Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, Quyển 4
Phần 24
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ
Trang
2. Văn sớ cầu siêu vong linh văng
sanh Tây Phương trong Phật Thất
Nép trông: Phật quang chiếu khắp
như mặt trời rực rỡ giữa trời, pháp
hóa lưu hành như cam lộ nhuần thấm mọi vật.
Có chuyện mong cầu đều ứng, không nguyện nào
chẳng tṛn. Kính cẩn kêu cầu bậc sẵn ḷng Từ
mênh mông rủ ḷng soi xét.
Nay có
chùa… tại danh sơn… ở huyện… tỉnh… thuộc Nam
Thiệm Bộ Châu trong tứ thiên hạ, vâng phụng hành
di giáo của Thích Ca Như Lai, chủ tu pháp sự công đức
là sa-môn…. nay do [tín chủ] cư trụ tại xóm… làng… huyện...
tỉnh… thờ Phật tu nhân mà thiết lập đạo
tràng Phật Thất cầu siêu cho người đă khuất
văng sanh Tây Phương. Ngày hôm nay [tín chủ]… đă suất
lănh toàn thể gia quyến tốt lành, rửa tay thắp
hương, nhất tâm quy mạng trước các ṭa sen
vàng báu của Sa Bà giáo chủ Thích Ca Văn Phật, Cực
Lạc giáo chủ A Di Đà Phật, thập phương
tam thế vô tận Tam Bảo. Nguyện dơi mắt sen, xét
soi tấm ḷng tha thiết mong ngóng. Chúng con tha thiết
đau đáu nghĩ tới [vong linh]… sanh nhằm giờ…
ngày… tháng… năm… mất nhằm giờ… ngày… tháng… năm… Nghĩ
vong linh khuất bóng đă lâu, h́nh dung, giọng nói vĩnh viễn
xa ĺa, chưa tu Niệm Phật tam-muội, khó khỏi theo
nghiệp thăng trầm. Tam đồ cố nhiên là
nơi đau đớn khổ sở, cơi nhân thiên cũng
chẳng yên vui. Nếu chẳng văng sanh Tây Phương, quyết
khó được thân - tâm tự tại. Do vậy, cung kính
về chùa… mở đạo tràng niệm Phật suốt bảy
ngày để cầu siêu cho vong linh văng sanh Tây Phương,
nương cậy sư tăng giới đức xưng
dương thánh hiệu Di Đà, dâng cỗ chay sáu vị
thơm tho cúng dường Thường Trụ Tam Bảo.
Sáu thời ức niệm, bảy ngày tu ṛng, nhóm họp công
đức chuyên cầu [vong linh]… thần siêu cơi Tịnh,
nghiệp trả lại trần lao, sen chín phẩm nở
hoa, trong một đời được Phật thọ
kư. Lại cầu tổ tông các đời đều về
Cực Lạc; quyến thuộc hiện tại đều
được tốt lành. Bốn loài, chín cơi đều
quy hướng pháp môn Tịnh Độ; tám nạn, tam
đồ cùng vào biển nguyện của Phật Di Đà.
Cung kính cầu Tam Bảo từ bi chứng minh nhiếp thọ.
Kính cẩn dâng sớ tâu tŕnh mọi lẽ vào ngày… tháng…
năm…
3. Văn sớ dùng trong Phật Thất
nhằm gieo phước, tăng thọ
Nép trông:
Phật, trời che chở khắp, chỉ cần hễ cảm
đều liền thông, biển pháp vô biên, chỉ có cạn
ḷng Thành th́ mới được lợi ích. Kính cẩn kêu
cầu bậc sẵn ḷng Từ mênh mông rủ ḷng soi xét.
Nay có
chùa… tại danh sơn… ở huyện… tỉnh… thuộc Nam
Thiệm Bộ Châu trong tứ thiên hạ, phụng hành di
giáo của đức Thích Ca Như Lai, chủ tu pháp sự
công đức là sa-môn…. nay do [tín nam (tín nữ)] cư trụ
tại xóm… làng… huyện... tỉnh… thờ Phật tu nhân mà
thiết lập đạo tràng Phật Thất nhằm
gieo phước, tăng thọ. Tín nam (tín nữ)… vốn
sanh nhằm giờ… ngày… tháng… năm…, nay tṛn…. tuổi, ngày
hôm nay đă suất lănh toàn thể gia quyến tốt lành,
rửa tay thắp hương, nhất tâm quy mạng
trước các ṭa sen vàng báu của Sa Bà giáo chủ Thích Ca
Văn Phật, Cực Lạc giáo chủ Vô Lượng Thọ
Phật, thập phương tam thế vô tận Tam Bảo.
Nguyện dơi mắt sen, xét soi tấm ḷng tha thiết ngưỡng
vọng. Tha thiết nghĩ: Đệ tử lạm sanh nhằm
thời hưng thịnh, thẹn dự vào loài người,
thiện căn nhỏ yếu, chưa biết phương
hướng xuất thế. Lỗi cũ quá nhiều, nẻo
tu nhân mê muội đă lâu. Lại c̣n được trời
che, đất chở, thầy dạy, cha mẹ sanh thành,
chịu ân lớn vượt trỗi hư không, báo ân ít c̣n
hơn mảy giọt. Nếu chẳng gieo ḷng Thành nơi
Tam Bảo, làm cách nào báo khắp bốn ân? Do vậy, kính cẩn
ngay trong hôm nay, cung kính về chùa… mở đạo tràng niệm
Phật nhằm gieo phước, tăng thọ trong suốt
bảy ngày, cậy nhờ sư tăng giới đức
xưng dương thánh hiệu Vô Lượng Thọ Phật,
dâng cỗ chay sáu vị thơm tho cúng dường Thường
Trụ Tam Bảo. Sáu thời ức niệm, bảy ngày tu
ṛng, nhóm họp công đức chuyên cầu núi tội sụp
đổ, biển nghiệp khô ran, thọ ngày càng tăng,
phước tự trời ban xuống. Quyến thuộc
hiện tại đều hưởng Ngũ Phước để
vun bồi nhân thù thắng, họ hàng, thân thuộc trong quá
khứ đều nương theo ḷng Từ của Phật
để sanh về Tịnh Độ. Báo trọn bốn
ân, giúp khắp ba cơi. Pháp giới hữu t́nh cùng viên măn Chủng
Trí (phần dưới lược đi).
4. Văn sớ dùng cho Phật Thất
sám hối phát nguyện
(Phần
đầu lược đi) Tha thiết
nghĩ đệ tử… túc nghiệp sâu nặng, quá khứ,
hiện tại rối bời. Tuy chuyên chí tu Tịnh nghiệp,
vẫn chưa được “tâm Phật tương ứng”,
nhiều năm bệnh tật triền miên, nay lại càng
thêm trầm trọng. Do vậy, đặc biệt xin chùa…
mở đạo tràng niệm Phật cầu sanh Tây
Phương một thất. Khẩn cầu Di Đà từ
phụ và các thánh chúng đặc biệt rủ ḷng từ
bi, mau đến tiếp dẫn con, khiến cho con chánh niệm
phân minh, theo Phật văng sanh. Chẳng ĺa đương niệm
liền sanh về Tây Phương, thấy Phật, nghe
pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn, nương Phật từ lực
và nguyện luân của chính ḿnh, trở vào Sa Bà độ
thoát chúng sanh. Nếu tuổi thọ trong đời này
chưa hết, nguyện con mau được lành bệnh,
sẽ cho đến hết báo thân này, hoằng dương
Tịnh Độ, rộng độ chúng sanh ḥng báo ân Phật.
Lại nguyện cha và cô đă khuất sẽ nương
công đức này, thần siêu cơi tịnh, nghiệp trả
lại trần lao, sen nở hoa thượng phẩm, Phật
thọ kư trong một đời. Gia mẫu là… tin sâu Phật
pháp, chuyên tu Tịnh nghiệp, lâm chung chánh niệm rỡ
ràng, được Phật tiếp dẫn về Cực Lạc.
Người vợ đă khuất là…ở trong đàn tràng
Phật thất này được Phật từ bi gia bị,
chẳng ĺa đương niệm liền dự Liên Tŕ. Lại
nguyện tổ tông các đời, oán thân bao kiếp, cùng
lên Tịnh Độ huyền môn, cùng vào biển nguyện
của Phật Di Đà. Lại nguyện cửa nhà tốt
lành, yên ổn, quyến thuộc b́nh an, chiến tranh sớm
chấm dứt, trong ngoài nước hiệp ḥa. Cung kính
mong Tam Bảo từ bi chứng minh nhiếp thọ, kính cẩn
dâng sớ.
5. Văn sớ dùng trong buổi tụng
kinh lễ Phật nhằm gieo phước, tăng thọ
Nép trông:
Đại Giác Thế Tôn quả thật là nơi
nương tựa cho chúng sanh, kinh Dược Sư mầu
nhiệm thật đúng là thuyền bè trong biển khổ.
Hễ có cầu đều ứng, không cảm nào chẳng
thông. Kính cẩn kêu cầu bậc sẵn ḷng Từ mênh mông
rủ ḷng soi xét.
Nay có chùa… tại núi… ở
huyện… tỉnh… nước… thuộc Nam Thiệm Bộ
Châu trong tứ thiên hạ, vâng hành theo di giáo của Thích Ca
Như Lai, chủ tu pháp sự công đức là sa-môn…. nay do
[tín chủ] cư trụ tại xóm… làng… huyện... tỉnh…
thờ Phật tu nhân mà thiết lập đạo tràng tụng
kinh lễ Phật nhằm gieo phước, tăng thọ.
Tín nam (tín nữ)… đă suất lănh toàn thể quyến thuộc
tốt lành, ngày hôm nay rửa tay thắp hương, nhất
tâm quy mạng dưới các ṭa sen báu của đức Sa
Bà giáo chủ Thích Ca Văn Phật, Tiêu Tai Diên Thọ Dược
Sư Như Lai, thập phương tam thế vô tận
Tam Bảo, nguyện dơi mắt xanh biếc, soi xét tấm
ḷng son. Trộm nghĩ đệ tử tuy sanh nhằm thuở
Mạt Pháp, may sống tại Trung Hoa…,
được Phật, thánh chở che, cậy cha mẹ
vỗ về, nuôi nấng, chẳng chỉ thọ ân lại
c̣n mong báo đền, cũng như muốn sám hối tội
lỗi để tự sửa đổi trở thành con
người mới. Do vậy, liền kính cẩn trong ngày
hôm nay cung kính về chùa… mở một hội đạo
tràng tụng kinh lễ Phật nhằm gieo phước
tăng tuổi thọ, cậy vào sư tăng giới
đức, xưng dương thánh hiệu Dược
Sư, kiền thành lễ Phật và thánh chúng trong hải hội
Dược Sư. Đem công đức này chuyên cầu
đệ tử… nghiệp chướng tiêu trừ, thiện
căn tăng trưởng. Thọ ngày càng dài lâu, đức
theo thời càng mới. Lại nguyện oán thân bao kiếp
đều b́nh đẳng được giải thoát, quyến
thuộc hiện tại đều được yên vui,
khỏe mạnh. Báo trọn bốn ân, giúp khắp ba cơi.
Pháp giới hữu t́nh đều viên măn Chủng Trí. Cung
kính cúi xin Tam Bảo từ bi chứng minh nhiếp thọ.
Kính cẩn dâng sớ.
Nước… ngày… tháng… năm, kính tŕnh cặn
kẽ.
6. Sớ văn dùng trong Phật Thất
nhằm gieo phước, tăng thọ
Nép trông:
Phật quang chiếu khắp, như vầng trăng Thu giữa
hư không. Pháp hóa lưu hành như mưa đúng thời
nhuần trọn muôn vật. Sở cầu đều toại,
không nguyện nào chẳng thỏa. Kính cẩn kêu cầu bậc
sẵn ḷng Từ mênh mông rủ ḷng soi xét.
Nay có chùa… tại danh
sơn… ở huyện… tỉnh… nước…thuộc Nam Thiệm
Bộ Châu trong tứ thiên hạ, vâng hành theo di giáo của
Thích Ca Như Lai, chủ tu pháp sự công đức là
sa-môn…. Do nay có tín nam [tín nữ]…. cư trụ tại khu…
đường… thành phố... thờ Phật, sắp
đặt cỗ chay, gieo phước, tăng thọ,
đă cùng toàn thể quyến thuộc tốt lành, nhất
tâm khấu đầu trước các ṭa sen báu của Sa Bà
giáo chủ Thích Ca Văn Phật, Tiêu Tai Diên Thọ Dược
Sư Như Lai, Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật,
hiện tọa đạo tràng Quán Âm Đại Sĩ,
mười phương tam thế vô tận Tam Bảo, nguyện
dơi mắt sen, xét soi tấm ḷng thiết tha mong ngóng.
Trộm nghĩ đệ
tử lạm phần sanh nhằm đời thịnh, may
được làm người, nhờ đức trạch
của tổ tiên nên cơm áo vẫn chưa thiếu thốn.
Thường muốn báo ân, gieo phước, tu tŕ Tịnh
nghiệp. Hiềm rằng căn cơ cạn mỏng, tội
chướng rộng sâu, bỏ uổng phí thời gian,
chưa được lợi ích thật sự. Nay bị bệnh
tật triền miên[1],
càng sợ ba cơi chẳng yên. Do vậy, đặc biệt dấy
ḷng Thành, cung kính về chùa… mở một hội Phật Thất
chuyên tŕ thánh hiệu vạn đức hồng danh của
A Di Đà Phật, chọn hôm khai đàn vào ngày… trong tháng
này, cung thỉnh… (bao nhiêu vị) sư tăng giới đức
suốt ngày nhất tâm niệm thánh hiệu cho đến
ngày… th́ viên măn. Lại trong ngày hôm ấy, mở một hội
Diệm Khẩu Phổ Tế Cô Hồn. Dùng công đức
này chuyên cầu Phật rủ ḷng Từ gia bị, pháp lợi
thấm nhuần, sương tội tiêu tan, thân tâm yên vui, mặt
trăng huệ rạng ngời, hiểu rơ Đế Lư. Hiện
tại đạo nghiệp tăng tấn, sống
được dự vào địa vị cao cả trong
hàng thánh hiền, lâm chung thần thức lẫn xác thân
đều tốt đẹp, cao đăng cơi Cực Lạc.
Lại cầu tổ tiên quá khứ cùng sanh về Tây
Phương, quyến thuộc hiện đời đều
tăng phước thọ. Lại cầu mưa thuận
gió ḥa, dân yên, vật mạnh. Can qua vĩnh viễn chấm
dứt, trong ngoài nước đều hiệp ḥa. Báo trọn
bốn ân, giúp khắp ba cơi. Chúng sanh trong pháp giới đều
viên thành Chủng Trí. Kính mong Tam Bảo rủ ḷng Từ chứng
minh nhiếp thọ. Kính cẩn dâng sớ tâu tŕnh cặn kẽ
nhằm ngày… tháng… năm… Âm Lịch, tức năm…
Dương Lịch.
7. Điệp thỉnh và văn sớ cho
pháp hội Phổ Lợi Thủy Lục
Nép trông: Đại Giác
Thế Tôn quả thật là nơi nương tựa cho
chúng sanh, diệu pháp linh văn chính là thuyền bè trong biển
khổ. Kính cẩn kêu cầu bậc sẵn ḷng Từ mênh
mông rủ ḷng soi xét.
Nay có chùa…
tại núi… ở huyện… tỉnh… nước… thuộc
Nam Thiệm Bộ Châu trong tứ thiên hạ, vâng hành theo di
giáo của Thích Ca Như Lai, chủ tu pháp sự công đức
là sa-môn…. nay do tín nam (tín nữ)… cư trụ tại xóm…
làng… huyện... tỉnh… tuổi… bổn mạng sanh nhằm
cung… giờ… ngày… tháng… thờ Phật, sắp đặt cỗ
chay ḥng gieo phước, tăng thọ. Ngày hôm nay, nhất
tâm quy mạng Sa Bà giáo chủ Thích Ca Thế Tôn, thập
phương tam thế vô tận Tam Bảo, nguyện rộng
phóng từ quang, xét soi tấc ḷng tha thiết trông ngóng. Trộm
nghĩ: Đệ tử và các chúng sanh từ vô thủy
đến nay luân hồi trong sáu nẻo, mê tâm, chấp cảnh,
trái giác hiệp trần, trong chân thường lầm thấy
vô thường, nơi Cực Lạc biến thành cực
khổ. Chẳng gặp duyên lành, sẽ không có cách nào diệt
tội, tăng phước. Chẳng tu pháp thù thắng, sẽ
chẳng có cách nào cầu siêu cho người thân, cởi gỡ
oan khiên. Gặp dịp chùa… nhóm họp mọi điều
lành, lập hội Vạn Niên Phổ Lợi Thủy Lục,
cũng góp sức một phần, cầu mong nhận hưởng
điều phước, sự lành, nhằm đền ân,
giúp đỡ chúng sanh trong ba cơi. Mỗi năm vào ngày… tháng…
liền khai đàn đến ngày… viên măn. Trong pháp hội này,
chúng con nhất tâm phụng thỉnh mười
phương pháp giới tứ thánh lục phàm, vạn
đức, vạn linh, quang giáng pháp diên để chúng con
được cúng dường. Nhờ vào đại chúng
thanh tịnh phúng tụng… Nhóm họp công đức như
trên, ngưỡng mong Tam Tôn rủ ḷng chứng giám, vạn
thánh phóng quang. Khơi rộng cửa dẹp khổ, mở
toang đạo ban vui. Bốn ân, ba cơi, pháp giới chúng sanh
đều mau thoát khỏi chốn khổ, sanh ngay sang cơi
vui. Đệ tử dự hội sống th́ phước
thọ tăng cao, mất về Liên Bang.
Đàn tràng này ngoài việc
tuân theo khoa nghi để lo liệu, sắp đặt, mỗi
người [tham dự] đều được cấp
một tờ điệp văn để người ấy
đeo, giữ tùy thân, nhằm khi măn báo thân trăm tuổi,
nhờ vào điệp văn này liền sanh về Tịnh
Độ. Do vậy, soạn điệp văn để cấp
cho những người cần lănh điệp văn, giao
cho tín nam (tín nữ)… tham dự tu tập, vun bồi cái nhân
để cầm theo tùy thân.
Nhằm ngày… tháng… năm... công nguyên, chủ
tu pháp sự công đức sa-môn… cấp điệp.
8. Văn sớ lễ bái Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Nép trông: Đại Giác
Thế Tôn quả thật là nơi nương tựa cho
chúng sanh, kinh mầu nhiệm Hoa Nghiêm chính là thuyền bè
trong biển khổ. Có mong cầu đều ứng, không cảm
nào chẳng thông! Kính cẩn kêu cầu bậc sẵn ḷng Từ
mênh mông rủ ḷng soi xét.
Nay có chùa… tại danh
sơn… ở huyện… tỉnh… nước…thuộc Nam Thiệm
Bộ Châu trong tứ thiên hạ, vâng hành theo di giáo của
Thích Ca Như Lai, chủ tu pháp sự công đức là
sa-môn…. Nay có tín nam (hay tín nữ)… cư trụ tại khu…
đường… thành phố... tuổi…, bổn mạng
sanh nhằm giờ… ngày… tháng... cung… thờ Phật, tu nhân
gieo phước, tăng thọ. Ngày hôm nay xông ướp, tắm
gội thắp hương, nhất tâm quy mạng dưới
các ṭa sen vàng báu của Sa Bà giáo chủ Thích Ca Văn Phật,
Cực Lạc đạo sư A Di Đà Phật, Tiêu Tai
Diên Thọ Dược Sư Như Lai, Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Tôn Kinh, hiện tọa
đạo tràng Quán Âm Đại Sĩ, thập
phương tam thế vô tận Tam Bảo. Nguyện dơi mắt
xanh biếc, phóng từ quang, xét soi tấm ḷng ngu thành tha thiết
mong ngóng.
Trộm nghĩ đệ
tử từ vô thủy tới nay luân hồi sáu nẻo, mê
tâm, chấp cảnh, trái giác, hiệp trần, buông lung thân -
miệng - ư, tạo giết - trộm - dâm, cùng các chúng sanh
tàn hại lẫn nhau. Nơi chân thường lầm thấy
sanh diệt, trong Cực Lạc biến thành hứng chịu
khổ độc! Chẳng gặp duyên lành, sao diệt tội
tăng phước? Chẳng tu pháp thù thắng, không cách nào
báo ân, cởi gỡ oán thù. Do vậy, đặc biệt
phát ḷng Thành kiền thỉnh vị tăng giới đức
là đại sư… thuộc chùa… cứ mỗi chữ một
lạy, chí thành đảnh lễ một bộ Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh tám mươi mốt
quyển. Nay gặp lúc công đức viên măn, Phật sự
hoàn măn tốt đẹp, ngưỡng mong Tam Tôn gia bị,
vạn thánh phóng quang khiến cho bản thân đệ tử
và quyến thuộc cả nhà đều tai chướng
băng tiêu, tốt lành như mây nhóm tới, phước trạch
sâu tựa biển Đông, thọ lượng cao tầy
non Nam. Những vị đă khuất trong các đời
đều được hưởng pháp lợi cùng sanh về
Cực Lạc, dằng dặc truyền măi tới hậu
duệ, gội ân Phật đều hưởng yên vui, khỏe
mạnh. Báo trọn bốn ân, giúp khắp ba cơi, pháp giới
hữu t́nh đều viên măn Chủng Trí. Ngưỡng mong
Tam Bảo từ bi, chứng minh nhiếp thọ. Do vậy,
đàn này bèn cấp một tờ điệp văn để
những người ấy cầm giữ nơi thân, ḥng
khi măn báo thân trăm tuổi, sẽ cậy vào công đức
này văng sanh Tịnh Độ. Nay cấp điệp.
Điệp văn trên
đây cấp cho tín nam (tín nữ)… tu nhân cầu quả gieo
phước tăng thọ thâu nhận nhằm ngày… tháng…
năm…Dương Lịch.
Chủ tu sa-môn…. kính soạn.
Bái kinh tỳ-kheo… cung
kính kư tên
XIII. Câu đối
1. Câu đối ở cửa Tam Quan
Tịnh Độ pháp môn phổ
nhiếp quần cơ, thật Như Lai thành thủy thành
chung chi đạo,
Di Đà ân đức biến triêm
hàm thức, thị chúng sanh tâm tác tâm thị chi
phương.
(Pháp môn Tịnh
Độ nhiếp khắp căn cơ, thật đạo
Như Lai thành thủy thành chung,
Ân đức
Di Đà thấm trọn hàm thức, dạy chúng sanh nẻo
tâm làm, tâm là)
2. Gác Di Lặc
Di Lặc vị đương lai Thế Tôn, viễn
bổn liên kinh bất tuyên, thật tắc cửu thành vô
thượng đạo,
Lâu các năi pháp giới toàn tàng, diệu
đế Hoa Nghiêm lược hiển, quán tư khả hiểu
trụ tư nhân.
(Di Lặc
là Thế Tôn thuở tương lai, kinh sen chẳng nói tới
Bổn Địa lâu xa, thật ra thành vô thượng
đạo đă lâu,
Lâu các vốn
trọn thâu khắp pháp giới, Hoa Nghiêm lược bày sự
thật nhiệm mầu, nh́n vào đó hiểu vị trụ
trong đấy)
Bảo các phú thập hư, trực đồng vạn
tượng không hàm, viên chương pháp giới tu nhân sự,
Phân thân biến trần sát, uyển nhược thiên
giang nguyệt ấn, dự nhiếp Long Hoa thọ kư nhân
(Gác báu rợp mười
phương, thật giống hư không dung muôn h́nh tượng,
phô trọn chuyện tu nhân trong pháp giới,
Phân thân khắp trần
sát, hệt như vầng trăng in bóng ngàn sông, nhiếp sẵn
người thọ kư hội Long Hoa)
3. Đại Hùng bảo điện
Nguyện trọng, bi thâm, cử
tam căn nhi phổ độ,
Chân cùng, Hoặc tận, siêu Thập
Địa dĩ độc tôn.
(Nguyện
nặng, bi sâu, độ khắp trọn ba căn,
Chân cùng,
Hoặc tận, độc tôn trỗi Thập Địa)
4. Địa Tạng điện
Chúng sanh độ tận
phương chứng Bồ Đề, bi tâm vô kư,
Địa ngục dĩ không thủy
thị thành Phật, từ thệ mạc cùng.
(Chúng sanh
độ hết mới chứng Bồ Đề, bi tâm vô
tận,
Địa
ngục trống rồi mới hiện thành Phật, từ
thệ khôn cùng)
5. Quán Âm (hai
bài)
Diệu tướng trang nghiêm, phổ
nhiếp thứ loại,
Bi tâm trắc đát, quảng
độ quần manh
(Diệu
tướng trang nghiêm, nhiếp khắp mọi loài,
Bi tâm lồng
lộng, rộng độ quần manh)
Đại Sĩ hiện thiên thủ
nhăn biến đề phổ chiếu,
Chúng sanh đương nhất
tâm chí quy mạng đầu thành
(Đại
Sĩ hiện ngàn mắt, ngàn tay, chiếu soi nâng đỡ
khắp,
Chúng sanh
hăy một ḷng, một chí, quy mạng dốc ḷng thành)
6. Niệm Phật Đường (hai bài)
Đô nhiếp lục căn tịnh
niệm tương kế,
Chuyên chú nhất cảnh tất
mạng vi kỳ
(Nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối,
Chuyên chú
một cảnh, hết mạng làm hạn)
Mạc nhạ nhất xưng
siêu Thập Địa,
Tu tri lục tự quát tam thừa
(Chớ lạ
xưng danh một tiếng, sao vượt trỗi Thập
Địa?
Nên biết
hồng danh sáu chữ, bao trọn khắp ba thừa)
7. Tặng đại sư Pháp Không
Tu hành dĩ đối trị phiền
năo tập khí vi bổn,
Tỉnh kỷ dĩ bất khẳng
phóng túng tự khi vi công.
(Tu hành, lấy
đối trị phiền năo tập khí làm gốc,
Xét ḿnh,
dùng “chẳng chịu buông lung, tự khinh” làm công)
8. Tặng cư sĩ Quách Giới Mai
Bôi lượng dung tam thiên thế
giới,
Độ sanh tận thập nhị
hàm linh
(Lượng
chén[2]
chứa khắp cả tam thiên thế giới,
Độ
sanh trọn hết mười hai loại hàm linh)
9. Tặng cư sĩ Đới Địch
Trần (hai bài)
Khuyến thân tu Tịnh, tận
Nho đạo,
Kỳ chúng văng sanh, sướng
Phật hoài
(Khuyên cha
mẹ tu Tịnh Độ, trọn hết đạo Nho,
Cầu mọi
người được văng sanh, thỏa Phật bổn
hoài)
Ngũ Uẩn giai không, nhất
pháp bất lập,
Chư ác mạc tác, chúng thiện
phụng hành
(Ngũ Uẩn
đều không, một pháp chẳng lập,
Các ác
đừng làm, các lành vâng giữ)
XIV. Thượng Hải Hộ Quốc Tức
Tai Pháp Ngữ
(lời
tựa tự đề xin xem trong Văn Sao Tục Biên)
Đặng
Huệ Tải bút kư
1. Ngày thứ nhất: Giảng niệm
Phật, ăn chay là căn bản để hộ quốc
tức tai
Ấn Quang vốn là một
ông Tăng vô tri, vô thức, chỉ biết đến
cơm cháo, chỉ biết niệm Phật dăm câu, tuy sống
luống uổng hơn bảy mươi năm, nhưng
tuyệt chẳng hề triệt để nghiên cứu Phật
pháp. Pháp hội Hộ Quốc Tức Tai[3]
lần này, do các vị kèo nài tham gia, v́ t́nh nghĩa chẳng
thể khước từ được. Vả lại,
đây là chuyện quan hệ đến phước lợi
quốc gia mà cũng là trách nhiệm tôi phải tận lực
nên tôi chẳng nề hà ḿnh hiểu biết sơ sài, kém cỏi
đến dự pháp hội này. Nhưng những điều
tôi giảng hôm nay trọn chẳng phải là lư luận cao
sâu ǵ, chỉ là tŕnh bày phương pháp căn bản để
“hộ quốc tức tai”. C̣n về ư nghĩa quan trọng
của pháp hội lần này, đợi tới ngày mai sẽ
bàn đến.
Mục đích của
pháp hội lần này là hộ quốc tức tai, nhưng làm
sao mới đạt được mục đích ấy?
Tôi cho rằng phương pháp căn bản là Niệm Phật
v́ sát kiếp và hết thảy tai nạn đều do ác
nghiệp của chúng sanh chiêu cảm. Nếu ai nấy
đều niệm Phật th́ sẽ xoay chuyển
được nghiệp này. Nếu chỉ có một ít
người niệm Phật th́ [nghiệp ấy] cũng có
thể giảm nhẹ. Pháp môn Niệm Phật tuy là v́ cầu
sanh Tịnh Độ, liễu thoát sanh tử mà lập ra,
nhưng sức tiêu trừ nghiệp chướng của nó
quả thật cũng cực kỳ lớn lao. Người
chân chánh niệm Phật trước hết ắt phải
giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận,
ngăn dứt ḷng tà, giữ ḷng Thành, đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều thiện. Cần nhất
là phải hiểu rơ nhân quả, tự hành, dạy người
[hành]. Hiện tại, các thứ tà thuyết không thánh, không
hiếu, khinh miệt đạo, phế luân thường,
giết cha, chung vợ v.v… đều do bọn Tống Nho đả
phá, bài xích nhân quả - luân hồi đến nỗi sanh ra
ác quả này. Nếu như ai nấy đều hiểu rơ
nhân quả th́ quyết chẳng một ai dám xướng
lên những thuyết sai lầm ấy! Trong thế gian,
người tốt hoàn toàn chẳng biến đổi rất
ít, kẻ xấu hoàn toàn chẳng biến đổi
cũng rất ít; đa số là kẻ lúc thượng, lúc
hạ, khi tốt, khi xấu, cho nên giáo hóa là điều khẩn
yếu nhất vậy. Khổng Tử nói: “Duy thượng trí dữ hạ ngu bất di” (Chỉ
có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là chẳng thay
đổi). Chỉ cần ra sức giáo hóa th́ sẽ có thể
khiến cho con người đổi ác theo lành, buông dao
đồ tể, ngay lập tức thành Phật chẳng
sót một ai! Chỉ là do nơi con người tin tưởng,
nghĩ nhớ, tận lực mà hành đấy thôi. Sở
dĩ xă hội Trung Quốc hiện thời loạn lạc
rối ren đến mức như thế này đều là
do không được giáo hóa; nhưng giáo hóa phải bắt
đầu từ lúc c̣n thơ ấu như thường
hay nói: “Giáo phụ sơ lai,
giáo nhi anh hài” (Dạy con từ thuở c̣n thơ, dạy
vợ từ thuở ban sơ mới về). Nếu thuở
nhỏ chẳng dạy, đến lúc lớn, khó ḷng lay
chuyển được! V́ sao? Tập tánh (thói quen) đă
thành, không cách chi thay đổi được. V́ thế,
người niệm Phật cần phải chú ư giáo dục
con cái ḿnh trở thành người tốt, giữ tấm
ḷng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt. Nếu ai
cũng làm được như thế th́ tai nạn tự
tiêu, đất nước cũng tự được
ǵn giữ, bảo vệ!
Chân lư mầu nhiệm
căn bản của pháp môn Niệm Phật nằm trong ba
kinh Tịnh Độ, nhưng theo như phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm đă dạy th́ [niệm
Phật] lại càng là hạnh nguyện căn bản chẳng
thể thiếu khuyết. Bởi lẽ, Thiện Tài đă
viên măn tâm Thập Tín[4],
tham học với tỳ-kheo Đức Vân, liền được
Ngài dạy cho pháp môn Niệm Phật, nhập vào Sơ Trụ[5],
phần chứng Pháp Thân. Từ đấy, Thiện Tài tham
học với hơn năm mươi vị thiện tri
thức, hễ nghe xong liền chứng, từ Nhị Trụ
cho đến Thập Địa là bốn mươi địa
vị. Tối hậu, ở chỗ Phổ Hiền Bồ
Tát, Thiện Tài được Ngài khai thị, được
sức oai thần gia bị, sở chứng ngang với
ngài Phổ Hiền, ngang với chư Phật, liền
thành Đẳng Giác Bồ Tát. Sau đó, Phổ Hiền Bồ
Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn
dắt quy hướng Cực Lạc, khuyến khích, cổ
vũ Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng nhất trí tinh tấn
hành tŕ, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
nhằm mong viên măn Phật Quả. V́ thế, biết rằng:
Pháp môn Niệm Phật, tự phàm phu thuở ban đầu
cũng có thể chứng nhập được, mà rốt
cục đến bậc Đẳng Giác cũng chẳng thể
vượt ra ngoài nổi. Thật là pháp môn Tổng Tŕ trên
thành Phật đạo, dưới giáo hóa chúng sanh, thành thỉ,
thành chung[6]
của mười phương tam thế hết thảy
chư Phật. V́ thế, [pháp môn này] được chín giới
cùng hướng về, mười phương chung tán
thán, ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều
tuyên thuyết.
Phàm là người học
Phật th́ có một việc rất nên chú ư là kiêng ăn mặn
v́ ăn mặn sẽ tăng trưởng cơ duyên giết
hại. Con người và hết thảy động vật
cùng sống trong ṿng trời đất, tâm tánh vốn b́nh
đẳng, chỉ v́ nhân duyên ác nghiệp đến nỗi
h́nh thể sai khác quá xa. Nếu đời này quư vị
ăn thịt chúng nó, đời mai sau chúng nó sẽ ăn
thịt quư vị. Oán hờn báo đền măi, cơ duyên giết
chóc đời đời chẳng có lúc nào kết thúc. Nếu
như ai nấy đều ăn chay th́ sẽ vun bồi
tâm từ bi của chính ḿnh, tránh khỏi cơ duyên giết
hại. Nếu không, dù cho niệm Phật, nhưng chỉ
lo sướng miệng, vui bụng, ăn đẫy thức
tanh hôi, vẫn chưa thể đạt được lợi
ích thật sự nhờ học Phật vậy!
Hơn nữa, người
đời nay ưa nói Thiền Tịnh Song Tu. Xét đến
cùng cái gọi là Song Tu đó chỉ là khán câu “người niệm Phật là
ai?” Đấy là chú trọng tham cứu, chẳng ăn nhập
ǵ đến việc sanh ḷng tin phát nguyện cầu văng
sanh của Tịnh Độ cả, rơ ràng là hai chuyện [khác
biệt]! Thêm nữa, Thiền Tông nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” là nói
đến đương nhân đích thân thấy được
Phật tánh vốn sẵn đủ ở ngay trong tâm. Mật
Tông nói: “Ngay thân này thành Phật” (tức thân thành Phật),
tức là quan niệm “hễ giải thoát được
sanh tử ở ngay nơi cái thân này” th́ [gọi đó là]
“thành Phật”. Nếu vội hiểu những lời
đó có nghĩa là [ngay chính nơi thân này] có thể thành tựu
được vị Phật vạn đức đầy
đủ, phước huệ viên măn th́ lầm to, lầm
to mất rồi!
Bởi lẽ, “kiến
tánh thành Phật” của Thiền Gia là [sở chứng]
của địa vị đại triệt, đại ngộ.
Nếu đoạn được Kiến Hoặc và Tư
Hoặc[7]
trong tam giới mới có thể liễu sanh thoát tử. “Tức
thân thành Phật” trong Mật Tông chẳng qua là đạt
tới địa vị liễu sanh tử đầu tiên.
Địa vị đó là bậc A La Hán trong Tiểu Thừa
đă liễu sanh tử. Trong Viên Giáo th́ bậc Sơ Tín
đoạn được Kiến Hoặc, bậc Thất
Tín đoạn Tư Hoặc rồi mới giải quyết
xong sanh tử. Bậc Thất Tín và A La Hán tuy cùng liễu
sanh tử nhưng thần thông, đạo lực khác xa
nhau vời vợi. Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín phá
được Trần Sa Hoặc[8],
cho đến Thập Tín Hậu Tâm phá một phẩm Vô
Minh, chứng một phẩm Tam Đức bí tạng[9],
nhập Sơ Trụ, thành bậc Pháp Thân Đại Sĩ. Trải qua Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác là
bốn mươi mốt địa vị rồi mới
chứng nhập địa vị Phật. Lịch tŕnh c̣n
lâu xa như thế đó, làm sao mà một bước liền
có thể vọt tới nơi ngay cho được?
Người tu Tịnh Độ đă sanh về Tây
Phương liền liễu sanh tử th́ cũng là “tức
thân thành Phật”, nhưng Tịnh Tông chẳng nêu cái thuyết
tiếm phận[10]
ấy. Đem so sánh sự khó - dễ với việc thuần
cậy vào tự lực của nhà Thiền th́ thật là
sai khác một trời một vực. Kính mong các vị dự
hội hăy suy nghĩ chín chắn ư chỉ này.
2. Ngày thứ hai: Bàn về nhân quả báo
ứng và sự giáo dục trong gia đ́nh
Ngày hôm qua giảng về
pháp môn Tịnh Độ, hôm nay giảng về ư nghĩa của
pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Muốn nói đến
“hộ quốc tức tai” th́ trước hết phải
biết là “hộ quốc” (giữ ǵn đất nước)
như thế nào? “Tức tai” (dứt trừ tai nạn)
như thế nào? Là v́ muốn đạt đến hạng
mục ấy, có hai biện pháp: Một là lâm thời, hai là
b́nh thời. Nếu lúc b́nh thường, ăn chay niệm
Phật để cầu hộ quốc tức tai th́ cố
nhiên có công đức vô hạn; nhưng lúc lâm thời, dốc
ḷng thành kính cầu nguyện giữ yên đất nước,
dứt bặt tai nạn cũng sẽ có hiệu lực
tương đương; nhưng vẫn chẳng bằng
lúc b́nh thời mọi người hộ quốc tức
tai th́ hay hơn. Bởi lẽ, nếu b́nh thời mọi
người ăn chay niệm Phật, do nguyện lực
tiếp nối nên tà khí tiêu trừ, chánh khí tăng trưởng,
ai nấy giữ tấm ḷng tốt, nói lời tốt, làm
việc tốt th́ tự nhiên quốc gia được bảo
vệ, tai ương tự tiêu vậy.
Sách xưa có ghi: “Thánh nhân bất trị dĩ bệnh,
trị vị bệnh; bất trị dĩ loạn, trị
vị loạn” (Thánh nhân chẳng trị lúc đă bệnh,
trị từ lúc chưa bệnh; chẳng trị lúc đă
loạn, trị từ lúc chưa loạn). Bởi lẽ, trị
khi đă loạn th́ dễ hiểu, chứ trị từ
lúc chưa loạn th́ khó thấy rơ được! Phàm trị
quốc cũng giống như trị bịnh, có cách trị
nơi ngọn, có cách trị nơi gốc. Trị bệnh
là trị khi đă loạn. Nếu cầu lấy hiệu
quả nhanh chóng, tức là đau đầu trị bệnh
đầu, đau đùi trị bệnh đùi, [tức là]
trị cái ngọn vậy. Cái ngọn đă lành, sau đấy
mới lại trị cái gốc khiến cho khí huyết
lưu thông trọn khắp, khỏe khoắn, sảng khoái.
Gốc đă lành bệnh th́ tự nhiên tinh thần phấn
chấn, mới có thể hăng hái ra sức.
Hiện thời, quốc
gia nguy nan đă đến mức ngàn cân treo sợi tóc. Tôi
cho rằng để trị quốc trong hiện thời
th́ phải trị cả ngọn lẫn gốc. Cách kiêm trị
không chi tốt bằng niệm Phật, ăn chay, kiêng giết,
phóng sanh và hiểu sâu xa lư nhân quả trong ba đời. Kiếp
vận hiện tại của thế giới, những tai
nạn chúng ta phải chịu đựng đều là do
ác nghiệp trong quá khứ chiêu cảm đến nỗi cảm
nhận khổ quả hiện thời. Do đó, biết rằng:
Những ác nghiệp này là do ác nhân trong quá khứ tạo
thành; muốn tránh khổ quả phải dứt khổ
nhân. Quá khứ đă gieo khổ nhân th́ niệm Phật, sám
hối mới có thể tiêu trừ được nổi.
Hiện tại nếu chẳng gieo khổ nhân nữa th́
tương lai sẽ khỏi phải chịu khổ quả.
Khổ nhân là ǵ? Là ba độc “tham, sân, si”. Thiện nhân là
ǵ? Giúp vật, lợi người. Nếu ai nấy hiểu
rơ lẽ nhân quả sẽ chẳng làm các điều ác,
vâng làm các điều lành, tai họa sẽ chẳng từ
đâu mà khởi lên được nữa! Chỉ v́
người đời nay chẳng hiểu lư nhân quả,
tư dục đầy ắp dạ, không điều ác
nào chẳng làm, chỉ biết có chính ḿnh, chẳng biết
có ai khác. Nào biết lợi người chính là lợi ḿnh,
hại người c̣n tệ hơn hại ḿnh!
V́ thế, hằng ngày,
tôi thường bảo: “Nhân quả
là cái gốc lớn lao để thánh nhân trị thiên hạ,
để Như Lai độ chúng sanh. Bỏ nhân quả mà
bàn đến chuyện trị quốc b́nh thiên hạ khác
ǵ níu cây t́m cá, tôi chưa từng thấy ai có thể t́m
được cả!” Phật dạy: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả
thị. Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị”
(Muốn biết nhân đời trước, xem quả báo
đời này. Muốn biết quả mai sau, xem việc làm
đời này). Nếu như những điều ḿnh tạo
tác đời này đều là việc ác, đời sau chắc
chắn bị quả ác! Nếu những hành vi đời
này đều là việc lành th́ đời sau nhất định
hưởng thiện quả!
Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia, tất hữu
dư khánh. Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư
ương” (Nhà tích thiện ắt sự vui có thừa,
nhà chất chứa điều chẳng lành, tai ương ắt
có thừa). Kinh Thư chép: “Tác
thiện, giáng chi bách tường. Tác bất thiện, giáng
chi bách ương” (Làm lành, trăm điều tốt lành
giáng xuống. Làm việc chẳng lành, trăm tai
ương đổ xuống). Lư ấy hệt như lư
nhân quả của đức Phật ta đă giảng. Chữ
“dư” đă nói đó chính là tàn dư của chánh báo,
chứ không phải là chánh báo. Chính người ấy trong
đời sau tự ḿnh hưởng thụ, nên gọi là “bổn
khánh, bổn ương” (điều vui mừng hay tai
ương chính), c̣n dư báo lan qua con cháu. Dư báo, dư
ương đều là do tổ phụ tích chứa mà thành
vậy!
Người đời
chẳng biết nhân quả, thường nói con người
sau khi chết đi là đă giải thoát hoàn toàn, không có quả
báo thiện - ác nữa. Đây chính là tà kiến sai lầm nhất
về đời sau của thiên hạ vậy. Cần biết
là: Người đă chết đi rồi, thần thức
chẳng bị diệt. Nếu ai nấy đều biết
thần thức chẳng diệt, ắt sẽ thích làm lành.
Nếu không biết thần thức chẳng diệt sẽ
mặc t́nh phóng túng, giết cha, giết mẹ, đủ
thứ tội ác do đấy mà sanh! Những thứ hành vi
nghịch ác tột bậc ấy đều là kết quả
của tà kiến đoạn diệt mà ra! Nếu ai nấy
có thể chẳng làm các điều ác, vâng giữ các điều
lành th́ thiên hạ thái b́nh, nhân dân an lạc; nhưng đấy
vẫn chưa phải là biện pháp rốt ráo. Thế nào
mới là biện pháp rốt ráo? Chính là niệm Phật cầu
sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, và phải giữ
vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
ngăn chặn điều tà, giữ ḷng thành th́ sẽ chuyển
được vận nước, tiêu trừ được
tai nạn. Bởi lẽ, tai nạn ngày nay đều là do
cộng nghiệp của mọi người chiêu cảm.
Nếu ai nấy đều
niệm Phật, làm lành sẽ chuyển được cộng
nghiệp, tiêu được kiếp vận. Ngay trong lúc
chiến cuộc nổ ra ở đất Hỗ vào ngày Hai
Mươi Tám tháng Giêng[11],
những người niệm Phật được linh cảm
rất nhiều. Bọn họ chỉ tu một ḿnh mà c̣n
được linh cảm như thế, huống là ai nấy
cùng tu ư? V́ thế, biết rằng: Do đại chúng
chí thành khẩn thiết niệm Phật cũng có thể
văn hồi được tai nạn của đất
nước. Lại như đức Quán Thế Âm Bồ
Tát dùng ba mươi hai ứng thân để vào các cơi nước,
theo tiếng cứu khổ; nếu như chí thành tụng
niệm thánh hiệu Quán Thế Âm th́ sẽ tự
được cảm ứng. Những chuyện linh cảm
xưa nay thấy ghi chép rất nhiều trong các sách vở,
các vị có thể tự t́m đọc lấy. Ngoài những
thân đă thuật trong phẩm Phổ Môn “[Bồ Tát] thấy nên dùng thân nào để độ
được th́ liền hiện thân đó cứu độ”
ra, nếu [Bồ Tát thấy] nên dùng thân núi, sông, đại
địa, cầu bến, đường sá để hóa
độ th́ Ngài cũng hiện các thân núi, sông, đại
địa, cầu bến, đường sá… để cứu
độ.
Con người hiện
tại, kẻ dấy được ḷng tin ít lắm, kẻ
không phát khởi ḷng tin rất nhiều. Nếu ai nấy đều
phát khởi ḷng tin th́ có tai vạ nào mà chẳng thể tiêu
diệt được? Nhưng ḷng tin của con người
cần phải được vun bồi từ thơ ấu.
Phàm là người làm cha mẹ, khi con cái c̣n thơ ấu,
hăy nên dạy con cái về lư nhân quả báo ứng, đạo
lư giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận. Nếu đợi đến lúc trưởng
thành, tập tánh đă thành, không thể uốn nắn
được nữa! Điều quan trọng nhất là “thai
giáo” (dạy từ trong thai). Nếu phụ nữ mang thai
có thể ăn chay, niệm Phật, làm lành, bỏ ác, mắt
chẳng nh́n sắc ác, tai chẳng nghe tiếng ác, thân chẳng
làm việc ác, miệng chẳng thốt lời ác, khiến
cho đứa trẻ c̣n trong thai đă được bẩm
thọ chánh khí nên thiên tánh tinh thuần. Sanh ra, lại giáo
hóa thêm th́ không đứa nào chẳng trở thành thiện
nhân!
Xưa kia, các bà Thái
Khương, Thái Nhậm, Thái Tự của nhà Châu đức
hạnh hiền thục, cao đẹp, giúp chồng dạy
con, nên tạo thành nền móng cho vương nghiệp nhà Châu
suốt tám trăm năm. Ấn Quang thường bảo: “Quyền trị quốc, b́nh
thiên hạ, hàng nữ nhân chiếm hơn quá nửa”. Bởi
lẽ, trong gia đ́nh, người chủ tŕ việc nhà
đa phần là phụ nữ, đàn ông thường hay lo
việc ngoài. Nếu mẹ hiền th́ những điều
lọt vào tai, đập vào mắt con cái trong nhà đều
là những điều dạy dỗ của mẹ, chịu
ảnh hưởng của mẹ, lợi ích ấy chẳng
nông cạn. Nếu thuở bé bỏ mặc cho tánh chúng quen
thói kiêu căng, cho chúng nó tự do, trọn chẳng lấy
chuyện hiếu đễ, trung tín, nhân quả báo ứng
để giáo huấn th́ [đến khi] khôn lớn, chúng sẽ
trở thành quyến thuộc của Ma Vương giết
cha giết mẹ. V́ thế, cần phải nuôi dưỡng
tâm lành của con cái từ lúc thơ ấu, kềm cặp
nghiêm ngặt.
Phải biết: Hiện
thời, bọn sát nhân, phóng hỏa, không điều ác ǵ chẳng
làm đa phần là v́ cha mẹ chúng nó nuông chiều quen thói
kiêu căng mà ra! Mạnh Tử dẫu hiền mà cũng cần
phải do bà mẹ ba lần đổi chỗ ở, nghiêm
ngặt quản thúc mà thành [hiền nhân], huống hồ những
kẻ tầm thường ư? Hiện tại, mọi
người đề xướng nam nữ b́nh quyền,
cho đó là nâng cao nhân cách của nữ giới. Chẳng biết
nam nữ thể chất đă không giống nhau, mà trách nhiệm
mỗi giới mỗi khác. Thánh nhân cho rằng vị trí
chính đáng của nam giới là ở ngoài, vị trí chính
đáng của nữ giới là ở bên trong. “Vị trí
chính đáng ở bên trong” chính là chăm lo những việc
bếp núc, canh cửi, giúp chồng dạy con v.v… Nay bảo
nữ nhân đảm nhiệm chuyện của nam giới
nên những chuyện thuộc vị trí chính đáng của
nữ nhân bị bỏ phế. Tuy mang tiếng là nâng cao
nhân cách của nữ giới, thật ra là xô đổ nhân
cách phụ nữ. Xin những bậc anh hiền của nữ
giới ai nấy nhận thức rơ nhân cách của chính ḿnh
ở tại đâu, ngơ hầu con cái trong gia đ́nh đều
thành hiền thiện, thiên hạ lẽ đâu chẳng thái
b́nh!
Bởi lẽ, đạo
trọng yếu để trị quốc, b́nh thiên hạ nằm
trong giáo dục gia đ́nh, mà việc giáo dục trong gia
đ́nh người mẹ đảm nhiệm quá nửa. Bởi
lúc trong thai, con cái đă bẩm thụ khí chất của mẹ,
lúc sanh ra lại nh́n theo oai nghi của mẹ, nhận sự
dạy răn của mẹ, nên trở thành hiền thiện.
Điều này tuy chẳng hiện h́nh tích nhưng lại là việc
trọng yếu để đạt đến thái b́nh. Tiếc
là vĩ nhân các giới đa số chưa thấy rơ điều
này. Nguyện những bậc anh hiền trong nữ giới
kể từ nay hăy chú ư lời này. Người đời
đều gọi phụ nữ là Thái Thái. Phải biết
ư nghĩa của hai chữ “thái thái” rất cao quư, to lớn.
Xét ra, cội nguồn sâu thẳm của hai chữ ấy bắt
nguồn từ tận đời Châu. Do Thái Khương,
Thái Nhậm, Thái Tự đều là bậc thánh nhân trong nữ
giới, đều có thể giúp chồng dạy con. Bà Thái
Khương sanh ra ba vị thánh nhân là Thái Bá, Trọng Ung và
Quư Lịch. Bà Thái Nhậm sanh Văn Vương. Bà Thái Tự
đẻ ra Vũ Vương và Châu Công. Ba đời bà
cháu nữ thánh sanh ra ba đời ông cháu mấy vị thánh
nhân, tạo thành thời thịnh trị tốt đẹp
nhất tự ngàn xưa. Người đời sau gọi
phụ nữ là “thái thái” tức là muốn đem so họ
với ba bà Thái. Do đấy, hăy ngẫm xem: Thái Thái là danh
hiệu cao quư nhất không ǵ hơn được nữa
để gọi phụ nữ. Nữ giới cần phải
có đức hạnh của ba bà Thái th́ mới chẳng phụ
bạc sự tôn xưng ấy. Rất mong những vị
nữ anh hiền trong hiện tại hăy thực hiện
chuyện giúp chồng dạy con, khiến cho con cái do ḿnh
sanh ra đều thành hiền thiện ngơ hầu chẳng
phụ danh xưng tốt đẹp trên đây!
Kế đấy, cần
phải nỗ lực ăn chay. Con người và động
vật vốn b́nh đẳng, nỡ nào giết hại
tánh mạng chúng để thỏa măn miệng, bụng ḿnh?
Thân ta vừa bị dao cắt phải một chút liền cảm
thấy đau khổ. Mới nói hoặc nghĩ đến
đó, tim gan đau buốt, nỡ nào giết chúng ăn thịt?
Huống chi kẻ sát sanh ăn thịt dễ khởi
cơ duyên giết hại. Tai kiếp đao binh trong đời
này đều là do đây mà có! Cổ nhân nói: “Dục tri thế thượng
đao binh kiếp; đản thính đồ môn dạ bán
thanh” (Muốn biết
đao binh trong cơi thế, hăy nghe tiếng ḷ mổ giữa
đêm trường). Trong cơi đời, khá nhiều kẻ tuy hiểu rơ
đạo lư Phật pháp mà vẫn thấy kiêng giết,
ăn chay là chuyện khó làm.
Năm Dân Quốc thứ
mười (1921), tôi đến Nam Kinh thăm một
người bạn. Ông ta mời ông Ngụy Mai Tôn đến
gặp tôi. Ông Ngụy tin Phật, niệm Phật, nhưng
bảo là chưa thể ăn chay. Tôi dặn ông ta hăy đọc
kỹ Bài Văn Kêu Gọi Tu Bổ Ao Phóng Sanh của chùa Cực
Lạc ở Nam Tầm đăng trong bộ Văn Sao mấy
chục lượt sẽ ăn chay được. Bởi
lẽ, trong bài văn đó, trước hết nói chúng sanh
và Phật tâm tánh chẳng hai. Tiếp đó, nói đến [ta
và các loài vật] bao kiếp làm cha, mẹ, anh, em, vợ,
con, quyến thuộc, sanh ra lẫn nhau, làm oan gia đối
đầu của nhau, giết chóc lẫn nhau. Tiếp
đó, dẫn kinh văn Phạm Vơng, Lăng Nghiêm, Lăng
Già làm chứng. Đọc sâu nghĩ chín, chẳng những không
nỡ ăn mà c̣n chẳng dám ăn nữa kia! Chưa đầy
hai tháng sau, Ngụy cư sĩ liền trọn không ăn
thịt nữa.
Lại nữa, bà mẹ
của cư sĩ Hoàng Hàm Chi ở Thượng Hải
chưa thể ăn chay, lại c̣n chẳng tin ăn chay là
chuyện trọng yếu trong việc học Phật. Ông
Hoàng Hàm Chi gởi thư hỏi cách [khuyên cho mẹ tin], tôi
bảo ông ta sớm tối thay mẹ đối trước
Phật sám hối nghiệp chướng. Do mẹ con thiên
tánh tương quan, nếu thật sự chí thành ắt có
cảm ứng. Hàm Chi làm theo, hơn tháng sau, mẹ ông liền
ăn chay trường. Lúc đó bà đă tám mươi mốt
tuổi, công khóa hằng ngày là hai vạn câu Phật hiệu,
sống đến năm chín mươi ba tuổi mới
mất. Tôi mong từ hôm nay trở đi, hết thảy
đại chúng chú ư kiêng giết, ăn chay và khuyên cha mẹ,
con cái và thân hữu của chính ḿnh cùng nhau ăn chay. Phải
biết đây cũng là phương pháp căn bản
để hộ quốc tức tai. Những điều
tôi giảng hôm nay là ư nghĩa của hộ quốc tức
tai, mà phương pháp để thực hành hộ quốc
tức tai chính là niệm Phật, ăn chay; mong quư vị
chẳng nghĩ là thiển cận rồi chẳng thèm
để ư.
3. Ngày thứ ba: Trần thuật nguyên lư
nhân quả và nêu những sự thực để chứng
minh
Hai ngày hôm trước,
tôi đă tŕnh bày sơ lược về đạo lư nhân
quả và phương pháp tức tai hộ quốc; hôm nay vốn
chẳng cần phải luận về nhân quả nữa;
nhưng vẫn c̣n có những điểm chẳng thể không
tŕnh bày rơ ràng, nên tôi định sẽ giảng sâu hơn ít
nữa, giảng rơ nguyên lư nhân quả và nêu sự thực để
làm chứng, ngơ hầu đại chúng biết mà kiêng dè.
Hiện thời, người
đời chẳng hiểu nguyên lư nhân quả, cho đó là
chuyện bàn xằng, tà thuyết, lúc nào cũng tính chiếm
tiện nghi, chẳng chịu thua thiệt; đâu biết
tiện nghi chính là chịu thua thiệt, chịu thua thiệt
chính là tiện nghi. Như người làm cha mẹ hiện
nay phần nhiều nuông chiều con cái, chẳng kềm cặp
nghiêm ngặt đến nỗi tạo thành thói quen ham tiền
tài, tham chuộng tiện nghi. Cứ cho là có như vậy mới
giữ ǵn được gia sản, chẳng đến nỗi
bị tổn thất; nào ngờ kết quả trái ngược:
Gây vạ suốt đời, lại c̣n gián tiếp tạo
ảnh hưởng vô hạn cho quốc gia, xă hội.
Nay tôi nêu lên một chuyện
để làm ví dụ: Triệu Lương Tướng ở
Đại Châu đời Tùy, giàu nứt đố đổ
vách, có hai đứa con. Đứa lớn tên Mạnh, đứa
nhỏ tên Doanh. Doanh mạnh mẽ, Mạnh yếu đuối.
Lúc người cha sắp mất, chia gia sản làm hai, Mạnh
được nhiều hơn. Tới khi Lương
Tướng mất, Doanh chiếm sạch tài sản của
anh, chỉ cho anh một căn nhà và mảnh vườn. Mạnh
phải đi làm thuê để tự nuôi thân. Chẳng mấy
chốc, Triệu Doanh chết, sanh làm con của Mạnh,
mang tên là Hoàn. Sau đấy, Mạnh cũng chết, đầu
thai vào nhà Doanh, làm cháu nội của Doanh, mang tên là Tiên. Đến
lớn, nhà Mạnh càng nghèo, nhà Doanh càng giàu. Triệu Hoàn phải
làm tôi tớ cho Triệu Tiên để sống. Ngạn ngữ
có câu: “Thiên đạo không công
bằng, đă giàu càng giàu thêm”.
Một ngày kia, Hoàn nghe
bà mẹ góa bảo: “Triệu Doanh cướp đoạt
gia sản của mày đến nỗi đời mày nghèo mạt,
nay đến làm tôi tớ cho nó, chẳng nhục hay sao?” Bởi
thế, Hoàn oán hận, muốn giết Triệu Tiên. Năm
Khai Hoàng thứ nhất (600 Tây lịch), Hoàn theo Tiên đi
triều bái Ngũ Đài, vào đến chốn hang thẳm mấy
mươi dặm ở phía Đông, sâu hun hút không một bóng
người. Hoàn rút dao, bảo Tiên: “Ông nội mày và bố
tao là anh em. Ông mày đoạt sản nghiệp của tao. Đến
đời tao nghèo túng nay làm đầy tớ cho mày. Mày nỡ
ḷng làm thế, nay tao giết mày đây!” Tiên liền rảo
chạy, Hoàn đuổi theo chạy vào rừng, thấy có
am tranh liền bước vào. Có một vị lăo Tăng bảo
Hoàn: “Ông định làm ǵ thế?” Hoàn đáp: “Tôi đuổi
theo kẻ oán thù!” Vị lăo Tăng cười lớn: “Ông
khoan làm thế, tôi sẽ cho ông tự biết”, rồi trao
những món thuốc cho mỗi người để pha
trà. Uống xong, như mộng mới tỉnh, chợt nhớ
việc cũ, cảm thấy thẹn thùng, đau đớn.
Lăo Tăng bảo: “Doanh chính là tiền thân của Hoàn.
Cướp đoạt tài sản của anh chính là tự bỏ
tài sản của ḿnh. Tiên là Mạnh thác sanh trở lại
để hưởng lấy sản nghiệp kiếp
trước v́ lệnh cha vẫn c̣n vậy!” Hai người
bèn bỏ nhà tu theo đạo Phật, sau mất tại Di
Đà Am. Xem trong Thanh Lương Sơn Chí[12].
Nhân quả báo ứng hiển hiện rơ ràng, như âm vang ứng
theo tiếng, như bóng theo h́nh, chẳng sai mảy may.
Lại như hiện
tại c̣n lưu truyền chuyện cái trống bằng da
người ở Ngũ Đài Sơn cũng là chuyện nhân
quả báo ứng thật rành rẽ đáng sợ vậy,
xin kể rành rẽ. Đời Đường, tại chùa Hắc
Sơn ở mặt sau ngọn Bắc Đài có nhà sư tên Pháp
Ái làm Giám Tự hai mươi năm, lấy vật dụng
của Chiêu Đề Tăng[13]
tậu nhiều ruộng ở Nam Nguyên, để lại
cho đồ đệ là Minh Hối. Pháp Ái chết liền
sanh làm trâu ở nhà nọ tận lực một ḿnh kéo cày
trong ba mươi năm. Trâu vừa già vừa bệnh, chủ
trại muốn đem trâu đổi lấy dầu. Đêm ấy,
Minh Hối mộng thấy vị thầy đă chết của
ḿnh khóc bảo: “Ta dùng tài sản của Tăng chúng để
tậu ruộng cho ngươi. Nay đang làm trâu vừa già
vừa c̣m cơi. Xin hăy lột da ta bịt trống, viết
tên họ của ta trên trống. Mỗi khi lễ tụng
liền đánh trống th́ nỗi khổ của ta mới
mong có ngày thoát khỏi. Nếu không, dù g̣ Nam Nguyên có biến
thành biển xanh, ta vẫn chưa thể thoát khổ nổi!”
Nói xong, phủ phục cả thân ḿnh xuống. Minh Hối tỉnh
giấc, chỉ mới nửa đêm liền thỉnh
chuông nhóm chúng, kể cặn kẽ chuyện này. Sáng hôm sau,
chủ trại ruộng báo con trâu già đă húc đầu
vào cây mà chết. Minh Hối y theo lời trước, lột
da trâu bịt trống, viết tên [thầy] lên trên, bán hết
ruộng ở Nam Nguyên, được bao nhiêu tiền
đem đăi cơm chư Tăng Ngũ Đài hết. Minh Hối
lại bán sạch cả y bát, v́ vị thầy đă mất
mà lễ sám. Sau đem trống ấy gởi vào điện
Văn Thù ở Ngũ Đài Sơn. Lâu ngày, trống hư, chủ
chùa đem trống khác thế vào. [Thế gian] ngoa truyền
là trống bịt bằng da người. Xem trong Thanh
Lương Sơn Chí.
Ấy là nhân quả
rành rành, không ai có thể trốn khỏi. Hai người
con họ Triệu do đời trước có gieo căn
lành nên gặp được cao tăng, nghiễm nhiên thành
đạo. C̣n như những kẻ phàm tục há nên tự
ỷ y, lại c̣n bài bác “không có nhân quả”, tự ḿnh lầm,
làm người khác lầm, tự hại, hại người!
Người đời nay đều chỉ thấy chuyện
trước mắt, chẳng đoái hoài đời sau,
thích chiếm tiện nghi, chẳng bằng ḷng chịu thua
thiệt. Con cái họ mắt thấy tai nghe, tập riết
thành thói. Phong tục xă hội cũng do đó mà hiểm ác,
tranh đoạt khởi lên, đại loạn dấy lên
lung tung, giết người đầy thành, ngập đồng
mà mắt chẳng nháy, tâm chẳng áy náy, không ǵ chẳng phải
là v́ lẽ đó. Đă thế, những kẻ giết người
tàn nhẫn, ác độc, chẳng thấy là đáng buồn,
đáng sợ, ngược ngạo vênh váo khoe công, lại
c̣n khen ngợi lẫn nhau. Thậm chí có kẻ giết cả
cha mẹ, giết huynh trưởng, ngược ngạo tự
xưng là “đại nghĩa
diệt thân” (v́ nghĩa lớn mà giết người
thân)! Ôi! Họa biến đến thế, thiên lư tuyệt,
nhân đạo diệt, không những đạo đức
bị vùi lấp, mất mát mà chắc là kiếp nạn lớn
lao sẽ liên tiếp xảy ra! V́ thế, trong hiện tại,
muốn cứu vớt, bảo vệ đất nước
th́ phải bắt đầu từ căn bản. Căn bản
là ǵ? Tức là tin tưởng chắc chắn vào nhân quả.
Nếu đă thật sự hiểu rơ lư nhân quả rồi
lại c̣n có thể dốc ḷng tin, thực hành th́ thế
đạo, nhân tâm sẽ tự có thể văn hồi. Tôi cho
rằng tất cả triết học, tôn giáo trên thế giới
không ǵ tinh vi, sâu thẳm, nhưng dễ thực hành bằng
Phật giáo!
Hiện tại, người
đời sở dĩ chẳng tin nhân quả, phần lớn
là v́ chịu ảnh hưởng của Tống Nho. Những
nhà Lư học[14]
thời Tống như Tŕnh Minh Đạo, [Tŕnh] Y Xuyên, Châu Hối
Am v.v… do xem kinh Đại Thừa nhà Phật, chỉ lănh hội
sơ lược ư nghĩa “toàn sự tức lư” và
thân cận tri thức trong Tông Môn (Thiền Tông), lại biết
ư chỉ “bất cứ pháp nào, chuyện nào cũng chẳng
ngoài Nhất Tâm”, chứ thực sự chưa hề xem trọn
khắp các kinh luận và tham học với khắp mọi
tri thức các tông, bèn trộm lấy ư nghĩa của kinh
Phật để tự xưng hùng, dùng đó để phát
huy sự sâu xa của Nho giáo. Bọn họ lại sợ
người đời sau xem kinh Phật sẽ biết
được cái họ đạt được [là
ăn trộm từ kinh Phật] bèn rắp tâm mê muội báng
Phật. Do chẳng dễ báng bổ những chỗ tinh diệu,
họ liền nhắm vào mặt Sự để bài bác. Họ
bảo đức Phật dạy sự -lư
“tam thế nhân quả, lục đạo luân hồi” đều
nhằm phỉnh phờ hạng ngu phu, ngu phụ phụng
hành giáo pháp của Ngài, chứ thật sự chẳng có những
chuyện ấy. Họ c̣n bảo: Sau khi con người chết
đi, thân đă mục nát th́ thần thức cũng phiêu
tán; dù có băm, chặt, giă, mài sẽ thi thố vào đâu?
Hơn nữa, thần thức đă tan th́ c̣n ai để
thọ sanh? Do vậy, họ đă mở tung đầu mối
phóng túng, không kiêng sợ ǵ cả, thiện không có ǵ để
khuyên, ác không có ǵ để trừng phạt, cho rằng “Trời tức là Lư” vậy,
chứ nào có một vị vua đội măo[15]
thật sự đâu! Họ cho rằng quỷ thần là
lương năng[16]
của hai Khí, chẳng hạn như sấm động là
do hai khí Âm, Dương va chạm nhau nổ thành tiếng.
Họ coi những vấn
đề Thực Lư, Thực Sự là chuyện bàn luận
xuông, chuyên lấy việc “chánh tâm thành ư” làm cái gốc để
trị quốc, trị dân; chẳng biết chánh tâm thành ư
chính là do “trí tri cách vật”
mà ra. Họ bảo “trí tri”
là thúc đẩy tri thức (sự hiểu biết) của
ḿnh đến cùng cực, “cách
vật” là hiểu cùng tận cái lư của mọi sự
vật trong thiên hạ; nào hay “vật”
chính là tư dục trong tâm ḿnh. Do có tư dục nên chướng
lấp tự tâm. Bởi thế, tâm vốn sẵn đủ
chân tri nhưng không cách nào hiển hiện được.
Do “cách trừ” (thấu hiểu
và trừ khử) được tư dục th́ chân tri sẵn
có sẽ tự hiển hiện. Hễ chân tri đă hiển
th́ ư sẽ thành, tâm sẽ chánh! Chánh tâm thành ư th́ ngu phu, ngu phụ
chẳng biết một chữ cũng vẫn làm được!
C̣n nếu đúng như họ (chỉ các nhà Tống Nho)
nói th́ thúc đẩy tri thức của ta đến cùng cực
để hiểu tận cùng cái lư của mọi sự vật
trong thiên hạ, dẫu bậc thánh nhân cũng làm không
được! V́ thế, biết rằng: Hễ lầm lạc
ở chỗ này th́ căn bản để giữ yên cơi
đời đă mất. Họ lại dùng thuyết “không
nhân quả, luân hồi” để dạy người khác chánh
tâm thành ư. Nếu không có nhân quả, một phen chết
đi là vĩnh viễn mất hết, thiện hay ác đều
cùng chết sạch; c̣n ai bận tâm đến cái tiếng
hăo mà chánh tâm thành ư cơ chứ?
Hơn nữa, các nhà Lư
học cho rằng: “Có làm điều ǵ để làm lành
th́ đó chính là ác”. Lời này đúng là phá hoại thiện
pháp thế gian. V́ sao thế? Ông Cừ Bá Ngọc năm hai
mươi tuổi, biết mười chín năm trước
đều sai trái. Đến năm mươi tuổi, thấy
bốn mươi chín năm trước đều sai
trái, muốn bớt lỗi nhưng chưa làm được.
Như thế là có làm điều ǵ hay là không làm điều
ǵ? Khổng Tử coi “đức
không tu, học vấn chẳng giảng, nghe đạo
nghĩa mà chẳng thể làm theo, không thể thay đổi
chuyện chẳng tốt” là điều đáng lo. Tuổi
đă bảy mươi, Ngài vẫn mong trời cho sống
thêm mấy năm nữa để học Dịch ḥng khỏi
mắc lỗi lớn. Như vậy th́ Ngài có làm điều
ǵ hay không làm điều ǵ hết vậy?
Từ sau thời Tŕnh
- Châu, nhà Nho đều chẳng dám bàn đến nhân quả
v́ hễ bàn đến sẽ bị người khác công
kích, bảo không phải là thuần Nho, cho là trái nghịch
tiên hiền. Bởi vậy, phàm những kẻ hiểu biết
kém cỏi liền hùa giọng báng Phật; người kiến
thức cao minh không ai chẳng lén lút xem kinh Phật để
mong khoe tài, không ai chẳng thống thiết bài bác Phật
pháp, ngơ hầu làm căn cứ để sau này được
thờ trong Hiền Từ (miếu thờ tiên hiền)
trong làng hay được đưa vào [thờ trong]
Văn Miếu! Trong thâm tâm của Tŕnh, Châu khi ấy chỉ
mong Nho Giáo hưng thịnh, chẳng bận tâm Phật giáo
sẽ c̣n hay mất! Cho tới hiện thời, do chất
độc “phá diệt nhân quả, luân hồi” của bọn
họ đến nay bộc phát, phế kinh điển, phế
luân thường, bỏ hiếu, không biết hổ thẹn,
trở thành những thảm kịch như giết cha, giết
mẹ, chẳng đáng buồn ư?
Hiện tại, chiến
sự ở vùng Tuy Viễn rất khẩn cấp, tai họa
cực thảm, những chiến sĩ trung dũng và đồng
bào thân ái của chúng ta hoặc là máu thịt tung tóe, táng
thân, tổn mạng, hoặc là nhà tan cửa nát, trôi giạt,
bơ vơ, không cơm, không áo, đói khát bức bách. Nói,
nghĩ đến điều này, tim gan đều tan nát!
Sáng nay, pháp sư Viên Anh kể cho tôi nghe chuyện này, bảo
tôi khuyên mọi người phát tâm cứu tế, góp gió
thành băo[17],
chẳng quản ít nhiều. Có áo giúp áo, có tiền giúp tiền,
công đức vô lượng, chắc chắn hưởng
thiện quả. Phải biết: Giúp người tức
là giúp ḿnh, cứu người tức là cứu ḿnh. Nhân quả
vằng vặc, chẳng sai sót mảy may. Nếu chính ḿnh gặp
tai nạn, không có ai giúp, nhưng nếu có thể xưng niệm
thánh hiệu th́ nhất định sẽ được
Phật, Bồ Tát thầm gia hộ, bảo vệ. Tôi là một
ông sư nghèo, hoàn toàn chẳng cất chứa thứ ǵ, hễ
đệ tử tại gia có bố thí ǵ, đều dùng
để ấn loát kinh sách hết. Nay tôi xin quyên ra một
ngàn đồng để xướng suất [cứu trợ
vùng] Tuy Viễn. Giúp người mắc nạn th́ mới
có thể dứt trừ được tai nạn cho chính
ḿnh.
Hiện tại, có những
phụ nữ ham chuộng xa hoa, một b́nh nước hoa
trị giá từ ba, bốn chục đồng đến
hai, ba trăm đồng. Sao bằng đem số tiền
phung phí đó dùng để cứu trợ Tuy Viễn? Lại
c̣n có hạng người rất chuộng tích cóp của cải,
lúc sống đă chẳng muốn dùng, chết đi c̣n mong
chôn theo xuống đất, muốn được con cái
chôn cất ma chay trọng thể, hoặc để lại
cho con cháu dùng. Đâu có biết hiện nay đang có nguy
cơ đào mồ, [những tưởng] tích chứa [nào
ngờ] lại khiến cho [người chết] bị hại.
Như hiện tại ở Thiểm Tây đang có cả một
tổ chức đào mộ chuyên làm chuyện đó. Làm con
có hiếu với cha mẹ, nỡ nào v́ chữ Hiếu lại
khiến cho mớ xương khô của cha mẹ bị phơi
tênh hênh trên mặt đất! Sao bằng đem khoản tiền
lớn lao đó dùng để cứu tế người
khác th́ tốt hơn! Lại có người nghèo túng, tuy có
chí nguyện làm như thế, nhưng sức chẳng kham
nổi, tôi cho rằng hăy nên niệm Phật cho nhiều
để giúp đỡ. Đă có thể dứt tai nạn
cho người, lại c̣n dứt được tai nạn
cho ḿnh. Vui sướng [như vậy] mà sao không làm?
Lúc chiến cuộc xảy
ra tại đất Hỗ (Thượng Hải), cháu nội
của cư sĩ Tào Thương Châu ở Tô Châu vâng lời
cha từ đất Hỗ xuống Tô Châu đón tam thúc tổ
(ông chú thứ ba) và các chú về đất Hỗ. Ông chú và
các chú đều chẳng muốn đi. Anh ta bèn lấy
châu báu của vợ giắt vào lưng, ngồi tàu thủy
nhỏ về đất Hỗ. Chợt có kẻ cướp
đến, anh ta muốn trốn lên bờ, liền nhảy
xuống nước, vàng ngọc giắt theo có lẽ
đáng giá hai, ba vạn đều đem cho hết người
đă đổi áo cho ḿnh, tự xưng là học tṛ nghèo,
làm thầy giáo dạy vỡ ḷng cho trẻ. Nếu bọn
giặc cướp biết được, không biết
c̣n phải tốn tới mấy vạn để chuộc
thân nữa. Đấy có phải là tiền tài gieo họa cho
người hay không? Người ta nay chỉ tham phần
tiện nghi trước mắt, chẳng thể thấy
thông suốt, bị khốn khổ v́ tiền tài, những
trường hợp như vậy rất nhiều, chẳng
thể thuật đủ! Khi xưa, có một vị
cư sĩ nọ hỏi tôi phương cách văn hồi kiếp
vận, tôi bảo: “Việc này rất dễ! Hiểu rơ lư
nhân quả rồi tận lực thực hành. Phát được
tín tâm ắt có thiện quả. Vả nữa, tâm dối
trá đă tiêu, trong tâm rỗng suốt th́ tai nạn nào
cũng đều tiêu tan như băng tuyết vậy!”
Trong cơn loạn lạc
Hồng Dương[18],
một nhà buôn gỗ ở Giang Tây là Viên Cung Hoằng bị
bọn phỉ bắt được, trói vào cây cột ở
khách sảnh (nhà khách), khóa chặt cửa lại, chờ
đúng lúc sẽ giết. Ông Viên tự nghĩ ắt bị
chết, bèn thầm niệm thánh hiệu Quán Âm, hồi lâu
ngủ quên đi, tỉnh dậy thấy thân ḿnh nằm
ngoài đồng, ngẩng đầu lên thấy hăy c̣n sớm
liền trốn thoát. Do vậy, tôi rất mong mọi
người phát tín tâm rộng lớn, nương vào đức
của cha trời, mẹ đất[19],
giữ ḷng nhân “coi mọi
người và ta là ruột thịt, xem loài vật cũng
giống như ta”. Phàm đối với [hết thảy
những ǵ] trong ṿng trời đất đều
thương xót, nuôi dưỡng, bảo vệ. Lại c̣n
đem lẽ nhân quả báo ứng, đạo niệm Phật
cầu sanh Tây Phương để chỉ bảo, khuyến
hóa. Nếu như ai nấy đều thực hành th́ nước
chẳng mong bảo vệ mà tự được bảo
vệ, tai nạn chẳng mong dứt cũng tự dứt
vậy!
4. Ngày thứ tư: Giảng về
nhân quả lớn lao để thành Phật và giải thích
đại lược những nghĩa lư trọng yếu
của Tứ Liệu Giản
Hai ngày hôm trước,
tôi đă bàn qua về nhân quả. Hôm nay tôi vẫn bàn về
nhân quả, [quư vị] cần biết là [nhân quả] đă
được nói trong hai bữa trước là tiểu
nhân, tiểu quả, [nhân quả] được bàn trong
ngày hôm nay là đại nhân, đại quả.
Sở dĩ đức
Phật thành Phật thường hưởng pháp lạc
chân thường, sở dĩ chúng sanh bị đọa
địa ngục, vĩnh viễn chịu khổ luân hồi
kịch liệt, [cả hai việc này] đều chẳng
ra ngoài nhân quả. Hễ con người muốn trị
thân tâm th́ trọn chẳng thể ra ngoài nhân quả
được. Con người hiện tại ham ăn nói
lớn lối, chẳng cầu thực tế, bộp chộp
bảo nhân quả là pháp Tiểu Thừa, thật là lầm
lẫn lớn. Nào biết Đại Thừa hay Tiểu Thừa
trọn chẳng ra ngoài hai chữ “nhân quả” được!
Tiểu Thừa là tiểu nhân quả, Đại Thừa là
đại nhân quả. Tiểu nhân (nhân nhỏ bé) là y theo
Sanh Diệt Tứ Đế, biết Khổ, đoạn Tập,
hâm mộ Diệt, tu Đạo; tiểu quả là chứng quả
A La Hán. Đại nhân (nhân lớn lao) là tu Lục Độ vạn
hạnh; đại quả là chứng Phật Quả rốt
ráo. Trồng dưa được dưa, gieo đậu
được đậu. Có nhân nào ắt sẽ có quả
đó, chưa hề sai sót. V́ vậy, chẳng riêng người
thế gian đều thuộc trong nhân quả mà ngay chính Bồ
Tát, Phật cũng chẳng ra ngoài nhân quả được!
Nếu bảo nhân quả là Tiểu Thừa, hóa ra Phật,
Bồ Tát cũng là Tiểu Thừa ư? Đủ biết lời
lẽ ấy ngông cuồng, trái nghịch đến thế
nào!
Pháp hội này là pháp hội
Hộ Quốc Tức Tai. Tôi chỉ mới bàn đến
việc ngưng dứt tai nạn đao binh, nước lửa,
vẫn chưa phải là rốt ráo. Lại cần phải
dứt tai nạn phiền năo sanh tử th́ mới là biện
pháp triệt để. Chúng ta mê muội Pháp Thân của
chính ḿnh, dứt huệ mạng của Phật, đáng buồn,
đáng đau! So với việc sắc thân bị họa,
[mê lầm mất Pháp Thân] nào phải chỉ gấp trăm
ngàn vạn lần nặng nề hơn! V́ thế, phải
hộ tŕ Pháp Thân huệ mạng, đoạn sanh tử phiền
năo mới đáng kể là biện pháp tức tai (dứt trừ
tai chướng) trọn vẹn.
Phật giáo, [nói] đại
cương, chẳng ngoài năm tông, năm tông chính là Luật,
Giáo, Thiền, Mật, Tịnh. Luật là căn bản của
Phật pháp, nghiêm tŕ tịnh giới để mong tam nghiệp
thanh tịnh, nhất tánh viên minh, Ngũ Uẩn đều
không, các khổ đều độ. Giáo là nương theo
giáo pháp mà tu Quán, rời khỏi “ngón
tay [chỉ mặt trăng] để thấy được
mặt trăng”, triệt ngộ Phật tánh sẵn có của
đương nhân, kiến tánh thành Phật. Nhưng chữ
“thành Phật” đó có nghĩa là thấy được
đức Phật thiên chân[20]
trong tự tánh bèn gọi là “thành Phật”, chứ chưa phải
là thành tựu, chứng được quả Phật nơi
Bồ Đề đạo. Mật dùng tam mật (thân mật,
khẩu mật, ư mật) gia tŕ, chuyển Thức thành Trí,
gọi là “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay
trong thân này). Đây cũng chỉ là coi “liễu sanh thoát tử
từ ngay nơi thân này là thành Phật”, chứ chưa phải
là thành đức Phật phước huệ viên măn! Ba tông
này đều có thể gộp vào Thiền v́ khí phận giống
nhau. Do vậy, tu tŕ Phật pháp trọng yếu chẳng
ngoài hai môn Thiền và Tịnh. Thiền chuyên cậy tự
lực, nếu chẳng phải kẻ túc căn chín muồi
th́ chẳng thể được lợi ích thật sự.
Tịnh là kiêm nhờ Phật lực, hễ ai đầy
đủ tín, hạnh, nguyện chân thật th́ đều
có thể đới nghiệp văng sanh. Sự khó - dễ giữa
hai pháp môn này khác nhau một trời, một vực. V́ thế,
đầu đời Tống, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ
thiền sư dùng thân “cổ Phật” thị hiện sanh
trong thế gian, triệt ngộ nhất tâm, tu trọn vạn
hạnh; mỗi ngày làm một trăm lẻ tám Phật sự,
đêm đi qua ngọn núi khác kinh hành niệm Phật. Ngài
rất lo cho kẻ học trong đời sau chẳng hiểu
rơ tông yếu[21],
nên đặc biệt viết một bài kệ Tứ Liệu
Giản ngơ hầu [mọi người] biết chỗ tiến
theo.
Bài kệ ấy như
sau:
Hữu Thiền, hữu Tịnh Độ,
Do như đới giác hổ,
Hiện thế vi nhân sư,
Lai sanh tác Phật, Tổ.
Vô Thiền, hữu Tịnh Độ,
Vạn tu, vạn nhân khứ,
Nhược đắc kiến Di Đà,
Hà sầu bất khai ngộ?
Hữu Thiền, vô Tịnh Độ,
Thập nhân cửu tha lộ,
Ấm cảnh nhược hiện tiền,
Miết nhĩ tùy tha khứ.
Vô Thiền, vô Tịnh Độ,
Thiết sàng tịnh đồng trụ,
Vạn kiếp dữ thiên sanh,
Một cá nhân y hỗ
(Có Thiền, có Tịnh
Độ,
Khác nào hổ thêm sừng,
Hiện tại làm thầy
người
Đời sau làm Phật,
Tổ.
Không Thiền, có Tịnh
Độ,
Vạn tu, vạn cùng
sanh,
Nếu được
thấy Di Đà,
Lo ǵ chẳng khai ngộ.
Có Thiền, không Tịnh
Độ
Mười người,
chín chần chừ
Ấm cảnh nếu
hiện tiền
Chớp mắt đi
theo nó.
Không Thiền, không Tịnh
Độ
Giường sắt
cùng cột đồng
Muôn kiếp với ngàn
đời
Không một ai
nương dựa)
Tám mươi chữ
này là cương yếu cả một đời giáo hóa của
đức Như Lai, là khuôn mẫu huyền diệu để
người học [Phật] liễu thoát ngay trong đời
này. Người đọc trước hết cần phải
hiểu rơ thế nào là Thiền? Thế nào là Tịnh Độ?
Thế nào là có Thiền? Thế nào là có Tịnh Độ? Thiền
và Tịnh Độ là ước về Lư, ước về
Giáo mà nói. “Có Thiền, có Tịnh
Độ” là ước về căn cơ, ước về
tu mà luận. [Luận theo] Lư - Giáo, hai pháp [Thiền và Tịnh]
trọn chẳng khác ǵ nhau. Xét về mặt Cơ - Tu
(căn cơ và sự tu hành), hai pháp khác nhau rất xa. Lời
tuy tương tự, ư nghĩa thật khác biệt, cần
phải rất chú ư th́ mới chẳng cô phụ tấm
ḷng đau đáu của tổ Vĩnh Minh.
Ǵ là Thiền? Đấy
chính là Chân Như Phật tánh chúng ta sẵn có, nhà Thiền
thường gọi là “bản
lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra”. Tông
môn chẳng nói toạc ra để người ta tự
tham cứu, tự lănh ngộ, nên nói như thế. Thật
sự, nó chính là tâm thể thuần chân ly niệm linh tri,
không Năng, không Sở, vừa Tịch vừa Chiếu[22]
vậy (“Ly niệm linh tri” là trọn không có ư niệm
suy lường nhưng hiểu rành rẽ tất cả cảnh
tượng trước mắt). Tịnh
Độ tức “tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tây
Phương”, chứ chẳng phải chỉ riêng nói đến
“duy tâm Tịnh Độ, tự
tánh Di Đà”.
“Có Thiền” tức là dốc sức tham cứu
đến cùng cực, niệm vắng lặng, t́nh[23]
mất đi, thấy thấu suốt diện mục sẵn
có trước khi cha mẹ sanh ra, minh tâm kiến tánh. “Có
Tịnh Độ” là chuyện thực sự phát Bồ Đề
tâm, sanh ḷng tin, phát nguyện, tŕ danh hiệu Phật, cầu
sanh Tây Phương. Nếu như tham Thiền chưa ngộ,
hoặc ngộ chưa triệt để đều chẳng
được gọi là “có Thiền”. Nếu như
niệm Phật nhưng thiên chấp duy tâm, không có tín - nguyện,
hoặc có tín - nguyện nhưng chẳng thân thiết đều
chẳng được gọi là “có Tịnh Độ”. Thậm
chí, tuy tu Tịnh Độ nhưng tâm nghĩ đến trần
lao[24],
hoặc cầu phước báo trời - người, hoặc
cầu đời sau xuất gia làm Tăng, nghe một hiểu
cả ngàn, đắc Đại Tổng Tŕ, hoằng
dương Phật pháp, giáo hóa chúng sanh đều chẳng
được gọi là “người tu Tịnh Độ” v́
chẳng chịu theo đúng kinh giáo Tịnh Độ trong Phật
pháp. Nếu lầm lạc lấy giáo nghĩa thông thường
làm chuẩn [để phê phán, suy luận pháp môn Tịnh
Độ] th́ trong đời sau, trong cả vạn người,
khó có được một, hai kẻ có thể chẳng mê
để được liễu thoát. Bị phước
báo mê hoặc, từ mê vào mê, thật có lắm kẻ! Nếu
thật sự hiểu sâu xa ư nghĩa này th́ mới đúng
là người tu Tịnh Độ.
Kẻ có mắt không
tṛng thường tưởng tham thiền là “có Thiền”,
niệm Phật là “có Tịnh Độ”, tự lầm, lầm
người, há chẳng phải là tai hại cùng cực hay
sao? Ở đây, tôi đă thuyết minh [thế nào là] có hay
không có Thiền, Tịnh; nay sẽ lại đem lời kệ,
dựa theo từng đoạn để phân tích [th́ quư vị]
mới biết tám mươi chữ này khác nào trời tạo
đất dựng, không một chữ nào chẳng xác
đáng, không một chữ nào có thể thay đổi
được!
Bài kệ thứ nhất
nói: “Có Thiền, có Tịnh Độ,
khác nào hổ thêm sừng, hiện tại làm thầy người,
đời sau làm Phật, Tổ”, nghĩa là: Người
đă triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, lại
c̣n thâm nhập kinh tạng, biết trọn vẹn các pháp
môn Quyền - Thật của Như Lai, nhưng trong các pháp,
lại chỉ chọn lấy một pháp “tín nguyện niệm
Phật” để làm đường lối chung cho chánh hạnh
tự lợi, lợi tha. Phần nói về Thượng Phẩm
Thượng Sanh trong Quán kinh [có câu]: “Đọc tụng Đại Thừa, hiểu Đệ Nhất
Nghĩa” chính là nói về hạng người này. “Khác
nào hổ thêm sừng” là người này song tu Thiền Tịnh,
có đại trí huệ, có đại Thiền Định, có
đại biện tài, tà ma ngoại đạo nghe danh vỡ
mật, giống như hổ mọc thêm sừng, oai mănh
khôn sánh. Có kẻ nào đến học hỏi sẽ tùy
cơ thuyết pháp. Thấy nên dùng Thiền Tịnh Song Tu
để tiếp độ th́ dùng Thiền Tịnh Song Tu
tiếp độ. Nên dùng Chuyên Tu Tịnh Độ để
tiếp độ th́ dùng Chuyên Tu Tịnh Độ tiếp
độ. Bất luận là thượng, trung, hạ
căn, không một ai chẳng được lợi lạc.
[Người như vậy] há chẳng phải là “nhân thiên đạo sư” ư?
Đến lúc mạng chung, được Phật tiếp dẫn
văng sanh Thượng Phẩm, trong khoảng khảy ngón tay,
hoa nở thấy Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn, thấp
nhất cũng là chứng bậc Sơ Trụ trong Viên
Giáo. Cũng có người đốn siêu[25]
địa vị, đạt tới Đẳng Giác. Bậc
Sơ Trụ trong Viên Giáo đă có thể hiện thân làm Phật
trong trăm cơi; huống hồ là những địa vị
sau đó càng lên cao càng thù thắng hơn, tính thẳng đến
địa vị thứ bốn mươi mốt là địa
vị Đẳng Giác [th́ càng thù thắng đến mực
nào] nữa? V́ thế nói: “Lai sanh tác Phật, Tổ”
(Đời sau làm Phật, Tổ).
Bài kệ thứ hai là:
“Không Thiền, có Tịnh Độ,
vạn tu, vạn cùng sanh, nếu được thấy Di
Đà, lo ǵ chẳng khai ngộ”. Do người ấy tuy
chưa minh tâm kiến tánh, nhưng cứ quyết chí cầu
sanh Tây Phương. Trong kiếp xưa, Phật từng
phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sanh
như mẹ nhớ con. Nếu chúng sanh thật sự
như con nhớ mẹ, chí thành niệm Phật th́ cảm ứng
đạo giao, liền được Phật nhiếp thọ.
Kẻ tận lực tu Định - Huệ được
văng sanh đă đành, mà kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác
lúc lâm chung bị sự khổ bức bách, phát tâm hổ thẹn
lớn lao, xưng niệm Phật danh hoặc đến
mười tiếng hoặc chỉ một tiếng rồi
liền mạng chung, cũng đều được hóa
thân của Phật tiếp dẫn văng sanh. Đấy chẳng
phải là “vạn tu, vạn
người sanh” hay sao? Tuy kẻ ấy niệm Phật
chẳng bao lâu, nhưng do [niệm Phật] cực kỳ
mănh liệt nên đạt hiệu quả lớn lao, chớ
nên đem người niệm Phật hờ hững, lững
lờ để so sánh nhiều - ít! Đă sanh về Tây
Phương, gặp Phật nghe pháp, tuy có nhanh - chậm
khác nhau, nhưng đều đă cao dự ḍng Thánh, vĩnh
viễn chẳng lui sụt. Tùy theo căn tánh sâu hay cạn
sẽ hoặc dần dà hoặc nhanh chóng chứng đạt
các quả vị. Đă được chứng quả th́
chuyện khai ngộ cần ǵ phải nói tới nữa, bởi
thế mới bảo: “Nếu
được thấy Di Đà, lo ǵ chẳng khai ngộ”.
Bài kệ thứ ba là: “Có Thiền, không Tịnh Độ,
mười người, chín chần chừ. Ấm cảnh
nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”. Do
người ấy tuy triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm
kiến tánh, nhưng Kiến, Tư phiền năo chẳng dễ
đoạn trừ, cần phải qua bao duyên rèn luyện
khiến cho [phiền năo bị] đoạn trừ sạch
không c̣n sót th́ mới có thể xuất ly phần đoạn
sanh tử[26]
. C̣n như kẻ chưa đoạn được mảy
may nào ta chẳng cần bàn đến. Nếu như đoạn
[phiền năo] mà vẫn c̣n sót chút mảy may nào chưa thể
đoạn sạch th́ sáu nẻo luân hồi vẫn y
như cũ, khó bề trốn tránh. Biển sanh tử sâu
thăm thẳm, đường Bồ Đề xa vời vợi,
nếu chưa về đến nhà đă liền mạng
chung th́ trong mười người đại ngộ, tám
chín người đă giống như thế. V́ thế, mới
nói: “Thập nhân cửu tha lộ”
(Mười người, chín chần chừ). Chữ “tha”
(蹉) ở đây nghĩa là “tha đà” (蹉 跎), nếu nói thông tục là “chần chừ”.
“Ấm cảnh” là cảnh tượng của thân
Trung Ấm, tức là các cảnh tượng do nghiệp lực
thiện, ác trong đời này và bao kiếp trước
cùng hiện ra khi lâm chung. Khi cảnh này hiện ra, chỉ
trong nháy mắt, sẽ theo nghiệp lực thiện hay ác
nào mạnh mẽ nhất đi thọ sanh trong đường
thiện hay ác, chẳng thể tự làm chủ được
mảy may nào, giống như người mắc nợ, chủ
nợ nào mạnh sẽ lôi đi trước. Tâm t́nh lắm
mối, sẽ nghiêng lệch về chỗ nào tâm ḿnh đặt
nặng. Ngũ Tổ Giới tái sanh làm Tô Đông Pha, Thảo
Đường Thanh lại sanh làm Lỗ Công[27].
Đấy vẫn c̣n là bực thượng[28],
nên nói: “Ấm cảnh nếu
hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”.
Chữ Ấm (陰) âm đọc và ư nghĩa giống chữ
Ấm (蔭), có nghĩa là “che đậy”. Ư nói: Do
nghiệp lực này ngăn che nên chân tánh chẳng thể hiển
hiện. Chữ Miết (瞥)
cùng âm với chữ Phiết (撇), nghĩa là “chớp mắt”. Có kẻ
cho rằng chữ Tha (蹉)
nghĩa là lầm lạc, “Ấm” là cảnh Ngũ Ấm
Ma th́ đều là v́ chưa hiểu ư nghĩa chữ Thiền
và chữ Có nên mới hiểu sai lầm như thế. Lẽ
đâu bậc đại triệt đại ngộ trong
mười vị, hết chín người lầm
đường, lạc lối, lầm đi theo cảnh Ngũ
Ấm Ma, bị ma dựa phát cuồng ư? Phàm kẻ bị
ma dựa phát cuồng chính là hạng tăng thượng mạn[29]
chẳng hiểu giáo lư, chẳng rơ tự tâm, tu mù luyện
đui. Sao chẳng biết tốt - xấu, lại đem
gán cho bậc đại triệt, đại ngộ vậy?
Điều này quan hệ rất lớn, chẳng thể không
biện bác rơ.
Bài kệ thứ tư
là: “Không Thiền, không Tịnh
Độ, giường sắt cùng cột đồng, muôn kiếp
với ngàn đời, không một ai nương dựa”.
Có người bảo “không Thiền, không Tịnh Độ”
chính là kẻ vùi đầu tạo nghiệp, chẳng tu thiện
pháp. Lầm lẫn lắm thay! Bởi lẽ, pháp môn vô
lượng, nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là phù hợp
căn cơ nhất. Kẻ đó đă chưa triệt ngộ,
lại chẳng cầu văng sanh, cứ hời hợt, hờ
hững tu các pháp môn khác th́ chẳng thể giữ cho Định,
Huệ quân b́nh, đoạn Hoặc, chứng Chân, lại chẳng
cậy vào Phật lực để đới nghiệp
văng sanh, dùng công đức tu tŕ cả đời để
cảm lấy phước báo trời người trong
đời sau. Đời này đă không có chánh trí, đời
sau ắt bị phước chuyển, đắm say
Ngũ Dục, rộng tạo ác nghiệp. Đă tạo nghiệp
ác sẽ khó tránh khỏi ác báo. Một hơi thở ra không hít
vào được nữa liền đọa địa ngục,
rơ ràng là trải qua kiếp dài lâu, nằm lăn giường
sắt, ôm ấp cột đồng để đền
trả các món ác nghiệp tham thanh sắc, giết sanh mạng
v.v… Chư Phật, Bồ Tát tuy rủ ḷng từ mẫn,
nhưng [do kẻ ấy] bị ác nghiệp chướng
ngăn nên cũng chẳng được lợi ích ǵ.
Thiền sư Triệt
Lưu đời Thanh bảo: “Người
tu hành nếu không có chánh tín cầu sanh Tây phương, tu
lung tung các điều thiện khác th́ gọi là oan gia đời
thứ ba”, chính là nói về ư này. Bởi lẽ, đời
này tu hành, đời sau hưởng phước; cậy
phước làm ác, ắt bị đọa lạc. Vui chỉ
tạm hưởng trong đời sau, khổ vĩnh viễn
suốt kiếp. Nếu như nghiệp địa ngục
đă tiêu, lại chuyển sanh làm quỷ, súc sanh. Muốn lại
được thân người, khó nhất trong những
điều khó! Bởi thế, đức Thích Ca dùng tay bốc
đất, hỏi ngài A Nan rằng: “Đất trên tay ta nhiều
hay đất trên đại địa nhiều?” A Nan bạch
Phật: “Đất trên đại địa nhiều”. Phật
dạy: “Được thân người
như đất trên tay; mất thân người như
đất trên đại địa”. Câu “vạn kiếp và ngàn đời,
không một ai nương dựa” vẫn c̣n là do âm vận
bài kệ bó buộc nên chỉ nói thiển cận như vậy
đó thôi!
Vĩnh Minh thiền
sư sợ người đời chẳng hiểu
được nghĩa chân thật của Thiền - Tịnh,
[chẳng] quán sát rơ ràng, nên mới viết bài kệ này
để giảng rơ. Có thể nói [bài kệ này] là chiếc
bè báu để thoát bến mê, là người dẫn
đường ĺa nẻo hiểm, công lao rất lớn. Bởi
lẽ, hết thảy pháp môn chuyên cậy vào tự lực,
pháp môn Tịnh Độ kiêm nhờ Phật lực. Trong hết
thảy pháp môn phải hết sạch Hoặc nghiệp th́
mới có thể liễu sanh tử; pháp môn Tịnh Độ
đới nghiệp văng sanh liền dự vào ḍng Thánh.
Người đời chẳng xem xét, coi Tịnh Độ là
thừa thăi, vụn vặt, thật đáng than thở lớn
lao! Hiện tại, người ta hay cho rằng khán thoại
đầu là cách tu thích hợp nhất, [cứ cho rằng]
hễ lâm chung được chết an lành là liễu thoát.
Nào hay lời ấy là lời nói mớ của kẻ
chưa mở Chánh Nhăn. Ở đây, tôi dẫn chuyện cũ
để làm thí dụ:
Vào khoảng đời
Càn Long - Gia Khánh nhà Thanh, có ba vị Thiền tăng cùng tham
thiền với nhau. Chết đi, một vị sanh tại
Giang Tô, tên là Bành Văn Chương; một vị sanh ở
Vân Nam, tên là Hà Quế Thanh; một vị sanh ở Thiểm
Tây tên là Trương Phí. Trong ba người, chỉ ông Bành
nhớ được chuyện kiếp trước. Sau
lên kinh đô thi Hội, gặp hai người kia liền kể
chuyện kiếp trước cùng làm Tăng. Hai người
kia tuy không nhớ được [việc cũ], nhưng vừa
thấy ông Bành đă như [gặp lại] cố nhân, trở
thành bạn thân thiết. Vào Điện Thí (thi Đ́nh), ông Bành
đậu Trạng Nguyên, ông Hà đậu Bảng Nhăn, ông
Trương trúng Truyền Lô[30].
Họ Bành sau từng làm Chủ Khảo, Học Đài,
nhưng khá tham sắc, sau chết tại nhà. Họ Hà giữ
chức Chế Đài ở Nam Kinh. Giặc Hồng
Dương nổi dậy, Nam Kinh thất thủ, ông bị
hoàng thượng bắt tội chết. Ông Trương từng
làm thầy dạy hoàng đế Hàm Phong, dân Hồi Hồi[31]
muốn làm phản bèn lừa giết phăng ông đi. Ba vị
này chẳng thể coi là Tăng nhân b́nh thường,
đáng tiếc là chẳng biết cầu sanh Tây
Phương, tuy được đôi chút phước lớn
nhưng hai người chẳng được chết yên
lành. Rốt cuộc, ông Bành tham đắm nữ sắc, e
trong đời sau sẽ chẳng được như
đời này!
Lại nữa, tiên sinh
Ngô Dẫn Chi ở Tô Châu, đậu Thám Hoa dưới
đời Thanh. Học vấn, đạo đức, tướng
mạo, đều tốt đẹp cả. Năm Dân Quốc
thứ mười (1921), đi triều bái Phổ Đà, gặp
tôi, tự bảo kiếp trước ông ta là ḥa thượng
ở Vân Nam. V́ khách đến dâng hương đông đảo,
chẳng thể chuyện tṛ nhiều, cũng chưa hỏi
tường tận nguyên do. Năm [Dân Quốc] thứ
mười một (1922), tôi qua Dương Châu khắc in
sách, đến ở nhà một người đệ tử
tại Tô Châu, liền ḍ hỏi về việc ấy, nghĩ
rằng ông ta chưa quên mất túc nhân, khi gặp mặt sẽ
hỏi chuyện, nhưng rồi hoàn toàn quên mất. Từ
đó, chẳng qua lại với nhau nữa. Đến năm
[Dân Quốc] thứ 19 (1930), tôi bế quan tại chùa Báo Quốc.
Đến tháng Mười Một, ông ta cùng hai tiên sinh Lư Ấn
Tuyền, Lư Hiệp Ḥa đến thăm. Tôi hỏi: “Sao
ông biết kiếp trước là nhà sư ở Vân Nam?” Ông
ta bảo: “Năm hai mươi sáu tuổi, tôi nằm mộng
đến một ngôi chùa kia, biết là chùa X… ở huyện
X… thuộc tỉnh Vân Nam. Trông thấy h́nh dạng điện
đường, pḥng xá, cây cối đều như thường
thấy, cũng thấy ḿnh là Tăng. Tỉnh dậy, nhớ
rất rơ, ghi chép lại từng điều. Sau đấy,
một người bạn đi làm quan ở Vân Nam (tiên
sinh Trương Trọng Nhân c̣n biết tên họ người
này), đem đối chiếu những
lời ông ta chép th́ không sai lệch mảy may”.
Tôi bảo:
“Tiên sinh đă tám mươi tuổi, không c̣n được
bao nhiêu ngày nữa, hăy nên khôi phục sự nghiệp ḥa
thượng kiếp trước, nhất tâm niệm Phật
cầu sanh Tây Phương th́ mới chẳng phụ công
khó tu tŕ đời trước!” Ông ta đáp: “Niệm Phật
có ǵ là hy hữu, lạ lùng?” Tôi nói: “Niệm Phật tuy chẳng
phải là hy hữu, lạ lùng ǵ, nhưng thế gian chẳng
có mấy người niệm. Chuyện chẳng hy hữu,
chẳng lạ lùng nhất là chuyện ăn cơm, cả
thế giới không một ai là chẳng ăn; đấy
là sự chẳng hy hữu, lạ lùng bậc nhất, v́
sao ông vẫn cứ phải làm?” Ông ta chẳng đáp
được, nhưng vẫn không chịu niệm. Ông ta
hỏi hai vị Lư Tiên sinh: “Các vị có niệm không?” Họ
đáp: “Niệm chứ!” Ông ta vẫn không nói ǵ; đến
tối ngày Ba Mươi tháng Chạp, lúc sắp thắp
đèn, qua đời, vừa tṛn tám mươi tuổi. Vị
này đời trước tu tŕ cũng rất khá nên đời
này mới cảm được công danh lớn lao, tuổi
thọ lâu dài, nhưng đời này chỉ giữ trọn
luân thường, chẳng c̣n tin vào Phật pháp nữa, há
chẳng phải là đáng xót xa lắm sao?
Cả bốn
vị trên chưa ai chứng đắc, mà dù có sở chứng
đi nữa, nếu chưa đoạn hết Phiền Hoặc
th́ vẫn khó thể ĺa khỏi sanh tử được!
Thậm chí như thiền sư Viên Trạch đời
Đường, biết được chuyện quá khứ, vị
lai, nhưng vẫn không thể thoát được, huống
hồ là kẻ chỉ được chết an lành lại
có thể giải quyết xong chuyện sanh tử sao? Cha
ông Lư Nguyên đời Đường, trấn thủ Đông Đô, bị
An Lộc Sơn làm phản giết chết. Lư Nguyên chẳng
muốn làm quan, biến căn nhà ḿnh đang sống ở
Lạc Dương thành chùa Huệ Lâm, thỉnh Viên Trạch
làm Ḥa Thượng; Lư Nguyên cũng tu hành ở chùa ấy. Mấy
năm sau, Lư Nguyên muốn triều bái Nga Mi, mời Viên Trạch
cùng đi. Viên Trạch muốn đi theo đường
Thiểm Tây, nhưng Lư Nguyên chẳng muốn đến
kinh đô nên nhất định đi theo đường
thủy qua ngă Kinh Châu. Viên Trạch đă tự biết ḿnh
chẳng trở về được nên liền [viết
thư] dặn ḍ hậu sự, mỗi mỗi đều
rành rẽ, kẹp trong cuốn kinh nhưng chẳng để
lộ ra, theo Lư Nguyên ngồi thuyền ra đi.
Thuyền
bơi đến miền thượng du Kinh Châu, gần
đến Giáp Sơn, vùng đất ấy thế nước
chảy xiết, chưa đến tối đă phải cắm
thuyền. Chợt có một người đàn bà mặc quần
gấm, kéo nước bên sông. Viên Trạch vừa trông thấy,
hai mắt ứa lệ. Lư Nguyên hỏi nguyên do, Viên Trạch
đáp: “Ta chẳng chịu đi theo đường này là
v́ sợ gặp người đàn bà này. Bà ta mang thai đă
ba năm, chờ ta sanh làm con. Chẳng thấy c̣n có thể
trốn lánh, chứ nay đă thấy, không cách nào chẳng
làm con bà ta được! Ông nên tụng chú, giúp ta mau sanh. Tới
ngày thứ ba, hăy đến nhà thăm ta. Ta trông thấy
ông, cười một tiếng làm tin. Mười hai
năm sau, đêm Rằm tháng Tám, đến bên bờ giếng
Cát Hồng tại chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu gặp ta”. Nói
xong, Viên Trạch tọa thoát (ngồi qua đời). Bà nọ
liền sanh con. Ngày thứ ba, Lư Nguyên đến thăm,
đứa bé liền cười. Sau đấy, Lư Nguyên quay
về chùa Huệ Lâm, thấy trong quyển kinh đă viết
sẵn lời dự ngôn về hậu sự, càng thêm tin
[sư Viên Trạch] chẳng phải là kẻ tầm
thường. Mười hai năm sau, Lư Nguyên đến
Hàng Châu. Tới đêm Rằm tháng Tám, ông đến chỗ
ước hẹn chờ đợi; chợt thấy bên
sông có đứa bé trai chăn trâu, ngồi trên lưng trâu,
dùng roi gơ sừng trâu, xướng:
Tam sinh thạch
thượng cựu tinh hồn,
Thưởng
nguyệt, ngâm phong bất yếu luân.
Tàm quư
t́nh nhân viễn tương phỏng,
Thử
thân tuy dị, tánh thường tồn.
(Trên
đá ba sinh[32],
vẫn nguyên hồn
Ngâm gió,
thưởng trăng lọ phải bàn
Thẹn
thấy người xưa t́m đến gặp
Thân này
tuy khác, tánh thường c̣n)
Lư Nguyên
nghe xong bèn đến chào hỏi. Hàn huyên xong xuôi, đứa
bé lại đọc:
Thân tiền,
thân hậu sự mang mang,
Dục
thoại nhân duyên khủng đoạn trường[33]
Ngô, Việt
giang sơn du dĩ biến
Khước
hồi yên trạo thượng Cù Đường
(Thân
trước, thân sau sự vấn vương
Bàn chuyện
nhân duyên luống đoạn trường
Ngô,Việt
giang sơn chơi khắp cả,
Quẩy chèo
mây khói, vượt Cù Đường[34])
Rồi
ruổi trâu đi mất. Thân phận như thế c̣n
chưa liễu thoát được, huống hồ là những
kẻ chỉ mới lănh hội được câu thoại
đầu, được chết an lành mà coi là đă liễu
thoát ư? Cậy vào tự lực để thoát sanh tử
khó khăn như thế đó; cậy vào Phật lực
để thoát sanh tử dễ dàng như thế đó; vậy
mà người đời vẫn cứ buông bỏ Phật
lực để cậy vào tự lực, cũng là v́
chưa hiểu rơ lẽ mầu nhiệm. Nay dùng hai câu sau
đây để nói toạc ra: Chỉ là v́ tri kiến sai lầm
“muốn tỏ vẻ ta là hạng người bậc
thượng, chẳng chịu làm chuyện tầm thường,
không hy hữu, lạ lùng” vậy. Xin hết thảy mọi
người hăy suy nghĩ chín chắn chuyện đă qua của
năm người này rồi tự lợi, lợi tha, sốt
sắng tu Tịnh Nghiệp như lo chôn cất cha mẹ,
như cứu đầu cháy th́ mới khỏi luống uổng
đời này và lần gặp gỡ này.
5. Ngày thứ
năm: Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục
Tức của tông Thiên Thai, kiêm giảng về ăn chay,
phóng sanh
Pháp môn Tịnh
Độ thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp lợi
căn lẫn độn căn, khế lư, khế cơ,
chí viên, chí đốn, đúng là pháp môn lợi lạc chúng
sanh duy nhất vô thượng. Nhưng con người hiện
tại, có kẻ tự cao, tự đại bảo: “Chúng
sanh tức là Phật th́ ta chính là Phật, sao lại phải
niệm Phật?”, kẻ th́ lại cho rằng: “Ta đă là
phàm phu khổ năo, làm sao có thể liễu thoát sanh tử, chỉ
cầu kiếp sau chẳng mất thân người mà thôi!”
Hai hạng người này đều v́ chẳng hiểu rơ
nhân quả mà thành ra như thế ấy. Bởi vậy,
hôm nay tôi vẫn giảng về nhân quả.
Phải
biết “chúng sanh tức là Phật”
[chỉ cho] cái nhân chân thật là Phật tánh sẵn có đủ.
Nếu chẳng tu hạnh Niệm Phật mầu nhiệm,
Phật tánh chẳng do đâu hiển hiện được
th́ làm sao đạt được thật quả “giải
thoát sanh tử, thành tựu Phật đạo” đây? Ví
như gương báu đóng bụi, quang minh chẳng hiện,
chứ thật ra chẳng mất! Nếu chịu ra sức
lau chùi, mài giũa th́ gương sẽ tự có thể chiếu
trời soi đất. Nếu nói: “Ta là phàm phu khổ năo, chẳng
thể văng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, cho
đến thành Phật” th́ lại chính là lời lẽ của
kẻ nghiệp chướng sâu nặng, tự cam chịu
đọa lạc. Vả nữa, người đời
nay có kẻ đánh cờ, xoa mạt-chược đến
nỗi mệt quá rồi chết, chẳng biết là bao
nhiêu! Nếu họ có thể vận dụng sự khổ
nhọc ấy vào chuyện tu hành niệm Phật th́ lo ǵ chẳng
văng sanh Tây Phương, chứng lên đến Phật quả
ư? Bởi lẽ, Phật vốn chỉ là một chúng
sanh tu tŕ, chứng đắc Phật quả mà thôi.
Thiên Thai
Trí Giả Đại Sư đời Tùy soạn cuốn Quán
Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, đă lập ra
giáo nghĩa Lục Tức Phật để đối trị
căn bệnh lớn “cam chịu đọa lạc” và bệnh
“tự tôn, tự đại sai lầm”. Lục Tức Phật
là: một là Lư Tức Phật, hai là Danh Tự Tức Phật,
ba là Quán Hạnh Tức Phật, bốn là Tương Tự
Tức Phật, năm là Phần Chứng Tức Phật,
sáu là Cứu Cánh Tức Phật. “Lục”: Minh thị thứ
lớp sâu - cạn, “Tức”: Chỉ rơ ngay nơi Thể
chính là Phật. Ví như trẻ sơ sanh h́nh thể chẳng
khác ǵ cha mẹ, nhưng sức lực, khả năng khác
biệt rất xa. Bởi thế, chẳng thể bảo
đứa bé con ấy chẳng phải là người,
nhưng cũng chẳng thể sai nó gánh vác chuyện của
người đă trưởng thành được. Nếu
biết rơ “tuy sáu mà thường tức” th́ sẽ chẳng
sanh lui sụt. Nếu hiểu “tuy tức mà thường
sáu” sẽ chẳng sanh ḷng tăng thượng mạn. Từ
đó, nỗ lực tu tŕ, sẽ từ phàm phu mà viên chứng
Phật quả, do Lư Tức Phật mà thành Cứu Cánh Tức
Phật vậy.
1. Lư Tức Phật là hết
thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. Tuy trái phản
Chánh Giác, xuôi theo trần lao, luân hồi trong Tam Đồ, Lục
Đạo, nhưng công đức của Phật Tánh vẫn tự
đầy đủ, cho nên gọi là Lư Tức Phật, coi
Lư Thể của tâm chính là Phật vậy. Vô Cơ Tử[35]
làm bài tụng rằng:
Động,
tịnh lư toàn thị
Hành, tàng
sự tận phi,
Minh minh
tùy vật khứ,
Yểu yểu
bất tri quy.
(Động,
tịnh toàn là lư,
Hành, tàng
chẳng trúng ǵ,
Tối
tăm theo đuổi vật,
Mờ mịt
chẳng biết về)
Do hết
thảy chúng sanh chưa nghe Phật pháp, chẳng biết tu
tŕ, nhưng nhất niệm tâm thể vẫn hoàn toàn giống
như Phật. V́ thế mới bảo là: “Động, tịnh
toàn là lư”. Do mê lầm tự tâm, tạo các sự nghiệp
nên mới bảo “Hành, tàng chẳng trúng ǵ” (Hành là hoạt
động, tàng là ở yên), v́ mọi việc làm đều
chẳng tương ứng Phật Tánh. Suốt ngày, suốt
năm, tối tăm, mờ mịt ruổi theo vật dục
(ḷng ham muốn vật chất) phiền năo, vọng tưởng,
từ sống đến chết chẳng hề biết hồi
quang phản chiếu (xoay trở lại xét soi cái tâm), nên bảo
là: “Tối tăm theo đuổi vật, mờ mịt
chẳng biết về”.
2. Danh Tự Tức Phật
là hoặc do từ thiện tri thức, hoặc từ kinh
điển mà biết rằng tâm vốn sẵn đủ
Phật Tánh tịch - chiếu viên dung, bất sanh, bất
diệt. Thông suốt hiểu rơ nơi danh tự, biết hết
thảy pháp đều là Phật pháp, hết thảy chúng
sanh đều có thể thành Phật. Đó gọi là “nghe danh tự
Phật tánh liền hiểu rơ, thấu suốt Phật
pháp”. Kệ tụng rằng
Phương
thính vô sanh khúc,
Thỉ
văn bất tử ca,
Kim tri
đương thể thị
Phiên hận
tự tha đà.
(Vừa
nghe khúc vô sanh,
Mới
nghe bài bất tử,
Liền
biết ngay đương thể,
Tiếc
đă trót lần khân)
[Ư nói]: Từ
trước đến nay chỉ biết sanh tử luân hồi
không lúc nào kết thúc; nay biết Phật Tánh chân thường,
bất sanh, bất diệt, đă biết đương
thể (ngay nơi bản thể) chính là cái nhân chân chánh
để thành Phật liền gấp gáp tu tŕ, c̣n hận từ
trước đến nay ḿnh bỏ uổng quang âm (thời
gian) đến nỗi chưa thể thật sự chứng
đắc!
3. Quán
Hạnh Tức Phật là nương theo Giáo tu Quán, tức
là địa vị Ngoại Phàm[36]
Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Ngũ Phẩm là:
a. Tùy Hỷ
Phẩm: Nghe pháp Thật Tướng, tin hiểu, tùy hỷ.
b. Độc
Tụng Phẩm: Đọc tụng kinh Pháp Hoa và các kinh
điển Đại Thừa để hỗ trợ quán hạnh
và sự hiểu biết.
c. Giảng
Thuyết Phẩm: Tự nói những điều ḿnh tự
chứng hiểu (nội giải) để chỉ dạy,
dắt dẫn làm lợi cho người khác.
c. Kiêm
Hành Lục Độ Phẩm: Kiêm tu Lục Độ để
giúp cho quán tâm.
e. Chánh
Hành Lục Độ Phẩm: Lấy việc hành Lục Độ
làm hạnh chánh yếu, tự ḿnh hành, dạy người
khác hành, Lư - Sự đầy đủ. Quán Hạnh càng
thêm thù thắng. Kệ tụng rằng:
Niệm
niệm chiếu thường lư
Tâm tâm tức
huyễn trần
Biến
quán chư pháp tánh
Vô giả
diệc vô chân.
(Niệm
niệm chiếu thường lư,
Tâm tâm bặt
huyễn trần
Quán khắp
các pháp tánh,
Không giả
cũng không chân)
Đă viên ngộ
(ngộ trọn vẹn) Phật tánh, nương theo Giáo tu
Quán, đối trị phiền năo tập khí nên bảo là: “Niệm
niệm chiếu thường lư, tâm tâm bặt huyễn
trần”. Hiểu rơ một sắc, một hương
không thứ ǵ chẳng phải là Trung Đạo; hết thảy
các pháp không pháp nào chẳng phải là Phật pháp, hết thảy
chúng sanh đều sẽ thành Phật, cho nên nói: “Quán khắp
các pháp tánh, không giả cũng không chân”.
4. Tương Tự Tức Phật
là tương tự giải phát (gần giống như
đă giải ngộ, phát khởi), tức là địa vị
Nội Phàm thuộc Thập Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín đoạn
Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc; Bát,
Cửu, Thập, Tín đoạn Trần Sa Hoặc. Kệ tụng
rằng:
Tứ
Trụ tuy tiên thoát,
Lục
trần vị tận không
Nhăn trung
do hữu ế
Không lư kiến
hoa hồng.
(Trước
đă thoát Tứ Trụ,
Nhưng
sáu trần chửa không,
Mắt vẫn
c̣n màng mộng
Thấy
hoa đốm trên không)
Tứ Trụ
là:
a. Kiến
Nhất Thiết Trụ Địa chính là Kiến Hoặc trong
Tam Giới.
b. Dục
Ái Trụ Địa chính là Tư Hoặc trong Dục Giới.
c. Sắc
Ái Trụ Địa tức là Tư Hoặc trong Sắc Giới.
d. Hữu
Ái Trụ Địa tức là Tư Hoặc trong Vô Sắc Giới.
Sơ Tín
đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư
Hoặc nên bảo là: “Trước đă thoát Tứ Trụ”.
Nhưng do tập khí sắc, thanh, hương, vị, xúc
pháp chưa hết, nên bảo là: “Nhưng sáu trần chửa
không”. Ở đây chỉ luận về địa vị
Thất Tín, chứ Bát, Cửu, Thập Tín đă phá
được Trần Sa Hoặc nên tập khí đă hoàn
toàn rỗng không. Tập khí là những dư âm của các Chánh
Hoặc (các phiền năo chánh yếu). Giống như cái mâm
đựng thịt dù đă rửa sạch, vẫn c̣n có mùi
hôi; b́nh đựng rượu tuy đă súc kỹ vẫn
c̣n có mùi rượu. “Mắt vẫn c̣n màng mộng, thấy
hoa đốm trên không” là: V́ chưa phá Vô Minh nên chưa
thể thấy được bản thể của Chân
Không Pháp Giới.
5. Phần Chứng Tức
Phật là ở [giai đoạn] Thập Tín hậu tâm[37],
phá một phần Vô Minh, chứng một phần Tam Đức,
liền bước vào Sơ Trụ, chứng Pháp Thân, là
Pháp Thân Đại Sĩ. Từ Sơ Trụ đến
Đẳng Giác, tổng cộng là bốn mươi mốt
địa vị, mỗi địa vị đều phá
được một phần vô minh, chứng một phần
Tam Đức, nên gọi là Phần Chứng Tức Phật.
Do vô minh chia làm bốn mươi hai phẩm, Sơ Trụ
phá một phần, cho đến Thập Trụ phá
được mười phần. Trải qua [các địa
vị] Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa cho đến Đẳng Giác [lần lượt] phá
được bốn mươi mốt phần. Bậc
Sơ Trụ có thể hiện thân làm Phật trong thế
giới không có Phật, lại c̣n tùy loại hiện thân
độ thoát chúng sanh. Thần thông đạo lực của
bậc này chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ là càng
lên mỗi địa vị trên càng thù thắng hơn nữa,
nhất là địa vị thứ bốn mươi mốt
là Đẳng Giác Bồ Tát ư? Kệ tụng rằng:
Hoát
nhĩ tâm khai ngộ
Trạm
nhiên nhất thiết thông
Cùng nguyên
do vị tận
Thường
kiến nguyệt mông lung.
(Đột
nhiên tâm khai ngộ,
Lặng
trong hết thảy thông,
Vẫn
chưa thông tận gốc
Trăng
thường thấy mông lung)
“Đột
nhiên tâm khai ngộ, lặng trong hết thảy thông” là
nói về cảnh tượng phá được vô minh
đôi phần, chứng ngộ đôi phần. “Vẫn
chưa thông tận gốc, trăng thường thấy
mông lung” ư nói c̣n có mây vô minh [che lấp] nên chưa thể
thấy thấu tột ánh sáng của vần trăng thiên
chân trong tự tánh.
6. Cứu
Cánh Tức Phật là từ Đẳng Giác lại phá một
phần Vô Minh nên [thấu đạt] tột cùng Chân Tánh, hết
sạch Hoặc, phước huệ viên măn, chứng ngộ
triệt để Chân Như Phật Tánh sẵn có ngay trong
tâm ḿnh, đạt địa vị Diệu Giác, thành đạo
Vô Thượng Bồ Đề. Kệ tụng rằng:
Tùng lai
chân thị vọng
Kim nhật
vọng giai chân
Đản
phục bản thời tánh
Cánh vô nhất
pháp tân.
(Từ
trước, chân là vọng
Hôm nay, vọng đều
chân,
Chỉ khôi phục bản tánh
Có pháp nào mới đâu?)
“Từ
trước chân là vọng” là trước khi ngộ th́
cũng chỉ từ “Ngũ Uẩn đều là không” này
mà lầm sanh chấp trước [khiến cho] Sắc Pháp,
Tâm Pháp nương theo nhau thành lập, khổ ách theo đó
sanh ra. Sau khi đă ngộ rồi, tuy vẫn chỉ là
Ngũ Uẩn này, nhưng toàn thể đều là một
Chân Như, trọn chẳng có tướng Sắc, Tâm,
Ngũ Uẩn để được. V́ thế, bảo
là: “Từ trước chân là vọng. Hôm nay, vọng đều
chân”. Nhưng cái Chân được chứng ấy nào phải
là điều ǵ mới đạt được, chẳng
qua là phục hồi lại Chân Như Phật Tánh sẵn
có đó thôi, v́ thế bảo: “Chỉ khôi phục bản
tánh, có pháp nào mới đâu?”
Lại nữa, chúng sanh c̣n mê th́ thấy Phật,
Bồ Tát và hết thảy chúng sanh đều là chúng sanh,
cho nên hủy báng Phật pháp, sát hại chúng sanh, chẳng
biết là tội lỗi; trái lại c̣n coi đó là vui. Đức
Phật đă triệt ngộ cái tâm “tâm, Phật, chúng sanh cả
ba không sai biệt”, thấy hết thảy chúng sanh hoàn toàn
là Phật. V́ thế đều v́ kẻ oán, người
thân thuyết pháp khiến cho họ được độ
thoát; dẫu là kẻ cực kỳ ác nghịch không tin, tâm
[Phật] cũng không hề có một niệm buông bỏ v́
Phật thấy thấu suốt kẻ đó chính là một
vị Phật chưa thành vậy.
Sáng hôm nay, ông Hoàng Hàm Chi bảo tôi rằng: Pháp
Sư Viên Anh nói đạo tràng sắp viên măn; ngày hoàn măn sẽ
cử hành phóng sanh. Đến ngày Mười Sáu sẽ nói về
Tam Quy, Ngũ Giới, xin tôi v́ đại chúng giảng
đại ư của sự phóng sanh và thọ Tam Quy, Ngũ
Giới ngơ hầu mọi người cùng phát tâm lợi
người, lợi vật. Bởi thế, chẳng thể
không tuyên nói. Pháp hội này nhằm để hộ quốc
tức tai. Nếu suy xét đến tận cùng nguyên do phát
khởi tai nạn th́ phần nhiều là v́ sát sanh mà ra. V́ thế,
muốn ngưng dứt sát nghiệp, phải bắt đầu
từ việc kiêng giết chóc, ăn chay, bảo vệ, tiếc
thương sanh mạng loài vật và chuộc mạng loài
vật. Mọi người ai nấy phải nên phát tâm bảo
vệ, thương tiếc sanh mạng loài vật. “Muốn
biết binh đao trong cơi thế, ḷ mổ xin nghe tiếng
nửa đêm”. Hăy giữ hai câu ấy
làm lời răn nhắc, tận lực kiêng dè.
Ư nghĩa của việc phóng sanh là khiến cho
mọi người phát tâm bảo vệ mạng sống của
chúng sanh. Chính ḿnh phóng sanh, đương nhiên sẽ chẳng
sát sanh nữa. Dẫu chính ḿnh chẳng phóng sanh, trông thấy
người khác phóng sanh, lẽ nào c̣n nỡ sát sanh? Nếu
ai nấy bảo vệ, thương tiếc sanh mạng,
chẳng tàn hại nữa sẽ tiêu được sát kiếp,
chuyển được vận nước. Nhưng
người đời vẫn có kẻ một mặt bỏ
tiền phóng sanh, một mặt vẫn sát sanh, ăn thịt
như thường. Như vậy, dù có chút công đức
phóng sanh, làm sao địch nổi tội lỗi sát sanh lớn
lao! Hiện thời, hội này dự định trong ngày
viên măn sẽ cử hành phóng sanh, xin các vị phát tâm thí tiền
giúp cho, tự lợi, lợi vật, công đức chẳng
thể nghĩ bàn. C̣n như [tiền] cúng dường của
đệ tử quy y lần này, Ấn Quang quyết định
dùng hết vào việc cứu trợ tai nạn, trọn chẳng
lấy dùng một đồng nào! Bởi lẽ, tôi là một
ông Tăng trơ trọi, đă không có chùa miếu, lại
cũng chẳng có đồ đệ, trừ thức
ăn, quần áo ra, để dành tiền làm ǵ? Mai kia mạng
chung, sau khi hỏa thiêu, đem tro rải xuống biển cả,
chẳng cần phải tạo tháp và làm bất cứ [h́nh
thức] kỷ niệm nào!
Ngay
cả việc quy y đây, tôi vốn chẳng thuận từ
đầu, nhưng bởi pháp sư Viên Anh và cư sĩ
Khuất Văn Lục thiết tha khuyên bảo, viện lẽ
những người phát tâm cầu pháp ân cần, v́ thỏa
măn ư nguyện của họ, v́ t́nh chẳng thể khước
từ, nên đành chấp thuận. Tôi vốn xem nhẹ tiền
bạc, chẳng giống những người khác, mỗi
tên đệ tử phải xuất tiền “hương
kính”[38] bao nhiêu đó mới
chấp thuận cho quy y. Tôi th́ không tiền cũng quy y
được, chỉ cần người ấy có tâm
thành kính tu tŕ mà thôi. Bởi lẽ, chẳng thể coi chuyện
quy y như chuyện mua bán, cần phải ra giá bao nhiêu
đó mới mua được hàng hóa đáng giá chừng
đó! Có như vậy th́ mới là tín đồ chân thật
quy y Phật pháp, mới có thể đạt đại lợi
ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh.
6. Ngày thứ sáu: Dùng Chân Đế
và Tục Đế để phá trừ kiến chấp và trần
thuật những chuyện linh cảm gần đây
Người đời chấp Không, chấp Có,
lầm lạc sanh khởi những kiến giải của
chính ḿnh nên mê muội chẳng giác ngộ. Đức Thế
Tôn lập ra giáo pháp [là v́] muốn cho chúng sanh phá trừ hai
kiến chấp ấy, đặc biệt bày ra một pháp
môn Niệm Phật, mong chúng sanh từ Có đạt đến
Không, dẫu đắc Không nhưng chẳng bỏ Có th́
hai pháp Có - Không sẽ hỗ trợ nhau, được lợi
ích rất lớn. Huống hồ là cậy vào nguyện lực
của Phật Di Đà. V́ thế, lực dụng của pháp
môn Niệm Phật vượt trỗi hết thảy pháp
môn [khác], làm chỗ quy túc cho hết thảy các pháp môn.
Trong đời có một hạng người
tri kiến hèn kém, dạy họ niệm Phật cầu sanh
Tây Phương bèn nói: “Chúng tôi là hạng nghiệp lực
phàm phu, làm sao dám mong mỏi văng sanh Tây Phương? Chỉ
cầu chẳng mất thân người là đủ lắm
rồi”. Thứ tri kiến này là do chẳng biết tâm tánh
của chúng sanh và tâm tánh của chư Phật giống hệt,
chẳng hai. Nhưng chư Phật tu đức đến
cùng cực, tánh đức hiển hiện trọn vẹn,
c̣n chúng sanh dẫu đủ tánh đức, trọn không tu
đức, dẫu có tu tập nhưng lắm kẻ v́ tu
hành trái nghịch với tánh, nên đâm ra càng thêm mê muội,
trái nghịch.
Lại có một hạng người tri kiến
cuồng vọng. Dạy họ niệm Phật, liền bảo:
“Ta đă là Phật, cần ǵ phải niệm Phật? Các
ngươi chẳng biết tự ḿnh chính là Phật th́
thường niệm Phật cũng không sao! Ta đă tự
biết là Phật, cần ǵ phải trên đầu lại
chồng thêm một cái đầu!” Thứ tri kiến này là
do chỉ biết đến vị Phật thuộc về
Phật Tánh sẵn có ngay trong tâm, chưa biết đến
vị Phật đă đoạn sạch Phiền Hoặc,
viên măn phước huệ. Hạng người này nếu
đă biết Tánh - Tu, Lư - Sự đều chẳng thể
thiên chấp, cực lực tu tịnh hạnh th́ sẽ
vượt xa hạng người nẩy sanh tri kiến
hèn kém. Nếu chẳng vậy, sẽ tự lầm, lầm
người, vĩnh viễn đọa trong địa ngục
A Tỳ, trọn không có kỳ ra. V́ thế, đối với
những hiểu biết lầm lạc chấp Không, chấp
Có, kiến giải hèn kém và kiến giải lầm lạc
cuồng vọng này, chỉ có riêng pháp Niệm Phật là dễ
đối trị nhất. “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”,
nếu chẳng làm Phật th́ chẳng phải là Phật
được. Hai câu kinh văn này chính là Vô Thượng
Diệu Pháp để phá trừ hai thứ kiến chấp
hèn kém và cuồng vọng.
Bàn chặt chẽ
về ư nghĩa lớn lao trong Phật pháp th́ chẳng ngoài
Chân Đế và Tục Đế. Chân Đế một pháp chẳng lập,
là thực thể được thấy biết bởi
Thánh Trí. Tục Đế phô bày trọn vẹn vạn hạnh,
chính là hành tướng được tu trong pháp môn (chữ Tục ở đây
nghĩa là tạo dựng, kiến lập, chứ đừng
hiểu là thế tục, thô tục). Người học Phật
phải viên dung Chân - Tục, một mực cùng hành. Bởi
lẽ, v́ một pháp chẳng lập th́ mới có thể tu
đạo phô bày trọn vẹn vạn hạnh. Vạn hạnh
được phô bày trọn vẹn th́ mới hiển hiện
được bản thể một pháp chẳng lập.
Nay để dễ hiểu, tôi nêu riêng một thí dụ. Bản
thể của Chân Như Pháp Tánh ví như tấm
gương quư báu tṛn lớn, rỗng rỗng rang rang, trọn
không có một vật, thế mà người Hồ đến
th́ bóng người Hồ hiện, người Hán đến
ắt bóng người Hán hiện. Hồ, Hán cùng đến
một lúc th́ cùng lúc hiện bóng. Ngay đang trong lúc rỗng
rang, trống lỗng, trọn không có một vật, chẳng
trở ngại ǵ chuyện người Hồ đến,
bóng người Hồ hiện; kẻ Hán đến, bóng kẻ
Hán hiện. Ngay đang lúc người Hồ đến hiện
bóng người Hồ, người Hán đến soi bóng người
Hán, gương vẫn rỗng rang, trống lỗng, trọn
không có một vật.
Thiền Tông đặt nặng Chân Đế, tức
là ngay chỗ “vạn hạnh phô bày trọn vẹn” chỉ
ra “một pháp chẳng lập”. Tịnh tông phần nhiều
chú trọng Tục Đế, tức là ngay nơi “một pháp
chẳng lập”, chỉ ra chuyện “vạn hạnh phô bày
trọn vẹn”. Bậc trí hiểu rơ Lư sẽ tự chẳng
thiên chấp. Nếu không, thà chấp Có c̣n hơn là chấp
Không! V́ nếu chấp Có dẫu chưa ngộ trọn vẹn
Phật tánh vẫn c̣n có công tu tŕ; chứ chấp Không sẽ
bác không nhân quả, thành ra kiến chấp Đoạn Diệt,
phá hoại, rối loạn Phật pháp, khiến chúng sanh
nghi ngờ, lầm lạc, họa ấy rất lớn, chẳng
thể tuyên nói được!
Chúng ta niệm Phật trước hết phải
từ Có Niệm mà khởi. Niệm đến lúc niệm
lặng, t́nh mất, ắt không những đă không có Ta là
người niệm mà cũng không có đức Phật
được ta niệm, nhưng từng câu, từng chữ
vẫn rành rẽ, phân minh, chẳng lầm, chẳng loạn,
tức là như thường nói: “Niệm mà vô niệm,
vô niệm mà niệm” vậy. “Niệm mà vô niệm, vô
niệm mà niệm” nghĩa là ngay trong lúc đang niệm
Phật, trọn chẳng có t́nh niệm khởi tâm niệm
Phật. Tuy không có t́nh niệm khởi tâm niệm Phật
nhưng lại niệm rành rẽ, phân minh, liên tục.
Nhưng công phu này chẳng phải là điều hạng
sơ tâm có thể đạt được ngay! Nếu
chưa đạt đến công phu “vô niệm mà niệm”
mà không chú trọng “có niệm” th́ khác nào phá nhà để t́m
lấy chỗ trống không! Cái Không ấy quyết chẳng
phải là chỗ để an thân lập mạng được!
Các bậc cổ Thiền đức, có nhiều vị lễ
bái, tŕ tụng chẳng tiếc thân mạng như cứu
đầu cháy. V́ thế, thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ
ngày làm một trăm lẻ tám Phật sự, đêm qua ngọn
núi khác kinh hành niệm Phật; huống hồ là học
nhân đời sau chẳng trọng Sự Tu (tu hành về mặt
Sự) mà ḥng thành tựu đạo nghiệp ư? Do đại
ngộ lư thể “một pháp chẳng lập”, tận lực
tu hành công phu “vạn pháp viên tu” nơi mặt Sự th́ mới
là Trung Đạo Không Hữu viên dung!
Kẻ [chấp vào] Không Giải Thoát cho rằng
chẳng tu một pháp nào hết mới là “[một pháp] chẳng
lập” được chư Phật gọi là “kẻ đáng
thương xót”. Liên Tŕ Đại Sư dạy: “Chấp sự mà niệm, giữ
được liên tục th́ sẽ chẳng luống uổng
công, được dự vào phẩm vị [văng sanh]. Chấp
lư nhưng tâm chưa thật sự thông đạt, khó thể
tránh được cái họa rớt vào Không. Bởi lẽ,
Sự có công năng kềm cặp Lư, Lư chẳng thể tồn
tại độc lập”,
lư do là như vậy đó. Chúng ta học Phật phải
do từ ngay nơi Sự để thành Lư, do chính ngay
nơi Lư để thành Sự. Lư - Sự viên dung, Có - Không
chẳng hai th́ mới có thể trọn thành tam-muội, liễu
thoát sanh tử. Nếu tự nói ‘ta chính là Phật’, chấp
Lư phế Sự, sai lầm rất nặng! Hăy nên tận lực
tu tŕ, nhất tâm niệm Phật, từ Sự hiển Lư,
dẫu hiển Lư vẫn chú trọng nơi Sự th́ mới
được lợi ích thật sự. Ngay như hàng Đẳng
Giác Bồ Tát vẫn c̣n phải dùng mười đại
nguyện vương hồi hướng văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong viên
măn Phật Quả. Nay là phàm phu nhưng chẳng biết tự
lượng, coi niệm Phật là Tiểu Thừa chẳng
đáng để tu tŕ, tương lai quyết định
vào địa ngục A Tỳ vậy!
Hơn nữa, người niệm Phật ai nấy
phải tận hết bổn phận của chính ḿnh, chẳng
trái nghịch luân lư thế gian, như thường nói là “giữ
vẹn luân thường, tận hết bổn phận,
ngăn cấm điều tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng giữ các điều lành”. Nếu
bất hiếu với cha mẹ, chẳng dạy dỗ con
cái th́ là tội nhân trong Phật pháp. [Người] như vậy
mà muốn được Phật cảm ứng gia bị,
trọn chẳng có lẽ ấy! V́ thế, người học
Phật phải là cha từ, con hiếu, anh nhường,
em kính, tự lập ḿnh, lại chu toàn cho người, tự
lợi, lợi tha. Ai nấy tận hết bổn phận
của chính ḿnh, dùng chính thân ḿnh đốc suất người
khác, rộng tu Lục Độ, vạn hạnh, để làm
gương mẫu cho mọi người. Phải biết
rằng hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ
cũng thuộc vào Lục Độ vạn hạnh. Trong cơi
đời, kẻ chẳng tin Phật giống như
người đeo cặp kính màu xem xét vạn vật, [thấy
là] xanh hoặc đỏ là do kính [khác màu] mà ra, chẳng thấy
được màu sắc thật sự của sự vật.
V́ thế, sách Đại Học có thuyết “cách vật trí tri”, thật là
có lư vậy! Người học Phật chúng ta chớ có lầm
chấp vào kiến giải của chính ḿnh. Nếu lầm
chấp vào kiến giải của chính ḿnh, ngồi đáy
giếng nh́n trời, một khi Diêm La đ̣i mạng mới
hay trước đây ḿnh đă sai lầm, có hối
cũng muộn rồi!
Đời này bạc ác, xă hội rối loạn,
thiên tai, nhân họa liên tiếp xảy ra. Muốn tính chuyện
cứu văn, ai nấy phải tận lực giữ vẹn
luân thường, tận hết bổn phận, hiếu
dưỡng cha mẹ, thương yêu trẻ nhỏ, yêu
người như yêu chính ḿnh, hoàn toàn v́ lẽ công, chẳng
tư lợi, th́ mới có thể [cứu văn được]!
Do nhân tâm ḥa b́nh, thế giới tự yên, quốc nạn tự
dứt. Hiện tại, mối họa hoạn lớn nhất
là con người ôm ḷng riêng tư. Ḷng riêng tư đến
cùng cực [sẽ chỉ c̣n biết đến ḿnh], con ruột
có thể giết cha mẹ. Người đời thường
hâm mộ cảnh thịnh trị rạng ngời, rực
rỡ, thiên hạ thái b́nh thời Đường - Ngu[39], cứ than thở
thói đời hiện tại suy đồi, ḷng người
hiểm ác, nhưng xét đến cùng cực tại sao thành
ra như vậy th́ thật sự chẳng ngoài [hai chữ]
Công và Tư mà thôi! Công đến cùng cực ắt thế
giới đại đồng, tư đến cùng cực
th́ con giết cha mẹ. Nếu mọi người phá
được kiến chấp tư hữu, chẳng tàn hại
lẫn nhau th́ sẽ lại được thấy cảnh
đời Đường Ngu Tam Đại[40] trong ngày nay chẳng
khó khăn ǵ!
Xưa kia, tại Phổ Đà có một vị lăo
Tăng đi đường, chân chợt đụng phải
cái ghế, liền đạp đổ cái ghế, lại
c̣n giộng liên tiếp mấy đạp nữa. Thứ
tri kiến như vậy đều là do mặc t́nh ngă mạn,
tuyệt chẳng phản tỉnh mà ra! Thứ tri kiến ấy
bộc phát lừng lẫy ắt sẽ dẫn đến
chuyện giết cha giết mẹ mà vẫn không hổ thẹn;
trái lại, c̣n coi đó là công lao! Hiện tại cơ duyên
giết hại càng mạnh mẽ, dụng cụ giết
người càng thêm khéo léo, tinh vi, đại kiếp ngay
trước mặt, ai có thể thoát khỏi được?
Chỉ mong đại chúng dốc hết ḷng thành niệm
Phật, xót xa cầu Phật lực gia bị. Khi chiến
cuộc xảy ra ở đất Hỗ (Thượng Hải),
những nhà cửa ở vùng Áp Bắc phần nhiều cháy
tan ra tro, chỉ c̣n khu nhà của một đệ tử
quy y với tôi là ông Hạ Hinh Bồi chưa bị mắc
họa. Ấy là v́ trong lúc chiến sự dữ dội, cả
nhà ông ta cùng niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Điều
kỳ lạ nhất là bảy ngày sau khi cuộc chiến nổ
ra, cả nhà bọn họ mới được Thập Cửu
Lộ Quân[41]
cứu ra; đến lúc đ́nh chiến trở về nhà,
mọi vật trong nhà chẳng mất thứ ǵ. Nếu Bồ
Tát chẳng gia hộ, che chở th́ làm sao mà được
như vậy? Đó là do ông ta làm việc cho một ṭa soạn
nhật báo đă mấy mươi năm, vợ chồng
đều ăn chay, niệm Phật rất chí thành. Do vậy
biết: Quán Âm Bồ Tát đại từ, đại bi, nếu
gặp tai nạn, một phen xưng niệm thánh hiệu,
chắc chắn được cứu vớt, che chở.
Nếu nói: “Người đời ngàn vạn,
tai nạn phát sanh dồn dập, Quán Âm Bồ Tát chỉ có
một ḿnh làm sao có thể cùng lúc đến cứu vớt,
che chở từng người được? Dù có cứu
giúp, che chở, cũng mệt nhọc khôn xiết!” Nào biết
trọn chẳng phải Quán Âm Bồ Tát đến từng
chỗ cứu giúp, mà chính là Quán Âm trong tâm chúng sanh cứu
giúp đó thôi! Quán Âm vốn vô tâm, lấy tâm chúng sanh làm tâm
[của chính ḿnh], cho nên có thể ‘nên dùng thân nào để cứu độ th́ sẽ
hiện ngay thân đó để thuyết pháp’. Như vầng
trăng vằng vặc trên không, tất cả mọi chỗ
có nước đều hiện bóng trăng, nước
trong ngàn ḍng sông có ngàn vầng trăng in bóng trên sông.
Trăng ấy là một hay là nhiều? Chẳng thể nói
là một, v́ trăng hiện bóng trong muôn ḍng nước; chẳng
thể nói là nhiều v́ vầng trăng trên hư không luôn
chỉ là một. Chư Phật, Bồ Tát cứu độ
hữu t́nh cũng giống như thế. Chẳng
được cảm ứng là do chúng sanh c̣n chưa dốc
ḷng thành, chứ chẳng phải Bồ Tát không cứu giúp,
che chở! Như một cái ao nước dơ bẩn, muốn
trăng hiện bóng trong ấy há có được
chăng? Hiểu rơ lẽ này rồi, đại chúng chúng ta
niệm Phật há c̣n ai chẳng chánh tâm, thành ư, chân thành, khẩn
thiết hay sao? Tôi không tin !
Một đệ tử ở huyện Văn Hỷ,
tỉnh Sơn Tây là ông Diệp Tư Sơ, cưỡi lừa
đi trong vùng núi thẳm, một bên núi cao chót vót, một
bên là khe sâu thăm thẳm. Tuyết đóng thành băng, con
lừa trượt chân, liền rơi xuống khe. Ngang
vách núi có một cái cây to, khéo sao rớt đúng ngay trên cây ấy,
không hề hấn ǵ. Nếu không, sẽ bị tan thân, nát
xương. Cây ấy do đâu mà có? Ấy là do Quán Âm Bồ
Tát thị hiện vậy!
Lại nữa, năm Dân Quốc mười bảy
(1928), ông Thái Nhân Sơ người huyện Ninh Ba mở cửa
hàng Ngũ Kim Pha Lê ở Thượng Hải. [Ông ta là]
người cực thuần hậu, chơi thân với ông
Nhiếp Vân Đài. Vân Đài dạy ông Thái thường niệm Quán
Âm, cốt ư để pḥng ngừa bị bắt cóc, tống
tiền. Nhân Sơ tin theo. Ngày nọ, sắp ra về, xe của
chính ông đậu ngoài cửa, bọn cướp cầm
súng đuổi tài xế đi, rồi bọn cướp
ngồi trên đó. Ông Nhân Sơ vừa bước ra liền
leo lên xe, xe liền chạy đi, mới biết gặp
cướp, liền thầm niệm Quán Âm, mong cho xe chết
máy ḥng thoát nạn. Quả thật, xe bị nổ bánh, xe
chạy khật khừ, nhưng vẫn cứ chạy tiếp.
B́nh xăng bị nổ vỡ khiến xe bắt lửa, bọn
cướp xuống xe, cáu kỉnh hướng về phía
ông Thái nă liền ba phát súng, nhưng ông Thái ba lần chạy
né được, liền ngồi xe kéo trở về. Tháng
Sáu năm đó, ông và vợ cùng đến Phổ Đà quy y.
Lại nữa, ông Trương Thiếu Liêm,
giám đốc của một hăng ngoại quốc nọ,
trọn chẳng tin Phật. Một ngày kia, ngồi xe
hơi lái đến chỗ thanh vắng, hai tên cướp
cầm súng đuổi người tài xế đi. Ông
Trương nói: “Các ông lên xe ngồi, sai hắn lái đến
chỗ nào là được rồi!” Hai tên cướp cầm
súng chĩa về phía ông Trương. Ông Trương thầm
niệm Quán Âm, xe lái đến chỗ náo nhiệt, chợt
có hai người đánh lộn, tuần bộ (cảnh
sát) thổi c̣i, hai tên cướp trèo xuống xe, lủi mất.
Đấy là v́ [ông Trương] niệm Quán Âm nên hai tên cướp
mới lầm tưởng là tuần bộ đến bắt
chúng. Cậu ông ta là Chu Vị Thạch đă quy y từ
trước, một hôm thỉnh tôi đến nhà cụ.
Thiếu Liêm cũng đến quy y.
Lại nữa, con ông Lư Cận Đan ở Trấn
Hải làm nhân viên buôn bán cho một hăng ngoại quốc, bị
bịnh thổ huyết đă hai năm. Có lúc thổ huyết
th́nh ĺnh, dẫu là lúc không thổ huyết th́ trong đàm
cũng thường lẫn máu. Một ngày, anh ta bị bọn
cướp bắt. Cận Đan sợ hăi vô cùng, cả nhà
niệm Quán Âm cầu cứu. Lại thỉnh chư
Tăng chùa Pháp Tạng trợ niệm. Sau đấy, bọn
cướp đ̣i tiền chuộc năm mươi vạn
đồng! Nhà họ Lư chỉ có năm vạn. Tên đầu
sỏ bọn cướp bảo không đủ năm
mươi vạn là không xong; nhưng mỗi khi hắn
đề cập đến năm mươi vạn,
đầu liền bị nhức buốt, sau đành phải
chấp thuận năm vạn tiền chuộc. Từ khi con
ông Cận Đan được bọn cướp thả
về, chẳng những không bị thổ huyết, mà ngay
cả khạc đàm cũng chẳng thấy lẫn máu nữa!
Bệnh dây dưa suốt hai năm do bị cướp bắt,
bệnh được khỏi hẳn. Những sự tích
cảm ứng vừa thuật trên đây, [quư vị] hăy nên
tin tưởng sâu xa.
Hiện
tại, người học Phật khá nhiều, nhưng
người hiểu biết Phật pháp sâu xa quá ít, trái lại,
con người phần nhiều tin vào những lời lẽ
của ngoại đạo. Miền Giang - Triết thường
đồn rằng: “Người niệm Phật chẳng
được vào huyết pḥng (pḥng đàn bà sanh nở) v́
một khi bị mùi máu tanh hôi của bà đẻ suông nhằm,
bao nhiêu công đức niệm Phật từ trước
tiêu mất hết”. V́ thế, [ai nấy] coi là chỗ phải
tránh né, dù là con gái, con dâu của chính ḿnh [sanh nở] đều
chẳng dám đến gần. Có kẻ c̣n né sẵn qua
nơi khác từ trước; hơn cả tháng mới dám
trở về nhà. Tập tục này phổ biến rất
rộng cũng đáng lạ thay! Chẳng biết đó
chính là tà thuyết của ngoại đạo làm lầm lạc,
điên đảo ḷng người, há nên tin bậy?
Năm
Dân Quốc thứ mười hai (1923), con dâu thứ của
ông Viên Hải Quán, tuổi đă hơn năm mươi,
có chút học vấn, có hai trai, hai gái. [Lúc] con dâu trưởng
của bà ta sắp sanh, một vị cư sĩ bảo:
“Con dâu sắp sanh, trong ṿng một tháng, không được
thờ Phật trong nhà, cũng chẳng được niệm
Phật”. Bà ta nghe xong, hồ nghi, vừa may tôi đến
đất Hỗ, bèn hỏi ư việc ấy. Tôi nói: “Kẻ
mù quáng đặt lời đồn thổi! Về bảo
con dâu bà thường niệm Quán Âm, lúc sanh nở cần niệm
ra tiếng. Bà và những người săn sóc sản phụ
ai nấy đều nên niệm lớn tiếng th́ chắc
chắn chẳng đến nỗi bị sanh khó và không có
những chuyện đau đớn, băng huyết v.v… Mà
sau khi đẻ xong cũng chẳng bị các điều
nguy hiểm”. Bà ta nghe nói, rất mừng. Qua mấy ngày sau,
cháu bé sanh ra, thân rất to, người Hồ Nam sanh con nhất
định cân [coi nặng bao nhiêu], đứa bé nặng
đến chín cân rưỡi, lại là con so, mà [người
mẹ] trọn chẳng đau đớn ǵ. Vậy mới
biết sức đại từ, đại bi của Quán
Âm Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn. B́nh thường niệm
Phật, niệm Bồ Tát, phàm lúc sắp ngủ, lúc rửa
chân, tắm gội đều nên niệm thầm. Chỉ
có lúc sanh nở chẳng được niệm thầm v́
lúc đang sanh phải dùng sức, niệm thầm ắt sẽ
bị tức khí thành bệnh. Phải rất chú ư điểm
này! Phải biết: Phật lực chẳng thể
nghĩ bàn, Pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh
tâm lực cũng chẳng thể nghĩ bàn, chỉ do con
người có ḷng kiền thành hay không mà thôi!
Vị
cao tăng đời Minh là ngài Thọ Xương Huệ
Kinh thiền sư lúc sắp được sanh ra khá khó
khăn. Ông nội ngài đứng ngoài pḥng sanh, v́ con cháu niệm
kinh Kim Cang để cầu được dễ sanh. Cụ
vừa mới mở miệng niệm xong hai chữ Kim
Cang, [cháu] liền được sanh. Ông nội bèn đặt
tên cho cháu là Huệ Kinh. Lớn lên, quy y và xuất gia đều
chẳng lấy tên nào khác. Ngài là vị cao tăng lỗi lạc
thời Vạn Lịch (Minh Thần Tông 1573-1620). Do đấy,
gẫm xem th́ biết là Phật pháp có ích cho cơi đời
cũng lớn lắm! Niệm Quán Âm Bồ Tát vào lúc sanh sản
có lợi ích như thế đó, há nên bị tà thuyết mê
hoặc mà chẳng tín phụng Ngài ư?
Người
đời ăn thịt đă thành thói quen. Hăy nên biết bất
cứ loại thịt nào đi nữa đều có chất
độc, v́ lúc [con vật] bị giết, hận tâm, oán
khí ngùn ngụt. [Người ăn vào] tuy chẳng đến
nỗi mất mạng ngay lập tức, nhưng tích tập
lâu ngày sẽ trở thành ghẻ chốc, tật bệnh.
Những phụ nữ trẻ tuổi nếu vừa nổi
nóng xong liền cho con bú sữa mẹ, đứa bé có thể
bị chết; là v́ sự nóng giận khiến cho sữa bị
trở thành chất độc. Sự nóng giận của
con người vào lúc chưa phải bị đau khổ
trí mạng c̣n độc đến thế, huống là cái
đau mất mạng của những loài lợn, dê, gà, vịt,
cá, tôm v.v… há có thể nào thịt chúng nó chẳng độc
ư? Hơn mười năm về trước, tôi thấy
một cuốn sách nói: “Một
phụ nữ Âu Tây tánh t́nh nóng nảy quá mức, [ngày nọ]
vừa nổi nóng xong, cho con bú, đứa bé chết ngay,
chẳng biết v́ nguyên do ǵ. Về sau lại sanh đứa
khác, lại nhân lúc nóng giận xong cho con bú, [đứa bé]
chết tươi; bèn đem sữa đi xét nghiệm th́
thấy có chất độc, mới biết cả hai
đứa con đều chết v́ bú sữa độc”.
Gần
đây, có một bà cụ đến quy y, tôi bảo cụ
ăn chay v́ thịt có chất độc và kể chuyện
người phụ nữ Âu Tây do nóng giận mà sữa hóa
thành chất độc làm chết hai đứa con để
làm chứng. Bà cụ ấy bảo bà ta cũng có hai đứa
con cũng bị chết giống như vậy, v́ ông chồng
cụ tánh khí ngang ngược, man rợ, cứ hễ trái
ư liền đánh vợ nhừ tử. Con thơ trông thấy
khóc ̣a lên, liền cho con bú. [Đứa bé] chết liền! Lúc ấy,
cụ chẳng biết là chết v́ sữa đă trở
thành chất độc. Con dâu cụ cũng v́ cho con bú mà chết
mất một đứa. Đủ thấy con nít trong đời
bị trúng sữa độc chết chẳng biết là
bao nhiêu. Từ người phụ nữ Tây Phương
phát giác trước tiên cho đến cụ bà này [xác nhận],
mới thấy thật minh bạch. V́ thế, phụ nữ
cho con bú sữa mẹ chớ nên nổi nóng. Nếu như
đang giận dữ quá mức th́ hôm ấy đừng có
cho con bú, cần phải đợi đến hôm sau, tâm trạng
lắng dịu, lúc hết c̣n giận hờn th́ mới [cho
con bú] không ngại ǵ. Nếu ngay hôm đó cho con bú rất có
thể làm chết con. Nếu không chết ngay, rất có thể
là chết dần dần.
Do
vậy, biết rằng: Trâu, dê v.v… lúc bị giết tuy chẳng
nói được, nhưng chất độc do ḷng oán hận
kết lại trong thịt nơi thân chúng cũng chẳng
ít ỏi ǵ! Kẻ biết tự thương ḿnh cố
nhiên phải nên kiêng [ăn thịt] vĩnh viễn để
tránh khỏi các thứ tai họa trong đời này, đời
sau! Chuyện này rất ít người biết; v́ thế,
phải nêu rơ ra, mong sao mọi người lưu ư. Lấy
đó làm chứng, cần biết rằng: Khi người
ta nóng giận, chẳng những sữa có chất độc
mà nước mắt, nước miếng cũng đều
có chất độc. Nếu những thứ này rơi rớt
vào mắt, vào thân trẻ nhỏ cũng gây hại chẳng
cạn. Có một vị bác sĩ đến quy y, tôi hỏi
ông ta: “Trong sách thuốc có nói đến điều này hay
không?” Ông ta đáp: “Không biết!” Trong thế gian chuyện
vượt ngoài t́nh lư khá nhiều, chẳng thể v́ chúng
không hợp khoa học mà coi thường được!
Chẳng hạn như cách trị bệnh sốt rét th́ dùng
một tấm giấy trắng rộng hai tấc, viết
ô mai (hai trái), hồng táo (hai trái), hồ đậu (tùy theo bệnh nhân bao nhiêu tuổi,
viết bấy nhiêu hạt. Như mười tuổi, viết
mười hạt. Hai mươi tuổi viết hai
mươi hạt) xếp lại. Trước lúc cơn bệnh
phát ra khoảng một tiếng đồng hồ, quấn
trên bắp tay, nam bên trái nữ bên phải, th́ bệnh sẽ
chẳng phát nữa. Trăm lần áp dụng, trăm lần
hiệu nghiệm. Dù bệnh đă hai ba năm chẳng
lành, cũng chữa lành được. Chẳng phải
bùa, chẳng phải chú, chẳng phải thuốc mà trị
lành được bệnh ngặt, há có thể vận dụng
lư thông thường để giải thích hay chăng? Sự
thể trong thế gian đều khó thể nghĩ bàn cả!
Như mắt thấy, tai nghe là chuyện cực b́nh thường,
ai ai cũng biết cả, nhưng nếu hỏi v́ sao mắt
thấy được, v́ sao tai nghe được th́ những
người biết rất ít! Trong Phật pháp cũng có những
sự chẳng thể nghĩ bàn nhưng lại nghĩ bàn
được, có những sự có thể nghĩ bàn
nhưng lại chẳng thể nghĩ bàn được.
Thần diệu nhưng minh bạch, tồn tại ngay
trong con người, há nên dùng lẽ thường t́nh để
suy lường ư!
7. Ngày thứ bảy: Giảng về tội
đại vọng ngữ và những sự như đại
hiếu trong nhà Phật, trí tri cách vật, thật thà niệm
Phật v.v…
Ngày
hôm nay, pháp hội viên măn. Thời hạn bảy ngày chớp
mắt đă qua. Thế nhưng, pháp hội tuy viên măn, chuyện
hộ quốc tức tai nên thực hiện cho đến
khi chấm dứt báo thân này. Trừ phi ai nấy ăn chay,
niệm Phật, văng sanh Tây Phương, chẳng thể
nói là đă viên măn rốt ráo được.
Người
học Phật hiện tại có lắm kẻ tự bảo
ta đă khai ngộ, ta là Bồ Tát, ta đă đắc thần
thông đến nỗi gây lầm lạc cho nhiều người.
Một mai Diêm lăo réo mạng, lúc mạng sắp chấm dứt,
khi ấy cầu sống chẳng được, đau khổ
mà chết, chắc chắn đọa địa ngục A
Tỳ. Chớ nên nhiễm đắm thói ác của những
kẻ ham cao, chuộng xa, dối ḿnh, lừa người ấy;
nếu có th́ phải sửa ngay. Nếu không có th́ càng thêm cố
gắng. Hăy kiêng dè, hăy đề pḥng!
Giết,
trộm, dâm… cố nhiên là tội nặng, nhưng con
người biết những hành vi ấy chẳng tốt,
không đến nỗi ai nấy đều bắt chước
theo, nên tội ấy vẫn c̣n nhẹ. Nếu chẳng tự
lượng, phạm tội đại vọng ngữ,
chưa đắc đă bảo đắc, chưa chứng
đă nói chứng để dẫn dắt những hạng
vô tri, ai nấy đều bắt chước theo, hoại
loạn Phật pháp, làm chúng sanh bị nghi ngờ, lầm lạc,
tội ấy nặng không thể h́nh dung được!
Người tu hành cần phải giấu tài, ẩn đức,
phơi bày tội lỗi. Nếu chuộng phô trương
tiếng tăm, oai thế rỗng tuếch, bày tṛ giả dối,
dù có tu hành cũng bị cái tâm dối trá rỗng tuếch ấy
làm hư mất hết! V́ thế, Phật đặc biệt
coi tội vọng ngữ là giới căn bản của
các giới để ngăn ngừa tâm hư ngụy, ngơ hầu
[người tu học đạo Phật] sẽ chân tu, thực
chứng. Người tu hành chẳng được hướng
về hết thảy mọi người khoe khoang công phu của
chính ḿnh. Nếu như v́ chính ḿnh chẳng thể hiểu thật
rành rẽ, muốn cầu thiện tri thức khai thị, ấn
chứng, th́ cứ theo đúng sự thực mà tŕnh bày trực
tiếp, chớ nên kiêu căng nói quá lên, cũng chớ nên tự
khiêm nói giảm đi, cứ dựa theo bổn phận của
chính ḿnh mà nói th́ mới là đệ tử Phật thật
sự, mới có thể mỗi ngày một thấy
được lợi ích nhiều hơn. Lục Tổ
đại sư nói:
Phật pháp tại thế
gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mịch Bồ Đề,
Kháp như cầu thố giác
(Phật pháp tại thế
gian,
Chẳng rời thế
gian giác
Ĺa đời t́m Bồ
Đề
Khác nào t́m sừng thỏ).
V́ vậy, biết rằng:
Hết thảy mỗi sự mỗi vật trong thế
gian đều là Phật pháp. Chúng ta khởi tâm động
niệm đều phải rành rẽ, minh bạch, chẳng
được để vọng niệm làm mê. Ngay cả
những kẻ cực ác, bại hoại nhất trong thế
gian cũng như những đứa trẻ non nớt nếu
có ai nói đến những điều bất thiện th́
giận, nghe điều lành th́ vui. Sự giận dữ
đối với điều bất thiện, vui vẻ
đối với điều thiện há chẳng phải
là Chân Tâm Bản Giác phát hiện ư? Điều đáng tiếc
là chẳng biết tự quay lại để mở rộng
[cái tâm giận điều ác, vui điều lành] ra, vẫn
cứ suốt ngày làm chuyện chẳng lành, đến nỗi
trở thành ham danh, ghét thật, lọt vào hạng tiểu
nhân. Giả sử họ có thể tự phản tỉnh:
“Ta đă vui với điều thiện th́ hăy nên tận lực
làm việc lành, tận lực ngăn ngừa điều
ác th́ gần là mong thành hiền, thành thánh; xa là liễu sanh
thoát tử, thành giác đạo của Phật”.
Điều quan trọng là
tự giác. Hễ giác th́ chẳng chịu thuận theo mê
t́nh, cuối cùng đạt đến chỗ giác vĩnh viễn
chẳng mê. Nếu chẳng tự giác sẽ hằng ngày muốn
người khác khen ngợi ta là lành, nhưng hằng ngày tận
lực làm các điều ác, chẳng đáng buồn lắm
ư? [Sự kiện] con người ai cũng có ư niệm
thích được người khác khen ta là lành đủ
chứng tỏ chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng
hành vi thuận theo tánh hay trái nghịch tánh th́: Một là do
ḿnh tự cố gắng hay tự buông lung, hai là do thiện
hay ác tri thức chỉ bày, dẫn dụ. Đời nay,
tai nạn phát sanh dồn dập, quá nửa là do con người
phần nhiều chẳng chuộng thực tế, ham chuộng
mong mỏi hư danh, ham danh ghét thật, trái nghịch bản
tâm của chính ḿnh mà nên nỗi! Nếu có thể hồi
quang phản chiếu, tỏ rơ Phật tánh vốn sẵn
có, chẳng lừa ḿnh, dối người, biết lễ
nghĩa, biết liêm sỉ th́ cái căn bản đă lập,
chẳng c̣n làm chuyện nghịch lư loạn đức, ắt
tai hoạn sẽ tự dứt vậy!
Người học Phật
quan trọng nhất là ai nấy phải trọn hết bổn
phận. Tṛn bổn phận th́ sẽ có liêm, có sỉ. [Những
hạnh] như cha từ, con hiếu, anh nhường, em
kính đều nên nỗ lực thực hành. Sách Đại Học
có câu: “Đại học chi đạo,
tại minh Minh Đức” (Đạo đại học cốt
ở chỗ làm sáng tỏ cái đức sáng). Chữ “minh”
thứ nhất là tu đức “khắc kỷ[42],
xét soi, phản tỉnh”. Hai chữ “Minh Đức” tiếp
đó chỉ tánh đức sẵn có trong tự tâm. Muốn
làm sáng tỏ Minh Đức sẵn có trong bản tâm, không
tu tŕ từ việc khắc kỷ, xét soi, phản tỉnh
th́ không xong! Tiến lên nữa, mới có thể nói: “Tại thân dân, tại chỉ
ư chí thiện”. Chữ “thân
dân” ở đây hàm ư ai nấy tận hết bổn phận.
“Chỉ ư chí thiện”
nghĩa là khởi tâm, làm chuyện ǵ, tự hành, dạy
người, đều thuận theo lẽ trời, t́nh
người, là Trung Đạo chẳng lệch, chẳng cong
quẹo. Được như vậy th́ làm thánh làm hiền là
điều có thể đạt được!
Vả nữa, Phật
pháp nhằm dạy người đối trị phiền
năo, tập khí, nên có Tam Học Giới - Định - Huệ
làm căn bản. Bởi lẽ, Giới ràng buộc cái thân
th́ chẳng dám làm điều trái đức nghịch lư, chẳng
dám thốt lời vô ích có hại. Do Giới sanh Định nên
những tạp niệm vọng loạn rối bời
trong tâm sẽ dần tiêu, những hành vi hồ đồ sẽ
tự ngưng. Do Định phát Huệ nên Chánh Trí mở mang,
phát khởi, Phiền Hoặc tiêu diệt, thực hiện
các thiện pháp thế gian hay xuất thế gian không pháp
nào là chẳng phù hợp với Trung Đạo vậy! Ba thứ
Giới - Định - Huệ đều là Tu Đức, đều
là tâm thể do đích thân Chánh Trí thấy được! Đấy
chính là Minh Đức. Sách Trung Dung gọi Minh Đức này là Thành.
Thành chỉ cho “thuần chân chẳng vọng”. Minh Đức tức
là “ly niệm linh tri”. Thành và Minh Đức đều thuộc
về Tánh Đức. Do có Tu Đức “tu tŕ khắc kỷ,
phản tỉnh, xét soi” th́ Tánh Đức mới hiển lộ.
Bởi thế, cần chú trọng vào chữ “minh” thứ
nhất th́ Minh Đức mới có thể thấy thấu suốt,
vĩnh viễn tỏa sáng!
Phật pháp và thế
gian pháp vốn chẳng phải là hai thứ! Nếu có kẻ
cho rằng nhà Phật “từ
thân cát ái” (từ biệt cha mẹ, cắt đứt
t́nh yêu thương) là bất hiếu th́ đó là cái nh́n hạn
cuộc trong đời này, là cái nh́n nông cạn chẳng biết
tới quá khứ, vị lai. Chữ Hiếu đối với
cha mẹ trong nhà Phật thông cả ba đời. V́ thế
kinh Phạm Vơng dạy: “Nếu là Phật tử th́ do Từ
tâm sẽ hành nghiệp phóng sanh, coi hết thảy đàn
ông là cha ta, coi hết thảy đàn bà là mẹ ta. Ta trong
đời đời, không lúc nào không do họ sanh ra. Bởi
vậy, chúng sanh trong sáu đường đều là cha mẹ
ta. Giết họ để ăn tức là giết cha mẹ
ta!” Đối với hết thảy chúng sanh, Phật đều
nghĩ thương xót độ thoát, ấy là Hiếu chẳng
phải là vừa rộng lại vừa xa ư? Vả nữa,
ḷng Hiếu thế gian: Cha mẹ c̣n sống th́ hầu hạ,
phụng dưỡng, cha mẹ đă khuất th́ chỉ tới
ngày [cha mẹ] mất mới làm cỗ cúng bái để trọn
hết dạ làm con. Nếu như cha mẹ tội lớn,
đọa trong dị loại, nào ai có thể biết trong
đám sinh vật bị giết hại để ăn ấy,
chắc chắn không có ai từng là cha mẹ ta ư? Không
thông hiểu lư ba đời vô tận, cậy vào sự hiếu
nhỏ nhoi mấy mươi năm để trách người,
sự thấy biết ấy nhỏ nhoi, nông cạn,
đáng thương xót thay! V́ thế, Phật dạy
người ta kiêng giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật,
ḷng từ bi cứu giúp cũng lớn lao thay!
Hoặc
lại có kẻ bảo: “Loài lợn, dê, cá, tôm… vốn do trời
sanh để nuôi dưỡng con người, ăn chúng
nào có mắc tội ǵ?” Đây là do chưa trải qua cảnh
đó nên mới nói bừa như thế. Nếu đích
thân trải qua cảnh ấy th́ mong được cứu
c̣n không xuể, nào có dịp biện bác. Sách Khuyến Giới
Loại Biên có chép: Ông họ Triệu nọ làm huyện lệnh
huyện Bồ Thành, tỉnh Phước Kiến, ăn
chay trường thờ Phật. Vợ ông hoàn toàn không có
ḷng tin. Ngày hôm trước bữa sinh nhật, bà ta mua khá
nhiều sanh vật tính giết đăi khách. Họ Triệu
bảo: “Bà muốn chúc thọ mà lại làm cho chúng nó bị
chết, nên chăng?” Vợ bảo: “Ông nói toàn lời vô
ích! Nếu theo như Phật pháp, nam nữ chẳng
được ngủ chung, chẳng giết sanh mạng,
th́ hóa ra mấy chục năm sau, tràn ngập thế gian
toàn là súc sanh!” Ông Triệu cũng không có cách ǵ khuyên giải
được. Đến đêm, người vợ
mơ thấy đi vào nhà bếp, thấy giết lợn mà
chính ḿnh bị biến thành lợn, bị giết chết
rồi vẫn c̣n biết đau. Lúc bị cạo lông, phanh
bụng, móc ruột, cắt phổi, đau khổ không thể
chịu được nổi! Sau đấy, giết
đến gà, vịt v.v… đều thấy chính ḿnh là những
con vật bị giết. Đau quá sức, tỉnh cả ngủ,
tim run, thịt giựt. Từ đấy phát tâm thả hết
những loài vật ḿnh đă mua, ăn chay trường.
Người này đời trước có căn lành lớn
nên mới cảm được Phật từ gia bị,
khiến cho bà ta đích thân chịu khổ để dứt
ác nghiệp. Chứ nếu không sẽ đời đời,
kiếp kiếp nộp thân cho người ta ăn [để
đền nợ sát sanh]! Những kẻ giết sanh vật
ăn thịt trong cơi đời nếu có thể nghĩ
tưởng đặt chính ḿnh vào trong hoàn cảnh [của
loài vật] th́ khó ǵ mà chẳng quay đầu ngay khi ấy.
Lại
có một hạng người nói: “Ta ăn thịt trâu, dê,
gà, vịt… là v́ muốn độ thoát chúng nó!” Chẳng những
Hiển Giáo không có thuyết này, ngay trong Mật Giáo cũng
không có. Nếu quả thật có thần thông như ngài Tế
Điên th́ c̣n được. Chứ nếu không, đó chỉ
là tà thuyết khiến người lầm lạc, tự
chuốc lấy tội. Hạng hết sức vô liêm sỉ
mới dám nói như thế! Người học Phật phải
hiểu rơ ràng khả năng của ḿnh, chớ nên xằng
bậy tự khoe khoang lớn lối, mong mỏi vậy
thay!
Thời Lương, tại
núi Thanh Thành ở đất Thục (Tứ Xuyên), có vị
Tăng tên là Đạo Hương có đại thần lực,
nhưng giấu kín chẳng tiết lộ. Núi ấy có lệ
hằng năm mở hội, lúc đó mọi người
ăn uống no say, giết hại sanh vật vô số.
Ngài Đạo Hương khuyên can nhiều lần, họ chẳng
nghe. Năm ấy, Ngài đào một cái hố to ở ngoài sơn
môn, bảo mọi người: “Các ông đă ăn no, xin
chia cho tôi một bát canh, có được không?” Mọi
người ưng thuận. Khi đó, ngài Đạo
Hương cũng ăn uống thật no say, nhờ
người d́u đến trước hố ọe hết
ra. Những con vật ngài đă ăn vào: Con nào bay
được th́ bay lên, con nào chạy th́ chạy đi,
tôm, cá, thủy tộc ói ra ngập cả hố. Mọi
người kinh sợ, kính phục, liền vĩnh viễn
kiêng sát sanh. Về sau, ngài Đạo Hương nghe lời Chí
Công liền hóa (tịch diệt) (Có người đất
Thục yết kiến ngài Chí Công ở kinh đô. Chí Công hỏi:
“Người xứ nào?” Đáp: “Tứ Xuyên”. Chí Công bảo:
“Hương ở Tứ Xuyên mắc hay rẻ?” Đáp: “Rất
rẻ”[43].
Chí Công bảo: “Đă bị người ta coi thường
sao chẳng ra đi?” Người đó trở về núi
Thanh Thành, thuật cho Đạo Hương nghe lời ngài Chí
Công. Ngài Đạo Hương nghe lời ấy xong liền
hóa).
Cần biết rằng:
Những người an phận giữ ḿnh trong cơi đời,
một khi hiển thị thần thông xong liền thị
hiện tịch diệt ĺa đời để khỏi bị
tăng thêm phiền năo. Nếu không, phải như ngài Tế
Điên làm ra vẻ si cuồng, không ra tṛ ǵ để người
ta nửa tin nửa ngờ, không thể
đoan chắc th́ mới được!
Người
học Phật cần phải chăm chú bỏ cái thấy
ta - người, cần phải tự lập, lập
người, tự lợi, lợi người. Có vậy
mới có thể nói là “nhập đạo”. Tức là
như sách Đại Học chép: “Cổ chi dục minh Minh
Đức ư thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc.
Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia.
Dục tề kỳ gia giả, tiên tu kỳ thân. Dục tu
kỳ thân giả, tiên chánh kỳ tâm. Dục chánh kỳ tâm
giả, tiên thành kỳ ư. Dục thành kỳ ư giả, tiên
trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật” (Người
xưa muốn làm sáng tỏ Minh Đức trong thiên hạ
th́ trước hết phải giữ yên đất nước.
Muốn giữ yên đất nước th́ trước hết
phải giữ yên gia đ́nh. Muốn giữ yên gia đ́nh
th́ trước hết phải sửa đổi thân ḿnh.
Muốn sửa đổi thân ḿnh th́ trước hết
cái tâm phải ngay thẳng. Muốn cái tâm ta ngay thẳng th́
trước hết phải giữ cho cái ư chân thành. Muốn
cho cái ư chân thành th́ trước hết phải đạt
đến chỗ hiểu biết. Đạt đến chỗ
hiểu biết nằm ở chỗ trừ khử vật
dục).
Chữ “vật” được nói ở đây chỉ
ḷng tư dục chẳng phù hợp với thiên lư và t́nh
người. Hễ đă có tư dục ắt tri kiến
sẽ lệch lạc, tà vạy, chẳng c̣n ngay thẳng nữa.
Chẳng hạn như kẻ đă yêu vợ, thương
con th́ dù vợ con có hư đốn, kẻ đó cũng
chẳng thấy là hư hỏng. Do tư dục yêu
thương mê mệt ngăn lấp lương tri sẵn
có, nên trở thành sự thấy biết xấu ác, lệch
lạc, tà vạy, bất chánh. Nếu có thể trừ khử
sạch tâm niệm yêu thương mù quáng th́ những chuyện
vợ con đúng hay sai sẽ thấy rơ ngay lập tức.
V́ vậy, biết rằng: Phải thống thiết giảng
[rơ ràng khái niệm] “cách vật”
(trừ khử vật dục), chớ có hiểu lầm “cách vật” nghĩa là thông suốt
cùng tột lư của mọi sự vật trong thiên hạ.
Trừ khử món đồ tư dục trong tự tâm mới
chính là căn bản của việc “làm sáng tỏ Minh Đức”.
Thông đạt tận cùng lư tánh của sự vật trong
cơi đời chỉ là chuyện cành nhánh nhất trong các
chuyện cành nhánh. Lấy chuyện cành nhánh phụ thuộc
nhất làm gốc th́ thiên hạ ắt phải loạn lạc
hết thuốc chữa được! Phật pháp trừ
khử tham - sân - si chính là “cách
vật”. Tu Giới - Định - Huệ chính là “trí tri”. Món vật Tham - Sân - Si
chất chứa trong tâm th́ cũng như đeo cặp kính
màu để nh́n mọi vật sẽ chẳng thể thấy
được màu thật của chúng. Họa hại của
vật [dục] chẳng đáng sợ sao?
Người
niệm Phật cũng đừng ỷ ḿnh thông minh, trí huệ,
mà cần phải vứt bỏ [những điều ấy]
ra tận ngoài biển Đông. Nếu không, e rằng sẽ bị
chúng gây lầm lạc, tự chuốc buồn khổ. Bởi
lẽ, do thấy biết nhiều nhưng không chuyên nhất,
đâm ra chẳng bằng hạng ngu phu, ngu phụ niệm
Phật, chánh tâm, thành ư được hưởng ích lợi
rất nhiều. V́ thế, một pháp Niệm Phật tốt
nhất là phải học theo ngu phu, ngu phụ, [lấy việc]
thật thà tu tŕ làm chánh yếu. Tục ngữ có câu: “Thông
minh phản bị thông minh ngộ” (Thông minh đâm ra lại
bị lầm lạc v́ thông minh), chẳng đáng sợ
sao?
Như bà vợ của
ông Trịnh Bá Thuần, một đệ tử quy y của
tôi ở huyện Bảo Sơn, tỉnh Vân Nam, ăn chay
trường niệm Phật nhiều năm. Người
con trưởng tên Huệ Hồng đă chết vào năm
trước. Bà mẹ do thương con quá nên uống thuốc
độc, trọn không có tướng trạng khổ sở,
ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời. Hơn nữa,
chết rồi sắc mặt sáng nhuận, kinh động
cả một phương. Ông Bá Thuần là bậc lăo nho
đề xướng [niệm Phật], người tin
theo rất ít, nhưng do cái chết của vợ con ông,
mười người đă hết tám, chín người
tin theo. Phàm ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời,
dẫu không bịnh mà thác cũng đă khó có; huống chi uống
thuốc độc chết mà c̣n hiện được
tướng đó, nếu chẳng phải là đă đắc
Tam Muội nên chất độc chẳng thể làm hại
được th́ làm sao hiện được tướng
như vậy? Ông Dương Kiệt[44]
đời Tống, tự là Thứ Công, hiệu Vô Vi Tử,
tham học với thiền sư Thiên Y [Nghĩa] Hoài, đại
ngộ. Sau do cư tang mẹ, đọc Đại Tạng,
hiểu sâu xa sự thù thắng của pháp môn Tịnh Độ
nên tận lực tự hành, dạy người hành. Lâm
chung nói kệ rằng:
Sanh diệc
vô khả luyến
Tử diệc
vô khả xả,
Thái
hư không trung chi hồ giả dă,
Tương
thác tựu thác: Tây Phương Cực Lạc.
(Sanh th́
cũng chẳng tiếc ǵ,
Chết
rồi cũng chẳng bỏ đi đâu nào,
Hư
không hư huyễn sá chi,
Đem lầm
đáp lẫn để về Tây Phương)
Ông
Dương Kiệt sau khi đại ngộ, quy tâm Tịnh
Độ, cực lực đề xướng; đến
lúc lâm chung nói: Trong chân tánh th́ sanh tử như hoa đốm
trong hư không, nhưng do chưa chứng được
chân tánh th́ chẳng thể không chú trọng cầu văng sanh
Tây Phương. “Đem lầm đáp lẫn” nghĩa là nếu
đă triệt chứng chân tánh th́ chẳng cần phải
cầu sanh Tây Phương nữa v́ cầu được
văng sanh vẫn c̣n là lầm lạc! Chưa chứng ngộ
chân tánh th́ phải nên cầu văng sanh Tây Phương, cho nên
mới nói: “Đem lầm đáp lẫn để về Tây
Phương”. Trong tác phẩm Văng Sanh Tập, cuối
truyện ông Dương Kiệt, Liên Tŕ Đại Sư đă
viết bài tán như sau: “Tôi mong những kẻ thông minh
tài trí trong thiên hạ đều có thể thành tựu loại
lầm lạc này. Đấy có thể bảo là thực sự
đại thông minh mà chẳng bị thông minh làm lầm lạc
vậy”.
Như
ông Tô Đông Pha đời Tống, tuy là hậu thân của thiền
sư Ngũ Tổ Giới, luôn mang một bức tranh Phật
A Di Đà theo bên ḿnh, bảo: “Đây là công cứ Tây Phương của
cả đời ta”. Nhưng đến lúc lâm chung, trưởng
lăo Duy Lâm ở Kính Sơn khuyên nhủ đừng quên Tây
Phương, Đông Pha nói: “Dù Tây Phương chẳng phải
là không có, nhưng chẳng thể dốc sức vào đấy
được!” Môn nhân là Tiền Thế Hùng thưa: “Đấy
chính là chỗ tiên sinh thường hành tŕ, hăy nên dốc sức”.
Đông Pha đáp: “Hễ dốc sức vào th́ là sai rồi!” Nói
xong liền mất. Đấy chính là bằng chứng hùng hồn
của chuyện tự lầm lạc bởi thông minh vậy.
Mong quư vị ai nấy đều chú ư.
Pháp môn Tịnh
Độ khế lư, khế cơ, dùng sức ít mà thành công dễ
dàng, như đă căng buồm thuận gió lại c̣n thuận
nước v́ nhờ vào Phật lực. Các tông khác dùng sức
nhiều mà thành công khó khăn giống như con kiến ḅ
lên núi cao v́ hoàn toàn cậy vào tự lực. Đẳng Giác Bồ
Tát muốn cầu viên măn Phật Quả c̣n phải cầu
văng sanh Tây Phương, huống hồ là bọn phàm phu
chúng ta nghiệp căn sâu nặng, sao chẳng dốc sức
vào pháp này? Đấy là bỏ dễ cầu khó, lầm lạc
cùng cực thay!
Hơn nữa,
hiện thời những dụng cụ giết người
trong cơi đời mỗi ngày mỗi mới mẻ, mỗi
tháng mỗi khác biệt, nào là phi cơ, đại bác,
hơi độc, tia sáng chết chóc v.v… Núi, sông chẳng thể
ngăn trở nổi, vật cứng không chống ngăn
được, cái thân máu thịt của chúng ta làm sao
đương cự được nổi? Mạng
người như giọt sương buổi sớm, vô
thường một khi xảy đến, muôn sự đều
thôi. Bởi thế, muốn cầu ĺa khổ được
vui th́ phải nên kịp thời nỗ lực niệm Phật,
cầu Phật gia bị lâm chung văng sanh. Một phen đạt
lên cơi kia, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, hoa nở
thấy Phật, chứng được Vô Sanh, mới chẳng
cô phụ chuyện được nghe pháp này mà tin nhận vậy. Kính mong đại chúng
tinh tấn hành tŕ, đấy là điều tôi rất mong mỏi.
8. Ngày thứ
tám: Pháp hội đă viên
măn, giảng Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện và các
nghĩa lư trọng yếu dành cho người niệm Phật
Hôm nay là
ngày quư vị quy y. Quư vị đă quy y th́ nên hiểu rơ
đạo lư quy y, nay tôi tŕnh bày cùng quư vị. V́ sao quư vị
quy y? Tôi nghĩ nói chung là chẳng ngoài việc muốn cầu
sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử mà thôi! Như thế
nào mới đạt được những mục tiêu
này? Tức
là phải quy y Tam Bảo, nghĩa là quy y Phật, quy y Pháp,
quy y Tăng. Có quy y Tam Bảo, tu tŕ chân thật th́ mới
được liễu thoát sanh tử, văng sanh Tây Phương.
Vả nữa, Tam Bảo vừa nói đó có hai loại là Tự
Tánh [Tam Bảo] và Trụ Tŕ [Tam Bảo].
Tự Tánh Tam Bảo:
* Phật nghĩa là Giác Ngộ. Tự Tánh Phật
chính là Chân Như Phật Tánh ly niệm linh tri sẵn có trong
tự tâm.
* Pháp nghĩa là quỹ phạm (khuôn phép). Tự
Tánh Pháp chính là khuôn mẫu đạo đức, nhân
nghĩa cao quư sẵn có trong tâm.
* Tăng nghĩa là Thanh Tịnh. Tự Tánh
Tăng chính là tịnh hạnh thanh tịnh vô nhiễm sẵn
có trong tâm.
Trụ Tŕ Tam Bảo:
* Lúc đức Phật Thích Ca c̣n tại thế
th́ Ngài là Phật Bảo. Sau khi Phật diệt độ,
tất cả các tượng Phật bằng vàng, bằng
đất, gỗ chạm, tranh vẽ đều là Phật
Bảo.
* Các pháp ly dục thanh tịnh Phật đă giảng,
và các kinh điển sách vàng, trục đỏ đều
là Pháp Bảo.
* Người xuất gia áo thâm, tu các hạnh
thanh tịnh đều là Tăng Bảo.
Quy là quay về, đổ vào, như nước
đổ vào biển, như dân hướng về vua. Y là
nương gởi, như con nương vào mẹ, như
vượt [sông, biển] nương nhờ thuyền. Con
người giữa biển cả sanh tử nếu chẳng
quay về nương nhờ Tự Tánh Tam Bảo và Trụ
Tŕ Tam Bảo th́ không cách ǵ thoát ra được! Nếu chịu
phát tâm chí thành quy y Tam Bảo, tu hành đúng như pháp th́ liền
ra khỏi biển khổ sanh tử, liễu sanh thoát tử.
Như người lỡ chân rớt xuống biển cả,
sóng dữ bủa cuồn cuộn, lo bị ngập mất
đầu. Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, sanh tử tồn
vong ấy, chợt có con thuyền đi đến, liền
đuổi theo, trèo lên. Đấy là nghĩa “quay về, gieo
vào” vậy. Do biết Tự Tánh Tam Bảo, từ đấy
khắc kỷ, phản tỉnh, xem xét, kiêng dè, gắng sức,
lại cầu nơi Trụ Tŕ Tam Bảo và mười
phương tam thế hết thảy Tam Bảo th́ tiêu trừ
được ác nghiệp, tăng trưởng thiện
căn, thành tựu đạo nghiệp ngay trong đời
này, vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử, luân hồi. Giống
như được cứu, leo lên thuyền, ngồi yên
đến bờ. Hung hiểm lúc ấy đă qua, hiện tại
mừng được sống sót. Bởi đó được
vô hạn lợi ích. Đấy chính là ư nghĩa “nương, gởi”
vậy. Việc đời rối ren, phiền năo đau khổ,
sống trong biển cả sanh tử này, hăy nên lấy Tam Bảo
làm thuyền. Chúng sanh được quy y, đẩy chèo,
giương buồm, chẳng lười nhác, chẳng lui
sụt, tự lên được bờ kia!
* Đă quy y Phật hăy nên thờ Phật làm thầy;
bắt đầu từ nay cho đến hết đời,
dốc ḷng chân thành lễ kính, chẳng chịu lười
nhác dẫu chỉ trong một hơi thở. Lại chẳng
được quy y thiên ma, ngoại đạo, tà quỷ,
tà thần.
* Đă quy y Pháp, nên lấy Pháp làm thầy, từ
nay cho đến hết đời, chẳng quy y kinh điển
ngoại đạo nữa.
* Đă quy y Tăng nên lấy Tăng làm thầy,
bắt đầu từ nay cho đến hết đời,
chẳng c̣n quy y đồ chúng ngoại đạo nữa.
Nếu đă quy y Tam Bảo mà c̣n tin tưởng
ngoại đạo, tôn thờ tà ma, quỷ thần th́ tuy hằng
ngày niệm Phật, tu tŕ, cũng khó ḷng được lợi
ích chân thật, v́ tà - chánh chẳng phân, chắc chắn chẳng
có hy vọng liễu thoát sanh tử. Ai nấy nên nghiêm chỉnh
vâng giữ như thế (hai chữ Quy Y giảng xong).
Đă giảng về ư nghĩa Tam Quy rồi, lại
nói đến ư nghĩa Ngũ Giới. Ngũ Giới vừa
được nói đó, chính là: Một là chẳng sát sanh,
hai là chẳng trộm cắp, ba là chẳng tà dâm, bốn là
chẳng nói dối, năm là chẳng uống rượu.
*
Chẳng sát sanh là v́ ta cùng loài vật đều ham sống,
sợ chết giống hệt như nhau. Ta đă ham sống,
há loài vật muốn chết? Nói, nghĩ đến điều
đó, nỡ ḷng nào giết hại? Bởi lẽ, hết
thảy chúng sanh vốn cùng ngang hàng, luân hồi trong lục
đạo, tùy theo nghiệp thiện - ác mà h́nh thể biến
đổi, thăng, giáng, siêu thoát, ch́m đắm, trọn
chẳng lúc nào hết. Ta cùng bọn chúng trong nhiều kiếp
lần lượt làm cha, mẹ, lần lượt làm con
cái. Suy nghĩ như vậy, há c̣n dám sát sanh? Hết thảy
chúng sanh đều có Phật tánh, quả thực chẳng
hai, chẳng khác với tam thế chư Phật. Trong đời
vị lai, đều có thể thành Phật, chỉ v́ sức
ác nghiệp đời trước ngăn lấp khiến
cho Phật Tánh mầu nhiệm sáng suốt chẳng thể
hiển hiện được, ch́m đắm trong dị
loại. [Chúng ta] phải nên dùng ḷng thương xót, ḷng từ
bi để cứu vớt, nỡ nào cắt xẻ thân thể
chúng để no bụng ta? Đời này, bọn ta đă
được làm người chính là do thiện quả
đời trước, phải nên giữ ǵn thiện quả
này khiến cho nó được tỏa rạng rộng lớn,
duy tŕ vĩnh cửu, hăy nên kiêng giết chóc sanh mạng! Nếu
như rộng tạo sát nghiệp ắt sẽ đọa
ác đạo, đền trả nợ cũ, xoay vần giết
hại nhau, đây ch́m, kia nổi, chẳng có lúc hết. Muốn
cầu sanh Tây Phương để tránh khỏi nỗi khổ
luân hồi, sao c̣n dám tạo sát nghiệp ư? V́ thế,
điều đầu tiên cần chú trọng là kiêng giết.
*
Chẳng trộm cắp là khi có được vật ǵ phải
xét xem nó có hợp đạo nghĩa hay không[45], nếu chẳng
cho th́ chẳng lấy. Việc này những ai biết chút
liêm sỉ sẽ đều có thể chẳng phạm,
nhưng con người chẳng phải là hiền thánh, ai
có thể chưa hề phạm? Bởi lẽ, nếu
tư dục dấy lên sẽ dễ bị vật chất
lung lạc. Nếu đối với mối lợi lớn
ở ngay trước mắt mà có thể né tránh giống
như gấp gáp tránh rắn, rết, hoặc kẻ chạy
cuồng đi vội th́ [người như vậy] chẳng
luôn luôn gặp gỡ được! Nói “trộm cắp”
đó chẳng phải chỉ có nghĩa là trộm cắp
tài vật của người khác, mà là ngay trong lúc khởi
tâm, làm việc có khi giống như trộm cắp th́
cũng gọi là trộm cắp vậy. Chẳng hạn, lấy
công giúp tư, tổn người lợi ḿnh, cậy thế
lấy của, dùng mưu đoạt vật, ganh tỵ sự
phú quư của người khác, mong người ta nghèo hèn
đi v.v… đều là trộm cắp cả! Lại
như làm lành phô trương để cầu danh. Nếu
gặp các việc lành, tâm chẳng tích cực, công chuyện
phần nhiều làm quấy quá. Chẳng hạn như lập
trường nghĩa học[46] nhưng chẳng
chọn thầy nghiêm khắc khiến cho con em người
khác bị lầm lạc; thí thuốc men chẳng phân biệt
thật - giả, khiến tánh mạng người khác bị
hại. Phàm thấy nạn gấp, dụ dự chẳng cứu
cho nhanh, lần chần, dùng dằng đến nỗi lỡ
việc. Chỉ luôn lằng nhằng, thiếu trách nhiệm,
chẳng quan tâm đến lợi - hại của người
khác. Những điều giống như thế đều
gọi là trộm cắp! Ḷng mang cái tâm trộm cắp, làm
chuyện trộm cắp th́ xă hội sẽ v́ đó mà rối
beng, thiên hạ cũng chẳng thái b́nh.
V́ vậy, cần phải chú trọng kiêng dè trộm cắp.
*
Chẳng tà dâm: Âm - dương thu hút nhau, muôn vật nhờ
đó mà sanh. Nam nữ lập gia đ́nh là giềng mối
lớn lao của con người. Sanh con đẻ cái, nuôi dạy
nên người, trên liên quan đến phong hóa, dưới
liên quan đến tiếp nối ḍng dơi; cho nên chẳng cấm.
Nếu chẳng phải với người vợ hay chồng
chánh thức lại chung chạ bừa băi, đấy là tà
dâm. Như vậy là trái nghịch lẽ trời, rối loạn
luân thường của con người, sống làm cầm
thú đội mũ mặc áo, chết đọa tam đồ
ác đạo ngàn vạn ức kiếp chẳng thể
thoát khỏi. Nhưng con người do dâm dục sanh ra nên
dâm tâm khó chế ngự nhất. Đức Như Lai dạy
người tham dục nặng nề tu Bất Tịnh
Quán, quán lâu ngày sẽ thấy sắc đâm chán. Lại nếu
có thể tưởng hết thảy nữ nhân ḿnh trông thấy
đều là mẹ, con gái, chị, em, sanh tâm hiếu thuận,
tâm cung kính th́ ác niệm dâm dục không do đâu phát sanh
được! Đấy chính là đoạn trừ cội gốc
của sanh tử luân hồi, là cơ sở, là bậc thềm
để siêu phàm nhập thánh, hăy nên thường kiêng dè.
C̣n như vợ chồng ân ái với nhau vốn chẳng bị
cấm đoán, nhưng cũng cần phải “tương kính như tân”
(kính trọng nhau như khách), nhằm tiếp nối ḍng
dơi để thờ phụng tổ tiên, phải nên giữ
chừng mực, chớ nên chỉ tham cầu khoái lạc
đến nỗi chôn vùi thân mạng! Tuy là với người
phối ngẫu của ḿnh, hễ tham khoái lạc th́ cũng
là phạm giới! Chẳng qua tội
ấy so ra nhẹ hơn [tội tà dâm] thôi! V́ thế, cần
phải đặt nặng chuyện giới dâm.
*
Chẳng nói dối là lời lẽ phải đáng tin, chẳng
dối trá thốt ra. Nếu thấy nói chẳng thấy,
chẳng thấy nói thấy, lấy hư làm thật, lấy
có làm không; phàm hết thảy những chuyện tâm - miệng
chẳng xứng nhau, muốn lừa dối người
th́ đều là “nói dối” cả. Lại nếu tự
ḿnh chưa đoạn Hoặc mà bảo đă đoạn
Hoặc, tự ḿnh chưa đắc đạo mà bảo
đă đắc đạo th́ là đại vọng ngữ.
Tội ấy rất nặng v́ hoại loạn Phật
pháp, khiến cho chúng sanh ngờ vực, lầm lạc, chắc
chắn đọa địa ngục A Tỳ, vĩnh viễn
không có ngày ra. V́ thế, cần phải chú trọng giới
vọng ngữ.
Bốn
điều kể trên gọi là Tánh Giới v́ do thể tánh
của chúng đáng kiêng giữ. Chẳng luận là xuất
gia hay tại gia, thọ giới hay không, hễ phạm phải
đều có tội lỗi. Kẻ chưa thọ giới,
căn cứ trên sự mà luận tội. Người
đă thọ giới, ngoài việc căn cứ trên Sự
để luận tội ra, c̣n kèm thêm tội phạm giới.
V́ thế, bốn điều sát sanh, trộm cắp, tà dâm,
đại vọng ngữ này, hết thảy mọi
người đều chẳng nên phạm. Hễ phạm
đều có tội! Đă thọ giới mà c̣n phạm sẽ
mắc cả hai trọng tội.
*
Chẳng uống rượu là v́ rượu có thể làm
mê loạn ḷng người, hư hoại ḍng giống trí huệ.
Uống vào, rượu làm cho con người điên đảo,
hôn mê, cuồng dại, làm càn những chuyện không biết
hổ thẹn. Phàm là người tu hành trọn chẳng
cho phép uống. Cần biết rằng: Hết thảy vọng
niệm, tà hạnh phần nhiều là do uống rượu
mà nẩy sanh! V́ thế, cần phải chú trọng thêm chuyện
kiêng rượu! Đây là Già Giới (giới ngăn ngừa),
chỉ người thọ giới mắc tội phạm
giới. Người chưa thọ giới th́ uống vào
không bị tội! Nhưng không uống th́ tốt hơn, bởi
nó là căn bản có thể sanh ra các thứ tội lỗi.
C̣n
về Thập Thiện cũng phải nên tuân thủ. Thập
Thiện là chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng
tà dâm; đấy là ba nghiệp của thân. Chẳng nói dối,
chẳng nói thêu dệt, chẳng nói đôi chiều, chẳng
ác khẩu là bốn nghiệp của miệng. Chẳng keo
tham, chẳng nóng giận, chẳng tà kiến là ba nghiệp
của ư. Nếu giữ được chẳng phạm
th́ gọi là Thập Thiện. Nếu phạm chẳng giữ
th́ gọi là Thập Ác. Thập Ác chia ra làm thượng,
trung, hạ, chiêu cảm thân trong ba ác đạo: địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thập Thiện cũng
chia thành thượng, trung, hạ, chiêu cảm thân trong ba
đường lành: trời, người, A-tu-la. Nhân lành cảm
quả lành, nhân ác cảm quả ác, quyết định
không nghi, không hề sai sót! Mười điều lành này
bao gồm hết thảy thiện pháp. Nếu có thể
tuân hành th́ không điều ác nào chẳng đoạn, không
điều thiện nào chẳng tu. Các vị đă quy y, thọ
giới, hăy nên tuân thủ trọn vẹn. Lại c̣n phải
nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, chớ
nên coi thường. Nếu chẳng để ư, đến
khi lâm chung mới cảm thấy là trọng yếu th́ gió
nghiệp đă thổi, chẳng thể tự chủ, hối
cũng chẳng kịp!
Người
học Phật đă hiểu rơ các ư nghĩa Tam Quy, Ngũ
Giới, Thập Thiện rồi th́ hăy dốc hết sức
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
ngăn ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều lành. Điều cần phải chú ư nhất
là làm bất cứ việc ǵ, đều phải dựa
vào thiên lư, lương tâm. Như người làm nghề Y
mà có lương tâm, cứu người [trong cơn] nguy cấp
sẽ tích lũy âm công (âm đức) lớn lao. Kẻ
không có lương tâm có thể sẽ làm cho người bệnh
nhẹ chuyển thành nặng, thừa nước đục
thả câu, táng tận lương tâm, nhất định lănh
ác quả.
Hiếu
liêm Tào Cẩm Đào ở Tô Châu đời Thanh giỏi y thuật,[47] bất cứ bệnh
ngặt nghèo nào, gặp tay ông đều khỏi. Một bữa,
lúc ông sắp ra khỏi cửa, chợt có một người
đàn bà nghèo quỳ ngoài cửa, khóc lóc xin ông chữa bệnh
cho mẹ chồng, than: “Gia cảnh nghèo túng, nghe ngài sẵn
ḷng từ bi, nhất định sẽ đoái hoài đến
trị”. Ông Tào liền đến trị. Đến lúc ông ra về,
dưới chiếc gối của mẹ chồng người
đàn bà nghèo có năm lạng bạc trắng, chẳng biết
đi đâu mất, tưởng ông Tào trộm đi,
người đàn bà bèn đến nhà hỏi. Ông Tào bèn cứ
đúng số đưa cho. Người đàn bà nghèo về
đến nhà, [th́ ra] mẹ chồng đă lấy bạc
ra. Người đàn bà hổ thẹn vô cùng, lại
đem bạc đến trả lại, tạ tội, hỏi
ông: “Sao ngài lại tự đổ hô ḿnh trộm bạc?”
Ông Tào bảo: “Tôi chỉ muốn mẹ chồng bà chóng khỏi
bệnh! Nếu tôi chẳng nhận, mẹ chồng bà ắt
sẽ thêm lo lắng bệnh nặng hơn, hoặc đến
nỗi khó lành bệnh được! V́ thế, chỉ
mong mẹ chồng bà lành bệnh, chẳng sợ người
ta bảo tôi trộm bạc”. Tấm ḷng ông trung hậu, có
thể nói là đến cùng cực, không ai hơn được!
Bởi thế, ông sanh được ba người con: Con
trưởng làm Ngự Y, thọ hơn tám mươi tuổi,
nhà giàu to; con thứ làm Hàn Lâm, làm quan đến chức
Phiên Đài; con thứ ba cũng làm Hàn Lâm, làu thông kinh sử,
chuyên chí trước tác. Cháu chắt đông đảo, nhiều
người hiển đạt. C̣n những kẻ chỉ
mưu kiếm lợi bằng nghề Y, nếu chẳng
tan nhà nát cửa, ḍng dơi tuyệt diệt th́ đă hiếm
hoi lại càng hiếm hoi hơn!
Kinh
Dịch chép: “Tích thiện chi
gia, tất hữu dư khánh. Tích bất thiện chi gia, tất
hữu dư ương” (Nhà tích thiện, niềm vui có
thừa; nhà tích ác, ương họa có thừa), ư nói: Dư
khánh, dư ương báo ứng vào con cháu. C̣n bổn khánh,
bổn ương vận vào chính thân ḿnh. Dư khánh, dư
ương người khác thấy được, c̣n bổn
khánh, bổn ương th́ chính ḿnh ngay trong đời này hay
trong đời kế tiếp, hoặc đời sau phải
hứng chịu, người đời chẳng thể thấy
được. Thiên, địa, quỷ thần, Phật,
Bồ Tát đều thấy biết từng sự rơ ràng. Hăy
nên biết rằng: Bổn khánh, bổn ương so với
dư khánh, dư ương lớn hơn gấp trăm, ngàn,
vạn lần. V́ thế, xin người đời hăy nỗ
lực tu tŕ, ngơ hầu được vui mừng, trừ
ương họa vậy. Ông Tào cam chịu tiếng “trộm
cắp” để cứu tánh mạng người khác, thiện
báo ứng vào con cháu. Nếu chính ḿnh có thể thay cho con cháu
niệm Phật, cầu Tam Bảo gia bị, dạy con cháu
ai nấy cũng ăn chay, niệm Phật th́ thiện báo
sẽ ở tại Tây Phương!
Các
vị đă quy y th́ phải nên cung kính thọ Tam Quy để
làm cái gốc nhằm bỏ tà theo chánh, giữ Ngũ Giới
cẩn thận để làm cái nguồn nhằm đoạn
ác, tu thiện. Phụng hành Thập Thiện để làm cái
gốc nhằm thanh tịnh ba nghiệp Thân, Khẩu, Ư. Từ
đó, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều
lành. Tam nghiệp đă tịnh, rồi có thể tuân tu
đạo phẩm, liễu sanh thoát tử, được
dự vào hội tốt lành nơi Cực Lạc. Thiện
- ác, nhân - quả như bóng theo h́nh, chẳng hề sai lầm.
Thật sự làm như vậy sẽ được lợi
ích thật sự. Nếu mua danh chuốc tiếng, thích nói
cuồng vọng, lừa ḿnh, dối người, tự bảo
đă đắc Phật đạo th́ là đại vọng
ngữ, ắt sẽ mắc ác báo. Người tu hành tâm
địa phải quang minh, ba nghiệp thanh tịnh, công
đức vô lượng. Quán kinh dạy: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư
trưởng, từ tâm không giết, tu Thập Thiện
nghiệp là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế
chư Phật”. Buông dao đồ tể xuống, thành
Phật ở chính ngay nơi ấy, đă có người
làm được như thế. Xin ai nấy hăy gắng
lên.
Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 4
Phần
24 hết
[1]
Nguyên văn “nhị thụ vi
khốn”. Theo Từ Nguyên, Thụ có nghĩa là đứa
trẻ (theo cách viết giả tá mô phỏng ngữ âm thời
ấy). Tương truyền vào thời Xuân Thu, Tấn Cảnh
Công bị bệnh nặng đă lâu không khỏi, nằm mộng
thấy trong thân nhảy ra hai đứa bé con. Một đứa
bảo: “Thầy thuốc giỏi đến rồi đó,
hăy mau trốn đi”. Đứa kia nói: “Hăy núp vào cao hoang, việc
ǵ phải trốn?” Quả nhiên, vua Tần Hoàn Công phái danh y
sang đất Tấn thăm bệnh. Danh y chẩn mạch,
lắc đầu: “Bệnh đại vương đă
vào đến cao hoang, dược lực không có cách nào thấu
tới được”. Chẳng lâu sau, Tấn Cảnh Công
liền chết. Cao Hoang là phần trên tim, phía dưới
hoành cách mô. Do câu chuyện này mới có hai thành ngữ: “Bệnh nhập cao hoang” (bệnh
đă ngặt nghèo tới mức hết thuốc chữa)
và “nhị thụ vi ngược”
(bị hai đứa trẻ hành hạ, ư nói bệnh tật
ngặt nghèo triền miên).
[2]
Trong lời tựa cho tác phẩm Bôi Độ Trai Văn Tập
của cư sĩ Quách Giới Mai (xin xem lời tựa này
trong quyển hai của Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên), tổ Ấn Quang đă viết: “Ấy là v́ muốn độ người nơi biển
cả phiền năo ác nghiệp, phải dùng những lời
hay hạnh đẹp của cổ thánh tiên hiền và sự
lư nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo do
đức Như Lai đă dạy để làm căn cứ,
rồi tùy sự tùy cảnh dùng văn tự của chính
ḿnh để tỏ rơ. Đối với những chỗ
nào chẳng thể dùng lư luận giảng rơ được
bèn dẫn những sự tích xưa nay làm chứng cứ
ngơ hầu kẻ cứng cổ phải quay đầu, kẻ
tánh t́nh buông lung phải sửa đổi cái tâm. Nhưng v́
đạo đức của chính ḿnh nhỏ bé, mỏng
manh, chẳng thể cảm hóa lớn lao, giống như
dùng cái chén (Bôi) để độ (cứu vớt) người
nên chỉ độ được hữu hạn. Đấy
chính là danh xưng tự khiêm. Cần biết rằng: Cái
chén này thuộc loại đại nguyện thuyền của
Như Lai. Chịu lên cái chén ấy sẽ có thể ngay lập
tức lên thẳng thuyền đại nguyện theo chiều
dọc cùng tột ba đời, theo chiều ngang trọn
khắp mười phương, rộng lớn không bờ
bến”.
[3] Hộ Quốc Tức Tai: Bảo vệ
đất nước, chấm dứt tai nạn. Thông
thường pháp hội Hộ Quốc Tức Tai thường
bao gồm những khoa nghi cầu nguyện cho quốc thái
dân an, cầu siêu cho những oan hồn uổng tử. Theo
truyền thống, trong pháp hội này, đại chúng
thường tụng kinh Nhân Vương Hộ Quốc,
Pháp Hoa và Kim Quang Minh, kết thúc bằng nghi thức Diệm
Khẩu hoặc Vô Già Thủy Lục. Đặc biệt trong
pháp hội Hộ Quốc Tức Tai này, tổ Ấn Quang
đề xướng dùng Phật Thất để làm Hộ
Quốc Tức Tai, mở ra một đường lối
Hộ Quốc Tức Tai vừa giản tiện vừa hiệu
quả thiết thực v́ đại chúng chuyên tu, dễ
nhiếp tâm cầu nguyện thay v́ lo tán tụng, xướng
bái quá rềnh rang, dễ sanh ra tâm lư ngại khó, mong làm cho
xong.
[4]
Thập Tín là mười địa vị trong năm
mươi hai địa vị tu học của Bồ Tát
(không kể địa vị Pháp Vân Địa), tức là
mười tâm ban đầu mà Bồ Tát muốn thành Phật
phải tu tập. Trọng tâm của mười tâm này
đặt tại Tín, có công năng thành tựu Tín Hạnh,
nên mười địa vị này gọi đầy đủ
là Thập Tín Tâm, đôi khi c̣n gọi tắt là Thập Tâm.
Có nhiều cách giải thích Thập Tín. Theo Hiền Thánh Danh
Tự Phẩm của kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp
th́ Thập Tín là: Tín tâm (nhất tâm quyết định,
ưa muốn được thành tựu), Niệm tâm
(thường tu sáu niệm, tức niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm
Thiên), Tinh Tấn tâm, Định tâm, Huệ tâm, Giới tâm
(thọ tŕ luật nghi Bồ Tát Giới thanh tịnh, giữ
ba nghiệp thanh tịnh. Hễ phạm lỗi bèn sám hối
thề không tái phạm), Hồi Hướng tâm, Hộ Pháp
tâm (bảo vệ, ngăn ngừa cái tâm, chẳng để
nó khởi phiền năo), Xả tâm (chẳng tiếc thân mạng,
tài sản, bỏ tất cả những ǵ đạt
được), Nguyện tâm. Theo phẩm Bồ Tát Giáo Hóa
trong kinh Nhân Vương Hộ Quốc (bản dịch của
ngài Cưu Ma La Thập) th́ Thập Tín là: Tín tâm, Tinh Tấn
tâm, Niệm tâm, Huệ tâm, Định tâm, Thí tâm, Giới
tâm, Hộ tâm, Nguyện tâm, Hồi Hướng tâm. Kinh Phạm
Vơng lại giảng là Xả tâm, Giới tâm, Nhẫn tâm, Tấn
tâm, Định tâm, Huệ tâm, Nguyện tâm, Hộ tâm, Hỷ
tâm, Đảnh tâm; và gọi chung là Thập Phát Thú Tâm thuộc
về Kiên Tín Nhẫn. Kinh Lăng Nghiêm giảng là Tín Tâm Trụ,
Niệm Tâm Trụ, Tinh Tấn Tâm Trụ, Huệ Tâm Trụ,
Định Tâm Trụ, Bất Thoái Tâm Trụ, Hộ Pháp Tâm
Trụ, Hồi Hướng Tâm Trụ, Giới Tâm Trụ,
Nguyện Tâm Trụ và gọi chung là Thập Tâm Trụ. Tuy
các kinh liệt kê danh tướng hơi sai khác, nhưng xét
về đại thể mười tâm này gần giống
nhau.
[5] Sơ Trụ, gọi đủ là Sơ
Phát Tâm Trụ, tức địa vị đầu tiên của
Thập Trụ (thuộc giai đoạn thứ hai sau khi
viên măn Thập Tín), đôi khi c̣n gọi là Phát Ư Trụ. Theo
kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát trụ địa vị này là người
thiện căn bậc thượng dùng phương tiện
chân thật phát khởi Thập Tín Tâm, phụng hành Tam Bảo,
thường trụ trong tám vạn bốn ngàn Bát Nhă Ba La Mật,
vâng giữ tu tập hết thảy hạnh, hết thảy
pháp môn, thường dấy lên tín tâm, chẳng nẩy sanh
tà kiến, mười tội nặng, ngũ nghịch, tám
thứ điên đảo, chẳng sanh vào chỗ tai nạn,
thường gặp gỡ Phật pháp, học rộng, nhiều
trí huệ, cầu nhiều phương tiện, trụ
nơi địa vị Không Tánh, dùng Không Lư Trí Tâm để
tu tập pháp của chư Phật quá khứ, xuất sanh
hết thảy công đức.
[6] Do thành tựu phàm phu ban đầu nhập
đạo nên gọi là “thành thỉ”, đến địa
vị cuối cùng là Đẳng Giác Bồ Tát vẫn phải
nhờ vào pháp môn này để viên thành Phật đạo
nên gọi là “thành chung”.
[7]
Kiến Hoặc gọi đầy đủ là Kiến
Đạo Sở Đoạn Hoặc (Darśana mārga prahātavyānuśaya). C̣n gọi là Kiến
Phiền Năo, Kiến Chướng, Kiến Nhất Xứ
Trụ Địa. Theo Câu Xá Luận, những kiến chấp
mê muội đối với lư Tứ Đế được
gọi là Kiến Hoặc; c̣n mê chấp nơi hiện tượng
sự vật th́ gọi là Tu Hoặc. Theo đó, Kiến Hoặc
gồm tám mươi tám thứ, gọi chung là Bát Thập
Bát Sử. Về căn bản phiền năo th́ gồm
Ngũ Lợi Sử (Thân Kiến: Chấp trước vào
thân; Biên Kiến: Chấp chặt một bên có hay không,
đúng hay sai, không thấy viên dung; Tà Kiến: thấy biết
tà vạy; Kiến Thủ Kiến: Chấp chặt vào kiến
giải một chiều, không thể chấp nhận những
cách hiểu biết khác; Giới Cấm Kiến: Chấp chặt
vào giới điều, giữ những giới xằng bậy)
và Ngũ Độn Sử (tham, sân, si, mạn, nghi). Mười
Sử này phối hợp với mỗi Đế trong Tứ
Đế và mỗi Giới trong Tam Giới (Dục Giới,
Sắc Giới, Vô Sắc Giới), tạo thành tám
mươi tám thứ Hoặc cần phải đoạn.
Theo
tông Thiên Thai, mê nơi lư của tam giới là Kiến Hoặc,
mê nơi sự tướng gọi là Tư Hoặc (tức
là Tu Hoặc của Câu Xá Luận). Sách Thiên Thai Tứ Giáo
Nghi lại giảng như sau: “Phiền
năo vốn không có thực thể, nhưng lại tưởng
những pháp hư vọng không hề có thật là thật
sự có, nên gọi là Kiến Hoặc. Tham, sân, si… các phiền
năo là những sự tướng duyên theo Ngũ Trần, Lục
Dục, qua sự suy nghĩ mà huyễn giả tồn tại
trong tâm, v́ thế gọi là Tư Hoặc”
[8] Trần Sa Hoặc: Những ǵ thuộc
về Trí nhận biết trên mặt Sự gây chướng
ngại Tục Đế khiến cho sự giáo hóa của
Bồ Tát chẳng được tự tại th́ gọi
là Trần Sa Hoặc. Do chúng nhiều vô lượng nên kinh
luận thường dùng số cát sông Hằng để
sánh ví, v́ thế gọi là Trần Sa Hoặc.
[9] Tam đức bí tạng (kho bí mật ba
đức), tức Giải Thoát, Bát Nhă và Pháp Thân.
[10] Tiếm phận: Vượt phận,
vượt khỏi địa vị chánh đáng. Mật
Tông coi liễu sanh tử là “thành Phật ngay trong đời
này”, chứ chưa phải thật sự là Phật. Do
chưa phải là Phật mà đă tự xưng là Phật
nên bị coi là vượt lạm thân phận đáng nên giữ.
[11] Đây là biến cố xảy ra vào
năm 1932. Nguyên do là vào ngày Mười Tám tháng Giêng năm
1932, năm Tăng nhân Nhật Bản xô xát với người
Trung Hoa tại Tam Hữu Thực Nghiệp Xă ở vùng núi
Mă Ngọc thuộc tô giới Thượng Hải, khiến
cho một người chết, một người bị
trọng thương. Cảnh sát Nhật liền bao vây khu
vực, gây ra t́nh trạng căng thẳng. Đến ngày
Hai Mươi tháng Giêng, năm mươi Nhật kiều lại
phóng hỏa đốt trụi Tam Hữu Thực Nghiệp
Xă đồng thời đánh chết ba cảnh sát người
Hoa. Kiều dân Nhật lại yêu cầu hải quân Nhật
can thiệp, quân phiệt Nhật liền huy động hải
quân, lục quân vây kín Thượng Hải. Chính quyền
Trung Hoa Dân Quốc bắt buộc phải đưa quân
đội đến Thượng Hải đối phó.
Giao tranh nổ ra khốc liệt giữa hai bên vào đúng
ngày Hai Mươi Tám tháng Giêng năm ấy. Cuộc chiến
kéo dài măi đến ngày Ba tháng Ba năm 1932, quân Nhật chiếm
thế thượng phong với quân số áp đảo là
bảy vạn quân, trong khi Trung Hoa Dân Quốc chỉ có
năm vạn quân. Đến ngày Năm tháng Năm, qua sự
môi giới của Anh, Mỹ, Pháp, Ư, hiệp định
đ́nh chiến Tùng Hỗ được kư kết giữa
đôi bên, Trung Hoa phải chấp nhận nhiều điều
kiện thiệt tḥi. Tổn thất rất lớn, 19.700
căn nhà bị phá hủy, số thương vong không thể
đếm xiết!
[12] Thanh Lương Sơn Chí: Sách ghi chép về
sự tích núi Ngũ Đài. Do núi Ngũ Đài băng đọng
ngàn năm, mùa Hạ vẫn có thể có tuyết rơi,
không bao giờ nóng nực, nên được gọi là Thanh
Lương Sơn.
[13]
Chiêu Đề (Catur-diśa): C̣n được phiên là Chiêu
Đấu Đề Xá, dịch nghĩa là Tứ
Phương, hoặc Tứ Phương Tăng, Tứ
Phương Tăng Pḥng, có nghĩa là chúng tăng từ bốn
phương đều có thể nghỉ lại nhà khách của
chùa. Về sau, chữ này dùng để chỉ tài sản
chung của Tăng chúng, mọi người đều có
quyền sử dụng.
[14]
Lư Học là học thuyết giải thích Nho giáo theo quan
điểm của Tŕnh Di và Châu Hy. Học thuyết này cho
Lư là nguyên khởi của vũ trụ (do nh́n từ góc
độ khác nhau mà có danh xưng khác nhau như Trời,
Thượng Đế, Đạo v.v…), Lư là bản tánh trời
sanh của từng cá nhân. Do ḷng ham muốn riêng tư mà con
người quên mất Lư này. V́ thế, phải trừ khử
dục vọng, trở về với Lư gọi đó là “thiên
nhân hợp nhất” (trời - người hợp nhất).
Lư biểu hiện dưới dạng vật chất hữu
h́nh th́ gọi là Khí. Như vậy, Lư của họ chỉ
là vay mượn khái niệm Phật Tánh, Như Lai Tánh, Pháp
Thân của Phật giáo mà thôi! Hoặc nói cách khác, Lư - Khí của
họ chỉ là cách gọi tên khác của chữ Thể và
Dụng trong Phật giáo.
[15]
Nguyên văn “miện lưu” là một thứ mũ lễ
được dùng bởi những bậc quyền quư.
Thường được gọi là măo “b́nh thiên”, có h́nh ống,
đỉnh là một tấm phẳng h́nh chữ nhật
(do vậy, gọi là B́nh Thiên), trước và sau tấm b́nh
thiên có đính các sợi tua kết bằng châu ngọc rủ
xuống trước trán. Theo phần Biện Sư trong
thiên Hạ Quan sách Châu Lễ, Miện của thiên tử có
mười hai tua, chư hầu chín tua, thượng đại
phu bảy tua, hạ đại phu năm tua. Từ đời
Tần Thủy Hoàng trở đi, “miện lưu” chỉ
dành riêng cho thiên tử đội, cấm tuyệt chư hầu,
quan chức sử dụng.
[16] Trong Lư Học, “lương năng” là thuật ngữ chỉ tác
dụng và biểu hiện của Khí.
[17] Nguyên văn là “tập dịch thành cừu”
(góp những miếng da ở dưới nách con cáo may thành
áo cừu).
[18] Hồng Dương: Loạn Thái B́nh
Thiên Quốc do Hồng Tú Tài và Dương Tú Thanh lănh đạo,
nên c̣n gọi là loạn Hồng Dương.
[19] Nguyên văn “Càn vi đại phụ,
Khôn vi đại mẫu”.
[20]
“Thiên chân” có nghĩa là chân lư tự nhiên sẵn có không cần
phải tạo tác. Sách Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng
Quyết, quyển 1, giảng: “Lư không phải tạo tác
th́ gọi là thiên chân”. Như vậy, “thiên chân Phật”
chính là Phật sẵn có trong chân tâm, tức Pháp Thân.
[21]
Tông yếu: Điều quan trọng mấu chốt trong
giáo pháp của các tông. Sách Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa quyển
1 giảng: “Tông yếu nghĩa
là trọng yếu, tức là nhân quả của chính đức
Phật đă hành th́ gọi là Tông. Thế nào là Yếu? Vô
lượng các điều thiện, hễ nói là Nhân th́
đều bao gồm hết. Vô lượng sự chứng
đắc, hễ nói là Quả th́ đều bao gồm hết.
Như giở cái lưới lên, không mắt lưới nào
chẳng động. Nắm một góc áo, không sợi vải
nào chẳng dính theo, nên gọi là Tông Yếu”.
[22] Năng: Đối tượng chủ
thể, Sở: đối tượng thụ động.
Chẳng hạn, chúng ta đọc sách th́ nhăn thức và ư thức
là Năng, cuốn sách được đọc là Sở.
Tịch và Chiếu là hai mặt của chân tâm, chân tâm
thường hằng bất biến, không bị ngoại
duyên nhiễm ô, không bị mất đi dù chúng sanh luân hồi
bao nhiêu kiếp nên gọi là Tịch (vắng lặng). Công
dụng chiếu soi (tức nhận hiểu sự vật
vạn pháp) của Tâm được gọi là Chiếu.
[23] Theo Duy Thức Học, tác dụng của
sáu thức dưới ảnh hưởng của mê hoặc,
vô minh th́ gọi là T́nh, hoặc đôi khi c̣n gọi là T́nh Thức
hoặc T́nh Tưởng. Chữ T́nh này thường
được dùng để chỉ mọi ư niệm phân
biệt, chấp trước đối với sự nhận
thức của sáu căn.
[24]
Trần Lao là tên khác của phiền năo, do phiền năo khiến
cho tâm bị nhiễm ô giống bụi bặm nên gọi là
Trần. Phiền năo khiến cho thân tâm nhọc mệt, không
an ổn nên gọi là Lao.
[25] Đốn siêu địa vị: Vượt
nhanh qua các địa vị, không cần phải tu chứng
từ từ theo từng bậc. Như ngài Quán Thế Âm
nghe đức Thế Tịnh Quang Vương Phật nói
chú Đại Bi bèn vượt thẳng từ Sơ Địa
lên Thập Địa th́ gọi là “đốn siêu địa
vị”.
[26] Phần Đoạn Sanh Tử (c̣n gọi
là Phần Đoạn Tử, hoặc Hữu Vi Sanh Tử)
là sanh tử trong tam giới. Gọi là “phần đoạn”
(có giai đoạn, có thời gian) v́ do quả báo sai khác mà
có h́nh dáng, thọ lượng nhất định. Như vậy
“xuất ly phần đoạn sanh tử” có nghĩa là thoát
khỏi tam giới.
[27] Ngũ Tổ là tên núi, đồng thời
là tên chùa. Sư Giới thiền sư, người thời
Tống, thuộc tông Vân Môn, nối pháp của ngài Song Tuyền
Sư Khoan, trụ tŕ chùa Ngũ Tổ núi Ngũ Tổ tại
Tô Châu, nên thường gọi là Ngũ Tổ Giới, chấn
hưng tông phong mạnh mẽ. Theo Tây Quy Trực Chỉ,
quyển ba: “Thiền sư
Thanh Thảo Đường khá có giới hạnh, tuổi
ngoài chín mươi, thường được nhà họ
Tăng cúng dường hậu hĩ, bèn hứa thác sanh vào
nhà ấy làm con. Sau họ Tăng sinh được một
người con, cho người đến t́m Thảo
Đường th́ Sư đă tọa hóa”. Theo pháp sư
Viên Anh, Thảo Đường Thanh là người đời
Tống, là bậc tông tượng trong nhà Thiền, tuổi
già, thấy vị tể tướng đă cáo lăo hồi
hương hết sức vinh diệu, chợt khởi tâm
niệm hâm mộ, bèn thác sanh vào nhà ấy. Về sau, trở
thành tể tướng Tăng Lỗ Công. Do một tâm niệm
tham luyến mà công hạnh tu Thiền cả đời bị
vứt bỏ!
[28] Gọi là bực thượng v́ thân sau
c̣n chưa lâm vào hoàn cảnh tệ hại lắm. Trong Ấn
Quang Văn Sao, có thuật chuyện vị Tăng ở núi
Nhạn Đăng thân sau trở thành Tần Cối, một vị
Tăng khác trở thành con gái ông Châu Pḥng Ngự. Có nhiều
trường hợp c̣n đọa vào ác đạo nữa!
[29] Tăng thượng mạn (Abhimāna): Đối với giáo lư hoặc
cảnh giới, địa vị tu hành chưa hề có chứng
ngộ mà đă khởi tâm kiêu hănh, ngạo nghễ. Do coi
ḿnh cao hơn người khác nên gọi là “tăng thượng”,
cũng như do tự đề cao ḿnh quá phận nên gọi
là “tăng thượng”.
[30] Điện Thí là vào cung vua dự thi
dưới sự chứng kiến của vua. Theo thể lệ
thời Minh – Thanh, thi cử gồm ba giai đoạn:
Hương Thí, Hội Thí, và Điện Thí. Do thi trong cung
vua (thường là điện Thái Ḥa) nên gọi là Điện
Thí (hoặc Đ́nh Thí), người Việt thường gọi
là thi Đ́nh. Trong khoa thi này, người đậu đầu
gọi là Trạng Nguyên, người thứ hai gọi là Bảng
Nhăn, người thứ ba là Thám Hoa. Ông Trương không dự
vào ba hạng này, chỉ đỗ Tiến Sĩ, được
vua cho xướng danh trong sân chầu nên Tổ nói ông đậu
Truyền Lô. Truyền Lô gọi đủ là “kim điện truyền lô”
(xướng danh trong điện vàng), tức là hai ngày sau
khi yết bảng ghi danh các sĩ tử thi đậu, các
vị tân khoa tiến sĩ sẽ được triệu
tập vào điện Thái Ḥa, được nội quan
xướng danh đến trước mặt vua lạy tạ
và được vua ban thưởng ngự tửu, đăi
yến.
[31] Hồi tộc là sắc dân thiểu số
của Trung Hoa, sống chủ yếu tại các tỉnh
Thanh Hải, Cam Túc, Hà Nam, Hà Bắc. Thật ra họ gồm
nhiều sắc dân khác biệt có nguồn gốc từ
Trung Á, Tây Á, chủ yếu là gốc Ả Rập, di cư
đến Trung Hoa. Do họ theo đạo Hồi nên
người Hán thường gọi chung họ là Hồi tộc,
hoặc Hồi Hồi.
[32] Theo sách Quần Ngọc Chú, Tỉnh Lang
đến văn cảnh chùa Nam Huệ Lâm, nằm chơi, chợt
ngủ thiếp đi, thấy hồn ḿnh đến Bồng
Lai. Nơi đó có một vị Tăng đang tụng
kinh, trước mặt có một nén nhang đang cháy. Hỏi
đến nguyên do, vị Tăng cho biết cây nhang ấy
do một người đàn-việt thắp lên để
khấn nguyện, cầu phước, nhang chưa cháy hết
mà người thắp nhang đă chuyển kiếp ba lần.
Lần thứ nhất làm Đường Huyền Tông, lần
thứ hai làm Đường Hiến Tông, lần thứ ba
chính là Tỉnh Lang. Do đó, về sau từ ngữ “tam sinh hương hỏa” thường
dùng để chỉ lời nguyền có hiệu lực
đến ba đời.
[33] “Đoạn trường”: Ư nói vô cùng
đau xót, như đứt từng khúc ruột. Theo điển
tích cổ, vua Sở đi săn thấy vượn con bị
bắn chết, vượn mẹ trông thấy ôm con kêu khóc
rồi chết, mổ bụng ra xem thấy ruột nó
đứt thành từng khúc. Do đó cổ văn thường
dùng chữ “đoạn trường” để diễn tả
nỗi đau xót.
[34] Cù Đường (c̣n gọi là Quỳ
Hiệp, tức khe quỷ) là tên một kẽm núi hiểm
trở, quanh co trên sông Dương Tử ở tỉnh Tứ
Xuyên. Kẽm núi này dài đến 8 km, từ huyện Phụng
Tiết cho đến thành Bạch Đế. Thế nước
chảy xiết, rất nguy hiểm khi phải vượt
qua.
[35]
Vô Cơ Tử là biệt hiệu của sư Phổ Nhuận,
cao tăng tông Thiên Thai, sống vào đời Nam Tống.
Ngài họ Quách, pháp tự là Thiên Thụy. Xuất gia năm
bảy tuổi với ngài Từ Hạnh Phưởng, chín
tuổi xuống tóc. Năm mười tuổi bắt
đầu học giáo nghĩa Thiên Thai với ngài Thông Chiếu.
Về sau, trụ tŕ chùa Đại Giác ở Tùng Giang,
được vua ban hiệu Phổ Nhuận Đại
Sư.
[36]
Ngoại Phàm là địa vị trước khi đạt
đến địa vị Kiến Đạo. Ngũ
Đ́nh Tâm Trụ, Biệt Tướng Niệm Trụ,
Tương Tục Niệm Trụ của Thanh Văn
được gọi là Ngoại Phàm. Ngay cả địa
vị Phục Nhẫn trong Thập Tín trong Đại Thừa
vẫn thuộc Ngoại Phàm. Đại Thừa Nghĩa
Chương, quyển 17 giảng: “Gọi là Ngoại Phàm v́ họ c̣n hướng ngoại
cầu lư, chưa dứt tướng để hướng
vào trong duyên theo chân tánh. Do chưa đoạn được
cái thân phần đoạn trong lục đạo nên gọi
là Phàm”. Nói chi tiết hơn, trong Tạng Giáo th́ những
địa vị thuộc Hiền Vị như Ngũ
Đ́nh Tâm v.v… là Ngoại Phàm, trong Thông Giáo th́ cho đến
Càn Huệ Địa đều là Ngoại Phàm, Biệt
Giáo coi từ Sơ Quả cho đến Thập Tín đều
là Ngoại Phàm, c̣n Viên Giáo coi Quán Hạnh Ngũ Phẩm là
Ngoại Phàm. Tổ Ấn Quang đă giải thích chữ Nội
Phàm theo giáo nghĩa Viên Giáo.
[37] Đă viên măn mười Tín tâm th́ gọi
là Thập Tín hậu tâm, tức là đă chuẩn bị tiến
vào địa vị Sơ Trụ.
[38] Hương kính: Tiền cúng dường
khi cầu quy y thọ giới. Gọi là “hương kính” với
ngụ ư cúng cho vị thầy chút tiền để thầy
có tiền mua nhang đèn cúng Phật.
[39] Đường - Ngu là thời Nghiêu -
Thuấn. Vua Nghiêu họ là Y (hay Y Kỳ), tên là Phóng Huân, thuộc
thị tộc Đào Đường Thị, sử thường
gọi tắt Đường Nghiêu. Vua Thuấn họ Ngu,
tên Trọng Hoa, thuộc thị tộc Ngu Thị, sử gọi
là Ngu Thuấn. Đây là thời thạnh trị Tam Hoàng
Ngũ Đế theo truyền thuyết Trung Hoa.
[40] Tam Đại là ba đời vua thánh
theo truyền thuyết Trung Hoa: vua Nghiêu, vua Thuấn, vua
Đại Vũ.
[41]
Thập Cửu Lộ Quân là một cánh quân của quân đội
Trung Hoa Dân Quốc, tương đương với cấp
quân đoàn. Tiền thân mang tên Việt Quân Đệ Nhất
Sư (sư đoàn thứ nhất của tỉnh Quảng
Đông), năm 1926 đổi tên là Quốc Dân Cách Mạng
Quân Đệ Tứ Quân (quân đoàn thứ tư của
quân đội cách mạng Trung Hoa Dân Quốc). Khi quân đội
Trung Hoa Dân Quốc tiến hành Bắc Phạt (dẹp tan
các tướng lănh quân phiệt xưng hùng ở miền Bắc
Trung Hoa), Đệ Tứ Quân lập rất nhiều chiến
tích. Năm 1930, do quân số ngày càng lớn mạnh, nhất
là sư đoàn thứ mười một của Đệ
Tứ Quân đă giúp cho Tưởng Giới Thạch
đánh thắng được Phùng Ngọc Tường và
Diêm Tích Sơn nên đă được đổi tên thành Thập
Cửu Lộ Quân, do đích thân Tưởng Giới Thạch
chỉ huy.
[42] Khắc kỷ: Nghiêm khắc với bản
thân, không cho phép bản thân ḿnh dễ dăi với bất cứ
tập quán ươn hèn, sai trái nào.
[43] Nguyên văn: “Tứ
Xuyên hương quư tiện?” Câu này có thể hiểu hai
nghĩa: “Ngài Đạo Hương ở Tứ Xuyên
được quư trọng hay bị coi thường?”
Nghĩa thứ hai là “nhang ở Tứ Xuyên mắc hay rẻ?”
Người nghe hiểu theo nghĩa thứ hai nên nói “rất
rẻ”.
[44]
Dương Kiệt là người huyện Vô Vi (tỉnh An
Huy), nên lấy hiệu Vô Vi Tử, có tài văn chương
lỗi lạc, đỗ đạt ngay trong tuổi thiếu
niên. Thích học Thiền, đă tham học khắp các vị
tôn túc đương thời. Khi yết kiến Thiên Y
Nghĩa Hoài, Sư đă đem những câu chuyển ngữ
của Bàng cư sĩ ra gạn hỏi. Một hôm đến
núi Thái, thấy mặt trời to như cái mâm đang mọc
bèn đại ngộ. Tŕnh kiến giải lên Nghĩa Hoài
được hứa khả. Sau ông lại gặp ngài Phù
Dung Đạo Giai thưa hỏi lẽ Thiền. Dưới
đời Tống Thần Tông, ông xin cáo quan về làng phụng
dưỡng mẹ, ẩn cư đọc hết Đại
Tạng Kinh, bèn liễu giải, quy tâm Tịnh Độ. Từ
đấy chuyên tu Tịnh nghiệp, từng vẽ một
bức tượng Di Đà cao đến một trượng
sáu để lễ bái, quán tưởng. Lâm chung cảm Phật
đến rước, ngồi ngay ngắn, an nhiên qua đời.
Ông trước tác các bộ Thích Thị Biệt Tập, Phụ
Đạo Tập v.v…
[45] Nguyên văn là “kiến đắc tư nghĩa”. Chúng tôi dịch
theo cách diễn giải của Tứ Thư Bạch Thoại
Giải. Khổng Tử c̣n nói thêm: “Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo” (quân
tử [tuy] chuộng của cải, nhưng lấy [của
cải phải] đúng với đạo nghĩa).
[46] Trường nghĩa học: Trường
miễn phí mở ra để dạy dỗ con cái người
nghèo, hoặc côi cút.
[47] Nguyên văn: “tinh ư Kỳ Hoàng”.
Kỳ là Kỳ Bá, Hoàng là Hoàng Đế. Kỳ Bá là một
y sư trứ danh theo truyền thuyết, ông rất tinh
thông y thuật nên được Hoàng Đế thờ làm
thầy. Hoàng Đế chính là một trong ba vị thánh
đế vương thời cổ (Tam Hoàng là Phục Hy,
Thần Nông và Hoàng Đế). Hoàng Đế cũng tinh
thông y thuật. Thần Nông được coi là tổ nghề
thuốc, c̣n Kỳ Bá được coi là tổ nghề Y.
Tác phẩm căn bản của y học cổ truyền
Trung Hoa là bộ Hoàng Đế Nội Kinh ghi chép những
đối đáp về y lư giữa Hoàng Đế và Kỳ
Bá. Ngoài ra, theo thư tịch cổ Trung Hoa, những lời
dạy khác về y học của họ c̣n được
chép trong những bộ sách nay đă thất truyền
như Kỳ Bá Hoàng Đế Án Ma, Kỳ Bá Kinh, Kỳ Bá Cứu
Kinh, Kỳ Bá Châm Kinh, Hoàng Đế Kỳ Bá Luận, Kỳ
Bá Ngũ Tạng Luận v.v…