Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao
Quyển
thứ hai
(Phần
2)
130. Trả lời thư
cư sĩ Cố Hiển Vi
[Sở dĩ] lệnh hữu[1] là
ông X…. có những thứ t́nh kiến đối với Phật
học, và trong thư trả lời các hạ viết đến
mấy trăm câu, là v́ đối với nhân quả, có -
không, sự - lư, tánh - tướng bị lầm loạn,
cho nên đối với Kim Cang, đối với Tịnh
Độ đều chẳng thể nương theo lời
thành thật của Phật, Tổ để sanh khởi
ḷng tin, lầm lạc đem chuyện trái nghịch lư để
suy xét lư, muốn làm người đại trí huệ lỗi
lạc, chẳng chịu ép ḿnh theo khuôn khổ của hàng
ngu phu, ngu phụ, tự cho ḿnh bị lư chướng,
nhưng thật ra là nghiệp chướng nơi tâm.
Như kẻ mù nh́n mặt trời, trọn chẳng thấy
được tướng ánh sáng, lại bảo người
thấy được [tướng sáng ấy] là hư vọng,
há chẳng đáng buồn lắm ư? Thứ tri kiến ấy
chẳng dễ ǵ phá được. Huống chi những
ǵ Quang nói lời lẽ vụn vặt, khó thể thấu
triệt lư. V́ thế, sẽ càng làm cho người ta nghi ngờ,
chỉ tổn hại, chứ không có ích ǵ!
Muốn chẳng tuân mạng, nhưng lại
sợ bị trách móc, đành làm chuyện tắc trách, b́nh
luận xằng bậy, mong đừng gởi thư này
đến ông X… Nếu không, rất có thể khó tránh khỏi
bị xé nát, giẫm đạp. Nếu là những câu
văn b́nh luận của Quang th́ đáng bị như vậy.
C̣n những câu trong ấy nếu không dẫn kinh văn th́
cũng đề cao ư nghĩa kinh, mà chữ nghĩa lại
là của quư báu nhất trong thế gian, lại bị ông ta
giẫm đạp th́ chẳng những ông ta tự chuốc
lấy tội chẳng cạn, mà các hạ lẫn Quang
cũng bị mắc tội không cạn.
Nay tôi thay mặt các hạ, trả lời:
Xem kỹ thư ông gởi đến, mọi điều
nghị luận có thể nói tóm gọn một lời: “Dùng tri kiến phàm phu để
suy lường xằng bậy Phật trí mà thôi!” Vả
nữa, chúng ta từ sống đến chết, trong là
thân tâm, ngoài là cảnh giới, nào có biết nguyên do của
vật nào đâu! Từ khi có tri thức đến nay, thấy
người trước làm sao, cũng làm theo như thế
th́ thân thể được thành lập, mọi việc được
trót lọt, thích đáng, thân tâm yên vui; từ lúc sanh ra cho đến
chết, thọ dụng tự tại. Nếu đối với
lời dẫn dụ của đức Như Lai, do chính
ḿnh chẳng biết cội nguồn tri kiến Phật và
cội nguồn của pháp Tịnh Độ, dù Phật, Tổ
nói lời thành thật cũng vẫn chẳng chịu nhân
đó phát sanh ḷng tin th́ hăy suy t́m xem: Các hạ suốt ngày
ăn cơm, suốt ngày mặc áo, nhưng cội nguồn
của chuyện chống đói, ngăn lạnh có biết
hay là không? Nếu bảo là biết th́ người biết
là ai, xin hăy chỉ ra xem! Nếu chỉ không được,
mà vẫn cứ ăn cơm mặc áo, noi theo quy củ do
người đời trước đă thành lập, th́
sao đối với diệu pháp bậc nhất để
liễu sanh thoát tử lại cứ phải đ̣i t́m biết
cho được cội nguồn trước đă rồi
mới chịu tin, trọn chẳng chịu do lời thành
thật của Phật, Tổ mà sanh ḷng tin vậy?
Thêm nữa, các hạ có bệnh
cần phải uống thuốc th́ trước tiên phải
đọc hết các sách Bản Thảo[2], Mạch Quyết, hiểu biết
dược tánh, nguồn gốc bệnh, rồi th́ mới
căn cứ trên bệnh t́nh để kê toa, sau đấy
mới uống thuốc; hay là ngay lập tức mời thầy
lang chẩn mạch, lập tức uống thuốc vậy?
Nếu lập tức uống thuốc th́ chuyện trị
bệnh và học Phật đâm ra mâu thuẫn lẫn nhau!
Dù có đọc hết Bản Thảo, Mạch Quyết, biết
được dược tánh, nguồn gốc bệnh,
th́ vẫn mâu thuẫn với chuyện học Phật. V́
sao vậy? Bản Thảo, Mạch Quyết là tác phẩm của
người đời trước; ông chưa thể
đích thân thấy được họ, sao lại tin lời?
Nếu bảo lời lẽ của Bản Thảo, Mạch
Quyết chẳng thể không tin th́ lời của Phật,
Tổ, thiện tri thức v́ sao đều chẳng tin, cứ
muốn tự thấy rồi mới chịu tin? Theo sự
thấy biết của ông, nếu luận rạch ṛi th́
trước hết phải thấy được thuốc
sẽ chạy theo kinh[3]
nào, trị bệnh ǵ rồi mới chịu kê toa, uống
thuốc, trọn chẳng thể dựa theo những ǵ
sách Bản Thảo, Mạch Quyết đă nói để kê
toa, uống thuốc! V́ sao vậy? V́ chưa thấy! Nay
chưa thấy được cội nguồn của chuyện
dứt đói, chống lạnh, trị bệnh, mà vẫn
cứ ăn cơm, mặc áo, uống thuốc, c̣n cội
nguồn của Phật và Tịnh Độ do tự ḿnh
chưa đích thân thấy nên chẳng chịu tin tưởng
lời thành thật của Phật, Tổ, là v́ lẽ ǵ vậy?
Một đằng v́ liên quan đến tánh mạng, dẫu
chẳng biết cũng chẳng dám không làm như thế.
Một đằng là tự phụ cao minh, ắt phải
thấy thấu suốt rồi mới chịu tu tŕ pháp ấy.
Xưa nay không biết bao kẻ hào kiệt
lỗi lạc, do v́ tri kiến này, cả một đời
chẳng được lợi ích thật sự nơi Phật
pháp. Ông ta nói những kẻ ngu phu, ngu phụ, thoạt
đầu cũng chẳng biết nhưng có thể
nương theo quy củ của tiền nhân đă lập,
cắm cúi niệm Phật; do vậy, ngầm thông Phật
trí, thầm hợp đạo mầu, bèn được
đới nghiệp văng sanh hay đoạn Hoặc văng sanh,
rồi sẽ ắt chứng Phật quả, huống hồ
những người đă biết được nguồn
cội! Nhưng những kẻ tự mệnh danh là lỗi
lạc ấy, do nghi ngờ bèn phỉ báng, ắt sẽ bị
từ kiếp này sang kiếp khác đọa trong ác đạo
dài lâu, bị những kẻ ngu phu, ngu phụ niệm Phật
văng sanh thương xót, muốn ra tay cứu giúp cũng
không thể được! V́ sao? Do v́ ác nghiệp bất
tín trong đời trước gây chướng ngại!
Trí của các hạ như Can
Tương, Mạc Gia[4], chặt ngọc như bùn. Do chẳng
khéo dùng trí ấy, khác nào dùng Can Tương, Mạc Gia chém
bùn nhưng chẳng thể chém được, uổng phí
gươm bén, chẳng đáng buồn ư? Phật pháp là
tâm pháp, hết thảy pháp thế gian chẳng thể sánh
ví được! Những ví dụ chẳng qua chỉ nhằm
để con người lănh hội ư nghĩa, há nên chấp
chết cứng nơi Sự, rồi coi hai đằng giống
hệt như nhau để luận bàn ư? Giơ cái quạt
để ví mặt trăng, nhờ vào cây lay động
để chỉ gió, há có nên cầu quang minh nơi cái quạt,
t́m sự phe phẩy nơi cây cối, như thế có c̣n
được gọi là trí hay chăng? Mộng cảnh là
giả, nhân quả là thật, cũng chẳng ngại ǵ
dùng mộng cảnh để sánh ví nhân quả, coi chúng giống
như nhau. V́ sao? Vọng tâm là nhân, mộng cảnh là quả.
Nếu không có vọng tâm, quyết chẳng có mộng cảnh.
Đấy là lời bàn luận quyết định không
thay đổi được! Tâm thiện - ác và sự tu
tŕ là Nhân, được quả báo thiện - ác và quả
báo tu tŕ là Quả. Các hạ có tin hay không? Vọng tâm làm nhân
cho mộng nên được mộng cảnh. Cái tâm niệm
Phật là nhân để thành Phật, gần là được
văng sanh Tây Phương, xa là rốt ráo viên thành Phật
đạo. Điều này khiến ông nghi ngờ hay khởi
ḷng tin vậy?
Chuyện Phật rốt ráo là có hay không
hăy tạm gác lại, các hạ cứ muốn cật vấn
Phật là có hay không, xin hỏi [bản thân] các hạ rốt
ráo là có hay không? Nếu bảo là không th́ những lời lẽ
dông dài đây do ai thuật nói? Nếu bảo là có, xin hăy chỉ
ra người thuật nói là ai? Ngôn ngữ là do họng,
lưỡi và thức tâm kết hợp mà có văn tự,
cũng do thức tâm, tay, bút vận động mà hiện
ra. Hai thứ này đều chẳng ra ngoài Ngũ Uẩn Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, đều chẳng phải
là bản thân các hạ! Nếu ĺa ngoài năm pháp này mà chỉ
ra được th́ tôi sẽ chấp nhận câu hỏi “Phật
rốt ráo là có hay không?” của các hạ là câu hỏi
đại trí huệ! Nếu không chỉ ra được
chính ḿnh rốt ráo là có hay không, cứ muốn biết “Phật
là có hay không?” trước đă, th́ chính là câu hỏi cuồng
vọng không đáng nói, chứ không phải là câu hỏi tột
cùng lư thiết thực cho chính ḿnh vậy! Phật rốt
ráo là có, do phàm t́nh của ông chưa gột sạch, nên trọn
chẳng thể thấy được. Chính các hạ
cũng là có, do Ngũ Uẩn của ông chưa rỗng không
nên cũng chẳng thể ĺa Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức mà ḥng chỉ ra đích xác được.
Kinh Kim Cang dạy Bồ Tát phát tâm Bồ
Đề, phát tâm độ tận hết thảy chúng
sanh, khiến họ đều chứng Vô Dư Niết
Bàn, nhưng chẳng thấy có một chúng sanh nào được
diệt độ. Chẳng trụ vào Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành bố thí. Bố
thí đứng đầu Lục Độ, Vạn Hạnh.
Nêu lên bố thí th́ tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí huệ cho đến vạn hạnh
đều chẳng được trụ vào Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp mà tu. Chỗ này kinh văn nói
đại lược, chỉ nêu bố thí để bao gồm
mọi điều khác. Không trụ vào đâu để sanh
cái tâm, không có tướng “ta, người, chúng sanh, thọ
giả”, tu hết thảy thiện pháp. Hăy nói xem: Những
lời như vậy là có tướng hay không có tướng?
Tướng quang minh rộng lớn như thế đầy
lấp hư không mà lại bảo là không th́ có khác ǵ kẻ
mù từ lúc mới lọt ḷng?
Nói “không một
chúng sanh nào đắc độ, chẳng trụ tướng,
vô tướng, không trụ vào đâu” là muốn cho con
người chẳng vướng mắc vào tướng chấp
trước dù phàm t́nh hay thánh kiến. Nói “độ tận chúng sanh, hành bố thí, sanh tâm, tu
thiện pháp” là v́ muốn cho con người xứng tánh
tu tập pháp tự lợi, lợi tha, ngơ hầu cả
ḿnh lẫn người cùng được viên măn Bồ
Đề mới thôi! Chẳng nh́n thấy điều này,
lầm lẫn chấp vô tướng là rốt ráo, chính là cùng
một tri kiến với kẻ nhai bă hèm, há c̣n được
gọi là người có trí huệ ư? Sanh khởi ḷng tin
nào khó khăn ǵ, trừ khử nghi hoặc há khó khăn chi,
mà ông quyết định chẳng khởi, quyết định
chẳng trừ khử? Dù Phật đích thân thuyết pháp
cũng không thể làm ǵ được, huống chi bọn
tôi là phàm phu sát đất ư!
Muốn biết
Phật là giả hay thật th́ sao không khởi tín đoạn
nghi đối với những lư lẽ đă luận,
đối với những sự việc đă chép trong Tịnh
Độ Văn, Tây Quy Trực Chỉ[5]?
Có nên cho những ngôn luận, sự tích ấy đều
là bịa đặt, đồn thổi, chẳng đáng lọt
vào mắt ư? Nếu thấy như vậy th́ linh hồn
quyết định chẳng đọa vào năm
đường kia, chỉ đọa trong A Tỳ địa
ngục đến tột cùng đời vị lai, sẽ
hưởng măi vạc sôi, ḷ than, rừng gươm, núi
đao do tâm biến hiện ra, [coi những cảnh đó]
giống như cảnh vui đủ mọi thứ thọ
dụng vậy, không ǵ sánh ví được!
Cứ muốn biết Phật là giả
hay thật, [cho] những ǵ Tịnh Độ Văn và Tây
Quy Trực Chỉ đă nói đều chẳng phải thật,
chỉ có điều ǵ ḿnh đích thân thấy được,
chứng được mới là thật th́ nay tôi đem một
sự hỏi ông, ông phải thẳng thắn đáp lời,
chẳng được hàm hồ trả lời qua loa. Ông
Vương Thiết San ở Bắc Thông Châu vào triều
Thanh trước kia từng làm Phiên Đài ở Quảng
Tây. Khi ấy, Quảng Tây rất nhiều thổ phỉ. Lúc
ông Vương coi việc binh ở tỉnh ấy, liền
lập kế tiễu trừ phỉ đảng, giết hại
rất nhiều. Bốn năm trước, ông mắc bệnh
rất nặng, vừa chợp mắt bèn thấy ḿnh ở
trong nhà tối. Cái nhà ấy rất to lại rất tối,
quỷ vô số đều ùa tới bức bách, ông bèn hoảng
kinh, thức dậy. Một lúc sau chợp mắt lại thấy
cảnh như thế, lại kinh hăi tỉnh giấc. Suốt
ba ngày đêm chẳng dám nhắm mắt, người đă
thở thoi thóp. Nhân đó, vợ ông ta khuyên dụ: “Ông
như vậy làm sao khá được? Ông niệm nam mô A Di
Đà Phật đi! Niệm Phật sẽ khỏe ngay!”
Thiết San vừa nghe lời ấy bèn cố sức niệm,
được một chốc bèn thiếp đi, ngủ
được đẫy giấc, không c̣n thấy cảnh
tượng ǵ nữa, bệnh cũng dần dần
được lành. Do đó, ông ta ăn chay trường,
niệm Phật. Năm trước, Thiết San và Trần
Tích Châu có lên núi [Phổ Đà] đích thân kể chuyện
này với Quang.
Nếu các hạ lâm vào cảnh ấy, có
cần phải biết “Phật là thật hay giả” trước
đă rồi mới chịu niệm, hay là vừa nghe bèn niệm
liền? Nếu lúc ấy chẳng rảnh để xét xem
“Phật là giả hay thật” rồi mới niệm th́ nay
sao lại xét ngôn luận sự tích của tiền nhân dạy
người là giả hay thật, nhất loạt coi đó
là vọng? Chỉ cầu lấy điều không chánh yếu,
vin vào cái tâm cảnh lờ mờ mê man này để rồi
phải khóc lóc ư? Phú quư c̣n có thể coi như chiếc
giày rách, sao chẳng thể coi chấp trước này
cũng giống như chiếc giày rách, bỏ cho hết sạch
đi? Ông tưởng thứ tri kiến ấy là cửa
ngơ để nhập đạo ư? Không biết nó chính
là đường để đọa vào A Tỳ địa
ngục đấy! Dùng mộng ví với Phật, vọng
tâm là nhân, mộng cảnh là quả. Ví niệm Phật là
nhân, văng sanh thấy Phật là quả, há có nên lấy sáu thí
dụ[6]
trong kinh Kim Cang để làm chứng?
Phàm ngôn ngữ, văn tự thế gian
tuy mỗi chữ là một sự, nhưng chẳng ngại
ǵ cùng nêu lên cái cao quư lẫn cái hèn kém, cùng chỉ cả sự
tốt lẫn điều xấu. Như một chữ Tử,
dùng để chỉ riêng ḿnh Phu Tử (tức Khổng Tử)
cũng được, mà dùng để chỉ một kẻ
b́nh thường cũng được, mà dùng để chỉ
con cái cũng được. Cần phải dựa vào
văn cảnh để hiểu nghĩa, trọn chẳng
thể giải thích Phu Tử cũng có nghĩa là con cái. Cơi
Phật là mộng cảnh đợi khi nào các hạ thành
Phật hăy nói. Bây giờ mà nói như vậy th́ chỉ tổn
hại chứ không ích lợi ǵ! Sự - lư, tánh - tướng,
có - không, nhân - quả hỗn độn chẳng phân; chỉ
nên học theo ngu phu, ngu phụ, cắm cúi niệm Phật,
chí cung, chí kính, chỉ nên thành khẩn, lâu ngày chầy tháng,
nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận, phước
cao. Cái tâm nghi ấy triệt để rớt mất th́ Phật
có hay là không, chính ḿnh có hay là không, đường nẻo
vào cửa Phật, căn cứ đích xác nơi bờ kia,
cần ǵ phải hỏi ai khác nữa! Nếu chẳng
chuyên tâm dốc chí niệm Phật, chỉ hiểu đôi
phần từ miệng người khác bàn bạc th́
cũng giống như xem kinh Kim Cang nhưng chẳng biết
Thật Tướng. Xem Tịnh Độ Văn, Tây Quy Trực
Chỉ chẳng sanh tín tâm là do nghiệp chướng trong
tâm nên chẳng thể lănh hội. Như kẻ mù nh́n mặt
trời, cố nhiên mặt trời ở trên không, thấy
được [mặt trời] là nhờ có mắt. Kẻ
không thấy quang minh và lúc chưa thấy không khác ǵ nhau. Nếu
mắt được sáng lại, vừa nh́n liền thấy
tướng quang minh. Một pháp Niệm Phật chính là pháp
thiết yếu nhất để mắt được
sáng lại. Muốn thấy tướng quang minh hăy nên dốc
cạn ḷng thành nơi pháp này, ắt sẽ có lúc được
thỏa nguyện điều ḿnh ấp ủ.
Muốn đích thân thấy được
Chân Ngă, mà chẳng phải là bậc đại triệt
đại ngộ th́ sẽ không thể nào thấy
được! Muốn chứng nhưng nếu chẳng
đoạn Hoặc chứng Chân sẽ không thể nào
được. Muốn viên chứng mà Tam Hoặc[7] chẳng
đoạn sạch, nhị tử[8] không
vĩnh viễn mất th́ sẽ không thể nào đạt được.
Nếu luận về nơi chốn th́ các hạ sẽ
luân hồi bao kiếp dài lâu, cũng như những lời
cật vấn trái lư hiện thời đều là nhờ
vào sức của Chân Ngă để thực hiện; do trái
nghịch giác, xuôi theo trần lao nên chẳng thể chân thật
thọ dụng. Ví như cái đầu của chàng Diễn
Nhă, châu nơi vạt áo[9], từ
đầu đến cuối chưa hề mất, lầm
sanh sợ hăi, lầm chịu nghèo cùng. Người niệm
Phật lâm chung được Phật tiếp dẫn,
chính là chúng sanh và Phật cảm ứng đạo giao. Tuy
chẳng ĺa tưởng tâm, nhưng cũng chẳng
được nói đó chỉ là tâm tưởng biến
hiện, trọn chẳng có chuyện Phật - thánh nghênh tiếp!
Tâm tạo địa ngục th́ lúc lâm chung tướng
địa ngục sẽ hiện. Tâm tạo cơi Phật th́
lúc lâm chung tướng cơi Phật sẽ hiện!
Nói “tướng
tùy tâm hiện” th́ được, c̣n bảo “chỉ có tâm không cảnh” th́
chẳng thể được. “Chỉ
có tâm không cảnh” th́ phải là bậc Đại Giác Thế
Tôn đă viên chứng duy tâm nói ra th́ mới không mắc lỗi
ǵ. Nếu các hạ nói sẽ đọa vào đoạn diệt
tri kiến th́ sẽ là tà thuyết phá hoại pháp môn tu chứng
của Như Lai. Chẳng thể không thận trọng. Nếu
mỗi điều đều nói cặn kẽ sẽ quá tốn
bút mực, biết một điều sẽ suy được
ba điều kia chẳng c̣n sót nghĩa nào!
131. Trả lời thư
cư sĩ Tạ Thành Minh ở Tứ Xuyên
Vừa nhận được thư, biết
Nho - Phật tâm pháp nơi quư địa do một vai ông gánh
vác, mừng rỡ, vui sướng không chi bằng. Chuyện
ông khen ngợi Bất Huệ gần như rớt vào kiểu
cách khách sáo thế tục, khoe mắt cá quư hơn bảo
châu, đúng là coi tấc gỗ trội hơn lầu cao khiến
người thẹn thùng không chỗ lánh. Quang chỉ là một
ông Tăng tầm thường, không có pháp ǵ để tự
dùng, thường ăn xin nơi cửa bậc trưởng
giả đại phú, thấy những cơm thừa canh cặn
bị vứt bỏ bèn nhặt lấy để tự
nuôi thân. Ai không hiềm hôi chua th́ cũng đem những thứ
ấy trao lại. Từ Úy Như nghĩ những thứ ấy
có ích cho người đói nên nhiều lần lưu truyền;
tuy ư nghĩa có thể chấp nhận được,
nhưng văn từ chẳng đáng xem, chẳng ngờ rốt
cuộc làm bẩn mắt xanh của các hạ, cảm thấy
hổ thẹn khôn xiết!
Bộ Văn Sao hèn tệ được
in hai lần là v́ mùa Hè, Úy Như về cưu tang mẹ, rời
Bắc Kinh, nhờ người bạn giảo chánh, đối
chiếu. Do người hiểu biết ấy không chú tâm,
nên đến nỗi sai ngoa mấy mươi chỗ. Mùa
Xuân năm ngoái, Úy Như lại yêu cầu Thượng Hải
Thương Vụ Ấn Thư Quán in soạn riêng và giữ
lại bản lưu (lần này giảo chánh, đối
chiếu khá kỹ càng), đến
tháng Giêng mùa Xuân năm nay in xong. In được hai ngàn bộ,
chưa hết tháng Giêng đă bán sạch. Nhà in bận bịu
nên chưa rảnh để in lần nữa. Về sau, do
những người muốn thỉnh sách nhiều lần
thôi thúc, nhà in bèn thừa dịp rảnh rỗi in trước
một ngàn cuốn để cung ứng. Đợi sau này
rảnh rỗi sẽ in nhiều hơn, nay kính dâng lên ông
hai bộ, mong ông hăy xét duyệt. So với hai lần in ở
Bắc Kinh, bản in lần này nhiều hơn ba
mươi thiên. Trong bộ sách này, những ư chỉ “chánh
tâm thành ư, dốc ḷng thành, cạn ḷng kính” cũng được
phát huy đại lược ḥng đối trị thói
hướng ngoại mong cầu cũng như cái bệnh
phóng túng không kiêng dè của người hiện thời, cũng
có ích đôi chút cho người sơ học. Nếu bậc
thông Tông, thông Giáo trông thấy không khỏi phát ói. Nhưng nếu
quả thật họ ói sạch những thứ thức
ăn nặng nề chẳng tiêu của Tông, của Giáo,
th́ những thứ cơm thừa canh cặn này cũng có
thể bồi bổ nguyên khí, đợi khi nào sức lực
sung túc sẽ lại dùng tiệc vua th́ mới được
lợi ích thật sự.
Ở Tứ Xuyên, nếu có những
người chẳng hiềm hôi chua th́ hăy nên thay cho chi nhánh
Thương Vụ Ấn Thư Quán đại diện phát
hành ở đó cũng được. Các pháp môn Luật,
Giáo, Thiền, Tịnh, pháp nào hợp căn cơ ư? Hăy
nên lắng ḷng đọc kỹ Tịnh Độ Quyết
Nghi Luận[10] sẽ tự biết
đại khái; nay tôi chẳng viết kỹ. C̣n như bảo
dùng Phật pháp hỗ trợ đạo Nho, cùng hành hai pháp
ngơ hầu hết thảy mọi người đối với
pháp thế gian là chân Nho, đối với pháp xuất thế
là chân Thích. Nếu là bậc đại thông gia th́ Thiền
Tịnh song tu, nhưng phải lấy Tịnh Độ
làm chánh. Nếu là hạng người b́nh thường,
cũng bất tất phải nghiên cứu rộng răi các
kinh luận sâu xa, uyên áo, chỉ nên đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện, nhất tâm niệm Phật
cầu sanh Tây Phương là được rồi! Những
người này chẳng bỏ nghiệp tại gia nhưng
kiêm tu pháp xuất thế. Tuy dường như là b́nh
thường không kỳ lạ ǵ, nhưng lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn! Ấy là v́ ngu phu, ngu phụ cắm cúi niệm
Phật liền sẽ ngầm thông Phật trí, thầm hợp
đạo mầu, so với những bậc đại
thông gia ḍ đoán, suy lường, suốt ngày thần thức
miệt mài trong ṿng phân biệt, th́ lợi ích càng nhiều
hơn. V́ thế, ngu phu, ngu phụ niệm Phật dễ
được lợi ích. Bậc đại thông gia nếu
có thể buông xuống toàn thân, cũng dễ được
lợi ích. Nếu chỉ suy lường nghĩa lư sẽ
chẳng được lợi ích, trái lại c̣n thành bệnh,
và có kẻ c̣n chưa được nói đă được,
nhập vào bọn cuồng nữa kia!
Một pháp tham Thiền chẳng phải
là pháp con người hiện thời nên học. Dù có học
cũng chỉ thành tri kiến văn tự, quyết chẳng
thể nhanh chóng sáng tỏ tự tâm, đích thân thấy tự
tánh. V́ sao vậy? Một là không có thiện tri thức đề
tŕ[11],
quyết trạch[12]
cho, hai là kẻ học chẳng biết căn cội của
Thiền. Tuy gọi là tham Thiền, nhưng thật ra là hiểu
lầm. Trong những bài Tông Giáo Bất Nghi Hỗn Lạm
Luận (Luận về sự chẳng nên lẫn lộn giữa
Tông và Giáo) và Tịnh Độ Quyết Nghi Luận, Quang
đă chỉ bày đại khái. Con người hiện thời
bất luận thượng, trung, hạ căn đều
phải chuyên chú tận lực giữ vẹn luân thường,
đề cao ḷng kính, giữ ḷng thành, tin sâu nhân quả, rộng
hành các điều thiện, nhất tâm niệm Phật cầu
sanh Tây Phương. Một pháp nhân quả chính là ḷ luyện
lớn lao để nung phàm luyện thánh của thánh nhân thế
gian lẫn xuất thế gian. Nếu thoạt đầu
chẳng xét thấu nhân quả th́ sau khi thông Tông, thông Giáo, vẫn
c̣n có chuyện hiểu lầm nhân quả. Hễ hiểu lầm
nhân quả th́ đọa lạc ắt có phần, không do
đâu siêu thăng được! Đừng cho lư này là
thiển cận rồi coi thường. Như Lai thành Chánh
Giác, chúng sanh đọa tam đồ đều chẳng ra
ngoài nhân quả.
Nhưng phàm phu tâm lượng nhỏ
nhoi rất có thể sẽ chẳng lănh hội được
những chuyện đại nhân quả nói trong kinh, nên lấy
chuyện nhân quả thế gian làm phương tiện
để nhập vào sự thù thắng; như Văn
Xương Âm Chất Văn, Thái Thượng Cảm Ứng
Thiên v.v… (ở Trung Hoa Thư Cục có Cảm Ứng
Thiên Vựng Biên là tác phẩm chú giải bậc nhất về
Cảm Ứng Thiên từ xưa đến nay, văn và lư
đều hay, có hai bản), hăy
đọc nhuần, nghĩ kỹ rồi hành theo th́ ai nấy
đều có thể thành lương dân, ai nấy đều
được liễu sanh thoát tử. Năm ngoái, Quang từng
khắc An Sĩ Toàn Thư (trong Văn Sao có hai bài tựa,
có thể biết được đại khái), tồn bản ở Dương Châu, các
chỗ phát hành kinh đều có lưu thông, quả thật
là một bộ sách quan trọng khiến cho đời yên
dân lành vậy.
Niệm Phật chú trọng tại văng
sanh, niệm đến cùng cực cũng có thể minh tâm
kiến tánh, chứ không phải Niệm Phật hoàn toàn chẳng
ích ǵ cho đời hiện tại. Xưa kia, Minh Giáo Tung
thiền sư[13]
công khóa mỗi ngày niệm mười vạn thánh hiệu
Quán Âm; về sau, đối với mọi kinh sách thế
gian không cần đọc đều biết. Nên xem Tịnh
Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục
mới biết được sự hay khéo của việc
niệm Phật, trong bộ Văn Sao dở tệ của
Quang từng nhắc đến nhiều lần. Cư
sĩ bảo [niệm Phật] là vô ích cho đời hiện
tại tức là không những ông chưa thấu hiểu
sâu xa các kinh luận Tịnh tông mà đối với bộ
Văn Sao của Quang cũng chỉ cưỡi ngựa xem
đèn, chưa bỏ công đọc kỹ.
Luật không phải chỉ là những sự
việc thuộc về mặt thô mà thôi; nếu chẳng
chú trọng ḷng kính, giữ ḷng thành th́ cũng là phạm luật,
nhưng nhân quả là cốt lơi của Luật. Nếu ai
không biết nhân quả và lầm lẫn nhân quả th́
đều là phạm Luật. Người niệm Phật
khởi tâm động niệm thường hợp với
Phật th́ Luật, Giáo, Thiền, Tịnh cùng hành cả. Phải
biết: Hết thảy các pháp môn đức Như Lai
đă dạy đều phải đoạn Hoặc chứng
Chân mới ḥng liễu sanh tử, trọn chẳng có chuyện
Hoặc nghiệp chưa đoạn mà được liễu
thoát.
Riêng trong pháp môn Niệm Phật, người
đoạn Hoặc văng sanh sẽ mau chứng Pháp Thân;
người c̣n đủ Hoặc nghiệp văng sanh cũng đă
siêu lên địa vị thánh. Một đằng cậy vào
Tự Lực, một đằng là nương theo Phật
Lực, lại kiêm Tự Lực. Hai đằng khó - dễ,
khác nào trời với vực. Thường có kẻ thông
minh xem tràn lan sách Thiền, biết được mùi vị
ấy bèn muốn lấy Thiền làm tánh mạng, muốn
làm bậc cao nhân thông suốt. Đấy đều là hạng
chẳng biết căn cội của Thiền và Tịnh,
lầm lạc tự cho ḿnh là cao quư. Tri kiến như thế
trọn chẳng thể nương theo! Nếu
nương theo tri kiến ấy, sợ rằng dù trải
qua số kiếp nhiều như bụi trần vẫn
không có hy vọng ǵ được liễu sanh thoát tử!
Mong hăy xem kỹ bộ Văn Sao của Quang ắt sẽ
biết.
132. Thư gởi cư sĩ
Ngô Bích Hoa
Tâm tánh của bọn ta giống
hệt như Phật, chỉ do mê trái nên luân hồi chẳng
ngơi. Như Lai thương xót, tùy cơ thuyết pháp,
khiến cho khắp mọi hàm thức theo đường
trở về nhà. Pháp môn tuy nhiều, nhưng trọng yếu
chỉ có hai, tức là Thiền và Tịnh liễu thoát dễ
nhất. Thiền chỉ có Tự Lực, Tịnh kiêm Phật
Lực. So sánh hai pháp, th́ Tịnh khế cơ nhất.
Như người vượt biển, nhờ vào thuyền
bè, mau đến được bờ kia, thân tâm thản
nhiên. Chúng sanh đời Mạt chỉ kham hành được
pháp này. Nếu không th́ là trái cơ, nhọc nhằn nhưng
khó thành! Phát đại Bồ Đề, sanh chân tín nguyện,
suốt đời giữ vững, chỉ nghĩ đến
Phật, niệm đến cùng cực, t́nh kiến mất
sạch, tuy niệm mà vô niệm, diệu nghĩa Thiền
Giáo triệt để hiển hiện, đợi đến
lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn, thẳng
lên Thượng Phẩm, chứng Vô Sanh Nhẫn. Có một
bí quyết tha thiết bảo ban: “Cạn ḷng thành, tận ḷng kính”, mầu nhiệm
làm sao!
133. Trả lời thư
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ nhất)
Nói “ngoài việc trường
trai niệm Phật ra, nên giữ quy luật”, chính là tận
sức hiếu [với cha mẹ], ḥa thuận [cùng anh em], chuyên
chú trọn hết luân thường, đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều thiện, chẳng
để ḷng động niệm nơi tà vạy, hư ngụy,
hễ làm việc cho người bèn trọn hết chức
trách, gặp kẻ hữu duyên bèn khuyên lơn khiến cho
nhập đạo. Những hành tướng ấy chẳng
cần phải nêu ra hết, chỉ khuyên ông nên đọc Ấn
Quang Văn Sao và An Sĩ Toàn Thư sẽ tự biết.
Phải biết: Làm đệ tử Phật,
phàm những hành vi đều phải vượt trỗi
những hành vi thế tục, th́ chính ḿnh mới hưởng
lợi ích thật sự, khiến cho người ta trông
vào thấy là lành. Nếu miệng nói tu hành, tâm ôm ấp những
điều bất thiện, đối với cha mẹ,
anh em và hết thảy mọi người trên cơi đời
chưa thể trọn hết bổn phận th́ người
như thế gọi là thiện nhân giả dối; nhân
địa đă hư ngụy, làm sao đạt lợi ích
thật sự cho được! Cái học của thánh hiền
đều khởi đầu từ cách vật trí tri, thành
ư chánh tâm, huống chi muốn liễu sanh thoát tử, siêu
phàm nhập thánh ư? Về “cách vật trí tri” nên xem
bài tựa bản in lại cuốn chú giải Tứ
Thư của ngài Ngẫu Ích và bài tựa sách Liễu Phàm Tứ
Huấn của ông Viên Liễu Phàm.
Xưa
kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Khoa thiền sư: “Thế nào là đại ư của
Phật pháp?” Ngài Ô Khoa đáp: “Đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều thiện”. Ông
Bạch nói: “Hai câu ấy đứa
trẻ lên ba cũng nói như thế được!”
Ngài Ô Khoa nói: “Tuy đứa trẻ
lên ba nói được, ông lăo tám mươi làm không
được!” Phải biết lời này chính là lời
nói tổng quan thiết yếu cho hết thảy những
ai học Phật pháp. Các điều ác, những điều
thiện đều là từ tâm địa mà luận, chứ
không chuyên chỉ về sự thực hành nơi mặt sự
tướng mà thôi. Trong tâm địa trọn chẳng khởi
ác th́ toàn thể là thiện, niệm Phật như thế
hơn công đức của người b́nh thường
niệm Phật trăm ngàn vạn ức lần. Muốn
được tâm địa “chỉ thiện không ác” th́
trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, phải
chú trọng ḷng kính, giữ ḷng thành như đối diện
Phật, trời, mới ḥng đạt được! Nếu
tâm vừa phóng túng th́ các ư niệm không đúng pháp sẽ
theo nhau khởi lên.
134. Trả lời thư
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ hai)
Trong phần giải quyết
mối nghi về Quyền, Thật, Tiệm, Đốn của
sách Tây Phương Lộ (con đường Tây
Phương), trước hết phải giảng rơ bốn
chữ Quyền, Thật, Tiệm, Đốn; rồi mới
luận đến niệm Phật, tham Thiền là Quyền,
hay Thật, là Tiệm hay Đốn th́ mới trọn chẳng
bị nghi ngờ nghĩa lư! “Quyền” có nghĩa là Như
Lai thuận theo căn cơ của chúng sanh, bày ra phương
tiện khéo léo. “Thật” có nghĩa là Phật án theo những
nghĩa chính tâm Ngài đă chứng mà nói. “Đốn” là chẳng
cần theo thứ tự, thẳng tắt, mau chóng, hễ
vượt khỏi liền chứng nhập ngay. “Tiệm”
nghĩa là dần dần tu cao lên, chứng nhập theo thứ
tự, cần phải tốn nhiều đời nhiều
kiếp mới có thể đích thân chứng được
Thật Tướng.
Những kẻ tham Thiền nói pháp Tham
Thiền chính là pháp “chỉ thẳng
tâm người, thấy tánh thành Phật; do vậy, Thiền
là Thật, là Đốn”; nhưng chẳng biết Tham Thiền
dù có đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh mới chỉ là thấy được vị Phật
Lư Tánh sẵn có trong tự tâm. Nếu là căn tánh đại
Bồ Tát th́ hễ ngộ bèn chứng, tự có thể
vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, vượt thoát khỏi
tam giới. Từ đấy, thượng cầu, hạ
hóa, dùng đó làm nền tảng để trang nghiêm cả
phước lẫn huệ. Loại căn tánh này nếu luận
trong số những người đại triệt đại
ngộ th́ cũng phải cả trăm ngàn người mới
có được một hai! Nếu căn khí kém hơn, dù
có thể diệu ngộ, nhưng Kiến Tư phiền
năo chưa thể đoạn trừ th́ vẫn ở trong
tam giới chịu sống, chịu chết. Đă bị sống
- chết th́ từ ngộ thành mê sẽ nhiều, từ ngộ
vào ngộ hiếm lắm! Do vậy, tuy pháp này là Thật,
là Đốn, nhưng nếu không đúng người
cũng sẽ chẳng được hưởng lợi ích
thật sự nơi Thật, nơi Đốn, vẫn trở
thành pháp Quyền Tiệm mà thôi! V́ cớ sao? Do cậy vào tự
lực! Nếu tự lực mười phần đầy
đủ th́ c̣n may mắn nào hơn! Hễ kém khuyết một
chút sẽ chỉ ngộ được Lư Tánh, chẳng thể
đích thân chứng được Lư Tánh. Ngày nay, kẻ
đại triệt đại ngộ c̣n khó kiếm
được, huống ǵ người chứng được
điều họ đă ngộ!
Một pháp niệm Phật thông trên thấu
dưới, vừa là Quyền vừa là Thật, vừa Tiệm
vừa Đốn, chẳng thể phê phán bằng giáo lư
thông thường. Trên đến Đẳng Giác Bồ Tát,
dưới đến chủng tánh A Tỳ đều nên
tu tập (Đây gọi là “thông trên thấu dưới”
vậy!) Như Lai v́ chúng sanh thuyết
pháp, chỉ muốn cho hết thảy chúng sanh liễu sanh
thoát tử. Các pháp môn khác bậc thượng căn có thể
giải quyết ngay trong một đời này, kẻ hạ
căn bao kiếp vẫn khó thành được! Chỉ có
ḿnh pháp này, bất luận căn tánh nào, đều văng sanh
Tây Phương, liễu được sanh tử ngay trong
đời này. Thẳng chóng như thế đó, há gọi
là Tiệm được ư? Tuy có căn cơ nhưng
chẳng phải là loại căn cơ như trong những
pháp viên đốn thông thường nên có vẻ giống
như Tiệm. Nhưng oai lực của pháp môn này nằm ở
chỗ thệ nguyện của Như Lai khiến cho những
căn tánh hèn kém mau được đại lợi ích. Lợi
ích ấy hoàn toàn do cậy vào Phật từ lực.
Phàm những kẻ giảng Thiền, nếu
chưa nghiên cứu Tịnh Tông, không ai chẳng miệt thị
Tịnh Độ là thiển cận. Nếu nghiên cứu Tịnh
Tông sâu xa, ắt sẽ tận tâm kiệt lực hoằng
dương, há c̣n chấp trước vào những biện
luận sai lầm Quyền, Thật, Tiệm, Đốn
để tự lầm, lầm người nữa ư?
Niệm Phật phải khéo phát tâm, tâm là chủ của sự
tu tŕ. Nếu hợp với Tứ Hoằng Thệ Nguyện
th́ niệm một câu Phật hiệu, làm một chuyện
lành, công đức vô lượng, vô biên. Huống chi ba nghiệp
thân - khẩu - ư luôn chú trọng lấy niệm Phật
để lợi sanh! Nếu tâm chỉ cầu tự lợi,
chẳng muốn lợi người, tuy làm nhiều việc,
nhưng đạt được công đức rất
ít; huống chi lại đèo thêm ư niệm khuynh loát người,
hại người, cũng như cái tâm khoác lác, tự kiêu
th́ cái tâm niệm Phật, điều thiện đă làm ấy
cũng chẳng phải hoàn toàn là không có công đức ǵ,
nhưng thật ra trong trăm ngàn vạn ức phần chỉ
đạt được một phần, hay nửa phần,
nhưng cái lỗi ác niệm cũng chẳng nhỏ nhoi
đâu! V́ vậy, người tu hành đều phải khéo
phát tâm, chứ không riêng ǵ người niệm Phật!
Nếu ước theo Thật Nghĩa rốt
ráo để nạn (“nạn” nghĩa là cật vấn) chuyện “lấy - bỏ” th́ tức là
chẳng biết “rốt ráo không lấy không bỏ” chính là
chuyện sau khi đă thành Phật. Nếu chưa thành Phật
th́ trong khi ấy, đoạn Hoặc chứng Chân đều
thuộc về lấy - bỏ. Đă chấp nhận
đoạn Hoặc chứng Chân là lấy - bỏ th́ sao
không chấp nhận chuyện lấy - bỏ trong việc bỏ
Đông, lấy Tây, ĺa cấu lấy tịnh? Nếu trong
pháp Tham Thiền, lấy - bỏ đều sai, th́ trong pháp
Niệm Phật lấy - bỏ lại đều là
đúng. Bởi một đằng chuyên suy xét Tự Tâm, một
đằng kiêm nhờ Phật lực. Những người
chẳng xét đến duyên do của pháp môn, lầm lẫn
dùng pháp Tham Thiền để phá pháp Niệm Phật, tức
là dùng sai ư nghĩa. Chuyện không lấy - bỏ vốn là
Đề Hồ, nhưng người muốn niệm Phật
cũng chẳng lấy - bỏ th́ lại thành độc
dược! Mùa Hạ mặc áo mỏng, mùa Đông mặc
áo cừu, khát uống, đói ăn, chẳng thể trái nghịch
mà cũng chẳng thể cố chấp, chỉ chọn lấy
những ǵ thích nghi sẽ có lợi ích không ǵ tệ hại!
Chỉ mong ông dốc sức trọn hết luân thường,
chuyên chí niệm Phật. Nếu c̣n sức th́ đối với
cha mẹ, anh em, vợ con, bằng hữu v.v… tùy phần
tùy sức khuyên dạy, ngơ hầu họ đều cùng
được lợi ích nơi Niệm Phật để
khỏi uổng dịp gặp gỡ trong kiếp sống
này!
135. Thư trả lời
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ ba)
Phó Đại Sĩ Ngữ Lục[14]
sai ngoa không biết bao nhiêu mà kể, lại thêm những bài
kệ tụng trong ấy đa phần đề xướng
Thiền Tông, sợ ông không đủ học thức, nếu
không nghi Đại Sĩ nói sai cũng sẽ dựa theo ư
kiến của chính ḿnh hiểu lầm ư Ngài th́ tội lỗi
vô lượng. Hăy nên đưa cho bậc thông gia coi, c̣n ông
ngàn vạn lần chớ nên xem! Nếu muốn coi th́ đợi
đến năm sau, Hưng Từ pháp sư khắc ván in
lần thứ hai xong, mới lại thỉnh về coi. Thoạt
đầu, Hưng Từ pháp sư được bản
này bèn giám định, khắc bản; năm ngoái gởi
cho Quang một bộ. Quang lắng ḷng giảo chánh, khuyên thầy
ấy khắc bản khác. Thầy ấy định
năm sau mới in, bản này đáng nên đọc kỹ
nhiều lần.
Sách Hộ Pháp Lục[15] rất
hay, nhưng không chuyên chú Tịnh Độ, những chỗ
sách ấy bàn về Thiền chớ nên hiểu sai, nhưng
đọc đến lời hay hạnh đẹp của
bậc cao Tăng sẽ trưởng dưỡng thiện
căn. Đối với Văng Sanh Luận Chú[16] nên
chiếu theo những ǵ Quang đă chỉ bày, có chiếu
theo được hay chưa? Cuốn sách này cả văn
lẫn lư đều thật tuyệt, hăy nên đọc kỹ.
Cái tâm vọng tưởng của ông ngập
trời trùm đất, không biết lắng ḷng niệm Phật,
có thể nói là “hướng ngoại rong ruổi t́m cầu,
chẳng biết phản chiếu hồi quang”. Học Phật
như thế rất khó được lợi ích thật
sự! Mạnh Tử nói: “Đạo
học vấn chẳng có ǵ khác, cầu sao buông được
cái tâm mà thôi!” Ông học Phật mà chẳng biết lắng
ḷng niệm Phật, đối với Nho Giáo c̣n chưa thật
sự tuân thủ, huống ǵ đối với Phật giáo
là pháp thật sự lắng ḷng ư? Quán Thế Âm Bồ
Tát xoay trở lại nghe nơi Tự Tánh, Đại Thế
Chí Bồ Tát nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối, kinh Kim Cang không trụ vào đâu để sanh tâm,
chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc,
Pháp để hành bố thí, cho đến vạn hạnh;
Tâm Kinh “soi thấy năm Uẩn
đều không” đều nhằm dạy cho con người
diệu pháp “từ cảnh biết được tâm” vậy.
Nếu cứ một mực muốn xem rộng khắp hết
thảy th́ sẽ không có lợi ích ǵ. Hễ nghiệp
chướng chưa tiêu, sẽ chưa đạt lợi
ích ấy, mà trước hết c̣n bị mắc bệnh!
136. Thư trả lời
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ tư)
Những sách của ngài Vĩnh Minh có sách
nào không hợp? Ông hăy nên nghiêm túc niệm Phật. Một cuốn
sách Tịnh Độ Thập Yếu xem nhiều lần là
đủ rồi, những thứ khác đợi đến
khi nào tài trí có thừa hăy thỉnh về mà đọc
cũng chẳng trễ tràng đâu! Niềm vui niệm Phật
chỉ người thật sự niệm Phật tự
biết, nhưng cần phải chí thành khẩn thiết,
nhiếp tâm mà niệm, chẳng được chấp
trước cảnh tướng bên ngoài. Nếu không, tâm
địa chẳng thông, quán đạo chẳng rành, ma cảnh
hiện tiền cũng chẳng hiểu rơ th́ tệ lắm!
Hăy nhớ lấy, nhớ lấy nhé!
Nay những người thật sự
hoằng dương Tịnh Độ thật khó có ai. Nếu
đổi ư niệm “tham học với khắp các tri thức”
thành “nhất tâm niệm Phật” th́ lợi ích lớn lao lắm!
Nếu không, sẽ thành ra nhọc nhằn, bôn ba mà thôi! Nên
thỉnh giáo nhiều ở chỗ Đế Pháp Sư (ngài
Đế Nhàn), những người khác Quang không biết.
An Sĩ Toàn Thư đứng đầu các thiện
thư xưa nay, hăy nên khắc in phổ biến lưu truyền,
nhờ đó văn hồi thế đạo nhân tâm. May là
cư sĩ Vưu Tích Âm đă cực lực chuyên lo quảng
cáo, khuyên khắp mọi người in tặng, nhân đó
cho làm ra bốn khuôn in, tính in hai mươi, ba mươi vạn
bộ, ngơ hầu những chỗ quan trọng thuộc hai
ngàn bốn mươi mốt huyện trong toàn quốc và những
người quan trọng đều được xem
đến, về sau sẽ càng lưu thông phổ biến
xa rộng hơn nữa. Nhưng thành sự tại trời,
chẳng cần phải tính trước, chỉ lấy
chuyện cứu quốc cứu dân làm trọng, tận lực
mà làm đó thôi!
Niệm Phật chẳng thể thuần
nhất th́ phải chế ngự tâm chẳng cho nó đuổi
theo bên ngoài, lâu dần sẽ tự có thể thuần nhất.
“Thành phiến” là thuần nhất không tạp. Đại
trượng phu nếu như văn chương trùm lấp
thiên hạ, công nghiệp rền vang vũ trụ, nhưng
không thể đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh
thoát tử là v́ chấp vào cái bên ngoài, bỏ phế cái bên
trong, chấp vào cái ngọn hữu vi, bỏ sót cái gốc
vô vi. Người thế gian ai có thể vẹn toàn mọi
điều, chúng ta chỉ giữ lấy chuyện trọn
hết luân thường, tận lực tu Tịnh nghiệp
mà thôi! Cần ǵ phải tính toán chi khác nữa!
137. Thư trả lời
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ năm)
Lúc niệm Phật, ai nấy
hăy cốt sao thích hợp với ḿnh. Nay niệm Phật
đường trong các tùng lâm đều trước hết
niệm kinh Di Đà, tụng kinh xong, niệm chú Văng Sanh ba
biến hoặc một biến, sau đó mới cử bài
kệ tán Phật, niệm kệ xong, niệm tiếp “nam mô Tây Phương Cực Lạc
thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật”,
liền vừa đi nhiễu vừa niệm. Phải
đi nhiễu từ Đông qua Nam, qua Tây rồi lên Bắc.
Đó là thuận chiều, là tùy hỷ. Nhiễu theo chiều
thuận có công đức, Tây Vực coi trọng nhất là
đi nhiễu quanh. Phương này (Trung Hoa) cũng thực
hiện chuyện đi nhiễu cùng với lễ bái. Nếu
đi từ Đông sang Bắc, đến Tây, đến
Nam là đi nhiễu ngược chiều, có tội lỗi,
chẳng thể không biết. Nhiễu niệm một nửa
[thời gian] rồi ngồi niệm thầm ước chừng
một khắc, lại niệm ra tiếng. Niệm xong lại
quỳ niệm Phật mười tiếng, Quán Âm, Thế
Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng mỗi danh hiệu
ba lượt. Sau đó, niệm bài văn phát nguyện.
Người tại gia sợ rằng thất nhỏ khó đi
nhiễu th́ đứng, quỳ, ngồi niệm, đều
án theo tinh thần mà định, đúng là chẳng cần cậy
người khác lập pháp tắc cho ḿnh.
Niệm nhưng không niệm, vô niệm
mà niệm, niệm đến lúc tương ứng th́ tuy
thường niệm Phật, nhưng trọn chẳng có tướng
khởi tâm động niệm (trước lúc
tương ứng, chẳng khởi tâm động niệm
để niệm th́ sẽ không có niệm). Tuy chẳng khởi tâm động niệm,
nhưng một câu Phật hiệu thường luôn xưng
niệm, hoặc ức niệm, v́ thế nói “niệm mà vô niệm, vô niệm
mà niệm”. Chớ hiểu “vô
niệm” là không niệm, “vô
niệm mà niệm” nghĩa là không có cái tướng khởi
tâm động niệm để niệm, nhưng vẫn
niệm niệm không gián đoạn, cảnh giới này thật
chẳng dễ đạt được, chớ có hiểu
sai! Pháp quán tưởng tuy hay, nhưng phải biết rơ
tượng Phật ta thấy được vốn thuộc
về duy tâm sở hiện. Nếu cho đó là cảnh bên
ngoài sẽ rất có thể bị ma dựa phát cuồng,
không thể không biết [điều này]. “Duy tâm sở hiện” là tuy những h́nh tướng
ấy rành rành phân minh, nhưng quả thật chẳng phải
là vật cụ thể. Nếu nghĩ là cảnh bên ngoài,
coi nó là thật có th́ liền thành ma cảnh. Nhắm mắt
hay mở mắt cứ thuận tiện là được!
Kiêm tŕ thánh hiệu Quán Thế Âm đáng
là pháp để nương tựa, hết thảy mọi
người đều nên tu như thế. Lúc làm lụng
chẳng thể “niệm
đâu chú tâm vào đó” là v́ chưa đạt đến
cảnh giới nhất tâm bất loạn nên tâm không thể
dùng vào hai việc cùng một lúc được, khó tránh khỏi
bị gián đoạn. Nếu có thể thường giữ
được sự giác chiếu th́ không trở ngại
ǵ. Con người ai nấy nên tuân thủ bổn phận,
ông trên c̣n có bà nội, có cha mẹ, dưới có em nhỏ,
vợ con, nhưng công việc cực nhàn, dễ dàng tu tŕ
nhất, chẳng thể chân thật, khẩn thiết dụng
công trong cảnh ấy lại vọng động mong muốn
xuất gia tu hành. Nếu xuất gia th́ ông có được
cơ duyên tốt như thế để chuyên tâm tu đạo
hay chăng? Ông chẳng biết xuất gia có công chuyện
xuất gia, ai mà có thể việc ǵ cũng chẳng cần
phải ngó ngàng tới? Ngay như Quang trọn chẳng có
chuyện ǵ mà cũng gần như bận bịu quanh
năm, chẳng rảnh rỗi để chuyên tâm niệm
Phật, huống ǵ những người khác? Mong hăy tùy phận,
tùy lực tu tŕ, chớ mong tưởng chuyện ngoài bổn
phận th́ may mắn lắm!
138. Thư trả lời
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ sáu)
Người tu hành phải lắng
ḷng tịnh dưỡng. Ông tên là Tịnh Am, sao chẳng
nghĩ đến ư nghĩa của cái tên ấy, cứ một
mực vô sự bày ra chuyện, khiến cho hết thảy
mọi người chán nhàm, tự ḿnh bụng dạ
chương phềnh, chóng mặt, mệt trí, lại chẳng
biết tự giữ sức khỏe, đến nỗi thổ
huyết. Nhẹ th́ sẽ thành bệnh dây dưa, nếu nặng
th́ ắt đến nỗi tổn mạng, đâm ra khiến
cho người ta nói: “Ông học Phật tu hành chẳng những
vô ích mà c̣n bị tổn hại”. Từ đó, những kẻ
vô tri bèn chê Phật pháp sai trái; nhân đấy, phỉ báng,
ngăn trở, đoạn mất thiện căn của
người, chứ họ đâu biết là v́ ông chẳng
y theo lời Phật dạy để tu hành nên mới bị
như thế. Ông phải tự biết tốt - xấu!
Tu hành chuyện ǵ phải tận hết
sức ḿnh, ngầm tu thầm khế hợp th́ mới nên.
Bệnh của ông là do chính ông tự chuốc lấy, nói ǵ
bây giờ? Hăy gấp gáp sửa lỗi, nhiếp tâm niệm
Phật, ngay cả kinh cũng tạm thời chẳng nên
xem. Một hai tháng sau bèn được phục hồi. Nếu
không, bèn tuyệt giao, ngày sau gặp nhau, đối đăi với
nhau như người đi trên đường thấy
nhau mà thôi!
139. Thư trả lời
thư cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ bảy)
Danh để biểu thị cái thực, có danh
có thực cũng chẳng lấy làm vinh, v́ sao? V́ thuộc
về bổn phận. Không có thật mà được danh
th́ c̣n ǵ nhục bằng! Huống hồ muốn phô
trương dấy động cho người ta nghe biết,
ắt phải đăng trên khắp báo chí. Kẻ nào phô
phang như thế, ắt phải nghi ngờ, đoán định
kẻ ấy là kẻ dối đời trộm danh vậy.
Ông chỉ biết một, chẳng biết đến hai,
do vậy không thể không bảo rơ một lần nữa.
Ông tín tâm khá sâu, nhưng ưa phô phang, ham giao du, ham kết
giao, quả thật là đại chướng ngại cho
việc tu hành. Ông mới hơn hai mươi tuổi mà đă
kết giao như thế, sau này lúc học Phật thông suốt
rồi, suốt ngày sẽ chẳng thể rảnh rỗi!
Mong ông hăy náu ḿnh ẩn tiếng, ắt được lợi
ích vô lượng. Hăy coi chừng!
140. Thư trả lời
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ tám)
Đă nhiều lần răn nhắc ông nên náu
ḿnh, kín tiếng, nhất tâm niệm Phật, nhưng rốt
cuộc vẫn không chịu buông xuống thói quen phô phang, Hiển
Ấm đă đem bản thảo ghi những chuyện
đă biết cho đăng trên tờ Hải Triều Âm, đó
đă là chuyện không thông hiểu sự việc, ông lại
lấy làm đắc ư, chẳng phải là cũng chỉ
nhằm cầu danh hay sao? Việc quyên góp in Ấn Quang
Văn Sao nên dừng lại, v́ chưa phải là lúc ông nên
làm chuyện đó. Hăy nên lắng ḷng niệm Phật, đừng
cầu đọc rộng khắp. Lệnh nội[17]
đă phát tâm quy y, tôi bèn đặt pháp danh là Khế Tịnh.
Tên ấy có nghĩa là tuy hiện thời chưa có công phu,
nhưng đến lúc rảnh sẽ hành. Những câu hỏi
trong phần sau của thư ông quả thật đều
là những chuyện thiết yếu, chỉ v́ ông chẳng
lắng ḷng niệm Phật nên vẫn ngẩn ngơ chẳng
biết đi về đâu. Ông hăy nên nghiêm túc niệm Phật,
lâu dần ắt tự biết, không cần ai bảo cho nữa!
Lệnh nội đă quy y, nên khiến cho bà ta tâm y theo lời
Phật, trừ khử tập khí nữ nhân, ngơ hầu
được đại lợi ích. Y theo lời Phật
chính là nương vào Tứ Hoằng Thệ Nguyện, và
đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện.
Tuy chưa phải là bổn phận của bà ta, nhưng cố
nhiên phải nên phát cái tâm lợi ḿnh lợi người. Trừ
khử tập khí nữ nhân, đừng chăm chút trang
điểm, đừng ôm ḷng dua vạy. Đối với
người trưởng thượng, hoặc kẻ ngang
hàng đều tận hiếu, tận t́nh ḥa thuận.
Như thế mới chẳng thẹn là đệ tử
Phật vậy!
141. Thư trả lời
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ chín)
Tiện Mông Sao[18]
là tác phẩm được soạn bởi Mộ Liên pháp
sư ở núi Hồng Loa vào năm cuối triều Đạo
Quang, Tịnh Độ Quyết Nghi Luận đặc biệt
mượn giọng điệu của Ngài để phát
khởi. Năm Dân Quốc thứ ba (1914), ông Địch Sở
Thanh gởi thư bảo tôi viết bài luận ấy
để đóng góp tài liệu cho Phật Học Tùng Báo.
Quang trước đó đă không muốn dùng cái tên Ấn
Quang, nên bèn mượn tên ngài. Dưới tựa đề
ghi rằng “Di cảo của Hồng
Loa Sơn Mộ Liên pháp sư, Vân Thủy Tăng Thường
Tàm[19] sao chép”; đến
khi gởi cho ông Mạnh Do th́ đề là “mượn khẩu khí của Mộ Liên pháp sư ở
Hồng Loa”. Khi ông Úy Như ấn hành, cả hai thứ
tiêu đề ấy đều bị lược bỏ mất,
nên ông mới nghi Ấn Quang đă từng soạn sách ấy;
trước kia đă hỏi, nay tŕnh bày rơ.
Tâm vốn không có h́nh tượng,
nhưng sâm la vạn tượng đều do tâm hiện.
Tâm vốn không có pháp (pháp là sự, phàm những ǵ có thể
gọi tên đều gọi chung là “pháp”), nhưng hết thảy các pháp đều do tâm hiển
hiện. V́ thế, mới nói: “Không
có h́nh tượng nhưng là chủ của muôn h́nh tượng,
không có pháp nhưng là tông của các pháp” (Tông có nghĩa là quy thú
(hướng về), như sông ng̣i chảy xuôi về biển.
Tông lại có nghĩa là chủ thể, bởi các pháp không
pháp nào chẳng lấy tâm làm thể vậy), chúng sanh và Phật đồng thể,
nào có sai biệt! Nếu sai biệt sao gọi là “đồng”
được! Ông lẫn lộn Tướng, Dụng với
Thể, nên mới hỏi câu ấy.
Chúng sanh và Phật về Thể vốn
không hai, chỗ bất đồng chính là mê - ngộ, thuận
- nghịch nơi Tướng và Dụng của Thể.
Chúng sanh mê nghịch đối với Thể, c̣n Phật,
Bồ Tát ngộ thuận theo Thể. Mê - ngộ, thuận
- nghịch nơi Tướng và Dụng bèn thành khác biệt
một trời một vực. Ngài Phổ Hiền dùng
mười đại nguyện vương khuyến tấn
Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng, hăy nên xem Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm sẽ tự biết. Trong bộ
Văn Sao của Quang chỗ nào cũng nói đến
[điều này], sao chẳng lănh hội? Về bốn cơi của
Cực Lạc th́ kẻ đới nghiệp văng sanh sống
trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ, người
đă đoạn Kiến Tư Hoặc sống trong
Phương Tiện Độ, người phá được
vô minh sống trong cơi Thật Báo. Người đoạn sạch
vô minh sống trong cơi Tịch Quang.
Thêm nữa, cơi Thật Báo là
ước trên quả báo cảm được mà nói. Tịch
Quang là ước trên lư tánh chứng được mà nói, vốn
cùng là một cơi, nhưng giảng như thế để cho
người ta dễ hiểu. Do vậy, kẻ phần chứng
thuộc về Thật Báo, c̣n người măn chứng thuộc
về Tịch Quang, chứ thật ra trong hai cơi đều
có phần chứng và măn chứng. Trong Văn Sao cũng nói
cặn kẽ điều này. Cơi Đồng Cư tuy có
đủ ba cơi kia, nhưng người chưa đoạn
Hoặc chỉ thọ dụng được cảnh của
Đồng Cư. Tuy là người đới nghiệp
văng sanh nhưng chẳng thể gọi là phàm phu v́ họ
đă đều đắc ba thứ Bất Thoái. Đây
chính là lư luận thông thường, muốn so sánh với sở
chứng của người được văng sanh Cực
Lạc th́ cứ đọc kỹ sẽ tự biết.
Sự Tŕ là tin có Phật A Di Đà ở
Tây Phương, tuy chưa đạt “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, nhưng quyết
chí cầu sanh như con nhớ mẹ, không lúc nào tạm
quên. Đây là chưa đạt lư tánh nhưng chỉ tu tŕ
theo mặt Sự. Lư Tŕ là tin Tây Phương A Di Đà Phật
tâm ta sẵn có đủ, do tâm ta tạo. “Tâm có đủ” nghĩa là tâm ta vốn sẵn
đủ lư ấy. “Tâm tạo” là nương vào lư “tâm có
đủ” ấy để khởi tu, th́ lư ấy mới
hiển hiện. Do vậy, gọi là “tạo”. “Tâm đầy
đủ” chính là Lư Thể, “tâm tạo” chính là Sự Tu. “Tâm
đầy đủ” chính là “tâm này là Phật”; “tâm tạo”
chính là “tâm này làm Phật”. “Tâm này làm Phật” bèn xứng tánh
khởi tu; “tâm này là Phật” bèn toàn tu nơi tánh. Tu đức
hữu công, tánh đức mới hiển. Tuy ngộ lư
nhưng vẫn chẳng phế sự th́ mới là chân tu. Nếu
không, bèn rớt vào tri kiến cuồng vọng chấp lư phế
sự! Do vậy, mới nói: “Dùng
cái hồng danh tự tâm sẵn đủ, do tâm tạo ra,
để buộc tâm nơi cảnh, chẳng để cho
tạm quên mất”. Giải pháp này thiên cổ chưa từng
có, quả thật là khế lư lẫn khế cơ, lư sự
viên dung, chẳng phải là bậc Pháp Thân đại
sĩ, ai có thể đạt đến điều này?
V́ Sự Tŕ dẫu chưa ngộ lư
nhưng há có thể ra ngoài Lư được ư? Bất
quá là hành nhân chưa thể viên ngộ tự tâm. Hễ
đă ngộ th́ Sự chính là Lư, há nào phải cái Lư
được ngộ chẳng nằm trong Sự? Lư chẳng
ĺa Sự, Sự chẳng ĺa Lư, Lư - Sự vô nhị! Như
thân và tâm con người, cả hai thứ cùng sử dụng
một lúc, trọn chẳng hề có chuyện thân và tâm đây
kia tách rời nhau, người đă đạt dù có muốn
chẳng dung hợp cũng không được! C̣n tri kiến
cuồng vọng chấp Lư phế Sự th́ chẳng thể
dung hợp được. Toàn chân thành vọng, toàn bộ
vọng chính là chân, do giống như toàn thể nước
biến thành sóng, toàn thể sóng chính là nước. Nước
là tướng tịnh, sóng là tướng động.
Động - tịnh tuy khác, tánh ướt vốn đồng.
Suốt ngày tùy duyên, suốt ngày bất biến; suốt
ngày bất biến nhưng suốt ngày tùy duyên.
Giống như hư không trọn chẳng
có các tướng, nhưng mây đùn bèn tối, mặt trời
chiếu bèn sáng tỏ. Bụi do gió thổi dậy nên bẩn
thỉu, bụi do mưa gột bèn sạch sẽ. Hư
không là bất biến, chẳng ngại tùy thuận các
duyên, thành ra sáng - tối, trong - đục. Tuy là sáng - tối,
trong - đục khác nhau, nhưng bản thể của hư
không trọn chẳng biến đổi. Hiểu rơ điều
này sẽ tùy thuận cái duyên ngộ tịnh để tạo
cơi Phật sẵn có trong tự tâm, bỏ cái duyên mê nhiễm
để diệt sáu cơi và tam giới huyễn hiện trong
chính cái tâm này (đây chính là ước theo mười
pháp giới mà nói, nên bảo lục đạo là sáu cơi và
tam thừa là ba cơi, chớ nên hiểu lầm!) Tâm này trọn khắp thường hằng,
hệt như hư không. Chúng ta do mê nhiễm nên khởi các
chấp trước; ví như hư không bị vật
ngăn ngại nên chẳng thể trọn khắp, chẳng
thường hằng vậy. Nhưng chẳng trọn khắp,
chẳng thường hằng chính là chấp trước vọng
hiện, há nào phải hư không thật sự bị vật
chướng ngại nên chẳng thể trọn khắp,
chẳng thể thường hằng! Do vậy, cái tâm phàm
phu và cái tâm bất sanh bất diệt mà đức Như Lai
đă chứng trọn chẳng khác ǵ nhau. Có khác là v́ phàm phu
mê nhiễm nên thành ra như vậy, chứ không phải tâm
thể vốn có biến đổi!
Tịnh Độ của Phật Di
Đà hoàn toàn ở trong một niệm tâm tánh của chúng
ta, tâm ta sẵn có Phật Di Đà. Đă là tâm ta sẵn có
th́ cố nhiên phải nên thường niệm. Đă có thể
thường niệm th́ sẽ cảm ứng đạo
giao, tu đức hữu công, tánh đức mới hiển
hiện. Sự - Lư viên dung, chúng sanh và Phật chẳng hai;
do vậy, nói: “Dùng cái tâm sẵn
có Phật của ta để niệm đức Phật
tâm ta sẵn có, lẽ đâu đức Phật sẵn có
trong tâm ta lại chẳng ứng với cái tâm ta sẵn có
Phật?” Những điều đă nói đến trong
phần sau của thư ông viết đều là v́ chẳng
hiểu: Thật sự chẳng có tự tướng, thuận
theo mê nhiễm nên cái Thể ấy biến thành vọng. Vọng
vốn không có tự tánh, bởi lẽ bản thể của
mê nhiễm vốn là chân. Hai câu “suốt
ngày tùy duyên, suốt ngày bất biến” và “suốt ngày bất biến, suốt
ngày tùy duyên” soi rọi lẫn nhau, tán trợ lẫn nhau.
Do tâm ông không có chánh trí nên nghi hai điều ấy là mâu thuẫn.
Niệm Phật xong, bèn khởi [ư niệm] ta - người
chính là tự sanh chướng ngại. Phàm người hành
đạo Bồ Tát, phải phát Tứ Hoằng Thệ
Nguyện. Nếu có được cái tâm Tứ Hoằng Thệ
Nguyện th́ dù cảnh ta - người có phát, trong tâm địa
rốt cuộc vẫn chẳng khởi chấp trước
ta - người. Khởi ta - người đều là do
tâm trụ vào tướng, chẳng biết ư chỉ vi diệu
“tâm Bồ Tát không trụ vào đâu, hành lục độ
vạn hạnh, thượng cầu hạ hóa”. Những
điều vừa nói trên đây nếu tự lănh hội
được th́ tốt; nếu như không thể lănh hội
th́ cứ lắng ḷng niệm Phật đến lúc nghiệp
tiêu trí rạng, sẽ tự hiểu biết rơ ràng, chẳng
cần phải chuyên chú hỏi ai khác nữa!
142. Thư trả lời
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ mười)
Pháp danh của lệnh ái[20]
nên đặt là Phước Trinh. Trinh là chánh, là gốc
đức hạnh của phụ nữ. Nếu có thể
nhất tâm niệm Phật khiến cho phiền năo Hoặc
nghiệp tiêu diệt hết sạch, công đức, trí huệ
triệt để phơi bày toàn thể, cũng như
đức hạnh trinh lương của người nữ
không bị bên ngoài làm nhiễm, chánh đáng nghiễm nhiên tự
lập. V́ thế, kinh Dịch nói: “Trinh giả, sự chi cán dă” (Trinh là cái cốt lơi
của sự). “Cán” chính là cái thân chánh của cây cối.
V́ thế, người tu hành đạt được
chánh thân Bồ Đề, th́ đạo nghiệp sẽ tự
thành tựu, tự được trọn đủ
phước huệ. Tuy đứa bé chưa thể đạt
được như vậy, nhưng mong mỏi như thế
nên đặt tên như vậy đó, mong nó sẽ nghĩ
đến ư nghĩa của cái tên rồi cuối cùng
cũng đạt được như vậy th́ sau này sẽ
là vợ hiền của người ta, là mẹ hiền của
người ta, giúp chồng thành tựu đức hạnh,
dạy con cái từ khi c̣n đang mang thai, vẻ vang nào
hơn? Lệnh nội đă quy y, nên siêng năng tu tŕ, chớ
để hữu danh vô thật, th́ may mắn lắm! Kinh lướt
qua mắt tức là đă duyệt rồi, chớ nên xem rồi
vướng mắc vào đó. Nếu có cần xem th́
cũng mong nên xem ít, chỉ lấy việc niệm Phật
để đối trị tập khí, tiêu nghiệp làm trọng.
Nghiệp tiêu rồi th́ hễ xem sách, vừa đọc liền
lănh hội được chỗ mầu nhiệm. Đây
là ước theo sự đạt được diệu
pháp mà luận. Người đời nay căn tánh hèn kém,
xem nhiều sẽ lan man, không nơi nương tựa, tâm
t́nh lắm mối phân vân, khó thể tương ứng
được!
143. Thư trả lời
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ mười một)
Hai lần băo lốc, các xứ bị tai
ương, Phổ Đà cũng thế. Ấy là do chúng
sanh đồng phận ác nghiệp chiêu cảm mà ra. Chẳng
biết quư trạch[21]
pḥng ốc ra sao? Cư Khoa đang độ tuổi tráng
niên, phong thái thuần hậu, đáng làm pháp khí nhập
đạo. Quang v́ người khác trọn chẳng chấp
trước. Ai trước đó nghĩ Quang đáng tin
tưởng được bèn chẳng ngại kết
giao, sau cho rằng Quang chẳng thể tin được
bèn chẳng ngại tuyệt giao. Đến - đi mặc
người, tôi vốn không để tâm đến chuyện
kết giao hay cự tuyệt. Người khác dạy
người đa phần chú trọng dốc sức
nơi chỗ huyền diệu, c̣n Quang dạy người
đa phần phát huy ư chỉ “tận hết bổn phận”.
Nếu chẳng thể tận hết bổn phận
th́ dù có thấu triệt tận nguồn tột đáy mọi
sự trong Thiền, trong Giáo, cũng chỉ thành một kẻ
khiến cho tam thế chư Phật bị oan mà thôi! Huống
chi c̣n có sự chưa thể tột nguồn thấu
đáy ư!
Cư Quân đă đến núi này rồi,
cần ǵ tháng Bảy lại phải lên đây? Qua lại
nhiều lượt, lộ phí tiêu dùng tốn kém biết là
bao nhiêu! Xin đừng tới nữa! Nếu có nghi vấn
th́ đă có cư sĩ Hiển Vi rồi! Nếu muốn hỏi
Quang th́ bưu điện là tiện lợi nhất, cần
ǵ lại phải lên đây, làm chuyện vô ích khiến hại
đến sự hữu ích! Nay v́ Cư Quân đặt pháp
danh là Khế Tâm. V́ ông ta tên là Bỉnh Bàn, tự Thấu Am.
Nếu tâm ông ta quả thật ngay thẳng, kiên cố, chẳng
động như “bàn thạch” (đá tảng), lại c̣n
“thấu đăng” (gột rửa sạch) những chất
nhơ bên ngoài th́ bổn thể của cái tâm sẽ tự
hiển hiện. Chữ Tâm chỉ cho chân tâm thường
trụ, chứ không phải là cái tâm tùy duyên khởi lên tập
khí. Tâm tập khí chính là t́nh nhiễm, chứ không phải là
bổn thể!
144. Thư trả lời
cư sĩ Mă Khế Tây (thư thứ mười hai)
(răn đừng in [danh hiệu Phật, Bồ Tát] lên vải bọc đệm quỳ lễ[22])
Đương gia[23] của
hạ viện đem thơ Nhậm Niên gởi đến
và gói hàng giao cho Quang, mới biết vải trơn được
gởi tới là nhờ Nhậm Niên in. Chuyện này tội
lỗi đến cùng cực, đem danh hiệu của Bồ
Tát [in trên vải] làm đệm quỳ để lễ,
thuộc vào cái tội khinh nhờn đến cùng cực.
Huống chi có chỗ dùng vải ấy để bọc
đệm ngồi. Năm Quang Tự thứ hai mươi
(1894), ở Phổ Đà tôi đă từng trông thấy.
Năm Quang Tự hai mươi mốt (1895) ở chùa A Dục
Vương, tôi lại thấy, thật là quái dị. Tôi bảo
cùng điện chủ điện Xá Lợi, ông ta bảo:
“Đấy là tập quán của vùng Ninh Ba”. Tự thẹn
ḿnh không có sức để cứu văn thói ác đấy. Nếu
như Quang là chủ nhân một phương, ắt sẽ
đi khắp chốn nói rơ lỗi hại của chuyện
này, ngơ hầu những ai có tín tâm chỉ được lợi
ích chứ không bị tổn hại. Người gởi
đă là bà con rất thân của ông, sao không thuật rơ tội
phước, mong ông ta chỉ dùng vải trơn để
làm đệm quỳ lễ, một là chẳng làm bẩn vải,
hai là chỉ được lợi ích không bị tổn hại.
Vậy mới là có ích cho ông ta, có nên theo thói tục im lặng
chăng? Hăy thay tôi thỉnh cầu ông ta! An Sĩ Toàn Thư
in chữ ở cuối sách (b́a sau) ông c̣n chịu nói đến
tội lỗi, thế mà cái lỗi này c̣n lớn gấp
trăm ngàn vạn lần lỗi kia! Hăy nên bảo tường
tận cùng hết thảy những người tín tâm.
Ấn ở chùa A Dục Vương
đă hư nát chẳng thành dạng chữ nữa (Đây
chính là cái ấn mà Quang đă thấy trong năm Quang Tự
hai mươi mốt), quả thật
là ấn chân thân xá-lợi bảo tháp của Thích Ca Như
Lai. Phổ Đà có mấy cái ấn, ấn vàng, ấn ngọc
chùa Pháp Vũ, đều là Quán Âm bảo ấn sắc tứ
kiến tạo Nam Hải Pháp Vũ thiền tự. Trong cơi
tục, nếu con cháu đem tên tuổi tổ phụ in
trên đệm quỳ lễ, ắt bị quở là ngỗ
nghịch, huống hồ danh hiệu của Phật, Bồ
Tát, đại thánh nhân ư? Hăy nên tự đối trước
kẻ thân tín, khuyên họ chớ làm như thế, từ một
truyền mười, từ mười truyền trăm,
truyền ngàn, truyền vạn, há chẳng thể diệt
được thói ác ấy hay sao? Phàm mọi chuyện
đều do một người đề xướng, mọi
người hùa theo bèn thành tục lệ, há riêng ḿnh chuyện
phản tà quy chánh là chẳng giống như vậy ư?
145. Thư gởi đốc
quân[24] Trần Bá Sanh ở
Thiểm Tây
Quang là một gă Tăng tầm
thường, trọn không có hành trạng tốt đẹp
nào. Tuy xuất gia đă bốn mươi mốt năm,
ĺa khỏi đất Tần[25]
ba mươi sáu năm, nhưng đạo nghiệp vẫn
chưa thành, không mặt mũi nào để gặp người
cùng quê cũ, c̣n dám cho phép ḿnh quay về nữa ư?
Năm ngoái được lọt mắt xanh của các hạ,
khiến cho Định Huệ ḥa thượng sai Quang về
Tần hoằng dương pháp hóa. Quang tuy cảm cái tâm chẳng
chê bỏ, nhưng quả thật chẳng có tài đức
đảm đương trách nhiệm ấy. Do vậy, lấy
cái nguyện đă lập ban đầu “nếu đạo nghiệp chưa thành, dù chết
già nơi đất khách trọn chẳng quay lại đất
Tần” để từ tạ. Các hạ gương
sáng treo cao, ắt sẽ thể t́nh lượng thứ cho.
Kẻ bất tiếu[26]
như Quang c̣n được từ ái chấp thuận
như thế, đủ thấy cái tâm tôn trọng đức
hạnh, thích đạo, v́ pháp v́ dân của các hạ. Mùa
Xuân năm nay, Thượng Hải Thương Vụ Ấn
Thư Quán có xuất bản bộ Ấn Quang Văn Sao,
riêng gởi đến ngài năm bộ để đáp tạ
ḷng yêu thương nồng hậu.
Người dân đất Tần
đáng gọi là lương thiện. Thói đời ngày
càng biến đổi, pháp luật bỏ phế, những
phường du thủ du thực bại hoại bèn mặc
sức hoành hành, cấu kết với những kẻ bại
hoại nơi địa phương cướp đoạt
hương thôn, thê thảm chẳng nỡ nghe. Trong mấy
năm gần đây, có người từ đất Tần
đến cho biết t́nh trạng hiện thời của
đất Tần, không thể không ứa lệ nghẹn
ngào. Bởi thổ phỉ xông đến gặp ai dư giả
đôi chút bèn nung nướng, kềm kẹp, không chuyện
ǵ chẳng làm, miễn sao người ta phải dâng sạch
những ǵ đă tích cóp mới thôi. Người ta không chịu
nổi khổ, ắt phải hiến sạch. Nhưng
người đă bị hành hạ kiểu ấy, dẫu
chưa chết ngay khi ấy cũng khó sống lâu
được. Có nhiều nhà giàu đều phải đào
sâu ba thước đất, phàm hầm ḷ tường vách
đều bị hủy hoại để t́m chỗ chôn
vàng. Thói cướp đoạt hung tàn quá mức ấy quả
là từ ngàn xưa chưa từng nghe nói đến. Do quan
phủ chẳng ngăn chặn được, trăm họ
không biết kêu vào đâu, thật giống như ở măi
trong địa ngục, trọn chẳng có kỳ ra. Đấy
là bọn thổ phỉ lớn. C̣n bè lũ thổ phỉ
nhỏ, tuy ít người hơn, nhưng cũng tàn khốc
y hệt như thế. Chúng thường đến cướp
vào ban đêm, nên mỗi khi nghe tin tức ấy, lúc trời
sắp tối, mọi người đưa phụ nữ
ra ngoài thôn trước hoặc cho ẩn vào đồng lúa,
rừng cây, hoặc nơi mồ mả, dù mưa gió, tuyết,
sương, cũng chẳng dám về. Trẻ con kêu khóc bèn
dùng đồ vật nhét vào miệng, thường có đứa
bị nghẹt thở chết luôn. Đàn ông thường
núp ở trong nhà, thổ phỉ kéo qua như lửa cháy rụi,
không c̣n vật ǵ sống sót được. T́nh trạng khổ
sở ấy nói chẳng thể hết nổi, c̣n chẳng
biết rốt cục sẽ ra sao?
Các hạ tuy ở đất Tần,
nhưng quả thật chưa nghe [những chuyện ấy],
bởi đi th́ có quân lính ủng hộ, ở th́ có lính bảo
vệ, chưa từng đích thân đi thăm hỏi, xem
xét; trăm họ cũng khó kêu nài, nên không cách chi biết
được! Do vậy, phàm những kẻ có của
ăn của để đều bỏ đi nơi khác,
đều phải bỏ quê cha đất tổ, trốn
tránh sang đất khách quê người. Những người
trốn sang Thượng Hải không biết là bao nhiêu, huống
chi các xứ khác! Chỉ một nạn thổ phỉ
đă khó chịu đựng nổi, lại thêm quân Tĩnh
Quốc[27] đánh nhau nhiều
năm, đội quân ấy đi đến đâu cướp
bóc tràn lan, c̣n nói ǵ được nữa! Ô hô! Người
xứ Tần do tội ǵ mà phải mắc hung hiểm
đến thế?
Các hạ túc căn sâu dầy, tài thao
lược rộng sâu, nên binh lính suy tôn làm đốc soái.
Tiếc là trong kiếp xưa, ít kết duyên cùng người
nên đa số nhân dân chẳng chịu mến mộ. Do vậy,
những kẻ chẳng lo cho nước, cho dân, lén gia nhập
Nam Quân, trở thành quân Tĩnh Quốc đối địch
cùng các hạ. Tuy đánh nhau mấy năm, chưa phân thắng
bại. Quân hai bên đối địch, tiếng đại
bác như sấm, tiếng đạn bay như mưa,
người bị chết kẻ bị thương đều
là đồng bào xứ Tần chúng ta. Binh lính hai đoàn
quân đi đến đâu, nhân dân bị cướp đoạt
tàn nhẫn cũng đều là đồng bào xứ Tần
chúng ta. Thương thay đồng bào, kêu trời không thấu,
không lối chui xuống đất, thân làm cá thịt, ai
thương xót cho?
Quang trộm nghĩ: Tuy các hạ địa
vị tôn quư, quyền oai cao trọng, ai dám khinh thường,
nhưng thật ra trăm họ sợ thổ phỉ, không
phân thượng hạ, lỡ có kẻ muốn hành thích, sẽ
chẳng biết như thế nào? Huống chi quân Tĩnh
Quốc đang phất cờ gióng trống để chống
cự ngài! May là các hạ túc phước sâu dầy,
chưa phải lo điều ấy! Nhưng quân hai bên
đánh nhau, cố nhiên nguy hiểm muôn bề! Nếu chẳng
lo liệu, th́ hai vị cao đường (cha mẹ) và anh
em, vợ con nương tựa vào đâu? Huống chi tâm của
địch nhân quyết khó thể nghĩ t́nh hiếu hữu
để bảo bọc cả nhà, chẳng chịu ra tay tàn
sát một phen ư? Mối hoạn hại cay đắng của
trăm họ thảm độc c̣n cạn, mối hoạn
hại cay đắng của các hạ, thảm độc
càng sâu. Chánh phủ trung ương thiết tha nghĩ đến
dân chúng, cho rằng các hạ tuy tài đức cao sâu,
nhưng chưa hợp ḷng người, nên mới có quân
Tĩnh Quốc dấy lên. Nếu các hạ chịu lui, ắt
quân Tĩnh Quốc sẽ tự triệt thoái; v́ thế mới
đặc phái Diêm đốc tướng thay thế.
Các hạ đă từng trải, hăy nên
nghĩ lại mấy năm gần đây, cừu địch
như rừng, tuy chưa bị thương, cũng rất
nguy hiểm. Dẫu cho quân oai lừng lẫy, quả thật
là mộng mị chẳng yên, dẫu muốn rút ḿnh ra khỏi
cũng không thể được. Nay may sao có người
khác thay thế, tự có thể trút bỏ được
trách nhiệm nặng nề, rút lui về vườn rẫy,
tiêu dao an lạc, dùng hiếu hữu để cai trị,
vui với thiên chân của chính ḿnh, gác ra ngoài chuyện cạnh
tranh, khuyến hóa kẻ tham tàn kia. Tuy sống trong thời
đại cạnh tranh, nhưng làm người trong thời
Hy - Hoàng[28]. Một là chẳng
phụ sở học, hai là vĩnh viễn đáp ứng
ḷng kỳ vọng của dân. Bỏ chuyên chế, hưng khởi
cộng ḥa, triệt để tương ứng với
danh xưng tạo phước cho đồng bào, trọn
chẳng trái nghịch. Há có nên nghe lời xúi giục sai trái
của những kẻ chẳng biết đại thể,
lầm lạc mong mỏi đoạt công danh mà cự tuyệt
chẳng nghe lệnh chánh phủ, đem binh chống cự,
khiến cho nhân dân lầm than, ngân sách đất nước
trống rỗng? Dẫu cho các hạ một trận thắng
ngay, vẫn giữ được nguyên chức vị, há
có tránh khỏi về sau không bị các đội quân tấn
công hay chăng?
Phàm vũ khí là thứ bất tường,
thánh nhân bất đắc dĩ mới phải dùng đến!
Nay chẳng phải là chuyện bất đắc dĩ, chỉ
v́ nghe lời kẻ dối trá, dua vạy, mong muốn giữ
chắc tước vị của chính ḿnh, chẳng đoái
hoài trăm họ thường bị lầm than, nguyên khí
quốc gia bị hao hớt. Hành vi như thế khác nào như
cái đích để bắn được dựng thẳng
để hứng lấy các mũi tên, há có nên hằng ngày
đem thân mạng tối trọng và cha mẹ, anh em, vợ
con ra đánh đổi lẽ sống trong tay cừu địch?
Ấn Quang tuy ngu, cũng chẳng thấy đó là cách hay. Dẫu
thủy chung không lo lắng đến chuyện đó,
nhưng trong lúc đêm thanh lặng lẽ nghĩ suy, há không
hổ thẹn đối với những binh lính chết
trận, người dân chết đói ư?
Mạnh Tử nói: “Tuy có trí huệ chẳng bằng nương theo thế.
Tuy có phương tiện, chẳng bằng được
thời”. Tài trí, thao lược của các hạ chính là
trí huệ, phương tiện vậy. Dân không bội phục,
đua nhau nổi dậy chống lại, là v́ đời
trước ít kết duyên cùng người. Nay cai trị
chưa hợp ḷng người tức là không có cái thế nào
để nương vào. Không có thế ǵ để
nương vào mà cứ cưỡng làm tức là chẳng
đắc thời vậy. Đại trượng phu muốn
tạo đại công, lập đại nghiệp, chưa
hề có ai trên chẳng thuận theo thiên lư, dưới chẳng
hợp ḷng người cả! V́ thế, Khổng Tử thấy
ra làm quan được bèn làm quan, nên thôi bèn thôi, cái ǵ nên
lâu th́ lâu, cái ǵ nhanh được th́ nhanh, đợi thời
cơ thích hợp, không ǵ chẳng thích đáng. Ngài từng
bảo Nhan Uyên: “Dụng chi tắc
hành, xả chi tắc tàng. Duy ngă dữ nhĩ hữu thị
phù” (Dùng đến th́ ra sức, bỏ đi th́ ẩn.
Chỉ ḿnh ta với ngươi là được như vậy
thôi!) Mong các hạ noi gương Khổng Tử, coi cái
địa vị Đốc Quân giống như nguồn tội,
chẳng những không khởi chiến sự, mà cũng chẳng
sanh tâm tiếc nuối th́ không những dân Tần được
nhờ mà quốc gia cũng chẳng phải lo âu. Các hạ
sẽ thật sự được phước không ngằn
mé, phước thừa đượm khắp hậu duệ.
Nếu giữ chắc ư kiến ấy, chẳng chịu
nghĩ lại, ắt sẽ thành tượng Kháng Long Hữu
Hối[29] của quẻ Càn,
tuy quư nhưng không có địa vị, cao nhưng không có
dân, sau này ắt phải hối hận. Sau này có hối, há
c̣n kịp chăng? Khổng Tử giải thích [quẻ này]
như sau: “Kháng là đức,
biết tiến nhưng không biết thoái, biết c̣n mà chẳng
biết mất, biết được nhưng chẳng biết
mất. Chỉ ḿnh thánh nhân biết tiến thoái tồn
vong, nhưng chẳng đánh mất lẽ chánh, chỉ có mỗi
ḿnh thánh nhân ư?” Nhắc lại câu “chỉ ḿnh thánh nhân ư” lần nữa để
con người suy nghĩ sâu xa học lấy. Dẫu các hạ
chẳng ở vào bậc thánh nhân, nhưng chẳng lẽ
không xuôi theo cái tốt, tránh cái xấu hay sao? Mong các hạ
trên hăy nghĩ đến chuyện nối tiếp dài lâu
đức dầy của tổ tiên, dưới nghĩ
để lại hạnh phước cho con cháu, sanh ư
tưởng tri túc, mau dứt chiến sự th́ nhân dân
đất Tần mới c̣n sống sót được.
Cường bạo các nơi không cậy vào đâu hoành hành
được nữa! Tuy lui về ruộng rẫy,
nhưng quả thật đă ban ân trạch “xương khô được mọc thịt” cho
dân Tần không ǵ lớn lao hơn!
Ấn Quang tài đức đều thiếu,
nào dám mạo phạm oai phong, bất quá muốn báo đáp
các hạ một phen yêu thương nồng hậu, ngơ hầu
dân xứ Tần ít phải chịu tai nạn binh đao. Do
vậy, chẳng nề hà bị giết chóc, dâng lời thẳng
lên ngài, nếu ngài rủ ḷng xét soi tấm ḷng ngu thành th́ dân
Tần may lắm, quốc gia may mắn lắm. Lại mong
các hạ thiết thực nghĩ đến đời sống
của nhân dân, ắt sẽ suy xét nguyên do họa phước,
kết quả thiện ác. Một là để mở rộng
bụng dạ, hai là để hướng dẫn, cảm
hóa đồng nhân, nên tự đem một bộ Cảm Ứng
Thiên Vựng Biên, Phật Học Tiệp Kính, Phật Học
Cơ Sở, Phật Học Khởi Tín Thiên, Phật Học
Chỉ Nam, Lục Đạo Luân Hồi Lục[30],
mỗi thứ một bản gởi kèm theo thư, mong ngài
sẽ đọc vào những lúc nhàn hạ vô sự th́ cái
đạo thành ư, chánh tâm, cùng lư tận tánh, siêu phàm nhập
thánh, liễu sanh thoát tử sẽ tự đạt
được nơi tâm.
An Sĩ Toàn Thư là thiện thư
đứng đầu thiên hạ từ xưa đến
nay. Lưu tỉnh trưởng từng thỉnh bốn
trăm bộ kết duyên, sẽ bảo ông ta gởi cho các
hạ đọc. Ngoài ra, Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
cũng thuộc vào bậc nhất. Sách này tuy nghị luận
chẳng mười phần thấu triệt bằng An
Sĩ Toàn Thư, nhưng so trong các thiện thư, chưa
thấy sách nào bằng được, huống ǵ là hay
hơn! Năm bộ sách kia đều từ cạn tiến
vào sâu, do nhân quả để liễu sanh tử, không
căn cơ nào chẳng kể đến, không pháp nào chẳng
bao gồm. Người sâu sắc sẽ thấy sách sâu sắc,
tự có thể đoạn Hoặc chứng Chân. Người
nông cạn sẽ thấy chúng là nông cạn, cũng kham tiêu
tai tăng phước. Pháp không có tướng nhất
định, tổn hại hay lợi ích là do mỗi người.
Người dốc chí tận tụy nơi đại sự
để ḿnh được luôn trường tồn bao kiếp
sẽ chẳng cho là Quang lắm chuyện.
Phật pháp một phen nghe đến, lợi
ích vô tận. Ông Vương Thiết San ở Bắc Thông
Châu, từng làm chức Phiên Đài tỉnh Quảng Tây
đời nhà Thanh trước kia. Do cơi ấy thổ phỉ
quá đông, ông bèn lập cách tiêu diệt, giết hại
không biết bao nhiêu mà kể. Đến năm trước
bị bệnh, vừa chợp mắt bèn thấy thân ở
trong nhà tối, vô số quỷ muốn đến bức bách
khổ năo, bèn hoảng hốt tỉnh dậy. Lúc lâu sau chợp
mắt, lại thấy y hệt như thế, lại kinh
hoảng thức dậy. Suốt ba ngày ba đêm chẳng ngủ
yên giấc như thế, người đă suy sụp không
kham nổi. Vợ ông ta dạy ông niệm “nam mô A Di
Đà Phật”, ông bèn cạn kiệt ḷng thành niệm rơ,
chưa được một lúc lâu sau bèn ngủ thiếp
đi, ngủ được đẫy giấc, bệnh dần
khỏi hẳn, mới biết công đức Niệm Phật
chẳng thể nghĩ bàn. Mùa Hè năm ngoái, ông Thiết San
lên núi, chính ông ta kể cùng Quang chuyện ấy. Quang đem
chuyện này tỏ bày cùng các hạ, cũng mong các hạ
được lợi ích thật sự nơi Niệm Phật.
146. Thư trả lời
cư sĩ X… ở Dũng Giang[31]
Chuyện sắc dục là bệnh chung của
người cả cơi đời, chứ không riêng ǵ hạng
trung hạ căn bị sắc mê hoặc. Dù là người
thượng căn nếu chẳng luôn canh cánh giữ ǵn,
luôn nghĩ kinh sợ th́ cũng khó khỏi bị mê hoặc.
Thử xem từ xưa đến nay bao nhiêu hào kiệt lỗi
lạc, kham làm thánh làm hiền, chỉ do chẳng phá
được cửa ải này, đâm ra thành kẻ hạ
ngu bất tiếu, lại c̣n bị vĩnh viễn đọa
trong ác đạo, chẳng biết là bao nhiêu! Kinh Lăng
Nghiêm nói: “Nếu chúng sanh thuộc
sáu đường trong các thế giới tâm chẳng dâm sẽ
chẳng bị sống - chết tiếp nối. Ông tu
tam-muội vốn để thoát trần lao, dâm tâm không trừ,
chẳng thể xuất trần được!” Người
học đạo, vốn để thoát ĺa sanh tử, nếu
chẳng đau đáu dứt trừ bệnh này th́ khó thể
thoát ĺa sanh tử.
Ngay như pháp môn Niệm Phật tuy có thể
đới nghiệp văng sanh, nhưng nếu tập khí dâm cố
kết sẽ bị cách ngăn cùng Phật, khó thể cảm
ứng đạo giao! Muốn tuyệt cái họa này, không
ǵ bằng trông thấy hết thảy nữ nhân đều
khởi thân tưởng, oán tưởng, bất tịnh
tưởng:
1) Thân tưởng là thấy người
già coi như mẹ, thấy người lớn hơn
hơn coi như chị, thấy người trẻ hơn
coi như em gái, thấy trẻ nhỏ coi như con. Dục
tâm dẫu lừng lẫy chẳng dám khởi ư niệm bất
chánh đối với mẹ, chị, em, con. Xem hết thảy
nữ nhân đều là mẹ, chị, em, con của ḿnh th́
lư bèn chế ngự dục, dục không do đâu phát
được!
2) Oán tưởng là phàm thấy gái đẹp
bèn khởi tâm ái; do tâm ái đó bèn đọa ác đạo,
chịu khổ bao kiếp chẳng thể thoát ĺa. Như
thế th́ những ǵ gọi là mỹ lệ, kiều mị
so ra c̣n độc hại hơn giặc cướp, cọp,
sói, rắn độc, ḅ cạp độc, phê
sương, trầm độc[32] gấp
trăm ngàn lần. Với những oan gia cực đại
ấy vẫn cứ quyến luyến mơ tưởng,
há chẳng phải là kẻ mê gấp bội ư?
3) Bất tịnh là vẻ đẹp lộng
lẫy động ḷng người chỉ là một lớp
da mỏng bên ngoài. Nếu bóc lớp da ấy đi th́ chẳng
dám nh́n: xương, thịt, máu mủ, phân, tiểu, lông, tóc,
đầm đ́a, ṛng ṛng, trọn không có vật ǵ đáng
cho người khác yêu mến được! Nhưng do lớp
da mỏng bao bọc, nên lầm sanh ái luyến; b́nh đẹp
đựng phân, người ta chẳng muốn nâng niu. Nay
lớp da mỏng của mỹ nhân chẳng khác cái b́nh
đẹp đẽ, những thứ được bọc
trong đó c̣n gớm ghiếc hơn phân nữa! Há nên yêu mến
lớp da bên ngoài, quên đi những thứ bẩn thỉu
chứa bên trong da, lan man khởi vọng tưởng ư?
Nếu chẳng khăng khăng kiêng sợ, đau đáu
trừ khử tập khí ấy, sẽ chỉ thấy
tư chất mỹ lệ khiến cho mũi tên ái lọt
thấu xương chẳng thể nhổ được.
Thường luôn như thế, lại muốn chết
đi chẳng vào bụng người nữ sẽ chẳng
thể được! Vào trong bụng người nữ
c̣n tạm được, chứ vào trong bụng súc sanh cái
biết làm sao đây? Thử suy nghĩ đến điều
này, tâm thần kinh hăi.
Nhưng muốn thấy cảnh mà chẳng
khởi nhiễm tâm th́ phải trong lúc chưa thấy cảnh,
thường khởi ba thứ tưởng này; khi thấy
cảnh sẽ tự có thể chẳng bị cảnh chuyển.
Nếu không, dẫu không thấy cảnh, ư vẫn vấn
vương, rốt cục vẫn bị tập khí dâm dục
ràng buộc. V́ thế, phải nỗ lực gột trừ
các tập khí ác nghiệp th́ mới có phần được
tự do. Mỗi ngày ngoại trừ lúc làm việc ra, chuyên
tâm niệm danh hiệu Phật. Sáng chiều đối
trước Phật, cạn ḷng thành, trọn ḷng kính, khẩn
thiết sám hối tội nghiệp từ vô thỉ đến
nay. Hành như thế lâu ngày sẽ có lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn mà không hề hay biết. Kinh Pháp Hoa dạy: “Nếu có chúng sanh nhiều dâm dục,
thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền
được ĺa dục”, sân khuể, ngu si cũng thế.
Do vậy, ta biết: Chí thành niệm thánh hiệu Di Đà,
Quán Thế Âm th́ ba Hoặc tham - sân - si sẽ tự tiêu trừ.
Thêm nữa, cơi đời nay đang hoạn nạn, ngoại
trừ việc niệm Phật ra, cần phải niệm
thêm thánh hiệu Quán Thế Âm, trong âm thầm sẽ có sự
xoay chuyển chẳng thể nghĩ bàn, ngơ hầu chẳng
đến nỗi khi túc nghiệp hiện tiền, không cách
ǵ đối phó. Lại nên thường đọc những
sách dạy về kiêng dâm, nhân quả, báo ứng, xa ĺa những
bạn bè cuồng loạn, phóng đăng, hèn tệ th́ trong
tâm được chánh, sự dụ hoặc bên ngoài dứt
tuyệt, sẽ tự có thể thành tựu tịnh nghiệp
vậy! Hăy gắng lên!
147. Thư gởi cư sĩ
Từ Úy Như
Nhận được thư nhưng công việc
bộn bề, chưa thể trả lời được.
Quang tuy v́ thái phu nhân sáng chiều hồi hướng, há nào
thật sự có ích cho thái phu nhân? Chỉ mong thái phu nhân thương
cho một niệm chân thành của tôi, lôi kéo Di Đà, Quán Âm
đến cứu vớt tôi. Các hạ ngợi khen tôi quá lẽ,
khôn ngăn khiến cho người ta thẹn thùng. Lệnh
đệ cũng đă phát tâm, xin hăy v́ ông ta diễn giảng,
đủ biết đời trước đă cùng gieo thiện
căn, tương lai cùng làm anh em muôn kiếp trong Liên Tŕ Hải
Hội, mừng mừng tủi tủi. Bài thuốc cai thuốc
phiện đăng báo nên đăng nhiều kỳ suốt
năm th́ người ta mới biết rộng răi
được. Nên kêu gọi những người có tài lực
cùng làm. Nếu một người trang trải phí tổn,
e không đủ sức kéo dài.
Cách tóm gọn bộ Văn Sao hủ bại
đều nên làm sao cho hợp lư, bởi thư Quang đă
viết đều chỉ nhằm cho một người
nào đó, nếu phổ cập đại chúng th́ phải
trọn không có chỗ trở ngại nào mới khỏi chuốc
lấy lời gièm chê. Những chỗ chỉ trích những
thứ cuồng vọng của bọn con cái của ma nên
dùng cách tŕnh bày tóm lược, sao cho phù hợp với
văn thể. Nhưng nay đa phần môn đồ Thiền
Tông chẳng biết Thiền, nếu chẳng chỉ ra những
h́nh tích thật sự đơm đặt đồn thổi
của bọn họ, môn đồ Thiền Tông sẽ cho
là Quang báng Thiền. Ngay cả đối với bài Tông Giáo
Bất Nghi Hỗn Lạm Luận (luận về Tông và Giáo
chẳng nên xen trộn), bọn Thiền giả chẳng hiểu
Tông phong cũng cho là báng Thiền. Kiến thức của
đồ chúng nhà Thiền đa phần đều là
như thế cho nên pháp Thiền mới bị suy sụp
sát đất.
Gần đây, Phật pháp lưu thông,
cư sĩ Vương Hoằng Nguyện[33] ở
Triều Châu rất ham Mật Tông; y theo đó tu tŕ, hơi
có hiệu nghiệm, đối với các tông khác tuy chưa
thông tỏ hoàn toàn, nhưng đă mon men ngoài bờ rào. Ông ta
dịch cuốn Mật Giáo Cương Yếu[34] của
Nhật Bản rồi in ra, gởi cho tôi hai bộ. Nay tôi gởi
cho ông một bộ, mong ông tùy hỷ. Nhưng ông ta là
người hoằng truyền Mật Tông, nên thiên về
đề cao Mật Tông, ước theo giáo mà luận, cố
nhiên chẳng trở ngại lớn lao ǵ. Nhưng nếu
xét trên pháp môn Tịnh Độ độ khắp ba
căn, thuyết giáo tương ứng với căn
cơ mà luận th́ cố nhiên khác hẳn nhau. Những
điều Vương Hoằng Nguyện đă viết
trong thư gởi đến đều là ước theo
giáo bỏ sót căn cơ. Quang gởi thư cho ông ta ước
trên căn cơ để luận sự lợi ích của
giáo pháp, tuy chẳng phù hợp, nhưng cũng không trái nghịch
cho lắm. Người ấy đă ngoài bốn mươi
tuổi, nếu lại nghiên cứu hơn mười
năm nữa cũng có thể trở thành bậc đại
thông gia.
Bài bạt Thiền Tông Bí Mật Liễu
Nghĩa Kinh, quyết phải nên thủ tiêu để khỏi
gây nghi ngờ, lầm lẫn. C̣n như Thanh Văn chuyển
xoay Tiểu Quả họ đă chứng để hướng
về Như Lai đại đạo, tuy là đốn - tiệm
sai khác, nhưng những địa vị theo thứ tự
trong khoảng giữa ấy bất tất phải dẹp
mất. Đại bàng hễ cất cánh bèn bay chín vạn
[dặm], cũng là từ thấp bốc dần lên cao. Dao
bén chặt một nhát đứt ngàn tờ giấy, cũng
là từ một đến ngàn. Đốn giáo chỉ ước
trên mặt đốn mà nói nên không có địa vị thứ
tự, nhưng trong chỗ không có địa vị thứ
tự ấy, chẳng trở ngại chuyện có địa
vị thứ tự rành rành. Nếu khác với Tiệm th́
Tiệm chẳng phải là Tiệm như trong Đốn
Giáo nói, mà Đốn cũng chẳng phải là Đốn như
trong Tiệm Giáo. Hai pháp phán định khác biệt, trọn
chẳng tương tức[35],
chỉ nên dùng Thật Nghĩa để lập ngôn, chẳng
nên dùng cách biểu hiện Tiệm Đốn làm căn cứ
th́ Phật pháp không pháp nào chẳng thông với nhau.
Vương Hoằng Nguyện luận về
Mật Tông cũng là dùng những lời lẽ biểu thị
hoằng dương Mật Tông để luận. Do vậy,
biết là ông ta vẫn chưa hiểu biết ư tột cùng
trong giáo pháp Như Lai là “phải khế cơ”. Căn tánh
La Hán cũng không nhất định. Có người hồi
Tiểu hướng Đại bèn vượt lên, chứng
ngay vào địa vị sâu; có người tiến lên từ
từ. Dù đốn - tiệm sai khác, nhưng vị thứ
vẫn rành rành, tợ hồ chẳng sai khác ǵ lớn. Tùy
loại hiện thân trong mười phương thế giới,
bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo đă làm được
như vậy. Không trải qua các địa vị Hạnh,
Trụ, Hồi Hướng v.v... th́ chỉ có bậc đă
thành Phật, rồi thị hiện làm La Hán, mới có thể
như thế. Nếu là thật chứng, tức thật sự
là bậc La Hán hồi Tiểu hướng Đại, e rằng
không có bản lănh ấy. Nếu có th́ các Bồ Tát thuộc
những địa vị Trụ, Hạnh, Hồi Hướng
đều thành hạng người độn căn, không
có ǵ kỳ lạ cả, có lẽ ấy chăng? Ĺa Đốn
nói Tiệm, ĺa Tiệm nói Đốn, ĺa Giáo nói Tông, ĺa Tông nói
Giáo, đề cao Mật Tông, miệt thị Hiển Giáo,
đều đáng gọi là “đảm bản hán”[36]
(gă vác gỗ) chỉ thấy được một bên mà
thôi. Khéo hiểu Phật pháp th́ pháp pháp lưu thông. Nếu
không, pháp nào cũng gây ra trở ngại. Quang thật là kẻ
thấy ít, nghe ít, nhưng ước nghĩa, ước lư
mà luận thường dung thông như thế, trọn chẳng
có hai đạo lư! Ư kiến hèn mọn của tôi là như vậy
đó, chẳng biết các hạ nghĩ như thế nào?
148. Trả lời thư hai vị
cư sĩ Từ Ngạn Như và Từ Dật Như
Quư vị nói chuyện đời
ràng buộc, không cách ǵ thoát khỏi được th́ ngay
trong lúc bị ràng buộc ấy chỉ cần không bị
chúng xoay chuyển th́ ràng buộc liền thành cởi gỡ,
như gương chiếu h́nh tượng, h́nh đến
chẳng cự tuyệt, h́nh đi chẳng giữ lại.
Nếu không biết nghĩa này, dẫu có trừ sạch mọi
chuyện thế tục không c̣n có chuyện ǵ phải lo
toan th́ cũng vẫn bị cái tâm vọng tưởng, tán
loạn, ràng buộc kiên cố, chẳng thể gột rửa,
thoát khỏi. Người học đạo phải hành xử
thuận theo địa vị, tận hết bổn phận
của ḿnh. Như thế th́ dù suốt ngày việc đời
ràng buộc, nhưng suốt ngày vẫn cứ tiêu dao ngoài vật.
Câu nói “nhất tâm vô trụ, vạn
cảnh đều nhàn, chẳng ghét lục trần vẫn
đồng Chánh Giác” chính là nói về điều này vậy.
Chuyện niệm Phật quan trọng nhất
là liễu sanh tử, đă v́ liễu sanh tử th́ tự
sanh ḷng nhàm chán đối với nỗi khổ sanh tử,
tự sanh ḷng ưa thích đối với sự vui Tây
Phương. Như thế th́ hai pháp Tín - Nguyện sẽ
được vẹn toàn ngay trong một niệm, lại
thêm niệm chí thành khẩn thiết như con nhớ mẹ
th́ Phật lực, pháp lực, sức công đức tín nguyện
nơi tự tâm, ba pháp đều phô bày trọn vẹn. Ví
như mặt trời rạng rỡ giữa hư không, dẫu
mây dầy, băng đóng tầng tầng, chẳng mấy
chốc liền tiêu tan. Lúc sơ tâm niệm Phật,
chưa tự chứng được tam-muội, ai có thể
không có vọng niệm cho được? Quư sao tâm thường
giác chiếu, chẳng chuyển theo vọng, ví như quân
hai bên đối địch, ắt phải giữ vững
thành quách của chính ḿnh, chẳng cho quân giặc xâm phạm
tí ti nào, đợi khi giặc vừa tấn công bèn đánh
chặn đầu. Ắt phải xua quân Chánh Giác vây kín bốn
mặt khiến cho chúng nó không lối lên trời, không nẻo
chui xuống đất, khiến chúng sợ bị diệt
chủng, liền đua nhau quy hàng. Quan trọng nhất là
chủ soái không mê muội, không lười nhác, thường
luôn tỉnh táo mà thôi! Nếu mê muội, lười nhác th́
chẳng những không diệt được giặc mà
trái lại c̣n bị giặc diệt. Do vậy, người
niệm Phật không biết nhiếp tâm th́ càng niệm càng
sanh vọng tưởng. Nếu nhiếp được
tâm th́ vọng niệm sẽ dần dần mỏng nhẹ,
cho đến không c̣n nữa! V́ thế, nói:
Học
đạo do như thủ cấm thành,
Trú pḥng lục
tặc, dạ tỉnh tỉnh,
Tướng quân chủ soái năng
hành lệnh,
Bất
động can qua định thái b́nh.
(Tạm dịch:
Học đạo dường
như giữ cấm thành,
Ngày pḥng sáu giặc, đêm
thường tỉnh,
Tướng quân chủ soái
nghiêm quân lệnh,
Chẳng dấy can qua, quyết
thái b́nh)
149. Thư gởi cư sĩ
Bao Sư Hiền
Tai họa ở Ôn Châu nghe thê thảm
quá. Thiên tai, nhân họa không biết đến mức nào.
Quả đúng là “ba cơi không yên,
giống như nhà lửa”, đấy cũng là lời
răn nhắc thiết yếu nhất đối với
chuyện tín nguyện niệm Phật văng sanh Tây
Phương. Niệm Phật tâm không quy nhất là do tâm sanh
tử chưa khẩn thiết. Nếu nghĩ như
đang bị nước cuốn lửa đốt, không
được cứu giúp, tưởng sắp bị chết,
tưởng sắp đọa địa ngục th́ tâm sẽ
tự quy nhất, không cần đến diệu pháp nào
khác. V́ thế, trong kinh thường nói: “Nghĩ cái khổ trong cơi địa ngục, phát tâm
Bồ Đề”. Đấy chính là khai thị thiết
yếu nhất của đức Đại Giác Thế Tôn,
tiếc là con người chẳng chịu thật sự
suy nghĩ! Cái khổ trong địa ngục so với sự
thảm thương của nước - lửa sâu nặng
hơn vô lượng vô biên lần. Thế mà nghĩ đến
nước dâng lửa đốt bèn run rẩy, nghĩ
đến địa ngục lại coi thường là v́
một đằng do tâm lực nhỏ nhoi chẳng thể
thấu hiểu sự khổ ấy, c̣n một đằng
là chính mắt thấy, bất giác lông tóc đều dựng
đứng!
150. Thư gởi Hoằng Nhất
thượng nhân
Giảng Khởi Tín Luận bất tất phải
tuân theo Liệt Vơng Sớ[37], nhưng quyết chẳng thể nói Liệt
Vơng là sai. Đấy là pháp quyết định chẳng
thay đổi! Những trước thuật của ngài
Linh Phong xưa nay hiếm có. Những kẻ chưa mở
Chánh Nhăn chẳng biết được lẽ trọng yếu,
bèn giống như chó sủa bóng trăng khiến người
sơ học bị lầm lạc. C̣n người quả
thật đầy đủ chánh tri chánh kiến nghe đến
sẽ triệt để thấu hiểu bụng dạ của
Ngài. Linh Phong lăo nhân chính là người độc nhất
vô nhị trong thời Mạt Pháp. Câu chữ, lư sự đầy
đủ, lợi ích không thể lường được!
Tùy theo căn cơ của mỗi người ai nấy
đều được lợi ích.
151. Thư trả lời đại
sư Pháp Hải
Hơn mười năm qua tọa
hạ tầm thầy hỏi đạo, tự lợi, lợi
tha khôn ngăn khâm phục. Nay ngài buông xuống muôn duyên, nhất
tâm niệm Phật, lấy cái Giác nơi quả địa
làm cái tâm tu nhân, ắt sẽ tự chứng Niệm Phật
tam-muội, lâm chung chắc chắn lên Thượng Phẩm.
Đă chịu dốc ḷng, quyết được thành tựu.
Nhưng người đời niệm Phật th́ đông,
chứng được tam-muội thật ít lắm, ấy
là do chưa thể “buông xuống
toàn thân, chỉ đề khởi một niệm”! Do vậy, thành ra tâm và Phật
khó thể tương ứng. Tọa hạ đă chân thành,
thiết tha buông xuống, quyết chẳng lẽ nào không
chứng đắc; nhưng đối với những
chuyện liễu sanh thoát tử, minh tâm kiến tánh, và “nắm
được mấu chốt sự chứng đạo”
cần phải phân biệt đôi chút.
Nếu dựa theo giáo lư thông thường
để tu th́ dù đă minh tâm kiến tánh vẫn c̣n cách liễu
sanh thoát tử xa lắm! Bởi minh tâm kiến tánh là ngộ,
chứ chưa phải là chứng. Người đời
nay ngộ được c̣n ít, huống chi là chứng! Chứng
là Hoặc nghiệp hết sạch, đă đoạn cái
nhân sanh tử, tự chẳng cảm lấy cái quả sanh
tử. Bậc Sơ Quả bảy lần sanh lên trời,
bảy lần trở lại nhân gian mới đoạn sạch
được Kiến Hoặc và Tư Hoặc, chứng
quả A La Hán. Ngài Thiên Thai (Trí Giả đại sư) thị
hiện ở địa vị Ngũ Phẩm, ngài Nam Nhạc[38]
thị hiện ở địa vị Thập Tín. Bậc
đại sĩ như thế c̣n tự ẩn đức
ḿnh, thị hiện trong địa vị nội ngoại
phàm phu[39], th́ việc chứng
đạo không phải là chuyện dễ. Đây là ước
theo giáo lư thông thường, muốn ngay trong một đời
này chứng đạo khó lắm.
Nếu căn cứ theo pháp môn đặc
biệt mà đức Như Lai đă lập “sanh ḷng tin, phát nguyện, niệm
Phật cầu sanh Tây Phương” th́ trên đến bậc
Đẳng Giác, dưới đến phường Ngũ
Nghịch, Thập Ác không ai chẳng nương Phật từ
lực văng sanh Tây Phương. Đă sanh về Tây
Phương th́ ngộ đạo, chứng đạo
đều giống nhau khít khao, cực nhanh, cực dễ.
Tọa hạ đă chuyên tâm niệm Phật, nhưng đối
với chuyện lâm chung chẳng nói là “văng sanh” mà nói là “bằng
cớ chứng đạo đến tay”. Phàm nói “chứng đạo” là
được rồi, há nên nói là “bằng cớ đến tay”. Bằng cớ
đến tay th́ không cần phải bàn nữa, nếu bằng
chứng không nắm được th́ làm sao đây? Xem ngữ
ư của các hạ tợ hồ chỉ niệm Phật chứ
không sanh ḷng tin, không phát nguyện cầu sanh! Đấy là
cách Thiền, Giáo dùng câu niệm Phật như câu thoại
đầu vậy, chứ không phải là pháp Tín - Nguyện
- Hạnh ba điều cùng hành trong Tịnh Tông. Không tín nguyện
niệm Phật so với tham Thiền, khán thoại đầu
tuy công đức lớn hơn, nhưng chưa tự
đoạn Hoặc, cậy vào tự lực sẽ chẳng
thể liễu thoát.
Lại nữa, không có tín nguyện sẽ
chẳng được Phật tiếp dẫn liễu
thoát, nên vẫn là pháp môn thông thường cậy vào tự
lực. Chứng đạo kiểu này chẳng phải dễ
dàng chi lắm! Đừng bảo tín nguyện cầu sanh
là hèn kém, Hoa Tạng hải hội đều cùng dùng mười
đại nguyện vương hồi hướng văng
sanh làm chỗ kết thúc cuối cùng cho kinh Hoa Nghiêm. Huống
chi tất cả ngôn giáo của các Bồ Tát, tổ sư Tịnh
Độ, đều dạy tín nguyện cầu sanh. Sao tọa
hạ lại tự lập môn đ́nh, chẳng dựa theo
quy củ đă thành lập của Phật, của Tổ?
Vả nữa, người suốt đời
suốt ngày trọn năm niệm Phật há có nên đối
với Phật chẳng hành lễ kính? Trong mười
đại nguyện vương, lễ kính đứng
đầu. Mọi chuyện tọa hạ có thể bỏ,
chứ lễ kính quyết chẳng được bỏ! Nếu
không lễ Phật, sẽ khó cảm thông. V́ sao vậy? Do
thân mong cầu an nhàn, thong dong, nên tâm thành cũng không cách nào
đạt đến cùng cực được! Ngài Thiện
Đạo chuyên tu, thân nghiệp chuyên lễ, khẩu nghiệp
chuyên xưng, ư nghiệp chuyên niệm. Niệm đến
cùng cực th́ vị Phật trong tâm và vị Phật bên
ngoài hệt như một không hai. Chứng đạo
như vậy th́ sự chứng đạo do tự lực
chẳng thể nào so sánh được. Cổ nhân nói: “Kẻ hèn kém nhờ vào sức
Luân Bảo[40]
một ngày có thể đi khắp bốn đại bộ
châu[41]”, há có nên dùng
pháp môn Niệm Phật đặc biệt để tu quán
hạnh theo đường lối tự lực thông thường?
Quang tuy hạ ngu, chẳng dám tán thành. Nếu đem cái tâm thanh
tịnh mảy trần chẳng nhiễm này để viên
chứng tam tâm th́ đời này tự chứng tam-muội,
lâm chung văng sanh Thượng Phẩm, xin mừng trước
cho tọa hạ. Một tấm ḷng ngu, kính mong soi xét.
152. Thư trả lời
cư sĩ Vương Dữ Tiếp
Quang là một ông Tăng tầm
thường, trọn chẳng có hành trạng tốt đẹp
ǵ, một bề ăn xin mà c̣n chẳng được, nên
bèn nhặt nhạnh những thứ cơm thừa canh cặn
vứt bỏ ngoài cửa trưởng giả đại
phú để tự nuôi thân. Cũng có người chẳng
hiềm chua hôi, nài ép tôi thí cho, bèn đem những thứ ấy
trao ra, chỉ nhằm thích hợp giữa hai bên [người
xin, kẻ cho] chứ chẳng dám khiến cho người
khác chán nghe chẳng muốn thấy. Do vậy, một là chẳng
có tông phái ǵ, hai là không môn đ́nh, ba là không quyến thuộc,
chưa từng kết bạn lập hội để tham
cứu cùng ai. Phàm có ai hỏi đến đều bảo
nên trọn hết bổn phận, đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện, tín nguyện niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương, dẫu là người thiên
tư thượng đẳng, học thức tót vời
cũng dâng lên những lời ấy. Ví như bé trai dâng cát[42],
chỉ mong bày tỏ ḷng thành của ḿnh, hoàn toàn chẳng
tính xem người khác có dùng được hay chăng! Chẳng
ngờ hai chữ tiện danh đă làm bẩn tai các hạ.
Ngày hai mươi nhận được thư, khôn
ngăn thẹn thùng, hoảng sợ, vui mừng, lo lắng
xen lẫn.
Do các hạ nghe lầm lời người,
lầm tưởng tôi là người trong pháp môn, nên bèn
đem sai lầm đáp tạ sai lầm, tŕnh bày quẩn
quanh kiến giải hèn kém của ḿnh để đáp tạ
sự khen lầm. Biết lời ḿnh viết cố nhiên chẳng
đáng lọt vào mắt các hạ, nhưng chẳng ngại
giăi bày tấm ḷng ḿnh mà thôi. Trộm nghĩ hiện nay thế
đạo nhân tâm ch́m đắm đến cực điểm,
lại thêm quốc khố trống rỗng, thuế má nặng
nề hơn trước biết bao lần, vật giá
đắt đỏ, dân không lẽ sống, thiên tai, nhân họa
liên miên xảy ra. Gặp thời buổi này, muốn hoằng
pháp đạo chỉ có thể đối với khắp
những người đến hỏi chỉ dạy họ
học lấy những nghĩa trọng yếu của Phật.
Với cha nói đến từ, với con nói đến hiếu,
anh nhường, em kính, chồng xướng, vợ theo, ai
nấy tận hết bổn phận để lập nền
tảng. Từ đấy, lại thêm trọng ḷng kính, giữ
ḷng thành, khắc kỷ, giữ lễ, hiểu nhân rơ quả,
mong khỏi luân hồi, đừng làm các điều ác,
vâng làm các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu
sanh Tây Phương. Dù thiên tư cao cũng vẫn cứ
hành theo đó. Lúc có dư sức chẳng ngại nghiên cứu
hết thảy kinh luận, dạy cho họ ở trong gia
đ́nh, tùy phận tu tŕ, chẳng cần phải tạo dựng
điện đường cho nhiều, cắt đặt
nhân viên cho đông, hai bên qua lại bận bịu chức vụ,
tốn kém thời gian. Đây thật là cách tương kế
tựu kế thích hợp nhất để hoằng pháp hiện
thời.
C̣n như chương tŕnh khai khẩn chốn
hoang vu của các hạ đă định, dù lúc đất
nước hưng thạnh, dân chúng giàu có c̣n chẳng nên làm,
huống chi đang lúc vận nước nguy ngập, dân
không lẽ sống này! Nhưng các hạ đă đưa ra
đề nghị ấy, người trong toàn quốc không
ai chẳng hoan hỷ khen ngợi, mừng đạo pháp sắp
được hưng khởi. Quang thật ôm ḷng lo lắng
sâu xa, không thể không v́ các hạ tŕnh bày đại khái. Chỉ
dựa theo những việc đă nêu ra trong chương
tŕnh th́ số tiền vàn muôn cũng chẳng đủ
dùng. Nếu các hạ có thể biến cả đại
địa thành vàng ṛng th́ lời Quang nói quả thật là
ngu si vô tri. C̣n nếu muốn dựa vào sự quyên góp để
thực hiện sự nghiệp trùm khắp vũ trụ
này th́ thật giống như giấc mộng đêm Xuân, chẳng
thực tế mảy may nào! Huống chi chưa từng
nghe các hạ có đại thần thông, bất luận ai
dù xa hay gần đều có cách nhiếp tŕ, khiến họ
chẳng vượt thoát được mảy may giống
như tôn giả Ưu Ba Cúc Đa[43].
Như vậy, đại sự như
thế, số người sử dụng há có thể bảo
đảm ai nấy đều ôm ḷng v́ việc chung, tuyệt
đối chẳng nẩy sanh mối tệ hay chăng? Con
người hiện thời con thờ cha c̣n làm chuyện tệ
hại, nữa là đại sự mênh mông không bờ bến
này? Thêm nữa, con người hiện thời không có chí
hướng nhất định, bất luận xă hội
nào, đa phần đều thuộc loại như vậy.
Nếu có kẻ mang ḷng sai khác, xen vào trong ấy, dẫn dụ
kẻ vô tri vô thức làm vây cánh, một mai sự việc dấy
động ắt đến nỗi lửa thiêu rặng
Côn Luân, ngọc đá đều cháy. Nhằm lúc nhân tâm ch́m
đắm đến cùng cực này, sao các hạ chẳng
lo nghĩ đến điều ấy?
Tống Từ Vân Sám Chủ qua đất
Tô giảng kinh, người nghe giảng ngày đến vạn
người, đêm cả ngàn người, kẻ đồ
tể, kẻ bán rượu chẳng buôn bán, pháp đạo
lừng lẫy, quả là chưa từng có. Ngài Từ Vân
lo sợ, e rằng có điều ḿnh chưa tính đến,
ắt sẽ có chỗ vụng về. Ngài Từ Vân là bậc
cao tăng đại trí huệ, đại biện tài, lại
c̣n có thần thông, nhằm lúc quốc gia thái b́nh, nhân tâm thuần
thiện mà c̣n thận trọng như thế. Những nội
hạnh bí mật của các hạ đương nhiên Quang
chẳng thể biết được, nhưng căn cứ
theo bên ngoài th́ các hạ so với ngài Từ Vân nào chỉ
như đem Thái Sơn sánh với Tu Di! Huống đang nhằm
lúc trên không pháp để suy lường, dưới không
pháp để tuân theo, dẫu là đại ân của cha mẹ,
t́nh nghĩa vợ chồng riêng tư c̣n muốn vứt bỏ,
họ công nhiên đề xướng ư tưởng “tận
hiếu chính là tánh chất nô lệ, cùng chia xẻ vợ với
nhau”. Nếu những kẻ như vậy trà trộn vào th́
nên xử trí thế nào? Nếu không th́ họ kỵ pháp
ḿnh, lại nói bậy bạ, lại phải xử trí thế
nào đây? Phàm một pháp đă lập, trăm mối tệ
dần dần sanh; chẳng cẩn thận từ đầu,
khó thể xong xuôi được! Vả nữa, cổ
đức hoằng pháp ai nấy đều tự lập
giới hạn. Các hạ vứt bỏ thời đại
chuyên chế, lại lập một môn đ́nh Phật pháp
chuyên chế, ḿnh nghiễm nhiên làm pháp vương, tự tại
nơi pháp, ngàn căn cơ đều nuôi dưỡng, muôn
phái đều chầu hầu, hay th́ hay lắm; quả thật
chỉ sợ không có sức thần thông chế phục, ắt
có kẻ gian trà trộn phá hoại, hoặc ôm ḷng đố
kỵ, ghen ghét nên bèn vu báng, chưa thấy được
ích lợi hưng thịnh pháp đă mắc vào cái họa diệt
pháp. Do tâm đại Bồ Đề chuốc lấy quả
ác này; người có tâm không ai chẳng đau thương!
Tuy đau thương, rốt cuộc có ích ǵ?
V́ thế, Quang không thể không v́ các hạ
nói trước, chẳng tính đến chuyện người
ta ghi nhận hay không! Nếu nhất quyết làm theo
chương tŕnh đă định th́ Quang cũng chỉ
khen ngợi cái tâm tốt đẹp của các hạ mà
thôi, há có thể cưỡng các hạ đừng nên làm hay
sao? Ngàn phần mong hăy đem cái tên hèn kém của Ấn Quang
thủ tiêu đi, Ấn Quang quyết chẳng dám thừa
nhận cái chức vị danh dự “Thượng Tọa
đạo sư” đâu! Quang một mực rút lui, bởi
kiến giải của ḿnh khác với người ta. Nếu
chẳng cho lời Quang là đúng, ắt sẽ có lúc phải
hối nhưng không kịp. Kinh Dịch nói: “Chỉ có ḿnh thánh nhân mới biết
tiến thoái tồn vong mà chẳng mất lẽ chánh, có lẽ
chỉ có ḿnh thánh nhân đó ư?” Xin các hạ hăy suy nghĩ
cặn kẽ!
153. Thư gởi cư sĩ
X… ở Vĩnh Gia
Lệnh hữu cầu con tính bỏ
ra trăm đồng để thỉnh một trăm bộ
Cảm Ứng Thiên Vựng Biên để tặng cho những
bậc chánh nhân quân tử thông hiểu văn lư, có tín tâm, quả
thật là công đức chẳng thể nghĩ bàn, sẽ
được cảm thông. Lại nên biết để cầu
con th́ phải bắt đầu từ chuyện vun bồi
đức, tiết dục. In tặng thiện thư chính
là một cách để vun bồi đức, nhưng không
phải chỉ có mỗi cách đó. Hăy xem Cảm Ứng
Thiên, Âm Chất Văn để biết cách vun bồi
đức: Điều thiện th́ tùy phận, tùy sức
thực hành, c̣n điều ác th́ bỏ đi như thù,
như oán. Viên Liễu Phàm nỗ lực chiêm nghiệm Công
Quá Cách[44], chẳng chịu bỏ
lỡ mảy may ǵ. V́ thế, mạng ông ta vốn không thọ
lại sống thọ, không đại công danh lại
được đại công danh, không con mà có con. Nếu
có thể noi theo dấu thơm ấy để mong đức
ngày càng tăng trưởng, lỗi ngày càng giảm, dẫu
chẳng dùng đến Công Quá Cách th́ những ǵ Viên Liễu
Phàm đạt được, lệnh hữu cũng sẽ
đạt được!
Huống chi ông ta làm chủ ṭa báo, nắm
quyền cơ quan ngôn luận, phàm những văn tự
thương phong bại tục vô ích trọn chẳng cho đăng
báo. Phàm những lời hay ư đẹp khiến đời
yên dân lành mỗi ngày nên đăng mấy câu, dùi mài măi sẽ
từ từ nhiễm, khiến cho con người ngày càng
hướng đến điều thiện mà chẳng tự
biết. Đấy chính là đại trượng phu chẳng
có quyền thế mà lại thực hành quyền hạn lớn
lao để cứu quốc cứu dân vậy. Đầy
đủ những nhân duyên này mà không biết làm như thế,
có thể nói là “tuy đă lên núi báu
nhưng vẫn trở về tay không”. Tiếc thay!
Chuyện tiết dục về lư rất
thâm, quan hệ rất lớn, nói chẳng dễ dàng đâu
nhé! Phàm trời sanh trai gái, thánh nhân phỏng theo trời lập
ra quy củ cho nam nữ lập gia đ́nh, chính là mối
quan hệ lớn nhất giữa người với
người, trên liên quan đến phong hóa, dưới
để tiếp nối giống ṇi, há phải đâu hằng
ngày mong cầu khoái lạc, coi dục sự là trọng
ư? Người tham dục, tinh loăng vô lực, như hạt
giống lép chẳng thể nẩy mầm; v́ thế khó
sanh con. Nếu sanh con được, đa phần chưa
thành người đă chết yểu! Nếu may mắn
không chết yểu th́ cũng bấy bớt, yếu đuối,
không thể lớn mạnh được! Nếu bảo
dưỡng tinh thần, tiết dục nửa năm,
đợi đến khi vợ qua kỳ thiên quư, chọn
ngày lành tháng tốt, cùng nhau vui vầy, quyết sẽ hoài
thai. Sau đấy, vĩnh viễn dứt dục sự th́
đứa con được sanh ra chẳng những tánh hạnh
trinh lương, dục niệm mỏng nhẹ, mà thể
chất mạnh mẽ, không lo bị thai độc, đậu
chẩn[45], tật bệnh
v.v… “Thiên quư” tức là hành kinh vậy. Phải qua kỳ kinh
nguyệt mới đậu thai được, những
lúc khác chẳng thể thọ thai. Khi kinh nguyệt chưa
hết, trọn chẳng được ân ái. Ân ái th́
người vợ sẽ mắc bệnh dây dưa, đừng
mong chi hoài thai nữa.
Chuyện quan hệ lớn lao của con
người há có thể làm vào ngày xấu, tiết xấu;
v́ thế, phải chọn lấy bữa tốt lành. Thiên
Nguyệt Lệnh của sách Lễ Kư[46]
có chép thánh nhân vào lúc giữa Xuân, trước khi sấm
động ba ngày, đánh mơ lớn để truyền cho
dân biết: “Lôi tương phát
thanh, hữu bất giới dung chỉ giả, sanh tử bất
bị, tất hữu hung tai” (Sấm sắp động.
Kẻ nào chẳng biết kiêng cử chuyện ăn nằm
th́ sanh con chẳng vẹn
toàn, ắt bị tai họa hung hiểm). “Gơ mơ gỗ truyền
lệnh cho nhân dân” là sai quan địa phương truyền
báo cho trăm họ. “Dung chỉ”
c̣n gọi là “động tịnh”.
“Bất giới dung chỉ” (chẳng biết kiêng cử
chuyện ăn nằm) là cứ ân ái. “Sanh con chẳng vẹn toàn” nghĩa là ngũ quan[47]
chẳng hoàn toàn v.v… Trong đời thường có kẻ
sanh con chẳng ra người, hoặc thân h́nh thiếu sứt
đều là v́ lẽ này. “Ắt
có tai họa hung hiểm” ư nói cha mẹ c̣n gặp tai
ương nguy hiểm như mắc bệnh ngặt nghèo,
yểu thọ v.v… chứ chẳng phải chỉ sanh con
không vẹn toàn! Thời xưa, thánh vương coi trọng
mạng dân nên đặc biệt chú ư đến điều
này, gơ mơ gỗ để báo cho dân biết. Chẳng những
khi sấm sắp động nên kiêng kỵ, mà ngay cả
khi mưa to gió lớn, gặp ngày có sao xấu, và lúc đổi
mùa, nhằm ngày đản sanh của Phật, Thánh đều
nên kiêng kỵ cả.
Đây thật là đại đạo
tôn trời kính thánh, tuân theo vương pháp, giữ vẹn
nhân luân. Tiếc rằng người đời nhất loạt
chẳng chịu nói ra điều này khiến cho thể chất
của con cháu đời sau ngày càng tệ hơn đời
trước, hoặc là tuổi trẻ đă sớm chết
yểu, hoặc v́ hành dục quá độ, dẫu không chết
yểu, cũng trở thành suy tàn, không làm nên tṛ trống ǵ!
Quá nửa đều là do cha mẹ chẳng biết đạo
nhân luân mà nên nỗi! Cha mẹ không biết là v́ ông bà không dạy.
Lúc con cái trưởng thành, nên đem những chuyện tiết
dục bảo tồn thân thể v.v… cặn kẽ bảo ban,
cha dạy con gái không tiện, c̣n mẹ th́ không ngại ǵ!
Làm được như thế mới là thật sự
yêu thương con cái. Nhưng thế gian yêu thương
đa phần là mặc cho nó phóng túng dục sự th́ cái hại
ấy c̣n quá giết chết con cái nữa, chẳng đáng
buồn ư?
Thánh nhân trọng thai giáo, hết sức chú
ư đến điều này: Lúc chưa có thai đă chuẩn
bị dạy sẵn. Tôi lạm dự vào Tăng chúng, há
nên lại bàn chuyện ăn nằm giữa vợ chồng?
Là v́ trước khi xuất gia đă từng coi những lời
luận bàn chí lư của cổ nhân về chuyện củng
cố cái gốc, nên muốn truyền cho tri kỷ để
báo cái ân hộ pháp. Một lẽ nữa là v́ đức Phật
là đại y vương, không bệnh nào chẳng trị,
Quang làm đệ tử Phật cũng muốn tùy phận,
tùy sức hành y đạo. Căn bệnh này là căn bệnh
lớn chung của cả thế gian. Nếu cứ để
cho căn bệnh lớn phổ biến của cả thế
gian này mặc t́nh phát sanh nẩy nở, chuyên đi trị
những căn bệnh riêng biệt nhỏ nhặt khác, há
chẳng phải là điên đảo không phân nặng - nhẹ
hay sao?
Đặng Bá Thành cũng muốn cầu
con, Quang viết thư cũng lược thuật ư này,
đến khi ông Úy Như ấn hành ba lá thư ấy và in
bộ Văn Sao đều lược đi, v́ cho rằng
chuyện ấy chẳng hợp với tăng sĩ,
cũng chẳng hợp với những ǵ đă nói trong Phật
pháp. Ư ấy cố nhiên là tốt lành, nhưng người
ta khổ v́ không con, dám đem sự ấy hướng về
Phật mà cầu, hướng về Tăng mà nói, Tăng
bèn v́ người ấy nói đầu đuôi thiện pháp,
khiến cho con cháu người ấy đều được
đại thọ dụng th́ nào có lỗi ǵ! Cho rằng
Tăng dạy người tiết dục là lạm bàn dâm
dục, hóa ra Tăng dạy người tránh giết chính
là dính vào sát nghiệp ư?
Nhưng chuyện này chẳng thể nói
cùng kẻ vô tri vô thức, sợ hắn không hiểu
được ư, trái lại c̣n giễu cợt. Nếu nói
cùng người quân tử hiểu lư, đúng là chẳng có
địa vị mà lại gơ mơ gỗ để hiệu
triệu nhân dân. Trị khi chưa loạn, giữ đất
nước khi chưa nguy chính là cùng một phương kế
với điều này vậy. Bảo nói đến chuyện
này là sai trái th́ thánh vương, thánh hiền, Phật, Bồ
Tát chính là đầu sỏ gây lỗi vậy. Ở Hồ
Nam có một nho sĩ họ Lưu, không nhớ tên, cưới
vợ nhưng không gần gũi. Vợ bảo: “Cưới
vợ vốn để sanh con, ông không gần gũi th́
ḍng giống bị đoạn tuyệt”, bèn gần gũi
một lần, sanh được con, nhân đó đặt
tên là Truyền Chi, rồi tuyệt dục. Vợ lại bảo:
“Chỉ một mụn con, trơ trọi không nương tựa,
chi bằng sanh thêm một đứa nữa”. Lại gần
vợ lần nữa, lại sanh con, đặt tên là Tái
Chi, hai con đều vào viện Hàn Lâm. Cả đời
người ấy chỉ ân ái hai lần, nhưng lại ghi
rơ những ngày nên kiêng ăn nằm, cũng như thanh tâm
ít dục, bảo tồn nguyên khí, khang kiện tinh thần,
chép vào trong gia phả ngơ hầu con cái đời đời
tuân theo đó. Một người bạn ở Hồ Nam kể
cho tôi nghe chuyện này.
Muốn cầu quư tử mà bỏ cách này
để cầu th́ dù có được, cũng chỉ là
chuyện cầu may. Cầu theo cách này th́ cầu ắt
được! Phàm đỗ đạt đều là do tổ
phụ có đại âm đức. Nếu không âm đức
cứ dùng sức người để phát khởi ắt
sẽ có đại họa về sau, chẳng thà không phát
c̣n tốt hơn! Xem khắp từ xưa đến nay, bậc
đại thánh đại hiền sanh ra đều là do tổ
phụ tích đức mà được, đại phú
đại quư cũng thế. Con cháu sanh trong phú quư chỉ
biết hưởng phước tạo nghiệp, quên mất
tổ phụ đă một phen vun bồi, do đấy chôn
vùi tổ đức, phá sạch tổ nghiệp, trở
thành nghèo hèn. Đấy chính là căn bệnh chung cho những
người phú quư trong cả cơi đời.
Đời đời giữ được
đức tổ tiên, vĩnh viễn không thay đổi chỉ
có nhà họ Phạm ở Tô Châu xưa nay là bậc nhất.
Từ Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm[48])
đời Tống cho măi đến cuối đời
Thanh, hơn tám trăm năm gia phong chẳng đọa,
luôn luôn đỗ đạt, có thể nói là nhà đức
hạnh thư hương đời đời. Họ Bành (ḍng họ của ông Bành Tế
Thanh) ở Trường Châu từ đầu đời
Thanh đến nay đỗ đạt đứng đầu
thiên hạ. Nhà ấy bốn năm người đỗ
Trạng Nguyên, có khi anh em cùng đỗ ba hạng đầu
của bảng vàng, nhưng họ đời đời
sùng phụng Phật pháp, dẫu là trạng nguyên, tể
tướng vẫn hằng ngày đọc Cảm Ứng
Thiên, Âm Chất Văn ngơ hầu thành ư chánh tâm, làm tấm
gương tận trung với vua, yêu dân. Kẻ cuồng
sinh kia cho những sách ấy là những chuyện để
ông già, bà cả dốt nát thực hành, chẳng những
không biết v́ sao thánh hiền thành thánh hiền mà c̣n chẳng
biết con người phải nên làm người như thế
nào nữa. Sống làm thây đi thịt chạy, chết mục
nát cùng cỏ cây, nhưng ác nghiệp khó tiêu, vĩnh viễn
trầm luân ác đạo. Bọn họ vênh váo tự cho
ḿnh là người thông suốt hiểu rộng đến
nỗi đời sau trong thời gian không biết là bao lâu sau,
những danh từ “trời đất, cha mẹ” c̣n chẳng
được nghe!
Muốn cho con cháu chẳng theo con đường
hư hỏng, cùng vào chánh đạo, hăy nên dùng Cảm Ứng
Thiên Vựng Biên, Âm Chất Văn Quảng Nghĩa làm kim chỉ
nam định hướng, dù thế tục tập nhiễm
sóng ác ngập trời, mây đen che khuất mặt trời
cũng chẳng đến nỗi không biết
phương hướng, lạc lơng, ch́m đắm. Nếu
không, dẫu gió lặng, sóng yên, mặt trời rạng chiếu,
cũng khó giữ khỏi lặn ngụp, bị đắm
ch́m mất. Huống chi trọn chẳng có hy vọng thế
đạo nhân tâm sẽ sóng yên, gió lặng, mặt trời
chiếu rạng! Phải biết hai chữ Âm Đức
bao trùm rộng lắm! Khiến cho con em người ta
được thành tựu, khiến cho chúng được
dự vào bậc thánh hiền, cố nhiên là âm đức. Thành
tựu con em của chính ḿnh, khiến cho chúng nó được
dự vào bậc thánh hiền cũng là âm đức. Trái lại,
khiến cho con em người ta bị lầm lạc cố
nhiên bị tổn đức, mà làm con cái ḿnh lầm lạc
cũng bị tổn đức. Nếu đủ sức
làm được th́ c̣n may mắn nào hơn? Nếu không
th́ hăy nêu gương thánh, gương hiền qua những
cư xử hằng ngày trong gia đ́nh, đấy chính là
tu chân ngay trong cơi tục, hiện thân cư sĩ để
thuyết pháp vậy. Mong ông hăy đem ư này bảo cùng lệnh
hữu và hết thảy bạn tri giao, tha thiết bảo
ban, chưa bao giờ không phải là một cách để tự
lập, lập người, tự lợi, lợi tha vậy!
154. Trả lời thư
cư sĩ Hoàng Hàm Chi (thư thứ nhất)
Nhận được thư biết
phu nhân mắc phải bệnh tật đă hơn cả
tháng. Dùng thuốc khó khăn, các thầy thuốc đều
bó tay. Nhằm ngay lúc này, đúng là lúc nên dùng thuốc A Già
Đà trị chung vạn bệnh. Các hạ hay đem thuốc
này thí khắp cho người, sao đối với bệnh
của phu nhân lại chần chừ, lo ngại khó dùng thuốc
này vậy? Lệnh lang, lệnh ái, lệnh tức[49]
v.v… đều thọ ân sanh thành; đúng ngay lúc thân mẹ mắc
bệnh nặng, sống chết khó bảo đảm này,
hăy dạy họ ai nấy v́ mẹ chí thành khẩn thiết
niệm “nam-mô A Di Đà Phật”, để cầu tuổi
thọ mẹ chưa hết sẽ chóng lành bệnh, tuổi
thọ đă hết sẽ mau được sanh về Tây
Phương. Các cậu con trai… hiếu tâm thuần thành, sốt
sắng, ắt đều như cứu đầu cháy, sẽ
thường tŕ niệm. Như thế chẳng phải chỉ
hữu ích cho phu nhân mà c̣n có lợi ích sâu xa cho các cậu con
trai, các cô con gái v.v… nữa! Phàm con người mắc bệnh,
có thể dùng thuốc để trị được th́
cũng không nhất quyết chẳng dùng đến thuốc.
Nếu chẳng dùng thuốc để trị được
th́ dù có thuốc tiên cũng vô ích, huống ǵ là thuốc thế
gian?
Bất luận bệnh có trị
được hay không, đều nên uống thuốc A Già
Đà. Thuốc này tuyệt đối chẳng hại
người, uống vào dù thân hay tâm đều thấy công
hiệu. Người sống trong thế gian, bất luận
lâu mau, rốt cục đều phải chết. Chết
không đáng tiếc, chết rồi sẽ đi về
đâu há chẳng nên sắp đặt sẵn ư? Người
có sức tự ḿnh sắp đặt thỏa đáng sẵn
sàng th́ khi lâm chung cố nhiên chẳng cần đến ai
khác giúp đỡ, nhưng nếu được phụ trợ
lại càng thêm đắc lực. Người không có sức
nên bảo gia thuộc thay ḿnh niệm Phật, ắt đề
khởi được chánh niệm, chẳng đến nỗi
bị ân ái buộc ràng, vẫn cứ bị ái t́nh trói buộc
y như cũ, trụ măi nơi đây không thoát ra được!
Quang nói lời này chẳng những v́ lệnh
phu nhân tính kế mà c̣n v́ thái phu nhân đă tám mươi ba tuổi,
dẫu đức của các hạ đủ để kéo
dài tuổi thọ của mẹ, sau này rốt cuộc phải
có ngày qua đời. Sợ các hạ chưa thể nghĩ
tới điều này, lại chú ư lo chạy thuốc men, tức
là bỏ gốc theo ngọn, chẳng đạt lợi
ích. Trái lại, khiến cho nhất tâm niệm Phật do bận
bịu nơi thuốc men thành ra gián đoạn, chẳng
thể thuần nhất. Như thế sẽ bị tổn
hại lớn. V́ thế, nương theo căn bệnh của
phu nhân, tŕnh bày sẵn để các hạ tận tâm lực
lo cho điều mà thần thức của mẹ sẽ
đạt được, ngơ hầu rốt cuộc các hạ
có thể báo được ân mẹ. Nay đem bài “Nêu Tỏ
Ư Nghĩa Phật Tánh và Trợ Niệm Cho Trần Liễu
Thường”[50] gởi
kèm theo thư, tuy văn không tao nhă, trôi chảy, nhưng ư
nghĩa th́ có thể chấp nhận được.
Đối với việc cầu an cho
người bệnh, tiến vong, người đời
nay hay chú trọng tụng kinh, bái sám, làm đàn Thủy Lục[51]
v.v… Quang đều bảo những bạn bè quen biết
nên niệm Phật, bởi niệm Phật lợi ích
hơn tụng kinh, bái sám, làm đàn Thủy Lục nhiều
lắm. V́ sao vậy? Tụng kinh th́ người không biết
chữ chẳng thể đọc theo. Dù biết chữ
nhưng tụng nhanh như nước chảy th́ người
miệng lưỡi hơi chậm chạp cũng không tụng
được. Người biếng nhác tuy tụng
được nhưng cũng không chịu tụng, thành ra
hữu danh vô thực. Bái sám, làm đàn Thủy Lục
cũng cứ theo đó mà suy. Niệm Phật th́ không một
ai chẳng thể niệm được, dẫu cho kẻ
biếng nhác không chịu niệm, nhưng mọi người
đồng thanh cùng niệm, kẻ ấy nếu không bịt
tai th́ một câu Phật hiệu cố nhiên sẽ rành rẽ
phân minh rót vào tâm, tuy chẳng niệm mà cũng chẳng khác
ǵ niệm. Như người nhiễm hương thân có
mùi thơm, tuy không cố ư muốn thơm mà ngờ đâu
lại được như thế. V́ thân quyến đảo
bệnh, cầu siêu, không thể không biết điều
này.
155. Thư trả lời
cư sĩ Hoàng Hàm Chi (thư thứ hai)
Ngày Hai Mươi Tám tháng Năm
nhận được thư viết ngày 24, biết tôn phu
nhân bệnh t́nh trầm trọng, các thầy thuốc đều
bó tay, nhân đó yêu cầu gia quyến v́ bà ta niệm Phật
ngơ hầu tuổi thọ chưa hết sẽ mau lành, tuổi
thọ đă hết sẽ mau được văng sanh. Chẳng
ngờ phu nhân tịnh nghiệp đă chín muồi bèn thoát
xác ra đi, hôm qua nhận được thư Khế Tây
gởi đến mới biết, khôn ngăn than thở
cho các hạ đă mất đi vợ hiền, lệnh lang
mất nơi nương tựa. Nhưng phu nhân túc căn
sâu dầy, nên mới khiến cho lệnh từ[52],
các hạ và lệnh lang v.v… cùng tha thiết nghĩ đến
sự vô thường, gấp cầu xuất ly, riêng dùng
thân ḿnh thuyết pháp, ngơ hầu mọi người cùng tu Tịnh
nghiệp, đồng sanh Tịnh Độ vậy! Quang
được lọt vào mắt xanh, cũng chẳng thể
không tận hết tấm ḷng, nhưng Quang luôn khác với
người đương thời, tuy hết sức
đau buồn trước tang tóc của thân hữu,
nhưng trọn chẳng làm những chuyện phúng viếng,
viết điếu văn v.v… chỉ trong khóa tụng sáng tối,
đối trước Phật hồi hướng một
hai thất cho trọn t́nh bạn. Chiều tối hôm qua
đă v́ phu nhân hồi hướng, toan lấy hai thất
làm chừng, nhưng ban ngày đủ mọi chuyện bận
rộn, chỉ ban đêm mới có lúc rảnh. Mong các hạ
đem đại nghĩa khai thị cho các con để họ
lắng buồn, niệm Phật, ngơ hầu người mất,
kẻ c̣n đều được lợi ích. Nếu chấp
theo t́nh đời, buồn đau đến cùng cực, rốt
cuộc có ích ǵ cho vong linh của mẹ đâu!
Làm Phật sự, bất tất phải
niệm kinh, bái sám, làm đàn Thủy Lục, bởi những
chuyện ấy đều thuộc bề ngoài, nên chuyên niệm
Phật, khiến cho các con trai gái từ đầu đến
cuối đều niệm theo, những người nữ
nên ở trong pḥng niệm, chẳng nên ngồi sau chư
Tăng. Như thế th́ chẳng những tôn phu nhân và lệnh
quyến thật sự được lợi ích mà ngay cả
những vị Tăng niệm Phật và những ai thấy
nghe không ai chẳng được lợi ích. Phàm khi làm Phật
sự, nếu chủ nhân chịu tham dự đàn tràng th́
Tăng sẽ tự phát tâm chân thật, nếu chủ nhân
chỉ làm cho đủ lệ, th́ Tăng cũng chỉ làm
chiếu lệ! Như một kỳ Phật sự đă
xong, trong ban đêm tổ chức lễ Diệm Khẩu[53]
là xong.
Quang đem chuyện bốn mươi
ba năm trải đời của ḿnh tỏ bày cho tri kỷ.
Nếu chẳng coi lời này là hủ bại, th́ may mắn
lắm! Thư chưa dán đă thấy bưu tá mang thư
các hạ viết hôm mồng Năm đến, nhân đấy
biết phu nhân bệnh t́nh tuy nặng, nhưng chánh niệm
vẫn phân minh, đă có thể thường thấy Đại
Sĩ, lại thêm có tín nguyện, có thể đoan chắc
bà ta được văng sanh. Như trong thư nói cho [người
đă khuất] ăn mặc theo kiểu ni cô th́ không nên; bà
ta đă nguyện thọ Tam Quy, Ngũ Giới th́ vẫn cứ
mặc thường phục, đắp thêm pháp y lên trên là
được rồi (pháp y chính là áo dài Tăng nhân
thường mặc), hoặc mặc
vào thân, hoặc xếp vào trong quan tài. Nếu quan tài đă
đóng th́ đốt trước linh vị, quy y, thọ
giới sẽ tiến hành trong đêm nay, một ḿnh Quang
đối trước Phật kiền thành lễ bái xong,
sẽ thuyết giới [cho phu nhân]. V́ thế, chẳng nên
dùng các nghi thức phô trương ḷe loẹt, chỉ nên lấy
ḷng chí thành cảm thông là được rồi. Pháp danh sẽ
là Uẩn Không, trở thành Tam Quy Ngũ Giới Ưu Bà Di vậy.
Nếu làm như h́nh thức ni sư th́ về sự, về
lư đều bị trở ngại.
Nên khuyên lơn các con trai gái, dâu v.v… lấy
chí thành tựu sự văng sanh cho mẹ làm hiếu, nỗ lực
thay mẹ niệm Phật, ngơ hầu phẩm sen được
cao thêm, hoa nở mau hơn, đấy mới là tận hiếu.
Đừng uổng công bắt chước người
đời làm chuyện vô ích gây hại cho chuyện hữu
ích. C̣n về tang sự, từ đầu đến cuối
chẳng ăn mặn, để nhờ vào đây dạy dỗ
cho kẻ ngu tục. Đấy cũng là trách nhiệm lớn
lao của ông vậy!
156. Thư trả lời
cư sĩ Hoàng Hàm Chi (thư thứ ba)
Thư ngày mồng Chín đă nhận
được, hôm qua nhận được thư ngày mồng
Mười, biết tôn phu nhân quả thật được
văng sanh, trọn không c̣n nghi ngờ ǵ nữa! Đời
trước bà ta đă vun bồi lớn lao nơi pháp môn Tịnh
Độ, tiếc rằng các hạ đề xướng
hơi chậm, chứ nếu đề xướng
trước đó mười năm khiến cho đối
với pháp môn Tịnh Độ dù sự hay lư thảy
đều hiểu rơ lại thêm tận lực tu tập
th́ bà ta sẽ thành tựu Tịnh nghiệp không biết cao
trỗi hơn bao nhiêu lần nữa! B́nh thời, tâm yêu
thương con cháu sâu nặng, tự nghĩ ḿnh yếu
hèn, đến lúc lâm chung lại bỏ sạch t́nh ái, quyết
chí cầu sanh, đấy chính là thiện căn đời
trước sai khiến. B́nh thời, nằm hướng mặt
về Đông, lúc lâm chung ngoảnh mặt về Tây nằm
bên hông phải, cũng là do sức thiện căn đời
trước xui khiến nên mới không mong cầu mà
được như vậy. Lúc lâm chung có những thứ
tướng lành sẽ chắn chắn văng sanh, không cần
phải khám xem hơi nóng nơi đảnh và ngực chỗ
nào lạnh trước! Mặc pháp y hiện h́nh tướng
đệ tử Phật, thỏa măn ư nguyện, thật tốt
lành thay!
Đă dặn ḍ con trai, con gái, dâu… sáng chiều
đối trước bài vị niệm Phật cho nhiều
th́ các hạ nên khai thị cho họ biết: Thỏa nguyện
cho thần thức của mẹ chính là hiếu cùng cực;
dù thật sự được văng sanh vẫn phải chí
thành niệm Phật để cầu cho phẩm sen được
tăng cao, mau chứng Vô Sanh, ai nấy tận hết ḷng
hiếu kính. Chuyện này tuy là lợi lạc cho vong linh
nhưng cũng giúp cho con trai, con gái, dâu v.v… cùng gieo căn
lành. Nếu đứa cháu nào niệm được
cũng bảo chúng niệm theo. Lúc lâm chung, cả nhà không
khóc lóc, niệm Phật là có lợi ích nhất. Lúc ấy tuy
ngắn ngủi nhưng nên trong ba tiếng đồng hồ,
không dứt tiếng niệm Phật, chẳng cất tiếng
khóc, và di chuyển v.v… là tốt nhất. Mong hăy nhớ kỹ!
Lục số[54]
cũng không cần phải bày vẽ thêm thắt, bởi nó
không quan trọng, khẩn yếu. Nếu cho đó là nhất
định th́ lại thành ra xuyên tạc. Phải biết Sáu
là con số của quẻ Khôn, phu nhân trọn vẹn đức
hạnh người nữ, kham làm khuôn mẫu cho đời,
dẫu cho không có con số nào là Sáu, nhưng từ sống
đến chết, hằng ngày xoay vần trong con số
Sáu, v́ thế không một hơi thở nào không phải là
Sáu. Ư nghĩa của con số Sáu là tận tụy làm, chứ
không phải ở nơi năm tháng, nhà cửa v.v… Năm
tháng, nhà cửa trúng nhằm con số Sáu cũng rất b́nh
thường, trọn chẳng có mảy may ǵ lạ lùng,
đặc biệt cả. Ấy là “các pháp từ duyên sanh, các pháp theo duyên diệt”.
Người ác nghiệp nặng cứ hở
ra là bị tai họa, người thiện căn sâu dày,
không ǵ chẳng tốt lành, cũng là tự nhiên như thế,
chẳng an bài ǵ mà tợ hồ thật sự có an bài.
Người đời muốn được tốt lành,
may mắn nhưng chẳng biết vun bồi đức,
như phá hủy đuốc để cầu ánh sáng, muốn
đi về hướng Nam mà xoay bánh xe hướng về
phía Bắc, uổng công nhọc nhằn khổ tâm, bị tổn
hại vô ích. Mong hăy đem nghĩa này bảo cùng lệnh
lang và dâu, con v.v…sẽ có lợi lớn lắm. Chuyện
làm Phật sự, Quang trước đây đă nói rơ rồi.
Mong đừng bắt chước thói đời, làm những
chuyện sáo rỗng.
Nếu niệm Phật suốt bốn
mươi chín ngày th́ so với chuyện tụng kinh lợi
ích nhiều hơn lắm lắm. Phép niệm Phật trọng
tại tín nguyện. Tín nguyện chân thành, khẩn thiết,
dù trong tâm chưa thể thanh tịnh, cũng được
văng sanh. V́ sao vậy? Do trong tâm có Phật để có thể
cảm, nên Phật Di Đà bèn ứng. Như nước
trong sông, biển, chưa thể trọn không có tướng
động, nhưng hễ không có gió bạo, sóng cuồng,
th́ vầng trăng sáng trên không trung sẽ hiện bóng rơ
ràng. Cảm ứng đạo giao như mẹ con nhớ
nhau. Những ai chuyên trọng tự lực, chẳng cậy
vào Phật lực là v́ không biết đến nghĩa này vậy!
157. Thư trả lời
cư sĩ Hoàng Hàm Chi (thư thứ tư)
Nhận được thư
khôn ngăn mừng rỡ. Tôn phu nhân đời trước
có đại thiện căn, nên được các hạ uyển
chuyển giúp thành Tịnh nghiệp, hỗ trợ văng sanh.
Lại c̣n suất lănh con trai, con gái, dâu v.v… niệm Phật
dài lâu, há chẳng riêng ǵ người mất được
lợi, mà quả thật cũng khiến cho những
người kia gieo thiện căn sâu xa. Lập pháp như
thế có thể nói là đại từ, so với người
đời vẫn giữ chuyện sát sanh nên bị chiết
phước tổn thọ, khiến người mất bị
lụy chốn u đồ; há có thể sánh kể
được ư? Chuyện của tôn phu nhân có thể
nói là đúng pháp, nhưng thái phu nhân tuổi đă tám
mươi ba, hăy nên thường khuyên dụ, khiến cho cụ
tín nguyện niệm Phật. Nếu muốn cho cụ suốt
ngày niệm Phật, e rằng chẳng thể làm như thế
được. Trước đây tôi đă từng muốn
lập cách để trợ niệm ngay khi c̣n sống,
nhưng nghĩ chưa ra.
Khi trấn thủ sứ Vương Duyệt
Sơn đưa mẹ lên núi, thấy quyến thuộc
đông đảo, nhân đấy t́m được một
cách trợ niệm tuyệt diệu; tôi đă từng nói
đại lược cùng ông ta, nay cũng đem những
lời đă bảo cùng ông ta kể với các hạ. Nếu
các hạ thực hành được th́ ông ta cũng chẳng
đến nỗi coi thường bỏ xó, cũng là đạo
tự lợi, lợi tha vậy! Trong quyến thuộc của
các hạ th́ các ông con trai ai nấy đều có công việc
làm, cố nhiên khó thể thường xuyên hành theo
được, nhưng bọn con dâu th́ vô sự rảnh rỗi,
bọn tớ gái như các bà vú v.v… cũng không có chuyện
ǵ quan trọng, nên dạy bọn họ căn theo đồng
hồ, suốt ngày ở bên cạnh thái phu nhân, lớn tiếng
niệm Phật nửa tiếng đồng hồ. Hết
giờ lại đổi phiên, suốt ngày không ngớt tiếng
niệm Phật. Thái phu nhân có thể niệm theo th́ cũng
tốt, nếu chẳng thể niệm theo th́ hăy bảo cụ
nhiếp tâm lắng nghe, trong một ngày sẽ thường
chẳng rời Phật. Mà những người kia cũng
không mất sức, do trong một ngày, bất quá chỉ niệm
một lần, hoặc hai lần, thời gian cách quăng
cũng lâu. Bọn họ không có sự ǵ để phải
chăm lo, nhờ vào việc này để tận ḷng hiếu
kính, gieo căn lành. Bọn tớ gái cũng nhờ vào nhân
này gieo duyên thoát ly sanh tử.
Từ đây trở đi, lấy đó
làm thường, dẫu cho thái phu nhân sống rất thọ,
cũng chớ để cách này bị thiếu sót giữa
chừng, lợi ích sẽ chẳng thể nghĩ bàn. Phàm
những ai có tín tâm muốn thành tựu đạo nghiệp
văng sanh cho cha mẹ, đều nên đem lời này bảo
cùng họ. Các hạ việc nước đa đoan, chẳng
thể lập giờ giấc nhất định. Nếu
có rảnh rỗi cũng nên niệm như thế một lần
để làm gương th́ con, dâu, tớ gái v.v... cũng sẽ
hớn hở, hoan hỷ. Ư Quang cho rằng hành như thế
quả thật là thuận tiện, ích lợi, nên đem
cách này viết thành một bài, in kèm vào sau bộ Ấn Quang
Văn Sao để những người muốn báo ân phụ
mẫu chẳng đến nỗi uổng công ngâm câu “hạo thiên vơng cực”[55]!
Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao
Quyển
thứ hai
(Phần 2
hết)
[1] Lệnh hữu: Tiếng gọi tỏ vẻ trân trọng bạn người khác.
[2] Tức Bản Thảo Cương Mục của Lư Thời Trân soạn vào đời Minh, một loại bách khoa tự điển về dược tánh của các cây cỏ, vật liệu dùng làm thuốc. Mạch Quyết là những sách dạy bắt mạch để chẩn đoán bệnh tật.
[3] Theo Đông Y, kinh lạc là đường tuần hành khí huyết đi nuôi dưỡng toàn thân, duy tŕ mọi hoạt động sinh lư của cơ thể, chống ngoại tà, bảo vệ cơ thể. Kinh là đường đi theo chiều dọc, Lạc là đường đi theo chiều ngang. Đông Y cho rằng cơ thể gồm 12 kinh chính, 12 biệt kinh, 15 kinh lạc, 8 mạch v.v…
[4] Tên hai thanh gươm báu thời Chiến Quốc, tương truyền do Can Tương đúc ra. Hùng kiếm gọi là Can Tương, thư kiếm là Mạc Da (hoặc Mạc Tà). Theo truyền thuyết, Can Tương nấu đồng sắt cả tháng không chảy, vợ là Mạc Da bèn tắm gội sạch sẽ, nhảy vào ḷ nấu sắt, sắt bèn chảy tan ra. Nhờ đó, Can Tương đúc được hai thanh kiếm báu chém sắt như chém bùn.
[5] Tịnh Độ Văn chính là Long Thư Tịnh Độ Văn, tác phẩm của ông Vương Nhật Hưu. Tây Quy Trực Chỉ là sách của ông Châu Mộng Nhan, được in trong bộ An Sĩ Toàn Thư.
[6] Tức là lộ, điển, mộng, huyễn, bào, ảnh (sương đọng, ánh chớp, mộng, huyễn, bọt nước, h́nh bóng).
[7] Tam Hoặc: Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc.
[8] Nhị tử: Phần đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử.
[9] Chàng Diễn Nhă trong kinh Lăng Nghiêm soi gương thấy đầu ḿnh đâm ra hoảng sợ phát cuồng. C̣n châu trong vạt áo là ví dụ trong kinh Pháp Hoa (phẩm thứ 8). Ví dụ này do năm trăm vị La Hán đă nói sau khi được Phật thọ kư: Gă nghèo đến chơi nhà bạn, ngủ say, bạn buộc châu vô giá vào trong áo để giúp cho khỏi bị đói nghèo, nhưng gă không biết, thân mang vật quư vô giá, nhưng vẫn phải làm thuê làm mướn vất vả kiếm sống.
[10] Tịnh Độ Quyết Nghi Luận là một bài viết về Tịnh Độ của tổ Ấn Quang, được in trong cuốn 2 của bộ Ấn Quang Văn Sao này. Tổ mượn lời Mộ Liên pháp sư ở núi Hồng Loa bàn định về giới hạn giữa Thiền và Tịnh.
[11] Đề tŕ: phương pháp của vị
thầy trong nhà Thiền dùng để hướng dẫn
học tṛ, tức là nhằm tiếp độ hàng hậu
học, thầy bèn dùng những cử chỉ, hành vi, lời
nói để phá sạch những kiến giải, Ngă Kiến
sẵn có của tṛ, chỉ cho đường nẻo
hướng thượng.
[12] Quyết trạch (nairvedhika): Nói đầy
đủ là “quyết đoán giản trạch”, tức là
dùng Vô Lậu Thánh Trí để đoạn trừ dứt
khoát (quyết đoán) các mối nghi, phân biệt chọn lựa
(giản trạch) những ǵ phù hợp với Tứ Đế.
[13] Tức ngài Khiết Tung đời Tống. Sư là người Đàm Tân, Đằng Châu (nay là huyện Đằng, tỉnh Quảng Tây), thông suốt các nội ngoại điển tịch, có tài trước thuật. Năm Gia Hựu thứ 7 (1062) đời Tống Nhân Tông, Sư soạn bộ Truyền Pháp Chánh Tông Kư. Phụ Giáo Thiên v.v… được nhập tạng, nên được vua ban hiệu là Minh Giáo Đại Sư.
[14] Tác phẩm gồm bốn quyển, do
ngài Lâu Dĩnh triều Đường biên tập kể về
hành trạng của Phó Ông (497-569). Bộ sách này c̣n có tên là
Thiện Huệ Đại Sĩ Ngữ Lục, hoặc
Thiện Huệ Đại Sĩ Lục, được xếp
vào tập 120 của Vạn Tự Tục Tạng Kinh. Nội
dung gồm những pháp ngữ, hành trạng và thi ca do Phó
Ông sáng tác, cũng như những lời vấn đáp về
đạo giữa người tham học và Phó Ông. Nguyên
tác phẩm này gồm tám quyển, đến đời
năm Thiệu Hưng 13 (1143) đời Tống, Lâu Chiểu
san định, lược bỏ những chỗ rườm
rà, sai sót, thâu gọn thành bốn quyển.
Phó Ông (497-569) là một vị tôn túc trong Thiền Tông đời Lương Nam Triều, người huyện Đông Dương (nay thuộc Nghĩa Ô, tỉnh Chiết Giang), tự là Huyền Phong, hiệu là Thiện Huệ. C̣n được gọi là Thiện Huệ đại sĩ, Ngư Hành đại sĩ, Phó đại sĩ, Đông Dương đại sĩ v.v… Cùng với ngài Bảo Chí, được đời xưng tụng là “hai vị đại sĩ đời Lương” (Lương đại nhị đại sĩ). Ngài thường cùng người bắt cá, mỗi khi bắt cá bèn bỏ vào giỏ tre, nhúng xuống chỗ nước sâu, bảo: “Muốn đi th́ đi, muốn ở th́ ở”. Người khi ấy cho Ngài là kẻ ngu. Năm mười sáu tuổi, lấy bà Lưu Diệu Quang, sanh được hai con là Phổ Kiến, Phổ Thành. Năm hai mươi bốn tuổi, đang bắt cá bên sông, chợt gặp Hồ Tăng Tung đầu đà (tức tổ Đạt Ma) bèn vứt bỏ đồ bắt cá, vào dựng am ở Tùng Sơn thuộc huyện Ô Thương, tự xưng là Song Lâm Thụ Hạ Đương Lai Giải Thoát Thiện Huệ Đại Sĩ, tự cho biết ḿnh từ trời Đâu Suất xuống giảng kinh thuyết pháp. Ban ngày làm lụng, ban đêm kinh hành, khổ hạnh bảy năm, tự bảo đă đắc Thủ Lăng Nghiêm Định, người theo về học đông dần. Năm Đại Thông thứ sáu (534), đời Lương Vơ Đế, ông sai đệ tử dâng lên vua ba thiên sách. Tháng 12 nhuận năm ấy, vua truyền nhập cung, giảng kinh tại Trùng Vân Điện, vua đích thân đến nghe. Mọi người thấy vua đến đều đứng lên, riêng Ngài ngồi im bất động. Quần thần bắt bẻ, Ngài đáp: “Pháp địa nếu động, hết thảy bất an”. Tháng Tư năm Đại Đồng nguyên niên (535) lại trở về Tung Sơn. Năm Đại Đồng thứ năm, lại vào Thọ Quang Điện giảng Chân Đế cho vua nghe, dâng bài kệ. Năm Đại Đồng thứ sáu, ngài dựng điện Phật tại Tùng Sơn, xây tháp gạch chín tầng, chép kinh luật hơn ngàn quyển. Năm Đại Đồng thứ bảy, tự xưng là một trong ngàn vị Phật ở Hiền Kiếp. Năm Thái Thanh thứ hai (549) muốn thiêu thân cúng dường Tam Bảo, đệ tử van nài, có đến 19 người xin thiêu thân thế thầy, Ngài bèn thôi. Đồ chúng tại gia của Phó Ông rất đông, Ngài thường hay suất lănh đồ chúng thiêu ngón tay đốt cánh tay cúng dường Phật, tổ chức pháp hội tụng Pháp Hoa hai mươi mốt lần, nhiều lần tổ chức Vô Giá Hội. Ngoài ra, Ngài c̣n có chỗ phát huy độc đáo về giáo thuyết Nhất Tâm Tam Quán của tông Thiên Thai, đề xướng thuyết Tam Quán Nhất Tâm Tứ Vận. Tháng Tư năm Thái Kiến nguyên niên (569) đời Trần, dặn ḍ đệ tử xong, Ngài ngồi kiết già tịch diệt. Đệ tử làm lễ trà-tỳ trên đảnh núi Song Lâm, đặt hiệu cho thầy là Di Lặc Hạ Sanh. Những trước tác của Ngài gồm có Vương Tâm Minh, Ngữ Lục bốn quyển, Hoàn Nguyên Thi v.v…
[15] Hộ Pháp Lục gồm mười quyển,
đo ngài Tống Liêm soạn vào đời Minh, Tiền Ích
Khiêm giảo đính. Tống Liêm đă từng đọc hết
Đại Tạng Kinh ba lần, là một bậc thâm nho
đa văn. Tác phẩm này bao gồm những bài nói về
hộ tŕ Tam Bảo trích từ cuốn Kim Hoa Văn Tập
của chính ông, kèm thêm những bài minh, bài bia, bài kư, bài tựa,
cáo, tán, tụng, kệ, thuyết, đề bạt do ông ta
soạn.
[16] Tác phẩm gồm hai quyển do ngài
Đàm Loan thời Bắc Ngụy soạn, nhằm chú giải
bộ Văng Sanh Luận của ngài Thế Thân soạn. Bộ
luận này nguyên mang tên là Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba
Đề Xá Nguyện Sanh Kệ.
[17] Lệnh nội: Tiếng gọi tỏ vẻ kính trọng vợ người khác.
[18] Tức cuốn Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Tiện Mông Sao của Đạt Mặc pháp sư (chỉ biết Sư có hiệu là Mộ Liên, chưa rơ sự tích). Tác phẩm này nhằm chú giải đại lược cuốn A Di Đà Kinh Yếu Giải của tổ Ngẫu Ích. Tác phẩm này nằm trong Vạn Tục Tạng, mang số thứ tự 875, tập 91.
[19] Thường Tàm (thường hổ thẹn) là một biệt hiệu khác của Tổ Ấn Quang.
[20] Lệnh ái: Tiếng gọi tỏ vẻ kính trọng con gái người khác.
[21] Quư trạch: danh xưng hoa mỹ để chỉ nhà của người khác.
[22] Nguyên văn là “kháp đầu bố” (vải để rập đầu). Đây chính là loại vải dùng để bọc những cái tọa ỷ để người ta quỳ làm lễ, hay những cái đệm để áp đầu vào khi làm lễ.
[23] Đương gia: người lănh trách nhiệm quản trị sự vụ chánh yếu trong một gia đ́nh. Trong tùng lâm có thể hiểu là vị Tăng đảm lănh trách nhiệm trị sự trong chùa. Chùa ở trên núi chia làm nhiều khu vực nên mới có thượng viện, hạ viện.
[24] Đốc quân: Cấp chỉ huy quân sự cao nhất của một tỉnh sau cách mạng Tân Hợi (1911) trước khi Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa được thành lập.
[25] Tỉnh Thiểm Tây là lănh thổ nước Tần thời Xuân Thu Chiến Quốc nên người ta thường quen gọi Thiểm Tây là Tần.
[26] Bất tiếu: kẻ không xứng đáng, không nối nghiệp tổ tiên được, không xứng với ông bà cha mẹ, tṛ không xứng với thầy th́ gọi là “bất tiếu”.
[27] Sau Cách Mạng Tân Hợi (1911), Trung Hoa rơi vào t́nh trạng nội chiến, các tướng lănh quân phiệt thừa cơ nổi lên thống trị từng địa phương, đánh nhau lung tung để giành quyền lực. Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc phải phái quân đi dẹp các sứ quân, đội quân ấy mang tên là Tĩnh Quốc. Do chính quyền Dân Quốc lúc đó đóng đô ở Nam Kinh nên quân đội chính phủ c̣n được gọi là Nam Quân.
[28] Hy Hoàng: Hy là Phục Hy, Hoàng là Hoàng Đế, hai vị thánh quân của Trung Hoa thời cổ, tương truyền thời ấy là thời thái b́nh thịnh trị, con người đều là thánh hiền. Sử gọi là thời Hoàng Kim.
[29] Kháng Long Hữu Hối:
Kháng Long Hữu Hối là phần Tiểu Tượng Truyện
(giải thích ư nghĩa h́nh tượng từng vạch
trong mỗi quẻ). Tượng “Kháng Long Hữu Hối”
chỉ vạch thứ sáu trong quẻ Thuần Càn (gồm
sáu hào Dương), cụ Nguyễn Hiến Lê giảng: “Rồng lên cao quá, có hối hận.
Hào Dương này ở trên cao của quẻ, cương
kiện đến cùng rồi, như con rồng bay lên cao
quá, không xuống được nữa, nếu vẫn c̣n
hành động sẽ có điều đáng tiếc, v́ lẽ
thịnh quá ắt suy, đầy th́ không được
lâu”.
[30] Ba cuốn Phật Học Khởi Tín Thiên, Phật Học Chỉ Nam, Lục Đạo Luân Hồi Lục là tác phẩm của ông Đinh Phước Bảo. Trong Ấn Quang Văn Sao quyển 3, Tổ có viết lời tựa cho ba tác phẩm này.
[31] Dũng Giang là một con sông lớn thuộc tỉnh Chiết Giang, chảy qua thành phố Ninh Ba.
[32] Phê sương (đôi khi c̣n gọi là tỳ sương) là chất độc, tức chất arsenic, c̣n gọi là Thạch Tín hoặc Nhân Ngôn. Trầm độc là chất độc của con chim Trầm (hoặc c̣n đọc là Trấm), một loài chim rất độc theo truyền thuyết, tương truyền một cái lông của nó rớt xuống sẽ làm chết sạch cả hồ cá.
[33] Ông Vương Hoằng Nguyện người
Triều An, Quảng Đông, là người đi tiên phong
trong việc phục hưng Đông Mật tại Trung Hoa.
Ông từng theo học Mật Tông với Quyền Điền
Lôi Phủ suốt 13 năm, được truyền pháp
Quán Đảnh. Về sau ông truyền quán đảnh cho
người khác ở chùa Lục Dung tại Quảng Châu,
chủ trương cư sĩ có thể làm A Xà Lê, chấp
nhận các tỳ-kheo thọ pháp đảnh lễ ḿnh, khiến
cho các vị Thái Hư, Mạn Thù Yết Đế v.v… công
kích, tạo thành đầu mối tranh luận gay gắt
giữa Hiển Giáo và Mật Giáo.
[34] Mật Giáo Cương Yếu là tác phẩm nhập môn Mật Giáo gồm bốn quyển của ông Quyền Điền Lôi Phủ người Nhật biên soạn, Vương Hoằng Nguyện dịch cuốn này ra tiếng Hán vào năm 1918. Nội dung tŕnh bày sự phát triển của Mật giáo tại Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, tŕnh bày những giáo nghĩa, cách thức tác pháp tu tŕ theo truyền thống Đông Mật (gọi là Đông Mật để phân biệt với truyền thống Mật Giáo của Tây Tạng).
[35] Tương tức: Pháp này chính là pháp kia, như thường nói “một tức là nhiều, nhiều tức là một”.
[36] Nguyên văn là “từ lục đảm bản, chỉ kiến nhất biên” (kẻ đi vác gỗ, chỉ thấy được một bên). Đảm Bản Hán nguyên là những người công nhân chuyên vác các tấm gỗ, phiến gỗ. Do khiêng nặng và cồng kềng họ chỉ có thể nh́n về đằng trước, không thể ngó xung quanh. Thiền lâm dùng thuật ngữ “đảm bản hán” để chỉ kẻ thiên chấp, chẳng dung thông toàn thể.
[37] Đại Thừa Khởi Tín Luận Liệt Vơng Sớ (c̣n gọi là Khởi Tín Luận Liệt Vơng Sớ, hoặc Liệt Vơng Sớ) gồm sáu quyển, là tác phẩm của ngài Ngẫu Ích Trí Húc, được xếp vào quyển 44 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Đây là tác phẩm chú giải cuốn Khởi Tín Luận (bản dịch của ngài Thật Xoa Nan Đà). Tổ Ngẫu Ích đặt tên bản chú giải này là Liệt Vơng (xé rách lưới) với ngụ ư phá trừ lưới rập kiến giải sai biệt giữa hai tông Pháp Tướng và Pháp Tánh. Trong luận này, Tổ đă dùng giáo nghĩa Viên Giáo để phối hợp nhất tâm với chúng sanh, nêu lên vọng tâm trong quán cảnh của Viên Giáo.
[38] Tức ngài Huệ Tư, thầy của tổ Trí Khải.
[39] Là những địa vị trước khi đạt đến địa vị Kiến Đạo. Theo Thành Thật Luận, tu hành Phật đạo chưa thấy được chánh lư th́ gọi là “phàm phu”. Có trí giải tương tự đối với Chánh Lư th́ gọi là “nội phàm”, chưa phát được tương tự trí giải th́ gọi là “ngoại phàm”. Trong Tiểu Thừa, ba địa vị Ngũ Đ́nh Tâm, Biệt Tướng Niệm Xứ, Tổng Tướng Niệm Xứ là “ngoại phàm”; bốn địa vị thiện căn Noăn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất là “nội phàm”. Trong Đại Thừa, Thập Tín Phục Nhẫn là “ngoại phàm”, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng là “nội phàm”; những địa vị này c̣n gọi là Địa Tiền Bồ Tát.
[40] Tức Kim Luân Bảo (bánh xe bằng vàng) của Chuyển Luân Thánh Vương, Luân Vương ngự trên luân bảo này bay đi khắp bốn bộ châu.
[41] Bốn đại bộ châu là Nam Thiệm Bộ Châu (Diêm Phù Đề), Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lô Châu và Đông Thắng Thần Châu. Bốn châu này ở quanh núi Tu Di.
[42] Thời Phật c̣n tại thế, có một đứa trẻ thấy Phật hoan hỷ, kính quư, bèn dâng một vốc cát lên Phật để cúng dường.
[43] Ưu Ba Cúc Đa
(Upagupta), vị tổ thứ tư của Thiền Tông Ấn
Độ, tên Ngài c̣n được phiên âm là Ưu Ba Cấp
Đa, Ưu Ba Quật Đa, Ô Ba Quật Đa, Ưu Ba Cúc
Đề, Ưu Ba Cúc, Ưu Ba Quật, hoặc gọi tắt
là Quật Đa, dịch sang tiếng Hán là Đại Hộ,
Cận Tạng, Cận Hộ. Ngài là người xứ
Mathura, Ấn Độ, là một trong những vị thầy
nổi danh của vua A Dục (Asoka). Ngài là người nổi
tiếng thông minh, từ mẫn. Ngài được vị
tổ thứ ba là ngài Thương Na Ḥa Tu dạy phép quán: “Nếu
khởi ác tâm, bèn quán tướng có một viên đá đen
ở bên trái, nếu khởi thiện tâm, quán một viên
đá trắng bên phải”. Ngài bèn nhiếp tâm quán niệm.
Thoạt đầu đá đen rất nhiều, quán đến
ngày thứ bảy, chỉ thấy tướng đá trắng.
Tổ Thương Na Ḥa Tu bèn thuyết pháp Tứ Đế,
ngay khi đó, tổ Ưu Ba Cúc Đa bèn chứng quả Tu
Đà Hoàn. Ngài lần lượt quán các pháp khổ, không, vô
thường, vô ngă, chứng lần lượt từ Nhị
Quả đến quả A Na Hàm. Khi xuất gia thọ Cụ
Túc Giới bèn chứng A La Hán Quả. Ngài trụ tại núi
Ưu Lưu Mạn Trà ở nước
[44] Công Quá Cách là một bộ thiện
thư Đạo giáo, không rơ xuất hiện vào thời
nào, thường được coi là của Phù Hựu
Đế Quân giáng cơ, có thuyết nói là Thái Vi Tiên Quân
giáng cơ. Bản Công Quá Cách hoàn chỉnh cổ nhất
mang tựa đề Thái Vi Tiên Quân Công Quá Cách được
chép năm 1171. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ
18, có rất nhiều dị bản Công Quá Cách khác nhau
được lưu hành. Do nội dung khuyến thiện
tích cực của nó, Công Quá Cách được Phật giáo
Trung Hoa đón nhận nồng nhiệt và đề xướng.
Người tích cực nhất chính là tổ Vân Thê Liên Tŕ,
cuốn Tự Tri Lục của Ngài được viết
theo tinh thần Công Quá Cách. Hiện nay bản được
phổ biến nhất là bản đầu đời
Thanh mang tựa đề Thái Vi Tiên Quân Lữ Thuần
Dương Tổ Sư Công Quá Cách. Công là những điều
thiện, Quá là những chuyện ác. Ghi chép lại như nhật
kư để tự sửa đổi nên gọi là Cách.
[45] Thai độc: các bệnh truyền nhiễm từ người mẹ lây sang con trong khi mang thai. Đậu chẩn: các loại sởi, ban đỏ, thủy đậu v.v…
[46] Lễ Kư là một bộ cổ thư ghi chép những nguyên lư về lễ nghi, ứng xử thời cổ. Tác phẩm này là công tŕnh ghi chép, san định của các môn đệ của Khổng Tử và các học giả đời sau. Thoạt đầu, bộ sách này gồm 214 thiên. Về sau, Đới Đức san định, rút gọn thành 855 thiên, tục gọi là Đại Đới Kư. Về sau, Đới Thánh đời Hán lại chỉnh lư lần nữa, rút gọn thành 49 thiên, tục gọi là Tiểu Đới Kư. Lễ Kư thông dụng hiện thời chính là Tiểu Đới Kư. Nguyệt Lệnh là một thiên sách trong Lễ Kư, ghi chép những chánh lệnh trong 12 tháng. Chánh lệnh là những quy định, lễ nghi phải tuân thủ theo quan điểm cổ nhân.
[47] Ngũ quan: Theo tự điển Từ Hải, Ngũ Quan có hai cách hiểu: 1. Tai, mắt, mũi, miệng, tim. 2. Tai, mắt, mũi, miệng, da.
[48] Phạm Trọng Yêm (989 - 1052), người đời Tống, tự là Hy Văn, mồ côi cha từ năm hai tuổi, nhà nghèo nên mẹ phải tái giá. Lớn lên một chút, bèn bỏ nhà ở nhờ ngôi chùa trong làng, dốc sức học hành. Sau đỗ Tiến Sĩ, giữ chức Giảo Lư trong Bí Thư Các. Thường khảng khái luận chuyện thiên hạ, sĩ phu đương thời rất kính trọng. Ông làm tướng thời Tống Nhân Tông, trấn thủ tỉnh Thiểm Tây, pḥng ngự quân Tây Hạ, giặc chẳng dám xâm phạm. Sau bị sàm báng, bị truất làm Thị Lang bộ Hộ. Ông mất năm Hoàng Hựu thứ tư, hưởng thọ sáu mươi bốn tuổi, được truy tặng chức Binh Bộ Thượng Thư, đặt thụy hiệu là Văn Chánh (do vậy, tổ Ấn Quang thường gọi ông là Văn Chánh Công). Trọng Yêm nghiêm tŕ giới luật, khắc khổ tinh chuyên. Dù làm quan lớn, thích thân cận cao tăng, tham cứu Thiền pháp, thích làm lành, bố thí, tạo nghĩa điền (ruộng nghĩa) nuôi người nghèo. Ngày ông mất, tiếng than khóc khôn xiết kể, dân chúng khóc như mất cha mẹ vậy.
[49] Lệnh tức: Tiếng gọi con dâu người khác một cách kính trọng.
[50] Xin coi bài “Sự tích văng sanh của ưu-bà-di Trần Liễu Thường và nêu tỏ ư nghĩa ẩn kín của Phật Tánh” trong quyển 4
[51] C̣n gọi là Thủy Lục Trai, Thủy
Lục Đạo Tràng, Bi Trai Hội. Đây là pháp hội
thí thực cho tất cả hữu t́nh sống trong nước
(thủy) trên đất liền (lục) và các loài ngạ
quỷ. Nguyên khởi do Lương Vơ Đế (Tiêu Diễn)
mộng thấy có vị Tăng dạy lập đàn Thủy
Lục, cúng thí cho lục đạo tứ sanh. Vua bèn ra lệnh
cho biên tập khoa nghi từ các kinh điển, dựa theo
chuyện A Nan gặp Diện Nhiên ngạ quỷ (quỷ mặt
bốc lửa cháy bừng bừng), được Phật
dạy tạo B́nh Đẳng Hộc để thí cho ngạ
quỷ, soạn ra khoa nghi, tu Thủy Lục Trai Hội tại
chùa Kim Sơn khoảng năm 504. Khoa nghi này được
các đời sau bổ sung chi tiết hơn
[52] Lệnh từ: tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng mẹ người khác.
[53] Diệm Khẩu:
Pháp sự nhằm thí thực cho ngạ quỷ căn cứ
trên Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La
Ni Kinh. Pháp hội này lấy ngạ quỷ làm đối
tượng chủ yếu để cúng thí, thường
được cử hành nhằm hồi hướng công
đức cầu siêu cho người đă khuất. Pháp
cúng căn bản của Diệm Khẩu là cúng nước
sạch, cùng một chút thức ăn như cơm, ḿ, bánh
trái v.v.. tụng chú Biến Thực, chú Cam Lộ Thủy mỗi
thứ bảy biến, xưng danh hiệu các vị Phật
Đa Bảo, Diệu Sắc Thân, Ly Bố Úy v.v.. rồi
đổ vào chỗ đất sạch. Về sau, những
nghi thức Diệm Khẩu thêm vào các khoa phức tạp
hơn như thăng ṭa, nhập định, sái tịnh,
quy y, đạo tràng quán, hiến Mạn Đà La v.v… Theo Mật
điển, khoa nghi này không được cử hành kéo dài
quá 11 giờ đêm v́ sau giờ đó, các ngạ quỷ
không ăn được nữa. Bản kinh Diệm Khẩu
được dịch sớm nhất ở Trung Hoa bởi
ngài Thật Xoa Nan Đà (tức kinh Cứu Diện Nhiên Ngạ
Quỷ Đà La Ni và Cam Lộ Đà La Ni) vào đời
Đường. Về sau, ngài Bất Không Tam Tạng dịch
thêm Du Già Tập Yếu Cứu A Nan Đà La Ni Diệm Khẩu
Nghi Quỹ Kinh. Đến đời Tống, do nhận thấy
chư sư thực hành khoa này chưa đúng cách nên ngài
Tuân Thức bèn soạn lại nghi thức, ngoài các mật
chú, c̣n thêm phương pháp quán tưởng của tông Thiên
Thai, chia pháp thí thực thành ba loại: Hộc Liệu, Minh
Đạo và Thủy Lục. Hộc Liệu chính là Du Già Diệm
Khẩu, Minh Đạo chính là đại trai Vô Giá thí thực
cho người cơi âm. Thế nhưng vẫn có vị
như Tông Hiểu chủ trương thí chung tất cả
như thí Khoáng Dă Quỷ Thần, Quỷ Tử Mẫu v.v…
Đến đời Nguyên, do ảnh hưởng của Mật
Giáo, nghi thức Du Già Diệm Khẩu của Tây Tạng
được truyền vào Trung Hoa. Nghi thức này cũng
hơi giống với khoa nghi Du Già Tập Yếu Cứu A
Nan Đà La Ni Diệm Khẩu Nghi Quỹ Kinh do ngài Bất
Không dịch, nhưng thêm các phần Tam Quy, Đại Luân
Minh Vương Thần Chú, Chuyển Pháp Luân Bồ Tát Chú,
danh hiệu 35 vị Phật, Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Kệ, nhập Quán Âm định, Phá Địa Ngục
chân ngôn, phần sau lại thêm những chú như Tôn Thắng
Chân Ngôn, Kim Cang Tát Đỏa Bách Tự Chú v.v… Đến
đời Minh, do các khoa nghi Diệm Khẩu truyền thừa
bất nhất, trở thành mạnh ai nấy làm theo cách
ḿnh, nên ngài Thiên Cơ bèn san định lại, lược
bỏ những chỗ rườm rà, soạn thành Tu Tập
Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi, khoa nghi này
được gọi là Thiên Cơ Diệm Khẩu. Tổ
Vân Thê Liên Tŕ của Tịnh tông lại san định khoa
nghi Diệm Khẩu của ngài Thiên Cơ một lần nữa,
soạn thành Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực
Đàn Nghi, đồng thời viết lời chú giải.
Năm Khang Hy 32 (1693), ngài Đức Cơ ở núi Bảo
Hoa lại biên tập khoa nghi do tổ Liên Tŕ soạn một
lần nữa, đặt tên là Du Già Diệm Khẩu Thí Thực
Tập Yếu. Khoa nghi này thường được gọi
là Bảo Hoa Diệm Khẩu. Ngày nay, hai khoa nghi Diệm Khẩu
được sử dụng phổ biến nhất ở
Trung Hoa là Thiên Cơ và Bảo Hoa Diệm Khẩu. Ở Việt
[54] Lục số: một khái niệm dựa theo Dịch Học. Căn cứ theo Hà Đồ Lạc Thư, người ta chia ra Thiên Số và Địa Số. Địa Số gồm những số chẵn 2, 4, 6, 8, 10. Số 6 thuộc Âm, hào Âm cũng được gọi là hào Lục. Quẻ Khôn (tượng trưng cho đất, cho nữ giới) cũng thuộc về Âm. Phép Lục Số ở đây là nói đến chuyện coi ngày giờ chết để đoán định sự cát hung cho người thân c̣n đang sống.
[55] Bài thơ Lục Nga (cỏ nga xanh mướt)
trong phần Nhĩ Nhă của kinh Thi, có đoạn: “Phụ hề sanh ngă, mẫu hề
cúc ngă, phụ ngă súc ngă, trưởng ngă dục ngă, cố
ngă phúc ngă, xuất nhập phúc ngă, dục báo chi đức,
hạo thiên vơng cực” (Tạm dịch: Cha sanh ra ta, mẹ
nuôi nấng ta, vỗ về chăm nom, quan tâm che chở, ra
vào lo lắng, muốn báo ân đức, trời xanh thăm
thẳm, khôn thấu cho cùng). Cổ nhân thường mượn
bài thơ này để diễn tả nỗi ḷng người
con ngậm ngùi, hận chưa báo được ân cha mẹ.