Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tam Biên,
Quyển 4
Phần 3
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ
Trang
5. Đáp
lời hỏi của Thôi Thụ B́nh cư sĩ
Hỏi: Địa Tạng
Vương Bồ Tát là bậc phụng hành Phật pháp, nhậm
chức U Minh Giáo Chủ[1]
trong chốn Âm Tào, vào trong lục đạo để
độ chúng sanh. Nhưng thường nhân hay tưởng
lầm Ngài là thần kỳ[2]
hoặc là linh quỷ. Những loại quan niệm như vậy
chẳng phải chỉ có một mà thôi. Làm thế nào để
phân biệt vị Bồ Tát phụng hành Phật pháp và thiên
tiên, quỷ thần?
Đáp: Thần kỳ
là do nghiệp báo cảm thành nên có thể bảo là “nhậm
chức”. chứ Địa Tạng Bồ Tát do hoằng thệ
đại nguyện bèn ở trong U Minh độ thoát chúng
sanh, sao lại bảo là Ngài “nhậm chức”? Người
đời chẳng hiểu rơ phàm - thánh, nhất loạt
coi là quỷ thần, cũng không có chi lạ cả! Ví
như đứa bé chỉ biết người trong nhà, hết
thảy những người khác nó đều hoàn toàn chẳng
biết tới, sẽ bảo hết thảy mọi
người đều chẳng tôn quư bằng cha mẹ nó!
Đă biết: Bậc đoạn Hoặc chứng Chân liễu
sanh thoát tử chỉ mới là bậc thánh nhân trong Tiểu
Thừa; c̣n bậc phá vô minh, chứng Pháp Tánh th́ mới
đáng gọi là Đại Thừa Bồ Tát. Nhưng [những
vị nào] chưa đoạn phiền năo, cậy vào phước
lực trong đời trước th́ sẽ làm thần kỳ,
địa vị c̣n kém xa chư thiên, huống là so với
bậc đại Bồ Tát đă chứng Pháp Thân ư? Nếu
chẳng biết Phật pháp th́ có phán định cũng chẳng
hiểu rơ. Nếu đă biết Phật pháp th́ cần ǵ phải
phán định nữa!
Hỏi: Cảm Ứng
Thiên là do ai trước tác? Đối với sách vở của
các tôn giáo khác th́ dùng pháp nào để phân biệt, đoán
định?
Đáp: Bản Cảm Ứng
Thiên thường được lưu hành có ghi hai chữ
Thái Thượng, [là v́ người đời] cho [tác phẩm
này] là do Lăo Tử[3]
viết ra. Cũng có kẻ cho rằng nó vốn là [một
thiên sách trích từ bộ] Băo Phác Tử[4]
rồi được mở rộng ra. Nhưng bất tất
phải xét t́m ai là tác giả? Chỉ cần quan tâm đến
những điều lợi ích do sách ấy đem lại.
Đấy gọi là “chẳng
v́ người mà bỏ lời”[5]
vậy! Tuy thánh nhân lập pháp, nhưng cố nhiên không nhất
định phải coi [toàn bộ] những lời thánh nhân
[đă nói] là khuôn mẫu, chỉ nên quan tâm chọn lấy
những ǵ có ích cho thế đạo nhân tâm. Trùng Văn,
Điểu Thư[6]
là đầu mối mở mang văn tự lớn lao, nào dám
v́ Trùng, Điểu không đáng trọng mà chẳng dùng
đến văn tự ư? Nêu lên một chuyện này th́
sẽ có thể dứt được những lời lẽ
rườm rà vô ích bàn bạc đúng - sai xằng bậy!
Những lời lẽ rườm rà ấy vẫn chẳng
có phong vị thiên nhiên như chim mùa Xuân ríu rít lúc ban ngày,
trùng mùa Thu rền rĩ ban đêm vậy.
Hỏi:
Thế nào là Ngũ Bộ Lục San?
Đáp:
Đấy là sách do ngoại đạo bịa đặt
viết ra, chia thành năm bộ loại, nhưng có sáu cuốn,
nên gọi là Ngũ Bộ Lục San[7].
Loại sách ấy cần ǵ phải hỏi đến? Hỏi
đến th́ sẽ giống như chẳng coi Tứ
Thư Ngũ Kinh là đúng, cứ muốn nghiên cứu những
khúc hát quê mùa do lũ trẻ nít xướng lên ngoài ngơ! Uổng
phí tâm thần, trọn chẳng có ích ǵ!
Hỏi: B́nh (Thôi Thụ
B́nh tự xưng) làm luật sư, thụ lư hồ sơ
vụ án. Do chức vụ, con phải soạn án từ, cố
nhiên vẫn tùy thời chú ư để khỏi gieo nhân ác.
Nhưng để giải oan cho người khác, con thường
gặp những trường hợp có đủ chứng
cớ phạm tội, khi giao cho Đề H́nh[8]
khởi tố, tuy bản án phát xuất từ ư chỉ của
những người được ủy thác [làm nhiệm
vụ xét xử], nhưng do con soạn án từ mà kẻ ấy
bị lănh tội, trong tâm trọn chẳng yên. Những kẻ
nắm giữ luật pháp hiện thời chỉ nói riêng tại
Thượng Hải đă có hơn tám trăm người,
cố nhiên chẳng thiếu những kẻ c̣n giữ
được một ít lương tâm, nhưng có rất
nhiều kẻ tuy chẳng cẩn thận vẫn chẳng
hề bận tâm, thậm chí hèn tệ chẳng thể kham
được! Những người trực tiếp hay
gián tiếp mắc phải họa hại bởi lũ ấy
không thể nào gập ngón tay [để đếm xuể].
Dám xin thầy khai thị, đấy cũng là một đầu
mối để cứu văn ḷng người vậy.
Đáp:
Đối với những chuyện ấy phải thường
xuyên giữ ḷng nghĩ tưởng trời đất, quỷ
thần, Phật, Bồ Tát đều thấy rơ, biết tỏ
cái tâm của ta th́ sẽ tự chẳng đến nỗi
tạo ác nghiệp. Nếu không, vốn nhằm giải quyết
khó khăn, tháo gỡ rắc rối mà lập ra biện
pháp ấy, nhưng thật ra là căn cứ để gạt
gẫm dân lành, ban thưởng khích lệ kẻ gian trá.
Đáng sợ đến cùng cực! Nếu có cách sanh sống
khác, cố nhiên tốt nhất là nên thoát khỏi phạm vi
ấy!
6. Đáp
lời hỏi của Huyễn Tu Học Nhân
Hỏi:
Chuyên tu tŕ danh, nguyện được Niệm Phật
tam-muội, cầu sanh Tịnh Độ th́ dụng công ra
sao?
Đáp: Dùng
tín nguyện sâu để niệm Phật. Niệm Phật
tam-muội cũng chẳng dễ ǵ đạt được,
nhưng phải thường nên phát cái tâm ấy. Đấy
gọi là “noi theo pháp bậc
thượng, chỉ đạt được bậc
trung”.
Hỏi:
Có kẻ nói niệm ra tiếng, tŕ danh theo lối Truy Đảnh[9],
có người bảo niệm Kim Cang tŕ, có người nói
niệm thầm, có người bảo nhớ số, có
người nói “tùy tức” v.v… Muốn đắc nhất
tâm bất loạn th́ có nên chuyên tŕ một pháp hay không?
Đáp:
Truy Đảnh dễ bị bệnh. Niệm lớn tiếng,
nhỏ tiếng, niệm Kim Cang hay thầm niệm, đều
tùy theo tinh thần của chính ḿnh mà điều chỉnh
để dùng. Há nên chấp chết cứng một pháp
đến nỗi bị bệnh ư? Tùy Tức chẳng
bằng Tịnh Thính (lặng lẽ lắng nghe), bởi lẽ
Tùy Tức không khéo th́ cũng bị bệnh, c̣n Tịnh Thính
th́ chẳng bị bệnh!
Hỏi:
Có lúc Kim Cang tŕ, có lúc niệm thầm, có lúc nhớ số,
có lúc niệm theo lối Tùy Tức v.v… chẳng biết [niệm
như vậy] có gây trở ngại cho nhất tâm hay không?
Đáp:
Nhất tâm là do niệm, chứ không phải do âm thanh niệm
Phật, sao lại bảo là trở ngại? Nhớ số
cũng chỉ là nhớ khi động, chứ khi ngồi
tịnh tọa chỉ nên niệm thầm, đừng nên lần
chuỗi. Nếu lần chuỗi ắt bị tổn
thương.
Hỏi:
Hiện thời trong khi tịnh tọa, học nhân niệm
ra tiếng bốn chữ hồng danh, nhiếp tâm niệm
thiết tha, áp dụng phương pháp “tâm - miệng [niệm
Phật] phân minh, rơ ràng để chấp tŕ, dùng tai lắng
nghe”, hơi cảm thấy khinh an (nhẹ nhàng, dễ chịu).
Con muốn tu sao cho đạt đến nhất tâm bất
loạn th́ có thể chuyên hành pháp ấy ḥng đạt
được hay không?
Đáp:
Pháp ấy rất hay! Lúc tịnh tọa nên niệm thầm,
niệm ra tiếng cũng được. Nhất tâm bất
loạn là do tâm chuyên chú và khẩn thiết vậy!
Hỏi:
Trong bộ Văn Sao cao quư của thầy, pháp Tùy Tức
được cực lực đề xướng,
nhưng chưa nói rơ cách niệm như thế nào? [Niệm
Phật Tam Muội] Bảo Vương Luận ghi: “Có thể nương cậy lớn
lao vào pháp này”, nhưng cũng chỉ nói: “Xưng danh hiệu Phật theo hơi thở”, con
vẫn chưa hiểu rơ cách niệm như thế nào? Chỉ
có sách Sức Chung Tân Lương ghi: “Tùy Tức Niệm Phật dùng khi thở ra chứ
không dùng khi hít vào. Cứ mỗi một hơi thở ra là một
câu, hoặc hai chữ đều được” Học
nhân nghi rằng: Khi hít vào chẳng niệm, há chẳng phải
là gián đoạn ư? Con thường thử luyện mỗi
hơi thở ra là một câu, cảm thấy rất phí sức,
mà niệm cũng chẳng rơ ràng cho lắm! Chỉ có khi hít
vào niệm A Di, thở ra niệm Đà Phật th́ đă
không gián đoạn, mà c̣n được rơ ràng, lại chẳng
tốn sức. Chẳng biết cách niệm như vậy
có được hay chăng? Hay là lúc hít vào th́ chẳng
được niệm?
Đáp:
Khi hít vào chẳng niệm, trong khi ấy sao lại nói là
gián đoạn? Thở ra niệm một câu, hít vô bèn chẳng
niệm; chứ khi hít vô lẫn thở ra đều niệm
ắt sẽ bị tổn khí. Nếu chỉ niệm hai chữ
th́ trong một hơi hít vô thở ra niệm một câu Phật
hiệu sẽ chẳng trở ngại chi!
Hỏi: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối”, hành tŕ như thế nào?
Đáp:
Tông chỉ của Niệm Phật là sanh ḷng tin chân thật
(tức Tín), phát nguyện thiết tha (tức Nguyện),
chuyên tŕ Phật hiệu (tức Hạnh). Ba pháp Tín - Nguyện
- Hạnh là tông chỉ của Niệm Phật.
Phương pháp dụng công Niệm Phật hay nhất là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối”. “Nhiếp trọn sáu căn” là
cái tâm niệm Phật chuyên chú nơi danh hiệu Phật, tức
là nhiếp Ư Căn. Miệng phải niệm sao cho rơ ràng
rành rẽ, tức là nhiếp Thiệt Căn. Tai nghe cho rơ
ràng rành rẽ tức là nhiếp Nhĩ Căn. Ba căn ấy
được nhiếp trong Phật hiệu th́ mắt quyết
chẳng thể nh́n ngó loạn xạ. Khi niệm Phật
nên buông rèm mắt xuống, tức là hạ thấp mí mắt
xuống, chớ nên mở banh mắt. Mắt đă nhiếp
rồi th́ mũi cũng chẳng thể ngửi loạn
được, tức là mũi cũng được nhiếp!
Thân phải cung kính tức là thân cũng bị nhiếp. Sáu
căn đă nhiếp, chẳng tán loạn th́ tâm không vọng
niệm, chỉ nghĩ đến Phật; đấy mới
là tịnh niệm.
Hễ sáu căn không nhiếp
th́ tuy niệm Phật trong tâm vẫn có vọng tưởng
tơi bời, khó đạt được lợi ích thật
sự. Nếu có thể nhiếp trọn sáu căn để
niệm th́ gọi là “tịnh
niệm tiếp nối”. Tịnh niệm đă có thể
thường tiếp nối th́ nhất tâm bất loạn
và Niệm Phật tam-muội sẽ đều có thể dần
dần đạt được. Xin chú ư chỉ mong đạt
được “nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” th́ nghiệp sẽ
tiêu, trí sẽ rạng, tâm địa sẽ khai thông, lo ǵ chẳng
hiểu rơ nghĩa kinh nữa! Xin hăy gắng sức!
7. Đáp
lời hỏi của cư sĩ Châu Văn San
Con có những
điều thưa hỏi kể ra như sau, kính xin thầy
chỉ bày. Công đức vô lượng!
1) Lăo pháp
sư niệm Phật phát chí nguyện lớn lao như thế
nào?
Đáp:
Nguyện sanh Tây Phương, thấy Phật, nghe pháp, chứng
Vô Sanh Nhẫn, trở vào Sa Bà phổ độ chúng sanh.
2) Thân
người cầu liễu thoát đến nơi đâu?
Đáp:
Đến Cực Lạc thế giới.
3) Phật
nói: “Chúng sanh đều có trí huệ
của Như Lai” là đă gộp cả Tín - Nguyện -
Hạnh vào trong ấy hay chăng?
Đáp:
Trí huệ của Như Lai không pháp nào chẳng bao gồm,
nói trên phương diện chúng sanh th́ chỉ là Lư Tánh mà
thôi, chớ nên hiểu lầm!
4) Chúng
sanh cơi Sa Bà sanh vọng tưởng th́ là Ngă Kiến hay không
phải Ngă Kiến?
Đáp: Vọng
tưởng bao gồm hết thảy phàm t́nh, Ngă Kiến
là [phàm t́nh] nặng nề nhất.
8. Đáp
lời hỏi của cư sĩ Du Đại Tích
Kính
đem những nghĩa con thường nghi chia thành mười
bốn điều như sau, cúi xin thầy chỉ dạy
uốn nắn.
1) Người
tu hành dứt ác làm lành là chuyện thuộc về bổn phận,
đáng nên gắng công, nhưng có điều ngoài công khóa và
mười hai thời ra, ba tâm quá khứ, hiện tại,
vị lai qua lại loang loáng, nói chung là chưa thể trừ.
Tâm nghiệp chưa trừ cho sạch được th́ có
gây trở ngại cho sự văng sanh hay chăng?
Đáp: Công khóa hăy nên
chuyên, đừng nên xen tạp. Hễ chuyên sẽ dễ
nhiếp tâm, c̣n tạp sẽ khó thể quy nhất
được! Văng sanh là do tín nguyện chân thiết. Nếu
không có ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu cho
tâm thanh tịnh cũng khó được văng sanh. Chớ
nên không biết!
2) Cổ đức
nói: “Ái chẳng nặng chẳng
sanh Sa Bà”. Phải nên trừ ái là lẽ đương
nhiên! Nhưng trong ṿng con cháu, giữa lẽ lợi - hại,
nói chung chẳng thể mặc kệ, quên bẵng t́nh cảm
th́ làm như thế nào để chế ngự được?
Đáp: Yêu thương
con cháu th́ phải yêu thương theo đúng lẽ đạo:
Dạy cho chúng nó đừng làm các điều ác, vâng làm các
điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, tín
nguyện niệm Phật th́ ḷng yêu thương ấy liền
trở thành Trợ Hạnh cho tịnh nghiệp. Đấy
chính là căn cứ lớn lao để ngừa hại
đạt lợi vậy!
3) Tử Bách lăo nhân nói:
“Làm chủ được giấc
mộng th́ khi lâm chung sẽ tự chủ được”.
Như vậy là cảnh trong mộng hết sức quan yếu!
Khi lên giường sắp ngủ, con cũng từng niệm
thầm, nhưng đến khi mộng vẫn là tơi bời
tán loạn, chẳng dính dáng ǵ đến Niệm Phật hết.
Thậm chí có lúc [nằm mộng thấy] ăn mặn, có
khi biết ngay, hoặc chẳng biết liền, thật
đáng hận, đáng thẹn! Con nên dùng cách nào để
văn hồi?
Đáp: Muốn mộng
cảnh tương ứng hăy nên cật lực cầu
tương ứng trong khi ban ngày. Nếu lúc tỉnh thường
tương ứng th́ trong mộng sẽ tự được
tương ứng.
4) Người tu hành có
cảnh giới tốt đẹp th́ hoặc mộng đến
Tây Phương, hoặc gặp mặt Di Đà, hoặc ngửi
thấy mùi hương lạ, hoặc thấy hoa sen. Cư
sĩ Vương Quư Quả ở tỉnh Tương (Hồ
Nam) thường được thấy như thế. Con
niệm Phật suốt mười năm không có tướng
lành nào phát hiện, lỡ lâm chung vẫn như thế th́
có phải sẽ khó đến được Cực Lạc
hay chăng? Rốt cuộc có nên cứ để xuôi theo tự
nhiên, đừng sanh ḷng mong mỏi ǵ hết ư?
Đáp: Chỉ cầu
tâm hợp với Phật, chẳng cần phải dốc
sức để thấy được cảnh giới.
Tâm đă tương ứng với Phật mà có tín nguyện
chân thật sẽ chắc chắn văng sanh. Nếu tâm mong cầu
cảnh giới mà chưa tương ứng th́ hễ có cảnh
hiện ra, có thể sẽ bị ma dựa.
5) Tuổi
tác già suy, chẳng thể thức dậy ngay trong đêm. Con
có nên suốt cả một ngày tận hết tâm lực
để dụng công [tụng niệm, tu tập], đến
chỗ nào cần phải thể hiện ḷng thành kính nhưng
tâm không thấy được th́ lạy nhiều để
biểu lộ. Trong mười đại nguyện
vương, điều đầu tiên là lễ kính, lợi
ích như thế nào?
Đáp:
Tuổi già thân thể vẫn mạnh th́ cố nhiên lễ
nhiều là tốt. Chứ nếu không th́ trong hết thảy
thời, hết thảy chỗ thường giữ ḷng
kiêng nể th́ cũng là ư nghiệp lễ kính!
6) Khi niệm
Phật, ngồi xếp bằng trước tượng
Phật, miệng niệm, tai nghe, tay lần chuỗi, tâm
tưởng Vô Lượng Quang Phật để mong tam mật
tương ứng, nhưng vẫn không thể tránh khỏi
hôn trầm, tán loạn th́ nên thong dong để đợi
khi thuần thục hay là có pháp nào để giúp đạt
được “nhiếp trọn sáu căn” hay chăng?
Đáp:
Ngồi xếp bằng niệm th́ chớ nên lần chuỗi.
Hễ lần chuỗi tâm sẽ khó lắng bặt suy
tư, có thể bị bệnh. Hăy nên dựa theo đồng
hồ để tính số câu niệm, một khắc niệm
được bao nhiêu câu Phật hiệu sẽ giống hệt
như lần chuỗi. “Nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” chính
là pháp chế ngự cái tâm hay nhất.
7) Ưa điều
lành dường như phát xuất từ tánh mà thành. Chỉ
v́ lực bất tùng tâm nên chẳng thể tài thí, cũng không
thể pháp thí được. Chỉ đành hễ gặp
ai th́ đều khuyên bảo niệm Phật, ăn chay.
Cũng như năm năm trước đây, buổi sáng
con tụng công khóa, buổi chiều ra khỏi cửa thu nhặt
giấy có viết chữ bị [người ta] quăng bỏ;
gần đây tinh lực suy nhược hơn, công khóa cũng
tăng, chẳng thể chuyên chú, thành kính đi ra ngoài thâu
nhặt [giấy có viết chữ] được nữa.
Chỉ trong lúc đi đường th́ vẫn chú ư thâu nhặt;
xét ra có trở ngại ǵ cho việc niệm Phật hay
không?
Đáp: Người niệm
Phật nên tu hết thảy thiện hạnh, nhưng cần
phải chia ra thành Chủ - Bạn, Chánh - Trợ. Nếu đảo
lộn vị trí của Chủ và Bạn sẽ được
lợi rất nhỏ. Nếu có thể dùng Bạn để
giúp cho Chủ th́ sẽ như một người khoanh tay,
trăm quan lo liệu việc cai trị, nào c̣n có trở ngại
ǵ để nói nữa đây?
8) Tam phước, tam tâm
trong Quán Kinh phải giữ ǵn cẩn thận, hễ hơi
dễ duôi liền mất ngay, chưa khỏi có chỗ
không thực hiện được! Con thường tự
oán, tự thẹn, do vậy thường niệm Sám Hối
Văn, rốt cuộc có tiêu trừ được tội
khiên hay không?
Đáp: Tiêu trừ tội
khiên chẳng thể nói lơ mơ được. Chẳng
viên thành Phật đạo sẽ chẳng thể nào hết
sạch tội khiên! Chúng ta tiêu trừ được bao
nhiêu chỉ là do ḷng Thành cạn hay sâu mà định.
9) Người già dẫu
khỏe mạnh cũng chẳng đáng tin cậy, phải
chuẩn bị sẵn biện pháp cho cái chết. Con tính không
nhận lễ phúng điếu, lúc liệm hoàn toàn dùng vải,
chỉ mặc một cái áo hải thanh, y năm điều,
ngọa cụ xếp bên cạnh. Nếu dựa theo cấm
chế của Phật th́ những thứ ấy chẳng dùng
để liệm theo, nhưng nay người ta thường
liệm theo [người chết]. Có nên chẳng câu nệ
đội măo Tăng, đi hài Tăng, hết thảy [cỗ
bàn cúng bái] đều dùng món chay, cúng thất, thỉnh
Tăng niệm kinh?
Đáp: Nên lấy những
lời khuyên răn nhắc nhở trong Văn Sao của
Quang để dặn sẵn con cháu, [bảo họ] ắt
phải chiếu theo đó để hành, ngơ hầu ông chẳng
đến nỗi bị con cháu phá hoại chánh niệm.
10) Niệm Phật tự
biết chẳng đắc lực, muốn tăng thêm công
khóa nhưng chỉ v́ không có sức, lại không có thời
gian, nếu cứ để như vậy măi, sợ ít có
cơ hội nắm chắc văng sanh, nhưng chí lại quyết
muốn văng sanh, rốt cuộc con nên dùng cách nào để
có thể muôn phần trông cậy?
Đáp: Được
văng sanh hay không, hoàn toàn do có tín nguyện hay không? Sao lại
nói bừa, tán gẫu, chẳng lấy lời cổ nhân
đă nói để làm kim chỉ nam vậy?
11) Ở nơi đây
hai thứ Long Hoa Giáo[10]
và Tiên Thiên Giáo[11]
rất thịnh hành. Khuyên can, ngăn trở th́ chúng nó cứng
chắc không thể phá, khoe hai giáo ấy cũng sanh về
Tây phương được. Rốt cuộc [tu tập
hai giáo ấy] có thể làm trợ nhân [cho sự nghiệp
văng sanh] hay chăng? Nếu có thể làm như vậy
được th́ con sẽ học theo để “tắt lại
càng thêm tắt!”
Đáp: Ông đă quy y Phật
pháp, tu tŕ Tịnh nghiệp, mà c̣n nghe theo lời ma mị của
ngoại đạo, muốn học theo. Sao chẳng biết
tốt - xấu đến mức như thế?
12) Khi niệm Phật
tâm thường hay tán loạn, có kẻ nói là bị ảnh
hưởng bởi tuổi tác. Nếu như tuổi già
tâm tán loạn, chẳng thể thâu tóm được, th́
người già quyết chẳng thể văng sanh ư? Rốt
cuộc có phải là v́ tuổi tác hay là do công phu chưa
đến mức đúng đắn?
Đáp: Ông không nhất
tâm là do trong tâm không có chánh kiến; do không có chánh kiến nên
không có ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha. Hễ có
tín nguyện chân thật, thiết tha, dẫu chưa thể
nhất tâm vẫn được văng sanh. Nếu không có tín
nguyện chân thật, thiết tha, dù có thể nhất tâm,
cũng khó thể văng sanh bởi văng sanh là do nương vào
Phật lực vậy.
13) Trong số các đạo
hữu ở đây, có một người rất chịu
dụng công, thọ giới, ăn chay trường, chỉ
có điều nhà ông ta giàu nứt đố đổ vách
nhưng đối với chuyện công đức chẳng
chịu bỏ tiền ra, [như vậy th́] có trở ngại
cho sự niệm Phật sanh về Tây phương hay
không?
Đáp: Gă thần giữ
của ấy tâm địa ô trược, hèn tệ, vẫn
muốn cho con cháu phú quư lâu dài. Sợ rằng do cái tâm tham
tài sẽ chuyển thành quả báo sanh trong loài ngạ quỷ
cho nên trong kiếp vị lai hắn mới được thọ
dụng thiện căn niệm Phật.
14) Một người
suốt ngày niệm Phật và cùng với mọi người
niệm Phật nửa ngày th́ so ra lợi ích nào lớn
hơn? (Hội niệm Phật ở nơi đây cứ
vào ngày thứ Tư liền nhóm chúng niệm Phật nửa
ngày).
Đáp: Cùng nhau niệm
Phật là chuyện đề xướng. Tùy phận tùy lực
tu tŕ cố nhiên chẳng ăn nhập ǵ tới niệm
chung với đại chúng hay hành riêng một ḿnh; nhưng
muốn tu hành thật sự hăy nên bớt phô trương ngơ
hầu có lợi ích thật sự.
Mười bốn
điều trên đây phần nhiều là đại bệnh
sát sao của Đại Tích, nên con chẳng ngại mạo
muội thưa hỏi từ nơi xa xăm, thiết tha cầu
xin thầy chia thành từng điều để chỉ dạy.
Thầy liền phê ngay vào lá thư gốc, chẳng khác nào ḷ
rèn nung luyện vậy. Đệ Tử Du Đại Tích dập
đầu lần nữa.
[Sư phê]: Xin hăy đọc kỹ Văn Sao
th́ mọi mối nghi sẽ tự cởi gỡ. Ở
đất Hỗ do lắm việc bận bịu nên tôi chẳng
thể viết cặn kẽ được!
9. Đáp
lời hỏi của cư sĩ Vương Tụng B́nh (lược câu hỏi đi)
1) Tịnh
Độ là “duy tâm sở tạo” (chỉ do tâm tạo) th́
hăy nên nói là “duy tâm”, chẳng nên vừa gọi là Tịnh
Độ, lại vừa gọi là “sở tạo”. Nếu
đă là cơi Tịnh Độ chỉ được tạo
bởi tâm, sao lại chỉ nói là duy tâm, chứ trọn chẳng
có Tịnh Độ nào khác là cảnh ở bên ngoài ư? “Duy
tâm Tịnh Độ” là dùng tâm thanh tịnh niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ. Đến khi lâm chung, sẽ
do tịnh tâm của chính ḿnh mà cảm đức Phật
tiếp dẫn văng sanh Tây Phương. [Chẳng hạn]
như phương này chính là duy tâm Tịnh Độ. Nếu
không có Tịnh Độ th́ chỉ có thể nói là “duy tâm”,
há lẽ nào từ trong Không lại sanh ra Có, có thêm một cái
Tịnh Độ nữa ư? Lại có thêm một cái
được tạo nữa ư? Vốn không có Tịnh
Độ th́ tạo cái ǵ? Kẻ tà kiến ngăn trở
người khác tu hành, tự cao giọng đề xướng,
chẳng biết những lời lẽ của chính ḿnh
đă hoàn toàn mâu thuẫn lẫn nhau. Muốn phá người
khác tu tŕ nhưng thật ra là tự phá, tự phô bày tri kiến
tà vạy, lầm lạc mà thôi!
2) Độc
ác và từ thiện chẳng chống trái nhau. Nếu ai tâm
không độc ác th́ rắn, cọp cũng có thể làm bạn
được. Dẫu chưa đạt đến địa
vị ấy, nhưng nếu là người lành thường
niệm Phật, niệm kinh, chắc chắn chẳng bị
những giống ấy làm hại. Do sẵn ḷng từ thiện
sẽ có thể cảm hóa được những loài
độc ác ấy, huống chi người tu hành thường
được thiện thần hộ vệ ư?
3) Chưa
đạt đến địa vị “Chân cùng, Hoặc tận”
th́ tự nhiên thân tâm thế giới sẽ là có thật.
Đă đạt đến địa vị “Chân cùng, Hoặc
tận” th́ trong cái nh́n của người đó [thân, tâm, thế
giới] đều là không, c̣n trong cái nh́n của người
chưa đắc được đạo ấy th́ chúng
đều là có. Chớ nên lẫn lộn thánh - phàm, lư - sự
để rồi ăn nói hàm hồ, xằng bậy! Bản
thể của tâm chúng sanh chính là Chân Như Thật Tướng,
hiềm rằng do [chúng sanh] chưa ngộ được nên
tuy suốt ngày nương vào sức Chân Như ấy mà suốt
kiếp vẫn chẳng biết Chân Như nằm đâu! [Tuy]
nói “vô minh vốn không có cội
rễ, đầu mối”, nhưng do chúng sanh chưa ngộ,
lại muốn dạy cho họ biết về cái chẳng
phải tự họ vốn sẵn có[12],
cho nên nói là “Chân Như chẳng
giữ lấy tự tánh, nhưng khởi vô minh”, chứ
thật ra chẳng phải là ban đầu không có [vô minh],
về sau lại có! Nói như vậy là v́ muốn cho người
khác dễ hiểu bản thể. Ví như vàng nằm lẫn
trong quặng, chứ không phải thoạt đầu thuần
là vàng sau đó mới sanh ra quặng. Cần biết rằng:
Vàng nằm trong quặng, nhưng vàng vẫn chẳng phải
là quặng. Luyện quặng sẽ được vàng, quặng
chẳng trộn lẫn vào vàng. Chúng ta hăy nên dốc sức
ở chỗ phá vô minh, chớ nên bận tâm nơi những
danh từ như “thế giới có hay không, Chân Như, vô
minh, sanh diệt” để rồi sanh nghị luận lầm
lạc! Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Bát Nhă
Ba La Mật Đa nên thấy thấu suốt Ngũ Uẩn
đều không, thân, tâm, thế giới chính là Ngũ Uẩn.
Chúng ta chưa đạt đến địa vị Bát
Nhă sâu xa, hăy nên coi thân, tâm, thế giới là thật có. Thế
giới hư huyễn, nhưng phàm phu thường nghi [điều
ấy] là sai; chứ nếu phàm t́nh đă hết sạch
th́ sơn hà đại địa đều chẳng trở
ngại lẫn nhau. V́ thế, cổ đức nói: “Nếu có thể ngay lập tức
mất sạch t́nh kiến th́ sẽ đi thẳng qua vách
núi [không bị ngăn ngại ǵ]”.
10. Đáp
lời hỏi của cư sĩ Duyên Tịnh
Hỏi:
Hành nhân niệm Phật, đầu tiên phải lấy
nghiêm tŕ Ngũ Giới làm nhiệm vụ cấp bách, ngơ hầu
niệm Phật dễ được tịnh tâm, lâm chung
văng sanh cũng ổn. Nhưng hai chúng tại gia sống
nơi Phật pháp suy đồi, khó thể t́m được
một vị cao tăng ḥng thọ giới đúng pháp. May
là trong kinh Phạm Vơng từng mở ra một phương
tiện lạ, cho phép đối trước tượng Phật
chí thành sám hối bảy ngày, nếu thấy hảo tướng
liền có thể tự thệ thọ giới. Kinh Địa
Tŕ[13]
cũng nói như thế nhưng không có đoạn kinh
văn nào nói về chuyện [phải] thấy hảo tướng
[rồi mới được phép tự thệ thọ giới],
so với kinh Phạm Vơng lại càng dễ hơn nữa. Khi
ấy, đệ tử nghi ngờ, chẳng biết rốt
cục nên tuân theo kinh nào mới đúng? Về sau, đọc
Linh Phong Tông Luận, trong ấy đă giảng rơ lư lẽ:
[Pháp tự thệ thọ giới] trong kinh Phạm Vơng
được lập ra cho kẻ chưa phát tâm, c̣n Địa
Tŕ là lập ra cho kẻ đă phát tâm. Nay bọn đệ
tử tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, có thể coi là kẻ đă phát tâm th́ có thể
nương theo kinh Địa Tŕ để thọ giới
được hay chăng? Ngay trong lá thư gởi cho bà X…
trong bộ Văn Sao của thầy đă có giảng về
cách tự thệ thọ giới, cũng không thấy có
đoạn văn nào bảo phải thấy được
tướng hảo [sau khi sám hối th́ mới được
phép thọ giới]. Đấy có phải cũng là v́ bà ta đă
phát tâm nên được phép nương theo kinh Địa
Tŕ [để thọ giới], chẳng cần phải câu
nệ nơi thấy tướng hảo đấy
chăng? Nhưng bà X… tiết tháo băng khiết, c̣n lũ
đệ tử chúng con nghiệp sâu chướng nặng,
có nên tham chiếu theo đó để làm hay chăng? Đây
cũng là một nghĩa chúng con đang nghi ngờ cho nên chẳng
nề hà mạo muội, lại v́ những hành nhân niệm
Phật tại gia thông thường thỉnh cầu thầy
chỉ dạy phán quyết ḥng tiện tuân hành.
Đáp:
Phật pháp rộng lớn như biển cả, hăy tùy theo
căn tánh của mỗi người mà thọ tŕ. Nếu
muốn thọ giới mà có chỗ để xin thọ
được th́ cố nhiên nên thọ với sư
tăng. Nếu không có ai, hăy hướng về đức
Phật sám hối, tự thệ thọ giới. C̣n như
nói “thấy hảo tướng” th́ há có phải là chuyện
nói dễ dàng ư? Sợ là người đời nay chẳng
có thiện căn ấy đâu! Hoặc do chẳng hiểu
rơ tâm địa, cứ dùng cái tâm bộp chộp, vọng
động để mong cầu đến nỗi kẻ
bị ma dựa th́ nhiều, người được lợi
ích ít ỏi! Hiện nay, những kẻ có hành tŕ đôi chút
hễ động đến là khoe thấy đủ thứ
cảnh giới! Những thứ cảnh giới ấy
đều do vọng tâm cảm nên. Nếu là thánh cảnh
giới biến hiện th́ người khác tuy chẳng thể
biết được nhưng người ấy phải
có những dấu hiệu cho thấy tâm hạnh chuyển
biến lớn lao. Nếu vẫn cứ y như cũ th́
chẳng phải là thánh cảnh mà chính là ma cảnh đấy!
Chớ nên không biết [điều này]!
Phàm hết thảy mọi
người hăy đều nên “đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều lành”. Đấy chính là giới kinh
đại lược của chư Phật ba đời,
ai nấy đều phải nên vâng giữ,
chớ nên phạm. Hễ tŕ sẽ có công đức,
c̣n phạm sẽ mắc tội lỗi. Tŕ cho đến mức
cùng cực sẽ có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm
nhập thánh, thậm chí thành Phật. Những ai phát tâm thọ
giới mà không có thầy truyền trao th́ hăy nên chí thành khẩn
thiết đối trước đức Phật sám hối
bảy ngày, tự thệ thọ giới trước đức
Phật là được. Cố nhiên không cần nói đến
hảo tướng, cũng không cần phải nói đă
phát tâm hay chưa. Thời cơ hiện tại không giống
như thời cơ khi đức Phật tại thế,
nhưng đă v́ văng sanh Tây Phương mà thọ giới
th́ hăy nên chân thật thọ tŕ. Nếu chỉ cầu danh
xuông th́ sẽ trở thành đùa bỡn, tội lỗi quả
thật chẳng nông cạn, ít ỏi đâu nhé!
Hỏi: Nếu
hành nhân không thọ giới sẽ vĩnh viễn bỏ mất
Phật hải, đánh mất lợi ích lớn lao. Nếu
phát tâm không chân thật, cứ cẩu thả thọ giới,
hễ phạm lại mắc thêm một tầng tội là
phạm giới nữa. Như vậy, thọ giới th́ sợ
sẽ vi phạm, c̣n không thọ lại bị mất lợi
ích lớn lao, dường như tấn thoái đôi bề
đều khó. Đối với điều này, đệ
tử có ngu kiến cho rằng: Nếu thật sự phát
tâm chân thật, ắt sẽ mang ư niệm sợ tội sâu
đậm, quyết sẽ ít vi phạm nên chẳng ngại
lập tức thọ giới. Nếu không, do tập khí quá
nặng, hoặc do tâm cảm động nhất thời, tham
cái danh “thọ giới”, liền mù mờ thọ giới, trong
tương lai ắt sẽ dễ dàng vi phạm. Đâm ra chẳng
bằng nương theo giới luật vâng giữ hai ba
năm, nếu không vi phạm th́ mới xin thọ giới
cũng không muộn. Làm như vậy sẽ được
lợi ích nơi giới lại chẳng đến nỗi
tăng thêm tội phạm giới, dường như có
ích vô hại!
Cách này đệ tử
đă từng thử để khuyên người khác ăn
chay khá có hiệu nghiệm. Nhân mấy năm gần đây
con từng gặp người phát tâm tu hành liền khuyên họ
trước hết hăy giữ sáu ngày chay và kiêng giết, giảm
bớt ăn thịt, kiêm quán tưởng chúng sanh [và chúng
ta] có cùng một thể, huyết nhục bất tịnh
v.v… Trong ṿng chưa đầy mấy năm, những
người nhờ đấy mà ăn chay trường
không dưới mười mấy người. Nay đối
với giới pháp, con chưa biết là có nên chiếu theo cách
này để thực hiện hay không?
Lại c̣n có một hạng
hành nhân khá hiểu rơ nhân duyên tội phước, tuy chưa
thọ giới, nhưng có thể chiếu theo Luật Nghi
để vâng giữ, khắng khít niệm Phật, cầu
sanh Tịnh Độ. Nếu sau này họ văng sanh th́ phẩm
vị của họ sẽ chẳng thua kém ǵ người đă
thọ giới niệm Phật văng sanh. Nếu quả thật
như vậy th́ tựa hồ mâu thuẫn với nghĩa
“tâm địa vốn không có tự tánh giới, vốn chẳng
có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần” của
Lục Tổ. Nếu không, trong Luật lại nói: “Người thọ giới
đúng pháp th́ mới phát sanh giới thể, lại
được thiên thần hộ vệ”. Luật c̣n giảng
rơ sự khác biệt lớn lao giữa người đă
thọ giới với người chưa thọ giới.
Đệ tử chưa hiểu nghĩa này, v́ thế đặc
biệt viết lại ở đây để xin thầy
chỉ dạy. Huống chi con đă tính vâng giữ [giới
pháp] trước rồi sau đấy mới thọ giới.
Nếu như có khác biệt, giả sử kẻ đang
trong thời hạn học Giới ấy mạng chung giữa
chừng th́ chẳng phải là mất hết hay sao? Con
đang nghi ngờ điều này, càng chẳng thể không
mong được thầy sớm giải quyết!
Đáp:
Đă muốn thọ giới, cố nhiên nên chân thật. Đă
không chân thật th́ cần ǵ phải thọ? Lợi ích là
do chân thật tŕ giới mà được, chứ không phải
v́ mang danh thọ giới sẽ liền được lợi
ích. Mối nghi của ông đáng gọi là vô vị đến
cùng cực! Hễ tu hành th́ phải luận trên tâm địa,
chứ không luận trên h́nh tích. Chưa thọ giới mà
đă tŕ giới th́ là người tu hành chân thật, há lẽ
nào người chân thật, hành hạnh chân thật lại
đâm ra tầm thường, kém cỏi ư? Nhưng Phật,
Bồ Tát cực lực khuyên con người thọ giới
là v́ hễ thọ giới ắt phải tŕ, chứ không phải
v́ những kẻ chỉ khoác cái danh thọ giới hiện
thời mà phát khởi vậy! Chỉ khoác cái danh thọ giới
tức là người thọ giới lại hủy giới
cấm của Phật, tội tăng thêm một tầng nữa!
Những câu hỏi của ông đều là chấp chết
cứng vào h́nh tích, dấy lên những nghị luận lầm
lạc! Ăn nói như thế đều gọi là hư luận!
“Thọ giới sẽ phát giới thể” chính là bậc túc căn sâu dầy, chứ
không phải là chuyện của những kẻ hời hợt
hờ hững chỉ mang cái danh [thọ giới] hiện
thời! Chẳng thọ giới mà có thể tŕ giới chỉ
là thiểu số, chứ không phải đa số. V́ thế,
chớ nên dùng cách ấy để làm khó dễ người
ta. Những người như thế thuộc hạng tánh
chất đặc biệt, c̣n những kẻ kia là hạng
nên dạy dỗ theo đường lối thông thường,
há nên so sánh hẹp ḥi? Đúng là vốn không có một chuyện
ǵ lại lầm lẫn khuấy lên sóng gió, đáng than quá
đỗi! Bàn luận lợi ích trên h́nh tích, chẳng xét
đến thật t́nh nơi tâm địa là v́ người
trong cả cơi đời đều thích giả mạo làm
người tu đạo vậy!
Hỏi:
Đứa con gái nhỏ của con hiện thời hai
mươi hai tuổi, lập chí không lấy chồng,
ăn chay niệm Phật tính ra đă được mấy
năm. Mùa Xuân năm nay mẹ nó mất, nó buồn
thương, càng thêm chuyên dốc, thiết tha, mấy ngày
không ăn uống. Về sau đệ tử bảo nó niệm
Phật cho mẹ để mong mẹ được
tăng cao phẩm sen; từ đấy nó đối
trước linh vị mẹ niệm Phật, nóng - lạnh
không gián đoạn. Nhưng khi nó niệm Phật đến
lúc thuần nhất, thường thấy mười
phương tỏa quang minh, trong ấy hiện ra tượng
Phật. Từng nhớ trong mùa Hạ năm nay, vào dịp
lễ Thích Ca Văn Phật đản sanh, có một bữa
nó đóng kín cửa, ngồi trong Phật đường
niệm Phật, tự ḿnh cảm thấy thần thức
dạo chơi cơi Tịnh Độ, chân đạp lên mặt
đất mềm mại như đạp lên vải nỉ,
hoa trời theo đúng thời khắc trút xuống, thấy
Phật và hai vị Đại Sĩ lướt qua trên
hư không. Quán Âm Bồ Tát nh́n nó mỉm cười, tay cầm
cành liễu rưới nước cam lộ lên trán nó, và thấy
vô số vị tu hành hoặc ngồi hoặc đứng, dáng
vẻ đều xinh đẹp, có quang minh. Sau đấy,
do có người đưa cơm đến cho nó ăn, cảnh
tượng ấy liền biến mất. Đệ tử
nghĩ cảnh nó được thấy tuy phần nhiều
hợp với kinh luận, nhưng trước đấy
nó đă từng tu theo cách tịnh tọa của Đồng
Thiện Xă hai năm (hiện nay đă ngưng tu theo
cách tịnh tọa của Đồng Thiện Xă mấy
năm), ngay trong thuở ấy
cũng thấy có cảnh giới, quang minh. Nay chẳng biết
cảnh tượng nó được thấy trong khi niệm
Phật ấy có phải là cảnh tượng của Tịnh
Độ hay không? Hay chỉ là huyễn ảnh của công
phu tịnh tọa trước kia? V́ thế, đặc biệt
xin thầy hăy phán định, chỉ dạy.
Thêm nữa, đứa
con gái ấy vào ngày Phật Đản, hoặc khánh đản
đức Quán Âm và sinh nhật của ông bà nội, cha mẹ
cũng như sinh nhật của chính ḿnh, phần nhiều
thường giữ thanh trai suốt một ngày một
đêm không ăn. Nhân đấy đệ tử đọc
các kinh luận, trọn chẳng thấy có đoạn kinh
văn nào khen ngợi chuyện không ăn. Ngay cả trong
pháp Bát Quan Trai đă lập cũng chỉ chế định
không ăn quá Ngọ. Do vậy, đệ tử yêu cầu
nó đổi sang tŕ Bát Quan Trai, không biết là vào hôm tŕ [Bát
Quan Trai Giới] có nhất định phải theo đúng
pháp đối trước tượng Phật thọ giới
hay chăng? Hơn nữa, đệ tử xem kinh không nhiều,
chẳng biết rốt cuộc suốt một ngày đêm
không ăn và không ăn quá Ngọ có hơn - kém chi chăng?
Hơn nữa, mẹ con trường trai niệm Phật
cũng đă được mấy năm, trong khi yên tịnh
cũng thường thấy h́nh tượng có quang minh, nếu
chẳng chấp vào đấy th́ cũng được cảnh
giới tốt lành, đúng chăng? Lại cầu xin thầy
phán định, chỉ dạy cho trọn vẹn một bề!
Đáp: Lệnh
ái túc căn khá sâu, lập chí nguyện ấy thật
đáng khâm phục, kính ngưỡng. Cảnh giới
được nói đó có lẽ là thánh cảnh, nhưng chớ
nên cho đó là đúng. Chỉ nên giữ nhất tâm, đừng
hâm mộ thấy cảnh. Nếu đạt đến nhất
tâm th́ không thấy cảnh cũng chẳng trở ngại
ǵ. Nếu chưa đạt đến nhất tâm mà cảnh
được thấy chẳng thật, hoặc thấy rồi
sanh ḷng hoan hỷ đều đủ để làm hỏng
chuyện. Gần đây, con người đa số hễ
vừa dụng công liền thấy có cảnh giới; những
cảnh ấy thật ra quá nửa là cảnh ma! Dẫu là
cảnh thánh đi nữa mà nếu như không hiểu rơ
tâm địa, chẳng hiểu tường tận
nghĩa lư, hễ sanh chấp trước liền đến
nỗi bị hỏng chuyện; chớ nên không biết! Nói
tới chuyện Thanh Trai th́ trong kinh chưa hề nhắc
đến, nhưng do Phó Đại Sĩ đời
Lương (do Di Lặc Bồ Tát thị hiện thân
cư sĩ) thường hành [Thanh
Trai] nên cũng không phải là chớ nên hành. Nếu miễn
cưỡng nhịn đói th́ cố nhiên chẳng nên hành,
chứ nếu an nhiên không bị tổn hại, tự tại
như pháp th́ cũng chẳng phải là không được.
Hơn nữa, người đời nay chỉ nên chiếu
theo đường lối hành đạo thông thường
để tu, chớ nên lập riêng tướng trạng
khác lạ nhằm ngăn lấp những thói tệ hám danh
phô phang chuyện lạ để mê hoặc mọi người
v.v…
Hỏi:
Đệ tử nghiên cứu Phật học, tự xem
Lăng Nghiêm, Viên Giác, Khởi Tín v.v… các kinh luận Đại
Thừa xong, hơi biết thiên địa vạn vật
và hết thảy cơi nước tịnh - uế đều
y theo Nhất Chân mà huyễn hiện. Đối với những
nghĩa như “tâm tịnh cảm
cơi tịnh, tâm nhơ cảm cơi nhơ” v.v… con khá tin
tưởng sâu chắc, đích xác, thiết tha. V́ thế,
tuy đọc các ngữ lục nhà Thiền chẳng những
con không đến nỗi sanh ḷng nghi ngờ Tịnh Độ
mà tín nguyện càng thêm kiên cố. Từ đấy dường
như chẳng đến nỗi bị những lời lẽ
đề cao hay chèn ép Thiền - Tịnh, Tánh - Tướng
mê hoặc. Chỉ đối với những câu “Phật giới chẳng
tăng, chẳng giảm; chúng sanh giới cũng chẳng
tăng, chẳng giảm” như trong kinh luận đă
nói th́ có lúc dấy lên nghi t́nh. Ấy là v́ luận theo tánh thể
th́ chư Phật lẫn chúng sanh xét về Thể vốn
tương tức[14],
thật có thể nói là chẳng có sai biệt, tăng - giảm.
C̣n xét về phía chúng sanh giới, tuy chúng sanh đông đảo
nhưng đều thấy là huyễn h́nh, tựa hồ chẳng
thể bảo là vô số được! Đă có số
lượng th́ chư Phật ứng thế sẽ đều
độ bấy nhiêu chúng sanh thành Phật. Phật tánh ví
như nước biển, chúng sanh ví như bọt sóng. Bọt
sóng vỡ lại trở về với biển cả. Nói
nước không tăng giảm th́ được, nhưng
tướng bọt sóng ấy rơ ràng có số lượng,
sao lại nói là không tăng - giảm? Hoặc nói không
tăng - giảm là v́ một bọt sóng vừa tan th́ một
bọt sóng khác lại trồi lên ư?
Như thế th́
chư Phật phát nguyện độ sanh tựa hồ nhọc
nhằn uổng công, mà lư “chúng
sanh đă thành Phật sẽ chẳng c̣n mê nữa” cũng
bị mâu thuẫn! Nếu nói bọt sóng tan chẳng c̣n dấy
lên nữa th́ chúng sanh trong biển tánh ấy, bọt tuy nhiều,
nhưng một đức Phật đă độ
được chúng sanh không lường nổi số; huống
chi sau đấy lại c̣n có nhiều vị Phật giáng
sanh trong thế gian. Như vậy th́ tất cả chúng sanh
sẽ chẳng những ngày một ít đi mà c̣n rốt cuộc
sẽ có ngày độ hết. Nếu như vậy th́ chẳng
khác ǵ mâu thuẫn với chuyện không tăng - giảm
được nói trong kinh luận, mà cũng không thấu
hiểu được ư chỉ “rốt cuộc chúng sanh giới
lúc ban đầu là do đâu mà có” (Kinh dạy: “Vô minh không có khởi đầu”.
Nếu chúng sanh giới có hết th́ vô minh liền có khởi
đầu vậy).
Ở chỗ này, trong
kinh Viên Giác, Kim Cang Tạng Bồ Tát đă từng thưa hỏi.
Để trả lời, đối với Phật giới
th́ đức Phật dẫn thí dụ “quặng đă thành vàng, chẳng trọng nơi quặng”
để giảng rơ lư “Phật
chẳng c̣n mê”. Đối với chúng sanh vốn khởi
vô minh th́ Ngài nói: Do tâm luân hồi sanh ra cái thấy luân hồi,
có nghĩa là “chưa đích
thân chứng được Viên Giác th́ chẳng thể suy
lường!” Chuyện này được phân biệt
như thế cũng không phải là lời hỏi nhằm
đúng ngay vấn đề, nhưng sách Khởi Tín
Nghĩa Kư cũng dẫn thí dụ “chim bay trên hư không”
để chỉ rơ “chúng sanh vô lượng”. V́ thế, chẳng
thể nói là có tăng - giảm, rốt cuộc cũng khó
khiến cho con người quyết định chẳng ngờ
vực! (Rơ ràng chúng sanh vốn có số lượng,
sao lại nói là vô lượng? Nếu thật sự vô
lượng, trừ phi một chúng sanh có thể hóa thành nhiều
chúng sanh. Nếu thật sự như thế th́ cũng tránh
được mối nghi “trong Phật giới lại khởi
lên chúng sanh giới”. Nhưng mỗi một chúng sanh là một
linh thức, lư này lại nói chẳng xuôi được). Nghĩa này sâu xa, do chúng sanh c̣n mê nên đức
Phật khó thể nói thông suốt. Dẫu có nói th́ chúng sanh vẫn
không biết y như cũ.
Đệ tử là hạng
người nào, há dám dùng tri kiến phàm phu để suy
lường chuyện này. Chỉ v́ bậc thân sĩ học
Phật ở tệ xứ, do thấy đệ tử học
Phật sớm hơn họ, tưởng đệ tử
đă hiểu được lư này, phần nhiều [đem
lư này] đến chất vấn. Đệ tử tuy viện
dẫn kinh luận để đáp, nhưng bọn họ
nói chung vẫn chưa thỏa ư, lại c̣n nghi ngờ những
lư đă được nói trong Phật học. Cũng có những
kẻ do chẳng hiểu trọn vẹn bèn ngă ḷng tin
tưởng! Do vậy, con đặc biệt chép lại
đoạn này, tính xin thầy chỉ dạy về lư ấy.
Thầy có thể dùng thí dụ khác để xiển minh
đại lược hay chăng? Một là tránh cho đệ
tử khỏi khởi lên sự sai lầm ấy nữa,
hai là giúp cho con có cái để đáp lời chất vấn
của bọn họ th́ may mắn lắm thay!
Đáp:
Phật giới, chúng sanh giới cả hai đều chẳng
tăng, chẳng giảm. Đấy chính là luận theo Lư;
sao ông lại dựa trên h́nh tướng huyễn vọng
để luận? Chẳng thấy kinh Kim Cang dạy: “Độ sạch hết thảy
chúng sanh nhưng chẳng thấy một chúng sanh nào
được diệt độ” ư? Nếu luận
theo h́nh tích th́ lời Phật nói sẽ trở thành mâu thuẫn!
Nếu biết [lời nói ấy nhằm] dạy thẳng
vào Lư Thể th́ [sẽ thấy] giống như dạy cho kẻ
say, người mê đang tưởng “nhà quay, phương
vị đổi dời” biết rằng “nhà vốn chẳng
quay, phương vị vốn chẳng đổi dời”.
Hơn nữa, há có nên cho rằng [quan niệm] nhà xoay của
kẻ say, phương vị đổi dời của
người mê là đúng, coi lời lẽ của người
không say, không mê là sai hay sao? Những điều như ông
đă nói đều thuộc về hư luận! Kẻ say, kẻ
mê ấy trước khi chưa ngộ, trọn chẳng thể
chết ḷng tin tưởng vào sự “không xoay chuyển, không
đổi dời” v́ kẻ ấy đích thân thấy
như vậy. Đến khi đă ngộ, mới biết [những
sự thấy biết trước kia] là vọng, không phải
là chân. Há ông lấy điều đó (tức những sự
thấy biết trước khi ngộ) làm chuẩn hay sao?
Hay là lấy điều này (tức sự thấy biết
sau khi đă ngộ) làm chuẩn? Hiểu rơ rồi th́ cần
ǵ phải biện luận nữa đây?
Ông nói đến chuyện
bọt sóng trong biển đều là chấp trước
trên mặt h́nh tích. Do đức Phật muốn cho con
người biết “chính ḿnh toàn thể là Phật, v́ đang
mê nên có tướng chúng sanh”, nhưng ngay cả cái tướng
chúng sanh ấy toàn thể đều là vọng! [Do mê, do say
nên thấy] nhà xoay, phương hướng đổi dời,
ông liền chấp trước vào sự xoay chuyển,
đổi dời; đáng gọi là “bỏ gốc chạy
theo ngọn”, sẽ thấy thường xoay, thường
dời chẳng ngớt vậy! Phật là vàng đă tách khỏi
quặng, Phật tánh của chúng sanh là vàng vẫn c̣n nằm
trong quặng. Vàng ở trong quặng trọn chưa thành
vàng! Chẳng qua người sáng suốt biết trong quặng
có vàng th́ họ mới đổ công nung luyện, tách vàng
ra [khỏi quặng], ḥng được thọ dụng. Đức
Phật sợ chúng sanh chẳng chịu gánh vác nên chú trọng
nói rơ về bản thể. Bởi lẽ, [nếu chúng sanh]
đă biết bản thể th́ sẽ trọn chẳng chịu
tự khinh, không tu tập. Nếu biết luận định
từ bản thể th́ không cần phải nghi! Nếu bỏ
Thể để luận theo h́nh tích th́ xin các hạ hăy thỉnh
vị đại thông gia khác phán đoán, luận định.
Quang là một ông Tăng tầm thường không có trí huệ
biện tài ấy đâu!
11. Lời
phê trên lá thư của cư sĩ Niệm Phật
(Những
chữ viết theo lối Đảnh Cách[15]
là lời phê của Ấn Công để đáp lời hỏi,
c̣n những chữ viết thấp hơn một chữ là
những chữ được dùng trong lá thư gốc của
cư sĩ Niệm Phật ở Vĩnh Gia)
Vâng đọc
lời huấn dụ từ bi, thuần là những lời
tha thiết đến cùng cực, tạo phương tiện
đến cùng cực, buồn khóc v́ đi vào ngơ rẽ cả
mấy năm, một hôm biết được đường
chánh. Từ nay về sau nhất tâm niệm Phật, hồi
hướng cho khắp chúng sanh cùng sanh Tịnh Độ. Những
điều mong mỏi khác dù Tục hay Chân đều
đă buông xuống. Quả thật chỉ có một pháp này
là có thể an thân lập mạng, tự lợi, lợi
tha, trên an ủi bi nguyện, báo đáp hồng ân, cầu
xin ban cho sự gia bị, thường hành tinh tấn. Con
tính trong tháng tới hoặc trong tháng Tám sẽ lại không
nói năng ǵ (tịnh khẩu), thầm niệm thánh hiệu
Quán Âm, thời hạn ngắn hay dài sẽ tùy sức, tùy
duyên. Tất cả những nghi thức lễ niệm trong
khi bế quan và các nghi vấn kính cẩn tŕnh bày như sau
xin thầy chỉ dạy, con sẽ cảm kích tuân hành.
[Tổ Ấn
Quang phê]: Tâm thường
nghĩ đến tu tŕ, bế quan hay không đều chẳng
khẩn yếu cho lắm. Nhưng phải nên viên thông, chớ
nên chấp chết cứng, kẻo sẽ đến nỗi
chẳng yên ḷng, đâm ra vô ích! Đức Quán Âm từ bi rộng
lớn, chắc chắn hễ có cảm liền ứng,
nhưng tâm chớ nên quá gấp rút bộp chộp, mong
được ứng ngay. Ví như trồng lúa, ngày hôm nay
vừa gieo giống liền mong thâu hoạch ngay trong bữa
nay sẽ trở thành kẻ si! Cố nhiên, hễ có ai khởi
ḷng niệm Bồ Tát th́ sẽ liền được gia bị;
nhưng chớ nên có những quan niệm hẹp ḥi mong cầu
ấy th́ sẽ có lợi ích lớn lao vậy!
1) Vào ngày
bế quan đầu tiên
Sáng dậy
con niệm Phật mười hơi. Súc miệng, rửa
ráy xong, lễ thập phương thường trụ Tam
Bảo, mỗi lần một lạy, lễ Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật ba lạy, lễ Tây Phương giáo chủ
bốn mươi tám lạy, lễ kinh luận Tịnh
Độ ba lạy, lễ Quán Âm ba mươi hai lạy,
Thế Chí, Hải Chúng mỗi danh hiệu ba lạy, Địa
Tạng Vương, Liên Tông chư Tổ (sư tăng
hiện tại), mỗi vị một
lạy. Niệm chú Cúng Dường[16]
hai mươi mốt biến. Niệm bài Tây Phương
Nguyện Văn của đại sư Liên Tŕ một biến.
Niệm Quán Âm Tán một biến. Tiếp đó chuyên niệm
thánh hiệu. Trong khoảng ấy, trừ lúc ăn ngủ
ra, hễ gần tới giữa trưa và sau giờ Ngọ,
hoàng hôn và giữa buổi tối, lễ Quán Âm ba
mươi hai lạy.
[Tổ Ấn Quang phê]: Nghi tiết đơn giản mới
hay!
2) Mỗi
ngày sau đó:
Sáng dậy
niệm Phật mười hơi. Rửa ráy, súc miệng
xong, lễ Quán Âm ba mươi hai lạy, tiếp đó
chuyên niệm thánh hiệu. Trong khoảng thời gian ấy,
trừ lúc ăn ngủ ra, c̣n kèm thêm vào gần tới giữa
trưa và sau giờ Ngọ, chập tối và giữa tối,
lễ Quán Âm ba mươi hai lạy giống như ngày thứ
nhất.
Hoàn măn một
ngày.
Nghi thức
lúc sáng dậy và lúc gần sụp tối giống như
trước. Ngay lúc đêm xuống, niệm thánh hiệu
xong, niệm Tây Phương Nguyện Văn một biến,
lễ Tây Phương Giáo Chủ bốn mươi tám lạy,
lễ Quán Âm ba mươi hai lạy, Thế Chí, Hải
Chúng mỗi danh hiệu ba lạy. Hơn nữa, trong bài
nguyện văn của Liên Tŕ đại sư câu “chuyên niệm A Di Đà Phật
vạn đức hồng danh” con tự đổi thành
“chuyên niệm Quán Thế Âm Bồ
Tát vạn đức hồng danh”, những câu khác có cần
thay đổi hay không?
[Tổ Ấn
Quang phê]: Nên châm chước
để lượng định.
Đoạn
đầu của bài nguyện văn có câu: “Kim ư Phật tiền kiều cần ngũ thể”
(Nay con đối trước Phật cung kính năm vóc
mọp lạy). Niệm
đến câu này, con chỉ cúi đầu lễ xong rồi
đứng dậy, hay là cần phải mọp lạy tới
mấy câu nữa rồi mới đứng dậy?
[Tổ Ấn
Quang phê]: Mọp lạy một
lúc lâu sẽ có thể bị tổn khí, chớ nên không biết!
Trong bài
tán Quán Âm phổ biến có câu: “Quán
Âm Đại Sĩ, tất hiệu Viên Thông, thập nhị
đại nguyện thệ hoằng thâm” (Quán Âm Đại
Sĩ, luôn có hiệu Viên Thông, mười hai đại nguyện
thệ rộng sâu) bốn chữ “thập nhị đại nguyện” sợ là dẫn
lầm từ nhân duyên của Dược Sư Như Lai, con
phải nên nói như thế nào?
[Tổ Ấn
Quang phê]: Mười hai đại
nguyện không có xuất xứ, đổi thành “từ bi thệ
nguyện tối hoằng thâm” (từ bi thệ nguyện rộng
sâu nhất) cũng được!
Nếu
lúc nằm xuống không ngủ được, bèn chỉ
quan tâm ức niệm thánh hiệu để dỗ giấc,
hay là phải tạm ngưng niệm thánh hiệu, lắng
ḷng để đối trị?
[Tổ Ấn
Quang phê]: Lắng ḷng niệm
thánh hiệu.
Lúc dục
niệm khởi, phải tưởng như đă chết,
hay là tưởng sắp chết. Trong khi bế quan vẫn
c̣n có chuyện ǵ cần phải chú ư xin thầy đều
dạy hết cho.
[Tổ Ấn
Quang phê]: Làm sao chỉ ra hết
mọi chuyện cho được? Chỉ chí thành cung kính,
đừng gấp rút, bộp chộp mong cầu linh ứng.
Chỉ giữ ḷng sao cho tương ứng với thánh hiệu,
chẳng cầu cảm thông th́ sẽ tự được
cảm thông. Nếu không, sẽ có thể bị ma dựa!
Con thường
nằm mộng thấy ở trong nhà bay lên niệm Phật,
nhưng bị xà nhà và mái ngói ngăn trở, chẳng thể
vượt thoát ra được. Lại c̣n một hôm [mộng
thấy] ở ngôi chùa nọ có một bức tranh thủy
mặc vẽ h́nh tượng Quán Âm, thân và mắt rất
to, cho đến nay vẫn c̣n cảm thấy sợ hăi. Qua
hai duyên trên đây, chẳng biết tội chướng
như thế nào?
[Tổ Ấn
Quang phê]: Giấc mộng ấy
thuộc về cảnh giới tốt đẹp, nhưng
vẫn chưa đạt đến mức nghiệp lực
tiêu trừ lớn lao. V́ thế vẫn c̣n bị ngăn ngại.
Thấy tượng sợ hăi cũng chẳng sao cả. Nhưng
chớ nên ghim măi chuyện này trong ḷng.
Hơn nữa, ân sư thường
nói: “Hành nhân thấy cảnh có một phân th́ không được
nói một phân mốt, cũng chẳng được nói
chín ly chín. Nói quá cũng mắc tội, mà nói bớt đi
cũng không được”. Lại nói: “Thứ cảnh giới
ấy nói với tri thức để cầu chứng minh
tà - chánh, đúng - sai th́ không phạm lỗi. Nếu chẳng
nhằm xin chứng minh, chỉ muốn khoe khoang th́ cũng
mắc lỗi. Nếu hướng về hết thảy mọi
người để nói th́ sẽ có lỗi. Trừ cầu
tri thức chứng minh ra, [trong mọi trường hợp
khác] đều không được nói” v.v… Nhưng nếu
hành nhân thấy có cảnh giới, hoặc do tâm tưởng
không trọn vẹn, hoặc do văn tự sơ sài, vụng
về, đến nỗi nói ít, nói nhiều th́ cũng gây trở
ngại hay chăng? Đệ tử từng được
ân sư ba lần dạy bảo về giấc mộng,
đă kể cho người bạn là X… nghe. Tuy chẳng phải
là muốn khoe khoang, chẳng phải v́ cầu chứng
minh, mà thật ra là muốn khơi gợi ḷng tin cho người
ấy, chẳng biết làm như vậy có mắc tội
lỗi hay không?
[Tổ Ấn
Quang phê]: Cảnh được
thấy trong mộng không quan hệ lớn lao cho lắm, chứ
đối với cảnh được thấy trong khi
Thiền Định th́ phải thận trọng. Người
tu hành thường phạm phải căn bệnh chưa
đắc đă bảo là đắc!
Sống
tại gia xử thế, thấy người khác có chuyện
chẳng đúng pháp, đă không có đủ oai đức
để chế phục, lại chẳng khéo khuyên dụ
khiến cho người ấy cảm động, nhận
hiểu, chỉ đành nhẫn nại mặc kệ kẻ
ấy, ức niệm Quán Âm để mong Ngài từ bi che
chở th́ có được hay không? Khẩn cầu thầy
khai thị th́ may mắn lắm thay!
[Tổ Ấn
Quang phê]: Ḷng Thành đến cùng
cực th́ đá vàng cũng phải nứt. Dẫu cho
người ấy chẳng được lợi ích th́
chính ḿnh cũng đă được lợi ích lớn lao.
12. Kệ
tu tŕ
Giữ vẹn
luân thường,
Trọn hết bổn
phận,
Ngăn dứt ḷng tà,
Ǵn giữ ḷng thành,
Đừng làm các ác,
Vâng làm các thiện,
Kiêng giết, cứu mạng,
Ăn chay niệm Phật,
Hồi hướng
văng sanh
Thế giới Cực
Lạc,
Dùng để tự
hành,
Lại c̣n dạy
người,
Ấy gọi Phật
tử.
Hành giả hăy nên
Làm như thế ấy
Công đức vô lượng.
X. Thư
từ
1. Thư
trả lời cư sĩ Thái Cát Đường
Ngày Hai
Mươi Sáu tháng Tư, Quang từ Dương Châu trở
về Thượng Hải thấy ông gởi cho Quế
Viên[17]
và hương. Cám ơn lắm! Bản thảo Quán Âm Đại
Sĩ Tụng tuy đă gởi tới, nhưng vẫn cần
phải giảo chánh tường tận th́ mới cho sắp
chữ được. Sợ là chưa thể in ra sách trong
năm nay được đâu! [Chuyện vận động
quyên mộ đóng góp cho] Viện Mồ Côi hăy cứ tùy
duyên lo liệu. Được nhiều th́ tốt, ít
cũng không sao. Dẫu chẳng thể giúp đỡ, chỉ
gởi xuông sổ quyên mộ trở lại cũng không sao
cả! Đối với hết thảy mọi chuyện,
Quang đều tùy duyên, trọn chẳng v́ nhiều - ít, có -
không mà khởi lên tâm phân biệt, suy tính. Thầy Chân Đạt
gởi lời hỏi thăm ông. Cư sĩ Vưu Tích Âm
c̣n chưa di chuyển, chẳng bao lâu nữa sẽ xuống
miền Nam, địa chỉ cư ngụ vẫn chưa
định được! Đợi đến khi nào ông
ta tiến hành công việc cho Quang th́ sẽ gởi tới.
Đang trong lúc thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống
này, hăy nên phát khởi ḷng Thành niệm Phật để cầu
được che chở, ngơ hầu chẳng phụ thời
gian tốt đẹp này. Nếu không, sẽ như người
vào biển cả, đă không có người hướng dẫn,
lại không có la bàn, muốn khỏi bị ch́m đắm,
há có được ư?
2. Thư
gởi ḥa thượng Tâm Tịnh
Hôm nay có
người từ Như Cao đến, trao giùm thư của
Thôi Tông Tịnh. Cái chuông như thầy đă nói, lớn - nhỏ
có thích hợp hay chăng? Nếu thích nghi th́ hăy nên bảo
những người trong nhóm mua. Nếu giá chuông hăy c̣n, chưa
bị mục nát th́ cũng nên mua luôn để khỏi phải
làm cái khác. Cũng nên gơ thử chuông ngay để coi xem tiếng
chuông [có vừa ư hay không]. Trống lớn nếu có người
phát tâm [cúng dường] là được rồi. Nếu
không, hăy bảo họ quyên mộ để đặt làm,
nhưng hăy nên làm sao cho thích hợp, đừng nên làm quá to.
Hăy nên cho họ biết kích thước đại lược
để họ tiện quyết định đặt
làm. Chi phí thỉnh chuông trống đều phải do chính người
[phát tâm] ấy bỏ tiền ra, chẳng cần Pháp Vân Tự
phải bù tiền thêm. Hăy nên nói trước với họ
về chuyện đó để chẳng đến nỗi
phải lo lắng khó ḷng đáp ứng được!
3. Thư
trả lời cư sĩ Cát Khải Văn
Túc nghiệp
của mọi người đă cảm thành ác quả ấy.
Ông có thể ở chùa Hộ Quốc tụng kinh lễ sám
quả thật là may mắn lớn. Lúc này, trừ niệm
Phật và niệm Quán Âm cầu gia bị ra, không có cách tốt
đẹp nào khác! Đừng vọng tưởng đạt
được chuyện tốt lành. Nếu có thể chí
thành khẩn thiết tụng kinh lễ sám th́ chính ḿnh
cũng đạt được lợi ích không chi lớn
bằng. Nếu chỉ mong cho xong chuyện mà muốn
được Phật, Bồ Tát gia bị sẽ khó
như lên trời! Trừ chí thành niệm Phật, niệm
Quán Âm và chí thành khẩn thiết tụng kinh, lễ sám ra,
không có phương pháp thứ hai nào cả! Xin hăy sáng suốt
soi xét!
4. Thư
trả lời cư sĩ Lư Cẩn Đan
Nhận
được thư, biết các hạ có ḷng bảo vệ
đạo tột bậc chân thật, tha thiết. Những
gă chủng tử địa ngục muốn làm cao nhân bậc
nhất từ ngàn xưa đến nay cực đáng
thương xót. [Ngụy thuyết] “Khởi Tín Luận là ngụy tạo” không phải
do Lương Nhậm Công (Lương Khải Siêu) đề
xướng, mà là do Nhậm Công lấy ma thuyết của
Âu Dương Cánh Vô[18]
làm căn cứ, coi đó như luận thuyết quyết
định nhằm phô phang “ta là kẻ học rộng có thể
phân định chân, ngụy!” Âu Dương Cánh Vô là hạng
ma chủng đại ngă mạn, mượn cái danh hoằng
pháp để cầu danh, cầu lợi. Ông ta cho Lăng
Nghiêm, Khởi Tín Luận là ngụy tạo, chính là v́ muốn
mê hoặc hàng sĩ đại phu vô tri vô thức nhằm mong
họ sẽ sùng phụng ḿnh như một vị đại
pháp vương! Ông ta mượn cái danh thông suốt Tướng
Tông (Duy Thức) để ngạo mạn cổ kim. Phàm những
ǵ các vị cổ đức tông Thiên Thai, Hiền Thủ
đă nói chẳng hợp với ma kiến của ông ta
đều bài xích là “thả rắm”, nhưng những kẻ
thông minh do thấy ông ta thông hiểu Tướng Tông liền
đua nhau sùng phụng là bậc thiện tri thức! Tướng
Tông lấy Nhị Vô Ngă[19]
làm chủ yếu, ông ta chỉ hoại một thứ là Ngă
Kiến, chứ trọn chẳng có khí phận Vô Ngă của
Tướng Tông. Kẻ ma mị mà ai nấy vẫn tin,
đáng buồn thay!
Chưa thọ giới,
chớ nên đắp mạn y năm điều hoại sắc.
Y năm điều ấy không chia thành khối (Y
năm điều, mỗi một điều cắt ra
thành một miếng dài một miếng ngắn, [mỗi một
miếng nhỏ ấy gọi là một khối]), cũng không phải là hải thanh; hải
thanh là áo dài rộng tay. Ngày nay trong pháp môn không có người
nên [ai nấy] mặc sức làm càn. V́ thế, người
thọ Ngũ Giới đều đắp y Ngũ Điều[20],
trái nghịch cấm chế của đức Phật,
nhưng Tăng lẫn tục đều b́nh chân như vại,
cũng đáng cảm khái lắm thay!
5. Thư
trả lời cư sĩ Diệp Phước Bị
Ngày hôm
qua, thầy Đương Gia đưa thư của ông
cho Quang. Quang đọc thư, biết tuy cường
đạo đến cướp đồ đạc của
ông mà ông chẳng bị mất một vật nào, c̣n bà cụ
ở pḥng đối diện bị cướp mất một
cái rương và các thứ quần áo. Đấy chính là chứng
cớ rơ ràng Tam Bảo gia hộ [cho ông]. Chỉ nên gắng
sức niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Thế
Âm Bồ Tát, há nên lầm lạc sanh ḷng sợ hăi, muốn
dời đi chỗ khác! Ông xem có chỗ nào là nơi yên vui
đâu? May mắn là chỗ ấy nghèo nàn nên vẫn c̣n
chưa gặp họa lớn. Nếu ở nơi am giàu có,
sợ sẽ càng nguy hiểm hơn!
Năm Dân Quốc 19
(1930), ông Quách Chấn Thanh, chủ tiệm giấy Hợp
Pháp ở đường Cảnh Đức, Tô Châu, theo một
người già trong nhà ông ta đến quy y. Quang bảo ông
ta: “Hiện thời là t́nh thế hoạn nạn, hăy nên chí
thành niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Âm, sẽ liền
có thể gặp dữ hóa lành, gặp nạn mà được
hên”. Tháng Chạp năm sau, ông ta qua Thượng Hải.
Chiến sự nổ ra ở Thượng Hải, chẳng
thể không trở về đất Tô được.
Đến mùa Xuân năm Dân Quốc 21 (1932) vẫn c̣n chiến
tranh, chẳng thể quay về được. Do
đường xe lửa bị cắt đứt, Chấn
Thanh liền ngồi tàu thủy nhỏ đi ṿng theo ngă Gia
Hưng trở về Tô Châu. Nhưng thuyền bè qua lại
thường bị cường đạo cướp bóc;
Chấn Thanh sợ bị cướp, trong tâm thầm niệm
thánh hiệu Quán Âm. Không lâu sau, cường đạo kéo
đến, cả thuyền đều bị cướp sạch
sành sanh. Chấn Thanh là một kẻ mập mạp, mặc
một cái áo da, nhưng ở giữa bao người, bọn
cường đạo trọn chẳng thèm hỏi tới
ông ta! Đủ biết niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ
Tát quyết định được Bồ Tát gia bị,
chẳng đến nỗi gặp tai họa ngoài ư muốn.
Quang đọc qua
thư ông, bỏ trong ngăn kéo của bàn viết, nay muốn
phúc đáp, t́m khắp nơi không thấy. Do vậy nghĩ
đấy là do Bồ Tát thị hiện cho ông một dấu
hiệu để ông nhất tâm niệm Phật, niệm Bồ
Tát ḥng ngừa họa giữ thân. Nếu ông chí thành, cường
đạo thấy ông mà như không thấy, hoặc thấy
những đồ đạc của ông là thứ chúng chẳng
cần, chẳng đến nỗi gây tổn thương
cho ông. Hiện thời bất luận là ai, đều phải
niệm A Di Đà Phật và niệm Quán Thế Âm Bồ Tát
để làm quả núi nương tựa. Chỉ nhất
tâm thường niệm, chẳng cần phải sợ
hăi! Xin hăy sáng suốt suy xét!
6. Thư
trả lời cư sĩ Khang Kư Dao (thư thứ nhất)
Chương
tŕnh của hội niệm Phật rất hay, nhưng
đối với phụ nữ đang độ tuổi
thanh xuân hăy nên bảo họ ở yên trong nhà niệm Phật,
đừng đến dự hội. Bởi lẽ, hiện
thời ḷng người quá bại hoại, lại c̣n có
binh sĩ [trấn đóng khắp nơi], sợ giữa
đường gặp chuyện chẳng đúng pháp th́
người ấy lẫn hội niệm Phật đều
mất thể diện. Đấy chính là ư nghĩa trọng
yếu để né hiềm lánh họa. Dương Thúc Cát
đă xuống núi vào hôm Mười Ba tháng trước. Hiện
thời thiên hạ rối beng, đất Thiểm càng rối
ren quá mức. Há nên đang vô sự lại manh nha tâm niệm
du hành? Há chẳng phải là đang ở trong yên ổn lại
t́m kiếm nỗi nguy hiểm ư? Ngàn muôn phần chớ
nên đi ra ngoài! Dẫu muốn cùng mọi người đi
du lịch ngắm cảnh, cũng nên đợi tới lúc
thái b́nh không có chiến tranh th́ mới nên. Ở nhà tuy phiền,
nhưng chẳng đến nỗi phải có chuyện lo
nghĩ chi khác. Đang trong thời loạn này, dẫu đi
ra ngoài thân chẳng gặp phải họa ương th́ vẫn
phải suốt ngày lo nghĩ cho gia quyến, há chẳng nên
giữ cho cơi ḷng thanh tịnh, không phải bận tâm chuyện
ǵ ư?
Cái chết của Hy
Chân là do bị trời phạt, ông ta nhận được
một lá thư tiến bộ liền muốn giết sạch
hết thảy những người thuộc giới chánh
khách. Do vậy, chưa đến được kinh đô
liền ngă bệnh, tới kinh đô chết liền. Nếu
người ấy không chết, ắt sẽ đến nỗi
đại loạn! Trời già có mắt, khiến cho ông ta
bị chết trước để ông ta chẳng đến
nỗi bỗng dưng gây nhiễu loạn được!
Hùng Đại Minh có một đứa con hết sức có
thiện căn (chưa đầy nửa tuổi đă
biết lôi kéo bà nội và cha mẹ, ép họ lễ Phật.
Nếu họ thuận theo th́ nó sẽ vui vẻ). Do tham dự cuộc Bắc Chiến và
chiến trận Hồ Hám[21],
đứa con ấy liền chết; ông ta gần như cuồng
si, gởi thư kêu khổ. Quang bèn chỉ thẳng [nguyên
nhân] là do bị trời phạt; nếu chẳng sửa
đổi hành vi, h́nh phạt ấy đâu phải chỉ
có như thế! Các ông đă tín phụng Phật pháp, hăy nên
lấy tâm Phật làm tâm [của chính ḿnh] th́ sẽ hữu
ích. Nếu [cứ hành xử] giống như Đại
Minh và Hy Chân th́ đáng gọi là “uổng làm đệ tử
Phật” vậy! Mắt Quang không tốt chứ không phải
là thường sanh bệnh.
7. Thư
trả lời cư sĩ Khang Kư Dao (thư thứ hai)
Trước
kia đă gởi cho ông những sách cho chính Quang giảo duyệt
in ra; nay lại muốn nói rơ ư Quang, bởi lẽ mọi việc
cần phải suy nghĩ sâu xa th́ mới thành được.
Tiếp đó, tôi suy nghĩ: Nói tới sự giải trí
th́ chẳng thể làm như vậy được. Hơn
nữa, trẻ nhỏ vừa mới hiểu biết liền
dạy cho nó đóng tuồng, sợ nó sẽ chẳng vận
dụng tâm tư nơi hành hiếu hành đễ; cứ
chăm chút đổ công tô son trát phấn làm đào, kép, kép
nhọ, hề[22]…
sẽ trở thành bỏ gốc chạy theo ngọn, biến
khéo thành vụng! Thuở nhỏ, Quang nghe người già kể
trong làng của Quang vào ba bốn chục năm trước,
chỗ nào cũng đều véo von [những ca khúc] Tạp Hư[23]
(tức là con em b́nh dân và những người làm ruộng,
làm thợ v.v… hễ rảnh rang đều hát xướng), nhưng chẳng hát tuồng Vũ Hư[24],
c̣n những mặt khác đều giống như hát tuồng.
Hễ có ai mời hát [th́ người mời] đều phải
tự sắm sửa hết thảy rương tráp, trang
phục, vật dụng, c̣n họ (tức người nhận
lời đến hát) chỉ đi tay không tới. Lại
c̣n phải có đầy đủ thiếp mời, dập
dầu phụng thỉnh, v́ [diễn viên] chẳng nhận
tiền, được đăi đằng như khách.
Rước đến, tiễn đi mọi người
đều vui vẻ như vậy. Về sau, do mỗi lần
diễn xướng Tạp Hư ắt bị hạn hán, từ
đấy mới thôi! Đủ thấy viện lẽ giải
trí [để tập tành hát xướng] chẳng thể
không biến thành diễn tuồng thật sự!
T́nh cảm của phàm
phu bị xoay chuyển theo vật, đối với h́nh
hài đất gỗ hễ trang sức đẹp đẽ
liền sanh tâm tham nhiễm. Huống chi con em đang độ
thơ ấu, hóa trang cho nó thành thân gái, tuy nói là đề
cao giáo hóa, nhưng thật ra là dạy cho con em phạm lỗi
khinh bạc! Huống chi muốn diễn xuất cho thật
giống, nếu chẳng để hết tâm trí vào vai diễn
th́ làm sao có thể khiến cho người khác sướng
mắt được? Quang vốn là tăng nhân, sao lại
hỏi đến chuyện giáo dục của người
khác? Chỉ v́ ông và tôi có duyên, chẳng thể không trọn
hết ḷng lo tính một phen. Chỉ nên giảng nói với
chúng về đạo hành hiếu, hành đễ. Chứ nếu
muốn cho chúng diễn tuồng th́ khoan hăy nói đến tệ
đoan, chỉ riêng chuyện uổng phí thời gian công sức
đă kể sao cho xiết? Sĩ tử chuyên tập luyện
cử nghiệp mà c̣n chưa thể chuyển hóa được
khí chất [thành người tốt đẹp] nữa là! Mượn
dịp vui chơi bèn dạy cho con đóng tuồng với ư
định [nhờ vào tuồng tích để] chuyển hóa
khí chất [của con cái] th́ sợ rằng sẽ chuyển
thành xấu th́ nhiều, chứ ít có đứa nào sẽ chuyển
biến thành tốt đẹp! Đừng mượn lời
thánh nhân giảng về sự giải trí để khơi
ra đầu mối khinh bạc cho con em.
Mấy năm trước
có mấy chục đứa học sinh theo học nghệ
thuật diễn xuất ở tại chùa Pháp Vũ, đêm
nào cũng diễn tuồng, giáo viên ngồi một bên xem. Bọn
chúng liền hóa trang thành ḥa thượng đón tiếp
khách [thập phương] đến dâng hương, quả
thật là khinh nhục Tăng sĩ! Quang nghe chuyện, khôn
ngăn đau tiếc! Đường đường là một
nhà trường lại để cho học sinh làm chuyện
vô ích ấy! Chẳng ngờ ông quy y Phật pháp, phát tâm vun
bồi nhân tài mà cũng cực lực tán đồng chuyện
đó! Cố nhiên, Quang chẳng sợ bị người
khác chê là cố chấp, không thông hiểu, mà quả thật
là v́ không chịu được nên mới phải nói! Đối
với những trước tác của học sinh, nếu
nh́n một cách thiển cận th́ đâu có trở ngại
ǵ, nhưng những kiểu ăn nói “văi rắm ầm
ĩ” v.v… rốt cuộc có ích ǵ đâu? Chỉ khiến cho
kẻ sáng mắt đau ḷng mà thôi! Dẫu giấy không mất
tiền mua, cũng chớ nên in những lời lẽ bậy
bạ ấy! Tri kiến của Quang như thế đấy,
nếu chấp nhận là đúng th́ hăy làm theo. Nếu không,
cũng nên coi như Quang ăn nói nhảm nhí, bỏ mặc
đó. Ông tự thực hiện chương tŕnh, quy củ
giáo dục của ông, Quang nào dám buộc ông đừng làm!
Một ngàn đồng
để in Văn Sao của Hùng Đại Minh sẽ in
được hai ngàn bộ. Nghe nói đă gởi chín
trăm bộ sang hai nơi là Thiểm và Biện (tức
thành phố Khai Phong). Xin hăy hỏi thăm xem Đại
Minh đă trở về đất Tần (Thiểm Tây) hay
chưa? Nếu ông ta trở về đất Tần, tôi sẽ
gởi hơn một ngàn bộ sang đấy để
chia ra tặng cho người có tín tâm ở đất Tần.
Xin hăy hồi âm ngay để tiện báo với Thượng
Hải Thư Quán gởi sách. Đối với thời cuộc
hiện nay, sợ rằng sẽ c̣n biến động lớn
lao! Hăy nên bảo gia quyến và hết thảy những kẻ
hữu duyên kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn
chay niệm Phật và niệm Quán Thế Âm ngơ hầu gặp
dữ hóa lành, gặp nạn thành hên. Nếu không, hễ
đao binh xảy tới th́ nỗi thảm thương sẽ
chẳng nỡ nào nói được đâu!
8. Thư
trả lời cư sĩ Khang Kư Dao (thư thứ ba)
Đă nhận
được thư viết trong tháng Sáu, do hành tung bất
định nên chẳng trả lời. Tôi chỉ nhận
được thư này mà thôi, những thư khác đều
chưa nhận được. Hiện nay, cuộc chiến
tàn sát bùng nổ, dân không lẽ sống; đang trong thời
buổi này, cố nhiên hăy nên nhất tâm niệm Phật
để cầu xuất ly cũng như khuyên nhủ
người hữu duyên.
9. Thư
trả lời cư sĩ Khang Kư Dao (thư thứ tư)
Nhận
được thư, biết ông và người trong đất
Tần đều nằm mộng. [Đang nhằm lúc] dân
đất Tần không c̣n lẽ sống mà cứ muốn mở
đạo tràng, hoằng dương pháp hóa, thỉnh pháp
sư Đế Nhàn [sang đấy hoằng pháp], há Sư
chịu được sự gian nan ấy hay chăng? Sao
lại nói chẳng thể không khẩn khoản thỉnh cầu,
dùng cách ṿng vo ấy để làm ǵ? Vị sư X… (người
này quyết chớ nên thỉnh) chỉ
biết ăn nói lớn lối, trọn chẳng chân thật
hành tŕ. Thỉnh loại pháp sư ấy đến hoằng
pháp là muốn cho người khác học theo khuôn sáo ăn
nói lớn lối, hay là muốn cho họ chân thật hành
tŕ? Trước kia, Quang đă từng nói với ông, chắc
là ông cho rằng tôi chèn ép bậc hiền triết chứ ǵ?
Nếu bảo Quang chỉ
cho ông người nào [đáng thỉnh] th́ Quang thường
ở trên biển cả, trọn không một ai qua lại với
Quang, biết ai là người phát Bồ Đề tâm muốn
lợi khắp hết thảy mọi người đây?
Chuyện này quả thật là chuyện khó nhất trong những
chuyện khó! Nếu cầu những Tăng sĩ chỉ
biết ăn cơm, mặc áo th́ quả thật là có,
nhưng bọn họ vẫn chẳng muốn lên phương
Bắc là nơi rét buốt để ăn cơm, mặc
áo, huống hồ hoằng pháp lợi sanh ư? Hăy làm thế
nào để chỉnh đốn Tăng sĩ cũng
như Nho sĩ ở đất Tần khiến cho ai nấy
đều y theo đạo của thánh nhân Nho - Thích mà hành.
Than thở sườn sượt khôn xiết vậy thay! Sổ
quyên góp và thư ngỏ đă gởi trả lại trong
ngày hôm qua rồi.
10. Thư
trả lời cư sĩ Lưu Quán Thiện
Nhận
được thư, biết cư sĩ đạo niệm
tinh thuần, thân yên, tâm vui, tôi an ủi lắm! Đối
với chuyện [giới giáo dục đ̣i] biến chùa miếu
ở Giang Tô [thành trường học], Quang đă sớm gởi
thư cho hai ông Ngụy Mai Tôn và Vương Ấu Nông xin họ
hăy xoay sở. Ông Ngụy cầm thư Quang đến gặp
tỉnh trưởng họ Hàn và trưởng ty giáo dục
họ Tưởng. May sao, ông Tưởng cũng thuộc
giới Phật giáo [nên nói vun vào], ông Hàn liền chấp thuận
băi bỏ lệnh này. Ông Tưởng thương lượng
với Ấu Nông, [gợi ư ] nếu kiến nghị này
không do các tùng lâm liên danh thưa tŕnh th́ sẽ không xong. Ấu
Nông bèn lôi kéo ḥa thượng Diệu Liên ở Quán Âm Am tại
ngơ Dương B́ (vị này rất có khí khái lăo thành), cậy Sư liên lạc. Diệu Liên tới
các nơi kêu gọi, các nơi đều co cụm chẳng
dám ló đầu ra! Về sau, Sư nói chuyện với ḥa
thượng chùa Tỳ Lô, ḥa thượng Tỳ Lô cực
lực tán thành chuyện ấy. Sư Diệu Liên sang Vu Hồ
thâu tô, đi ngang qua chỗ ḥa thượng Tỳ Lô lại
liên lạc, họ bèn ước định ngày Hai
Mươi Bốn cùng nhau tới Kim Lăng (Nam Kinh) tŕnh bẩm.
Đơn thỉnh cầu ấy do Diệu Liên cậy bạn
bè soạn thảo, được cụ Mai Tôn sửa chữa.
Lại đưa cho ông Tưởng đọc qua trước.
Do thấy kỳ hạn
c̣n sớm, Ấu Nông bèn đem văn bản ấy gởi
cho Quang xem, nghĩ rằng chuyện này đă được
băi bỏ rồi, Ấu Nông (nhận được
văn bản ấy trước ngày Mười Lăm) cho là chuyện này nhất định đă
được giải quyết xong; nhưng [vẫn ngại]
người trong hội Giáo Dục thế lực khá lớn,
[nếu họ] ngấm ngầm âm mưu chắc sẽ gây
ra chuyện đáng lo ngại, liền liên lạc với
hai vị pháp sư Đế Nhàn và Đạo Nguyên, [xin họ]
gởi thư cho bộ Nội Vụ để vĩnh viễn
tránh được hậu họa. Quang nhận được
thư [của Ấu Nông] liền gởi thư cho ngài
Đế Nhàn. Tới bốn năm ngày sau mới nhận
được thư báo rằng: “Bị bệnh chẳng
thể gắng gượng được”. Trước
đấy Quang đă gởi thư cho cư sĩ Trang
Tư Giam, cậy ông ta đến Nam Kinh chạy vạy,
tŕnh báo rơ ràng cho bộ Nội Vụ. Chắc là chẳng
đến nỗi v́ sức Quang kém hèn mà sự việc bị
vùi lấp vậy! (Cư sĩ La Sưởng Sinh tới
núi cho biết Tư Giam sang đất Hàng sắp trở về
kinh đô, cùng đi với ông ta. Tới Nam Kinh phải ở
lại một ngày; v́ thế Quang liền gởi thư cho ông
Trang. Ngày Mười Chín, ông La xuống núi, ước chừng
hôm Hai Mươi Bốn th́ Tư Giam đă đến Nam
Kinh rồi)
11. Thư
trả lời cư sĩ Lưu Quán Thiện (thư thứ hai)
Nhận
được thư biết ông đă lành bệnh, an ủi
lắm! Chuyện Giang Tô hoàn toàn do công sức của ba vị
[Ngụy] Mai Tôn, [Tưởng] Trúc Trang, [Vương] Ấu
Nông, nhưng cư sĩ Trang Tư Giam lại có mặt
đúng lúc. [Thế là] Quang gởi thư cậy ông ta gặp
tỉnh trưởng để tŕnh bày rơ ràng, v́ thế sự
việc được hoàn toàn giải quyết xong. Nếu
bảo là công của Quang th́ chẳng qua chỉ là gởi
thư cho các vị ấy cậy họ xoay sở mà thôi,
nào đáng để nhắc đến? Nếu coi đó là
công, tức là đă mạo nhận công của người
khác làm công của chính ḿnh vậy!
Lệnh thích[25]
chôn con, chết cháu, ước theo mặt t́nh cảm con
người th́ cũng chẳng thể nào không cảm động,
nhưng bi thương đến nỗi gần như
điên cuồng tức là chỉ biết có con có cháu, chẳng
màng tới cái thân! Sao lại mê chấp đến mức
như thế ấy? Thử nghĩ: Con cháu chịu ơn tổ
phụ, dẫu tan xương nát thân cũng chẳng thể
báo đáp được; nhưng con cháu khi phải chôn tổ
phụ có đau đớn như cuồng hay chăng? Nếu
là hạng con cháu biết luân lư th́ cũng buồn bă đôi
chút, bày ra nghi lễ đại lược th́ vẫn c̣n có
thể khiến cho vong linh của tổ phụ được
an ủi, vui sướng. Chứ nếu là hạng con cháu từ
nhỏ đă quen thói kiêu căng, phóng túng, tà vạy, xa xỉ
th́ sáng chiều chỉ mong cho tổ phụ chóng chết ḥng
được tùy ư chơi bời, cờ bạc, tiêu dao,
không ai quản thúc! Nếu tổ phụ chết thật, ắt
trong tâm chúng nó sẽ hoan hỷ chẳng thể dùng ngôn ngữ
nào để h́nh dung được! Từ đấy,
chúng nó sẽ dùng hết gia nghiệp do tổ phụ tận
lực duy tŕ để tạo những ác nghiệp địa
ngục cực nặng; c̣n đối với
chuyện vun bồi đức, tu phước th́ bỏ ra
một đồng sẽ giống hệt như phải cắt
thịt trên thân của chính ḿnh, thà chết cũng không chịu
bỏ ra! Do vậy, hạng chôn vùi thanh danh của tổ phụ,
gây nhục cho tổ phụ đến trăm ngàn đời
đông lắm! Trong mắt ông, cha, loại con cháu ấy
cố nhiên vẫn được nâng niu như châu báu! Xét tới
nguyên nhân, nói chung là do quá coi trọng cái tâm của chính ḿnh,
chẳng biết tới lư rộng lớn sâu xa mà ra! Chẳng
đáng buồn sao!
Xưa kia, Phạm
Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) coi người khác
như chính ḿnh, coi kẻ sơ hệt như người
thân, coi thiên hạ là một nhà, coi cả Trung Quốc
như một người. V́ thế, từ đầu đời
Tống cho đến cuối đời Thanh, trọn một
ngàn năm, con cháu đỗ đạt chẳng dứt. Họ
Bành ở Trường Châu tận lực làm lành, từ
đầu đời Thanh đến nay, đỗ đạt
đứng đầu thiên hạ; nhà ấy có bốn
năm vị Trạng Nguyên, anh em ruột thịt cùng đỗ
Tam Đỉnh Giáp[26].
Do họ đời đời thờ Phật, phụng
hành Âm Chất Văn, Cảm Ứng Thiên, sẵn chí muốn
tạo lợi lạc cho người khác lâu dài nên trời
ban cho sự báo ứng sâu dầy lâu dài.
Nếu lệnh thích là
người thông hiểu, sẽ tự thẹn đức
bạc cho nên gặp phải quả báo ấy. Từ đấy,
nỗ lực tích đức để mong trời
thương xót ta th́ con quế cháu lan sẽ tiếp nối
nhau sanh ra. Hiện thời thế đạo nhân tâm ch́m
đắm tới tột cùng! Thiên tai nhân họa cũng lắm
phen đến mức tột cùng. Nếu lưu truyền
những thiện thư có ích cho thế đạo nhân tâm
để mong [ai nấy] cùng lên bờ giác, hoặc cứu
vớt những người dân cùng quẫn đang mắc
nạn lũ lụt, băo tố, để mong họ
được sống sót trong cảnh chết chóc; so với
để lại tài sản cho con cháu ăn nhậu,
chơi bời, cờ bạc, khiến cho kẻ khác thóa mạ,
th́ sao bằng chính ḿnh làm chuyện cứu người, cứu
đời để vun bồi phước cho chính ḿnh
trong đời sau ngơ hầu con cháu sẽ được
thọ dụng tới trăm ngàn đời ư? Trong mùa
Hạ này, tai ương băo tố thê thảm nhất! Trong
hai mươi huyện thuộc quyền quản hạt của
đạo Cối Kê[27]
có đến mười tám huyện báo cáo gặp nạn
băo. Trong ngày mồng Mười tháng Tám, Đài Châu lại bị
lụt lớn. Có chỗ nhà dân bị ngập sâu dưới
mấy thước nước. Những chỗ gần
sông đều ngập nước, thuyền bơi
được trên cầu, t́nh trạng thê thảm chắc
cứ tưởng tượng sẽ h́nh dung được.
Đạo Doăn Hoàng Hàm
Chi tên là Khánh Lan, dốc ḷng tin tưởng Phật pháp, ăn
chay trường, niệm Phật. Năm trước, Đài
Châu bị tai nạn, ông ta đă quyên mộ cứu chẩn
rộng răi. Năm nay tai nạn càng nghiêm trọng hơn, do
quyên mộ khó khăn, dân chúng bị tai nạn thật
đáng thương, [ông Hoàng] tính muốn đốt ngón tay
để lo cứu trợ, chắc sẽ cảm động
được ḷng người. Cứu được một
người, công đức vô lượng, huống là nhiều
người ư? Nay ông ta bảo Quang đứng ra quyên mộ
thay, Quang tự thẹn đức bạc, ai chịu nghe lời
ḿnh nói? Nhân nỗi lo buồn của lệnh thích khiến
Quang động ḷng trắc ẩn, [Quang cho rằng] nếu
ông ta xót thương con cháu bị chết yểu giữa
độ tuổi trung niên, hăy v́ họ mà lo liệu chuyện
cứu tế [dân chúng đang bị tai nạn] nhằm cầu
siêu cho linh hồn họ, vun bồi phước đức
cho chính ḿnh, tạo duyên chiêu cảm con lan cháu quế, hoặc
cầu siêu cho cha mẹ, tổ tông, họ hàng, hoặc cầu
cửa nhà b́nh yên. Chỉ cần xuất phát từ ḷng Thành
th́ trọn không một ai chẳng được phước
báo.
Con người hiện
thời phần nhiều mượn chuyện công để
lo chuyện tư, v́ thế người ta khó tin tưởng
được! Nếu luận về tư cách làm người
của ông Hoàng Hàm Chi th́ có thể nói là trong số các trưởng
quan [hiện thời] không có được đôi ba người
như ông ta! Ở Ninh Ba, mỗi năm ông ta thí thuốc
hơn hai vạn đồng, huống là thí tặng thiện
thư và làm đủ thứ chuyện tốt lành ư? Ông
ta làm quan chỉ đem tiền của trong nhà bù đắp
[cho chuyện công ích], chứ không phải là phường
bóc lột dân chúng, gây hại cho nước nhà nhằm vinh
thân ph́ gia! Ông Trương Thụy Tằng là bạn thí tặng
thiện thư của ông ta. Thụy Tằng lập một
cơ sở cho kẻ b́nh dân vay tiền tại Dương
Châu (không cần trả tiền lời, chỉ cần
trả đủ vốn), gởi
thư xin Hàm Chi thành lập [một cơ sở giống như
vậy] tại Ninh Ba. Hàm Chi liền thành lập ngay. [Nhờ
vậy], phàm những người buôn bán nhỏ không có tiền
vốn đều không phải lo nghĩ nữa. Chỉ qua
một chuyện này đă biết được đại
khái. Trong số những người bản thân các hạ quen
biết có rất nhiều nhà giàu có. Như các ông
Trương, Hoàng v.v… sanh trưởng trong nhà phú quư, cố
nhiên chẳng biết đến nỗi khổ v́ bần
cùng [mà vẫn làm những chuyện cứu tế rộng
răi].
Nếu chịu phát tâm
v́ khắp mọi đứa con của trời đất
mà hành cứu tế, cố nhiên sẽ chẳng có những
chuyện gia đ́nh bất hạnh, chôn con, chết cháu, con
cháu bại hoại thanh danh gia đ́nh khiến tổ phụ
phải ngậm hờn nơi chín suối! Nếu chịu
phát tâm, hăy giao trực tiếp cho Đạo Doăn Hoàng Hàm Chi ở
dinh thự quan Đạo Doăn Ninh Ba thâu nhận. Cố nhiên
Quang trọn chẳng nhúng tay vào. Quang nghèo không tấc đất
cắm dùi. Trong năm trước đă hai lần đem
món tiền in Văn Sao là năm trăm đồng để
cứu đói; năm ngoái cũng quyên tặng mấy chỗ
một trăm đồng. Mùa Hạ năm nay lại đem
khoản tiền một trăm đồng do bạn bè tặng
để in Văn Sao gởi cho Hoàng Đạo Doăn nhằm
cứu trợ tai nạn. Dùng tiền của người
khác để giăi bày tấm ḷng của tôi mà thôi!
12. Thư
trả lời cư sĩ Lưu Quán Thiện (thư thứ ba)
Nhằm
tiết Trung Thu khí trời trong mát, nghĩ vầng trăng tṛn
vành vạnh trong tâm cư sĩ cũng giống như vầng
trăng trên bầu trời, rạng ngời, trong trẻo,
không cảnh nào chẳng chiếu, vui mừng an ủi lắm.
Chuyện [hội giáo dục] mưu chiếm đoạt
chùa miếu ở Giang Tô bị dẹp tan. Trong chuyện này
Ngụy Mai Tôn dốc sức xoay xở rất nhiều,
nhưng Vương Ấu Nông cũng khá phí tâm lực,
nhưng chỗ hay nhất vẫn là nhờ ông Tưởng
Trúc Trang chỉ vẽ.
13. Lược
truyện ḥa thượng Pháp Tràng
Sư húy
Hành Xí, hiệu Pháp Tràng, biệt hiệu Nhị Tuyết.
Nhà ở Chương An, họ Lâm, vốn có tên là Tăng
Chí, tên tự là Khả Nhậm. Tổ tiên vốn là tiến
sĩ Chánh Trọng Công đời Tống, suốt mười
lăm đời đều nối ḍng văn học. Chiêu
Công – vị từng được ban tặng tước
hiệu Đông Các Đại Học Sĩ – chính là cha của
Sư. Sư chưa đầy tuổi khỏi địu,
Chiêu Công đă khuất núi. Sư bẩm tánh hiếu hữu,
ham học. Năm mười sáu tuổi vào trường học.
Năm hai mươi ba tuổi, tức năm Ất Măo
(1615), đỗ kỳ thi Hương, tới đọc
sách tại chùa Hưng Thiện, làm bạn với các thiền
tăng, tin pháp xuất thế. Năm hai mươi bảy
tuổi, mẹ Sư được vua khen thưởng sự
thủ tiết và hiếu thuận, phong tặng tước
hiệu Phu Nhân. Giang Thị (mẹ Sư) mất, Sư
đau buồn chẳng thiết sống, nghĩ nhờ vào
Phật pháp để báo đáp ân cù lao, nhân đó thỉnh
các pháp bảo để tụng. Như đă tập quen từ
đời trước, từ đấy Sư làm những
chuyện tốt lành như phóng sanh, chôn vùi hài cốt [bị
bộc lộ] v.v…
Năm ba mươi ba
tuổi, Sư chuyển sang sống ở chùa Mật Ấn
núi Đầu Đà, đây chính là đạo tràng Nhất
Túc Giác (một đêm giác ngộ) đời Đường.
Hằng ngày, Sư qua lại học tập nghiên cứu với
Thọ Nghiệp Sư là Tăng Ma Mă Sính Quân, càng biết rơ
có chuyện hướng thượng. Tăng Ma từng gặp
thiền sư Bác Sơn Vô Dị[28].
Ngôi điện cũ trong chùa nghiêng ngả, khéo sao có khu sơn
trại trên mạch núi gần đó, Sư bèn đẵn sạch
cây cỏ, [khiến nó] quang đăng như mới dựng. Ngay
trong lúc ấy, Sư đă có ư sửa chữa, tạo dựng
[chùa Mật Ấn]. Sư đỗ Tiến Sĩ năm Mậu
Th́n (1628) lúc ba mươi lăm tuổi. Những người
đậu cao được chọn nhiệm sở đầu
tiên. Thoạt đầu Sư bói cỏ Thi, chọn làm huyện
lệnh Bồ Kỳ thuộc đất Sở (Hồ Bắc).
Ngự Sử Hoàng Tông Xương do thấy Tăng Ma khắc
in cuốn Tông Môn Tam Quan Ngữ liền hỏi Sư:
- Trong nhà Nho cũng có
tam quan ư?
Sư nói: - Có!
Hỏi: - Sơ quan (cửa
đầu tiên) là ǵ?
Sư đáp: “Bất tri vi bất tri, thị
tri dă”[29]
(Không biết nói là không biết, đấy chính là biết vậy).
- Nhị quan?
Sư đáp: -“Ngô hữu tri hồ tai! Vô tri dă”
(Ta có biết chi đâu, chẳng biết ǵ cả)[30].
- Tam quan?
Sư đáp: “Ngô vô hành nhi bất dữ nhị
tam tử dă, thị Khâu dă”[31]
(Ta không làm điều ǵ mà chẳng để cho hai ba
người các anh được biết, Khâu làm người
như vậy đấy).
Ông Hoàng vỡ lẽ,
trở thành bạn rất thân với Sư. Sư từng ở
nơi công quán, khi đụng đến cái bô đi tiểu
liền có chỗ tỉnh ngộ, bèn viết kệ rằng:
Kỳ tai! Đằng nịch khí,
Thông thân hắc tất tất,
Đẩu nhiên khám phá thời,
Tuyết tiêu địa thượng thấp.
(Lạ thay! Cái bô tre,
Toàn thân sơn đen kịt,
Bỗng nhiên khi nhận biết,
Tuyết tan, đất ướt đầm)
Trong khi cai trị,
Sư dùng đức để giáo hóa trước tiên, chí
thành cảm động ḷng trời, cảm được
mưa ngọt mấy lần giáng xuống. Quan Tuần Án là
Tống Hiền lấy làm lạ, nhân dịp sang chúc mừng
tướng công Đại Tể Lư Trường Canh được
vua gọi vào chầu, bèn cùng dâng sớ tâu lên. Vua liền
truyền chỉ những người đảm nhận
chức vụ Khoa Đạo[32]
không nhất thiết phải tuyển từ người
đỗ đạt, mà trước hết phải chọn
từ những người được đề cử
để sung vào chức vụ ấy. Khi đó, mọi
người đều cùng bàn tán: “Mai sau, chắc Bồ Kỳ
sẽ là nơi cử hành điển lễ [thăng chức]
long trọng ấy”. Do vậy mới có tác phẩm Sở Bồ
Kư Thụy (ghi chép về chuyện tốt lành ở Bồ Kỳ
trong đất Sở) được khắc. Dân đất
Bồ lập Cam Lộ Sanh Từ[33].
Hai lần Sư tổ chức thi Hội ở đất
Sở, lập Trung Ẩn Viên trong dinh thự để giảng
sách cho học tṛ vào mồng Một, ngày Rằm. Các sanh
đồ[34]
thuộc những ấp lân cận kéo đến nghe
đông như họp chợ. Khi ấy, Sư có cho khắc
cuốn Giảng Học Pháp Vũ. Khi măn nhiệm kỳ
[làm huyện lệnh tại đất Bồ], Sư
được chọn giữ chức Hàn Lâm Biên Tu[35].
Gặp dịp Đông Cung (Thái Tử) được vua cho
ra lập dinh thự riêng, vua bèn chọn Sư làm giảng
độc (thầy dạy học) [cho Thái Tử], Sư
bèn nhận chức. Sư luôn lo cho dân cho nước, ḷng
tha thiết mong làm lợi cho dân chúng[36].
Sư trông coi tấu chương của cả sáu bộ,
chiếu, đối, ghi chú những bản cáo, sắc[37],
soạn văn, biên tập tu chỉnh bộ Hội Điển
Lục Tử Cách Ngôn, nhận chức Kinh Diên Giảng Quan[38],
rồi chuyển thành Hữu Trung Doăn[39]
của Hữu Xuân Phường thuộc Chiêm Sự Phủ
Hữu kiêm Thị Độc Học Sĩ[40].
Rồi lại được thăng lên trông coi Thiếu
Chiêm Sự Phân Hiệu. Năm Quư Mùi (1643), Sư làm Chủ
Khảo kỳ thi Hội.
Năm Giáp Thân (1644), giặc
Lư Tự Thành xâm phạm cung khuyết, Sư gặp phải
quốc nạn, bị tra khảo tàn khốc gần chết,
vẫn giữ tiết tháo chống giặc không khuất phục.
Quân giặc bị [quân Thanh vượt quan ải vào Trung
Nguyên đánh] bại, bèn xôn xao rút về phương Nam. Khi
ấy hậu duệ của nhà Minh là Long Vũ[41]
dấy lên ở đất Mân (Phước Kiến); kiên
quyết giao cho Sư giữ chức Nội Các Đại
Học Sĩ. Đến khi Long Vũ Đế [bị quân
Thanh truy kích] phải chạy sang đất Việt (Quảng
Đông), Sư biết “theo mạng trời khí số nhà
Minh đă hết”, liền xin xuống tóc với vị kỳ
túc[42]
ở Lă Phong là Quá Tuân. Khi ấy, nhằm tháng mùa Đông
năm Bính Tuất (1646), Sư tṛn năm mươi bốn
tuổi. Khi nhà Đại Thanh thống nhất sơn hà,
trưng dụng những bậc di lăo[43]
trong thiên hạ, riêng ḿnh Sư không tuân chiếu. Nhà chức
trách ép Sư ra cộng tác, Sư toan tự sát. Ngài Quá Tuân nói:
“Ông đọc sách nhưng không hiểu được
đạo. Đang trong lúc nước nhà tan vỡ, quân
Thanh noi theo điều nghĩa vào quan ải, đánh một
trận dẹp tan giặc [Sấm Vương Lư Tự
Thành], báo thù cho các vị hoàng đế [nhà Minh], quả thật
có đức đối với nhà Đại Minh. Nếu
ông chủ trương trung thần chẳng thờ hai họ,
toan học theo chí của Sào Do[44],
chưa chắc đă không được [triều đ́nh]
chấp thuận”. Sư nghe vậy bèn mặc tăng phục
đến gặp; quả nhiên được toại nguyện.
Từ đấy, thiết tha dùi mài, dốc ḷng nghiên cứu
đại sự sanh tử. Một đêm nghe tiếng
chuông, chướng ngại liền tan ngay, có kệ rằng:
Thử dạ chung thanh kháp dị thường,
Nhất chùy đả phá xú b́ nang,
Bách đơn bát hạ như lôi hống,
T́nh dữ vô t́nh hà xứ tàng?
(Chuông gióng đêm nay thật
lạ kỳ,
Một dùi đập
nát đăy da hôi,
Trăm tám tiếng rền
như sấm động,
T́nh với vô t́nh ẩn
chốn nao?)
Liền trở về chùa
Mật Ấn để tṛn nguyện xưa, tu bổ Tổ
Đ́nh, gặp nhiều chuyện cảm ứng huyền
diệu đă được chép đầy đủ trong
bi kư trung hưng. Sư vốn chuyên chú nơi đạo Thiền,
thường có chỗ ngộ, nhưng chưa dám chắc
bèn thiết tha, kính mộ tham bái khắp các vị thiện
tri thức. Ngẫu nhiên Dư Khổng Khiêm ở Côn
Dương tham bái với Tuyết Đậu Vân ḥa thượng
trở về, thuật lại lời của Tuyết Đậu
như sau: “Pháp Tràng thiền giả
nếu muốn tham phỏng các phương, chắc chỉ
có Phí huynh[45]
của ta là kham nổi!” Sư nghe xong, thưa: “Đúng là lời của bậc
thiện tri thức, tôi đă có ư muốn đến gặp
Tuyết Đậu”. Liền qua núi Tứ Minh yết kiến
Tuyết Đậu. Lễ bái xong, Tuyết Đậu nói: “Nếu như lăo tăng không c̣n
th́ lễ bái là đúng, hay không lễ bái là đúng?”
Sư toan thưa bày, Tuyết Đậu hét lên một tiếng
thị oai. Sư bất giác mướt mồ hôi, ngay lập
tức thấy được chỗ dụng ư của Tuyết
Đậu.
Đến tối, Tuyết
Đậu đột ngột giơ nắm đấm, hỏi:
“Cái ǵ sanh?” Sư thưa: “Lấy hai miếng da ghép lại!”
Tuyết Đậu lại giơ nắm đấm, Sư
nói: “Hễ tái phạm sẽ chẳng
dung”. Tuyết Đậu úp bàn tay, Sư nói: “Chẳng để ḥa thượng
khinh mạn!” Ngày hôm sau, Tuyết Đậu khai thị trong
giờ tọa hương, nói: “Ta
có một bài thiền kệ dạy cho Sư”. Sư nói: “Ở chỗ này chẳng tiêu mối
nghi được!” Tuyết Đậu nói: “Rốt cuộc để làm ǵ?”
Sư bước ra lễ ba lạy, lui ra, liền tŕnh kệ
rằng:
Thuấn mục đương cơ hoán thoại
đầu,
Hà như chỉ dụng lăo quyền thù,
Tổ thiền hội đắc hưu khinh tín,
Nhất diệp sơ phi biến giới thu.
(Chớp mắt
đương cơ, đổi thoại đầu,
Sao bằng nắm
đấm dạy cho nhau?
Tổ thiền hiểu
được, đừng tin vội,
Một lá vàng bay khắp
cơi thu)
Một bữa uống
trà xong, nói đến mọi chuyện phải đảm
đương, Tuyết Đậu tặng cho Sư tấm
biển “chân giác tái lai”, nói: “Thượng tọa c̣n gánh vác
được hay chăng?” Sư nói: “Chẳng phải là
tay giỏi gánh vác!” Tuyết Đậu nói: “Cổ nhân hễ
biết là chuyện quẩn quanh liền ngừng sai bảo
làm ǵ nữa!” Sư nói: “Tận lực nói không ra, Tuyết
Đậu đừng ra!” Sư trở về Vũ Lâm, Tuyết
Đậu có bài kệ tiễn đưa như sau:
Nhũ Phong cang lưỡng nguyệt,
Độc bộ khứ Tiền Đường
Nhất cú siêu phương ngoại,
Toàn cơ tuyệt phú tàng.
Lâm Tế chánh pháp nhăn,
Diệt khước hạt lư bàng,
Chỉ giả phá sa bồn,
Đăi tương vi cử dương,
(Nhũ Phong vừa hai
tháng,
Một ḿnh qua Tiền
Đường,
Một câu vượt
ngoài cơi,
Cơ phong hết giấu
che,
Lâm Tế chánh pháp nhăn,
Diệt sạch lũ
lừa mù,
Chỉ là phá chậu
cát,
Hăy đợi người
thốt lời)
Đến núi Thánh Quả,
tảo mộ Mă cư sĩ (tức cư sĩ Tăng Ma
Mă Sính Quân), ấy là v́ Sư chẳng quên nguồn gốc. Tham
yết khắp các phương, trở về chỗ Tuyết
Đậu thọ Cụ Túc Giới, quản lư nhà kho. Một
bữa, Tuyết Đậu xuống nơi ấy, bỗng
dưng đánh cho Sư một gậy bảo: “Nói ngay!”
Sư thưa: “Khoét thịt thành ghẻ”. Tuyết Đậu
nói: “Mới chỉ nói được một nửa”,
Sư nói: “Ngay cả một nửa cũng chẳng tiêu
được” Từ đấy, đầu mũi tên ghim
chắc[46],
không c̣n sơ sót, rơi rớt chỗ nào; người ghi
chép chẳng thể thuật hết. Mùa Xuân năm Quư Tỵ
(1653), Sư từ biệt trở về Đông Âu. Tuyết
Đậu viết thật to vào đầu cuốn sách: “Thân khiết lăo quyền” (Đích
thân ăn phải nắm đấm già), dặn ḍ bằng
bài kệ:
Biệt ngă xuân phong lư,
Lâm hành nhất cú thân,
Trượng đầu tuyên
đại ư,
Túc để bát phương trần.
Văng phục năi vô sự,
Tung hoành dĩ tuyệt luân,
Đáo gia nghiêm diện mục,
Sở dĩ tiếp gia tân.
(Giă
từ trong gió Xuân,
Dặn một
lời ân cần,
Đầu trượng
tuyên đại ư
Gót chân dạo cơi trần,
Qua lại trọn vô sự,
Tung hoành ai sánh bằng,
Tới nhà nghiêm sắc
mặt,
Để tiếp
đón gia tân[47])
Tuyết Đậu coi
trọng Sư giống như Ứng Am Hoa thiền sư
coi trọng Mật Am Kiệt thiền sư vậy. Năm
Giáp Ngọ (1654), Tuyết Đậu nhận lời thỉnh
của chùa Mật Ấn, tấn phong Sư vào ngôi vị
Tây Đường[48].
Hết thời hạn an cư, Tuyết Đậu trở
về Nhũ Phong. Sư lại đến thân cận,
thăm hỏi. Khéo sao, thân sĩ vùng Tứ Minh thỉnh Sư
trụ tŕ chùa Bảo Phước ở Đại Mai thuộc
huyện Ngân, Sư thấy nơi đó là chỗ ẩn dật
xưa kia của Hán Úy, lại c̣n hâm mộ phong cách cao cả
của Thường thiền sư[49],
bèn vui vẻ qua đó. Tuyết Đậu đề thơ
trên bức đảnh tướng[50]
có những câu như sau:
Thanh xuất ư lam, thùy tự nhĩ,
Đại Mai phong đảnh khán phong lôi
(Gió sấm Đại
Mai đầu núi ngắm,
Xanh trỗi hơn chàm,
ai giống ông? )
Đ́nh
viện [Bảo Phước Tự] bỏ hoang hơn tám
trăm năm, Sư cùng các thiền tăng chẳng ngại
đội sương, dầm tuyết, vâng giữ bổn
phận, gần - xa dần dần kéo về trở thành chốn
tùng lâm. Do vậy, ḥa thượng Phí Ẩn Dung có đề
tặng: “Lănh tụ trong pháp
môn, bao người trông ngóng, tám vạn thông xanh nhớ măi vẻ
mặt tươi cười”, ḥa thượng Mục Vân
Môn đề tặng: “Truyền
Tổ đăng ṿi vọi trên ngọn Thái Bạch, thú có sừng
tuy nhiều, nhưng chỉ một con lân là đủ [để
vượt trội hết thảy]” v.v… Sư đến
Thiên Đồng, ḥa thượng Mộc Trần Mẫn thỉnh
Sư thăng ṭa, thấy những điều Ngài đề
xướng liền nhiệt liệt ca ngợi. Viết lời
tựa cho Đại Mai Lục, có những câu như: “Ḷng Từ rỗng rang như hang
gió, chiếu rạng ông cháu. Sự giác ngộ soi sáng non
Đông, cha con cùng chứng. Quả thật tiếng vang rền
măi tới ngàn thu”. Ba vị tôn túc (tức Phí Ẩn Dung,
Mục Vân Môn và Mộc Trần Mẫn) lại vui sướng
tuyệt mức, hết sức khen ngợi Sư giống
như khen ngợi ngài Ứng Am vậy!
Sư trụ tại
Đại Mai sáu năm rồi đem chuyện trong chùa giao
phó lại cho Thủ Tọa[51]
Nhật Hưu Mị, nhận lời thỉnh của
Đông Âu. Mùa Đông năm Canh Tư (1660) Sư mở giảng
ṭa tại Mật Ấn, so ra c̣n hưng thịnh hơn
đạo tràng Đại Mai. Năm Bính Ngọ (1666), Sư
nhận lời thỉnh của Quát Thương Tịnh
Giác, lại đem Mật Ấn giao cho nhiều học tṛ
trông coi, chứ không làm Tây Đường nữa. Cuối
Hạ năm Đinh Mùi (1967), Sư thị hiện bệnh
nhẹ, ngồi thuyền trở về Đà Phong. Ngày Rằm
tháng Tám, Sư đối trước đại chúng nói kệ
rằng:
Thất thập ngũ niên nhàn
đả hống,
Tổng vô kỳ đặc xuất
thường luân
Nhi kim tán thủ huyền nhai khứ,
Nhất nhậm chư
phương thuyết huyễn chân.
(Dỗ
ngọt người đời bảy lăm năm,
Trọn
không chi lạ khác phàm nhân,
Cheo leo vách đá, tay buông thơng,
Mặc kệ
nơi nơi luận huyễn - chân)
Rồi lặng
lẽ qua đời, Sư sanh vào năm Quư Tỵ nhằm niên
hiệu Vạn Lịch 21 (1593), mất vào năm Đinh Mùi
tức năm Khang Hy thứ sáu (1667), thọ bảy
mươi lăm tuổi, Tăng lạp hai mươi ba
năm.
14. Thư
trả lời cư sĩ Phương Gia Phạm
Muốn
sanh về Tịnh Độ, trước hết phải
hiểu rơ ràng tông chỉ. Tu tŕ theo đường lối
thông thường th́ không pháp nào chẳng lấy khai ngộ
làm điều mong mỏi; nhưng chuyện khai ngộ
cũng chẳng phải là dễ dàng! Nếu biết tông chỉ
của Tịnh Độ, quyết chẳng mong đợi
khai ngộ. Nếu chẳng chú trọng tín nguyện, dẫu
khai ngộ cũng khó liễu thoát được! Nếu
có thể nhất tâm niệm Phật th́ chẳng ngộ vẫn
được văng sanh. Trong thư ông viết: “Tuy đă sẵn ḷng chán nhàm cơi uế,
nhưng chưa hiểu tự tánh như thế nào?” tức
là ông dốc chí nơi khai ngộ. Khai ngộ mà có tín nguyện
th́ chính là Thiền Tịnh Song Tu, là cao thượng nhất;
nhưng trong cơi đời rất ít ai thật sự khai ngộ!
Thế nào gọi là thật
sự khai ngộ? Đấy chính nói về minh tâm kiến
tánh, tức là thấu hiểu triệt để trong tự
tâm, chứ không phải chỉ biết nói mà thôi! Nếu chỉ
biết nói th́ chẳng thể gọi là khai ngộ
được! Chớ nên hiểu lầm! Thật sự
đạt đến địa vị minh tâm kiến tánh,
cũng vẫn phải tín nguyện niệm Phật, cầu
sanh Tây Phương! Người đời cứ hễ cầu
khai ngộ đều chẳng chú trọng tín nguyện cầu
sanh, cứ muốn nương vào cái ngộ ít ỏi, loáng
thoáng ấy để liễu sanh tử th́ chính là tự lầm,
lầm người. Cố nhiên, chẳng bằng kẻ chất
phác niệm Phật sẽ ổn thỏa, thích đáng
hơn!
Quang già rồi, chẳng
thể nói tường tận với ông được.
Nay lại gởi cho ông hai gói sách, ông hăy lắng ḷng đọc
sẽ có thể biết rơ tông chỉ Tịnh Độ. Nếu
chẳng thể sanh ḷng tin nơi các sách ấy, lại cầu
minh tâm kiến tánh, cầu thành Phật trong thân hiện tại,
Quang cũng chẳng trách ông. Chỉ sợ ông từ trần
sa kiếp này sang trần sa kiếp khác vẫn luân hồi
trong lục đạo. Nhưng muốn liễu sanh tử,
ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết
bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng giữ các điều lành để
làm người hiền, người thiện trong thế
gian. Nếu luân thường khiếm khuyết, tam nghiệp
lắm lầm lỗi, muốn khi lâm chung được Phật
tiếp dẫn th́ do khí phận trái nghịch với Phật,
làm sao có cảm để ứng đây? Phàm gặp kẻ
hữu duyên, hăy đều nên bảo với họ điều
này!
Nay gởi cho ông Tịnh
Độ Ngũ Kinh, Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, Liễu Phàm Tứ Huấn, Ấn
Quang Văn Sao, Gia Ngôn Lục, Lịch Sử Cảm Ứng
Thống Kỷ, Quán Âm Tụng, Sức Chung Tân Lương,
Niệm Phật Khẩn Từ, Sơ Cơ Tiên Đạo
Hợp Biên, mỗi thứ một bộ. Đối với
chuyện thọ giới th́ hăy nên dựa theo lá thư gởi
cho bà Từ Phước Hiền trong Văn Sao để tự
thệ thọ giới trước đức Phật. Nay đặt
pháp danh cho ông là Huệ Phạm, nghĩa là dùng pháp môn Tịnh
Độ được nói từ trí huệ của đức
Phật để tự hành, dạy người, tạo khuôn
phép cho cơi đời. Xin hăy nh́n vào cái tên, nghĩ đến
ư nghĩa rồi thực hành th́ may mắn lắm thay! (Ngày
Mười Sáu tháng Bảy)
Từ
nay về sau, đừng gởi thư tới nữa,
cũng đừng giới thiệu người khác quy y. Dẫu
thỉnh kinh sách từ Hoằng Hóa Xă cũng đừng thừa
dịp thuận tiện gởi thư cho Quang v́ không có sức
để thù tiếp vậy.
15. Thư
trả lời đại sư Viên Chuyết
Nhận
được thư khôn ngăn than thở. Người
đời chỉ biết phỏng theo dấu tích, chẳng
xét đến đúng - sai, lợi - hại. Thường là
đối với chuyện làm phước lại ngạo
ngược tạo thành nghiệp lớn. Đừng nói ǵ
người thế tục, ngay cả tăng nhân đa số
cũng giống như thế. Cuốn Tây Phương Công
Cứ được lưu hành trong cơi đời, phía
trước có khắc h́nh Pháp Hội[52],
phía sau khắc A Di Đà Kinh, Văng Sanh Chú. Cuối cùng khắc
cửu phẩm liên đài, trên mỗi đài sen là một
đức Phật ngồi, chung quanh khắc những chấm
tṛn để người ta chấm vào. Hễ chấm kín
hết [các ṿng tṛn đó] sẽ đem kinh ấy thiêu
đi. Một người bạn tôi (tức ḥa thượng
Chân Đạt) muốn sửa chữa lại để ấn
hành rộng răi. Quang nói: “[Người niệm Phật] chấm
xong ắt sẽ thiêu sách, cả kinh lẫn h́nh Phật đều
bị thiêu theo. Do sách đă bị chấm đen đúa lem
luốc th́ cũng chẳng thọ tŕ được nữa”.
Do vậy bèn bàn định biện pháp, chẳng khắc
kinh, tượng, chỉ vẽ h́nh chín phẩm đài sen và
những chấm tṛn xung quanh để [người niệm
Phật chấm vào] ḥng nhớ số.
Việc sửa chữa,
sắp xếp ấn hành đều do Quang lo liệu, sao lại
nói là có chuyện Đại Báo Ân Tháp? Do vậy, tôi liền
qua nhà kho t́m kiếm phụ bản của sách ấy, quả
thật có chuyện đó! Số trang của phụ bản
được đánh số tới hai mươi th́ ngừng,
c̣n trang in h́nh tháp ấy được đánh số một
và hai. Đủ biết là về sau này, do muốn khế hợp
ḷng ưa thích của người đời, người
đứng in bèn thêm vào. Đủ thấy khó lay chuyển
được ḷng ưa thích của người đời!
Vương Đại bán hương Ấn Độ, bốn
mặt hộp đựng hương in tổng cộng h́nh
của năm mươi mấy vị Phật. Quang chẳng
bằng ḷng người ta bán loại hương đó,
đă nói rơ lẽ lợi - hại với người quản
lư tiệm hương ấy, hai lượt gởi thư
bảo đảm, mong họ ắt sẽ trả lời,
nhưng rốt cuộc họ không trả lời! Chúng ta
không có quyền, làm ǵ được họ?
Huyết Bồn Kinh, Thọ
Sanh Kinh chính là do những tăng sĩ hèn kém ngụy tạo
ra để cầu lợi khiến cho những kẻ chẳng
biết Phật pháp tưởng kinh Phật đều toàn
do lũ tăng sĩ kém hèn ngụy tạo! Đối với
hàng thiện tín vô tri, nếu không phá huyết hồ, không trả
nợ thọ sanh sẽ không được! Ngay trong những
tùng lâm nổi danh nhất nước, cũng không một
chùa nào chẳng tán thành làm chuyện ấy, bởi đấy
là cái nguồn kiếm lợi nhuận, chẳng ai bận
tâm chuyện ấy chính là cái gốc họa hủy diệt
Phật pháp. Hiện thời chẳng thể gởi sách
được! Một người bạn sao lại lời
bàn luận của Quang với Lư Huệ Trừng về chuyện
đốt kinh, nay tôi đem bản sao ấy gởi kèm theo
thư. Ông Lư dựa theo lời người khác bảo “[đốt
kinh] có công đức” nên mở đầu thư tôi liền
bắt đầu bằng chuyện “có công đức”
để nói đến tội lỗi, chớ nên hiểu
lầm, tưởng Quang tán thành “đốt kinh có công đức”!
Pháp môn bước vào buổi chiều tà, sai ngoa quá nhiều!
Nếu thường tranh luận với người khác, sợ
sẽ đến nỗi bị kẻ khác nhao nhao công kích,
đâm ra chẳng có ích ǵ cho người ta, lại có hại
cho pháp, cho ḿnh vậy! Qua mấy chuyện này th́ đă đủ
biết rồi! Quang già rồi, mục lực lẫn tinh
thần đều chẳng đủ, xin đừng gởi
thư tới nữa, gởi đến quyết không trả
lời. Xin hăy sáng suốt soi xét th́ may mắn lắm thay! (Ngày
mồng Hai tháng Mười)
16. Thư
trả lời cư sĩ Trần Tiếp Ḥa
Nghe nói
Sĩ Mục sắp sang Vân Nam bởi cảm thấy thiếu
sót v́ cha già đă tám mươi hai tuổi mà chính ḿnh chẳng
thể thường hầu hạ dưới gối ḥng bầu
bạn niệm Phật với cha. Quang quyết diệt
tung tích trong tháng Chín này; ông và tôi có t́nh thầy tṛ, chẳng
thể không giăi bày cùng ông một phen. Con người sống
đến bảy mươi tuổi xưa nay đă hiếm,
huống chi ông đă tám mươi hai rồi! Nếu đă
chứng được bất sanh bất diệt th́ cố
nhiên chẳng cần tới Quang phải dông dài một phen.
Nếu chưa đạt được, cố nhiên phải
như chôn cất cha mẹ, như cứu đầu cháy
để sanh ḷng tin chân thật, phát nguyện thiết tha,
tŕ A Di Đà Phật vạn đức hồng danh để
cầu sanh Tây Phương. Hiện nay, cơi đời đă
loạn đến cùng cực, đúng là thời buổi
đại loạn phá toang đất trời kể từ
thuở có trời đất đến nay. Huống hồ
đang lúc già suy, sáng chẳng bảo đảm được
tối, há có nên giống như bọn thiếu niên vô tri, cứ
chần chừ để ngày tháng trôi qua đến nỗi
sống uổng chết phí, tuy gặp Phật pháp mà vẫn
không có cách nào hưởng được lợi ích lớn
lao ư?
May mắn là Trí Dục,
Tịnh Anh v.v… vẫn sốt sắng niệm Phật, hăy
nên trong lúc này lập ra một quy ước: Nếu đến
lúc lâm chung, chớ nên thay áo, lau rửa sẵn (xin coi lời
dạy về lúc lâm chung trong Gia Ngôn Lục! Ở đây
không viết cặn kẽ) và khóc lóc
đến nỗi nhiễu loạn cái tâm trong lặng của
người [sắp mất] đến mức mất chánh
niệm, chẳng khế hợp với Phật, không cách ǵ
được Phật tiếp dẫn, vẫn phải luân
hồi trong tam đồ lục đạo y như cũ!
Đấy gọi là ḷng hiếu kiểu “đă té giếng
c̣n quăng thêm đá!” Nỗi hại ấy không sao nói xiết!
Hăy nên đọc mấy chương dạy về đại
sự sanh tử trong Gia Ngôn Lục sẽ tự biết
rơ. Nếu trong lúc này chẳng nỗ lực, chỉ mong an
nhàn thảnh thơi th́ ngàn đời vạn kiếp trọn
chẳng có ngày nào thoát khổ được đâu! Nếu
như tâm lực suy nhược, hăy nên bảo con trai, con
dâu, cháu gái v.v… luân phiên trợ niệm. Chuyện này có rất
nhiều điều lợi ích:
1) Một là phụ trợ
cho chánh niệm của chính ḿnh.
2) Hai là khéo léo gieo thiện
căn tối thắng cho bọn họ.
3) Ba là mở mang phong
thái nhằm mong mọi người bắt chước làm theo.
4) Bốn là nếu
đến lúc lâm chung [thân quyến] sẽ tự chẳng
đến nỗi bày vẽ hay hoảng loạn quá mức,
phá hoại chánh niệm [của người sắp mất].
Cửa ải lâm chung
khẩn yếu cùng cực. Dẫu cho lúc thường ngày
công phu đắc lực, nếu gặp phải cảnh con
cháu phá hoại [chánh niệm] do chẳng biết pháp môn th́ sẽ
phải ở lại trong thế giới này, chẳng thể
văng sanh! Nếu biết nghĩa này, con cháu trợ niệm
Phật hiệu nhằm thành tựu chánh niệm, tuy công phu
thường ngày của người sắp mất ấy
chẳng thích đáng cho lắm cũng vẫn được
văng sanh. Do vậy, đối với người già, Quang
đặc biệt chú ư, đừng cho là viễn vông, hủ
bại th́ may mắn lắm thay!
17. Thư
gởi cho hai cư sĩ La Khanh Đoan và Trần Sĩ Mục
Hôm
trước nhận được thư biết Phật
pháp ở quư địa có vẻ phục hưng. Lời
duyên khởi do các ông đă soạn chưa thể làm cho
người ta cảm ân đức của Phật, Quang soạn
riêng một bài khác, lời văn khá rườm rà, sử dụng
được hay không tùy các ông. Quang chẳng ép ai! Nếu
sử dụng th́ hăy nên làm một tấm bảng bằng gỗ,
thỉnh người viết chữ đẹp, dùng lối
chữ cung kính, mực thước viết trên hai tờ giấy
Tuyên rộng tám thước, hoặc dán, hoặc khắc [bài
duyên khởi ấy] trên tấm bảng gỗ, chắc sẽ
tồn tại lâu dài. Hoặc [chia tấm bảng đă khắc
hay dán bài duyên khởi ấy] làm bốn miếng hay sáu miếng
(tính luôn cả bài viết “Tŕnh bày những điều
ẩn kín của Văn Trung Công” chắc sẽ chia thành tám miếng) để ngừa khi thời cuộc
không tốt, sẽ đem cất.
Bài viết nêu bày ư
nghĩa ẩn kín cuốn sách Hành Dư Nhật Khóa của
Lâm Trung Công[53]
có quan hệ rất lớn, cũng nên theo biện pháp ấy.
Bài văn ấy nhằm giăi bày trọn hết những
điều ẩn tàng của bậc cổ đại nhân
thuở trước, chứ không phải chỉ riêng ḿnh
Văn Trung Công. Văn Trung Công là người đất Mân
(Phước Kiến). Có được bài văn ấy
th́ những kẻ hẹp ḥi, câu nệ sẽ chẳng dám
buông lời báng bổ xằng bậy. Ông nói đến chuyện
chùa Lâm Dương định chiếu theo chương
tŕnh của Linh Nham th́ vàn muôn phần sẽ làm không
được đâu! Đừng nói người khác đến
đấy làm không được, ngay cả thầy
Đương Gia Linh Nham là Diệu Chân đến đấy
cũng làm không được. Các ông thiếu sự từng
trải nên chẳng biết nỗi khó khăn! Quang do trải
đời năm mươi mấy năm nên mới nói thẳng
thừng với các ông.
Đôi câu đối ở
Niệm Phật Đường của Liên Tŕ đại
sư đă soạn vào thời Minh hay tuyệt, trọn
chưa từng thấy ai dùng đến. Quang nhiều
lượt sao lại bảo người khác treo, do đức
của đại sư sẽ cảm được
người rất sâu. Các ông bảo Quang viết [giùm
đôi câu đối ấy] là v́ chẳng biết Quang một
mực không viết được chữ lớn; gần
đây mục lực suy đến cùng cực, không dùng kính
lăo lẫn kính lúp sẽ chẳng thể xem và viết
được chữ! Tôi vốn muốn gởi thư từ
sớm, nhưng do ngày hôm qua mới có giấy đưa
đến nên bây giờ mới trả lời. Từ nay về
sau không có chuyện ǵ quan trọng th́ đừng gởi
thư tới nữa, bởi không có mục lực lẫn
tinh thần để phúc đáp! Hoằng Hóa Xă trước
kia có ba người, đều do thời cuộc biến
động lớn lao đă đi hết rồi, nên
cũng phải biến đổi sao cho rất hợp thời
nghi, Quang chẳng hỏi tới nữa. Thầy Đức
Sâm qua chùa Thái B́nh ở Thượng Hải để lo giảo
chánh sách, sợ rằng có lẽ chẳng thể xong
được trong năm nay! Khi nào thầy ấy trở
về, sẽ tùy thầy ấy lo liệu.
Những sách các ông cần
sẽ gởi tới. Hiện thời chỉ theo biện
pháp căn cứ vào giá vốn, không c̣n cho thỉnh nửa
giá hay biếu không nữa! Lần này gởi biếu, lần
sau đều chiếu theo giá vốn để lo liệu.
Nay gởi cho các ông Đồng Mông Tu Tri, Quán Âm Từ Lâm Tập
hai cuốn, đem tờ thông báo rộng răi về chuyện
sữa độc giết chết trẻ con [gởi cho các
ông] là v́ mong các ông hăy nói với hết thảy mọi
người [về chuyện ấy]. Xin hăy sáng suốt soi
xét th́ may mắn lắm thay! (Ngày Mười Hai tháng
Tám)
Chủ Cực Lạc lục bát
đại nguyện chi từ tôn, tuyệt hạn lượng
thọ mạng quang minh bất ly đương xứ,
Quá Sa Bà vạn triệu Phật
bang chi Tịnh Độ, diệu trang nghiêm lâu đài tŕ chiểu
nguyên thị ngô hương (Liên
Tŕ đại sư đời Minh soạn).
(Đức Từ Tôn
chủ cơi Cực Lạc, bốn mươi tám đại
nguyện, thọ mạng, quang minh không hạn lượng,
chẳng rời nơi đây;
Cơi Tịnh
Độ vượt khỏi Sa Bà vạn triệu cơi
nước Phật, lầu, đài, ao chuôm tuyệt trang
nghiêm, đích thị quê ḿnh)
18.
Thư trả lời cư sĩ Trí Mục
Nhận
được thư khôn ngăn vui mừng, an ủi. Hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh, nếu không có ai
đề xướng th́ thiện căn không cách ǵ phát hiện
được! Như hạt giống gieo xuống đất,
chẳng có mưa đúng thời sẽ không cách nào nẩy
mầm, tăng trưởng được! Cha ông đă có
thiện căn từ đời trước, cho nên vừa
được thúc đẩy liền chuyển biến, những
chấp trước lầm lạc trước kia bèn tiêu
diệt ngay, ắt có hy vọng được văng sanh trong
tương lai! Nay đặt pháp danh cho cụ là Đức
Ḥa, bởi Tiếp (燮) chính là
Ḥa[54]
vậy. Nếu chẳng biết tự tâm sẵn có Minh
Đức th́ chẳng thể trên ḥa với hoằng thệ
đại nguyện của chư Phật ḥng quyết chí ức
niệm cho đến khi tâm và Phật tương ứng,
như nước ḥa lẫn vào sữa; mà cũng chẳng
thể dưới là phát khởi cho những người
cùng hàng tin tưởng sâu xa, nguyện thiết tha rồi
nhất tâm tŕ A Di Đà Phật vạn đức hồng
danh để mong thoát khỏi cơi Sa Bà này lên được
cơi sen kia ngay trong đời này, như mẹ với con ḥa
hợp, vĩnh viễn không chống trái.
Nếu có thể lắng
ḷng đọc Văn Sao, rồi lại xem Tịnh Độ
Tam Kinh, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, Tịnh
Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục
v.v… th́ sẽ tự biết được cương yếu
của đạo “tự lợi, lợi người”. Lại
c̣n khẩn thiết, chí thành, ra rả nói cùng với gia quyến,
xóm giềng, thân thích, bè bạn. Dùng công đức ấy
để hồi hướng văng sanh ắt sẽ cao
đăng Thượng Phẩm. Do đấy, cha ông sẽ
được lợi ích thật sự bởi thiện
căn nhiều đời. Đạo thờ cha mẹ của
ông đă đạt được lớn lao. Vẫn mong ông
khuyên dụ nhiều cách để cụ tăng trưởng
tín tâm th́ sẽ có lợi ích lớn lao. Xin hăy thấu hiểu
rơ ràng th́ may mắn lắm thay!
Cháu dâu là Tâm Chi sẵn
đủ thiện căn, vừa nghe liền tin, lại muốn
quy y, nay đặt pháp danh cho cô ta là Tâm Phức. Do cái tâm sẵn
có cực kỳ thanh tịnh mà cũng cực kỳ
thơm tho[55],
chỉ v́ đủ mọi vọng niệm nối tiếp
nhau dấy lên nên biến thành cảnh tượng ô uế,
mất đi bản thể thơm sạch. Cô ta đă phát
tâm tu tŕ lại c̣n đem tâm hương ấy xông ướp
chồng và con cái, khiến cho ai nấy đều trừ
được tâm niệm ô uế, khôi phục bản thể
thơm sạch. Công đức bậc nhất của nữ
giới chính là hiếu thảo với bố mẹ chồng,
giúp chồng dạy con. Đă là đệ tử Phật mà
chẳng biết hiếu thảo với cha mẹ, giúp chồng
dạy con th́ chưa tṛn hết bổn phận trách nhiệm
của chính ḿnh, chắc người khác sẽ do vậy liền
chỉ trích những sai trái, chẳng thể nào khiến cho
người ta nh́n theo bắt chước làm lành được!
Nếu có thể dốc sức trọn hết bổn phận
của chính ḿnh, lại c̣n tu tŕ Tịnh nghiệp th́ kẻ
thấy người nghe khắp xa gần sẽ đều
sanh ḷng ngưỡng mộ. Đấy chính là “dùng lời lẽ để dạy
sẽ bị tranh căi, dùng thân để dạy, người
khác thuận theo”. Thất phu thất phụ nếu tốt
lành th́ cũng có thể thay đổi phong tục; nếu
chẳng lành cũng sẽ khiến cho phong tục thay đổi!
Giới giáo dục hiện
thời chẳng biết tới nghĩa này, cứ hở
ra là khuyên nữ nhân học tập những nghề nghiệp
của nam giới, chẳng biết răn nhắc thiên chức
giúp chồng dạy con. Cái học ấy là học để
gây loạn, chứ không phải là cái học để
đạt đến b́nh trị! Tôi thường nói: “Dạy con là căn bản để
trị quốc b́nh thiên hạ, nhưng dạy con gái lại
càng thiết yếu hơn”. Ấy là v́ con người
lúc bé hằng ngày ở cạnh mẹ được mẹ
hiền un đúc th́ chưa có ai chẳng trở thành hiền
nhân. V́ thế tôi thường lải nhải về chuyện
này, hăy nên làm cho hàng nữ nhân của thân hữu đều
biết th́ may mắn lắm thay!
19.
Thư trả lời cư sĩ Đinh
Phước Bảo (thư
thứ nhất)
Nhận
được thư và bản thảo [Phật Học] Đại
Từ Điển, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Các hạ
soạn ra cuốn sách ấy khiến cho những người
nghiên cứu Phật học nhập môn dễ dàng, thật
giống như người chỉ cho kẻ lạc lối
đi đúng đường, công đức ấy làm sao cân
lường được? Nhưng cần phải khảo
sát tỉ mỉ, xin đừng đem sai ngoa lan truyền
sai ngoa!
Những chuyện xa
xưa và [chuyện xảy ra] ở ngoại quốc
được thuật dưới từ ngữ “nhất thiết kinh” (hết
thảy kinh) Quang đều không biết, nhưng những
chuyện được tường thuật [trong mục
ấy mà Quang được biết th́] phần lớn
đều sai lầm, như Minh Thành Tổ ghi là [Minh] Thế
Tổ. Năm Vĩnh Lạc 18 (1420), Minh Thành Tổ cho khắc
Đại Tạng Kinh suốt hai mươi mốt năm,
tới năm Chánh Thống thứ năm (1440) mới hoàn tất.
Đấy là Minh Bắc Tạng (Đại Tạng Kinh
đời Minh, bản khắc in ở phương Bắc)
vậy. Nam Tạng được khắc vào thời Minh
Thái Tổ, nhưng do chưa có lời đề từ và lời
bạt nên không thể khảo chứng được
năm tháng, nhưng chắc chắn chẳng phải là được
khắc dưới thời Minh Thành Tổ! Tuy có thuyết
nói Minh Thành Tổ đă cho khắc Đại Tạng Kinh ở
cả hai kinh đô (Nam Kinh và Bắc Kinh) và cho khắc trên
đá, nhưng thật ra [Minh Thành Tổ] chỉ khắc bản
Bắc Tạng. V́ sao biết? Do [xét theo] quy củ của
Nam Tạng, số ḥm[56]
và số quyển đều chẳng theo thứ tự
[như trong bản Bắc Tạng], há lẽ nào cùng do một
người khắc kinh mà Nam Tạng lại lập riêng một
quy củ ư? Hơn nữa, trong Bắc Tục Tạng
có [những bản kinh] mà Nam [Tục Tạng] không có, hoặc
trong Nam Tục Tạng có [những bản kinh] mà Bắc [Tục
Tạng] không có. Đủ biết Bắc Minh Tạng
được khắc trong niên hiệu Hồng Vũ thời
Minh Thái Tổ không c̣n nghi ngờ ǵ nữa! Bản khắc
trên đá hoàn toàn chưa được thực hiện.
Đối với chuyện
ni sư Pháp Trân khắc Đại Tạng Kinh th́ ni sư
là người thuộc triều Nguyên, Tạng [được
ni sư khắc] thuộc loại Phạn bản[57].
Trong mục từ ngữ nói về Tạng Tạng (Đại
Tạng Kinh Tây Tạng) ở trước đó, từ
điển cho biết [tạng kinh của Tây Tạng]
được khắc từ năm Khang Hy hai mươi
ba (1684) đến năm Ung Chánh thứ sáu (1728), nhưng
Thanh Tạng (Hán truyền Đại Tạng Kinh khắc
dưới đời Thanh) của nước ta được
khởi công vào năm Ung Chánh thứ mười ba (1735),
hoàn tất vào năm Càn Long thứ ba (1738) sao lại hoàn
toàn chẳng nhắc tới?
Hơn nữa, Thạch
Kinh Sơn[58]
ở Tây Kinh là nơi pháp sư Uyển Công đời Tấn
khắc kinh trên đá, chứa trong thạch động, v́
lo rằng thời Mạt Pháp kinh Phật diệt hết,
mong sẽ có bậc Đại Sĩ thừa nguyện mở
động ấy in kinh lưu truyền rộng khắp. Từ
đời Tấn đến cuối đời Minh, vẫn
có người khắc kinh để cất giữ [trong
động ấy], phía ngoài dùng những song sắt niêm
phong cửa động, chỉ có thể đứng bên
ngoài nh́n vô chứ không thể vào được. Những bản
khắc đá ấy chất đầy kín trong động,
có khá nhiều động. Trong Văn Tập của các vị
Tử Bách và Hám Sơn đều chép về chuyện này.
Hơn nữa, hai chữ
Từ Điển nếu nói tổng quát th́ toàn bộ giáo
pháp trong cả Đại Tạng đều có thể gọi
là Từ Điển. Nếu nói hạn cuộc th́ chỉ
những sách chuyên giảng rơ về danh tướng mới
đáng gọi [là Từ Điển], như Giáo Thừa
Pháp Số, Đại Minh Tam Tạng Pháp Số[59]
chẳng hạn. C̣n như những ngữ lục trong nhà
Thiền chính là những cơ phong chuyển ngữ chuyên xiển
dương pháp hướng thượng, c̣n chưa thể
gọi là Giáo, há nên gọi là Từ Điển? Các vị
đại thiền sư kể từ sau thời ngài Mă Tổ
trở đi đều có ngữ lục, ngài Vân Môn c̣n về
sau nữa, sao đối với ngữ lục của những
vị trước đấy chẳng gọi là “từ
điển”, lại gọi riêng ngữ lục của Vân
Môn là “từ điển”?
Hơn nữa, ngài Vân
Môn thuyết pháp như mây trôi, mưa dội, trọn chẳng
thích người khác ghi chép lại, v́ thế Hương
Lâm Viễn, Song Tuyền Khoan mỗi vị đều lấy
giấy làm áo để lén ghi chép lại, [những ghi chép của
hai vị ấy được tập hợp thành] ngữ
lục của ngài Vân Môn được lưu truyền hiện
thời vậy! Các hạ không tŕnh bày thật rơ ràng th́ chắc
rằng kẻ không biết sẽ tưởng ngài Vân Môn tự
ḿnh lén ghi, hóa ra là chính Ngài tự ngăn cấm rồi lại
làm!
Tổ Đ́nh Sự Uyển[60]
là sách ghi chép những ngôn hạnh trong nhà Thiền, cũng
như những sách Lâm Gian Lục, Tông Môn Vũ Khố[61]
cũng chẳng nên gọi là “từ điển” trong bản
sửa chữa lần thứ hai. Bởi lẽ những
sách ấy ghi chép những câu nói và những câu chuyện trực
chỉ nhân tâm. Trong lời tựa cho thiên thứ hai, có lẽ
nên đổi chữ Tông thành chữ Giáo! Như Lai thuyết
kinh, chư Tổ hoằng truyền, lưu truyền khắp
trong ngoài nước, những danh tướng, pháp số
trong ấy nếu không đọc nhuyễn nhừ toàn bộ
tạng kinh sẽ chẳng dễ ǵ biết được.
Do vậy [cổ đức] bèn soạn ra các sách Giáo Thừa
Pháp Số, Đại Minh Tam Tạng Pháp Số. Đấy
chính là cội nguồn của những sách này vậy.
Quang mục lực quá
suy, lại thêm tinh thần chẳng đủ. Thoạt
đầu vừa mới về đến núi th́ do bị
trúng gió trong khi ngồi thuyền, cả mười mấy
ngày chẳng được khỏe khoắn; sau đấy
tuy đă khỏi bệnh nhưng hằng ngày lại phải
trả lời thư hoặc giảo duyệt sách, gần
như không rảnh rỗi chút nào. Đối với bộ
Lục Tổ Đàn Kinh, chỉ xem ba tấm bia của
Vương, Liễu, Lưu, những phần khác chưa
xem. Các hạ chí mong lợi người, muốn dùng một
bộ sách để chú thích trọn khắp các kinh th́ hăy
nên dốc sức khảo sát nghiên cứu hai ba năm ngơ hầu
người đọc đoạn sạch mọi mối
nghi th́ công đức lớn lắm. Nếu chỉ muốn
ra sách cho nhanh, chắc chắn khó thể không sai lầm!
Đối với bậc thông gia th́ không trở ngại ǵ,
nhưng kẻ sơ cơ chắc sẽ không biết nguyên
do. Quang túc nghiệp sâu nặng, chẳng thể dốc chút
sức mọn cho các hạ được, nhưng trọn
một niềm ngu thành. Chỉ v́ sợ lỡ ra người
trong cả cơi đời chẳng được hưởng
lợi ích cho nên mới ăn nói phiền phức, lụn vụn
như thế.
20.
Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ hai)
Hôm qua nhận
được thư và cuốn Phật Học Cơ Sở
, khôn ngăn vui mừng, biết các hạ chỉ mong cho ai
nấy đều xây lầu cao vạn trượng mau
được thành công, vĩnh viễn không bị nghiêng
đổ. “Sanh tạng” chính là bộ vị nơi thức
ăn chưa được tiêu hóa[62];
c̣n “thục tạng” là bộ vị nơi thức ăn
đă tiêu hóa. Do vậy, con nằm trong bụng mẹ sẽ
ở phía dưới sanh tạng, phía trên thục tạng[63].
Các hạ thông hiểu y học sâu xa, những h́nh vẽ giải
phẫu bụng v.v… đều thuộc nằm ḷng, ắt
sẽ biết rơ từng bộ vị, c̣n Quang chỉ biết
danh nghĩa mà thôi. Tác phẩm Phật Học Cơ Sở [của
các hạ] xếp đặt khá xác đáng, nhưng đem
những lời lẽ hủ bại của Quang xếp vào
thể loại Quỳnh Lâm[64]
(rừng quỳnh) th́ thể loại, khí phận chẳng xứng,
cảm thấy xấu hổ khôn ngằn! Lời tựa của
Thiền ḥa thượng rất hay, đủ để khơi
gợi ḷng tin tưởng, kính ngưỡng của người
khác rồi, cần tới lời b́nh hủ bại của
Quang làm chi nữa?
21.
Thư trả lời cư sĩ Đinh
Phước Bảo (thư
thứ ba)
Hôm qua nhận
được một bộ Phật Học Tiểu Từ
Điển do ông ban tặng. Đọc rồi khôn ngăn
cảm kích (chẳng qua là lật xem qua mà thôi, chứ
ngay cả một trang cũng không xem trọn). Cư sĩ Tôn Kế Chi phát đại
tâm hướng dẫn làm lợi kẻ sơ cơ như
thế ấy công đức vô lượng, nhưng cỡ
chữ quá nhỏ, đọc lâu ắt sẽ hư mắt.
Đối với người nghiên cứu Phật học
đă lâu th́ xem sách này hay không đều được! Tôi
trộm sợ người chỉ có tín tâm, chưa từng
nhập môn, trông thấy sách này sẽ dựa vào đấy
như ngôi thành quan trọng, như ḥn Thái Sơn, sẽ dẫn
đến t́nh thế “nếu mắt chẳng bị tổn
thương th́ chẳng chịu tạm buông sách ra”. Các hạ
và ông Tôn đều cùng sẵn ḷng lợi người nhưng
do đấy làm hỏng con mắt của người khác
th́ tuy kết pháp duyên mà cũng gây nên cái họa mắt bị
tật trong đời vị lai.
Ấn Quang sanh ra liền
bị bệnh mắt, nay tiếc cho con mắt của
người khác c̣n hơn chính ḿnh, thường thấy những
thiếu niên thông minh, mẫn tiệp đa số đều
cận thị, hỏi tới th́ họ nói do đọc
sách chữ nhỏ mà ra. Trộm nghĩ những kẻ buôn bán
tại các tiệm sách chỉ thích những sách hiếm lạ,
phô phang chuyện dị thường để được
lời to, chẳng cần biết sẽ có lợi hay gây hại
cho người khác! Tối ḷng mờ lư, tận lực t́m
cầu phương cách để thu lợi, hạng
người ấy nào đáng để nói tới, chỉ
đành mặc kệ họ làm ǵ th́ làm! Quả thật
Quang chẳng dám nghĩ các hạ và ông Tôn đă phát đại
Bồ Tát tâm mà cũng bắt chước phương thức
của bọn chúng! Hơn nữa, là bạn tâm giao với
nhau đă lâu, v́ thế chẳng thể không giăi bày tấm ḷng
ngu thành để mong sao nhục nhăn lẫn pháp nhăn của
hết thảy những người cùng hàng đều cùng
sáng ngời, các hạ và ông Tôn sẽ đạt được
quả báo ngũ nhăn viên minh, vĩnh viễn dứt
được nỗi lo âu mắt quáng! Nếu tái bản
sách này, hăy nên sửa đổi phương thức tŕnh
bày!
Bộ [Phật Học]
Đại Từ Điển muôn vàn đừng dùng kiểu
chữ làm hỏng con mắt này th́ Ấn Quang được
đội ơn nhiều lắm. Trong phương thức
tŕnh bày sách Giản Ma Biện Dị Lục giữa Nam Kinh và
Dương Châu th́ những chữ được in lớn
hay nhỏ đều giống như nhau, nhưng trong ấy
có những đoạn in hàng đôi, người già đọc
sẽ cảm thấy tốn sức, Ấn Quang đều
sửa thành hàng đơn để mong người đọc
được lợi ích, không bị tổn hại.
Trong mùa Xuân, các hạ
đă ban tặng cuốn Phật Học Chỉ
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên,
Quyển 4
Phần 3 hết
[1] Do nghiệp cảm, chúng sanh trong cơi Âm
thường thấy cảnh sắc tối tăm, mờ
mịt, tâm trí của những chúng sanh thọ tội trong ấy
thường si ám nên cơi Âm thường gọi là U Minh,
đức Địa Tạng Bồ Tát thường nguyện
ở măi trong ác đạo cứu độ chúng sanh thoát khỏi
địa ngục, ngạ quỷ, nên được
xưng tụng là U Minh Giáo Chủ. Bọn đạo sĩ
đă lập lờ đánh lận con đen lập ra hai ngụy
thuyết:
1) U
Minh Giáo Chủ là Phong Đô Đại Đế (c̣n gọi
là Bắc Đế Quân, hoặc Phong Đô Bắc Âm Đại
Đế), tức vua cơi Âm. Theo họ, Phong (豐) là tên một đất
nước của quỷ thần ở phương Bắc,
tại đó núi cao đến hai ngàn sáu trăm dặm, chu
vi ba vạn dặm. Sáu cung điện trên đỉnh núi là
nơi Phong Đô Đại Đế phán xử tội
nhân. Tương truyền, ngọn núi ấy nay chính là núi La
Phong, thuộc huyện Phong Đô, tỉnh Tứ Xuyên! Tuy thế,
chịu ảnh hưởng của Phật giáo, họ c̣n
thừa nhận có Diêm La Vương cũng là vua cơi địa
ngục; như vậy là có đến hai vị chưởng
quản cơi Âm. Để khỏa lấp sự mâu thuẫn
này, các đạo sĩ bèn nói Địa Tạng
Vương Bồ Tát chỉ là một danh xưng do nhà Phật
gán cho Phong Đô Đại Đế.
2) U
Minh Giáo Chủ là danh xưng khác của Thái Ất Cứu Khổ
Thiên Tôn, một vị thần được tin là có công
năng cứu độ sanh tử. Nhằm để cạnh
tranh với cơi Cực Lạc của Phật giáo, bọn
Đạo Sĩ cũng lập ra thuyết có một Tịnh
Độ của Đạo Giáo gọi là thế giới
Trường Lạc ở phương Đông do Thái Ất
Thiên Tôn làm giáo chủ!
[2]
Thần kỳ (神祇)
là gọi tắt của thiên thần và địa kỳ,
được dùng như một từ ngữ chỉ chung
cho các vị thần thánh. Thần ở trên cơi trời hay
trong hư không gọi là Thần, thần cai quản trên mặt
đất gọi là Kỳ, tức các vị thần núi
non, rừng rậm, thành hoàng, thổ địa v.v..
[3]
Trong Đạo Giáo, Lăo Tử thường được
tôn xưng là Thái Thượng Lăo Quân hay Đạo Đức
Thiên Tôn, là một trong ba vị Tam Thanh (tức Ngọc Thanh
Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn
và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn). Người khởi
đầu đề xướng tôn vinh Lăo Tử là thủy
tổ của Đạo Giáo chính là Trương Đạo
Lăng (sáng tổ của Ngũ Đấu Mễ đạo
– tiền thân của Đạo Giáo). Vào thời Hán Thuận
Đế, Trương Đạo Lăng tôn xưng Lăo Tử
là Thái Thượng Lăo Quân. Sau này, Khấu Khiêm Chi lại gọi
Lăo Tử là Đạo Đức Thiên Tôn v́ Lăo Tử là tác
giả của Đạo Đức Kinh. Về sau, các
đạo sĩ đặt thêm nhiều danh xưng cho Lăo Tử
như Hỗn Nguyên Lăo Quân, Giáng Sanh Thiên Tôn, Thái Thanh Đại
Đế, Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế,
Đại Thánh Tổ Cao Thượng Đại Đạo
Kim Khuyết Huyền Nguyên Thiên Hoàng Đại Đế
v.v… nhưng Thái Thượng Lăo Quân vẫn là danh xưng phổ
biến nhất.
[4]
Băo Phác Tử là một bộ sách do Cát Hồng (283-363) soạn
vào đời Đông Tấn, được coi là một
kinh điển trọng yếu của Đạo Giáo. Nội
dung chia làm hai phần:
1) Nội
Thiên chuyên nói về cách luyện những phương thuốc
để uống vào sẽ trở thành thần tiên (tức
cách luyện kim đan và tiên dược), những sự biến
hóa quỷ quái, các pháp thuật nhương tai trừ họa,
nguồn gốc của vũ trụ, phương pháp tu luyện
của Đạo Gia.
2)
Ngoại Thiên luận về t́nh h́nh xă hội, chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi những khái niệm của
Nho gia. Phần này luận về lẽ được mất
trong nhân gian, châm biếm thói tục, pháp b́nh trị xă hội,
yêu dân, tiết dục…
[5] Ư nói: Chẳng v́ một người có
những điểm đáng chê trách mà vứt hết những
câu nói hợp lư của người ấy. Nếu coi Cảm
Ứng Thiên là của Cát Hồng th́ tuy Cát Hồng đề
xướng những toa thuốc tiên nhảm nhí (có rất
nhiều chất độc như thủy ngân, ch́), những
cách tu luyện kỳ quái, bùa chú quàng xiên v.v.. th́ cũng không
v́ vậy mà sổ toẹt những lời luận định
chí lư về đạo lập thân, xử thế trong bộ
Băo Phác Tử nói chung và Cảm Ứng Thiên nói riêng.
[6]
Trùng Văn, Điểu Thư (c̣n gọi là Điểu
Trùng Thư, Điểu Trùng Triện) là tên gọi chung cho
những loại chữ tượng h́nh sơ khai của
văn tự Trung Quốc trước thời Tần Thủy
Hoàng. Đây là một trong những lối chữ của
Kim Văn (tức những văn tự được khắc
trên đồ kim loại, như đỉnh, lư đồng,
kiếm, ấn v.v...) Do nét chữ nguệch ngoạc, ngoằn
ngoèo như giun ḅ nên gọi là Trùng Văn; do có những nét vẽ
giống như h́nh con chim vẽ cách điệu hoặc vết
chân chim nên gọi là Điểu Thư.
[7] Ngũ Bộ Lục San là từ ngữ
chỉ kinh thư của La Giáo (một thứ tà giáo do La
Thanh sáng lập vào thời Gia Tĩnh - Vạn Lịch nhà
Minh). Gọi là Ngũ Bộ Lục San v́ tà giáo này có năm
bộ kinh thư trọng yếu, tức 1) Khổ Công Ngộ
Đạo Quyển 2) Thán Thế Vô Vi Quyển, 3) Phá Tà Hiển
Chánh Thược Thi Quyển (chia thành hai quyển thượng
và hạ) 4) Chánh Tín Trừ Nghi Tự Tại Quyển và 5)
Nguy Nguy Bất Động Thái Sơn Thâm Căn Kết Quả
Bảo Quyển.
[8]
Đề H́nh có hai cách hiểu:
1) Gọi
tắt của Đề Điểm H́nh Ngục Ty, là một
chức quan được lập ra vào thời Tống,
tương đương với Bộ Trưởng bộ
Tư Pháp hiện thời.
2) Gọi
tắt của Đề H́nh Án Sát Sứ, viên quan chuyên coi về
tố tụng trong một tỉnh.
Đến
đầu thời Dân Quốc, chữ Đề H́nh thường
được dùng để chỉ cho Công Tố Viện
nói riêng và bộ Tư Pháp nói chung.
[9] Truy Đảnh là một cách niệm Phật
nhằm đối trị tâm tán loạn, câu nọ gối
lên câu kia không xen hở chút nào. Cách này chỉ có thể áp dụng
để đối trị loạn tâm chứ không nên áp dụng
thường xuyên v́ sẽ bị tổn khí, sanh bệnh.
[10]
Long Hoa Giáo vốn là một chi phái của La Giáo do La Nhân (tức
La Thanh, c̣n gọi là La Tổ) sáng lập, lấy Ngũ Bộ
Lục San làm kinh điển chính, thờ đủ các vị
thần thánh lẫn nhân vật trong cổ sử hoặc
truyện thần thoại như Phục Hy, Thần Nông,
Hoàng Đế, Hứa Do, Đường Nghiêu, vua Thuấn,
Quảng Thành Tử, cũng như các vị Phật như
Nhiên Đăng, Thích Ca, Quán Âm, các vị tôn giả hoặc
tổ sư như Ca Diếp, Huệ Năng… Cách tu tập
của họ bao gồm bùa chú, luyện khí, bói toán, đồng
cốt, phong thủy v.v… Họ tự xưng là tại gia
hóa Phật giáo, thậm chí một số nhà “nghiên cứu Phật
giáo” của Hoa Lục c̣n cố t́nh lập lờ coi Long Hoa
Giáo như là một chi phái chấn hưng của tông Lâm Tế!
[11]
Tiên Thiên Giáo (c̣n gọi là Tiên Thiên Đạo, Thanh Liên Giáo,
Kim Đan Đạo v.v…) do Hoàng Đức Huy sáng lập, lấy
Vô Cực Lăo Mẫu làm đối tượng sùng bái chánh yếu,
coi Đạt Ma là sơ tổ, lục tổ là Huệ
Năng, thất tổ là hai vị Nam Nhạc Hoài Nhượng
và Mă Tổ Đạo Nhất, bát tổ là La Úy Quần,
Hoàng Đức Huy là cửu tổ. Giáo thuyết của họ
cũng pha trộn lung tung những tín ngưỡng dân gian,
giải thích cong vạy những danh từ Thiền học
Phật giáo, diễn giải xuyên tạc kinh điển nhà
Phật để dễ tuyên truyền đồng thời
biện minh cho cách tu của bọn chúng. Từ giáo phái này lại
nảy sanh ra nhiều chi phái mà nổi tiếng nhất là
Nhất Quán Đạo đă được truyền sang tận
Hoa Kỳ.
[12] Xét về lư, vô minh vốn không thật
có nên gọi vô minh là “cái chẳng phải tự họ vốn
có”.
[13]
Kinh Địa Tŕ có tên đầy đủ là Bồ Tát
Địa Tŕ Kinh (Bodhisattva-bhūmi), c̣n gọi là Bồ Tát
Giới Kinh, Bồ Tát Địa Tŕ Luận, hoặc Địa
Tŕ Luận do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào thời Bắc
Lương. Tuy mang tên là Kinh, nhưng thật ra là Luận.
Theo truyền thuyết, bản kinh này do ngài Vô Trước
chép lại lời giảng của Di Lặc Bồ Tát. Bản
kinh này chính là bản dịch khác của phẩm Bồ Tát
Địa trong Du Già Sư Địa Luận. Kinh này giảng
về phương tiện tu hành của Bồ Tát, bao gồm
sơ phương tiện xứ, pháp phương tiện
xứ, tất cánh phương tiện xứ. Do trong ấy
lại có phần giảng nói về Bồ Tát Giới nên từ
xưa đến nay rất được Phật môn Trung
Hoa coi trọng.
[14] Tương tức: Xét về lư, Phật
tánh của Phật và chúng sanh giống hệt nhau, nên nói
“chúng sanh tức là Phật, Phật tức là chúng sanh”.
[15] Viết theo lối Đảnh Cách là viết
cao hơn một chữ so với những ḍng khác. Do tiếng
Việt viết theo hàng ngang không thể dùng cách tŕnh bày ấy,
lời phê của Tổ được in nghiêng và ghi thêm chữ
“Tổ Ấn Quang phê” trong ngoặc vuông cho rơ ràng.
[16]
Có rất nhiều bài chú Cúng Dường tùy theo nghi quỹ,
nhưng theo ngu ư, bài chú Cúng Dường được
cư sĩ Niệm Phật dùng ở đây là chú Phổ
Cúng Dường (thường được in trong các kinh
Nhật Tụng): “Án, nga nga nẵng
tam bà phạ, phiệt nhật la hộc” (
[17] Quế Viên là tên gọi khác của quả
long nhăn.
[18]
Âu Dương Cánh Vô (1871-1943), tên thật là Âu Dương Tiệm,
tự là Kính Hồ, năm bốn mươi tuổi đổi
tên tự thành Cánh Vô, c̣n có tên tự khác là Cánh Ngộ,
người huyện Nghi Hoàng, tỉnh Giang Tây, là hậu duệ
của Âu Dương Tu. Ông được coi là một triết
gia nổi tiếng thời cận đại, do theo học
với Dương Nhân Sơn nên hâm mộ ư chỉ kinh Hoa
Nghiêm bèn chuyên nghiên cứu Phật giáo, ẩn cư tại
Kỳ Hoàn Tịnh Xá để chuyên nghiên cứu kinh luận.
Ông từng sang Nhật du học. Năm 1912, cùng với Lư
Chứng Cương thành lập hội Phật Giáo, chủ
trương tách rời chánh quyền và tôn giáo, sa thải những
tăng sĩ dốt nát. Ông rất thích nghiên cứu Duy Thức
Học, đặc biệt tôn sùng Hoa Nghiêm và Du Già Sư
Địa Luận, nhưng về sau lại đề
xướng thuyết “Hoa
Nghiêm, Đại Thừa Khởi Tín Luận, Lăng Nghiêm
v.v… đều là do người Trung Hoa ngụy tạo!”
Ông chủ trương các tờ báo Dung Truyền, Khổng
Học Tạp Chí v.v… Năm 1922, sáng lập Chi Na Nội Học
Viện với tông chỉ hoằng dương Phật
giáo, bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp lợi sanh. Thái
Hư đại sư từng viết bài phê phán đường
lối cũng như cách diễn giải Phật pháp lệch
lạc của Chi Na Nội Học Viện gây nên cuộc
tranh luận sôi nổi giữa Cánh Vô và Thái Hư qua nhiều
chủ đề trong nhiều năm.
[19]
Nhị Vô Ngă là Nhân Vô Ngă và Pháp Vô Ngă, c̣n gọi là Nhân Không và
Pháp Không, hoặc Ngă Pháp Nhị Không.
1)
Nhân Vô Ngă: Hiểu rơ thân người do Ngũ Uẩn giả
hợp, chứ thật không có bản thể của cái Ngă
tự chủ tự tại. Đấy là phép Quán của Tiểu
Thừa để đoạn Phiền Năo Chướng,
đắc Niết Bàn.
2)
Pháp Vô Ngă: Hiểu rơ các pháp do nhân duyên sanh ra, không có thực
thể, tự tánh. Đấy chính là pháp Quán của Đại
Thừa để đoạn Sở Tri Chướng, trở
thành Bồ Tát.
[20] Xin đừng hiểu lầm y Ngũ
Điều của tăng sĩ trong đoạn này với
Ngũ Điều mạn y trong đoạn trước. Mạn
Y là y không chia thành từng điều (tổ Ấn Quang gọi
một miếng lớn là điều, mỗi điều cắt
ra thành miếng nhỏ hơn gọi là Khối). V́ thuở
xưa khổ vải khá hẹp, để may Mạn Y phải
ghép bằng năm miếng vải. Nay th́ Mạn Y là cả
một khổ vải không cắt thành miếng nhỏ. C̣n
Y Ngũ Điều của chư Tăng th́ gồm năm
miếng lớn may lại. Mỗi một miếng lớn
cắt thành hai miếng: một dài, một ngắn (Tổ
gọi mỗi miếng nhỏ ấy là “khối”). Y này là
loại y chư Tăng thường mặc để làm lụng
hoặc tụng kinh lễ Phật thường ngày, cư
sĩ không được tiếm dụng. Do thời ấy
Mạn Y cũng có năm miếng nên cư sĩ thường
đắp y Ngũ Điều của chư Tăng mà không
biết ḿnh đă phạm cấm chế của đức
Phật.
[21]
Bắc Chiến c̣n gọi là Bắc Phạt hoặc Đại
Cách Mạng lần thứ nhất, kéo dài từ năm 1926
đến năm 1928. Đây là cuộc chiến được
phát động bởi Quốc Dân Đảng Cách Mạng
Quân. Cánh quân này do Tưởng Trung Chánh chỉ huy từ
phương
“Hồ
Hám chi chiến” (hay c̣n gọi là Lạc Dương Chiến
Đấu) là cuộc giao tranh giữa Hồ Cảnh Dực
và Hám Ngọc Côn kéo dài từ ngày Hai Mươi tháng Hai đến
ngày Mười Ba tháng Ba năm 1925 tại Lạc
Dương (tỉnh Hà Nam). Nguyên nhân là do Hồ Cảnh Dực
được chánh quyền Dân Quốc cử làm Tổng
Đốc tỉnh Hà Nam, tướng chỉ huy quân sự
tỉnh Hà Nam là Hám Ngọc Côn bất măn liền đem quân
vây đánh họ Hồ. Đôi bên giao tranh dữ dội tại
Lạc Dương, rốt cuộc Hám Ngọc Côn thua trận
phải vượt Hoàng Hà chạy trốn rồi tự
sát.
[22]
Nguyên văn “sanh, đán, tịnh,
sửu” là bốn loại diễn viên trong một vở
tuồng của Trung Quốc, nhất là trong thể loại
Kinh Kịch.
1)
Sanh (gọi đủ là Sanh Hạnh): Tức vai diễn
viên nam, hóa trang vừa phải, không bôi đen mặt. Chia ra
làm các loại Tu Sanh (hoặc Lăo Sanh, tức vai nam trung niên,
thường đeo râu dài hay râu ba cḥm, năm cḥm), Hồng
Sanh (những vai kép đẹp, hào hùng, thường tô mặt
đỏ nhưng không có vằn như vai Quan Công, Triệu
Tử Long v.v...), Tiểu Sanh (những vai nam nho nhă, trẻ
trung. Tiểu Sanh lại chia ra thành Linh Tử Sanh tức vai
vơ tướng đội măo có đuôi trĩ; Sa Mạo Sanh
tức vai quan văn thường đội măo Ô Sa; Phiến
Tử Sanh tức văn nhân (do thường cầm quạt
nên gọi như vậy); Cùng Sanh tức vai học tṛ
nghèo….); Vũ Sanh (vai vơ tướng, mặt đẹp, hào
hoa, không có vẻ dữ dằn) như La Thông, Tiết
Đinh San v.v...
2)
Đán (gọi đủ là Hoa Đán): Tức các vai diễn
của nữ, chia thành Thanh Y (vai tỳ nữ, đầy tớ,
phụ nữ b́nh dân), Hoa Đán (đào đẹp, hay đào
thương, tức nữ diễn viên đóng vai tiểu
thư, công chúa, vương phi, hoàng hậu, bà chủ, thôn nữ
xinh đẹp…), Vũ Đán (nữ tướng), Lăo
Đán (đào mụ, tức vai bà già) v.v…
3) Tịnh
(gọi đủ là Tịnh Hạnh, hoặc Hoa Kiểm):
Tức các vai nam bôi mặt đen hay đỏ với nhiều
họa tiết kỳ quái nhằm diễn tả tánh cách anh
hùng, chánh trực, mạnh mẽ, hào sảng, nhưng thô lỗ,
hoặc những vai tướng cướp hay anh hùng hảo
hán v.v… tức các vai diễn những nhân vật như Hạng
Vũ, Trương Phi, Lư Quỳ, Đơn Hùng Tín, Uất
Tŕ Cung v.v…
4) Sửu
(gọi đủ là Sửu Hạnh) tức những vai hề,
thường vẽ mặt với những nét hoạt kê, lại
chia làm Văn Sửu (hề văn) và Vũ Sửu (hề
vơ).
Đến
cuối đời Thanh, nghệ thuật tuồng c̣n
tăng thêm một loại diễn viên nữa là Mạt,
chuyên đảm nhiệm vai dẫn truyện (gần giống
như người giữ vai Giáo Đầu trong tuồng
chèo của ta).
Do
không có chữ tương ứng để diễn tả
ư nghĩa chữ Tịnh, chúng tôi phải tạm dịch Tịnh
thành “kép nhọ” v́ vai này thường bôi mặt đen thui,
vằn vện.
[23] Tạp Hư là một loại nghệ thuật
tuồng dân gian, gọi đủ là La Cổ Tạp Hư hoặc
Năo Cổ Tạp Hư, do nhạc đệm chủ yếu
dùng bộ gơ (như thanh la, năo bạt, trống, phách, mơ…) chứ
không dùng đàn sáo nên gọi là La Cổ. Tạp Hư thường
diễn tấu từ ngày Trùng Dương (mùng Chín tháng Chín
Âm Lịch) trở đi. Kịch bản của tuồng
thường là các mẫu chuyện lịch sử như
Tam Quốc Chí, Thuyết Đường v.v… nhưng thường
diễn để cúng thần, cúng hội đ́nh chùa, hoặc
khánh thành nhà mới. Trước khi diễn, ban hát thường
đốt một đống lửa to, toàn thể diễn
viên ra chào khán giả rồi mới diễn. Mỗi một
vai diễn trước khi ra sân khấu thường có
người hát giới thiệu trước.
[24]
Vũ Hư c̣n gọi là Vũ Đả là một h́nh thức
diễn xướng chú trọng biểu diễn những
động tác của vơ thuật theo tiếng nhạc, tuy
có nội dung cốt chuyện hẳn hoi, nhưng phần
diễn xướng và ca từ th́ ít mà chú trọng nhiều
vào kỹ thuật biển diễn các thế vơ sao cho thật
đẹp mắt, linh hoạt, hoa mỹ. Thể loại
này bắt đầu từ màn biểu diễn “đơn
tiên đoạt sóc” (một chiếc roi cướp giáo) từ
đời Nguyên, rồi phát triển thành những vở
đặc biệt mô tả những màn giao đấu
như Tam Anh Chiến Lă Bố (ba anh em Lưu Bị - Quan
Vũ - Trương Phi đấu với Lă Bố), Quan Công
Quá Lục Quan (Quan Công Vượt Sáu Ải) v.v...
[25] Tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng
người bề trên về bên ngoại của kẻ
khác.
[26] Tam Đỉnh Giáp là ba vị Tiến
Sĩ đỗ đầu khoa thi Đ́nh, tức Trạng
Nguyên, Bảng Nhăn và Thám Hoa.
[27]
Theo quy chế đời Thanh, một Tỉnh được
chia thành nhiều Đạo. Mỗi Đạo sẽ gồm
nhiều Phủ. Chức quan đứng đầu một
Đạo gọi là Đạo Đài hay Đạo Doăn. Thời
Dân Quốc, Ninh Thiệu (Ninh Ba - Thiệu Hưng) Đạo
đặt trụ sở của quan Đạo Doăn tại
Cối Kê, nên Ninh Thiệu Đạo c̣n gọi là Cối Kê
Đạo.
[28]
Vô Dị Nguyên Lai thiền sư (1575-1630) là cao tăng thuộc
tông Tào Động sống vào đời Minh. Sư c̣n có hiệu
là Đại Nghĩ, pháp tự Vô Dị, thường
được gọi là Bác Sơn Thiền Sư. Năm
mười lăm tuổi, Sư triều lễ núi Ngũ
Đài, tham phỏng ngài Vô Minh Huệ Kinh chùa Bảo
Phương, đọc Cảnh Đức Truyền
Đăng Lục liền tỉnh ngộ. V́ thế bèn theo
ngài Huệ Kinh đến Ngọc Sơn, được ấn
khả. Năm Vạn Lịch 30 (1602), Sư ẩn cư tại
Bách Sơn ở Tín Châu (nay thuộc huyện Quảng Phong,
Giang Tây). Năm Thiên Khải thứ bảy (1627) chuyển
sang Cổ Sơn, đồ chúng theo học cả ngàn
người. Sư mất năm Sùng Trinh thứ ba (1621) tại
chùa Thiên Giới ở Kim Lăng. Môn nhân dựng tháp ở
Bác Sơn và chôn y bát ở ngọn Hương Lô. Sư
chuyên đề xướng tông chỉ Thiền Tịnh Bất
Nhị. Những lời dạy của Sư được
chép thành Vô Dị Thiền Sư Quảng Lục (35 quyển).
[29] Đây là một câu Khổng Tử dạy
Tử Lộ được chép trong thiên Vi Chánh sách Luận
Ngữ. Khổng Tử dạy Trọng Do (Tử Lộ): “Do, hối nhữ, tri chi hồ?
Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dă” (Này
Trọng Do! Ta dạy ông, “biết” là như thế nào? Biết
th́ nói biết, không biết th́ nói không biết, đấy
chính là biết vậy). Theo Châu Hy, Trọng Do tính t́nh bộp
chộp, dễ có hành động quá khích trong khi làm quan nên
Khổng Tử mới dạy như thế
[30] Đây là một câu nói trích từ thiên Tử
Hăn sách Luận Ngữ.
[31]
Đây là một câu nói trích từ thiên Thuật
Nhi sách Luận Ngữ: “Nhị
tam tử dĩ ngă vi ẩn hồ? Ngô vô ẩn hồ
nhĩ. Ngô vô hành nhi bất dữ nhị tam tử giả,
thị Khâu dă” (Hai ba người các anh cho ta có điều
ǵ giấu diếm chăng? Ta không có ǵ dấu giếm các
anh cả. Ta không làm ǵ mà chẳng để cho hai ba người
các anh được biết, Khâu là như vậy đó).
Chúng tôi dịch những câu nói này theo cách giải thích của
sách Tứ Thư Bạch Thoại Giải.
[32]
Khoa Đạo: Theo quy chế thời Minh - Thanh, Đô Sát Viện,
Giám Sát Ngự Sử, hoặc các quan Đạo Doăn thuộc
các Đạo đều được gọi chung là Khoa
Đạo.
[33] Sanh Từ là lập đền thờ
khi c̣n sống với ư nghĩa tỏ ḷng biết ơn sâu
đậm. Dân Bồ Kỳ cảm tạ sư Pháp Tràng
đă cầu được mưa ngọt nhiều lần
trong khi hạn hán nên lập đền thờ sống,
đặt tên là Cam Lộ.
[34]
Sanh Đồ là những người sẽ được
đi dự thi Hội. Theo quy chế vào thời Minh Thanh,
những người dự thi Thường Khảo (những
khoa thi mở theo thông lệ) được chia thành hai loại
Sanh Đồ và Hương Cống. Sanh Đồ là những
người học từ trong các trường học do
triều đ́nh thiết lập ở kinh đô hoặc các
châu, huyện, đă đậu kỳ sơ khảo tại
trường, được ghi danh đưa lên Thượng
Thư Tỉnh để dự thi Hội. C̣n những
người không học ở các trường do triều
đ́nh thiết lập, nhưng đă đỗ kỳ thi
Hương, cũng được địa phương
tŕnh tấu lên Thượng Thư Tỉnh để thi Hội
th́ gọi là Hương Cống.
[35]
Hàm Lâm Biên Tu là một chức quan vào thời Thanh Minh trên
danh nghĩa có nhiệm vụ soạn thảo văn từ,
chiếu chỉ cho hoàng đế, đồng thời biên
soạn, chỉnh lư kinh sách v.v… Nhưng thực ra, chức
quan Hàn Lâm Biên Tu được lập ra với mục
đích tạo cơ hội cho người giữ chức
vụ này được bồi dưỡng, huấn luyện
bởi các vị hiền thần lăo thành trong quá tŕnh làm việc
nhằm trở thành nhân tài chủ yếu cho đất
nước, cũng như có đủ học vấn
tư cách để làm thầy dạy cho các hoàng tử hoặc
con các vị đại thần, vương công về sau.
[36]
Nguyên văn “tiến Dịch
Sư Quái giảng chương, quyền thiết thượng
hào” (noi theo những điều được giảng
dạy trong quẻ Sư Quái của kinh Dịch, ḷng luôn tha
thiết nơi hào Thượng trong quẻ ấy). Sư
Quái là một quẻ kép trong kinh Dịch, dưới là quẻ
Khôn (đất), trên là quẻ Khảm (tượng
trưng cho nước). Phần Tượng Truyện của
quẻ Sư Quái giảng: “Địa
trung hữu thủy, Sư; quân tử dĩ dung dân, súc chúng”
(Trong đất có nước là ư nghĩa của quẻ
Sư. Quân tử bao dung dân chúng, làm cho mọi người
được yên ổn, giàu vui). Phần chú giải của
Khang Thiệu Tiết cho biết ư nghĩa của quẻ
Sư Quái là bậc quân tử phỏng theo tánh chất của
đất và nước, vững chắc, bao dung trăm họ,
chăm lo cho cuộc sống của mọi người. Do
hào Thượng của Sư Quái thuộc về quẻ Khảm
là nước, nước có tính thấm nhuần và gột
sạch chất bẩn, nên nói “ḷng
tha thiết nơi hào Thượng”, ngụ ư luôn chăm
lo cho người dân được sống yên vui, giàu mạnh,
cai trị dân bằng sự bao dung, khiến cho ḷng người
hiền thiện, an vui. Do vậy chúng tôi tạm dịch câu
“tiến Dịch Sư Quái giảng
chương, quyền thiết thượng hào” thành “luôn
lo cho dân cho nước, ḷng tha thiết mong làm lợi cho dân
chúng”.
[37] Chiếu: Văn thư truyền lệnh
do vua ban xuống cho các quan hay dân chúng. Nếu có tính cách hạn
hẹp hơn, chỉ phổ biến cho các quan thuộc Nội
Các hoặc Quân Cơ đại thần th́ thường gọi
là Thượng Dụ.
Đối (gọi đủ là Chiếu
Đối): Sớ tâu tŕnh ư kiến của các quan sau khi vua
ban chiếu hỏi ư kiến hoặc ban bố mệnh lệnh.
Cáo và Sắc là những văn thư của
vua nhằm tuyên bố những quyết định khen
thưởng, chỉ thị hoặc răn bảo,
nhưng Sắc thường được dùng để chỉ
những văn bản quyết định khen thưởng,
phong tặng do vua ban xuống.
[38] Nhiệm vụ chủ yếu của
Kinh Diên Giảng Quan là dạy Thái Tử học hoặc giảng
giải những điển tích khó trong khi Thái Tử đọc
văn kiện, tấu chương. Đôi khi vị này c̣n
kiêm nhiệm vai tṛ cố vấn cho Thái Tử.
[39] Trung Doăn là một chức quan giữ nhiệm
vụ xử lư những công việc quản trị hành
chánh (giống như chức Chánh Văn Pḥng hoặc Đổng
Lư Văn Pḥng hiện thời) trong phủ Thái Tử (Chiêm Sự
Phủ). Trong Chiêm Sự Phủ có lập ra các phân viện
Hữu Xuân Phường và Tả Xuân Phường (dưới
thời Minh, Xuân Phường là một cơ cấu giống
như viện Hàn Lâm của Thái Tử, bao gồm các cố
vấn, nhân tài để giúp cho Thái Tử tập sự cai
trị, điều hành đất nước sau này, đứng
đầu là chức Thứ Tử). Dưới chức Tả
Xuân Phường Tả Thứ Tử lập ra chức
Trung Doăn, dưới chức Hữu Xuân Phường Hữu
Thứ Tử lập ra chức Trung Xá Nhân, nhưng từ
cuối từ đời Minh trở đi đều gọi
là Trung Doăn hết, không c̣n danh xưng Trung Xá Nhân nữa!
[40]
Thị Độc Học Sĩ là chức được
thiết lập vào thời Minh - Thanh, ngạch trật từ
Nhất Phẩm đến Tứ Phẩm, đứng
đầu viện Hàn Lâm, thường giữ nhiệm vụ
tổng toản tu (Chief Editor) các công tŕnh biên soạn sử
liệu hoặc học thuật.
[41] Long Vũ là niên hiệu của Minh Thiệu
Tông (1602-1646). Minh Thiệu Tông tên thật là Châu Duật Kiên,
là cháu nội của Đường Vương Châu Thạc
Hoảng (hậu duệ của người con thứ 23 của
Minh Thái Tổ Châu Nguyên Chương) được các di thần
nhà Minh đưa lên ngôi vua năm 1645 với hy vọng khôi
phục giang sơn nhà Minh. Vua lên ngôi chỉ được
một năm, quân Thanh đă đánh tới Phước Kiến,
phải chạy sang Quảng Đông. Bị quân Thanh truy kích
tới cùng, thế cùng lực kiệt, vua bị bắt,
bèn tuyệt thực chết, thọ 44 tuổi. Do Châu Duật
Kiên không phải là con cháu trực hệ của vua Sùng Trinh
nên Tổ dùng chữ “Minh phiên”
(phên giậu nhà Minh) để chỉ vua Long Vũ. Chúng tôi
chỉ dịch gọn là “hậu duệ”.
[42] Bậc tôn túc tuổi cao đức trọng.
[43] Di lăo: Quan lại của triều đại
trước.
[44]
Sào Do: Chính là Sào Phụ (thường bị đọc trại
thành Sào Phủ) và Hứa Do, hai vị ẩn sĩ thời
vua Nghiêu. Theo bài Bá Di Liệt Truyện trong bộ Sử Kư
th́ vua Nghiêu mời Sào Do đến để bàn chuyện
nhường thiên hạ cho Hứa Do, Hứa Do không nhận
bèn lẩn trốn, ra sông rửa tai, ngụ ư không để
tai ḿnh bị nhiễm bẩn bởi danh lợi. Khi ấy
có Sào Phụ dẫn trâu ra sông uống nước, thấy
vậy, hỏi nguyên do, nghe xong liền chê: “Nếu ông ở trong núi cao, hang sâu, ai biết đến
ông? Ai thấy được ông. Ông hời hợt, vẫn
muốn được người người khác nghe tiếng,
cầu cạnh đấy chứ! Uống nước này
chỉ bẩn miệng trâu ta” rồi dắt trâu lên
thượng nguồn cho uống.
[45] Tức ngài Phí Ẩn Dung, một vị
thiền đức nổi tiếng thời ấy.
[46] Ư nói đối đáp những câu hỏi
về thiền cơ nhanh nhạy, đúng ư với người
hỏi, không sai sót chút nào!
[47] Gia tân: Khách quư.
[48]
Tây Đường (c̣n gọi là Tây Am) là từ ngữ trong
tùng lâm do tăng chúng gọi vị Tăng trụ tŕ một
ngôi chùa khác, nhưng sống như khách trong chùa ḿnh. Do thời
cổ coi phương Tây là khách vị nên mới gọi
như thế. Do ngài Pháp Tràng không ở chùa Mật Ấn mà
chùa Mật Ấn vẫn thỉnh ngài làm Trụ Tŕ nên Pháp
Tràng được coi là Tây Đường của Mật
Ấn. Ngài Tuyết Đậu dùng tư cách là vị thầy
truyền pháp của Pháp Tràng để chứng minh lễ
tấn phong ấy.
[49]
Thường thiền sư chính là ngài Pháp Thường
(752-839), cao tăng đời Đường, quê ở
Tương Dương (tỉnh Hồ Bắc), xuất gia
từ nhỏ, trụ tại chùa Ngọc Tuyền. Bao nhiêu
kinh sách hễ đọc qua liền nhớ măi không quên. Hai
mươi tuổi thọ Cụ Túc ở chùa Long Hưng.
Sư hâm mộ Thiền học, thoạt đầu tham học
với Mă Tổ Đạo Nhất, đắc ngộ, ẩn
tu tại núi Đại Mai (thuộc huyện Ngân, tỉnh
Chiết Giang), đồ chúng xin đến học rất
đông.
[50]
Đảnh tướng: Theo nguyên nghĩa là tướng
búi tóc trên đỉnh đầu của Như Lai, hết
thảy trời người không thấy được
nên gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng. Không rơ từ
thời nào, Thiền Tông Trung Hoa thường dùng thuật
ngữ này để chỉ những bức h́nh vẽ các vị
cổ đức của Thiền Tông, phần lớn là vẽ
h́nh bán thân hoặc ngồi trên ṭa, phía trên bức vẽ
thường đề một bài thơ tán dương.
[51]
Thủ Tọa: Có hai cách hiểu:
1)
Theo Thích Thị Kê Cổ Lược quyển 3, Thủ Tọa
là một chức quan được thiết lập vào
năm Đại Trung thứ mười (856) đời
Đường Tuyên Tông để cai quản tất cả
các tăng sĩ. Về sau, những vị tinh thông kinh luật
luận cũng được phong tặng tước vị
này. Cuối cùng, danh hiệu này chỉ để phong tặng
những vị thiền đức nổi tiếng.
2)
Thủ Tọa là một trong sáu chức vị trong Tăng
Đường theo Thanh Quy. Thủ Tọa c̣n gọi là
Thượng Tọa, Thủ Chúng, Đệ Nhất Tọa,
Tọa Nguyên, Lập Tăng, Thiền Đầu… tức vị
làm gương mẫu cho toàn thể tăng chúng, phẩm hạnh
cao trỗi, không c̣n vọng niệm yêu ghét, thị phi v.v… Về
sau, chức vụ này chỉ có nghĩa là vị đứng
đầu Tăng chúng, hoặc đứng đầu một
đường nếu tùng lâm chia thành nhiều đường,
chẳng hạn Tiền Đường Thủ Tọa, Hậu
Đường Thủ Tọa, Danh Đức Thủ Tọa….
Chữ
Thủ Tọa ở đây chỉ có thể hiểu theo
cách thứ hai.
[52] Tức cảnh Tây Phương Cực Lạc,
có h́nh A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát ngự trên ṭa sen ở chính giữa,
xung quanh có các vị thượng thiện nhân nghe pháp, cúng
dường, tu tập, trong ao báu có ngọc Ma Ni tuôn nước
báu, những người văng sanh từ hoa sen báu bước
ra, chiêm ngưỡng, lễ kính Phật, chư thiên rải
hoa trời cúng dường trên hư không v.v.... Bức vẽ
này c̣n được gọi bằng những danh từ
như Cực Lạc Thế Giới Biến Tướng
Đồ, Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Y
Chánh Trang Nghiêm Đồ, Tây Phương Pháp Hội Đồ
v.v…
[53] Xin đọc bài này trong phần Những
Bài Viết Khác của Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, quyển 2. Lâm Văn Trung Công chính là Lâm Tắc Từ.
[54] Cha của ông Trần Sĩ Mục là
cư sĩ Trần Tiếp Ḥa.
[55] Phức (馥) có
nghĩa là thơm ngào ngạt, thơm ngát.
[56] “Ḥm” (có nghĩa là cái tráp, cái rương
nhỏ, xin đừng lầm là quan tài!) thường
được dùng để dịch chữ Hàm (hay c̣n gọi
là Lang Hàm). Lang Hàm vốn là một cái hộp nhỏ để
đựng cả một bộ sách, vừa giữ cho sách
khỏi hư b́a, vừa để những quyển trong một
bộ sách bị thất lạc. Khi xưa, sách thường
được in thành từng quyển, mỗi quyển
độ 40 trang. Đối với những tác phẩm lớn,
cứ mỗi 10 quyển lại gộp thành một Hàm, cho
dễ kiểm nhận, tra cứu, giống như h́nh thức
chia thành tập (volume) hiện thời.
[57]
“Phạn bản” theo nghĩa thông thường có nghĩa là
nguyên văn chép bằng tiếng Sankrit (tiếng Bắc Phạn),
nhưng từ ngữ này được dùng ở đây
để chỉ một lối in kinh. Trong cách in kinh này, mỗi
trang gồm mười hai ḍng, mỗi ḍng độ 17 chữ,
được chia thành hai nửa trang, có vạch phân cách
chính giữa, nhưng vẫn chỉ đánh số như một
trang (chỉ in một mặt giấy). Do vậy khi xếp
lại thành quyển để đóng gáy, hai mặt giấy
trắng đâu lưng vào nhau, mỗi một trang giấy của
quyển sách đă đóng chỉ là nửa trang giấy ban
đầu (tức mỗi trang chỉ gồm sáu ḍng;
đúng ra phải gọi là cột), cứ mỗi hai mặt
của một trang giấy mới gọi là một trang (v́
thế lối in này c̣n gọi là Chiết Tử). Đây là
cách in mô phỏng cách chép kinh theo hàng ngang trên lá bối của
Ấn Độ nên gọi là Phạn Bản. Đôi khi có
những bản in như Thục Bản được in
theo lối Quyển Tử, tức mỗi trang được
in trên một tờ giấy dài, mỗi một tờ
như vậy gồm hai mươi ba hàng, mỗi hàng mười
sáu hay mười bảy chữ, bộ kinh in xong được
cuốn thành cuộn chứ không xếp giấy đóng
thành sách. Về sau này, khi kỹ thuật ấn loát tiến
bộ hơn, đă in được cả hai mặt giấy,
nếu mỗi trang bị cắt ra như vậy th́ bản
in ấy vẫn gọi là Phạn Bản.
[58]
Thạch Kinh Sơn có tên cũ là Bạch Đới Sơn,
hay Vân Cư Sơn, thuộc huyện Pḥng Sơn, tỉnh Hà
Bắc. Do sư Tịnh Uyển (Minh Báo Kư ghi là Trí Uyển)
khởi xướng khắc kinh trên đá cất giữ
trong động mà núi được gọi là Thạch Kinh
Sơn. Do thế núi ngoằn ngoèo kỳ vĩ nên núi c̣n có
tên nữa là Tiểu Tây Thiên. Trong lá thư trên đây, tổ
Ấn Quang ghi sư Trí Uyển sống vào đời Tấn
có lẽ là do người sao lục chép nhầm. Theo từ
điển Phật Quang Sơn, trong niên hiệu Đại
Nghiệp (605-616) nhà Tùy, do các vua thuộc triều đại
Bắc Châu, Bắc Tề nối tiếp nhau phế Phật,
trục xuất sa-môn, đốt phá nhà chùa, sư Tịnh
Uyển chùa Trí Tuyền ở U Châu liền phát nguyện tạo
khắc Đại Tạng Kinh trên đá để kinh
điển khỏi bị diệt mất. Được
sự hỗ trợ của vợ vua Tùy Dạng Đế,
Sư đă liên tục khắc kinh cho đến khi viên tịch
vào năm Trinh Quán 13 (639) đời Đường. Tiếp
nối chí nguyện của Sư có các vị Huyền Đạo,
Nghi Công, Huệ Tiêm, Huyền Pháp, Khả Nguyên, Hưng Tông,
Triệu Tuân Nhân, Đạo Tông, Tông Lư v.v… Toàn bộ Đại
Tạng Kinh được khắc xong vào năm Đại
An thứ mười (1094) nhà Liêu. Hậu nhân vẫn tiếp
tục khắc thêm những bản kinh hoặc trước
tác, ngữ lục, chú giải cho măi đến năm Khang
Hy 30 (1691) mới thật sự ngưng khắc.
[59]
Giáo Thừa Pháp Số do Viên Tịnh biên tập vào đời
Minh. Do thấy các sách Đại Thừa Pháp Số, Hiền
Thủ Pháp Số c̣n thiếu sót nhiều nên Sư đă dựa
trên quan điểm của tông Thiên Thai thâu thập tất cả
những pháp số (những thuật ngữ trong Phật
giáo như Tam Quy, Nhất Thừa, Ngũ Giáo, Lục Độ
v.v…) trong các kinh điển Phật giáo và trước tác của
bách gia chư tử biên soạn thành sách này. Sách bắt
đầu bằng từ ngữ “nhất tâm” và kết thúc
bằng “bát vạn tứ thiên pháp môn”. Trong ấy, cũng
giải thích những danh số của các ngoại điển
(những kinh sách không thuộc Phật giáo).
Đại Minh Tam Tạng
Pháp Số do sư Nhất Như biên soạn, thường
được gọi tắt là Đại Minh Pháp Số,
hoặc Tam Tạng Pháp Số, nội dung gồm những
pháp số xuất phát từ Tam Tạng kinh điển,
cũng khởi đầu bằng từ ngữ “nhất
tâm” và kết thúc bằng “bát vạn tứ thiên pháp môn”, tổng
cộng 1.555 từ ngữ, ghi rơ xuất xứ từ kinh
luận trước thuật nào, đồng thời
cũng dẫn giải những cách giải thích khác nhau của
các tông.
[60] Tổ Đ́nh Sự Uyển gồm 8
quyển, do Mục Am Thiện Khanh soạn vào đời Tống,
ghi lại ngữ lục, hành trạng tóm tắt của các
vị thiền sư nổi tiếng thời ấy như
Vân Môn Văn Yển, Tuyết Đậu Trọng Hiển…
Đồng thời sách c̣n giảng giải những từ
ngữ khó nên trong thuở trước sách này thường
được coi như một cuốn tự điển
trong nhà Thiền.
[61]
Lâm Gian Lục do ngài Giác Phạm Huệ Hồng (1071-1128) soạn
vào đời Tống. Sách có tên gọi đầy đủ
là Thạch Môn Hồng Giác Phạm Lâm Gian Lục. Đây
chính là ngữ lục của ngài Giác Phạm, ghi chép những
lời bàn luận, tán dương hạnh đẹp của
các vị tôn túc, cũng như những di huấn trong thiền
lâm, những ư chỉ của chư Phật, Bồ Tát v.v…
Tông
Môn Vũ Khố do Đạo Khiêm soạn vào đời Tống,
có tên gọi đầy đủ là Đại Huệ Phổ
Giác Thiền Sư Tông Môn Vũ Khố. Sách này là phụ lục
của cuốn Đại Huệ Phổ Giác Thiền
Sư Ngữ Lục, tập hợp lời ngài Đại
Huệ Tông Cảo luận về nhân duyên, hành trạng, giáo
huấn, cơ phong chuyển ngữ nhằm tùy cơ tiếp
độ người học của các cổ đức
trong nhà Thiền, kèm thêm những lời b́nh chú của Đạo
Khiêm.
[62] Tức nơi thức ăn mới
được nghiền nát, chưa được tách ra
thành các dưỡng chất dưới tác dụng của
các diếu tố (enzymes) tiêu hóa. Như vậy Sanh Tạng
bao gồm thực quản, dạ dày. Thục tạng gồm
ruột non, ruột già.
[63] Đây là lời thắc mắc của
ông Đinh Phước Bảo về một câu trong Phật
Thuyết Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh, “con nằm trong bụng mẹ, ở phía dưới
sanh tạng, phía trên thục tạng”.
[64] Quỳnh lâm: Vốn gọi đủ là
“quỳnh lâm ngọc thụ”
(rừng quỳnh cây ngọc). Quỳnh (瓊) là một loại ngọc quư và đẹp.
Do vậy, “quỳnh lâm ngọc thụ” thường dùng
để chỉ chung những ǵ thanh cao, đẹp đẽ,
nhất là những lời nói tuyệt diệu. Từ ngữ
này vốn trích từ một câu nói trong tác phẩm Hoắc
Tiểu Ngọc Truyện của Tưởng Pḥng đời
Đường: “Đản
giác nhất thất chi trung, nhược quỳnh lâm ngọc
thụ, hỗ tương chiếu diệu, chuyển phán
tinh thái xạ nhân” (Chỉ nhận thấy trong căn
pḥng khác nào rừng quỳnh cây ngọc, chiếu ngời lẫn
nhau, đưa mắt nh́n thấy màu sắc tinh xảo lóa
mắt).
[65] Tức bản Thập Nhất Diện
Thần Chú Tâm Kinh Nghĩa Sớ, không rơ ai là tác giả,
được đánh số 1802 trong Đại Chánh Tân Tu
Đại Tạng Kinh. Đây là bản sớ giải bộ
Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Thần Chú Tâm Kinh
(Mukhadaśaikavidyā-mantra-hrdaya) do ngài Da Xá Quật
Đa dịch dưới thời Bắc Châu.