Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên
25. Duyên khởi niệm Phật bốn
mươi chín ngày của Thường Tịch Quang Lan Nhă
núi Vân Cư, Hàng Châu
Pháp
Niệm Phật chính là pháp môn đặc biệt để
phổ độ chúng sanh của đức Như Lai. Thích
hợp khắp ba căn, thâu tóm trọn vẹn lợi
căn lẫn độn căn, trên là bậc Đẳng
Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài
được, dưới là tội nhân nghịch ác cũng
có thể dự vào trong ấy. Chẳng đoạn
Hoặc nghiệp mà được dự vào hải
hội; hễ được văng sanh nhất định
chứng Bồ Đề. Huống chi chúng sanh đời
Mạt căn cơ kém hèn, chẳng nương theo pháp này
th́ làm sao yên được?
Vi Quân lăo ḥa
thượng đă xét nghĩ điều này, bèn lập
một Lan Nhă ở núi Vân Cư thuộc châu thành đất
Hàng, đặt tên là Thường Tịch Quang, ư muốn
để cho ḿnh cùng người đều niệm danh hiệu
Phật, cùng sanh về cơi Phật, dần dần tấn tu
ḥng cùng được viên măn Phật quả. Kể từ
khi ngài Vi Quân qua đời, học tṛ Ngài đều nghiêm
túc tuân theo lệnh thầy, vĩnh viễn giữ ǵn quy
củ đă thành nề nếp. Nay đại sư
Diệu Đăng thấy một pháp Niệm Phật
nhiếp khắp kẻ định tâm lẫn tán tâm,
nhưng cần phải chuyên ṛng dụng công để mong
đắc nhất tâm ngơ hầu lên thẳng Thượng
Phẩm, mau chứng Tịch Quang, liền tính mỗi
năm vào cuối mùa Đông sẽ lập một kỳ
hạn nhất định chuyên niệm Phật trong
bốn mươi chín ngày để mong tâm khế hợp
với Phật, ḥng chứng được nghĩa “tâm này làm Phật, tâm này là
Phật”, cảm ứng đạo giao, chẳng phụ
ḷng Thành như mẹ mong con, như con nhớ mẹ.
Pháp hội đă mở ra, chỉ mong lợi lạc trọn khắp. Phàm kẻ tại gia thiện sĩ muốn tùy hỷ tu tŕ đều chấp thuận hết. Chỉ có những vị anh hiền chốn khuê các cố nhiên nên ở yên trong nhà, nhất tâm niệm Phật, chẳng cần phải đến dự hội để mong đích thân được hưởng lợi ích chân thật, không vướng phải các hiềm nghi, khiến cho người khác sanh ḷng ngưỡng mộ, vĩnh viễn dứt hết các nghi báng, ai nấy tùy theo phận ḿnh gắng sức tu tŕ, quả thật là nhiệm vụ trọng yếu. Nguyện khắp những ai thấy nghe đều cùng sanh ḷng tin, cùng tu Tịnh nghiệp ngơ hầu cùng sanh về Tịnh Độ, cùng chứng Bồ Đề, hưởng các pháp lạc đến tột cùng đời vị lai (Giữa Hạ năm Giáp Tư, tức năm Dân Quốc 13 - 1924).
26. Duyên khởi của Hải Môn Liên Xă
tại Phước Châu
Chân
Như tánh hải tịch - chiếu viên dung, vô Năng, vô
Sở, chẳng dời, chẳng biến, ngay cả cái tên
Niết Bàn c̣n chẳng có th́ làm sao có chuyện sanh tử?
Nhưng v́ chúng sanh mê muội, chôn vùi toàn thể, chẳng
hiểu tự tâm, lầm lạc đuổi theo huyễn
cảnh. Do vậy, đối với những cảnh
thuận, nghịch, khởi tham - sân - si, tạo giết -
trộm - dâm, từ kiếp này sang kiếp khác luân hồi
trong lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra,
ngược ngạo nương vào sức tịch -
chiếu viên dung của Chân Như Phật tánh ấy
để làm cái gốc khởi Hoặc tạo nghiệp,
luân hồi sanh tử; há chẳng đáng buồn quá
đỗi ư? Đức Đại Giác Thế Tôn
thương xót, tùy cơ chỉ dạy, nói đủ
mọi pháp, khiến cho ai nấy đều theo
đường về nhà, đích thân thấy
được Phật tánh. Hiềm rằng chúng sanh căn
khí bất nhất, liễu thoát ngay trong đời này
chẳng được mấy kẻ! Do vậy,
đức Phật liền đặc biệt mở ra
một môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ để mong sao bọn họ dù thánh hay phàm
đều cùng được giải thoát ngay trong
đời này. Ấy là v́ “tâm
này làm Phật, tâm này là Phật” chứ chẳng phải
có [một Phật quả] ở riêng ngoài tâm để
đạt được! Do Phật lực chẳng
thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn,
chúng sanh tâm lực cũng chẳng thể nghĩ bàn; chúng
sanh và Phật dung nhiếp nhau, cảm ứng đạo
giao, nên dễ được thành tựu.
Cư sĩ La Vũ
Tằng ở Hải Môn xưa đă trồng cội
đức, bẩm tánh nhân từ, tốt lành, đề
xướng Tịnh Độ chẳng tiếc sức thừa,
muốn cho hết thảy những người cùng hàng
đều chứng Phật tánh sẵn có. V́ thế, khi lâm
chung cụ được toại nguyện. Con cụ là
Khanh Đoan, Ngạn Tuấn gắng sức tiếp
nối chí cha, lập ra chỗ lưu thông kinh Phật trong
nhà, muốn cho những tịnh lữ trong vùng phụ
cận tùy thời niệm Phật; cho nên tại chỗ
lưu thông, lập một liên xă, đặt biển ghi tên
là Hải Môn. Do biển pháp của chư Phật chỉ có
Niệm Phật là dễ vào nhất; Chân Như tánh hải
chỉ có Niệm Phật là dễ đích thân chứng
được nhất. Do vậy, pháp môn Niệm Phật
này chính là cửa ngơ để vào biển pháp của chư
Phật, để chứng Chân Như tánh hải! V́
thế đặt tên là Hải Môn.
Đây là ước
theo Lư mà luận, chứ nếu ước theo Sự
để nói th́ do cha họ là cư sĩ Hải Môn
đề xướng niệm Phật, hết thảy
đại chúng mới biết: Trong cơi đời có pháp môn
Tịnh Độ tột bậc rộng lớn, tột
bậc viên đốn, tột bậc sâu mầu, tột
bậc giản tiện! Phàm những ai đến
đấy niệm Phật, ắt phải giữ vẹn
luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của
chính ḿnh, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đánh đổ
ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ
nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng làm các
điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng,
cứu giúp người đang gặp nạn ngặt nghèo,
dùng những điều ấy để tự hành,
lại c̣n dùng những điều ấy để dạy
người. Người làm được như thế
th́ tâm sẽ hợp với Phật, tâm sẽ hợp
với đạo. Lúc c̣n sống liền dự vào địa
vị thánh hiền, khi lâm chung lên thẳng cơi Cực
Lạc, ngơ hầu thỏa măn bổn nguyện đề
xướng của cư sĩ Hải Môn. Nơi nơi
đều lập liên xă, mỗi mỗi đều
phỏng theo Hải Môn, sẽ thấy Phật pháp hưng
thịnh, tai chướng tiêu diệt, mưa ḥa, gió
thuận, cùng nhau đạt đến cơi đời
Đại Đồng[1], dân
khỏe mạnh, vật sanh sôi, cùng vui hưởng cuộc
sống tươi vui, tốt đẹp vậy.
27. Duyên khởi của Lạc Thanh
Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xă
Đức
Đại Giác Thế Tôn thương các chúng sanh mê mất
cái tâm mầu nhiệm vốn có nên luân hồi trong sanh
tử, bèn thị hiện giáng sanh trong thế gian, thành
Đẳng Chánh Giác, tùy thuận căn cơ của chúng
sanh nói đủ mọi pháp. Tuy Đại, Tiểu,
Quyền, Thật bất đồng, dẫu Thiên, Viên,
Đốn, Tiệm mỗi pháp mỗi khác, nhưng
đều là nhằm khai - thị - ngộ - nhập tri
kiến của đức Phật cho chúng sanh [khiến
họ] rốt ráo thành Phật mới thôi. Nhưng căn
cơ chúng sanh có lớn - nhỏ, mê có cạn - sâu, chẳng
thể thỏa thích bổn hoài của Phật ngay được;
lại v́ chúng sanh đời Mạt nghiệp chướng
sâu nặng, trí huệ cạn mỏng, thọ mạng
ngắn ngủi, tri thức hiếm hoi, nếu chẳng
cậy vào Phật lực quyết khó thể liễu thoát.
Do vậy, đặc biệt lập ra một pháp môn
Tịnh Độ nhiếp trọn các pháp Sơ - Trung - Hậu,
thích hợp khắp cả ba căn Thượng - Trung -
Hạ, ngơ hầu những vị đă chứng Pháp Thân
sẽ mau thành Phật đạo, kẻ chưa
đoạn Phiền Hoặc cũng thoát khỏi luân
hồi. Lợi ích ấy vượt trỗi những giáo
pháp trong suốt một đời giáo hóa của
đức Phật v́ một đằng chuyên cậy vào
tự lực, một đằng kiêm nhờ vào Phật
lực.
Ví như gă chân teo
suốt ngày chỉ đi được mấy dặm,
nếu ngồi luân bảo[2]
của Chuyển Luân Thánh Vương th́ trong một ngày
liền đến khắp bốn châu. V́ thế, pháp này
được chín giới cùng hướng về,
mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng
xiển dương, muôn luận đều tuyên nói, là pháp
môn tổng tŕ thành thủy thành chung để mười
phương tam thế hết thảy chư Phật trên
thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh.
Xét từ khi đại giáo được truyền sang
phương Đông, Viễn Công là vị mở liên xă
đầu tiên. Đương thời bậc cao tăng
đại nho dự vào hội có tới một trăm hai
mươi ba người. Từ đấy trở đi,
đời nào cũng có cao nhân tục diệm truyền
đăng trọn khắp trong ngoài nước.
Đại pháp của
Như Lai có năm thứ là Luật, Giáo, Tông, Mật,
Tịnh, nhưng chỉ có một pháp Tịnh Độ là
dễ tu tŕ nhất, dễ thành tựu nhất, là chỗ
quy túc của Luật, Giáo, Tông, Mật. V́ thế các vị
tri thức Luật, Giáo, Tông, Mật xưa nay đều
chú trọng ngầm tu, rất nhiều vị cực
lực công khai giáo hóa đại chúng bằng pháp môn này. Pháp
này Chân lẫn Tục cùng viên dung, cơ và lư cùng khế
hợp, chẳng những là pháp để người
học đạo lập tức thoát khỏi luân hồi mà
c̣n là nền tảng để bậc cai trị
đất nước ngồi hưởng thái b́nh. V́
thế, văng thánh tiền hiền, người thông
đạt, bậc trí huệ đều cùng tu tŕ giống
như mọi ngôi sao chầu về Bắc Đẩu,
như các ḍng nước chảy xuôi vào biển Đông.
Gần đây, ḷng
người kém hơn xưa, bỏ gốc chạy theo
ngọn, gió Âu dần dần thổi sang Đông, đua nhau
đề cao duy tân, phế kinh điển, phế luân
thường, bỏ hiếu, vứt thẹn, đến
nỗi hùa theo nhau ầm ĩ đề xướng
giết cha giết mẹ. Người có ḷng lo cho thế
đạo nhân tâm trông thấy hiện tượng ấy
sợ đạo làm người gần như bị
diệt mất, đua nhau lập cách cứu văn. Do vậy,
các xứ đều lập Tịnh Nghiệp Xă, Cư
Sĩ Lâm, đề xướng Phật học, nêu tỏ
nhân quả ba đời, chỉ rơ luân hồi trong lục
đạo, khiến cho hết thảy mọi người
đều giữ tám đức “hiếu, đễ, trung,
tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, hành tám sự “cách vật,
trí tri, thành ư, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh
thiên hạ”, ắt sẽ ngăn giận, chặn dục,
dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều lành để thành
người hiền, người thiện trong thế gian,
phát Bồ Đề tâm, tự hành, dạy người, tín
nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương.
Để đến khi lâm chung sẽ được
Phật tiếp dẫn, văng sanh Tây Phương, trở
thành thượng thiện nhân xuất thế gian.
Đấy là đại ư v́ sao các xứ lập Tịnh
Nghiệp Xă.
Từ xa xưa, Ôn Châu là cuộc đất Phật giáo hưng thịnh. Trước kia đă có Ngô Bích Hoa cực lực đề xướng; do vậy, Lạc Thanh, Hồng Kiều đă thiết lập Cư Sĩ Lâm. Nay Ngô Trí Hinh, Lâm Trí Minh tập hợp các tín sĩ, lập ra một Tịnh Nghiệp Xă ở huyện thành để mong chuyển đổi ḷng người, giúp đỡ cho nền chánh trị của nước nhà, họ rất sợ kẻ chưa am hiểu Phật lư sẽ không thể nào hiểu rơ được lợi ích rộng lớn sâu xa ấy nên đặc biệt xin Quang soạn bài kư nêu tỏ ư nghĩa ấy ngơ hầu ai nấy đều có thể thật sự đích thân chứng được diệu đạo sẵn có ở ngay nơi cái tâm. Đối với sự kiến lập [Tịnh Nghiệp Xă] và sự tu tŕ [trong liên xă ấy] th́ đă có người ghi chép riêng nên ở đây tôi không viết cặn kẽ! (Đầu Thu năm Quư Dậu, tức năm Dân Quốc 22 - 1933)
28. Duyên khởi của phân xă
Đường Áp thuộc Nam Thông Phật Giáo Cư Sĩ
Lâm
Đức
Đại Giác Thế Tôn… (cho đến) Đấy là đại ư v́ sao các
xứ lập Tịnh Nghiệp Xă (Hoàn toàn giống
với bài duyên khởi của Lạc Thanh Phật Giáo
Tịnh Nghiệp Xă). Giang Tô là
nơi Phật pháp được khởi xướng
đầu tiên ở phương Nam. Nam Thông rất gần
Tô Châu vốn xưa kia là chỗ “nhà
nhà Quán Thế Âm, chốn chốn Di Đà Phật”.
Cuối đời Thanh, vận nước ngày một suy,
pháp vận cũng suy theo đến nỗi tiếng
tụng kinh, giọng niệm Phật hiệu gần
như im bặt. Gần đây cơi đời loạn
lạc đến cùng cực, dân không lẽ sống.
Những ai có ḷng đều đề xướng Phật
học. Nơi nơi đều lập ra Cư Sĩ Lâm,
Tịnh Nghiệp Xă v.v…. được lập ra đông
đảo như rừng.
Cư sĩ Trần Huệ Cung nhóm họp mấy chục người cùng chí hướng thành lập Cư Sĩ Lâm tại Đường Áp, mỗi Chủ Nhật hằng tháng phàm những lâm hữu đă gia nhập hội và những thiện tín tùy hỷ đều cùng đến niệm Phật một lượt. Hễ rảnh rang th́ bèn thừa dịp thuận tiện diễn nói phương pháp tu tŕ và lợi ích của pháp môn Tịnh Độ, cũng như nhân quả ba đời, lục đạo, luân hồi, Tam Cương, Ngũ Thường, Thập Thiện, Bát Đức, để hết thảy chúng sanh đều cùng biết đạo dẹp loạn nhằm đạt b́nh trị và pháp siêu phàm nhập thánh, ngơ hầu chẳng đến nỗi uổng sẵn đủ Phật tánh có thể làm Phật mà vĩnh viễn luân hồi trong tam đồ lục đạo suốt kiếp, chẳng thể hưởng dùng được. Các lâm hữu xin chỉ dạy cương yếu; do vậy, tôi lược thuật những nét chánh yếu trong pháp môn Tịnh Độ và duyên khởi thành lập Cư Sĩ Lâm. Nguyện người thấy nghe đều cùng chú ư, được như vậy th́ sẽ chẳng uổng cuộc sống này, chẳng phí dịp gặp gỡ này, sẽ noi dấu các bậc thánh đời trước trọn chẳng áy náy ǵ (Đầu Hạ năm Giáp Tuất - 1934)
29. Duyên khởi của Nam Kinh Phật
Giáo Tịnh Nghiệp Xă
Đức
Đại Giác Thế Tôn… (cho đến) Đấy là đại ư v́ sao các
xứ lập Tịnh Nghiệp Xă (Hoàn toàn giống
với bài duyên khởi của Lạc Thanh Phật Giáo
Tịnh Nghiệp Xă). Nam Kinh là
cuộc đất Phật giáo hưng thịnh từ
thời cổ, nay lại được lập làm Thủ
Đô. Phàm những bậc vĩ nhân, kiệt sĩ, học
rộng, trí sâu đều tụ họp về đây. Không
có tịnh xă sẽ chẳng dễ tu thật hạnh ḥng
chứng tịnh quả. Hơn nữa, năm phương
cùng tụ lại một chỗ, rắn - rồng hỗn
tạp, nếu không có tịnh xă th́ làm sao thoát khỏi hang
tối để vượt lên cây cao chót vót.
Do vậy, các vị cư sĩ Dương Tiên Phân, Ngụy Ngưỡng Sơn v.v… vào những lúc công việc rảnh rỗi đă suất lănh những người cùng chí hướng tu tŕ Tịnh nghiệp. Do những người nghe tiếng liền tùy hỷ đông đảo, nên tạm thời thuê Diệu Phong Am để làm cơ sở. Lại sợ những người thấy nghe và xă hữu chẳng biết lợi ích của pháp môn bèn cậy Quang viết duyên khởi nhằm nêu rơ cái đạo sẵn có ngay trong cái tâm này, pháp tu chân ngay trong cơi tục, cũng như lợi ích do dùng chính niệm Phật để bảo vệ đất nước, do ngầm tu mà giúp đỡ cơi đời [khiến cho những ai thấy nghe] đều được biết rơ! (Cuối Hạ năm Ất Hợi, tức năm Dân Quốc 24 - 1935)
30. Duyên khởi của Hỗ Tây Niệm
Phật Xă
Đức
Đại Giác Thế Tôn điều ngự chúng sanh tùy
cơ thuyết pháp, tuy Đại, Tiểu, Thiên, Viên
bất đồng, dẫu Quyền, Thật, Đốn,
Tiệm mỗi pháp mỗi khác, nhưng đều là
muốn làm cho chúng sanh đích thân chứng được
Chân Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tự tâm mà thôi.
Nhưng Phật tánh ấy sẵn có trong cái tâm, chứ
chẳng phải là vật từ bên ngoài đến, như
lấy của báu trong nhà sẽ được thụ
dụng ngay trong hiện tại. Do vậy, chứng
Phật Tánh ấy là chuyện cực dễ dàng! Hiềm
rằng chúng sanh ở trong sanh tử đă lâu, mê hoặc
rất sâu. Ví như gương báu bị bụi phủ
cả kiếp, muốn khôi phục bản thể quang minh
chiếu trời soi đất của nó cố nhiên
chẳng thể đổ công lau chùi một hai ngày sẽ
liền đạt ngay được! Đức Như
Lai bi tâm chân thật, thiết tha, biết chúng sanh đích
thân chứng đắc bằng tự lực sẽ khó
khăn; dẫu có tu tŕ nhưng v́ chưa đoạn
Phiền Hoặc, hễ thọ sanh lần nữa sẽ
chẳng khỏi lại mê! Từ đấy kẻ
đọa lạc th́ đông, người siêu thăng ít
ỏi. Do vậy, đặc biệt mở ra pháp môn Tín
Nguyện Niệm Phật để những vị đă
chứng Pháp Thân sẽ mau thành Phật đạo, kẻ
chưa đoạn Phiền Hoặc cũng thoát khỏi
luân hồi.
So với những
kẻ chỉ cậy vào tự lực tu Giới -
Định - Huệ ḥng liễu sanh thoát tử, siêu phàm
nhập thánh th́ sự khó - dễ khác biệt vời
vợi một trời một vực! Bởi lẽ,
một đằng chuyên cậy vào tự lực, một
đằng kiêm nhờ vào Phật lực. Ví như gă teo
chân suốt ngày chỉ đi được mấy
dặm, nhưng nếu cưỡi luân bảo của
Chuyển Luân Thánh Vương trong một ngày sẽ
đến khắp bốn châu. V́ thế, pháp này
được chín giới cùng hướng về,
mười phương chung xưng tán, ngàn kinh cùng xiển
dương, muôn luận đều tuyên nói. Do vậy, pháp
này là pháp môn tổng tŕ thành thủy thành chung để
mười phương ba đời hết thảy
chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa
độ chúng sanh. Xét từ khi đại giáo truyền
sang phương Đông, Viễn công sáng lập Liên Xă
đầu tiên, đương thời có đến
một trăm hai mươi ba vị cao tăng,
đại nho tham dự. Từ đấy trở đi,
tất cả Luật, Giáo, Thiền, Mật, không ai
chẳng lấy cầu sanh Tịnh Độ để làm
bước cuối cùng nhằm trở về cội, quay
lại nguồn. Bởi thế, gió sen thổi khắp trong
ngoài nước, pháp lợi trọn khắp xưa - nay!
Gần đây ḷng
người kém xưa, vứt bỏ gốc, đuổi
theo ngọn, gió Âu dần dần thổi sang phương
Đông, đua nhau đề cao duy tân, phế kinh điển,
phế luân thường, phế bỏ ḷng hiếu, vứt
bỏ ḷng thẹn, hùa nhau đề xướng những
ác hạnh giết cha, giết mẹ v.v… Người có ḷng
lo cho thế đạo nhân tâm trông thấy hiện
tượng ấy, sợ đạo làm người
gần như bị diệt mất, đua nhau lập cách
cứu văn. Do vậy, các xứ lập Tịnh Nghiệp Xă,
Cư Sĩ Lâm, Niệm Phật Xă ḥng đề xướng
Phật pháp, tỏ rơ nhân quả ba đời, chỉ ra
luân hồi trong lục đạo, nêu bày Phật tánh chân
thường, khen ngợi Tịnh Độ cao siêu, thù
thắng, khiến cho hết thảy mọi người
giữ ǵn tám đức “hiếu, đễ, trung, tín,
lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, hành tám sự “cách vật, trí
tri, thành ư, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh
thiên hạ”, ắt sẽ ngăn giận, chặn dục,
dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các
điều ác, vâng giữ các điều lành để thành
hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, phát Bồ
Đề tâm, tự hành, dạy người, tín nguyện
niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, để
đến khi lâm chung, Phật và thánh chúng đích thân rủ
ḷng tiếp dẫn ḥng được văng sanh, trở thành
bậc thượng thiện nhân xuất thế gian.
Đấy chính là ư nghĩa lớn lao của việc các
nơi lập xă, dựng lâm vậy.
Vùng Hỗ Độc (Thượng
Hải) là vùng đất Phật giáo hưng thịnh
từ thời cổ, nay trở thành bến cảng thông
thương lớn nhất. Trong năm Dân Quốc thứ
mười (1921), đă do các vị cư sĩ như
Vương Nhất Đ́nh v.v… sáng lập Phật Giáo
Tịnh Nghiệp Xă, Phật Giáo Cư Sĩ Lâm, ước
định chương tŕnh quy củ, chú trọng tu tŕ
thực tiễn, nhưng một giải phía tây đất
Hỗ vẫn c̣n thiếu khuyết. Nhờ các vị cư
sĩ như Kiều Tuân Như, Kim Thiện Sanh v.v… sáng
lập Niệm Phật Xă tại miếu Điện
Tử thuộc trấn Tào Hành. Ngày Mồng Một mỗi
tháng, suất lănh những người cùng chí hướng
kiền thành tŕ niệm thánh hiệu, hồi hướng
Tây Phương, c̣n kèm thêm diễn thuyết lợi ích tu
tŕ. Họ sợ người thấy nghe và những người
tham dự liên xă chưa biết nguyên do, bèn cậy Quang
soạn lời duyên khởi, do vậy tôi bèn thuật
đại ư.
Cần biết rằng: Những hạnh như vừa nói trên đây chính là do niệm Phật mà hộ quốc, tuy ngầm tu mà phù tá cơi đời. Những kẻ câu nệ hẹp ḥi do không có trí nhăn, cho là Phật giáo diệt luân lư, vô ích cho con người, cho đất nước! Như vậy th́ có khác ǵ kẻ mù từ lúc mới lọt ḷng, tuy được hưởng ân che chở, chiếu soi của mặt trời, được làm người, nhưng v́ chẳng thấy bèn bảo là không có! Há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? (Đầu Đông năm Bính Tư, tức năm Dân Quốc 25 - 1936)
31. Duyên khởi của Phổ Tế Liên
Xă thuộc Quán Âm Am, Hoài An
Đức
Đại Giác Thế Tôn… (cho đến) Đấy là đại ư v́ sao các
xứ lập Tịnh Nghiệp Xă (Hoàn toàn giống
với bài duyên khởi của Lạc Thanh Phật Giáo
Tịnh Nghiệp Xă). Xưa kia, Hoài
An cũng là vùng đất Phật giáo hưng thịnh. Sau
này bèn lặng ngắt không nghe nói tới nữa. Gần
đây, phong tục trong cơi đời ngày một đi
xuống, những vị có ḷng lo cho con người bèn cùng
nhau đứng lên cứu văn. Do vậy, tại Quán Âm Am
trong thành đă lập ra Phổ Tế Liên Xă để mong
sao ai nấy đều sốt sắng giữ luân
thường, chánh lư, tu tŕ pháp môn Tịnh Độ.
Trụ Tŕ là ngài Vô Vi cũng sẵn tâm cứu vớt
rộng khắp sâu xa. Tăng - tục cũng một ḷng
cùng hoằng dương sự giáo hóa của đức
Phật.
Có ông Dương Bội Văn b́nh sinh theo đuổi Nho học, nhưng chẳng biết đức Phật là người như thế nào. Do đứa cháu nội chưa đầy năm đă chết, hết sức đau buồn, tiếc nuối. Cư sĩ X… khuyên tham dự liên xă niệm Phật, và đọc các kinh sách Tịnh Độ, ông ta liền tinh tấn thường niệm. Chưa đầy ba tháng, từ hoa đèn[3] trước bàn thờ Phật kết thành một đóa sen, trong ấy có xá-lợi to bằng hạt kê, có màu như màu ngọc Phỉ Thúy. Đấy là do ḷng tinh thành của ông ta cảm vời cho nên Phật hiện ra tướng lành ấy để ḷng tin của mọi người được vững chắc. Nguyện những ai đọc bài văn này sẽ cùng sanh ḷng chánh tín, đều cùng chăm chú tu tập thật sự th́ trong hiện tại sẽ tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ, cao dự vào bậc thánh hiền, lâm chung được Phật từ bi đích thân rủ ḷng tiếp dẫn, cao đăng cơi Cực Lạc. Chỉ nguyện những người cùng hàng ai nấy đều cố gắng (Ngày Đông Chí năm Quư Dậu, tức năm Dân Quốc 22 - 1933)
32. Duyên khởi của Tĩnh Giang
Phật Giáo Cư Sĩ Lâm
Trong thánh
giáo của Như Lai có vô lượng pháp môn. Y theo bất
cứ một pháp nào, dùng tâm Bồ Đề để tu
th́ sẽ đều có thể liễu sanh thoát tử, thành
Phật đạo; nhưng khi đang tu c̣n chưa
chứng th́ không ǵ là chẳng khó - dễ, nhanh - chậm khác
biệt! Cầu lấy một pháp chí viên, chí đốn,
đơn giản nhất, dễ dàng nhất, vừa
khế lư lẫn khế cơ, vừa là tu, vừa là tánh,
thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp lợi căn
lẫn độn căn, là chỗ quy túc của các tông
Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường
tắt cho trời - người, phàm - thánh chứng chân th́
không ǵ bằng một pháp “tín nguyện niệm Phật
cầu sanh Tây Phương”! Ấy là v́ hết thảy pháp
môn đều phải cậy vào tự lực, c̣n pháp môn
Niệm Phật kiêm cậy vào Phật lực. Cậy vào
tự lực mà chưa đoạn sạch Phiền
Hoặc sẽ chẳng thể vượt khỏi tam
giới. Cậy vào Phật lực th́ nếu tín nguyện
chân thật, thiết tha sẽ liền có thể cao
đăng chín phẩm sen. Con người hiện thời
muốn giải quyết xong đại sự sanh tử
ngay trong đời này mà bỏ pháp này th́ sẽ trọn
chẳng có hy vọng ǵ hết!
Cần biết
rằng: Pháp môn Tịnh Độ pháp nào cũng viên thông,
như mặt trăng sáng vằng vặc giữa trời,
ḍng sông nào cũng hiện bóng; thủy ngân rớt xuống
đất, hạt nào cũng đều tṛn xoe. Chẳng
những có lợi ích lớn lao cho cách vật, trí tri, cùng
lư, tận tánh, giác thế, yên dân, trị quốc, an bang, mà
ngay cả sĩ, nông, công, thương muốn phát triển
sự nghiệp, già, trẻ, trai, gái muốn tiêu diệt
bệnh tật khổ sở, không ai chẳng vừa
cảm liền ứng, thỏa ḷng, măn nguyện.
Hiện thời, ḷng
người yếu hèn, ch́m đắm, đời đă
loạn đến tột cùng, phế kinh điển,
phế luân thường, phế hiếu, vứt thẹn,
đủ mọi thứ tà thuyết bạo hành nhằm
thực hành cầm thú hóa [con người] được
cực lực đề xướng. Nếu chẳng
cứu văn th́ đạo làm người sẽ gần
như bị dứt mất. Do vậy, những vị
hữu tâm các xứ cùng nhau đứng dậy đề
xướng Phật pháp, giảng rơ nhân quả ba
đời, nêu rơ lục đạo luân hồi, chỉ ra Sa
Bà trược ác, nêu bày Cực Lạc nghiêm tịnh
nhằm mong người trong cơi đời này sẽ
đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính
ḿnh, khôi phục lễ nghĩa, sống th́ dự vào
bậc thánh hiền, liễu sanh thoát tử, chết sẽ
về cơi Cực Lạc.
Các
vị cư sĩ Ân Đức Tăng, Châu Huệ Siêu,
Hoàng Huệ Chân v.v… ở Tĩnh Giang là những bậc thân
sĩ trong ấp đă lập ra Phật Giáo Cư Sĩ Lâm
ở huyện thành. Mồng Một, ngày Rằm mỗi tháng
và những ngày vía Phật Bồ Tát, nhóm họp mọi
người niệm Phật. Buổi chiều sau khi
niệm Phật xong, thỉnh những vị Tăng hay
tục thông văn lư, diễn thuyết đường
lối “học đạo ngay
trong cơi trần, sống ở rẫy bái mà bảo vệ
đất nước, giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng
thành” và pháp “thật sự
v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm
Phật cầu sanh Tây Phương ngơ hầu khắp
mọi người cùng hàng đều vượt thoát biển
khổ” khiến cho hết thảy mọi người
đều biết nguyên do “ai cũng có thể là Nghiêu -
Thuấn, ai nấy đều có thể thành Phật”,
thực hành tám đức “hiếu, đễ, trung, tín,
lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, tận lực thực
hiện rốt ráo tám sự “cách vật, trí tri, thành ư, chánh
tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ” th́
trong hết thảy thời, hết thảy chỗ sẽ
đều chú trọng mong thành thánh học Phật.
Đấy thật sự là pháp môn đại phương
tiện “chẳng giữ địa vị ǵ mà lại
bảo vệ đất nước, cứu dân, thay
đổi phong tục nhưng chẳng để lộ
dấu vết” vậy.
Lâm hữu đều cho rằng Cư Sĩ Lâm đă thành lập, hăy nên đem ư nghĩa lớn lao này bảo khắp những người thông sáng t́m đến [Cư Sĩ Lâm] ngơ hầu dù thấy hay nghe đều phát tín tâm, cùng hoằng dương đạo này th́ thiên hạ sẽ có thể tự thái b́nh, nhân dân yên vui. Họ gởi thư cho Bất Huệ xin viết lời tựa [nêu duyên khởi], tôi bèn viết bài này cho xong trách nhiệm! (Cuối Thu năm Ất Măo, tức năm Dân Quốc 28 - 1939)
33. Duyên khởi của Cao Đông
Phật Học Liên Xă
Pháp môn
Tịnh Độ lớn lao không ǵ ra ngoài, là chỗ quy túc
của Phật pháp mà cũng là nguồn cội của pháp
thế gian. Ước theo Tục Đế để
luận th́ chẳng hạn như tám đức “hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, tám sự
“cách vật, trí tri, thành ư, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị
quốc, b́nh thiên hạ” hễ ĺa khỏi pháp này th́
chẳng thể nào rốt ráo viên măn được!
Ước theo Chân Đế để luận th́ chẳng
hạn như diệu đạo “đoạn Hoặc,
chứng Chân, siêu phàm nhập thánh”, chân tâm “mảy trần
chẳng lập, vạn đức trọn đủ” mà
ĺa pháp này th́ không thể nào đích thân chứng ngay
được! Huống hồ đang nhằm thời
Mạt Pháp, căn tánh con người kém cỏi, hèn tệ,
thế đạo ch́m đắm, phá tan hoang kỷ
cương, phế kinh điển, phế luân
thường, [thế giới] sắp biến thành nơi
chốn của loài cầm thú, cùng nhau phô diễn những
hành vi tham tàn, bạc ác, bất
hiếu[4]
giết cha, giết mẹ. Nếu chẳng lấy nhân quả
ba đời, sự lư lục đạo luân hồi và pháp
môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương
để cứu văn th́ đạo làm người gần
như bị diệt mất! Do vậy những
người có tâm lo cho thế đạo, đua nhau
đứng ra duy tŕ.
Các vị thiện
sĩ ở bến Đông Song huyện Như Cao lập ra
Phật Học Liên Xă trong điện thờ Hỏa Tinh
(thần lửa) đă bỏ hoang, đề xướng
các pháp thế gian như giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng
thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các
điều lành để lập cơ sở sâu xa cho ḷng
mong mỏi thành thánh thành hiền và pháp xuất thế gian
“thật sự v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín
nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương”
nhằm mong thật sự chứng được liễu
sanh thoát tử, khiến cho người đời
đều cùng biết ai nấy sẵn có Phật tánh,
đều cùng đau đáu v́ đă “mất niệm mà thành
cuồng” liền cùng bảo ban nhau đạo trọng
yếu để thoát khổ, cùng nghĩ “khắc chế ư
niệm để thành thánh”. Đạo
hiếu - đễ tu trong gia đ́nh, đạo niệm
Phật đầy khắp các nẻo đường.
Sĩ, nông, công,
thương đều chẳng bỏ nghề nghiệp
của chính ḿnh, nhưng tâm con người dần dần
biến thành tâm Phật. Già, trẻ, trai, gái ai nấy
cũng đều tận hết thiên chức th́
đời loạn sẽ biến thành đời b́nh
trị nào có khó khăn chi? Cội gốc bồi
đắp đă sâu, cành nhánh sẽ tự vươn dài,
rậm rạp. Quân tử chú
trọng nơi cái gốc, gốc đă lập, đạo
bèn sanh. Muốn cho tiếng tăm gia đ́nh
được rạng rỡ, con cháu hiền thiện,
vận nước tốt đẹp, hưng thịnh, nhân
tài dấy lên đông đảo th́ ai nấy hăy nên dốc
ḷng nơi những điều này. Các phương pháp nghiên
cứu, tu tŕ th́ đă có những trước thuật
xưa - nay; ở đây tôi chỉ đặc biệt nêu
bày đại lược nguyên do mà thôi!
34. Duyên khởi của Phật Giáo
Tịnh Nghiệp Liên Xă tại Viên Gia Miếu thuộc
Dư Đông, Nam Thông
Phật pháp là mặt trời trí huệ trong đêm dài, là gạo thóc trong đời đói kém, là người dẫn đường nơi đường hiểm, là thuyền Từ trong biển khổ. Gần đây ḷng người suy hăm, ch́m đắm, đua nhau toan tính những chuyện kỳ quái. Phàm những cương thường luân lư do bậc thánh nhân đă lập vào thời cổ đều muốn xô đổ, rốt cuộc trở thành t́nh thế vô pháp vô thiên, phất cao ngọn cờ biến con người thành cầm thú, đem những tà thuyết ấy dụ dỗ những kẻ vô tri vô thức phóng túng làm càn, trọn chẳng kiêng nể, ràng buộc ǵ! Chẳng biết đă tự diệt tuyệt nhân loại, vĩnh viễn thường đọa trong ác đạo. Tánh t́nh con người như thế, nếu chẳng lập cách cứu văn th́ t́nh cảnh mai sau sẽ chẳng thể nào tưởng tượng được! V́ vậy, những vị có trí bèn hùa nhau đề xướng Phật học để mong ai nấy do biết sự lư nhân quả ba đời và luân hồi trong lục đạo sẽ gắng sức làm lành, chẳng dám làm ác, khi c̣n sống sẽ là học tṛ của bậc thánh bậc hiền. Lại c̣n dạy họ tu pháp môn “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” để họ cậy vào Phật từ lực, vượt khỏi đời ác trược này, được dự vào Liên Tŕ hải hội.
V́ thế, các vị
thiện sĩ Thịnh Trung Phủ, Giang Cảnh Xuân v.v…
ở Dư Đông và Trụ Tŕ của ngôi miếu nơi
ấy là đại sư Từ Huy tổ chức Dư
Đông Tịnh Nghiệp Xă để đề
xướng ngơ hầu hết thảy mọi người
đều biết Phật pháp, chẳng chỉ xiển
minh diệu lư “duy tâm tự tánh” mà c̣n [xiển minh] nghĩa
sâu nhân quả luân hồi. Ngay cả đối với
cương thường luân lư, [Phật giáo xiển
dương] c̣n thân thiết hơn Nho Giáo. V́ thế,
gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh kính, em nhường,
chồng ḥa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung
thành, ai nấy đều trọn hết thiên chức
của chính ḿnh; lại c̣n phụ trợ bằng thuyết
nhân quả, báo ứng, sanh tử luân hồi. Dẫu là
kẻ ương bướng, kém hèn cùng cực th́
cuồng tâm cũng sẽ bớt đi đôi chút, tuân hành
chánh đạo để mong chẳng chuốc lấy ác
quả, sẽ hưởng thiện quả; huống
hồ những pháp đoạn Hoặc chứng Chân ư?
Cần biết
rằng: Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng, hễ tu
[bất cứ một pháp môn nào] đến cùng cực
cũng đều có thể liễu sanh thoát tử;
nhưng để có thể quyết định liễu
sanh thoát tử ngay trong đời này th́ chỉ có một
môn Tịnh Độ! Những pháp môn khác dẫu [tu tập
suốt] nhiều đời nhiều kiếp vẫn
chưa chắc chắn đă liễu sanh thoát tử
được! Bởi lẽ, hết thảy các pháp môn
đều cậy vào tự lực, c̣n pháp môn Niệm
Phật hoàn toàn cậy vào Phật lực và kiêm thêm tự
lực. Do cậy vào Phật lực nên dễ hơn
cậy vào tự lực trăm ngàn Hằng hà sa lần.
Lại c̣n phải nên biết rằng: Pháp môn Niệm
Phật thật sự là pháp môn tổng tŕ thành thủy
thành chung để mười phương ba đời
hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo,
dưới hóa độ chúng sanh. Do vậy chúng sanh trong
chín giới hễ ĺa pháp này th́ trên chẳng thể viên thành
Phật đạo, mười phương chư Phật
bỏ pháp này th́ dưới chẳng thể phổ
độ quần sanh. Nếu chẳng đă gieo thiện căn
từ đời trước, làm sao được nghe
tới pháp này?
Nghe mà chẳng tu,
hoặc tu mà không đắc lực th́ đáng đau
tiếc lắm thay! Đă tu tŕ lại c̣n tận lực
giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết
bổn phận của chính ḿnh, đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều lành, kiêng giết,
bảo vệ sanh mạng, giúp đỡ người nghèo,
cứu vớt kẻ khốn khó, tận tụy thực
hành, lấy thân làm gương, giữ tấm ḷng tốt,
nói lời tốt lành, làm việc tốt lành th́ sống
sẽ có tiếng tăm, mất lên cơi Phật, tấn tu
dần dần theo thứ tự cho đến khi thành
Phật mới ḥng chẳng phụ chính ḿnh vốn sẵn
có Phật tánh trong cái tâm này và tấm ḷng đau đáu
thuyết pháp độ sanh của đức Như Lai.
Nếu ai nấy
đều được như thế th́ lẽ nào c̣n có
thói xấu xa “ngươi dối gạt, ta mắc lừa,
cạnh tranh tàn hại lẫn nhau”, lễ nghĩa, nhân
nhượng sẽ được hưng khởi, can qua
chấm dứt, nhân họa đă không c̣n, quyến thuộc
cơi trời sẽ thường giáng xuống, cơi đời
trở lại thuở Đường Ngu, con người
vui hưởng thái b́nh [sẽ chẳng trở thành hiện
thực] ư? Dẫu cho khắp cơi đời đều
chẳng thể làm được như thế th́ một
người làm được, chính người ấy
sẽ được hưởng lợi ích. Như từ
một truyền thành trăm, cho đến ngàn, đến
vạn, đến vô lượng vô biên, cũng chỉ do
người đề xướng, khuyên lơn, khích
lệ siêng năng hay lười biếng mà thôi!
Thế đạo
đang buổi suy hoại là do một hai kẻ phát
khởi đến nỗi bại hoại hết thuốc
chữa. Nay muốn cho thế đạo được tốt
đẹp, há có thể nào đă biết đến ư này mà
lại gác bỏ ra ngoài ư? V́ thế, “do đất mà ngă
th́ cũng do đất mà đứng dậy; rời
khỏi đất mà mong đứng dậy, quyết
chẳng có lẽ ấy!” Nguyện những ai nhập
hội và những ai thấy nghe đều cùng biết
nghĩa này th́ may mắn chi hơn! Đối với pháp
tắc tu tŕ Tịnh Độ th́ đă có các kinh luận
trước thuật của Tịnh tông, do vậy, tôi không
nêu tường tận ở đây, chỉ đặc
biệt nêu ra những nét chánh yếu mà thôi!
35. Duyên khởi của Nghi Hưng
Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xă
Phật
pháp là tâm pháp. Tâm pháp ấy ai nấy đều sẵn
đủ, không ai chẳng có; là gốc của hết
thảy các pháp thế gian hay xuất thế gian, chỉ
ḿnh đức Thích Ca Thế Tôn ta triệt ngộ,
triệt chứng. Do thương xót sâu xa chúng sanh mê
muội nên [đức Phật] tùy thuận căn cơ
của chúng sanh, giảng những pháp nói về tự tánh
của chính cái tâm này và Ngũ Giới, Thập Thiện,
Lục Độ, vạn hạnh, cũng như nhân
quả ba đời, luân hồi trong lục đạo,
cùng với tín nguyện niệm Phật vượt thoát tam
giới theo chiều ngang v.v…
[Phật pháp]
được truyền vào Trung Quốc từ thời
Đông Hán hai ngàn năm qua, vua, quan, vĩ nhân, bậc trí
huệ các đời phần nhiều đều sùng
phụng, tu tŕ, lưu thông rộng răi. Thử đọc
các sách vở, chỉ qua một chuyện tạo dựng
chùa tháp trong các đời, ta đă có thể h́nh dung
được Phật pháp trong thuở trước
hưng thịnh [như thế nào]! Từ cuối
đời Thanh đến nay, vận nước ngày
một suy, chiến tranh liên tiếp nổ ra, bậc
triết nhân mất đi, bọn tầm thường ngày
một đông đảo, tất cả tăng chúng
đại đa số đều chẳng tự chấn
chỉnh, hưng khởi, tự ruồng rẫy, tự
vứt bỏ, đến nỗi Phật pháp bại hoại
sát đất. Tăng chúng đă thiếu người
đề xướng; Nho sĩ trọn chưa hề
đọc kinh Phật, chẳng hề một lần thân
cận bậc cao tăng, chỉ vâng giữ những
lời lẽ cong vạy của gă Xương Lê (Hàn
Dũ), coi Phật pháp là dị đoan, hại đời,
hại đạo, đến nỗi những kẻ
tầm thường trong xă hội đồng thanh phụ
họa, trở thành hiện tượng xấu ác
“đuổi Tăng, chiếm
đoạt tài sản, hủy Phật, diệt pháp”,
đạo đức đắm ch́m, chôn vùi, cũng như
có lắm hành động trái nghịch, vượt phạm
vi [đạo đức] của Nho Giáo hết sức
bắng nhắng trong cơi trần.
Nếu hết thảy
mọi người ai nấy đều tuân thủ Ngũ
Giới, Thập Thiện, biết rơ sự lư nhân quả ba
đời và lục đạo luân hồi th́ lẽ đâu
có những hiện tượng c̣n thua cầm thú ấy!
Truy cứu đến cái gốc họa, chẳng thể
không quy tội cho những lời lẽ cong vẹo của
gă Xương Lê! Lại có những kẻ ngu phu ngu phụ
tuy có tâm chuộng điều lành, nhưng chẳng
được biết tới Phật pháp chân thật,
thường tưởng luyện đan vận khí là
Phật pháp. Tuy có ḷng tốt nhưng chỉ bồi
đắp được chút phước thế gian
hoặc lọt vào ma đạo, đáng cảm khái, than
thở sâu xa lắm thay! Do mỗi nơi có nhân duyên riêng
biệt mà có chỗ trước kia Phật pháp
được hưng khởi lớn lao rồi rốt
cuộc trọn chẳng c̣n tiếng tăm, dấu vết,
hoặc chỉ c̣n đôi chút h́nh tướng đến
nỗi đại đa số mọi người như
đang ở trong đêm dài chẳng thấy
được mặt trời; há có phải là Phật pháp
bất hạnh hay là lũ chúng ta đại bất
hạnh vậy?
Cần biết
rằng: Phật pháp chính là pháp tận lực giữ
vẹn luân thường, là pháp ngầm giúp đạt
đến b́nh trị tột bậc, là tin tưởng
một cách trí huệ, chẳng phải là mê tín, là tích
cực, chứ không phải tiêu cực, là cứu thế
chứ không phải yếm thế, là làm cho người
khác cùng được tốt lành chứ không chỉ
nhằm tốt lành cho riêng ḿnh, là hợp với nhân sanh
chứ không phải trái nghịch nhân sanh. Do người
đời chẳng biết chân tướng của
Phật pháp nên đến nỗi đối với pháp có
ích lớn lao cho quốc gia, xă hội cũng như hữu
ích cho thân tâm, tánh mạng của mỗi người này,
lại gán cho đủ mọi cái tên xấu xa để
chê bai, bài xích, khiến tự lầm, lầm người,
chẳng đáng buồn ư? Tri kiến của những
kẻ cùng hàng thật nông cạn. Lúc thoạt đầu do
chưa từng nghiên cứu nên cũng ôm giữ những
thứ tri kiến như trên. Nếu hơi nghiên cứu
một chút th́ mới biết vua, quan, vĩ nhân, bậc trí
trong các đời đều phụng hành, tu tŕ, lưu
truyền rộng răi ngơ hầu có thể thấu hiểu
tận cùng chân lư trong vũ trụ, giải quyết
được nguyên do của nhân sanh, cải cách
được lề thói xă hội, củng cố nền
tảng nước nhà, thúc đẩy nền văn minh
trên thế giới, hiểu rơ trọn khắp cội
nguồn của các pháp.
Than ôi! Thế giới
ngày nay chẳng phải là một thế giới đáng
sợ hăi lớn lao ư? Trung Quốc ngày nay chẳng
phải là Trung Quốc đang theo kiểu mẫu
địa ngục ư? Ḷng người ngày nay chẳng
phải là ḷng người theo lề thói ma thuật ư?
Chúng ta ở trong hoàn cảnh hiểm ác này, nếu chẳng
cực lực đề xướng Ngũ Giới,
Thập Thiện, giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, tỏ rơ sự lư luân hồi
lục đạo do đức Phật đă nói th́ con
người sẽ chẳng khác ǵ cầm thú! Dùng những
điều này để tụ tập những
người cùng chí hướng, tùy phần, tùy sức
đề xướng tu tŕ. Nhưng trong Phật pháp, pháp
môn vô lượng, chỉ có một pháp “dốc ḷng tu
điều lành thế gian, tín nguyện niệm Phật
cầu sanh Tây Phương” là thiết yếu nhất, là
phổ thông nhất, thực hiện dễ nhất mà lại
đạt thành tựu dễ nhất. Ấy là v́ nếu
chẳng giữ vẹn luân thường, trọn hết
bổn phận th́ c̣n là tội nhân trong thế gian, làm sao
mong được Phật gia hộ? Nếu chẳng
niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ai có thể
đoạn sạch Phiền Hoặc, liễu sanh thoát
tử ngay trong đời này?
Do vậy, đức
Phật ta nghĩ thương những kẻ chẳng
thể nhanh chóng đoạn Phiền Hoặc, đặc
biệt nói ra pháp “cậy vào Phật từ lực
để liễu sanh tử” này ngơ hầu hết thảy
dù phàm hay thánh đều cùng có thể hoàn tất
[đạo nghiệp] ngay trong đời này. Viễn công đại
sư đời Tấn tận lực hoằng
dương pháp này. Từ đời Tấn tới nay,
hơn một ngàn năm trăm năm, những bậc cao
nhân Tăng - tục kế tiếp nhau hoằng
dương. Cho đến ngày nay chúng ta đều cùng
được Văn Huân tu tŕ, may mắn chi hơn?
36. Duyên khởi của Huệ Tế
Cư Duyệt Kinh Thất
Phật pháp chính là pháp chung của
hết thảy tứ thánh lục phàm trong mười pháp
giới, không ai chẳng nên học, mà cũng không một ai
chẳng thể học được v́ Phật pháp chính
là tâm pháp. Con người ai không có tâm? Nhưng ai là kẻ
nhận biết cái tâm? Trong cơi đời cố nhiên
chẳng thiếu kẻ thông minh, thấu hiểu rộng
răi, nhưng do họ chuyên chú trọng rong ruổi t́m
cầu bên ngoài, chẳng biết xoay lại chiếu soi bên
trong, dẫu suốt ngày sử dụng cái tâm, suốt ngày
nói tới cái tâm, nhưng rốt cuộc chẳng biết
tâm là vật ǵ! V́ sao vậy? Do chỉ có tri thức
biện định sự vật, chứ trọn chẳng
có trí huệ thấu hiểu tận cùng tâm tánh. Thiên hạ
ngày nay đă loạn lạc đến tận cùng, phế
kinh điển, phế luân thường, bỏ ḷng
hiếu, vứt ḷng thẹn, đúng là muốn cho con
người trong khắp cả cơi đời trọn
chẳng khác ǵ các loài cầm thú mới thôi! Ôi, đáng than
thay!
Xét kỹ nguyên do b́nh
trị hay loạn lạc từ xưa đến nay, không
lúc nào chẳng lấy gia đ́nh làm căn cứ. Nếu
mọi người dân đều dốc ḷng hành hiếu -
hữu, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính
ḿnh, biết nhân, rơ quả, sửa ác, hướng lành,
như vậy th́ cơi đời nào chẳng b́nh trị, gia
đ́nh nào chẳng được hưng thịnh, có khi
nào nhân tài chẳng dấy lên đông đảo, có lẽ
đâu thiên hạ chẳng hưởng thái b́nh ư?
Hiện thời, thiên tai nhân họa liên tiếp xảy ra
đều là v́ những gă theo Lư Học đả phá, bài
xích nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi, khiến
cho bậc thượng chẳng gắng sức, biếng
làm lành, bậc hạ không có ǵ để kiêng sợ, dám làm
chuyện ác! Kéo dài đă lâu gần như đă tan nát,
đến khi gió Âu vừa thổi đến th́ cái
đạo làm người hầu như chấm dứt.
Xét đến cội nguồn chính là v́ bọn Lư Học bàn
xuông lư tánh, vứt bỏ nhân quả mà ra! Học thuyết
gây lầm lạc đến mức như thế,
chẳng đáng sợ hay sao?
Nay muốn văn hồi
thế đạo nhân tâm để thiên hạ thái b́nh, nhân
dân yên vui mà bỏ đạo “tu chân ngay trong cơi tục,
hiểu nhân rơ quả” của đức Như Lai th́ làm sao
yên được? Ấy là v́ đức Như Lai gặp
cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính,
chồng ḥa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung
thành, đối với mỗi người đều
dạy trọn hết chức phận của chính ḿnh th́
gia đ́nh hết sức ḥa thuận, con người quen
thói lễ nghĩa, nhân nhượng. Tiến hơn
bước nữa là tu pháp môn Tịnh Độ th́ chính là
dùng pháp thế gian để tu pháp xuất thế gian,
chẳng ĺa những xử sự luân thường trong
hằng ngày mà vào thẳng biển pháp của Như Lai.
Dẫu cho căn cơ kém hèn cũng có thể cậy vào
Phật từ lực để được liễu
sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này.
Cư sĩ Ngô Huệ
Tế sau khi được nghe Phật pháp, buồn
thương sâu đậm v́ hết thảy những
người cùng hàng chưa được thấm gội
ân Phật giáo hóa. Do vậy, đặc biệt thỉnh các
loại sách Phật đơn giản, gần gũi
để tặng cho hàng sơ cơ nhằm mong họ
sẽ từ cạn mà tiến vào sâu, do học phép bậc
Hạ mà sẽ thấu đạt những pháp bậc
Thượng. Lại tính cất riêng một gian nhà ở
trong nhà của chính ḿnh, đề biển là Huệ Tế
Cư, tích tập các thiện thư chánh tri kiến và
những sách Phật khế lư khế cơ nhằm mong
những người cùng họ, cùng thôn đều cùng
được xem đọc, sẽ cùng sốt sắng
giữ vẹn hạnh hiếu hữu, cùng tu Tịnh
nghiệp, ngơ hầu khi sống sẽ dự vào bậc
thánh, bậc hiền, khi mất sẽ về cơi Cực
Lạc. Dụng tâm đáng gọi là khẩn thiết, châu
đáo, thiết tha!
Mong sao các thiện
sĩ đến đây xem kinh ai nấy đều sanh ḷng
cung kính, sanh ư tưởng khó gặp gỡ, đối
với những pháp nên vâng giữ ắt sẽ tận tụy
thực hành, đối với những điều nên kiêng
dè ắt sẽ đoạn trừ hết sạch. Do
vậy [những chuyện như] mong thành thánh thành
hiền, liễu sanh thoát tử, trong thân hiện tại
sẽ vĩnh viễn hưởng lắm phước, con
cháu được hưởng tốt lành lâu dài sẽ
đều đạt được. Ấy là v́ dùng chánh
trí huệ để tu hành đại đạo luân
thường của thế gian và diệu pháp Tịnh
Độ xuất thế gian viên đốn nhất,
giản tiện nhất. Do vậy, đối với thân,
đối với nhà, đối với mọi
người, đối với sanh tử đều giúp
đỡ trọn khắp. Ư nghĩa của [tên gọi]
Huệ Tế Cư là như vậy đấy, chứ
không phải ông ta xằng bậy dùng pháp danh của ḿnh
để đặt tên cho [duyệt kinh thất], muốn
cho người khác nhớ măi chẳng quên đâu nhé! V́
vậy, tôi nêu tỏ ư nghĩa ẩn kín này để
thưa cùng những bậc thông sáng mai sau! (Tháng Sáu mùa
Hạ năm Kỷ Tỵ, tức năm Dân Quốc 18 -
1929)
37. Lời tựa nhỏ cho một
trăm bài kệ ca ngợi A Di Đà Phật
Xưa
kia, ngài Triệt Ngộ thiền sư dùng các giáo nghĩa,
tông thừa viết ra một trăm bài kệ niệm
Phật, văn từ và nghĩa lư đều viên diệu
khiến người cho tâm mục của mọi
người được mở rộng. Bạn tôi là Ḥa
Thượng Dật Nhân (tức Ḥa Thượng Chân
Đạt) khi sưu tập các pháp ngữ Tịnh Độ
xưa nay để biên tập quyển Tây Phương Công
Cứ, lại căn cứ vào các nghĩa trọng yếu
trong nhân địa, quả vị của đức
Phật A Di Đà để soạn thành tất cả một
trăm bài tụng, [mỗi bài] bắt đầu bằng
câu A Di Đà Phật, ngơ hầu tạo lợi lạc cho
kẻ sơ cơ. Những bài tụng này khen ngợi
đức A Di Đà trong lúc tu nhân đă bỏ nước
xuất gia, phát ra bốn mươi tám nguyện ([trong
mỗi bài kệ] đối với hai câu kệ tiếp
theo [câu kệ] thuật bày mỗi nguyện đều
dựa theo cách đặt tên để phân chia khoa mục
các nguyện trong bộ Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa
Sớ của pháp sư Huệ Viễn, lấy mỗi
nguyện làm câu chủ yếu), tu
trọn Lục Độ, vạn hạnh cho đến khi
viên măn ba Giác, chứng được mười ba danh
hiệu[5].
Sau đấy, c̣n khen ngợi sơ lược về
sự trang nghiêm của cơi nước, ḷng Từ
độ khắp của đức Phật, lợi ích của
pháp môn Tịnh Độ. Dẫu văn từ nghĩa lư kém xa
[một trăm bài kệ niệm Phật của] ngài
Triệt Ngộ, nhưng những lời nguyện và danh
hiệu trong những bài tụng này rất có ích cho kẻ
sơ cơ dễ bề ghi nhớ. Nay tôi đem một
trăm bài kệ này in vào phía trong b́a sách và viết lời
tựa nhỏ để in trong ḷng sách ngơ hầu
người đọc biết được nguyên do
vậy.
38. Lời tựa nhỏ cho một
trăm bài kệ luận về Niệm Phật Già Đà
Giáo Nghĩa của thiền sư Triệt Ngộ
Triệt
Ngộ thiền sư thấu hiểu giáo nghĩa sâu xa,
triệt ngộ tông thừa. Tuổi già hướng ḷng
nơi Tịnh Độ, tự hành, dạy người,
một mực lấy tín nguyện niệm Phật cầu
sanh Tây Phương làm chủ yếu. Những điều
được Ngài nêu tỏ quả thật hiếm
thấy trong đời gần đây. Nay sao lục một
trăm bài kệ giáo nghĩa để tạo một
hướng dẫn tốt lành cho người tu Tịnh
nghiệp vậy!
39. Tiểu dẫn (lời dẫn
giải ngắn) về hai điều lợi ích do vẽ
tượng Phật
Quán Kinh
dạy: “Tâm này làm Phật, tâm
này là Phật”. Phàm nhớ Phật, niệm Phật, quán
Phật, lễ Phật, vẽ h́nh Phật đều
gọi là “làm Phật”. Do tâm nghĩ đến đức Phật
nên trong tâm liền hiện tướng hảo trang nghiêm,
công đức, oai thần của Phật. Cho nên nói: “Tâm này là Phật”. Kẻ làm
đệ tử Phật sao chẳng dốc sức nơi
đây? Trong những việc ấy, chỉ có vẽ h́nh
Phật lại càng thân thiết, bởi lẽ chẳng
dốc trọn hết tinh thần sẽ chẳng thể
diễn tả được tướng hảo, thái
độ trang nghiêm, từ bi được! Học tṛ tôi
là Lư Trọng Ḥa khá thích vẽ vời, vẽ khá đẹp.
Gần đây, ông ta quy y Tam Bảo, muốn chuyên vẽ h́nh
Phật để lợi ḿnh lẫn người. Hơn
nữa, do nhà nghèo chẳng thể tùy ư thực hiện các
công đức, v́ vậy bèn phát tâm vẽ h́nh Phật,
định giá cho người khác thỉnh. Đối
với món tiền trả công vẽ tranh ấy, ngoài
khoản chi phí dành cho giấy, bút, màu vẽ, hương,
đuốc ra, đều dùng để cúng dường
hết cho Tam Bảo và làm chuyện công ích, quyết
chẳng để dùng riêng cho chính ḿnh. Nếu dùng, sẽ
mắc tội ăn trộm đồ vật của Tam
Bảo cũng như tội khinh Phật, dối
người! Ông ta thực hiện như thế để
mong ḿnh lẫn người đều cùng gieo thiện
căn, cùng tiêu ác nghiệp, trong đời này phước
tăng, huệ rạng, khi báo thân đă hết bèn về
thẳng Tây Phương làm đệ tử Phật Di
Đà, làm bạn lành trong hải hội. Do vậy tôi bèn
viết Hai Điều Lợi Ích Do Vẽ H́nh Phật và
lược thuật đại ư vậy.
40.
Tiểu dẫn về việc quyên mộ để
kiến lập đạo tràng Siêu Độ Cô Hồn Tiêu
Tai Phật Thất ở Như Cao
Tam
giới không yên giống như nhà lửa, các nỗi
khổ đầy dẫy, thật đáng kinh sợ! Trong
hội Pháp Hoa, đức Như Lai đă sớm nói
đến điều này. Nỗi thảm đao binh trong
cơi đời gần đây quả thật từ ngàn
xưa chưa hề nghe tới. Phương cách giết
người không kiểu kỳ lạ nào chẳng có
đến nỗi vận nước nguy ngập, dân không
lẽ sống! Xét đến nguyên do đều là v́ chúng
sanh đang mê, chẳng hiểu Ngă Không, cho nên đối
với những cảnh nghịch hay thuận đều
khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm mà ra.
Nhưng với hai chuyện dâm và trộm th́ người
hiền dùng lễ để tự ngăn ngừa, kẻ
ngu do bị luật pháp khống chế [nên hai nghiệp
này] vẫn chẳng đến nỗi quá mức. Chỉ có
chuyện sát sanh ăn thịt là do quen thói nên thế
tục coi như chuyện đương nhiên, điềm
nhiên chẳng để ư tới, đến nỗi đây
- kia đời đời kiếp kiếp báo thù lẫn
nhau, ươm thành tai kiếp cực thảm như
thế này, chẳng đáng buồn sao?
Những người
cùng hàng sẵn tâm cứu thế, nhưng không có sức
để dứt tai kiếp, trộm thấy hết
thảy cô hồn bị sát thương bởi đao binh ôm
hờn nơi chín suối, lâu ngày ắt sẽ thành tai
ương dữ dội. Do vậy, sau những trận
chiến lớn, ắt sẽ có bệnh dịch và hung niên[6].
Nếu chẳng nương theo Phật pháp để
cầu siêu th́ chẳng những linh hồn thần thức
của người chết không chỗ nương về,
mà c̣n khiến cho kẻ sống đau ḷng, buốt gan!
Chắc là tật dịch, hung niên sẽ như nước
càng sâu, như lửa càng nóng! Nhưng trong Phật pháp, pháp
môn rộng lớn, vô lượng vô biên, chỉ có pháp môn Niệm
Phật thật là bậc nhất. Bởi lẽ,
đức Di Đà trong khi tu nhân đă phát thệ nguyện
to lớn: “Nếu có chúng sanh
nào tín nguyện niệm Phật, ta nhất định
sẽ rủ ḷng Từ tiếp dẫn khiến cho kẻ
ấy văng sanh Tây Phương”. Nay ước
định vào ngày… trong tháng… ở chỗ… sẽ mở
đạo tràng niệm Phật bảy ngày. Phàm những
vị thiện tín ai nấy đều nên phát Bồ Đề
tâm, đến niệm Phật trong hội để
cầu cho các cô hồn đều được siêu
thăng, tai chướng đều được tiêu
diệt. Nếu chẳng tiện đến th́ cũng nên
kiền thành niệm Phật tại nhà.
Nhưng phí tổn trong
bảy ngày để lo liệu tất cả những
thứ hương đèn, trái cây, thực phẩm cúng
Phật, trà, cơm, điểm tâm cho đại chúng,
hương, đèn, giấy vàng bạc cúng cô hồn sẽ
rất lớn, khẩn thiết mong hết thảy
những vị thiện tín ai nấy hăy tùy theo tâm lực mà
tán trợ để những vị đến tham dự
niệm Phật trong suốt bảy ngày được
nhờ vào tài lực do mọi người dốc hết ḷng
thành cúng dường sẽ chẳng phải nhọc
nhằn đến đi, rong ruổi t́m cầu [những
thứ cần dùng], sẽ nhất tâm bất loạn
niệm Phật, ngơ hầu những cô hồn
được cầu siêu ấy sẽ cậy vào Phật
lực về thẳng Tây Phương, cả ấp nơi
đất Như (Như Cao) sẽ được tiêu tai
chướng, hưởng măi những điều tốt
lành, tổ tông của mọi ḍng họ ở nơi tổ
chức [đạo tràng ấy] sẽ đều
được gởi thân nơi Liên Tŕ, tất cả chúng
sanh pháp giới sẽ đều được gá thần
thức nơi An Dưỡng. Trong thế giới sẽ
thấy Phật, trời che chở như mây nhóm,
điều phước ùa tới, thời thế an ḥa, mùa
màng sung túc, dân khỏe mạnh, vật sanh sôi nẩy
nở, chắc cảnh tượng Đại Đồng
trong thuở Đường Ngu sẽ được
thấy trong ngày nay. Chỉ mong ai nấy chẳng tiếc
tâm lực nghĩ nhớ, chẳng tiếc tài lực giúp
đỡ th́ lợi ích ấy sẽ chẳng thể nào diễn
tả được.
41. Lời tiểu dẫn cho Như Cao
Phật Học Hội
Chuyện
thế gian hay xuất thế gian hễ nếu sẵn
đủ nhiệt tâm và nghị lực th́ nhất
định không chuyện ǵ chẳng thành. Ông Đặng
Tử Phác trước kia từng quyên mộ xây dựng
đại điện chùa Pháp Vân ở Kim Lăng, lập
ra sổ quyên mộ bốn mươi tám nguyện,
đề tựa là “hữu
nguyện tất thành” (có nguyện ắt thành), lại
c̣n trần thuật đại ư. Không lâu sau, quả nhiên
những nguyện ấy được thỏa măn. Cụ
Lục Tây Lâm ở Tô Châu, tuổi ngoài tám mươi, tuy nhà
cửa chẳng giàu có lắm, vẫn khẳng khái
đảm nhiệm [quyên tặng] một nguyện,
liền giao trọn số tiền ngay lập tức,
quả thật đáng nêu gương để thành
tựu thiện cử (hành vi tốt lành) vậy. Nay
đọc chương tŕnh của Mă Đường
Phật Học Hội ở Như Cao và nghe nói những
người lo toan như cư sĩ Châu Quư v.v… đều
là những vị sốt sắng tu hành trong sạch,
lại c̣n tận lực mong giữ đúng lễ tiết.
Kinh phí cho mỗi năm chỉ cần năm trăm đồng.
Hiện thời tuy
người nhập hội mới chỉ được
mấy chục người, nhưng nếu kêu gọi
rộng răi hội viên th́ mỗi người bỏ ra hai
đồng th́ sẽ không c̣n phải lo âu ǵ! Huống chi
nghe nói c̣n có những người đóng góp tám đồng,
sáu đồng, bốn đồng ư? Mỗi một
nguyện xây dựng đại điện chùa Pháp Vân là hai
ngàn đồng mà c̣n được măn nguyện ngay,
huống chi là mấy đồng nhỏ nhoi này! Lại c̣n
có sổ sách tổng kết, báo cáo cuối năm
để tạo sự tin tưởng, ai chẳng thích
nhập hội để mong đích thân được
nhuần gội sự giáo hóa của đức Phật,
trong đời hiện tại làm người lành ba
nghiệp thanh tịnh, khi lâm chung sẽ là thánh chúng cao
đăng chín phẩm. Có nguyện ắt thành, tôi dám
bảo đảm với người sáng lập và tu tŕ
vậy!
III. Bi kư
1. Bi kư về việc tậu ruộng cho
Niệm Phật Đường chùa Bảo Khánh ở Ninh
Ba
(viết thay cho thầy Ích Châu)
Trộm
nghe đức Như Lai thuyết pháp chúng sanh đắc
độ, khó - dễ, chậm - nhanh khác biệt lớn
lao! Do vậy, viên âm vừa giảng, kẻ căn cơ
chín muồi liền chứng Bồ Đề. Một
trận mưa thấm khắp, kẻ tiểu căn chỉ
được tăng trưởng đôi chút. Do vậy,
rộng lập giáo pháp Đốn, Tiệm, Thiên, Viên
nhằm phù hợp căn cơ, mở toang môn Luật, Giáo,
Thiền, Mật ḥng lợi vật. Cầu lấy một
pháp “tâm này làm Phật, tâm này là
Phật, ngay từ trong cái niệm niệm Phật sẽ
thành Phật ngay trong cái niệm ấy, gom tam thừa
ngũ tánh cùng về cơi tịnh, hướng dẫn
thượng thánh hạ phàm cùng chứng chân thường,
chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà được
dự vào địa vị Bổ Xứ ngay trong một
đời này, lên thẳng Diệu Giác” th́ không chi thù
thắng, siêu tuyệt bằng pháp môn Tịnh Độ!
Thật có thể nói [pháp môn Tịnh Độ] là giềng
mối lớn lao trong Phật giáo, là đường
tắt để xuất trần. Do vậy, tiền hiền
văng thánh ai nấy đều hướng theo, ngàn kinh muôn
luận đâu đâu cũng chỉ quy. Trong thời Chánh
Pháp, Tượng Pháp xưa kia, đời nào cũng có cao
nhân tục diệm truyền đăng khiến cho
[Phật pháp] rạng ngời tại Thiên Trúc lẫn Trung
Hoa. Đời Mạt căn cơ kém hèn muốn liễu
sanh tử mà bỏ pháp môn này th́ làm sao yên được?
Lúc Châu mới dự
vào hàng Tăng sĩ liền được nghe pháp này,
muốn kết Lô Sơn xă, ḥng noi theo phong thái Vân Ô[7],
nhưng trước kia v́ chẳng có đất để
trải vàng[8],
suốt nhiều năm chỉ ôm xuông tâm ấy! Nay có
người trợ đạo, chắc sẽ có ngày măn
nguyện. Nay có vị đại hộ pháp X… túc căn sâu
dầy, dốc ḷng tin tưởng Phật thừa,
muốn chuyển uế độ thành Tịnh Độ,
bỏ ra tài sản thế gian để làm pháp tài nên bèn
quyên tặng món tiền chừng bao nhiêu đó dùng
để mua chừng đó mẫu ruộng cấy lúa
tẻ. Hoa lợi thâu được sẽ dùng làm chi phí
niệm Phật, cầu thỉnh bảy vị sư
tăng chấp tŕ lục tự Phật hiệu, suốt
đời quy mạng, gieo ḷng thành cho tới hết báo
thân. Từ đấy trở đi, vĩnh viễn giữ
[quy củ ấy] không buông bỏ ḥng báo ân nước và
đáp tạ ân đàn-na tín thí.
Nguyện cho những
vị ngoại hộ có cùng một hạnh và những hàng
thiện tín thấy nghe tùy hỷ trong hiện tại
vị lai, hễ Phật niệm vừa khởi lên sẽ
nhanh chóng đoạn ngay phàm t́nh, núi phước chót vót,
biển nghiệp cạn khô, sương mù tội chướng
tiêu tan, mặt trời trí huệ rạng bày, biết
được những điều đức Phật
biết, do tŕ danh mà thấu đạt sâu xa Thật
Tướng, trụ nơi đức Phật trụ th́
tuy sống trong cơi Đồng Cư mà đă khế hợp
thẳng vào cơi Tịch Quang. Lại nguyện theo chiều
dọc trọn khắp ba đời, theo chiều ngang
tột cùng mười phương, hết thảy hữu
t́nh cùng nhiễm mùi hương này, dùng công đức này
để cung chúc: “Nền tảng nước nhà củng
cố, Phật nhật thêm sáng, tám phương có
đạo để vâng lănh lâu dài, bốn biển vui thích
sự giáo hóa vô vi”.
2. Bi kư về công đức cung thỉnh
Đại Tạng Kinh của chùa Tịnh Cư ở
Tế Nam
(viết thay)
Đại
pháp của đức Như Lai lợi ích sâu rộng,
về mặt ngầm kín là giúp đạt đến b́nh
trị tột cùng, về mặt hiển nhiên là giữ yên
ḷng dân, khiến cho dân ngày càng hướng đến
điều lành mà chẳng biết nguyên do, chứ không
chỉ khiến cho con người đoạn Hoặc
chứng Chân nhằm tự hoàn tất chuyện xuất
thế mà thôi! Ấy là v́ [xét trên] Chân Như Phật tánh th́
chúng sanh và Phật đồng thể; ai cũng đều
có thể là Nghiêu - Thuấn, ai nấy đều có thể
thành Phật, nhưng do c̣n mê chưa ngộ nên lầm
lạc sanh nhiễm trước nơi cảnh duyên sáu
trần, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm -
dâm, đến nỗi luân chuyển cả kiếp dài lâu,
vĩnh viễn không có lúc thoát ra! Đức Như Lai
thương xót giảng cho họ lư “Phật tánh sẵn có nơi
tâm” và sự “nhân quả ba đời”, dạy họ tu
Ngũ Giới, Thập Thiện, Tứ Đế, Thập
Nhị Nhân Duyên, Lục Độ, vạn hạnh và “tâm
chính là Phật” cũng như đạo “tâm này làm Phật,
tâm này là Phật”, ngơ hầu bậc thượng căn
hễ vượt thoát liền vào thẳng địa
vị Như Lai, bậc trung căn liền tu tập
dần dần theo thứ tự để chứng
được Bồ Đề, kẻ hạ căn
liền gột ḷng tẩy ư trở thành hiền thiện.
Chúng sanh đông đảo không một ai chẳng
được hưởng ân trạch ấy.
Lại v́ chúng sanh
đời Mạt rất ít kẻ thượng căn, nên
[đức Phật] bèn đặc biệt mở ra pháp môn
Tịnh Độ để mong dù thánh hay phàm đều
cùng được thành tựu đạo nghiệp ngay
trong đời này. Pháp môn ấy giản tiện, dễ tu,
nhưng lợi ích thù thắng, siêu tuyệt, độc
nhất vô nhị trong giáo pháp của suốt một
đời đức Phật. V́ thế, tuy là ngu phu ngu phụ
mà nếu nương theo lời dạy tu tŕ th́ cũng có
thể được siêu phàm nhập thánh, liễu sanh
thoát tử ngay trong đời này. Do vậy, từ xưa,
những vị vĩ nhân có ḷng lo cho thế đạo nhân
tâm không một ai chẳng đề xướng tu tập,
hộ tŕ, lưu thông.
Cư sĩ Đối
Phù trong kiếp xưa đă vâng lănh lời Phật dặn
ḍ, nương theo bổn nguyện tái sanh trong cơi này, xót cho
đạo tràng tại Tế Nam bị ch́m lấp,
chẳng ngại nhọc nhằn, đặc biệt
hưng khởi chùa Tịnh Cư, tất cả nhân duyên
đă được ghi chép cặn kẽ trong tấm bia
trước (xem trong Tăng Quảng Văn Sao). Lại nghĩ: Tuy đă lập
được ngôi chùa, an bài tăng chúng tu tập, nhưng
nếu không có Đại Tạng Kinh th́ làm sao có thể
hiểu trọn vẹn ư cao tột lập ra các pháp của
đức Như Lai cũng như biết những
điều ḿnh nên tự hành dạy người cho
được?
Sự hiểu biết
của Diệu Liên giống như kẻ sờ voi, tài
chỉ đáng đuổi quạ[9],
trước kia được ủy thác trông nom việc
chùa đă là người không xứng với chức, nay
lại được cử làm Trụ Tŕ, chẳng
thể nào không thấy là quá phận! Nhưng đă không
thể nào từ tạ, chỉ đành gắng sức
chống chọi, bèn cùng cụ Đối Phù lên kinh đô
thỉnh kinh. Tuy đă được chánh phủ cho phép,
nhưng tiền giấy lẫn công thợ đều phải
tự lo liệu. Nếu không có ba ngàn đồng sẽ
chẳng xong việc được! May được
huyện trưởng huyện Tân Hà là ông Phan Hoa Trai phát
Bồ Đề tâm quyên tặng vừa đúng số
tiền ấy. Công đức ấy làm sao diễn tả
được? Thỉnh kinh về chùa cũng như các
việc xây dựng đều do thiện tín bỏ tiền
tán trợ.
Hơn nữa,
trước đấy cụ Đối Phù đă quyên
mộ lập quỹ Dưỡng Thiệm (quỹ bảo
trợ) trong chùa được một vạn ba ngàn
đồng. Gần đây, do mọi việc đều
tốn kém hơn, cảm thấy rất thiếu hụt.
Do vậy lại quyên mộ bảy ngàn đồng
để bù đắp. Lo liệu nhiều năm, nay
mới được viên măn. Công đức của cụ
Phù và các đàn tín sẽ tự được Phật,
trời chứng giám khiến cho đều được
tiêu tai tăng phước, khi sống sẽ vừa nhân
từ vừa cao tuổi thọ, khi mất sẽ sanh vào
cơi Cực Lạc. Chỉ mong những người sống
trong chùa này, buông xuống thân tâm, chuyên tu Tịnh nghiệp.
Hễ rảnh rang bèn lắng ḷng nghiên cứu kinh
điển trong Đại Tạng, ngơ hầu hiểu rơ
giáo lư, biết được tông chỉ tu tŕ, có căn
cứ để tự hành lẫn dạy người.
Làm được
như thế th́ những hạng tà kiến chẳng tin
tưởng sẽ đều sanh ḷng chánh tín sâu xa, sẽ
kéo nhau tu tập, hộ tŕ để mong được
lưu truyền vĩnh cửu. Pháp không có hưng - suy, hưng
- suy do nơi con người. Chỉ mong đại chúng
trong hiện tại, vị lai, ai nấy đều
gắng sức. Đem công đức này cung chúc “nền
tảng nước nhà củng cố, thế đạo
thái b́nh, hưng thịnh, Phật nhật thêm sáng, pháp luân
thường chuyển, thuần phong mỹ tục, lễ
nghĩa nhân nhượng hưng khởi, can qua vĩnh
viễn chấm dứt, dân khỏe mạnh, vật sanh
trưởng”, do ḷng người chuyển biến nên
quyến thuộc cơi trời thường giáng lâm.
3. Bài kư về chuyện chùa Thạch Thành
ở Tân Xương trùng tu tháp thờ y bát của Trí
Giả đại sư
Trí
Giả đại sư chứng Pháp Thân đă lâu, [Ngài
đă đạt đến địa vị] Thập
Địa, Đẳng Giác, hay Diệu Giác đều
chẳng thể suy lường được!
Nương sức túc nguyện, thị hiện giáng sanh
trong cơi đời này. Đêm Ngài giáng sanh, thần quang sáng
rực bầu trời. Lông mày chia thành tám sắc, mắt sáng rực, có con ngươi
kép. Do chất chứa đức phi thường nên
hiện tướng phi thường. Ngài sanh vào năm
Mậu Ngọ tức năm Đại Đồng thứ
tư (538) đời Lương Vũ Đế. Vừa
mới thôi địu[10],
hễ nằm liền chắp tay, hễ ngồi liền
hướng về Tây, gặp tượng ắt lễ,
gặp Tăng ắt kính. Ấy là v́ Ngài muốn nêu
gương mẫu cho cơi đời nên cẩn trọng
từ lúc đầu vậy!
Tuổi nhược
quan (20 tuổi) xuất gia, nghiên cứu trọn khắp
kinh luận. Ba năm sau, tức năm Canh Th́n nhằm Thiên
Gia nguyên niên (560) đời Trần Văn Đế, Ngài
nghe nói Huệ Tư đại sư đang ở núi
Đại Tô thuộc Quang Châu liền đến
đấy lễ yết. Ngài Huệ Tư vừa trông
thấy Sư liền than rằng: “Xưa kia ở Linh Sơn cùng nghe kinh Pháp Hoa, túc duyên
theo đuổi, nay lại đến đây”. Liền
trao truyền đạo tràng Phổ Hiền, bảo Sư
tu Pháp Hoa tam-muội. Ngài tụng kinh Pháp Hoa đến câu “Thị chân tinh tấn, thị
danh chân pháp cúng dường Như Lai” (Đấy là chân
tinh tấn, đấy gọi là pháp cúng dường Như
Lai thật sự) trong phẩm Dược Vương
Bồ Tát Bổn Sự bèn hoát nhiên đại ngộ, lặng
lẽ nhập định, đích thân thấy hội Linh
Sơn nghiễm nhiên chưa tan, chứng được
Tuyền (Triền) Đà La Ni[11].
Từ đấy
về sau, soi thấu suốt kinh Pháp Hoa như mặt
trời rạng rỡ chiếu soi muôn h́nh tượng,
thấu đạt tướng của các pháp, khác nào gió mát
lùa trên hư không; bèn dùng Ngũ Thời Bát Giáo để
phán thích[12]
những kinh pháp đă được giảng trong cả
một đời Như Lai khiến cho kẻ nghe kinh
biết được chỗ chỉ quy, chẳng
đến nỗi dơi nh́n biển cả than dài, chẳng
biết được bến bờ! Dùng Tam Chỉ, Tam
Quán để truyền Phật tâm ấn khiến cho
kẻ tu hành đích thân thấy được chân tâm
tịch diệt thường trụ bất biến. Pháp tu
của Ngài tuy hơi khác với Thiền Tông nhưng sở
chứng quả thật đă rất giống với
Thiền Tông trong thời hưng thịnh. V́ thế, các sách
như Truyền Đăng Lục của nhà Thiền
đều xếp ngài Trí Giả vào tiểu loại Ứng
Hóa Thánh Hiền.
Hai chuyện Giáo và
Hạnh như trên đây đă bao quát trọn hết
Phật pháp, nhưng đều thuộc về đạo
tự lực tấn tu, nếu là bậc thượng căn
lợi trí th́ cũng có thể hoàn tất ngay trong
đời này, chứ nếu là hạng căn khí kém hơn
một chút sẽ lại chẳng biết phải trải
qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp mới ḥng liễu
sanh thoát tử được! Do vậy, Sư tùy thuận
ḷng Từ của đức Phật mà hoằng
dương Tịnh Độ, sớ giải Thập
Lục Quán (Quán Kinh), đoạn trừ mười món nghi,
dùng khái niệm Lục Tức[13]
để giải thích chữ Phật khiến cho hết
thảy hành nhân đều biết một niệm tâm tánh
của chính ḿnh và Phật không hai, nhưng Phật th́ công Tu
Đức đến cùng cực nên Tánh Đức phô bày
trọn vẹn, chứ chính ḿnh chỉ sẵn có Tánh
Đức, chứ chẳng có mảy may Tu Đức nào.
Do Tánh Thể bất nhị nên “tuy chia thành sáu mà
thường tức”. Do Sự tu (tu hành về mặt
Sự) khác biệt nên “tuy tức mà thường sáu”.
Biết “sáu mà thường tức” sẽ chẳng sanh ḷng
lui sụt, trên ngưỡng mộ chư thánh. Biết
“tức mà thường sáu” sẽ chẳng sanh ḷng Tăng
Thượng Mạn, dưới trọng tánh linh của
chính ḿnh.
Chúng sanh đời
Mạt sức Định - Huệ yếu ớt, chẳng
cậy vào Phật lực th́ làm sao yên được?
Hơn nữa, có được lời giải thích hay tuyệt
như thế, ai lại chịu bỏ hạt châu sẵn
có trong chéo áo để qua xóm nghèo lê la xin ăn ư? Do
vậy, tông phong lẫy lừng, cả nước khâm
phục, tôn sùng. Trên từ hoàng đế, hoàng hậu,
đại thần, cho đến dưới là thiện
nam thiện nữ có ḷng tin trong sạch không ai chẳng nghe
tiếng bèn nương theo giống như cỏ rạp
theo gió lùa. Từ khi pháp được truyền sang
Chấn Đán (Trung Hoa), đức nghiệp hưng
thịnh không ai hơn được Ngài.
Đến năm Ngài
ba mươi tám tuổi mới vào núi Thiên Thai, đấy
chính là năm Ất Mùi nhằm niên hiệu Đại
Kiến thứ bảy (575) đời Trần Tuyên Đế.
Đến nơi, Ngài thấy cảnh núi và gặp vị
tăng tên Định Quang giống hệt như cảnh
đă được đến và người đă
được gặp khi thần thức ngao du trong lúc
lễ Phật phát nguyện thuở mới được
mười bảy tuổi. Do vậy, biết là
trước kia đă từng có nhân duyên lớn với núi
này; từ đấy về sau, hoặc hoằng pháp trong
núi, hoặc tùy cơ ứng duyên, suốt hơn hai
mươi năm hoằng dương pháp hóa lớn lao.
Trong truyện kư của Ngài đă chép đầy đủ
nên ở đây chẳng cần phải tŕnh bày rườm
rà.
Năm Khai Hoàng 17
đời Tùy Văn Đế, tức năm Đinh
Tỵ (597), Tổng Quản Dương Châu là Tấn
Vương Dương Quảng sai sứ đón Sư sang
Dương Châu. Sư cùng đi với sứ giả,
đến chùa Thạch Thành ở Tân Xương (huyện
Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang) biết duyên trụ
thế đă tận, bèn lược nêu pháp yếu
để dạy bảo đại chúng. Nói xong,
xướng danh hiệu Tam Bảo [rồi viên tịch]
như nhập tam-muội. Lúc ấy nhằm giờ Mùi ngày
Hai Mươi Bốn tháng Mười Một, thọ sáu
mươi tuổi, Tăng hạ (Tăng lạp) bốn
mươi năm. Ngài có để lại di mạng bảo
đưa linh cữu về Phật Lũng[14].
Các đệ tử do thấy thầy nhập diệt
nơi đây (tức chùa Thạch Thành) bèn lập một
ṭa tháp thờ y bát để làm kỷ niệm khiến cho
tứ chúng đời sau người thấy kẻ nghe
đều cùng gieo thiện căn.
Từ xưa
đến nay, một ngàn bốn trăm năm, theo
thời gian, cuộc đất thay đổi, chẳng c̣n
thích nghi [để đặt tháp] cho lắm. Vị
tăng trong chùa là Nhữ Ngu bàn bạc với hàng Tăng -
tục, dời tháp sang phía Bắc của Đại
Phật Nham, nơi đấy quả thật là chỗ
mạch chính của cả rặng núi dồn tới, là
chỗ mấu chốt của dăy núi, địa thế cao,
tầm nh́n được xa, [lập tháp nơi ấy] ngơ
hầu phát khởi được thiện tâm nơi
kẻ thấy người nghe. Do vậy, tôi bèn trần
thuật những nét đại lược.
4. Bài kư về chuyện sanh Tây của
cư sĩ La Tử Sanh ở Mân Hầu
Thế
gian lẫn xuất thế gian đều lấy ḷng Thành
làm gốc. Ḷng Thành đến cùng cực, đá vàng
phải nứt. Huống hồ những người cùng
hàng đều cùng được phú bẩm cái tâm này, mà
chư Phật, Bồ Tát lại là những vị trọn
không có tâm, lấy tâm của chúng sanh làm tâm của chính ḿnh
ư? Trong cơi đời, chưa hề có ai ḷng Thành tuy
chưa đến mức cùng cực mà [lại có thể
khiến cho] người khác nh́n vào sanh ḷng cảm kích,
được đức Phật rủ ḷng gia bị!
Cũng chưa có ai ḷng Thành đă đến mức cùng
cực mà người khác nh́n vào chẳng cảm kích,
Phật không gia bị. V́ thế, kẻ mong thành thánh, thành
hiền, học Phật, học Tổ, chỉ nên cạn
hết tấm ḷng Thành mà thôi! Đối với chuyện
sanh Tây của cư sĩ La Tử Sanh, tôi có
được một chứng cứ.
Cư sĩ tên là Vũ
Tằng, tự là Tử Sanh, người xứ Mân Hầu,
tỉnh Phước Kiến, anh em gồm ba người,
ông ta đứng vào hàng thứ hai. Thuở nhỏ theo
học Nho, trưởng thành đăng lính, mồ côi cha
từ năm tám tuổi. Thờ bà mẹ thủ tiết,
đối đăi anh em nổi tiếng hiếu hữu.
Bẩm tánh chân thật, trung hậu, tiết kiệm,
chất phác, liêm khiết, trong chẳng dám dối ḿnh, ngoài
chẳng dám gạt người. V́ thế, sĩ quan, binh
lính tín nhiệm, giao cho ông ta trông coi quân nhu. Suốt
mười mấy năm, ngoài tiền lương ra,
trọn chưa hề táy máy ǵ!
Ông ta c̣n dốc ḷng tin
tưởng Phật pháp, khá chán ngán trần cảnh.
Tuổi trung niên sau khi vợ mất, tâm niệm đă
hệt như cây khô, tro lạnh. Năm Nhâm Tuất (1922) thời
Dân Quốc do cư tang mẹ liền bỏ sạch
đồ mặn, chuyên tu Tịnh nghiệp. Con trai ông ta là
Khanh Đoan, Ngạn Tuấn và những người cùng chí
hướng tổ chức Phước Châu Phật Hóa Xă.
Cư sĩ cổ vũ, tán thành, giúp đỡ, hết
sức đề xướng. Mùa Hạ năm Giáp Tư (1924),
Phật Hóa Xă được dời sang chùa Khai Hóa ở Tây
Hồ, con người lẫn địa thế
đều thích hợp, nhưng do chùa xây dựng đă lâu,
cột kèo, pḥng ốc xô lệch, tượng Phật long
lở, cư sĩ muốn cho những người
niệm Phật đều nh́n vào sẽ dấy ḷng cảm
mộ bèn một ḿnh đứng ra lo liệu tu bổ cho
[cảnh chùa] được trang nghiêm. Công việc mới
hoàn thành được một nửa, ông ta liền tạ
thế. Lúc ấy nhằm ngày mồng Chín tháng Sáu năm Bính
Dần (1926), thọ sáu mươi tuổi. Khanh Đoan
kế thừa chí cha hoàn thành công cuộc [trùng tu], đáng
gọi là “khéo thờ cha” vậy.
Thoạt đầu,
mười mấy hôm trước khi cư sĩ mất,
cổ chợt sanh ung loét, đấy chính là do túc nghiệp.
Loét rữa bên trong, nóng - lạnh xen lẫn, nhưng cư
sĩ muốn nhờ vào nỗi khổ ấy để mau
được văng sanh, bảo quyến thuộc tụ
tập niệm Phật trong pḥng để giúp chánh
niệm. Cũng có bạn bè đến trợ niệm,
mỗi lần đến mấy chục người. Ông
ta đă dặn sẵn quyến thuộc: “[Khi ta] lâm chung
chẳng được tắm rửa, thay quần áo
sẵn, khóc lóc v.v… Trong đám tang, bất luận tế
thần, đăi khách đều chẳng dùng đồ
mặn. Đồ tẩm liệm chỉ dùng vải
trơn, chẳng được dùng lụa là”. Con và dâu
đều vâng lời, phương trượng Tuyết
Phong Đạt Bổn đặc biệt đến khai
thị. V́ thế trong mười mấy ngày tuy bị
đau khổ, nhưng tâm cư sĩ thường trấn
định, trọn chẳng có một niệm nào khác.
Đến lúc lâm chung, chánh niệm phân minh, an tường
qua đời, hàng quyến thuộc ai nấy đều
nén đau buồn niệm Phật suốt năm tiếng
đồng hồ rồi mới tắm rửa, thay áo, khóc
lóc v.v… đáng gọi là “biết pháp”. Đến lúc
nhập liệm, đảnh môn (đỉnh đầu)
vẫn c̣n ấm, tứ chi mềm mại, đủ
chứng tỏ cụ đă sanh Tây.
Điều lạ
nhất là con trai lẫn con dâu đều phát nguyện
suốt đời ăn chay trường niệm Phật.
Những xă hữu trong Phật Hóa Xă niệm Phật,
niệm chú Văng Sanh cho ông ta có tới ba mươi mấy
gia đ́nh. Số câu niệm Phật đến hơn
một ngàn năm trăm vạn câu, chú Văng Sanh
được niệm tới hơn mười một
vạn chín ngàn biến. Đều dùng những công
đức ấy để cầu cho phẩm sen của
ông ta được cao hơn, mau chứng Vô Sanh. Nếu
ông ta chẳng phải là người b́nh sinh chí thành cảm
người, làm sao được như vậy?
Ôi! Như cư sĩ
đáng gọi là bậc thiện sĩ trong một làng, là
đứa con thật sự của đức Như Lai.
Nếu ngờ vực cư sĩ là người sốt
sắng giữ vẹn luân thường, tận lực tu
các điều thiện, lại c̣n niệm Phật nhiều
năm, sao lúc lâm chung lại nẩy sanh khối loét ác
hiểm ấy th́ [kẻ nghi như vậy] chẳng
biết chúng ta từ vô thủy đến nay đă kết
oán nghiệp không thể kể nổi số lượng.
Nếu chẳng niệm Phật, ắt sẽ phải báo
đền dài lâu suốt kiếp, chẳng có lúc nào xong! Do
sức niệm Phật, cư sĩ mới chuyển
được báo nặng trong đời sau thành báo
nhẹ trong đời này để giải thoát các nỗi
khổ sanh tử, về thẳng Tây Phương, cao
dự hải hội, thân cận Di Đà, cùng với các
thiện nhân hội họp ở một chỗ. Xưa kia,
pháp sư Giới Hiền[15] c̣n
mắc phải bệnh ngặt, pháp sư Huyền Trang lâm
chung cũng bị đau khổ, mỗi vị đều
được Bồ Tát chỉ dạy an ủi, cho
biết đấy là quả báo do trong đời
trước đă năo hại chúng sanh, huống hồ
hạng phàm phu sát đất ư? V́ thế, tôi viết
đại lược nguyên do. Tán rằng:
Cao cả thay cư sĩ, đáng
gọi bậc thông sáng, dẫu sống trong trần
thế, chẳng bị nhiễm bụi trần, bẩm
tánh sẵn hiếu hữu, cần kiệm, nhân, khoan dung,
gia đ́nh hưởng vui sướng, hài ḥa thật tràn
trề, thân nêu gương nghiêm cẩn, ḥa vui tiếp
độ người, dốc ḷng nơi Tịnh
Độ, mong chứng được lẽ chân, đă
khơi mở Phật hóa, lại trùng tu nhà chùa, vàng,
ngọc thật trang nghiêm, nhằm tỏ ḷng cảm
mộ. Tuổi nhằm thời nhĩ thuận[16],
liền thị hiện về Tây, quyến thuộc,
bạn trợ niệm, công đức ṿi vọi thay! Do
vậy, lúc lâm chung, nhất tâm chuyên ức niệm, theo chân
Phật văng sanh, đảnh ấm kiểm nghiệm
được, con trai lẫn con dâu, đều phát
nguyện chí thành, ăn chay cùng niệm Phật, suốt
đời chẳng đổi thay, để đem công
đức ấy, mong tăng cao phẩm sen, chóng chứng
Vô Sanh Nhẫn, trở về độ Sa Bà. Xă hữu
nhờ cậy tôi, ghi chép câu chuyện này, muốn cho kẻ
thấy nghe, đồng gội nhuần pháp lợi,
liền tóm lược công hạnh, nhằm nêu nghĩa
ẩn tàng, ḥng thỏa hoằng thệ nguyện,
độ sanh của Như Lai.
5. Bài kư về sự văng sanh của Uông
thái phu nhân mẹ ông Giang [Dịch Viên]
Pháp môn
Tịnh Độ lợi ích rộng sâu. Từ khi
đại pháp truyền sang phương Đông, hàng phàm phu
sát đất tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương
nhờ đó mà thoát khỏi Ngũ Trược, chứng
lên cửu phẩm kể sao cho xiết? Ấy là v́ Phật
lực, pháp lực, chúng sanh tâm lực chẳng thể nghĩ
bàn cho nên được cái quả thù thắng, lạ lùng,
đặc biệt như thế, quả thật là trong
những giáo pháp được giảng trong một
đời đức Phật, chẳng có một pháp nào
được như thế, chỉ có pháp môn Tịnh
Độ là như vậy mà thôi! Pháp môn này chỉ trọng
thực hành, do cảm Phật nên có thể cậy vào
Phật từ lực để đới nghiệp văng
sanh; so với những pháp chuyên cậy vào tự lực
để đoạn Hoặc chứng Chân ḥng siêu phàm
nhập thánh, liễu sanh thoát tử th́ sự khó - dễ
dẫu có nói trọn năm cũng chẳng thể hết
được!
Cư sĩ Giang
Dịch Viên ở Vụ Nguyên thoạt đầu làm giáo
chức, thường giảng dạy học sinh phải
chú trọng dốc hết sức hành hiếu - hữu, nghiêm
túc trọn hết bổn phận của chính ḿnh.
Đối với việc giảng nói nghĩa lư, ắt
mong sao nêu tỏ đến tột cùng, chẳng c̣n chút nào
ẩn kín mới thôi! Do v́ quá sức nhọc nhằn bèn
bị bệnh nặng, bao nhiêu thầy thuốc chữa
trị đều chẳng có công hiệu ǵ! Về sau có
người bạn khuyên hăy lắng ḷng niệm Phật bèn
được lành bệnh. Do vậy, nhiều lượt
thân cận tri thức, chuyên nghiên cứu Tịnh tông,
mới biết pháp này quả thật là pháp môn thù thắng
thành thủy thành chung để mười phương tam
thế hết thảy chư Phật trên thành Phật
đạo dưới hóa độ chúng sanh. V́ thế,
đối với người thân kẻ sơ đều
đem pháp này để kính khuyên.
Mẹ ông ta là Uông thái
phu nhân bẩm tánh hiền thục, vừa nghe nói như
vậy liền phát tâm ăn chay niệm Phật, công khóa
hằng ngày ắt niệm Phật hơn một vạn
câu, kiêm tŕ tụng Quán Âm Phổ Môn Phẩm, Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm, các chú Văng Sanh, Đại Bi v.v…
để làm trợ hạnh. Mùa Xuân năm nay, do lánh
nạn thổ phỉ, gặp phải đường
hẹp, chiếc kiệu [cụ đang ngồi] va nhằm
đàn ḅ, phu khiêng kiệu lẫn kiệu đều bị
hất lăn xuống ruộng. Kiệu đă bị vỡ
nát, nhưng mẹ ông Giang vẫn chẳng kinh, chẳng hăi,
trọn chẳng bị thương tổn ǵ, do khi cụ
ngồi trong kiệu đă thầm niệm phẩm Phổ
Môn. Do vậy biết rằng: V́ mẹ ông Giang công phu miên
mật nên mới được cảm ứng như
vậy. Tuổi đă bảy mươi tám, tai thính,
mắt sáng, trọn chẳng có vẻ già nua!
Đến cuối
tháng Năm, cụ thị hiện bị bệnh nhẹ.
Hôm Ba Mươi nghe cháu nội là Hữu Bằng giảng
bốn mươi tám đại nguyện cho người
khác c̣n sai người hầu lắng nghe. Nhân đấy
hỏi ngày mai có phải là Mồng Một hay không? Ấy là
cụ đă tính sẵn kỳ hạn về Tây vậy!
Đến nửa đêm đi ngủ, cụ bị
nghẹn đàm không có sức để khạc ra. Do
vậy, cả nhà đều niệm Phật để
cầu cho cụ mau được văng sanh. Dịch Viên
lại khai thị Phật nguyện rộng sâu, hăy nên sâu xa
hướng về Tịnh Độ. Nếu có thể toàn
thân buông xuống, nhất tâm niệm Phật, nhất
định sẽ cảm ứng đạo giao,
được Phật tiếp dẫn văng sanh Tây
Phương. Khoảng một giờ sau đến giờ
Th́n, cụ bèn ngồi an nhiên qua đời. Lúc cụ
mất vẫn thấy quai hàm động đậy,
ấy là trong tâm thầm niệm nhưng không nghe
được tiếng cụ niệm. Từ giờ Th́n
đến giờ Thân, suốt cả năm tiếng
đồng hồ, niệm Phật không ngớt. Qua
khỏi giờ Thân mới tắm gội, thay quần áo,
khóc lóc v.v… Bởi lẽ người sắp mất,
sức không thể chống đỡ được;
nếu tắm rửa thay quần áo sẵn và khóc lóc v.v…
chắc chắn sẽ bị phá hoại chánh niệm,
chẳng thể văng sanh được. Nay đă chẳng
dời động, lại chẳng khóc lóc, mọi
người đồng thanh niệm Phật, khiến cho
trong tâm cụ chỉ có Phật niệm, trọn chẳng
có niệm nào khác. V́ thế, cụ được chánh
niệm rỡ ràng, theo Phật văng sanh, thật đáng để
bắt chước. Nguyện những kẻ con hiếu
cháu hiền đều y theo đây th́ ḷng hiếu từ
sẽ lớn lao thay!
Hơn nữa, mẹ
ông Giang c̣n dặn ḍ sẵn con trai và con dâu: Sau khi cụ
mất, đừng đặt h́nh tượng Phật lên
đầu cụ, đừng bỏ tiền vào miệng,
đừng đội mũ hoa, mặc áo thêu, quần áo
liệm chỉ may bằng vải, cổ đeo tràng
hạt mà thôi! Tất cả những thứ quần áo
giấy, minh khí[17]
đều chớ nên dùng. Trong đám tang nhất loạt
dùng cỗ chay, chớ nên bắt chước thế
tục dùng cỗ mặn để tế thần v.v… Ôi!
Ngôn hạnh của mẹ ông Giang đều đáng làm khuôn
mẫu cho đời Mạt, là bậc mẫu nghi trong
chốn khuê các, là bậc thầy khuôn mẫu cho nữ
giới. Người tuy đă mất, đức vẫn
thường c̣n. Nguyện những bậc anh hiền
chốn khuê các trong cơi đời nghe phong thái ấy
đều nức ḷng, bắt chước theo ngôn hạnh
của mẹ ông Giang, giúp chồng dạy con đều
thành hiền thiện khiến cho hạnh của hai bà Phi và
ba bà Thái lại được thấy trong hiện
thời. Lại do hiểu thấu sâu xa trong tâm vốn
sẵn có Phật tánh nên dốc ḷng tu tập tịnh
nghiệp “tu chân ngay trong cơi tục”, ngơ hầu bao người
đều giữ vẹn lễ nghĩa, nhân nhượng,
cơi đời trở lại thuở Đường Ngu.
Đấy vốn là dùng đạo “đạt đến
b́nh trị tột bậc mà trọn chẳng có h́nh tích”
để làm phương cách văn hồi thế đạo
nhân tâm vậy. Nguyện ai nấy đều gắng
sức th́ may mắn lắm thay!
6. Bài kư về chuyện sanh Tây của
thiện nữ nhân Vương Thánh Duyên nhà họ Hà
Đức
Phật dạy: “Hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều có
thể làm Phật”. Phật tánh tuy đồng, nhưng
tâm tướng của chúng sanh lại vàn muôn sai khác:
Hoặc có kẻ tin nhận, hoặc có kẻ trái nghịch.
V́ sao vậy? Hăy nên biết rằng: Chúng sanh tuy đều
đang mê nhưng do nhân trong quá khứ và duyên trong hiện
tại không giống nhau đến nỗi phát sanh hai
thứ hiện tượng nghịch hay thuận. Phật
tánh như hạt giống, nhân trong quá khứ như gieo
trồng, duyên trong hiện tại như mưa đúng
thời. Hạt giống đă gieo xuống đất
hễ gặp được mưa đúng thời sẽ
chẳng nẩy mầm được ư? Nhưng
hết thảy chúng sanh ai mà chẳng có Phật tánh? Luân
hồi trong kiếp số dài lâu, quyết chẳng thể
trọn không có túc nhân. Điều quan
yếu nhất là được thiện tri thức
chỉ dạy, hướng dẫn, và chính ḿnh có phát tâm
quyết liệt hay không. V́ thế, kinh Pháp Hoa dạy: “Thiện tri thức giả,
thị đại nhân duyên, sở dĩ hóa đạo linh
đắc kiến Phật” (Thiện tri thức là nhân
duyên lớn v́ có thể chỉ dạy khiến cho
được thấy Phật). Kinh Lăng Nghiêm chép: “Nhược chúng sanh tâm, ức
Phật, niệm Phật, hiện tiền đương
lai, tất định kiến Phật, khứ Phật
bất viễn, như nhiễm hương nhân, thân hữu
hương khí. Thử tắc danh vi Hương Quang Trang
Nghiêm” (Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm
Phật, hiện tại, tương lai, chắc chắn
thấy Phật, cách Phật chẳng xa, như
người nhiễm hương, thân có mùi thơm.
Đấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm).
Như bà Vương
nhà họ Hà[18]
ở Thượng Hải vốn là một phụ nữ
vô tri vô thức, từ năm hai mươi chín tuổi
được nghe pháp môn Tịnh Độ bèn quy y Tam
Bảo, ăn chay, niệm Phật, nhàm chán sâu xa sự
trược ác cơi Sa Bà, quyết chí cầu sanh Tây
Phương. Ba mươi năm qua tinh tấn không
lười biếng, đến năm Dân Quốc 17 (1928),
bà được năm mươi chín tuổi. Đến
ngày Mười Chín tháng Sáu biết trước lúc mất,
dặn ḍ gia quyến: “Mười hai giờ đêm hôm nay
ta sẽ về Tây, tới lúc ấy các ngươi hăy
đồng thanh niệm Phật để giúp sức.
Đừng nên bi ai khóc lóc đến nỗi phá hoại
chánh niệm của ta”. Do vậy, bà liền tự tắm
gội, mặc áo thọ[19]
mới may, trước hết niệm chú Đại Bi bao
nhiêu đó biến, tiếp đấy chuyên niệm thánh
hiệu A Di Đà Phật. Đến mười một
giờ, cả nhà lớn - bé đồng thanh trợ
niệm “Nam-mô A Di Đà Phật”. Tới mười hai
giờ, bà bèn ngồi ngay ngắn niệm Phật qua
đời. Ôi! Bản lănh như thế, dẫu kẻ có
học vấn, công nghiệp trùm lấp cơi đời
xưa nay cũng chẳng thấy mấy, huống là
hạng kém cỏi hơn ư?
Bà Vương nhà
họ Hà là một phụ nữ chẳng hiểu biết
ǵ, chỉ do ba mươi năm tinh tấn tu tŕ nên
đến lúc lâm chung hiện được tướng
trạng như thế, đủ thấy hết thảy
chúng sanh đều có Phật tánh, đều kham làm
Phật và pháp môn Tịnh Độ quả thật là pháp
môn bậc nhất để chuyển phàm thành thánh.
Nguyện kẻ thấy nghe đều cùng dốc sức
tu tŕ, ngơ hầu chẳng phụ sự giáo hóa của
đức Phật, chẳng phụ bạc tánh linh của
chính ḿnh.
7. Bài kư về sự sanh Tây của
ưu-bà-di Lạc Huệ Tĩnh
Từ
khi đại pháp truyền sang phương Đông, Lô
Sơn kết liên xă, hết thảy thiện tri thức
phần nhiều chủ trương pháp môn Tịnh
Độ bởi pháp này cậy vào Phật từ lực,
so với những pháp chuyên cậy vào tự lực th́
sự khó - dễ khác biệt vời vợt hệt như
một trời một vực. Nhưng hết thảy
tứ chúng do niệm Phật mà đích thân chứng
được tam-muội, đoạn Hoặc chứng
Chân, lên thẳng Thượng Phẩm cũng không ít.
Những người khác th́ do ḷng tin chân thật, nguyện
thiết tha, tŕ danh hiệu Phật, cảm được
Phật tiếp dẫn văng sanh th́ chẳng thể dùng toán
số thí dụ để biết được số!
Ông Lạc Bân
Chương ở huyện Định Hải tuy theo
nghề buôn nhưng khá tin Phật. Mùa Xuân năm nay tới
đất Hỗ, gặp đúng lúc Quang đang ở đậu
chùa Thái B́nh, bèn dẫn vợ cùng tới xin thọ Tam Quy
Ngũ Giới. Bân Chương pháp danh là Huệ Bân, vợ
ông ta pháp danh là Huệ Tĩnh. Do vậy, tôi bèn cho họ các
sách như Văn Sao, Gia Ngôn Lục v.v… bảo họ hăy y
theo đó để tu tŕ. Huệ Tĩnh từ đấy
chuyên dốc ḷng niệm Phật, đến giữa tháng
Năm bị bệnh, cho đến đầu tháng Bảy
vẫn c̣n gắng gượng lễ Phật, niệm
Phật. Sau đấy, nằm bẹp trên giường
không dậy được, nhưng trong tâm thường
tự thầm niệm Phật hiệu. Đến đêm
mồng Bảy tháng Tám, ho hắng suốt một tiếng
đồng hồ rồi ngủ thiếp đi, mộng
thấy rất nhiều tăng nhân và các đồng tử
cùng với các thứ như tràng, phan v.v… Đến khi
tỉnh giấc bệnh khổ hoàn toàn hết hẳn.
Tới đêm mồng Chín lại mộng thấy Quán
Thế Âm Bồ Tát và các tăng chúng cùng các đồng
tử.
Đêm mồng
Mười, người trông bệnh và các quyến
thuộc thấy bà ta miệng niệm Phật hiệu,
chắp tay như đang làm lễ mười mấy
lượt rồi ngủ thiếp đi, tỉnh giấc
nói: “Phật đă đến rồi, ta sắp văng sanh”.
Hỏi: “Giờ nào sẽ đi?” th́ bà ta bảo không
biết. Ngày hôm sau đem tất cả quần áo,
đồ trang sức trên đầu đem bán sạch
để làm việc thiện, khuyên người nhà làm lành,
tu đức, hiểu nhân biết quả. Đến
giờ Ngọ, mắt chợt tỏa quang minh. Quang minh
dường như màu vàng, nhưng chẳng phải vàng,
dường như đỏ nhưng chẳng phải
đỏ, liền nói: “Đức Phật đến
rồi!” Mặt hiện nét mỉm cười, tuy thân ḿnh
đă tắm rửa từ hôm trước, vẫn sai
đứa tớ gái rửa chân, tự ḿnh rửa mặt.
Ánh mắt liền sáng rỡ, bảo Huệ Bân rằng:
“Phật cùng Đại Thế Chí Bồ Tát và các
đồng tử tiếp tôi về Tây Phương”.
Huệ Bân muốn hỏi thêm, bà nói: “Đừng nhiễu
loạn tôi”, chỉ niệm thầm Phật hiệu theo
tiếng những người trợ niệm, chưa
đầy mấy phút đă qua đời.
Ôi! Huệ Tĩnh là một nữ nhân yếu đuối, nghe pháp môn Tịnh Độ chưa được một năm, mà lúc lâm chung liền được tướng lành như thế, đủ thấy chúng sanh đều sẵn có Phật tánh, Phật nguyện chẳng dối. Ngài Vĩnh Minh nói: “Vạn người tu vạn người về” quả là có căn cứ đích xác! Huệ Bân đem hành trạng của bà ta đến [thuật với Quang], lại c̣n đem những tiền bạc do vợ lưu lại để giúp in bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ. Do vậy, tôi bèn tóm tắt chuyện này và nêu bày đại ư của pháp môn để soạn thành bài kư. (Cuối Thu năm Kỷ Tỵ, tức năm Dân Quốc 18 - 1929)
8. Bài kư về chuyện cư sĩ
Dương Bội Văn được xá-lợi
Dương Bội Văn là người ở huyện thành Hoài An, tỉnh Giang Tô, đă bốn mươi bốn tuổi, chuyên đọc sách, dạy trẻ, gần đây cũng đă thôi dạy học. Hạ tuần tháng Sáu năm nay, do đứa cháu nội chưa tṛn một tuổi đă chết, khá đau tiếc. Một vị cư sĩ khuyên ông tham dự niệm Phật tại Phổ Tế Liên Xă, cũng như đọc các sách Văn Sao, Gia Ngôn Lục v.v… Ông ta liền nhanh chóng sanh ḷng tin, tâm niệm Phật khá tinh thuần, thiết tha. Đến buổi tụng kinh khóa tối vào hạ tuần tháng Chín, thấy trong ngọn đèn dầu thắp trước bàn Phật, [bấc đèn] kết thành một đóa sen, giữa nhụy hoa có một hạt châu đen. Sau đấy, hoa rụng, hạt châu rơi xuống bàn, to bằng hạt kê, màu như ngọc Phỉ Thúy. Ông ta ngạc nhiên lắm, chẳng biết là vật ǵ, bèn cầm đến Liên Xă hỏi, cũng không ai biết.
Trung tuần tháng
Mười, ông ta gởi thư và viên xá-lợi ấy cho
Quang cầu chứng minh. Quang liền đựng trong cái
hộp nhỏ có từ tính, đưa cho vị sư
hộ quan và ba bốn người đệ tử tục
gia xem. Khi ấy, viên xá-lợi ấy to gấp hai ba lần
lúc mới mở thư, tôi cũng không để ư lắm,
liền để thờ trước bàn Phật. Sáng hôm
sau, tụng kinh khóa sáng xong, xem lại đă không c̣n nữa,
liền gởi thư sang báo cho liên xă ấy biết,
bảo: “Đấy là xá-lợi do
ḷng tinh thành cảm nên; chiều hôm qua xem xong thờ
trước tượng Phật. Sáng nay xem th́ đă không
c̣n nữa, chắc là đă trở về chỗ cũ, xin
họ hăy t́m kỹ”. Về sau được họ
viết thư cho biết đă t́m khắp cho ṭa nhà của
liên xă nhưng vẫn không thấy ǵ, nhưng Dương
Bội Văn càng sanh ḷng chánh tín, biết Phật pháp
chẳng thể nghĩ bàn, xin quy y. Do đấy bèn
đặt pháp danh cho ông ta là Huệ Tiềm với ngụ
ư: Do cắm cúi niệm Phật liền được
ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu.
Ngoại đạo tưởng Tinh - Khí - Thần luyện lâu ngày sẽ thành xá-lợi. Đời Tống, có người khắc ván cuốn Long Thư Tịnh Độ Văn và thêu kinh t́m được xá-lợi ngay dưới mũi dao và chỗ kim đâm xuống, cũng như xá-lợi [hiện] nơi hoa đèn này là do Tinh - Khí - Thần của ai luyện thành? [Ấy là do Phật, Bồ Tát thấy] nên dùng thân xá-lợi để độ được bèn hiện thân xá-lợi để thuyết pháp vậy! (Ngày Đông Chí năm Dân Quốc 22 - 1933)
9. Ghi chép sự thật về tháp
thờ xá-lợi đức Phật tại chùa A Dục
Vương
Tại
Mậu Sơn cách ấp Đông Hương thuộc
huyện Ngân, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang
bốn mươi dặm có chùa Quảng Lợi, vốn có
tên là A Dục Vương Tự. V́ thế, người ta
vẫn gọi chùa bằng tên ấy. Xưa kia sau khi
đức Phật diệt độ, vua A Dục ở
xứ Trung Thiên Trúc làm vua khắp cơi Diêm Phù, oai đức
rộng lớn, tất cả quỷ thần đều là
bầy tôi. Ư vua muốn tạo lợi ích rộng khắp
cho người đời bèn lấy ra tám vạn bốn
ngàn viên xá-lợi đức Phật do ông nội ḿnh là vua A
Xà Thế đă cất giữ, rồi sai khiến quỷ
thần nghiền nát bảy báu trộn với các loại
hương làm thành chất bùn dẻo, trong một đêm
tạo thành tám vạn bốn ngàn cái tháp báu đựng
xá-lợi, đem chia ra khắp Nam Thiệm Bộ Châu[20].
Tôn giả Da Xá Lợi duỗi tay phóng ra tám vạn bốn
ngàn luồng ánh sáng, cứ mỗi một quỷ bèn bưng
một tháp đi theo luồng ánh sáng, đến chỗ nào
ánh sáng thôi chiếu tới bèn vùi tháp trong ḷng đất.
Trong nước Đông Chấn Đán (Trung Hoa) có
mười chín chỗ.
Khi đại giáo
được truyền sang phương Đông, [các tháp
xá-lợi] ấy lần lượt xuất hiện,
như chùa Dục Vương ở Ngũ Đài v.v… Tháp [thờ
xá-lợi] ở chùa A Dục Vương tại Ninh Ba là do
vào năm Thái Khang thứ ba (282) đời Tấn Vũ
Đế có một vị tăng là Huệ Đạt[21],
vị này chính là Lợi Tân Bồ Tát thị hiện, lễ
bái thỉnh cầu, [tháp xá-lợi] bèn từ đất
vọt lên. Sư bèn dựng chùa A Dục Vương,
thờ tháp xá-lợi ấy trong ḷng tháp đá nơi
đại điện, cửa tháp thường khóa
chặt. Có ai muốn chiêm ngưỡng xá-lợi phải
thông báo trước cho vị chủ tháp biết.
Lễ Phật trong đại điện xong, quỳ ở bậc thềm ngoài điện, nơi ấy thường có người quỳ. Phàm ai muốn chiêm ngưỡng, đều quỳ tiếp theo đó. Tháp chủ thỉnh tháp ra, trước hết cho người quỳ phía trong xem, rồi cho khắp những người quỳ tiếp theo được xem. Dẫu trong một ngày có người theo chiêm ngưỡng mấy lượt cũng chẳng lấy đó làm phiền. Tháp ấy cao một thước bốn tấc, chu vi cũng chỉ hơn một thước. Tầng giữa tháp trống rỗng, bên trong ấy treo một quả chuông đặc ruột, ngay chính giữa đáy chuông có gắn một cây kim. Xá-lợi được gắn trên mũi kim. Bốn mặt trổ cửa sổ, có chấn song chạm trổ ngăn che, chẳng tḥ tay vào được, [người chiêm bái] liền ghé mắt ḍm qua khe chấn song chạm trổ.
Viên xá-lợi ấy
h́nh dáng, màu sắc, lớn - nhỏ, nhiều - ít, cố
định hay di động đều không nhất
định. Những người b́nh thường nh́n vào
phần nhiều thấy là một hạt, cũng có
người thấy là hai, ba, bốn hạt, có
người thấy xá-lợi dính vào đáy chuông không
chuyển động, có người thấy xá-lợi
tụt xuống khỏi mũi kim chừng khoảng
một tấc. Có người thấy xá-lợi chợt
dâng lên chợt hạ xuống, chợt nhỏ, chợt
lớn. Có người thấy là màu xanh, màu vàng, màu
đỏ, màu trắng, và mỗi sắc lại đậm
- nhạt khác nhau, hoặc có cả hai màu, hoặc có
nhiều màu sắc khác nhau. Có người thấy màu
sắc tăm tối, có người thấy màu sắc sáng
ngời. Chẳng riêng ǵ mỗi người thấy
mỗi khác, mà ngay cả đối với một
người cũng phần nhiều chuyển biến
bất nhất. Lại có người thấy có h́nh như
hoa sen và tượng Phật, Bồ Tát. Cũng có kẻ
nghiệp lực sâu nặng, hoàn toàn trọn chẳng
thấy được ǵ!
Khi thấy xá-lợi
nhỏ th́ nó to bằng hạt đậu xanh nho nhỏ.
Cũng có người thấy xá-lợi to bằng hạt
đậu nành hoặc bằng quả táo tàu. Trong niên
hiệu Vạn Lịch đời Minh, Lại Bộ
thượng thư là Lục Quang Tổ dốc ḷng tin
tưởng Phật pháp, cực lực hộ tŕ, cùng
mấy vị thân hữu đến xem, thoạt
đầu thấy xá-lợi to bằng hạt đậu
đỏ, kế đó to như hạt đậu nành, to
như trái táo, rồi to như quả dưa, rồi to
như bánh xe, quang minh chói ngời, tâm mục thanh
lương. Khi ấy, tháp [đá] thờ xá-lợi bị
hư, tháp [đựng xá-lợi] được thờ
trong nhà kho. Họ Lục liền phát tâm trùng tu điện
tháp. Bạn bè ông ta cũng được thấy
xá-lợi rất xinh đẹp nhưng không lạ lùng
đặc biệt thần diệu như ông Lục.
Cần biết
rằng: Đức Như Lai đại từ lưu
lại chân thể Pháp Thân để gieo thiện căn
xuất thế cho chúng sanh trong đời sau. Bởi
lẽ, những kẻ do được thấy sự
thần dị ấy đều sanh ḷng chánh tín. Từ
đấy sửa ác tu lành, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành
để mong đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh
thoát tử, măi cho đến khi khôi phục được
Phật tánh sẵn có ḥng viên măn vô thượng Bồ
Đề. Đấy chính là đức Như Lai do bản
tâm tiếp dẫn bèn rủ ḷng thị hiện
tướng chẳng thể nghĩ bàn. Nguyện kẻ
thấy nghe đều cùng sanh cảm niệm sâu xa th́ may
mắn lắm thay! Trong năm Quang Tự 21 (1895), Quang may
mắn được kiền thành lễ xá-lợi mấy
tuần, lại c̣n đọc Dục Vương Sơn Chí
nên biết cặn kẽ.
10. Tuyên cáo thành lập Phật Giáo Cư
Sĩ Lâm ở khu Kim Sa thuộc Nam Thông
Nhân
quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân
thế gian lẫn xuất thế gian b́nh trị thiên
hạ, độ thoát chúng sanh. Thánh nhân Nho giáo chú trọng
nhân quả, [điều này] được thấy trong
kinh truyện nhiều khôn xiết kể. Khổng Tử
khen ngợi Châu Dịch vừa mở đầu liền
nói: “Tích thiện chi gia tất
hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu
dư ương” (Nhà tích thiện ắt niềm vui có
thừa, nhà tích điều bất thiện, ắt tai
ương có thừa). Cần biết rằng: Đă có
“dư khánh, dư ương” ảnh hưởng
đến con cháu th́ sự vui hay tai ương nơi
kẻ gây tạo càng lớn hơn nữa! Nhưng sự
vui hay tai ương nơi người gây tạo ấy
cố nhiên chẳng thể chuyên luận trong đời
hiện tại, ắt phải luận đến cả
đời kế tiếp, đời sau th́ mới viên măn,
châu đáo. Từ ngay câu nói này để suy xét tấm ḷng
của thánh nhân th́ sự lư nhân quả ba đời, luân
hồi trong lục đạo đă được tỏ
lộ rơ ràng vượt ngoài lời nói.
Cơ Tử trần
thuật Hồng Phạm, cuối thiên sách bèn nói: “Hưởng dụng Ngũ
Phước, oai dụng Lục Cực” (Thuận theo
thiên lư sẽ hưởng năm điều phước,
hễ trái nghịch sẽ bị sáu điều cực
nhọc). Lời nói về Ngũ Phước, Lục
Cực ấy đă bao hàm sâu xa ư nghĩa nhân quả ba
đời. Ấy chính là bậc thánh vương cai trị
bằng đức độ, giáo hóa dân, mong họ sẽ
thuận theo Ngũ Phước, sợ hăi Lục Cực,
tu đức, lập mạng, hướng lành, lánh xui.
Những nhà Nho trong cơi đời chẳng suy xét, quy hết
[Ngũ Phước, Lục Cực] về sự
thưởng phạt trong sự cai trị của nhà vua.
Chẳng những họ đă vu báng sâu xa sự cai trị
của nhà vua mà c̣n mâu thuẫn với sự lư. Tống Nho
trộm lấy ư nghĩa huyền áo trong kinh Phật
để nêu tỏ những ư nghĩa trong Nho giáo, sợ ai
nấy sẽ đều học Phật đến nỗi
Nho môn bị ghẻ lạnh bèn “một đao chặt
rời” pháp căn bản để “trị ḿnh, trị
người, trị nước, trị thiên hạ ngơ
hầu khắp mọi chúng sanh đều được
siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử” của
đức Phật đă nói, khiến cho hết thảy
mọi người không c̣n mong mỏi thuận theo [thiên lư]
hay kiêng sợ nữa, cho rằng nhân quả báo ứng chính
là do đức Phật bày ra để gạt gẫm
bọn ngu phu, ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Ngài,
chứ thật ra chẳng hề có chuyện ấy. Con
người chết đi, h́nh hài đă hư nát, thần
hồn cũng phiêu tán, dẫu có chém - chặt - xay - giă
sẽ thi thố vào đâu? Thần hồn đă phiêu tán
rồi th́ c̣n ai để thọ sanh nữa đây?
Do bởi lẽ đó,
nhà Nho đối với nhân quả, luân hồi đều
chẳng dám nhắc tới, chỉ ỷ vào chánh tâm thành ư
để duy tŕ thế đạo nhân tâm. Đă không có nhân
quả luân hồi, hễ chết là hết th́ chánh tâm thành
ư có ích ǵ đâu? Không chánh tâm thành ư có bị tổn hại
ǵ đâu? Từ đấy, thiện chẳng có ǵ
để khuyên, ác chẳng có ǵ để trừng
phạt, đến nỗi hùa nhau đề xướng tham
dục, khen thưởng ác hạnh, chẳng lấy đó
làm thẹn, lại ngược ngạo coi đó là vinh,
đều là v́ những lời lẽ đả phá bài xích
nhân quả luân hồi ươm thành, đạo làm
người gần như chấm dứt! Do vậy,
những vị có ḷng lo cho thế đạo nhân tâm hùa nhau
đứng lên cứu văn. Cư Sĩ Lâm, Tịnh Nghiệp
Xă v.v… được kiến lập khắp nơi,
đề xướng nhân quả, luân hồi và pháp môn
Tịnh Độ để vượt thoát nhân quả
luân hồi, ắt phải “do bởi đất mà té th́
phải do từ đất mà đứng dậy”.
Kim Sa Cư Sĩ Lâm
đă được thành lập, sẽ một vai gánh vác danh
nghĩa, thực chất, sự nghiệp của hàng cư
sĩ th́ không lâu sau sẽ đích thân thấy cơi đời
trở lại thuở Đường Ngu, con người
mong trở thành thánh, thành hiền. Nói tới cái danh nghĩa
“cư sĩ” th́ [cư sĩ] chính là những vị
sống tại gia tu đạo. Nói tới thực chất
th́ chính là giữ vẹn luân thường, trọn hết
bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tu hành
điều lành trong thế gian để lập nền
tảng, thật sự v́ sanh tử phát Bồ Đề
tâm, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương,
nguyện cho khắp ḿnh lẫn người đều cùng
liễu sanh tử. Người làm được như
thế th́ mới chẳng phụ cái danh là Cư Sĩ.
“Sự nghiệp” chính là dùng thân để làm gương,
hoằng dương sự giáo hóa của đức
Phật, chỉ lấy “tự lợi, lợi tha, tự
lập, lập người” làm chí hướng, sự
nghiệp. Đối với hư danh, lợi lộc phù
phiếm đều xem nhẹ, chẳng hề bận ḷng;
đối với luân lư, thanh quy quyết chẳng vi phạm,
khiến cho người thấy kẻ nghe đều sanh
ḷng ngưỡng mộ. Đấy gọi là “dùng lời lẽ để
dạy th́ bị tranh căi, dùng thân để dạy th́ người
ta thuận theo”.
Chuyện thế gian hay xuất thế gian, không một chuyện nào chẳng lấy thân làm gốc. Nếu gốc chẳng lập, dẫu có làm ǵ đi nữa th́ cũng chỉ là chuyện phô trương bề ngoài mà thôi! Đă không chân tu ắt sẽ chuốc lấy sự khinh thường từ bên ngoài, lại c̣n ngược ngạo tạo bằng cớ cho kẻ tà kiến hủy báng Phật pháp. Tự lợi lẫn lợi tha đều mất th́ đại sự sanh tử làm sao liễu được? Nếu là những lâm hữu tham dự Cư Sĩ Lâm, ai nấy hăy nên phát tâm kim cang kiên cố, thề làm chuyện lợi ích cho ḿnh lẫn người, trọn hết luân thường học Nho, tận tánh học Phật, noi dấu bậc tiên giác trong quá khứ, chẳng chịu thua kém chút nào. Đấy gọi là đệ tử thật sự của đức Phật, là bậc đại trượng phu thật sự. Có như vậy th́ danh nghĩa, thực chất, sự nghiệp của bậc cư sĩ mới có thể rạng rỡ ngay trong cơi đời này, để lại tiếng thơm cho con cháu vậy! (Đầu Đông năm Giáp Tuất - 1934)
IV. Kệ tụng, tán dương,
đề từ
1. Kệ viết trên bức tranh vẽ
tháp tàng kinh Linh Nham của Phí Pha Long ở Ngô Giang
Cao
ngất trên đỉnh núi, dựng bảo tháp ṿi vọi,
trong tháp chứa tượng Phật, và các thứ kinh sách.
Kinh Phật đặt trong tháp, thường phóng
đại bi quang, tuy phàm phu chẳng thấy, cũng
ngầm được lợi ích. Ví như nắng Xuân
chiếu, muôn cây cỏ đều sanh, do nhân duyên thù
thắng, gieo thành Phật thiện căn, đến khi
cơ duyên chín, tinh tấn tu tịnh hạnh, khôi phục
được Phật tánh, vốn sẵn trong tự tâm,
thành ngay đạo Bồ Đề. Cổ nhân dựng tháp
này, muốn nối sâu chí Phật. Tháp lâu ngày đổ nát,
kinh Phật bèn lộ ra. Cư sĩ Phí Pha Long, thâu nhặt
chừng đó quyển, tu bổ, tặng Linh Nham, cũng
tặng những thân hữu. Rồi vẽ cảnh Linh
Sơn, làm kỷ niệm mai sau. Tưởng nghĩ
Phật từ bi, khiến hàm thức được
thấy, sự thật khó nghĩ suy!
Sợ nghe chẳng tin
nhận, nên dùng chuyện thông thường, nhằm tỏ
lợi thù thắng: Đời có rắn cực
độc, cùng chó dại thật dữ, nếu cắn xé
quần áo, người ấy ắt phải chết.
Hoặc lại cắn bóng người, hoặc trừng
mắt nh́n người, người ấy cũng chết
ngay, do độc nghiệp nặng nề. Ác nghiệp
của chúng sanh, thế lực c̣n như thế. Huống
là Phật từ bi, hơn thiên địa, cha mẹ!
Hễ vừa được thấy nghe, liền
được lợi khó tưởng. Nếu nghĩ sâu
nghĩa này, ắt đau ḷng khóc măi. Nguyện khắp
hết mọi người, cảm Phật đại
từ bi, hăy như cứu đầu cháy, niệm Phật
cầu nhiếp thọ.
Thấy chuyện Phật giáo hóa, và thấy các chúng sanh, đều tưởng như thấy Phật, chẳng dám sanh khinh rẻ, công đức thù thắng ấy, hồi hướng sanh Tây Phương, quyết đến lúc lâm chung, được chính Phật tiếp dẫn, dùng ngay những điều này, để cầu siêu cha mẹ, đấy là hiếu chân thật. V́ thế, kinh Phạm Vơng, dạy hiếu thuận phụ mẫu. Tận pháp giới phàm - thánh, đều khiến được thành Phật, ḥng trọn hết luân thường, chẳng thẹn là Phật tử. Ông Phí muốn cầu siêu, cho cha mẹ của ḿnh, bức vẽ xin đề kệ, do vậy suy nguyên ư, viết kệ để khích lệ (Cuối Thu năm Canh Th́n - 1940)
2. Kệ hồi hướng chung cho các
thiện tín đă đóng góp tài lực lưu thông, xoay
vần truyền bá, xem đọc bộ Lịch Sử
Cảm Ứng Thống Kỷ
Tam giới hết
thảy pháp, chỉ do một tâm tạo. Thuận
đạo th́ tốt lành, nghịch lư ắt hung ác. Lành thay người hiền xưa, ḷng
giống như trời đất, dùng sức tài trí ḿnh,
tán trợ quyền sanh thành, luôn muốn làm lợi khắp,
cho thiên hạ hậu thế. Bác ái giúp
đỡ người, trọn chẳng coi là đức,
công to, danh tiếng trỗi, đức lớn, tốt lành tới. Sống hưởng
trọn Ngũ Phước, dư khánh truyền hậu
duệ. Phong thái ấy hưng khởi, thế giới
tự an b́nh, ai nấy đều lễ, nhượng,
đều nghĩ trọn hết t́nh. Buồn thay lũ
tiểu nhân! Chỉ biết có riêng ḿnh, suy nghĩ cùng cư
xử, trọn chẳng tuân lẽ trời, hăm người
để tự an, tổn người để tự
ích, chỉ chuộng lợi trước mắt, nào hay túc
phước hao, đến khi nghiệp kết quả,
khổ báo vô cùng cực. Uổng bị người
thương xót, tội nghiệp làm sao dứt?
Trên từ thuở
Đường Ngu, dưới đến cuối
đời Minh, các sự tích thiện ác, các sử
đều chép rành. Nay thế đạo ch́m đắm,
người hiểu biết đều lo, bạn tôi
Nhiếp Vân Đài, lập cách để cứu vớt,
riêng thỉnh Hứa Chỉ Tịnh, soạn Cảm
Ứng Thống Kỷ, ấn loát rộng lưu thông, mong
ai nấy sẽ tự, học theo cùng răn giữ. May
được các thiện sĩ, bỏ tiền hơn
vạn đồng, kính in hai vạn bộ, nhằm kết
khắp thiện duyên. Dùng khoản tiền c̣n dư, in riêng
bản giấy báo, chữ nhỏ, giá
rẻ hơn, cho vừa sức thanh niên. Bản này in
bốn vạn, lưu truyền khắp
xa gần. Phàm những ai thấy nghe, không ai chẳng
hoan hỷ. Sau hai lượt xuất bản, Chỉ
Tịnh lại giảo duyệt, tăng thêm,
sửa đôi chút, thân thiết hơn bản
trước. Cư sĩ Lư Kỳ Khanh, nguyện bỏ
tiền khắc in. Bản mẫu thỉnh thợ khéo, mong
vĩnh viễn lưu truyền. Tôi cũng cho tái bản,
hai loại sách kể trên, thêm lời tựa “Tăng Tu”,
để mong lưu truyền măi.
Sự lư của nhân quả, đă hiển lộ rạng ngời. Người tâm lo thế đạo, có cái để thi thố. Nguyện khắp ai thấy nghe, lập cách lưu truyền rộng, ngơ hầu dứt cạnh tranh, tiến thẳng đến đại đồng. Nguyện người phát khởi ấy, cũng như vị biên tập, các thiện sĩ giúp in, người xem bắt chước theo, hiện tại cùng vị lai, hết thảy các thiện nhân, cùng tiêu các ác nghiệp, cùng tăng thắng thiện căn, sống sẽ hưởng Ngũ Phước, mất th́ lên chín phẩm, tiên vong sanh Tịnh Độ, hậu duệ làm chuẩn mực, cho khắp cả cơi đời, vật giàu, dân khỏe mạnh, khiến cho người bốn phương, đều ngưỡng mộ nước ta (Ngày lành tháng Sáu nhuận, năm Canh Ngọ, tức năm Dân Quốc 19 - 1930)
3. Kệ hồi hướng kính v́ các
thiện tín đă thí tiền bạc và xoay vần truyền
bá, xem đọc Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm
Ứng Tụng
Cao
cả Quán Thế Âm! Thệ nguyện khó nghĩ bàn, thành
Chánh Giác đă lâu, lại hiện thân Bồ Tát, theo từng
loại hiện h́nh, tầm thanh ḥng cứu khổ. Đáng
tiếc người thế gian, phần nhiều
đều chẳng biết, đặc biệt soạn
sách này, mong được lưu truyền rộng. May
được các thiện tín, đứng in tới
mấy vạn. Từ đây lần lượt biết,
lại tiếp tục in thêm, đến số mấy
chục vạn, an ủi ḷng Bồ Tát. Lại
được khắc in khắp, truyền rộng trong
ngoài nước, để biết Quán Thế Âm,
đấng hết thảy nương tựa.
Ví như ngọn đuốc lớn, chiếu khắp trong đường tối. Ví như đại thiết luân, độ khắp kẻ ch́m đắm, đạo sư cho kẻ mù, thuốc men cho người bệnh, thành quách lánh giặc cướp, gạo thóc thuở đói kém. Cần biết ân Bồ Tát, hơn đất chở trời che, dẫu trọn kiếp tuyên dương, cũng chỉ nêu chút phần! Nguyện những vị đứng in, nghiệp chướng đều tiêu diệt, phước huệ đều tăng trưởng, mọi việc đều như ư. Sống th́ hưởng Ngũ Phước, mất lên ngay chín phẩm. Các tổ tông quá khứ, nhờ đây sanh Tịnh Độ. Cha mẹ trong hiện tại, đều được hưởng thọ khang. Tất cả bọn cháu con, đều rạng rỡ tiếng nhà. Mùa màng thường sung túc, giặc cướp thảy đổi ḷng, nhà nhà sùng từ thiện, chốn chốn hành nghĩa nhân. Nhờ đây thói bạc ác, chuyển thành nếp thuần phác. Pháp giới các hữu t́nh, đều được viên Chủng Trí (Mùa Xuân năm Bính Dần, tức năm Dân Quốc 15 - 1926)
4. Kệ hồi hướng cho khắp
những vị giúp in, đọc tụng, thọ tŕ, xoay
vần lưu thông các bản kinh Phật
Nguyện
do công đức này, tiêu trừ túc hiện nghiệp,
tăng trưởng các phước huệ, viên thành
thắng thiện căn, tất cả kiếp đao binh,
các nạn như đói kém, thảy đều tiêu trừ
sạch, ai nấy tập lễ, nhượng.
Hết thảy người giúp in, hoặc xoay vần
lưu truyền, quyến thuộc đều yên vui,
người đă khuất siêu thăng, mưa gió
thường đúng thuận, nhân dân đều khang ninh,
pháp giới các hàm thức, đồng chứng đạo
Vô Thượng.
5. Kệ hồi hướng cho khắp
những vị thiện tín bỏ tiền [ấn tống],
lưu truyền, thấy nghe, thọ tŕ, xoay vần lưu
thông bản nghiên cứu Người Học Phật Có Nên
Ăn Thịt Hay Không?
Sát
kiếp thời gần đây, từ xưa chưa
từng có! Suy t́m đến cội nguồn, quả
thực do tham ăn. Riêng lưu truyền sách này, muốn
nhờ đây cứu văn, nguyện khắp người
thấy nghe, đều kiêng thịt, ăn chay. Ăn chay
rất vệ sinh, chẳng hại mạng con vật,
khiến ḷng ta nhân từ, trên kế thừa văng thánh. Sát
nghiệp đă chẳng kết, thế đạo tự
thái b́nh. Chỉ pháp cứu vật này, lợi quần manh
măi măi. Các vị do công đức, văng sanh Phật tịnh
độ, thấy Phật, chứng
Vô Sanh, trở thành bậc nương tựa, cho khắp
cả lục đạo.
6. Kệ đề trên vách quan pḥng chùa Báo Quốc ở Tô Châu (năm Dân Quốc 24 - 1935)
Sống
uổng bảy mươi năm, tháng ngày chẳng c̣n
mấy, như tù dẫn ra chợ, mỗi bước
gần cái chết, tạ tuyệt hết thảy sự,
để chuyên tu Tịnh Độ, nếu hiểu ḷng ngu
thành, mới là chân liên hữu.
7. Kệ hồi hướng lễ
niệm Quán Âm Bồ Tát
Kính
lạy Quán Thế Âm, từ bi đại đạo sư,
chứng vô thượng đă lâu, an trụ Thường
Tịch Quang. V́ thương chúng sanh khổ, lại
hiện thân mười cơi, nên dùng thân nào độ,
liền hiện ngay thân ấy. Gần là sanh
đường lành, xa là chứng Bồ Đề. Bồ
Tát từ bi lực, chư Phật
thuật chẳng trọn. Đệ tử con tên là… từ
vô thủy đến nay, do bởi sức ác
nghiệp, luân hồi trong sáu nẻo, trải qua trần sát
kiếp, không cách nào thoát ĺa, may nhờ túc thiện căn,
được nghe tên Bồ Tát, muốn nương
sức từ bi, đời này sanh Tịnh Độ.
Xưng thánh hiệu dài lâu, kiêm lễ
bái, cúng dường, sám hối các ác nghiệp, tăng
trưởng các thiện căn. Nguyện rủ ḷng từ
mẫn, tiêu diệt các tội chướng, phóng quang
chiếu thân con, duỗi tay xoa đầu con, cam lộ
rưới đỉnh con, gột phiền cấu tâm con,
khiến cho thân tâm con, đều được thanh
tịnh cả. Con nguyện hết thân này, đến
tận kiếp vị lai, nguyện bảo khắp chúng
sanh, ân đức của Bồ Tát, khiến họ
đều quy y, đều phát tâm Bồ Đề.
Nguyện rủ ḷng từ mẫn, chứng minh và nhiếp
thọ.
8. Đề từ cho tác phẩm
Ngọc Trụ Đại Sư Tâm Tích Tụng
Ngọc
Trụ đại sư là đồng học của Quang
vào năm mươi năm trước. Sư tánh t́nh
chất trực, khiêm ḥa, tu tŕ thiết thực, chân thành,
nghiêm túc, chẳng làm trụ tŕ, chẳng thâu đồ chúng
giống như Quang. Sư chú trọng tŕ Luật và
niệm Phật, nên vào tuổi già thường khắc in
nhiều trước tác của Luật Tông.
Ấy là v́ muốn tạo nền tảng vững vàng
ngơ hầu những kẻ thông sáng trong đời sau
đều cùng sanh Cực Lạc. May mắn thay, Sư
đă về An Dưỡng, thẹn cho Quang vẫn bị
ràng buộc trong cơi đời này, nguyện Sư cầu
Phật rủ ḷng tiếp dẫn, ngơ hầu cùng
được theo học với Như Lai.
9. Hoa Nghiêm Kinh Cảm Ứng Tụng
Một
bộ kinh Hoa Nghiêm, là vua trong các kinh, chỗ quy tông cuối
cùng, hướng dẫn sanh Tây Phương. Không cơ nào
chẳng độ, không pháp nào chẳng nhiếp. Dẫu có
muốn tán dương, hết kiếp vẫn chẳng
trọn. Nếu chẳng có túc căn, tên kinh chẳng
được nghe, huống là được biên chép,
thọ tŕ siêng ṛng ư? Nghĩa lư của kinh này, chẳng
thể nghĩ bàn được. Quả báo cùng công
đức, cũng lại giống như thế. Ấn
loát vừa xong xuôi, Hồi Lộc[22]
đă đến cửa, vượt lệ giao trong đêm,
người vừa đi, tiệm cháy.
Chép rồi, đóng b́a xong, chợt gặp phải
đại kiếp, cả nhà phải trốn xa, mọi
vật đều bị cướp, chỉ riêng bộ
kinh này, trọn chẳng bị thương tổn. Trở
về vừa trông thấy, khôn ngăn nỗi mừng vui.
Kiếp vốn thuộc cộng nghiệp, ḷng Thành
thuộc biệt nghiệp. Do ḷng Thành cảm vời, nên
Ứng cũng đặc biệt. Nghĩa lớn lao trong
kinh, đă nêu trong lời tựa, nay soạn bài tụng này,
tỏ ḷng thành, linh ứng.
Nguyện những người thấy nghe, ai nấy
chăm tu tŕ, để mong hết tuổi thọ, sẽ
dự hội Liên Tŕ.
Ấn Quang pháp sư lại v́
cư sĩ Tung Kiều soạn thêm bài Tả Kinh Linh
Cảm Tụng (ca tụng sự linh cảm do chép kinh),
gởi thư dặn ḍ phải đem những sự
thực về mấy lần nguy hiểm được
b́nh an không tai nạn để viết mấy câu giải
thích sau bài kệ, ngơ hầu người đọc
đều cùng sanh tín tâm. Theo cư sĩ [Tung Kiều],
cư sĩ chép kinh [Hoa Nghiêm] xong, giao cho xưởng in
Văn Tân in ra. In lần đầu một ngàn trang, in xong
vào bảy giờ tối ngày nọ. Nhà in có lệ hễ
sau sáu giờ sẽ không giao hàng hóa ra ngoài. Lần này
chợt phá lệ, giao đến nhà cư sĩ. Vừa
mới chở đến cửa th́ xưởng Văn Tân
bị chập điện cháy rụi. Ấy là do [thiện
căn] đặc biệt xui khiến như vậy,
chứ nếu không th́ sao
lại bảo giao ra ngoài để rồi có sự xảo
hợp như thế?
Ngày Mười Ba tháng Ba năm Giáp Tuất (1934),
trời đă hoàng hôn, hàng xóm ở nơi cư ngụ
của cư sĩ thiếu cẩn thận [gây cháy nhà],
chỉ cách một bức tường vây, t́nh thế nguy
ngập sắp giáng xuống [nhà cư sĩ]. Cư sĩ
chép kinh, tâm trí chẳng để ư chuyện bên ngoài,
rốt cuộc tai không nghe thấy ǵ, đến khi
người nhà kinh hoàng lôi cư sĩ tránh đi th́ vẫn
c̣n hai hàng viết chưa xong. Do từ khi chép kinh
đến nay, đối với mỗi một trang
chưa hề bỏ dở giữa chừng; [cư sĩ]
chẳng muốn dễ dăi phá lệ ấy, nên vẫn
ngồi yên chép cho xong. Đến khi chép xong, thế lửa
đă suy, rốt cuộc b́nh yên không sao cả. Chuyện này
lại dường như ngầm được thần
che chở vậy.
Mùa Xuân năm Bính Tư (1936) chép kinh
viên măn, giao cho Tích Cổ Trai tại Thang Gia Cảng đóng
thành sách. Đóng xong, giao trả về. Ngày hôm sau, tiệm
bán giấy Cao Vạn Phong ở ngay trước cửa
bị hỏa hoạn. Đă thoát khỏi tai ương,
lại c̣n không bị một giọt nước nào làm
ố trang kinh. Giống như khi đánh nhau, người
đời hay nói: “Đạn bắn trúng người
quả thật có mắt”. Nếu không có thần linh che chở,
làm sao được như thế?
Mùa Thu năm Đinh Sửu
(1937), Ngô Môn thất thủ, bị vây hăm, kiếp nạn
lớn lao xảy ra, cả nhà cư sĩ phải tỵ
nạn nơi xa. Tất cả đồ đạc
đều bị cướp phá sạch bách, chỉ riêng
kinh c̣n nguyên, chẳng bị tổn hoại mảy may.
Cứ tưởng nhà cửa sẽ bị phá hủy tan
hoang, may nhờ vào kinh này mà được thoát nạn.
Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, nên rốt cuộc
có chứng cớ rơ ràng như vậy. Người
đời phần nhiều chẳng tin, ngược
ngạo sanh ḷng hủy báng, quả thật là những
kẻ được đức Như Lai gọi là
“phường đáng thương xót”. V́ thế, lăo nhân nói:
“Nguyện những ai thấy nghe, ai nấy chăm tu tŕ,
để mong hết tuổi thọ, sẽ dự hội
Liên Tŕ”. Quả thật là lời khẩn thiết mổ
tim vẩy máu, cầu cho khắp mọi người trong
cơi đời đều cùng gắng sức.
Một ngày mùa Thu năm Mậu Dần (1938), vâng theo
mạng lệnh của Ấn lăo pháp sư, Đức Sâm
viết thay.
10. Tiêu Sơn Cát Đường
Thượng Nhân Văng Sanh Tụng
Lớn
thay môn Tịnh Độ! Quy túc của các pháp, thích hợp
mọi căn cơ, không căn nào chẳng gồm. Trên th́
nhiếp Đẳng Giác, dưới chẳng sót ác
nghịch. Muôn ḍng đổ vào biển, do Phật
đại nguyện lực. Sư Cát Đường cao
cả, đời trước trồng huệ căn,
đă nổi bật từ nhỏ, xuất gia vượt
trần tục. Từ đấy Luật - Giáo - Tông, ư
chỉ đều thấu hiểu. Muốn liễu ngay
đời này, liền chuyên tu Tịnh Độ,
đặc biệt phát ba tâm, mong ṭa sen thượng
phẩm. Tuổi thọ mới năm tư, tịnh
nghiệp đă viên thành, biết trước lúc văng sanh,
bảo chúng niệm Phật tiễn. Sư vẫn niệm
rơ ràng, đột nhiên nhập tịch định.
Đồ chúng muốn truyền dương, cậy tôi
thuật đại lược. Nguyện những kẻ
thấy nghe, ai nấy đều chú ư.
11. Bài tụng tặng cho các thiện tín
thuộc Phật Quang Xă
Tam Quy,
Ngũ Giới, Lục Trai nhật, cho kẻ sơ cơ
để nhập môn. Nếu nguyện hoa khai tự
thấy Phật, chuyên tu Tịnh hạnh, gieo căn sâu.
12. Bài tụng tặng cho đại
hội xă hữu của Phật Quang Xă
Đức
Phật giơ cành hoa, ngài Ca Diếp mỉm cười,
đạo vốn ở nơi tâm, không áo diệu chi khác.
Người cùng một tâm này, tâm cùng một lư này.
Đạo tâm thật nhỏ nhiệm, tuy
nhỏ, thật ra một! Trong đời
người có dục, dục do nơi cảnh sanh. Nếu
tiền cảnh chẳng có, niệm cũng chẳng
khởi được! Nếu các dục lăng xăng, đạo
tâm bị lấp mất. Lấp
mất, gọi là mê. Giác chính là chẳng mê. Mê gọi
là vô minh, vô minh gọi là si. Tâm tham với tâm sân, đều
sanh từ nơi đó. Do Hoặc mà tạo nghiệp,
đấy gọi là “ác nhân”. Đă gieo cái nhân ác, quả
khổ sẽ sanh theo.
Phật thương
bọn chúng sanh, phát ḷng Từ vô duyên, nói ra Giới -
Định -Huệ, để trị tham - sân - si. Nhân
Giới sẽ sanh Định, nhân Định bèn phát
Huệ. Huệ chính là Bát Nhă, soi toạc màn vô minh. Giống
như gươm trảm yêu, như đèn trong nhà tối,
từ khổ thoát ra vui, từ phàm bèn nhập thánh, không ǵ
chẳng do đây, cùng lên đạo Đại Thừa.
Chỉ nương vào Bát Nhă, chính là Ba La Mật. Tâm Kinh và
Kim Cang, đều giảng rơ nghĩa này. Hành Tâm Kinh sâu xa,
là đức Quán Tự Tại. Hiểu tâm thấy rơ tánh,
Ngũ Uẩn c̣n đâu nữa? Đấy ước
về Lư tu, công phu ở nơi hiểu. C̣n bộ kinh Kim
Cang, nói toạc khắp bốn tướng. Chân lư đă
hiển lộ, bốn tướng đều là vọng.
Biên chép cùng đọc tụng, và giảng nói cho
người, trong kinh thường tán thán, phước
đức sẽ vô lượng. Đây bởi do lẽ
nào? Tự giác, giác tha vậy. Lần lượt làm lợi
nhau, trọn chẳng có hạn lượng. Đấy
chính là sự tu, công nằm ngay nơi hạnh. Tâm, Phật
và chúng sanh, cả ba không sai biệt, đạo
đồng, tâm cũng đồng. V́ thế không sai
biệt. Vũ, Tắc và Nhan Tử, đổi chỗ
cũng như thế[23].
Đạo đồng, tâm cũng đồng, cho nên
đều như vậy. Nếu không có chúng sanh, Phật
pháp cũng chẳng lập. Nếu chẳng hề lợi
người, th́ làm sao tự lợi?
Nhan
Tử suốt ba tháng, chẳng trái nghịch ḷng nhân. Vũ,
Tắc vốn v́ vậy, cứu người
đói, ch́m đắm. Trong mỗi một chúng sanh,
đều sẵn có Phật tánh, kẻ Thập Ác
mười niệm, được sanh về Tịnh
Độ, khắp đại thiên thế giới,
đều cùng một cái tâm, “do tâm này thành Phật”,
để làm thành căn cứ, quang minh lẫn thọ
mạng, đều cùng là vô lượng, một pháp
hội Linh Sơn, đến nay vẫn chưa tan.
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên
Quyển 3 hết
[1] Theo Nho gia, Đại Đồng là một thế giới toàn hảo, trong đó con người không có ḷng vật dục riêng tư. Khái niệm này bắt nguồn từ thiên Lễ Vận sách Lễ Kư. Theo đó, Khổng Tử do có việc phải sang Lạp Tân, xong việc, đi du ngoạn, chợt thở dài v́ cảm thán cho t́nh h́nh nước Lỗ. Ngôn Yển bèn hỏi nguyên cớ, Khổng Tử đáp: “Đại đạo được thực hành bởi ba vị thánh quân anh minh thời Tam Đại, Khâu tôi chưa đạt đến, nhưng sẵn chí mong mỏi. Hễ đại đạo được lưu hành th́ thiên hạ đều là của chung. Chọn lựa người hiền, cử người tài năng, thành tín, ḥa thuận. Cho nên con người chẳng chỉ lo phụng dưỡng cha mẹ của chính ḿnh, chẳng lo nuôi dạy con cái của riêng ḿnh, mà ắt sẽ khiến cho người già được chết an lành, kẻ trẻ khỏe được sử dụng đúng tài năng, trẻ thơ được trưởng thành, cứu giúp người góa bụa, những kẻ mồ côi, lẻ loi, tàn tật đều được giúp đỡ. Nam tṛn bổn phận, nữ có nơi nương tựa. Vật dụng không bị vứt bỏ trên đất, nhưng chẳng giấu diếm cho riêng ḿnh. Chẳng ngại ngần ra sức làm lụng, nhưng chẳng cậy công. V́ thế, những mưu mẹo bị ngăn chặn, không thể dấy lên được, trộm cắp, loạn tặc chẳng thể xảy ra. Do vậy, cổng ngơ chẳng cần phải đóng. Đó gọi là Đại Đồng”.
[2] Luân Bảo (Cakra-ratna) là bánh xe bằng chất báu, chính là một trong bảy món báu của Chuyển Luân Thánh Vương (Cakravarti-rāja) được cảm thụ bởi sức phước báo của vua, giúp vua có thể đi tới khắp mọi nơi, không ai ngăn trở được. Luân bảo có bốn loại vàng, bạc, đồng, sắt, riêng luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương (Kim Luân Vương) có đến một ngàn căm. Chuyển Luân Thánh Vương dùng luân bảo ấy để bay đi khắp mọi nơi, chinh phục khắp bốn đại châu.
[3] Hoa đèn là phần bấc (tim) đèn
cháy c̣n sót lại có h́nh từa tựa như cái hoa nên
gọi là hoa đèn. Cổ nhân thường cho rằng khi
thắp đèn mà bấc đèn cháy để lại hoa
đèn sẽ có điềm lành.
[4] Nguyên văn “kiêu
kính chi hành vi”. Kiêu (梟) là loài cú
vọ, thường được dùng để sánh ví cho
sự tham lam tàn nhẫn. Kính (獍) là
một loài thú theo truyền
thuyết vừa lọt ḷng liền ăn thịt mẹ,
nên những đứa con bạc ác bất hiếu
thường bị gọi là “kính nhi” (獍 兒).
[5] Theo kinh Vô Lượng Thọ (bản
dịch của ngài Khang Tăng Khải đời
Ngụy), đức Phật A Di Đà ngoài danh hiệu Vô
Lượng Thọ, c̣n có mười hai danh hiệu như
sau: 1) Vô Lượng Quang Phật 2) Vô Biên Quang Phật 3) Vô
Ngại Quang Phật 4) Vô Đối Quang Phật 5) Viêm
Vương Quang Phật 6) Thanh Tịnh Quang Phật 7) Hoan
Hỷ Quang Phật 8) Trí Tuệ Quang Phật 9) Bất
Đoạn Quang Phật 10) Nan Tư Quang Phật 11) Vô Xứng
Quang Phật 12) Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.
[6] Năm đói kém, thiên tai dữ dội.
[7] Vân Ô: tức Vân Thê và núi Ô Long. Vân Thê là
đạo tràng Tịnh Độ của Liên Tŕ đại
sư (Bát Tổ của Tịnh Tông), Ô Long là đạo
tràng Tịnh Độ của Thiếu Khang đại
sư (Ngũ Tổ Tịnh Độ Tông).
[8] “Bố kim vô địa”: Bố Kim
(trải vàng) là điển tích trưởng giả Cấp
Cô Độc đem vàng trải lên mặt đất
để mua lại khu vườn của thái tử
Kỳ Đà (Jeta) nhằm dựng tinh xá cúng dường
đức Phật. Do vậy, “bố kim” thường dùng
để chỉ hành động cúng dường rộng
răi của tín đồ. Từ ngữ “bố kim vô
địa” ở đây chỉ được dùng với
ư nghĩa sư Ích Châu không có đạo tràng hoặc không có
tài sản để duy tŕ một đạo tràng nhằm
tu tập theo đường lối do Sư đề
xướng.
[9] Khu Ô (đuổi quạ) là danh từ thường dùng để chỉ hàng Sa-di, từ bảy đến mười ba tuổi. Do c̣n bé quá, không làm được ǵ, chỉ được cắt cử đuổi quạ hay chim chóc đến ăn thóc lúa của chư Tăng phơi phóng. Ở đây dùng với hàm ư khiêm tốn: Diệu Liên chẳng có tài năng ǵ ra hồn!
[10] Nguyên văn “cưỡng băo”, ta
thường dịch là cái địu, tức là một
tấm vải có gắn dây buộc ở bốn phía,
người Trung Hoa thường dùng để buộc con
vào sau lưng trong khi người mẹ làm việc. “Thôi
địu” nghĩa là trẻ không cần phải
địu nữa, thường là khi đă lên hai tuổi,
có thể tự đi lại được, không cần
phải ẵm.
[11] Tuyền Đà La Ni là một trong ba môn Đà La Ni được nói đến trong phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát của kinh Pháp Hoa, hàm nghĩa: Xoay chuyển cái tâm phàm phu chấp trước vào tướng Có của các pháp để thấu đạt được trí lực nơi lư Không. Đây là kết quả của Không Quán.
[12] Phán thích: Phán định, giải thích
một kinh thuộc thời nào trong Ngũ Thời,
thuộc giáo nào trong Ngũ Giáo. Nói cách khác, phán thích là
vận dụng lập luận nhằm giải thích,
biện minh cho sự phân loại, hệ thống hóa kinh
điển đă được đức Phật
giảng dạy trong suốt một đời.
[13] Ngài Trí Giả đă đem Phật chia thành sáu địa vị (tức sáu mức độ chứng đắc) gọi là Lục Tức Phật, nghĩa là:
1) Lư Tức Phật (c̣n gọi là Tác Lư Phật) chỉ hết thảy chúng sanh. Do hết thảy chúng sanh đều sẵn có Phật tánh, chẳng hai, chẳng khác ǵ với hết thảy chúng sanh nên xét về Lư th́ chúng sanh đều là Phật. Do vậy gọi là Lư Tức Phật.
2) Danh Tự Tức Phật (c̣n gọi là Danh Tự Phật): Nghe thiện tri thức giảng nói, hoặc do đọc kinh điển liền hiểu rơ “Lư Tánh chính là tên gọi khác của Phật”. Những người này thông đạt hiểu rơ về mặt danh tự “các pháp đều là Phật pháp”, tức là nhận thức và “chứng đắc” Phật quả chỉ qua sự hiểu biết danh tự nên gọi là Danh Tự Tức Phật.
3) Quán Hạnh Tức Phật: Đă hiểu rơ hết thảy pháp đều là Phật pháp, y giáo tu hành để đạt đến mức hiểu rơ tâm, lư huệ tương ứng, lời nói phù hợp với việc làm và sự tu tập nên gọi là Quán Hạnh Tức Phật. Nếu hiểu chi tiết hơn th́ từ địa vị này lại chia làm năm phẩm, tức Tùy Hỷ Phẩm, Độc Tụng Phẩm, Thuyết Pháp Phẩm, Kiêm Hành Lục Độ Phẩm, và Chánh Hành Lục Độ Phẩm.
4) Tương Tự Tức Phật: Bậc đă đạt đến mức lục căn thanh tịnh, đoạn trừ Kiến Hoặc, Tư Hoặc, chế ngự được vô minh.
5) Phần Chứng Tức Phật (c̣n gọi là Phần Chân Tức Phật): Đoạn vô minh, chứng Trung Đạo nhưng chỉ được một phần, chưa trọn vẹn.
6) Cứu Cánh Tức Phật: Chứng đắc Phật Quả Toàn Giác.
Sáu địa vị này xét về Lư không tách rời Phật Tánh sẵn có trong tự tâm, nên gọi là “tuy sáu mà thường tức”, tùy theo mức độ mê ngộ sâu hay cạn, công phu tu hành sâu hay cạn, mà sự chứng đắc khác biệt nên nói “tuy tức mà thường sáu”.
[14] Phật Lũng là ngọn núi cao nhất
ở phía Nam rặng Thiên Thai, chính là nơi ngài Trí Giả
trụ tích. Do vậy, đôi khi đại sư c̣n
được gọi là Phật Lũng Thiền Sư.
Trong chùa Chân Giác trên ngọn Phật Lũng hiện vẫn
c̣n tháp thờ nhục thân Trí Giả đại sư.
[15] Giới Hiền (Śīlabhadra) sống khoảng thế kỷ thứ 6, hay thứ 7, là một vị Luận Sư nổi tiếng của Đại Thừa Phật Giáo Du Già Hạnh (Duy Thức), trụ tŕ chùa Na Lan Đà ở tại nước Ma Kiệt Đà, Ấn Độ. Sư thuộc ḍng dơi hoàng gia Samatata ở Đông Ấn, hiếu học từ thuở nhỏ, tham học với khắp các bậc minh triết. Khi đến Na Lan Đà, Sư gặp được Hộ Pháp Bồ Tát, nghe ngài giảng pháp, tin tưởng, giác ngộ, bèn theo xuất gia. Năm 30 tuổi, Sư từng viết luận khiến các sư trưởng ngoại đạo khắp cả một giải Nam Ấn Độ phải chịu thua. Sư trụ tŕ chùa Na Lan Đà rất lâu, chuyên hoằng truyền giáo nghĩa Duy Thức. Sư y cứ các bộ Giải Thâm Mật Kinh, Du Già Sư Địa Luận v.v… chia Phật giáo thành ba thời là Hữu, Không, Trung, lập ra thuyết Ngũ Chủng Tánh. Khi ngài Huyền Trang đến cầu học, Sư đă hơn trăm tuổi. Do đức độ và kiến thức của Sư, đại chúng không kêu trực tiếp pháp danh nữa mà gọi Sư bằng mỹ hiệu Chánh Pháp Tạng. Về nỗi khổ của đại sư Giới Hiền, trong thư trả lời cư sĩ Châu Tụng Nghiêu (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển 1), Tổ đă cho biết: “Xưa kia, Giới Hiền luận sư ở Tây Vực, đức cao khắp đời, đạo lẫy lừng Tứ Trúc (bốn xứ Thiên Trúc). Do túc nghiệp nên thân mắc ác bệnh, khổ sở cùng cực, chẳng thể chịu đựng nổi, muốn tự tử, chợt thấy ba vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm giáng xuống, bảo: “Ông trong kiếp xa xưa kia, nhiều lần làm quốc vương năo hại chúng sanh, đáng lẽ đọa ác đạo từ lâu. Do ông hoằng dương Phật pháp nên phải chịu nỗi đau khổ nhỏ này trong cơi người để tiêu diệt nỗi khổ địa ngục cả kiếp dài lâu. Ông nên gắng chịu đựng, xứ Đại Đường có một vị Tăng tên là Huyền Trang, ba năm nữa sẽ đến đây học pháp”. Giới Hiền luận sư nghe xong, ráng chịu đau sám hối, lâu ngày lành bệnh. Đến ba năm sau, ngài Huyền Trang đến đó, ngài Giới Hiền bảo đệ tử thuật lại t́nh trạng đau khổ của căn bệnh. Người kể lại nỗi khổ nghẹn ngào, ứa lệ, đủ thấy sự khổ ấy rất lớn”.
[16] “Nhĩ Thuận” là sáu mươi
tuổi. Nhĩ
Thuận vốn là một thành ngữ phát xuất từ
một câu nói của Khổng Tử trong sách Luận
Ngữ: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học, tam
thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc,
ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ
thuận, thất thập nhi tùng sở dục, bất du
củ” (Ta dốc chí học tập từ năm
mười lăm, đến năm ba mươi tuổi
ư chí đă định, bốn mươi tuổi không c̣n
lầm lẫn, năm mươi tuổi hiểu mạng
trời, sáu mươi tuổi tai nghe đă thuần,
bảy mươi tuổi hành xử thuận theo ḷng
muốn, không trái vượt quy củ).
[17] C̣n gọi là “tùy táng vật” hoặc
“bồi táng vật”, tức những thứ thường
dùng để chôn
theo người chết để người ấy
sử dụng trong cơi Âm! Thời cổ, những gia
đ́nh quư tộc thường chôn theo người chết
rất nhiều vật dụng bằng ngọc, bằng
đá và những kim loại quư.
[18] Bà này họ Vương, pháp danh là Thánh
Duyên, chồng họ Hà nên được gọi là Hà
Thị Vương Thánh Duyên.
[19] Thọ y: Chỉ chung những thứ
quần áo, giày vớ may sẵn để mặc cho
người chết khi tẩm liệm.
[20] Nam Thiệm Bộ Châu, là cách phiên âm khác của Nam Diêm Phù Đề (Daksina-Jambu-dvīpa), đôi khi c̣n phiên âm là Diêm Phù Lợi, Thiệm Bộ Đề, Diêm Phù Đề Bệ Ba. Jambu vốn là một loại cây, dưới gốc sanh ra một loại vàng rất quư gọi là Diêm Phù Đàn Kim. Theo phẩm Diêm Phù Đề, quyển 18 kinh Trường A Hàm, châu Nam Diêm Phù Đề phía Nam hẹp, phía Bắc rộng, kích thước chừng bảy ngàn do-tuần. H́nh dáng mặt người sống trong châu ấy giống như h́nh thể của đại châu (tức trên rộng, dưới hẹp). Phía Bắc có ao A Nậu Đạt là nơi phát nguyên sông Hằng, có năm trăm con sông chảy vào biển Đông v.v…
[21] Theo A Dục Vương Tự Sơn Chí, ngài Huệ Đạt tục danh là Lưu Tát Ha, vốn là người xứ Ly Thạch, Tinh Châu, nằm mộng thấy một vị Tăng người Ấn Độ báo cho biết ông ta mắc tội sẽ đọa địa ngục, hăy nên sang Cối Kê đảnh lễ tháp A Dục Vương để sám hối các tội. Họ Lưu tỉnh giấc liền xuất gia, pháp danh là Huệ Đạt, sang Cối Kê t́m tháp. Sư t́m măi không được, đau ḷng, phiền muộn. Một đêm nọ, chợt nghe dưới đất vẳng lên tiếng chuông, ba giờ sau, tháp báu từ dưới đất vọt lên. Tháp ấy chẳng phải bằng vàng, ngọc, đồng, sắt, cũng không phải là bạch ngọc, sắc đỏ đậm ánh tía, điêu khắc cực kỳ tinh xảo. Chính giữa tháp có treo một cái chuông đựng xá-lợi. Do vậy, Huệ Đạt liền dựng tinh xá thờ tháp ấy ngay tại đó, siêng năng tu hành lễ sám. Ngôi chùa ấy về sau trở thành chùa A Dục Vương. Cái tên Quảng Lợi là do Tống Chân Tông sắc tứ, nhưng dân chúng vẫn gọi là A Dục Vương Tự như cũ. Đến thời Minh, Minh Thái Tổ lại đổi tên chùa Quảng Lợi thành Dục Vương Thiền Tự.
[22] Hồi Lộc theo truyền thuyết là
tên một vị thần lửa, vốn là tên một viên
quan trông nom giữ lửa cho Hoàng Đế vào thời
cổ. Do vậy, sau này thường dùng chữ Hồi
Lộc để chỉ hỏa tai.
[23] Ư nói: Vua Đại Vũ, Hậu
Tắc và Nhan Uyên do địa vị khác nhau nên làm những
công hạnh khác nhau, nhưng đều cùng xuất phát
từ một đạo tâm. Nhan Uyên giữ ḷng nhân, vua
Đại Vũ trị thủy cứu dân khỏi nạn
lụt. Hậu Tắc lo cấy cày, gieo những giống
lúa tốt, giúp dân khỏi đói.