Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,

Quyển Hạ

Phần 3

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo Chánh: Tịnh nghiệp hành nhân Minh Tiến & Huệ Trang

 

52. Lời tựa trình bày duyên khởi của Tịnh Niệm Liên Xã tại trấn Hợp Hưng, thành phố Phụ Ninh

(năm Dân Quốc 24 - 1935)

 

      Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, thích hợp khắp ba căn, hoàn toàn thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn. Bậc Đẳng Giác Bồ Tát sắp thành Phật chẳng thể vượt ra ngoài pháp này được; tội nhân Ngũ Nghịch, Thập Ác sắp đọa địa ngục cũng có thể dự vào trong ấy. Là con đường tắt để chúng sanh lìa khổ, thỏa thích bản hoài xuất thế của Như Lai. Vì thế, [pháp này] được vãng thánh tiền hiền, người người hướng về, ngàn kinh muôn luận chốn chốn chỉ quy. Xét từ khi đại giáo truyền sang phương Đông, Viễn Công mở Liên Xã đầu tiên, bậc cao Tăng, đại Nho dự hội gồm một trăm hai mươi ba người. Nếu xét trọn cuộc đời Ngài, trong hơn ba mươi năm những người tham gia Liên Xã tu Tịnh nghiệp được vãng sanh khi báo thân đã tận làm sao đếm xuể? Từ đấy trở đi, đời nào cũng có cao nhân hoằng dương truyền bá rộng khắp trong nước, ngoài nước. Tri thức các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật hoặc chuyên chú ngầm tu, hoặc còn tán dương rõ rệt, đều lấy Tịnh Độ làm chỗ quy túc, vì đây là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh.

Gần đây, thế đạo nhân tâm đắm chìm đến cùng cực, những vở tuồng xấu ác như phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, không thẹn, giành đất, tranh thành, tàn sát lẫn nhau, mỗi mỗi đều diễn ra, đến nỗi thiên tai, nhân họa liên tiếp giáng xuống, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống! Người có lòng lo cho thế đạo đua nhau đề xướng Phật học, nêu tỏ nhân quả ba đời, chỉ rõ luân hồi lục đạo, chỉ ra Phật Tánh sẵn có, tu Tịnh nghiệp niệm Phật để mong đẩy lùi cơn sóng cuồng loạn, khôi phục phong hóa thuần phác, lập Cư Sĩ Lâm, Tịnh Nghiệp Xã v.v… ở các nơi để làm phương cách cứu vãn. Nếu không, đạo làm người gần như bị diệt mất!

Cư sĩ Thí Nguyên Lượng ở Hải Môn, ngụ cư[1] ở Phụ Ninh, khai khẩn đất hoang, thương người đời muốn tu Tịnh nghiệp nhưng khổ vì không có người biết pháp, rốt cuộc đi theo các thứ ngoại đạo luyện đan vận khí để cầu trường sanh và thành Đại La thần tiên, ăn trộm những câu nói trong kinh Phật để chứng tỏ đạo của chính mình là Phật pháp chân truyền, như kẻ ngu coi mắt cá là chân châu, thật đáng thương xót! Nhưng Phật pháp mênh mông, chẳng tranh với người. Nếu có thể tận lực tu trì chánh pháp, chắc chắn sẽ có ngày bọn họ nghe biết thanh danh rồi dấy lòng cải tà theo chánh. Phàm những người tham dự Liên Xã, ắt đều phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, dùng tín nguyện chân thành trì danh hiệu Phật, quyết chí cầu sanh thế giới Cực Lạc. Dùng pháp này để tự hành, lại đem giáo hóa người khác để trong là cha mẹ, anh em, vợ con, ngoài là xóm giềng, thân thích, bè bạn đều cùng được gội [ân] Phật giáo hóa, đều cùng tu Tịnh nghiệp, cùng trong đời này được nương theo Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, ngõ hầu chẳng phụ một phen thành tâm dự vào Liên Xã ngày hôm nay.

Phải biết: Pháp môn Niệm Phật lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm Tông. Điều quan trọng của Niệm Phật là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Muốn “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” thì bất luận đi - đứng - nằm - ngồi hãy thường niệm Phật hiệu, hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, đều cần phải lắng nghe tiếng niệm Phật của chính mình. Nếu làm được như thế thì nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước cao, phàm làm bất cứ điều gì đều thuận lợi. Đối với những nghề nghiệp sĩ - nông - công - thương chẳng những hoàn toàn không trở ngại gì mà còn có thể khơi mở tâm linh nơi nghề nghiệp của chính mình; do vì tâm không tán loạn sẽ tự chủ trong công việc. Như [đối trước] mọi lẽ rối ren, nếu tâm thần ngưng lặng sẽ [giải quyết] dễ dàng; nếu tâm thần chao động sẽ gặp khó khăn. Do vậy, những bậc lập đại công, dựng đại nghiệp thuở xưa, công huân trùm bốn biển, ngôn hạnh lưu lại ngàn thu, đều là do học Phật đắc lực mà ra!

 

53. Lời tựa cho sách Niệm Phật Khẩn Từ

 

      Pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, thích hợp khắp ba căn, bình đẳng nhiếp thọ phàm lẫn thánh. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài, dưới là tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cũng có thể dự vào trong số ấy. Dạy dỗ không phân biệt, hễ ai sanh chánh tín đều được lợi ích thật sự, hoàn thành ngay trong đời này. Kẻ trọn đủ Phiền Hoặc vẫn dự vào dòng thánh. Dường như biển cả dung nạp khắp trăm sông, như thái hư chứa khắp muôn hình tượng. Nếu Như Lai chẳng lập ra pháp này thì chúng sanh đời Mạt ai có thể đoạn Phiền Hoặc để liễu sanh tử, thoát Ngũ Trược, vượt khỏi tam giới? Ấy là vì hết thảy pháp môn đều phải nương vào đạo lực Giới - Định - Huệ để đoạn Phiền Hoặc tham - sân - si. Nếu đạt đến mức có sức Định Huệ sâu, đoạn sạch được Phiền Hoặc thì mới có phần liễu sanh tử! Nếu chưa thể đoạn sạch Phiền Hoặc, dẫu cho anh có đại trí huệ, có đại biện tài, có đại thần thông, biết được quá khứ, vị lai, muốn đi liền đi, muốn đến liền đến, vẫn chẳng thể liễu thoát được; huống chi những kẻ kém cỏi hơn ư? Cậy vào tự lực để liễu sanh tử sẽ khó lắm, thật khó như lên trời vậy!

Nếu nương theo pháp môn Niệm Phật, sanh lòng tin phát nguyện niệm thánh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, bất luận xuất gia hay tại gia, sĩ, nông, công, thương, già, trẻ, trai, gái, sang, hèn, hiền, ngu, chỉ cần nương theo giáo pháp tu trì, đều có thể nương vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Hễ được vãng sanh thì Định - Huệ chẳng mong được mà tự được, Phiền Hoặc chẳng mong đoạn mà tự đoạn. Thân cận Di Đà, thánh chúng, vẫy vùng nơi đất vàng, ao báu. Nương theo duyên thù thắng ấy để trợ thành đạo nghiệp, để những người đới nghiệp vãng sanh sẽ lên thẳng [địa vị] Bất Thoái, những vị đã đoạn được Hoặc vãng sanh sẽ mau chứng Vô Sanh. Đấy toàn là cậy vào đại bi nguyện lực của A Di Đà Phật và sức tín nguyện niệm Phật của chính người ấy, cảm ứng đạo giao mà được lợi ích lớn lao ấy; so với kẻ chuyên cậy vào tự lực thì khó - dễ khác biệt vời vợi như trời với đất.

Nhưng thường có kẻ ngu cam phận kém hèn, chẳng dám gánh vác. Cũng có kẻ học đạo tự xưng là Đại Thừa, nghĩ [pháp này] chẳng xứng để tu tập. Nếu biết kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác khi lâm chung tướng địa ngục hiện, được bạn lành dạy Niệm Phật, chưa đủ mười tiếng đã được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương thì kẻ cam phận kém hèn sẽ dấy lòng [tu trì]. Kinh Hoa Nghiêm là vua cả Tam Tạng, trong chỗ quy tông cuối cùng [của bộ kinh ấy], Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương, khuyên Thiện Tài và khắp Hoa Tạng hải chúng nhất trí tiến hành cầu sanh Tây Phương để mong viên mãn Phật Quả. Sao lại dám coi pháp môn này là Tiểu Thừa? Huống chi Thiện Tài đã chứng Đẳng Giác, hải hội [thánh chúng] đều chứng Pháp Thân, các vị ấy còn cầu sanh, ta là hạng người nào mà [nghĩ pháp này] chẳng xứng để tu tập? Chẳng những dựng cao tràng kiêu mạn mà còn là hủy báng kinh Hoa Nghiêm. Muốn phô trương hư danh Đại Thừa, đích thân tạo cái họa báng pháp cùng cực vậy!

Nếu kẻ ấy một hơi thở ra không hít vào được nữa, cảnh giới Hoa Tạng thế giới chẳng thể nghĩ bàn vốn thường mong mỏi đều biến thành cảnh khổ A Tỳ địa ngục, chịu đựng đầy ắp [những hình phạt] để đền cái lỗi thuyết pháp trái nghịch kinh điển, tự lầm, lầm người. Đến khi nghiệp báo sắp mãn, mới tỉnh ngộ, liền phát tâm niệm Phật, liền được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Khổ thay! May mắn thay! Nguyện những ai học Đại Thừa đều dự ghé vào Hoa Tạng hải hội thì tự lợi, lợi người cũng lớn lắm. Phàm những ai tu pháp môn Niệm Phật thì phải chú trọng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, khuyên khắp những người cùng hàng cầu sanh Cực Lạc. Nếu làm được như thế thì “vạn người tu, vạn người đến”, quyết chẳng sót một ai!

Ông Trịnh Bá Thuần ở huyện Bảo Sơn tỉnh Vân Nam là bậc học rộng ngầm tu, thoạt đầu nghiên cứu kinh Dịch để mong hiểu thấu gốc đạo của Nho giáo, tiếp đó nghiên cứu cặn kẽ nguyên ủy kinh điển luyện đan để mong hiểu được bí quyết chân thật của thuật bảo vệ tánh mạng. Sau đấy, lại bỏ đạo luyện đan để tham Thiền, biết tự lực chẳng bằng Phật lực, cuối cùng chuyên tu pháp môn Niệm Phật, miệt mài lấy việc “mình lẫn người đều cùng sanh Tây Phương” làm chí hướng, sự nghiệp, gởi thư xin quy y, liền được pháp danh là Đức Thuần. Ấy là vì pháp môn Niệm Phật tuy nhiếp khắp các pháp Thiền, Giáo, Luật, Mật, nhưng tu trì nơi địa vị phàm phu cố nhiên phải lấy thuần nhất không tạp làm gốc. Ông ta còn phát khởi đại tâm mạnh mẽ, muốn lợi lạc khắp những người cùng hàng, do vậy bèn soạn cuốn Niệm Phật Khẩn Từ để mong trí hay ngu đều biết rõ. Lời lẽ tuy nông cạn, gần gũi, nhưng lý thật sâu xa, như cái mốc chỉ lối cho người đi đường, như kim chỉ nam cho người đi biển; nương theo đó mà hành sẽ có thể về đến quê cũ, lên được bờ kia. Do vậy, tôi bèn trình bày duyên do Tự Lực và Phật Lực ngõ hầu những ai thấy - nghe đều tu trì vậy.

 

54. Lời tựa cho tác phẩm Kỷ Văn Đạt[2] Công Bút Ký Trích Yếu (Trích yếu bút ký của ông Kỷ Quân)

 

      Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Nếu chẳng đề xướng nhân quả thì thiện chẳng có gì để khuyên, ác không có gì để phạt. Chỉ có bậc đại hiền mới có thể giữ phận tuân đạo, những kẻ khác ai có thể cam lòng chẳng phóng túng tình ý cho sướng khoái một đời ư? Do đã không có “nhân trước, quả sau” thì hễ chết đi sẽ vĩnh viễn diệt mất, Nghiêu hay Kiệt đều chết hết sạch, sao lại không dây tự buộc, khư khư theo lễ giữ phận để đến nỗi mọi việc đều chẳng được tự tại ư? Trong kinh sử Nho Giáo, sự lý nhân quả nhiều không xiết kể! Tiếc rằng những nhà Nho sau này chẳng chịu suy xét sâu xa, thường thấy kinh Phật nói đến nhân quả tường tận, bèn muốn [ra vẻ] khác biệt với tông chỉ nhà Phật, ngược ngạo bảo những gì đức Phật đã nói đều là hư vọng, chẳng biết là đã trái nghịch thánh đạo, diệt thiên lý, chôn vùi cái gốc bình trị, hưng khởi đầu mối loạn lạc, gây nghi ngờ, lầm lạc cho người đời sau, chôn vùi đạo thể, [những chuyện ấy] đều là do những lời lẽ này tạo ra nền tảng vậy, chẳng đáng buồn ư?

Từ khi có nhà Thanh đến nay, trong số những người bác học đa văn thì tiên sinh Giang Thận Tu là bậc nhất. Tiếp đó là ông Kỷ Văn Đạt, rồi đến ông Viên Tử Tài. Họ Giang là bậc quân tử ẩn dật cùng lý tận tánh, tuy chưa nghiên cứu Phật học, nhưng đối với Phật pháp cũng chẳng bài bác, lại còn tin sâu nhân quả báo ứng. Vì thế, đối với những quả báo do bảo vệ sanh mạng hay sát sanh, ông đều ghi chép hết để mong khơi gợi thiện niệm, dứt cơ duyên giết chóc. [Từ những điều này] có thể biết được cách suy nghĩ của ông ta. Viên Tử Tài thoạt đầu báng Phật, nhưng từ tuổi trung niên trở đi, do lịch duyệt ngày càng sâu, liền sanh lòng chân tín đối với Phật pháp. Chỉ vì cuồng vọng tự đại, lười nhác, biếng trễ, không chịu thân cận cao nhân, lắng lòng nghiên cứu, tuy những sự tích cảm ứng trong Phật pháp ông ta đều sao chép, nhưng những gì ông ta bàn luận khó thể hợp lý, thích đáng được! Ông Kỷ Văn Đạt từ bé đến già dốc lòng tin tưởng nhân quả, hễ được thấy nghe những sự tích nhân quả nào đều ghi chép hết, trình bày cặn kẽ, sáng sủa, văn bút thông suốt. Do ông ta hoàn toàn chưa từng nghiên cứu Phật pháp nhưng cứ thường muốn bàn bạc thông suốt lý sâu nên có khi bị mâu thuẫn thật nghĩa.

Phật nói “thế trí biện thông, khó thể nhập đạo”, ba ông Giang, Kỷ, Viên học rộng mà vẫn chẳng biết “Phật pháp chính là tâm pháp nơi chính mình” để rồi chuyên tinh nghiên cứu, hòng đích thân chứng được, chẳng đáng tiếc quá ư? Nếu họ bỏ chút thời gian rảnh rỗi, nghiên cứu đại lược, lẽ đâu chẳng phát đại Bồ Đề tâm, chuyên tinh dốc sức, hoằng dương đại pháp để mong ta lẫn người đều cùng thoát khổ luân, đều cùng thành giác đạo, lẽ nào chỉ ghi chép sự tích nhân quả để mở ra một con đường hướng thiện cho người đời mà thôi! Nhưng những sao chép ấy thật sự có lợi ích lớn lao. Vì thế, cư sĩ Trần Địch Châu trích lục một trăm thiên từ bộ Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký[3], tính in ra để phổ biến lưu thông hòng làm tấm gương xét soi cho những kẻ không biết nhân quả trong cõi đời.

Nhân quả giống như bóng theo hình, tiếng vọng đi theo âm thanh. Chưa hề có hình mà không có bóng, có âm thanh mà chẳng có tiếng vọng vậy. Vì thế, kinh Thư nói: “Huệ địch cát, tùng nghịch hung, duy ảnh hưởng”. (Thuận theo đạo lý thì tốt, trái nghịch thì xấu, giống như bóng theo hình, như tiếng vọng đi theo âm thanh vậy). Những kẻ bàn chuyện cao xa, cho nhân quả là hư huyễn, khác gì chấp rằng “mẹ quyết chẳng thể sanh được con, con quyết chẳng phải do mẹ sanh ra” ư? Trong đời nếu có kẻ như vậy, ắt bị người ta coi là điên khùng! Rất lạ là nhà Nho đọc sách thánh hiền, chẳng lấy ngôn luận của thánh hiền làm chuẩn, chẳng lấy sự thật xưa nay làm chuẩn, cứ lấy sự thiên chấp, cái nhìn lầm lạc của chính mình làm chuẩn! Một người xướng, mọi người hùa theo, kẻ mù dẫn lũ đui kéo nhau vào lửa, đến nỗi thế đạo nhân tâm ngày một đi xuống, đến nỗi phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, không hổ thẹn, giành đất, tranh thành, tàn sát lẫn nhau mà vẫn nhơn nhơn tự đắc, cho là ta chú trọng quay về đại đạo, chẳng bắt chước bọn hủ bại đời trước cứ luôn luôn câu nệ, trói buộc, khiến cho con người suốt đời chẳng thể tùy ý làm được gì, [nay] ai nấy đều được tự tại! Từ nay trở đi chúng ta cùng được hưởng hạnh phúc, tự do, nghĩ đến điều gì đều làm được cả! Cõi đời may sao có bọn ta cải cách, con người may sao được sống cùng thời bọn ta! Tà thuyết như vậy đều do những kẻ bài xích nhân quả ươm thành!

Nếu như lý nhân quả được nhà nhà khuyên dạy, giảng giải, cha mẹ dùng đó để dạy con cái, sư trưởng dùng đó để giáo huấn học trò thì có ai chịu diệt lý, rối luân thường, hiện dáng vẻ xấu xí trước gương sáng nữa ư? Chỉ vì bậc đại Nho trong cõi đời thường hay bài xích, kẻ tiểu Nho dẫu biết là sai mười mươi đi nữa, cũng chỉ đành người ta nói sao ta cũng ừ vậy, để khỏi bị mọi người chõ miệng chê bai, khích bác! Nơi trường học đã như vậy thì trong gia đình càng không có lý do gì để bàn đến. Rốt cuộc đến nỗi những kẻ theo tân học hoàn toàn vứt bỏ nhân luân, diệt thiên lý, muốn cho [con người] hoàn toàn chẳng khác gì cầm thú! Mối họa ấy chẳng quy vào những kẻ bài xích nhân quả thì còn quy vào ai đây? Lành thay lời nói của tiên sinh Châu An Sĩ: “Người người đều biết nhân quả, đấy là đạo để bình trị lớn lao; ai ai cũng chẳng biết nhân quả, đấy là con đường đưa đến đại loạn”. Tôi thường thương cõi đời rối ren, nhưng không sức cứu vãn, do lời thỉnh của Trần cư sĩ bèn trình bày đại lược cội nguồn lợi - hại như thế đó.

 

55. Lời tựa lưu thông sách Lịch Triều Danh Họa Quán Âm Thánh Tượng Kha La Bản Ấn

(năm Dân Quốc 27 - 1938)

      

      Quán Thế Âm Bồ Tát thành Phật đã lâu trong vô lượng kiếp trước, hiệu là Chánh Pháp Minh, an trụ trong Tịch Quang Tịnh Độ, thường hưởng pháp lạc chân thường, nhưng do Bi tâm vô tận, Từ thệ chẳng cùng, lòng cứu khổ ân cần, niệm độ sanh tha thiết, nên lại chẳng lìa Tịch Quang, hiện hình trong chín giới. Trong các cõi Phật nhiều như số vi trần trong mười phương, hiện khắp các sắc thân, tầm thanh cứu khổ; nhưng đối với thế giới Sa Bà, càng thương xót sâu đậm hơn. Có những kẻ nào thiện căn chưa gieo, chưa chín muồi, chưa độ thoát, liền dạy họ gieo, khiến cho chín muồi, khiến cho độ thoát, nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy thuyết pháp. Những thân đã hiện, những pháp Ngài đã nói mỗi mỗi tùy thuận cơ nghi, trọn chẳng nhất định, nhưng hiện tiền được lìa mọi khổ, tương lai thường hưởng chân lạc thì đều giống hệt. Nhiều năm gần đây, thế đạo nhân tâm càng ngày càng đi xuống, giành đất, tranh thành, tàn sát lẫn nhau, nhân họa đã khốc liệt, thiên tai lại xảy đến, lũ lụt, hạn hán, sâu rầy, ôn dịch cùng lúc giáng xuống. Những tai họa ấy đều do những ác nghiệp của mọi người trong đời trước hoặc đời này chiêu cảm.

Nhưng tâm đã tạo được nghiệp thì tâm sẽ chuyển được nghiệp. Đang trong lúc thiên tai nhân họa đồng thời xảy ra này, nếu có thể phát tâm chí thành, niệm thánh hiệu “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, thệ nguyện từ nay trở đi giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì chắc chắn sẽ được Ngài rủ lòng từ che chở, gặp dữ hóa lành, trong các hoạn nạn chẳng bị nguy hiểm, ấy là dùng biệt nghiệp niệm thánh hiệu Bồ Tát trong hiện tại để chuyển cộng nghiệp[4] đã tạo trong đời trước hoặc đời này. Vì thế thường được tốt lành. Chư Phật, Bồ Tát coi hết thảy chúng sanh trong lục đạo như con ruột, thường muốn cho họ được lìa khổ hưởng vui. Hiềm rằng chúng sanh mê muội chẳng sanh lòng tin tưởng, đến nỗi uổng phí Từ tâm, chẳng thể được lợi ích. Ví như mặt trời rạng rỡ giữa trời chiếu khắp muôn phương, kẻ đội chậu dù có đứng ngay dưới đó cũng chẳng được chiếu. Lỗi do đội chậu, chứ mặt trời đâu có lỗi!

Gần đây sát kiếp ngập tràn, nhân dân tử vong, lưu lạc, tan tác, khổ chẳng nói nổi! Cư sĩ Phí Huệ Mậu ở Nam Thông muốn bày cách cứu vãn từ lâu, nên đặc biệt sưu tầm những thánh tượng Quán Thế Âm do những nhà danh họa thuộc năm triều Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đã vẽ, được một trăm bốn mươi hai bức, dùng loại giấy Tuyên[5] tốt nhất, in theo lối Kha La Bản[6] một ngàn bộ, ngõ hầu người thấy nghe đều cùng sanh chánh tín, cùng niệm thánh hiệu, cùng tiêu trừ ác nghiệp trong đời trước và đời này, cùng gieo thiện căn Bồ Đề.

Phải biết: Bồ Tát vô tâm, lấy tâm của chúng sanh làm tâm, Bồ Tát không cảnh, lấy cảnh của chúng sanh làm cảnh, vì thế hễ cảm liền thông, chẳng phải suy nghĩ để ứng. Ấy là vì bản thể của tâm chúng sanh và bản thể của tâm Bồ Tát tương thông khít khao, do chúng sanh trái giác hiệp trần nên thành ra hiện tượng “tuy thông mà chẳng thông”. Nếu chúng sanh một niệm sanh lòng tin, kiền thành trì thánh hiệu, trái trần hiệp giác, bỏ mê về với ngộ, sẽ lại biến thành hiện tượng “chẳng thông mà thông”. Vì thế, hễ gặp phải hiểm nạn cực lớn, vừa niệm liền được cảm ứng. Lại nữa, Bồ Tát hiện thân chẳng chuyên hiện thân hữu tình. Ngay như núi, sông, cây cối, cầu, bến, thuyền, bè, lầu, đài, nhà cửa, tường, vách, thôn, xóm cũng đều tùy cơ mà hiện, ắt đều khiến cho kẻ đã lâm vào tuyệt địa lại gặp đường thông, không chỗ trốn tránh lại được nơi che đậy lớn lao. Đủ mọi loại cứu vớt, che chở, khó thể tuyên nói trọn!

Hãy nên đọc Quán Âm Bổn Tích Tụng, Quán Âm Linh Cảm Lục, Quán Âm Từ Lâm Tập sẽ biết được đại lược. Đang trong lúc thiên tai, nhân họa liên tiếp giáng xuống này, nếu chẳng sửa ác tu lành, thường niệm thánh hiệu Quán Âm để được nương cậy thì muốn được yên vui sẽ là chuyện khó khăn nhất trong mọi điều khó! Dẫu hoàn toàn chẳng có tai nạn gì, cũng nên thường niệm, ngõ hầu sống sẽ hưởng Ngũ Phước, dự vào địa vị Thánh Hiền cao cả, thác sẽ lên chín phẩm, triệt chứng tâm Đại Giác. Người làm được như thế thì mới an ủi được tâm Bồ Tát cứu khổ. Do Bồ Tát phổ thí vô úy (ban cho khắp tất cả mọi loài sự không sợ hãi) nên [chúng sanh được] viên mãn Bồ Đề rồi thì tâm đại từ bi thí vô úy [của Bồ Tát] mới thôi! Kinh Pháp Hoa dạy: “Nếu có chúng sanh nhiều dâm dục, nóng giận, ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền được lìa dục, lìa sân, lìa si”. Nguyện người thấy nghe đều thường niệm!

 

56. Lời tựa cho bộ Phóng Sanh Trưng Tín Lục của chùa Pháp Vân

(năm Dân Quốc 21 - 1932)

 

      Xem khắp cổ kim, thời bình trị thì ít, thời loạn lạc lại nhiều. Dẫu cho thịnh trị thì bất quá chỉ được một trăm mấy chục năm mà thôi. Nguyên do vì đâu? Ấy là do cái nghiệp đời trước sát sanh ăn thịt kết thành và do cái tâm tự tư tự lợi trong đời này mà ra! Kết quả của sát nghiệp chỉ có ăn thịt là dữ dội nhất. Cả một đời người chẳng biết ăn thịt mấy trăm ngàn vạn sanh mạng, chỉ mong thỏa thích bụng miệng ta, bất kể nỗi thống khổ của chúng! Tuy là cậy mạnh nuốt yếu mặc sức ta làm, nhưng chất độc oán hận kết lại trong tám thức điền, đời đời kiếp kiếp giết chóc lẫn nhau, chẳng nhổ bỏ cái gốc ấy, khó chuyển được sát kiếp! Huống chi kẻ có trí thức nhưng chẳng biết thật sự thật lý “nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo”, bèn coi chuyện “tự lập, lập người, tự đạt, làm cho người khác đạt” là viễn vông, sai lầm, chỉ muốn đoạt hết của cải người khác về tay ta. Do vậy, tranh thành, giành đất, dẫu giết người ngập thành, ngập đồng vẫn chẳng đoái hoài. Ý họ muốn mở rộng cương thổ của ta, tăng lớn thế lực của ta, để con cháu ta hưởng phước vĩnh viễn! Chẳng biết trời đất lấy hiếu sanh làm đức, đã sống trong khoảng trời đất hiếu sanh ghét giết, sao lại khiến cho con cháu hưởng cái phước nghịch trời trái lý đạt được bởi sự giết người vô lượng ấy? Chính họ khi một hơi thở ra không hít vào được nữa, sẽ vĩnh viễn đọa trong tam đồ ác đạo, sao lại đáng thương như vậy? Con cháu nếu chẳng phải là những người bị ta chiếm đoạt [tài sản trong đời trước nay] đến [sanh vào nhà ta] thì sẽ tuyệt diệt đến hết sạch, trọn chẳng sót một ai!

     Thanh Lương Sơn Chí chép: Vào đời Tùy, Triệu Lương Tướng ở Đại Châu giàu nứt đố đổ vách, có hai đứa con, trưởng tên là Mạnh, thứ tên là Doanh. Doanh mạnh mẽ, Mạnh yếu đuối. Lúc sắp mất, Lương Tướng chia tài sản ra làm hai phần, Mạnh được phần hơn. Đến khi Lương Tướng mất rồi, Doanh cướp đoạt sạch, chỉ để lại cho Mạnh một rẻo vườn, nhà. Mạnh làm thuê kiếm sống. Sau đó, Doanh chết đi làm con của Mạnh tên là Hoàn. Mạnh chết đi, đầu thai làm cháu của Doanh tên là Tiên. Hoàn lớn lên làm đầy tớ cho Tiên, lòng hận Doanh cướp đoạt sản nghiệp. Đúng dịp Tiên muốn đi triều bái Ngũ Đài sai Hoàn theo hầu. Vào trong núi, đến chỗ đồng trống không người, [Hoàn] rút dao nói: “Ông nội mày đoạt gia nghiệp của tao, tao sẽ giết mày!” Tiên chạy lẹ, Hoàn đuổi theo. Tiên chạy vào một am tranh, một vị lão tăng ngăn họ lại, trao cho mỗi người một chén trà thuốc. Uống xong, như mộng vừa tỉnh, biết rõ chuyện trước kia, cảm thấy hổ thẹn đau xót. Lão tăng nói: “Doanh là tiền thân của Hoàn, cướp đoạt sản nghiệp của người khác chính là tự vứt bỏ sản nghiệp của chính mình. Tiên là Mạnh đầu thai trở lại để hưởng sản nghiệp trước kia. Lời cha vẫn còn đó!” Hai người bèn xuất gia tu đạo tại Ngũ Đài. Hai người này đời trước có thiện căn nên được Bồ Tát điểm hóa, được kết quả như thế đó. Nay [người đời] coi giết người là vui, quả báo về sau sẽ khó lòng tưởng tượng được!

Năm Dân Quốc 11 (1922), các vị thiện sĩ Phùng Mộng Hoa, Ngụy Mai Tôn, Vương Ấu Nông v.v… do thấy sát kiếp tràn lan, nghĩ cách cứu vãn, bèn tậu đất bên sông Tam Xoa, lập chùa Pháp Vân làm đạo tràng niệm Phật phóng sanh. Đến năm Dân Quốc 12 (1923), đào chín cái ao sâu để phóng sanh theo từng loài. Năm Dân Quốc 13 (1924) liền bắt đầu lo phóng sanh, hoặc chính mình mua về thả, hoặc có thiện sĩ mua đến thả. Tám năm qua, [số lượng loài vật] do chính hội ấy mua về phóng sanh tính ra tổng cộng là ba trăm sáu mươi, bảy mươi gánh, tiền chi phí tổng cộng là bốn ngàn sáu trăm mấy chục đồng, đều do các thiện sĩ nối tiếp nhau thực hiện. Nay đem [số lượng] những con vật được thả và khoản tiền chi dụng trong tám năm lập thành báo cáo, ngõ hầu ai nấy đều biết rõ. Suốt chín năm nay, vị thường sống ở nơi ấy chịu đựng nhọc nhằn, chẳng nề gian khổ, chính là Hòa Thượng Tâm Tịnh. Những người khác tuy cũng tận lực duy trì, nhưng chưa ai chuyên dốc sức vào đấy bằng sư Tâm Tịnh.

Xét ra, hành động phóng sanh vốn nhằm phát khởi cái tâm kiêng giết ăn chay của những người cùng hàng. Nếu có thể kiêng giết, ăn chay thì sát nghiệp chẳng tạo, sát báo sẽ tự dứt. Đối với những nghiệp đã tạo từ trước thì dùng sự kiệt lực tu thiện, chí thành niệm Phật để tiêu diệt. Phải biết: Chùa Pháp Vân phóng sanh quả thật đã đi tiên phong dẫn đường cho hết thảy những người cùng hàng kiêng giết ăn chay vậy. Người có tâm do nghe được chuyện ấy sẽ dấy lòng, cùng sanh tâm từ bi, rộng lòng trắc ẩn, cùng hành đạo nhân từ với người khác, yêu thương loài vật, sẽ thấy lòng người chuyển biến, quyến thuộc trời thường giáng xuống, mưa nắng đúng thời, ngũ cốc sung túc, lễ nghĩa, nhân nhượng hưng thịnh, chiến tranh tiêu diệt, trong ngoài hiệp hòa, thiên hạ thái bình. Đấy chính là điều các vị như ông Phùng vốn dốc chí qua việc tạo dựng chùa Pháp Vân, đề xướng phóng sanh vậy.

 

57. Lời tựa cho bài Ca Tụng Kinh Vô Lượng Thọ

(năm Dân Quốc 25 -1936)

     

      Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài, toàn thể sự chính là lý, toàn thể tu chính là tánh, hạnh cực bình thường, lợi ích cực thù thắng. Ấy là vì dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, nên được nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân. Hết thảy pháp môn không gì chẳng lưu xuất từ pháp giới này, hết thảy hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này. Thích hợp khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn. Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được, tội nhân Ngũ Nghịch Thập Ác cũng có thể dự vào trong ấy. Thống nhiếp các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, xuyên suốt các giáo Quyền, Thật, Đốn, Tiệm. Trong cả một đời giáo hóa của đức Phật, riêng một pháp môn này là đặc biệt. Chớ nên dùng giáo nghĩa theo đường lối thông thường để phân định nhân quả tu chứng của pháp này.

Xưa nay có nhiều kẻ thâm nhập kinh tạng, triệt ngộ tự tâm, nhưng chẳng sanh lòng tin tưởng đối với pháp môn này vì chấp chặt vào giáo nghĩa “cậy vào tự lực” của đường lối thông thường để luận định nhân quả đặc biệt “cậy vào Phật lực” mà nên nỗi! Nếu biết nghĩa này thì tấm lòng tin tưởng, tu trì ngay đến cả đức Phật cũng chẳng thể ngăn trở được, vì pháp môn này chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Bởi thế, [pháp này] được chín giới cùng quay về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn luận đều tuyên nói.

Xét đến chỗ phát khởi pháp này thì quả thật từ cuối hội Hoa Nghiêm, Thiện Tài tham học khắp các tri thức, đến chỗ Phổ Hiền Bồ Tát được oai thần của đức Phổ Hiền gia bị, sở chứng bằng với Phổ Hiền, ngang với chư Phật, trở thành Đẳng Giác Bồ Tát. Phổ Hiền bèn xưng tán công đức Như Lai thù thắng nhiệm mầu, khuyến tấn Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng đều cùng dùng công đức của mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật Quả. Do Hoa Tạng hải chúng đều là các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác. [Do các vị ấy] đi trọn khắp các cõi Phật số nhiều như vi trần, nên thệ nguyện Di Đà, cảnh duyên Cực Lạc, nhân quả vãng sanh, mỗi mỗi đều hiểu rõ, không cần phải nói nữa. Nhưng trong hội Hoa Nghiêm, trọn chẳng có ai là phàm phu Nhị Thừa và Quyền Vị Bồ Tát[7]; do vậy, tuy hoằng dương lớn lao pháp này, nhưng phàm phu, tiểu căn không cách chi vâng nhận được!

Đến hội Phương Đẳng, đức Phật vì khắp hết thảy trời, người, phàm, thánh, nói kinh Vô Lượng Thọ, chỉ rõ nhân hạnh quả đức xưa kia của Phật A Di Đà, cảnh duyên Cực Lạc đủ mọi thứ thù thắng, nhiệm mầu, nhân quả, phẩm vị tu chứng của hành nhân. Kinh này chính là chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm vậy. Tuy được nói trong thời Phương Đẳng, nhưng giáo nghĩa quả thật thuộc thời Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm chỉ hạn cuộc nơi Pháp Thân đại sĩ, nhưng kinh này nhiếp trọn khắp thánh - phàm trong chín giới. Dẫu dùng thời Hoa Nghiêm để luận thì kinh này vẫn là đặc biệt, huống là các thời khác ư? Nếu đức Như Lai chẳng mở ra pháp này, chúng sanh đời Mạt không một ai có thể liễu sanh tử! Do lòng đại từ, đức Phật rất sợ chúng sanh chẳng thuận tiện thọ trì được, bèn lại nói kinh A Di Đà, ngõ hầu họ thường đọc tụng hằng ngày. Lại nói kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật để y báo, chánh báo trang nghiêm cõi Tây Phương thường hiện hữu trong tâm mục của các hành nhân.

Ba kinh này tuy kinh văn tuy rộng - lược khác nhau, nhưng lý chẳng hề khác biệt. Người học đời Mạt Pháp nếu trí lực sung mãn, chẳng ngại gì tu trọn vạn hạnh, hồi hướng vãng sanh. Nếu không, đương nhiên nên chuyên tu Tịnh nghiệp, để mong nương vào Phật từ lực vượt ngang ra khỏi tam giới, lên thẳng chín phẩm sen. Kinh Vô Lượng Thọ có rất nhiều bản chú giải cổ, gần như đều bị thất lạc hết, còn sót lại chẳng được mấy! Đại sư Đạo Truyền đọc tụng kinh này, cảm niệm sâu xa ơn Phật, soạn bài tụng để tán dương. Tuy chưa thể nêu tỏ, giãi bày trọn vẹn ý nghĩa kinh và tâm Phật, nhưng cũng có thể phụ trợ tín nguyện cho bọn ta là hạng không có sức đoạn Hoặc chứng Chân, khiến cho hùng tâm kiên quyết vãng sanh được mạnh mẽ. Vì thế, cho ấn hành lưu thông vậy.

 

58. Lời tựa cho bài ký “Địa Tạng Bồ Tát cứu mẹ trong kiếp xưa”

(năm Dân Quốc 17 - 1928)

 

      Tâm chúng sanh và tâm Phật chẳng hai. Kẻ chẳng thể làm Phật thường làm chúng sanh là vì chính họ không có huệ lực, chẳng thể giác ngộ, lại không được thiện tri thức chỉ dạy. Do vậy, dùng diệu tâm sẵn có Phật tánh để làm căn bản khởi Hoặc tạo nghiệp, đến nỗi trải vô lượng kiếp luân hồi lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra, chẳng đáng buồn ư? Vì thế, đức Thế Tôn ta lúc mới thành Chánh Giác, lên cung trời Đao Lợi, vì mẹ thuyết pháp, muốn khiến cho hết thảy chúng sanh đều mong báo ân cha mẹ, liền đặc biệt nêu rõ chuyện Địa Tạng Bồ Tát trong kiếp xưa do cứu mẹ nên rộng phát thệ nguyện Bồ Đề làm thuyền bè vượt biển khổ cho chúng sanh đời vị lai. Trọn bộ kinh văn lý sự rõ ràng, tường tận, văn từ thoáng đạt, rõ rệt. Hai chuyện ngài Địa Tạng cứu mẹ trong ấy càng cho thấy rõ những nghĩa lý “tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Tâm này làm chúng sanh, tâm này là chúng sanh”“tâm tạo được nghiệp thì tâm chuyển được nghiệp. Tâm chẳng thể chuyển được nghiệp thì nghiệp sẽ trói buộc tâm”. Thật có thể nói là người dẫn đường nơi nẻo hiểm, là đuốc huệ nơi ngõ tối, là kho báu cho kẻ nghèo thiếu, là thóc gạo trong năm đói kém, khiến cho hết thảy chúng sanh mê muội mau được giác ngộ, hết thảy những đứa con hiếu thuận có được sư thừa. Lợi ích của kinh chẳng thể tuyên nói được!

Từ khi đức Phật nói kinh này xong, phàm tại Tây Thiên, Đông Độ, những người đọc kinh này tâm được hưng khởi kể sao cho xiết! Cư sĩ Phụng Trì xót mình chưa thể hiếu dưỡng với mẹ, truy niệm ân đức, ôm hận suốt đời, nguyện khắp những kẻ làm con trong thế gian tùy thời, tùy sự để trọn đạo hiếu, nghĩ đến ân sâu cù lao, ắt sẽ làm sao cho cha mẹ ta được rốt ráo yên ổn nơi bảo sở mới thôi! Do vậy, dùng tâm chí thành niệm thánh hiệu Phật, kiêm dùng lòng cung kính giữ vẹn luân thường, tận hết thiên chức của chính mình, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, dùng công đức ấy để giúp cho cha mẹ ta được lợi ích, quyết mong sao cha mẹ còn sống thì nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, phước thọ tăng cao, trí huệ mở mang, khi khuất núi thì thần thức siêu thăng cõi tịnh, nghiệp trả lại trần lao, chứng Vô Sanh Nhẫn, lên địa vị Bất Thoái. Lại phải biết: Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ quá khứ, là chư Phật vị lai, hãy nên dùng tâm Đại Bồ Đề tùy thuận cơ nghi vì họ tuyên nói và cứu vớt, ngõ hầu trên khế hợp tâm Phật, dưới phù hợp nguyện của chính mình. Gió Từ vừa dấy, sát nghiệp liền tiêu, sẽ thấy lễ nghĩa, nhân nhượng hưng thịnh, can qua dứt bặt vĩnh viễn, phong tục tốt đẹp, thiên hạ hòa bình.

 

59. Lời tựa cho nghi thức niệm tụng của đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ Linh Nham Sơn Tự

(năm Dân Quốc 27 - 1938)

 

      Nghe Di Đà thệ nguyện, dạy chúng sanh phương hướng “tâm làm, tâm là” thích hợp khắp chín giới. Pháp môn Tịnh Độ là đạo thành thủy thành chung của Như Lai, thỏa thích lớn lao bản hoài của Phật. Phật, Tổ xuất thế đều lập pháp thuận theo cơ nghi. Kẻ độn căn đời Mạt nên chọn lấy pháp vừa khế lý lại vừa khế cơ để chuyên ròng dốc sức, ngõ hầu nương theo Phật từ lực, vượt ngang ra khỏi tam giới, ngay trong một đời này giải quyết xong xuôi đại sự sanh tử chẳng thể dễ dàng giải quyết trong trăm ngàn vạn kiếp. Linh Nham là ngôi chùa cổ được khai sáng từ thời Đông Tấn, trải các đời Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy, Đường, bao lượt được sắc tu[8]. Những vị Trụ Trì xưa kia phần nhiều chẳng thể tra cứu được; còn những vị Trụ Trì đời Tống phần lớn là bậc đại lão nhà Thiền, vì thế đạo phong đứng đầu miền Giang - Chiết. Sau đấy mãi đến tận đầu đời Thanh vẫn cứ như vậy, [lịch sử truyền thừa của nhà chùa] đã được ghi chép trong sách vở, ở đây không cần phải ghi cặn kẽ.

Gặp loạn Hồng Dương, chùa cháy tan hoang, vị Tăng tên Niệm Thành ở trong tháp báu, gặp đúng lúc ông Bành Cương Trực lên chơi núi, chuyện trò hợp ý, bèn tra xét rõ ràng ruộng đất. Nhân đấy, dựng hơn mười gian điện đường, nhưng vẫn chưa sắp xếp Tăng sĩ tu hành [nơi đây]. Đến đời Tuyên Thống, vị Tăng sống ở đấy do bị mất y, đánh lầm người lui tới. Người dưới núi bèn kéo nhau đến [hỏi tội], ông Tăng liền bỏ trốn. Tất cả đồ đạc trong chùa đều bị những kẻ kéo đến dọn sạch. Vị hương thân là Nghiêm Lương Xán do thấy danh sơn vô chủ, bèn bảo vị Tăng chùa Bảo Tạng là Minh Hú thỉnh thầy vị Tăng ấy là Hòa Thượng Chân Đạt đến tiếp nhận. Hòa Thượng Chân Đạt phát nguyện sau này tìm được người thích hợp sẽ giao cho người ấy chuyên tu pháp môn Tịnh Độ. Lập ra cách thức chẳng giống với những nơi khác, chuyên nhất niệm Phật, nhất loạt chẳng thực hiện hết thảy Phật sự mang tính cách thù tiếp. Bắt đầu từ năm Dân Quốc 15 (1926), hơn mười năm qua, nghiễm nhiên trở thành một đạo tràng lớn mà chẳng cầm sổ hóa duyên.

Mỗi ngày tu trì chẳng khác gì đả Phật thất. Khi mở Phật thất chỉ thêm lễ cúng dường Phật, hồi hướng trước bàn linh mà thôi. Bất luận [thí chủ] thỉnh bao nhiêu vị [Tăng tham dự niệm Phật] đều là cả chùa cùng niệm, nhưng đem số tiền cúng dường của thí chủ [với ý định] mời bao nhiêu vị [tham dự niệm Phật] chia đều cho cả chùa. Vì thế chẳng lập danh sách [những vị Tăng được mời tham dự Phật thất], do không lập danh sách nên không bị tỵ nạnh “ghi tên người ta mà chẳng ghi tên tôi!” Nếu làm Phật sự thù tiếp các nơi thì chánh khóa (khóa tụng chánh yếu) của chùa ắt bị gián đoạn. Khi Linh Nham đả Phật thất, công khóa chỉ có tăng thêm chứ không giảm. Vì thế, tuy công khóa nghiêm ngặt, nhưng mỗi kỳ Phật thất số người đến ghi danh thường là ba bốn chục, chỉ có mấy người bỏ đi mà thôi. Ăn uống giống hệt nhau, không phân biệt chủ, khách, hay người làm công. Chùa này đúng là chùa thập phương:

1. Trụ Trì bất luận là Thiên Thai, Hiền Thủ, Lâm Tế, Tào Động, chỉ lấy “giới hạnh tinh nghiêm, tin sâu pháp môn Tịnh Độ” làm chuẩn. Chỉ truyền hiền, chẳng truyền pháp[9] để dứt thói tệ pháp quyến riêng tư.

      2. Truyền thừa Trụ Trì luận theo thứ tự, chẳng luận theo thế hệ, để tránh thói tệ bậc cao đức phải ở dưới kẻ đức hạnh tầm thường.

      3. Không truyền giới, không giảng kinh, để khỏi bị chèo kéo, dao động, nhiễu loạn chánh niệm. Trong chùa tuy hằng ngày thường giảng, nhưng chẳng thăng tòa và níu kéo người ngoài đến nghe.

      4. Chuyên nhất niệm Phật, trừ đả Phật thất ra, nhất loạt không làm hết thảy Phật sự thù tiếp.

      5. Bất luận là ai chẳng được thâu nhận, thế độ đồ đệ trong chùa.

      Trong năm điều hễ trái một điều nào, lập tức ra khỏi chùa. Khóa tụng sớm tối phần lớn giống như công khóa thông thường, nhưng cũng có chỗ khác biệt. Người mới đến nếu không có kinh sách để xem, chắc là sẽ hiểu lầm. Vì thế, Giám Viện là Diệu Chân đại sư tính sắp xếp, ấn hành, cậy tôi viết lời tựa. Do vậy, tôi lược thuật duyên khởi như vậy đó.

 

60. Lời tựa cho cuốn Vạn Niên Bạ[10] của Linh Nham Sơn Tự

(năm Dân Quốc 21 - 1932)

 

      Chùa Linh Nham do ngài Bảo Chí Thiền Sư[11] đời Lương khai sơn, Trí Tích Bồ Tát[12] trùng hưng, là cuộc đất đạo tràng thù thắng được nhiều đời cao tăng thuộc các tông Thiền, Giáo, Luật trụ trì. Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn thù thắng vừa Tiểu vừa Đại, vừa cạn vừa sâu, hết sức bình thường, nhưng hết sức đặc biệt, lạ lùng: Thoát khỏi sanh tử ngay trong một đời này! Cách tu dễ dàng nhất, lợi ích sâu rộng nhất. Nơi cuộc đất tối thắng này, tu pháp mầu nhiệm nhất này, nếu không phải nhiều kiếp vun bồi há được gặp gỡ ư? Nhưng muốn tu hạnh thù thắng, ắt phải nhờ vào các món vật cần dùng. Vì thế, trên là kinh tượng và các món đồ vật, mỗi mỗi phải sắm sửa đầy đủ thì mới có thể thẳng đường tu tập không trở ngại. Nhưng đạo tràng tồn tại vĩnh viễn muôn đời, người thì mấy chục năm đã đổi thay. Tất cả những thứ có được này, nếu không ghi chép vào sổ, lâu ngày có thể bị mất mát. Hơn nữa, qua bao lần thay đổi, cũng không thể truy xét được nguồn gốc ban đầu.

Do vậy, mỗi món đều được ghi lại để phàm những ai sống trong chùa này và làm Trụ Trì, làm Giám Viện, thấy những vật này, tâm liền tự suy nghĩ: “Những vật này là những vật cần dùng để giúp chúng ta tu trì pháp môn Tịnh Độ ngõ hầu tự lợi, lợi tha, để cùng sanh về thế giới Cực Lạc, phải yêu mến như thịt nơi thân mình, giữ gìn như tròng mắt. Chẳng phải là keo tiếc các vật mà chính là kính trọng tấm lòng thành trợ đạo của thí chủ để mong ít cần, bớt dùng, đạo nghiệp sẽ dễ thành tựu. Hết thảy pháp môn nếu chẳng đoạn sạch Phiền Hoặc sẽ chẳng thể thoát lìa sanh tử, chỉ có pháp Tịnh Độ này chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, liền có thể dự vào cảnh giới Phật. Có được đạo tràng tối thắng này, lại tu pháp môn tối thắng này, há chẳng nên càng thêm mến tiếc, giữ gìn, quý trọng những vật cần dùng này ư? Nếu chẳng càng thêm giữ gìn, quý trọng tức là phung phí vật của trời, phụ ân thí chủ. Dẫu có tu trì, cũng khó được tương ứng cùng Phật, vì sao? Do kẻ ấy chỉ cốt sao mình được yên ổn, thảnh thơi, mặc kệ công sức người khác chế tạo, người xưa sắp đặt, lo liệu, đủ mọi nỗi khó khăn. Nguyên do sắm sửa những thứ ấy là để cho ta tu đạo hòng liễu sanh tử. Đã coi thường những vật này, chẳng biết mến tiếc, tâm hạnh ấy hoàn toàn chẳng tương ứng với đạo, làm sao cảm được Phật xót thương nhiếp thọ để được thoát ngay khỏi biển khổ sanh tử!” Phàm những người chân thật tu hành ắt phải nhẫn được những điều người khác chẳng thể nhẫn, hành được những điều người khác chẳng thể hành, chịu nhọc nhằn thay cho người, thành tựu điều tốt đẹp cho người. Được như thế thì tương ứng với đạo, tương ứng với Phật! Nguyện những người sống trong chùa này ai nấy đều cố gắng.

 

61. Lời tựa cho Linh Nham Khai Thị Pháp Ngữ

(năm Dân Quốc 25 - 1936)

 

      Linh Nham chính là cuộc đất thánh đạo tràng trời tạo đất dựng. Ngô Vương Phù Sai thiếu đức, chẳng tuân theo đạo “chánh tâm thành ý, siêng năng việc nước, yêu dân” của các vị tổ là Thái Vương, Thái Bá, Trọng Ung[13], chỉ chuộng dâm lạc, bèn dựng cung Quán Oa[14] nơi này, mắc tội với trời đất và tổ tông cũng lớn lắm. Cung điện xây xong được mấy năm, nước mất, thân chết, chẳng đáng buồn ư? Đến đời Tấn, Tư Không Lục Ngoạn[15] xây nhà trên đó, sau nghe Phật pháp, bèn biến nhà thành chùa, đấy chính là duyên khởi khai sơn đầu tiên của Linh Nham vậy. Đến đời Lương, ngài Bảo Chí Công cầu xin Vũ Đế, chùa lại được trùng hưng. Trí Tích Bồ Tát nhiều lượt hiện thân tượng vẽ[16], hiển thị đạo nhiệm mầu, dẫn dắt kẻ tục còn đang mê. Đến đời Đường, em trai Tể Tướng Lục Tượng Tiên[17] (người Tô Châu) mắc bệnh ở kinh đô, ngự y bó tay. Một vị Tăng xin gặp, nói có thể trị được bệnh, bảo lấy một chén nước sạch, hướng vào đó niệm chú mấy câu, ngậm nước phun ra, lập tức khỏi hẳn bệnh. Đem mọi vật đáp tạ Sư đều không nhận, nói: “Tôi tên là Trí Tích. Sau này ông trở về Tô Châu, nên đến núi Linh Nham gặp gỡ tôi”. Về sau, người ấy đến núi hỏi thăm, không có ai tên là Trí Tích cả, tâm rất buồn bã, xem khắp các điện đường, thấy hình vẽ trên vách chính là vị Tăng đã trị bệnh cho mình. Vì thế, đặc biệt dựng điện Trí Tích, chùa lại được trung hưng. Từ đời Tấn đến đời Đường, [danh tánh] tất cả Trụ Trì đều chẳng thể tra cứu được.

Đến đời Tống, phàm những vị Trụ Trì núi này đều là bậc đại lão lỗi lạc trong Tông môn, đạo tràng Linh Nham bèn trở thành đứng đầu Giang Tô; do đất thiêng nên mới có người tài giỏi, do người tài giỏi nên đất mới thiêng. Cuối đời Minh, đầu đời Thanh, chùa lại hưng khởi mạnh mẽ, hai đời vua Thánh Tổ (Khang Hy) và Cao Tông (Càn Long), mấy lần tuần du phương Nam, đều nghỉ tại hành cung[18] trên núi. Trong cơn loạn Hồng Dương, chùa bị đốt cháy gần như hết sạch. Về sau, đại sư Niệm Thành trụ trong lòng tháp, nhằm đúng khi ông Bành Cung Bảo Ngọc Lân đi chơi núi gặp gỡ, bèn tra xét ruộng đất [chuộc lại] hơn sáu trăm mẫu, dựng hơn mười gian điện đường, nhà cửa.

Đến năm Tuyên Thống thứ ba (1911), trụ trì là Đạo Minh vốn là quân nhân xuất gia, tánh tình thô bạo, do mất y [ca-sa] mà đánh đập người tới chùa quá đáng, người dưới núi vùng lên đánh đuổi, Đạo Minh bỏ trốn. Đồ đạc trong chùa đều bị khuân sạch, trở thành một ngôi chùa không ai ở. Đây chính là cơ hội để đạo tràng Linh Nham được phục hưng. Nếu không, giả sử như ông ta tận lực vâng giữ Thanh Quy, chắc chắn chùa chẳng thể trở thành đạo tràng Tịnh Nghiệp duy nhất trong cả nước được! Họa - phước dựa dẫm lẫn nhau, chỉ do con người khéo dụng tâm hay không mà thôi. Bắt nguồn từ việc thân sĩ vùng Mộc Độc là ông Nghiêm Lương Xán bảo nhà sư chùa Bảo Tạng là Minh Hú thỉnh thầy của vị sư ấy là hòa thượng Chân Đạt tiếp nhận trông nom chùa. Ngài Chân Đạt bèn phái người đến tiếp nhận, lại sai Minh Hú đứng trông nom tạm thời, ý muốn có người thích hợp sẽ biến chùa thành đạo tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ. Năm Dân Quốc mười lăm (1926), pháp sư Giới Trần[19] đến đây, bèn giao cho Ngài làm Trụ Trì. Tăng chúng thường trụ lấy hai mươi người làm hạn, trừ số tiền huê lợi mấy trăm đồng ra, hễ [chi tiêu] không đủ thì ngài Chân Đạt sẽ bù cho. Chẳng quyên mộ, chẳng làm pháp hội, chẳng truyền pháp, chẳng thâu đồ đệ, chẳng giảng kinh, chẳng truyền giới, chẳng làm chuyện kinh sám thù tạc[20], chuyên nhất niệm Phật. Khóa tụng mỗi ngày đều giống như trong khi cử hành Phật thất thông thường. Trụ trì bất luận Thiên Thai, Hiền Thủ, Lâm Tế, Tào Động đều được, chỉ quan tâm đến thứ tự, không quan tâm đến thế hệ truyền thừa[21], chỉ cần là người giới hạnh tinh ròng, [trì giới] nghiêm ngặt, thông hiểu giáo lý, tin sâu Tịnh Độ là được. Nếu những mặt khác đều khá, nhưng chẳng chuyên chú Tịnh Độ thì quyết chẳng thể mời [làm Trụ Trì].

Từ đấy trở đi, người thường trụ ngày càng nhiều, phòng ốc chẳng đủ, trong năm Dân Quốc 21 (1932), trước hết dựng Niệm Phật Đường, bốn năm năm qua, liên tục xây cất. Nay điện Đại Hùng đã khánh thành, chỉ còn thiếu điện Thiên Vương chưa xây, nhưng cũng chẳng quan trọng chi lắm. Tháng Hai năm Dân Quốc 19 (1930), Quang đến đây, tháng Tư liền bế quan tại chùa Báo Quốc, đã hơn sáu năm rồi. Do già cả, bất tài, toan chết già trong nơi bế quan. Vì các vị trong hội Phật giáo mời mọc, xin Quang trong pháp hội Hộ Quốc Tức Tai[22] mỗi ngày giảng khai thị một lần, tỏ rõ lý “nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo”, đề xướng pháp “tín nguyện niệm Phật, liễu thoát ngay trong đời này” để cứu vãn thế đạo lòng người. Cố sức từ chối chẳng được, bèn vào ngày mồng Sáu tháng này ra khỏi chỗ bế quan đến đất Hỗ (Thượng Hải), nhằm trọn nghĩa vụ hộ quốc của tôi. Ngày Mười Lăm viên mãn, ngày Mười Sáu vì họ nói Tam Quy - Ngũ Giới.

Sáng nay theo đường tắt từ đất Hỗ trở về đây, nhưng các vị cư sĩ ở thành Tô Châu[23] đã đến trước rồi. Lên núi, trông thấy điện vũ nguy nga, Tăng chúng thanh tịnh, hòa thuận, khôn ngăn hoan hỷ tột bậc. Do được Giám Viện là đại sư Diệu Chân mời vào pháp đường, vì các vị diễn nói pháp yếu[24] Tịnh Độ. Nếu chỉ nói pháp yếu, chẳng nêu lai lịch và các nhân duyên hiện thời thì kẻ ở người tới đều chẳng biết duyên do, chắc sẽ coi đạo tràng này giống hệt như các đạo tràng khác! Đối với người thông suốt rộng lớn thì không gì là chẳng được, nhưng với kẻ ngu độn như Quang, lại muốn thoát khỏi ba cõi ngay trong đời này, lên chín phẩm cõi kia thì chưa biết hướng về đâu. Do vậy, trước hết thuật bày duyên khởi vậy.

 

62. Lời tựa cho Đại Tạng Kinh bản Tích Sa[25] đời Tống được in theo lối ảnh ấn[26]

(năm Dân Quốc 25 - 1936)

 

      Đại Tạng Kinh chính là huệ mạng của Như Lai, là mắt cho trời người, là đuốc trí trong đêm dài vô minh, là thuyền Từ trong biển khổ sanh tử, là nguồn pháp để bậc tiên giác giác ngộ kẻ hậu giác, là gốc của đạo thế gian lẫn xuất thế gian. Nếu không phải đời trước đã trồng thiện căn, dù trải cả kiếp còn chưa được nghe tới danh tự, huống là được đích thân thừa sự cúng dường, thọ trì đọc tụng, nương theo đó mà tu tập cho đến khi được viên chứng ư? Pháp được nói trong Đại Tạng chính là pháp sẵn có trong cái tâm của mười pháp giới, chúng sanh, Phật, phàm, thánh, nơi Phật chẳng tăng, nơi chúng sanh chẳng giảm, Phật do rốt ráo chứng nên thường hưởng pháp lạc Thường - Lạc - Ngã - Tịnh. Chúng sanh vì chưa ngộ nên ngược ngạo nương theo sức của diệu tâm này để trái giác hiệp trần, mê chân đuổi theo vọng, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, vĩnh viễn ngụp lặn trong tam đồ lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra. Tam thừa thánh nhân tuy có ngộ chứng, nhưng chưa đạt đến mức rốt ráo; vì thế, vẫn chưa thể thụ dụng hoàn toàn. Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót, thị hiện sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy cơ lập giáo, đối bệnh cho thuốc, để họ theo đường về nhà, trọn chẳng lập ra khuôn khổ nào khác. Với hàng đại căn (căn cơ Đại Thừa) bèn nói thẳng đại pháp Nhất Thừa, khiến họ nhanh chóng chứng được Vô Sanh, với tiểu căn (căn cơ Tiểu Thừa) bèn trước hết dạy nương theo [những pháp môn] Quyền - Tiệm để tu trì hòng vun bồi nền tảng bước vào Đại Thừa, cuối cùng cho họ được nhận lãnh gia nghiệp, tiếp nối hưng thịnh dòng giống nhà Phật. Lời Phật dạy trong cả một đời được chia thành năm thời:

      1. Thời Hoa Nghiêm: Chỉ nói đại pháp viên đốn nằm ngoài các giới[27]. Trời, người, Nhị Thừa đều chẳng phải là pháp khí của thời này.

      2. Thời A Hàm: Nói pháp Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Quyền, Tiệm, khiến cho họ vào trong hóa thành[28].

      3. Thời Phương Đẳng: Bàn trọn tứ giáo[29] thích hợp khắp ba căn.

      4. Thời Bát Nhã: Dùng diệu trí Bát Nhã để trừ sạch tình kiến[30] của phàm lẫn thánh.

      5. Thời Pháp Hoa - Niết Bàn: Khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn[31], thọ ký trọn khắp ba căn để họ cùng được nhận lãnh của báu trong nhà sẵn có. Niết Bàn “phù luật đàm thường”[32], là giáo huấn tối hậu để ba nghiệp thân - khẩu - ý đều cùng thanh tịnh như Phật, Tam Học Giới - Định - Huệ cùng được viên mãn như Phật.

      Tổng hợp những pháp được nói thì có năm tông, tức là Luật, Giáo, Thiền, Mật và Tịnh. Năm tông này tuy tên gọi sai khác, nhưng lý thể là một. Hãy nên chuyên chú vào một môn, nhưng chớ nên sai lệch bỏ phế các môn khác. Như do bốn cửa vào được một thành, như do bốn mùa hợp thành một năm, [những tông ấy] mang công năng duy trì lẫn nhau, phụ trợ lẫn nhau, nếu chẳng phải là kẻ thấu hiểu sâu xa nguồn pháp sẽ chẳng thể nào biết được! Trong ấy, Luật là nền tảng ban đầu để nhập đạo; dù đạt đến viên mãn Bồ Đề vẫn phải nương tựa vào đó. Tịnh là pháp môn phổ độ, dẫu cho đã chứng Đẳng Giác vẫn phải nên hướng lòng về. Chúng sanh đời Mạt nếu không do pháp này sẽ chẳng độ được ! Bậc trí của các tông hãy gấp nên gìn giữ. Nếu không, tất cả tu trì chỉ trở thành cái nhân lành để thành quả Phật trong đời vị lai, muốn ngay trong đời này hễ siêu thoát liền vào thẳng địa vị Như Lai, e rằng chẳng phải dễ dàng đâu! Ngoài các kinh này ra, tất cả các luật Đại Tiểu Thừa, đều thuộc vào năm thời. Do vậy, chẳng cần phải nói riêng. Ngoài kinh, luật ra còn có các bộ luận do các vị Bồ Tát, tôn giả soạn ra để thích kinh, tông kinh[33], nhằm hiển lý, phá Hoặc, hàng ma, chế phục ngoại đạo, ngõ hầu sự giáo hóa của đức Phật sẽ nhờ vào đây mà được phổ biến khắp trong và ngoài nước. Đấy là Tam Tạng Kinh - Luật - Luận từ Phật quốc (Ấn Độ) được dịch ra.

Đến khi đại giáo được truyền sang phương Đông, bậc pháp tượng[34] xuất hiện đông đảo, trước thuật của các tông đẹp đẽ khôn kể xiết. Những tác phẩm được đưa vào Đại Tạng chỉ là một hay mười phần trong trăm ngàn phần mà thôi. Trước đời Đường, để có được kinh sách đều phải sao chép. Thời Ngũ Đại, Phùng Đạo[35] xướng xuất việc in bằng cách khắc ván. Đến đời Tống, sách Nho, kinh Phật đều in bằng lối khắc ván. Đại Tạng Kinh bản đời Tống có mười mấy loại, nhưng ni sư Hoằng Đạo[36] thuộc Tích Sa Diên Thánh Viện chặt tay đề xướng, khắc thành bản in Đại Tạng này có thể nói là bậc trượng phu trong nữ giới, khiến cho mọi người khâm phục, bội phục. Từ đời Tống đến nay, hơn bảy trăm năm, do cõi đời nhiều phen loạn lạc, những kinh đã được in phần nhiều bị mất đi. Hai chùa Ngọa Long và Khai Nguyên ở Thiểm Tây may còn giữ được. Cư sĩ Châu Tử Kiều sang đất Thiểm lo việc phát chẩn trông thấy, bèn cùng với đại cư sĩ đất Hỗ (Thượng Hải) thương lượng in lại bằng phương pháp Ảnh Ấn, nhọc nhằn vất vả khó thể nói trọn được. Nay sắp hoàn thành đợt đầu, sai Quang viết lời tựa. Quang là một ông Tăng chẳng hiểu biết gì, chỉ biết cơm cháo, làm sao có thể nêu tỏ sự quan trọng của Đại Tạng, đành nhờ vào những gì hằng ngày đã quen nghe, gom góp lẫn lộn lại để viết cho xong trách nhiệm. Diệu nghĩa của toàn bộ Đại Tạng người đọc sẽ tự biết, dẫu chưa thể đọc trọn khắp, nhưng hồi quang phản chiếu nơi các pháp “Căn, Trần, Thức, Đại” hiện tiền sẽ đích thân chứng được viên thông, cần chi phải viết tràn lan cho nhiều để gai mắt người nhã ư ?

 

63. Đề từ và lời tựa cho bộ Gia Ngôn Lục

(Đề từ được viết vào tháng Hai năm Dân Quốc 16 (1927) dành cho bản in bằng loại giấy in báo. Lời tựa được viết vào ngày mồng Tám tháng Chạp năm Dân Quốc 16 khi sách được in thành hai cuốn)

 

     1) Tịnh Độ đại pháp môn lớn lao không gì ở ngoài nó được, như trời che khắp, như đất chở trọn. Bậc Đẳng Giác sắp thành Phật còn phải cậy nhờ pháp này; kẻ nghịch ác sắp đọa A Tỳ mười niệm lên cõi sen, thích hợp căn cơ khắp chín pháp giới, đều cùng siêng gắng đảnh lễ kính vâng, sướng thỏa tâm độ sanh của Phật, duy nhất không còn pháp thứ hai nào nữa! Tôi do sức túc nghiệp, từng làm một gã Nhất Xiển Đề, bắt chước bọn Âu, Hàn v.v… ngu xuẩn không sao chữa được. May là bị bệnh mấy năm, lúc ấy mới suy nghĩ kỹ càng: Các bậc thánh hiền xưa nay lẽ đâu đều vô tri cả? Bọn họ đều cùng tôn thờ, ta nào dám chê bai? Dẫu bậc thánh cũng có chỗ không biết, nhưng bọn họ vẫn đủ sức làm thầy bọn Âu, Hàn! Từ đó, quy y Phật, xuống tóc, khoác áo thâm. Tự lượng túc nghiệp sâu xa, Tông, Giáo ta đều chẳng thích hợp, chỉ có cậy vào Phật lực may ra mới thỏa lòng mong, nên chuyên tâm tu Tịnh nghiệp hầu được dự vào Liên Trì.

Gần mười mấy năm qua, người khác đều lầm hỏi đến, lời đáp cũng giống như thế ấy, chẳng dám vượt phận tí nào. Ông Từ Úy Như ở Hải Diêm cho rằng [những lời lẽ ấy] thiết thực, gần gũi, đôi ba lượt đem in ở Bắc Kinh, Thượng Hải. Lời lẽ tuy chất phác, nhưng mọi người chẳng chê bai, tìm đọc càng nhiều, có nhiều người sanh chánh tín. Cư sĩ Lý Viên Tịnh túc căn vừa sâu vừa dầy, chú thích các kinh luận, xiển minh Như Lai tâm, sau đó vì hao tổn tinh thần, yếu bệnh ngày càng thêm nặng, bèn bỏ nơi rộng lớn chọn lấy chỗ ước lược, lập chí nối gót Đông Lâm[37]. Lại muốn lợi lạc hàng sơ cơ, tạo thành quy củ, châm ngôn tu trì [cho họ], nên bèn trích yếu những lời trong bộ Văn Sao, phân thành từng loại để biên tập, cũng như tự bỏ ra tịnh tài in tặng những ai hữu duyên, mong cho hết thảy mọi người đều gắng sức mong thành thánh, thành hiền, giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, ai nấy đều hoàn thành tánh thiên (bầu trời chân tánh) của chính mình, vâng làm các điều thiện, tiêu trừ sạch các điều ác, tín nguyện siêng năng niệm Phật, cầu lên được chín phẩm sen, lâm chung Phật đến tiếp dẫn, đều được như trăng in bóng trên sông, ngay lập tức vãng sanh Tây Phương, vĩnh viễn thoát vực sâu sanh tử, thấy Phật ngộ Vô Sanh, dần dần đạt đến phước huệ trọn vẹn.

Do vậy, thỉnh tôi viết mấy câu để rộng lưu truyền. Lời quê lọt vào mắt nhã, uổng chuốc lấy tiếng cười chê, thương xót. Mặt dầy mày dạn dâng tấm lòng ngu thành, mong ai nấy đều xét tỏ tường. Nếu chưa vượt lên được bậc Đẳng Giác thì cũng dự vào hàng Hồi Hướng vậy.

2) Pháp môn Tịnh Ðộ lý cực cao sâu, sự cực giản dị. Do vậy, người thiên tư thông mẫn, tri kiến cao siêu thường xem [Tịnh Ðộ] là pháp tu của bọn ngu phu, ngu phụ, chẳng chịu tu trì. Nào biết đây là pháp môn rốt ráo thành thủy, thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh! Họ thấy kẻ ngu phu, ngu phụ tu được pháp này bèn coi thường pháp môn, sao chẳng xét trong hội Hoa Nghiêm, bậc đã chứng bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật, vẫn phải dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ngõ hầu viên mãn Phật Quả? Miệt thị pháp môn Tịnh Ðộ chẳng xứng đáng để tu tức là coi những vị trong hội Hoa Nghiêm thuộc hạng người gì? Hơn nữa, chỗ quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm có đáng nên tôn trọng hay nên coi thường đây?

      [Có thái độ như vậy] không có gì khác hơn là do chưa xét kỹ nguyên do của từng pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như sự lớn, nhỏ, khó, dễ giữa tự lực và Phật lực, nên mới đến nỗi như thế! Nếu đã xét kỹ, há chẳng học đòi Hoa Nghiêm Hải Chúng, nhất trí tiến hành cùng cầu vãng sanh ư? Ấn Quang tôi từ lúc búi tóc đọc sách, nhiễm ngay chất độc bài Phật của Hàn, Âu, Trình, Châu, may là không có được cái tài như Hàn, Âu, Trình, Châu. Nếu như có được chút tài như họ, ắt sẽ đến nỗi tự mình lầm, khiến người lầm, thân còn sống mà đã hãm trong địa ngục A Tỳ mất rồi! Từ năm mười bốn, mười lăm tuổi về sau, bệnh nặng nhiều năm. Từ đấy chiêm nghiệm khắp xưa nay, xem kỹ kinh sách, mới hay những thuyết do Hàn, Âu, Trình, Châu lập đó đều là những tri kiến môn đình, tuyệt chẳng đạt đến những sự huyền áo.

Nhược quan[38] được một năm, tôi liền xuất gia làm Tăng, chuyên tu Tịnh nghiệp. Thề trọn một đời này làm một kẻ tự lo giải thoát[39], chẳng lập môn đình, rộng thâu đồ chúng đến nỗi con cháu đời sau làm cho Phật pháp bại hoại, kéo cả Ấn Quang tôi vào trong địa ngục A Tỳ chịu khổ với chúng. Ðến năm Quang Tự 19 (1893), hòa thượng Hóa Văn chùa Pháp Vũ ở Phổ Ðà lên kinh đô thỉnh Ðại Tạng Kinh, sai tôi coi sóc việc ấn loát. Xong việc, Hòa Thượng mời tôi cùng về núi. Biết tôi chẳng thích tham gia [Tăng] sự, Ngài cho tôi ở riêng một căn liêu[40], tùy ý tu trì. Ðến nay đã ba mươi lăm năm rồi. Ở núi lâu ngày, hễ có ai giao cho viết lách gì, tuyệt chẳng dùng đến tên gọi Ấn Quang. Ngay cả những văn tự chính mình cần phải ký tên, cũng chỉ tùy tiện viết hai chữ là xong. Vì thế trong hai mươi năm qua, trọn không có người khách nào đến thăm, cũng không có thư từ qua lại làm phiền.

      Năm đầu Dân Quốc (1911), cư sĩ Cao Hạc Niên đem mấy thiên văn cảo đăng trên Phật Học Tùng Báo, chẳng dám dùng tên Ấn Quang, mà dùng tên Ấn Quang thường tự xưng là Thường Tàm Quý Tăng (ông tăng thường hổ thẹn). Vì thế, ký tên là Thường Tàm. Cư sĩ Từ Úy Như và Châu Mạnh Do lại lầm lạc tán thưởng, hỏi dò cả ba bốn năm nhưng chẳng ai hay biết. Sau Mạnh Do lên núi bái yết, xin quy y, đem mấy thiên bản cảo dở tệ gởi cho Úy Như, đưa in ở kinh đô, đặt tên là Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao khiến cho [văn từ của tôi] gai mắt khắp những vị cao nhã nên càng thêm hổ thẹn. Năm Dân Quốc thứ bảy, thứ tám (1918-1919), họ lại lôi ra thêm mấy thiên nữa, soạn thành sách Tục Biên, in chung với cuốn Sơ Biên. Năm Dân Quốc thứ chín (1920), giao cho Thượng Hải Thương Vụ Ấn Thư Quán sắp chữ thành hai cuốn để làm bản lưu. Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ 10 (1921), sách in xong. Quang tôi lại ở Dương Châu, đem bản đã sắp chữ năm Dân Quốc thứ 9 (1920) cho khắc thành một bản, [chia ra] làm bốn cuốn. Năm Dân Quốc thứ 11 (1922), lại giao cho Thương Vụ Ấn Thư Quán in thành bốn cuốn. Khi ấy, các cư sĩ chỉ đảm nhiệm in hai vạn bộ, nhưng đến khi Thương Vụ Ấn Thư Quán in xong, gởi ra bán, số ấy vẫn chẳng đủ!

Mùa Ðông năm Dân Quốc thứ 14 (1925), lại giao cho Trung Hoa Thư Cục in bản Tăng Quảng (bản mở rộng – do thêm vào những bài mới), cũng chia thành bốn cuốn, dày hơn lần in trước một trăm tờ. Mùa Hạ năm nay in sách, do phong trào công nhân đấu tranh, giá in rất cao, chỉ in được hai ngàn bản. Bản gốc đã đem đánh máy ra thành bốn bản sao thì nhà in giữ lại hai bản, trả về cho Quang hai bản. Tôi bèn giao cho Chiết Giang Ấn Loát Công Ty tại Hàng Châu in trước một vạn bản, sau đó sẽ in tiếp, tùy theo nhân duyên.

Cư sĩ Viên Tịnh Lý Vinh Tường trong mấy năm qua chuyên tâm nơi học, đối với luận Khởi Tín, kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác đều viết sớ giải. Quang bảo: “Người thanh niên nên thiết thực dụng công niệm Phật trước đã, đến khi nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận, phước dày rồi sẽ lại nêu tỏ [ý Phật], tự có thể xiển minh ý Phật tuyên truyền khắp vũ trụ”. Khi ấy, ông Lý vẫn chẳng chịu là đúng. Sau này, vì dụng tâm quá độ, tinh thần, thân thể mỗi ngày một suy, mới hay lời tôi nói chẳng sai. Ông ta bèn đọc kỹ Văn Sao, hoan hỷ khôn xiết nên trích lục những nghĩa trọng yếu, chia thành từng môn, từng loại, soạn thành một cuốn, cậy Quang viết lời đề từ, tính dùng giấy in báo in một ngàn cuốn để đáp ứng nhu cầu cần đọc ngay của độc giả (do những phần ấy đã được đăng trước trên tờ lâm san của Cư Sĩ Lâm, nên độc giả nhiều lượt thôi thúc ấn hành). Tháng Năm, Quang đến đất Thân (Thượng Hải), ông ta bèn cùng vợ xin quy y. Tháng Tám sách in ra, chẳng lâu sau sách được thỉnh hết. Thư yêu cầu nườm nượp gởi tới, tôi bèn bảo cơ quan quản trị nhà tù tại Tào Hà Kính sắp đặt việc in sách. Cư sĩ Trần Ðịch Châu xin đảm nhiệm việc trình bày, cũng như chịu phí tổn đánh máy bốn bản sao. Ông lại chịu tiền in hai ngàn bản. Cùng một lúc đảm nhiệm ấn loát, gần đến hai vạn. Đối với những bản đánh máy thì dự tính để lại một bản ở cơ quan quản trị nhà tù hầu [đáp ứng cho việc tái bản] lưu thông sách tại Thượng Hải, một bản gởi về cho cư sĩ Viên Tịnh giữ, để chính ông ta và các vị thiện sĩ sử dụng. Một bản gởi sang Tuyên Giảng Đường tại Cáp Nhĩ Tân để những vị có tín tâm nơi vùng Quan Ngoại[41] dễ thỉnh đọc. Một bản gởi sang Thương Hội ở Tân Gia Ba thuộc Nam Dương để Hoa kiều ở các đảo đều cùng được đọc tụng.

Với xuất xứ của mỗi câu được sao lục trong bản này, thuộc quyển nào, trang nào, ông Lý đều ghi kỹ để người đọc có thể đối chiếu với toàn văn trong Văn Sao. Do chỉ chép lấy những nghĩa trọng yếu trong các bài văn, xếp thành một loại, nên thường có [những đoạn trích] lời văn, ý nghĩa khá giống nhau, nhưng tôi chẳng lược bớt đi, ngõ hầu người đọc hưởng lợi ích được khuyên đi, khuyên lại nhiều lần sẽ đoạn ngay được lòng nghi, phát sanh lòng tin. Xuất xứ từ quyển nào, trang số mấy đều dựa theo [cách đánh số trong bản] Tăng Quảng Văn Sao. Lấy bản Tăng Quảng Văn Sao làm bản lưu thông vĩnh viễn, những thứ khác (tức những bản in có trước bản Tăng Quảng) thì về lâu về dài sẽ không phải tiến hành in lại nữa.

      Lại vì Văn Sao văn từ sâu rộng, rườm rà, có lẽ kẻ sơ cơ khó lòng phân biệt, hiểu được [đâu là pháp môn] dễ hiểu nhưng hợp cơ nghi, muốn cho họ trước hết thấy được cửa nẻo, từ đấy sẽ thiết thực tấn tu, tự đạt đến chỗ cùng cực, khỏi phải đến nỗi nhìn biển cả than dài, hoặc đến nỗi đành lòng lui sụt. Nhân đây, chép cả mục lục cuốn Văn Sao Tuyển Ðộc vào sau lời tựa cuốn Gia Ngôn Lục để người chưa từng nghiên cứu Phật học có cái nương tựa để tiến bước vào đạo. Tâm lợi người ấy có thể nói là châu đáo hết mức, không còn gì hơn được nữa! Do vậy, tôi trình bày duyên do như thế để mong người đọc đều cùng được biết.

Nguyện người thấy, người nghe đừng cho lời tôi nói đều là tầm thường, kém cỏi rồi bỏ qua, cứ cầu lấy những điều cao thâm, huyền diệu. Ðạo của Nghiêu - Thuấn chỉ là hiếu đễ mà thôi. Ðạo của Như Lai chỉ là Giới - Ðịnh - Huệ mà thôi! Thực hành được việc tầm thường, kém cỏi đến cùng cực thì lý cao thâm huyền diệu há còn phải cầu đâu khác nữa ư? Nếu không thì chỉ cao thâm huyền diệu nơi đầu môi chót lưỡi, khi sanh tử xảy đến chẳng dùng được mảy may! Xin độc giả hãy lưu tâm!

 

64. Lời tựa cho cuốn Thích Môn Pháp Giới Lục

(năm Dân Quốc 26 - 1937)

 

      Đức Như Lai chẳng xuất hiện, cõi đại thiên giống như đêm dài. Phật nhật đã chiếu khắp, các pháp đều rạng rỡ. Chẳng riêng gì tam thừa thánh nhân mau lên được bờ giác, mà còn khiến cho hàm thức[42] trong sáu đường đều dần dần thoát vòng khổ. Phật dùng một âm diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loại đều hiểu. Ví như một trận mưa nhuần thấm trọn khắp, cây cỏ mỗi loài tự sum xuê; một vầng trăng hiện bóng khắp nơi, nơi sông biển tùy mỗi người thấy khác. Chỉ rõ Phật tánh sẵn có, chúng sanh và Phật vốn đồng. Dạy rõ do tu trì thuận hay nghịch [Phật tánh] mà phàm - thánh thật khác biệt. Chia ra nói thành năm thừa, để mong [chúng sanh] theo đường về nhà. Chẳng lập một pháp ngõ hầu hiểu gốc mà biết ngọn. Ngũ tánh[43], tam thừa cùng về một đạo; Tứ Đế, Lục Độ chẳng ngoài một tâm. Hết thảy pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, pháp pháp dung nhiếp. Hết thảy hạnh Đại, Tiểu, Quyền, Thật, hạnh hạnh viên thông. Đây chính là quy củ lớn lao nuôi dạy hàng ngàn căn cơ của đức Như Lai, là nghĩa lý lớn lao trong giáo pháp suốt cả một đời đức Phật.

Xét từ lúc đạo Phật được hưng khởi vào đời Chiêu Vương nhà Châu[44], đạo truyền khắp cõi Tây Càn (Ấn Độ), đến đời Hán Minh Đế, pháp được truyền sang Đông Chấn (Trung Hoa). Thoạt đầu chỉ được hoằng truyền nơi đất Bắc, đến đời Ngô mới bắt đầu truyền xuống phương Nam. Từ đời Tấn trở đi, đạo được truyền khắp trong nước, ngoài nước: Cao Ly, Nhật Bản, Tiêm La (Thái Lan), Diến Điện đều cùng được gội pháp hóa của Phật trong thời ấy. Ngài La Thập ở Quan Trung[45], Viễn Công tại Lô Sơn, công huân hoằng pháp không ai to lớn bằng. Do vậy, pháp được truyền đến các nước, đều được bình đẳng hưởng ơn Phật. Từ đấy trở đi, đến thời Đại Đường, kinh luận, pháp môn thảy đều trọn vẹn. Tính chung những tông lớn thì có năm tông là Luật, Giáo, Thiền, Mật, Tịnh. Cố nhiên tri thức các tông đều thông suốt các pháp, nhưng để hoằng dương thì hoặc kiêm, hoặc chuyên, chỉ mong sao khế cơ, nên không nhất định! Đa số là bậc đã chứng thánh quả, thừa nguyện thị hiện, hoằng dương Phật pháp, lợi ích chúng sanh. Khi sống được vua quan khâm phục, kính ngưỡng, dân chúng tôn sùng; mất đi, trời người buồn khóc, cầm thú kêu ai oán. Làm bậc thầy mô phạm cho cõi đời khi ấy, làm cầu bến cho đời sau. Đạo đức lợi ích nói chẳng thể cùng!

Rặng Côn Luân tuy sanh ngọc, vẫn có đá tảng; rừng chiên-đàn phần nhiều thơm ngát, vẫn sanh cỏ thối. [Đó là vì chư Tăng] hoặc thừa nguyện thị hiện bệnh hạnh[46], hoặc do mê tâm nên phạm Thanh Quy. Dấu tích của những lợi ích bị mất mát và những khổ báo chiêu cảm đều đáng để khơi gợi thiện tâm cho người đời sau, răn dạy đời Mạt phải gắng chí, vĩnh viễn là gương soi về sự trái đạo nghịch pháp trong pháp môn. Vì thế, chưa chắc [những gương phạm giới ấy] đã là trái nghịch sự giáo hóa của Phật, mà là nhằm khiến cho con người y giáo phụng hành vậy.

Cư sĩ Quách Hàm Trai ở Hồ Nam xem rộng rãi các sách vở, tiện tay sao lục những chuyện đáng để làm gương, đáng để răn dè được bao nhiêu đó chuyện, đặt tên là Thích Môn Pháp Giới Lục với chí nguyện mong mỏi lợi lạc mọi người. Nhưng do tuổi đã già suy, tinh thần chẳng đủ, chưa thể sắp xếp trước sau theo từng triều đại được, thật chưa được thỏa đáng lắm, nhưng sách khiến cho người đọc bắt chước theo, đề phòng, răn dè thì nào có trở ngại gì! Phần Phụ Lục cuối sách là một số đoạn giáo huấn thiết yếu trích lục từ Vân Thê Pháp Vựng. Phần trước là những hạnh đẹp đáng noi theo, phần này chính là những lời tốt lành. Miệng thường tụng, tâm thường nghĩ những lời hay hạnh đẹp của cổ đức sẽ giống như người nhiễm hương, thân tự có mùi thơm, dù kẻ ấy ương bướng, kém cỏi đến đâu cũng trở thành bậc “tri hành hợp nhất”[47], huống là những bậc đại chí một bề mong thành thánh thành hiền, học Phật, học Tổ, lợi ích ấy làm sao lường được? Nguyện tứ chúng học Phật thấy người hiền mong được bằng, thấy kẻ chẳng hiền trong lòng tự phản tỉnh thì pháp môn may mắn lắm, thế giới may lắm thay!

 

65. Lời tựa cho tác phẩm Tịnh Độ Tam Yếu Thuật Nghĩa

(năm Dân Quốc 16 - 1927)

 

      Cư sĩ Lạc Quý Hòa ở Thiệu Hưng xưa đã có linh căn, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tự hành, dạy người, chỉ chăm chú tín nguyện trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Lại còn chú trọng giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh vật, mến tiếc sanh mạng loài vật. Lại cho rằng đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục gia đình là diệu pháp duy nhất không hai để vãn hồi thế đạo, nhân tâm. Thật có thể gọi là “người biết được cái gốc để cấp bách chú trọng trước tiên”. Lúc cư sĩ còn trẻ, rất hâm mộ chí hướng “chẳng làm lương tướng, ắt phải làm lương y” của cổ nhân, bèn lưu tâm nơi y lý để mong lợi người. Lâu ngày, tinh thông y thuật, khá nổi tiếng. Kế đó, nghĩ: “Tâm bệnh là gốc, thân bệnh là ngọn; nếu chẳng trị tâm bệnh sao cho hết thảy mọi người đích thân thấy được bản lai diện mục, thoát lìa sanh tử luân hồi thì lợi ích rất nhỏ, rốt cuộc chẳng phải là đạo tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha. Đời coi đức Phật là Đại Y Vương, ta hãy nên cầu y thuật nơi Ngài ngõ hầu ta cùng người đều được rốt ráo yên vui”. Do vậy, giao du với các thiện tri thức, nghiên cứu kinh Phật, mới biết y thuật của đức Phật độc nhất vô nhị trong cõi đời, như ra khỏi nhà tối thấy được mặt trời, tấm lòng vui sướng không thể nào sánh ví được!

Nhưng đức Phật nói ra vô lượng vô biên pháp môn, cầu lấy pháp trực tiếp, nhanh chóng nhất, viên đốn nhất, thực hiện dễ, thành công cao, ngõ hầu nghiệp lực phàm phu do không có sức đoạn Hoặc sẽ có thể ngay trong đời này thoát khỏi tam giới lên chín phẩm sen, bỏ thân phàm dự vào dòng thánh thì chỉ riêng một pháp Tịnh Độ là được như vậy mà thôi! Do vậy, lắng lòng nghiên cứu, hiểu được cương yếu, gặp dịp pháp sư Hoa Trí kết xã niệm Phật, [pháp sư] bèn xin [cư sĩ] thay mình tuyên giảng, giảng đến đâu ghi đến đó, thành một cuốn sách, từng đăng tải trên báo Đại Vân để tặng những người cùng chí hướng. Phàm ai thấy nghe đều hoan hỷ, tán thán, bảo là hợp với căn cơ. Các cư sĩ thuộc hội Phật học ở Dư Diêu khuyên nên in ra để lưu truyền, cậy tôi viết lời tựa.

Tôi nghĩ pháp Tịnh Độ lý - sự viên dung, tánh - tu chẳng hai, phàm lẫn thánh đều thâu nhiếp trọn vẹn. Hết thảy pháp môn, hà sa diệu nghĩa không gì chẳng lưu xuất từ pháp giới này, không gì chẳng trở về pháp giới này! Như biển cả dung nạp khắp trăm sông, dường thái hư chứa trọn muôn hình tượng. Quả thật là pháp môn vô thượng thành thủy thành chung để mười phương chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Vì thế, được chín giới cùng tuân hành, mười phương chung khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên nói. Tôi nói lời này, nếu có ai chẳng tin, xin hãy chất vấn Phổ Hiền Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm, ngõ hầu cùng dự vào Hoa Tạng hải hội, nhất trí tiến hành, để đều mong sao trong đời này vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, tấn tu dần dần cho đến khi viên chứng vô thượng Bồ Đề mới thôi! Cao đẹp thay! Tốt lành thay!

 

66. Lời tựa cho sách Vật Do Như Thử

(năm Dân Quốc 25 - 1936)

 

      Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Phật xem hết thảy chúng sanh đều là Phật, nên kinh Phạm Võng nói: “Ta là Phật đã thành, các ông là Phật chưa thành. Nếu tin được như vậy, giới phẩm đã đầy đủ”, bởi lẽ, tin chính mình là Phật chưa thành thì chắc chắn muốn cải ác tu thiện, phát tâm Đại Bồ Đề tự lợi, lợi tha, ngõ hầu đoạn sạch Phiền Hoặc, đích thân chứng được Chân Như Phật Tánh sẵn có nơi cái tâm này. Tin hết thảy chúng sanh trong sáu đường đều là Phật chưa thành, chắc chắn sẽ tận lực khuyên lơn, chỉ bảo, duy trì đồng loại, chắc chắn chẳng làm chuyện tranh giành, tàn sát lẫn nhau, chắc chắn sẽ muốn kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, tạo sự thuận lợi lớn lao cho dị loại, chắc chắn sẽ không có cái tâm thảm độc ăn thịt kẻ khác để bồi bổ cho ta. Do con người chẳng biết chính mình và hết thảy chúng sanh đều là Phật chưa thành nên mới tranh chấp, giết người ngập thành, ngập đồng chẳng tiếc nuối, cũng như giết thân chúng nó hòng thỏa thích bụng miệng ta.

Người đời sát sanh quen thói nên coi thường, sự thể lớn - nhỏ gì cũng đều phải giết chóc. Tế thần, cúng giỗ tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi khách, không có thịt sẽ chẳng thể thành lễ được! Đem chuyện cực khổ, cực thảm giáng xuống thân loài vật, nhằm biểu thị tấm lòng thành khẩn, hiếu kính của ta. Nếu luận trên phương diện mê muội thì còn chấp nhận được, chứ luận trên thực tế thì đáng thương quá đỗi! Do hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay luân hồi sáu nẻo, lần lượt làm cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, sanh ra lẫn nhau, trở thành oan gia đối đầu của nhau, tuần hoàn báo thù, đền đáp, giết hại lẫn nhau. Trong các kinh Đại Thừa, đức Phật đã nhiều lượt khuyên răn nhưng ít kẻ thấy nghe. Dẫu được thấy nghe, nhưng kẻ tin nhận, vâng làm, lại càng ít hơn nữa!

Do vậy, Phật dùng lòng Đại Bi, hiện trong dị loại để con người giết ăn. Đã giết xong, bèn hiện các tướng lạ ngõ hầu hết thảy mọi người biết là do Phật hiện, mong dứt sát kiếp để chúng sanh được yên. Như vỏ sò nghêu, hông bò, móng dê, răng lợn, yếm ba ba đều có [hình ảnh] đức Phật ngự [trong ấy] khiến tai mắt con người [thấy nghe] phải kinh sợ, dứt cơ duyên giết chóc trong cõi đời, những chuyện như vậy được ghi chép trong sử sách kể sao cho trọn? Trước khi giết đều nói là loài thú, đã giết rồi, mới biết là Phật. Do vậy biết sát sanh chẳng khác gì giết Phật! Dẫu không phải do đức Phật hiện ra, cũng vẫn là Phật đời vị lai. Giết ăn thì tội quá biển cả, núi non, hãy gấp đau đáu răn chừng ngõ hầu được giải thoát. Phải biết: Con người và loài vật tuy khác, mang hình dạng có linh tánh hay ngu xuẩn, kẻ ngốc tâm thức tối tăm, loài vật có linh tánh thì trí lại sáng rỡ: Ngũ Luân, Bát Đức[48] cố nhiên chẳng nhường con người, lòng thành tha thiết so ra còn sâu đậm hơn con người. Dám cậy ta mạnh, giết chúng nó ăn thịt, đến nỗi trong tương lai thường bị kẻ khác ăn!

Lần xem sử sách, từ xưa đến nay, phàm những ai lợi người lợi vật con cháu nhất định hiền thiện, phát đạt; những kẻ nào hại người hại vật con cháu nhất định tầm thường, kém cỏi, diệt tuyệt. Vì thế, Khổng Tử khen ngợi Châu Dịch rằng: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện sự vui có thừa, nhà tích điều bất thiện, tai ương có thừa). “Dư khánh, dư ương” chính là những thứ thừa sót lại của “chánh khánh, chánh ương”. Chánh khánh, chánh ương là những gì bản thân người ấy phải thọ trong đời kế tiếp hay trong những đời sau nữa do tích thiện hay tích bất thiện, so với dư khánh, dư ương sẽ còn hơn gấp trăm ngàn vạn ức lần! Nếu con người biết được điều này, chắc chắn chẳng chịu vì sung sướng nhỏ nhặt một lúc để rồi vĩnh viễn chịu đựng mối họa hại lớn lao đến vô cùng!

Trong thời Gia Khánh - Đạo Quang nhà Thanh, tại huyện Quảng Phong tỉnh Giang Tây, Thái Sử Từ Khiêm, tự Bạch Phảng, ẩn cư soạn sách hòng giác thế yên dân, chí thiết tha răn kiêng giết, đọc rộng các sách, phàm những đức hạnh tốt đẹp của loài vật đều tập hợp lại, soạn thành một cuốn sách, phân chia thành mười bốn tấm gương hiếu hữu, trung nghĩa, trinh liệt, từ ái, thương kẻ cô độc, quyến luyến nghĩa cũ, giữ chữ tín, giữ phận khiêm tốn, giúp đỡ điều lành, cứu nạn, báo đức, rửa sạch tiếng oan, hiểu biết nhiều thứ, thông minh trí huệ, đặt tên là Vật Do Như Thử (loài vật còn như thế ấy). Ấy là vì muốn cho người thấy kẻ nghe đều phát khởi [tấm lòng] giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thấu hiểu đức hiếu sanh của trời đất, chẳng tàn sát dị loại, đề cao nỗi lòng “coi mọi người như ruột thịt, coi muôn vật như chính mình” của đạo Nho, che chở khắp quần sanh. Nghĩ đến những loài vật ấy còn có những hạnh đẹp như thế, mà chúng ta mang tấm thân sáu thước, sánh cùng trời đất thành ba ngôi, xưng là Tam Tài, lại còn được kinh sách của thánh hiền giáo huấn, nếu chẳng kế thừa người xưa, mở lối cho người đời sau, tán trợ quyền sanh thành, dưỡng dục của trời đất, yêu dân, thương vật, hòng thỏa tấm lòng Từ của trời đất thì chẳng những đã cô phụ ân sâu nuôi dạy của trời đất, thánh hiền, mà còn hết sức thẹn với những dị loại bay, chạy, lặn ngụp nữa! Sẽ nói đến những chuyện như thế này: Nên hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng anh, trung với chủ, trọn hết nghĩa như thế nào, dùng Ngũ Luân để hành Bát Đức, nên bác ái, cứu vớt rộng khắp như thế nào để thực hành đại đạo “bình đẳng đối đãi”, nên như thế nào đánh đổ sự ham muốn xằng bậy của chính mình để tu trì, hòng chẳng khiến cho đấng sanh ra ta phải hổ thẹn, chẳng bị trời đất quỷ thần thương xót, chẳng bị trời đất quỷ thần xem thường, vứt bỏ, chẳng bị hết thảy loài vật khinh miệt.

Ông Từ nhân phẩm cực thuần, học vấn cực rộng, tiếc rằng đời trước chưa từng gieo thiện căn rõ ràng, đời này cũng chẳng thân cận bậc thiện tri thức sáng mắt, đến nỗi đối với Phật pháp hay ngoại đạo đều chẳng phân biệt được tà - chánh, chân - ngụy. Vì thế, trong cuốn Hải Nam Nhất Chước do ông trước tác, đã đem quyển Trung và quyển Hạ của Tâm Kinh do ngoại đạo ngụy tạo – quyển Hạ có hai loại – xếp chung ba thứ ngụy tạo này với Tâm Kinh chân chánh do đức Phật nói, tôn trọng như cùng một thể, chẳng hề thua kém nhau! Điều này tạo ra thói tệ khiến cho những kẻ không hiểu Phật pháp sẽ coi tà là chánh, xem ngụy là chân, khiến cho các ngoại đạo biến chánh thành tà, biến chân thành ngụy. Trong cuốn sách này (tức cuốn Vật Do Như Thử), mười ba tấm gương đầu chỉ luận về luân thường, cố nhiên không gì chẳng thích đáng. Trong tấm gương thứ mười bốn, lời phê bình về sự thông huệ [của ông Từ Khiêm] khó tránh khỏi khuyết điểm tà - chánh chẳng phân, mong độc giả hãy suy xét tường tận.

Ông Lý Tuấn Thừa ở huyện Vĩnh Xuân, tỉnh Phước Kiến, pháp danh Huệ Giác, nhiều năm buôn bán tại Tinh Châu (Singapore) và Nam Dương. Do đứa con thứ là Nghi Tông bị bệnh, gởi món tiền một ngàn sáu trăm đồng xin Quang ấn tống những kinh sách vãn hồi kiếp vận, uốn nắn thế đạo nhân tâm, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng loài vật v.v… Quang thấy thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống là do Tống Nho đả phá, bài xích nhân quả, luân hồi, bảo đức Phật dùng những điều ấy để lừa bịp ngu phu ngu phụ tuân phụng giáo hóa của Ngài, chứ thật ra không có chuyện ấy. Do vậy, thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, đến nỗi hùa nhau phế kinh điển, phế luân thường, tranh đất, giành thành, tàn sát lẫn nhau, không thể nào chấm dứt được!

Muốn vãn hồi sát kiếp thì phải bắt đầu từ kiêng sát sanh. Sách kiêng giết rất nhiều, nhưng sách cảm động lòng người, ngăn dứt cơ duyên giết chóc thì sách này có thể tôn là bậc nhất; bởi lẽ, loài vật còn có những hạnh cao đẹp như thế, người có lòng nghĩ đến người khác nào dám buông lung giết ăn nữa ư? Trong lời tựa lại giảng rõ ta và loài vật đều là Phật chưa thành, đức Phật muốn ngưng dứt sát kiếp trong cõi đời, liền chẳng tiếc sức hiện thân trong dị loại để cũng bị con người giết; đã giết rồi mới biết là do Phật hóa hiện. Kẻ biết tốt - xấu sẽ chẳng dám buông lung giết ăn y như cũ để tự chuốc lấy nỗi lo. Tuy cuốn sách này chẳng nói đến chuyện kiêng giết, nhưng quả thật là sách đứng đầu về kiêng giết, chấn động kẻ điếc, sáng mắt người đui, khiến cho những ai xem thấy đều dấy lòng, đều tự suy nghĩ: “Loài vật còn như thế, lẽ nào con người thua chúng?” bèn cực lực sốt sắng hành trì để khỏi hổ thẹn. Từ đấy, gắng sức trọn hết thiên chức, sống chẳng làm thây đi thịt chạy, tận lực tu tịnh hạnh, chết sẽ về thẳng thế giới Cực Lạc, sẽ thấy lễ nghĩa, nhân nhượng hưng khởi, can qua chấm dứt, thiên hạ thái bình, chánh trí mở mang, tà chấp tiêu diệt, sự giáo hóa của Phật được rộng khắp. Do vậy, cho tái bản sách này, dùng hết số tiền ông ta đã gởi để ấn tống, ngõ hầu người thấy nghe đều có được khuôn mẫu để làm người, làm Phật vậy!

 

67. Lời tựa sách Kỹ Lộ Chỉ Quy

(năm Dân Quốc 25 - 1936)

 

      Tam giới không đâu chẳng phải là quán trọ, [chúng sanh trong] lục đạo đều là kẻ nghèo cùng. Tuy hứng chịu khổ - vui tạm thời sai khác, nhưng hết vui sẽ tới khổ, rốt cuộc chẳng phải là chỗ an thân lập mạng rốt ráo! Do vậy, đức Thích Ca Thế Tôn ta đặc biệt rủ lòng thương xót, thị hiện giáng sanh trong thế gian, thị hiện thành Chánh Giác, tùy theo căn cơ chúng sanh nói đủ mọi pháp khiến cho khắp các chúng sanh đều theo đường về nhà, nhận lãnh của gia bảo, vĩnh viễn hưởng an lạc. Nhưng các pháp ấy mỗi pháp lợi lạc cho một loại căn cơ, lại chẳng dễ tu tập, dẫu tu cũng khó thể liễu thoát ngay trong đời này, bởi hoàn toàn cậy vào sức Giới - Định - Huệ của chính mình để đoạn Hoặc chứng Chân thì mới thoát sanh tử. Chúng sanh đời Mạt Pháp khó lòng trông mong được! Do lòng đại từ bi, đức Như Lai lại bày ra một pháp môn đặc biệt, đó là “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương”, để những người đã đoạn Hoặc sẽ nương vào Phật từ lực mau chứng Bồ Đề, kẻ chưa đoạn Hoặc sẽ nương vào Phật từ lực liền thoát sanh tử. Thích hợp khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn; thượng thánh hạ phàm cùng nương về, kẻ mới phát tâm lẫn người tu lâu đều cùng tiến. Pháp môn này không riêng gì phàm phu đầy dẫy phiền não nên chuyên tu, ngay cả bậc Đẳng Giác Bồ Tát sắp thành Phật cũng cần phải dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc thì mới có thể viên thành Phật quả. Pháp môn lớn lao như hư không chứa đựng rộng khắp, pháp môn lợi ích như mùa Xuân khiến cho khắp mọi loài sanh trưởng; trọn cả kiếp tán dương cũng khó lòng cùng tận.

Quang nghiệp chướng sâu nặng, trí huệ cạn mỏng, mấy chục năm qua chuyên tu pháp này. Gần đây, các ông Chiến Đức Khắc và Lý Đức Minh ở Cử Thành, tỉnh Sơn Tây, lầm nghe người khác nói, gởi thư xin quy y. Do vậy, liền dạy họ “hàng phàm phu sát đất muốn liễu sanh thoát tử ngay trong đời này mà nếu không niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì trọn chẳng có pháp nào khác để mãn nguyện cả!” Lại gởi cho họ những sách như Văn Sao v.v… để làm căn cứ tu trì. Ông Đức Khắc bèn dựa theo những ý nghĩa ấy, soạn ra cuốn Kỹ Lộ Chỉ Quy (chỉ đường về nơi ngã rẽ), mượn hình thức vấn đáp để tháo gỡ nghi ngờ, làm sáng tỏ tông chỉ. Lại cậy ông Đức Minh giảo duyệt, chí mong lợi người chẳng tiếc tâm lực. Sách đã được ấn hành lưu thông, gởi sách đến [chỗ Quang] cầu ấn chứng.

Quang đọc xong, khôn ngăn an ủi, vui vẻ. Trong ấy có chỗ câu chữ, ý nghĩa chưa viên mãn, sợ độc giả khó thể lãnh hội, nên sửa chữa đôi chút để vừa xem sẽ hiểu ngay, trọn chẳng còn nghi ngờ, bàn bạc nữa! Cho ấn hành để lưu thông rộng rãi ngõ hầu [người đọc] đối với giáo điển trong suốt một đời đức Phật, chỉ nương theo một pháp khế lý, khế cơ “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” để tu. Các pháp khác tuy cao sâu huyền diệu, rộng lớn tinh vi, khế lý nhưng không khế cơ đều để làm căn cứ sau khi vãng sanh sẽ tự hành, dạy người. Đối với đủ mọi tà kiến, kiến giải sai lầm, truyền dạy riêng tư, bí mật chẳng truyền của hết thảy ngoại đạo, những lời nói nhăng nói cuội tự xưng là “thật sự được tâm truyền của Phật, Tổ” cần gì phải nhắc đến nữa! Tu chỉnh xong xuôi, sắp giao cho thợ in, lại nhận được bài Phát Lộ Sám Hối Văn của ông Thành Phục Sơ gởi đến. Đây cũng là một sự chỉ dạy đường về nơi ngõ rẽ lớn lao rất phổ thông; do vậy, bèn đem in kèm vào sau sách hòng lưu thông rộng rãi để làm gương soi cho người khắp cõi đời vậy!

 

68. Lời tựa [giãi bày ý nghĩa việc] Cúng Tế Tổ Tiên Bằng Cỗ Chay

(năm Dân Quốc 25 - 1936)

 

      Chuyện ăn thịt là chuyện kỳ quái nhất, nhưng do quen làm đã lâu, chẳng biết là sai, ngược ngạo coi đó là lễ. Vì thế, tế trời đất, cúng giỗ tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa đều dùng thịt làm vật biểu thị tấm lòng cung kính. Thánh nhân thế gian chẳng nói đến sự lý nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo, cũng tùy thuận tâm tình của thế tục mà làm theo, nhưng vẫn ra rả về đạo “thương dân, yêu vật”. Suy từ lòng nhân yêu thương loài vật của thánh nhân, đủ biết sự vô nghĩa của việc dùng thịt nhằm biểu lộ lòng thành, lòng hiếu thảo, hay lòng cung kính! Để biểu thị tấm lòng thành, hiếu thảo, cung kính của ta, hãy nên dùng những món hết sức nhân từ, tươi tắn, thanh tịnh thì mới nên, sao lại dùng những con vật hết sức ô uế như heo, dê, gà, vịt, cá, tôm v.v… Chúng đang sống sởn sơ lại đem giết chết. Lúc những con vật ấy chết, nỗi đau đớn thảm khốc, lòng oán hận khó thể tuyên nói được. Người có lòng nhân sao nỡ giết những con vật ấy để biểu thị tấm lòng của chính mình ư? Hãy thử suy nghĩ xem lòng thành kính ấy có phải là lòng thành kính thuận lý hay không? Hay là lòng thành kính trái đức vậy? Người nhân cúng giỗ tổ tiên còn tìm thóc từ nơi người có lòng nhân. Nay cầu món thịt bị giết, bị chặt mà là thành kính hay sao?

Do vậy, nói: Sát sanh để tế trời đất chính là trái nghịch đức hiếu sanh của trời đất, thiên thần địa kỳ[49] há coi những con vật ô uế ấy là thơm sạch mà hâm hưởng[50] hay sao? Phàm những kẻ cúng tế chỉ là muốn mượn cớ đó để ăn những thứ đồ cúng đấy thôi! Đối với chuyện cúng tế tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa, hãy nên nghĩ cách có ích cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa thì mới hợp lý. Nay dùng sát nghiệp cực thảm khốc để biểu thị tấm lòng hết sức thành kính của ta, khiến cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa đều phải mang lấy cái họa do sự giết chóc thì tấm lòng thành kính ấy chính là họa hại, chứ chẳng phải là thành kính! Huống chi hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ quá khứ, là chư Phật vị lai, chẳng càng ra sức cứu vớt, lại ngược ngạo biểu thị lòng thành kính của ta bằng cách ra tay sát hại ư?

Kinh Phạm Võng dạy: “Nếu là Phật tử thì do lòng Từ nên thực hiện chuyện phóng sanh. Hết thảy người nam là cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta. Ta đời đời không lúc nào chẳng được họ sanh ra. Vì thế, chúng sanh trong lục đạo đều là cha mẹ ta, giết để ăn thịt tức là giết cha mẹ ta vậy”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Do con người ăn dê, dê chết thành người, người chết thành dê, chết chết, sống sống, ăn nuốt lẫn nhau, do ác nghiệp cùng sanh đến hết đời vị lai. Ngươi thiếu mạng ta, ta trả nợ ngươi. Do nhân duyên ấy, trải trăm ngàn kiếp thường ở trong sanh tử!” Phẩm Đoạn Thực Nhục (bỏ ăn thịt) của kinh Nhập Lăng Già dạy: “Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay luân hồi chẳng ngơi trong sanh tử, không ai chẳng từng là cha mẹ, anh em, con cái, quyến thuộc cho đến bạn bè, người thân ái, tôi tớ, đổi sang kiếp khác lại mang những thân cầm thú v.v… Sao lại giết chúng để ăn thịt?”

Người đời chỉ biết đời hiện tại, chẳng biết đến quá khứ, vị lai. Vì thế, giết thân chúng nó để no ứ bụng ta, coi đó là lẽ đương nhiên. Nếu biết đời đời kiếp kiếp phải đền trả lẫn nhau, cũng như ta và những con vật ấy là cha mẹ, anh em, quyến thuộc của nhau, sanh ra nhau, là oán gia đối đầu của nhau, giết lẫn nhau, đừng nói chẳng dám tự ăn, dù tế lễ trời đất, tổ tông, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa cũng chẳng dám dùng thịt! Bởi lẽ, thịt là vật do tinh huyết tạo thành, nói trời đất thần thánh hưởng những thứ ấy, khác gì vu báng các ngài ăn thịt người! Cúng giỗ tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ, đãi đằng khách khứa, nào khác giết tổ tông, cha mẹ, khách khứa trong quá khứ để cung phụng tổ tông, cha mẹ, khách khứa trong hiện tại, lại còn khiến cho tổ tông, cha mẹ, khách khứa [trong hiện tại] bao kiếp phải thường chịu quả báo giết hại ư?

Chớ nói con người luân hồi thành súc vật là chuyện mờ mịt khó thể tra cứu, sử sách đã ghi chép nhiều không thể kể xiết! Ngay cả những chuyện thấy nghe gần đây cũng chẳng ít gì! Vì thế, đương nhiên phải tin tưởng sâu xa, đừng tạo sát nghiệp, do đã tạo sát nghiệp ắt sẽ phải chịu sát báo! Kinh dạy: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Sợ nhân thì chẳng gây nhân giết chóc, sẽ tự chẳng có sát báo. Sợ quả chỉ là uổng công kinh sợ, trọn chẳng có ích gì! Ông Châu Thiện Xương ở Dư Diêu từ sau khi quy y chẳng ăn đồ mặn, do năm sau nhằm đúng dịp ông phải lo liệu cỗ bàn cúng giỗ vị tổ đời thứ hai mươi chín là Liễu Am Công. Những vật phẩm để cúng từ trước đến giờ đều có lệ nhất định rồi, chẳng được thay đổi. Ông ta đã bàn bạc sẵn biện pháp với tộc thúc tổ (ông chú trong họ) là cụ Sở Thường. Cụ Thường là người thông suốt, hiểu lý, hết sức tán thành. Bèn vào ngày Đông Chí, tập hợp cả họ bàn bạc, kể từ năm sau trở đi, từ rày giỗ tổ nhất loạt dùng đồ chay, chẳng dùng cỗ mặn. Mọi người đều cùng chấp thuận, vĩnh viễn lấy đó làm lệ nhất định, cậy tôi viết lời tựa để con cháu đời sau và những người thấy nghe ai nấy đều hành lòng hiếu chân chánh. Do vậy, bèn nói đại lược nguyên do như thế đó.

 

69. Lời tựa cho bản Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được viết bằng lối chữ Khải

(năm Dân Quốc 24 - 1935)

 

      Thật Tế lý địa chẳng lập mảy trần, phàm - thánh, chúng sanh - Phật đều khó xưng nói. Về phương diện tu trì, cần phải đầy đủ các đức. Nếu thiếu một pháp, chẳng thể chứng Pháp Thân được! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ta trong trần điểm kiếp[51] trước đã sớm thành Chánh Giác, vì độ chúng sanh bèn thị hiện giáng sanh trong thế gian, ẩn giấu thánh đức, thị hiện chưa ngộ giống như chúng sanh để làm gương cho muôn loài. Xuất gia, tu đạo, đến lúc sao Mai vừa lố dạng, hoát nhiên đại ngộ, than rằng: “Lạ thay, hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ trí huệ của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng, chấp trước thì Nhất Thiết Trí, Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí[52] đều được hiện tiền”. Do vậy, trong hội rộng lớn như biển, [những vị] tụ họp như mây nhóm về thế giới Hoa Tạng đều là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, tức các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị. Trong Bồ Đề Tràng và sáu nơi khác[53], nói Nhất Chân pháp giới tịch chiếu[54] viên dung, chúng sanh và Phật chẳng hai, lý tánh chẳng thể gọi là có hay không, và sự tu nhân chứng quả của các giai đoạn từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác cho đến Diệu Giác Phật Quả.

Vì thế, biết: Lý do sự hiển, sự do lý thành, lý sự viên dung mới hợp Phật đạo. Đời có kẻ cuồng chuyên trọng lý tánh, chẳng chuyên chú sự tu, trên là trái nghịch lời Phật dạy, dưới là phụ bạc tự tâm, tự lầm, lầm người, thật đáng thương xót! Kinh này gồm tám mươi mốt quyển, ba mươi chín phẩm, Thanh Lương quốc sư chia thành bốn phần Tín - Giải - Hạnh - Chứng. Lại gọi sáu phẩm thuộc phần Tín là Sở Tín Nhân Quả Châu[55]. Ba mươi mốt phẩm kinh thuộc phần Giải được chia thành hai Châu: Hai mươi chín phẩm đầu gọi là Sai Biệt Nhân Quả Châu, hai phẩm sau gọi là Bình Đẳng Nhân Quả Châu. Phần thứ ba là Hạnh gồm một phẩm kinh, được gọi là Thành Hạnh Nhân Quả Châu. Phần thứ tư là Chứng gồm một phẩm kinh, được gọi là Chứng Nhập Nhân Quả Châu.

“Châu” có nghĩa là sự lẫn lý đều trọn đủ, không bị khiếm khuyết. Đại cương của trọn bộ kinh đã được nêu ra hết sạch, y theo đây để tu trì sẽ đạt thẳng tới chỗ sâu thẳm. Tám hội trước trọn chẳng có phàm phu, Nhị Thừa. Tuy có thiên long bát bộ, nhưng đều là bậc đại quyền thị hiện, chẳng thật sự là phàm phu bị trói buộc bởi nghiệp. Một hội cuối tuy có Thanh Văn như ngài Xá Lợi Phất v.v… dẫu đã chứng thánh quả, nhưng ở trong hội chẳng thấy được Pháp Thân thắng diệu của đức Như Lai, chẳng nghe diệu lý viên đốn Nhất Thừa, chỉ thấy thân ứng hóa của Như Lai và nghe pháp sanh diệt Tứ Đế mà thôi. Đấy gọi là “một thân hiện tướng, nhưng thấy thù thắng hay kém hèn khác biệt; một âm thuyết pháp, nhưng nghe thành pháp Thiên hay Viên khác biệt”. Đến khi ngài Văn Thù đến trước Đại Tháp Miếu nơi Phước Thành[56], Thiện Tài[57] thân cận Văn Thù, đã chứng trọn tâm Thập Tín rồi, vâng lời ngài Văn Thù dạy, đi về phương Nam tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức, đầu tiên tham kiến ngài Đức Vân, liền chứng Sơ Trụ. Từ đấy, hễ nghe liền chứng, cuối cùng đến chỗ Phổ Hiền, Phổ Hiền dùng oai thần gia bị, khiến sở chứng của Thiện Tài bằng với Phổ Hiền, ngang với chư Phật, thành Đẳng Giác Bồ Tát. Phổ Hiền liền vì Thiện Tài xưng tán công đức thù thắng, nhiệm mầu của Như Lai, khuyến tấn Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng đều cùng dùng công đức của mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật Quả. Kinh này dạy rõ trọn vẹn nhân quả thành Phật trong một đời, lấy cầu sanh Tây Phương làm chỗ kết quy. Đủ biết pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Trong đời có hạng hành nhân miệt thị nhân quả và Tịnh Độ đều là vì chẳng biết nhân quả và Tịnh Độ chính là căn bản để thành Phật, cứ tưởng điều đó chỉ thích hợp cho hàng ngu phu ngu phụ đến nỗi tự đánh mất lợi lành.

Cư sĩ Tào Tung Kiều dốc lòng tin tưởng Phật thừa, mang tâm tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha, làm những chuyện giúp ngặt cứu nghèo, cứu trợ tai nạn, cứu khổ, hơn mười năm qua miệt mài gắng sức, tận lực thực hiện việc lành, tốn kém chẳng ít. Mười chuyện dự tính [thực hiện] lúc đầu, nay chỉ còn hai chuyện chưa thể tiến hành. Do quyên mộ khó khăn nên phát tâm chép toàn bộ kinh Hoa Nghiêm để mong những nhà đại từ thiện thỉnh về thọ trì, đọc tụng, rồi sẽ chẳng tiếc khoản tiền lớn lao để thành tựu hai việc lành ấy thì người chép, kẻ thọ trì đều thực hiện được Tài Thí lẫn Pháp Thí. Những kẻ nghèo khổ kia do được che chở đều sanh lòng cảm kích xưng niệm Phật hiệu sẽ có thể trong đời này hoặc trong tương lai vãng sanh Tây Phương, đều là do việc chép kinh và tụng kinh phát khởi. Công đức ấy há thể nói tận ư?

Phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện có câu: “Nếu Bồ Tát có thể tùy thuận chúng sanh thì chính là tùy thuận cúng dường chư Phật. Nếu tôn trọng, thừa sự chúng sanh, chính là tôn trọng và thừa sự Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh hoan hỷ sẽ khiến cho hết thảy Như Lai hoan hỷ. Vì sao? Do chư Phật Như Lai dùng lòng đại bi làm thể, do nơi chúng sanh mà khởi đại bi. Do nơi đại bi mà sanh tâm Bồ Đề. Do tâm Bồ Đề thành Đẳng Chánh Giác”. Do vậy biết: Cha trời mẹ đất, dân là ruột thịt, loài vật giống như ta, đối đãi bình đẳng là chuyện phải tùy theo khả năng mà gắng thực hiện vậy! Quang thẹn chẳng có tài lực, lại không có đạo đức, cảm động trước tấm lòng thành vì dân nghèo của ông ta, lược thuật đại ý kinh này để mong người thấy kẻ nghe đối với hai việc cứu giúp người nghèo và niệm Phật sẽ đều phát tâm ngõ hầu chẳng đến nỗi vốn sẵn Phật tánh có thể thành Phật mà lại chìm đắm dài lâu trong tam đồ lục đạo, oan uổng chịu khổ sở chẳng thụ dụng được!

 

70. Lời tựa cho bản chép kinh Pháp Hoa

(năm Dân Quốc 22 -1933)

 

      Kinh Pháp Hoa nghĩa lý rộng sâu, công đức rộng lớn, khai Quyền hiển Thật, thọ ký Thanh Văn thành Phật, việc lành “tán tâm niệm Phật và giơ tay, cúi đầu” cũng đều là cái nhân để thành Phật trong vị lai. Khai Tích hiển Bổn, dạy rõ Như Lai thọ lượng vô biên, quyến thuộc nơi Bổn Địa[58] và diệu dụng lợi sanh của bậc đại sĩ cũng được tỏ rõ triệt để về mặt Bổn lẫn mặt Tích, khiến cho khắp hết thảy chúng sanh đều cùng biết nỗi khổ luân hồi bao kiếp là huyễn vọng, biết Phật tánh sẵn có nơi chân tâm. Từ đó, trên là ngưỡng mộ chư thánh, dưới trọng tánh linh của chính mình, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để mong vĩnh viễn thoát khỏi Ngũ Trược, mau chứng Vô Sanh như trong phẩm Dược Vương Bổn Sự đã dạy. Thỏa mãn bản hoài xuất thế của Như Lai, là sự hướng dẫn tốt lành cho chúng sanh trong chín giới. Lợi ích ấy nếu không phải là Phật sẽ không thể biết được! Do vậy, hễ ai đọc tụng, thọ trì, biên chép, lưu thông, thì công đức ấy phàm phu trong thế gian, Nhị Thừa chẳng thể nào suy lường được!

Tôi thường nói: “Muốn được lợi ích chân thật nơi Phật pháp thì phải cầu từ nơi cung kính. Có một phần cung kính liền tiêu được một phần tội nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có mười phần cung kính liền tiêu được mười phần tội nghiệp, tăng được mười phần phước huệ”. Phàm những ai đọc tụng, thọ trì, biên chép, đều phải giữ thân - khẩu - ý trong sạch, cạn lòng thành, kiệt lòng kính như trung thần tuân phụng thánh chỉ của minh chúa, như hiếu tử đọc di chúc của từ thân (cha mẹ nhân từ), cung kính run sợ, chẳng dám coi thường thì vô biên lợi ích sẽ tự đích thân đạt được. Nếu khinh mạn, không kính nể, mặc lòng khinh nhờn, cũng giống như những nhà Nho đọc sách Nho trong thời gần đây, trọn chẳng có ý tưởng giống như đang đối trước thánh hiền, chẳng dám nghĩ tưởng dễ duôi, [những kẻ đọc tụng theo kiểu khinh nhờn ấy] tuy cũng có thể gieo được thiện căn đắc độ trong tương lai, nhưng cái tội khinh nhờn, ngạo mạn thật chẳng cạn nhỏ! Vì thế, chẳng thể không chú ý! Do cư sĩ Khế Thành Tào Tung Kiều kính cẩn chép kinh này, muốn cho những người thọ trì đọc tụng sau này đều được lợi ích chân thật, nên cậy tôi lược thuật ý nghĩa. Do vậy, tôi bèn viết bài tựa này để tặng cho. Nếu chẳng coi lời tôi sai lầm thì lợi ích đạt được sẽ chẳng thể hình dung bằng ngôn ngữ, văn tự được đâu!

 

71. Lời tựa cho tập sách Thượng Hải Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội Pháp Ngữ

(năm Dân Quốc 25 -1936)

 

Ấn Quang tôi là một ông Tăng phàm tục ở Tây Tần[59] chỉ biết đến cơm cháo, trăm sự không làm được điều gì; túc nghiệp sâu nặng đến nỗi trời phải quở trách. Mới sanh được sáu tháng đã mắc bệnh mắt, trong suốt một trăm tám mươi ngày không mở nổi mắt. Ngoại trừ lúc ăn, ngủ ra, thường khóc suốt ngày đêm. Nhờ thiện lực xưa, may còn được thấy ánh mặt trời, cũng may mắn lắm! Ðến tuổi thiếu niên[60] đọc sách, lại bị hãm vào vực xoáy báng Phật của Trình, Châu, Âu, Hàn[61]. Từ đấy, hằng ngày chuyên chí bác Phật, nghiệp tướng lại hiện, bệnh tật triền miên. Tận lực nghĩ ngợi, suy xét cặn kẽ mới biết lỗi đó; năm hai mươi mốt tuổi, xuất gia làm Tăng. Nhân thấy Tăng chúng có kẻ chẳng như pháp nên phát nguyện chẳng trụ trì chùa miếu, chẳng thâu đồ đệ, chẳng hóa duyên[62], chẳng cùng ai kết xã lập hội. Hơn năm mươi năm chẳng đổi chí ban đầu, sống lẩn quất[63] gần Ngô Môn. Ðầu tháng Chín, Lý Sự Trưởng (hội trưởng) hội Phật Giáo Trung Quốc là pháp sư Viên Anh, các vị lãnh tụ của Bồ Ðề Học Hội như cư sĩ Khuất Văn Lục v.v… thấy Quang tuổi cao, ngỡ tôi có chút tâm đắc, nào hay tôi chỉ biết húp cháo nuốt cơm, họ thỉnh tôi khi pháp hội Tức Tai Hộ Quốc khai mạc, sẽ đến đất Hỗ[64] diễn thuyết. Cố sức từ chối chẳng được, chỉ đành đem điều [mình hiểu biết] lầm lạc bù đắp sự lầm lạc[65].

Ðến kỳ, mỗi ngày ông Ðặng Huệ Tải và hai ba vị cư sĩ ở Vô Tích đều dùng máy thu âm [thu lại], nghe băng chép ra, mang đến xin tôi giám định, tính đem ấn hành. Những bản sao lục này có vài điểm sai khác đôi chút, nhưng bản sao của ông Ðặng chép chữ to, nên tôi dựa theo đó, sửa đổi, tóm tắt lại. Cảo bản[66] này bậc thông huệ chẳng cần xem đến, còn ai ngu độn như Ấn Quang tôi mà lại muốn ngay trong đời này kết liễu đại sự sanh tử và muốn trị tâm, trị thân, trị gia, trị quốc, nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu, xem đến [cảo bản này] họa chăng có điều bổ ích vậy.

 

72. Lời tựa cho niên san của Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã tại Vô Tích

(năm Dân Quốc 25 - 1936)

 

      Thánh giáo của Như Lai pháp môn vô lượng, hễ y theo một pháp nào dùng Bồ Đề tâm để tu trì thì đều có thể liễu sanh thoát tử, thành Phật đạo. Nhưng trong khi tu còn chưa chứng, sẽ có sự khó - dễ, nhanh - chậm khác biệt lớn lao! Tìm lấy một pháp chí viên, chí đốn, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, khế lý, khế cơ, vừa là tu, vừa là tánh, thích hợp khắp cả ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn độn căn lẫn lợi căn, là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường tắt cho người, trời, phàm, thánh chứng Chân thì không gì bằng một pháp tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương! Ấy là vì hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, còn pháp môn Niệm Phật lại kiêm nhờ vào Phật lực. Cậy vào tự lực thì nếu chưa đoạn sạch Phiền Hoặc sẽ chẳng thể vượt khỏi tam giới. Cậy vào Phật lực, nếu tín nguyện chân thật, thiết tha, sẽ có thể cao đăng chín phẩm sen. Con người hiện thời muốn giải quyết xong đại sự sanh tử ngay trong đời này mà bỏ pháp này thì trọn chẳng còn hy vọng gì hết!

Phải biết: Pháp môn Tịnh Độ pháp pháp viên thông. Như vầng mặt trăng sáng ngời giữa trời, dòng sông nào cũng đều hiện bóng, thủy ngân rớt xuống đất, giọt nào cũng tròn xoe. Chẳng riêng gì cách vật, trí tri, cùng lý, tận tánh, giác thế, yên dân, giữ cho nước nhà yên ổn, đều có lợi ích lớn lao thần diệu; mà ngay như cả sĩ, nông, công, thương muốn phát triển sự nghiệp, già, trẻ, nam, nữ muốn tiêu diệt tật bệnh, khổ não, không ai chẳng “hễ cảm liền ứng, vừa lòng mãn nguyện”. Nay lòng người suy hãm, cõi đời rối ren đến cùng cực, phế kinh điển, phế luân thường, bỏ lòng hiếu, vứt lòng thẹn, tranh đất, giành thành, tàn sát lẫn nhau, đủ mọi tà thuyết bạo hành được cực lực đề xướng. Nếu chẳng cứu vãn, chắc đạo làm người sẽ gần như diệt mất. Do vậy, những người hữu tâm các nơi đua nhau đề xướng Phật pháp, nêu bày nhân quả ba đời, tỏ rõ luân hồi lục đạo, chỉ ra Sa Bà trược ác, nêu rõ Cực Lạc nghiêm tịnh để mong con người trong thời buổi này sẽ dẹp trừ lòng ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lại lễ nghĩa, sống thì dự vào địa vị thánh hiền, liễu sanh thoát tử, mất sẽ trở về cõi Cực Lạc.

Ở Vô Tích, các cư sĩ Dương Tiểu Lệ, Tần Hiệu Lỗ, Viên Lệ Đình, Tào Bội Linh v.v… lập một Tịnh nghiệp xã tại chùa Sùng An, mồng Một, ngày Rằm mỗi tháng tụ họp mọi người niệm Phật, đồng thời diễn thuyết đạo “sống trong cõi trần học đạo, nơi rẫy bái báo quốc, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành” và pháp “thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ” ngõ hầu hết thảy mọi người biết duyên do “ai nấy đều có thể là Nghiêu Thuấn, ai nấy đều có thể thành Phật” sẽ trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều chuyên chú mong thành thánh, học Phật. Đấy thật sự là pháp môn đại phương tiện để “chẳng có địa vị mà hộ quốc cứu dân, chẳng tỏ lộ hình tích mà thay đổi phong tục”. Nay đã [thực hiện] được tròn một năm, thành tích của tất cả những việc lành đã thực hiện và những kinh phí chi ra, thu vào mỗi mỗi đều liệt kê trong sách để bố cáo, cậy tôi soạn lời tựa để nêu sơ lược đại ý vậy.

 

73. Lời tựa trình bày duyên khởi của Đôn Luân Liên Xã

(năm Dân Quốc 20 - 1931)

 

      Phật pháp là tâm pháp. Tâm pháp ấy chúng sanh, Phật, phàm, thánh, ai nấy đều có. Chúng sanh thì toàn thể là mê trái nên dẫu có vẫn như không. Phật thì triệt ngộ, triệt chứng, đích thân được thọ dụng, lại còn dấy lòng đại từ bi, đem sở ngộ sở chứng của chính mình chỉ dạy hết thảy chúng sanh ngõ hầu họ đều triệt ngộ, triệt chứng mới thôi! Nhưng vì chúng sanh mê muội, trái nghịch đã lâu, dù nghe đủ mọi pháp môn đối trị, nhưng bởi Hoặc nghiệp sâu dầy, phước huệ cạn mỏng nên khó lòng đạt được hiệu quả thành công ngay trong đời này. Do đã khó thể đạt được hiệu quả thành công ngay trong đời này nên lại phải thọ sanh, quá nửa bị mê mất, đến nỗi trải kiếp lâu xa luân hồi sanh tử, không do đâu thoát lìa được! Đức Như Lai thương xót, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương ngõ hầu hết thảy dù thánh hay phàm, thượng trung hạ căn đều nương vào đại bi nguyện lực của đức Phật Di Đà cùng trong đời này thoát cõi Sa Bà đây, sanh về cõi Cực Lạc kia, khiến cho kẻ đã đoạn Hoặc mau chứng Vô Sanh, kẻ chưa đoạn Hoặc cũng lên Bất Thoái.

Pháp này vừa cạn vừa sâu, vừa là Quyền vừa là Thật, thượng thượng căn chẳng thể vượt khỏi cửa thành này. Vì thế, bậc đã chứng Đẳng Giác còn phải dùng mười nguyện dẫn về, kẻ hạ hạ căn cũng có thể đạt đến cõi này. Do vậy, kẻ sắp đọa A Tỳ địa ngục vẫn có thể dự vào chín phẩm. Thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít, đạt hiệu quả nhanh, thỏa thích bản hoài xuất thế của Như Lai, là đạo thông đạt để chúng sanh thoát khổ. Vì thế, các vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ… các tổ sư như Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh… đều cùng hiện tướng lưỡi rộng dài để tán dương, phát tâm Kim Cang để lưu truyền rộng khắp; bởi pháp này chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh vậy. Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, bỏ pháp môn này thì làm sao yên được?

Tần Xuyên chính là cõi đất hoằng dương Tịnh Độ của các đại sư Thiện Đạo, Pháp Chiếu, Phi Tích, Huệ Nhật[67] v.v… xưa kia, hết thảy tứ chúng xưa kia cũng đã gieo thiện căn sâu đậm, nhưng do từ sau đời Đường hiếm có người hoằng dương pháp này đến nỗi túc căn chẳng thể phát sanh tăng trưởng, đáng than thay! Gần đây thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cùng cực, thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống. Người có tâm lo cho thế đạo đều cùng đề xướng Phật học, bởi trong đời hiện thời nếu chẳng cực lực đề xướng sự lý nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi… thì thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, muốn cho con người chẳng ăn nuốt lẫn nhau há có được chăng? Nếu chẳng đề xướng kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, trì trai, ăn chay thì sát kiếp ngập trời làm sao dứt được? Nếu chẳng đề xướng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành thì phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, chẳng thẹn, tranh thành, giành đất, tàn sát lẫn nhau, những tà thuyết bạo hành sẽ khiến cho nhân dân trong khắp cõi đời cùng mắc nỗi khổ tử vong. Nếu chẳng đề xướng tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương thì lục đạo luân hồi ai có thể thoát được? Đây chính là lý do những bậc quân tử hiểu lý đề xướng Phật học trong thời gần đây.

Phật pháp chứa trọn cương thường, luân lý thế gian, lại còn nói rõ quả báo thiện ác do trọn hết hay không trọn hết tình nghĩa, bổn phận. Quả thật là đạo trọng yếu để trị quốc bình thiên hạ. Những kẻ đố kỵ là vì chẳng suy xét nghĩa lý, bài xích xằng bậy, nói nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi đều là những lời Phật dối trá để bịp người! Do vậy, mọi người đều coi nhân quả luân hồi là chuyện mông lung, khi gió Âu vừa thổi qua, đều tranh nhau hùa theo. Nếu tin sâu nhân quả luân hồi, những tà thuyết ấy dù có dữ dội đến mấy, làm sao gây mê hoặc rối ren cho được? Đây chính là nguyên do các nơi đề xướng Phật học.

Cư sĩ Đức Tấn Ninh Chí Vũ thừa dịp phát khởi, đặc biệt lập một chỗ niệm Phật ở làng mình, đặt tên là Đôn Luân Liên Xã. Do Phật pháp gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tôi tớ trung thành, khiến cho ai nấy trọn hết bổn phận, trước hết làm người hiền, người thiện trong thế gian, lại còn sanh lòng tin, phát nguyện khẩn thiết niệm Phật, cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, ngõ hầu đoạn sạch Phiền Hoặc, khôi phục tâm tánh, viên mãn Bồ Đề, thành vô thượng đạo, lại còn dùng sở ngộ sở chứng của chính mình để dẫn dắt hết thảy hàm thức. Nguyện những người cùng quê với tôi đều cùng dấy lòng [tin tưởng, tu tập] thì may mắn lắm thay!

 

74. Lời tựa cho việc ông Triệu Vận Xương thỉnh bộ Đại Tạng Kinh bản đời Tống được in theo lối ảnh ấn

 (năm Dân Quốc 22 -1933)

 

      Ông Triệu Vận Xương ở trấn Bao Trường thuộc Nam Thông đời đời kế thừa đức hạnh, đời đời vừa cày vừa học, chỉ tu tước vị cõi trời, chẳng màng vinh hoa cõi thế, tin sâu nhân quả, dốc lòng tu Tịnh nghiệp, muốn cho con cháu đời đời vĩnh viễn vâng giữ chẳng để suy sụp, nên đặc biệt thỉnh một bộ Đại Tạng Kinh bản đời Tống, thờ nơi Phật Đường trong nhà để mong con cháu và những người trong họ đều được thọ trì, đọc tụng, chẳng đến nỗi sống uổng, chết phí, cậy Quang viết lời tựa để dạy hậu thế. Do hội ấn tống Đại Tạng Kinh bản đời Tống theo lối ảnh ấn đã sai Quang viết lời tựa, Quang bèn chép nguyên văn [lời tựa ấy] và lược thuật ý niệm thương yêu con cháu, họ hàng sâu xa của ông Triệu. Nguyện những người thấy nghe sẽ liền tùy phần tùy sức thực hành, đừng chỉ như gã si đã đến núi báu vẫn trở về tay không, thì chẳng những không cô phụ sự giáo hóa của đức Phật mà cũng chẳng phụ tánh linh của chính mình, và cũng an ủi được một phen dốc hết tâm ý thỉnh kinh của ông Triệu vậy.

 

75. Lời tựa cho bài luận Khuyến Tu Pháp môn Niệm Phật

(năm Dân Quốc 27 - 1938)

 

      Pháp môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn, quả thật đạo mầu nhiệm thành thủy thành chung để Như Lai trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Thệ nguyện của đức Di Đà cả chín giới đều được nương nhờ, chính là khuôn mẫu tốt lành “tâm làm, tâm là” để chúng sanh mau thoát biển khổ, mau dự vào Liên Trì. Pháp này là pháp môn đặc biệt nương vào Phật lực trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, chẳng thể luận định giống như hết thảy các pháp môn Đại, Tiểu, Quyền, Thật cậy vào tự lực! Cõi đời phần nhiều chẳng suy xét, kẻ hơi thông minh thì đa số kiêu căng về trí lực của chính mình, chẳng chịu tu trì, lại còn miệt thị những ai tu trì pháp này, coi khinh là ngu phu ngu phụ, như sợ bị dính bẩn vậy! Do vậy, nhường đại lợi ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này cho hàng ngu phu ngu phụ, còn chính mình chẳng muốn đạt được, chẳng đáng buồn ư? Họ chẳng biết pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, là pháp môn bắt nguồn và quy túc của hết thảy pháp môn. Do vậy, hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này, không pháp nào chẳng trở về pháp giới này.

Nếu đã đoạn sạch Tam Hoặc, chứng trọn vẹn Tứ Đức thì không tu [pháp này] cũng chẳng sao! Nếu vẫn chưa đạt đến địa vị này, xin hãy theo gót những vị Bồ Tát Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác trong Hoa Tạng hải chúng để nhất trí tiến hành, dùng công đức chẳng thể nghĩ bàn của mười đại nguyện vương để hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong mau tròn Phật quả. Người được như thế có thể gọi là đại trí huệ, là đại trượng phu, đã hoàn tất sự nghiệp thế gian lẫn xuất thế gian vậy. Lại còn phải làm giống như những vị Quán Âm, Phổ Hiền… sau khi đã chứng được Phật quả liền tùy loại hiện thân hoằng dương pháp này ngõ hầu chúng sanh đều được thành Phật đạo mới thôi.

Quang túc nghiệp sâu nặng, hơn năm mươi năm luống dự vào hàng Tăng chúng, hết thảy các pháp đều chẳng biết được một pháp nào, tuy thường niệm Phật nhưng do nghiệp nặng nên tâm chưa hề tương ứng với Phật. Nhưng tin tưởng Phật chẳng nguyện hư vọng, sẽ chẳng vứt bỏ ta, vì thế dẫu là ai cũng chẳng chuyển chí nguyện [của Quang] được. Gần đây pháp sư Viên Anh nhân lúc giảng diễn các kinh được rảnh rỗi, đã soạn bài luận Khuyến Tu Pháp Môn Niệm Phật, muốn lưu truyền, gởi thư sai Quang viết lời tựa. Quang già rồi, tinh thần lẫn mục lực đều chẳng đủ, đã tạ tuyệt những chuyện sai khiến viết lách từ lâu. Nay may mà pháp Niệm Phật lại được có người đề xướng bèn tóm nêu đại ý cho xong trách nhiệm vậy!

 

76. Lời tựa cho sách Trập Viên Trát Ký

 

      Đời loạn đến tột cùng hết thuốc chữa! Người có chí sao nỡ ngồi nhìn? Tuy sống nơi rẫy bái, nhưng những bàn luận trong gia đình, bầu bạn, chưa hề chẳng phải là lời hay ý đẹp để cứu vãn thế đạo nhân tâm vậy! Ông Trần Đôn Phục ở Sở Kỳ, pháp danh là Huệ Phục, đem những ngôn luận trong lúc thù tạc giữa gia đình và thân hữu, chọn lấy những điều trọng yếu biên soạn thành sách. Bạn bè khuyên đem in, do vậy bèn đem bản thảo gởi cho Quang, xin giám định. Quang đọc xong, thấy những lời lẽ lập luận vốn lấy ý từ sách Nho, nhưng ý nghĩa chẳng trái Phật pháp, nếu có thể y theo đó tự tu thì sự nghiệp mong thành thánh thành hiền nơi mọi người há nào khó thấy!

Lòng người đã chết, chẳng dễ vãn hồi. Khổng Tử chẳng từng nói như thế này đó sao? “Pháp ngữ chi ngôn, năng vô tùng hồ? Cải chi vi quý, tốn dữ chi ngôn, năng vô duyệt hồ? Dịch chi vi quý, duyệt nhi bất dịch, tùng nhi bất cải, ngô mạt như chi hà dã dĩ hỹ” (Lời thánh nhân nói, chẳng thể không nghe theo ư? Sửa đổi lỗi lầm mới quý. Lời nói mềm mỏng, ai mà chẳng vui? Suy xét tìm ra đầu mối mới quý. Chứ vui sướng rồi không chịu suy xét tìm ra đầu mối, chỉ nghe theo lời thánh nhân mà chẳng sửa đổi, rốt cuộc ta phải làm như thế nào đây[68]). Cõi đời lúc này, lời thánh nhân, lời mềm mỏng đều khó tạo được lợi ích vì không có ba ý niệm kinh sợ[69], chỉ toàn là khoe khoang tài năng của chính mình. Nghe lời thánh nhân bèn vỗ gươm đứng dậy, nghe lời mềm mỏng bèn coi như gió luồn qua cây, dẫu là bậc trí đức như Châu Công, Khổng Tử cũng chỉ có thể nói: “Rốt cuộc ta phải làm như thế nào đây!”

Nhưng trong khi không thể bày ra cách nào, chẳng ngại gì lập riêng một pháp. Do thế đạo đã loạn, lòng người đã chết là vì chẳng nói đến nhân quả, chẳng bàn đến giáo dục trong gia đình. Nếu có thể chú trọng hai việc này thì người người đều biết nhân quả, nhà nhà đều có giáo dục, hết thảy những lời của thánh nhân, những câu mềm mỏng đều trở thành những câu nói thường nhật trong gia đình, không một ai chịu bỏ một ngày không nhắc tới. Quang thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân bình trị thiên hạ, để Phật độ chúng sanh”. Dạy con là căn bản để trị quốc, bình thiên hạ; nhưng dạy dỗ con gái lại càng quan trọng hơn, vì có hiền nữ thì mới có hiền thê, hiền mẫu. Con cái do hiền mẫu sanh ra đều là hiền nhân. Đây là nguyên do tại sao ba bà Thái khiến cho nhà Châu được hưng thịnh, đời sau xưng tụng nữ nhân là Thái Thái. Vì thế lại nói: “Quyền trị quốc bình thiên hạ, phụ nữ nắm quá nửa vì sự giáo dục của mẹ là cội gốc vậy”. Nguyện những người đọc đều cùng chú ý!

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,

Quyển Hạ, phần 3 hết



[1] Nguyên văn là “ký cư” (sống gởi), ngụ ý ông Thí Nguyên Lượng không phải là người có quê quán tại Phụ Ninh, chỉ đến sinh sống lập nghiệp tại nơi đó.

[2] Văn Đạt là thụy hiệu của Kỷ Quân, tên tự là Kỷ Hiểu Lam. Ông Kỷ là người giữ nhiệm vụ Tổng Toản Tu (Tổng Biên Tập) bộ sách đồ sộ Tứ Khố Toàn Thư thời Càn Long.

[3] Duyệt Vi Thảo Đường chính là tên gọi một tòa biệt thự của Kỷ Quân tại Bắc Kinh. Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký là một tác phẩm mang tính tổng hợp những chuyện truyền kỳ thời ấy. Ông Kỷ đã biên soạn tác phẩm này từ năm Càn Long 54 (1789) đến năm Gia Khánh thứ 3 (1798). Ngoài những chuyện về nhân quả báo ứng, khuyến thiện trừng ác, còn có những chuyện hồ ly, thần tiên v.v… và cả những chuyện lạ lùng do chính tác giả đích thân chứng kiến. Xuyên qua những câu chuyện ấy, tác giả dí dỏm đả kích thói hư ngụy giả nhân giả nghĩa của bọn Tống Nho, thói mê tín của người đương thời cũng như kín đáo đả kích pháp luật hà khắc dưới đời Càn Long. Tác phẩm này khá đồ sộ, gồm 24 quyển, có tất cả 1.208 câu chuyện, 40 vạn chữ, và đã được Sun Haichen dịch sang tiếng Anh với nhan đề “Fantastic Tales by Ji Xiaolan” (Kỷ Hiểu Lam Kỳ Quái Cố Sự Tuyển Tập) do nhà xuất bản New World Press ấn hành. Bollati Boringhieri cũng đã dịch bộ sách này sang tiếng Ý với nhan đề “Note scritte nello studio Yuewei” và cho ấn hành tại Torino (Turin).

[4] Biệt Nghiệp (Āvenika-karma) còn gọi là Bất Cộng nghiệp là những người thiện ác do mỗi cá nhân chiêu cảm, còn Cộng Nghiệp (Venika-karma) những nghiệp do mình lẫn người đều phải gánh chịu. Nói cách khác, Cộng Nghiệp là những nghiệp chung mà một tập thể, một đoàn thể, một thành phố, một quốc gia, một dân tộc, nói rộng ra là cả thế giới phải gánh chịu, do trong đời trước đã gây tạo những nghiệp giống nhau nên nay sanh cùng một chỗ, gánh chịu những quả báo do nghiệp thiện hay ác đời trước kết thành. Nhưng trong đó, mỗi cá nhân do nghiệp riêng của chính mình mà cảm thụ sắc thân, thọ mạng, tướng mạo, tài sản, tài năng, bệnh tật, tai ương v.v… khác biệt. Đấy chính là Biệt Nghiệp.

[5] Tuyên chỉ (giấy Tuyên) là một loại giấy nổi tiếng chuyên dùng trong hội họa cổ của Trung Quốc. Đây là một sản phẩm đặc thù của huyện Kính tỉnh An Huy, có những tính chất rất quý như không giòn gẫy khi để lâu ngày, giữ được màu sắc không phai, và không dễ bị hoen ố bởi thời tiết. Đến thời Tống, các xứ Huy Châu, Trì Châu, Tuyên Châu v.v… đều chế được loại giấy này. Do trong thời ấy, những vùng này đều thuộc về Tuyên Châu Phủ nên loại giấy này được gọi chung là Tuyên Chỉ (giấy Tuyên). Giấy này được chế bằng vỏ cây Thanh Đàn, pha lẫn với loại cỏ có tên là Thủy Đạo. Từ đời Tống - Nguyên trở đi, bột giấy còn được pha thêm các loại gỗ dó, dâu, tre, hay đay để tạo thành các loại giấy Tuyên khác nhau nhằm tạo hiệu quả sống động cao nhất cho tranh vẽ.

[6] Kha La Bản là phiên âm của chữ Collotype, là một lối in tranh rất thịnh hành trước khi có kỹ thuật in Offset Lithography. Cách in này cho ra những bản in đẹp và tinh xảo không kém những bản in được khắc trực tiếp trên bản kim loại. Để in, người ta phải chế tác bản in bằng thủy tinh hay kim loại, phủ lên tấm kính một lớp gelatine để khô, rồi phủ lên một lớp mực bằng chất gelatine có pha muối Chrome. Sau đó đem rửa qua bằng nước lạnh ở nhiệt độ 16°C. Bản in sửa soạn xong, được dùng làm âm bản chụp tranh vẽ muốn in. Sau khi chụp xong, lại đem rửa bằng nước lạnh rồi để khô trong chỗ mát khoảng 24 tiếng đồng hồ. Khi in, giấy in loại tốt và mịn được trải trên bản in nói trên rồi ép cho chất bột màu từ bản in dính vào giấy in. Do vậy, cách in này rất tốn công và mắc tiền, nhưng đẹp và sắc sảo hơn in theo lối thạch bản rất nhiều.

[7] Quyền Vị Bồ Tát là những vị Bồ Tát chứng ngộ giáo pháp thuộc Quyền Đại Thừa. Gọi là Quyền Đại Thừa (hay Đại Thừa Quyền Giáo, hoặc Quyền Giáo Đại Thừa) vì những giáo pháp ấy do phương tiện quyền xảo (quyền biến, khéo léo) của chư Phật lập ra nhằm tùy thuận căn cơ, hòng khơi gợi, dẫn dắt căn cơ từ Tiểu Thừa hướng về Đại Thừa, chứ chưa phải là giáo pháp Đại Thừa thật sự (Thật Đại Thừa), hoặc chưa phải là giáo pháp Nhất Thừa tối hậu.

[8] Chùa được triều đình xuống chiếu cấp tiền trùng tu hay cử người đứng trông nom trùng tu thì gọi là “sắc tu”.

[9] Ý nói: Chỉ truyền ngôi Trụ Trì theo đức hạnh của người đáng làm Trụ Trì, chứ không vì người ấy thuộc cùng sơn môn hay là pháp quyến mà truyền ngôi Trụ Trì.

[10] Vạn Niên Bạ: Sổ ghi tài sản, đồ vật trong một ngôi chùa.

[11] Bảo Chí (418-514), thường được gọi là Chí Công Hòa Thượng, người huyện Kim Thành, xuất gia từ nhỏ, theo học với Tăng Kiệm chùa Đạo Lâm, chuyên tu Thiền. Trong niên hiệu Thái Thủy (466-471), Sư lên kinh đô, không ở nơi nào cố định, thường làm thơ lời lẽ phảng phất sấm ký, dân chúng đua nhau đến hỏi chuyện họa phước. Tề Vũ Đế cho là Sư dối gạt dân chúng bèn bắt giam, nhưng vẫn thấy Sư hằng ngày ngao du ngoài chợ, vào trong ngục khám xét, vẫn thấy Sư nằm khểnh trong đó. Vua nghe tin, bèn cho đón vào cúng dường trong hoa viên, cấm không cho ra ngoài, nhưng Sư vẫn ngao du các chùa Long Quang, Kế Tân, Hưng Hoàng, Tịnh Danh v.v… Đến thời Lương Vũ Đế lập quốc, mới giải tỏa lệnh cấm, thường vời Sư đến hỏi đạo rất tương đắc. Khi Sư thị tịch, Đế phong tặng thụy hiệu Quảng Tế Đại Sư, lần lượt các đời sau truy tặng Đạo Lâm Chân Giác Bồ Tát, Từ Ứng Huệ Cảm Đại Sư, Phổ Tế Thánh Sư Bồ Tát, Nhất Tế Mật Chân Thiền Sư v.v… Do lời thỉnh của Lương Vũ Đế nhằm cầu siêu giải nạn cho phu nhân Hy Thị, Sư đã tập hợp danh tăng soạn ra bộ Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (thường được gọi là Lương Hoàng Sám).

[12] Trí Tích Bồ Tát nói ở đây là một vị cao tăng Ấn Độ. Theo Linh Nham Ký Lược, Sư từ Ấn Độ sang Trung Hoa vào cuối đời Tấn, trùng hưng chùa Linh Nham tại Tô Châu, rất nổi tiếng về tài đức. Theo truyền thuyết có một bà lão nghèo không có gì cúng dường, đem một miếng nhựa cây sơn dâng cho Sư, Sư vẫn vui vẻ nhận lấy, nhờ đó bà được khai ngộ. Do vậy, sau này vào ngày sinh nhật Sư, chùa vẫn cử hành lễ kỷ niệm, gọi là Giác Tất Hội. Cũng theo truyện ký của chùa, đại sư nhiều lần thị hiện hóa độ Tăng - Tục rất đông.

[13] Thái Bá và Trọng Ung là hai người con lớn của Thái Vương. Theo sách Hoài Nam Tử, vì muốn nhường ngôi cho người em út là Quý Lịch, tức cha của Văn Vương, hai người này liền giả vờ đi hái thuốc rồi trốn xuống miền Nam sông Dương Tử, lập ra nước Ngô. Nước Ngô bị Câu Tiễn nước Việt thôn tính và diệt vong dưới thời Phù Sai.

[14] Sau khi Câu Tiễn bị Phù Sai đánh bại nhằm trả thù mối nhục giết cha là Hạp Lư, theo mưu kế của Phạm Lãi, Câu Tiễn đã dâng mỹ nhân Tây Thi cho Phù Sai. Phù Sai bèn xây cung Quán Oa cho nàng Tây Thi ở. Cô Tô Đài cũng thuộc quần thể cung điện này. Khi Câu Tiễn phục quốc, đánh bại Phù Sai, diệt nước Ngô đã cho phóng hỏa đốt trụi cung Quán Oa. Chùa Linh Nham được xây ngay trên nền cũ cung Quán Oa.

[15] Tư Không là một chức quan được lập ra từ thời Tây Châu, là một trong ngũ quan (Tư Mã, Tư Khấu, Tư Sĩ, Tư Đồ). Chức quan này chuyên trông nom về việc thủy lợi, xây dựng. Từ sau thời Hán trở đi, chức quan này không còn tồn tại, mà được thay thế bằng danh từ Công bộ thượng thư. Lục Ngoạn (278-341), còn gọi là Lục Lưu, tự Sĩ Dao, người Ngô Quận (nay là Tô Châu, tỉnh Giang Tô), là một thi nhân nổi tiếng thời Đông Tấn, từng giữ chức Tư Không.

[16] Ngoài câu chuyện được nhắc đến trong bài tựa này, Ngài còn nhiều lượt thị hiện chữa bệnh cho người khác. Những ai hỏi đến trụ xứ, Ngài đều bảo đến chùa Linh Nham tìm. Những người được lành bệnh đều nhận ra vị Tăng vẽ trên vách chính là người đã chữa bệnh cho họ. Vì thế, Tổ mới nói “nhiều lượt hiện thân tượng vẽ”.

[17] Lục Tượng Tiên (665-736), người Ngô Huyện, tỉnh Giang Tô, làm Tể Tướng đời Đường Duệ Tông. Cha ông từng giữ chức Tể Tướng dưới thời Vũ Tắc Thiên. Ông thoạt đầu giữ chức Tham Quân đất Dương Châu, được thăng lên làm Tể Tướng năm Cảnh Vân thứ hai (711). Trước khi ông làm Tể Tướng từng giữ chức Trưởng Sử thuộc Đô Đốc Phủ Ích Châu, quan Tư Mã phủ ấy là Vi Bão Trinh xúi giục: “Tôi nghĩ minh công nên dùng hình phạt nghiêm khắp để ra oai, nếu không, sợ rằng những kẻ dưới quyền lười nhác, không biết kiêng sợ!” Tượng Tiên đáp: “Nếu ông bảo cai trị ngay thẳng thì còn được, chứ dùng hình phạt khốc liệt để tạo oai phong, tổn người lợi mình ích gì? Đấy là việc làm của kẻ thiếu nhân từ đấy”. Ông đối xử với thuộc hạ rất nhân từ, rộng lượng, thường nói: “Thiên hạ vốn vô sự, chỉ có kẻ tầm thường tự khuấy động lên, khiến cho sự tình càng thêm rối, chỉ cần giữ thái độ trầm tĩnh thì hết thảy sự việc sẽ thành đơn giản ngay”.

[18] Hành cung: Cung điện dành cho vua ở tại các địa phương.

[19] Pháp sư Giới Trần (1878-1948) là người xứ Hán Xuyên, tỉnh Hồ Bắc, họ Khưu, tự là Địch Ngô, xuất gia năm mười chín tuổi, chuyên tu khổ hạnh, sống trong núi Chung Nam, toàn tâm toàn ý tu Thiền. Sau Sư chuyên tu niệm Phật. Dưới thời Quang Tự, Sư vào núi Kê Túc ở Vân Nam chuyên tu pháp Ban Châu Niệm Phật. Năm Dân Quốc thứ ba (1914), Sư đến mở Hoa Nghiêm Đại Học tại Hàng Châu. Về sau, Sư bế quan tại chùa Phật Thản ở Thường Thục, ngầm tu Tịnh nghiệp. Năm Dân Quốc thứ chín (1920), cùng với các vị Liễu Trần, Từ Châu v.v… lập Hoa Nghiêm Đại Học tại chùa Cửu Liên ở Hán Khẩu. Sư từng đảm nhiệm Trụ Trì chùa Linh Nham một thời gian. Sư thị tịch vào năm Dân Quốc 37 (1948) tại chùa Cùng Trúc ở Côn Minh, thọ 71 tuổi, pháp lạp 53 năm. Trước tác gồm Hoa Nghiêm Nhất Trích, Hoa Nghiêm Thất Xứ Cửu Hội Đồ, Liên Xã Minh Huấn, Tịnh Tông Yếu Ngữ v.v…

[20] Tức là không làm các pháp sự cầu an, cầu siêu, giải hạn, đảo bệnh, cầu phước, cúng sao, chúc thọ v.v… như các đạo tràng khác.

[21] Nguyên văn “chỉ luận thứ số, bất luận đại số”: Quan tâm đến thứ tự (tức tuổi tác, mức độ tu chứng, trì giới), chứ không quan tâm đến thế hệ truyền thừa. Tức là Tăng chúng trong chùa được xếp bậc theo người tu hành lâu năm, giới hạnh tinh nghiêm, chứ không vì người ấy thuộc thế hệ trước hay sau mà coi trọng. Trong các đạo tràng khác, thứ tự truyền thừa rất được coi trọng. Chẳng hạn, một vị Tăng mới xuất gia chưa được bao lâu nhưng vì là đệ tử của một vị ngang vai với thầy của vị Trụ trì hay người thuộc thế hệ cao hơn, nên được coi là sư thúc, sư bá, thái sư thúc. Các vị Tăng khác dù cao tuổi hơn, giới lạp cao hơn nhưng thuộc vai vế thấp hơn, vẫn phải lễ kính vị Tăng trẻ tuổi này.

[22] Hộ Quốc Tức Tai: Bảo vệ đất nước, chấm dứt tai nạn. Thông thường pháp hội Hộ Quốc Tức Tai thường bao gồm cầu nguyện cho quốc thái dân an, cầu siêu cho những oan hồn uổng tử. Theo truyền thống, thường tụng kinh Nhân Vương Hộ Quốc, Pháp Hoa và Kim Quang Minh, kết thúc bằng nghi thức Diệm Khẩu hoặc Vô Già Thủy Lục.

[23] Nguyên văn là Tô Thản. Người Hoa khi xưa thường gọi thủ phủ của một địa phương là Thản. Tô Thản là thủ phủ của đất Tô Châu, tức thành Tô Châu.

[24] Pháp yếu: Những chỗ quan trọng, cốt lõi của một pháp môn.

[25] Tích Sa Bản hay còn gọi là Tích Sa Tạng, gọi đầy đủ là Tích Sa Diên Thánh Viện Bản, là một trong năm loại bản in Đại Tạng Kinh thuộc đời Tống (Đại Tạng Kinh được tập thành và tu chỉnh trong nhiều đời. Hiện thời, bản Càn Long Đại Tạng Kinh được coi là bản hoàn chỉnh nhất của Đại Tạng Kinh Trung Hoa, nhưng đa phần các bản in Đại Tạng Kinh đều căn cứ vào bản đời Tống. Ngay cả Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh - bản được coi là tiêu chuẩn của Đại Tạng Kinh Hán truyền hiện thời - cũng chủ yếu dựa vào bản đời Tống). Vào Đoan Bình nguyên niên (1234) đời Tống Lý Tông nhà Nam Tống, có thuyết nói là vào năm Bảo Khánh thứ nhất (1225), Triệu An Quốc, Pháp Âm, Hoằng Đạo v.v… đứng ra quyên mộ, khắc in Đại Tạng Kinh tại chùa Diên Thánh Viện ở phủ Bình Giang (thuộc Ngô huyện, tỉnh Giang Tô). Diên Thánh Viện về sau đổi tên thành Tích Sa Thiền Viện, nên bản in này được gọi là Tích Sa Tạng hay Tích Sa Bản. Cho mãi đến năm Chí Trị thứ hai (1322) đời Nguyên Anh Tông mới in xong, gồm 1.532 bản kinh, được chia thành 6.362 quyển.

[26] Ảnh Ấn: Không rõ đây là kỹ thuật in như thế nào. Thông thường, chữ Ảnh Ấn dùng để dịch nghĩa chữ photocopy, nhưng mãi đến năm 1948, máy photocopy mới được sáng chế bởi Haloid Corporation dựa trên phát minh của Chester Carlson. Do vậy, Ảnh Ấn không thể là kỹ thuật photocopy như hiện thời. Từ điển Từ Hải chỉ giải thích sơ lược: “Ảnh ấn: Phương pháp in bằng cách chụp hình nguyên bản để chế bản in”.

[27] Giới ở đây là pháp giới. Giáo pháp của kinh Hoa Nghiêm đã vượt ra ngoài mười pháp giới nên gọi là “nằm ngoài các giới”.

[28] Hóa thành: Cái thành được biến hóa ra. Đây là một thí dụ được nói trong phẩm Hóa Thành Dụ của kinh Pháp Hoa: Một người dẫn đường dẫn mọi người đến chỗ có kho báu (bảo sở), đường xa gian nan, nguy hiểm, mọi người ngã lòng, muốn quay về, người dẫn đường bèn dùng thần thông biến hóa ra một cái thành lớn lao, tốt đẹp để mọi người vào đó, nghỉ ngơi, hồi phục sức khỏe rồi mới bảo cho mọi người biết đấy chỉ là hóa thành, chỗ có kho báu rất gần, hãy mạnh mẽ lên đường. Cũng vậy, các quả vị thuộc Tiểu Thừa giống như hóa thành do Phật phương tiện bày ra để người tu chứng đắc hòng làm cơ sở tấn tu đạo Nhất Thừa.

[29] Tứ Giáo: Bốn loại lớn trong cách phân chia giáo pháp theo tông Thiên Thai, tức Tạng, Thông, Biệt, Viên.

[30] Tình là những cảm xúc, ý niệm chấp trước, phân biệt, yêu - ghét, lợi - hại v.v… của chúng sanh, đôi khi còn gọi là “tình thức”. Tình kiến là những sự hiểu biết, nhận định dựa theo những cảm xúc, ý nghĩ, ý niệm phân biệt chấp trước ấy.

[31] Khai Quyền hiển Thật: Chỉ ra những pháp đã lập trước kia là quyền biến, chưa thật sự là Nhất Thừa, dạy rõ pháp Nhất Thừa “hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật, không có ba thừa, ba thừa chỉ là giả lập tùy theo căn cơ để cuối cùng dẫn dắt chúng sanh về một Phật thừa”. Khai Tích hiển Bổn: Chỉ rõ đâu là những sự thị hiện, chỉ rõ sự thật nơi quả địa. Chẳng hạn, Phật Thích Ca thị hiện thành tám tướng thành đạo trong cõi Sa Bà, thọ mạng tám mươi năm, nhằm khích lệ chúng sanh căn cơ hạ liệt tấn tu, hướng về Phật quả, đó là Tích. Theo như phẩm Thọ Lượng đã dạy: Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã thành Phật từ rất lâu, thị hiện thành Phật trong các thế giới khác, trong mỗi cõi thị hiện dưới danh hiệu khác, thọ mạng khác biệt, dùng những Phật sự khác biệt để thành tựu chúng sanh. Đó là Bổn.

[32] “Phù luật đàm thường”, còn gọi là “phù luật thuyết thường” là một dụng ngữ của tông Thiên Thai nhằm mô tả giáo thuyết của kinh Niết Bàn. Theo đó, đức Phật thương xót kẻ độn căn đời Mạt dễ khởi lên tri kiến đoạn diệt, hủy phá giới pháp, quên mất giáo thừa, cho Như Lai là vô thường, ham thích đọc tụng sách vở, kinh điển của ngoại đạo, nên đánh mất cả giáo pháp lẫn giới luật. Vì thế, trong kinh Niết Bàn, đức Phật giảng giải cặn kẽ giới luật để phù trợ giới môn (phù luật), cũng như nói đến lý Phật tánh thường trụ (đàm thường) nhằm phụ trợ giáo thừa.

[33] Thích kinh: giải thích tường tận ý nghĩa kinh theo từng câu, từng đoạn. Còn tông kinh là chỉ chú trọng giải thích pháp được giảng dạy, được đề cao bởi bộ kinh đó. Chẳng hạn, Thập Địa Kinh Luận là thích kinh, Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá (Vãng Sanh Luận) là tông kinh.

[34] “Tượng” nghĩa là thợ cả, thợ khéo. Ví như thợ khéo chế thành đồ dùng hữu ích, khéo léo, nên bậc tôn đức hoằng dương đạo pháp khiến cho giáo pháp được hoằng truyền mạnh mẽ, chúng sanh được lợi ích vô cùng sẽ được gọi là “pháp tượng” hoặc “tông tượng”.

[35] Phùng Đạo (822-954), tự là Khả Đạo, sanh vào năm Trung Hòa thứ hai đời Đường Hy Tông, mất năm Hiển Đức nguyên niên đời Hậu Châu. Ông này làm quan suốt năm triều đại thuộc tám dòng họ khác nhau, trải qua mười ba đời vua, nên những sử gia thời cổ thường gọi ông ta là hạng “thò lò muôn mặt”. Theo Ngũ Đại Hội Yếu, trước đó đã có những kỹ thuật khắc ván để ấn loát lẻ tẻ trong dân gian, chứ đa phần vẫn sử dụng lối chép tay. Những kinh điển quan trọng của Nho gia được các vương triều cho khắc lên đá, gọi là Thạch Kinh, nổi tiếng nhất là Khai Thành Thạch Kinh. Tháng Hai năm Trường Hưng thứ ba (933) đời Hậu Đường, Tể Tướng Phùng Đạo dâng sớ kiến nghị triều đình đứng ra triệu tập những Nho sĩ học rộng sao chép lại những bản thạch kinh thật cẩn thận bằng lối chữ Khải cho thật dễ đọc, rõ ràng, giảo chánh kỹ càng, trước khi tuyển thợ khéo khắc những bản kinh ấy lên gỗ, để in ra với số lượng lớn ban cho các châu huyện. Do ảnh hưởng của việc này, việc ấn loát bằng phương pháp mộc bản được tổ chức quy mô và nề nếp, đồng thời xuất hiện những nhà in chuyên nghiệp, khiến cho sách vở được in với giá rẻ hơn, số lượng nhiều hơn, đồng thời những kinh điển được tiêu chuẩn hóa.

[36] Điều rất lạ lùng là sử sách không ghi chép gì thân thế, hành trạng của ni sư Hoằng Đạo ngoài chuyện Ngài chặt tay cúng dường pháp. Một số tài liệu cho biết ni sư Hoằng Đạo, pháp danh là Pháp Trân, pháp tự Hoằng Đạo, do thấy kinh tạng bị thất lạc sai sót, đã không tiếc công sức vận động, quyên mộ khắc in Đại Tạng. Vào khoảng năm Bảo Khánh thứ nhất đời Tống Lý Tông, ni sư Hoằng Đạo đã mời tứ chúng đến tuyên nói công đức in kinh để mạng mạch Phật pháp được lưu truyền, rồi đối trước đại chúng tự chặt tay trái để cúng dường khiến tứ chúng hết sức cảm động hết lòng hỗ trợ công việc ấn loát. Tuy vậy, theo Nguyên Nhất Thống Chí, Thuận Thiên Phủ Chí, quyển một, thì Hoằng Đạo và Pháp Trân là hai vị khác nhau, nhưng đều cùng chặt tay để kêu gọi in Đại Tạng Kinh, bản của Pháp Trân là Kim Tạng (Đại Tạng Kinh được in dưới đời Kim), còn bản của ni sư Hoằng Đạo là Tích Sa Tạng. Cũng theo sách ấy, ni sư Pháp Trân thọ giới tại chùa Thánh An ở Yên Kinh (Bắc Kinh), chùa này được đổi tên thành Đại Diên Thánh Tự trong niên hiệu Tuyên Thống đời Kim Hy Tông, còn ni sư Hoằng Đạo thì trụ trì chùa Tích Sa, chùa này có tên cũ là Diên Thánh Thiền Viện, nên hai vị này thường bị đồng nhất với nhau.

[37] Đông Lâm là ngôi chùa do Sơ Tổ Tịnh Tông Huệ Viễn sáng lập tại Lô Sơn.

[38] Nhược quan: Thời xưa, con trai đến tuổi hai mươi, sẽ làm lễ búi tóc lên, đội mũ, gọi là lễ Nhược Quan, tức là chính thức được coi là người trưởng thành.

[39] Nguyên văn “tự liễu hán” là một thuật ngữ của Thiền Tông chỉ kẻ chỉ lo chuyên tu hòng giải thoát cho chính mình, không quan tâm đến chuyện độ sanh. Tổ tự gọi mình bằng thành ngữ này vì đương thời, rất nhiều vị trong Tông Môn coi pháp Tịnh Độ là Tiểu Thừa, chỉ lo tự độ.

[40] Phòng ở của chư Tăng.

[41] Do Cáp Nhĩ Tân (Harbin) nằm trên đất Mãn Châu cũ, tức là ở ngoài cửa ải Sơn Hải Quan (cửa ải chính để vào Trung Nguyên) nên gọi là Quan Ngoại.

[42] Hàm thức (Sattva), còn được dịch là Hữu Tình, Chúng Sanh, Hàm Linh, Hàm Sanh, Hàm Loại, Hàm Tình, hay Bẩm Thức. Do hết thảy chúng sanh đều có tâm thức, tức có những chúng sanh có cảm giác, có nhận biết, nên gọi là Hàm Thức. Xin lưu ý, chữ Chúng Sanh hiểu theo nghĩa rộng bao gồm Hữu Tình Chúng Sanh (tức các sinh vật) và Vô Tình Chúng Sanh (những khoáng vật, đồ vật). Từ sau thời ngài Huyền Trang, danh từ Sattva được dịch là Hữu Tình hay Hàm Thức, chứ không dịch là Chúng Sanh vì theo Câu Xá Luận Bảo Sớ: “Những gì do các duyên hòa hợp mà sanh thì được gọi là Chúng Sanh”. Do vậy, Hữu Tình hay Vô Tình (Phi Tình) đều do các duyên hòa hợp mà thành nên đều được gọi là Chúng Sanh. Nhưng trong các bản luận hay sớ giải vẫn quen dùng chữ Chúng Sanh để chỉ hết thảy những loài sanh vật.

[43] Ngũ Tánh là một khái niệm phân chia căn tánh theo tông Hoa Nghiêm, dựa trên căn tánh thành Phật của chúng sanh mà chia thành năm loại:

1. Bất Định Tánh Bán Thành Phật, tức căn tánh bất định, nếu gặp được pháp Nhị Thừa sẽ tu tập pháp Nhị Thừa, nếu gặp pháp Bồ Tát sẽ tu tập pháp Bồ Tát, khả năng thành Phật tùy theo căn duyên nên gọi là “bán”.

2. Vô Chủng Tánh Bất Thành Phật: Chỉ hạng người không có thiện căn, chánh tín, bài bác nhân quả, chẳng chịu nhận lãnh sự hóa độ, cam phận chìm đắm trong sanh tử, chẳng cầu giải thoát.

3. Thanh Văn Tánh Bất Thành Phật: Những người mang căn tánh Thanh Văn, chỉ tu tập pháp Tứ Đế, chứng chân không Niết Bàn, tham đắm không tịch, kinh sợ sanh tử, chẳng muốn độ sanh, tấn tu Phật đạo.

4. Duyên Giác Tánh Thành Phật: Những người mang căn tánh Duyên Giác, chỉ quán Thập Nhị Nhân Duyên, chứng chân không Niết Bàn, cố chấp thiên không, chẳng cầu Phật đạo.

5. Bồ Tát Tánh Toàn Thành Phật: Bồ Tát có thể tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, bi trí song vận, rộng tạo các nhân, chứng quả Bồ Đề.

[44] Theo quan điểm cổ truyền của Phật môn Trung Hoa, đức Phật giáng sanh nhằm thời Châu Chiêu Vương (995-977 trước Công Nguyên).

[45] Lãnh thổ nhà Diêu Tần nằm trong địa phận tỉnh Thiểm Tây, do vùng này nằm lọt giữa các cửa ải Hàm Cốc, Tán Quan, Vũ Quan và Hào Quan nên thường gọi là Quan Trung.

[46] “Bệnh hạnh” là một trong năm hạnh của Bồ Tát, được nói đến trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Theo đó, Bồ Tát vận dụng lòng vô duyên đại từ, vận tâm bình đẳng, nhằm cứu bạt những chúng sanh đang khổ sở phiền não mà thị hiện các hạnh gây tạo tội nghiệp lớn lao. Chữ Bệnh ở đây chỉ cho những tội nghiệp, vì tội nghiệp chính là bệnh nơi thân - khẩu - ý. Chẳng hạn như ngài Ưu Đà Di thị hiện phạm nhiều hạnh bất tịnh để Phật có cơ duyên chế giới, cũng như ngài Đề Bà Đạt Đa thị hiện phá hòa hợp Tăng, thị hiện phạm đại tội Ngũ Nghịch, thị hiện đọa địa ngục A Tỳ để cảnh tỉnh người đời sau về quả báo Ngũ Nghịch, hoặc như Hàn Sơn, Thập Đắc, Tế Điên thị hiện điên khùng, không giữ Thanh Quy đều nhằm hóa độ chúng sanh.

[47] “Tri hành hợp nhất” là học thuyết của Vương Dương Minh (tức Vương Thủ Nhân 1472-1558). Ông chủ trương cái học, cái biết phải đi đôi với việc làm, kiến thức phải phù hợp với hành động, biến những điều đã học thành hành động thực tiễn, chứ không phải chỉ để nói xuông, lòe đời.

[48] Ngũ Luân: Năm mối quan hệ trọng yếu giữa người với người: Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè.

Bát đức: Hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ.

[49] Thiên thần địa kỳ: Thần trên cõi trời gọi là “thiên thần”, thần cai quản cõi đất được gọi chung là “địa kỳ”.

[50] Hâm hưởng: Quỷ thần hưởng thụ vật cúng bằng cách ngửi mùi thì gọi là “hâm hưởng”.

[51] Số kiếp như số bụi vi trần.

[52] Nhất Thiết Trí (Sarvajña) còn được phiên âm là Tát Bà Nhã Trí, tức trí đúng như thật hiểu rõ hết thảy các pháp tướng bên trong lẫn bên ngoài. Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa, quyển Hạ giải thích: “Trọn đủ vô lậu giới, thường tịnh giải thoát thân, tịch diệt chẳng nghĩ bàn, gọi là Nhất Thiết Trí”. Du Già Sư Địa Luận, quyển 38 giảng: “Trong hết thảy cõi, hết thảy sự, hết thảy phẩm, hết thảy thời trí vô ngại nên gọi là Nhất Thiết Trí”. Đại Trí Độ Luận giảng: “Về tổng tướng thì là Nhất Thiết Trí, biệt tướng là Nhất Thiết Chủng Trí, nhân là Nhất Thiết Trí, quả là Nhất Thiết Chủng Trí, nói lược là Nhất Thiết Trí, nói rộng là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Trí là phá hết thảy sự vô minh tối tăm trong hết thảy các pháp, Nhất Thiết Chủng Trí là quán các pháp môn, phá các vô minh… Nhất Thiết Trí là chuyện của Thanh Văn, Duyên Giác, Đạo Trí là chuyện của Bồ Tát, Nhất Thiết Chủng Trí là chuyện của Phật”.

Vô Sư Trí (Anupadista-jñāna), tức trí thành tựu không nhờ vào sức của người khác, không đợi người khác dạy mà tự nhiên thành tựu. Trí huệ do tự mình chứng ngộ, như trí huệ do đức Phật tự chứng chẳng hạn, hoặc như bậc Duyên Giác, quán các pháp nhân duyên sanh diệt bèn chứng trí giác.

Tự Nhiên Trí (Svayambhū-jñāna), chư Phật không cần dụng công, tự nhiên sanh ra Nhất Thiết Chủng Trí. Trong Pháp Hoa Kinh Huyền Tán, quyển năm, pháp sư Khuy Cơ đời Đường đã viết: “Phật do giác ngộ mà sanh ra hai trí Quán Không Trí và Quán Hữu Sự Trí, [hai trí ấy] được gọi là Tự Nhiên Trí”. Đại Nhật Kinh Sớ, quyển sáu chép: “Tự Nhiên Trí là trí do đức Như Lai tự giác tự chứng, chứ không do tu học mà có, cũng không có cách nào truyền dạy cho người khác được”. Tổng hợp hai cách giải nghĩa này thì Tự Nhiên Trí chính là tác dụng của sự giác ngộ hoàn toàn, tức nói đến mặt lực dụng của Nhất Thiết Chủng Trí sau khi đã viên mãn Phật quả.

[53] Kinh Hoa Nghiêm được giảng tại bảy chỗ là Tịch Diệt Đạo Tràng (tức Bồ Đề Tràng), điện Phổ Quang Minh, Đao Lợi Thiên Cung, Dạ Ma Thiên Cung, Đâu Suất Thiên Cung, Tha Hóa Tự Tại Thiên Cung và rừng Thệ Đa.

[54] Tịch: Vắng lặng, không xao động. Đây là thuật ngữ mô tả Phật tánh thường hằng bất biến, không bị ngoại cảnh làm ô nhiễm, biến đổi, thường được diễn tả bằng câu nói “bất sanh, bất diệt, bất nhất, bất nhị, bất tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh”. Giải thích một cách nông cạn thì Chiếu là khả năng nhận biết thông suốt mọi sự. Tuy thông suốt nhưng không chấp trước, không bị ô nhiễm bởi ngoại cảnh nên nói là “tuy chiếu mà thường tịch”, dẫu vắng lặng nhưng không hề mất khả năng thấu hiểu trọn vẹn nên gọi là “tuy tịch nhưng thường chiếu”.

[55] Đây là cách phán định giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm đã được ghi trong quyển ba và bốn của Hoa Nghiêm Kinh Sớ:

1) Sở Tín Nhân Quả từ phẩm thứ nhất đến phẩm thứ sáu. Năm phẩm đầu hiển thị quả đức của Tỳ Lô Giá Na Như Lai, phẩm thứ sáu xiển dương rõ ràng cái nhân chánh yếu để thành Phật. Do khơi gợi lòng tin tưởng khiến chúng sanh nhận lãnh giáo pháp nên gọi là Sở Tín Nhân Quả.

2) Sai Biệt Nhân Quả Châu là phần nói về nhân quả tu hành, nói về những pháp môn sai biệt của bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ và mười địa vị thuộc Thập Tín (Thập Tín không thuộc vào Pháp Thân đại sĩ), gồm tổng cộng hai mươi chín phẩm. Hai mươi sáu phẩm đầu nói về nhân sai biệt trong năm mươi mốt địa vị (Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác). Ba phẩm sau nói về quả tướng sai biệt của Tam Đức.

3) Bình Đẳng Nhân Quả Châu (còn gọi là Hiển Tu Nhân Quả, Xuất Hiện Nhân Quả), gồm hai phẩm: phẩm Phổ Hiền Hạnh nói về cái nhân viên mãn bình đẳng; phẩm Như Lai Xuất Hiện Tướng nói về quả báo viên mãn của đức Tỳ Lô Giá Na. Do nhân quả nhiếp thụ lẫn nhau, bình đẳng bất nhị nên gọi là Bình Đẳng Nhân Quả.

4) Thành Hạnh Nhân Quả Châu (còn gọi là Xuất Thế Nhân Quả): Chỉ gồm một phẩm, tức phẩm Ly Thế Gian, phần đầu nói về nhân hạnh nơi năm địa vị, phần kế dạy rõ về quả tướng đại dụng của tám tướng thành Phật, nên gọi là Thành Hạnh Nhân Quả.

5) Chứng Nhập Nhân Quả: Chỉ gồm một phẩm, tức phẩm Nhập Pháp Giới, phần đầu giảng về đại dụng tự tại của Phật Quả, phần sau hiển thị Bồ Tát khởi dụng tu nhân, đồng thời chứng nhập cả nhân lẫn quả nên gọi là Chứng Nhập Nhân Quả.

Xin lưu ý là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thật ra là phần cuối của phẩm Nhập Pháp Giới, bản Bát Thập Hoa Nghiêm do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch bị thiếu mất phần này; về sau ngài Bát Nhã đem phần này sang Trung Hoa và dịch ra tiếng Hán, kinh Hoa Nghiêm mới được viên mãn. Do phần cuối này là cương yếu của toàn phẩm Nhập Pháp Giới cũng như của toàn bộ kinh Hoa Nghiêm nên được chia thành một cuốn riêng và lưu hành như một phẩm riêng biệt.

[56] Theo kinh Bát Thập Hoa Nghiêm, khi ngài Văn Thù du hành về phương Nam đã nghỉ chân tại rừng Trang Nghiêm Tràng Sa La ở phía Đông của Phước Thành. Thành này là nơi chư Phật trong quá khứ từng an cư để giáo hóa chúng sanh. Nơi ấy có một ngôi tháp miếu lớn, chính là chỗ Phật Thích Ca trong quá khứ tu nhân hạnh Bồ Tát đã xả được những điều khó xả nhất.

[57] Theo phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử (Sudhana-śresthi-dāraka) là con một vị trưởng giả ở Phước Thành. Do lúc sanh ra trong nhà tự nhiên xuất hiện đủ thứ trân bảo nên có tên là Thiện Tài. Theo Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký quyển 10, lịch trình tham học của Thiện Tài với các vị tri thức chính là lịch trình tu học xuyên suốt năm mươi mốt địa vị (chỉ riêng ở nơi ngài Văn Thù, Thiện Tài đã chứng trọn mười địa vị thuộc Thập Tín), thể hiện ý nghĩa “nhất sanh thành Phật” (thành Phật ngay trong một đời).

[58] Trong phẩm Tùng Địa Dũng Xuất kinh Pháp Hoa, khi các Bồ Tát từ những phương khác đến dự hội phát nguyện thụ trì, lưu thông kinh này, Phật nói “không cần, vì trong cõi này đã có các vị Bồ Tát phát nguyện hộ trì, lưu thông kinh!” Đức Như Lai nói xong, từ dưới đất vọt lên vô số vị Bồ Tát chẳng thể đếm kể được. Ngài Di Lặc Bồ Tát nhân đấy khởi lòng nghi, hỏi vì sao đức Phật chỉ thành đạo trong thời gian rất ngắn lại có thể giáo hóa vô lượng vô biên vị Bồ Tát như vậy. Tiếp đó, trong phẩm Như Lai Thọ Lượng, đức Phật bèn nói rõ thọ lượng không thể nghĩ bàn của Như Lai, cũng như Ngài đã thành Phật từ bao kiếp lâu xa mà hàng phàm phu chẳng thể hình dung được.

[59] Tổ Ấn Quang quê ở Thiểm Tây. Tỉnh Thiểm Tây thuộc lãnh thổ cũ của đất Tần (thời Xuân Thu Chiến Quốc) nên Thiểm Tây còn được gọi là Tây Tần.

[60] Nguyên văn “thành đồng”: Theo tự điển Từ Hải, từ mười ba tuổi trở lên, mười bảy tuổi trở xuống thì gọi là “thành đồng”.

[61] Trình, Châu, Âu, Hàn là Trình Y Xuyên, Châu Hy, Âu Dương Tu, Hàn Dũ, họ là những nhà Tống Nho cực lực bài xích đạo Phật. Người bài bác đạo Phật nặng nề nhất là họ Trình và họ Chu.

[62] Hóa duyên: Kêu gọi tín đồ đóng góp cúng dường.

[63] Nguyên văn là “hoạt mai” (chôn sống), ý Tổ nói sống mà ẩn dật như người đã chết rồi. Ở đây chúng tôi chỉ dịch gọn là “lẩn quất”.

[64] Ở vùng Thượng Hải có con sông lớn tên là Hỗ Ðộc giang, nên người Hoa hay gọi Thượng Hải là đất Hỗ.

[65] Ở đây Ðại Sư ý muốn dùng câu “Tương thác tựu thác” của ông Vô Vi Tử (Tống Dương Kiệt), ngụ ý: Khi chưa triệt chứng Phật tánh thì cầu sanh Tịnh Ðộ vẫn là lầm lạc, nhưng phải dùng cái lầm lạc đó để tạo cơ hội dứt trừ cái lầm lạc trong đường sanh tử.

[66] Cảo bản: Bản nháp, ở đây Tổ dùng với ý nghĩa lời giảng giải của Ngài thô sơ, thiếu sót, không hoàn chỉnh.

[67] Huệ Nhật (680-748) là một vị cao tăng Tịnh Độ đời Đường, quê ở Đông Lai (tỉnh Sơn Đông), từ nhỏ đã theo học với pháp sư Nghĩa Tịnh sau khi Ngài cầu pháp từ Thiên Trúc trở về, tự thề sẽ noi gương thầy sang Ấn Độ. Năm Tự Thánh 19 (702), Sư ngồi thuyền qua các quần đảo Côn Luân (nay là nhóm đảo Mã Lai, Nam Dương), Phật Thệ (nay là Sumatra), qua Sư Tử Châu (Sri Lanka), rồi đến Ấn Độ, triều lễ thánh tích, tìm cầu kinh điển bằng Phạn văn, tham phỏng các vị thiện tri thức suốt mười ba năm không nề hà gian khổ. Qua gian khổ, ý nguyện nhàm chán Sa Bà, sanh về Phật quốc yên vui càng sâu đậm, các vị Tam Tạng pháp sư mà Sư được tiếp xúc đều nồng nhiệt khen ngợi Tịnh Độ A Di Đà thù thắng. Khi Sư đến nước Ma Kiệt Đà, ở phía Đông kinh đô có một quả núi trên đó có tượng Quán Âm, Sư đến lễ thánh tượng, nhịn ăn cầu nguyện, đến ngày thứ bảy mới cảm được Đại Sĩ hiện thân sắc vàng, xoa đầu khai thị. Sư tiếp tục đi tham học nơi bảy tiểu quốc nữa, đến năm Khai Nguyên thứ bảy (719) mới trở về Trường An, dâng lên tượng Phật và kinh điển. Huyền Tông sắc tứ danh hiệu Từ Mẫn Tam Tạng. Sư siêng tu pháp môn Niệm Phật, hoằng dương giáo nghĩa Tịnh Độ, biên soạn các tác phẩm như Vãng Sanh Tịnh Độ Tập (3 quyển), Ban Châu Tam Muội Tán v.v…

[68] Chúng tôi dịch câu nói này theo cách diễn giảng của cụ Lý Bỉnh Nam trong bộ Luận Ngữ Giảng Yếu.

[69] “Ba điều kinh sợ” xuất phát từ câu nói của Khổng Tử được chép trong thiên Quý Thị sách Luận Ngữ: “Quân tử hữu tam úy, úy thiên mạng, úy đại nhân, úy thánh nhân chi ngôn. Tiểu nhân bất tri thiên mạng nhi bất úy dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn” (Quân tử có ba điều sợ: Sợ mạng trời, sợ những người nắm quyền cai trị công chánh, sợ lời dạy của thánh nhân. Tiểu nhân chẳng biết mạng trời nên không sợ, khinh thị đại nhân, coi rẻ lời thánh nhân). Theo cụ Lý Bỉnh Nam trong Luận Ngữ Giảng Yếu, “úy” có nghĩa là kính nể, không dám trái phạm. “Đại nhân” là những người có quyền vị, nắm giữ sự cai trị công bình, chánh trực. “Thiên mạng” phải hiểu là thiện ác báo ứng như kinh Thư đã chép: “Huệ địch cát, tùng nghịch hung, duy ảnh hưởng”, chứ không phải là ý muốn độc đoán của một đấng Tạo Hóa nào!