Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,

Quyển 4

Phần 1

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang

 

13. Bài tụng nhân lễ khai mạc Bảo Sơn Cư Sĩ Lâm

 

      Như Lai đại pháp là nguồn các pháp, mảy trần chẳng lập, vạn đức vẹn toàn. Khắp cả thế gian và xuất thế gian, nhân quả, sự lư, không ǵ chẳng gồm! Giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, mong thành thánh hiền, tâm địa ắt phải chẳng thẹn bóng áo[1], tu Giới - Định - Huệ, đoạn tham - sân - si. Tự lợi, lợi tha, cùng chứng Bồ Đề. Ví như dựng nhà, trước phải đắp nền; nền đă kiên cố, không ǵ chẳng thành. Do vậy học Phật, trước hết là phải giữ vẹn luân thường. Luân thường chẳng thiếu, mới hợp đạo chân. Chúng sanh đời Mạt nghiệp chướng sâu nặng, chỉ cậy tự lực, khó khỏi trầm luân. Như Lai xót thương, mở môn Tịnh Độ. Dùng chân tín nguyện, tŕ hồng danh Phật. Chúng sanh vận dụng ḷng Thành cảm Phật; Phật v́ từ bi, cảm ứng đạo giao, như gương hiện bóng. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Nếu được như thế, muôn người tu tập, muôn người văng sanh. Từ đầu đến cuối, dốc cạn thành kính, đừng làm các ác, vâng làm các lành. Dạy xuông sẽ căi, thân làm người theo. Nh́n vào cảm hóa, lợi ích thật to. Bảo Sơn sáng lập Cư Sĩ pháp lâm, riêng viết đại nghĩa, phát khởi tín tâm. Một pháp Niệm Phật, nhiếp khắp các pháp, dường như hư không, chứa muôn h́nh tượng, trọn hết thông đạt. Nguyện người thấy nghe, đều cùng nức ḷng, ngơ hầu kiếp vận, do đây tiêu diệt. Ḷng người đă chuyển, thiên quyến[2] tự đến, thời vận ḥa b́nh, mùa màng sung túc, hưởng măi thái b́nh.

 

14. Ca tụng đức hạnh cao đẹp của Tŕnh thái phu nhân mẹ ông Vương

 

      Nghĩ tưởng Vương mẫu, túc căn thật sâu. Từ bé mẹ đă đỡ tốn công sức, giáo hóa uốn nắn, hiếu dưỡng song thân; lớn lên, lấy ông Vương, một niềm hiếu thuận, giúp chồng quán xuyến, trọn hết phận vợ. Ông Vương qua đời, nuôi dạy con cái, vừa từ, vừa nghiêm, mềm mỏng, cứng rắn, đều cùng rạng ngời. Con đă trưởng thành, cho đi học hỏi, phụng sự đất nước, mong noi tiên giác. Những năm gần đây, con là Bách Linh, thâm nhập Phật pháp, khuyên mẹ nhất tâm, tu tŕ Tịnh nghiệp. Tới lúc lâm chung, niệm Phật qua đời, chưa thấy tướng lành, Linh khá lo nghĩ, càng thêm tinh tấn.Trong khi quán Phật, tưởng nhớ tới mẹ, được thấy mặt mẹ, gần giống mặt Phật. Khi mẹ c̣n sống, mẹ con nương nhau, để cùng sống c̣n. Khi mẹ mất rồi, để khích lệ con, hiện bóng cho thấy. Tuyệt thay, Vương mẫu! Anh hiền khuê các! Nên viết đại lược để lưu truyền măi.

 

15. Bài tán dương đề trên h́nh ảnh tỳ-kheo-ni Tiên Đức

 

      Từ khi vào Không Môn, ḷng chỉ nghĩ đến Phật, trong suốt mười hai thời, niệm Phật chẳng gián đoạn. Niệm lâu ngày chầy tháng, tâm đă hợp với Phật, biết trước được lúc mất, đến kỳ, ngồi qua đời, nhằm lợi khắp nữ giới, nên viết bài tụng này. Nguyện cho người đời sau, giữ măi hạnh đẹp ấy.

 

16. Bài tán dương đề trên h́nh cư sĩ Cao Hạc Niên

 

      Người chê cư sĩ tánh quá thiên lệch, tôi khen sự thiên lệch ấy chính là Viên. Do Thiên nên chẳng màng gia sản, do Thiên nên hiểu sâu Giáo, Thiền. Do Thiên nên vân du các nơi danh thắng trong cả nước. Do Thiên nên tham học với khắp các bậc cao hiền trong Tông, trong Giáo. Do Thiên nên chuyên tu pháp đặc biệt là Tịnh Độ. Do Thiên nên kết Tịnh duyên với khắp những người cùng hàng. Do Thiên nên chẳng truyền ḍng giống. Sửa nhà thành am để an trụ bậc trinh tiết, ngơ hầu họ được trọn vẹn thiên tánh, nay đă sắp ĺa đời ác Ngũ Trược, lên thẳng chín phẩm sen báu nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, qua h́nh vẽ của bạn già là Vương Nhất Đ́nh, bèn viết lời chân thật để nêu tỏ duyên do của sự thiên lệch ấy (Cuối Xuân năm Bính Tư, tức năm Dân Quốc 25 - 1936)

 

17. Nêu lên những điểm chánh yếu của sách Sức Chung Tân Lương

 

      Lúc mạng sắp hết, Tứ Đại chia ĺa, mọi khổ đều nhóm. Nếu chẳng phải từ lâu đă chứng tam-muội, thật sợ chẳng dễ ǵ đắc lực được! Huống chi quyến thuộc chẳng am hiểu lợi - hại, thường v́ t́nh cảm thế tục mà phá hoại chánh niệm. Do vậy, Sức Chung Xă được thành lập. Sức Chung ( ) có nghĩa là giúp đỡ cho người sắp mất được văng sanh. Ấy là v́ đang trong lúc ấy, nếu hành nhân được phụ trợ bằng khai thị, hướng dẫn sẽ sanh tâm vui mừng, hoan hỷ, ḷng tham ái chấm dứt, tai nghe danh hiệu Phật, tâm duyên theo cảnh Phật, sẽ tự có thể cảm ứng đạo giao cùng Phật, được Phật tiếp dẫn văng sanh Tây Phương. Ví như kẻ yếu hèn muốn lên núi cao, đằng trước có người lôi, sau lưng có kẻ đẩy, hai bên có người xốc nách d́u đi, sẽ tự chẳng đến nỗi bỏ cuộc giữa chừng. Dẫu cho kẻ lúc b́nh thường trọn chẳng hề nghe đến Phật pháp, lâm chung được thiện tri thức chỉ dạy liền sanh tín tâm. Lại được trợ niệm Phật hiệu khiến cho người ấy theo tiếng niệm của đại chúng mà niệm ra tiếng hoặc niệm thầm trong tâm. Nếu được trợ niệm đúng pháp, không có hết thảy những chuyện phá hoại chánh niệm th́ cũng có thể văng sanh. Do Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, do pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, do chúng sanh tâm lực chẳng thể nghĩ bàn, nên được lợi ích thù thắng ấy. Nguyện những ai làm con làm cháu và các quyến thuộc cùng hàng phụ mẫu v.v… đều biết nghĩa này, cùng hành theo đó th́ mới gọi là chân từ, hiếu thảo với cha mẹ, thương yêu người thân vậy.

 

18. Đề từ cho cuốn Nghi Thức Niệm Tụng Của Linh Nham Sơn Tự

 

      Hết thảy kinh Phật và các sách xiển dương Phật pháp, không một loại nào chẳng nhằm làm cho con người lánh dữ, hướng lành, sửa lỗi, hướng thiện, nêu rơ nhân quả ba đời, hiểu rơ Phật tánh sẵn có, vượt khỏi biển khổ sanh tử, sanh lên cơi sen Cực Lạc. Người đọc hăy nên sanh tâm cảm ân, sanh ư tưởng khó gặp gỡ, tay sạch, bàn sạch, giữ ḷng kính, ǵn ḷng Thành, như đối trước Phật, trời, như đến trước các quan dạy bảo đế vương[3] th́ vô biên lợi ích sẽ đích thân đạt được. Nếu phóng túng không kiêng dè, mặc t́nh khinh nhờn, và cố chấp, thấy biết hẹp ḥi, lầm lạc sanh ḷng hủy báng, tội lỗi sẽ ngập trời, khổ báo vô tận. Kính khuyên người đời, hăy lánh xa tội, cầu lợi ích, ĺa khổ được vui vậy!

 

19. Đề từ cho sách A Di Đà Kinh Bạch Thoại Giải Thích

 

      A Di Đà Kinh chính là đạo để hết thảy thánh - phàm cùng tu, cũng là pháp để quyết định liễu thoát ngay trong đời này. Kinh văn tuy rơ ràng, giản lược, nghĩa cực rộng sâu. Cổ đức muốn cho ai nấy đều tu tập, nên xếp kinh này vào khóa tụng hằng ngày. Thường có những thiện tín b́nh dân chẳng thấu hiểu văn lư sâu xa, tuy đọc các trước thuật của cổ đức vẫn chẳng biết nghĩa lư y như cũ. Cư sĩ Hoàng Hàm Chi muốn cho hết thảy mọi người cùng được gội ân Phật, đều được hưởng lợi ích thật sự, liền dùng thể văn Bạch Thoại để viết lời giải thích ngơ hầu những kẻ hơi biết chữ đều được hiểu rơ ràng. Lần đầu in một ngàn bộ, không lâu sau, thư gởi đến xin thỉnh hết sạch, bèn tính cách lưu truyền rộng răi, rút nhỏ khổ sách lại. Những người cùng chí hướng bỏ tiền in tới hai vạn cuốn để mong cho những học nhân sơ cơ tu tŕ Tịnh nghiệp đều cùng được thọ tŕ. Mong rằng những ai có được bản chú giải này sẽ cung kính tu tập, xoay vần lưu thông, khiến cho khắp mọi đồng nhân đều được thọ tŕ. Đem công đức này giúp cho Tịnh nghiệp th́ khi hết báo thân này sẽ lên thẳng chín phẩm, thấy Phật, nghe pháp, chứng Vô Sanh Nhẫn, sự vui sướng ấy làm sao diễn tả được?

      Các kinh Đại Thừa đều lấy Thật Tướng làm Thể, đế lư được nói trong các kinh ấy trọn chẳng hơn - kém. Nếu luận về cơ nghi th́ trong sự không hơn - kém, lại có sự hơn - kém lớn lao! Bởi lẽ, đối với các pháp môn được nói trong hết thảy các kinh đều phải tự lực tu tập cho đến khi nào đoạn Hoặc chứng Chân th́ mới có phần liễu sanh tử; c̣n pháp môn được nói trong ba kinh Tịnh Độ chính là phàm phu sát đất dùng tín nguyện sâu tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, kiêm thêm “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Tuy đầy dẫy Hoặc nghiệp, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực đới nghiệp văng sanh. Đấy chính là điều chưa từng có trong hết thảy các kinh, chính là đại pháp môn của đức Như Lai nhằm làm cho khắp hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng thoát khỏi luân hồi lục đạo ngay trong đời này. Nhưng kinh A Di Đà lời văn giản lược, nghĩa lư phong phú, thấu triệt khắp mọi căn cơ, lợi ích của kinh hết kiếp khó thể tuyên nói được! V́ vậy, kể từ khi đức Phật nói ra pháp này đến nay, văng thánh tiền hiền người người đều hướng về, ngàn kinh muôn luận chốn chốn chỉ quy. Kẻ có duyên gặp được xin đừng bỏ lỡ th́ may mắn lắm thay!

 

20. Đề từ cho sách Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

 

      Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng lớn, tùy loại hiện thân tầm thanh cứu khổ. Người đời hễ gặp phải tật bệnh, hoạn nạn, nếu có thể vận tâm sửa lỗi, hướng lành, cung kính, chí thành, thường niệm danh hiệu Bồ Tát, không ai chẳng được Ngài rủ ḷng gia bị tùy theo ḷng Thành lớn hay nhỏ. Nhỏ là gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành hên; lớn là nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận, phước tăng, cho đến siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Đáng tiếc người đời phần nhiều chẳng biết! V́ thế, riêng đọc khắp các kinh điển và các sách vở, soạn thành tụng văn, thêm lời chú thích tường tận, ngơ hầu cả cơi đời đều biết Bồ Tát quả thật là thuốc men cho bệnh ngặt, là gạo thóc trong năm đói kém, là người dẫn đường nơi nẻo hiểm, là bè báu nơi bến mê. Kính mong những ai thấy nghe sách này đều cùng tùy sức của chính ḿnh, lần lượt khuyên chỉ, in tặng, lưu thông, khiến cho hết thảy đồng luân đều được gội từ ân của Phật, cùng thấm nhuần pháp hóa, ngơ hầu an ủi bi tâm độ sanh của Bồ Tát, thỏa măn chí nguyện cảm thánh của đương nhân vậy!

      Phật pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường hư không. Nếu nói thiển cận th́ phàm phu đều có thể biết, có thể hành. Nếu nói sâu xa th́ thánh nhân vẫn có những điều chẳng biết! Những kẻ thông minh trong thế gian nếu có hàm dưỡng, từng trải th́ sẽ nhập đạo. Nếu không, ắt sẽ do trí huệ nhỏ nhoi mà tự phụ đến nỗi lầm lạc cậy vào sự hiểu biết của chính ḿnh rồi hủy báng Phật pháp. V́ thế, đức Phật xếp Thế Trí Biện Thông vào tám nạn. Điều này đáng răn dè sâu đậm, thiết thực! Căn bệnh ấy chính là do dùng tri kiến của phàm phu để suy lường cảnh giới của Phật, Bồ Tát. Nếu biết phàm phu quyết chẳng thể suy lường cảnh giới của Phật, Bồ Tát th́ sẽ ngưng dứt được căn bệnh ấy. Đừng nói cảnh giới của Phật, Bồ Tát chẳng thể suy lường được, đối với chủ nhân ông của khởi tâm động niệm, kẻ ấy từ sống đến chết há có biết được, có nh́n thấy chút nào hay chăng? Nếu đích thân biết được, thấy được chủ nhân ông của khởi tâm động niệm nơi chính ḿnh th́ sẽ dần dần biết được cảnh giới của Phật, Bồ Tát.

Những kẻ trí huệ nhỏ nhoi mà cứ tự phụ ví như kẻ mù chẳng thấy được mặt trời, bèn bảo: “Chẳng có mặt trời!” Lũ mù nghe vậy, khen ngợi kẻ ấy: “Kiến thức cao siêu, đích xác, không sai lầm”, chẳng biết đấy chính là tà thuyết tự lầm, lầm người! Há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? V́ thế, phàm những bậc đại thông gia lỗi lạc xưa nay, không ai chẳng dùng Phật pháp để làm cái gốc nhằm “cùng lư tận tánh” ḥng giữ yên cơi đời, giữ cho dân lương thiện. Những vị lập đại công, dựng đại nghiệp, nêu tỏ được những lẽ mầu nhiệm chưa truyền của thánh hiền, đấy đều là do học Phật đắc lực mà được; nhưng kẻ tự phụ thông minh đâu có biết như thế? Kẻ bệnh biết thuốc, lăng tử là khách đáng thương, khôn ngăn cảm khái, buồn than, giăi tấm ḷng trung để thưa bày. Nếu rủ ḷng tiếp nhận th́ may mắn lắm thay!

      Hết thảy kinh Phật và những kinh sách xiển dương Phật pháp đều nhằm làm cho con người giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, sửa lỗi hướng lành, hiểu rơ nhân quả ba đời, nhận biết Phật tánh vốn sẵn có, thoát biển khổ sanh tử, sanh lên cơi tịnh Cực Lạc. V́ thế, phải vô cùng cung kính, chớ nên khinh nhờn! Sách này tŕnh bày cặn kẽ Bổn và Tích của đức Quán Âm trong những kiếp xưa, cũng như sự cảm ứng ở phương này. Phân nửa quyển một phần nhiều trích dẫn kinh văn, trọn quyển bốn là những đoạn trích dẫn từ kinh điển. Những quyển khác tuy gồm những trích dẫn từ các sách vở, nhưng đều nhằm chỉ rơ chuyện cứu khổ ban vui của đức Quán Âm th́ cũng giống như kinh. Do ân từ đức thánh ban bố cho nên nói: “Phải tôn kính như tôn kính đức thánh vậy!” Người đọc ắt phải sanh ḷng cảm ơn, sanh ư tưởng khó được gặp gỡ, tay sạch, bàn sạch, giữ ḷng kính, ǵn ḷng thành, như đối trước Phật, trời, như tới trước mặt thầy dạy của đế vương th́ vô biên lợi ích sẽ đích thân đạt được. Nếu buông lung không e dè, mặc sức khinh nhờn và cố chấp nơi sự thấy biết hẹp ḥi của chính ḿnh rồi sanh ḷng hủy báng xằng bậy th́ tội lỗi ngập trời, khổ báo vô tận. Ví như kẻ mù đụng phải núi báu, đâm ra bị thương tổn, chẳng đáng buồn sao?

 

* Kính cẩn tŕnh bày phương pháp xem đọc dành cho những vị chưa từng nghiên cứu Phật học

 

      Ba quyển đầu trong bộ tụng văn này được chia làm hai phần lớn:

1) Từ trang thứ nhất của quyển Một cho đến ḍng thứ sáu của trang hai mươi lăm [trong quyển Một] đều là những bài ca tụng các chuyện thuộc Bổn hay Tích của Bồ Tát trong kiếp xưa trích theo kinh điển.

2) Tiếp theo đó đều là những bài kệ tụng về sự tùy cơ cảm ứng của Bồ Tát ở phương này (tức cơi Sa Bà nói chung và Trung Hoa nói riêng – chú thích của người dịch).

Nếu những vị nào chưa từng nghiên cứu Phật Học th́ khi xem, hăy nên đọc trước từ ḍng thứ bảy trang hai mươi lăm của quyển thứ nhất trở đi cho đến hết quyển thứ ba. Rồi đọc những phần dẫn kinh văn để chứng minh trong quyển thứ tư. Đọc phần kinh văn dẫn chứng xong, lại xem từ trang thứ nhất của quyển Một th́ sẽ chẳng cảm thấy khó hiểu, chẳng nẩy sanh ư tưởng không muốn đọc cho hết, chắc chắn sẽ hớn hở, hoan hỷ, sanh ḷng cảm kích lớn lao. Đối với những điều người đời trước đă may mắn tránh được th́ chính ḿnh cũng muốn tránh. Phàm những ǵ người xưa đă may mắn đạt được th́ chính ḿnh cũng muốn đạt được. Bỏ cái tâm chấp trước của phàm phu, thuận theo hoằng nguyện của Bồ Tát, tự xót, xót người, tự thương, thương người. Từ đấy thường niệm thánh hiệu của Bồ Tát, lại c̣n khuyên khắp hết thảy những người cùng hàng [đều niệm danh hiệu Bồ Tát] để ắt đều tiêu trừ nghiệp chướng từ vô thủy, tăng trưởng thiện căn tối thắng, gần là hưởng cái nhân “các duyên thuận thảo, không điều ǵ chẳng tốt lành”, xa là đạt cái quả “siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử”.

 

* Kính khuyên các độc giả phải chú trọng chí thành cung kính để tự đạt được lợi ích thật sự

 

       Pháp thế gian hay xuất thế gian đều lấy ḷng Thành làm gốc. Hễ có ḷng Thành th́ sẽ cảm được thánh ứng; không có ḷng Thành th́ do không cảm, thánh sẽ không ứng. Ví như mặt trăng rạng rỡ giữa bầu trời, hiện bóng trong muôn sông. Nếu nước đục ngầu, xao động, bóng trăng khó thể hiển hiện được. Do nước gây nên như thế, đâu phải lỗi của trăng! V́ thế nói: “Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp, ắt phải cầu từ nơi cung kính. Có một phần cung kính, tiêu được một phần tội nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có mười phần cung kính, tiêu được mười phần tội nghiệp, tăng mười phần phước huệ”. Nếu không cung kính th́ chỉ kết được cái duyên xa, khó được lợi ích thật sự. Nếu lại c̣n khinh nhờn sẽ mắc tội vô lượng.

Hơn nữa, những bài tụng và lời chú giải trong các trang mười sáu, mười bảy, mười tám của quyển Ba nhằm dẫn khởi trí huệ, chứa đựng nhiều Thiền cơ. Những câu nói ấy chỉ có người thật sự có sở ngộ mới hiểu được ư chỉ, chớ nên ḍ đoán, t́m ṭi ư nghĩa dựa theo câu văn! Dẫu cho sẵn tánh thông minh, hễ càng suy lường th́ càng xa. Lời lẽ trong nhà Thiền đều là như thế. Nếu có thể chú trọng ḷng kính, giữ ḷng Thành, chấp tŕ thánh hiệu của Bồ Tát th́ mai kia nghiệp tiêu trí rạng, tất cả những lời lẽ Thiền cơ sẽ đều hiểu rơ từng câu như “mở cửa thấy núi, vẹt mây thấy mặt trăng” vậy!

 

21. Đề từ cho An Sĩ Toàn Thư

* Đọc sách cần biết

 

      Trong sách này, phàm tân truyền[4] của Khổng - Mạnh, đạo mạch của Phật, Tổ, cách vật, trí tri, thành ư, chánh tâm, liễu sanh thoát tử và những lời ăn tiếng nói, xử sự trong thường ngày, khởi tâm động niệm, mỗi mỗi đều chỉ rơ, đáng làm khuôn mẫu. Thật có thể nói là “mượn nhân quả thế gian để chỉ rơ khuôn mẫu huyền nhiệm ḥng trở thành thánh”, quả thật là đạo mầu để Như Lai tùy theo căn cơ độ sanh, là chân thuyên[5] để chúng sanh ĺa khổ được vui. Độc giả hăy nên coi sách này giống hệt như kinh Phật, hăy giữ ḷng kính nể, đừng khinh nhờn th́ không phước nào chẳng đưa tới, không tai nạn nào chẳng tiêu! Kính thưa tŕnh cách đọc gồm mười điều, mong hăy xét cho ḷng ngu thành.

      1) Lúc sắp mở sách ra đọc tụng, trước hết hăy nên phát tâm cung kính như gặp vị khách quư, như đối trước bậc tiên triết, ngơ hầu luôn luôn ngộ nhập được dụng ư sâu xa của tác giả.

      2) Lúc sắp mở sách ra đọc tụng, trước hết hăy nên phát tâm chí thành, thốt lời khẩn thiết, khen ngợi ông Châu An Sĩ vận tâm cứu thế rộng lớn để soạn thành kiệt tác cứu thế này và vui mừng ḿnh đă hữu duyên được đọc.

      3) Lúc sắp mở sách ra đọc tụng, trước hết hăy nên rửa tay, súc miệng, đặt sách trên bàn sạch trong gian pḥng sạch sẽ rồi mới mở ra xem.

      4) Lúc sắp mở sách ra đọc tụng, trước hết chỉnh đốn quần áo, ngồi ngay ngắn một lát, sám hối hết thảy những ác niệm, ác ngữ, ác hạnh như ganh ghét, khinh mạn, kiêu cuồng v.v…

      5) Lúc đọc tụng, hễ ngộ nhập được một câu một chữ, đều nên khởi ḷng hoan hỷ lớn lao và tùy thời ghi chép những điều tâm đắc, đừng bỏ mặc cho quên mất!

      6) Lúc đọc tụng, hăy nên nghĩ rộng răi về ư nghĩa, thoạt đầu là dùng sách để nhiếp tâm, tiếp đó dùng tâm để chuyển nghiệp, cuối cùng tiến tới tâm niệm không ngừng nghỉ thực hành, khuyên dạy rộng răi để chuyển thế giới Ngũ Trược thành thế giới Cực Lạc.

      7) Lúc tâm khởi vọng niệm, hăy nên cung kính đặt sách xuống, tạm ngừng đọc.

      8) Đọc xong hoan hỷ, theo đúng pháp vâng làm, hăy nên thường khởi ḷng hâm mộ tâm hoằng pháp của ông Châu, tận lực bắt chước làm theo.

      9) Đọc hết bộ sách xong, hăy nên nghĩ kỹ rộng răi xu hướng trong xă hội hiện tại để nhiếp hóa rộng lớn, ngơ hầu điều lành được lưu truyền.

      10) Đọc hết bộ sách xong, thấy được những chỗ có thể tuyên thuyết phù hợp căn cơ liền v́ người không biết chữ mà phương tiện diễn nói rộng răi để tạo lợi ích lớn lao.

 

* Lời ghi sau sách

 

      Sách này mượn từ ngữ để xiển dương ư nghĩa, tinh tường, tỉ mỉ trọn vẹn. Đối với cách vật, trí tri, thành ư, chánh tâm, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ, cùng lư, tận tánh, xử thế, xuất thế, đều tạo lợi ích lớn lao, đáng coi là bộ sách lạ lùng văn hồi thế đạo nhân tâm bậc nhất. Độc giả cần phải chú trọng cung kính, kiền thành, khiết tịnh, lắng ḷng suy nghĩ lănh hội th́ vô biên lợi ích sẽ đích thân đạt được. Nếu như khinh nhờn, sẽ mắc tội chẳng cạn. Nếu chẳng muốn xem, xin hăy tặng lại cho người khác, đừng cất trên gác cao. Lại mong [độc giả xem xong sẽ] lập đủ mọi cách để xoay vần lưu truyền ngơ hầu hết thảy đồng bào trong hiện tại lẫn vị lai đều cùng thoát khỏi đường mê, đều cùng lên bờ giác.

 

22. Đề từ cho bản nghiên cứu “người học Phật có nên ăn thịt hay chăng?”

 

      Rền sấm pháp lớn, diễn đại pháp nghĩa, phá chấp, cứu kiếp, lợi ích khôn ngằn.

 

23. Đề từ cho sách Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục (bài thứ nhất)

 

      Nhân quả báo ứng là phương tiện lớn lao để thánh nhân Nho - Thích b́nh trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Giáo dục trong gia đ́nh chính là thiên chức “củng cố cội gốc, trọn hết bổn phận, vun bồi hiền tài” của hàng thất phu thất phụ. Tín nguyện niệm Phật là diệu pháp để phàm phu đầy dẫy triền phược liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Sách này văn tuy chất phác, vụng về, nhưng nghĩa thật thiết yếu; tựa hồ chỉ để nói riêng với người tu Tịnh Độ, nhưng thật ra ngụ ư đề xướng đạo “nhân quả, báo ứng, giáo dục trong gia đ́nh”. Mong những ai có được bộ sách này hăy nên thường giảng nói, hướng dẫn cha mẹ, anh em, vợ con, xóm giềng, làng nước, thân thích, bằng hữu để bọn họ đều giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính ḿnh để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ắt sống sẽ dự vào bậc thánh hiền, mất về cơi Cực Lạc, may mắn chi hơn? Nguyện những ai đọc tụng hăy cung kính tin nhận, đừng nên khinh nhờn, hăy lần lượt lưu thông, đừng nên bỏ mặc. Sẽ thấy hiền tài dấy lên đông đảo, thiên hạ thái b́nh, nhân dân yên vui. Đấy chính là điều Bất Huệ thơm thảo cầu mong vậy!

 

24. Đề từ cho sách Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục (bài thứ hai)

 

      Pháp môn Tịnh Độ đế lư rất sâu, chỉ có Phật với Phật mới thấu hiểu trọn hết. Bởi lẽ pháp này Đại - Tiểu bất nhị, Quyền - Thật như một; v́ thế trên từ Đẳng Giác Bồ Tát dưới đến phàm phu nghịch ác đều nên tu tŕ, đều có thể tu tập thành tựu. Chúng sanh đời Mạt thiện căn cạn mỏng, nếu chẳng nương vào Phật lực sẽ trông cậy vào đâu? Nếu vâng tin lời Phật, sanh ḷng tin phát nguyện tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Lại c̣n đừng làm các điều ác, vâng làm những điều lành, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành. Nếu làm được như thế th́ trong vạn người không một ai chẳng được văng sanh! Kinh luận Tịnh Độ văn nghĩa rơ ràng, cách tu tŕ của Tịnh Độ tùy cơ tự lập. Đă không phải lo có những chỗ sâu mầu khôn lường, mà cũng chẳng phiền v́ gian nan, khốn khổ. Lại c̣n chẳng tốn kém tiền tài, hơi sức, chẳng trở ngại nghề nghiệp, làm ăn. Nếu có thể tùy phần, tùy sức, thường luôn nghĩ nhớ th́ thần ngưng, ư tịnh, nghiệp tiêu, trí rạng, tự nhiên thân tâm an lạc, các duyên thuận lợi, niềm vui ấy làm sao diễn tả được! Nguyện người thấy kẻ nghe đều cùng tu tŕ, ai nấy đều ôm ḷng tự lợi, lợi tha, cùng phát nguyện tự lập, lập người, cung kính thọ tŕ, tùy duyên xướng suất, hướng dẫn, xoay vần lưu thông, khiến cho được trọn khắp cơi nước ngơ hầu hết thảy đồng luân đều cùng được gội ân Phật, cùng sanh Tịnh Độ th́ thật là điều may mắn lớn lao!

 

25. Đề từ cho sách Cảm Ứng Thiên Trực Giảng

 

      Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian b́nh trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Kinh Thư chép: “Huệ địch cát, tùng nghịch hung, duy ảnh hưởng” (Thuận theo lẽ trời sẽ dẫn đến điều tốt, trái nghịch sẽ hung hiểm, giống như bóng theo h́nh). Lại nói: “Tác thiện giáng chi bách tường, tác bất thiện giáng chi bách ương” (Làm lành th́ trăm điều tốt lành giáng xuống, làm điều chẳng lành th́ trăm nỗi tai ương giáng xuống). Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện th́ niềm vui có thừa, nhà tích điều bất thiện tai ương có thừa). Đấy đều là những lời nói về nhân quả. C̣n như trong Phật pháp th́ lại càng rơ rệt hơn nữa! Trước là nói đến tận quá khứ, sau là chỉ rơ vị lai. Muốn biết cái nhân trong đời trước th́ những ǵ phải hứng chịu trong đời này chính là nó đấy. Muốn biết quả trong đời sau th́ những ǵ đă làm trong đời này chính là nó đấy. Hiểu rơ điều này th́ thiện - ác báo ứng chẳng sai lệch hào ly. Cát, hung, họa, phước đều do [chính ḿnh] chiêu cảm. Con người dẫu chí ngu, quyết cũng chẳng đến nỗi vui mừng v́ gặp tai họa, tránh lành, hướng dữ! Tiếc là không có những tấm gương tầy liếp, đến nỗi con người thường làm những chuyện trái ngược với điều ḿnh mong cầu! Đấy chính là lư do tại sao những bậc quân tử có ḷng lo cho cơi đời coi chuyện miệt mài lưu truyền sách Cảm Ứng Thiên Trực Giảng là nhiệm vụ gấp rút vậy!

 

26. Đề từ cho sách Âm Chất Văn Đồ Chứng

 

      Đời đă loạn đến cùng cực, ai nấy đều mong b́nh trị, nhưng chẳng t́m ra đạo để đạt đến b́nh trị, chỉ mong mỏi xuông th́ rốt cuộc có ích ǵ đâu? Do vậy, phải nên đề xướng giáo dục trong gia đ́nh và nhân quả báo ứng. Giáo dục trong gia đ́nh phải khởi đầu khi con cái đang c̣n thơ ấu, ngơ hầu chúng nó biết tường tận “hiền từ, hiếu thảo, nhường nhịn, cung kính, ḥa thuận, nhân từ, trung thực” chính là thiên chức của kẻ làm con, làm anh em, làm chồng vợ, làm chủ, làm tớ. Từ đấy, ai nấy trọn hết bổn phận của chính ḿnh để mong đấng sanh ra ta chẳng bị hổ thẹn, để làm kẻ hiền thiện. Lại c̣n tuyên nói nhân quả báo ứng ngơ hầu có pháp tắc để chế ngự cái tâm, chẳng đến nỗi vượt lư, phạm phận th́ những ư niệm tự tư tự lợi xấu ác tự bị tiêu trừ, thiện tâm v́ người v́ vật sẽ tự nẩy sanh. Như thế th́ chuyện tranh giành, đánh phá lẫn nhau sẽ bị diệt mất, thiên hạ thái b́nh, nhân dân yên vui. Bởi thế, cùng với những người có cùng một chí hướng lưu thông sách này ngơ hầu người đọc sách sẽ thọ tŕ làm theo, xoay vần lưu truyền th́ may mắn lắm thay!

 

27. Đề từ cho bản in gộp chung tác phẩm Phóng Sanh Sát Sanh Hiện Báo Lục của tiên sinh Giang Thận Tu và bài văn khuyên kiêng giết phóng sanh của Liên Tŕ đại sư

 

Ông Hoàng Sơn Cốc nói:

Ngă nhục, chúng sanh nhục,

Danh thù, thể bất thù,

Nguyên đồng nhất chủng tánh,

Chỉ thị biệt h́nh khu,

Khổ năo tùng tha thụ,

Ph́ cam vị ngă nhu,

Mạc giao Diêm lăo đoán,

Tự sủy, ứng hà như?

(Thịt ta, thịt chúng sanh,

Tên khác, thể chẳng khác,

Vốn cùng một chủng tánh,

Chỉ là khác h́nh hài.

Khổ năo chúng cam chịu,

Ngọt bùi ta hưởng riêng.

Chẳng đợi Diêm vương xử,

Tự suy ắt biết mà!)

 

Nguyện Vân thiền sư có bài kệ như sau:

Thiên bách niên lai oản lư canh,

Oán thâm như hải, hận nan b́nh,

Dục tri thế thượng đao binh kiếp,

Đản thính đồ môn dạ bán thanh.

(Trăm ngàn năm qua trong bát canh,

Oán sâu tự biển, hận khôn b́nh;

Muốn biết đao binh trên cơi thế,

Lắng nghe ḷ mổ giữa đêm thanh)

 

Từ Thọ thiền sư nói:

Ẩm thực ư nhân nhật nguyệt trường,

Tinh thô tùy phận tắc cơ thương,

Hạ hầu tam thốn thành hà vật?

Bất dụng tương tâm tế giảo lượng.

(Đời người ăn uống bao niên,

Dở, ngon tùy phận khỏi phen đói ḷng,

Nuốt qua cổ họng là xong,

Tính toan tỉ mỉ nhọc ḷng làm chi?)

 

      Những vật nuôi dưỡng con người trong thế gian kể sao cho xuể, nấu nướng nêm nếm đúng cách, vị đều ngon lành. Há nên v́ bụng miệng ta mà giết hại sanh mạng đến nỗi đời đời kiếp kiếp sát hại lẫn nhau trọn chẳng có khi nào dứt, chẳng đáng buồn sao? V́ thế, lưu truyền sách này để mong văn hồi sát kiếp. Nguyện người thấy nghe đều cùng tin nhận th́ may mắn lắm thay!

 

28. Đề từ sách Thọ Khang Bảo Giám (bài thứ nhất)

 

      Không một ai chẳng muốn chính ḿnh và con cháu đều trường thọ, yên vui. Nếu đối với chuyện sắc dục chẳng biết kiêng dè, thận trọng, sẽ gặt lấy hậu quả trái ngược, thật đáng đau thương! V́ thế, Khổng Tử nói: “Thiếu chi thời huyết khí vị định, giới chi tại sắc” (Lúc niên thiếu khí huyết chưa định, phải kiêng dè nơi sắc dục). Mạnh Tử nói: “Dưỡng tâm giả mạc thiện ư quả dục. Kỳ vi nhân dă quả dục, tuy hữu bất tồn yên giả, quả hỹ. Kỳ vi nhân dă đa dục, tuy hữu tồn yên giả, quả hỹ” (Dưỡng tâm th́ không ǵ hay bằng ít ham muốn. Ai làm người mà ít ham muốn, tuy tâm người ấy có những điều không hợp đạo nghĩa, nhưng những điều ấy cũng ít. Ai làm người mà lắm ham muốn, tâm dù có giữ được đạo nghĩa th́ đạo nghĩa ấy cũng chẳng được mấy[6]). Do vậy nói rằng: “Sự sống chết tồn vong của con người tùy thuộc quá nửa nơi con người có ít ham muốn sắc dục hay không?”

Bất Huệ trọn chẳng có sức cứu đời, nhưng ḷng mong duy tŕ tuổi thọ cho người đời. Do vậy, bèn tu chỉnh, bổ sung cuốn sách này để ấn hành, lưu truyền, nhằm mong những ai biết yêu thương chính ḿnh và con cháu hễ có được cuốn sách này đều đọc kỹ càng th́ quan hệ lợi - hại sẽ rơ ràng như nh́n vào ngọn lửa. Trong là răn nhắc con cháu, ngoài là răn nhắc những kẻ cùng hàng. Lại mong xoay vần lưu thông để truyền khắp vũ trụ ngơ hầu hết thảy mọi người cùng hàng đều được sống lâu, mạnh khỏe, đấy chính lời cầu chúc thơm thảo vậy!

     

29. Đề từ sách Thọ Khang Bảo Giám (bài thứ hai)

 

      Con người từ sắc dục mà sanh, nên tập khí này đặc biệt sâu đậm. Hễ không kiêng dè cẩn thận, phần nhiều sẽ chết v́ sắc dục! Các bậc thánh vương thời cổ v́ yêu thương dân nên đối với chuyện vợ chồng ân ái chẳng tiếc công sai quan truyền lệnh dùng mơ gỗ đi khắp nẻo đường[7], ngơ hầu người dân khỏi phải lo sầu v́ bị mất mạng. Ḷng từ ái thật khôn xiết! Cho đến đời sau, chẳng những chánh lệnh nước nhà chẳng thèm nhắc đến, ngay cả cha mẹ cũng chẳng bảo ban con cái, đến nỗi đại đa số thiếu niên lầm lạc mất mạng, đáng buồn quá sức! Bất Huệ sống trên cơi đời mấy chục năm, thấy nghe khá nhiều, khôn ngăn bi thương! Do vậy quyên mộ in cuốn sách này để mong những người cùng hàng đều được sống lâu, mạnh khỏe. Mong sao những người có được cuốn sách này ai nấy đều đọc kỹ, xoay vần lưu thông, đừng để phí tâm tư, tiền tài mà trọn chẳng được mảy may lợi ích thật sự nào th́ may mắn lắm thay!

 

30. Đề từ cho sách Chánh Tín Lục của cư sĩ La Lưỡng Phong

 

      Đáng than thay người đời phần nhiều tưởng ḿnh là trí, nhưng đối với chân diện mục của chính ḿnh c̣n chưa biết được danh tự, huống hồ những chuyện thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, đời trước, đời sau! Bậc cổ thánh nhân của Nho giáo chú trọng nơi xử thế nên đối với đạo lư sâu xa này chỉ nêu đại lược những nét chánh yếu. Nho sĩ chẳng suy xét sâu xa, liền bảo không có nghĩa ấy! Phật đă dạy rơ ràng rộng răi như đuốc huệ trong đêm dài, phàm những ai có túc căn đều cùng quy hướng. Nhưng bọn Lư Học muốn ngăn trở bước tiến [của hậu học], đặc biệt cực lực bài xích để mong ngăn chặn hết thảy mọi người, chẳng biết người có căn tánh lớn lao quyết chẳng bị bọn chúng khống chế. Đáng than thay những kẻ tầm thường cứ lầm tưởng [những lời lẽ xằng bậy của bọn Lư Học] là chánh đáng, chí lư, do đấy đả phá sự lư nhân quả và luân hồi, cho rằng con người chết đi vĩnh viễn diệt mất, không có thần trí! Do vậy, những kẻ làm ác có lư do lớn lao để lấp liếm [ác tâm, ác hạnh], cho đến ngày nay rối loạn cùng cực không cách ǵ chữa trị được! May mà c̣n có đủ mọi chuyện thể hiện bản lănh của bậc đại tâm. Ông La sao lục, sưu tập những chuyện ấy để cống hiến cho đời hiện tại và vị lai, v́ thế đặc biệt ấn hành để mong lưu truyền rộng răi. Nguyện những ai thấy nghe đều biết chánh ư của Nho và Thích, lần lượt lưu truyền trọn khắp trong đời hiện tại lẫn vị lai, ngơ hầu đạo Nho được tỏa rạng mà đạo Phật cũng chẳng suy vi, nhân dân được yên vui, giữ đạo một cách dễ dàng, sống là học tṛ của thánh hiền, chết sẽ lên cơi Cực Lạc, xoay chuyển thói tục bạc ác, cùng vun giữ ḷng nhân từ, khoan dung. Một ḷng khăng khăng như thế chắc bậc trí sẽ nể t́nh chẳng vứt bỏ vậy!

 

31. Đề từ cho bộ Dương Phục Trai[8] Thi Kệ Tục Tập

 

      Mười mấy năm qua, cư sĩ Dịch Viên chuyên tu Tịnh nghiệp, là bậc hướng dẫn tốt lành trong một làng. Hễ gặp cảnh, chạm duyên, liền tùy cơ thù tiếp, thường dùng thi ca, thường khiến cho người khác được mở rộng tâm mục đều phát tín tâm. Năm ngoái, ông ta đă từng lo liệu ấn hành. Năm nay lại có một cuốn Tục Tập, lại muốn ấn tống, gởi cho Quang duyệt, khôn ngăn hoan hỷ, cảm thán tột bậc. Tiếc cho Quang tinh thần lẫn mục lực chẳng đủ, chẳng thể giảo đối thay cho ông ta được, không lúc nào chẳng nuối tiếc, bèn viết dăm lời quê mùa để tỏ tấm ḷng tôi.

      Thơ của Dịch Viên đúng là lời, phụ nữ, trẻ con nghe kinh ngạc, dung nhiếp ư Phật lẫn ư Tổ, quan trọng nhất là sanh cơi Tịnh! Thơ của Dịch Viên đúng là vẽ. Tâm cảnh, tánh địa phô cặn kẽ. Độ ách khiến cho Ngũ Uẩn không, quy mạng Nguyện Vương khuyên kính lễ. Thơ của Dịch Viên đúng là quẻ. Họa, phước, cát, hung phô rành rành, khiến thoát trọn vẹn ải họa, phước! Tịnh niệm tiếp nối cầu về Tây. Nếu ai thường đọc thơ Dịch Viên, thân - khẩu - ư đều không tỳ vết. Khi sống trọn thành bậc thánh hiền, lâm chung chắc về ao bảy báu. Tôi: sư tầm thường, rành cơm cháo, trừ niệm Phật, trăm sự bất tài, nguyện các hiền triết khắp pháp giới, đều kết bạn lành nơi hải hội.

 

32. Đề từ cho bài tường thuật đại lược hành trạng ông Quách Tử Cố và người phối ngẫu đức hạnh là bà Phùng Nhụ Nhân[9] ở huyện Định Tây, tỉnh Cam Túc

 

      Làm phận con nên lấy đạo siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử để khuyên cha mẹ, khiến cho ngay trong đời này cha mẹ được cao dự Liên Tŕ hải hội, thân cận Di Đà Thế Tôn, cùng có thọ lượng, quang minh giống như Di Đà Thế Tôn. Hiếu như vậy mới là chân hiếu! C̣n truyền bá hành trạng của cha mẹ tuy là một trong những hạnh hiếu, nhưng tự hành, dạy người, làm cho khắp những ai thấy nghe đều cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tịnh Độ, cùng chứng Vô Sanh, cho đến cùng thành giác đạo chẳng phải là tốt hơn hay chăng? Vợ chồng ông Quách tận lực phụng dưỡng, chôn cất, dẫu xét theo ḷng hiếu thế tục cũng chẳng dễ dàng cho lắm! Nay nhờ chuyện này để xoay chuyển ḷng người, tôi đặc biệt viết hai mươi tám chữ như sau:

      Nêu hạnh đẹp trong làng, trọn vẹn cả đôi bề, khiến khắp kẻ thấy nghe, đều được hưởng chân thuần, vợ chồng nhà ông Quách, đức đẹp đáng khâm phục.

 

33. Đề từ kỷ niệm chuyện pháp sư Trần Không sáng lập Liên Xă

     

      Thật thà niệm Phật!

      Để kỷ niệm chuyện pháp sư Trần Không từ đất Tô đến đất Kiềm (Quư Châu), sáng lập Liên Xă, xin khích lệ những người cùng chí hướng bằng mấy lời [như sau]:

      Xót thương chúng sanh trong cơi đời, căn độn, nghiệp nặng, chỉ có niệm Phật th́ mới chắc chắn mong thoát được sanh tử. Hăy nên quán tưởng như tù nhân bị dắt ra chợ [để hành h́nh], mỗi bước càng gần với cái chết hơn! Phàm những vị có cùng chí hướng niệm Phật với tôi, ắt đều phải niệm niệm trừ sạch các duyên, quyết muốn giữ ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha. Hăy nên tu Chánh Hạnh niệm Phật, dùng Tín - Nguyện dẫn đường, lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh. Ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh chính là tông yếu của pháp môn Niệm Phật. Do bốn chữ hồng danh chẳng rời niệm, tiếng niệm Phật chẳng ngừng, tâm và Phật tự nhiên khế hợp, tam-muội sẽ tự thành (Ngày Hai Mươi Hai tháng Giêng)

 

34. Đề từ cho tác phẩm Mạc Vương Trí Duệ Nữ Cư Sĩ Ai Văn Lục[10]

 

      Cư sĩ Trí Duệ vừa đọc Văn Sao liền sanh tín tâm, ăn chay niệm Phật, chưa được bao lâu liền biết trước lúc mất, niệm Phật qua đời. Đáng gọi là bậc trượng phu trong nữ giới! Chẳng thẹn mang tên Trí Duệ. Nguyện những vị trượng phu mày râu, những vị hiền thục mềm mỏng chốn khuê các trong cơi đời đều chẳng nhường cho bà ta riêng được giải thoát th́ may mắn lắm thay (Ngày Mười Bảy tháng Hai năm Kỷ Tỵ, tức năm Dân Quốc 18 - 1929)

 

35. Đề trên chiếc quạt có h́nh Vô Lượng Thọ Phật do cư sĩ Cao Hàng Sanh cất giữ

 

      Ngoài dứt các duyên, trong tâm chẳng rộn, tâm như tường vách, có thể nhập đạo.

 

36. Thuận tay viết về Niệm Phật

 

      Pháp Hoa kinh tạng sâu thẳm u viễn không ai thấu đạt được. Chúng ta có chí tiến nhập th́ xin hăy chí thành khẩn thiết, chuyên tŕ thánh hiệu A Di Đà Phật. Nếu có thể nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối th́ sẽ tự có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu. Trong đời hiện tại sẽ mau chóng thoát khỏi Ngũ Trược, cao đăng chín phẩm cho đến chứng Vô Sanh Nhẫn, thành đạo Bồ Đề. Lời nói này tuy cực b́nh thường, nhưng quả thật là bí yếu của chư Phật. Nếu bậc thông gia xem đến, chắc chắn sẽ bật cười! (Bài văn này c̣n lưu lại dấu tích ở chùa Linh Nham, nhưng không có đề mục. Tựa đề do Đào (tức ông La Hồng Đào) tự tiện đặt. Huệ Dung ghi)

 

V. Pháp ngữ

1. Tịnh Độ Pháp Môn Thuyết Yếu (Giảng những điều trọng yếu trong pháp môn Tịnh Độ)

(Vương Cầu Thị và Cung Vân Bá ghi)

 

      Nguyên thủy, bản tánh của chúng sanh và Phật vốn không hai, không khác; chỉ v́ chúng sanh chẳng giữ ǵn tự tánh, bị trần lao làm bẩn, tập khí ô nhiễm ngăn lấp đến nỗi mê - ngộ thật khác, chúng sanh và Phật khác biệt thật xa! Chỉ v́ chúng sanh mê có cạn - sâu, căn tánh có lớn - nhỏ, nên đức Như Lai bèn tùy thuận căn cơ để lập giáo, dựa theo căn bệnh để ban thuốc, v́ Thật lập Quyền, khai Quyền hiển Thật. Nơi pháp Nhất Thừa nói đủ mọi lẽ khiến cho kẻ thiện căn chín muồi sẽ lên thẳng bờ giác, kẻ ác duyên sâu nặng sẽ dần dần thoát khỏi trần lao. Do vậy, trong bốn mươi chín năm, tùy theo chủng tánh mà lập ra các giáo pháp Đại, Tiểu, Tiệm, Đốn, Bán, Măn nhằm giáo hóa.

      Các pháp môn thuộc Tông, thuộc Giáo phần nhiều cậy vào tự lực. Dẫu cho túc căn sâu dầy, triệt ngộ tự tâm, nhưng nếu Kiến Hoặc và Tư Hoặc c̣n có chút nào chưa sạch hết th́ vẫn luân hồi trong sanh tử y như cũ, không thể thoát ra. Huống chi đă thọ Thai Ấm[11], vừa chạm cảnh liền sanh mê, kẻ từ giác đến giác ít ỏi, người từ mê vào mê đông đảo! Bậc thượng căn c̣n như thế, hạng trung - hạ cần chi phải nói nữa! Liễu thoát sanh tử thật chẳng dễ dàng! Chỉ có pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chuyên cậy vào nguyện lực của Phật Di Đà, bất luận thiện căn chín muồi hay chưa, ác nghiệp nặng hay nhẹ, thậm chí Ngũ Nghịch, Thập Ác, chỉ cần sanh ḷng tin phát nguyện, tŕ danh hiệu Phật, khi lâm chung chắc chắn được đức Di Đà tiếp dẫn văng sanh Tịnh Độ. Cố nhiên, kẻ thiện căn chín muồi sẽ mau chóng viên măn Phật quả; ngay cả kẻ ác nghiệp sâu nặng cũng may mắn được dự vào ḍng thánh. So với những kẻ cậy vào tự lực th́ sự khó - dễ, được - mất trong đấy chẳng cần phải rườm lời giải thích nữa! V́ thế, pháp môn Tịnh Độ này chính là đạo trọng yếu để tam thế chư Phật độ sanh, là diệu pháp để thượng thánh hạ phàm cùng tu. Các kinh Đại Thừa đều phát khởi lẽ trọng yếu này, lịch đại tổ sư không vị nào chẳng tuân hành.

      Cũng có những kẻ do thấy pháp môn Tịnh Độ hết sức đơn giản, hết sức dễ dàng, dẫu là ngu phu ngu phụ cũng tu được, bèn coi thường Tịnh Độ, chẳng biết một môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn, nhiếp trọn mười giới! Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử sau khi đă chứng bằng với chư Phật, Phổ Hiền Bồ Tát bèn dùng mười đại nguyện vương để khuyến tấn, khích lệ Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong viên măn Phật quả. Như Thiện Tài đă đạt đến địa vị Đẳng Giác, Hoa Tạng hải chúng không có vị nào là phàm phu, Nhị Thừa, toàn là những người thuộc bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, phá vô minh, chứng Tam Đức, mà vẫn phải hồi tâm niệm Phật, nguyện văng sanh Tây Phương! Hơn nữa, trong Hoa Tạng Hải, Tịnh Độ vô lượng, nhưng cần phải hồi hướng Tây Phương, đủ biết văng sanh Cực Lạc chính là cửa ngơ nhiệm mầu để xuất thế, là đường tắt để thành Phật.

     Hơn nữa, Vĩnh Minh thiền sư nhằm dạy cho người tu hành đường lối trọng yếu đích xác, đă lập ra bốn bài kệ Liệu Giản[12]:

      1) Có Thiền có Tịnh Độ,

      Ví như cọp đội sừng,

      Đời này làm thầy người,

      Đời sau làm Phật, Tổ.

      2) Không Thiền, có Tịnh Độ,

      Vạn tu, vạn người về,

      Nếu được thấy Di Đà,

      Lo chi không khai ngộ.

      3) Có Thiền, không Tịnh Độ,

      Mười kẻ, chín chần chừ,

      Ấm cảnh nếu hiện tiền,

      Chớp mắt đi theo nó.

      4) Không Thiền, không Tịnh Độ,

      Giường sắt với cột đồng,

      Vạn kiếp lẫn ngàn đời,

      Không có người nương tựa.

      Bốn bài Liệu Giản này của ngài Vĩnh Minh chính là cương tông của Đại Tạng, là khuôn phép để tu tŕ. Trước hết cần phải hiểu đích xác thế nào là Thiền, thế nào là Tịnh, thế nào là Có, thế nào là Không, rồi mới theo văn mà phân tích, sẽ biết mỗi một chữ đều đích đáng, không thể thay đổi một chữ nào được!

Thiền chính là Chân Như Phật Tánh chúng ta vốn sẵn có, tức bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra, tức linh tri ly niệm không Năng, không Sở, vừa Tịch, vừa Chiếu, tức cái được gọi là “thuần chân tâm thể”. Tịnh Độ chính là tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tây Phương (chứ không phải chỉ riêng cho “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”). “Có Thiền” là tham cứu cực lực đến mức “niệm tịch, t́nh vong”, thấy thấu triệt bản lai diện mục, minh tâm kiến tánh. “Có Tịnh Độ” là chân thật phát tâm, sanh ḷng tin, phát nguyện, tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Thiền và Tịnh Độ là ước theo Giáo, ước theo Lư. “Có Thiền, có Tịnh Độ” là ước theo căn cơ, ước theo tu. Một đằng là Lư, một đằng là Sự. Lư tuy là như thế, nhưng phải cần theo đúng Lư để khởi Hạnh, Hạnh phải đạt đến cùng cực nhằm chứng Lư, chính ḿnh phải chuyên gắng nhằm thật sự đạt được. Nếu tham Thiền chưa ngộ, hoặc ngộ chưa triệt để, đều chẳng thể gọi là “có Thiền”. Nếu niệm Phật nhưng không có tín nguyện, hoặc có tín nguyện nhưng không chân thật, thiết tha, chỉ hờ hững, hời hợt, lằng nhằng cho xong chuyện, hoặc hạnh tuy tinh tấn nhưng nhân địa chẳng thật, tâm lưu luyến trần cảnh, cho đến cầu phú quư trong đời sau, cầu sanh lên cơi trời hưởng lạc đều chẳng thể gọi là “có Tịnh”!

 

      1) Có Thiền có Tịnh Độ,

      Ví như cọp đội sừng,

      Đời này làm thầy người,

      Đời sau làm Phật, Tổ.

 

      Người ấy đă triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, lại c̣n thâm nhập kinh tạng, biết cặn kẽ pháp môn Quyền - Thật của đức Như Lai, nhưng trong các pháp chỉ chọn một pháp tín nguyện niệm Phật, tự lợi, lợi tha. Người ấy có đại trí huệ, đại biện tài, tà ma, ngoại đạo nghe danh vỡ mật, như cọp lại đội sừng. Có ai đến cầu học sẽ tùy cơ thuyết pháp, nên dùng Thiền Tịnh Song Tu để tiếp độ bèn dùng Thiền Tịnh Song Tu để tiếp độ. Nên dùng “chuyên tu Tịnh Độ” để tiếp độ bèn dùng “chuyên tu Tịnh Độ” để tiếp độ. Bất luận thượng - trung - hạ căn không một ai chẳng được thấm nhuần ân trạch ấy, há chẳng phải là “nhân thiên đạo sư” ư? Đến khi lâm chung, được Phật tiếp dẫn văng sanh Thượng Phẩm, trong khoảng khảy ngón tay hoa nở thấy Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn, dẫu địa vị thấp nhất cũng là chứng được bậc Sơ Trụ trong Viên giáo, có thể hiện thân làm Phật trong một trăm thế giới nên bảo là “đời sau làm Phật, Tổ”.

 

      2) Không Thiền, có Tịnh Độ,

      Vạn tu, vạn người về,

      Nếu được thấy Di Đà,

      Lo chi không khai ngộ?

 

      Người ấy tuy chưa minh tâm kiến tánh, nhưng quyết chí nơi Tịnh Độ, cầu sanh Tây Phương, chí thành niệm Phật, cảm ứng đạo giao, chắc chắn được Phật nhiếp thọ. Kẻ tận lực tu tập cố nhiên được văng sanh. Ngay như kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác khi lâm chung mười niệm cũng đều được Hóa Thân của đức Phật đến tiếp dẫn, chẳng phải là “vạn tu, vạn người về” hay sao? Đă sanh về Tây Phương, thấy Phật, nghe pháp, tuy có nhanh hay chậm, nhưng đă cao dự ḍng thánh, rốt ráo chẳng thoái chuyển, dần dần chứng thánh quả th́ sự khai ngộ cần ǵ phải nói đến nữa? V́ thế, bảo là: “Nếu được thấy Di Đà, lo chi không khai ngộ?”

 

      3) Có Thiền, không Tịnh Độ,

      Mười kẻ, chín chần chừ,

      Ấm cảnh nếu hiện tiền,

      Chớp mắt đi theo nó.

 

      Người ấy tuy biết đại lược về tâm tánh, nhưng Kiến Hoặc, Tư Hoặc chưa đoạn hết, cần phải giồi mài cho hết sạch, chẳng c̣n sót chút nào th́ mới có thể thoát ĺa sanh tử. Nếu c̣n mảy may chưa hết, sẽ vẫn luân hồi trong lục đạo y như cũ, khó trốn tránh được! Biển sanh tử sâu thẳm, đường Bồ Đề xa vời, nếu liền mạng chung, nẻo về sẽ chẳng thể lường được! Trong mười người, hết chín người là như thế. V́ vậy nói: “Thập nhân, cửu tha lộ” (Mười kẻ, chín chần chừ trên đường). Tha () là “tha đà” (蹉跎), tức như thế tục thường nói là “chần chừ”. “Ấm cảnh” tức là cảnh nơi Trung Ấm thân[13], chính là những cảnh hiện ra khi lâm chung bởi sức của thiện nghiệp hay ác nghiệp [đă tạo] trong đời này và bao kiếp. Trong khoảng chớp mắt sẽ theo nghiệp lực đi thọ sanh ngay, chẳng thể làm chủ được mảy may nào! Như người mang nợ, chủ nợ nào mạnh sẽ lôi đi trước; tâm t́nh lắm mối, hễ thiên trọng nơi nào sẽ đọa vào nơi đó. V́ thế nói: Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”.

 

      4) Không Thiền, không Tịnh Độ,

      Giường sắt với cột đồng,

      Vạn kiếp lẫn ngàn đời,

      Không có người nương tựa.

 

      Người ấy đă chưa triệt ngộ, lại chẳng cầu sanh Tịnh Độ, vẫn hời hợt, hờ hững tu các pháp môn khác (chứ không phải là nói về kẻ vùi đầu tạo ác, chẳng tu hành), đă chẳng thể giữ cho Định - Huệ được cân bằng nhằm đoạn Hoặc, chứng Chân; lại chẳng biết cậy vào Phật từ lực để đới nghiệp văng sanh, dùng công đức tu tŕ suốt cả một đời để cảm phước báo trời người trong đời sau. Trong đời này đă không có chánh trí, đời sau sẽ bị phước báo chuyển, hưởng phước càng lớn, ác nghiệp càng nhiều. Đă tạo ác nghiệp, khó tránh khỏi quả báo. Hễ một hơi thở ra không hít vào được nữa sẽ đọa địa ngục, đền trả nợ cũ, nên nói là “giường sắt với cột đồng”. Kẻ tạo nghiệp như thế ví như kẻ mù chẳng thấy được mặt trời, tuy chư Phật, Bồ Tát rủ ḷng từ bi nhưng do kẻ ấy bị ác nghiệp ngăn chướng, chẳng thể hưởng lợi ích, bao kiếp thọ khổ. V́ thế nói: “Không có người nương tựa”.

      Phàm hết thảy các pháp môn chuyên cậy vào tự lực, chỉ có pháp môn Tịnh Độ chuyên cậy vào Phật lực. Trong hết thảy pháp môn, hết sạch Hoặc nghiệp rồi mới có thể liễu sanh tử; c̣n pháp môn Tịnh Độ đới nghiệp văng sanh liền dự vào ḍng thánh. Hơn nữa, khi đức Phật tại thế, sắc lực và tâm nghiệp của chúng sanh thù thắng, dẫu nương cậy tự lực vẫn chứng đạo. Nay đang nhằm thời Mạt, căn hèn, chướng nặng, tri thức hiếm hoi, nếu bỏ Tịnh Độ th́ không có cách ǵ giải thoát được! Vĩnh Minh thiền sư sợ cơi đời không biết nên đặc biệt viết ra Liệu Giản này để dạy đời sau. Thật đúng là bè báu trong bến mê, là đèn sáng nơi ngơ tối.

Tu tŕ pháp môn Tịnh Độ niệm Phật hăy nên lấy Tín - Nguyện - Hạnh làm tông. Tín là dốc ḷng tin tưởng Phật lực. Trong khi tu nhân, Di Đà Như Lai đă phát ra bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng độ sanh, trong ấy có nguyện “[người nào] niệm danh hiệu ta mà chẳng sanh về nước ta, thề chẳng thành Phật”. Hiện tại, do Ngài đă nhân viên, quả măn, nay ta niệm Phật ắt sẽ được văng sanh. Kế đấy, tin vào Phật lực từ bi nhiếp thọ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con nhớ mẹ giống như mẹ nhớ con, chắc chắn sẽ được tiếp dẫn. Tiếp đó, tin tưởng pháp môn Tịnh Độ như trong bài Tứ Liệu Giản của Vĩnh Minh thiền sư đă nói so với các pháp khác, sự lớn - nhỏ, khó - dễ, được - mất, sai biệt vời vợt. Dẫu có những vị thầy khác xưng tán những pháp khác cũng chẳng lay động được ta. Thậm chí chư Phật hiện ra trước mặt khuyên lơn, an ủi bảo tu các pháp môn khác cũng chẳng thoái chuyển. Đấy mới thật sự gọi là Tín vậy! Nguyện là nguyện trong đời này thề văng sanh Tây Phương, chẳng cần phải nhiều đời tu tập ngoi lên, hụp xuống trong uế độ, từ mê vào mê nữa! Lại nguyện hễ được văng sanh Tây Phương rồi sẽ trở lại Sa Bà độ thoát hết thảy chúng sanh. Hạnh là chân thật nương theo lời dạy để khởi Hạnh.

Trong chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông [của kinh Lăng Nghiêm] có câu: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam-ma-địa, ấy là bậc nhất”. Do vậy biết pháp Niệm Phật phải nên nhiếp trọn sáu căn. Trước khi nhiếp trọn sáu căn th́ trước hết phải nhiếp được hai hay ba căn. Hai hay ba căn là ǵ? Chính là tai, miệng, tâm vậy. Miệng niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật sao cho từng câu từng chữ rơ ràng, rành mạch, trong tâm niệm cho rơ ràng rành mạch, tai nghe cho rơ ràng, rành mạch. Hễ có chỗ nào hơi không phân minh th́ đấy chính là không chân thật, thiết tha, có vọng tưởng [xen tạp] (Chỉ niệm mà không nghe th́ dễ sanh vọng tưởng). Niệm Phật cố nhiên phải sao cho từng câu từng chữ phân minh, chẳng để sự suy nghĩ xen vào.

Ngoài ra, xem kinh cũng giống như thế, đừng một mặt vừa xem, một mặt lại phân biệt; [nếu không], sẽ được lợi ích ít ỏi, t́nh tưởng sẽ nhiều. Xưa kia có người chép kinh do chí thành chép kinh, chuyên tâm nhất ư, chỉ chú tâm chép kinh, không có t́nh kiến ǵ, đến khi trời đă tối, vẫn cứ viết chép không ngừng. Chợt có người bảo: “Trời đă tối rồi, sao c̣n chép kinh được?” Lúc ấy, người chép kinh t́nh niệm vừa động, chẳng thể viết được nữa. Ôi! Phân biệt sáng - tối chính là vọng kiến của chúng sanh, là phàm t́nh của chúng sanh vậy! V́ thế, đang trong lúc chuyên tâm nhất ư, vọng tận, t́nh không, chỉ biết chép kinh, chẳng biết trời đă tối, cũng chẳng biết hễ trời đă tối sẽ không có ánh sáng nên không thể chép kinh được nữa! Tới khi có người nhắc nhở, khuấy động, do vô minh động nên t́nh tưởng bèn chia ra. Vọng niệm vừa động, ngay lập tức, sáng sủa và tối tăm liền tách bạch nên chẳng thể chép kinh được nữa. Do vậy, biết rằng đầu mối của đạo dụng công là chuyên nhiếp, chẳng quan tâm đến t́nh tưởng. Nếu đă không có suy tưởng th́ đâu có tà kiến nữa! Tà kiến đă không c̣n, đấy chính là chánh trí!

     Hơn nữa, người tu Tịnh Độ hăy nên đề xướng nhân quả. Đối với người thượng trí, cố nhiên biết cội gốc nằm nơi luân thường, hiểu rơ những ǵ nên làm và không nên làm. Đối với kẻ trung - hạ, nếu chẳng nói tới nhân quả, giải thích tách bạch tường tận, nêu bày rơ rệt sự tích nhân quả báo ứng, làm sao họ sẽ dè dặt nơi hành vi, bó buộc thân tâm cho được? V́ thế, nhân quả là cửa ngơ ban đầu để nhập đạo, nhưng tin tưởng chuyên dốc nơi nhân quả cũng chẳng phải là dễ! Bậc Sơ Quả trong Tiểu Thừa, bậc Sơ Địa trong Đại Thừa chính là những vị thật sự có thể chuyên dốc tin tưởng nhân quả vậy. Từ bậc Sơ Địa trở xuống, từ bậc Sơ Quả đổ lại, hễ gặp duyên trái nghịch giết - trộm - dâm - dối sẽ không thể giữ ǵn được, sẽ thuận theo đó mà khởi Hoặc tạo nghiệp.

Nhưng kẻ thông minh vẫn xem nhẹ nhân quả, cho rằng nhân quả bất quá chỉ để nói với kẻ căn cơ trung - hạ, chẳng biết rằng: Hễ chỉ hiểu ư nghĩa của nhân quả một cách thô thiển th́ chẳng đáng gọi là Tín! Tuy biết nhưng chẳng tận tụy vâng hành th́ cũng chẳng đáng gọi là Tín. Chỉ có bậc thánh nhân thuộc Sơ Quả, Sơ Địa, hay Dự Lưu mới có thể chẳng c̣n phải mang thân sau. Hễ chẳng c̣n phải mang thân sau th́ chẳng c̣n là kẻ bị chi phối bởi Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, nên đáng gọi là “có ḷng tin chuyên dốc”. V́ thế, ngài Mộng Đông nói: “Kẻ khéo bàn về tâm tánh ắt chẳng bỏ ĺa nhân quả, nhưng kẻ tin sâu nhân quả rốt cuộc ắt sẽ hiểu tâm tánh thật rơ rệt”. Đấy chính là nguyên do v́ sao trong thế gian người niệm Phật đông đảo mà bậc thật sự liễu sanh tử lại hiếm hoi!

Chỉ v́ người niệm Phật không có ḷng tin sâu đậm, nguyện thiết tha, chỉ cầu phước báo, mơ tưởng phú quư trong đời sau. Chẳng biết rằng hễ mơ tưởng đời sau được phú quư cũng ví như ngửa mặt bắn tên lên trời, hễ tên bay hết sức sẽ lại rơi xuống, chẳng những vô ích mà c̣n bị tổn hại. Dẫu cho đời này niệm Phật cảm được phước báo trời người, có phước báo nhưng không có chánh trí. Do có phước báo nên có quyền thế, địa vị, phú quư, nhưng do không có chánh trí nên ngu si, chẳng tin nhân quả. Phàm những kẻ chẳng tin nhân quả lại có địa vị, quyền thế, phú quư th́ sẽ như hổ thêm cánh, càng thêm tàn ác! V́ thế, phước báo càng lớn, tạo nên oan nghiệt càng nhiều. Đă tạo ác nghiệp, sẽ phải chịu ác báo. Đấy gọi là “tam thế oán thân” (kẻ oán, người thân trong ba đời).

V́ vậy, người niệm Phật trọn chớ nên có ḷng cầu phước báo, hăy nên lấy “mạnh mẽ tiến thẳng lên trước nhằm văng sanh Tây Phương” làm pháp mầu nhiệm để liễu sanh thoát tử. Do vậy, ngài Triệt Ngộ thiền sư nói: “Thật v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu, tŕ danh hiệu Phật”. Mười sáu chữ này chính là cương tông lớn lao của pháp môn Niệm Phật. Ngài lại nói: “Một câu Di Đà là tâm yếu của đức Phật ta, theo chiều dọc thông suốt năm thời, theo chiều ngang bao trùm tám giáo”. Thật vậy đó! Một câu Di Đà vi diệu khó nghĩ lường, chỉ có Phật với Phật mới biết được rốt ráo, từ bậc Đẳng Giác trở xuống vẫn c̣n chưa hiểu trọn hết. Do vậy nói: “Bồ Tát biết được chút phần”, bọn phàm phu chúng ta càng phải nên tin tưởng hành theo.

 

2. Pháp ngữ khai thị sau cuộc chiến ở vùng Giang - Chiết

 

      Hiện thời chiến sự vùng Giang - Chiết đă yên, nhưng trong nhất thời nhân dân khó thể khôi phục được như cũ. Thương thay! Nhân dân mắc phải sự khổ ác dữ dội này, nói chung là do ác nghiệp đời trước cảm thành ác báo khổ sở cùng cực ấy. V́ thế, phải đem nhân quả ba đời nói với hết thảy những ai hữu duyên, khuyên họ đừng tạo những nhân gây ra nghiệp báo ấy nữa th́ tương lai sẽ tự chẳng phải nhận lănh cái quả ác báo ấy. Những thứ nhân ác ấy phần nhiều đều do sát sanh ăn thịt mà dấy lên! Phàm với hết thảy mọi người đều nên khuyên họ hăy kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật như là một diệu pháp vô thượng nhằm giải quyết vấn đề từ căn bản. Tiếc thay! Con người chỉ biết có ḿnh, chẳng biết có người khác th́ làm sao suy tính tới hết thảy loài vật được? Tới khi ác báo xảy đến, con người bị xử phạt, giết chóc so với lúc loài thú bị hành hạ, giết chóc nào có khác chi? Kinh dạy: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Hễ sợ nhân th́ chẳng phải nhận lănh quả, chứ sợ quả th́ trọn chẳng có mảy may ích lợi ǵ! Nếu đổi cái tâm sợ quả thành cái tâm sợ nhân th́ thế giới sẽ tự thanh b́nh, yên ổn vậy!

 

3. Năm đoạn khai thị

(Trần Cảnh Phiên ghi chép)

 

      1) Dạy về phương pháp tu hành:

 

Phàm tu hành th́ phải nên chuyên ṛng, chớ nên xen tạp. Pháp Niệm Phật vượt trỗi hết thảy. Cầu siêu cho người đă khuất, hoặc cầu cho cha mẹ tăng tuổi thọ và hết thảy mong cầu đều được như nguyện, nhưng phải lấy cầu sanh Tây Phương làm chủ. Muôn vàn chớ nên cầu phước báo trong đời sau. Nếu cầu đời sau sẽ không được hưởng lợi ích văng sanh. Hăy nên đọc kỹ Văn Sao sẽ tự biết duyên do về mặt Sự lẫn mặt Lư. Đối với những căn bệnh của con người hiện thời và phương thuốc để chữa trị th́ trong Văn Sao cũng đều có nói. Nói chung, lấy đề xướng nhân quả báo ứng làm căn cứ để văn hồi thế đạo nhân tâm.

 

      2) Dạy về phương pháp tu hành:

 

Dụng công tu hành cố nhiên phải nên chuyên ṛng; nhưng phàm phu vọng tưởng tơi bời, nếu chẳng dùng kinh chú để giúp thêm, chắc sẽ đến nỗi hờ hững, lười trễ, biếng nhác! Nếu có thể thống thiết như khi chôn cất cha mẹ, như cứu đầu cháy th́ Nhất Hạnh tam-muội[14] quả thật là hay nhất. C̣n nếu niệm Phật hờ hững, băi buôi, th́ lâu ngày chắc sẽ trở thành lười nhác, buông xuôi, bỏ lửng, v́ thế chẳng bằng kiêm tŕ kinh chú sẽ chắc chắn hơn. Ông cầu tôi quyết đoán, tôi nói với ông duyên do để ông tự quyết định. Nói chung, do tâm sanh tử thiết tha, thành kính khăng khăng một niềm th́ chuyên niệm hay kiêm niệm đều được cả. Nếu không, chuyên niệm sẽ trở thành hờ hững, coi thường, kiêm niệm sẽ trở thành tràn lan, lộn xộn. Ấy là v́ căn bản không chân thật, thiết tha, nên đến nỗi hết thảy đều khó được lợi ích.

 

      3) Nêu [lư do v́ sao sách] Pháp Hải Thê Hàng chẳng khế cơ:

 

Soạn sách lập ngôn quả thật chẳng phải là chuyện nhỏ nhặt đâu nhé! Xin hăy nhất tâm niệm Phật, đợi đến khi nghiệp tiêu trí rạng xong, rồi mới viết lách để làm cho hết thảy những kẻ sơ cơ đều được lợi ích th́ mới ḥng ít mắc phải khuyết điểm “giáo pháp chẳng phù hợp căn cơ”. Xét ra, cuốn sách ấy của ông chưa từng chỉ rơ gốc bệnh của con người hiện thời và cách chữa trị. Tuy giảng chung chung về Phật lư cũng có thể khiến cho người khác sanh ḷng tin, nhưng đối với kẻ sơ cơ, do phần lớn những từ ngữ được nêu trong sách là những danh từ riêng họ sẽ chẳng hiểu rơ, ắt sẽ đến nỗi cật vấn lẫn nhau, vô sự sanh sự, đâm ra chẳng có quan hệ khẩn yếu chi đối với chuyện niệm Phật! Đấy chính là lư do tại sao Quang không tán thành ư tưởng soạn sách của ông. Đă không tán thành, há có thể sửa đổi đại lược, phê b́nh đại lược hay sao? Mong ông biết rơ nguyên do, chẳng đến nỗi vẫn mơ màng trong mộng mà thôi!

 

      4) Dạy không cần phải chú trọng vào thơ văn:

 

      Cuốn Pháp Hải Thê Hàng của ông chẳng có thứ tự, thơ văn cũng chẳng thật sự theo thứ lớp. Chỉ nên cẩn thận đọc kỹ những sách có ích cho thân tâm và sốt sắng niệm Phật, không cần phải chú ư đến thơ văn. Nếu qua sách vở mà hiểu được duyên do th́ niệm Phật sẽ được lợi ích, tự nhiên thơ văn sẽ vượt trỗi. Nếu không, cũng chỉ là gượng ép, áp đặt; xét ra, chẳng dính dáng ǵ tới tâm pháp cả!

 

      5) Dạy về chuyện tổ chức, điều hành Đồng Thiện Hội

 

      Phàm làm chuyện công ích, chớ nên chấm mút chút nào. Nếu không, chẳng những là dối người mà c̣n đúng là dối ḷng, dối Phật nữa đấy! Sửa ác, hướng lành, cần phải luận từ nơi khởi tâm động niệm. Há nên công khai làm chuyện dối người ư? Những kẻ mù quáng khuấy rối hiện thời đều là những kẻ cực ngu si chẳng biết nhân quả, chẳng biết tội phước báo ứng. Nếu bọn họ có chân tâm, trí huệ, dẫu dùng cái chết để uy hiếp buộc họ làm như vậy, họ cũng chẳng chịu làm! Mong hăy chú ư [điều này] th́ may mắn lắm thay.

 

4. Pháp ngữ khai thị tại Tịnh Nghiệp Xă

(Kư Trần ghi)

 

      Hôm nay là ngày đầu tiên của Phật Thất, tôi đem lai lịch của Phật Thất để nói cho quư vị nghe. Hiện thời mọi nơi mở Niệm Phật Thất rất nhiều, phương pháp tu tập và những lời lẽ khai thị phần lớn cũng giống nhau. Trước hết, nay tôi tŕnh bày nhân duyên của Phật Thất lần này, rồi sẽ nói tới đại cương của pháp Niệm Phật. Như vậy, tông chỉ của pháp Niệm Phật sẽ được minh bạch. Nếu không, chẳng biết căn bản, chắc chắn sẽ không thể đặt nền tảng vững vàng được, chắc sẽ bị kinh giáo hoặc lời lẽ của thiện tri thức xoay chuyển đến nỗi bỏ pháp này để tu các pháp môn khác.

Pháp Niệm Phật như thuốc A Già Đà. Tiếng Phạn A Già Đà, tiếng Hán là Phổ Sanh, cũng dịch là Tổng Trị v́ nó sanh khắp [mọi sự an lạc, công đức] và trị chung mọi căn bệnh vậy. Pháp môn này cũng giống như thế, trừ được tám vạn bốn ngàn phiền năo. Do vậy, pháp môn Niệm Phật bao trùm khắp muôn h́nh tượng, hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này. Hết thảy các pháp không pháp nào chẳng quy hoàn pháp giới này. Do nó nắm giữ hết thảy các pháp nên không pháp nào chẳng được trọn vẹn, không căn cơ nào chẳng gồm thâu! Đức Phật chỉ muốn làm cho chúng sanh siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, nhưng chúng sanh căn cơ không giống nhau, tâm nguyện mỗi người mỗi khác. Nếu có chúng sanh cầu phước, cầu thọ, cầu tài, cầu con v.v… chỉ cần thành tâm mong cầu, hễ có cầu ắt ứng. Tuy đấy là pháp thế gian, nhưng nhằm để tiếp dẫn kẻ hạ căn gieo thiện căn dần dần cho nên cũng làm cho họ được măn nguyện. Nếu luận nơi bổn ư của đức Phật th́ chỉ là muốn khiến cho chúng sanh nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, cậy vào Phật từ lực, lâm chung tiếp dẫn văng sanh Tây Phương. Hễ được văng sanh sẽ liền thoát khỏi nỗi khổ luân hồi trong tam giới, từ đấy tiến tu dần dần cho đến khi thành Phật th́ mới là thật nghĩa rốt ráo của Niệm Phật.

      Nhân duyên thứ nhất: Nếu luận về nhân duyên dẫn đến [pháp hội Niệm Phật Thất này] th́ sẽ phải nói rất dài. Từng nhớ năm Dân Quốc 11 (1922), Quang đến đất Thân (Thượng Hải), trụ tại chùa Thái B́nh. Cư sĩ Giang Dịch Viên do chiếc tàu thủy Đại Thăng bị hỏa hoạn, muốn làm Phật sự [để cầu siêu cho các nạn nhân], Quang khuyên ông ta nên mở Niệm Phật Thất. Lại khuyên người chủ quản công ty ấy tham dự Niệm Phật Thất cho đến măn thất. Ấy là v́ niệm Phật có lợi ích thù thắng hơn công đức của những thứ Phật sự khác; v́ muốn cho những người bị chết cháy, chết đuối được hưởng lợi ích chân thật cho nên khuyên chuyên nhất niệm Phật!

Năm trước, vợ ông Giang mất, muốn làm Phật sự, gởi một trăm đồng cậy Quang làm Phật sự. Do vậy, bèn mở một Niệm Phật Thất tại chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà. Đêm viên măn Phật Thất, khá có linh cảm. Đối với niệm Phật, ông Giang đă sẵn mang ḷng hết sức thiết tha, cả nhà bị ông ta cảm hóa, niệm Phật cũng rất thiết tha, chân thật. Do vậy trong khi tang ma, cả nhà đều niệm Phật. Chẳng phải chỉ có như vậy, do ông Giang khá có tiếng tăm nơi quê hương, ông cũng thường luôn khuyên người làng niệm Phật. Người trong một vùng đều bị ông ta cảm hóa. Phàm người làng đến phúng điếu, toan tế vong, ông ta đều khước từ, bảo với họ: “Phàm ai đến điếu tang, hăy niệm Phật hết một cây hương sẽ tốt hơn là tế lễ nhiều lắm”. Do vậy, dân làng chia ra mấy ban, mỗi ngày một ban đến niệm Phật, niệm tới mấy ngày mới hết.

Do có nguyên nhân này, con của ông Giang tên là Hữu Bằng vào đêm viên măn Phật Thất tại chùa Pháp Vũ nằm mộng thấy nhận được nhiều lá thư, liền cầm một bức lên Phật đường trên lầu để xem. Ngọn đèn trong Phật đường sáng hơn ánh chớp, bóc bức thư ra th́ chính là một bức vẽ về cảnh tượng trong thế giới Cực Lạc. Pháp Vũ mở Phật Thất có tất cả mười sáu vị Tăng nhân. Trước hôm mở Phật Thất một ngày, Quang đối trước Tăng chúng nói: “Quư vị niệm Phật phải thật thà, khẩn thiết th́ ḿnh lẫn người mới đều được lợi ích”. Do vậy, mỗi vị tăng sĩ đều nghiêm túc. Đấy cũng là một cái nhân tạo nên sự linh cảm. T́nh h́nh đại lược về chuyện này đă được đăng tên tờ Lâm San của Cư Sĩ Lâm. Muốn biết những nét chánh yếu, có thể t́m đọc [trong báo ấy].

Năm ngoái, cha của cư sĩ Giang Dịch Viên mất, ông ta cũng gởi tiền cậy Quang mở Phật Thất. Năm nay, bạn ông ta là Ngô Trường Vinh có mẹ vừa mất, cũng gởi tiền cậy mở Phật Thất. Thư ấy gởi đến Phổ Đà th́ hôm mồng Ba tháng đó Quang sang Thượng Hải. Mồng Bốn đến Nam Kinh, mồng Bảy trở về đất Hỗ, mới biết chuyện ấy, bàn bạc với ḥa thượng Chân Đạt chùa Thái B́nh, nhưng chùa Thái B́nh đă nhận lời mở thất niệm Phật cho nhà ông Triệu Trúc Quân, chẳng thể cùng tiến hành được. Lại chuyển sang bàn bạc với cư sĩ Quan Biệt Tiều để lấy Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xă làm đạo tràng. Quan cư sĩ chấp thuận, do vậy hôm nay mở đạo tràng Phật Thất tại đây.

Cư sĩ Giang Dịch Viên b́nh sinh thích niệm Phật nhất, đề xướng pháp môn Niệm Phật chẳng tiếc sức thừa, khá có linh cảm. Năm ngoái, vùng Vụ Nguyên bị hạn hán, Dịch Viên khuyên mọi người nhất tâm niệm Phật, chẳng đầy mấy bữa trời mưa một trận lớn. Do vậy lập ra Phật Quang Liên Xă, người tham dự liên xă đông lắm, cũng lôi kéo Quang làm hội trưởng danh dự. Niệm Phật có đủ mọi chuyện linh cảm khác nhau. Những chuyện như cầu mưa, cầu tạnh và lành bệnh v.v… đều khá rơ rệt, đủ biết niệm Phật lợi ích lớn nhất. Đấy chính là nhân duyên thứ nhất.

Ngoài ra, năm ngoái cư sĩ Lư Vân Thư do người em dâu bệnh nặng, đến chùa Thái B́nh muốn làm Phật sự, tôi khuyên ông ta mở Niệm Phật Thất. Bệnh của người em dâu đă được rất nhiều y sĩ chữa chạy nhưng chẳng lành. Vị thầy thuốc cuối cùng thương cô ta bị đau khổ khó thể chịu đựng đă khuyên nên uống thuốc độc cho mau chết. Do vậy, Vân Thư lập cách cầu Phật gia bị nên đến đây bàn bạc với Quang, Quang bảo mở Niệm Phật Thất. Không lâu sau, Quang trở về núi, cũng chẳng biết cô ta được lợi ích ra sao! Đến mồng Bảy tháng Tư năm nay, Quang sang Cư Sĩ Lâm thăm pháp sư Đế Nhàn. Ông Lư Vân Thư cũng đến, cho biết năm ngoái vào hôm đầu tiên của Niệm Phật Thất, cô em dâu ông ta nằm mộng thấy cô ta đến Tam Thánh Đường cùng với tăng chúng niệm Phật, niệm Phật rất lâu, rất thanh thản, thoải mái, bệnh liền nhẹ dần. Vân Thư bảo cô ta: “Tôi đă niệm Phật cho mợ ở chùa Thái B́nh chứ không phải là Tam Thánh Đường”. Cô em dâu căi: “ Không phải chùa Thái B́nh, mà là Tam Thánh Đường”. Sau này, hỏi thăm mới biết chùa Thái B́nh chính là hạ viện của Tam Thánh Đường núi Phổ Đà. Đủ thấy người bị bệnh nếu biết niệm Phật vẫn được Phật lực gia bị khiến cho bệnh được lành. Chuyện này là một chứng cớ rơ ràng vậy!

Trong tháng Bảy năm nay, chính ông Lư Vân Thư bị bệnh. Đang lúc bệnh nặng, thỉnh mấy vị cư sĩ niệm Phật, về sau do hôn mê bất tỉnh nhân sự bèn thôi. Kế đó, nghĩ tới chuyện năm ngoái đă từng v́ người em dâu mở Niệm Phật Thất, bèn sai người đến chùa Thái B́nh hỏi tôi và ḥa thượng Chân Đạt. Do hai người chúng tôi cùng trụ tại Phổ Đà, ông Lư liền gởi thư xin chúng tôi sang Thượng Hải mở Niệm Phật Thất. Do nhằm tháng Bảy, đă qua khỏi kỳ dâng hương tại Phổ Đà, gặp đúng dịp thanh nhàn, chúng tôi liền mở Phật Thất tại Tam Thánh Đường núi Phổ Đà, chọn ngày Mười Bốn tháng Bảy để khai đàn, ngày Hai Mươi viên măn. Hôm Mười Ba, Quang liền gởi thư cho Vân Thư; hôm Mười Bảy ông ta gởi thư trả lời cho biết bệnh đă khỏi được tám chín phần. Hiện thời, Lư Vân Thư đă hoàn toàn lành bệnh, chỉ có điều sức lực vẫn chưa được b́nh phục hoàn toàn. Lư Vân Thư bệnh nặng như thế mà nhờ Phật Thất gia bị liền được khỏi hẳn bệnh. Linh nghiệm như thế, đấy là một chứng cớ rơ rệt thứ hai vậy.

      Phần thứ hai là cương lănh. Con người hiện thời phần nhiều chuộng lạ, chuộng bày vẽ phô trương, như pháp hội Hộ Quốc Nhân Vương, pháp hội Kim Quang Minh, pháp hội tŕ chú Lăng Nghiêm, pháp hội Đại Vân Luân[15] v.v… Những thứ pháp hội ấy có công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, nhưng do người đời nay tài lực ít ỏi, thể lực kém cỏi, tuy nói là “cử hành”, nhưng khó thể đạt được lợi ích thù thắng, v́ đấy không phải là chuyện ai cũng có thể thực hiện được. Nếu niệm Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát th́ không một ai chẳng thể làm được! Cho nên về mặt lợi ích, không có một pháp hội nào sánh bằng niệm Phật! Bởi lẽ, pháp môn Niệm Phật thích hợp khắp ba căn, phù hợp căn cơ nhất. Dẫu là đứa con nít bé tẹo vẫn có thể làm được, chứ nếu niệm kinh th́ chỉ có một số ít người biết niệm, chẳng phải ai cũng đều biết niệm!

Bốn hay năm năm (5 năm) trước, từ Tứ Xuyên có gởi tới một thông cáo, cho biết vùng Xuyên Trung chiến sự không ngớt, muốn cầu cho chiến tranh ngưng dứt, khuyên hết thảy mọi người niệm chú Lăng Nghiêm. Cần phải biết rằng những người có thể tụng đọc chú Lăng Nghiêm th́ trong ngàn người khó kiếm được một kẻ! Họ c̣n in ra rất nhiều bản [chú Lăng Nghiêm] cho người ta đeo và dán trên đầu cửa. Sự việc khá phiền phức, tốn kém lại nhiều, sao bằng niệm Phật hoặc niệm chú Đại Bi hoặc niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, so ra thẳng chóng, thích đáng hơn! V́ thế, tôi thấy những kẻ xướng suất, đề nghị tụng chú Lăng Nghiêm thật là buồn cười! Bởi lẽ, họ chỉ chú trọng phô trương, chứ không quan tâm đến thực chất. Đă là như thế th́ lợi ích sẽ kém xa niệm Phật, bởi một câu A Di Đà Phật chính là vô thượng Bồ Đề giác đạo được chứng bởi chính đức Phật. Nếu chúng ta có thể dùng danh hiệu này để tự huân tập [cái tâm ḿnh] th́ lâu ngày chầy tháng khí phận sẽ tương đồng với Phật.

Huống chi câu Phật hiệu ấy không một ai chẳng thể niệm được. Dẫu lười nhác, biếng trễ chẳng chịu niệm, nhưng nghe âm thanh niệm Phật của mọi người cũng có lợi ích. So sánh đôi bên, cố nhiên niệm Phật vượt trỗi niệm kinh nhiều lắm! Do niệm Phật giản tiện tột bậc, ngay như kẻ chẳng niệm Phật nhưng nghe âm thanh niệm Phật lọt qua tai liền được gieo thiện căn. Do vậy, một câu Phật hiệu này rót vào trong tám thức điền, trong tương lai khi gặp duyên sẽ nẩy sanh. Ví dù bị oán quỷ, bệnh ngặt bức bách, niệm Phật sẽ đều trừ được. Do vậy, phàm những người có tín tâm niệm Phật hăy nên đem điều này khuyên khắp mọi người khác tu tŕ, chứ chẳng phải chỉ riêng với cha con, người trong nhà là nên khuyên chỉ, ngay cả với hết thảy những ai hữu duyên cũng đều nên khuyên chỉ như thế.

      Hỏi: Một pháp Niệm Phật sao lại có thể coi là thích hợp khắp cả ba căn?

      Đáp: Tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cực nặng lúc sắp mạng chung, tướng địa ngục hiện, nghe thiện tri thức dạy niệm Phật bèn niệm mười tiếng hoặc niệm mấy tiếng liền được đức Phật tiếp dẫn văng sanh Tây Phương. Do kẻ ấy bị khổ sở bức bách, phát tâm khẩn thiết, nên được thành tựu; chẳng thể nào đem so với kẻ niệm Phật hờ hững, hời hợt để rồi sanh ḷng nghi. Đấy là hạ căn. Nếu luận về thượng căn th́ từ bậc Sơ Phát Tâm Trụ cho đến Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều phải niệm Phật hồi hướng văng sanh ḥng viên măn Phật Quả. Do vậy, nói: “Hết thảy pháp môn đều phải lấy niệm Phật làm chỗ quy túc”. Nếu chỉ ham cao chuộng xa, bàn nói điều huyền lẽ diệu th́ sẽ như đếm vật báu của người khác, chính ḿnh chẳng được nửa xu, rốt cuộc chính ḿnh chẳng được hưởng dùng chi hết! V́ phải đạt tới mức “nghiệp tận, t́nh không” th́ mới có thể liễu sanh tử; nếu chỉ nói xuông, có ích ǵ đâu?

Cần biết rằng: Kiến Hoặc và Tư Hoặc chính là căn bản sanh tử. Chưa đạt đến địa vị “nghiệp tận, t́nh không”, sẽ do đâu mà liễu sanh tử được? Niệm Phật cậy vào Phật từ lực nên lợi ích sâu rộng. V́ thế, Thanh Lương quốc sư nói: “Ngu phu ngu phụ cắm cúi niệm Phật liền có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu”. Pháp môn Niệm Phật hợp với thời cơ đời Mạt Pháp nhất. Ḥa Thượng Thiện Đạo nói: “Nếu luận về học Giải th́ hết thảy pháp môn đều phải nên học. Nếu luận về tu tŕ, cần phải chọn lấy một môn khế lư, khế cơ th́ mới có lợi ích thật sự”. Pháp môn Niệm Phật nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân, là khế lư, khế cơ nhất, con người hiện thời đều nên tu tŕ. Nhưng pháp môn Niệm Phật cũng có rất nhiều lối, cầu lấy một đường lối thỏa đáng th́ chỉ có Tŕ Danh. Ngay như cách tu Quán Tượng, Quán Tưởng cũng có khuyết điểm! Bởi lẽ, tâm địa chẳng sáng suốt, không hiểu rơ cách quán, chắc là ma sự sẽ dấy lên. Nếu quán Thật Tướng th́ ai có thể khế nhập thấu triệt được? Do vậy, người niệm Phật chớ nên chú trọng những ǵ cao xa, mà hăy nên chuyên chú nơi những ǵ thực tiễn.

Hễ tưởng nghĩ đến đời sau th́ niệm Phật sẽ thật thiết tha, sẽ tự nhiên đạt được những cảnh giới khá tịnh diệu trong hiện tại. Quang khuyên [các hành nhân tu Tịnh Độ] chỉ nên mong đạt được nhất tâm, đừng mong tưởng cảnh giới. Nếu không, khó tránh khỏi bị ma dựa! Trong tháng Tư năm nay, có người gởi thư đến kể những cảnh giới cực kỳ hiểm ác, Quang viết thư cho ông ta, khuyên nên nhiếp tâm tịnh niệm. Tất cả cảnh giới đều là huyễn hóa; với cảnh giới tốt đẹp đừng nên hoan hỷ, với cảnh giới xấu ác đừng nên sợ hăi, chúng sẽ tự tiêu diệt. Cần biết rằng: “Ngàn sông bóng nước, ngàn trăng rọi; muôn dặm không mây, muôn dặm trời”. Nếu đạt tới lúc tâm và Phật tương ứng th́ có cảnh giới hay không cảnh giới đều được cả! Chưa đạt đến lúc tâm tương ứng với Phật, cứ lầm lạc muốn thấy cảnh giới thù thắng, nhiệm mầu, th́ chính là cái gốc để chuốc lấy ma sự đấy!

Cổ nhân nói: “Học đạo trong các môn khác như con kiến ḅ lên núi cao; niệm Phật văng sanh như đă nương theo gió căng buồm lại c̣n thuận nước”. Kinh Hoa Nghiêm bao gồm trọn vẹn các pháp, xét đến chỗ quy túc th́ chính là hồi hướng văng sanh Tây Phương. Các kinh Đại Thừa không kinh nào chẳng tán dương Tịnh Độ, nhưng bốn kinh Tịnh Độ chuyên giảng đến tột cùng. Ở Tây Thiên th́ các vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Mă Minh, Long Thọ v.v… tự hành, dạy người, đều cùng chỉ quy Tịnh Độ. Nơi Đông Độ, từ khi Viễn Công sáng lập Liên Xă ở Lô Sơn trở đi, Đàm Loan, Đạo Xước, Thiên Thai, Thiện Đạo v.v… đời nào cũng nghe nói có người, ấy là v́ Phật đă sớm biết chúng sanh đời sau căn khí mỏng yếu nên đặc biệt mở ra pháp môn Niệm Phật. V́ thế, các vị Bồ Tát, tổ sư cực lực đề xướng để mong hết thảy chúng sanh đều cùng liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. Tục ngữ có câu: “Thiểu thật thắng đa hư, đại xảo bất như chuyết” (Thật ít hơn dối nhiều, khéo quá chẳng bằng vụng). Pháp môn Niệm Phật phải tu bằng thật hạnh, nên lúc lâm chung Liên Tŕ đại sư dặn ḍ đại chúng rằng: “Xin mọi người hăy thật thà niệm Phật”. Nếu các vị thật thà niệm Phật sẽ chẳng phụ ḷng đức Như Lai đại từ bi đă nói ra pháp môn đặc biệt này!

 

5. Pháp ngữ khai thị tại Tố Thực Đồng Duyên Xă (Hội cùng kết duyên ăn chay) ở Nam Kinh

(Hoàng Sám Hoa và Cung Huệ Vân kính ghi)

 

      Ấn Quang vô tri vô thức, ít tham cứu, ít học hành, nay được các vị đại cư sĩ chèo kéo, quả thật hổ thẹn sâu xa. Trộm nghĩ Phật pháp có năm thừa:

      1) Nhân thiên thừa: Nhân thừa tŕ Ngũ Giới, được sanh trong loài người. Thiên thừa hành Thập Thiện, được sanh lên cơi trời trong Dục Giới. Nếu c̣n hành thêm Tứ Thiền, Tứ Định[16] th́ sẽ sanh trong các cơi trời Sắc Giới hay Vô Sắc Giới.

      2) Thanh Văn thừa: Tu Tứ Đế, đắc Tứ Sa Môn quả[17].

      3) Duyên Giác thừa: Quán Thập Nhị Nhân Duyên, đắc Bích Chi Phật quả.

      4) Bồ Tát thừa: Tu lục độ, vạn hạnh, chứng Bồ Tát quả.

      5) Phật thừa: Hành đại từ đại bi, thành Chánh Đẳng Chánh Giác.

      Tu Nhân Thiên thừa kiêm hành Bồ Tát thừa và Phật thừa th́ chắc chỉ có ḿnh pháp môn Tịnh Độ đó chăng? Ấy là v́ Nhân Thiên thừa chỉ tu Ngũ Giới, Thập Thiện, đều là công đức hữu lậu[18]; chỉ có pháp môn Tịnh Độ này có thể vượt tam giới, liễu sanh tử! Người tu Tịnh Độ ắt phải giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính ḿnh, cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng ḥa, vợ thuận; lại c̣n dùng Tứ Hoằng Thệ Nguyện để mở rộng cái tâm, tự hành, dạy người, khiến cho khắp mọi người trong là cha mẹ, vợ con, ngoài là xóm giềng, làng nước đều cùng tu Ngũ Giới, Thập Thiện và tu pháp môn Tịnh Độ. Dùng tín nguyện sâu niệm Phật cầu sanh Tây Phương, người ấy tuy là phàm phu nhưng thật ra là Bồ Tát. V́ sao vậy? Do cái tâm rộng lớn!

Xưa kia có một vị Sa Di theo hầu một vị tôn giả đi đường, Sa Di chợt phát nguyện tự lợi lợi tha “trên cầu Bồ Đề, dưới hóa độ chúng sanh”, tôn giả liền bảo Sa Di đi trước. Sa Di chợt xoay chuyển ư nghĩ: “Chúng sanh nhiều như thế, làm sao để có thể độ thoát cho hết được! Chẳng thà tự lợi th́ hơn”. Khi ấy, tôn giả liền bảo bước theo sau ngài. Sa Di lại chợt xoay chuyển ư nghĩ: “Vẫn phải nên độ thoát chúng sanh!” Tôn giả lại bảo Sa Di đi trước. Sa Di lấy làm lạ, hỏi lư do, tôn giả bảo: “Thoạt đầu, con phát đại Bồ Đề tâm tức là Bồ Tát, ta tuy là La Hán nhưng vẫn thuộc Tiểu Thừa. V́ thế phải mời con đi trước. Kế đó, con lại lui sụt Bồ Đề tâm, ta là thánh nhân, con là phàm phu nên theo đúng lẽ phải đi sau. Sau đấy con lại phát Bồ Đề tâm, nên ta vẫn phải thỉnh con đi trước”. Do câu chuyện này thấy rằng: Phát Bồ Đề tâm công đức vô lượng vô biên! Chúng ta muốn tăng trưởng thiện căn không thể nào chẳng phát tâm Bồ Đề.      

Nay đang thời mạt kiếp, lễ giáo suy vong; muốn văn hồi thế đạo nhân tâm ắt trước hết phải đề xướng nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi. Thánh nhân thế gian nói về nhân quả như “nhà tích thiện ắt niềm vui có thừa, nhà tích điều bất thiện ắt tai ương có thừa”, “làm lành trăm điều tốt đẹp giáng xuống, làm điều bất thiện trăm sự tai ương giáng xuống” v.v… lời lẽ đơn giản, nhưng ư nghĩa bao trùm; người đời sau quen thói chẳng suy xét. C̣n các bậc thánh nhân xuất thế gian th́ nói nhân quả tường tận tột bậc. Nhờ đấy, bậc thượng trí liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, kẻ tư cách trung hạ do xét thấy “làm ác mắc quả ác, làm lành được báo lành” cũng gắng sức làm lành. Dẫu là kẻ cùng hung cực ác cũng có phần kiêng sợ chẳng dám làm! V́ thế, nhân quả báo ứng thật sự là một pháp thông trên thấu dưới.

Cũng có kẻ bảo thuyết nhân quả báo ứng là Tiểu Thừa, chẳng biết lục độ vạn hạnh cũng là nhân quả. Từ đức Như Lai đă thành Đẳng Chánh Giác cho đến phàm phu đọa trong địa ngục A Tỳ đều không ǵ chẳng phải là nhân quả! Bởi thế, Phật giáo đề cao, giảng rơ nhân quả, có lợi sâu đậm cho con người vậy thay! Xưa kia Văn Vương cai trị bằng ḷng nhân, ân trạch thấm đến cả xương khô, nhưng chưa đầy hai ba trăm năm, phong tục giết người tuẫn táng đă trọn khắp thiên hạ. Lại c̣n cho rằng “càng giết nhiều càng vẻ vang”, thiên tử, chư hầu, sĩ đại phu đều tùy theo khả năng mà giết, rốt cuộc đến khoảng mấy trăm, mấy ngàn người! Ngay như Tần Mục Công là một vị vua hiền, vẫn giết hơn một trăm bảy chục người để tuẫn táng. Ba vị họ Tử Xa[19] chính là bầy tôi hiền của đất nước nhưng đều bị giết để tuẫn táng, huống hồ những kẻ khác ư? Nguyên nhân đều là v́ chẳng biết đến nhân quả ba đời vậy! Từ khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc trở đi, chưa hề nghe sử sách chép có chuyện tuẫn táng. Đấy cũng chưa hề chẳng phải là do thuyết nhân quả ba đời của đức Như Lai tạo nên!

Đang trong thời buổi này, sát kiếp lừng lẫy, càng phải nên đề xướng kiêng giết, ăn chay. Sát kiếp do sát nghiệp cảm thành. Sát nghiệp lớn nhất chính là ăn thịt. Do ăn thịt nên cảm vời hết thảy thiên tai, nhân họa, hạn hán, lụt lội, mưa dầm, ôn dịch, sâu rầy. Ăn thịt gây hại quá nhiều, nói chẳng thể hết được, đành nêu một thí dụ để chỉ rơ. Xưa kia vào thời Liệt Quốc[20], ở nước Lỗ có hai gă dũng sĩ, mỗi người ở một nơi. Một hôm gặp nhau, mua rượu cùng uống, một gă nói: “Không thịt chẳng thành cuộc vui! Hăy nên mua thịt”. Gă kia nói: “Tôi với anh đều có thịt, cần ǵ phải t́m thịt ở đâu nữa?” Liền cắt thịt của nhau ăn, lại c̣n cắt thịt của chính ḿnh để dâng cho nhau đến nỗi chết ngắc!

Trong cái nh́n của chúng ta, hai gă ấy là kẻ đại ngu, nhưng [chúng ta] chẳng biết rằng “kẻ ăn thịt là v́ chẳng hiểu rơ nhân quả báo ứng”. Mai kia con người chết đi [đầu thai] làm loài thú, thú chết đi thành người, ăn thịt lẫn nhau, có khác chi đâu? Chẳng qua khác biệt ở chỗ cách đời hay cùng thời mà thôi, nhưng c̣n tệ hơn! Hai gă dũng sĩ chết v́ ăn thịt lẫn nhau, nhân quả báo ứng trong một lúc đều xong hết; chứ kẻ ăn thịt nhân quả dây dưa không dứt, báo ứng cũng chẳng có lúc nào xong. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Do con người ăn dê, dê chết thành người, người chết thành dê. Như thế cho đến mười loại chúng sanh, chết chết sống sống ăn nuốt lẫn nhau”. Kinh đă dạy rơ ràng như thế, thật đáng kinh hăi! Ở đây, tôi lại lược thuật vài nghĩa để làm sáng tỏ đạo lư [v́ sao] “không nên ăn thịt”.

      1) Do cái tâm bất nhẫn: Hết thảy những loài có linh tánh đều cùng một thể. Do thương dân mà yêu vật, nguyên khí thái ḥa tràn ngập nhân gian. Do vậy, biết rằng giết chóc sanh linh là chuyện hoàn toàn chẳng có nghĩa lư ǵ cả! Hết thảy chúng sanh đều tham sống sợ chết, sao ta nỡ ḷng tàn hại sanh mạng để thỏa thích miệng bụng?

      2) Nhân quả báo ứng: Hết thảy sanh linh đều do xưa kia chẳng biết nhân quả nên bị đọa lạc trong loài súc sanh. Nay ta giết chúng để ăn thịt, mai sau khi chúng đă hết ác báo, sát nghiệp của ta mới thành, ta cũng sẽ làm thịt trên thớt của chúng! Do vậy, kiêng giết, ăn chay chẳng phải là tính toán cho sanh linh mà cũng là tính kế cho chính thân ta vậy! Ông Lưu Ngọc Thụ giữ chức Hàn Lâm đời Minh, đỗ thuyền ở Tô Châu, mộng thấy một người đàn ông to lớn đến cầu cứu, tự xưng là thiên tướng quân[21] Tào Hàn, do tàn sát Giang Châu nên đời đời mang thân lợn: “Nơi ḷ mổ ở ngay trước bến thuyền, trong chốc lát, con lợn bị giết đầu tiên chính là tôi đấy. Xin hăy cứu vớt!” Ông ta tỉnh giấc quả nhiên thấy gă đồ tể sắp giết lợn liền mua đem về thả trong một ngôi chùa tại Xương Môn[22]. Hễ có ai kêu “Tào Hàn”, con lợn ấy đều quay đầu ngó. Điều này có thể chứng tỏ con người biến thành súc sanh, súc sanh biến thành người. Những chuyện về hoạt Diêm Vương, hoạt tiểu quỷ được chép trong sách vở rất nhiều. Đấy đều là thiên địa quỷ thần hé lộ một chút tin tức về nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi để răn nhắc người đời vậy.

      3) Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ, quyến thuộc của ta trong quá khứ! Chúng ta đă biết rơ nhân quả luân hồi: Trong một đời có cha mẹ quyến thuộc trong đời ấy. Trải qua nhiều kiếp sống, sẽ có cha mẹ, quyến thuộc trong nhiều kiếp sống. Cha mẹ, quyến thuộc trải nhiều kiếp số như thế luân hồi trong sáu nẻo, trong số ấy có những người làm ác, khó tránh khỏi đọa trong tam đồ. V́ thế, đối với lục đạo chúng sanh chúng ta phải coi như cha mẹ, vợ con. Lẽ nào con hiếu cháu hiền lại ăn nuốt cha mẹ ư? Há có cha mẹ hiền từ nào lại ăn nuốt con cái ư? Hễ suy nghĩ đến điều này sẽ chẳng nỡ ăn mà cũng chẳng dám ăn nữa!

Ngay cả cúng giỗ tổ tiên cũng chớ nên dùng thịt, bởi lẽ mang tiếng là kính trọng chứ thật ra đă làm hại tổ tiên! C̣n như dùng thịt để dâng cho cha mẹ, đều khiến cho cha mẹ tổn phước, mắc họa ương! Cha mẹ là người có phước đức thiện căn th́ phước đức thiện căn ấy sẽ bị hao tổn. Nếu là kẻ không có phước đức thiện căn th́ ta đă tăng thêm ác nghiệp giết hại cho họ. Xưa kia, lúc đức Phật tại thế, một bà góa nhân giỗ đầu của chồng đi mua thịt về cúng. Trên đường đi gặp Như Lai, Như Lai dạy: “Thịt này là do chồng bà chuyển biến thành. Há nên dùng thịt của chồng để cúng giỗ hồn chồng?” Theo lẽ đó mà suy th́ kính trời đất, tế quỷ thần cũng chớ nên dùng thịt. Thiên địa quỷ thần lẽ đâu chẳng hiểu sâu xa nhân quả, lại tham thứ thịt bẩn thỉu, tanh tưởi ấy mà đến chứng giám, hưởng nhận ư? Do vậy kẻ dùng huyết nhục để cúng tế muốn cầu phước, đâm ra lại mắc họa!

      4) Hết thảy chúng sanh đều là chư Phật trong vị lai. Bởi lẽ, hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ làm Phật. V́ thế, họ là vị lai chư Phật. Hơn nữa, trong loài súc sanh đôi khi có Phật hay Bồ Tát hóa hiện trong ấy nhằm tạo phương tiện độ sanh như chuyện Bạc Hà được chép trong Thanh Lương Chí: Một vị Tăng ở Ngũ Đài gặp một vị Tăng lạ lùng lấy ra một bức thư dặn giao cho Bạc Hà, nhưng không nói rơ địa chỉ. Một hôm [vị Tăng ấy] đi qua Vệ Huy thấy một lũ trẻ nhỏ hô “Bạc Hà”, vị Tăng hỏi: “Bạc Hà ở đâu?” Bọn trẻ chỉ con lợn đang nằm dưới vách tường, bảo: “Chẳng phải là nó đó sao?” Tăng cầm thư gọi “Bạc Hà”, rồi ném thư cho lợn. Con lợn đứng lên như người, dùng hai chân trước nhận lấy, bỏ thư vào miệng rồi chết đứng. Khi ấy mới biết con lợn ấy chính là do Bồ Tát biến hiện.

Gă đồ tể [chủ nhân của Bạc Hà] giết lợn rất nhiều. Nếu đem con lợn sắp bị giết đến trước mặt Bạc Hà th́ nó liền để mặc cho giết, trọn chẳng chạy trốn, kêu gào. V́ thế, gă đồ tể yêu mến Bạc Hà, mỗi lần muốn giết lợn, cứ dắt Bạc Hà đi ṿng quanh con lợn ấy th́ cũng giống như đă giết chết con lợn đó rồi! V́ thế vẫn nuôi [Bạc Hà] nhiều năm không giết. Hơn nữa, con lợn ấy sạch sẽ, thích ăn bạc hà nên đặt tên như vậy. Thoạt đầu, vị Tăng ấy nhận lá thư của vị Tăng lạ lùng rồi ra đi, giữa đường suy nghĩ: “Thư này sẽ giao đến nơi đâu?” bèn lén bóc ra, thấy đại ư viết: “Độ chúng sanh nếu [họ đă] được độ thoát th́ hăy mau quay về để lâu ngày khỏi bị mê mất”. Vị Tăng lấy làm lạ, dán phong thư lại. Đến nay mới biết Bạc Hà chính là đại Bồ Tát vậy. Đi quanh con lợn một ṿng th́ bầy lợn liền chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Oai đức thần lực ấy há nghĩ bàn được chăng?

Thêm nữa, Đường Văn Tông (809-840) thích ăn nghêu, một bữa nọ có con nghêu ngậm chặt vỏ không tách ra được. Vua liền đích thân tách ra, thấy bên trong có tượng Quán Âm Đại Sĩ bằng thịt ṣ, trang nghiêm dị thường, Do vậy, có thể biết là có c̣n nên ăn thịt hay không? Nếu ăn lầm phải thân Phật, Bồ Tát hóa hiện th́ tội lỗi ấy sẽ chẳng thể nào kể xiết! Nếu chúng ta biết được lư này sẽ tự chẳng dám ăn thịt mà cũng chẳng nỡ ăn thịt.

Chúng ta hăy nên thật v́ sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, chẳng cần phải tu pháp nào khác nữa! Nếu cậy vào tự lực để tu Thiền Định ḥng liễu sanh tử sẽ rất ư là khó! Do pháp ấy cần phải đạt đến mức nghiệp tận t́nh không, đoạn sạch Kiến Hoặc, Tư Hoặc mới thoát khỏi sanh tử. Lúc đức Phật tại thế, chẳng thiếu người đoạn sạch được Kiến Hoặc, Tư Hoặc chẳng c̣n sót; trong thời đại Mạt Pháp, căn tánh kém hèn, thật chẳng dễ có bậc đoạn Hoặc chứng Chân! Chỉ có một môn Tịnh Độ là có thể vào lúc lâm chung cậy vào Phật từ lực văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức là đă liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh rồi!

Hơn nữa, chớ nên coi pháp môn Tịnh Độ quá nhẹ v́ hàng Pháp Thân đại sĩ như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v… đều chẳng thể vượt ra ngoài pháp môn này được! Mà cũng chớ nên nghĩ là quá khó, bởi lẽ hễ ai có tâm đều có thể thành Phật. Chỉ tŕ vạn đức hồng danh của A Di Đà Phật th́ như đă được trao bằng khoán văng sanh. Kẻ tu Tịnh Độ hăy nên hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp, ba điều nơi thân, bốn điều nơi miệng, ba điều nơi ư đều tốt lành. Đấy là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật. Kế đó, thọ tŕ Tam Quy, trọn đủ Ngũ Giới, chẳng phạm oai nghi. Tiếp đến là tin sâu nhân quả, phát Bồ Đề tâm, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả, nhưng đều phải lấy điều thiện thế gian như hiếu dưỡng cha mẹ v.v… làm căn bản.

Nếu y theo các pháp môn khác th́ đều phải cậy vào tự lực, giống như vượt qua biển cả, hễ kẻ nào có cánh th́ sẽ có thể bay vượt qua, chứ kẻ chỉ nổi được th́ chưa đủ để trông cậy, huống hồ kẻ chẳng thể nổi được ư? Cậy vào Phật lực giống như ngồi thuyền vượt biển, trong khoảnh khắc liền đến bờ kia. Lại như thân phận thường dân muốn được quư hiển, thật chẳng phải là chuyện dễ! Nhưng vương tử vừa mới sanh ra đă là người nối ngôi vua! Tự lực, tha lực, khó - dễ, được - mất trong đấy chẳng thể nào cùng một lúc nói cho xiết được! Thường thấy kẻ tự xưng là thông Tông thông Giáo chẳng tin vào pháp môn Tịnh Độ, lại c̣n cho đấy là hạnh dành cho bọn ngu phu ngu phụ hành tŕ, sao chẳng nh́n vào chuyện đă xảy ra cho Đại Trí luật sư, Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường Thanh vậy?

Đại Trí luật sư thoạt đầu rất miệt thị Tịnh Độ, sau đọc Tục Cao Tăng Truyện, thấy pháp sư Huệ Bố nói: “Cơi ấy tuy tịnh, nhưng ta chẳng muốn. Giả sử trong mười hai đại kiếp sống trong hoa sen, hưởng các khoái lạc, sao bằng ta ở trong đời ác Ngũ Trược giáo hóa chúng sanh ư?” liền sanh phỉ báng. Về sau do bị bệnh nặng, mới biết ḿnh trọn chẳng có mảy may bản lănh ǵ để trông cậy, liền phát nguyện đến hết báo thân này hoằng dương Tịnh Độ. Suốt hai mươi mấy năm, tay chẳng rời kinh Phật, lấy Tịnh Độ làm chỗ nương tựa, quy hướng. Thiền sư Ngũ Tổ Giới, thiền sư Thảo Đường Thanh công hạnh cao cả vượt trỗi những kẻ tầm thường, chỉ v́ chưa thể đoạn sạch Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nên vẫn phải luân chuyển trong nhân gian. V́ thế biết liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh mà bỏ Tịnh Độ th́ không có kế sách tốt đẹp nào cả!

Pháp môn Niệm Phật cần phải đầy đủ Tín - Nguyện - Hạnh. Tín đă sâu, ắt sẽ phát nguyện thiết tha. Nguyện đă phát thiết tha, ắt sẽ dốc sức hành tŕ. Chỉ niệm Di Đà chẳng cần kèm thêm pháp nào khác nữa. Hăy nên dùng ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, chấp tŕ danh hiệu Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, tâm niệm tai nghe, từng câu từng chữ phân minh. Niệm cho phân minh, nghe cho phân minh sẽ là chánh nhân văng sanh. Đă dùng pháp này để tự hành, ắt lại phải đem pháp này dạy bảo người khác th́ công đức giáo hóa ấy sẽ quy về chính ḿnh. Quả thật là tư lương văng sanh tối thắng!

Nhưng trước hết hăy nên khuyên cha mẹ, anh em, vợ con trong nhà chính ḿnh, lấy thân làm gốc, từ thân đến sơ. Thêm nữa, nhờ vào công đức niệm Phật, không những có thể văng sanh Tây Phương mà c̣n có thể tiêu trừ những tai họa lạ lùng, ngang trái. Phàm bệnh tật do oán nghiệp chẳng thể chữa trị được mà nếu chí thành niệm Phật th́ lâu ngày sẽ đều được khỏi bệnh. Bởi lẽ, thầy thuốc chỉ trị được bệnh, chứ không thể trị được nghiệp. Chỉ có niệm Phật là trị được thân bệnh lẫn tâm bệnh, không có ǵ chẳng trị được! Cúi mong các vị cư sĩ đều nên phát tâm Bồ Đề, đề xướng nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật, ấy gọi là “dùng quả địa giác làm nhân địa tâm” cho nên được “nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân”, thật đáng gọi là pháp hy hữu rất khó có vậy! (Tháng Bảy năm Bính Dần - 1926)

 

6. Pháp ngữ khai thị tại Thế Giới Phật Giáo Cư Sĩ Lâm

(Hiển Ấm bút kư)

 

      Vấn đề quan trọng nhất trong Phật pháp chính là liễu sanh tử. Nếu luận về đại sự liễu sanh tử ấy th́ rất khó khăn. Bọn phàm phu chúng ta căn cơ kém cỏi, hiểu biết nông cạn; đă thế, trong đời ác Ngũ Trược tà sư ngoại đạo thật đông! Muốn liễu thoát sanh tử, rốt cuộc phải như thế nào mới liễu thoát được? Chỉ có pháp môn Niệm Phật, dùng ḷng tin chân thành, nguyện thiết tha, tinh tấn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ [th́ mới liễu thoát được]. Trong Phật pháp có nhiều phương tiện, tham Tông học Giáo đều có thể liễu thoát sanh tử, cớ sao cứ phải nhất định niệm Phật vậy? Ấy là v́ tham Tông nghiên Giáo đều phải cốt sao đạt đến mức cùng cực, nếu như thật sự tu chứng được th́ mới có hy vọng. Đấy chính là hoàn toàn cậy vào tự lực, há nói dễ dàng ư?

Niệm Phật là nương tựa vào Phật lực gia bị, tức là kiêm cậy vào Phật lực, tự nhiên chắc chắn có chỗ nắm vững được! Ví như vượt biển, cậy vào tự lực sẽ giống như bay vượt qua biển, c̣n cậy vào Phật lực như ngồi thuyền Từ. Bay vượt qua biển khó thể chẳng lo bị rơi xuống; ngồi thuyền Từ chắc chắn có bữa đến được bờ kia. Sự khó - dễ, an - nguy trong ấy chắc mọi người đều đă phân biệt đến nơi đến chốn rồi! Nói chung, cậy vào tự lực để tham Thiền ngộ đạo liễu sanh tử, nhưng chưa về đến nhà (chưa chứng đến mức rốt ráo) th́ thường là chẳng dễ dàng thực hiện được! Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chỉ cần tín nguyện chân thiết hành tŕ kiên cố sẽ có công năng liễu thoát.

Nếu luận về sự khó - dễ giữa tự lực và tha lực cũng như [sự khó - dễ] giữa Thiền và Tịnh th́ nói rơ ràng nhất, minh bạch nhất không chi bằng Tứ Liệu Giản của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư. Chiếu theo Tứ Liệu Giản để nói th́ người chẳng thông Tông thông giáo cố nhiên phải nên niệm Phật, nhưng kẻ thông Tông thông Giáo lại càng phải niệm Phật. Tuy thông nhưng chưa chứng nói chung đều phải niệm Phật để liễu sanh thoát tử th́ mới đúng đạo lư. Vĩnh Minh đại sư chính là A Di Đà Phật hóa thân, đại từ, đại bi khai hóa chúng sanh. Tứ Liệu Giản như sau:

      Có Thiền có Tịnh Độ,

      Ví như cọp đội sừng,

      Đời này làm thầy người,

      Đời sau làm Phật, Tổ.

      Không Thiền, có Tịnh Độ,

      Vạn tu, vạn người về,

      Chỉ được thấy Di Đà,

      Lo chi không khai ngộ.

      Có Thiền, không Tịnh Độ,

      Mười kẻ, chín chần chừ,

      Ấm cảnh nếu hiện tiền,

      Chớp mắt đi theo nó.

      Không Thiền, không Tịnh Độ,  

      Giường sắt với cột đồng,

      Vạn kiếp lẫn ngàn đời,

      Không có người nương tựa.

 

      Bài kệ Tứ Liệu Giản gồm mười sáu câu trên đây đúng là thuyền Từ, mong mọi người hăy nên chú ư! Muốn hiểu rơ ư nghĩa của bài Tứ Liệu Giản này th́ trước hết cần phải hiểu rơ ràng thế nào gọi là Thiền, thế nào gọi là Tịnh, thế nào gọi là Có, thế nào gọi là Không. Đă thấy rơ được ư nghĩa của bốn chữ “Thiền, Tịnh, Có, Không” này rồi th́ mới hiểu rơ được ư nghĩa của Tứ Liệu Giản. Do vậy, tôi đem ư nghĩa của “Thiền, Tịnh, Có, Không” quyết trạch đại lược như sau:

Nói tới Thiền chính là “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, hoặc như trong Giáo gọi là “đại khai viên giải, triệt chứng bản giác lư thể của nhất niệm linh tri”. Do vậy, phải đích thân thấy được bản lai diện mục th́ mới được kể là “có Thiền”. Nếu không, chẳng thể coi là Có! Nói đến Tịnh th́ là pháp môn “tín sâu, nguyện thiết, cầu sanh Tịnh Độ” như đă dạy trong ba kinh Tịnh Độ. Tự tâm tịnh th́ quốc độ tịnh, do tự lực cảm nên Phật lực ứng. Điều cần thiết bậc nhất là ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, hạnh tinh tấn dũng mănh. Do vậy, cần phải có ḷng tin quyết định không nghi. Chí thành khẩn thiết phát nguyện, lại c̣n hành tŕ nhất định chẳng thay đổi th́ mới kể là “có Tịnh Độ”. Nếu không, chẳng thể kể là có [Tịnh Độ] được! Người đời thường nghĩ ngồi như đă chết khô, khán chết cứng một câu thoại đầu là “có Thiền”, niệm Phật sơ sài, loáng thoáng vài câu bèn kể là “có Tịnh Độ”. Ấy chính là lầm lẫn lớn lao lắm đấy!

Nói chung, “có Thiền” chính là có công phu minh tâm kiến tánh. “Có Tịnh Độ” là Niệm Phật đến mức chắc chắn được văng sanh. Đấy chính là đạo lư khẩn yếu nhất! Nhưng minh tâm kiến tánh chỉ là khai ngộ chứ vẫn chưa chứng, trọn chẳng thể liễu sanh tử. “Hễ ngộ được th́ không c̣n sanh tử” chẳng phải là lời lẽ của người đă chứng nhập! Hăy nên biết rằng: Ngộ là mở mắt, ngộ rồi mới có đường lối để chân tu thực chứng. Kẻ chưa ngộ chẳng khỏi tu mù, luyện đui, sụp hầm, sa hố! Do bởi lẽ ấy, trước hết cần phải khai ngộ. Đấy chính là công phu ban đầu. Nếu bàn đến chuyện “muốn về được đến nhà” th́ chính là dốc sức tiến bước để làm chuyện “đang cháy lại đổ thêm dầu” hay chăng?

Câu thứ nhất trong Tứ Liệu Giản “Có Thiền, có Tịnh Độ” nghĩa là đă có công phu đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Lại c̣n có ḷng tin chân thật, phát nguyện cầu sanh Tây Phương. Đại triệt đại ngộ giống như mănh hổ, lại có bản lănh niệm Phật để liễu sanh tử th́ há chẳng phải là như cọp mọc sừng ư? Do vậy, nói: “Ví như cọp đội sừng”. Dùng sở ngộ và sở hạnh của chính ḿnh để giáo hóa chúng sanh. Kẻ nên dùng Thiền cơ để độ bèn giảng Thiền. Kẻ nên dùng Tịnh tông để độ được bèn giảng Tịnh. Nên dùng Thiền Tịnh Song Tu để độ bèn dùng pháp môn Thiền Tịnh để hóa độ. Do vậy lời lẽ chẳng phí uổng, không căn cơ nào chẳng nhiếp, mở mắt cho chúng sanh, làm bậc thầy khuôn mẫu cho trời người, nên nói là: “Hiện đời làm thầy người”. Bởi lẽ, người minh tâm kiến tánh niệm Phật cầu sanh sẽ thấy thấu triệt tự tánh Di Đà, quyết chứng được duy tâm Tịnh Độ, khi lâm chung sẽ Thượng Phẩm Thượng Sanh. Trong khoảng khảy ngón tay, hoa nở thấy Phật, liền chứng được địa vị Sơ Trụ trong Viên giáo, phân thân làm Phật trong một trăm thế giới, tùy loại ứng hiện hóa độ chúng sanh. Đấy gọi là chân tinh tấn, đấy gọi là đại trượng phu, tương lai làm Phật, làm Tổ, chân ngữ, thật ngữ! Ngưỡng mong đại chúng hăy tin tưởng chắc thật!

      Bài kệ Liệu Giản thứ hai nói tới kẻ chưa từng đại triệt đại ngộ, cậy vào sức của chính ḿnh quyết khó mong liễu sanh tử! Do vậy, phát nguyện cầu Phật tiếp dẫn, tu hành pháp môn Tịnh Độ nên nói: “Không Thiền, có Tịnh Độ”. Chỉ cần tin tưởng sâu xa, chỉ cần phát nguyện, chỉ cần niệm Phật th́ bất luận là ai đều có thể văng sanh. V́ thế nói: “Vạn tu, vạn người về”. Nếu có ai chẳng thông hiểu đạo lư, niệm Phật chỉ cầu phú quư, cầu sanh lên trời th́ những người như thế chẳng thể kể là “có Tịnh Độ”. Chẳng được sanh về Tây Phương th́ chỉ trách chính ḿnh chẳng phát nguyện, chẳng thể trách móc từ phụ Di Đà không đến tiếp dẫn! Nếu có thể phát nguyện cầu sanh th́ nói chung sẽ được văng sanh. Đă được văng sanh, đích thân thấy Phật Di Đà, nghe giảng diệu pháp, tức thời khai ngộ. Trong một đời liền chứng A Bệ Bạt Trí, địa vị Bất Thoái Chuyển. V́ thế nói: “Chỉ được thấy Di Đà, lo chi không khai ngộ”. Nh́n từ đây, pháp môn Tịnh Độ quả thật là không một điều tốt đẹp nào chẳng có!

      Bài kệ Liệu Giản thứ ba nói tới những kẻ tuy có thể đại triệt đại ngộ, nhưng nếu chẳng phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, do v́ chưa về đến nhà sẽ chẳng hưởng sự an thân lập mạng được, nên nói: “Hữu Thiền, vô Tịnh Độ, thập nhân cửu tha lộ” (Có Thiền, không Tịnh Độ, mười kẻ, chín chần chừ). Nói: “Thập nhân, cửu tha lộ” (Mười kẻ, hết chín kẻ chần chừ trên đường) nghĩa là “tuy có thể khai ngộ” nhưng chưa nhất định chứng đến nơi đến chốn, v́ thế nói là “tha lộ” (chần chừ trên đường). Có kẻ [chép câu Liệu Giản này thành] “thập nhân cửu thác lộ” (mười người chín lầm đường) th́ hai chữ “thác lộ” là sai! Há có bậc Thiền gia đại triệt đại ngộ nào lại là kẻ lầm đường ư? Bậc đại triệt đại ngộ chưa thật sự đạt đến địa vị an thân lập mạng nên sợ rằng khi phải qua cửa ải sanh tử chưa chắc đă có thể đích xác làm chủ được. Khi lâm chung sẽ theo nghiệp lưu chuyển, bị các nghiệp thiện hay ác trong nhiều đời ngăn lấp mà thọ sanh, đáng kinh sợ, đáng sợ hăi thay! Thật chẳng bằng cầu Phật tiếp dẫn là ổn thỏa, thích đáng nhất, đáng nương tựa nhất. V́ thế nói: Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”. “Ấm cảnh” ở đây chỉ cho nghiệp cảnh thiện ác từ vô thủy đến nay, chứ không phải là Ngũ Ấm Ma Cảnh. Há bậc Thiền gia đại triệt đại ngộ lại chẳng nhận biết Ngũ Ấm Ma hay sao? Có lẽ ấy hay chăng?

      Bài kệ thứ tư: “Không Thiền, không Tịnh Độ” là nói đến những kẻ chẳng biết tu tâm. Đă không có công phu minh tâm kiến tánh, lại chẳng hành tŕ phát nguyện niệm Phật th́ đúng là nguy lắm. Đấy chính là những kẻ tu tâm nhưng chưa khai ngộ, nói chung là hạng tu mù luyện đui, chẳng thể giải thoát. Tuy nhiên, hễ tu th́ có phước báo, không ǵ chẳng phải là nghiệp nhân sanh tử. Phước báo lớn, tạo nghiệp càng sâu. Phước hết, họa tới, tội báo khó trốn khỏi được! Nỗi khổ trong địa ngục há thể nào may mắn tránh khỏi được ư? Sanh tử luân hồi nương tựa vào ai? Do vậy đọc xong bốn bài kệ Liệu Giản này đúng là “mắt ngó tới, ḷng kinh hăi”. Mong mọi người đều biết nỗi khổ sanh tử, phát Bồ Đề tâm. Kẻ không có Tịnh Độ hăy mau mau phát nguyện tu hành, biến thành “có Tịnh Độ”. Kẻ có Tịnh Độ vẫn phải tinh tấn dũng mănh, lấy quyết định sanh về Tây Phương làm điều kỳ vọng. Khẩn yếu lắm đấy!

Mọi người phải hiểu rằng cậy vào tự lực để tu tŕ th́ chính ḿnh sẽ có những loại lực nào? Chỉ là nghiệp lực từ vô thủy đến nay! Do vậy muôn kiếp ngàn đời khó được giải thoát! Cậy vào hoằng thệ đại nguyện lực của A Di Đà Phật sẽ tự nhiên hoàn thành chỉ trong một đời. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Đă đến núi báu, đừng trở về tay không! Lại phải nên biết rằng pháp môn Niệm Phật chẳng phải là chuyên dành cho hạng hạ căn mà chính là thích hợp khắp cả ba căn. Bất luận lợi căn, độn căn, thượng trí, hạ ngu, cho đến Đẳng Giác Bồ Tát đều hướng đến pháp môn này th́ sau này mới có thể thành Phật. Do vậy, trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học với khắp các bậc đại thiện tri thức, chứng nhập các môn Đà La Ni trong pháp giới hải hội. Cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Nh́n từ chỗ này, pháp môn Tịnh Độ đúng là pháp môn cao thượng nhất, viên măn nhất. Nếu báng bổ là hạnh của bọn ngu phu ngu phụ th́ đúng là báng Phật, báng Pháp, là chủng tử địa ngục! Kẻ chẳng tin Tịnh Độ ngu cuồng đọa lạc, là kẻ đáng thương tột bậc!

Sở dĩ pháp môn Tịnh Độ cao thượng như thế là v́ những giáo lư tu tâm thông thường hoàn toàn cậy vào tự lực, chỉ có Tịnh Độ là kiêm cậy vào Phật lực, là giáo lư đặc biệt, chẳng phải là giáo lư phổ thông. Dùng tầm mắt phổ thông để nh́n giáo lư đặc biệt, tự nhiên sẽ thấy chẳng thỏa đáng! Giáo lư phổ thông cậy vào tự lực giống như tiến thân trên đường công danh, phải lên cao từng bước. Tịnh Độ là giáo lư đặc biệt cậy vào Phật lực, ví như sanh trong cung vua, vừa lọt ḷng mẹ liền là người nối ngôi vua. Sự khó - dễ, cong - thẳng, chẳng cần phải là người trí mới biết được! Tịnh Độ đạo tuy cao quư, nhưng pháp chẳng có lạ lùng, đặc biệt ǵ, chỉ cần tâm thiết tha cầu Phật, tự nhiên sẽ được Phật gia bị. Hăy nên biết rằng: Phật nghĩ nhớ, che chở chúng sanh c̣n hơn cha mẹ yêu con. Do vậy hễ có cảm ắt có ứng. Nhưng Phật tánh thiên chân sẵn có của chúng ta chiếu trời soi đất, hằng cổ, hằng kim, dẫu là kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác, linh quang sẵn có của hắn ta vẫn chẳng giảm một mảy may nào! Nhưng như gương sáng bị bụi phủ, kẻ ngu cho là chẳng có quang minh, trọn chẳng biết lau chùi để trừ trần cấu th́ quang minh lại hiển hiện rành rành.

Do vậy, niệm A Di Đà Phật tức là dùng Phật niệm để thay cho vọng niệm. Đấy chính là phương pháp khử trần cấu tốt nhất. Niệm tới niệm lui không ǵ chẳng nhằm hiển lộ A Di Đà Phật sẵn có trong tự tâm. Tự lẫn tha tương ứng, cảm ứng đạo giao, diệu nghĩa văng sanh không thể nói xuể! Người niệm Phật chỉ cần chí thành khẩn thiết, tâm giống như tâm Phật, hành hạnh giống như hạnh Phật, có một phần cung kính được một phần lợi ích, có một phần kiền thành được một phần thụ dụng. Mong mọi người hăy nỗ lực!

Hiện thời thế đạo ngày một suy, nhân tâm ngày một hoại, muốn bổ cứu từ căn bản th́ phải chú trọng nơi giáo dục trong gia đ́nh. Trị quốc, b́nh thiên hạ, phải bắt đầu từ tề gia. Do vậy, quyền lực “trị quốc, b́nh thiên hạ” phụ nữ chiếm quá nửa. Phụ nữ chú trọng nơi mẫu giáo (sự dạy dỗ của mẹ), mẹ dạy con noi theo quy củ, tập quen từ thuở bé, lớn lên sẽ thực hiện. Nhân cách tốt đẹp phải được bắt nguồn từ tuổi măng sữa. V́ thế, chức trách, nhiệm vụ “giúp chồng dạy con” của phụ nữ lớn lắm.

Những vị nữ cư sĩ phải biết phụ nữ được gọi là Thái Thái là v́ vào buổi đầu khai quốc của nhà Châu, Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự đều hiền đức tột bậc, là bậc mẫu nghi của thiên hạ. Do vậy, gọi phụ nữ là Thái Thái. Các vị nữ cư sĩ hăy nên biết danh xưng Thái Thái đáng tôn, đáng quư, ai nấy tận hết chức trách bổn phận giúp chồng dạy con để làm cơ bản trị quốc b́nh thiên hạ, ngơ hầu danh xứng với thực. Nói đến chỗ cùng cực của tu tâm th́ vẫn là hai câu: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Hai câu ấy đứa trẻ lên ba cũng nói được, nhưng ông lăo tám mươi làm không xong! Người rốt ráo làm được hai câu ấy đă ở vào địa vị chư Phật. Do vậy, mong hết thảy những thiện nam tín nữ tu tâm hăy hết sức chú ư. Ngàn lời vạn lẽ nói chung là “phải tu tâm để liễu sanh tử!” Nếu luận tới chỗ mấu chốt khẩn yếu nhất của tu tâm để liễu sanh tử th́ là “đừng làm các điều ác, vâng hành các điều lành, phát nguyện niệm Phật”. Mong mọi người ghi nhớ mấy ư nghĩa này cẩn thận, chắc chắn sẽ tự nhiên giải quyết xong sanh tử, chứng Phật đạo. Xin hăy gắng lên!

 

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,

Quyển 4

Phần 1 hết

 

 

 



[1] Nguyên văn “khâm ảnh vô tàm”. Đây là một thành ngữ xuất phát từ một câu nói thuộc phần Lưu Tử trong quyển 2 sách Lưu Thư: “Độc lập bất tàm ảnh, độc tẩm bất quư khâm” (Đứng một ḿnh chẳng thẹn với bóng, ngủ một ḿnh chẳng thẹn với áo). Câu này ca ngợi con người quang minh lỗi lạc, dẫu trong những lúc chỉ có một ḿnh vẫn không làm điều ǵ đáng thẹn với lương tâm.

[2] Thiên quyến: Quyến thuộc cơi trời, tức chư thiên.

[3] Nguyên văn “như lâm sư bảo” (như đến trước các quan dạy dỗ, cố vấn của nhà vua). “Sư bảo” (師保) là từ ngữ phiếm chỉ các quan đại thần giữ nhiệm vụ dạy dỗ hoàng tộc, cố vấn nhà vua như Thái Sư, Thái Bảo, Thiếu Sư, Thiếu Bảo v.v… Về sau, từ ngữ “sư bảo” cũng thường được dùng để chỉ thầy dạy học.

[4] “Tân truyền” là cách nói gọn của chữ “tân tận hỏa truyền” (củi hết nhưng lửa c̣n) thường được để chỉ đạo lư, học thuyết được truyền thừa chân thực giữa thầy và tṛ như củi đốt hết lớp này sang lớp khác, ngọn lửa vẫn c̣n măi.

[5] Theo Câu Xá Tụng Sớ, quyển 1 cũng như Tông Kính Lục quyển 26, Thuyên () có nghĩa là rơ ràng. Những lời lẽ giảng giải chân lư rơ ràng rành mạch được gọi là “chân thuyên”.

[6] Câu nói này được trích từ thiên Tận Tâm hạ của sách Mạnh Tử. Chúng tôi dịch câu nói này theo cách giải thích trong sách Tứ Thư Bạch Thoại Chú Giải của Thường Nhiệt Châu và Lân Công Chấn (Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội xuất bản tại Đài Loan năm 2003)

[7] Trong thiên Nguyệt Lệnh sách Lễ Kư có chép: “Quư Xuân, tiên lôi tam nhật, tù nhân dĩ mộc đạc tuần vu đạo lộ, viết: - Lôi tương phát thanh, hữu bất giới kỳ dung chỉ giả, sanh tử bất bị, tất hữu hung tai” (Cuối Xuân, trước khi sấm động ba ngày, viên quan truyền lệnh liền khua linh gỗ, đi khắp các nẻo đường truyền lệnh: ‘Sắp có sấm động, kẻ nào chẳng kiêng ăn nằm th́ sanh con chẳng toàn vẹn, ắt sẽ bị tai nạn hung hiểm’).

[8] Dương Phục Trai là tên thư pḥng của Giang Dịch Viên.

[9] Thoạt đầu, Nhụ Nhân (孺人) là danh xưng để gọi vợ các quan đại phu (thiên Khúc Lễ sách Lễ Kư ghi: “Phi tần của thiên tử gọi là Hậu, vợ của chư hầu gọi là Phu Nhân, vợ của đại phu gọi là Nhụ Nhân. Vợ của quan lại cấp nhỏ gọi là Phụ Nhân, vợ của dân thường gọi là Thê”). Thời Đường, danh từ này chỉ dành riêng để gọi vợ các vị có tước vương, đến đời Tống lại dùng để gọi chung mẹ hoặc vợ các quan. Đến thời Thanh, chỉ vợ hoặc mẹ các quan từ thất phẩm trở lên mới được gọi là Nhụ Nhân. Tuy vậy đến cuối đời Thanh, Nhụ Nhân thường được dùng như một mỹ từ để gọi vợ của người khác trong văn chương.

[10] Đây là cuốn sách tập hợp những bài tỏ ḷng thương tiếc, ca ngợi phẩm hạnh của bà Vương Trí Duệ. Bà này họ Vương, chồng họ Mạc, pháp danh Trí Duệ nên thường được gọi kèm cả họ chồng là Mạc Vương Trí Duệ.

[11] Khi thần thức nhập thai, dễ bị Ngũ Ấm che lấp chân tánh nếu tâm chưa hoàn toàn đoạn sạch Kiến Hoặc và Tư Hoặc, đó gọi là Thai Ấm. Điều này c̣n được diễn tả bằng một từ ngữ khác là “cách ấm chi mê”.

[12] Liệu Giản, đôi khi c̣n được gọi bằng những thuật ngữ khác như Liễu Giản, Lượng Giản, Liệu Kiến hoặc Lượng Kiến, đều cùng hàm nghĩa phân biệt, biện định, chọn lựa chánh pháp một cách xác đáng nhất. Tùy theo từng tông phái mà ư nghĩa chữ Liệu Giản được chia chẻ tỉ mỉ hơn như sau:

1) Luận định, xem xét theo đủ mọi quan điểm, dùng phương thức vấn đáp để nghị luận tới chỗ tinh vi chặt chẽ nhất.

2) Riêng trong tông Lâm Tế, Liệu Giản là bốn phương pháp để hướng dẫn người học ngộ nhập Chân Như, tức: “Đoạt người không đoạt cảnh, đoạt cảnh không đoạt người, người lẫn cảnh đều đoạt, người lẫn cảnh đều chẳng đoạt”.

3) Theo Thiên Thai Tông Nhật Bản, Liệu Giản là dùng những phương cách để điều ḥa những điểm mà nếu chỉ nh́n vào mặt văn tự sẽ tưởng lầm là kinh điển mâu thuẫn, chống trái nhau.

4) Lư giải vấn đề một cách dung thông, rộng răi nhất.

[13] Trung Ấm (Antarā-bhava) c̣n dịch là Trung Hữu, Trung Uẩn, Trung Ấm Hữu. Theo Câu Xá Luận quyển 7, Trung Hữu được tính từ sát-na khi cái thân đời trước chết (Tử Hữu) tới sát-na thọ sanh thân sau (Sanh Hữu). Trong khoảng trung gian, sẽ có một cái thân được hóa sanh bởi ư thức (Thức thân) chứ không do tinh huyết tạo thành nên gọi là Sanh Ư Thân hoặc Ư Thành Thân (Manomayakāya). Do được nuôi dưỡng bằng mùi hương, nên c̣n gọi là Thực Hương (Gandharva). Do thân này thường truy t́m chỗ kế tiếp để thọ sanh nên lại gọi là Cầu Sanh (Samhavaisin). Chỉ có Sắc Giới và Dục Giới mới có thân Trung Ấm, người sẽ thọ sanh trong Vô Sắc Giới không có thân này. Tùy theo người ấy sẽ thọ sanh trong đường nào mà h́nh dạng của Trung Ấm sẽ khác biệt. Chẳng hạn như theo kinh Đại Bảo Tích, quyển 56, thân Trung Ấm cơi địa ngục xấu xí, giống như gỗ cháy nham nhở, thân Trung Ấm trong súc sanh có màu khói, thân Trung Ấm trong ngạ quỷ màu như nước, thân Trung Ấm trong Dục Giới lớn bằng đứa bé năm sáu tuổi, nhưng các căn lanh lợi, thân Trung Ấm của bậc Bồ Tát đầy đủ các tướng hảo v.v… Cũng theo Câu Xá Luận, thời hạn tồn tại của thân Trung Ấm không nhất định, nhưng tối đa là bốn mươi chín ngày.

[14] Nhất Hạnh tam-muội là tên gọi khác của Niệm Phật tam-muội.

[15] Pháp hội Đại Vân Luân là pháp hội tụng kinh Đại Vân Luân Thỉnh Vũ nhằm cầu mưa trong khi pháp hội Nhân Vương Hộ Quốc và Kim Quang Minh tụng Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhă Ba La Mật Kinh và Kim Quang Minh Kinh để cầu an, tiêu tai giải nạn. Đại Vân Luân Thỉnh Vũ Kinh (Mahā-megha-sūtra) do ngài Bất Không dịch vào đời Đường, bao gồm những bài đà-la-ni để cầu mưa. Trong quyển Thượng của kinh này đă kể ra mười thứ mây cúng dường to lớn như biển, lợi ích của mưa và năm mươi bốn danh hiệu Phật, quyển Hạ gồm các bài đại đà-la-ni. Kinh này do đức Phật giảng cho các vị đại tỳ-kheo, đại Bồ Tát, và tám trăm mấy chục vị long vương tại Đại Vân Đạo Tràng Bảo Lâu Các của Ô Ba Nan Đà long vương. Kinh này chính là bản dịch khác của phẩm Đại Vân Kinh Thỉnh Vũ trong kinh Đại Phương Đẳng (do ngài Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy).

[16] Tứ Thiền (Catvāri Dhyānāni): Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, cùng mang chung đặc điểm là ĺa cảm thọ nơi Dục Giới, quán sát Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Bốn loại Thiền này có công năng đối trị các tâm sở như Tầm, Tư v.v… tăng trưởng các pháp lạc như Hỷ, Lạc v.v… Đồng thời là căn bản để phát khởi Tứ Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả), Bát Giải Thoát, Bát Thắng Xứ, Thập Biến Xứ v.v… nên c̣n gọi là Căn Bản Định. Tứ Định chỉ bản thể của các địa vị do Duy Thức Tông đă lập như Noăn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất, tức Minh Đắc Định, Minh Tăng Định, Ấn Thuận Định, Vô Gián Định.

[17] Tức Tứ Quả trong Tiểu Thừa: Tư Đà Hoàn, Tu Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.

[18] Hữu lậu (Sāsrava). Lậu (Āsrava) có nghĩa là rơi mất, ṛ rỉ, là tên khác của phiền năo. Do có phiền năo nên con người nẩy sanh lầm lỗi, gánh chịu quả khổ, mê muội lầm lạc lưu chuyển không ngừng trong thế giới, nên gọi là Hữu Lậu. Do tu tập Ngũ Giới, Thập Thiện sẽ có phước báo, nếu không có trí huệ hướng dẫn th́ sẽ do phước liền tạo nghiệp, gây nhân sanh tử, khổ năo nặng nề trong đời sau nên gọi là “công đức hữu lậu”.

[19] Tử Xa là một họ cổ của Trung Hoa, vốn là con cháu của một vị đại phu đời Tần tên là Tử Xa, con cháu lấy tên tổ tiên làm họ. Đời Tần Mục Công, nước Tần có ba vị đại phu nổi tiếng hiền tài là Tử Xa Trọng Hành, Tử Xa Yểm Tức và Tử Xa Kiềm Hổ. Khi Tần Mục Công chết, ba ông này đă bị con Tần Mục Công chôn sống để bồi táng Tần Mục Công theo di chúc của vua. Về sau, họ Tử Xa đổi thành họ Xa.

[20] Liệt Quốc là cách gọi gộp chung của hai thời kỳ lớn trong vương triều nhà Châu, tức Xuân Thu và Chiến Quốc (có thuyết coi Liệt Quốc chỉ là tên gọi khác của thời kỳ Chiến Quốc).

1) Thời kỳ Xuân Thu (770-476 trước Công Nguyên), tên gọi này bắt nguồn từ bộ sử nước Lỗ do Khổng Tử san định với tên gọi là Xuân Thu. Thời kỳ Xuân Thu bắt đầu từ năm Châu B́nh Vương nguyên niên đến năm bốn mươi ba đời Châu Kính Vương. Châu B́nh Vương (Cơ Nghi Cữu) là con của Châu U Vương, mẹ là Thân Hậu (con gái vua nước Thân). Châu U Vương say mê thứ phi Bao Tự, toan truất phế Nghi Cữu để lập con Bao Tự là Bá Phục làm Thái Tử, tống giam mẹ con Nghi Cữu. Nghi Cữu trốn về nước Thân. Vua nước Thân liền liên kết với vua nước Tắng và rợ Khuyển Nhung, đánh bại U Vương, đốt cháy Cảo Kinh. Nghi Cữu lên ngôi, trở thành Châu B́nh Vương. Do quốc khố lẫn kinh đô tan hoang, B́nh Vương phải dời đô sang Lạc Dương. Sử gọi là nhà Đông Châu. Từ đấy, thế lực nhà Châu suy yếu, chư hầu nổi lên lấn quyền, xưng bá, lần lượt có năm chư hầu mạnh nhất (Xuân Thu Ngũ Bá) nối nhau nắm quyền là: Tề Hoàn Công, Tống Tương Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công và Sở Trang Vương (có sách kể Ngũ Bá là Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Sở Trang Vương, Ngô Hạp Lư và Việt Câu Tiễn).

2) Thời kỳ Chiến Quốc (476-221 trước Công Nguyên). Do trong thời kỳ này các nước (đặc biệt là bảy nước lớn Tần, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Yên) đánh nhau loạn xà ngầu nên gọi như thế. Thời kỳ này kết thúc khi Tần Thủy Hoàng thôn tính sáu nước kia, diệt các nước nhỏ c̣n sót lại như Châu, Tống, Vệ, Trung Sơn, Lỗ, Đằng, Trâu, Phí v.v.. lập ra đế quốc Đại Tần.

[21] Thiên Tướng Quân là một quan chức đă có từ thời Tam Quốc. Thiên Tướng và Tỳ Tướng là hai chức quan vơ nhỏ nhất, chuyên được sai đi đánh trận, làm tướng tiên phong, hoặc chỉ huy những trận đánh nhỏ. Thiên Tướng cao hơn Tỳ Tướng một trật, nhưng cả hai đều thuộc ngạch Cửu Phẩm.

[22] Xương Môn là tên một cửa thành của cố đô Cô Tô nước Ngô (nay thuộc Tô Châu).