Như
khuyên các hạ tận sức thiêu hủy, mới là yêu
thương tôi thật sự. Lại bảo những tờ
lâm san[34], nguyệt san của
Thượng Hải Cư Sĩ Lâm, Tịnh Nghiệp Xă
đăng bài thanh minh kẻo người không biết
tưởng ông ta thuận theo ư Quang mà viết bài đó.
Đến khi các hạ gởi thư tới mới biết
chẳng thể thâu thập, bèn ngộ được sự
lư của những lời Mạnh Tử, Tử Tư[35],
Phật đă nói, trong tâm không c̣n bận ḷng về chuyện
ấy nữa. Ấy là do túc nghiệp sai khiến, chỉ
có thể oán đời trước ít chịu vun bồi,
hơi đâu oán ông ta tạo lời đồn đăi xằng
bậy! Đối với hành động ấy của Mă
Khế Tây, và đối với hết thảy cảnh
trước, Quang đều chẳng bận ḷng nghĩ
đến, may ra trở lại được với thiên
chân của chính ḿnh, rốt cuộc chẳng thẹn với
tâm ḿnh th́ nhân họa bèn được phước, thật
là may mắn lắm!
Các hạ in truyện ấy tùy ư các
hạ, đốt đi cũng tốt, vứt đi
cũng xong. Nếu như ḷng thật yêu thương tôi,
xin hăy đem những lời tôi khuyên răn ông ta tŕnh bày tóm
tắt độ vài trăm chữ in vào phần giấy trắng
ở mặt trong b́a sách, ngơ hầu người không biết
khỏi bắt chước theo th́ càng tốt, chứ hoàn
toàn chẳng phải nhằm rửa sạch lời vu báng ấy
để khỏi bị người khác thóa mạ. V́ sao?
Người ta thóa mạ càng nhiều, Quang được
lợi ích càng sâu, bởi Quang không tự làm, lại bị
thóa mạ, bèn được tiêu nghiệp chướng,
tăng phước huệ, như trong phần thứ
mười sáu của kinh Kim Cang đă nói. Quang sắc lực
suy nhược, bận rộn nhiều việc, đến
nỗi công phu Tịnh nghiệp xao nhăng thật đáng thẹn.
Do nhân duyên này, chẳng tu mà được lợi ích, may mắn
nào hơn!
78.
Thư gởi cư sĩ Nhiếp Vân Đài
Nhận được lời
của Ngài khôn ngăn khâm phục, các hạ đă tiếp
thừa được tâm pháp của Văn Chánh Công[36],
v́ thế có thể thoát ly tập khí phú quư, vui theo cái thiên
chân của chính ḿnh, chẳng bị vật chuyển. C̣n
như cuốn sách của ông X… nọ quả thật là diệu
pháp để chấn hưng t́nh thế suy đồi, chỉ
e ông X… nọ không có chí hướng ấy th́ trọn chẳng
có ích lợi ǵ. Nhưng phổ biến cho mọi người
xem, ắt có người chịu hành theo. Trộm nghĩ nếu
thúc đẩy nhân duyên đến cùng cực ắt có thể
làm thánh, làm hiền, sẽ là bài văn chí lư để cứu
thế; do sách ấy sẽ biết được đạo
nhân quả thật sâu, thật xa.
Ông ta cho nhân quả là Quyền
Tiệm Tiểu Thừa, toàn là nghe lỏm nói ṃ đó thôi.
Quang thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn
lao để bậc thánh nhân thế gian lẫn xuất thế
gian b́nh trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Trong thời
thế hiện tại, nếu chẳng đề xướng
nhân quả, báo ứng, dẫu Phật, Bồ Tát, thánh hiền
cùng xuất hiện trong đời cũng chẳng làm ǵ
được!” Lại nói: “Khéo dạy con cái
là cái gốc để b́nh trị thiên hạ, nhưng dạy
con gái là quan trọng nhất”. Lại nói: “Quyền trị quốc
b́nh thiên hạ, hàng nữ nhân chiếm quá nửa”. Đời ít hiền
nhân là v́ thế gian thiếu hiền nữ! Có hiền nữ
ắt có hiền thê, hiền mẫu vậy. Có hiền thê,
hiền mẫu mà chồng, con người ấy chẳng
hiền cũng hiếm hoi lắm.
Trường học đề
xướng nam nữ b́nh quyền, thật là chẳng biết
thời thế. Phải biết:
79.
Trả lời thư cư sĩ Kiều Trí Như
Phàm nhân làm việc phải nghiêm
túc làm, chớ nên qua quít, tắc trách, huống chi đệ
tử Phật làm người giáo hóa trong nhà tù, có cái tâm cảm
hóa con người, mang trách nhiệm thành tựu chánh khí!
Sách Luận Ngữ nói: “Quân tử
chẳng nghĩ ra ngoài địa vị”. Đă nhận
lănh chức ấy ắt phải đặt nặng chuyện
mong mỏi tù nhân sửa đổi tấm ḷng, nhận lănh
sự giáo hóa th́ công đức ấy lớn lắm. Ông nói
ba vị nữ cư sĩ muốn quy y, hăy bảo họ
nên ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, chẳng
được cầu phước báo trời người
trong đời sau, cần phải đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều lành, kiêng giết, cứu vớt
sanh mạng, khéo dạy con cái. Con cái tuy c̣n nhỏ, vạn
phần chẳng được để chúng nó mặc
t́nh quen thói kiêu ngạo, thường phải nói chuyện
nhân quả báo ứng cho chúng biết, khiến cho trong tâm
chúng thường mang ḷng kinh sợ, tự nhiên chẳng
đến nỗi mai sau làm chuyện thương thiên tổn
đức. Chuyện đề xướng nhân quả báo ứng
ấy và khéo dạy con cái chính là căn bản pháp luân khiến
thiên hạ thái b́nh. Đối với hết thảy mọi
người đều nên dùng điều này để
khuyên lơn, chứ chẳng riêng ǵ nữ nhân.
Bà Trần Ngô Thị pháp danh là Chí
Thanh, bà Khang Kim Thị[37] pháp danh là Chí Tịnh,
bà Nghê Khang Thị pháp danh là Chí Trừng, nói chung thể hiện
ư chí ĺa khỏi thế giới trược ác này, sanh về
cơi Phật thanh tịnh kia mà thôi! Mong ông gởi thư đến
họ, nói kèm ư cầu chúc của Quang, khiến họ trở
thành người chân thật tu hành, cũng như dạy
con cái tu hành, ngơ hầu chẳng thẹn với đại
sự quy y Phật pháp vậy. Thiên hạ trị hay loạn
là do sự rèn luyện trong gia đ́nh có đạo đức
hay không, căn bản ấy là điều nghị luận
thiết thực vậy.
80. Trả lời thư cư sĩ Giang Dịch
Viên
Nhận được thư
biết pháp môn Tịnh Độ ở quư địa do
chính các hạ đề xướng khiến được
thạnh hành, tôi lấy làm an ủi lắm. Quang chỉ uổng
phô trương hư danh, chẳng có mảy may đức
hạnh thật sự ǵ! Nhưng muốn người khác
được ích lợi nên vờ phô trương thanh thế,
dẫu tổn hại ḿnh, nhưng có ích cho người khác
cũng vui ḷng. Như nói đến quả mơ miệng
thấy chua, nghĩ đến vách đá, chân thấy run;
tuy không phải là chuyện thật, nhưng người ta
khởi tâm ấy cũng không phải là vô ích. Các hạ toan
bắt chước chuyện cũ ở Từ Giác, thật
là khiến cho Quang hổ thẹn không c̣n chỗ nào lánh
được, Quang c̣n mong gởi đi hai mươi bộ
Văn Sao, mong ông gởi cho những ai hữu duyên, cũng
như giữ trong thư viện để người ta
xem đọc lâu dài.
Lại như nay đề xướng
Phật học, nên chuyên trọng pháp môn Tịnh Độ
và nhân quả báo ứng, dạy người dự vào liên
xă ai nấy đều phải kiêng giết, cứu vật,
ai nấy khéo dạy con cái. Đất nước hoang loạn
do thiếu người hiền, nguyên nhân là do trong gia
đ́nh không khéo dạy mà ra! Trong sự giáo dục gia
đ́nh, sự giáo dục của mẹ lại càng khẩn
yếu. V́ thế, dạy dỗ con gái lại càng quan trọng
hơn dạy con trai! Có gái hiền ắt có vợ hiền,
mẹ hiền. Con người lúc nhỏ có mẹ hiền,
lớn lên có vợ hiền, muốn chẳng thành người
hiền cũng không được! Đấy là “gốc
chánh nguồn trong” để mong cầu thái b́nh yên ổn vậy,
mong các hạ lúc đề xướng Phật học, hăy
ra rả nhắc đến điều này ngơ hầu Phật
pháp lẫn thế gian pháp đều được chấn
hưng.
81. Thư trả lời cư sĩ Đường
Đại Viên[38]
Xem thư ông thấy
nói đến chuyện làm học sinh, khó khiến người
ta không bật cười. Nay tôi nêu một thí dụ. Ví như
quan Ngự Y ở Thái Y Viện, phàm là sách thuốc, gốc
bệnh, bí quyết xem mạch[39],
đọc nhuần như gương sáng hiện bóng,
nhưng đến lúc chẩn bệnh bèn rối beng không biết
đường nào mà lần, chẳng biết nên dùng thuốc
ǵ! Lời hỏi của ông chẳng khác với kiến thức
của ông thầy thuốc ấy mảy may nào! Phật
pháp vốn dạy người liễu sanh tử, chẳng
phải chỉ là một kiểu nói năng cao siêu huyền
diệu. Những kẻ tri kiến hèn kém kia dùng Triết học
để nghiên cứu Phật pháp, ắt trước hết
phải bảo cho họ biết duyên do Phật thuyết
pháp là v́ muốn đối trị tập khí của con
người, rửa ḷng gột ư, giữ vẹn luân thường,
tận hết bổn phận, từ bi, nhân nhượng,
đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành,
đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, tự
lợi, lợi tha cùng chứng Chân Thường, tu tập
dần dần, cho đến khi thành Phật đạo. Tất
cả kinh giáo đều nhằm giảng rơ những sự
lư như trên vừa nói. Nếu chỉ mong hiểu rơ, chẳng
muốn thật hành, khác ǵ kép hát đóng tuồng, c̣n nói là học
sinh được ư?
Như ai thiên tư thông minh, mẫn
tiệp, nghiên cứu các tông Tánh, Tướng chẳng trở
ngại ǵ, nhưng vẫn phải lấy pháp môn Tịnh
Độ làm chỗ nương về, ngơ hầu chẳng
đến nỗi có nhân không quả, biến diệu pháp liễu
sanh thoát tử thành lời nói trơn tru ngoài miệng, không
do đâu được lợi ích thật sự. Ắt phải
trọng ḷng kính, giữ ḷng thành, xem kinh - tượng
như vị Phật sống, chẳng dám chớm chút ư coi
thường, ngơ hầu tùy ḷng thành của ḿnh lớn hay nhỏ
sẽ được những lợi ích sâu hay cạn!
Đối với người độn căn, hăy nên
chuyên nghiên cứu pháp môn Tịnh Độ. Nếu quả
thật tin cho tới nơi, giữ cho chắc, nhất
định trong đời này sẽ liễu sanh thoát tử,
siêu phàm nhập thánh, so với những kẻ hiểu sâu xa
kinh luận chẳng thật hành pháp môn Tịnh Độ
th́ lợi ích đúng là khác biệt một trời một vực.
Những điều vừa nói đó, bất luận là
tư cách nào, lúc ban đầu cứ cho uống loại thuốc
Một Vị này, bất luận những căn bệnh
như tà chấp, thấy biết sai lầm, ngă mạn,
phóng túng, đề cao thánh cảnh nhưng tự ḿnh cam phận
hèn kém, không bệnh nào kê thuốc A Già Đà Nhất Vị
trị chung vạn bệnh này mà chẳng lành.
Ông học đầy một bụng
Phật pháp, đối với hai loại học sinh ấy
không biết làm sao? Cho thấy ông chỉ biết nói đến
thuốc, chứ tự ḿnh chưa từng thực hành. Nếu
ông thực hành, trọn chẳng đến nỗi ôm mối
nghi ấy. Xưa kia, có kẻ coi các ngài Văn Thù, Phổ
Hiền như bè bạn ngang hàng, đều là do không thể
phân biệt chân - ngụy, đến nỗi bối rối
không biết làm sao, rất có thể coi ngụy là chân. Cha
ông không thể ăn chay là do không chú tâm suy xét, quay trở lại
quán thân. Nếu như thấy chính ḿnh là con vật bị
giết để ăn, sẽ trọn chẳng mong người
ta giết ḿnh ăn thịt. Nay có ngũ cốc để
dưỡng mạng, vẫn c̣n muốn thỏa ḷng tham,
sanh tử chẳng xong, đến lúc bị người ta
giết, thật đáng thương xót, nhưng không thể
cứu giúp, buồn thay! Niệm Như đă xuống tóc,
thọ giới, đương nhiên là chánh lư, cần ǵ phải
chờ đợi! Chỉ cần xét kỹ tâm ḿnh, và suy xét
cảm tưởng trong lúc đối cảnh hằng ngày,
nếu có thể tu dưỡng trong sạch bèn thành tựu
Tăng tướng. Dù có gần gũi khí tượng ấy,
nhưng nếu khó trọn cái tâm sắt son trăm lần vấp
ngă chẳng lùi th́ lấy chồng vẫn tốt hơn, Niệm
Quang cũng vậy!
Trong một số báo nào đó, ông
cho đăng tải những lời nghị luận của
hai người Niệm Như, Niệm Quang, Quang tôi trọn
chẳng cho đó là đúng. Dẫu quả thật đó là
lời của bé gái chín tuổi nói th́ không đăng báo có
mất ǵ đâu! Nếu là viết thác ra như thế lại
thành dối đời lừa người, trở thành trá
ngụy. Nếu do chính những người đó viết
th́ chắc là tự kiêu, tự thị, trở thành ngă mạn.
Đấy đều là v́ ông gặp chứng bệnh không
biết cách bốc thuốc vậy. Ông đă không coi Quang là
vô tri th́ Quang cũng chẳng ngại lấy vô tri làm hữu
tri, thưa cùng ông: Ông trọn chẳng biết pháp tắc dạy
người tiểu căn nên mới làm như vậy. Nếu
ông biết sẽ trọn chẳng đăng báo! Hiển Ấm
thiên tư cực thông minh, ông ta vốn háo thắng, háo danh,
Đế pháp sư (ngài Đế Nhàn) chẳng thể cắt
thuốc để đè nén cái bệnh phô trương, kiêu
căng của ông ta, rồi sau ông ta đoản mạng chết
đi. Đối với Niệm Quang, ông cũng giống
như thế.
Cư sĩ Vô Đắc có cha già
sáu mươi tuổi, có nên xuất gia chăng? Nếu
không xuất gia không cách nào nghe pháp tu hành, vẫn có cách bổ
cứu. Nay những rào ngăn đă rỡ bỏ[40],
người tại gia nghiên cứu tu tập nhiều
như rừng, mà lợi ích sanh về Tây Phương
cũng thường có chuyện như thế, cần ǵ phải
bỏ cha xuất gia? Quang tuyệt đối chẳng tán
thành chuyện này. Dựa theo sự thực mà nói, trong việc
tu hành hiện thời, tu tại gia vẫn tốt hơn,
v́ sao? Do hết thảy vô ngại. Người xuất gia
có nhiều chướng ngại hơn người tại
gia. V́ thế, những ai không thật sự phát đạo
tâm đều trở thành phường hạ lưu, không
ích lợi ǵ cho pháp, nhục lây đến Phật!
82.
Trả lời thư cư sĩ Uông Vũ Mộc
Đính
kèm thư của ông Uông:
Vũ Mộc niệm Phật mười
năm, biết đại lược chỉ thú. Trộm
nghĩ, phương pháp Niệm Phật dạy bởi các
đại sư Linh Phong, Mộng Đông và bộ Văn
Sao của thầy tôi đại để đều v́ ngu
phu, ngu phụ nói chung mà lập thuyết. Nếu bọn
chúng tôi là những người thông hiểu văn tự,
tâm tư phức tạp mà vẫn dùng phương pháp Niệm
Phật của hàng ngu phu, ngu phụ ấy, chắc chắn
chẳng thể văng sanh Tịnh Độ. Ư kẻ hèn này
cho rằng người niệm Phật cầu được
văng sanh, trước hết phải biết “người
niệm Phật là ai”, có thấy được vị chủ
nhân ông th́ niệm Phật mới có ích lợi, văng sanh mới
nắm chắc được! Chẳng riêng ǵ niệm Phật
phải như thế, ngay cả niệm kinh, tŕ chú,
cũng không thể không như vậy! Người ta bây giờ
cứ động đến bèn nói “thật thà niệm Phật,
chết ḷng niệm Phật liền được văng
sanh”, không biết rằng nếu không biết “người
niệm Phật là ai?” làm sao thật thà niệm Phật cho
được, làm sao chết ḷng niệm Phật cho
được, dù có ngày đêm niệm mười vạn
tiếng, đối với sanh tử nào có liên can chi! Có
người đem chuyện “cổ nhân đa phần chuyên
chú tŕ danh, chẳng tham cứu người niệm Phật
là ai” để cật vấn, Vũ Mộc nói: “Đấy
là chuyện của cổ đức sau khi đă tham cứu
xong, kẻ sơ tâm chẳng thể bắt chước
được!” Vũ Mộc thấy người niệm
Phật ngày nay mười người hết chín chẳng
hiểu ư chỉ này, thật đáng thương xót, thường
luôn luôn rát miệng khuyên người, nhưng trong hàng
cư sĩ có người cho tôi là kẻ tà kiến. Chân
nghĩa của Phật pháp ch́m tối đến như thế,
khôn ngăn buồn đau than thở! Nay riêng tỏ bày nỗi
ưu hoài, kính cầu ấn chứng, cũng như khai thị
cho rơ thêm th́ chúng sanh may mắn lắm, nào phải riêng ḿnh
Vũ Mộc may mắn mà thôi!
Xem kỹ thư ông gởi đến,
khôn ngăn khâm phục. Các hạ muốn cho hết thảy
mọi người tự thấy được bổn
lai, thẳng lên Thượng Phẩm. Quán kinh nói “đọc
tụng Đại Thừa, hiểu Đệ Nhất
Nghĩa, phát Bồ Đề tâm, khuyến tấn hành giả” có phải là nói
đến các hạ đấy chăng? Tuy nhiên, thuyết
pháp phải xét căn cơ. Nếu chẳng xét căn
cơ, trao lầm pháp dược, th́ chẳng khác ǵ gă thầy
thuốc dốt dùng thuốc giết người. Phải
biết hai tông Thiền, Tịnh, quy về gốc là một,
nhưng cách tu khác nhau: Thiền lấy thấy thấu triệt
bản lai diện mục làm tông, Tịnh lấy tín nguyện
niệm Phật cầu sanh làm tông. Nếu cơi đời
đều là thượng căn th́ những ǵ các hạ nói
quả thật hữu ích. Nhưng thượng căn rất
ít, trung căn, hạ căn thật nhiều, chẳng dạy
họ lấy tín nguyện cầu sanh mà lại dạy họ
tham cứu “người niệm Phật là ai”, tham thấu
tỏ được th́ may mắn vô cùng, nhưng vẫn
phải chú trọng phát nguyện thiết tha cầu
được văng sanh. Nếu tham không thấu, trong tâm giữ
hoài ư niệm không biết “người niệm Phật là
ai” th́ chẳng thể văng sanh, sẽ trọn chẳng có
chuyện cảm ứng đạo giao cùng Phật, đích
thân được Phật tiếp dẫn.
Nhưng hiện thời người
tham cứu thật sự đạt đến địa
vị đại triệt đại ngộ được
mấy kẻ? Phàm ai hiểu “người niệm Phật
là ai” chính là người đại triệt đại ngộ
minh tâm kiến tánh vậy. Đừng nói ai khác, ngay đến
các hạ cũng chưa hề đạt đến địa
vị ấy! V́ sao biết các hạ chưa đạt? V́
nếu đạt, quyết chẳng dám nói những câu: “Các
vị Linh Phong, Mộng Đông v́ kẻ ngu phu, ngu phụ mà
lập thuyết, không biết người niệm Phật
là ai, dù có thật thà niệm Phật, chết ḷng niệm
Phật, cũng chẳng được gọi là thật
thà, chết ḷng. Dù ngày đêm niệm mười vạn tiếng,
đối với sanh tử chẳng liên can ǵ!” cũng
như bảo: “Cổ nhân chuyên
chú tŕ danh v́ đă tham cứu xong. Sơ tâm chẳng thể
bắt chước theo”. Do vậy tôi nói rằng: Tâm các
hạ quả thật muốn tự lợi, lợi người,
nhưng lời các hạ quả thật là ḿnh lầm, làm
người khác lầm, xin hăy nín lặng chớ nói. Nếu
không một đại pháp môn phổ độ chúng sanh của
Như Lai bị các hạ đóng chặt, lấp kín, không
cách ǵ khai thông được! Tội ấy bằng với
tội báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, há chẳng thận
trọng ư!
Các hạ thấy biết như vậy
là v́ chẳng biết khế lư khế cơ, lầm chấp
pháp lợi lạc bậc thượng căn, nên khuyên khắp
mọi người đều tu tập, thành ra thiên chấp,
thấy lầm; đem pháp chẳng hợp căn cơ lầm
lạc khuyên người khác tu, cho đó là chân nghĩa của
Phật pháp. Quang tuy tầm thường, hèn kém, nào dám tán
thành, chấp nhận cái tội báng Phật, báng Pháp, báng
Tăng của các hạ ư? Nếu các hạ cho là không
đúng, xin hăy quăng [thư này] vào ngọn lửa, ai theo
đường nấy mà thôi! Quang há có thể cưỡng
các hạ bỏ cái học của chính ông để theo cái
học của ḿnh được sao? Chẳng qua các hạ
hỏi đến, chẳng thể không thẳng thắn
dâng ḷng ngu thành. Mong các hạ thấu hiểu cho th́ may mắn
lắm!
83.
Trả lời thư sư Thịnh Cơ
Hôm qua nhận được
thư thầy, khôn ngăn cảm thán. Thầy học Phật,
há có nên dùng tri kiến của chính ḿnh để suy lường
cảnh giới Phật ư? Suy không thấu bèn nẩy
sanh nghi hoặc ư? Phàm chứng Chân Như th́ tam tế[41] đều đoạn,
mười giới[42]
ch́m hết. Do có nhân duyên nên cũng có thể trong một niệm
hiện vô lượng kiếp, biến vô lượng kiếp
thành một niệm, niệm và kiếp viên dung, nhưng hai
thứ chẳng lẫn lộn. Thầy nói “mười sáu tiểu kiếp giống như một
bữa ăn, năm mươi tiểu kiếp chỉ
như nửa ngày” không thể có sự - lư ấy,
như vậy những chuyện kinh nói lớn - nhỏ vào
trong nhau, niệm và kiếp hiện lẫn nhau đều
là nói dối ư? Như Lai lúc mới thành Chánh Giác, hiện
tướng Báo Thân viên măn, v́ bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ nói kinh Hoa Nghiêm,
hàng Nhị Thừa trong hội chẳng thấy chẳng
nghe, chỉ thấy đức Phật mang h́nh tướng
một vị lăo tỳ-kheo, pháp họ được nghe
chính là sanh diệt Tứ Đế. V́ thế, kinh Duy Ma nói:
“Phật dùng một tiếng diễn
thuyết pháp, chúng sanh tùy mỗi loại đều
được hiểu”. Ông nói không có sự - lư ấy
hay sao? Phải biết Thời không phải là pháp nhất
định, tùy mỗi người thấy khác nhau. Hăy gác cảnh
giới của Phật, Bồ Tát lại; chỉ lấy cảnh
giới của phàm phu, tiểu trí để bàn. Con của Châu Linh Vương là Tử Tấn[43] học đạo
Tiên, qua bảy ngày, xuất hiện tại Hầu Sơn,
đă qua đời Tấn. V́ thế có thơ rằng:
Vương tử
khứ cầu tiên,
Đan thành nhập cửu
thiên,
Động trung
phương thất nhật,
Thế thượng kỳ
thiên niên.
(Vương tử học
đạo tiên,
Đan thành[44]
lên trời thẳm,
Trong động vừa
bảy bữa,
Ngoài đời gần
ngàn năm)
(Chữ Kỷ幾 đọc âm b́nh thanh, có
nghĩa là gần. Từ Châu Linh Vương đến
đời Tấn gần một ngàn năm).
Lại như Lữ Thuần
Dương[45] gặp Chung Ly Quyền
nơi quán trọ Hàm Đan, họ Chung khuyên học đạo
Tiên, ông Lữ muốn được phú quư rồi mới
học, ông Chung đưa cho một cái gối bảo nằm
ngủ. Họ Lữ mộng thấy làm quan chức từ
nhỏ đến lớn, làm đến Tể Tướng,
năm mươi năm phú quư vinh hoa hiếm có trong đời,
con cháu đầy nhà, vui sướng không tai ương. Về
sau chỉ do một chuyện không hợp ư bề trên, bèn bị
giáng. Tỉnh dậy, thấy lúc mới ngủ, chủ quán
trọ nấu nồi cháo kê vàng; ra vào làm tướng, trong
giấc mộng bao nhiêu là chuyện suốt cả năm
mươi năm, đến lúc tỉnh, nồi cháo kê vàng
vẫn chưa chín! Đấy chẳng qua là những cảnh
do Tiên hiện, trong một niệm c̣n hiện được
những sự nghiệp cảnh giới trong năm
mươi năm, huống chi là cảnh giới của Phật
là trời của các vị trời, thánh của các thánh, cảnh
giới của các vị Bồ Tát đă chứng Pháp Thân
ư?
V́ thế, Thiện Tài vào lầu gác
của Di Lặc Bồ Tát, vào trong lỗ chân lông của
ngài Phổ Hiền, đều trong mười
phương thế giới hành Lục Độ vạn hạnh,
trải Phật sát vi trần số kiếp[46].
Ông xem đoạn kinh văn ấy có suy lường
được hay không? Phải biết Tam Tế không có thật
thể, phận phàm phu chỉ thấy được những
cảnh phàm phu có thể thấy, chẳng nên vin vào cảnh
được thấy bởi phàm phu rồi cho là Phật,
Bồ Tát cũng giống như thế, trọn chẳng
khác ǵ! Nay tôi dùng thí dụ để luận rơ, như tấm
gương chiếu mấy mươi tầng nước
non, lầu gác, thật không có gần - xa, nhưng lại thấy
xa - gần rành rành. Sắc pháp thế gian c̣n được
như thế, huống ǵ tâm pháp đă chứng duy tâm tự
tánh? Bởi thế, nói: “Trong một đầu lông, hiện
cơi Bảo Vương[47], ngồi trong vi
trần chuyển đại pháp luân”. Mười đời
xưa - nay, đầu - cuối chẳng ĺa cái niệm hiện
tại, vô biên cơi nước, ta - người chẳng cách
đầu một sợi lông. Thầy đă phát tâm bế
quan, hăy nên khẩn thiết chí thành lễ bái, tŕ tụng cầu
Tam Bảo gia bị khiến cho nghiệp tiêu, trí rạng,
chướng tận, phước cao.
Phàm những ǵ thuộc cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn, chỉ nên ngửa tin lời Phật,
chớ suy lường xằng. Nếu có thể khẩn
thiết đến cùng cực, sẽ tự có thể hiểu
rơ, cũng không cần phải hỏi ai khác! Nếu chẳng
dốc sức khẩn thiết, chí thành lễ bái, tŕ tụng,
suốt ngày lầm lạc suy lường những cảnh
giới mà phàm phu chẳng thể suy lường được
sẽ đi vào vết xe đổ của Huyễn Nhân pháp
sư[48], muốn chẳng vướng lấy tội báo báng
Phật, báng Pháp, báng Tăng, há có được chăng? Mong hăy sáng suốt
suy xét th́ may mắn lắm.
84.
Trả lời thư cư sĩ Phương Viễn Phàm
Người thế gian bệnh
tật phần nhiều đều do chính họ tự tạo.
Ngay cả căn bệnh của lệnh nghiêm[49] là do chẳng biết
cẩn thận bụng miệng, ham ăn trái cây và những
thứ lạnh mát mà ra! Đến khi mắc bệnh lại
chẳng khéo dưỡng sức để khôi phục, cứ
một mực thay đổi nhiều thầy thuốc. Mỗi
khi thầy thuốc gặp được người bệnh
giàu có liền hoan hỷ quá đỗi, bèn dùng đủ mọi
phương pháp bày vẽ, rồi mới làm cho bệnh bớt
đi, ngơ hầu thâu được nhiều tiền.
Nhưng người giỏi thuốc cũng chỉ chữa
được bệnh, chẳng thể chữa được
nghiệp. Ngay như Tử Trọng mắc bệnh loét ruột,
bác sĩ bảo không giải phẫu không được,
bà thím Tư của ông chẳng cam ḷng, bèn không chữa, cùng
Đức Chương liều mạng niệm Phật, niệm
kinh Kim Cang, năm ngày bèn khỏi. Căn bệnh ấy có thể
nói là ngặt nghèo nhất, nguy hiểm nhất, nhưng
không trị năm ngày bèn khỏi. Tử Tường bị
điên là do túc nghiệp, do bà thím Tư của ông chí thành lễ
tụng, nửa năm bèn khỏi. Cha ông đă quy y Phật
pháp, hăy nên y theo lời Phật, chớ tin tưởng bác
sĩ Tây Y phải đến chữa tại y viện của
họ.
Nếu như hết thảy bệnh
đều do y học chữa lành, không chữa sẽ không
lành th́ hoàng đế và những kẻ đại phú quư xưa
nay đều vĩnh viễn không đổ bệnh,
cũng vĩnh viễn không chết mất. Nhưng kẻ
nghèo khó lại ít bệnh, thường sống lâu, kẻ
phú quư lắm bệnh, lại hay đoản thọ! Nguyên
nhân v́ đâu? Do một là tự gây ra bệnh, hai là do thầy
thuốc gây nên bệnh. Có hai công năng tạo bệnh
như thế mà muốn thoát khỏi bệnh khổ há có
được ư? Mong ông hăy bảo cùng cha, không cần
phải lên Thượng Hải cầu Tây Y, cứ ở
nhà cầu A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát đại
y vương, sẽ tự có thể không dùng thuốc mà bệnh
lành. Cầu Tây Y th́ lành hay không chỉ có một nửa, cầu
đại y vương th́ hoặc là thân lành bệnh, hoặc
là thân chưa lành nhưng thần thức chắc chắn
thấy tốt hơn.
Nếu muốn được khỏe
ngay, hoàn toàn phế bỏ những giới đă giữ
trước kia, thật giống như khoét thịt thành vết
thương, bị tổn hại vô ích! Khi Tây Y chưa truyền
vào Trung Quốc, người Trung Quốc có bệnh đều
chẳng thể trị lành ư? V́ thế, phải buông vọng
tưởng xuống, đề khởi chánh niệm, sẽ
cảm ứng đạo giao, có thể tự khỏi hoàn
toàn! Như nói “trời lạnh thân yếu, phải mặc
áo tơ lụa; nếu không, chẳng thể sống
được!” Nếu mượn cớ lạnh yếu
để tự mong cầu loại vải nhẹ nhàng, hoa
mỹ th́ là kẻ không biết hổ thẹn, bởi phải
giết mạng tằm quả thật không ít! C̣n như
chuyện uống A Giao[50]
càng không nên hỏi, có khác ǵ ăn thịt đâu! Uống A
Giao có khỏi lạnh được chăng? Nếu hằng
ngày lễ bái thân thể tự nhiên sẽ mạnh mẽ, cần
ǵ phải dùng A Giao? Những người nghèo khó kia họ
cũng sống qua được mùa Đông, có ai cần
dùng vải lụa, A Giao đâu? Một lời tóm gọn hết:
“Không biết hổ thẹn!” và “chẳng biết ḿnh là hạng
người ǵ” mà thôi! Mong hăy thấu hiểu th́ may mắn
lắm!
85.
Trả lời thư cư sĩ Huệ Lăng
Nhận được thư
khôn ngăn cảm khái, thẹn thùng. Quang là một ông Tăng
tầm thường chỉ biết đến cơm cháo,
sao có thể cùng các vị luận bàn ngoại điển[51]?
Nhưng đă nhờ cậy đến, chỉ đành nói
đại lược duyên do. Muốn biết nghĩa lư ấy
và chủ trương của Liệt Tử[52] th́
trước hết phải biết Mạng là vật ǵ, Lực
là vật ǵ, cũng như nơi ư ông ta hiểu hai chữ ấy
nghĩa là ǵ, rồi mới bàn đến chủ
trương th́ mới là ngôn luận hữu ích cho thế
đạo nhân tâm. Nếu điều ǵ cũng không biết
th́ cái thuyết Lực - Mạng ấy, cả Nho lẫn Phật
đều không chấp thuận!
Mạng là ǵ? Chính là quả báo của
những ǵ đă làm trong đời trước, lại là
những ǵ có được do thuận theo đạo
nghĩa mà hành th́ mới gọi là Mạng. Cái ǵ có
được do chẳng theo đạo nghĩa mà hành
đều chẳng được gọi là Mạng, bởi
sau khi đạt được, cái khổ đời sau sẽ
chẳng nỡ thấy nghe được nổi! Như
trộm cướp tiền tài của người ta,
dường như tạm thời giàu có, một mai quan phủ
biết được, ắt phải đầu một
nơi, thân một nẻo, sao có thể lấy cái vui tạm
thời gọi là Mạng cho được?
Lực là ǵ? Là những ǵ đă làm
trong đời này. Nhưng cái làm ấy có hai thứ, một
đằng là chuyên dùng tài trí mưu mô dối trá, một
đằng là chuyên dùng khắc kỷ, giữ lễ để
tu tŕ. Liệt Tử nói đến Mạng lẫn lộn
chẳng phân biệt, nói đến Lực đa phần
chú trọng đến mánh khóe, lừa dối. V́ thế,
[khi bị bắt bẻ] “dẫu dốc sức nhưng sao
vẫn bị mạng đè nén”, không thể trả lời
được! [Liệt Tử] xem chuyện Khổng Tử
bị khốn đốn ở đất Trần, đất
Sái, xem chuyện Điền Hằng[53] chiếm
nước Tề là Mạng, như vậy c̣n có thể bảo
là biết Mạng được chăng? Khổng Tử
chẳng gặp được vua hiền, chẳng thể
làm cho thiên hạ b́nh trị yên vui, là do nghiệp lực của
dân chúng trong thiên hạ cảm vời, nào có liên can ǵ đến
Khổng Tử! Nhan Uyên chết yểu, nghĩa cũng giống
như thế. Điền Hằng có được nước
Tề là do soán đoạt mà được, sao có thể gọi
là Mạng? Nay tuy là vua Tề, nhưng một hơi thở
ra không hít vào được, liền thành tù nhân trong A Tỳ
địa ngục. Gọi đó là Mạng th́ chính là dạy
người đừng tu đạo nghĩa mà hăy mặc
sức cướp đoạt vậy!
V́ thế, tôi nói: “Liệt Tử không biết mạng! Chẳng thấy
Mạnh Tử luận về Mạng hay sao?” Cái mạng
ắt phải do cùng lư tận tánh mà đạt được
mới gọi là Chân Mạng. Nếu chẳng y theo đạo
nghĩa mà được, hoặc chẳng y theo đạo
nghĩa mà mất đều chẳng thể gọi là Mạng.
Liệt Tử luận về Lực, đa phần thuộc
về tài trí mánh khóe, biến trá, thánh hiền không thèm nói
đến! Hiền thánh đều nói chuyện khắc kỷ,
giữ lễ để tu tŕ: “Chỉ v́ thánh mất niệm
thành cuồng, nhưng cuồng khắc chế được
niệm sẽ thành thánh. Nhà tích thiện ắt điều
mừng vui có thừa, nhà chất chứa bất thiện ắt
tai ương có thừa. Làm lành trăm điều lành giáng
xuống, làm điều chẳng lành trăm họa
ương giáng xuống! [Cưa] cây dơi theo dây mực ắt
thẳng, vua nghe theo lời can gián nên thành thánh, thuận theo
đạo dẫn đến điều tốt lành, trái
nghịch lại là xấu, chỉ là do ảnh hưởng
vậy! Đến năm mươi tuổi biết bốn
mươi chín năm trước là sai, muốn giảm bớt
lỗi nhưng chưa thể, cho ta sống thêm vài năm,
năm mươi tuổi học Dịch ḥng tránh lỗi lầm
lớn. Ai cũng đều có thể là Nghiêu, Thuấn,
kiêng dè cẩn thận ngay cả khi không bị nh́n thấy,
kinh sợ ngay cả khi không bị nghe thấy”, đấy
đều là Lực. Đấy chính là những ǵ đạo
Nho nói.
C̣n như Phật giáo th́ hết thảy
chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật,
dạy sám hối nghiệp cũ, cải ác tu thiện, phải
mong sao đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
thiện, dùng Giới để giữ thân, chẳng làm
điều phi lễ, dùng Định để nhiếp
tâm, chẳng khởi vọng niệm, dùng Huệ đoạn
Hoặc, thấy rơ bản tánh, đều dùng cái Lực khắc
kỷ, giữ lễ tu tŕ. Hành theo cái Lực ấy c̣n thành
được Phật đạo, huống ǵ những thứ
thấp hơn ư? V́ thế, kinh Lăng Nghiêm nói: “Cầu
vợ được vợ (cầu
vợ là cầu người vợ hiền lành, trí huệ,
trinh tịnh; nếu
không như thế,
làm sao hướng về Bồ Tát cầu cho được!) cầu con
được con, cầu trường thọ được
trường thọ, cầu tam-muội được
tam-muội, như thế cho đến cầu Đại
Niết Bàn đắc Đại Niết Bàn”. Đại Niết
Bàn chính là Phật Quả rốt ráo, đều do y giáo tu
tŕ mà được, Lực ấy lớn lắm, nào có hạn
lượng!
Viên Liễu Phàm gặp Khổng tiên
sinh đoán những chuyện trước việc sau, nhất
nhất ứng nghiệm, bèn cho rằng “mạng có nhất
định”; về sau gặp Vân Cốc thiền sư[54]
khai thị, bèn ra sức tu tŕ cẩn thận, những
điều ông Khổng đă đoán, không ứng nghiệm
mảy may nào. Liễu Phàm là người hiền, dù ông ta có
làm xằng, làm bậy, lời đoán của ông Khổng
cũng chẳng linh. Do vậy, biết rằng: Hiền
thánh răn đời chỉ chú trọng tu tŕ. Như Lai dạy
người cũng giống như thế! V́ vậy, Phật
nói pháp môn Quyền, Thật, Đại, Tiểu, không ǵ chẳng
nhằm làm cho chúng sanh đoạn trừ Hoặc nghiệp
huyễn vọng, chứng triệt để Phật tánh vốn
sẵn có. V́ trong đời có kẻ cực ngu, cực
độn, tu tŕ lâu ngày liền trở thành đại trí
huệ, đại biện tài. Liệt Tử quy hết thảy
về Mạng chính là ngăn trở cái chí mong thành thánh,
thành hiền của người khác, khen ngợi cái tâm soán
đoạt, gian ác, khiến kẻ thấp hèn bị họa
hại vô cùng, người bậc thượng cũng nhụt
chí phấn đấu, gắng công cùng thời thế,
đến nỗi suốt đời chẳng được
dự vào hàng thánh hiền, trở thành một kẻ tầm
thường xoàng xĩnh.
Thiên văn sách ấy (tức thiên Lực
Mạng trong sách Liệt Tử) hoàn toàn vô ích cho đời,
nào có giá trị ǵ đáng để nghiên cứu! Quang lúc nhỏ
không nỗ lực, tuổi già chẳng biết ǵ, ngẫu
nhiên có ai hỏi đến, cứ mặc t́nh đáp theo ư
ḿnh, đúng hay sai mặc người chỉ dạy.
Hơn nữa, Quang tuổi gần bảy mươi, tinh
thần suy lụn, lại thêm bận việc quá nhiều,
thật chẳng thể gắng gượng được.
Xin đừng đem những chuyện như thế này lại
hỏi. Nếu c̣n hỏi nữa, sẽ gởi lại nguyên
thư, quyết chẳng hồi đáp kẻo khỏi vô
ích cho người, tổn hại cho ḿnh. Mong hăy sáng suốt
xét soi th́ may mắn lắm.
86.
Trả lời thư Bàng Khế Trinh
Đạo Tế[55] thiền sư là bậc thánh nhân đại thần
thông, muốn cho hết thảy mọi người sanh tâm
chánh tín, nên thường hiện những chuyện chẳng
thể nghĩ bàn, như uống rượu, ăn thịt
để che giấu cái đức của bậc thánh nhân,
ngơ hầu kẻ ngu thấy Ngài là người điên cuồng,
chẳng theo khuôn phép; do đó, chẳng thể tin tưởng.
Nếu
không, Ngài sẽ chẳng thể ở trong thế gian này.
Phàm Phật, Bồ Tát hiện thân, nếu thị hiện
giống như phàm phu th́ chỉ dùng đạo đức
để giáo hóa người khác, trọn chẳng hiển
lộ thần thông. C̣n nếu hiển lộ thần thông sẽ
chẳng thể ở trong thế gian này. Chỉ khi nào thị
hiện điên cuồng mới có thể hiển lộ thần
thông không trở ngại ǵ, chứ không phải là người
tu hành đều nên uống rượu, ăn thịt vậy!
Người lành trong thế gian c̣n chẳng nên uống
rượu ăn thịt, huống ǵ đệ tử Phật!
Nếu muốn giáo hóa chúng sanh nhưng chính ḿnh chẳng y
giáo phụng hành th́ chẳng những chẳng thể làm cho
người khác sanh ḷng tin, trái lại c̣n khiến họ
thoái thất tín tâm. V́ thế, chẳng thể học
đ̣i uống rượu, ăn thịt.
Ngài ăn thứ
chết vào, mửa ra thứ sống, ông ăn thứ chết
vào c̣n chẳng thể mửa ra miếng thịt nguyên dạng,
làm sao học đ̣i Ngài ăn thịt cho được? Ngài uống rượu
vào, bèn có thể biến thành vàng để thếp tượng
Phật, có thể khiến cho vô số cây gỗ lớn từ
trong giếng trồi lên. Ông uống rượu vào, khiến
cho nước giếng c̣n chẳng trồi lên nổi, sao học
đ̣i Ngài cho được? Truyện Tế Công có mấy
thứ, chỉ có truyện Túy Bồ Đề là hay nhất.
Gần đây, truyện ấy được lưu truyền
đến tám loại, đa phần do người đời
sau thêm thắt. Túy Bồ Đề cả văn lẫn
nghĩa đều hay, thuật những chuyện đều
là sự thật khi ấy. Người đời chẳng
biết nguyên do, nếu không học đ̣i xằng bậy
th́ lại lầm lạc hủy báng. Học xằng sẽ
quyết định đọa A Tỳ địa ngục,
hủy báng bậy bạ chính là đem tri kiến phàm phu ḍ
lường bậc thánh nhân thần thông, cũng là tội
lỗi! So với những kẻ học đ̣i, c̣n nhẹ
hơn nhiều lắm! Thấy chỗ chẳng thể
nghĩ bàn, nên sanh kính tín, thấy chỗ uống rượu
ăn thịt trọn chẳng chịu học, sẽ
được ích lợi chẳng bị tổn hại.
Mong hăy thấu hiểu th́ may mắn lắm!
87.
Trả lời thư cư sĩ Viên Văn Thuần
Nhận được thư của
Đại Viên cho biết cư sĩ và phu nhân cùng lệnh
lang đều muốn quy y với Quang, nhưng Quang là một
ông Tăng chỉ biết cơm cháo hủ bại không ra
ǵ, Đại Viên chẳng xét tường tận nên lầm
lạc quy y. Sao cư sĩ lại noi theo cái sai lầm ấy,
chẳng coi đó là nhơ bẩn vậy? Tuy nhiên, tượng
Phật bằng đất nặn, gỗ chạm, kính trọng
cũng có thể sanh phước, ông đă phát tâm, bèn
đem lầm lạc đáp tạ lầm lạc, một
mai ngộ ra đó chẳng phải là Phật thật cũng
chẳng ngại ǵ chuyển sang kính trọng vị Phật
thật, cố nhiên chưa hề không thể được!
Nay đặt cho ông pháp danh là Trí Thuần,
lệnh phu nhân là Trí Bổn, bởi chúng sanh vốn sẵn
có Phật trí, do phiền năo xen tạp như vàng trong quặng,
chẳng thể thật sự thọ dụng nên cái trí sẵn
có ấy biến thành vọng tri. Tuy vọng tri ấy từ
Bổn Trí mà khởi, nhưng Thể và Dụng của Bổn
Trí hoàn toàn bị mất. Nếu xoay ngược lại, niệm
Phật để nhiếp tâm th́ trí sẽ dần dần
quy về Thuần, đạt được Bổn. Đấy
là đại ư đặt tên cho vợ chồng ông vậy,
chẳng biết có hợp ư ông hay không? Thêm nữa, Trí Bổn
đă có thể một tháng ăn chay mười ngày, một
năm ăn chay ba tháng, sao không trường trai? Ăn thịt
loài vật để nuôi thân ta, con người ta vốn
đă quen nên yên ḷng. Hăy thử nghĩ lại, ắt sẽ
run sợ chẳng yên, huống ǵ thật sự giết chúng
để ăn hay sao? Mạnh Tử nói: “Nếu biết điều ǵ là phi nghĩa nó sẽ mau
kết thúc” Chồng và con đều trường trai,
sao bà nỡ chẳng ăn chay trường? Chánh nhân Tịnh
nghiệp lấy từ tâm bất sát, tu Thập Thiện
Nghiệp làm điều đầu tiên. Người ăn
thịt, dẫu chẳng tự giết, cũng khó tránh khỏi
sát nghiệp, bởi không giết sẽ không có thịt, dùng
tiền ép người giết thay cho ḿnh.
Phù Cầu nên gọi là Phước
Cầu. Cái họa trên hoàn cầu là do không biết sự lư
nhân quả báo ứng sanh tử luân hồi, nên tâm ḿnh mặc
t́nh dă man, gây nên thảm sự kẻ mạnh ăn thịt
kẻ yếu, tàn hại lẫn nhau. Ông đă quy y Phật
pháp, chính ḿnh hăy nên thực hành sự này, do ḿnh tự hành sẽ
dần dần thấu đến người khác, khiến
cho hết thảy trong là quyến thuộc, ngoài là xóm giềng,
làng nước và hết thảy những ai quen biết
cùng biết đến lư này, cùng đều chẳng làm các
điều ác, cùng vâng làm các điều thiện, kiêng giết,
bảo vệ sanh vật, ăn chay, niệm Phật th́ sát
nghiệp tiêu, phong tục thuần hậu, thần và
người ḥa thuận, thiên hạ thái b́nh.
Hai câu “đừng làm các
điều ác…” chính là Giới Kinh nói giản lược của tam
thế chư Phật, chớ nên coi thường, phải
xét kỹ từ nơi khởi tâm động niệm. Nếu
có thể thực hiện điều này đến cùng cực
sẽ c̣n có thể thành Phật đạo, huống là những
quả vị phước huệ khác! Trong kinh Đại
Thừa, Phật đă nói đến nhiều lần, chứ
không phải câu này trích từ bài Âm Chất Văn, mà chính là
Văn Xương Đế Quân trích dẫn kinh Phật vậy!
C̣n những thuyết tu tŕ Tịnh nghiệp khác trong Văn
Sao đă nói đủ, không cần phải viết cặn
kẽ. Đường đời hiện thời chính là
t́nh thế hoạn nạn, nếu chẳng lấy A Di
Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát để làm chỗ nương
tựa mà thường niệm, khi họa hoạn xảy tới
hoặc gặp chuyện bất trắc và những chuyện
th́nh ĺnh xảy tới, kêu xuông ích ǵ? Nếu tŕ niệm sẵn
ắt sẽ được ngầm chuyển dời, huống
khi sanh tử xảy đến, ai cũng phải có ngày
này, v́ thế phải nên thường nghĩ đến khi
lâm chung th́ sẽ chẳng phí sức theo đuổi hết
thảy những vọng tưởng trái phận và những
pháp môn chẳng giúp ích ǵ cho việc liễu sanh tử, bỏ
phế không tu pháp quyết định có thể
nương cậy để liễu sanh tử này. Nguyện
vợ chồng, cha con ông cùng không cho lời Quang là hủ bại
th́ may mắn lắm.
Chúng sanh đời Mạt
căn cơ hèn kém, chẳng nương theo pháp môn Tịnh
Độ, quyết định chẳng nhờ đâu liễu
thoát được! Những phường ham cao chuộng
xa, đa phần vượt quá phận ḿnh, tự kiêu, biết
được sự uyên thâm của lư tánh Thiền, Giáo,
bèn chẳng chú trọng Tịnh Độ. Do vậy, bỏ
Phật lực cậy vào tự lực, hóa ra đến
lúc kết cục đều trở thành gieo cái nhân xa, trọn
chẳng được lợi ích thật sự. Trí Bổn
đă kết nghĩa vợ chồng cùng ông, nếu ông thật
hành, lâu ngày chầy tháng bà ta trông thấy sẽ được
cảm hóa, không c̣n phải lo lắng nữa! Đàm Bích Vân
ham gấp [thành tựu], không phải ḿnh ông ta mắc
căn bệnh này, hết thảy người học Phật,
đa phần phạm phải căn bệnh ấy! Đă
có căn bệnh ấy, nếu không chiêu cảm ma cảnh
cũng sẽ chưa đắc nói là đă đắc. Phải
biết tâm vốn là Phật, do chưa trừ phiền năo
nên phải oan uổng làm chúng sanh. Hễ tiêu diệt
được phiền năo, Phật tánh sẵn có sẽ tự
nhiên hiển hiện giống như mài kính vậy, chỉ
mong trừ sạch chất bẩn, đừng lo không có ánh
sáng. Giống như chữa bệnh mắt, trừ
được màng mộng, mắt tự sáng lại. Khi
chưa trừ sạch cấu uế, chưa khử
được màng mộng, muốn cho quang minh sáng tỏ
há có được ư? Nếu quang minh có phát th́ chỉ
là yêu ma hiển hiện, quyết chẳng phải là quang
minh thật sự của kính hay mắt vậy! Phàm với
những ai mới phát tâm đều nên đem ư này bảo
rơ!
88.
Trả lời thư cư sĩ Viên Phước Cầu
Ông nói do Phật Học Toát Yếu[56]
chợt nẩy sanh chánh tín th́ một là do thiện căn
đời trước, hai là do nghiêm từ[57] un đúc nên
được như vậy. Ấn Quang là một ông
Tăng tầm thường, đối với pháp đạo
chẳng hiểu biết ǵ, chỉ tin tưởng chắc
chắn nơi Tịnh Độ mong đới nghiệp
văng sanh; với những ai có chí nguyện tương đồng
bèn tùy tiện lấy việc đối đáp làm sự
nghiệp của chính ḿnh. Về ư tợ hồ có thể
dùng được nhưng văn bút nông cạn, kém cỏi,
thật đáng bị bậc cao minh chê cười, khôn
ngăn hổ thẹn, bàng hoàng, sao dám nhận tiếng khen “văn
từ lẫn nghĩa lư đều viên diệu” cho
được! Chẳng sợ v́ thế phải vướng
lấy tội khiên “đem phàm lạm thánh” hay sao?
Như nói đến Niệm Phật
tam-muội, nói có vẻ dễ, đạt được
thật khó! Chỉ nên thường nhiếp tâm, khẩn thiết
niệm, lâu ngày sẽ tự đạt được. Dù
chẳng thể đạt được, vẫn do công
đức tin tưởng chân thành, nguyện thiết tha,
nhiếp tâm tịnh niệm ắt sẽ ngầm được
đức Phật tiếp dẫn, đới nghiệp
văng sanh. Sự nhất tâm, nếu ước về Lư theo
như đại sư Ngẫu Ích đă phán định th́
c̣n chưa phải là thân phận của người tu hành
hiện thời, huống ǵ Lư nhất tâm ư? V́ đoạn
Kiến Tư Hoặc mới gọi là Sự nhất tâm;
phá vô minh chứng Pháp Tánh mới gọi là Lư nhất tâm. Nếu
là bậc trong ngầm tu hạnh Bồ Tát ngoài hiện làm phàm
phu th́ với hai thứ nhất tâm này cố nhiên đều
chẳng khó khăn ǵ! Nhưng nếu thật sự là hạng
phàm phu đầy dẫy phiền năo th́ Sự nhất tâm
c̣n chưa mấy ai đạt được, huống ǵ
Lư nhất tâm? Xin hăy xem kỹ bức thư trao đổi
thật dài giữa Ấn Quang và vị cư sĩ X… ở
Vĩnh Gia ắt sẽ biết.
C̣n như sau khi ngộ Vô Sanh, hộ
tŕ, ǵn giữ, tiêu dung tập khí c̣n thừa sót, lúc ấy sẽ
tự hiểu rơ, cần ǵ phải hỏi trước?
Như người uống nước, lạnh -nóng tự
biết. Nếu không, dù người uống có mô tả
đến mười phần đích xác, người
chưa uống rốt cuộc vẫn chẳng biết mùi
vị ra sao! V́ cư sĩ xem chuyện ngộ Vô Sanh Nhẫn
là dễ dàng, lại sợ ḿnh ngộ rồi chẳng biết
ǵn giữ hộ tŕ đến nỗi các tập khí khác lại
khởi lên, được rồi lại bị mất
đi nên mới hỏi như thế. Chân Vô Sanh Nhẫn, kẻ
tiểu căn thật không thể đạt được,
v́ phải phá vô minh chứng Pháp Tánh, thấp nhất là bậc
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, hoặc bậc Sơ
Địa trong Biệt Giáo [mới ḥng làm được],
nói dễ dàng sao! Xin hăy hành theo những ǵ đă nói trong Ấn
Quang Văn Sao, đợi đến khi nào biết
được gốc ngọn của pháp môn Tịnh Độ
cũng như Tín - Nguyện - Hạnh chẳng bị các dị
thuyết của hết thảy tri thức lung lạc, khi ấy
nếu c̣n thừa sức sẽ chẳng ngại ǵ nghiên cứu
kèm thêm các kinh luận Đại Thừa để mở
mang trí thức ḥng làm căn cứ hoằng dương Tịnh
Độ. Như thế dẫu là phàm phu, vẫn có thể
tùy cơ lợi sanh, hành Bồ Tát đạo, đừng lầm
mong cao xa, sợ rằng chẳng rơ Sự lẫn Lư, khó khỏi
bị ma dựa. Lá thư dài trả lời vị cư
sĩ X… ở Vĩnh Gia chuyên trị căn bệnh ấy.
Bệnh ông và bệnh ông ấy tuy tên gọi khác nhau,
nhưng tánh chất là một. Cố nhiên Quang chẳng muốn
nói nhiều, mong ông sẽ lănh hội nơi lá thư đó.
Phải biết người đă
ngộ rồi và người chưa ngộ tu tŕ vẫn giống
nhau, nhưng tâm niệm lại khác. Người chưa ngộ
Vô Sanh th́ cảnh chưa xảy đến bèn săn
đón, cảnh hiện tiền bèn nắm níu, cảnh qua rồi
bèn nghĩ nhớ (Hai
chữ “phan lăm”攀攬 (tạm dịch là “nắm níu”) chỉ chung những ư niệm
yêu ghét, ưa nhàm, đừng nói là yêu mến mới là nắm
níu, c̣n ghét nhàm không phải là nắm níu). Người ngộ
Vô Sanh th́ cảnh tuy sanh diệt nhưng tâm không sanh diệt,
giống như gương sáng, đến không dính, đi
không lưu dấu. Tâm đối cảnh như
gương hiện h́nh, trọn chẳng có mảy may
tư tưởng chấp trước đam luyến. Tuy
là đối cảnh vô tâm, nhưng sóng trào biển Hạnh,
mây phủ cửa Từ, phàm mọi cương thường
luân lư thế gian và những chuyện thượng hoằng
hạ hóa mỗi mỗi đều nỗ lực thực
hành. Dẫu mất thân mạng, cũng chẳng trái vượt.
Lại đừng tưởng “đối cảnh vô tâm”
là đối với những chuyện tu tŕ tự lợi,
lợi tha, thượng hoằng hạ hóa đều bỏ
sạch; nếu hiểu vậy là dính sâu vào Không Ma, đọa
vào Ngoan Không. Do vậy, bác không nhân quả, mặc t́nh làm
điều tối tăm, trở thành đem phàm lạm
thánh, hoại loạn Phật pháp, gây nghi ngờ, lầm lạc,
là chủng tử A Tỳ địa ngục. Chuyện này
quan hệ rất sâu, do vậy Quang chẳng thể không tŕnh
bày đại lược sự lợi - hại vậy!
Con
người hoằng được đạo, chứ
không phải đạo hoằng người. Thế gian loạn
là do ác nghiệp của chúng sanh đồng phận cảm
vời. Các thuyết tà vạy, hủy báng cũng thế.
Phong tục cơi đời biến đổi thoạt đầu
là do một hai người phát khởi; trị - loạn,
tà - chánh, không ǵ đều chẳng phải vậy. Sao không
luận nơi sức người có thể chuyển biến
mà lại chuyên quy về Phật, Bồ Tát hiển lộ
thần thông biến hóa? Không phải là Phật, Bồ Tát
chẳng thể hiển lộ thần thông biến hóa,
nhưng v́ chúng sanh nghiệp nặng nên cũng
không làm ǵ được! Ví như mây dầy sương phủ
kín, mờ mịt chẳng thấy được mặt
trời, há có thể nói là mặt trời không có hay sao? Con
người cùng trời đất gọi là Tam Tài; Tăng
và Phật, Pháp gọi là Tam Bảo, gọi như thế là
là v́ ư nghĩa tham dự hỗ trợ công cuộc sanh
trưởng, hoằng dương pháp đạo, ông muốn
chuyên vứt bỏ sức người, phó mặc cho sức
của Phật, Bồ Tát, thiên địa, th́ c̣n có thể
được gọi là biết đạo hay chăng?
Đời đại loạn, đại bi Bồ Tát thị
hiện cứu giúp cũng chỉ cứu được người
hữu duyên. Do loạn là đồng nghiệp, c̣n những
túc nhân (nhân trong đời trước), duyên hiện thời
chính là biệt nghiệp. Có biệt nghiệp cảm
được Bồ Tát th́ sẽ được Bồ
Tát gia bị cứu giúp, há nên bàn luận hỗn độn!
Phương tiện thuận - nghịch của Bồ Tát,
sự cứu giúp chúng sanh, chẳng phải là chỗ thấy
biết của kẻ thấy lầm biết sai!
Nay tôi v́ ông nêu một thí dụ, do
đây sẽ suy ra, đừng nói chi Bồ Tát, dẫu là
oan gia thật sự cũng có thể khéo tạo thành nền
tảng để nhập đạo thành Phật. Chư
Phật lấy Tám Khổ làm thầy, thành vô thượng
đạo, khổ là cái gốc để thành Phật. Thêm
nữa, Phật dạy đệ tử lúc ban đầu
phải tu Bất Tịnh Quán, quán lâu ngày sẽ đoạn
Hoặc chứng Chân, thành A La Hán, như vậy Bất Tịnh
lại chính là cái gốc của thanh tịnh. Người Bắc
Câu Lô Châu[58] trọn không có khổ,
v́ thế chẳng thể nhập đạo. Nam Diêm Phù
Đề sự khổ quá nhiều nên người nhập
đạo liễu sanh tử chẳng thể tính nổi số!
Giả sử thế gian trọn không có những nỗi khổ
sanh lăo bệnh tử, đao binh, thủy, hỏa v.v… th́ ai
nấy sống say chết mộng trong ṿng dục lạc,
ai chịu phát tâm xuất thế để cầu liễu
sanh thoát tử? C̣n như nói người nắm giữ quân
mạnh, ở địa vị cao, gây ra đủ mọi
chuyện khổ năo chúng sanh cũng rất có thể là bậc
đại bi thị hiện đó chăng? Nghĩa này chỉ
có thể nói với người thông hiểu, chẳng thể
nói cùng kẻ vô tri thức! Nếu là người thông suốt
th́ dù gặp ác ma thật sự cũng được lợi
ích; kẻ vô tri nếu biết nghĩa này sẽ chẳng
biết phát tâm tu hành; trái lại c̣n hủy báng Phật pháp!
Ví như dùng thuốc, trẻ nít chẳng chịu uống
thuốc, bèn bôi lên vú, trẻ không uống bèn thành ra uống.
Ông muốn làm bậc thông nhân phô rộng nghĩa này th́ hại
người nhiều, lợi người ít, xin hăy im lặng,
chớ bàn nói xằng. Cảnh giới của Phật, Bồ
Tát, phàm phu chẳng thể ḍ lường được!
Trung Quốc nghèo yếu là do chẳng
nương vào lễ nghĩa, nếu y theo lễ nghĩa
đâu đến nỗi yếu nghèo! Thử hỏi đến
cái nhân của sự yếu nghèo chẳng phải điều
thứ nhất là do bọn tham quan ăn hối lộ làm lợi
cho ngoại nhân đó ư? Ông chưa nhận rơ nguồn bệnh,
nên mới nói thuốc không kiến hiệu, có thể gọi
là trí hay chăng? Ngoại quốc mạnh là v́ nước
họ nhỏ, nếu chẳng đồng tâm hiệp lực,
sẽ chẳng thể tự lập. Trung Quốc mỗi
người một ư, dù có đồng tâm, nhưng hễ ngoại
nhân đem lợi ra dụ, bèn bị của hối lộ
xoay chuyển, chẳng những không đoái đến
nước, đến dân, ngay cả chính bản thân ḿnh
cũng chẳng đoái hoài, rồi bảo là do phụng
hành lễ nghĩa nên bị thua thiệt, há có được
chăng? Xưa Lâm Văn Trung Công[59]
đuổi kẻ mọi rợ, chính là chứng cớ. Bất
cứ chuyện lớn - nhỏ nào về sau, có chuyện
nào chẳng phải là thay mặt cho Trung Quốc châu toàn
đó ư? Người Trung Quốc quá nửa là hạng
người quên mất tám chữ (tức hiếu, đễ,
lễ, nghĩa, trung, tín, liêm, sỉ), cho nên ngoại quốc
mới mạnh như thế, Trung Quốc yếu ớt
như thế! Nếu như ai nấy đều tuân thủ
lễ nghĩa th́ những hàng hóa vô ích của ngoại quốc
tiêu thụ vào đâu, Trung Quốc mỗi năm tiết kiệm
được mấy ngàn vạn vạn đồng.
Người Trung Quốc không làm, nhưng thật sự có
thể nói là làm đến cùng cực. Mạnh Tử nói: “Kẻ làm quan không được
sủng ái, đứa con ḍng thứ, thường bận
ḷng về những nguy cơ, lo lắng hoạn nạn sâu
xa, cho nên thông đạt”[60].
Ông tuy đọc sách trải đời,
nhưng không biết cái đạo đọc sách thấu
hiểu đời nên mới có lời hỏi như thế!
Kế sách ngày nay là phải nên đề xướng nhân quả
báo ứng, sanh tử luân hồi và cải ác tu thiện, tín
nguyện văng sanh là kế bậc nhất để văn hồi
kiếp vận, cứu nước cứu dân. Đàm huyền
thuyết diệu c̣n phải xếp vào loại kém hơn.
Nhưng muốn cứu thế mà chính bản thân không tận
lực hành, trọn chẳng có hiệu quả thật sự.
Từ bản thân đến cả nhà, từ cả nhà
đến cả ấp, từ ấp đến nước.
Phong hóa ấy vừa xướng, rất có thể sẽ
có hiệu quả chẳng thể nghĩ tưởng
được nổi! Nếu không, sẽ khó thể mộng
thấy được!
89.
Thư gởi Châu Pháp Lợi đồng tử
Con người một đời
thành hay bại đều do lúc niên thiếu nhiều phen tài
bồi mà ra. Ngươi đă thành đồng[61],
phải biết tốt - xấu, trọn chẳng
được học đ̣i những thói thời thượng,
hăy nên học Hiếu, học Đễ, học Trung Hậu,
Thành Thật. Trong lúc tuổi trẻ này, tinh lực cường
tráng, nên nỗ lực đọc sách. Phàm đọc qua những
sách ǵ nên nghĩ đến những điều sách đă nói,
phải hành theo điều đó, chẳng phải là đọc
xong rồi thôi! Những điều sách nói nếu chẳng
dễ lănh hội th́ Âm Chất Văn, Cảm Ứng Thiên
v.v… đều là nói thẳng, hăy khéo lănh hội! Hăy nên
thường đọc, thường ngẫm nghĩ, sửa
lỗi hướng thiện, trong lúc rảnh nên niệm A
Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát để mong tiêu
trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước
huệ, chớ cho như vậy là nhọc nhằn. Cổ
ngữ nói: “Trẻ khỏe
không nỗ lực, già lớn luống buồn
thương!” Lúc này nếu để lỡ làng quang âm,
sau này dù có nỗ lực cũng khó thành tựu, bởi thời
giờ đă qua, sức nhớ đă kém, học phải
dùng sức nhiều nhưng hiệu quả ít ỏi!
Thứ nhất phải làm một
người tốt, thấy người hiền mong
được bằng, thấy người không hiền
trong ḷng tự cảnh tỉnh. Thứ hai là phải biết
nhân quả báo ứng, nhất cử nhất động chớ
mặc t́nh phóng ư, cần phải nghĩ việc này có ích ǵ
cho ḿnh, cho người thân và cho mọi người hay
không? Chẳng những làm việc như thế, mà ngay cả
suy nghĩ động niệm cũng nên như thế. Khởi
tâm tốt sẽ có công đức, khởi tâm xấu sẽ
mắc tội lỗi! Phải nghĩ mong được
quả báo tốt, phải giữ tâm tốt, nói lời tốt,
làm chuyện tốt, có lợi cho người và vật, vô
hại cho ḿnh - người mới nên. Nếu không thể
như vậy, há có báo tốt ǵ để mà mong? Ví như
đem h́nh tượng xấu đặt trước
gương sáng, quyết định chẳng thể có h́nh
ảnh đẹp đẽ xuất hiện! H́nh bóng hiện
ra trọn chẳng khác ǵ h́nh tượng xấu xí ấy!
Nếu ngươi hiểu sâu xa nghĩa này, tương lai
ắt thành một bậc chánh nhân quân tử, khiến cho hết
thảy mọi người đều tôn trọng ái mộ!
Mong hăy suy nghĩ cẩn thận, xét nghĩ kỹ càng th́
may mắn lắm thay!
90. Thư gởi
Mă Khế Tây
Con người sống trong thế
gian phải biết giữ yên bổn phận, làm chuyện
vượt phận cũng như khen ngợi những chuyện
đó đều là cội nguồn chiêu họa, chuốc nhục.
Quang là một ông Tăng tầm thường, hèn kém, chỉ
biết cơm cháo, v́ đâu ông lại soạn truyện cho
tôi, bạo gan dám viết bốn câu: “Nay cách thánh đă xa, bậc chân tu hành ít ỏi…” gán
cho tôi khiến tôi đắc tội với bậc thiện
tri thức, hiền sĩ, đại phu trong Tông, Giáo. Ư ông
cho rằng càng nói dễ nghe là càng vinh hạnh ư? Chẳng
biết ḿnh đă đem phàm lạm thánh, tội chẳng thể
dung! Ông cũng đă từng xem kinh Lăng Nghiêm, sao chẳng
biết phạm đại vọng ngữ, tội ấy nặng
hơn tội sát, trộm, dâm trăm ngàn vạn ức lần
ư? Ông biết sai cứ làm, chẳng những chính ông tội
lỗi quá sức, ngay cả Quang cũng đang bị
người sáng mắt thóa mạ, tương lai phải
chịu khổ báo nơi A Tỳ địa ngục, không
có ngày ra. Ví như thứ dân xưng bừa là đế
vương, tội ắt phải diệt tộc. Ấy
là v́ đại vọng ngữ hoại loạn Phật
pháp, gây nghi ngờ, lầm lạc chúng sanh. Ông có nên bày ra lời
bịa đặt ấy chăng?
Mong hăy đem bản thảo ấy
thiêu đi, từ nay về sau chớ nên viết ǵ nữa.
Tôi chỉ mong được sanh Tây Phương, muốn
truyền lại [truyện ấy] để làm ǵ? Ông cho rằng
do vậy mới có thể lưu tiếng thơm trăm
đời ư? Không biết mù quáng soạn cuốn truyện
bịa đặt ấy, chẳng những để tiếng
xấu vạn năm lại c̣n phải chịu khổ
vĩnh kiếp. Nếu cho lời tôi nói là sai th́ chính là quyến
thuộc của ma vương, xin từ nay hăy đoạn
tuyệt!
Ấn
Quang Văn Sao,
Quyển
Thứ Nhất
hết
(Phần
thứ tư hết)
[1] Thiên Chân: Chân lư tồn tại tự
nhiên không cần phải tạo tác. Sách Chỉ Quán Phụ
Hành Truyền Hoằng Quyết, quyển 1 giảng: “Lư không tạo tác, nên gọi là
Thiên Chân”.
[2] Lệnh nghiêm: Tiếng gọi tỏ ư tôn trọng cha người khác.
Nhạc mẫu: mẹ vợ hoặc mẹ chồng. Ở đây là mẹ vợ.
[3] Lăng Nghiêm Chánh Mạch là tác phẩm chú giải kinh Lăng Nghiêm của Giao Quang đại sư đời Minh.
[4] Đại Trí Luật Sư
(1048-1116) là ngài Thích Nguyên Chiếu, tự là Trạm Nhiên,
hiệu An Nhẫn Tử, người xứ Dư Hàng,
tỉnh Chiết Giang. Ngài xuất gia từ nhỏ, thọ
Cụ Túc Giới năm 18 tuổi, theo học giáo nghĩa
Thiên Thai với ngài Thần Ngộ Xử Khiêm, nhưng
rất hâm mộ Tỳ Ni. Về sau, Sư thọ Bồ
Tát Giới với ngài Quảng Từ, nối tiếp Nam
Sơn Luật Tông. Trong thời Nguyên Phong nhà Tống, Sư
trụ tŕ chùa Chiêu Khánh, hoằng truyền giới luật.
Về già trụ tŕ chùa Linh Chi, nên thường
được gọi là Linh Chi Tôn Giả. Khi ngài mất,
được tôn thụy hiệu là Đại Trí Luật
Sư.
[5] Chùa Linh Ẩn nằm ở núi Linh Ẩn tại Tây Hồ, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Năm Hàm Ḥa nguyên niên (326) nhà Đông Tấn, sa-môn Ấn Độ Huệ Lư đến nơi này, thấy ngọn Phi Lai, khen ngợi: “Ngọn núi nhỏ của Linh Thứu không biết bay đến đây từ năm nào? Hồi Phật c̣n tại thế, nhiều vị tiên linh ẩn cư nơi này”. Bèn lập chùa sau núi, đặt tên là Linh Ẩn, gọi tên ngọn núi đó là Phi Lai. Năm Cảnh Đức thứ tư đời Tống (1007), đổi tên là Cảnh Đức Linh Ẩn Thiền Tự. Đến năm cuối niên hiệu Kiến Viêm, chùa bị hủy hoại trong loạn lạc, trong năm Thiệu Hưng mới được tái lập. Năm Chí Chánh thứ 19 (1359) đời Nguyên, chùa lại bị phá hủy, rồi được tái lập trong niên hiệu Hồng Vũ đời Minh, đổi thành tên hiện đại là Linh Ẩn. Trong niên hiệu Khang Hy, chùa được sắc tứ là Vân Lâm Thiền Tự, nhưng dân gian vẫn gọi theo tên cũ.
[6] Văn
Thù Nhất Hạnh: Tức Nhất Hạnh tam-muội
được dạy trong kinh Văn Thù Bát Nhă: “Thiện nam tử, thiện
nữ nhân muốn hành Nhất Hạnh tam-muội, nên vào
chỗ vắng vẻ, bỏ các loạn ư, chẳng
chấp vào h́nh tướng, dốc ḷng chuyên xưng
niệm danh hiệu một đức Phật. Tùy theo
đức Phật ở phương nào bèn hướng
thẳng về đó. Nếu có thể đối với
một đức Phật niệm niệm liên tục, th́
ở ngay trong ấy sẽ thấy được quá
khứ, vị lai, hiện tại chư Phật. V́ sao?
Niệm một đức Phật công đức vô
lượng vô biên, cùng một công đức với
niệm vô lượng chư Phật không hai. Phật
pháp chẳng thể nghĩ bàn vô phân biệt”.
[7] Tức bộ Phổ Đà Sơn Chí, tức bộ sách ghi chép lịch sử truyền thừa của Phổ Đà Sơn.
[8] C̣n gọi là Trung Hữu, là khoảng tồn
tại trung gian sau khi đă chết, trước khi thọ
sanh. Câu Xá Tông cho nhất định là có Trung Ấm, Thành Thật
Tông bác quan điểm này. C̣n Đại Thừa cho rằng
Trung Ấm có hay không chẳng nhất định: Người
cực thiện hay cực ác sẽ không có thân Trung Ấm v́
sanh thẳng vào thân sau. C̣n những người khác sẽ
có thân Trung Ấm. Sách Đại Thừa Nghĩa
Chương giảng: “Khi mạng
báo đă hết, th́ gọi là Vô Hữu. Sau khi sanh ra, trước
khi chết đi th́ gọi là Bổn Hữu. Giữa hai
thân ấy th́ h́nh dáng hiện trong cơi Âm gọi là Trung Hữu”.
[9] Viên Trạch: Trong lần khai thị tại
pháp hội Tức Tai Hộ Quốc ở Thượng Hải,
tổ Ấn Quang đă kể chuyện thiền sư Viên
Trạch đời Đường như thế này: Do cha của
Lư Nguyên làm quan trấn thủ Đông Đô bị An Lộc Sơn
làm phản, giết chết. Lư Nguyên chẳng muốn làm
quan, bèn biến căn nhà ḿnh ở Lạc Dương thành
chùa Huệ Lâm, thỉnh Viên Trạch làm Ḥa Thượng; Lư
Nguyên cũng tu hành ngay tại đấy. Qua mấy năm,
Lư Nguyên muốn triều bái Nga Mi, mời Viên Trạch cùng
đi. Viên Trạch muốn đi theo đường Thiểm
Tây, nhưng Lư Nguyên chẳng muốn đến kinh đô
nên nhất định theo đường thủy Kinh Châu.
Viên Trạch đă tự biết ḿnh chẳng trở về
được nên liền dặn ḍ hậu sự, rồi
cùng Lư Nguyên ngồi thuyền đi. Thuyền bơi đến
thượng du Kinh Châu, sắp gần đến Giáp
Sơn, thế nước chảy xiết, chưa đến
tối đă phải cắm thuyền. Chợt có một
người đàn bà mặc quần gấm, ra kéo nước
bên sông. Viên Trạch vừa trông thấy, hai mắt ứa lệ.
Lư Nguyên hỏi nguyên do, Viên Trạch đáp: “Ta chẳng chịu
đi theo đường này là v́ sợ bà ta. Bà ta mang thai
đă ba năm, chờ ta sanh làm con. Chẳng thấy bà ta
c̣n có thể trốn lánh, chứ nay đă thấy, không cách
nào không làm con bà ta được! Ông nên tụng chú, giúp ta
mau sanh. Đến ngày thứ ba, hăy đến nhà thăm ta. Ta
trông thấy ông, cười một tiếng làm tin. Mười
hai năm sau, đêm Rằm tháng Tám, đến bên bờ giếng
Cát Hồng tại Thiên Trúc ở Hàng Châu gặp lại ta”.
Nói xong, Viên Trạch tọa thoát. Bà nọ liền sanh con.
Ngày thứ ba, Lư Nguyên đến thăm, đứa bé liền
cười. Sau đấy, Lư Nguyên quay về chùa Huệ
Lâm, thấy trong quyển kinh đă viết sẵn lời dự
ngôn về hậu sự, càng thêm tin Sư Viên Trạch chẳng
phải là thường nhân. Mười hai năm sau, Lư
Nguyên đến Hàng Châu. Tới đêm Rằm tháng Tám, ông
đến chỗ ước hẹn chờ đợi; chợt
thấy bên sông có đứa bé trai chăn trâu, ngồi vắt
vẻo trên lưng trâu, dùng roi gơ sừng trâu, hát:
Trên đá ba sinh, vẫn nguyên hồn
Ngâm gió, thưởng trăng lọ phải
bàn
Thẹn thấy cố nhân t́m đến
gặp
Thân này tuy khác, tánh thường c̣n.
Lư Nguyên nghe xong bèn
đến chào hỏi. Hàn huyên xong xuôi, đứa bé lại
đọc:
Thân trước, thân sau sự vấn
vương
Bàn chuyện nhân duyên luống đoạn
trường
Ngô Việt giang sơn chơi khắp cả.
Gác chèo mây khói, ẩn ao chuôm.
Rồi ruổi trâu
đi mất.
[10] Đức Phật thiên chân là tên gọi khác của Pháp Thân.
[11] Bảy đường (Thất Thú): Tức là lục thú (nhân, thiên, A Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) và Tiên đạo.
[12] Tứ Thánh: Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác.
[13] Tục Thể là lối viết thường dùng trong
dân gian cho nhanh, không đúng với cách viết chánh thức
của chữ Hán, như chữ Đăng 燈 viết thành灯, Thiên 遷 viết thành 迁 v.v... Đặc
điểm lớn nhất của Tục Thể là giản
lược nét bút, đôi khi biến cải âm thanh. Đa số
chữ Tục Thể biến thành chữ Hán giản thể
hiện thời.
Thiếp
Thể là lối viết trên các tờ thiếp, b́nh phong, quạt
cho đẹp, mềm mại hơn lối viết cứng
cỏi dùng để khắc bia.
Biến
Thể là cách viết biến đổi tự dạng sao
cho thật đẹp, thật bay bướm trong thư
pháp, gần với lối chữ Thảo.
Nói
chung, ba thể loại này khiến người không chú ư dễ
đọc sai chữ, hoặc hiểu lầm ư nghĩa, thậm
chí không nhận được mặt chữ, nên bị Tổ
quở.
[14]
Sở dĩ nói là trái thời v́ thời cổ, các chữ
ấy được dùng lẫn nhau không phân biệt. Nay
nếu viết theo lối cổ, sẽ gây hiểu
lầm; ví dụ chữ Ma 魔 (ma quỷ) khác
với Ma 磨 (mài).
[15] Thương Hiệt: Theo truyền thuyết, Thương Hiệt là sử quan của Hoàng Đế, ông là người đầu tiên sáng tạo ra chữ Hán.
[16] Trùng văn điểu thư: chỉ lối chữ Hán theo lối cổ, lối viết ngoằn ngoèo giống như con ṇng nọc nên c̣n gọi là chữ Khoa Đẩu, “trùng văn điểu thư” là chữ viết trông giống như con trùng, hoặc vết chân chim.
[17] Phá Thể là những chữ viết tự sáng chế không tuân theo năm thể loại Tục Thể, Thiếp Thể, Biến Thể, Bi Thể cũng như không tuân thủ các loại chữ Hành, Chân, Khải, Thảo.
[18] Khi xưa chép kinh, chép sách trên một mặt mảnh giấy dài, chép đủ bao nhiêu trang đó sẽ xếp tờ giấy ấy sao cho có mặt có chữ lộ ra ngoài, khâu lại thành sách. Những chỗ xếp giấy giữa hai trang thường có ḍng chữ đề tên sách và số trang.
[19] Sáu ngày chay (Lục Trai): C̣n gọi là Nguyên Thủy Lục Trai, tức mỗi tháng ăn chay sáu ngày: mồng tám, mười bốn, rằm, hai mươi ba, hai mươi chín, ba mươi. Theo những kinh trong tạng A Hàm như Tứ Thiên Vương Kinh, Tạp A Hàm Kinh, Phật Bổn Hạnh Kinh, Thập Tụng Luật, trong sáu ngày này, Tứ Thiên Vương giáng thế tuần tra nhân gian thiện ác.
Thập Trai: Thập Trai chỉ tồn tại trong những truyền thống Phật giáo chịu ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc, tức là mỗi tháng ăn chay mười ngày để lễ kính một vị Phật hoặc Bồ Tát tương ứng. Mồng Một: Định Quang Phật, mồng Tám: Dược Sư Như Lai, ngày 14: Phổ Hiền Bồ Tát, ngày 15: A Di Đà Phật, ngày 18: Quán Thế Âm Bồ Tát, ngày 23: Đại Thế Chí Bồ Tát, ngày 24: Địa Tạng Bồ Tát, ngày 28: Tỳ Lô Giá Na Phật, ngày 29: Dược Vương Bồ Tát, ngày 30: Thích Ca Như Lai. Mười ngày chay này đôi khi c̣n gọi là Chuẩn Đề Thập Trai (theo Phật Quang Sơn Đại Từ Điển).
[20] Hiền Thủ là tông Hoa Nghiêm, do ngài Hiền Thủ hoằng dương tông này nên gọi là tông Hiền Thủ. Từ Ân: Tức Pháp Tướng Tông hay Duy Thức Tông. Tông này do ngài Huyền Trang sáng lập, nhưng đệ tử ngài Huyền Trang là pháp sư Khuy Cơ ở chùa Từ Ân (thuộc kinh đô Trường An đời Đường) cực lực xiển dương nên thường gọi là tông Từ Ân.
[21] Bí Mật: Chỉ Mật Tông (c̣n gọi là Chân Ngôn Tông).
[22] Tân dân: Tuy mặt chữ viết là thân dân (親民) nhưng phải đọc là “tân dân”, v́ thời cổ Tân 新 và Thân 親dùng lẫn nhau. Thông thường, “tân dân” được hiểu là làm cho dân bỏ cũ đổi mới, tức là bỏ điều ác hướng đến cái thiện.
[23] Quẻ (Quái): Kinh Dịch dùng một vạch liền tượng trưng cho Dương, một vạch đứt tượng trưng cho Âm (Âm và Dương gọi là Lưỡng Nghi). Chồng hai vạch lên nhau, ta có được bốn tượng (hai vạch liền, đứt trên liền dưới, hai vạch đứt, liền trên đứt dưới) đặt tên là Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm (gọi chung là Tứ Tượng). Chồng mỗi vạch Âm hay Dương lên bốn quẻ này ta có được tám quẻ (gọi là Bát Quái). Lần lượt chồng tám quẻ ấy lên nhau, ta có được sáu mươi bốn quẻ kép. Chẳng hạn như quẻ Càn trên, quẻ Khôn dưới th́ gọi là Thiên Địa Bỉ. Đối với mỗi quẻ, lại có lời giải thích ư nghĩa của từng quẻ, thường gọi chung là các “đại tượng”.
[24] Giáo Quán Cương Tông là tác phẩm của
ngài Trí Húc Ngẫu Ích (1599-1655) soạn vào đời Minh,
được xếp vào quyển 43 của Đại
Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, tŕnh bày đại lược
những giáo nghĩa trọng yếu của tông Thiên Thai. Do
nhận thấy cuốn Thiên Thai Tứ Giáo Nghi của tổ
Trí Giả giảng về cách tu hành Chỉ Quán quá đại
lược, nên Tổ soạn thêm cuốn này để xiển
dương giáo nghĩa ấy.
[25] Hiển Ấm (1902-1925), người xứ Sùng Minh, tỉnh Giang Tô, tự là Đại Minh, đệ tử xuất gia của ngài Đế Nhàn, thiên tư thông mẫn, học thông Tam Tạng, giỏi nhất là về mặt từ chương. Năm Dân Quốc 12 (1923) cùng với Bao Thừa Chí qua Nhật Bản học Mật tông tại Thiên Đức viện tại núi Cao Dă, được truyền quán đảnh. Năm Dân Quốc 14 quay về Thượng Hải, Hàng Châu truyền thọ Mật pháp, nổi danh một thời, nhưng cũng thị tịch ngay trong năm ấy, chỉ thọ 24 tuổi
[26] Bất Khả Lục chính là bộ Thọ Khang Bảo Giám, nội dung khuyên nên tiết chế sắc dục, cũng như nêu những chuyện phước báo do biết chế ngự sắc dục, những ngày tháng nơi chỗ, dịp nào, vợ chồng không nên chung đụng để khỏi bị tổn hại v.v…
[27] Ban Thiền (Panchen Lama): là vị lănh tụ
tôn giáo đứng hàng thứ hai của Tây Tạng sau Đại
Lai Lạt Ma. Khi Đại Lai Lạt Ma đời thứ
năm (Ngawang Lobsang Gyatso) thống nhất Tây Tạng, ông
đă phong cho thầy ḿnh là Lobsang Chokyi Gyatsen tước vị
Panchen Lama và truy tặng lên đến ba đời trước
đó. Do vậy, Lobsang Chokyi Gyatsen được coi là Ban
Thiền Lạt Ma đời thứ tư. Ban Thiền có
nghĩa là “đại trí huệ, đại học giả”.
Ông này được coi là hóa thân của vị đệ tử
thứ tư (tức Kherabje) của tổ Tông Khách Ba (Tsong
Khapa) thuộc Hoàng Giáo (Gelugpa) Tây Tạng. Vua Thuận Trị
nhà Thanh phong cho Ban Thiền tước hiệu Bác Khắc
Đa (Bác Khắc Đa là tiếng Mông Cổ, có nghĩa là
Duệ Trí Anh Vũ). Đến đời Ban Thiền thứ
năm, lại được Thanh Thánh Tổ (Khang Hy) phong
thêm hiệu Ngạch Nhĩ Đức Ni (Erdeni), nghĩa là
Quang Hiển. Ban Thiền thường được coi là
hóa thân của Phật A Di Đà v́ Đại Lai Lạt Ma
thứ năm tự xưng là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ
Tát. Ban Thiền đời thứ chín do bất ḥa với
Đại Lai nên chạy sang Trung Quốc sống ở Bắc
Kinh, đến năm 1935 theo lời mời của Đại
Lai thứ 13 mới trở về Tây Tạng, nhưng mất
trên đường về. Vị Ban Thiền được
tổ Ấn Quang nhắc đến ở đây xét theo
niên đại chính là vị Ban Thiền thứ chín.
[28] Hoằng Pháp đại sư (Kobo Dashi 774-835): Khai tổ Chân Ngôn Tông Nhật Bản. Sư xuất gia năm 12 tuổi tại Ḥa Tuyền Trấn Vĩ Sơn Tự, pháp danh là Giáo Hải, sau đổi là Như Không, thọ Cụ Túc Giới ở chùa Đông Đại năm 14 tuổi, được đổi tên là Không Hải. Năm 15 tuổi, trong mộng từng cảm được kinh Đại Nhật, nhưng chưa giải ngộ. Năm 23 tuổi, vượt biển sang Trung Hoa, được thọ pháp Mật Tông nơi A-xà-lê Huệ Quả chùa Thanh Long, được quán đảnh làm A-xà-lê, mật hiệu Biến Chiếu Kim Cang. Năm Đại Đồng nguyên niên (806), Sư trở về Nhật Bản, giảng kinh Đại Nhật ở chùa Cửu Mễ thuộc Kinh Đô (Kyoto), cực lực hoằng dương Mật Tông, biện luận khuất phục các vị Đạo Hùng của Hoa Nghiêm Tông, Viên Chứng của Thiên Thai Tông nên được triều đ́nh cho phép hoằng dương Mật Giáo rộng khắp nước Nhật. Ngài từng truyền thọ Mật pháp Kim Cang Giới cho các vị Tối Trừng (tổ ḍng Thai Mật), Ḥa Khí, Chân Cương v.v… Năm Hoằng Nhân thứ bảy (817), Sư được vua ban cho Cao Dă Sơn để kiến lập đạo tràng, được ban hiệu là Truyền Đăng pháp sư. Năm thứ 14, vua ban chiếu công nhận Cao Dă Sơn là đạo tràng vĩnh cửu của Mật Tông. Sư nhập diệt năm Thừa Ḥa thứ hai (835), thọ 62 tuổi. Những trước tác quan trọng nhất Biện Hiển Mật Nhị Giáo Luận, Bí Tạng Bảo Thược, Thập Trụ Tâm Luận, Tức Thân Thành Phật Nghĩa, Thanh Tự Nghĩa, Hồng Tự Nghĩa, Bát Nhă Tâm Kinh Bí Kiện (những tác phẩm này được coi là cơ sở lư luận kinh điển cho Chân Ngôn Tông Nhật Bản), Phó Pháp Truyện, Ngự Di Cáo, Đại Tất Đàm Chương, Triện Lệ Vạn Tượng Danh Nghĩa, Văn Bút Nhăn Tâm Sao, Tánh Linh Tập v.v...
[29] Ư nói chớ hiểu lầm văn tự, đến nỗi không hiểu được ư nghĩa chân thật của kinh.
[30] Vua Ca Lợi (Kalingarā) là một vị vua trong kiếp quá khứ của
Phật, đôi chỗ c̣n phiên âm là Yết Lợi
Vương, Ca Lăng Già Vương, Yết Lăng Già
Vương, hoặc Già Lam Phù Vương, hoặc dịch
nghĩa là Đấu Tránh Vương, Ác Sanh Vương, Ác
Thế Vương, Ác Thế Vô Đạo Vương. Thuở
quá khứ, Phật là một vị tiên nhân tu Nhẫn Nhục,
ông vua này ác nghịch vô đạo. Một hôm, vua rời
cung du hành. Khi vua ngủ, các thị nữ bỏ đi
chơi, gặp vị tiên nhân đang tọa thiền bèn ngồi
lại nghe pháp. Vua tỉnh giấc, đi t́m, thấy vậy,
ghen tức, sai người chặt chân tay tiên nhân. Tiên nhân vẫn
không sân hận, lại c̣n thề khi thành Phật sẽ
độ vua này trước. Vị tiên nhân khi ấy nay là
Phật Thích Ca, vua Ca Lợi là ngài Kiều Trần Như.
[31] Bài Ấn Quang Pháp Sư Truyện do Mă Khế Tây viết.
[32] Du ấn: Một lối in dùng mực pha dầu để in, ta thường gọi là quay ronéo.
[33] Hải Triều Âm là tờ tạp chí Phật giáo trứ danh do Thái Hư đại sư, Tưởng Tác Bảo, Trần Nguyên Bá, Hoàng Bảo Thương v.v… sáng lập. Thoạt đầu báo có tên là Giác Xă Tùng Thư, ra số đầu vào tháng 11 năm Dân Quốc thứ 7 (1918), cứ ba tháng ra một số, đăng tải những bài nghiên cứu và hoằng dương Phật pháp. Sau khi phát hành được năm kỳ bèn đổi thành nguyệt san và đổi tên là Hải Triều Âm. Tờ báo này hiện vẫn c̣n đang phát hành tại Đài Loan.
[34] Lâm san: Tạp chí của Cư Sĩ Lâm.
[35] Tử Tư chính là cháu của Khổng Tử, ông tên thật là Khổng Cấp. Tương truyền, Mạnh Tử học đạo với ông này.
[36] Văn Chánh Công là thụy hiệu của danh thần Tăng Quốc Phiên đời Thanh. Nhiếp Vân Đài chính là cháu ngoại của Tăng Quốc Phiên. Ông Tăng học rộng, văn chương tinh áo, có tài chính trị, cùng với Lư Hồng Chương, ông đă tích cực dẹp yên nội loạn dưới thời vua Quang Tự. Những trước tác của ông được tập hợp thành bộ Tăng Văn Chánh Công Toàn Tập rất nổi tiếng.
[37] Đây là cách nói quen thuộc của người Tàu thời xưa, khi đă có chồng không gọi tên tục (nhũ danh) mà gọi ghép họ chồng và họ ḿnh. Khang Kim Thị nghĩa là bà họ Kim vợ ông họ Khang.
[38] Ông này là người Vũ Cương,
tỉnh Hồ
[39] Chỉ chung các loại sách dạy về cách xem mạch chẩn bệnh như B́nh Hồ Mạch Quyết, Vương Thúc Ḥa Mạch Quyết.
[40] Ư nói những hạn chế về việc nghiên cứu kinh giáo đă bị bỏ đi, chẳng hạn như xưa kia tại gia cư sĩ không được nghiên cứu Luật Tạng.
[41] Tam tế, c̣n gọi là tam thế, tức quá khứ, hiện tại, vị lai.
[42] Mười giới chính là thập pháp giới gồm lục phàm pháp giới (trời, người, súc sanh, A Tu La, địa ngục, ngạ quỷ) và tứ thánh pháp giới (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật).
[43]
Tử Tấn: theo truyền thuyết ông này vốn là thái
tử của Châu Linh Vương, thường được
gọi là Vương Tử Tấn, tính thích thổi tiêu,
vào Tung Sơn tu luyện ba mươi năm, sau cỡi
bạch hạc bay lên tận đỉnh Hầu Sơn.
Về sau thành tiên. Hầu Sơn nay thuộc huyện Yển
Sư, tỉnh Hà
[44] Những người tu Tiên về sau theo thuyết của Cát Hồng thường nấu luyện thủy ngân, ch́, vàng, lưu huỳnh... theo những phương thức bí truyền thành một loại thuốc họ tin là uống vào sẽ trường sanh bất tử, thành tiên bay lên trời, gọi là Kim Đan. V́ thế, khi ai tu thành tiên cũng gọi là “đan thành” (luyện Kim Đan thành công). Rất nhiều người đă trúng độc chết do uống những thứ Kim Đan này.
[45] Lữ Thuần Dương: Tức Lữ Nham, tự Động Tân, đạo hiệu Thuần Dương Tử, là người huyện Vĩnh Lạc, Phố Châu. Trong thời Đường Vũ Tông (841-846), ông hai lượt thi rớt Tiến Sĩ, lúc ấy đă 64 tuổi, ở Trường An (Hàm Đan), gặp được Vân Pḥng tiên sinh (Chung Ly Quyền), thị hiện giấc mộng như Tổ Ấn Quang đă thuật trong đoạn văn trên. Họ Lữ tỉnh mộng, theo Chung Ly Quyền tu học, sau thành Tiên.
[46] Cuối phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, sau khi tham học với năm mươi mốt vị thiện tri thức, Thiện Tài gặp vị thiện tri thức thứ 52 là ngài Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát dẫn Thiện Tài vào Tỳ Lô Giá Na Tạng lâu các của ḿnh. Thiện Tài quán sát những cảnh tượng trong ấy bèn tự chứng ngộ Pháp Thân.
[47] Bảo Vương là một danh hiệu
tôn xưng đức Phật, nói đủ là Bảo
Vương Như Lai, ư nói đức Phật quư báu không ǵ
bằng. Cơi Bảo Vương tức là phạm vi hóa độ
của đức Phật (tối thiểu là một tam
thiên đại thiên thế giới).
[48] Huyễn Nhân pháp sư là một nhà sư sống cùng thời tổ Ấn Quang. Sư không tin Tịnh Độ, thường chê cười Tịnh Độ. Trong Thái Hư Đại Sư Toàn Tập cũng có cho biết vị này từng tranh biện với tổ Ấn Quang.
[49]
Lệnh nghiêm: tiếng gọi tỏ vẻ kính trọng cha
người khác.
[50] A Giao: tên một loại thuốc, đặc sản của huyện A tỉnh Sơn Đông. Thuốc chế bằng cách dùng nước giếng A Tỉnh nấu da con lừa đen thành keo, nên gọi là A Giao.
[51] Ngoại điển: Những kinh sách không phải của Phật giáo đều gọi là ngoại điển.
[52] Liệt Tử: Tức Liệt Ngự Khấu, một tư tưởng gia thời Chiến Quốc. Tác phẩm của ông ta cũng được gọi là Liệt Tử, hay gọi theo truyền thống Đạo Gia là Xung Hư Kinh. Thiên văn sách được nói đến trong lá thư này chính là thiên Lực Mạng của sách Liệt Tử.
[53] Năm 418 trước Công nguyên, Điền Hằng đánh bại tướng của Tề Giản Công. Tề Giản Công phải bỏ trốn, sau bị giết, Điền Hằng trở thành vua nước Tề. Tề Giản Công là hậu duệ của Khương Thượng (Khương Tử Nha).
[54] Ḥa Thượng Vân Cốc không rơ năm sanh và mất, là một vị cao Tăng thuộc tông Lâm Tế, sống vào thời Nam Tống. Thoạt đầu theo học với Thạch Khê Nguyệt Tâm, được nối pháp vị này. Năm Bảo Hựu thứ 4 (1256) đời Tống Lư Tông, Sư trụ tŕ chùa Thánh Thọ ở Tô Châu, rồi chùa Bản Giác ở Gia Hưng, chùa Khai Nguyên ở Kiến Ninh (Giang Tây), cuối cùng trụ tŕ chùa Vân Nham tại núi Hổ Khâu ở phủ B́nh Giang, c̣n để lại bộ Vân Cốc Ḥa Thượng Ngữ Lục gồm 2 quyển.
[55] Đạo Tế (1150-1209), người
huyện Lâm Hải (tỉnh Chiết Giang) đời Tống,
thuộc phái Dương Kỳ tông Lâm Tế. Sư họ
Lư, tên Tâm Viễn, tự là Hồ Ẩn. Năm 18 tuổi,
xuống tóc tại chùa Linh Ẩn, thị hiện cuồng
điên, ăn thịt chó, uống rượu, nên người
đời gọi là Tế Điên. Trước sau, Sư
tham học với các vị Pháp Không Nhất Bổn chùa Quốc
Thanh, Đạo Thanh ở chùa Kỳ Viên, Đạo Tịnh
chùa Quán Âm, sau trở thành môn hạ của ngài Hạt
Đường Huệ Viễn ở núi Hổ Khâu, nối
pháp vị này. Sư lại ở nhờ chùa Tịnh Từ,
khi chùa bị cháy, Sư bèn đi quyên mộ xây dựng lại.
Sư thường hiện nhiều chuyện thần dị.
Chẳng hạn như cư dân ở Tần Hồ ăn ốc
chặt bỏ phần đuôi vỏ ốc. Sư thường
nhặt lấy bỏ xuống hồ, ốc lại sống
lại không có đuôi. Năm Gia Định thứ hai
(1209), Sư đoan tọa nhập diệt, thọ sáu
mươi tuổi.
[56] Tác
phẩm này do ông Đinh Phước Bảo biên soạn.
Trong Ấn Quang Văn Sao Tam Biên, quyển 4, phần thư
gởi cho Đinh Phước Bảo, Tổ có khen
ngợi: “Sách này từ cạn
vào sâu, sự tích nhân quả, luân hồi báo ứng và văng
sanh Tây Phương đều như đèn
soi cho người đang ở trong nhà tối”.
[57] Nghiêm từ: tiếng gọi tỏ vẻ kính trọng cha mẹ người khác.
[58] Bắc Câu Lô Châu (Uttara-kuru), c̣n phiên là Bắc
Uất Đan, Bắc Đan Việt, Uất Đan Việt,
Uất Đa La La Cứu Lưu, Ốt Đát La Câu Lô, dịch
nghĩa là Thắng Xứ, Thắng Sanh, Cao Thượng.
Theo các kinh Trường A Hàm, kinh Đại Lâu Thán, kinh Khởi
Thế, kinh Đại Pháp Cổ, Lập Thế A Tỳ
Đàm Luận và Câu Xá Luận th́ Uất Đan Việt là một
trong bốn đại châu ở quanh núi Tu Di, thuộc vùng
biển nước mặn ở phía Bắc Tu Di. Châu này
vuông vắn, mỗi bề rộng hai ngàn do-tuần, h́nh
dáng như nắp hộp, được bao quanh bởi bảy
núi vàng và núi Đại Thiết Vi. Vàng ṛng làm đất,
ngày đêm luôn sáng sủa. Nhân dân cơi ấy mặt mũi giống
nhau, luôn an vui, không có những khổ nạn, người
ác, tranh chấp. Đồ vật toàn bằng chất báu
như vàng bạc, lưu ly… Mọi tài sản là của
chung.
[59] Lâm
Văn Trung Công chính là Lâm Tắc Từ (1785-1850),
người Hầu Quan, tỉnh Phước Kiến,
đỗ tiến sĩ dưới đời vua Gia Khánh,
tự là Thiếu Mục và Nguyên Vũ. Ông lo việc chính
sự sốt sắng, chăm lo đê điều rất
hiệu quả nên rất được Thanh Triều coi
trọng. Do tận lực bài trừ nha phiến, tháng 6,
1840, ông đă chủ trương tấn công tô giới
Hương Cảng, tịch thâu và đốt các
rương đựng thuốc phiện. Dưới áp
lực của Anh, nhà Thanh cách chức ông đầy đi Y
Lê. Do Hoàng Hà vỡ đê, ông lại được
triệu về Hà
[60] Nguyên văn: “Độc cô thần nghiệt tử kỳ tháo tâm dă nguy, lự hoạn dă thâm, cố đạt”. Chúng tôi dịch câu này theo cách giải thích của sách Tứ Thư Dị Giải. Ở đây, “Nghiệt tử” theo từ điển Từ Hải là đứa con ḍng thứ, Nghiệt có nghĩa là ngành nhánh, không thuộc ḍng chính.
[61] Thành đồng: tuổi chuyển tiếp từ thiếu niên sang thanh niên, từ 15 tuổi trở lên, 19 tuổi trở xuống.