Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,
Quyển
4
Phần
1
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ
Trang
13. Bài
tụng nhân lễ khai mạc Bảo Sơn Cư Sĩ Lâm
Như
Lai đại pháp là nguồn các pháp, mảy trần
chẳng lập, vạn đức vẹn toàn. Khắp
cả thế gian và xuất thế gian, nhân quả, sự
lư, không ǵ chẳng gồm! Giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, mong thành thánh hiền, tâm
địa ắt phải chẳng thẹn bóng áo[1],
tu Giới - Định - Huệ, đoạn tham - sân - si.
Tự lợi, lợi tha, cùng chứng Bồ Đề. Ví
như dựng nhà, trước phải đắp nền;
nền đă kiên cố, không ǵ chẳng thành. Do vậy
học Phật, trước hết là phải giữ
vẹn luân thường. Luân thường chẳng
thiếu, mới hợp đạo chân. Chúng sanh đời
Mạt nghiệp chướng sâu nặng, chỉ cậy
tự lực, khó khỏi trầm luân. Như Lai xót thương,
mở môn Tịnh Độ. Dùng chân tín nguyện, tŕ
hồng danh Phật. Chúng sanh vận dụng ḷng Thành
cảm Phật; Phật v́ từ bi, cảm ứng
đạo giao, như gương hiện bóng. Nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Nếu
được như thế, muôn người tu tập,
muôn người văng sanh. Từ đầu đến
cuối, dốc cạn thành kính, đừng làm các ác, vâng
làm các lành. Dạy xuông sẽ căi, thân làm người theo.
Nh́n vào cảm hóa, lợi ích thật to. Bảo Sơn sáng
lập Cư Sĩ pháp lâm, riêng viết đại nghĩa,
phát khởi tín tâm. Một pháp Niệm Phật, nhiếp
khắp các pháp, dường như hư không, chứa muôn
h́nh tượng, trọn hết thông đạt. Nguyện
người thấy nghe, đều cùng nức ḷng, ngơ
hầu kiếp vận, do đây tiêu diệt. Ḷng
người đă chuyển, thiên quyến[2]
tự đến, thời vận ḥa b́nh, mùa màng sung túc,
hưởng măi thái b́nh.
14. Ca
tụng đức hạnh cao đẹp của Tŕnh thái
phu nhân mẹ ông Vương
Nghĩ
tưởng Vương mẫu, túc căn thật sâu.
Từ bé mẹ đă đỡ tốn công sức, giáo hóa
uốn nắn, hiếu dưỡng song thân; lớn lên,
lấy ông Vương,
một niềm hiếu thuận, giúp chồng quán xuyến,
trọn hết phận vợ. Ông Vương qua
đời, nuôi dạy con cái, vừa từ,
vừa nghiêm, mềm mỏng, cứng rắn,
đều cùng rạng ngời. Con đă trưởng thành,
cho đi học hỏi, phụng sự đất
nước, mong noi tiên giác. Những năm gần đây,
con là Bách Linh, thâm nhập Phật pháp, khuyên mẹ nhất
tâm, tu tŕ Tịnh nghiệp. Tới lúc lâm chung, niệm
Phật qua đời, chưa thấy tướng lành, Linh
khá lo nghĩ, càng thêm tinh tấn.Trong khi quán Phật,
tưởng nhớ tới mẹ, được thấy
mặt mẹ, gần giống mặt Phật. Khi mẹ
c̣n sống, mẹ con nương nhau, để cùng
sống c̣n. Khi mẹ mất rồi, để khích lệ
con, hiện bóng cho thấy. Tuyệt thay, Vương
mẫu! Anh hiền khuê các! Nên viết đại
lược để lưu truyền măi.
15. Bài tán
dương đề trên h́nh ảnh tỳ-kheo-ni Tiên
Đức
Từ
khi vào Không Môn, ḷng chỉ nghĩ đến Phật, trong
suốt mười hai thời, niệm Phật chẳng
gián đoạn. Niệm lâu ngày chầy tháng, tâm đă
hợp với Phật, biết trước
được lúc mất, đến kỳ, ngồi qua
đời, nhằm lợi khắp nữ giới, nên
viết bài tụng này. Nguyện cho người đời
sau, giữ măi hạnh đẹp ấy.
16. Bài tán
dương đề trên h́nh cư sĩ Cao Hạc Niên
Người chê cư sĩ tánh quá thiên lệch, tôi khen sự thiên lệch ấy chính là Viên. Do Thiên nên chẳng màng gia sản, do Thiên nên hiểu sâu Giáo, Thiền. Do Thiên nên vân du các nơi danh thắng trong cả nước. Do Thiên nên tham học với khắp các bậc cao hiền trong Tông, trong Giáo. Do Thiên nên chuyên tu pháp đặc biệt là Tịnh Độ. Do Thiên nên kết Tịnh duyên với khắp những người cùng hàng. Do Thiên nên chẳng truyền ḍng giống. Sửa nhà thành am để an trụ bậc trinh tiết, ngơ hầu họ được trọn vẹn thiên tánh, nay đă sắp ĺa đời ác Ngũ Trược, lên thẳng chín phẩm sen báu nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, qua h́nh vẽ của bạn già là Vương Nhất Đ́nh, bèn viết lời chân thật để nêu tỏ duyên do của sự thiên lệch ấy (Cuối Xuân năm Bính Tư, tức năm Dân Quốc 25 - 1936)
17. Nêu lên
những điểm chánh yếu của sách Sức Chung Tân
Lương
Lúc
mạng sắp hết, Tứ Đại chia ĺa, mọi
khổ đều nhóm. Nếu chẳng phải từ lâu
đă chứng tam-muội, thật sợ chẳng dễ ǵ
đắc lực được! Huống chi quyến
thuộc chẳng am hiểu lợi - hại, thường
v́ t́nh cảm thế tục mà phá hoại chánh niệm. Do
vậy, Sức Chung Xă được thành lập. Sức
Chung (飾 终) có nghĩa là giúp đỡ cho
người sắp mất được văng sanh. Ấy
là v́ đang trong lúc ấy, nếu hành nhân được
phụ trợ bằng khai thị, hướng dẫn
sẽ sanh tâm vui mừng, hoan hỷ, ḷng tham ái chấm
dứt, tai nghe danh hiệu Phật, tâm duyên theo cảnh
Phật, sẽ tự có thể cảm ứng đạo
giao cùng Phật, được Phật tiếp dẫn văng
sanh Tây Phương. Ví như kẻ yếu hèn muốn lên
núi cao, đằng trước có người lôi, sau
lưng có kẻ đẩy, hai bên có người xốc
nách d́u đi, sẽ tự chẳng đến nỗi
bỏ cuộc giữa chừng. Dẫu cho kẻ lúc b́nh
thường trọn chẳng hề nghe đến
Phật pháp, lâm chung được thiện tri thức
chỉ dạy liền sanh tín tâm. Lại được
trợ niệm Phật hiệu khiến cho người
ấy theo tiếng niệm của đại chúng mà niệm
ra tiếng hoặc niệm thầm trong tâm. Nếu
được trợ niệm đúng pháp, không có hết
thảy những chuyện phá hoại chánh niệm th́
cũng có thể văng sanh. Do Phật lực chẳng thể
nghĩ bàn, do pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, do chúng
sanh tâm lực chẳng thể nghĩ bàn, nên được
lợi ích thù thắng ấy. Nguyện những ai làm con làm
cháu và các quyến thuộc cùng hàng phụ mẫu v.v…
đều biết nghĩa này, cùng hành theo đó th́ mới
gọi là chân từ, hiếu thảo với cha mẹ,
thương yêu người thân vậy.
18.
Đề từ cho cuốn Nghi Thức Niệm Tụng
Của Linh Nham Sơn Tự
Hết
thảy kinh Phật và các sách xiển dương Phật
pháp, không một loại nào chẳng nhằm làm cho con
người lánh dữ, hướng lành, sửa lỗi,
hướng thiện, nêu rơ nhân quả ba đời,
hiểu rơ Phật tánh sẵn có, vượt khỏi
biển khổ sanh tử, sanh lên cơi sen Cực Lạc.
Người đọc hăy nên sanh tâm cảm ân, sanh ư
tưởng khó gặp gỡ, tay sạch, bàn sạch,
giữ ḷng kính, ǵn ḷng Thành, như đối trước
Phật, trời, như đến trước các quan
dạy bảo đế vương[3] th́
vô biên lợi ích sẽ đích thân đạt
được. Nếu phóng túng không kiêng dè, mặc t́nh khinh
nhờn, và cố chấp, thấy biết hẹp ḥi,
lầm lạc sanh ḷng hủy báng, tội lỗi sẽ
ngập trời, khổ báo vô tận. Kính khuyên người
đời, hăy lánh xa tội, cầu lợi ích, ĺa khổ
được vui vậy!
19.
Đề từ cho sách A Di Đà Kinh Bạch Thoại
Giải Thích
A Di Đà Kinh chính là đạo để hết thảy thánh - phàm cùng tu, cũng là pháp để quyết định liễu thoát ngay trong đời này. Kinh văn tuy rơ ràng, giản lược, nghĩa cực rộng sâu. Cổ đức muốn cho ai nấy đều tu tập, nên xếp kinh này vào khóa tụng hằng ngày. Thường có những thiện tín b́nh dân chẳng thấu hiểu văn lư sâu xa, tuy đọc các trước thuật của cổ đức vẫn chẳng biết nghĩa lư y như cũ. Cư sĩ Hoàng Hàm Chi muốn cho hết thảy mọi người cùng được gội ân Phật, đều được hưởng lợi ích thật sự, liền dùng thể văn Bạch Thoại để viết lời giải thích ngơ hầu những kẻ hơi biết chữ đều được hiểu rơ ràng. Lần đầu in một ngàn bộ, không lâu sau, thư gởi đến xin thỉnh hết sạch, bèn tính cách lưu truyền rộng răi, rút nhỏ khổ sách lại. Những người cùng chí hướng bỏ tiền in tới hai vạn cuốn để mong cho những học nhân sơ cơ tu tŕ Tịnh nghiệp đều cùng được thọ tŕ. Mong rằng những ai có được bản chú giải này sẽ cung kính tu tập, xoay vần lưu thông, khiến cho khắp mọi đồng nhân đều được thọ tŕ. Đem công đức này giúp cho Tịnh nghiệp th́ khi hết báo thân này sẽ lên thẳng chín phẩm, thấy Phật, nghe pháp, chứng Vô Sanh Nhẫn, sự vui sướng ấy làm sao diễn tả được?
Các kinh
Đại Thừa đều lấy Thật Tướng
làm Thể, đế lư được nói trong các kinh
ấy trọn chẳng hơn - kém. Nếu luận về
cơ nghi th́ trong sự không hơn - kém, lại có sự
hơn - kém lớn lao! Bởi lẽ, đối với các
pháp môn được nói trong hết thảy các kinh
đều phải tự lực tu tập cho đến
khi nào đoạn Hoặc chứng Chân th́ mới có phần
liễu sanh tử; c̣n pháp môn được nói trong ba kinh
Tịnh Độ chính là phàm phu sát đất dùng tín
nguyện sâu tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây
Phương, kiêm thêm “đừng làm các điều ác, vâng
làm các điều lành”. Tuy đầy dẫy Hoặc
nghiệp, vẫn có thể cậy vào Phật từ
lực đới nghiệp văng sanh. Đấy chính là
điều chưa từng có trong hết thảy các kinh,
chính là đại pháp môn của đức Như Lai
nhằm làm cho khắp hết thảy dù thánh hay phàm
đều cùng thoát khỏi luân hồi lục đạo
ngay trong đời này. Nhưng kinh A Di Đà lời văn
giản lược, nghĩa lư phong phú, thấu triệt
khắp mọi căn cơ, lợi ích của kinh hết
kiếp khó thể tuyên nói được! V́ vậy, kể
từ khi đức Phật nói ra pháp này đến nay, văng
thánh tiền hiền người người đều hướng
về, ngàn kinh muôn luận chốn chốn chỉ quy.
Kẻ có duyên gặp được xin đừng bỏ
lỡ th́ may mắn lắm thay!
20.
Đề từ cho sách Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích
Cảm Ứng Tụng
Quán
Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi
rộng lớn, tùy loại hiện thân tầm thanh cứu
khổ. Người đời hễ gặp phải
tật bệnh, hoạn nạn, nếu có thể vận
tâm sửa lỗi, hướng lành, cung kính, chí thành,
thường niệm danh hiệu Bồ Tát, không ai chẳng
được Ngài rủ ḷng gia bị tùy theo ḷng Thành
lớn hay nhỏ. Nhỏ là gặp dữ hóa lành, gặp
nạn thành hên; lớn là nghiệp tiêu trí rạng,
chướng tận, phước tăng, cho đến
siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Đáng
tiếc người đời phần nhiều chẳng
biết! V́ thế, riêng đọc khắp các kinh
điển và các sách vở, soạn thành tụng văn,
thêm lời chú thích tường tận, ngơ hầu cả cơi
đời đều biết Bồ Tát quả thật là
thuốc men cho bệnh ngặt, là gạo thóc trong năm
đói kém, là người dẫn đường nơi
nẻo hiểm, là bè báu nơi bến mê. Kính mong những ai
thấy nghe sách này đều cùng tùy sức của chính
ḿnh, lần lượt khuyên chỉ, in tặng, lưu
thông, khiến cho hết thảy đồng luân đều
được gội từ ân của Phật, cùng
thấm nhuần pháp hóa, ngơ hầu an ủi bi tâm độ
sanh của Bồ Tát, thỏa măn chí nguyện cảm thánh
của đương nhân vậy!
Phật
pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo
dường hư không. Nếu nói thiển cận th́ phàm
phu đều có thể biết, có thể hành. Nếu nói
sâu xa th́ thánh nhân vẫn có những điều chẳng
biết! Những kẻ thông minh trong thế gian nếu có
hàm dưỡng, từng trải th́ sẽ nhập
đạo. Nếu không, ắt sẽ do trí huệ nhỏ
nhoi mà tự phụ đến nỗi lầm lạc
cậy vào sự hiểu biết của chính ḿnh rồi
hủy báng Phật pháp. V́ thế, đức Phật
xếp Thế Trí Biện Thông vào tám nạn. Điều này
đáng răn dè sâu đậm, thiết thực! Căn
bệnh ấy chính là do dùng tri kiến của phàm phu
để suy lường cảnh giới của Phật,
Bồ Tát. Nếu biết phàm phu quyết chẳng thể
suy lường cảnh giới của Phật, Bồ Tát
th́ sẽ ngưng dứt được căn bệnh
ấy. Đừng nói cảnh giới của Phật,
Bồ Tát chẳng thể suy lường được,
đối với chủ nhân ông của khởi tâm
động niệm, kẻ ấy từ sống
đến chết há có biết được, có nh́n
thấy chút nào hay chăng? Nếu đích thân biết
được, thấy được chủ nhân ông
của khởi tâm động niệm nơi chính ḿnh th́
sẽ dần dần biết được cảnh
giới của Phật, Bồ Tát.
Những kẻ trí
huệ nhỏ nhoi mà cứ tự phụ ví như kẻ mù
chẳng thấy được mặt trời, bèn
bảo: “Chẳng có mặt trời!” Lũ mù nghe vậy, khen
ngợi kẻ ấy: “Kiến thức cao siêu, đích xác,
không sai lầm”, chẳng biết đấy chính là tà
thuyết tự lầm, lầm người! Há chẳng
đáng buồn quá đỗi ư? V́ thế, phàm những
bậc đại thông gia lỗi lạc xưa nay, không ai
chẳng dùng Phật pháp để làm cái gốc nhằm
“cùng lư tận tánh” ḥng giữ yên cơi đời, giữ cho
dân lương thiện. Những vị lập đại
công, dựng đại nghiệp, nêu tỏ được
những lẽ mầu nhiệm chưa truyền của
thánh hiền, đấy đều là do học Phật
đắc lực mà được; nhưng kẻ tự
phụ thông minh đâu có biết như thế? Kẻ
bệnh biết thuốc, lăng tử là khách đáng
thương, khôn ngăn cảm khái, buồn than, giăi
tấm ḷng trung để thưa bày. Nếu rủ ḷng
tiếp nhận th́ may mắn lắm thay!
Hết
thảy kinh Phật và những kinh sách xiển dương
Phật pháp đều nhằm làm cho con người
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận, sửa lỗi hướng lành, hiểu rơ nhân
quả ba đời, nhận biết Phật tánh vốn
sẵn có, thoát biển khổ sanh tử, sanh lên cơi tịnh
Cực Lạc. V́ thế, phải vô cùng cung kính, chớ nên
khinh nhờn! Sách này tŕnh bày cặn kẽ Bổn và Tích
của đức Quán Âm trong những kiếp xưa,
cũng như sự cảm ứng ở phương này.
Phân nửa quyển một phần nhiều trích dẫn
kinh văn, trọn quyển bốn là những đoạn
trích dẫn từ kinh điển. Những quyển khác tuy
gồm những trích dẫn từ các sách vở, nhưng
đều nhằm chỉ rơ chuyện cứu khổ ban vui
của đức Quán Âm th́ cũng giống như kinh. Do ân
từ đức thánh ban bố cho nên nói: “Phải tôn kính như
tôn kính đức thánh vậy!” Người đọc
ắt phải sanh ḷng cảm ơn, sanh ư tưởng khó
được gặp gỡ, tay sạch, bàn sạch,
giữ ḷng kính, ǵn ḷng thành, như đối trước
Phật, trời, như tới trước mặt
thầy dạy của đế vương th́ vô biên
lợi ích sẽ đích thân đạt được.
Nếu buông lung không e dè, mặc sức khinh nhờn và
cố chấp nơi sự thấy biết hẹp ḥi
của chính ḿnh rồi sanh ḷng hủy báng xằng bậy
th́ tội lỗi ngập trời, khổ báo vô tận. Ví
như kẻ mù đụng phải núi báu, đâm ra bị
thương tổn, chẳng đáng buồn sao?
* Kính
cẩn tŕnh bày phương pháp xem đọc dành cho
những vị chưa từng nghiên cứu Phật học
Ba
quyển đầu trong bộ tụng văn này
được chia làm hai phần lớn:
1) Từ trang thứ
nhất của quyển Một cho đến ḍng thứ
sáu của trang hai mươi lăm [trong quyển Một]
đều là những bài ca tụng các chuyện thuộc
Bổn hay Tích của Bồ Tát trong kiếp xưa trích theo
kinh điển.
2) Tiếp theo đó
đều là những bài kệ tụng về sự tùy
cơ cảm ứng của Bồ Tát ở phương này
(tức cơi Sa Bà nói chung và Trung Hoa nói riêng – chú thích của
người dịch).
Nếu những vị
nào chưa từng nghiên cứu Phật Học th́ khi xem, hăy
nên đọc trước từ ḍng thứ bảy trang hai
mươi lăm của quyển thứ nhất trở
đi cho đến hết quyển thứ ba. Rồi
đọc những phần dẫn kinh văn để
chứng minh trong quyển thứ tư. Đọc phần
kinh văn dẫn chứng xong, lại xem từ trang
thứ nhất của quyển Một th́ sẽ chẳng
cảm thấy khó hiểu, chẳng nẩy sanh ư
tưởng không muốn đọc cho hết, chắc chắn
sẽ hớn hở, hoan hỷ, sanh ḷng cảm kích lớn
lao. Đối với những điều người
đời trước đă may mắn tránh
được th́ chính ḿnh cũng muốn tránh. Phàm
những ǵ người xưa đă may mắn đạt
được th́ chính ḿnh cũng muốn đạt
được. Bỏ cái tâm chấp trước của phàm
phu, thuận theo hoằng nguyện của Bồ Tát, tự
xót, xót người, tự thương, thương
người. Từ đấy thường niệm thánh
hiệu của Bồ Tát, lại c̣n khuyên khắp hết
thảy những người cùng hàng [đều niệm
danh hiệu Bồ Tát] để ắt đều tiêu
trừ nghiệp chướng từ vô thủy, tăng
trưởng thiện căn tối thắng, gần là
hưởng cái nhân “các duyên thuận thảo, không
điều ǵ chẳng tốt lành”, xa là đạt cái
quả “siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử”.
* Kính
khuyên các độc giả phải chú trọng chí thành cung
kính để tự đạt được lợi ích
thật sự
Pháp thế gian hay xuất thế
gian đều lấy ḷng Thành làm gốc. Hễ có ḷng Thành
th́ sẽ cảm được thánh ứng; không có ḷng
Thành th́ do không cảm, thánh sẽ không ứng. Ví như
mặt trăng rạng rỡ giữa bầu trời,
hiện bóng trong muôn sông. Nếu nước đục
ngầu, xao động, bóng trăng khó thể hiển
hiện được. Do nước gây nên như thế,
đâu phải lỗi của trăng! V́ thế nói: “Muốn được lợi
ích thật sự nơi Phật pháp, ắt phải cầu
từ nơi cung kính. Có một phần cung kính, tiêu
được một phần tội nghiệp, tăng
một phần phước huệ. Có mười phần
cung kính, tiêu được mười phần tội
nghiệp, tăng mười phần phước huệ”.
Nếu không cung kính th́ chỉ kết được cái
duyên xa, khó được lợi ích thật sự. Nếu
lại c̣n khinh nhờn sẽ mắc tội vô
lượng.
Hơn nữa,
những bài tụng và lời chú giải trong các trang
mười sáu, mười bảy, mười tám của
quyển Ba nhằm dẫn khởi trí huệ, chứa đựng
nhiều Thiền cơ. Những câu nói ấy chỉ có
người thật sự có sở ngộ mới hiểu
được ư chỉ, chớ nên ḍ đoán, t́m ṭi ư
nghĩa dựa theo câu văn! Dẫu cho sẵn tánh thông
minh, hễ càng suy lường th́ càng xa. Lời lẽ trong
nhà Thiền đều là như thế. Nếu có thể
chú trọng ḷng kính, giữ ḷng Thành, chấp tŕ thánh
hiệu của Bồ Tát th́ mai kia nghiệp tiêu trí rạng,
tất cả những lời lẽ Thiền cơ sẽ
đều hiểu rơ từng câu như “mở cửa thấy núi, vẹt mây thấy mặt
trăng” vậy!
21.
Đề từ cho An Sĩ Toàn Thư
*
Đọc sách cần biết
Trong sách
này, phàm tân truyền[4]
của Khổng - Mạnh, đạo mạch của
Phật, Tổ, cách vật, trí tri, thành ư, chánh tâm, liễu
sanh thoát tử và những lời ăn tiếng nói, xử
sự trong thường ngày, khởi tâm động niệm,
mỗi mỗi đều chỉ rơ, đáng làm khuôn mẫu.
Thật có thể nói là “mượn nhân quả thế gian
để chỉ rơ khuôn mẫu huyền nhiệm ḥng
trở thành thánh”, quả thật là đạo mầu
để Như Lai tùy theo căn cơ độ sanh, là
chân thuyên[5]
để chúng sanh ĺa khổ được vui. Độc
giả hăy nên coi sách này giống hệt như kinh Phật,
hăy giữ ḷng kính nể, đừng khinh nhờn th́ không
phước nào chẳng đưa tới, không tai nạn
nào chẳng tiêu! Kính thưa tŕnh cách đọc gồm
mười điều, mong hăy xét cho ḷng ngu thành.
1) Lúc
sắp mở sách ra đọc tụng, trước
hết hăy nên phát tâm cung kính như gặp vị khách quư,
như đối trước bậc tiên triết, ngơ
hầu luôn luôn ngộ nhập được dụng ư sâu
xa của tác giả.
2) Lúc
sắp mở sách ra đọc tụng, trước
hết hăy nên phát tâm chí thành, thốt lời khẩn
thiết, khen ngợi ông Châu An Sĩ vận tâm cứu
thế rộng lớn để soạn thành kiệt tác
cứu thế này và vui mừng ḿnh đă hữu duyên
được đọc.
3) Lúc
sắp mở sách ra đọc tụng, trước
hết hăy nên rửa tay, súc miệng, đặt sách trên bàn
sạch trong gian pḥng sạch sẽ rồi mới mở ra
xem.
4) Lúc
sắp mở sách ra đọc tụng, trước
hết chỉnh đốn quần áo, ngồi ngay ngắn
một lát, sám hối hết thảy những ác niệm, ác
ngữ, ác hạnh như ganh ghét, khinh mạn, kiêu cuồng
v.v…
5) Lúc
đọc tụng, hễ ngộ nhập được
một câu một chữ, đều nên khởi ḷng hoan
hỷ lớn lao và tùy thời ghi chép những điều
tâm đắc, đừng bỏ mặc cho quên mất!
6) Lúc
đọc tụng, hăy nên nghĩ rộng răi về ư nghĩa,
thoạt đầu là dùng sách để nhiếp tâm,
tiếp đó dùng tâm để chuyển nghiệp, cuối
cùng tiến tới tâm niệm không ngừng nghỉ
thực hành, khuyên dạy rộng răi để chuyển
thế giới Ngũ Trược thành thế giới
Cực Lạc.
7) Lúc tâm
khởi vọng niệm, hăy nên cung kính đặt sách
xuống, tạm ngừng đọc.
8)
Đọc xong hoan hỷ, theo đúng pháp vâng làm, hăy nên
thường khởi ḷng hâm mộ tâm hoằng pháp của
ông Châu, tận lực bắt chước làm theo.
9)
Đọc hết bộ sách xong, hăy nên nghĩ kỹ
rộng răi xu hướng trong xă hội hiện tại
để nhiếp hóa rộng lớn, ngơ hầu
điều lành được lưu truyền.
10)
Đọc hết bộ sách xong, thấy được
những chỗ có thể tuyên thuyết phù hợp căn
cơ liền v́ người không biết chữ mà
phương tiện diễn nói rộng răi để
tạo lợi ích lớn lao.
* Lời
ghi sau sách
Sách này
mượn từ ngữ để xiển dương ư
nghĩa, tinh tường, tỉ mỉ trọn vẹn.
Đối với cách vật, trí tri, thành ư, chánh tâm, tề
gia, trị quốc, b́nh thiên hạ, cùng lư, tận tánh,
xử thế, xuất thế, đều tạo lợi
ích lớn lao, đáng coi là bộ sách lạ lùng văn hồi
thế đạo nhân tâm bậc nhất. Độc
giả cần phải chú trọng cung kính, kiền thành,
khiết tịnh, lắng ḷng suy nghĩ lănh hội th́ vô
biên lợi ích sẽ đích thân đạt được.
Nếu như khinh nhờn, sẽ mắc tội chẳng
cạn. Nếu chẳng muốn xem, xin hăy tặng lại
cho người khác, đừng cất trên gác cao. Lại
mong [độc giả xem xong sẽ] lập đủ
mọi cách để xoay vần lưu truyền ngơ hầu
hết thảy đồng bào trong hiện tại lẫn vị
lai đều cùng thoát khỏi đường mê,
đều cùng lên bờ giác.
22.
Đề từ cho bản nghiên cứu “người
học Phật có nên ăn thịt hay chăng?”
Rền
sấm pháp lớn, diễn đại pháp nghĩa, phá
chấp, cứu kiếp, lợi ích khôn ngằn.
23.
Đề từ cho sách Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục (bài thứ nhất)
Nhân
quả báo ứng là phương tiện lớn lao
để thánh nhân Nho - Thích b́nh trị thiên hạ,
độ thoát chúng sanh. Giáo dục trong gia đ́nh chính là
thiên chức “củng cố cội gốc, trọn hết
bổn phận, vun bồi hiền tài” của hàng thất
phu thất phụ. Tín nguyện niệm Phật là diệu
pháp để phàm phu đầy dẫy triền
phược liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh.
Sách này văn tuy chất phác, vụng về, nhưng
nghĩa thật thiết yếu; tựa hồ chỉ
để nói riêng với người tu Tịnh Độ,
nhưng thật ra ngụ ư đề xướng
đạo “nhân quả, báo ứng, giáo dục trong gia
đ́nh”. Mong những ai có được bộ sách này hăy
nên thường giảng nói, hướng dẫn cha mẹ,
anh em, vợ con, xóm giềng, làng nước, thân thích,
bằng hữu để bọn họ đều giữ
vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính
ḿnh để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các
điều ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện
niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ắt sống
sẽ dự vào bậc thánh hiền, mất về cơi
Cực Lạc, may mắn chi hơn? Nguyện những ai
đọc tụng hăy cung kính tin nhận, đừng nên
khinh nhờn, hăy lần lượt lưu thông, đừng
nên bỏ mặc. Sẽ thấy hiền tài dấy lên
đông đảo, thiên hạ thái b́nh, nhân dân yên vui.
Đấy chính là điều Bất Huệ thơm
thảo cầu mong vậy!
24.
Đề từ cho sách Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục (bài thứ hai)
Pháp môn
Tịnh Độ đế lư rất sâu, chỉ có
Phật với Phật mới thấu hiểu trọn
hết. Bởi lẽ pháp này Đại - Tiểu bất
nhị, Quyền - Thật như một; v́ thế trên
từ Đẳng Giác Bồ Tát dưới đến phàm
phu nghịch ác đều nên tu tŕ, đều có thể tu
tập thành tựu. Chúng sanh đời Mạt thiện
căn cạn mỏng, nếu chẳng nương vào
Phật lực sẽ trông cậy vào đâu? Nếu vâng tin
lời Phật, sanh ḷng tin phát nguyện tŕ danh hiệu
Phật, cầu sanh Tây Phương. Lại c̣n đừng
làm các điều ác, vâng làm những điều lành,
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành. Nếu làm
được như thế th́ trong vạn người
không một ai chẳng được văng sanh! Kinh luận
Tịnh Độ văn nghĩa rơ ràng, cách tu tŕ của
Tịnh Độ tùy cơ tự lập. Đă không
phải lo có những chỗ sâu mầu khôn lường, mà
cũng chẳng phiền v́ gian nan, khốn khổ. Lại
c̣n chẳng tốn kém tiền tài, hơi sức, chẳng
trở ngại nghề nghiệp, làm ăn. Nếu có
thể tùy phần, tùy sức, thường luôn nghĩ
nhớ th́ thần ngưng, ư tịnh, nghiệp tiêu, trí
rạng, tự nhiên thân tâm an lạc, các duyên thuận
lợi, niềm vui ấy làm sao diễn tả
được! Nguyện người thấy kẻ nghe
đều cùng tu tŕ, ai nấy đều ôm ḷng tự
lợi, lợi tha, cùng phát nguyện tự lập, lập
người, cung kính thọ tŕ, tùy duyên xướng
suất, hướng dẫn, xoay vần lưu thông,
khiến cho được trọn khắp cơi nước
ngơ hầu hết thảy đồng luân đều cùng
được gội ân Phật, cùng sanh Tịnh
Độ th́ thật là điều may mắn lớn lao!
25.
Đề từ cho sách Cảm Ứng Thiên Trực
Giảng
Nhân
quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân
thế gian lẫn xuất thế gian b́nh trị thiên
hạ, độ thoát chúng sanh. Kinh Thư chép: “Huệ địch cát, tùng
nghịch hung, duy ảnh hưởng” (Thuận theo
lẽ trời sẽ dẫn đến điều
tốt, trái nghịch sẽ hung hiểm, giống như bóng
theo h́nh). Lại nói: “Tác
thiện giáng chi bách tường, tác bất thiện giáng
chi bách ương” (Làm lành th́ trăm điều tốt
lành giáng xuống, làm điều chẳng lành th́ trăm
nỗi tai ương giáng xuống). Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia, tất
hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất
hữu dư ương” (Nhà tích thiện th́ niềm vui
có thừa, nhà tích điều bất thiện tai
ương có thừa). Đấy đều là những
lời nói về nhân quả. C̣n như trong Phật pháp th́
lại càng rơ rệt hơn nữa! Trước là nói
đến tận quá khứ, sau là chỉ rơ vị lai.
Muốn biết cái nhân trong đời trước th́
những ǵ phải hứng chịu trong đời này chính
là nó đấy. Muốn biết quả trong đời sau
th́ những ǵ đă làm trong đời này chính là nó
đấy. Hiểu rơ điều này th́ thiện - ác báo
ứng chẳng sai lệch hào ly. Cát, hung, họa, phước
đều do [chính ḿnh] chiêu cảm. Con người dẫu
chí ngu, quyết cũng chẳng đến nỗi vui
mừng v́ gặp tai họa, tránh lành, hướng dữ!
Tiếc là không có những tấm gương tầy
liếp, đến nỗi con người thường làm
những chuyện trái ngược với điều ḿnh
mong cầu! Đấy chính là lư do tại sao những
bậc quân tử có ḷng lo cho cơi đời coi chuyện
miệt mài lưu truyền sách Cảm Ứng Thiên Trực
Giảng là nhiệm vụ gấp rút vậy!
26.
Đề từ cho sách Âm Chất Văn Đồ
Chứng
Đời
đă loạn đến cùng cực, ai nấy đều
mong b́nh trị, nhưng chẳng t́m ra đạo để
đạt đến b́nh trị, chỉ mong mỏi xuông
th́ rốt cuộc có ích ǵ đâu? Do vậy, phải nên
đề xướng giáo dục trong gia đ́nh và nhân
quả báo ứng. Giáo dục trong gia đ́nh phải
khởi đầu khi con cái đang c̣n thơ ấu, ngơ
hầu chúng nó biết tường tận “hiền từ,
hiếu thảo, nhường nhịn, cung kính, ḥa
thuận, nhân từ, trung thực” chính là thiên chức
của kẻ làm con, làm anh em, làm chồng vợ, làm
chủ, làm tớ. Từ đấy, ai nấy trọn
hết bổn phận của chính ḿnh để mong
đấng sanh ra ta chẳng bị hổ thẹn,
để làm kẻ hiền thiện. Lại c̣n tuyên nói nhân
quả báo ứng ngơ hầu có pháp tắc để chế
ngự cái tâm, chẳng đến nỗi vượt lư,
phạm phận th́ những ư niệm tự tư tự
lợi xấu ác tự bị tiêu trừ, thiện tâm v́
người v́ vật sẽ tự nẩy sanh. Như
thế th́ chuyện tranh giành, đánh phá lẫn nhau sẽ
bị diệt mất, thiên hạ thái b́nh, nhân dân yên vui.
Bởi thế, cùng với những người có cùng
một chí hướng lưu thông sách này ngơ hầu
người đọc sách sẽ thọ tŕ làm theo, xoay
vần lưu truyền th́ may mắn lắm thay!
27.
Đề từ cho bản in gộp chung tác phẩm Phóng
Sanh Sát Sanh Hiện Báo Lục của tiên sinh Giang Thận Tu
và bài văn khuyên kiêng giết phóng sanh của Liên Tŕ
đại sư
Ông Hoàng
Sơn Cốc nói:
Ngă nhục, chúng sanh nhục,
Danh thù, thể bất thù,
Nguyên đồng nhất chủng tánh,
Chỉ thị biệt h́nh khu,
Khổ năo tùng tha thụ,
Ph́ cam vị ngă nhu,
Mạc giao Diêm lăo đoán,
Tự sủy, ứng hà như?
(Thịt
ta, thịt chúng sanh,
Tên khác,
thể chẳng khác,
Vốn cùng
một chủng tánh,
Chỉ là
khác h́nh hài.
Khổ năo
chúng cam chịu,
Ngọt bùi
ta hưởng riêng.
Chẳng
đợi Diêm vương xử,
Tự suy
ắt biết mà!)
Nguyện
Vân thiền sư có bài kệ như sau:
Thiên bách niên lai oản lư canh,
Oán thâm như hải, hận nan b́nh,
Dục tri thế thượng đao
binh kiếp,
Đản thính đồ môn dạ bán
thanh.
(Trăm
ngàn năm qua trong bát canh,
Oán sâu
tự biển, hận khôn b́nh;
Muốn
biết đao binh trên cơi thế,
Lắng
nghe ḷ mổ giữa đêm thanh)
Từ
Thọ thiền sư nói:
Ẩm thực ư nhân nhật
nguyệt trường,
Tinh thô tùy phận tắc cơ
thương,
Hạ hầu tam thốn thành hà vật?
Bất dụng tương tâm tế
giảo lượng.
(Đời người ăn uống bao
niên,
Dở,
ngon tùy phận khỏi phen đói ḷng,
Nuốt
qua cổ họng là xong,
Tính toan tỉ
mỉ nhọc ḷng làm chi?)
Những
vật nuôi dưỡng con người trong thế gian
kể sao cho xuể, nấu nướng nêm nếm đúng
cách, vị đều ngon lành. Há nên v́ bụng miệng ta mà
giết hại sanh mạng đến nỗi đời
đời kiếp kiếp sát hại lẫn nhau trọn
chẳng có khi nào dứt, chẳng đáng buồn sao? V́
thế, lưu truyền sách này để mong văn hồi sát
kiếp. Nguyện người thấy nghe đều cùng
tin nhận th́ may mắn lắm thay!
28.
Đề từ sách Thọ Khang Bảo Giám (bài thứ nhất)
Không
một ai chẳng muốn chính ḿnh và con cháu đều
trường thọ, yên vui. Nếu đối với
chuyện sắc dục chẳng biết kiêng dè, thận
trọng, sẽ gặt lấy hậu quả trái
ngược, thật đáng đau thương! V́ thế,
Khổng Tử nói: “Thiếu
chi thời huyết khí vị định, giới chi
tại sắc” (Lúc niên thiếu khí huyết chưa
định, phải kiêng dè nơi sắc dục). Mạnh
Tử nói: “Dưỡng tâm
giả mạc thiện ư quả dục. Kỳ vi nhân dă
quả dục, tuy hữu bất tồn yên giả, quả
hỹ. Kỳ vi nhân dă đa dục, tuy hữu tồn yên
giả, quả hỹ” (Dưỡng tâm th́ không ǵ hay
bằng ít ham muốn. Ai làm người mà ít ham muốn, tuy
tâm người ấy có những điều không hợp
đạo nghĩa, nhưng những điều ấy
cũng ít. Ai làm người mà lắm ham muốn, tâm dù có
giữ được đạo nghĩa th́ đạo
nghĩa ấy cũng chẳng được mấy[6]).
Do vậy nói rằng: “Sự sống chết tồn vong
của con người tùy thuộc quá nửa nơi con
người có ít ham muốn sắc dục hay không?”
Bất Huệ trọn
chẳng có sức cứu đời, nhưng ḷng mong duy tŕ
tuổi thọ cho người đời. Do vậy, bèn tu
chỉnh, bổ sung cuốn sách này để ấn hành,
lưu truyền, nhằm mong những ai biết yêu
thương chính ḿnh và con cháu hễ có được
cuốn sách này đều đọc kỹ càng th́ quan
hệ lợi - hại sẽ rơ ràng như nh́n vào ngọn
lửa. Trong là răn nhắc con cháu, ngoài là răn nhắc
những kẻ cùng hàng. Lại mong xoay vần lưu thông
để truyền khắp vũ trụ ngơ hầu hết
thảy mọi người cùng hàng đều
được sống lâu, mạnh khỏe, đấy
chính lời cầu chúc thơm thảo vậy!
29.
Đề từ sách Thọ Khang Bảo Giám (bài thứ hai)
Con
người từ sắc dục mà sanh, nên tập khí này
đặc biệt sâu đậm. Hễ không kiêng dè cẩn
thận, phần nhiều sẽ chết v́ sắc dục!
Các bậc thánh vương thời cổ v́ yêu thương
dân nên đối với chuyện vợ chồng ân ái
chẳng tiếc công sai quan truyền lệnh dùng mơ gỗ
đi khắp nẻo đường[7], ngơ
hầu người dân khỏi phải lo sầu v́ bị
mất mạng. Ḷng từ ái thật khôn xiết! Cho
đến đời sau, chẳng những chánh lệnh
nước nhà chẳng thèm nhắc đến, ngay cả
cha mẹ cũng chẳng bảo ban con cái, đến
nỗi đại đa số thiếu niên lầm lạc
mất mạng, đáng buồn quá sức! Bất Huệ
sống trên cơi đời mấy chục năm, thấy nghe
khá nhiều, khôn ngăn bi thương! Do vậy quyên
mộ in cuốn sách này để mong những người
cùng hàng đều được sống lâu, mạnh
khỏe. Mong sao những người có được
cuốn sách này ai nấy đều đọc kỹ, xoay
vần lưu thông, đừng để phí tâm tư,
tiền tài mà trọn chẳng được mảy may
lợi ích thật sự nào th́ may mắn lắm thay!
30.
Đề từ cho sách Chánh Tín Lục của cư sĩ
La Lưỡng Phong
Đáng
than thay người đời phần nhiều
tưởng ḿnh là trí, nhưng đối với chân
diện mục của chính ḿnh c̣n chưa biết
được danh tự, huống hồ những
chuyện thuộc về quá khứ, hiện tại, vị
lai, đời trước, đời
sau! Bậc cổ thánh nhân của Nho giáo chú trọng
nơi xử thế nên đối với đạo lư sâu
xa này chỉ nêu đại lược những nét chánh
yếu. Nho sĩ chẳng suy xét sâu xa, liền bảo không
có nghĩa ấy! Phật đă dạy rơ ràng rộng răi
như đuốc huệ trong đêm dài, phàm những ai có
túc căn đều cùng quy hướng. Nhưng bọn Lư
Học muốn ngăn trở bước tiến [của
hậu học], đặc biệt cực lực bài xích
để mong ngăn chặn hết thảy mọi
người, chẳng biết người có căn tánh
lớn lao quyết chẳng bị bọn chúng khống
chế. Đáng than thay những kẻ tầm thường
cứ lầm tưởng [những lời lẽ xằng
bậy của bọn Lư Học] là chánh đáng, chí lư, do đấy
đả phá sự lư nhân quả và luân hồi, cho rằng
con người chết đi vĩnh viễn diệt
mất, không có thần trí! Do vậy, những kẻ làm ác
có lư do lớn lao để lấp liếm [ác tâm, ác
hạnh], cho đến ngày nay rối loạn cùng cực
không cách ǵ chữa trị được! May mà c̣n có
đủ mọi chuyện thể hiện bản lănh
của bậc đại tâm. Ông La sao lục, sưu
tập những chuyện ấy để cống hiến
cho đời hiện tại và vị lai, v́ thế
đặc biệt ấn hành để mong lưu
truyền rộng răi. Nguyện những ai thấy nghe
đều biết chánh ư của Nho và Thích, lần
lượt lưu truyền trọn khắp trong
đời hiện tại lẫn vị lai, ngơ hầu
đạo Nho được tỏa rạng mà đạo
Phật cũng chẳng suy vi, nhân dân được yên vui,
giữ đạo một cách dễ dàng, sống là học
tṛ của thánh hiền, chết sẽ lên cơi Cực
Lạc, xoay chuyển thói tục bạc ác, cùng vun giữ
ḷng nhân từ, khoan dung. Một ḷng khăng khăng như
thế chắc bậc trí sẽ nể t́nh chẳng vứt
bỏ vậy!
31.
Đề từ cho bộ Dương Phục Trai[8]
Thi Kệ Tục Tập
Mười
mấy năm qua, cư sĩ Dịch Viên chuyên tu Tịnh
nghiệp, là bậc hướng dẫn tốt lành trong
một làng. Hễ gặp cảnh, chạm duyên, liền tùy
cơ thù tiếp, thường dùng thi ca, thường
khiến cho người khác được mở rộng
tâm mục đều phát tín tâm. Năm ngoái, ông ta đă
từng lo liệu ấn hành. Năm nay lại có một
cuốn Tục Tập, lại muốn ấn tống,
gởi cho Quang duyệt, khôn ngăn hoan hỷ, cảm thán
tột bậc. Tiếc cho Quang tinh thần lẫn mục
lực chẳng đủ, chẳng thể giảo
đối thay cho ông ta được, không lúc nào chẳng
nuối tiếc, bèn viết dăm lời quê mùa để
tỏ tấm ḷng tôi.
Thơ
của Dịch Viên đúng là lời, phụ nữ, trẻ
con nghe kinh ngạc, dung nhiếp ư Phật lẫn ư Tổ,
quan trọng nhất là sanh cơi Tịnh! Thơ của
Dịch Viên đúng là vẽ. Tâm cảnh, tánh địa phô
cặn kẽ. Độ ách khiến cho Ngũ Uẩn không,
quy mạng Nguyện Vương khuyên kính lễ. Thơ
của Dịch Viên đúng là quẻ. Họa, phước,
cát, hung phô rành rành, khiến thoát trọn vẹn ải
họa, phước! Tịnh niệm tiếp nối
cầu về Tây. Nếu ai thường đọc thơ
Dịch Viên, thân - khẩu - ư đều không tỳ vết.
Khi sống trọn thành bậc thánh hiền, lâm chung
chắc về ao bảy báu. Tôi: sư tầm thường,
rành cơm cháo, trừ niệm Phật, trăm sự
bất tài, nguyện các hiền triết khắp pháp
giới, đều kết bạn lành nơi hải
hội.
32.
Đề từ cho bài tường thuật đại
lược hành trạng ông Quách Tử Cố và
người phối ngẫu đức hạnh là bà Phùng
Nhụ Nhân[9]
ở huyện Định Tây, tỉnh Cam Túc
Làm
phận con nên lấy đạo siêu phàm nhập thánh,
liễu sanh thoát tử để khuyên cha mẹ, khiến
cho ngay trong đời này cha mẹ được cao
dự Liên Tŕ hải hội, thân cận Di Đà Thế Tôn,
cùng có thọ lượng, quang minh giống như Di Đà
Thế Tôn. Hiếu như vậy mới là chân hiếu! C̣n
truyền bá hành trạng của cha mẹ tuy là một trong
những hạnh hiếu, nhưng tự hành, dạy
người, làm cho khắp những ai thấy nghe
đều cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tịnh
Độ, cùng chứng Vô Sanh, cho đến cùng thành giác
đạo chẳng phải là tốt hơn hay chăng?
Vợ chồng ông Quách tận lực phụng dưỡng,
chôn cất, dẫu xét theo ḷng hiếu thế tục
cũng chẳng dễ dàng cho lắm! Nay nhờ chuyện
này để xoay chuyển ḷng người, tôi đặc
biệt viết hai mươi tám chữ như sau:
Nêu
hạnh đẹp trong làng, trọn vẹn cả đôi
bề, khiến khắp kẻ thấy nghe, đều
được hưởng chân thuần, vợ chồng
nhà ông Quách, đức đẹp đáng khâm phục.
33.
Đề từ kỷ niệm chuyện pháp sư Trần
Không sáng lập Liên Xă
Thật
thà niệm Phật!
Để
kỷ niệm chuyện pháp sư Trần Không từ
đất Tô đến đất Kiềm (Quư Châu), sáng
lập Liên Xă, xin khích lệ những người cùng chí
hướng bằng mấy lời [như sau]:
Xót thương chúng sanh trong cơi đời, căn độn, nghiệp nặng, chỉ có niệm Phật th́ mới chắc chắn mong thoát được sanh tử. Hăy nên quán tưởng như tù nhân bị dắt ra chợ [để hành h́nh], mỗi bước càng gần với cái chết hơn! Phàm những vị có cùng chí hướng niệm Phật với tôi, ắt đều phải niệm niệm trừ sạch các duyên, quyết muốn giữ ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha. Hăy nên tu Chánh Hạnh niệm Phật, dùng Tín - Nguyện dẫn đường, lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh. Ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh chính là tông yếu của pháp môn Niệm Phật. Do bốn chữ hồng danh chẳng rời niệm, tiếng niệm Phật chẳng ngừng, tâm và Phật tự nhiên khế hợp, tam-muội sẽ tự thành (Ngày Hai Mươi Hai tháng Giêng)
34.
Đề từ cho tác phẩm Mạc Vương Trí
Duệ Nữ Cư Sĩ Ai Văn Lục[10]
Cư sĩ Trí Duệ vừa đọc Văn Sao liền sanh tín tâm, ăn chay niệm Phật, chưa được bao lâu liền biết trước lúc mất, niệm Phật qua đời. Đáng gọi là bậc trượng phu trong nữ giới! Chẳng thẹn mang tên Trí Duệ. Nguyện những vị trượng phu mày râu, những vị hiền thục mềm mỏng chốn khuê các trong cơi đời đều chẳng nhường cho bà ta riêng được giải thoát th́ may mắn lắm thay (Ngày Mười Bảy tháng Hai năm Kỷ Tỵ, tức năm Dân Quốc 18 - 1929)
35.
Đề trên chiếc quạt có h́nh Vô Lượng Thọ
Phật do cư sĩ Cao Hàng Sanh cất giữ
Ngoài
dứt các duyên, trong tâm chẳng rộn, tâm như
tường vách, có thể nhập đạo.
36.
Thuận tay viết về Niệm Phật
Pháp Hoa kinh tạng sâu thẳm u viễn không ai thấu đạt được. Chúng ta có chí tiến nhập th́ xin hăy chí thành khẩn thiết, chuyên tŕ thánh hiệu A Di Đà Phật. Nếu có thể nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối th́ sẽ tự có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu. Trong đời hiện tại sẽ mau chóng thoát khỏi Ngũ Trược, cao đăng chín phẩm cho đến chứng Vô Sanh Nhẫn, thành đạo Bồ Đề. Lời nói này tuy cực b́nh thường, nhưng quả thật là bí yếu của chư Phật. Nếu bậc thông gia xem đến, chắc chắn sẽ bật cười! (Bài văn này c̣n lưu lại dấu tích ở chùa Linh Nham, nhưng không có đề mục. Tựa đề do Đào (tức ông La Hồng Đào) tự tiện đặt. Huệ Dung ghi)
V. Pháp
ngữ
1.
Tịnh Độ Pháp Môn Thuyết Yếu (Giảng những điều trọng
yếu trong pháp môn Tịnh Độ)
(Vương Cầu Thị và Cung Vân Bá ghi)
Nguyên
thủy, bản tánh của chúng sanh và Phật vốn không
hai, không khác; chỉ v́ chúng sanh chẳng giữ ǵn tự
tánh, bị trần lao làm bẩn, tập khí ô nhiễm
ngăn lấp đến nỗi mê - ngộ thật khác,
chúng sanh và Phật khác biệt thật xa! Chỉ v́ chúng sanh
mê có cạn - sâu, căn tánh có lớn - nhỏ, nên
đức Như Lai bèn tùy thuận căn cơ để
lập giáo, dựa theo căn bệnh để ban
thuốc, v́ Thật lập Quyền, khai Quyền hiển
Thật. Nơi pháp Nhất Thừa nói đủ mọi
lẽ khiến cho kẻ thiện căn chín muồi sẽ
lên thẳng bờ giác, kẻ ác duyên sâu nặng sẽ
dần dần thoát khỏi trần lao. Do vậy, trong
bốn mươi chín năm, tùy theo chủng tánh mà lập
ra các giáo pháp Đại, Tiểu, Tiệm, Đốn, Bán,
Măn nhằm giáo hóa.
Các pháp
môn thuộc Tông, thuộc Giáo phần nhiều cậy vào
tự lực. Dẫu cho túc căn sâu dầy, triệt
ngộ tự tâm, nhưng nếu Kiến Hoặc và Tư
Hoặc c̣n có chút nào chưa sạch hết th́ vẫn luân
hồi trong sanh tử y như cũ, không thể thoát ra.
Huống chi đă thọ Thai Ấm[11],
vừa chạm cảnh liền sanh mê, kẻ từ giác
đến giác ít ỏi, người từ mê vào mê đông
đảo! Bậc thượng căn c̣n như thế,
hạng trung - hạ cần chi phải nói nữa! Liễu
thoát sanh tử thật chẳng dễ dàng! Chỉ có pháp môn
Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chuyên cậy
vào nguyện lực của Phật Di Đà, bất
luận thiện căn chín muồi hay chưa, ác nghiệp
nặng hay nhẹ, thậm chí Ngũ Nghịch, Thập Ác,
chỉ cần sanh ḷng tin phát nguyện, tŕ danh hiệu
Phật, khi lâm chung chắc chắn được
đức Di Đà tiếp dẫn văng sanh Tịnh
Độ. Cố nhiên, kẻ thiện căn chín muồi
sẽ mau chóng viên măn Phật quả; ngay cả kẻ ác
nghiệp sâu nặng cũng may mắn được
dự vào ḍng thánh. So với những kẻ cậy vào
tự lực th́ sự khó - dễ, được -
mất trong đấy chẳng cần phải rườm
lời giải thích nữa! V́ thế, pháp môn Tịnh
Độ này chính là đạo trọng yếu để
tam thế chư Phật độ sanh, là diệu pháp
để thượng thánh hạ phàm cùng tu. Các kinh
Đại Thừa đều phát khởi lẽ trọng
yếu này, lịch đại tổ sư không vị nào
chẳng tuân hành.
Cũng
có những kẻ do thấy pháp môn Tịnh Độ
hết sức đơn giản, hết sức dễ
dàng, dẫu là ngu phu ngu phụ cũng tu được, bèn
coi thường Tịnh Độ, chẳng biết
một môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn,
nhiếp trọn mười giới! Trong phẩm Nhập
Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử
sau khi đă chứng bằng với chư Phật, Phổ
Hiền Bồ Tát bèn dùng mười đại nguyện
vương để khuyến tấn, khích lệ
Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong viên
măn Phật quả. Như Thiện Tài đă đạt
đến địa vị Đẳng Giác, Hoa Tạng
hải chúng không có vị nào là phàm phu, Nhị Thừa, toàn
là những người thuộc bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ, phá vô minh,
chứng Tam Đức, mà vẫn phải hồi tâm
niệm Phật, nguyện văng sanh Tây Phương! Hơn
nữa, trong Hoa Tạng Hải, Tịnh Độ vô
lượng, nhưng cần phải hồi hướng
Tây Phương, đủ biết văng sanh Cực Lạc
chính là cửa ngơ nhiệm mầu để xuất
thế, là đường tắt để thành Phật.
Hơn
nữa, Vĩnh Minh thiền sư nhằm dạy cho
người tu hành đường lối trọng yếu
đích xác, đă lập ra bốn bài kệ Liệu
Giản[12]:
1) Có Thiền có Tịnh
Độ,
Ví như cọp đội
sừng,
Đời này làm thầy
người,
Đời sau làm Phật,
Tổ.
2) Không Thiền, có Tịnh
Độ,
Vạn tu, vạn người
về,
Nếu được thấy
Di Đà,
Lo chi không khai ngộ.
3) Có Thiền, không Tịnh
Độ,
Mười kẻ, chín chần
chừ,
Ấm cảnh nếu hiện
tiền,
Chớp mắt đi theo nó.
4) Không Thiền, không Tịnh
Độ,
Giường sắt với
cột đồng,
Vạn kiếp lẫn ngàn
đời,
Không có người nương
tựa.
Bốn
bài Liệu Giản này của ngài Vĩnh Minh chính là
cương tông của Đại Tạng, là khuôn phép
để tu tŕ. Trước hết cần phải
hiểu đích xác thế nào là Thiền, thế nào là
Tịnh, thế nào là Có, thế nào là Không, rồi mới
theo văn mà phân tích, sẽ biết mỗi một chữ
đều đích đáng, không thể thay đổi
một chữ nào được!
Thiền chính là Chân
Như Phật Tánh chúng ta vốn sẵn có, tức bản
lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra, tức
linh tri ly niệm không Năng, không Sở, vừa Tịch,
vừa Chiếu, tức cái được gọi là
“thuần chân tâm thể”. Tịnh Độ chính là tín
nguyện tŕ danh, cầu sanh Tây Phương (chứ
không phải chỉ riêng cho “duy tâm Tịnh Độ,
tự tánh Di Đà”). “Có Thiền” là tham cứu cực lực
đến mức “niệm tịch, t́nh vong”, thấy
thấu triệt bản lai diện mục, minh tâm kiến
tánh. “Có Tịnh Độ”
là chân thật phát tâm, sanh ḷng tin, phát nguyện, tŕ danh
hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Thiền và
Tịnh Độ là ước theo Giáo, ước theo Lư. “Có Thiền, có Tịnh
Độ” là ước theo căn cơ, ước theo
tu. Một đằng là Lư, một đằng là Sự. Lư
tuy là như thế, nhưng phải cần theo đúng Lư
để khởi Hạnh, Hạnh phải đạt
đến cùng cực nhằm chứng Lư, chính ḿnh phải
chuyên gắng nhằm thật sự đạt
được. Nếu tham Thiền chưa ngộ,
hoặc ngộ chưa triệt để, đều
chẳng thể gọi là “có
Thiền”. Nếu niệm Phật nhưng không có tín
nguyện, hoặc có tín nguyện nhưng không chân thật,
thiết tha, chỉ hờ hững, hời hợt, lằng
nhằng cho xong chuyện, hoặc hạnh tuy tinh tấn nhưng
nhân địa chẳng thật, tâm lưu luyến trần
cảnh, cho đến cầu phú quư trong đời sau,
cầu sanh lên cơi trời hưởng lạc đều
chẳng thể gọi là “có
Tịnh”!
1) Có Thiền có Tịnh
Độ,
Ví như cọp đội
sừng,
Đời này làm thầy
người,
Đời sau làm Phật,
Tổ.
Người
ấy đă triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến
tánh, lại c̣n thâm nhập kinh tạng, biết cặn
kẽ pháp môn Quyền - Thật của đức Như
Lai, nhưng trong các pháp chỉ chọn một pháp tín
nguyện niệm Phật, tự lợi, lợi tha.
Người ấy có đại trí huệ, đại
biện tài, tà ma, ngoại đạo nghe danh vỡ mật,
như cọp lại đội sừng. Có ai đến
cầu học sẽ tùy cơ thuyết pháp, nên dùng
Thiền Tịnh Song Tu để tiếp độ bèn dùng
Thiền Tịnh Song Tu để tiếp độ. Nên dùng
“chuyên tu Tịnh Độ” để tiếp độ bèn
dùng “chuyên tu Tịnh Độ” để tiếp
độ. Bất luận thượng - trung - hạ
căn không một ai chẳng được thấm
nhuần ân trạch ấy, há chẳng phải là “nhân thiên đạo sư”
ư? Đến khi lâm chung, được Phật
tiếp dẫn văng sanh Thượng Phẩm, trong khoảng
khảy ngón tay hoa nở thấy Phật, chứng Vô Sanh
Nhẫn, dẫu địa vị thấp nhất cũng
là chứng được bậc Sơ Trụ trong Viên
giáo, có thể hiện thân làm Phật trong một trăm
thế giới nên bảo là “đời
sau làm Phật, Tổ”.
2) Không Thiền, có Tịnh
Độ,
Vạn tu, vạn người
về,
Nếu được thấy Di
Đà,
Lo chi không khai ngộ?
Người
ấy tuy chưa minh tâm kiến tánh, nhưng quyết chí
nơi Tịnh Độ, cầu sanh Tây Phương, chí
thành niệm Phật, cảm ứng đạo giao,
chắc chắn được Phật nhiếp thọ.
Kẻ tận lực tu tập cố nhiên được
văng sanh. Ngay như kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác khi lâm
chung mười niệm cũng đều được
Hóa Thân của đức Phật đến tiếp
dẫn, chẳng phải là “vạn
tu, vạn người về” hay sao? Đă sanh về Tây
Phương, thấy Phật, nghe pháp, tuy có nhanh hay
chậm, nhưng đă cao dự ḍng thánh, rốt ráo
chẳng thoái chuyển, dần dần chứng thánh quả
th́ sự khai ngộ cần ǵ phải nói đến
nữa? V́ thế, bảo là: “Nếu
được thấy Di Đà, lo chi không khai ngộ?”
3) Có Thiền, không Tịnh Độ,
Mười kẻ, chín chần
chừ,
Ấm cảnh nếu hiện
tiền,
Chớp mắt đi theo nó.
Người
ấy tuy biết đại lược về tâm tánh,
nhưng Kiến Hoặc, Tư Hoặc chưa đoạn
hết, cần phải giồi mài cho hết sạch,
chẳng c̣n sót chút nào th́ mới có thể thoát ĺa sanh
tử. Nếu c̣n mảy may chưa hết, sẽ vẫn
luân hồi trong lục đạo y như cũ, khó
trốn tránh được! Biển sanh tử sâu thẳm,
đường Bồ Đề xa vời, nếu liền
mạng chung, nẻo về sẽ chẳng thể
lường được! Trong mười người,
hết chín người là như thế. V́ vậy nói: “Thập nhân, cửu tha lộ”
(Mười kẻ, chín chần chừ trên đường). Tha (蹉) là “tha
đà” (蹉跎),
tức như thế tục thường nói là “chần
chừ”. “Ấm cảnh”
tức là cảnh nơi Trung Ấm thân[13],
chính là những cảnh hiện ra khi lâm chung bởi sức
của thiện nghiệp hay ác nghiệp [đă tạo]
trong đời này và bao kiếp. Trong khoảng chớp
mắt sẽ theo nghiệp lực đi thọ sanh ngay,
chẳng thể làm chủ được mảy may nào!
Như người mang nợ, chủ nợ nào mạnh
sẽ lôi đi trước; tâm t́nh lắm mối, hễ
thiên trọng nơi nào sẽ đọa vào nơi đó. V́
thế nói: “Ấm
cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo
nó”.
4) Không Thiền, không Tịnh
Độ,
Giường sắt với
cột đồng,
Vạn kiếp lẫn ngàn
đời,
Không có người nương
tựa.
Người
ấy đă chưa triệt ngộ, lại chẳng
cầu sanh Tịnh Độ, vẫn hời hợt,
hờ hững tu các pháp môn khác (chứ không phải là
nói về kẻ vùi đầu tạo ác, chẳng tu hành), đă chẳng thể giữ cho
Định - Huệ được cân bằng nhằm
đoạn Hoặc, chứng Chân; lại chẳng biết
cậy vào Phật từ lực để đới
nghiệp văng sanh, dùng công đức tu tŕ suốt cả
một đời để cảm phước báo
trời người trong đời sau. Trong đời này
đă không có chánh trí, đời sau sẽ bị
phước báo chuyển, hưởng phước càng
lớn, ác nghiệp càng nhiều. Đă tạo ác nghiệp,
khó tránh khỏi quả báo. Hễ một hơi thở ra
không hít vào được nữa sẽ đọa
địa ngục, đền trả nợ cũ, nên nói
là “giường sắt với
cột đồng”. Kẻ tạo nghiệp như
thế ví như kẻ mù chẳng thấy được
mặt trời, tuy chư Phật, Bồ Tát rủ ḷng
từ bi nhưng do kẻ ấy bị ác nghiệp ngăn
chướng, chẳng thể hưởng lợi ích, bao
kiếp thọ khổ. V́ thế nói: “Không có người nương tựa”.
Phàm
hết thảy các pháp môn chuyên cậy vào tự lực, chỉ có pháp môn Tịnh Độ
chuyên cậy vào Phật lực. Trong hết thảy pháp môn,
hết sạch Hoặc nghiệp rồi mới có thể
liễu sanh tử; c̣n pháp môn Tịnh Độ đới
nghiệp văng sanh liền dự vào ḍng thánh. Hơn nữa,
khi đức Phật tại thế, sắc lực và tâm
nghiệp của chúng sanh thù thắng, dẫu nương
cậy tự lực vẫn chứng đạo. Nay
đang nhằm thời Mạt, căn hèn, chướng
nặng, tri thức hiếm hoi, nếu bỏ Tịnh
Độ th́ không có cách ǵ giải thoát được!
Vĩnh Minh thiền sư sợ cơi đời không biết
nên đặc biệt viết ra Liệu Giản này
để dạy đời sau. Thật đúng là bè báu
trong bến mê, là đèn sáng nơi ngơ tối.
Tu tŕ pháp môn Tịnh
Độ niệm Phật hăy nên lấy Tín - Nguyện -
Hạnh làm tông. Tín là dốc ḷng tin tưởng Phật
lực. Trong khi tu nhân, Di Đà Như Lai đă phát ra bốn
mươi tám nguyện, nguyện nào cũng độ sanh,
trong ấy có nguyện “[người
nào] niệm danh hiệu ta mà chẳng sanh về nước
ta, thề chẳng thành Phật”. Hiện tại, do Ngài
đă nhân viên, quả măn, nay ta niệm Phật ắt
sẽ được văng sanh. Kế đấy, tin vào
Phật lực từ bi nhiếp thọ chúng sanh như
mẹ nhớ con. Nếu con nhớ mẹ giống như
mẹ nhớ con, chắc chắn sẽ được
tiếp dẫn. Tiếp đó, tin tưởng pháp môn
Tịnh Độ như trong bài Tứ Liệu Giản
của Vĩnh Minh thiền sư đă nói so với các pháp
khác, sự lớn - nhỏ, khó - dễ, được -
mất, sai biệt vời vợt. Dẫu có những
vị thầy khác xưng tán những pháp khác cũng
chẳng lay động được ta. Thậm chí
chư Phật hiện ra trước mặt khuyên lơn,
an ủi bảo tu các pháp môn khác cũng chẳng thoái
chuyển. Đấy mới thật sự gọi là Tín
vậy! Nguyện là nguyện trong đời này thề văng
sanh Tây Phương, chẳng cần phải nhiều
đời tu tập ngoi lên, hụp xuống trong uế
độ, từ mê vào mê nữa! Lại nguyện hễ
được văng sanh Tây Phương rồi sẽ
trở lại Sa Bà độ thoát hết thảy chúng sanh.
Hạnh là chân thật nương theo lời dạy
để khởi Hạnh.
Trong chương Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông [của kinh
Lăng Nghiêm] có câu: “Nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối,
đắc Tam-ma-địa, ấy là bậc nhất”. Do
vậy biết pháp Niệm Phật phải nên nhiếp
trọn sáu căn. Trước khi nhiếp trọn sáu
căn th́ trước hết phải nhiếp được
hai hay ba căn. Hai hay ba căn là ǵ? Chính là tai, miệng, tâm
vậy. Miệng niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật
sao cho từng câu từng chữ rơ ràng, rành mạch, trong tâm
niệm cho rơ ràng rành mạch, tai nghe cho rơ ràng, rành mạch.
Hễ có chỗ nào hơi không phân minh th́ đấy chính là
không chân thật, thiết tha, có vọng tưởng [xen
tạp] (Chỉ niệm mà không nghe th́ dễ sanh
vọng tưởng). Niệm
Phật cố nhiên phải sao cho từng câu từng
chữ phân minh, chẳng để sự suy nghĩ xen vào.
Ngoài ra, xem kinh cũng
giống như thế, đừng một mặt vừa
xem, một mặt lại phân biệt; [nếu không], sẽ
được lợi ích ít ỏi, t́nh tưởng sẽ
nhiều. Xưa kia có người chép kinh do chí thành chép kinh,
chuyên tâm nhất ư, chỉ chú tâm chép kinh, không có t́nh kiến
ǵ, đến khi trời đă tối, vẫn cứ
viết chép không ngừng. Chợt có người bảo:
“Trời đă tối rồi, sao c̣n chép kinh
được?” Lúc ấy, người chép kinh t́nh niệm
vừa động, chẳng thể viết
được nữa. Ôi! Phân biệt sáng - tối chính là
vọng kiến của chúng sanh, là phàm t́nh của chúng sanh
vậy! V́ thế, đang trong lúc chuyên tâm nhất ư,
vọng tận, t́nh không, chỉ biết chép kinh, chẳng
biết trời đă tối, cũng chẳng biết
hễ trời đă tối sẽ không có ánh sáng nên không thể
chép kinh được nữa! Tới khi có người
nhắc nhở, khuấy động, do vô minh động
nên t́nh tưởng bèn chia ra. Vọng niệm vừa
động, ngay lập tức, sáng sủa và tối tăm
liền tách bạch nên chẳng thể chép kinh
được nữa. Do vậy, biết rằng đầu
mối của đạo dụng công là chuyên nhiếp,
chẳng quan tâm đến t́nh tưởng. Nếu đă
không có suy tưởng th́ đâu có tà kiến nữa! Tà
kiến đă không c̣n, đấy chính là chánh trí!
Hơn
nữa, người tu Tịnh Độ hăy nên đề
xướng nhân quả. Đối với người
thượng trí, cố nhiên biết cội gốc nằm
nơi luân thường, hiểu rơ những ǵ nên làm và không
nên làm. Đối với kẻ trung - hạ, nếu
chẳng nói tới nhân quả, giải thích tách bạch
tường tận, nêu bày rơ rệt sự tích nhân quả
báo ứng, làm sao họ sẽ dè dặt nơi hành vi, bó
buộc thân tâm cho được? V́ thế, nhân quả là
cửa ngơ ban đầu để nhập đạo,
nhưng tin tưởng chuyên dốc nơi nhân quả
cũng chẳng phải là dễ! Bậc Sơ Quả trong
Tiểu Thừa, bậc Sơ Địa trong Đại
Thừa chính là những vị thật sự có thể
chuyên dốc tin tưởng nhân quả vậy. Từ
bậc Sơ Địa trở xuống, từ bậc
Sơ Quả đổ lại, hễ gặp duyên trái
nghịch giết - trộm - dâm - dối sẽ không thể
giữ ǵn được, sẽ thuận theo đó mà
khởi Hoặc tạo nghiệp.
Nhưng kẻ thông minh
vẫn xem nhẹ nhân quả, cho rằng nhân quả bất
quá chỉ để nói với kẻ căn cơ trung -
hạ, chẳng biết rằng: Hễ chỉ hiểu ư
nghĩa của nhân quả một cách thô thiển th́
chẳng đáng gọi là Tín! Tuy biết nhưng chẳng
tận tụy vâng hành th́ cũng chẳng đáng gọi là
Tín. Chỉ có bậc thánh nhân thuộc Sơ Quả, Sơ
Địa, hay Dự Lưu mới có thể chẳng c̣n
phải mang thân sau. Hễ chẳng c̣n phải mang thân sau th́
chẳng c̣n là kẻ bị chi phối bởi Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp, nên đáng gọi là “có ḷng tin
chuyên dốc”. V́ thế, ngài Mộng Đông nói: “Kẻ khéo bàn về tâm tánh
ắt chẳng bỏ ĺa nhân quả, nhưng kẻ tin sâu
nhân quả rốt cuộc ắt sẽ hiểu tâm tánh
thật rơ rệt”. Đấy chính là nguyên do v́ sao trong
thế gian người niệm Phật đông đảo
mà bậc thật sự liễu sanh tử lại hiếm
hoi!
Chỉ v́ người
niệm Phật không có ḷng tin sâu đậm, nguyện
thiết tha, chỉ cầu phước báo, mơ
tưởng phú quư trong đời sau. Chẳng biết
rằng hễ mơ tưởng đời sau
được phú quư cũng ví như ngửa mặt
bắn tên lên trời, hễ tên bay hết sức sẽ
lại rơi xuống, chẳng những vô ích mà c̣n bị
tổn hại. Dẫu cho đời này niệm Phật
cảm được phước báo trời
người, có phước báo nhưng không có chánh trí. Do có
phước báo nên có quyền thế, địa vị, phú
quư, nhưng do không có chánh trí nên ngu si, chẳng tin nhân
quả. Phàm những kẻ chẳng tin nhân quả lại
có địa vị, quyền thế, phú quư th́ sẽ
như hổ thêm cánh, càng thêm tàn ác! V́ thế, phước
báo càng lớn, tạo nên oan nghiệt càng nhiều. Đă
tạo ác nghiệp, sẽ phải chịu ác báo.
Đấy gọi là “tam
thế oán thân” (kẻ oán, người thân trong ba
đời).
V́ vậy, người
niệm Phật trọn chớ nên có ḷng cầu
phước báo, hăy nên lấy “mạnh mẽ tiến
thẳng lên trước nhằm văng sanh Tây Phương” làm
pháp mầu nhiệm để liễu sanh thoát tử. Do
vậy, ngài Triệt Ngộ thiền sư nói: “Thật v́ sanh tử, phát Bồ
Đề tâm, dùng tín nguyện sâu, tŕ danh hiệu Phật”. Mười
sáu chữ này chính là cương tông lớn lao của pháp
môn Niệm Phật. Ngài lại nói: “Một câu Di Đà là tâm yếu của đức
Phật ta, theo chiều dọc thông suốt năm thời,
theo chiều ngang bao trùm tám giáo”. Thật vậy đó!
Một câu Di Đà vi diệu khó nghĩ lường,
chỉ có Phật với Phật mới biết
được rốt ráo, từ bậc Đẳng Giác
trở xuống vẫn c̣n chưa hiểu trọn hết.
Do vậy nói: “Bồ Tát
biết được chút phần”, bọn phàm phu chúng
ta càng phải nên tin tưởng hành theo.
2. Pháp
ngữ khai thị sau cuộc chiến ở vùng Giang -
Chiết
Hiện
thời chiến sự vùng Giang - Chiết đă yên,
nhưng trong nhất thời nhân dân khó thể khôi phục
được như cũ. Thương thay! Nhân dân
mắc phải sự khổ ác dữ dội này, nói chung là
do ác nghiệp đời trước cảm thành ác báo
khổ sở cùng cực ấy. V́ thế, phải đem
nhân quả ba đời nói với hết thảy những
ai hữu duyên, khuyên họ đừng tạo những nhân
gây ra nghiệp báo ấy nữa th́ tương lai sẽ
tự chẳng phải nhận lănh cái quả ác báo ấy.
Những thứ nhân ác ấy phần nhiều đều do
sát sanh ăn thịt mà dấy lên! Phàm với hết
thảy mọi người đều nên khuyên họ hăy
kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm
Phật như là một diệu pháp vô thượng
nhằm giải quyết vấn đề từ căn
bản. Tiếc thay! Con người chỉ biết có ḿnh,
chẳng biết có người khác th́ làm sao suy tính tới
hết thảy loài vật được? Tới khi ác báo
xảy đến, con người bị xử phạt,
giết chóc so với lúc loài thú bị hành hạ, giết
chóc nào có khác chi? Kinh dạy: “Bồ
Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Hễ sợ nhân
th́ chẳng phải nhận lănh quả, chứ sợ
quả th́ trọn chẳng có mảy may ích lợi ǵ!
Nếu đổi cái tâm sợ quả thành cái tâm sợ nhân
th́ thế giới sẽ tự thanh b́nh, yên ổn vậy!
3. Năm
đoạn khai thị
(Trần Cảnh Phiên ghi chép)
1) Dạy về phương pháp
tu hành:
Phàm tu hành th́ phải
nên chuyên ṛng, chớ nên xen tạp. Pháp Niệm Phật
vượt trỗi hết thảy. Cầu siêu cho
người đă khuất, hoặc cầu cho cha mẹ
tăng tuổi thọ và hết thảy mong cầu
đều được như nguyện, nhưng
phải lấy cầu sanh Tây Phương làm chủ. Muôn
vàn chớ nên cầu phước báo trong đời sau.
Nếu cầu đời sau sẽ không được
hưởng lợi ích văng sanh. Hăy nên đọc kỹ
Văn Sao sẽ tự biết duyên do về mặt Sự
lẫn mặt Lư. Đối với những căn
bệnh của con người hiện thời và
phương thuốc để chữa trị th́ trong
Văn Sao cũng đều có nói. Nói chung, lấy
đề xướng nhân quả báo ứng làm căn
cứ để văn hồi thế đạo nhân tâm.
2) Dạy về phương pháp
tu hành:
Dụng công tu hành
cố nhiên phải nên chuyên ṛng; nhưng phàm phu vọng
tưởng tơi bời, nếu chẳng dùng kinh chú
để giúp thêm, chắc sẽ đến nỗi hờ
hững, lười trễ, biếng nhác! Nếu có thể
thống thiết như khi chôn cất cha mẹ, như
cứu đầu cháy th́ Nhất Hạnh tam-muội[14]
quả thật là hay nhất. C̣n nếu niệm Phật
hờ hững, băi buôi, th́ lâu ngày chắc sẽ trở thành
lười nhác, buông xuôi, bỏ lửng, v́ thế chẳng
bằng kiêm tŕ kinh chú sẽ chắc chắn hơn. Ông
cầu tôi quyết đoán, tôi nói với ông duyên do
để ông tự quyết định. Nói chung, do tâm sanh
tử thiết tha, thành kính khăng khăng một niềm
th́ chuyên niệm hay kiêm niệm đều được
cả. Nếu không, chuyên niệm sẽ trở thành hờ
hững, coi thường, kiêm niệm sẽ trở thành
tràn lan, lộn xộn. Ấy là v́ căn bản không chân
thật, thiết tha, nên đến nỗi hết thảy
đều khó được lợi ích.
3) Nêu [lư do v́ sao sách] Pháp Hải
Thê Hàng chẳng khế cơ:
Soạn sách lập ngôn
quả thật chẳng phải là chuyện nhỏ
nhặt đâu nhé! Xin hăy nhất tâm niệm Phật,
đợi đến khi nghiệp tiêu trí rạng xong,
rồi mới viết lách để làm cho hết thảy
những kẻ sơ cơ đều được lợi
ích th́ mới ḥng ít mắc phải khuyết điểm
“giáo pháp chẳng phù hợp căn cơ”. Xét ra, cuốn sách
ấy của ông chưa từng chỉ rơ gốc bệnh
của con người hiện thời và cách chữa
trị. Tuy giảng chung chung về Phật lư cũng có
thể khiến cho người khác sanh ḷng tin, nhưng
đối với kẻ sơ cơ, do phần lớn
những từ ngữ được nêu trong sách là
những danh từ riêng họ sẽ chẳng hiểu rơ,
ắt sẽ đến nỗi cật vấn lẫn nhau,
vô sự sanh sự, đâm ra chẳng có quan hệ khẩn
yếu chi đối với chuyện niệm Phật!
Đấy chính là lư do tại sao Quang không tán thành ư
tưởng soạn sách của ông. Đă không tán thành, há có
thể sửa đổi đại lược, phê b́nh
đại lược hay sao? Mong ông biết rơ nguyên do,
chẳng đến nỗi vẫn mơ màng trong mộng mà
thôi!
4) Dạy không cần phải chú
trọng vào thơ văn:
Cuốn
Pháp Hải Thê Hàng của ông chẳng có thứ tự,
thơ văn cũng chẳng thật sự theo thứ
lớp. Chỉ nên cẩn thận đọc kỹ
những sách có ích cho thân tâm và sốt sắng niệm
Phật, không cần phải chú ư đến thơ văn.
Nếu qua sách vở mà hiểu được duyên do th́
niệm Phật sẽ được lợi ích, tự nhiên
thơ văn sẽ vượt trỗi. Nếu không,
cũng chỉ là gượng ép, áp đặt; xét ra,
chẳng dính dáng ǵ tới tâm pháp cả!
5) Dạy về chuyện tổ
chức, điều hành Đồng Thiện Hội
Phàm làm
chuyện công ích, chớ nên chấm mút chút nào. Nếu không,
chẳng những là dối người mà c̣n đúng là
dối ḷng, dối Phật nữa đấy! Sửa ác,
hướng lành, cần phải luận từ nơi
khởi tâm động niệm. Há nên công khai làm chuyện
dối người ư? Những kẻ mù quáng khuấy
rối hiện thời đều là những kẻ
cực ngu si chẳng biết nhân quả, chẳng biết
tội phước báo ứng. Nếu bọn họ có chân
tâm, trí huệ, dẫu dùng cái chết để uy hiếp
buộc họ làm như vậy, họ cũng chẳng
chịu làm! Mong hăy chú ư [điều này] th́ may mắn
lắm thay.
4. Pháp
ngữ khai thị tại Tịnh Nghiệp Xă
(Kư Trần ghi)
Hôm nay là
ngày đầu tiên của Phật Thất, tôi đem lai
lịch của Phật Thất để nói cho quư vị
nghe. Hiện thời mọi nơi mở Niệm Phật
Thất rất nhiều, phương pháp tu tập và
những lời lẽ khai thị phần lớn cũng
giống nhau. Trước hết, nay tôi tŕnh bày nhân duyên
của Phật Thất lần này, rồi sẽ nói tới
đại cương của pháp Niệm Phật. Như
vậy, tông chỉ của pháp Niệm Phật sẽ
được minh bạch. Nếu không, chẳng biết
căn bản, chắc chắn sẽ không thể
đặt nền tảng vững vàng được,
chắc sẽ bị kinh giáo hoặc lời lẽ của
thiện tri thức xoay chuyển đến nỗi bỏ
pháp này để tu các pháp môn khác.
Pháp Niệm Phật
như thuốc A Già Đà. Tiếng Phạn A Già Đà,
tiếng Hán là Phổ Sanh, cũng dịch là Tổng Trị
v́ nó sanh khắp [mọi sự an lạc, công đức] và
trị chung mọi căn bệnh vậy. Pháp môn này cũng
giống như thế, trừ được tám vạn
bốn ngàn phiền năo. Do vậy, pháp môn Niệm Phật
bao trùm khắp muôn h́nh tượng, hết thảy các pháp,
không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này.
Hết thảy các pháp không pháp nào chẳng quy hoàn pháp
giới này. Do nó nắm giữ hết thảy các pháp nên
không pháp nào chẳng được trọn vẹn, không
căn cơ nào chẳng gồm thâu! Đức Phật
chỉ muốn làm cho chúng sanh siêu phàm nhập thánh, liễu
sanh thoát tử, nhưng chúng sanh căn cơ không giống
nhau, tâm nguyện mỗi người mỗi khác. Nếu có
chúng sanh cầu phước, cầu thọ, cầu tài,
cầu con v.v… chỉ cần thành tâm mong cầu, hễ có
cầu ắt ứng. Tuy đấy là pháp thế gian,
nhưng nhằm để tiếp dẫn kẻ hạ
căn gieo thiện căn dần dần cho nên cũng làm
cho họ được măn nguyện. Nếu luận
nơi bổn ư của đức Phật th́ chỉ là
muốn khiến cho chúng sanh nhất tâm niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương, cậy vào Phật từ
lực, lâm chung tiếp dẫn văng sanh Tây Phương.
Hễ được văng sanh sẽ liền thoát khỏi
nỗi khổ luân hồi trong tam giới, từ
đấy tiến tu dần dần cho đến khi thành
Phật th́ mới là thật nghĩa rốt ráo của
Niệm Phật.
Nhân duyên
thứ nhất: Nếu luận về nhân duyên dẫn
đến [pháp hội Niệm Phật Thất này] th́
sẽ phải nói rất dài. Từng nhớ năm Dân
Quốc 11 (1922), Quang đến đất Thân
(Thượng Hải), trụ tại chùa Thái B́nh. Cư
sĩ Giang Dịch Viên do chiếc tàu thủy Đại
Thăng bị hỏa hoạn, muốn làm Phật sự
[để cầu siêu cho các nạn nhân], Quang khuyên ông ta nên
mở Niệm Phật Thất. Lại khuyên người
chủ quản công ty ấy tham dự Niệm Phật
Thất cho đến măn thất. Ấy là v́ niệm
Phật có lợi ích thù thắng hơn công đức
của những thứ Phật sự khác; v́ muốn cho những
người bị chết cháy, chết đuối
được hưởng lợi ích chân thật cho nên
khuyên chuyên nhất niệm Phật!
Năm trước,
vợ ông Giang mất, muốn làm Phật sự, gởi
một trăm đồng cậy Quang làm Phật sự. Do
vậy, bèn mở một Niệm Phật Thất tại
chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà. Đêm viên măn Phật
Thất, khá có linh cảm. Đối với niệm
Phật, ông Giang đă sẵn mang ḷng hết sức
thiết tha, cả nhà bị ông ta cảm hóa, niệm
Phật cũng rất thiết tha, chân thật. Do vậy
trong khi tang ma, cả nhà đều niệm Phật.
Chẳng phải chỉ có như vậy, do ông Giang khá có
tiếng tăm nơi quê hương, ông cũng
thường luôn khuyên người làng niệm Phật.
Người trong một vùng đều bị ông ta cảm
hóa. Phàm người làng đến phúng điếu, toan
tế vong, ông ta đều khước từ, bảo
với họ: “Phàm ai đến điếu tang, hăy
niệm Phật hết một cây hương sẽ
tốt hơn là tế lễ nhiều lắm”. Do vậy,
dân làng chia ra mấy ban, mỗi ngày một ban đến
niệm Phật, niệm tới mấy ngày mới hết.
Do có nguyên nhân này, con
của ông Giang tên là Hữu Bằng vào đêm viên măn
Phật Thất tại chùa Pháp Vũ nằm mộng
thấy nhận được nhiều lá thư, liền
cầm một bức lên Phật đường trên
lầu để xem. Ngọn đèn trong Phật
đường sáng hơn ánh chớp, bóc bức thư ra
th́ chính là một bức vẽ về cảnh tượng
trong thế giới Cực Lạc. Pháp Vũ mở
Phật Thất có tất cả mười sáu vị
Tăng nhân. Trước hôm mở Phật Thất một
ngày, Quang đối trước Tăng chúng nói: “Quư vị
niệm Phật phải thật thà, khẩn thiết th́
ḿnh lẫn người mới đều được
lợi ích”. Do vậy, mỗi vị tăng sĩ
đều nghiêm túc. Đấy cũng là một cái nhân
tạo nên sự linh cảm. T́nh h́nh đại lược
về chuyện này đă được đăng tên
tờ Lâm San của Cư Sĩ Lâm. Muốn biết
những nét chánh yếu, có thể t́m đọc [trong báo
ấy].
Năm ngoái, cha của
cư sĩ Giang Dịch Viên mất, ông ta cũng gởi
tiền cậy Quang mở Phật Thất. Năm nay,
bạn ông ta là Ngô Trường Vinh có mẹ vừa mất,
cũng gởi tiền cậy mở Phật Thất.
Thư ấy gởi đến Phổ Đà th́ hôm mồng
Ba tháng đó Quang sang Thượng Hải. Mồng Bốn
đến Nam Kinh, mồng Bảy trở về đất
Hỗ, mới biết chuyện ấy, bàn bạc với
ḥa thượng Chân Đạt chùa Thái B́nh, nhưng chùa Thái
B́nh đă nhận lời mở thất niệm Phật cho
nhà ông Triệu Trúc Quân, chẳng thể cùng tiến hành
được. Lại chuyển sang bàn bạc với
cư sĩ Quan Biệt Tiều để lấy Phật
Giáo Tịnh Nghiệp Xă làm đạo tràng. Quan cư sĩ
chấp thuận, do vậy hôm nay mở đạo tràng
Phật Thất tại đây.
Cư sĩ Giang
Dịch Viên b́nh sinh thích niệm Phật nhất, đề
xướng pháp môn Niệm Phật chẳng tiếc
sức thừa, khá có linh cảm. Năm ngoái, vùng Vụ
Nguyên bị hạn hán, Dịch Viên khuyên mọi
người nhất tâm niệm Phật, chẳng
đầy mấy bữa trời mưa một trận
lớn. Do vậy lập ra Phật Quang Liên Xă, người
tham dự liên xă đông lắm, cũng lôi kéo Quang làm
hội trưởng danh dự. Niệm Phật có
đủ mọi chuyện linh cảm khác nhau. Những
chuyện như cầu mưa, cầu tạnh và lành
bệnh v.v… đều khá rơ rệt, đủ biết
niệm Phật lợi ích lớn nhất. Đấy chính
là nhân duyên thứ nhất.
Ngoài ra, năm ngoái
cư sĩ Lư Vân Thư do người em dâu bệnh
nặng, đến chùa Thái B́nh muốn làm Phật sự,
tôi khuyên ông ta mở Niệm Phật Thất. Bệnh
của người em dâu đă được rất
nhiều y sĩ chữa chạy nhưng chẳng lành.
Vị thầy thuốc cuối cùng thương cô ta bị
đau khổ khó thể chịu đựng đă khuyên nên
uống thuốc độc cho mau chết. Do vậy, Vân
Thư lập cách cầu Phật gia bị nên đến
đây bàn bạc với Quang, Quang bảo mở Niệm
Phật Thất. Không lâu sau, Quang trở về núi, cũng
chẳng biết cô ta được lợi ích ra sao!
Đến mồng Bảy tháng Tư năm nay, Quang sang
Cư Sĩ Lâm thăm pháp sư Đế Nhàn. Ông Lư Vân
Thư cũng đến, cho biết năm ngoái vào hôm
đầu tiên của Niệm Phật Thất, cô em dâu ông
ta nằm mộng thấy cô ta đến Tam Thánh
Đường cùng với tăng chúng niệm Phật,
niệm Phật rất lâu, rất thanh thản, thoải
mái, bệnh liền nhẹ dần. Vân Thư bảo cô ta:
“Tôi đă niệm Phật cho mợ ở chùa Thái B́nh
chứ không phải là Tam Thánh Đường”. Cô em dâu căi:
“ Không phải chùa Thái B́nh, mà là Tam Thánh Đường”. Sau
này, hỏi thăm mới biết chùa Thái B́nh chính là hạ
viện của Tam Thánh Đường núi Phổ Đà.
Đủ thấy người bị bệnh nếu
biết niệm Phật vẫn được Phật
lực gia bị khiến cho bệnh được lành.
Chuyện này là một chứng cớ rơ ràng vậy!
Trong tháng Bảy năm
nay, chính ông Lư Vân Thư bị bệnh. Đang lúc bệnh
nặng, thỉnh mấy vị cư sĩ niệm
Phật, về sau do hôn mê bất tỉnh nhân sự bèn thôi.
Kế đó, nghĩ tới chuyện năm ngoái đă
từng v́ người em dâu mở Niệm Phật
Thất, bèn sai người đến chùa Thái B́nh hỏi
tôi và ḥa thượng Chân Đạt. Do hai người chúng
tôi cùng trụ tại Phổ Đà, ông Lư liền gởi
thư xin chúng tôi sang Thượng Hải mở Niệm
Phật Thất. Do nhằm tháng Bảy, đă qua khỏi
kỳ dâng hương tại Phổ Đà, gặp đúng
dịp thanh nhàn, chúng tôi liền mở Phật Thất
tại Tam Thánh Đường núi Phổ Đà, chọn
ngày Mười Bốn tháng Bảy để khai đàn,
ngày Hai Mươi viên măn. Hôm Mười Ba, Quang liền
gởi thư cho Vân Thư; hôm Mười Bảy ông ta
gởi thư trả lời cho biết bệnh đă
khỏi được tám chín phần. Hiện thời, Lư
Vân Thư đă hoàn toàn lành bệnh, chỉ có điều
sức lực vẫn chưa được b́nh phục
hoàn toàn. Lư Vân Thư bệnh nặng như thế mà
nhờ Phật Thất gia bị liền được
khỏi hẳn bệnh. Linh nghiệm như thế,
đấy là một chứng cớ rơ rệt thứ hai
vậy.
Phần
thứ hai là cương lănh. Con người hiện
thời phần nhiều chuộng lạ, chuộng bày
vẽ phô trương, như pháp hội Hộ Quốc Nhân
Vương, pháp hội Kim Quang Minh, pháp hội tŕ chú
Lăng Nghiêm, pháp hội Đại Vân Luân[15]
v.v… Những thứ pháp hội ấy có công đức
lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, nhưng do
người đời nay tài lực ít ỏi, thể
lực kém cỏi, tuy nói là “cử hành”, nhưng khó thể
đạt được lợi ích thù thắng, v́
đấy không phải là chuyện ai cũng có thể
thực hiện được. Nếu niệm Phật,
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát th́ không một ai chẳng
thể làm được! Cho nên về mặt lợi ích,
không có một pháp hội nào sánh bằng niệm Phật!
Bởi lẽ, pháp môn Niệm Phật thích hợp khắp
ba căn, phù hợp căn cơ nhất. Dẫu là
đứa con nít bé tẹo vẫn có thể làm
được, chứ nếu niệm kinh th́ chỉ có
một số ít người biết niệm, chẳng
phải ai cũng đều biết niệm!
Bốn hay
năm năm (5 năm) trước, từ Tứ Xuyên có gởi tới một thông cáo,
cho biết vùng Xuyên Trung chiến sự không ngớt,
muốn cầu cho chiến tranh ngưng dứt, khuyên
hết thảy mọi người niệm chú Lăng
Nghiêm. Cần phải biết rằng những người
có thể tụng đọc chú Lăng Nghiêm th́ trong ngàn
người khó kiếm được một kẻ!
Họ c̣n in ra rất nhiều bản [chú Lăng Nghiêm] cho
người ta đeo và dán trên đầu cửa. Sự
việc khá phiền phức, tốn kém lại nhiều, sao
bằng niệm Phật hoặc niệm chú Đại Bi
hoặc niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, so ra thẳng chóng,
thích đáng hơn! V́ thế, tôi thấy những kẻ
xướng suất, đề nghị tụng chú Lăng
Nghiêm thật là buồn cười! Bởi lẽ, họ
chỉ chú trọng phô trương, chứ không quan tâm
đến thực chất. Đă là như thế th́
lợi ích sẽ kém xa niệm Phật, bởi một câu A
Di Đà Phật chính là vô thượng Bồ Đề giác
đạo được chứng bởi chính đức
Phật. Nếu chúng ta có thể dùng danh hiệu này
để tự huân tập [cái tâm ḿnh] th́ lâu ngày chầy
tháng khí phận sẽ tương đồng với
Phật.
Huống chi câu Phật
hiệu ấy không một ai chẳng thể niệm
được. Dẫu lười nhác, biếng trễ
chẳng chịu niệm, nhưng nghe âm thanh niệm
Phật của mọi người cũng có lợi ích. So
sánh đôi bên, cố nhiên niệm Phật vượt
trỗi niệm kinh nhiều lắm! Do niệm Phật
giản tiện tột bậc, ngay như kẻ chẳng
niệm Phật nhưng nghe âm thanh niệm Phật lọt
qua tai liền được gieo thiện căn. Do
vậy, một câu Phật hiệu này rót vào trong tám thức
điền, trong tương lai khi gặp duyên sẽ
nẩy sanh. Ví dù bị oán quỷ, bệnh ngặt bức
bách, niệm Phật sẽ đều trừ
được. Do vậy, phàm những người có tín
tâm niệm Phật hăy nên đem điều này khuyên
khắp mọi người khác tu tŕ, chứ chẳng
phải chỉ riêng với cha con, người trong nhà là nên
khuyên chỉ, ngay cả với hết thảy những ai
hữu duyên cũng đều nên khuyên chỉ như
thế.
Hỏi:
Một pháp Niệm Phật sao lại có thể coi là thích
hợp khắp cả ba căn?
Đáp:
Tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cực nặng lúc
sắp mạng chung, tướng địa ngục
hiện, nghe thiện tri thức dạy niệm Phật bèn
niệm mười tiếng hoặc niệm mấy
tiếng liền được đức Phật
tiếp dẫn văng sanh Tây Phương. Do kẻ ấy
bị khổ sở bức bách, phát tâm khẩn thiết,
nên được thành tựu; chẳng thể nào đem so
với kẻ niệm Phật hờ hững, hời
hợt để rồi sanh ḷng nghi. Đấy là hạ
căn. Nếu luận về thượng căn th́ từ
bậc Sơ Phát Tâm Trụ cho đến Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ đều
phải niệm Phật hồi hướng văng sanh ḥng viên
măn Phật Quả. Do vậy, nói: “Hết thảy pháp môn đều phải lấy
niệm Phật làm chỗ quy túc”. Nếu chỉ ham cao
chuộng xa, bàn nói điều huyền lẽ diệu th́
sẽ như đếm vật báu của người khác,
chính ḿnh chẳng được nửa xu, rốt cuộc
chính ḿnh chẳng được hưởng dùng chi
hết! V́ phải đạt tới mức “nghiệp
tận, t́nh không” th́ mới có thể liễu sanh tử;
nếu chỉ nói xuông, có ích ǵ đâu?
Cần biết
rằng: Kiến Hoặc và Tư Hoặc chính là căn
bản sanh tử. Chưa đạt đến địa
vị “nghiệp tận, t́nh không”, sẽ do đâu mà
liễu sanh tử được? Niệm Phật cậy
vào Phật từ lực nên lợi ích sâu rộng. V́
thế, Thanh Lương quốc sư nói: “Ngu phu ngu phụ cắm cúi niệm Phật liền
có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp
đạo mầu”. Pháp môn Niệm Phật hợp
với thời cơ đời Mạt Pháp nhất. Ḥa
Thượng Thiện Đạo nói: “Nếu luận về học Giải th́ hết
thảy pháp môn đều phải nên học. Nếu
luận về tu tŕ, cần phải chọn lấy một
môn khế lư, khế cơ th́ mới có lợi ích thật
sự”. Pháp môn Niệm Phật nhân trùm biển quả,
quả tột nguồn nhân, là khế lư, khế cơ
nhất, con người hiện thời đều nên tu
tŕ. Nhưng pháp môn Niệm Phật cũng có rất
nhiều lối, cầu lấy một đường
lối thỏa đáng th́ chỉ có Tŕ Danh. Ngay như cách tu
Quán Tượng, Quán Tưởng cũng có khuyết
điểm! Bởi lẽ, tâm địa chẳng sáng
suốt, không hiểu rơ cách quán, chắc là ma sự sẽ
dấy lên. Nếu quán Thật Tướng th́ ai có thể
khế nhập thấu triệt được? Do vậy,
người niệm Phật chớ nên chú trọng
những ǵ cao xa, mà hăy nên chuyên chú nơi những ǵ thực
tiễn.
Hễ tưởng
nghĩ đến đời sau th́ niệm Phật sẽ
thật thiết tha, sẽ tự nhiên đạt
được những cảnh giới khá tịnh
diệu trong hiện tại. Quang khuyên [các hành nhân tu
Tịnh Độ] chỉ nên mong đạt
được nhất tâm, đừng mong tưởng
cảnh giới. Nếu không, khó tránh khỏi bị ma
dựa! Trong tháng Tư năm nay, có người gởi
thư đến kể những cảnh giới cực
kỳ hiểm ác, Quang viết thư cho ông ta, khuyên nên
nhiếp tâm tịnh niệm. Tất cả cảnh giới
đều là huyễn hóa; với cảnh giới tốt
đẹp đừng nên hoan hỷ, với cảnh
giới xấu ác đừng nên sợ hăi, chúng sẽ
tự tiêu diệt. Cần biết rằng: “Ngàn sông bóng nước, ngàn trăng rọi; muôn
dặm không mây, muôn dặm trời”. Nếu đạt
tới lúc tâm và Phật tương ứng th́ có cảnh
giới hay không cảnh giới đều được
cả! Chưa đạt đến lúc tâm tương
ứng với Phật, cứ lầm lạc muốn
thấy cảnh giới thù thắng, nhiệm mầu, th́
chính là cái gốc để chuốc lấy ma sự
đấy!
Cổ nhân nói: “Học đạo trong các môn khác
như con kiến ḅ lên núi cao; niệm Phật văng sanh
như đă nương theo gió căng buồm lại c̣n
thuận nước”. Kinh Hoa Nghiêm bao gồm trọn
vẹn các pháp, xét đến chỗ quy túc th́ chính là hồi
hướng văng sanh Tây Phương. Các kinh Đại
Thừa không kinh nào chẳng tán dương Tịnh
Độ, nhưng bốn kinh Tịnh Độ chuyên
giảng đến tột cùng. Ở Tây Thiên th́ các vị
Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Mă Minh, Long Thọ v.v…
tự hành, dạy người, đều cùng chỉ quy
Tịnh Độ. Nơi Đông Độ, từ khi
Viễn Công sáng lập Liên Xă ở Lô Sơn trở đi,
Đàm Loan, Đạo Xước, Thiên Thai, Thiện
Đạo v.v… đời nào cũng nghe nói có người,
ấy là v́ Phật đă sớm biết chúng sanh
đời sau căn khí mỏng yếu nên đặc
biệt mở ra pháp môn Niệm Phật. V́ thế, các
vị Bồ Tát, tổ sư cực lực đề
xướng để mong hết thảy chúng sanh
đều cùng liễu sanh thoát tử ngay trong đời
này. Tục ngữ có câu: “Thiểu
thật thắng đa hư, đại xảo bất
như chuyết” (Thật ít hơn dối nhiều, khéo
quá chẳng bằng vụng). Pháp môn Niệm Phật
phải tu bằng thật hạnh, nên lúc lâm chung Liên Tŕ
đại sư dặn ḍ đại chúng rằng: “Xin mọi người hăy
thật thà niệm Phật”. Nếu các vị thật
thà niệm Phật sẽ chẳng phụ ḷng đức
Như Lai đại từ bi đă nói ra pháp môn đặc
biệt này!
5. Pháp
ngữ khai thị tại Tố Thực Đồng Duyên Xă (Hội cùng kết duyên ăn chay) ở Nam Kinh
(Hoàng Sám Hoa và Cung Huệ Vân kính ghi)
Ấn
Quang vô tri vô thức, ít tham cứu, ít học hành, nay
được các vị đại cư sĩ chèo kéo,
quả thật hổ thẹn sâu xa. Trộm nghĩ
Phật pháp có năm thừa:
1) Nhân
thiên thừa: Nhân thừa tŕ Ngũ Giới, được
sanh trong loài người. Thiên thừa hành Thập Thiện,
được sanh lên cơi trời trong Dục Giới.
Nếu c̣n hành thêm Tứ Thiền, Tứ Định[16]
th́ sẽ sanh trong các cơi trời Sắc Giới hay Vô
Sắc Giới.
2) Thanh
Văn thừa: Tu Tứ Đế, đắc Tứ Sa Môn
quả[17].
3) Duyên
Giác thừa: Quán Thập Nhị Nhân Duyên, đắc Bích Chi
Phật quả.
4) Bồ
Tát thừa: Tu lục độ, vạn hạnh, chứng
Bồ Tát quả.
5)
Phật thừa: Hành đại từ đại bi, thành
Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tu Nhân
Thiên thừa kiêm hành Bồ Tát thừa và Phật thừa th́
chắc chỉ có ḿnh pháp môn Tịnh Độ đó
chăng? Ấy là v́ Nhân Thiên thừa chỉ tu Ngũ
Giới, Thập Thiện, đều là công đức
hữu lậu[18];
chỉ có pháp môn Tịnh Độ này có thể vượt
tam giới, liễu sanh tử! Người tu Tịnh
Độ ắt phải giữ vẹn luân thường,
nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính ḿnh, cha
từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng ḥa,
vợ thuận; lại c̣n dùng Tứ Hoằng Thệ
Nguyện để mở rộng cái tâm, tự hành,
dạy người, khiến cho khắp mọi
người trong là cha mẹ, vợ con, ngoài là xóm giềng,
làng nước đều cùng tu Ngũ Giới, Thập
Thiện và tu pháp môn Tịnh Độ. Dùng tín nguyện sâu
niệm Phật cầu sanh Tây Phương, người
ấy tuy là phàm phu nhưng thật ra là Bồ Tát. V́ sao
vậy? Do cái tâm rộng lớn!
Xưa kia có một
vị Sa Di theo hầu một vị tôn giả đi
đường, Sa Di chợt phát nguyện tự lợi
lợi tha “trên cầu Bồ Đề, dưới hóa
độ chúng sanh”, tôn giả liền bảo Sa Di đi
trước. Sa Di chợt xoay chuyển ư nghĩ: “Chúng sanh
nhiều như thế, làm sao để có thể
độ thoát cho hết được! Chẳng thà
tự lợi th́ hơn”. Khi ấy, tôn giả liền
bảo bước theo sau ngài. Sa Di lại chợt xoay
chuyển ư nghĩ: “Vẫn phải nên độ thoát chúng
sanh!” Tôn giả lại bảo Sa Di đi trước. Sa Di
lấy làm lạ, hỏi lư do, tôn giả bảo: “Thoạt đầu, con phát đại Bồ
Đề tâm tức là Bồ Tát, ta tuy là La Hán nhưng
vẫn thuộc Tiểu Thừa. V́ thế phải mời
con đi trước. Kế đó, con lại lui sụt
Bồ Đề tâm, ta là thánh nhân, con là phàm phu nên theo
đúng lẽ phải đi sau. Sau đấy con lại
phát Bồ Đề tâm, nên ta vẫn phải thỉnh con
đi trước”. Do câu chuyện này thấy rằng:
Phát Bồ Đề tâm công đức vô lượng vô
biên! Chúng ta muốn tăng trưởng thiện căn
không thể nào chẳng phát tâm Bồ Đề.
Nay đang thời
mạt kiếp, lễ giáo suy vong; muốn văn hồi
thế đạo nhân tâm ắt trước hết
phải đề xướng nhân quả báo ứng, sanh
tử luân hồi. Thánh nhân thế gian nói về nhân quả
như “nhà tích thiện ắt
niềm vui có thừa, nhà tích điều bất thiện
ắt tai ương có thừa”, “làm lành trăm điều
tốt đẹp giáng xuống, làm điều bất
thiện trăm sự tai ương giáng xuống” v.v…
lời lẽ đơn giản, nhưng ư nghĩa bao trùm;
người đời sau quen thói chẳng suy xét. C̣n các
bậc thánh nhân xuất thế gian th́ nói nhân quả
tường tận tột bậc. Nhờ đấy,
bậc thượng trí liễu sanh thoát tử, siêu phàm
nhập thánh, kẻ tư cách trung hạ do xét thấy “làm
ác mắc quả ác, làm lành được báo lành” cũng
gắng sức làm lành. Dẫu là kẻ cùng hung cực ác
cũng có phần kiêng sợ chẳng dám làm! V́ thế, nhân
quả báo ứng thật sự là một pháp thông trên
thấu dưới.
Cũng có kẻ
bảo thuyết nhân quả báo ứng là Tiểu Thừa,
chẳng biết lục độ vạn hạnh cũng
là nhân quả. Từ đức Như Lai đă thành
Đẳng Chánh Giác cho đến phàm phu đọa trong
địa ngục A Tỳ đều không ǵ chẳng
phải là nhân quả! Bởi thế, Phật giáo
đề cao, giảng rơ nhân quả, có lợi sâu
đậm cho con người vậy thay! Xưa kia Văn
Vương cai trị bằng ḷng nhân, ân trạch thấm
đến cả xương khô, nhưng chưa
đầy hai ba trăm năm, phong tục giết
người tuẫn táng đă trọn khắp thiên hạ.
Lại c̣n cho rằng “càng giết nhiều càng vẻ vang”,
thiên tử, chư hầu, sĩ đại phu đều
tùy theo khả năng mà giết, rốt cuộc đến
khoảng mấy trăm, mấy ngàn người! Ngay
như Tần Mục Công là một vị vua hiền,
vẫn giết hơn một trăm bảy chục người
để tuẫn táng. Ba vị họ Tử Xa[19]
chính là bầy tôi hiền của đất nước
nhưng đều bị giết để tuẫn táng,
huống hồ những kẻ khác ư? Nguyên nhân đều
là v́ chẳng biết đến nhân quả ba đời
vậy! Từ khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc
trở đi, chưa hề nghe sử sách chép có chuyện
tuẫn táng. Đấy cũng chưa hề chẳng
phải là do thuyết nhân quả ba đời của
đức Như Lai tạo nên!
Đang trong thời
buổi này, sát kiếp lừng lẫy, càng phải nên
đề xướng kiêng giết, ăn chay. Sát kiếp
do sát nghiệp cảm thành. Sát nghiệp lớn nhất
chính là ăn thịt. Do ăn thịt nên cảm vời
hết thảy thiên tai, nhân họa, hạn hán, lụt
lội, mưa dầm, ôn dịch, sâu rầy. Ăn thịt
gây hại quá nhiều, nói chẳng thể hết
được, đành nêu một thí dụ để
chỉ rơ. Xưa kia vào thời Liệt Quốc[20],
ở nước Lỗ có hai gă dũng sĩ, mỗi
người ở một nơi. Một hôm gặp nhau, mua
rượu cùng uống, một gă nói: “Không thịt
chẳng thành cuộc vui! Hăy nên mua thịt”. Gă kia nói: “Tôi
với anh đều có thịt, cần ǵ phải t́m
thịt ở đâu nữa?” Liền cắt thịt
của nhau ăn, lại c̣n cắt thịt của chính ḿnh
để dâng cho nhau đến nỗi chết ngắc!
Trong cái nh́n của chúng
ta, hai gă ấy là kẻ đại ngu, nhưng [chúng ta]
chẳng biết rằng “kẻ ăn thịt là v́
chẳng hiểu rơ nhân quả báo ứng”. Mai kia con
người chết đi [đầu thai] làm loài thú, thú
chết đi thành người, ăn thịt lẫn nhau,
có khác chi đâu? Chẳng qua khác biệt ở chỗ cách
đời hay cùng thời mà thôi, nhưng c̣n tệ hơn!
Hai gă dũng sĩ chết v́ ăn thịt lẫn nhau, nhân
quả báo ứng trong một lúc đều xong hết;
chứ kẻ ăn thịt nhân quả dây dưa không
dứt, báo ứng cũng chẳng có lúc nào xong. Kinh Lăng
Nghiêm dạy: “Do con
người ăn dê, dê chết thành người,
người chết thành dê. Như thế cho đến
mười loại chúng sanh, chết chết sống
sống ăn nuốt lẫn nhau”. Kinh đă dạy rơ
ràng như thế, thật đáng kinh hăi! Ở đây, tôi
lại lược thuật vài nghĩa để làm sáng
tỏ đạo lư [v́ sao] “không nên ăn thịt”.
1) Do cái
tâm bất nhẫn: Hết thảy những loài có linh tánh
đều cùng một thể. Do thương dân mà yêu
vật, nguyên khí thái ḥa tràn ngập nhân gian. Do vậy,
biết rằng giết chóc sanh linh là chuyện hoàn toàn
chẳng có nghĩa lư ǵ cả! Hết thảy chúng sanh
đều tham sống sợ chết, sao ta nỡ ḷng tàn
hại sanh mạng để thỏa thích miệng
bụng?
2) Nhân
quả báo ứng: Hết thảy sanh linh đều do
xưa kia chẳng biết nhân quả nên bị đọa
lạc trong loài súc sanh. Nay ta giết chúng để ăn
thịt, mai sau khi chúng đă hết ác báo, sát nghiệp
của ta mới thành, ta cũng sẽ làm thịt trên
thớt của chúng! Do vậy, kiêng giết, ăn chay
chẳng phải là tính toán cho sanh linh mà cũng là tính kế
cho chính thân ta vậy! Ông Lưu Ngọc Thụ giữ
chức Hàn Lâm đời Minh, đỗ thuyền ở Tô
Châu, mộng thấy một người đàn ông to
lớn đến cầu cứu, tự xưng là thiên
tướng quân[21] Tào
Hàn, do tàn sát Giang Châu nên đời đời mang thân
lợn: “Nơi ḷ mổ ở ngay trước bến
thuyền, trong chốc lát, con lợn bị giết
đầu tiên chính là tôi đấy. Xin hăy cứu vớt!”
Ông ta tỉnh giấc quả nhiên thấy gă đồ
tể sắp giết lợn liền mua đem về
thả trong một ngôi chùa tại Xương Môn[22].
Hễ có ai kêu “Tào Hàn”, con lợn ấy đều quay
đầu ngó. Điều này có thể chứng tỏ con
người biến thành súc sanh, súc sanh biến thành
người. Những chuyện về hoạt Diêm
Vương, hoạt tiểu quỷ được chép
trong sách vở rất nhiều. Đấy đều là
thiên địa quỷ thần hé lộ một chút tin
tức về nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi
để răn nhắc người đời vậy.
3)
Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ, quyến
thuộc của ta trong quá khứ! Chúng ta đă biết rơ
nhân quả luân hồi: Trong một đời có cha mẹ
quyến thuộc trong đời ấy. Trải qua
nhiều kiếp sống, sẽ có cha mẹ, quyến
thuộc trong nhiều kiếp sống. Cha mẹ, quyến
thuộc trải nhiều kiếp số như thế luân
hồi trong sáu nẻo, trong số ấy có những
người làm ác, khó tránh khỏi đọa trong tam
đồ. V́ thế, đối với lục đạo
chúng sanh chúng ta phải coi như cha mẹ, vợ con.
Lẽ nào con hiếu cháu hiền lại ăn nuốt cha
mẹ ư? Há có cha mẹ hiền từ nào lại ăn
nuốt con cái ư? Hễ suy nghĩ đến
điều này sẽ chẳng nỡ ăn mà cũng
chẳng dám ăn nữa!
Ngay cả cúng giỗ
tổ tiên cũng chớ nên dùng thịt, bởi lẽ mang
tiếng là kính trọng chứ thật ra đă làm hại
tổ tiên! C̣n như dùng thịt để dâng cho cha
mẹ, đều khiến cho cha mẹ tổn
phước, mắc họa ương! Cha mẹ là người
có phước đức thiện căn th́ phước
đức thiện căn ấy sẽ bị hao tổn.
Nếu là kẻ không có phước đức thiện
căn th́ ta đă tăng thêm ác nghiệp giết hại cho
họ. Xưa kia, lúc đức Phật tại thế,
một bà góa nhân giỗ đầu của chồng đi
mua thịt về cúng. Trên đường đi gặp
Như Lai, Như Lai dạy: “Thịt này là do chồng bà
chuyển biến thành. Há nên dùng thịt của chồng
để cúng giỗ hồn chồng?” Theo lẽ đó mà
suy th́ kính trời đất, tế quỷ thần cũng
chớ nên dùng thịt. Thiên địa quỷ thần
lẽ đâu chẳng hiểu sâu xa nhân quả, lại tham
thứ thịt bẩn thỉu, tanh tưởi ấy mà
đến chứng giám, hưởng nhận ư? Do
vậy kẻ dùng huyết nhục để cúng tế
muốn cầu phước, đâm ra lại mắc
họa!
4)
Hết thảy chúng sanh đều là chư Phật trong
vị lai. Bởi lẽ, hết thảy chúng sanh
đều có Phật tánh, đều sẽ làm Phật. V́
thế, họ là vị lai chư Phật. Hơn nữa,
trong loài súc sanh đôi khi có Phật hay Bồ Tát hóa hiện
trong ấy nhằm tạo phương tiện độ sanh
như chuyện Bạc Hà được chép trong Thanh
Lương Chí: Một vị Tăng ở Ngũ Đài
gặp một vị Tăng lạ lùng lấy ra một
bức thư dặn giao cho Bạc Hà, nhưng không nói rơ
địa chỉ. Một hôm [vị Tăng ấy] đi
qua Vệ Huy thấy một lũ trẻ nhỏ hô “Bạc
Hà”, vị Tăng hỏi: “Bạc Hà ở đâu?” Bọn
trẻ chỉ con lợn đang nằm dưới vách
tường, bảo: “Chẳng phải là nó đó sao?”
Tăng cầm thư gọi “Bạc Hà”, rồi ném thư
cho lợn. Con lợn đứng lên như người,
dùng hai chân trước nhận lấy, bỏ thư vào
miệng rồi chết đứng. Khi ấy mới
biết con lợn ấy chính là do Bồ Tát biến
hiện.
Gă đồ tể
[chủ nhân của Bạc Hà] giết lợn rất
nhiều. Nếu đem con lợn sắp bị giết
đến trước mặt Bạc Hà th́ nó liền để
mặc cho giết, trọn chẳng chạy trốn, kêu
gào. V́ thế, gă đồ tể yêu mến Bạc Hà,
mỗi lần muốn giết lợn, cứ dắt
Bạc Hà đi ṿng quanh con lợn ấy th́ cũng
giống như đă giết chết con lợn đó
rồi! V́ thế vẫn nuôi [Bạc Hà] nhiều năm
không giết. Hơn nữa, con lợn ấy sạch
sẽ, thích ăn bạc hà nên đặt tên như vậy.
Thoạt đầu, vị Tăng ấy nhận lá thư
của vị Tăng lạ lùng rồi ra đi, giữa
đường suy nghĩ: “Thư này sẽ giao đến
nơi đâu?” bèn lén bóc ra, thấy đại ư viết: “Độ chúng sanh nếu
[họ đă] được độ thoát th́ hăy mau quay
về để lâu ngày khỏi bị
mê mất”. Vị Tăng lấy làm lạ, dán phong
thư lại. Đến nay mới biết Bạc Hà chính
là đại Bồ Tát vậy. Đi quanh con lợn một
ṿng th́ bầy lợn liền chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Oai đức thần lực ấy há nghĩ bàn
được chăng?
Thêm nữa,
Đường Văn Tông (809-840) thích ăn nghêu, một
bữa nọ có con nghêu ngậm chặt vỏ không tách ra
được. Vua liền đích thân tách ra, thấy bên
trong có tượng Quán Âm Đại Sĩ bằng thịt
ṣ, trang nghiêm dị thường, Do vậy, có thể
biết là có c̣n nên ăn thịt hay không? Nếu ăn
lầm phải thân Phật, Bồ Tát hóa hiện th́ tội
lỗi ấy sẽ chẳng thể nào kể xiết!
Nếu chúng ta biết được lư này sẽ tự
chẳng dám ăn thịt mà cũng chẳng nỡ ăn
thịt.
Chúng ta hăy nên thật v́
sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu tŕ
danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, chẳng
cần phải tu pháp nào khác nữa! Nếu cậy vào
tự lực để tu Thiền Định ḥng liễu
sanh tử sẽ rất ư là khó! Do pháp ấy cần
phải đạt đến mức nghiệp tận t́nh
không, đoạn sạch Kiến Hoặc, Tư Hoặc
mới thoát khỏi sanh tử. Lúc đức Phật tại
thế, chẳng thiếu người đoạn sạch
được Kiến Hoặc, Tư Hoặc chẳng c̣n
sót; trong thời đại Mạt Pháp, căn tánh kém hèn,
thật chẳng dễ có bậc đoạn Hoặc
chứng Chân! Chỉ có một môn Tịnh Độ là có
thể vào lúc lâm chung cậy vào Phật từ lực văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức
là đă liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh
rồi!
Hơn nữa, chớ
nên coi pháp môn Tịnh Độ quá nhẹ v́ hàng Pháp Thân
đại sĩ như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ
Hiền v.v… đều chẳng thể vượt ra ngoài
pháp môn này được! Mà cũng chớ nên nghĩ là quá
khó, bởi lẽ hễ ai có tâm đều có thể thành
Phật. Chỉ tŕ vạn đức hồng danh của A
Di Đà Phật th́ như đă được trao bằng
khoán văng sanh. Kẻ tu Tịnh Độ hăy nên hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp, ba
điều nơi thân, bốn điều nơi miệng,
ba điều nơi ư đều tốt lành. Đấy là
chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật.
Kế đó, thọ tŕ Tam Quy, trọn đủ Ngũ
Giới, chẳng phạm oai nghi. Tiếp đến là tin
sâu nhân quả, phát Bồ Đề tâm, đọc tụng
Đại Thừa, khuyến tấn hành giả, nhưng
đều phải lấy điều thiện thế gian
như hiếu dưỡng cha mẹ v.v… làm căn bản.
Nếu y theo các pháp môn
khác th́ đều phải cậy vào tự lực, giống
như vượt qua biển cả, hễ kẻ nào có cánh
th́ sẽ có thể bay vượt qua, chứ kẻ chỉ
nổi được th́ chưa đủ để trông
cậy, huống hồ kẻ chẳng thể nổi
được ư? Cậy vào Phật lực giống
như ngồi thuyền vượt biển, trong khoảnh
khắc liền đến bờ kia. Lại như thân
phận thường dân muốn được quư
hiển, thật chẳng phải là chuyện dễ!
Nhưng vương tử vừa mới sanh ra đă là
người nối ngôi vua! Tự lực, tha lực, khó -
dễ, được - mất trong đấy chẳng
thể nào cùng một lúc nói cho xiết được!
Thường thấy kẻ tự xưng là thông Tông thông Giáo
chẳng tin vào pháp môn Tịnh Độ, lại c̣n cho
đấy là hạnh dành cho bọn ngu phu ngu phụ hành tŕ,
sao chẳng nh́n vào chuyện đă xảy ra cho Đại
Trí luật sư, Ngũ Tổ Giới, Thảo
Đường Thanh vậy?
Đại Trí luật
sư thoạt đầu rất miệt thị Tịnh
Độ, sau đọc Tục Cao Tăng Truyện,
thấy pháp sư Huệ Bố nói: “Cơi ấy tuy tịnh, nhưng ta chẳng muốn.
Giả sử trong mười hai đại kiếp
sống trong hoa sen, hưởng các khoái lạc, sao bằng
ta ở trong đời ác Ngũ Trược giáo hóa chúng
sanh ư?” liền sanh phỉ báng. Về sau do bị
bệnh nặng, mới biết ḿnh trọn chẳng có
mảy may bản lănh ǵ để trông cậy, liền phát
nguyện đến hết báo thân này hoằng dương
Tịnh Độ. Suốt hai mươi mấy năm, tay
chẳng rời kinh Phật, lấy Tịnh Độ làm
chỗ nương tựa, quy hướng. Thiền sư
Ngũ Tổ Giới, thiền sư Thảo Đường
Thanh công hạnh cao cả vượt trỗi những
kẻ tầm thường, chỉ v́ chưa thể
đoạn sạch Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nên
vẫn phải luân chuyển trong nhân gian. V́ thế biết
liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh mà bỏ
Tịnh Độ th́ không có kế sách tốt đẹp
nào cả!
Pháp môn Niệm Phật
cần phải đầy đủ Tín - Nguyện -
Hạnh. Tín đă sâu, ắt sẽ phát nguyện thiết
tha. Nguyện đă phát thiết tha, ắt sẽ dốc
sức hành tŕ. Chỉ niệm Di Đà chẳng cần kèm
thêm pháp nào khác nữa. Hăy nên dùng ḷng tin chân thật,
nguyện thiết tha, chấp tŕ danh hiệu Phật,
nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối, tâm niệm tai nghe, từng câu từng chữ phân
minh. Niệm cho phân minh, nghe cho phân minh sẽ là chánh nhân văng
sanh. Đă dùng pháp này để tự hành, ắt lại
phải đem pháp này dạy bảo người khác th́ công
đức giáo hóa ấy sẽ quy về chính ḿnh. Quả
thật là tư lương văng sanh tối thắng!
Nhưng trước hết hăy nên khuyên cha mẹ, anh em, vợ con trong nhà chính ḿnh, lấy thân làm gốc, từ thân đến sơ. Thêm nữa, nhờ vào công đức niệm Phật, không những có thể văng sanh Tây Phương mà c̣n có thể tiêu trừ những tai họa lạ lùng, ngang trái. Phàm bệnh tật do oán nghiệp chẳng thể chữa trị được mà nếu chí thành niệm Phật th́ lâu ngày sẽ đều được khỏi bệnh. Bởi lẽ, thầy thuốc chỉ trị được bệnh, chứ không thể trị được nghiệp. Chỉ có niệm Phật là trị được thân bệnh lẫn tâm bệnh, không có ǵ chẳng trị được! Cúi mong các vị cư sĩ đều nên phát tâm Bồ Đề, đề xướng nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật, ấy gọi là “dùng quả địa giác làm nhân địa tâm” cho nên được “nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân”, thật đáng gọi là pháp hy hữu rất khó có vậy! (Tháng Bảy năm Bính Dần - 1926)
6. Pháp
ngữ khai thị tại Thế Giới Phật Giáo Cư
Sĩ Lâm
(Hiển Ấm bút kư)
Vấn
đề quan trọng nhất trong Phật pháp chính là liễu
sanh tử. Nếu luận về đại sự liễu
sanh tử ấy th́ rất khó khăn. Bọn phàm phu chúng ta
căn cơ kém cỏi, hiểu biết nông cạn; đă
thế, trong đời ác Ngũ Trược tà sư
ngoại đạo thật đông! Muốn liễu thoát
sanh tử, rốt cuộc phải như thế nào mới
liễu thoát được? Chỉ có pháp môn Niệm
Phật, dùng ḷng tin chân thành, nguyện thiết tha, tinh
tấn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ [th́
mới liễu thoát được]. Trong Phật pháp có
nhiều phương tiện, tham Tông học Giáo
đều có thể liễu thoát sanh tử, cớ sao
cứ phải nhất định niệm Phật vậy?
Ấy là v́ tham Tông nghiên Giáo đều phải cốt sao
đạt đến mức cùng cực, nếu như
thật sự tu chứng được th́ mới có hy
vọng. Đấy chính là hoàn toàn cậy vào tự lực,
há nói dễ dàng ư?
Niệm Phật là
nương tựa vào Phật lực gia bị, tức là
kiêm cậy vào Phật lực, tự nhiên chắc chắn
có chỗ nắm vững được! Ví như
vượt biển, cậy vào tự lực sẽ
giống như bay vượt qua biển, c̣n cậy vào Phật
lực như ngồi thuyền Từ. Bay vượt qua
biển khó thể chẳng lo bị rơi xuống;
ngồi thuyền Từ chắc chắn có bữa
đến được bờ kia. Sự khó - dễ, an -
nguy trong ấy chắc mọi người đều
đă phân biệt đến nơi đến chốn
rồi! Nói chung, cậy vào tự lực để tham
Thiền ngộ đạo liễu sanh tử, nhưng
chưa về đến nhà (chưa chứng đến
mức rốt ráo) th́ thường là chẳng dễ dàng
thực hiện được! Niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ chỉ cần tín nguyện chân
thiết hành tŕ kiên cố sẽ có công năng liễu thoát.
Nếu luận về
sự khó - dễ giữa tự lực và tha lực
cũng như [sự khó - dễ] giữa Thiền và
Tịnh th́ nói rơ ràng nhất, minh bạch nhất không chi bằng
Tứ Liệu Giản của Vĩnh Minh Diên Thọ
đại sư. Chiếu theo Tứ Liệu Giản
để nói th́ người chẳng thông Tông thông giáo
cố nhiên phải nên niệm Phật, nhưng kẻ thông
Tông thông Giáo lại càng phải niệm Phật. Tuy thông
nhưng chưa chứng nói chung đều phải niệm
Phật để liễu sanh thoát tử th́ mới đúng
đạo lư. Vĩnh Minh đại sư chính là A Di Đà
Phật hóa thân, đại từ, đại bi khai hóa chúng
sanh. Tứ Liệu Giản như sau:
Có Thiền có Tịnh Độ,
Ví như cọp đội
sừng,
Đời này làm thầy
người,
Đời sau làm Phật,
Tổ.
Không Thiền, có Tịnh
Độ,
Vạn tu, vạn người về,
Chỉ được thấy
Di Đà,
Lo chi không khai ngộ.
Có Thiền, không Tịnh
Độ,
Mười kẻ, chín chần
chừ,
Ấm cảnh nếu hiện
tiền,
Chớp mắt đi theo nó.
Không Thiền, không Tịnh
Độ,
Giường sắt với
cột đồng,
Vạn kiếp lẫn ngàn
đời,
Không có người nương
tựa.
Bài
kệ Tứ Liệu Giản gồm mười sáu câu trên
đây đúng là thuyền Từ, mong mọi người
hăy nên chú ư! Muốn hiểu rơ ư nghĩa của bài Tứ
Liệu Giản này th́ trước hết cần phải
hiểu rơ ràng thế nào gọi là Thiền, thế nào
gọi là Tịnh, thế nào gọi là Có, thế nào gọi
là Không. Đă thấy rơ được ư nghĩa của
bốn chữ “Thiền,
Tịnh, Có, Không” này rồi th́ mới hiểu rơ
được ư nghĩa của Tứ Liệu Giản. Do
vậy, tôi đem ư nghĩa của “Thiền, Tịnh, Có, Không” quyết trạch
đại lược như sau:
Nói tới Thiền
chính là “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”,
hoặc như trong Giáo gọi là “đại khai viên
giải, triệt chứng bản giác lư thể của
nhất niệm linh tri”. Do vậy, phải đích thân thấy
được bản lai diện mục th́ mới
được kể là “có
Thiền”. Nếu không, chẳng thể coi là Có! Nói
đến Tịnh th́ là pháp môn “tín sâu, nguyện thiết,
cầu sanh Tịnh Độ” như đă dạy trong ba
kinh Tịnh Độ. Tự tâm tịnh th́ quốc
độ tịnh, do tự lực cảm nên Phật
lực ứng. Điều cần thiết bậc nhất
là ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, hạnh tinh
tấn dũng mănh. Do vậy, cần phải có ḷng tin
quyết định không nghi. Chí thành khẩn thiết phát
nguyện, lại c̣n hành tŕ nhất định chẳng
thay đổi th́ mới kể là “có Tịnh Độ”. Nếu không, chẳng
thể kể là có [Tịnh Độ] được!
Người đời thường nghĩ ngồi như
đă chết khô, khán chết cứng một câu thoại
đầu là “có Thiền”,
niệm Phật sơ sài, loáng thoáng vài câu bèn kể là “có Tịnh Độ”. Ấy
chính là lầm lẫn lớn lao lắm đấy!
Nói chung, “có Thiền” chính là có công phu
minh tâm kiến tánh. “Có Tịnh
Độ” là Niệm Phật đến mức chắc
chắn được văng sanh. Đấy chính là
đạo lư khẩn yếu nhất! Nhưng minh tâm
kiến tánh chỉ là khai ngộ chứ vẫn chưa
chứng, trọn chẳng thể liễu sanh tử. “Hễ ngộ được th́
không c̣n sanh tử” chẳng phải là lời lẽ
của người đă chứng nhập! Hăy nên biết
rằng: Ngộ là mở mắt, ngộ rồi mới có
đường lối để chân tu thực chứng.
Kẻ chưa ngộ chẳng khỏi tu mù, luyện
đui, sụp hầm, sa hố! Do bởi lẽ ấy,
trước hết cần phải khai ngộ. Đấy
chính là công phu ban đầu. Nếu bàn đến chuyện
“muốn về được đến nhà” th́ chính là
dốc sức tiến bước để làm chuyện
“đang cháy lại đổ thêm dầu” hay chăng?
Câu thứ nhất trong
Tứ Liệu Giản “Có
Thiền, có Tịnh Độ” nghĩa là đă có công phu
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh.
Lại c̣n có ḷng tin chân thật, phát nguyện cầu sanh Tây
Phương. Đại triệt đại ngộ
giống như mănh hổ, lại có bản lănh niệm
Phật để liễu sanh tử th́ há chẳng phải
là như cọp mọc sừng ư? Do vậy, nói: “Ví như cọp đội
sừng”. Dùng sở ngộ và sở hạnh của chính
ḿnh để giáo hóa chúng sanh. Kẻ nên dùng Thiền cơ
để độ bèn giảng Thiền. Kẻ nên dùng
Tịnh tông để độ được bèn
giảng Tịnh. Nên dùng Thiền Tịnh Song Tu để
độ bèn dùng pháp môn Thiền Tịnh để hóa
độ. Do vậy lời lẽ chẳng phí uổng,
không căn cơ nào chẳng nhiếp, mở mắt cho
chúng sanh, làm bậc thầy khuôn mẫu cho trời
người, nên nói là: “Hiện
đời làm thầy người”. Bởi lẽ,
người minh tâm kiến tánh niệm Phật cầu sanh
sẽ thấy thấu triệt tự tánh Di Đà,
quyết chứng được duy tâm Tịnh Độ,
khi lâm chung sẽ Thượng Phẩm Thượng Sanh.
Trong khoảng khảy ngón tay, hoa nở thấy Phật,
liền chứng được địa vị Sơ
Trụ trong Viên giáo, phân thân làm Phật trong một trăm
thế giới, tùy loại ứng hiện hóa độ
chúng sanh. Đấy gọi là chân tinh tấn, đấy
gọi là đại trượng phu, tương lai làm
Phật, làm Tổ, chân ngữ, thật ngữ!
Ngưỡng mong đại chúng hăy tin tưởng chắc
thật!
Bài
kệ Liệu Giản thứ hai nói tới kẻ chưa từng
đại triệt đại ngộ, cậy vào sức
của chính ḿnh quyết khó mong liễu sanh tử! Do
vậy, phát nguyện cầu Phật tiếp dẫn, tu hành
pháp môn Tịnh Độ nên nói: “Không
Thiền, có Tịnh Độ”. Chỉ cần tin
tưởng sâu xa, chỉ cần phát nguyện, chỉ
cần niệm Phật th́ bất luận là ai đều
có thể văng sanh. V́ thế nói: “Vạn
tu, vạn người về”. Nếu có ai chẳng thông
hiểu đạo lư, niệm Phật chỉ cầu phú
quư, cầu sanh lên trời th́ những người như
thế chẳng thể kể là “có
Tịnh Độ”. Chẳng được sanh về
Tây Phương th́ chỉ trách chính ḿnh chẳng phát
nguyện, chẳng thể trách móc từ phụ Di Đà
không đến tiếp dẫn! Nếu có thể phát
nguyện cầu sanh th́ nói chung sẽ được văng
sanh. Đă được văng sanh, đích thân thấy
Phật Di Đà, nghe giảng diệu pháp, tức thời
khai ngộ. Trong một đời liền chứng A
Bệ Bạt Trí, địa vị Bất Thoái Chuyển.
V́ thế nói: “Chỉ
được thấy Di Đà, lo chi không khai ngộ”.
Nh́n từ đây, pháp môn Tịnh Độ quả thật
là không một điều tốt đẹp nào chẳng có!
Bài
kệ Liệu Giản thứ ba nói tới những kẻ
tuy có thể đại triệt đại ngộ,
nhưng nếu chẳng phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ, do v́ chưa về đến nhà sẽ chẳng
hưởng sự an thân lập mạng được,
nên nói: “Hữu Thiền, vô
Tịnh Độ, thập nhân cửu tha lộ” (Có
Thiền, không Tịnh Độ, mười kẻ, chín
chần chừ). Nói: “Thập
nhân, cửu tha lộ” (Mười kẻ, hết chín
kẻ chần chừ trên đường) nghĩa là “tuy có thể khai ngộ” nhưng chưa
nhất định chứng đến nơi đến
chốn, v́ thế nói là “tha
lộ” (chần chừ trên đường). Có kẻ
[chép câu Liệu Giản này thành] “thập
nhân cửu thác lộ” (mười người chín
lầm đường) th́ hai chữ “thác lộ” là sai! Há có bậc Thiền gia
đại triệt đại ngộ nào lại là kẻ
lầm đường ư? Bậc đại triệt
đại ngộ chưa thật sự đạt
đến địa vị an thân lập mạng nên
sợ rằng khi phải qua cửa ải sanh tử
chưa chắc đă có thể đích xác làm chủ
được. Khi lâm chung sẽ theo nghiệp lưu
chuyển, bị các nghiệp thiện hay ác trong nhiều
đời ngăn lấp mà thọ sanh, đáng kinh sợ,
đáng sợ hăi thay! Thật chẳng bằng cầu
Phật tiếp dẫn là ổn thỏa, thích đáng
nhất, đáng nương tựa nhất. V́ thế nói: “Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp
mắt đi theo nó”. “Ấm cảnh” ở đây chỉ
cho nghiệp cảnh thiện ác từ vô thủy
đến nay, chứ không phải là Ngũ Ấm Ma
Cảnh. Há bậc Thiền gia đại triệt
đại ngộ lại chẳng nhận biết Ngũ
Ấm Ma hay sao? Có lẽ ấy hay chăng?
Bài
kệ thứ tư: “Không
Thiền, không Tịnh Độ” là nói đến
những kẻ chẳng biết tu tâm. Đă không có công phu
minh tâm kiến tánh, lại chẳng hành tŕ phát nguyện
niệm Phật th́ đúng là nguy lắm. Đấy chính là
những kẻ tu tâm nhưng chưa khai ngộ, nói chung là
hạng tu mù luyện đui, chẳng thể giải thoát.
Tuy nhiên, hễ tu th́ có phước báo, không ǵ chẳng
phải là nghiệp nhân sanh tử. Phước báo lớn,
tạo nghiệp càng sâu. Phước hết, họa
tới, tội báo khó trốn khỏi được!
Nỗi khổ trong địa ngục há thể nào may
mắn tránh khỏi được ư? Sanh tử luân
hồi nương tựa vào ai? Do vậy đọc xong
bốn bài kệ Liệu Giản này đúng là “mắt ngó
tới, ḷng kinh hăi”. Mong mọi người đều
biết nỗi khổ sanh tử, phát Bồ Đề tâm.
Kẻ không có Tịnh Độ hăy mau mau phát nguyện tu
hành, biến thành “có Tịnh Độ”. Kẻ có Tịnh
Độ vẫn phải tinh tấn dũng mănh, lấy
quyết định sanh về Tây Phương làm
điều kỳ vọng. Khẩn yếu lắm
đấy!
Mọi người
phải hiểu rằng cậy vào tự lực để
tu tŕ th́ chính ḿnh sẽ có những loại lực nào?
Chỉ là nghiệp lực từ vô thủy đến nay!
Do vậy muôn kiếp ngàn đời khó được
giải thoát! Cậy vào hoằng thệ đại
nguyện lực của A Di Đà Phật sẽ tự
nhiên hoàn thành chỉ trong một đời. Thân
người khó được, Phật pháp khó nghe. Đă
đến núi báu, đừng trở về tay không! Lại
phải nên biết rằng pháp môn Niệm Phật chẳng
phải là chuyên dành cho hạng hạ căn mà chính là thích
hợp khắp cả ba căn. Bất luận lợi
căn, độn căn, thượng trí, hạ ngu, cho
đến Đẳng Giác Bồ Tát đều
hướng đến pháp môn này th́ sau này mới có thể
thành Phật. Do vậy, trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài
đồng tử tham học với khắp các bậc
đại thiện tri thức, chứng nhập các môn
Đà La Ni trong pháp giới hải hội. Cuối cùng,
Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại
nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Nh́n
từ chỗ này, pháp môn Tịnh Độ đúng là pháp môn
cao thượng nhất, viên măn nhất. Nếu báng bổ
là hạnh của bọn ngu phu ngu phụ th́ đúng là báng
Phật, báng Pháp, là chủng tử địa ngục!
Kẻ chẳng tin Tịnh Độ ngu cuồng
đọa lạc, là kẻ đáng thương tột
bậc!
Sở dĩ pháp môn
Tịnh Độ cao thượng như thế là v́
những giáo lư tu tâm thông thường hoàn toàn cậy vào
tự lực, chỉ có Tịnh Độ là kiêm cậy vào
Phật lực, là giáo lư đặc biệt, chẳng
phải là giáo lư phổ thông. Dùng tầm mắt phổ thông
để nh́n giáo lư đặc biệt, tự nhiên sẽ
thấy chẳng thỏa đáng! Giáo lư phổ thông cậy
vào tự lực giống như tiến thân trên
đường công danh, phải lên cao từng bước.
Tịnh Độ là giáo lư đặc biệt cậy vào
Phật lực, ví như sanh trong cung vua, vừa lọt ḷng
mẹ liền là người nối ngôi vua. Sự khó -
dễ, cong - thẳng, chẳng cần phải là
người trí mới biết được! Tịnh
Độ đạo tuy cao quư, nhưng pháp chẳng có
lạ lùng, đặc biệt ǵ, chỉ cần tâm
thiết tha cầu Phật, tự nhiên sẽ được
Phật gia bị. Hăy nên biết rằng: Phật nghĩ
nhớ, che chở chúng sanh c̣n hơn cha mẹ yêu con. Do
vậy hễ có cảm ắt có ứng. Nhưng Phật
tánh thiên chân sẵn có của chúng ta chiếu trời soi
đất, hằng cổ, hằng kim, dẫu là kẻ
Ngũ Nghịch, Thập Ác, linh quang sẵn có của
hắn ta vẫn chẳng giảm một mảy may nào!
Nhưng như gương sáng bị bụi phủ, kẻ
ngu cho là chẳng có quang minh, trọn chẳng biết lau
chùi để trừ trần cấu th́ quang minh lại
hiển hiện rành rành.
Do vậy, niệm A Di
Đà Phật tức là dùng Phật niệm để thay
cho vọng niệm. Đấy chính là phương pháp
khử trần cấu tốt nhất. Niệm tới
niệm lui không ǵ chẳng nhằm hiển lộ A Di Đà
Phật sẵn có trong tự tâm. Tự lẫn tha
tương ứng, cảm ứng đạo giao, diệu
nghĩa văng sanh không thể nói xuể! Người niệm
Phật chỉ cần chí thành khẩn thiết, tâm
giống như tâm Phật, hành hạnh giống như
hạnh Phật, có một phần cung kính được
một phần lợi ích, có một phần kiền thành
được một phần thụ dụng. Mong mọi
người hăy nỗ lực!
Hiện thời
thế đạo ngày một suy, nhân tâm ngày một
hoại, muốn bổ cứu từ căn bản th́
phải chú trọng nơi giáo dục trong gia đ́nh.
Trị quốc, b́nh thiên hạ, phải bắt đầu
từ tề gia. Do vậy, quyền lực “trị
quốc, b́nh thiên hạ” phụ nữ chiếm quá nửa.
Phụ nữ chú trọng nơi mẫu giáo (sự dạy
dỗ của mẹ), mẹ dạy con noi theo quy củ,
tập quen từ thuở bé, lớn lên sẽ thực
hiện. Nhân cách tốt đẹp phải được
bắt nguồn từ tuổi măng sữa. V́ thế,
chức trách, nhiệm vụ “giúp chồng dạy con”
của phụ nữ lớn lắm.
Những vị nữ
cư sĩ phải biết phụ nữ được
gọi là Thái Thái là v́ vào buổi đầu khai quốc
của nhà Châu, Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự
đều hiền đức tột bậc, là bậc
mẫu nghi của thiên hạ. Do vậy, gọi phụ
nữ là Thái Thái. Các vị nữ cư sĩ hăy nên biết
danh xưng Thái Thái đáng tôn, đáng quư, ai nấy tận
hết chức trách bổn phận giúp chồng dạy con
để làm cơ bản trị quốc b́nh thiên hạ,
ngơ hầu danh xứng với thực. Nói đến
chỗ cùng cực của tu tâm th́ vẫn là hai câu: “Đừng làm các điều ác,
vâng làm các điều lành”. Hai câu ấy đứa
trẻ lên ba cũng nói được, nhưng ông lăo tám
mươi làm không xong! Người rốt ráo làm
được hai câu ấy đă ở vào địa
vị chư Phật. Do vậy, mong hết thảy
những thiện nam tín nữ tu tâm hăy hết sức chú ư.
Ngàn lời vạn lẽ nói chung là “phải tu tâm để
liễu sanh tử!” Nếu luận tới chỗ mấu
chốt khẩn yếu nhất của tu tâm để
liễu sanh tử th́ là “đừng
làm các điều ác, vâng hành các điều lành, phát
nguyện niệm Phật”. Mong mọi người ghi
nhớ mấy ư nghĩa này cẩn thận, chắc
chắn sẽ tự nhiên giải quyết xong sanh tử,
chứng Phật đạo. Xin hăy gắng lên!
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên,
Quyển 4
Phần 1 hết
[1] Nguyên văn “khâm
ảnh vô tàm”. Đây là một thành ngữ xuất phát
từ một câu nói thuộc phần Lưu Tử trong
quyển 2 sách Lưu Thư: “Độc
lập bất tàm ảnh, độc tẩm bất quư khâm”
(Đứng một ḿnh chẳng thẹn với bóng,
ngủ một ḿnh chẳng thẹn với áo). Câu này ca
ngợi con người quang minh lỗi lạc, dẫu trong
những lúc chỉ có một ḿnh vẫn không làm điều
ǵ đáng thẹn với lương tâm.
[2] Thiên quyến: Quyến thuộc cơi
trời, tức chư thiên.
[3] Nguyên văn “như
lâm sư bảo” (như đến trước các quan
dạy dỗ, cố vấn của nhà vua). “Sư bảo”
(師保) là từ ngữ phiếm chỉ các quan
đại thần giữ nhiệm vụ dạy dỗ
hoàng tộc, cố vấn nhà vua như Thái Sư, Thái
Bảo, Thiếu Sư, Thiếu Bảo v.v… Về sau,
từ ngữ “sư bảo” cũng thường
được dùng để chỉ thầy dạy
học.
[4] “Tân truyền” là cách nói gọn của
chữ “tân tận hỏa truyền” (củi hết
nhưng lửa c̣n) thường được để
chỉ đạo lư, học thuyết được
truyền thừa chân thực giữa thầy và tṛ như củi
đốt hết lớp này sang lớp khác, ngọn
lửa vẫn c̣n măi.
[5] Theo Câu Xá Tụng Sớ, quyển 1 cũng như Tông Kính Lục quyển 26, Thuyên (詮) có nghĩa là rơ ràng. Những lời lẽ giảng giải chân lư rơ ràng rành mạch được gọi là “chân thuyên”.
[6] Câu nói này được trích từ thiên
Tận Tâm hạ của sách Mạnh Tử. Chúng tôi dịch
câu nói này theo cách giải thích trong sách Tứ Thư Bạch
Thoại Chú Giải của Thường Nhiệt Châu và Lân
Công Chấn (Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội xuất
bản tại Đài Loan năm 2003)
[7] Trong thiên Nguyệt Lệnh sách Lễ Kư
có chép: “Quư Xuân, tiên lôi tam
nhật, tù nhân dĩ mộc đạc tuần vu
đạo lộ, viết: - Lôi
tương phát thanh, hữu bất giới kỳ dung
chỉ giả, sanh tử bất bị, tất hữu hung
tai” (Cuối Xuân, trước khi sấm động ba
ngày, viên quan truyền lệnh liền khua linh gỗ, đi
khắp các nẻo đường truyền lệnh: ‘Sắp có sấm động,
kẻ nào chẳng kiêng ăn nằm th́ sanh con chẳng toàn
vẹn, ắt sẽ bị tai nạn hung hiểm’).
[8] Dương Phục Trai là tên thư pḥng
của Giang Dịch Viên.
[9]
Thoạt đầu, Nhụ
Nhân (孺人)
là danh xưng để
gọi vợ các quan đại phu (thiên Khúc Lễ sách
Lễ Kư ghi: “Phi tần của
thiên tử gọi là Hậu, vợ của chư hầu
gọi là Phu Nhân, vợ của đại phu gọi là
Nhụ Nhân. Vợ của quan lại cấp nhỏ gọi
là Phụ Nhân, vợ của dân thường gọi là Thê”).
Thời Đường, danh từ này chỉ dành riêng
để gọi vợ các vị có tước
vương, đến đời Tống lại dùng
để gọi chung mẹ hoặc vợ các quan.
Đến thời Thanh, chỉ vợ hoặc mẹ các
quan từ thất phẩm trở lên mới được
gọi là Nhụ Nhân. Tuy vậy đến cuối
đời Thanh, Nhụ Nhân thường được
dùng như một mỹ từ để gọi vợ
của người khác trong văn chương.
[10] Đây là cuốn sách tập hợp
những bài tỏ ḷng thương tiếc, ca ngợi
phẩm hạnh của bà Vương Trí Duệ. Bà này
họ Vương, chồng họ Mạc, pháp danh Trí
Duệ nên thường được gọi kèm cả
họ chồng là Mạc Vương Trí Duệ.
[11] Khi thần thức nhập thai, dễ
bị Ngũ Ấm che lấp chân tánh nếu tâm chưa hoàn
toàn đoạn sạch Kiến Hoặc và Tư Hoặc,
đó gọi là Thai Ấm. Điều này c̣n
được diễn tả bằng một từ
ngữ khác là “cách ấm chi mê”.
[12] Liệu Giản, đôi khi c̣n được gọi bằng những thuật ngữ khác như Liễu Giản, Lượng Giản, Liệu Kiến hoặc Lượng Kiến, đều cùng hàm nghĩa phân biệt, biện định, chọn lựa chánh pháp một cách xác đáng nhất. Tùy theo từng tông phái mà ư nghĩa chữ Liệu Giản được chia chẻ tỉ mỉ hơn như sau:
1) Luận định, xem xét theo đủ mọi quan điểm, dùng phương thức vấn đáp để nghị luận tới chỗ tinh vi chặt chẽ nhất.
2) Riêng trong tông Lâm Tế, Liệu Giản là bốn phương pháp để hướng dẫn người học ngộ nhập Chân Như, tức: “Đoạt người không đoạt cảnh, đoạt cảnh không đoạt người, người lẫn cảnh đều đoạt, người lẫn cảnh đều chẳng đoạt”.
3) Theo Thiên Thai Tông Nhật Bản, Liệu Giản là dùng những phương cách để điều ḥa những điểm mà nếu chỉ nh́n vào mặt văn tự sẽ tưởng lầm là kinh điển mâu thuẫn, chống trái nhau.
4) Lư giải vấn đề một cách dung thông, rộng răi nhất.
[13] Trung Ấm (Antarā-bhava) c̣n dịch là Trung Hữu, Trung Uẩn, Trung Ấm Hữu. Theo Câu Xá Luận quyển 7, Trung Hữu được tính từ sát-na khi cái thân đời trước chết (Tử Hữu) tới sát-na thọ sanh thân sau (Sanh Hữu). Trong khoảng trung gian, sẽ có một cái thân được hóa sanh bởi ư thức (Thức thân) chứ không do tinh huyết tạo thành nên gọi là Sanh Ư Thân hoặc Ư Thành Thân (Manomayakāya). Do được nuôi dưỡng bằng mùi hương, nên c̣n gọi là Thực Hương (Gandharva). Do thân này thường truy t́m chỗ kế tiếp để thọ sanh nên lại gọi là Cầu Sanh (Samhavaisin). Chỉ có Sắc Giới và Dục Giới mới có thân Trung Ấm, người sẽ thọ sanh trong Vô Sắc Giới không có thân này. Tùy theo người ấy sẽ thọ sanh trong đường nào mà h́nh dạng của Trung Ấm sẽ khác biệt. Chẳng hạn như theo kinh Đại Bảo Tích, quyển 56, thân Trung Ấm cơi địa ngục xấu xí, giống như gỗ cháy nham nhở, thân Trung Ấm trong súc sanh có màu khói, thân Trung Ấm trong ngạ quỷ màu như nước, thân Trung Ấm trong Dục Giới lớn bằng đứa bé năm sáu tuổi, nhưng các căn lanh lợi, thân Trung Ấm của bậc Bồ Tát đầy đủ các tướng hảo v.v… Cũng theo Câu Xá Luận, thời hạn tồn tại của thân Trung Ấm không nhất định, nhưng tối đa là bốn mươi chín ngày.
[14] Nhất Hạnh tam-muội là tên gọi
khác của Niệm Phật tam-muội.
[15] Pháp hội Đại Vân Luân là pháp hội tụng kinh Đại Vân Luân Thỉnh Vũ nhằm cầu mưa trong khi pháp hội Nhân Vương Hộ Quốc và Kim Quang Minh tụng Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhă Ba La Mật Kinh và Kim Quang Minh Kinh để cầu an, tiêu tai giải nạn. Đại Vân Luân Thỉnh Vũ Kinh (Mahā-megha-sūtra) do ngài Bất Không dịch vào đời Đường, bao gồm những bài đà-la-ni để cầu mưa. Trong quyển Thượng của kinh này đă kể ra mười thứ mây cúng dường to lớn như biển, lợi ích của mưa và năm mươi bốn danh hiệu Phật, quyển Hạ gồm các bài đại đà-la-ni. Kinh này do đức Phật giảng cho các vị đại tỳ-kheo, đại Bồ Tát, và tám trăm mấy chục vị long vương tại Đại Vân Đạo Tràng Bảo Lâu Các của Ô Ba Nan Đà long vương. Kinh này chính là bản dịch khác của phẩm Đại Vân Kinh Thỉnh Vũ trong kinh Đại Phương Đẳng (do ngài Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy).
[16] Tứ Thiền (Catvāri Dhyānāni): Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, cùng mang chung đặc điểm là ĺa cảm thọ nơi Dục Giới, quán sát Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Bốn loại Thiền này có công năng đối trị các tâm sở như Tầm, Tư v.v… tăng trưởng các pháp lạc như Hỷ, Lạc v.v… Đồng thời là căn bản để phát khởi Tứ Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả), Bát Giải Thoát, Bát Thắng Xứ, Thập Biến Xứ v.v… nên c̣n gọi là Căn Bản Định. Tứ Định chỉ bản thể của các địa vị do Duy Thức Tông đă lập như Noăn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất, tức Minh Đắc Định, Minh Tăng Định, Ấn Thuận Định, Vô Gián Định.
[17] Tức Tứ Quả trong Tiểu
Thừa: Tư Đà Hoàn, Tu Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.
[18] Hữu lậu (Sāsrava). Lậu (Āsrava) có nghĩa là rơi mất, ṛ rỉ, là tên khác của phiền năo. Do có phiền năo nên con người nẩy sanh lầm lỗi, gánh chịu quả khổ, mê muội lầm lạc lưu chuyển không ngừng trong thế giới, nên gọi là Hữu Lậu. Do tu tập Ngũ Giới, Thập Thiện sẽ có phước báo, nếu không có trí huệ hướng dẫn th́ sẽ do phước liền tạo nghiệp, gây nhân sanh tử, khổ năo nặng nề trong đời sau nên gọi là “công đức hữu lậu”.
[19] Tử Xa là một họ cổ của
Trung Hoa, vốn là con cháu của một vị đại
phu đời Tần tên là Tử Xa, con cháu lấy tên
tổ tiên làm họ. Đời Tần Mục Công,
nước Tần có ba vị đại phu nổi
tiếng hiền tài là Tử Xa Trọng Hành, Tử Xa
Yểm Tức và Tử Xa Kiềm Hổ. Khi Tần Mục
Công chết, ba ông này đă bị con Tần Mục Công chôn
sống để bồi táng Tần Mục Công theo di chúc
của vua. Về sau, họ Tử Xa đổi thành họ
Xa.
[20] Liệt Quốc là cách gọi gộp chung của hai thời kỳ lớn trong vương triều nhà Châu, tức Xuân Thu và Chiến Quốc (có thuyết coi Liệt Quốc chỉ là tên gọi khác của thời kỳ Chiến Quốc).
1) Thời kỳ Xuân Thu (770-476 trước Công Nguyên), tên gọi này bắt nguồn từ bộ sử nước Lỗ do Khổng Tử san định với tên gọi là Xuân Thu. Thời kỳ Xuân Thu bắt đầu từ năm Châu B́nh Vương nguyên niên đến năm bốn mươi ba đời Châu Kính Vương. Châu B́nh Vương (Cơ Nghi Cữu) là con của Châu U Vương, mẹ là Thân Hậu (con gái vua nước Thân). Châu U Vương say mê thứ phi Bao Tự, toan truất phế Nghi Cữu để lập con Bao Tự là Bá Phục làm Thái Tử, tống giam mẹ con Nghi Cữu. Nghi Cữu trốn về nước Thân. Vua nước Thân liền liên kết với vua nước Tắng và rợ Khuyển Nhung, đánh bại U Vương, đốt cháy Cảo Kinh. Nghi Cữu lên ngôi, trở thành Châu B́nh Vương. Do quốc khố lẫn kinh đô tan hoang, B́nh Vương phải dời đô sang Lạc Dương. Sử gọi là nhà Đông Châu. Từ đấy, thế lực nhà Châu suy yếu, chư hầu nổi lên lấn quyền, xưng bá, lần lượt có năm chư hầu mạnh nhất (Xuân Thu Ngũ Bá) nối nhau nắm quyền là: Tề Hoàn Công, Tống Tương Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công và Sở Trang Vương (có sách kể Ngũ Bá là Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công, Sở Trang Vương, Ngô Hạp Lư và Việt Câu Tiễn).
2) Thời kỳ Chiến Quốc (476-221 trước Công Nguyên). Do trong thời kỳ này các nước (đặc biệt là bảy nước lớn Tần, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy, Tề, Yên) đánh nhau loạn xà ngầu nên gọi như thế. Thời kỳ này kết thúc khi Tần Thủy Hoàng thôn tính sáu nước kia, diệt các nước nhỏ c̣n sót lại như Châu, Tống, Vệ, Trung Sơn, Lỗ, Đằng, Trâu, Phí v.v.. lập ra đế quốc Đại Tần.
[21] Thiên Tướng Quân là một quan chức đă có từ thời Tam Quốc. Thiên Tướng và Tỳ Tướng là hai chức quan vơ nhỏ nhất, chuyên được sai đi đánh trận, làm tướng tiên phong, hoặc chỉ huy những trận đánh nhỏ. Thiên Tướng cao hơn Tỳ Tướng một trật, nhưng cả hai đều thuộc ngạch Cửu Phẩm.
[22] Xương Môn là tên một cửa thành
của cố đô Cô Tô nước Ngô (nay thuộc Tô Châu).