Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên
感應篇彙編
Quyển 3
Phần 2
(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội năm 2000)
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
(Chánh
văn) Ly nhân cốt nhục, xâm nhân sở ái, trợ nhân vi
phi.
(正文)離人骨肉。侵人所愛。助人為非。
(Chánh văn: Chia ĺa cốt nhục của kẻ
khác, xâm phạm những thứ yêu thích của người
khác, giúp kẻ khác làm quấy).
“Ly”
(離) có hai nghĩa. Một là truy bức những kẻ
thiếu nợ, và quan lại, nha dịch vơ vét tài sản,
khiến cho kẻ khác phải bán chác con cái. Một nghĩa
nữa là ôm ḷng riêng tư xúc siểm, xúi giục, ly gián, khiến
cho kẻ khác chia ĺa. [Những hành vi ấy] đều là bất
nhân quá mức! Chẳng biết t́nh cốt nhục thuộc
về quan hệ huyết thống, thuộc về thiên
tánh, có mối thiên luân trong ấy. V́ thế, người có
ḷng nhân trông thấy cốt nhục của người khác nghèo khó,
quẫn bách, khó sống, bèn dùng tài lực giúp đỡ, khiến cho họ
được an toàn. Đối với những kẻ [có
t́nh cốt nhục mà] ôm niềm oán cừu, hiềm khích, bất
ḥa [với nhau], bèn điều đ́nh, hóa giải, khiến
cho họ ḥa thuận, tốt đẹp với nhau. Đấy
là con đường trọng yếu của kẻ tu chân vậy.
Tông Truyện nghe người
đàn bà hàng xóm và con cái ôm nhau khóc suốt đêm. Hỏi
thăm, th́ ra người chồng mắc tội, [người
vợ] tính bán ḿnh để chuộc tội cho chồng.
Ông kinh ngạc, bỏ tiền giúp đỡ, khiến cho vợ
chồng, mẹ con họ được như xưa. Khi ấy,
ông hiếm muộn con, ngay trong năm đó bèn sanh
được một đứa. [Về sau], con cháu ông
đông đúc.
An Đ́nh Bách thích ly gián. Hắn
lại có tài ăn nói. Tuy chí thân mà bị hắn ly gián, lập
tức biến thành oán cừu, hiềm khích. Anh em Lư Trung Phủ
ḥa thuận, do Đ́nh Bách xúc xiểm mà đến nỗi
đấu đá nhau! Thái Luân và Trương Nghĩa là anh em
con cô, con cậu thân thiết với nhau, nghe theo, tin lời Đ́nh Bách [đâm bị thóc, chọc bị
gạo] mà tuyệt giao. Những chuyện khác chẳng thể
nêu trọn! Về sau, Đ́nh Bách bị trắc trở,
nghèo túng, khốn đốn, hai bên má lở loét, họng và
lưỡi rữa nát, chẳng ăn uống được,
kêu gào rồi chết.
Tống Anh Tông[1] lên ngôi, gặp
phải t́nh cảnh do ít ban ân cho bọn nội thị, họ
nhiều lượt sàm tấu, ly gián trước mặt Thái
Hậu, khiến cho hai cung (nhà vua và Thái Hậu) trở thành
hiềm khích. Một hôm, Hàn Kỳ và Âu Dương Tu tâu
tŕnh chánh sự trước rèm, Thái Hậu nghẹn ngào,
rơi lệ, kể lể cặn kẽ nguyên do. Hàn Kỳ tâu: “Đấy là v́ [hoàng đế]
bệnh tật mà thành ra như thế. Bệnh lành, ắt
sẽ chẳng như vậy”. Ấy là v́ khi đó, hoàng
đế bị kinh nghi mà thành bệnh. Âu Dương Tu tâu
rằng: “Thái Hậu phụng sự tiên đế mấy
chục năm, nhân đức rạng rỡ thiên hạ.
Xưa kia Ôn Thành[2] được
[tiên đế] sủng ái, Thái Hậu vẫn cư xử
ḥa dịu, khoan dung. Nay giữa mẹ và con, sao lại chẳng
thể dung thứ cho nhau ư?” Hàn Kỳ lại tâu: “Thái Hậu
không có con ruột, hoàng đế từ bé đă được
nuôi nấng trong cung. Hoàng Hậu lại là cháu bên ngoại[3]; đấy
là trời đă xếp đặt đứa con trai ấy
và con dâu cho Thái Hậu, há chẳng đáng yêu thương
ư?” Tâm Thái Hậu mới dịu bớt. Hàn Kỳ lo sẽ
có biến, bèn nói thẳng cho Thái Hậu động tâm: “Bọn
thần ở ngoài, chẳng được gặp quan gia[4], sự bảo
vệ trong cung hoàn toàn cậy vào Thái Hậu. Nếu quan gia
chẳng được chiếu cố và dạy bảo, Thái
Hậu sẽ chẳng tránh được trách nhiệm ấy!”
Thái Hậu hoảng sợ, bảo: “Tể Tướng! Sao
ông lại nói vậy khiến cho tâm ta càng áy náy hơn”. Những
người cùng hiện diện nghe [nói như vậy], không
ai chẳng toát mồ hôi!
Hôm khác, Hàn Kỳ một ḿnh
gặp vua, tâu: “Bệ hạ lên ngôi đều là do ân của
Thái Hậu, chẳng thể không báo đáp. Xin hăy càng chú ư hầu
hạ th́ sẽ vô sự”. Vua đáp: “Ta kính cẩn vâng theo
lời dạy”. Mấy hôm sau, Hàn Kỳ lại vào gặp
vua, vua nói: “Thái Hậu ít đối xử với ta bằng
ân nghĩa”. Hàn Kỳ tâu: “Từ xưa, bậc thánh đế
hiền vương chẳng thể nói là ít, chỉ riêng vua
Thuấn được khen là đại hiếu, chẳng
lẽ những vị khác đều bất hiếu ư? Cha
mẹ nhân từ mà con hiếu thuận, đấy là chuyện
thường, chẳng đáng nói đến. Chỉ có cha mẹ
chẳng nhân từ mà con có thể hiếu th́ mới
đáng ca ngợi, chỉ sợ bệ hạ chưa phụng
sự hết mức đó thôi! Cha mẹ há có ai chẳng
nhân từ ư?” Vua hết sức cảm ngộ. Thuở ấy,
triều đ́nh có lắm biến cố, kẻ tiểu
nhân ly gián đủ mọi cách. Rốt cuộc khiến cho hai cung ḥa thuận là nhờ sức của
Hàn Kỳ và các vị hiền thần vậy.
Con người có điều
yêu thích riêng, như ruộng, đất, nhà cửa, sách vở,
những vật quư lạ, dụng cụ, quần áo, trang sức
v.v… ắt muốn lập mưu kế xâm đoạt,
như thế th́ có khác ǵ bọn giặc cướp cho mấy? Ông Vu Thiết Tiều nói: “Vật không
có đẹp hay xấu, đối với người yêu
thích th́ sẽ là trân quư. Kẻ khác xâm phạm thứ ta yêu
thích, ḷng ta sẽ như thế nào?” Lỗ Tử Tấn
nói: “Nếu trong lúc ấy, cứ nghĩ vật ta yêu mến
bị kẻ khác xâm phạm, chiếm
đoạt, sẽ chẳng sợ tham niệm
không dứt vậy”.
Trương Cai có một ṭa
nhà to lớn, do thiếu tiền tiêu dùng, bèn cầm
cố ṭa nhà ấy cho Trương Tuấn với giá một
ngàn mân[5].
Trương Tuấn yêu thích, muốn chiếm đoạt,
bèn biếu xén trọng hậu người môi giới để
kẻ ấy [sửa văn khế cầm cố] thành văn
khế bán đứt. Về sau, Trương Cai túng quẫn,
muốn bán đứt; [Trương Tuấn] đưa văn khế cho xem, chính là văn khế
đă bán đứt. Trương Cai trào
nước mắt, nguyền với trời rằng: “Tao
nguyền cho con cháu của mày rồi cũng giống như tao!” Về sau, con
cháu của Trương Tuấn đều mất tiếng
mà chết. Phàm ruộng nương, nhà cửa là vật
ngoài thân, v́ xâm chiếm, lường gạt, mà phải
đền trả bằng con cháu yêu thương nhất,
c̣n ngu ǵ bằng? Kẻ thích chiếm đoạt của
người khác, hăy nên răn dè!
Giúp người khác làm quấy,
và thành tựu điều ác cho người khác, [cũng
như] chẳng thể hướng dẫn người
khác hành thiện, đều thuộc phạm vi [của lời
răn này]. Đức Phật dạy: “Thuyết pháp, giáo hóa th́ gọi là Pháp Thí. Có thể
khiến cho chúng sanh nghe pháp, do nhân duyên ấy, sẽ đắc
vô lượng thiện báo”. Công Quá Cách nói: “Dạy người khác làm quấy,
cứ mỗi chuyện là một lỗi. Đối với
chuyện to lớn th́ tùy theo từng chuyện mà luận
định tội lỗi. Tích tập cái nhân xấu ác ấy,
sẽ bị vô lượng ác báo”. Ngu ư cho rằng:
Hướng dẫn người khác làm lành th́ điều
lành của người khác sẽ đều là điều
lành của chính ḿnh, mà điều thiện của chính ḿnh
ngày càng thuần. Giúp kẻ khác làm ác, điều ác của
kẻ khác sẽ đều là điều ác của chính
ḿnh, nhưng điều ác của chính ḿnh ngày càng tăng.
Điều thiện, lẽ ác sẽ quy về [những quả
báo khác biệt] vời vợi một trời, một vực!
V́ thế, sự báo ứng họa phước rạch ṛi
như mây và bùn! Người biết lẽ này, sẽ biết
bỏ [điều ác] và theo [điều lành] như thế
nào?
Dương Khai làm huyện lệnh
Đan Dương, tánh t́nh hung bạo, ngang ngược. Dương
Tuần là mạc khách[6], khéo suy
đoán ư kẻ khác, mong được họ ưa thích,
tuy biết rơ người khác sai trái, cũng chẳng dám
trái ư. Đối với những chuyện Dương Khai
đă làm, [Dương Tuần] chỉ khen ngợi mà thôi! Một
hôm nắng gắt, Dương Khai phạt trượng bọn
nha dịch và giam tù hơn bốn mươi người,
hai người bị chết, Dương Tuần vẫn
a dua, khen ngợi. Đến đêm, [Dương Tuần] mộng
thấy thần quở trách: “Kẻ giúp Dương Khai làm
ác thật sự là ngươi, đáng có cùng tội”. Chẳng
lâu sau, Dương Tuần bị bệnh ngặt mà chết.
Nh́n vào việc này, những kẻ làm mạc tân trong hiện
thời có thể tỉnh ngộ.
Ông Ngô ở Tô Châu nhà nghèo,
không có tài sản, đến chơi nhà người phú quư,
thường khuyên những người sang cả làm chuyện
phương tiện. Nếu gặp kẻ tánh t́nh tham lam,
tàn bạo, ắt dốc nhiều công sức dùng điều
thiện để khuyên bảo
họ. Thấy người làm lành, ắt khen ngợi, tán
thành. Ông có thiện đức cực nhiều, chẳng thể
thuật trọn. Con ông là Tùng Châu đỗ đạt trong
tuổi thiếu niên. Ông hưởng thượng thọ.
Trong mười đại
nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, có một điều
là “tùy hỷ công đức”,
tức là thấy người khác làm các
công đức, sẽ v́ họ tùy hỷ, tán dương.
Kinh nói: “Phước của tùy
hỷ, như một người bán hương, một
người mua hương. Người bên cạnh nhuốm
mùi hương, đối với hai người ấy, [mùi
hương] chẳng hề giảm bớt”. Quả báo
của tùy hỷ công đức giống như thế
đó. Như vậy th́ đối với kẻ giúp người
khác làm quấy, [quả báo sẽ] có thể suy ra được!
(Chánh văn) Sính chí tác oai, nhục
nhân cầu thắng.
(正文)逞志作威。辱人求勝。
(Chánh văn: Phô trương oai thế cho thỏa
chí, làm nhục người khác để giành phần thắng).
Bậc quân tử chánh trực
kiềm chế bản thân, đối đăi ôn ḥa, ân huệ
với người khác; người khác tuy sợ, nhưng
yêu mến. Nếu cứ hở ra bèn phô trương oai thế,
dẫu được kẻ khác nín chịu, nhưng
người ta chẳng mến mộ đức, làm sao có
thể cao hơn kẻ khác cho được?
Đời Minh, Sử
Lương Tá ở Nam Kinh làm Ngự Sử ở Tây Thành,
nhà ông ta ở Đông Thành. Mỗi lần ông ta ra vào, tức
giận v́ người làng chẳng đứng lên [tỏ vẻ
cung kính], bèn bắt mấy người, giao cho quan Ngự Sử
Đông Thành xét xử. Ngự Sử Đông Thành cật vấn,
họ thưa: “Dân chúng đều bị Nghê Thượng
Thư làm cho sai lầm!” Hỏi: “Lầm như thế nào?”
Thưa: “Thượng Thư cũng là người Nam Kinh.
Khi ông ta chưởng quản bộ Binh, nếu mọi
người [chạm mặt ông ta] mà tránh đường,
ông sẽ liền sai người ngăn lại, bảo: ‘Ta
cùng các vị là người cùng làng quê. Ta không thể qua cổng
làng bèn xuống xe, há phiền quư vị phải đứng
dậy ư?’ Lũ dân quá ngu, cứ nghĩ ông Sử
cũng giống như ông Nghê cho nên chẳng đứng dậy,
chẳng ngờ ông ta nổi giận”. Quan Ngự Sử
Đông Thành cười x̣a, tha cho họ. Thượng
Thư [được nói ở đây] là nói tới Văn
Nghị Công Nghê Nhạc. Ôi! Ông Sử nghe lời ấy cũng
sẽ hổ thẹn trong ḷng.
Than ôi! Gần đây thói ỷ
vào quyền thế của quan lại để ra oai, hống hách với kẻ khác, há chỉ là như
vậy mà thôi ư? Có kẻ dùng bản án nặng nề, cực
h́nh ngặt nghèo để đối xử tàn độc
với người vô tội. Có kẻ mặc t́nh thuận
theo sự hỷ nộ [cá nhân] để phán tội kẻ
khác nhẹ hay nặng. Có kẻ do ăn hối lộ bèn
phán án nặng hay nhẹ. Có kẻ nhờ vào chuyện này
để tính kế đền ân hay báo cừu. Có kẻ bao che
phường gian tà để chúng nó độc chiếm thị
trường, chẹn đường những người
buôn bán. Tuy đủ mọi lẽ sai biệt khác nhau,
nhưng nói chung đều là những kẻ nhằm thỏa chí mà ra oai, mắc tội với trời! Nhưng
phô trương quyền thế một ngày, tức là đă
ươm mầm oán nghiệt trong mai sau. Khi quyền thế
đă hết, báo ứng sẽ đưa tới, há chẳng
khỏi “dẫu hối đă muộn” ư? Chỉ mong hăy
vận dụng ḷng hối hận ấy sớm hơn
đôi chút, ắt sẽ được sự tốt lành
to tát.
Khấu Lai Công (Khấu Chuẩn)
nói: “Quan làm chuyện riêng tư, cong vạy, khi thất thế
sẽ hối hận. Giàu mà chẳng tiêu dùng tiết kiệm,
khi nghèo sẽ hối hận. Nghề khéo chẳng học từ
bé, th́ khi lớn tuổi sẽ hối hận. Khi thấy
mà chẳng học, th́ lúc cần dùng tới sẽ hối hận.
Khi say thốt lời ngông cuồng, khi tỉnh sẽ hối
hận. Lúc an nhàn mà chẳng nghỉ ngơi, khi bệnh sẽ
hối hận”. Bài minh này đúng là pháp tắc to lớn
để hối lỗi, mọi người hăy nên luôn
đọc.
Dùng lư để chiết
phục kẻ khác, vẫn sợ gây nên cái tâm tranh giành phần
thắng nơi kẻ khác; do vậy, dẫn đến sự
chống trái, chẳng tiếp nhận. Huống hồ
[trong trường hợp] vốn đuối
lư mà cứ ương ngạnh ngang ngược lăng nhục
để mong thắng ư? Lỗ Tử Tấn nói: “Ai nấy đều có cái tâm sợ
bị sỉ nhục, ai chịu cam tâm bị nhục? Kẻ
cầu thắng bằng cách [ngang ngược lấn hiếp
kẻ khác], đạo trời sẽ báo ứng. Làm nhục
người khác vẫn là tự nhục ḿnh!”
Thượng Thư Lâm Thoái
Trai khi sắp mất, đă giáo huấn con cháu: “Các ngươi chỉ cần học
chịu đựng thua thiệt”. Ôi! Từ xưa, bậc
anh hùng chỉ v́ chẳng thể hứng chịu thua thiệt
mà đă làm hại khá nhiều chuyện! Cũng chỉ v́
có thể chịu nhục, chịu thua thiệt, mà đă thành
tựu nhiều chuyện. Như Hàn Tín chịu nỗi nhục
luồn dưới đũng quần [gă hàng thịt], chịu thua thiệt cùng cực. Về sau, [Hán
Vương Lưu Bang] đắp đàn bái tướng [phong cho Hàn Tín làm
nguyên soái. Dẹp tan quân Sở, Hàn Tín] được phong
làm Tam Tề Vương[7]. Những gă thiếu niên ở Hoài Âm [từng làm nhục ông ta
khi trước] trở thành thuộc hạ dưới
trướng. V́ thế có thể thấy kẻ an ḥa, chịu
nhục, ngày sau chẳng phú quư ư? C̣n kẻ làm nhục kẻ
khác, đâm ra chẳng bị kẻ khác làm nhục ư? Kẻ
hiếu thắng hăy suy nghĩ nhé!
(Chánh văn) Bại nhân miêu giá, phá
nhân hôn nhân.
(正文)敗人苗稼。破人婚姻。
(Chánh văn: Hủy hoại mùa màng của người
ta, phá hoại hôn nhân của kẻ khác).
Dân coi ngũ cốc như
tánh mạng. Huống hồ nông dân Xuân cày Hạ cuốc,
bao nhiêu nỗi siêng năng, cần cù. Thuế má, nợ nần
riêng tư đều trông cậy vào đấy, há có nên
ngăn trở thủy lợi, khiến cho [ruộng đồng]
khô hạn, phá hoại đê đập khiến [mùa màng] bị
ngập, thả rong súc vật giày đạp, ăn hại [hoa màu], khiến
cho những thứ do trời đất sanh thành chẳng thể
thâu hoạch, sức người phí uổng chẳng có công
lao ǵ! Sao mà bất nhân quá đáng vậy? Nhưng không chỉ
là như vậy, kẻ làm bề trên của dân chúng mà không
coi trọng thời vụ, chẳng chú trọng thủy lợi,
th́ cũng thuộc loại phá hoại mùa màng, cũng có thể
dùng tội danh này để định tội vậy!
Vào năm Đinh Mùi (1667) đời
Khang Hy nhà Thanh, gă hương dân Lư Giáp ở Hồ Quảng[8] làm nghề
buôn trâu. Muốn cho trâu mập mạp, hắn thường
chờ đến khi lúa chín, vào lúc canh tư, cưỡi
trâu cho nó ăn lúa thỏa thích, đi xa tới mấy dặm,
coi đó là chuyện thường. Đất rộng,
người thưa, người ta không nhận biết. Bỗng
có một hôm, hắn bị sét đánh chết, lưng có
đề bốn chữ bằng son: “Túng ngưu hại giá” (Thả
trâu hại mùa màng).
Cao Bân làm tri châu Đường
Châu, đất rộng, người thưa, đồng ruộng
hoang vu. Ông tới trấn nhậm, bèn xem xét tận cùng ruộng
đất, biết vùng ấy có thể canh tác, chỉ hiềm
thiếu sức người. Do vậy, ông chiêu mộ những
lưu dân (người dân lêu bêu) thuộc Lưỡng Hà[9], tính theo nhân
khẩu mà cấp ruộng. Số hộ dân tăng thêm là một
vạn ba ngàn ba trăm hộ, cấp ruộng hơn ba vạn
một ngàn khoảnh. Thậm chí đất đai ở các
vùng rừng núi gai góc đều biến thành ruộng tốt.
Hứa Quy làm tri huyện Đan
Dương, gặp phải trận hạn hán to, ông bèn trái
nghịch lệnh cấm, phá đê ngăn Luyện Hồ[10] để
lấy nước cứu ruộng cho dân. Năm ấy,
được mùa lớn, hơn một vạn khoảnh
ruộng.
Vương Tế làm Chủ
Bạ ở Long Khê. Huyện có một cái ao chứa nước
dài dằng dặc mấy chục dặm. Trước
đó đă có gă thổ hào độc chiếm [cái ao ấy]
để chuyên trục lợi. Ông bèn đoạt lấy
cho dân dùng, cả huyện chẳng c̣n lo lắng tai nạn
hạn hán lâu ngày.
Miêu Thời Trung làm Chủ Bạ
ở Ninh Lăng. Trong huyện có con sông cổ, bỏ hoang
lâu ngày. Ông sai phu phen khai thông, ruộng trong huyện bèn trở
thành ph́ nhiêu. Tấm ḷng của mấy vị ấy là làm lợi
cho trăm đời; những kẻ có tâm phá hoại [mùa
màng], và ngồi điềm nhiên nh́n [dân chúng nheo nhóc v́] hạn
hán hay lụt lội, chẳng lập ra phương cách [cứu
giúp], hăy nên nh́n vào những tấm gương trên đây!
Có vợ chồng rồi mới
có cha con; đạo hôn nhân to lớn thay! Phá hoại [hôn nhân] có mấy
loại. Có kẻ dùng trăm phương kế phỉ
báng, hủy nhục, hoặc là phá hoại trước khi họ
nên duyên, có khi là t́m nhiều cách ngăn trở, quấy nhiễu để phá hoại lúc họ sắp kết hôn. Có khi là vô cớ
dấy động sóng gió nhằm phá hoại sau khi họ
đă kết hôn. Nào có biết hôn nhân là do trời định,
con người làm sao có thể phá hoại cho được?
[Những cuộc hôn nhân] bị kẻ khác phá hoại, [thật
sự là do] rốt cuộc họ chẳng có mối quan hệ
hôn nhân. Nhưng ly tán hay kết hợp là do cơi trời, dấy
lên cái tâm phá hoại là do nơi con người, cái tội ấy
giống như tội sát nhân. Ôi chao! Kẻ tạo ác sao lại
táng tận lương tâm, tự chuốc lấy nỗi
oan nghiệt to tát vậy? C̣n như vợ chồng đă lấy
nhau, hoặc là bố vợ chê chàng rể kém hèn mà sanh ḷng ly
gián, hoặc do bố mẹ chồng thấy con dâu nghèo nàn bèn
tin theo lời gièm siểm, sàm báng! Lại nữa, phá hoại t́nh yêu thương giống như sát
nhân, c̣n [nặng] gấp mấy lần [cái tội] cầm
dao gươm đâm chém, chớ nên không răn dè. Nếu
như v́ ngại [dâu rể] nghèo nàn mà từ hôn, hoặc cậy
mạnh chiếm đoạt người phối ngẫu
[của kẻ khác], càng có hại cho lẽ trời. Nếu
như quan lại phán xử cong vạy do thuận theo t́nh cảm
riêng tư, bèn dựa trên những lời cung khai [chẳng
đúng sự thật] mà kết thành án xác quyết, liền
cấp giấy ly hôn, âm chất sẽ bị hao tổn to lớn,
ắt bị [trời đất] khiển trách sâu nặng!
Kẻ làm quan thông hiểu t́nh đời, hăy lại
nên dè chừng chuyện này!
Tiểu Lư Nhi ở Đức
Châu lúc trẻ nghèo nàn, lái thuyền cho người ta, ngẫu
nhiên nhặt được mười hốt[11] vàng. Chủ
thuyền bảo: “Ta có đứa con gái, gả cho ngươi
làm vợ”, bèn đính ước. Một hôm, chủ thuyền
đi vắng, người mất vàng tới hỏi. Lư Nhi
hỏi han, biết là đích xác, bèn trả lại. Chủ
thuyền có gă thân thích, muốn đoạt vợ của Lư
Nhi [để cưới
cho con trai ḿnh], bèn thừa dịp
ly gián, phá hoại nói: “Gă ấy là kẻ bạc phước,
rốt cuộc sẽ chết đói”. Chủ thuyền bèn xua đuổi
Lư Nhi. Gă thân thích ấy vừa sắm sửa lễ
vật hỏi cưới, bỗng con hắn chết đột
ngột, [phải hủy hôn lễ]. Lư Nhi bị đuổi
đi, vẫn chở thuyền cho người khác. Tháng
nóng, anh ta tắm dưới Lỗ Kiều, có vật ngáng
chân, chính là mấy chục đĩnh bạc, bèn nhặt lấy,
đem buôn bán ở chợ. Gặp một người chủ
tiệm chính là người đă đánh mất tiền khi
trước, ông ta bèn tận tâm [giúp đỡ] họ Lư đổi thành hàng hóa, được lời gấp mấy lần. Chủ
thuyền khi trước biết anh ta giàu có, rốt cuộc
gả con cho. [Lư Nhi] c̣n sanh được hai đứa con
đều quư hiển!
Cát Đảnh Năi ở Tứ
Minh lúc c̣n làm chư sanh[12], mỗi khi
đến trường, ắt đi ngang miếu Thổ
Địa. Ông từ trông miếu mộng thấy thần dạy:
“Cát trạng nguyên đi qua, ta ắt phải đứng dạy.
Hăy v́ ta dựng tường ngăn để che lại”.
Ông từ theo đúng lời, vừa mới nhóm họp
thợ, [chưa khởi công], lại mộng thấy thần
bảo: “Chẳng cần tốn công nữa!
Chàng Cát viết thư ly hôn cho kẻ khác, đă bị
tước sạch công danh trên đường khoa cử”.
Ấy là v́ có kẻ trong làng bỏ vợ,
chẳng thể viết [giấy ly hôn], bèn kèo nài chàng Cát viết
giùm. Chàng Cát nghe [ông từ kể
lại lời thần], hết
sức hối hận, tận lực khiến cho vợ chồng
họ tái hợp. Anh ta chỉ đỗ khoa thi
Hương, làm quan tới chức Phó Sứ.
Tôn Hồng từng viết
giấy ly hôn cho người khác. Cha một người bạn
nằm mộng thấy Tôn Hồng do chuyện này mà bị
tước sạch công danh. Tôn Hồng biết chuyện, hết
sức hối hận, vội khuyên nhủ người bạn,
tận lực giúp cho họ đoàn tụ. Từ đấy,
anh ta chuyên dốc chí giúp cho hôn nhân của người khác
được toàn vẹn. Hễ có chuyện ly hôn, ắt
khéo léo ḥa giải, bảo vệ cuộc hôn nhân ấy. Do âm
công đó, anh ta được làm Thị Lang, sanh hai con
trai.
Quan lệnh doăn xứ Hoài An
là Phạm Dưỡng Ngô thấy có gă học tṛ là Thí Kỳ
Phân do vợ chồng kiện cáo nhau, theo đúng pháp, phải
nên xử cho họ ly hôn, nhưng ông dốc sức giúp cho họ
chẳng bỏ nhau. Đến khi cáo lăo hồi hưu, ông bị
bệnh. Cháu nội là Thụy Chi xin tiên giáng cơ. Đến
khi vị tiên giáng đàn th́ ra là Thí Kỳ Phân, phê rằng:
“Nhờ ơn sâu nặng của ông khéo léo giữ vẹn cuộc
hôn nhân cho vợ chồng ta, sanh được bốn
đứa con, nay chúng đều vào trường huyện;
v́ thế, đặc biệt đến cảm tạ.
Hơn nữa, ông là người nhân đức, sẽ
vĩnh viễn hưởng phước lâu dài, chẳng
đáng phải lo âu”. Về sau, quả nhiên ông Phạm sống
thọ, con cháu hết sức hưng thịnh.
Hà Nguyên Ích đă ước
định kết thông gia với Triệu Minh Phu, nhưng
con gái họ Triệu bị mù, gia sản ít ỏi, Nguyên Ích
bèn từ hôn, kết thông gia với nhà Đơn Tử
Văn. Năm sau, hai cha con Hà Nguyên Ích đều chết,
con gái họ Triệu lấy chàng học tṛ Diệp Duy Tiên.
Duy Tiên đỗ đạt, chưởng quản tam điển[13] tại một
quận lớn. Trịnh Thúc
Thông từ bé đă có hôn ước với con gái họ Hạ;
đến khi đỗ đạt, con gái họ Hạ bị
bệnh trở thành câm. Chú bác khuyên đừng cưới,
Thúc Thông kiên quyết nói “chẳng thể”, thưa: “Cháu không
cưới cô gái ấy, cô ta sẽ đi về đâu?
Hơn nữa, khi chưa bị câm bèn đính hôn. Đă bị
câm bèn bỏ, cái tâm sao mà tàn nhẫn vậy?” Ông vẫn
cưới cô ta. Về sau, họ Trịnh làm quan tới chức
Thị Tùng[14],
con trai lại đỗ đạt.
Dương Hoành giận thằng
rể là Diêu Hồng thất học, đuổi hắn
đi. Diêu Hồng xin từ biệt vợ, chẳng
được [chấp thuận]. Cô con gái oán hận, phẫn uất thành bệnh mà chết. Dương Hoành sai người
đưa quan tài tới [quàn ở] chùa.
Chàng rể tới chỗ quàn quan tài, khóa cửa tự bung
ra, cánh cửa cũng tự mở. Mẹ cô Dương
nghe chuyện bèn cảm khái, bi thương, chết luôn.
Mười mấy năm sau, Dương Hoành tới chỗ
quàn con gái, cũng chết đột ngột.
Tư Mă Ôn Công đời Tống
đă huấn thị rằng: - Phàm ước định
hôn nhân, trước hết hăy nên xem xét tánh t́nh, phẩm hạnh
của thằng rể và đứa con gái, cũng như
gia pháp như thế nào, đừng chỉ hâm mộ phú
quư. Nếu thằng rể thật sự là người hiền,
nay tuy nó nghèo hèn, biết đâu mai sau nó phú quư không chừng?
Nếu như nó là thứ không ra ǵ, nay tuy phú quư, không chừng
mai sau nó nghèo hèn th́ sao? Người vợ là cội nguồn
khiến cho gia đ́nh hưng thịnh hay suy bại. Nếu
chỉ hâm mộ phú quư nhất thời mà cưới về,
cô ta sẽ cậy ḿnh phú quư, hiếm có khi chẳng khinh rẻ
chồng, hống hách đối với bố mẹ chồng,
dưỡng thành tánh kiêu căng, ghen ghét, họa hoạn mai
sau há có cùng cực ư? Giả sử do tài sản của
vợ mà trở thành giàu có, dựa vào thế lực của
nhà vợ để làm quan, nếu là bậc trượng
phu có chí khí, há có thể chẳng thẹn ư? Lại nữa,
thế tục thích lúc trẻ c̣n đang ẵm ngửa, non
nớt đă dễ dăi hứa hôn, cho đến khi con cái
đă lớn, hoặc là phường không ra ǵ, vô lại,
hoặc thân bị bệnh ngặt, hoặc nhà nghèo đói
rét, hoặc phải làm quan ở nơi xa. V́ thế, đến
nỗi chẳng giữ chữ tín, trái nghịch hôn ước,
dẫn đến chuyện thưa gởi, kiện cáo khá
nhiều! Do vậy, đối với con cái nhà người
ta, ắt phải chờ đến khi chúng đă khôn lớn
rồi mới bàn định hôn nhân. Đă gởi thư
xin cưới, nạp sính lễ, chẳng đầy mấy
tháng, hôn sự bèn hoàn tất. Do vậy, chuyện chung thân mới
chẳng có việc từ hôn, thay đổi, đấy
chính là cách thức đời sau nên tuân thủ vậy.
(Chánh văn) Cẩu phú nhi kiêu, cẩu miễn vô sỉ.
(正文)茍富而驕。茍免無恥。
(Chánh văn: Vừa mới
giàu có mà đă kiêu căng, tùy tiện trốn thoát không biết hổ thẹn).
“Cẩu”
(茍) chính là “cẩu phú” (茍富) như Luận Ngữ đă nói, có nghĩa là chưa
chắc đă giàu to, chỉ là giàu có tạm thời, hoặc
tạm coi là giàu có mà đă kiêu căng. Rơ ràng là nói đến
t́nh huống vô tri làm xằng của phường tiểu
nhân vừa mới giàu có. Bởi lẽ, giàu mà kiêu, kiêu bèn xa xỉ, do xa
xỉ bèn phí phạm. Do phí phạm sẽ tham lam
đoạt lấy của cải bất nghĩa, bóc lột
kẻ khác để béo thân ḿnh, ắt sẽ dẫn đến
chuyện ỷ vào [của cải] rồi hung hăng, ngạo
mạn, lấn hiếp xóm giềng, khinh rẻ thân thích, bằng hữu, để tự hưởng
th́ có thể vung tay ngàn vàng, nhưng đối với
người ngoài bèn “một sợi
lông chẳng chịu nhổ”! Nhưng sự rực rỡ
(phô trương oai thế) dễ hết, đạo trời
chẳng ưa sự sung măn [quá lố], thói
kiêu ngạo c̣n chưa kịp ảnh hưởng tới người khác th́ họa đă giáng xuống chính
ḿnh trước. Chuyện này muôn phần chẳng sai sót một!
Một phú ông ở Dương
Khê tánh tham lam, thô bỉ, bạc, lụa, tiền tài, thóc gạo,
ngày càng chất chứa đầy ắp. Ông Trần Đống
Đường khuyên nhủ: “Chất chứa tài sản mà
chẳng chia ra, ắt sẽ có tai ương lạ lùng. Sao
không thí xả một, hai phần để làm thiện sự
ḥng làm kế lâu dài”. Hắn chẳng nghe lời. Hai, ba
năm sau, ông Đống Đường nói với kẻ
khác: “Họa của gă này đă tới rồi. Hắn ta một mực tham lam, keo kiệt đáng khinh. Gần đây, nghe
nói hắn càng thêm mặc sức kiêu căng, ngang ngược,
ngạo mạn, bóc lột hà khắc, không chuyện ǵ chẳng làm, chẳng phải là sẽ nhanh chóng gặp
họa ư?” Không lâu sau, quả nhiên hắn ta bị giặc
giết. Cổ nhân nói: “Cung kính,
kiềm chế là nền tảng của phước. C̣n kẻ
kiêu căng, keo kiệt, ngạo mạn, đó là điềm
tai họa”. Kẻ nương vào nền phước, sẽ
dần dần được an ổn. Kẻ dẫn khởi
nguồn họa, sẽ bỗng dưng bị đổ
nhào. Gương sáng vằng vặc xưa nay, hăy răn dè
nhé!
Đức Phật dạy: “Ta có hai bạch pháp có thể cứu
hết thảy chúng sanh. Hai bạch pháp là ǵ? Một là thẹn,
hai là hổ”. Phu tử (Khổng Tử) nói: “Hành kỷ hữu sỉ” (Lập
thân hành xử, biết xấu hổ). Lễ Kư chép: “Lâm nạn vô cẩu miễn” (Gặp
nạn chẳng tùy tiện trốn tránh). Nay đă cẩu
thả trốn tránh, lại c̣n chẳng biết hổ thẹn,
hạng người như vậy thấp kém lắm!
Đời Đường,
Ca Thư Hàn và An Lộc Sơn cùng làm tướng của
nhà Đường, thường ganh nhau, chẳng ai chịu
thua ai. Cho đến khi An Lộc Sơn làm phản, Ca
Thư Hàn bị bắt, An Lộc Sơn hỏi:
“Ngươi thường khinh ta, nay th́ như thế nào?”
Ca Thư Hàn quỳ mọp dưới đất, thưa:
“Thần là gă mắt thịt, chẳng biết bậc thánh
nhân”. An Lộc Sơn cười, phong cho Ca Thư Hàn làm
Tư Không[15]
của hắn. Về sau, [sau khi loạn An Lộc Sơn bị
dẹp tan], những tướng của nhà Đường
đă hàng giặc đều bị [triều đ́nh] giết
sạch, Ca Thư Hàn rốt cuộc bị chết.
Đời Tống, Phạm Thuần
Nhân đă từng cùng Tư Mă Quang bàn luận chánh sự không
hợp ư. Về sau, đến khi triều đ́nh trừng
trị phe Tư Mă Quang, do Hàn Duy khi c̣n nắm quyền đă không hợp ư Tư
Mă Quang nên chẳng mắc tội [với phe đảng mới].
Có người khuyên Thuần Nhân hăy dùng trường hợp
của Hàn Duy để làm cớ chạy tội. Thuần
Nhân nói: “Xưa kia ta và Quân Thật (tên tự của Tư
Mă Quang) [làm bạn] cùng triều bàn luận chánh sự không
hợp ư th́ được. Chứ hiện thời, cẩu
thả mong được thoát tội th́ không thể
được. Ôm ḷng nhục nhă mà sống, sao bằng chết
đi mà cái tâm chẳng xấu hổ ư?” Thuần Nhân bèn
bị [phe cầm quyền mới trong triều đ́nh]
đày đi xa.
Lỗ Tử Tấn nói: - Chẳng
đáng thoát khỏi mà may mắn thoát khỏi th́ gọi là “cẩu miễn”, hăy nên tự
thẹn, tự trách sâu xa! Có một hạng người do
nương cậy [các mối quan hệ] mà mưu toan
[thoát tội] được thành, bèn ngược ngạo
cười mũi những người v́ trung lương
mà bị chém giết, chê bai sâu xa những vị v́ tiết
nghĩa mà bị tử h́nh. Hạng người ấy tuy [do hành xử] cẩu thả mà giữ tṛn tánh mạng, cái tâm đă chết trước
mất rồi, cũng chẳng có mặt mũi nào mà nh́n
người khác, chứ chẳng cần nói đến chuyện
bị [thiên hạ] thóa mạ sau lưng! C̣n như những
kẻ tiểu nhân đầu đường xó chợ,
làm xằng, làm quấy, may mắn thoát khỏi tai họa trừng
phạt, chẳng biết là trời sẽ giáng họa sâu
hơn, vẫn quen thói chẳng hổ thẹn, làm ác chẳng
hối cải, rốt cuộc tới lúc chẳng thể
tránh khỏi tai họa mà vẫn chẳng tỉnh ngộ,
cũng chẳng đáng buồn ư?
(Chánh văn) Nhận ân thôi quá, giá
họa mại ác.
(正文)認恩推過。嫁禍賣惡。
(Chánh văn: Mạo nhận ân huệ, chối bay tội
lỗi. Giá họa, ác ư).
Ân chẳng phải do ḿnh làm
ra mà mạo nhận, bất quá là mưu kế nhất thời ḥng mua chuộc hảo
cảm của người khác.
Xét đến cùng, nhất định [là người chịu
ân] sẽ biết sự thật, họ sẽ chẳng cảm
kích, mà đâm ra coi thường sự dối trá ấy. Lỗi
thật sự từ chính ḿnh mà ra, nhưng đùn đẩy
trách nhiệm, bất quá là mưu kế nhất thời
ḥng chữa lửa! Xét đến cùng, nhất định kẻ khác sẽ biết sự thật, họ không chỉ chẳng dung thứ, mà càng chán ghét thói gian giảo ấy! Đó gọi là “kẻ
tiểu nhân oan uổng tự làm tiểu nhân”.
Đời Tống, Vương
Tăng làm Tể Tướng, có kẻ xin cất nhắc,
ông ắt nghiêm mặt từ khước. Hễ cất nhắc,
ông trọn chẳng nói cho kẻ ấy biết. Đệ
tử hỏi: “Sao thầy không cho kẻ đó biết?” Ông
đáp: “Dùng người hiền là chuyện của hoàng
đế. Nếu để cho họ biết, sẽ thành
chuyện thuận theo t́nh riêng để ban bố ân huệ
riêng tư. Xưa kia có một
người, muốn tặng khách ngàn vàng, sợ rằng nếu
công khai trao tặng, sẽ có kẻ khác ganh ghét, bèn bỏ vàng trong ṿ
rượu, niêm kín lại đem biếu. Người ấy
phát hiện vàng, bèn hỏi nguyên cớ, [người cho] bèn
đáp: “Tôi không biết! Rượu này mua ngoài chợ, chẳng
biết là do ai giấu vàng vào đó! Đấy
là vận số đă định, [món vàng ấy] phải
thuộc về anh. Sao lại hỏi tôi?”
Một gă huyện lại (nha
lại làm việc ở huyện) tại Hưng Sơn giỏi
gạt người. Mỗi khi quan trên ban ân trạch cho
người khác, gă huyện lại ấy bèn nói: “Đó là
do ta dốc sức đệ tŕnh”. Hoặc là người
khác bị trách phạt, bèn nói: “Là do công lao duy tŕ [chánh
nghĩa] của ta”. Hễ có chánh lệnh tốt đẹp
nào, hắn đều nhận là do ân huệ của chính ḿnh. Mọi người đều ca tụng
hắn có sức xoay chuyển càn khôn. Về sau, quan huyện
phạm lỗi, quan trên cũng bắt hắn luôn, bảo: “Quan huyện nghe lời ngươi, chuyện này do ngươi
gây nên, đều là do ngươi chủ trương sai khiến, tội há có thể dung tha, thoái thác ư?” Rốt
cuộc hắn bị phạt trượng mà chết.
Đời Minh, trạng
nguyên Vương Hoa lúc làm quan, có kẻ dùng chuyện của
kẻ khác để vu cáo ông. Người ta khuyên ông nên biện
bạch, ông đáp: “Đấy là chuyện của người
bạn cùng lứa tuổi với ta. Nếu ta biện bạch,
sẽ là công kích bạn ta”. Rốt cuộc, ông chẳng biện
bạch. Về sau, con ông là Thủ Nhân, tức tiên sinh
Vương Dương Minh, đang
làm quan tại kinh đô, nghe hàng nho sĩ bàn
luận tơi bời về chuyện ấy, toan dâng sớ
tấu tŕnh [hoàng đế] để biện định,
ông vội gởi thư ngăn lại, bảo: “Con tính dùng
chuyện này để sỉ nhục cha ư? Cha vốn
không thể sỉ nhục. Nay con bèn vô cớ công kích, bêu riếu
người bạn của cha, tức là đă ngược
ngạo khiến cho cha bị sỉ nhục to lớn!”
[Vương Dương Minh] bèn thôi [dâng sớ]. Ôi! Thà nhận
là lỗi của ḿnh, chẳng phô bày sự sai lầm của bạn,
há chẳng phải là đă vượt trội hạng tầm
thường muôn vạn phần ư? Như thế th́ há
có thói tệ “ḿnh có lỗi bèn đùn đẩy cho người
khác” hay sao?
“Giá
họa” (嫁禍) là
như gả con gái cho người ta, người ta
cũng chịu cưới. “Mại
ác” (賣惡) là như bán vật ǵ cho kẻ khác, người ta
cũng bằng ḷng mua. Những mưu toan kiểu này quá
sâu, ắt phải chịu báo ứng thê thảm,
rốt cuộc sẽ là “họa
tự đưa đến, ác tự dồn về”, cũng
có ích ǵ chăng?
Đời Tống, Quách Hoàng
Trung coi Vân An quân[16]. Một
hôm, ông đến Thê Hà Cung dâng hương. Mộng thấy
thần bảo: “Ông rủ ḷng chăm sóc nơi này, ai nấy
đều chịu ân. Nhưng có chuyện gian dối, chẳng
dám không báo cho ông biết. Ngày mai sẽ có những kẻ phạm
tội mổ trâu bị giải tới, ngoài chín người
ra, hăy nên tra xét”. Đến sáng, Tuần Kiểm Ty[17] quả
nhiên giải chín người đến. Có một gă lính tự
xưng là đă bắt được bọn trộm, xin
lănh thưởng. Con trâu ấy do gă lính ấy giết, giá họa
cho chín người kia, lại c̣n bắt giữ họ
để mong được thưởng. Ông vừa cật
vấn, hắn bèn chịu tội.
Tŕnh Thất ở Việt Trung[18] vốn là kẻ
vô lại. Làng xóm hễ có người đấu đá, hắn
ắt nói: “Có thể cho ta uống rượu say, trả tiền
công cho ta, ta sẽ dốc hết sức làm thay”. Người
ta ưng chịu, hắn sẽ thừa cơn say, thay mặt
[người mướn] đến chỗ [đối thủ]
nhục mạ, đánh lộn hăng tiết, không ǵ chẳng
làm! Lại c̣n có thể lập gian kế thay cho người
khác, chỉ cần có lợi th́ không ǵ chẳng làm. Một
hôm, hắn được kẻ khác thuê mướn để
lên phủ chịu trách phạt thay cho người đó, [hắn
bị tra khảo] trọng thương đến nỗi
chết, phơi thây ngoài đường. Người ta
trông thấy, không ai chẳng vừa chửi bới vừa
cười nhạo: “Điều ác có thể bán được
th́ tánh mạng cũng có thể bán được luôn!”
(Chánh văn) Cô măi hư dự, bao
trữ hiểm tâm.
(正文)沽買虛譽。包貯險心。
(Chánh văn: Mua bán danh hăo, ôm ḷng sâu hiểm).
Mạnh Tử nói: “Hữu chư nội, tất h́nh
chư ngoại” ([Những ư niệm] có ở bên
trong, ắt biểu lộ ra ngoài). Trang Tử nói: “Danh giả, thật chi tân giả”
(Cái danh nhằm biểu lộ thực chất bên
trong), làm sao có thể mua bán cho được? Mua bán [hư
danh] th́ có kẻ hao tốn tiền của để chuốc
vời, bày mưu tính kế để lôi kéo [cái danh], có ư
tưởng vận dụng những mánh khóe để lung lạc!
Thường thấy từ xưa, những bậc tôi
trung, con hiếu, phụ nữ tiết hạnh, kẻ
sĩ chân chánh, hễ có danh tiếng vẻ vang, ắt sẽ
gặp chuyện khốn khó, vùi dập. V́ cớ sao vậy?
Danh cũng là phước; tạo vật (tạo hóa) chẳng
chịu trao phước vẹn toàn cho con người;
được cái này, mất cái kia, đó là lẽ tất nhiên.
Huống hồ là kẻ không có thực chất, mua danh, sẽ
gặp những chuyện vùi dập đến mức nào?
Ông Vu Thiết Tiều nói: “Kẻ
sĩ trong hiện thời, văn chương có thể
được khắc in, nhưng nhiều lượt thi
trượt. Kẻ làm quan cai trị nhân đức
được khắp nơi ca tụng, nhưng suốt
mười năm chẳng được điều
động [thăng thưởng], không
ai là chẳng phải v́ lẽ này!”
Đời Tống, Trần
Hy Di đă răn dạy Chủng Phóng[19]: “Danh là món vật đẹp đẽ
xưa nay, bị tạo vật đố kỵ sâu nhất.
V́ thế, trong ṿng trời đất, chẳng [một ai]
hưởng tiếng thơm toàn vẹn. Khi danh tiếng của
ông dấy lên, ắt có những sự vật khiến cho
cái danh ấy bị suy bại”. Về sau, quả nhiên tiết
tháo [của Chủng Phóng] vào lúc tuổi già do chuyện ngồi
xe trang hoàng xa xỉ mà thanh danh bị chôn vùi. Như Chủng
Phóng là người hiền, c̣n v́ danh tiếng lừng lẫy
mà suy bại. Những kẻ sĩ giả danh, văn
chương giả dối, đạo học giả dối,
tiết nghĩa giả vờ trong hiện thời cứ đề cao danh tiếng của nhau, [gắng sức]
làm cho tiếng tăm được lưu truyền rộng
răi, khi [thực chất bị] bại lộ, sẽ biết
làm như thế nào? Thường thấy bậc danh sĩ
mắc họa, thường [gặp những cảnh ngộ]
bi thảm hơn kẻ b́nh thường. Như thế th́
kẻ chú trọng hư danh không chỉ là tổn phước
mà thôi, há chẳng đáng răn dè ư? C̣n như làm lành mà
cũng chú trọng [vun đắp] công đức ngấm
ngầm, ắt trời sẽ báo đền chẳng tầm
thường vậy!
Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Hăy nên b́nh lặng tâm địa, ắt đất trong thế giới hết thảy
đều b́nh”. Bởi
lẽ, sự gian hiểm trong tâm địa đều
được chứa đựng trong ấy, khiến cho
con người chẳng giác. Ẩn giấu giáo, mâu trong câu
nói tiếng cười, đặt bẫy rập liên hoàn,
xảo trá kín nhiệm, dẫu núi sông [hiểm trở] vẫn chẳng đủ trỗi hơn sự hung hiểm trong những mưu
kế ấy. “Bao trữ” (包貯) có nghĩa là “kiên cố, chẳng thể phá, dày
đặc, chẳng thể lén nh́n ra được”. Tiên
sinh Liễu Phàm nói: “Tạo vật ghét nhất không ǵ
hơn kẻ mưu mẹo. V́ thế, trời sẽ báo phục
kẻ thâm hiểm [đến nỗi] có khi người
khác phải nghĩ [sự báo đền ấy] quá đáng,
xác thực là như thế!”
Đời Đường,
Lư Nghĩa Phủ làm Tham Tri Chánh Sự, dung mạo ôn ḥa,
cung kính, nói chuyện với kẻ khác ắt sẽ mỉm
cười, nhưng [ḷng dạ] giảo trá, thâm hiểm,
đố kỵ, khắc bạc,
giỏi nghề khuynh đảo, hăm
hại. Người thời ấy bảo trong nụ
cười của hắn có đao. Hắn lại dùng sự
mềm mỏng ấy để hại mọi người,
nên lại được gọi là Lư Miêu (李猫, con mèo họ Lư). Về sau, hắn
phạm tội, bị lưu đày, chết ở Huề
Châu, con cháu suy bại!
(Chánh văn) Tọa nhân sở
trường, hộ kỷ sở đoản.
(正文)挫人所長。護己所短。
(Chánh văn: Ém tài người khác, giấu diếm
sự kém cỏi của chính ḿnh).
Quân tử thích nói đến
điều lành của người khác, chẳng che giấu
sở trường của người ta, vun quén, hun
đúc chánh đáng, khiến cho người ta đạt tới
chỗ hoàn mỹ, hay khéo tột cùng, ḥng tài năng của
người ấy được [thi thố] trọn hết.
Nếu vùi dập, chèn ép, khiến cho họ nhụt chí, ngă
ḷng, [tài năng] chẳng được mở rộng;
đấy là do cái tâm đố kỵ tạo thành, hết
sức hiểm độc nhất!
Đời Tống, Mục
Tu nổi tiếng về tài làm thơ, thường sang
chơi kinh đô và Lạc Dương. Có lần ông ta đề
thơ trên vách tường nơi cung cấm. Tống Chân
Tông trông thấy bèn thích thú, khen ngợi, hỏi là thơ của
ai. Lại bảo: “Có văn tài như thế,
sao hàng công khanh [trong đám triều thần] chẳng
tiến cử?” Đinh Vị
gièm báng rằng: “Gă ấy phẩm hạnh chẳng
được như văn tài”. Do vậy, chúa thượng
không hỏi thêm nữa. [Do Đinh Vị] lập tâm như thế, cho nên [về sau] hắn chết chẳng
có chỗ chôn. Ôi! Kẻ ém tài người khác chỉ biết
giấu nhẹm sở trường của kẻ khác, sao
chẳng bận tâm đức hạnh của chính ḿnh bị
chôn vùi ư?
Kẻ tiểu nhân che lỗi
giấu sai, chẳng đoái hoài thiên lư. Cố nhiên bọn
chúng tự cho là mưu mẹo thích đáng, nào có biết khó
trốn luật trời! “Hộ”
(護) có nghĩa là [vận dụng] nhiều cách để che giấu, kiên quyết sao cho chẳng
bị tiết lộ. Người mắc bệnh hết sức
cần phải được chữa trị gấp, nếu
kiêng nói đến bệnh tật, kỵ thầy thuốc,
mà tánh mạng chẳng
bị mắc hại th́ hiếm lắm. Châu Tại Am nói: “Che giấu khuyết
điểm không chỉ là riêng ḿnh! Phàm là con, cháu, người
nhà, môn khách trót tạo lỗi ác, nếu ta chẳng ngăn
ngừa, kiểm soát, cứ dưỡng thành [những thói ấy]
th́ sẽ đều thuộc về [phạm vi luận tội
của câu này]”. C̣n như cha thường giáo huấn nghiêm
ngặt, nhưng mẹ thường mong cho con khỏi bị
quở phạt, bèn giấu diếm, lấp liếm, chẳng
để cho cha biết. Đấy cũng là căn bệnh
giấu diếm khuyết điểm to lớn vậy!
Lư Thúc Khanh giữ chức
Công Tào[20]
tại quận, liêm khiết, cẩn trọng nhất.
Đồng liêu là Tôn Dung, là một gă tiểu nhân âm hiểm,
siểm nịnh, sợ ông Lư phát hiện những khuyết
điểm của ḿnh bèn ngược ngạo ganh ghét, hủy báng ông. Ông Lư chẳng
thể biện minh, bèn uất ức, ngă bệnh rồi chết.
Vợ ông bi phẫn, thắt cổ chết. Không lâu sau, Tôn
Dung bị sét đánh chết, dưới hông có chữ viết
rằng: “Giấu diếm khuyết điểm của chính
ḿnh, xằng bậy làm hại người lành”.
Đời Minh, Văn Trinh
Công Từ Giai làm Đốc Học vùng Chiết Trung. Có một
chàng Tú Tài trong bài văn sách [cho khóa thi khảo hạch hằng
năm tại huyện] đă kết luận bằng câu: “Nhan khổ Khổng chi trác” (Nỗi khổ của Nhan Hồi chính là sự đào tạo
trác việt của Khổng Tử). Ông bèn gạch đi,
phê rằng: “Bịa đặt”, giáng chàng ta xuống bậc
bốn. Chàng sinh viên bị quở trách bèn thưa rằng:
“Câu ‘Nhan khổ Khổng chi
trác’ xuất phát từ sách Dương Tử Pháp Ngôn, thật
sự chẳng phải là bịa đặt”. Ông Từ
đứng dậy, nói: “Bổn đạo[21] may mắn
được làm quan sớm, chưa từng có học vấn,
gần như đă trách lầm ông!” Bèn sửa lại, xếp
chàng ta vào hạng nhất. Khi ấy, ai cũng phục ḷng
độ lượng đẹp đẽ của ông. Về
sau, ông Từ làm quan tới chức Đại Học
Sĩ. Hễ là người có phước đức, chắc
chắn là có thể bao dung, chẳng giấu giếm khuyết
điểm của chính ḿnh. Nh́n vào chuyện này, có thể
thấy rơ [điều đó].
Học Phật th́ trước
hết là trừ ngă tướng. Luận định về
ḷng nhân th́ trước hết là nói đến khắc chế
dục vọng, những điều này đều nhằm
phá một chữ Hộ (bảo vệ, che giấu) vậy!
(Chánh văn) Thừa oai bách hiếp,
túng bạo sát thương.
(正文)乘威迫脅。縱暴殺傷。
(Chánh văn: Cậy oai bức
hiếp, phóng túng hung bạo, giết hại, tổn
thương [kẻ khác]).
“Phô
trương oai thế cho thỏa chí” cũng bất quá là
hung bạo, tàn nhẫn, phóng túng mà thôi. “Bách hiếp” (迫脅, bức
hiếp) là thật sự dùng sức cướp đoạt
người khác. Những chuyện như kẻ làm quan [thấy
nghi can] chẳng nhận tội bèn áp bức khiến cho họ
phải nhận tội. Họ không dâng tiền tài, bèn ép họ
phải dâng. Cho đến khởi sự xây dựng, cần
đến phu phen, đề ra kỳ hạn hoàn tất,
thúc giục bắt [dân chúng] nộp tiền, nộp gạo,
gấp rút như sao băng, cũng như những chuyện như kẻ phú quư lấn hiếp, áp bức phụ nữ,
dồn ép kẻ khác phải bán ruộng đất, ỷ mạnh
đ̣i nợ, cậy sức thúc giục nộp tô v.v… đều
là uy hiếp, [khiến cho] người oán, trời giận.
Những kẻ [bức hiếp người khác] ấy mà chẳng
bị trả báo th́ hiếm lắm thay!
Đời Tống, Trương
Sĩ Tốn [được cử] làm Chuyển Vận Sứ
ở Giang Tây, tới gặp Vương Đán xin chỉ dạy.
Vương Đán nói: “Thực hiện các hoạt động
độc quyền buôn bán của triều đ́nh cho nhiều”.
Sĩ Tốn vâng theo lời dạy ấy, chẳng cầu
nhiều lợi tức. Mọi người khen ngợi Sĩ
Tốn hiểu biết đại thể. Tiết Khuê [được
cử đi làm] Phát Vận Sứ vùng Giang Hoài, lúc từ tạ
ra đi, Vương Đán chẳng nói ǵ khác, chỉ nói: “Sức
dân ở vùng Đông Nam đă cạn kiệt”. Tiết Khuê
lui ra, than: “Đúng là lời lẽ của bậc Tể
Tướng”. Xem chuyện này, [bèn biết] người có
ḷng nhân chẳng ai không khoan dung, giúp đỡ sức dân vậy
thay! Bởi lẽ, sanh mạng của dân cậy vào quan
trên. Kẻ làm quan trên, vâng mạng cai trị dân, há có nên chẳng nhân từ, khoan ḥa ư? Những kẻ
đang làm quan nắm quyền cai trị hăy suy nghĩ.
Hán Thư chép Thái Thú quận Tuyên Thành là Thiệu Phong tham lam, tàn nhẫn,
bạo ngược. Một hôm, hắn bỗng hóa thành cọp
ăn thịt dân trong quận. Hễ dân chúng gọi “Phong sứ
quân”, cọp bèn cúp đuôi, lủi đi. Vùng ấy có câu ca
dao: “Mạc học Phong sứ
quân, sanh bất trị dân, tử thực dân” (Đừng
có học theo Phong sứ quân, sống chẳng cai trị dân
chúng, chết rồi lại ăn thịt dân chúng). Chuyện
này có thể răn dè những người đang nắm
giữ địa vị mà chẳng biết thương
xót dân vậy!
Đời Minh, có một
hương thân ở vùng Hồ Quảng, dùng tiền tài
tích cóp được trong khi làm quan là ngàn lạng, sai
người đi chuộc lại sản nghiệp của
tổ tiên, bảo con: “Thời giá đă gấp bội giá
trị ban đầu, hăy chuộc sao cho rẻ nhất”. Đứa
con mười hai tuổi yên lặng, chẳng đáp; thong
thả hỏi cha: “Đă bán [ruộng đất ấy] bao
nhiêu năm rồi?” Đáp: “Ba mươi năm”. [Đứa
con] hỏi: “Mấy nhà mua được sản nghiệp ấy?”
Đáp: “Hơn hai mươi nhà”. Đứa con nói: “Những
hộ nhỏ mua ruộng phải đóng các khoản lệ
phí cỡ nào?” Cha đáp: “Những kẻ làm trung gian đ̣i
lệ phí và thuế khóa chừng đó”. Đứa con
thưa: “Con xem luật Đại Minh, những tài sản
đă [bán đi] hơn năm năm sẽ chẳng
được phép chuộc về! Sao cha chẳng tuân theo
phép vua?” Một môn khách nói: “Chuộc lại sản nghiệp
của tổ tiên là chuyện thuộc về phương
diện tranh đua”. Đứa con nói: “Các ông một mực
a dua, chẳng lẽ phụ thân làm quan, ngoài chuyện mua
thêm ruộng đất, những chuyện khác chẳng phải
là tranh đua ư? Sao cứ nhất định phải muốn
những khoảnh ruộng ấy?” Cha nói: “Ta muốn chuộc, dân làng
dám chẳng tuân theo ư?” Đứa con thưa: “Con sợ
là người làng sợ oai thế, miễn cưỡng
cho cha chuộc lại, cha sẽ bị hao tổn âm đức”.
Cha nói: “Thằng nhóc biết đến âm đức th́
cũng khá đấy. Nay ta tính trả cho họ các khoản
lệ phí mà họ đă đóng”. Đứa con nói: “Các khoản
lệ phí là chuyện nhỏ! Nhà ta tậu ruộng dễ,
những hộ nhỏ tậu ruộng khó! Như một
nhà dựa vào mười mẫu ruộng để sống
qua ngày; nếu nay ruộng bị chuộc lại, họ bắt buộc phải
tậu ruộng khác, chỉ tậu được năm mẫu!
Nỡ ḷng nào khiến cho một nửa người nhà của
họ bị đói? Con khuyên cha đừng chuộc, hăy
tích chút âm đức để lại cho con cháu”. Một
lúc lâu, cha mới nói: “Lời con nói quả thật có lư. Chỉ
có mười tám mẫu ở cạnh phần mộ [tổ
tiên] ắt phải chuộc lại để làm ruộng
hương hỏa”. Đứa con lại xin cha chiếu
theo thời giá để lập văn khế mua bằng
giá, đừng nói là “chuộc lại”. Cha nghe theo, người
làng đều cảm đức, thường ở Mănh
Tướng Từ (đền thờ vị mănh tướng)
cầu nguyện [cho con ông ta]. Về sau, đứa con
mười tám tuổi, liên tiếp đỗ đạt,
được Bộ Ty[22] đề
cử làm Thái Thú Nghiêm Châu. Một hôm, nó cưỡi ngựa
nghênh tiếp chiếu chỉ. Qua cầu, ngựa rơi xuống
sông. Bỗng thấy vị mănh tướng giơ tay đỡ,
nó ngồi ngay ngắn bên chân cầu, mới biết là do
người làng cầu đảo mà cảm ứng. Về
sau, thọ hơn tám mươi tuổi. Ôi! Những chuyện
nhà phú quư uy hiếp [kẻ khác] kể sao cho xiết! Con em họ
nào có được tấm ḷng như đứa thiếu
niên đất Sở[23], mọi
chuyện đều can gián mà được phước
ư? Nhưng ta biết chuyện này khó lắm, gă
hương thân ấy chẳng biết đă gieo âm đức
ǵ mà sanh ra đứa con ấy!
Phóng túng hung bạo th́ quan cao
chức cả, nha lại, lẫn dân chúng đều có,
nhưng không ǵ quá đáng bằng xua quân mặc t́nh tàn sát,
cướp bóc. Kế đến là những kẻ xử
án, lạm dụng [quyền uy] ép uổng người vô tội.
Tàn bạo đă là chớ nên, huống hồ là buông lung mà
làm, lỗi ác rơ rệt, to tát không ǵ hơn được!
Nhưng nếu có quyền thế, [dẫu] có thể phóng
túng tàn bạo, nhưng lại có tâm dùng [quyền
thế] ấy để cứu sống người khác,
ḷng nhân cũng sẽ càng hiển lộ to lớn không chi
hơn được!
Đời Nguyên, hai vợ chồng
quan Đồng Tri[24] Quảng
Châu họ Hoàng đều ngă bệnh, nằm trên hai chiếc
giường khác nhau. Người vợ mộng thấy
nha lại cầm công văn, dẫn mấy tên lính cầm
xiềng gông, vạch màn ra, dáng vẻ giống
như muốn bắt người, bảo: “Chẳng phải
kẻ này!” Do vậy, đi sang giường đối diện,
vạch màn ra, bảo: “Đúng rồi!” Vợ chồng
đều giật ḿnh tỉnh giấc. Chồng nói: “Ta hẳn
phải chết. Khi ta chiêu an, đă giết nhiều người
vô tội, nay họ đều đến cả rồi”.
Qua hôm sau bèn chết.
Châu Tại Am nói: - “Sát thương”
là nói chung cả người lẫn vật. Bởi lẽ,
chính ḿnh và kẻ khác h́nh hài tuy khác biệt; người và vật
tuy lanh lợi hay ngu xuẩn sai khác, nhưng mạng chẳng
hai, cùng đau xót như nhau! Chỉ thử nh́n lại chính
ḿnh, ta có tham sống hay không? Ta có sợ chết hay không? Tâm
ta như thế nào th́ người khác và loài vật cũng
chưa hề khác ta! Há nên chẳng biết xót thương,
áy náy, mà lại phóng túng bạo ngược, mặc sức
tổn thương loài người, giết chóc loài vật
ư?” Ngu ư cho rằng: Câu này có ư nói đến cả
người lẫn vật, hết sức phù hợp ư giáo
huấn, nhưng ư nghĩa “tổn thương loài vật”
đă thấy ghi chép nhiều chỗ trong bộ sách này; do
đó, chẳng kèm thêm [những câu chuyện ấy] vào đây!
(Chánh văn) Vô cố tiễn tài,
phi lễ phanh tể.
(正文)無故剪裁,非禮烹宰。
(Chánh văn: Vô cớ cắt xén, không có lễ lạc
mà giết hại gia súc).
Phụ nữ nuôi tằm, dệt
vải, ngàn muôn sợi tơ, nhọc nhằn, siêng gắng
vô hạn, mới làm thành vải vóc. Nếu chẳng phải
là hết sức bất đắc dĩ, há nên nỡ ḷng cắt may? Dẫu là do lễ nghi chẳng thể bỏ
[lễ phục], vẫn nên giảm bớt, huống hồ
vô cớ [mà tùy tiện cắt
may] ư? C̣n như những loại
như the, nhiễu, càng phải nên quư tiếc. Trên bức
tranh Tàm Phụ Đồ (蠶婦圖, người
phụ nữ nuôi tằm) của Triệu Thái Thú có đề
thơ như sau:
Tàm
vị thành ty, diệp dĩ vô,
Tấn vân liễu
loạn phấn ngân khô.
Cung trung la ỷ
khinh như bố.
Chẩm đắc
vương tôn kiến thử đồ?
(Tạm dịch:
Tằm chưa kéo kén, hết
dâu rồi,
Tóc bết mang tai, vệt phấn
nḥa,
Trong cung the, nhiễu
coi như rác,
Há bậc vương tôn thấu
nỗi này?)
Khấu
Lai Công (Khấu Chuẩn) từng dùng lụa bạch có vân
bóng để thưởng cho ca kỹ. Có thơ rằng:
Nhất
khúc sênh ca, nhất thúc lăng,
Mỹ nhân do tự
ư hiềm khinh,
Bất tri chức
nữ cơ song hạ,
Kỷ độ
phao thoa chức đắc thành.
(Tạm dịch:
Một
khúc sênh ca, xấp lụa trao.
Mỹ nhân ngúng nguẩy “chẳng
ra sao!”
Biết đâu người dệt
bên song cửi,
Bao lượt đưa thoi
mới dệt thành).
Lại
nói:
Phong
động y đơn thủ lũ ha,
U song yết yết
độ hàn thoa.
Lạp thiên nhật
đoản bất doanh xích,
Hà tự yêu
cơ nhất khúc ca.
(Tạm
dịch:
Gió
lay áo mỏng, rét tê tay,
Song tối đẩy thoi
lách cách đưa,
Tháng Chạp ngắn ngày
chưa đủ thước,
Đâu như gái đẹp
chỉ đàn ca)[25].
Mỗi chữ đều hết
sức tha thiết! Suy rộng ra, tự ḿnh hăy tiết kiệm để
thí cho người nghèo th́ không ǵ chẳng trọn vẹn vậy!
Châu Vô Diêu nhà hết sức
giàu có, thê thiếp đều mặc những thứ gấm
quư, quần lót, vớ cũng dùng lượt là. Hắn nuôi mấy
nàng hầu, hết sức hao tốn. Về sau, hắn gặp
tai họa ngang trái, gia cảnh suy bại. Cho đến khi
Vô Diêu chết, thê thiếp đều là vớ thủng, giày
rách, xin người khác một thước vải [để
làm khăn liệm] cũng không thể được!
Vợ Triệu Sĩ Châu là Vương
thị đă chết mấy hôm, bèn dựa vào thân đứa
tớ gái tên là Lai Hỷ nói: “Ta lúc c̣n sống thường ưa xài
phung phí vải lụa, và khi gội đầu, rửa chân,
dùng nước quá lố. Âm ty phạt tội ta, hằng
ngày bị đánh đập, mong hăy truyền đạt ư
này cho Sĩ Châu”. Cả nhà nghe rồi đều cảm khái,
bi thương.
Đời Tống, Trung Tuyên
Công Phạm Thuần Nhân sắp cưới vợ. Có kẻ
nói nhà vợ dùng the, nhiễu làm màn che, ông nói: “The, nhiễu
há nên dùng làm màn ư? Nhà ta vốn thanh bần, tiết kiệm,
sao dám làm loạn gia pháp của ta? Họ dám mang tới, ta sẽ
đốt ngay”. Than ôi! Đấy vẫn c̣n là nhà công khanh
đó nhé! Xem khắp đế vương xưa nay,
như Tấn Văn Công chẳng mặc áo da hai lớp, vua
nhà Lưu Tống[26] thường
mặc áo cộc đă rách, phu nhân sủng ái của Hán Văn Đế [vạt]
áo chẳng dài chấm đất. Hiếu Từ Hoàng Hậu
Mă thị của nhà Minh luôn mặc váy bằng lụa trơn[27], Đường
Văn Tông từng giơ tay áo cho quần thần xem, bảo:
“Cái áo này đă giặt ba lần rồi”, Tống Nghệ Tổ
(Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn)[28] do thấy
công chúa mặc áo chiếc áo ngắn màu cánh trả[29] mà răn rằng:
“Phú quư hăy nên biết tiếc phước”.
Phàm là đế vương, phi tử, công chúa mà c̣n tiếc
phước như thế, hiềm rằng trong trong nhà dân
chúng hiện thời, tranh nhau tập tành thói xa hoa, lăng phí,
thích những thứ đẹp đẽ hiếm có, tranh
đua [y phục] hoa lệ. Bọn hầu thiếp là
lượt, lũ trẻ nhỏ gấm vóc, thêu thùa! Há có biết
một tấm áo là mạng của ngàn con tằm? Nếu mặc
t́nh sử dụng bừa băi, thả sức phung phí, ắt
sẽ là cội nguồn tạo ác, ắt chuốc lấy
mối họa v́ xa xỉ. Hơn nữa, những kẻ áo
quần rách mướp, thô kệch, da thịt rét buốt,
nứt nẻ trong hiện thời, có kẻ nào chẳng phải
là những đứa con quần áo lụa là, thêu vẽ
trong thuở ấy hay chăng?
Lễ Kư chép: “Thiên tử chẳng vô cớ giết trâu. Đại
phu chẳng vô cớ giết dê. Kẻ sĩ chẳng vô cớ
giết chó, lợn”. Mạnh Tử nói: “Người đă bảy mươi tuổi có thể
ăn thịt”. Ấy là v́ thánh nhân hiếu sanh, chẳng
chịu tàn sát bừa băi sanh mạng loài vật. Tức là
có lúc v́ tế lễ, v́ đăi khách, v́ [phụng dưỡng]
người già, mà săn bắt cầm thú, [những chuyện
ấy] vốn là muôn phần bất đắc dĩ, sau đấy mới làm
[như vậy], chẳng phải là dạy dân chúng [giết
hại loài vật] để sớm chiều cung ứng [cho chính
ḿnh] nhằm tận lực thỏa măn ḷng
ham ăn tục uống mà hằng ngày làm chuyện giết
mổ! Đức Thái Thượng từ bi đă nói: “Côn trùng, thảo mộc c̣n chẳng
thể tổn thương”. Do v́ nói với người
đời, chẳng thể không hạ thấp xuống một
bậc, Ngài dạy hai chữ “phi
lễ” với ngụ ư “nghiêm ngặt đặt ra khuôn
phép chẳng thể vượt qua” cho mọi người. Đấy chính là cái tâm bất đắc dĩ của
thánh nhân. Kinh Lăng Già dạy: “Nếu
hết thảy mọi người chẳng ăn thịt,
cũng sẽ chẳng có kẻ sát hại chúng sanh”.
Người thời nay nếu chưa thể trừ sạch
thói ăn thịt, hăy tuân theo phương tiện [bỏ
ăn thịt] dần dần, trừ khử cái tâm giết chóc, học theo điều răn bốn
[loại thịt] không ăn của tiền nhân: Một là
thấy giết bèn chẳng ăn, hai là nghe tiếng giết
chóc bèn không ăn, ba là người khác v́ ta mà giết bèn không
ăn, bốn là ta không có chuyện ǵ mà [kẻ khác] giết
chóc [con vật] th́ không ăn. Vâng giữ bốn điều
răn ấy, dẫu luôn ăn thịt mà cũng chẳng
phế trừ [bốn giới ấy], ngơ hầu chẳng
có ư nghĩ sát hại chúng sanh. C̣n như chó, trâu có công với
đời, càng phải nên kiêng ăn. Phàm là như thế,
sẽ có thể tránh bớt chuyện phạm lỗi “chẳng phải do lễ lạc”
[mà vô cớ giết hại các con vật]. Các tấm
gương của những kẻ [mắc họa] v́ mổ,
nấu các loài chim, cá, trâu, chó, dê, lợn… sẽ được
nêu đầy đủ sau đây ḥng răn nhắc.
Đời Đường, Hà
Trạch tánh hung bạo, ngang ngược, chỉ thích chú trọng
ăn uống. Gà, chó, ngỗng, vịt, thường nuôi cả
ngàn, cả trăm con để hằng ngày giết mổ,
nấu nướng. Hắn chỉ có một đứa
con, hết sức yêu thương. Một hôm, nấu gà,
canh đang sôi sùng sục, đứa con ấy giống
như v́ nhặt vật ǵ mà nhào vào vạc. Cấp cứu
th́ nó đă nát bét cùng với gà rồi.
Người họ Mă ở Hàng
Châu bán ngỗng quay, người ta gọi hắn là Mă Lạn
Đầu (馬爛頭, ông
Mă đầu nát nhừ), nổi tiếng nhất. Về sau, dưới
hông hắn bị ghẻ độc, thịt rữa nát tận
xương, miệng luôn phát ra tiếng như ngỗng kêu,
hai tay đút vào nước sôi sùng sục th́ mới dễ
chịu, da thịt bị tróc sạch, nghiễm nhiên trông giống
như chân ngỗng.
Ở Giang Bắc có một
người bắn một con nhạn trống, đem giết
rồi nấu. Con nhạn mái bay quẩn quanh nh́n, chẳng
bỏ đi. [Người ấy] vừa mở nắp nồi,
nó bèn lao vào, chịu nấu chín chung. Người vùng Giang Bắc
xót thương, bèn chẳng ăn nhạn. [Danh sĩ] Nguyên
Hảo Vấn đem chôn hai con nhạn, đặt tên
nơi ấy là Nhạn Khâu (雁邱, g̣ nhạn), người bắn nhạn liền chết.
Đời Tống, một
người dân ở thành phố Bà Dương tên là Giang Ất,
sống bằng nghề bán cá. Ông ta đă từng mua một
con rùa lớn, nặng một trăm cân, để ở
trong nhà. Ban đêm, [ông ta] nghe tiếng rên rỉ hết sức
bi ai, nh́n xem th́ ra là [tiếng rên của] con rùa. Giang Ất
tức giận, cầm gậy đập nó. Ông cụ hàng
xóm khuyên Giang Ất đem thả, hắn không nghe. Hôm sau,
ông cụ liền quyên tiền mọi người, muốn
mua lại đúng giá trị. Giang Ất kiên quyết không chịu
bán, rốt cuộc giết chết nó. Về sau, hắn mắc
tội, bị tống giam, phạt trượng, vợ chồng
đều chết đói.
Đời Đường,
Hứa Nghiễm sống bằng nghề bán cá, bỗng thân
thể đỏ như lửa, đau đớn như bị
nung nấu. Ông ta tự nói chỉ thấy xe bốc lửa
vây quanh thân, lại c̣n có cả vạn con cá rỉa khoét thịt
ông ta. Có người khuyên ông ta hăy làm công đức. Ông
ta bèn tạo hai bức tượng Quán Âm, thề đổi
nghề, cả nhà chẳng dùng rượu thịt, bèn lành
bệnh.
Hoài Cảnh Nguyên ở Tiền
Đường thích nấu ba ba. Trước hết, hắn
lấy đao chặt đầu cho nó tuôn máu, nói [làm như
thế] sẽ giữ được vị ngon trọn vẹn.
Về sau, hắn nổi lao hạch ở cổ, thịt rữa
nát, đứt đầu mà chết.
Phong tục ở đất
Ngô hễ ăn lươn đều thả nguyên con
lươn sống vào nồi nước sôi, một lúc lâu
sau, lươn mới chết. Trong niên hiệu Thiên Bảo[30], ở huyện
Đương Đồ, có một người bán hàng
sai con bắt lươn đem nấu. Lươn bỗng
biến thành rắn, dài mấy thước. Đứa con
xem lại, những con lươn khác cũng đều hóa
thành rắn; hóa thành rắn xong, chúng đều bỏ
đi. Đứa con ấy mắc bệnh một ngày rồi
chết. Cả nhà bảy người, trong ṿng một tháng
nối tiếp nhau chết sạch.
Lữ Ngũ ở huyện Tiền
Đường thích ăn cá chạch, cá ch́nh, nhưng cá chạch
rất khó chết, hắn thường bỏ cá chạch
vào hộc chứa, ngâm chúng trong muối và dấm, cho đến
khi cá ngắc ngoải mới giết mổ đem nướng.
Hắn nói [làm kiểu đó] muối và giấm ngấm tận
xương, thịt cá sẽ ngon béo. Về sau, hắn bị
bệnh nóng bức, khô khao, luôn mong tưởng được
uống dấm pha muối, đ̣i [người nhà] đem
đến. Khi cho uống, lại nói “nướng vàng rồi,
vàng ươm rồi, hăy lật qua xem nào”, người nhà bèn
lật thân thể hắn lại. Suốt ngày đêm, hắn kêu gào cả trăm lần như thế.
Thịt rữa, ruột vỡ ra mà chết.
Triệu Bích ở Tứ Châu
mộng thấy bà vợ đă mất nói: “Em thuở c̣n sống
giết hại sanh mạng loài vật, thích nhất là món
cua ướp rượu, giết cua thật nhiều. Sau
khi chết, Diêm Vương bắt em chạy qua núi cua, bị
lũ cua kẹp mắt, khắp thân tuôn máu, ngày đêm chịu
khổ. Xin hăy v́ em chép bảy quyển kinh Kim Cang. Nhờ
vào công năng của Bát Nhă, sẽ dẹp tan nỗi khổ
địa ngục”. Triệu Bích ưng thuận. Chép kinh
xong, lại mộng thấy vợ nói: “Em đă nhờ vào
công đức chép kinh mà được thăng lên cơi trời”.
Từ Tăng Bảo sống
bằng nghề câu ếch. Khi giết ếch, bèn chặt
đầu nó trước. Ếch đă bị chặt làm
hai khúc, [phần đầu] vẫn c̣n cắn cỏ, động
đậy, hồi lâu mới chết. Lúc hai mươi sáu
tuổi, hắn bỗng chết, khi c̣n chưa liệm, thân
thể hắn từ thắt lưng trở xuống bỗng
dưng đứt làm hai, giống như h́nh dáng con ếch
bị chặt [làm hai khúc] vậy.
Từ Tùng mua loài ốc
nước ngọt, sai tôi tớ đem thả. Gă đầy
tớ bèn đem nấu ăn, bỗng khắp thân hắn mọc
ghẻ chẳng khác ǵ mắt ốc, đau đớn chẳng
thể chịu đựng nổi. Từ Tùng căn vặn,
biết được sự thật, dạy gă ta hăy cầm
cố quần áo để mua những con vật đem phóng sanh, sám hối tội lỗi, [gă đầy tớ] bèn được lành bệnh.
Họ Hàn ở Thái Châu thuở
nhỏ giết lợn, bỗng tự nấu cả
trăm nồi nước sôi, đổ đầy cái chậu
lớn mà hắn chuyên dùng để mổ lợn. Hắn
cởi áo nhảy vào đó tắm, vợ ngăn cản
không được. Hắn lăn lộn trong bồn, da thịt
chín nát ra, chẳng biết đau đớn. Lại c̣n tự
vặt tóc, bảo: “Cái sỏ lợn này hăy c̣n lông chưa
làm sạch, người ta sẽ chẳng mua”, rồi chết
ngay.
Thời Đường, ở
phía Tây của Trường An có một cô dâu mới kết
hôn, sanh được một trai vừa mới đầy
tháng. Họ hàng tụ họp ăn mừng, mua một con
dê về sắp giết. Dê hướng về gă đồ
tể quỳ lạy, gă đồ tể kinh hăi báo với
chủ nhà. Họ chẳng nghĩ đó là chuyện lạ,
bèn giết chết. Sản phụ ẵm con xem nấu
nướng, bỗng cái nồi tự vỡ, nước sôi
tung tóe, tro, lửa bắn thẳng vào họ, mẹ lẫn
con đều chết.
Trương Dịch Chi muốn
ăn món ruột ngựa, [bèn sai người] khoét hông ngựa
lấy ruột. Rất lâu sau, con ngựa mới chết.
Em hắn là Trương Xương Tông đem con lừa sống
giam trong một căn pḥng nhỏ, đốt ḷ than [giữa
pḥng], đặt nước pha ngũ vị hương
trong pḥng. Lừa [tránh nóng] chạy ṿng quanh ḷ, hễ khát bèn
uống nước. Nước hết, lửa cháy mạnh
thêm, [con lừa] trong ngoài đều chín nhừ, rụng
lông, đẫm máu mà chết, thê thảm khôn kể xiết!
Về sau, [hai anh em bọn chúng] đều bị giết,
dân chúng băm vụn [xác chúng], ngay lập tức đều
chẳng c̣n ǵ nữa!
Có nho sĩ học đă thành
tài mà cứ lận đận măi chẳng đỗ đạt,
bèn cầu đảo đức Văn Xương: “Nếu
con đỗ khoa thi Hương, sẽ mổ nai cúng tế”.
Không lâu sau, hắn bèn thi đỗ. Đă hoàn nguyện, [lại
khấn]: “Nếu con đỗ khóa thi do bộ Lễ[31] tổ chức,
lại cúng hai con nai”. Hắn chưa đỗ đạt
mà đă chết! Ôi! Giết nai để cầu lộc cho
chính ḿnh, há ngươi an ḷng ư? Những kẻ sát sanh
để cầu nguyện, hăy nh́n vào đó mà suy nghĩ!
Một gă học tṛ ở Tân
An vào Hoàng Sơn đọc sách, luôn thích bắt khỉ
để ăn. Về sau, vợ gă sanh nở rất khó, rốt
cuộc đẻ ra một con khỉ!
Một gă đồ tể ở
Trừ Châu thường mổ trâu, bảo con: “Hăy xem cách bố
dùng đao”, muốn cho con trai nối nghiệp. Một hôm
cha nó đang ngủ, đứa con tưởng cha là trâu, cầm
đao giết chết, chặt rụng đầu bố.
Mọi người kinh hăi hỏi han, đứa con trả
lời: “Cháu thấy đó là con trâu, chẳng thấy là bố.
Bố thường dạy cháu giết trâu, nay thấy con
trâu đang ngủ bèn thử dùng cách mổ xẻ ấy!”
Cha con Hoa Hồi Tử ở
Trấn Giang mổ trâu, bỗng ngă lăn đùng ra đất,
rống lên như trâu. Họ nằm bệnh hơn một
tháng, trên trán mọc ra hai cái sừng bằng thịt dài cỡ
cả tấc. Khi họ chết, người ta ngửi thấy
mùi như xác trâu chết!
Mao Huệ ở Trấn Giang
chết đột ngột. Quan cơi âm nói: “Cha ngươi
thích ăn thịt ḅ, tội ác sâu nặng, sẽ chịu
trăm ngàn khổ báo trong địa ngục. Ngươi
tuổi thọ chưa hết, đáng nên bị
trách phạt trước”. [Quỷ sứ] bèn khoét hai mắt
[của Mao Huệ], quất mấy chục roi sắt rồi
mới thả về. Lúc sắp trở về, quan cơi âm
nói: “Đời này ngươi không phạm tội ác lớn,
hăy c̣n hai mươi mốt năm tuổi thọ. Nhưng
cha ngươi tội nặng, ngươi trở về
hăy nói lại, hăy gấp kiêng thịt trâu ḅ, may ra c̣n sống
thêm ít lâu. Nếu ngươi có thể khuyên kẻ khác đừng
ăn, sẽ được tăng thêm tuổi thọ”.
Đến khi [Mao Huệ] tỉnh lại, hai mắt hết
sức đau đớn, hai chân đều sưng phù, bèn
kiêng ăn [thịt trâu ḅ], và thuật lại chuyện ấy
để khuyên kẻ khác.
Viên quan Tư Lư ở Ngô Quận
chết đột ngột rồi sống lại, vội
mời Thái Thú và các bạn đồng liêu tới. Ông ta ở
trên giường, dập đầu thưa: “Tôi tới âm
phủ, xin tha mạng hết sức tha thiết, [cơi âm] hạn
định cho tôi trong ṿng ba ngày phải khuyên một ngàn
người không ăn thịt trâu ḅ th́ mới được
sống tiếp. Nay tôi khẩn cầu các vị, hăy v́ tôi
khuyên khắp dân chúng”. Mọi người tưởng là bịa
chuyện, giả vờ ưng thuận. Ba ngày sau, quan Tư
Lư lại chết, mọi người mới kinh hăi, cùng nhau kiêng giữ chuyện ấy. Lại tạo một
quyển sổ để khuyên dân chúng đều ghi tên họ
vào đó, trong một ngày [ghi danh] được mấy
ngàn người, liền ngửa mặt lên trời [tấu
tŕnh], đốt đi. Bỗng có người báo quan Tư
Lư đă sống lại. Đến hỏi, ông ta đáp:
“Tôi lại bị sứ giả bắt đi. Vị đứng
đầu cơi âm giận dữ, quở trách. Bỗng có một
vị thần cầm một quyển sổ tới, nói là
bản ghi tên họ của những người kiêng ăn
thịt trâu ḅ. Vị chủ cơi âm mở ra xem, hết sức
vui mừng, bảo: - Không chỉ là được sống
lại, mà c̣n tăng thọ bảy mươi hai năm.
Thái Thú và mọi người đều hưởng phước
vô lượng”.
Quản Sư Nhân lúc trẻ
vào canh năm ngày Nguyên Đán gặp mấy con quỷ, liền
quát hỏi, họ đáp: “Chúng tôi là quỷ làm sai dịch,
nay đi công vụ trong nhân gian”. Sư Nhân hỏi: “Nhà ta có
tên trong [danh sách bị cơi âm bắt] hay không?” Họ đáp:
“Do không ăn thịt trâu ḅ nên được miễn!”
Trạch Tiết tuổi
đă năm mươi, không có con, cầu
đảo Quán Âm hết sức kiền thành. Vợ ông vừa
mới cấn thai, mộng thấy Đại Sĩ trao cho
một đứa con. Vợ muốn ẵm lấy,
nhưng có một con ḅ ngăn cách, không ẵm được.
Con đă sanh ra, nhưng chẳng nuôi được. Trạch
Tiết nói: “Ta rất ham ăn thịt ḅ, cho nên mắc quả
báo này”. Cả nhà bèn thề kiêng ăn, [vợ ông ta] lại
nằm mộng giống như cũ, nhưng bà vợ ôm
được đứa con. Con sanh ra bèn nuôi tới khôn lớn.
Từ Thức từ tâm chẳng
giết, rất ghét mổ trâu. Ông làm quan, hễ trấn nhậm
nơi đâu, ắt cấm ngặt [mổ trâu ḅ]. Về
sau, ông làm quan đến chức Thượng Thư. Gă đồ tể họ Cố
ở Dư Diêu sắp mổ một con trâu. Con nghé thừa
lúc không có ai, bèn ngậm dao giấu trong tro. Họ Cố t́m
được dao, biết là do con nghé giấu, tức giận
muốn giết luôn nó. Cụ phong quân[32] Thạch
Tuyền trông thấy bèn đổi bằng mấy thạch
gạo, chúng mới khỏi chết. Năm ấy, con trai cụ
đậu cao, làm quan đến chức Đại Trung Thừa[33].
Gă họ Châu nọ ở
Dư Diêu sống bằng nghề giết chó. Về sau, hắn
bị hỏa hoạn, đă chạy thoát ra, lại xông vào,
bị lửa thiêu. [Người cứu hắn] vội thả
hắn xuống nước, da nứt cong lên, ḷi thịt
ra, rốt cuộc [trông như] một con chó vừa mới
bị lột da, đau đớn chạy cuồng lên quanh
thành, sủa oăng oẳng. Chạy một ṿng rồi mới
chết. Vợ và con dâu đều bị lửa thiêu rụi.
Vùng Tần Lũng có một
người dân thích ăn thịt chó. Một hôm, hắn nấu
thịt chó, sắp chín, thấy trên da chó có chữ [giống
hệt] như những chữ đă xâm trên cánh tay trái của
cha hắn. Khi ấy, cha hắn đă chết mười
hai năm rồi! Cả nhà đau đớn, khóc lóc, bèn
kiêng hẳn [thịt chó].
Lư
Thiệu ở Tây Thục thích ăn thịt chó, giết
chóc không thể đếm xiết. Hắn từng nuôi một
con chó đen. Một hôm, Lư Thiệu trở về đang
say, chó chạy ra sủa mừng. Lư Thiệu tức giận,
vung búa chém chó, nhằm đúng lúc đứa con từ bên
trong chạy ra, trúng phải búa chết tươi. Cả nhà
khóc ̣a. T́m chó, chẳng biết nó đă chạy đâu mất.
Lư Thiệu nhiễm bệnh, tru lên như chó mà chết.
Nguyên Đế (Huyền
Thiên Thượng Đế) nói: “Trâu chính là nguyên tinh của
Huyền Vũ[34] trên trời,
là nguyên khí của Thái Lao[35] dưới
đất. Nếu chẳng nhằm tế giao[36] sẽ không
dám dùng, chẳng phải là thiên thần, sẽ chẳng dám
hâm hưởng[37]. H́nh dáng của
nó được liệt vào [h́nh dạng của] tinh tú[38] trên bầu
trời, sức mạnh của nó khiến cho đất
được lợi, có công với đời, chẳng
gây hại cho dân. Kẻ giết nó sẽ bị phép nước
trừng phạt. Kẻ ăn thịt nó, sẽ mắc họa
khiên trong cơi âm. Trong chữ Lao (牢,
nhà tù) có chữ Ngưu (牛, trâu hoặc ḅ). Trong
chữ Ngục (獄) có chữ Khuyển
(犬, chó). Chẳng
ăn thịt chó, thịt trâu ḅ, ắt sẽ vĩnh viễn
tránh khỏi lao ngục. Trên núi Thái Ất[39] và Lao Sơn[40] có h́nh dáng
thật sự của trâu. Kẻ ăn thịt trâu ḅ [trong
ṿng] ba ngày sẽ bị ma thần nhiếp tinh. Kiêng thịt
trâu ḅ ba ngày th́ gọi là “lên
đến Ngọc Thanh”[41]. Trâu ḅ ăn trăm loại cỏ,
chẳng gây hại ǵ cho con người. Con người
ăn trăm vật, hăy nên kiêng thịt chó, thịt trâu!
Trong các tội của đời
người, sát sanh nặng nhất, mà trong các tội sát
sanh, giết trâu tội nặng nhất. Tội của
người ăn [thịt trâu ḅ] bằng với kẻ giết
chúng. Tiêu Đông Bạch nói: “Ta khuyên người đời
đừng ăn thịt trâu ḅ. Chúng dốc sức phục
vụ cày cấy, đâm ra bị giết chóc. Những thứ
quư vị ăn do đâu mà có, sao nỡ ḷng nấu nướng,
buôn bán [thịt chúng nó]?” Lại nói: “[Trâu đă bị] lột
da, xẻ thịt, hai mắt c̣n mở trừng trừng. Há
nó trừng mắt nh́n suông? Nó nh́n quư vị xoay vần, có thể
giữ đến khi nào sẽ chẳng biến thành nghé”.
Đọc lời ấy khiến cho tâm người
ta xót xa, kinh sợ buốt xương, ăn vào chẳng nuốt
xuống nổi! Huống hồ chuyện báo ứng do giết,
ăn, rành rành chẳng sai chạy. Sao lại tham đắm
miếng thịt be bé ấy để rồi chuốc lấy
phiền lụy?
C̣n như chó có công, có
nghĩa, chẳng gây hại cho con người; giết
chúng để ăn là tội lớn nhất. Nay th́ không chỉ
hạng b́nh dân tham xơi [thịt chó], ngay những kẻ
có học, đỗ đạt, cũng thường coi
chuyện này (ăn thịt chó) như một hành động
hào sảng, gọi hoa mỹ là “địa
dương” (地羊, dê đất).
Cớ sao đọc sách hiểu lư mà tăm tối đến
mức ấy? Tống Giác nói: “Nay
ta chẳng thống thiết trừ bỏ [tập khí xấu
hèn ấy], đời sau ta cũng có đuôi!” Ngu ư cho rằng
chẳng cần chờ đến đời sau. Thử
xem những kẻ giết mổ, ăn thịt chúng nó trong
hiện thời, hễ họ vào chợ, lũ chó xúm lại sủa là v́ lẽ nào? Chắc là h́nh trạng kẻ
ấy đă biến đổi trước rồi!
Nhưng bọn ta chỉ kiêng dè nơi một thân, một
nhà ta, công sẽ hữu hạn. Sao bằng làm một quyển sổ kết duyên, thường luôn cầm theo, hễ bản
thân đến chỗ nào, [cũng đều] mềm mỏng
khuyên lơn, giáo hóa, khiến cho người ta vĩnh viễn
kiêng dứt, há chẳng phải là hết sức mau chóng
ư?
Lại nữa, người
mộ duyên xin tài vật của kẻ khác, gặp người
có tín tâm, họ sẽ phần nhiều thí xả; nay chỉ
cầu người ta chẳng giết sanh mạng, chẳng
ăn thịt trâu ḅ, họ chưa từng tốn kém một
đồng, một hạt gạo mà đạt được
phước đức khó thể so sánh, tính đếm!
Phàm những ai có cùng một tấm ḷng với ta, há có ai chẳng
thuận theo? Tôi tuy chẳng lanh lợi, dám đứng ra
làm tiên phong. Sách Cảm Ứng Lục đă chép: “Kẻ khuyên một trăm
người chẳng ăn thịt trâu ḅ, sẽ tăng thọ
một kỷ (mười hai năm)”. Chuyện này lại
chứng tỏ hiệu nghiệm to lớn [của việc
kiêng ăn thịt trâu ḅ vậy].
Trong lời chú giải này,
riêng đối với trâu và chó là đă
riêng chú giải tường tận. Tuy những câu chuyện
[quả báo] do giết, mổ chim, cá, các loài gia súc có ghi
đầy đủ, nhưng lời huấn thị,
răn nhắc sơ lược. Hăy nên vận dụng tâm từ
đối với muôn vật. Tham khảo phần chú thích
dành cho câu “côn trùng, thảo mộc,
nhẫn tác tàn hại, xạ phi trục tẩu” (tàn nhẫn
làm hại các loài côn trùng, thảo mộc, bắn loài
đang bay, đuổi bắt loài đang chạy), sẽ tự
hiểu rơ tường tận vậy!
(Chánh văn) Tán khí ngũ cốc,
lao nhiễu chúng sanh.
(正文)散棄五穀。勞擾眾生。
(Chánh văn: Phung phí ngũ cốc, khiến cho chúng
sanh vất vả, ưu phiền).
Từ trước đến
nay, những kẻ phung phí ngũ cốc[42] phần nhiều
mắc họa bị sét đánh. Bởi lẽ, đối
với người dân, cái ăn to như trời! Khinh rẻ
[ngũ cốc] chính là khinh nhờn trời; do vậy, quả
báo ấy rất nặng. Thời cổ, thiên tử
đích thân đi cày, thánh nhân coi trọng lúa gạo, đều
là v́ hết sức coi trọng các loại hạt
lương thực nuôi sống người dân. Hiềm rằng
người hiện thời quăng vứt, hoặc là [bỏ
mặc] vung văi ở ruộng chẳng thâu nhặt, hoặc
để cho mục nát trong kho chẳng chịu phát ra, hoặc
vứt vào nước, lửa, hoặc quăng bỏ [mặc
cho kẻ khác] giẫm đạp, hoặc ăn những thứ
tinh túy, vứt bỏ những thứ thô kệch, hoặc
do có [ngũ cốc] quá nhiều mà đến nỗi dư
thừa, hoặc cơm canh đă nấu xong mà bỏ mứa,
hoặc là lúa má chưa chín mà đă cắt hái trước,
hoặc dùng lương thực để nuôi chim, hoặc
dùng đậu và lúa mạch cho gia súc ăn, đều là những
chuyện tàn hại vật thực của trời quá
đáng! [Người nông dân] cày cuốc, gieo mạ đang
giữa trưa, mồ hôi từng giọt thấm vào nhánh mạ
cắm xuống ruộng, ai biết một mâm cơm, từng
hạt đều nhọc nhằn? Thử nghĩ năm
đói kém, mỗi hạt [ngũ
cốc] quư như châu báu, sao lại nhẫn tâm coi rẻ,
phung phí khi dư giả? Giả sử ai nấy đều
yêu quư [các sản phẩm] nông tang như báu vật, ắt
sẽ chẳng đến nỗi có năm mất mùa!
Đời Tống, Thượng
Thư Phong Tắc thường nói: - Ta thuở bé đă
đích thân gặp ngài Tuyết Đậu[43] dùng chuyện
tiếc phước để dạy người khác
như sau: “Mỗi người
chẳng có thọ hay yểu, hễ hết lộc th́ chết”.
Suốt đời này, ta tuân theo giáo huấn ấy, đối
với mọi việc, đều chẳng chịu phung phí
chút nào!
Đời Minh, Trương Nghĩa
Phương có mấy trăm thửa ruộng. Hằng
năm, thóc do tá điền nạp tô bị để mục
nát trong kho, thường phải dọn dẹp bỏ
đi, đến nỗi dùng mè đen để nuôi lợn,
dùng đậu xanh cho trâu ăn. Nếu có người khuyên
hắn hăy châu cấp, giúp đỡ kẻ nghèo nàn, túng thiếu,
hắn chẳng nghe. Về sau, vào năm Chánh Đức thứ
sáu (1511), đê Hoàng Hà bị vỡ, ruộng đồng bị
cuốn trôi ra sông. Rốt cuộc, hắn đến nỗi
bị chết đói!
Một bà lăo đă từng nấu
cơm cho một nhà quan, nấu nhiều món ăn. Hễ
dư ra, bèn đổ xuống mương rănh. Một hôm, [bà
cụ] bị bệnh chết đi rồi sống lại,
bảo: “Có hai chiếc thuyền chở những thức
ăn đă bị vứt bỏ, hôi thối khôn sánh! Một
người dùng roi sắt đánh tôi, bảo đó là những
thứ tôi đă vứt bỏ khi c̣n sống, ép tôi ăn.
Gượng ăn mấy miếng, bụng đă trướng
lên, [chẳng biết] khi nào mới hết? Biết làm sao
đây?” Nói xong, lại chết.
Một kẻ làm công gieo mạ
cho người khác. Chủ ruộng dùng lúa mạch vụn nấu cơm cho ăn. Gă làm công giận chủ ruộng coi
thường ḿnh, đổ món ấy vào băi phân trâu. Ngay lập
tức, sét đánh chết hắn!
Cha của Hy Mẫn Công Trần
Dật là người thiện lương, nhân hậu. Ông
thấy trong tổ kiến nơi nhà xí có một miếng
cơm, bèn nhặt lấy, rửa sạch rồi ăn.
Đêm mộng thấy thần nói: “Ông chuộng điều
thiện như vậy, sẽ có phước báo”. Chẳng
lâu sau, ông sanh ra Trần Dật, [Trần Dật] làm quan tới
Thượng Thư. [Triều đ́nh] phong tặng ông
tước quan giống như vậy[44].
“Chúng
sanh” chỉ hết thảy dân chúng. Ḷng người có ai
mà chẳng mong an lạc. Nếu mong cầu nhà ḿnh an lạc,
mà nhẫn tâm khiến cho chúng sanh nhọc nhằn, phiền
nhiễu; hoặc là nhà ḿnh đă được an lạc,
bèn chẳng cần biết chúng sanh đang bị nhọc
nhằn, phiền nhiễu, sẽ đều là phường
bất nhân quá mức!
Đời Châu, Nhan Uyên bảo
Định Công[45] rằng: - Đế
Thuấn khéo cai trị dân, chẳng vắt kiệt sức
dân. Do vậy, vua Thuấn chẳng khiến cho dân chúng làm loạn,
Tạo Phụ[46] chẳng
khiến cho ngựa rối loạn. Ôi! Chim đến
đường cùng sẽ mổ, thú đến đường
cùng sẽ vồ chụp [người đuổi bắt
nó], người đến đường cùng sẽ dối
trá, ngựa đến đường cùng sẽ chạy cuồng. Từ xưa đến nay, chưa hề có loài
nào lâm vào đường cùng mà chẳng trở thành nguy hiểm
vậy!
Đời Hán, Vương Khôi
muốn có công lao [b́nh định] ngoài biên ải, bèn dâng sớ,
tâu xin: “Thoạt đầu ḥa thân[47] với dân
Hung Nô, có thể dùng lợi để dụ họ rồi
phục binh tập kích, ắt sẽ phá tan chúng”. Đ́nh thần
(廷臣, các quan
trong triều) đều nói [cách ấy] không thể
được, nhưng Vương Khôi tận lực giữ
nguyên ư kiến. Vua chấp thuận đề nghị ấy, sai hắn làm tướng dẫn ba mươi vạn quân, nấp
trong hang núi, sai người dụ [Mạo Đốn] Thiền
Vu vào trong ải, mong tập kích hắn. Sự bị tiết
lộ, Thiền Vu rút lui, [quân Hán] chẳng
đuổi kịp. Lính và ngựa của nhà Hán chết mấy
vạn, tiền bạc, lương thực bị hao phí chẳng
thể kể xiết. Dân chúng lẫn binh sĩ đều
oán hận. Vua tức giận, hạ lệnh cho Đ́nh Úy
Vương Khôi tự sát. Từ đó, [những vị
đại tướng] như Vệ Thanh, Hoắc Khứ
Bệnh phải dấn ḿnh ra biên cương đổ máu
không ngớt. Vương Khôi dẫu chết, vẫn c̣n phải
gánh trách nhiệm vậy.
Đời Minh, quan Tham Chánh tỉnh
Phước Kiến là Tống Chương quấy nhiễu,
khiến cho dân gian nhọc nhằn, tước đoạt
[tài sản của dân chúng] tính ra mấy vạn lạng
vàng. Hắn biếu xén Vương Chấn[48], bèn
được thăng làm Bố Chánh. Đến nhiệm
sở, hắn tính toán lấy lại những phí tổn [do
đă hối lộ để được thăng chức],
bèn xét theo từng hộ mà đánh thuế. Dân nghèo bị
nhiễu loạn kinh hoàng, khốn đốn oán than. Do vậy, Đặng Mậu Thất bèn tụ tập
bè lũ làm cướp, oai thế chẳng thể ngăn
trở được. Tống Chương bị bọn
chúng cướp bóc, nhà hắn không c̣n một
người nào sống sót!
(Chánh văn) Phá nhân chi gia, thủ
kỳ tài bảo, quyết thủy, phóng hỏa, dĩ hại
dân cư.
(正文)破人之家。取其財寶。決水放火。以害民居。
(Chánh văn: Phá hoại nhà người khác, chiếm
đoạt của cải. Phá hoại đê điều,
đốt nhà làm hại dân cư).
Do vô tâm mà tạo ra chuyện
[khiến cho người khác] ngẫu nhiên bị phá hoại,
th́ [chính ḿnh] đă bị tổn đức,
huống hồ là v́ tiền tài, của báu mà khiến cho
người khác đến nỗi tan nhà nát cửa ư? Hoặc
là công khai cậy vào thế lực, hoặc ngấm ngầm
dùng mưu kế; nhưng kẻ công khai bạo ngược chẳng
trốn khỏi phép nước, c̣n kẻ ngấm ngầm
mưu toan có thể lọt lưới, tạo tội càng nặng.
Nặng như thế nào? Đáp: Xét theo luật pháp trong
nhân gian định tội
chứa tang vật như thế nào mà tính nặng gấp
năm lần. Sự ác khổ [do bị trừng phạt
trong] cơi âm thê thảm hơn sự ác khổ trong
dương gian. V́ thế, luật trong cơi âm nặng nề
hơn luật trong dương gian.
Tiết Hoằng Nhân ở
Khai Phong tánh tham lam, âm hiểm. Nhà hàng xóm có một cái áo trân
châu giá trị khôn xiết. Hắn bèn dùng nhiều âm mưu
chiếm đoạt, nhưng chẳng được. Do vậy,
đặt chuyện vu cáo, phá nát nhà ấy, chiếm
được tấm áo ấy vào tay. Chẳng lâu sau, bọn
cướp biết được, kéo bè lũ tới cướp
đoạt. Hoằng Nhân khoác tấm áo ấy, trèo lên thang,
chạy lên lầu. Bọn cướp tức giận, phóng
hỏa thiêu đốt. Hắn bị chết cháy!
Đời Nguyên, tại vùng Chiết Tây có một nhà có thế lực to lớn, hai anh em v́
cha đă chết bèn tranh chấp. Mễ Tín Phu bèn xúi giục
họ kiện nhau ḥng phá nát nhà ấy để chiếm của.
Hai anh em nhà ấy đều hối hận, uất ức
mà chết. Tín Phu giàu có hai mươi năm. Trong niên hiệu
Chí Nguyên[49],
do dính líu đến vụ án phản loạn, họ Mễ
bị bắt lên huyện, trông thấy
quan huyện vẻ mặt nghiễm nhiên giống như người
em [của kẻ bị hại], trong ḷng kinh hoàng, sợ hăi.
Viên quan ấy ép buộc hắn phải cung khai, thừa nhận
tội. Hắn phải tiêu sạch tài sản mới thoát tội.
[Do vậy, hắn] phẫn nộ kiện quan huyện lên phủ. Thấy [mặt] viên
quan phủ chính là [gương mặt
người] anh của [kẻ đă bị hắn hại
thuở trước]. [Quan phủ]
dùng khổ h́nh tàn khốc bức ép hắn nhận tội, cả nhà tám mạng
đều chết trong ngục. Ôi! Mưu toan xúi giục hết
sức kín đáo, cớ sao bị báo ứng thê thảm
dường ấy? Há chẳng phải là trong ṿng huynh đệ,
đă vận dụng mưu xảo xấu ác năm phần,
sẽ đáng phải thẳng thừng chuốc lấy [quả báo] ác mười phần hay sao?
Lửa đốt, nước
trôi, bất hạnh ngẫu nhiên gặp phải, [đă là]
khổ sở khó bề chịu đựng, cớ sao nhẫn
tâm phá hủy đê điều, phóng hỏa làm hại? Dân
cư đă bị hủy hoại, của cải tích cóp
cũng chẳng c̣n. Mạng người, mạng vật phần
nhiều chẳng thể giữ được, gây hại
to lớn, tội ác sâu xa, trời đất khó dung tội
ấy được!
Đời Nguyên, Trường
Xuân Chân Nhân Khưu Xứ Cơ nói: - Sửa cầu, đắp
đường, cứu người chết đuối, cứu
người bị hỏa hạn, đều là những
chuyện đại phương tiện. Kẻ phú quư thực
hiện, sẽ là đức rộng, báo ứng trọng hậu.
Kẻ học đạo thực hiện, sẽ là công hạnh
toàn vẹn, viên măn. Nếu kẻ kém sức mà thực hiện,
sẽ càng là chuyện khó có. Chuyện khó mà có thể làm,
công đức gấp mười!
Ngô Phong Sơn ở Ngô
Hưng. Ngẫu nhiên, lửa bùng lên, cháy lan ra đốt sạch
mấy chục nhà, ông Ngô bỏ tiền t́m người dập
lửa. Lại c̣n dập đầu, tuôn lệ, đau xót
cầu khẩn trời cao. Bỗng gió đổi hướng, lửa tắt. Ban đêm, ông mộng thấy thần
bảo: “Ông từng bỏ ra một món tiền lớn
để cứu người chết đuối, nay lại
chân tâm cứu hỏa, được cơi trời báo ứng. Thượng Đế ban cho ông hai đứa con quư
hiển, tăng thọ mười hai
năm”. Phàm cứu tai nạn nước lửa cho kẻ
khác, đạt được báo ứng như thế
đó. Nhưng đây vẫn là chuyện nhỏ, làm người
bề trên của dân, thật sự có thể tu sửa
đê điều sẵn sàng, chú trọng thủy lợi,
khiến cho muôn dân chẳng đến nỗi bị khốn
khó v́ thiên tai, chuẩn bị dự pḥng đại hạn
(hạn hán lớn), có nề nếp đề pḥng [hạn
hán, hỏa tai] rơ ràng khi nóng bức, khiến cho muôn dân
chẳng đến nỗi rơi vào tay Chúc Dung,[50] công đức
ấy càng rộng, cảm ứng ắt sẽ nhanh chóng
hơn trường hợp đang nói ở đây!
Lương Vũ Đế
nghe theo kế của Vương Túc, đắp đê
ngăn nước sông Hoài để làm ngập thành Thọ
Dương. Vua lấy dân binh từ Từ Châu và
Dương Châu hai mươi vạn người [để
đắp đê]. Nhằm tháng mùa Hạ, người mắc
bệnh dịch chết nằm chồng lên nhau. Đến
Thu, nước sông Hoài dâng cao, phá vỡ đê ngăn, tiếng
vang như sấm rền, vang vọng ba trăm dặm. Các
thành thị, làng xă, thôn xóm dọc theo sông Hoài hơn mười
vạn gia đ́nh đều bị cuốn trôi ra biển.
Về sau, Vương Túc mắc tội, cả họ bị
tru diệt.
Một người họ
Nguyễn ở Giang Đô có hiềm khích với người
họ Cát, ban đêm bèn đốt nhà người ấy. Lửa
cháy lan sang nhà dân tới mười mấy nhà. Bỗng một
hôm, nhà họ Nguyễn vô cớ bị lửa đốt trụi,
vợ hắn bị chết cháy, gă họ Nguyễn chạy
thoát, bỗng lửa ở đâu bay tới dính vào thân hắn.
Trong khoảnh khắc, hắn bị thiêu phồng lên mà chết.
Ông Vu Thiết Tiều nói: -
Đào ao, khơi gịng, khiến cho thế nước chảy
xiết, mạnh bạo, lầm lạc phá thủng đê ngăn
sông, thắp lửa bắn pháo hoa, pháo
theo gió rơi xuống, đến nỗi đốt cháy nhà
cửa. Dẫu vô tâm phạm lỗi, vẫn mắc tội
làm hại mọi người. Hăy nên cực lực răn
dè!
(Chánh văn) Vặn loạn quy mô,
dĩ bại nhân công, tổn nhân khí vật, dĩ cùng nhân dụng.
(正文)紊亂規模。以敗人功。損人器物。以窮人用。
(Chánh văn: Làm loạn phép tắc khiến cho công
sức của người khác bị thất bại. Phá hoại
vật dụng của người khác khiến cho họ
chẳng sử dụng được).
“Quy
mô” (規模) là như hết thảy các luật lệ, mạng lệnh
thuộc về chánh sách giáo hóa. [Những thứ ấy] thật
sự đều liên quan đến sự được mất, an
nguy của thiên hạ. Phường tiểu nhân đố
kỵ công lao của kẻ khác, mong cho người khác bị
thất bại, hủy hoại, bèn gây rối loạn, chẳng
biết: Khiến cho công sức của người khác bị
thất bại, thật ra là khiến cho quốc sự bị
bại hoại. Đă gây hại to lớn, há tội nhỏ
nhặt ư? C̣n như đối với chuyện của
một thân, một nhà, mà gây rối loạn đến nỗi
hư hoại, th́ cũng là kẻ tổn thương thiên lư, chôn vùi lương tâm, tội chẳng khác ǵ!
Trong chiến dịch Hoàn Sóc,
Dương Nghiệp phụng mạng [đánh nước
Liêu], làm phó tướng cho Phan Mỹ tấn công bọn thảo
khấu [nước Liêu]. Đă đến nơi, do bọn
giặc tấn công Hoàn Châu, Dương Nghiệp nói: “Thế
giặc đang tinh nhuệ, chẳng thể đánh
được. Hăy nên dẫn binh ra Đại Thạch Lộ,
trước đó, truyền lệnh cho các tướng trấn
giữ Vân Châu và Sóc Châu tiếp ứng từ Thạch Kiệt
Cốc th́ mới là muôn phần vẹn toàn”. Giám
Quân Vương Sân chê trách Dương Nghiệp sợ chết.
Bất đắc dĩ, Dương Nghiệp xin dẫn
binh đi, bèn căn dặn Phan Mỹ [đóng quân] ở cửa
cốc, chia thành hai cánh là bộ binh và quân bắn nỏ mạnh.
Ước định khi [Dương Nghiệp] dụ
địch đến nơi đây, bèn đổ quân ra
đánh xáp lá cà, ắt sẽ toàn thắng. Phan Mỹ bèn đóng
quân ở cửa cốc. Vương Sân lại cho rằng
giặc sẽ bỏ trốn, muốn đoạt công lao,
bèn dẫn lính rời đi. Dương Nghiệp dụ
quân giặc đến chỗ phục binh, [phát hiện phục
binh đă bỏ đi mất], vỗ ngực khóc to, rồi
lại liều ḿnh quyết chiến, tự tay đâm mấy
trăm người rồi mới chết. Nếu chẳng
bị Vương Sân gây trở ngại, công đă thành rồi.
Triều đ́nh nghe tin, hạch tội Vương Sân gây rối
luật lệ trong quân. Vương Sân tự sát, bị lính
của Dương Nghiệp xẻo thịt ăn, trong khoảnh
khắc hết sạch.
Tống Nghệ Tổ (Tống
Thái Tổ) kiến tạo thành đô Biện Kinh có chỗ
quanh co, khuất khúc, chỗ thẳng, chỗ cong, nhằm
để các nơi có thể chiếu ứng lẫn nhau,
thật sự là có dụng ư sâu xa. Cho đến khi Thái Kinh
chuyên chế nắm quyền, bèn tâu với vua, [kiến trúc
kiểu ấy] chẳng phù hợp vẻ mỹ quan, [vua bèn
chấp nhận] cho hắn phá bỏ, xây [thành mới] vuông
vức. Trong niên hiệu Tĩnh Khang, Niêm Hăn và Oán Ly Bất[51] vung roi
dưới thành, bảo: “Thành này dễ tấn công”. Họ
sai đặt hỏa pháo bốn phía, thuận theo
phương vị mà bắn. Do thành vuông vức, bắn một
phát trúng liền, vách thành phía ấy liền chẳng đứng
vững được. Người hiểu biết đều
tiếc hận.
“Khí
vật” (器物, đồ
vật) là như giấy bút của văn, hoặc đao,
trượng của vơ, cày cuốc để canh tác, búa,
đục của thợ. Trong nhà th́ là các vật dụng
thường dùng. Trên đường th́ là các vật dụng
dùng trong di chuyển như dù, lọng. Xe th́ có trục, có
đ̣n, thuyền th́ có sào chống, có mái chèo. Dẫu là vật
dụng hết sức nhỏ, trong khi cần dùng, nó sẽ
có mối quan hệ hết sức thiết yếu. Nếu
tổn hại, khiến cho lúc cần dùng sẽ chẳng
làm ǵ được, chẳng có ǵ hết sức đáng giận
hơn! Kẻ làm như vậy có tâm thuật như thế
nào?
Hai người họ Từ
và Trần ở Hoài Nam đều sống bằng nghề
chở thuyền. Họ Trần chèo hơi mau hơn, kiếm
tiền nhiều hơn. Họ Từ ganh ghét, thường
ngấm ngầm phá hư vật dụng để họ
Trần bị khốn đốn. Một tối, hắn
ngầm phá găy mái chèo của họ Trần. Tới lúc b́nh
minh, sợ bị phát giác, hắn bèn nhổ thuyền ra
đi. Tới giữa sông, họ Từ bỗng ngă xuống
sông, kêu cứu. Họ Trần gấp rút muốn ra cứu,
nhưng do mái chèo đă găy, chẳng thể chèo thuyền ra
đó được, đành đứng nh́n họ Từ
chết!
(Chánh văn) Kiến tha vinh quư,
nguyện tha lưu biếm. Kiến tha phú hữu, nguyện
tha phá tán.
(正文)見他榮貴。願他流貶。見他富有。願他破散。
(Chánh văn: Thấy người khác vinh hiển,
sang cả, mong họ bị lưu đày, biếm trích. Thấy
người khác giàu có, mong họ tàn mạt).
Phàm những ai được
vinh hiển, sang cả, đều chẳng phải là ngẫu
nhiên, mà đều là do đời trước [người
ấy] đă tích lũy thiện duyên, vun trồng cội
đức từ trước, cũng như do tổ tông
tích đức mới bèn có thể được như thế.
Kẻ trông thấy [t́nh huống như thế], hăy nên khởi
tâm mong mỏi, hâm mộ. Chẳng phải là hâm mộ sự
vinh hiển, sang cả của họ, mà là thật ra là mong
mỏi, hâm mộ sự tu tập từ trước của
người ấy. Nếu mong cho người ấy bị
lưu đày, biếm trích, tức là chẳng từ chỗ chân thật mà phản tỉnh, soi xét bản thân, mà là từ
nơi hư huyễn, sanh ḷng tàn độc, muốn cho
người khác cũng phải xuống thấp như ta.
Sao lại ngu si ôm ḷng tiểu nhân, ghen ghét đến nỗi
như thế? Thật ra, chẳng hề tổn hại
người khác mảy may, chỉ là tự ḿnh tạo ác
nghiệp, khiến cho chính ḿnh càng thêm nghèo túng, hèn kém đó
thôi!
Đời Đường,
Liễu Tử Hậu (Liễu Tông Nguyên) và Lưu Mộng
Đắc bị biếm trích, thật ra là do Vũ Nguyên
Hành[52] thật sự
chủ động [gây nên]. Nguyên Hành bị giặc giết
chết, c̣n hai ông Lưu và Liễu không sao. Bạch Lạc
Thiên (Bạch Cư Dị) bị biếm trích thật sự
là do Vương Nhai vu cáo, hăm hại. Vương Nhai bị
bọn hoạn quan giết chết, Lạc Thiên vẫn chẳng
sao! Phàm là kẻ đang nắm quyền, giữ đại quyền sanh sát trong tay, coi những viên
quan bị đuổi, bị đày như dế, kiến,
nào có biết trong nháy mắt, thân và đầu của chính
ḿnh khó giữ, bọn “dế, kiến” kia ngược lại ngồi
xem, cười cợt ta vậy! Huống hồ những kẻ
bàng quan chỉ mong [người khác bị biếm trích, phá
tán] suông, há có ích ǵ chăng?
Đời Tống,
Vương Bác Văn nắm quyền cai trị công bằng,
khoan dung, từng nói: “Ta suốt đời phán quyết tội
lưu đày, chưa hề chẳng ngầm chọn lựa
nơi có khí hậu tốt”. Quan Thái Tể Đồ Dung mỗi
lần tuyển chọn quan lại để phái tới
nơi có sơn lam chướng khí đều ngừng bút rất
lâu, bảo: “Ta đă từng đi qua nơi ấy, quan lại
phần nhiều chết v́ chướng khí, ắt phải
chọn lựa người phù hợp phong thổ”. Do vậy,
ông bèn tâu lên vua [xin hăy áp dụng] theo quy định ấy.
Đấy chính là dụng tâm của bậc thật sự
nhân từ. Kẻ mong cho người khác bị lưu
đày, biếm trích, hăy nên suy nghĩ!
Giàu có cũng là do bản thân
gieo trồng đức, do tổ phụ tích lũy công
đức mà nên. Nếu đố kỵ sự giàu có ấy,
mong cho họ bị tàn mạt th́ là cái tâm như thế nào?
Dẫu là kẻ chí ngu, cũng chẳng nên không hiểu biết như thế. Xin hăy nghĩ lại, nếu ta giàu
có, mà kẻ khác mong cho ta bị phá tán, ḷng ta sẽ ra sao? Nếu
ḷng ta giận dữ, sẽ biết là ḷng người khác cũng
giận. Ḷng người khác cũng giận th́ ḷng trời
há chẳng giận ư? Đối với chuyện này,
hăy nên quán ba điều:
1) Một là người
đó giàu có, ắt do đời trước lợi người,
làm phước mà ra. Chuyện này đáng nên noi theo, chớ
nên ganh tỵ.
2) Hai là có thể là do người
ấy đă khổ tâm, lao lực, chịu đựng
đói rét, tích tụ dần dần mà thành dư giả. Tuy vẫn
do cái nhân trước, nhưng thật sự chịu đựng
các nỗi khổ. Chuyện này đáng thương, chớ
nên ganh tỵ.
3) Ba là do vô ư mà đạt
được, làm giàu bất nhân, nhưng [của
cải] tụ tán vô thường, nước, lửa,
đạo tặc, oán gia, con cái bại hoại, bệnh tật,
quan lại, thưa kiện, đều là những cái nhân
gây nên tiêu hao. Trường hợp này sẽ tự phá tán,
suy bại, chẳng cần phải ganh tỵ.
Quán như vậy, cái tâm sẽ
tự b́nh đẳng.
Châu Nghĩa Phu ở Hồng
Huyện, giàu có, chẳng tiết kiệm, tánh t́nh phóng túng,
ngang ngược. Tôn Thức Chi đă từng răn nhắc,
Nghĩa Phu tức giận, bảo: “Ngươi biết ǵ
mà dám dính vào chuyện của ta?” Do vậy, Thức Chi đố
kỵ. Lại nói: “Ta đành chờ xem hắn suy bại vậy”.
Đến khi Thức Chi đỗ đạt, làm quan trông
coi về vận chuyển tại lộ ấy (tỉnh ấy),
lần lượt tuần tra tới Hồng Huyện. Đúng
lúc ấy, có người tố cáo Nghĩa Phu đánh đập
người khác ở chợ, [Thức Chi] bèn giao họ
Châu cho quan Tư Thôi thẩm vấn. Chẳng ngờ người
tố cáo chết bất ngờ, Thức Chi bèn viện cớ
Nghĩa Phu phạm tội mưu sát để phán án tử
h́nh. Chẳng được mấy năm, Thức Chi
được chuyển đi làm tào quan[53] ở Hà Bắc,
cả nhà bị bọn giặc giết chết, chẳng
khác Nghĩa Phu. Than ôi! Nghĩa Phu do cậy tiền tài mà
hoành hành bạo ngược, cố nhiên đáng bị suy bại;
nhưng Thức Chi lại ôm ḷng cừu hận mà phá nát nhà
hắn. V́ thế, trời cũng báo đền bằng
cách phá nhà ông ta! “Tạo
phương tiện cho người khác là tạo
phương tiện cho chính ḿnh”, đúng là lời luận
định chí lư thay!
(Chánh văn) Kiến tha sắc mỹ,
khởi tâm tư chi.
(正文)見他色美。起心私之。
(Chánh văn: Thấy vợ con người ta xinh
đẹp, nẩy ḷng dan díu).
Nghiệp sắc đối
với tâm t́nh của con người là dễ phạm nhất,
so với những chuyện như tham lam, giết chóc v.v…
c̣n khó chế ngự gấp trăm lần. Do vậy, v́
chuyện này mà suy bại đạo đức, chuốc họa so
với những chuyện khác cũng khốc liệt gấp
trăm lần! V́ thế, đức Thái Thượng đối
với những chuyện tham lam, giết chóc v.v… không chỉ
là răn đi nhắc lại, nhưng riêng đối với
điều đứng đầu muôn điều ác (dâm dật),
Ngài chỉ nói một lời. Đấy chẳng phải
là nói đại lược, mà là v́ những điều ác
như tham lam, giết chóc v.v… rơ ràng, nông cạn, có thể
nói trọn hết được. Chứ sự ác do dâm th́
ẩn kín, sâu xa, khó thể nói trọn! V́ thế, phải
dùng lời lẽ diệt trừ từ ngay ư niệm, tức là từ ư niệm
ban đầu, nhằm đánh thức kẻ si mê, bèn nói: “Kiến tha sắc mỹ, khởi tâm tư chi” (Thấy vẻ đẹp của vợ con người
khác, bèn dấy ḷng dan díu). Bởi lẽ, con người
trong khi sắc đẹp đập vào mắt, tấm ḷng
vừa động, dấy lên ư niệm
“nghĩ tưởng, hâm mộ, tham muốn, mong cầu” kết
chặt trong ḷng, chẳng thể tháo gỡ được!
Những ư niệm như thế vừa chớm nẩy, chẳng
đợi đến khi thân thật sự làm, mà đă
thoát khỏi thiên lư, sa vào nhân dục (dục vọng của
con người), âm ty đă xếp vào hồ sơ tội
ác vô cùng! Do vậy, đức Thái Thượng vô lượng
từ bi, chẳng cần phải rườm lời, chỉ
dùng một lời để cảnh tỉnh từ ngay chỗ
ấy, nhằm dạy con người: “Khi trông thấy sắc đẹp, dấy ḷng, chẳng
thể không từ chỗ bắt nguồn mà sớm tự
kiềm chế, dứt tuyệt”. Ngay trong khi dấy niệm, hăy ngay lập tức phấn chấn,
dũng mănh, một đao chém phăng, chẳng dễ duôi
tí nào, chớ dung một mảy t́nh niệm. Thiên đường
và địa ngục, ngay lập tức phân định
rành rành. Nếu trong lúc ấy, hơi nhận biết [tâm niệm]
chẳng thật, nhưng chưa nhận biết thấu
suốt, chẳng thể chém đinh chặt sắt, kiên quyết
đặt vững bước chân, th́ ngay trong phút chốc,
nó sẽ dẫn khởi tràn lan, bất tri, bất
giác, bị trôi giạt vào nước quỷ La Sát mất rồi,
tuy nhỏ nhiệm mà nguy hiểm lắm thay! Ư của đức
Thái Thượng tinh ṛng, tha thiết, sâu xa tột bậc,
khổ tâm vô lượng vậy!
Bảo Thiện Đường
nói: - Tâm ấy (dâm tâm) vừa dấy, ắt sẽ ít liêm
khiết, ít hổ thẹn, bại hoại nhân luân, tổn
thương phong hóa. Chuyện tổn hại âm đức
to lớn, không ǵ chẳng bắt nguồn từ cái tâm này.
Tâm ấy vừa chuyển, ắt có thể bảo toàn danh
tiết, gieo đức, tạo phước. Chuyện có thể
khiến cho trời, người cảm động, không
ǵ chẳng là do chuyển biến cái tâm này. Cái ải để
phán định là người hay thú, hoàn toàn ở chỗ
này, há dám chẳng khẩn thiết,
dũng mănh tỉnh ngộ ư?
Bốn chữ “kiến sắc khởi tâm” (thấy sắc dấy ḷng) chính là cái gốc khiến cho người đời mắc
bệnh trong cả một đời vậy. Nay muốn
đoạn trừ cội gốc ấy, hăy nên dốc sức
nơi chữ Kiến. Phi lễ vật kiến (điều trái lễ chớ nh́n), thấy mà như không thấy th́ là [công phu] bậc
thượng. Bản tâm khó mê muội, lễ pháp khó vượt
qua, nghiêm cấm, gắng sức chế ngự th́ là bậc
kém hơn. Nếu chẳng vậy, thoạt đầu th́
là dấy lên trong tâm, rốt cuộc sẽ loạn nơi sự.
Một niệm sai lầm, muôn kiếp chẳng chuộc được, buồn thay!
Kinh Tứ Thập Nhị
Chương dạy: “Xem người
già như mẹ, xem người lớn hơn như chị,
xem người nhỏ hơn như em gái. Xem đứa bé
bỏng như con gái [của chính ḿnh]”. Đấy chính
là pháp tối thượng để dưỡng tâm.
Sắc đẹp ai nấy
đều yêu thích, nhưng chẳng thể dối gạt
hoàng thiên! Ta hành dâm với vợ kẻ khác, kẻ khác sẽ
hành dâm với vợ ta. Người xưa đă để
lại lời răn ấy. Dương Ấu Thanh viết
bài tụng rằng: “Thấy sắc
đẹp của kẻ khác, vừa mới dấy niệm
toan dan díu, tức là đă khiến cho kẻ khác dấy lên
ư tưởng muốn dụ dỗ vợ con ta. Thay đổi
vị trí để nh́n, tà tâm sẽ lập tức dứt
bặt”.
Ngữ lục của cổ
đức đă chép: - Vừa mới gặp sắc đẹp,
tâm rung động, hăy gấp nghĩ: Vị thần trông
coi tội lỗi ở ngay bên cạnh ta. Tam Thai, Bắc
Đẩu ở ngay trên đầu ta. Tam Thi trong thân, Táo
Quân ở trong nhà. Ba thứ ánh sáng của mặt trời, mặt
trăng [và tinh tú chiếu soi], thiên chân vạn thánh (ngàn vạn
vị tiên thánh) ở trên hư không, có người ghi chép,
có người trông thấy mà tức giận, có người
giám sát dầy đặc muốn gom góp [tội lỗi của ta] để công bố,
như thế th́ sẽ hoảng sợ, run rẩy, tự
nhiên tấm ḷng nguội lạnh, ư niệm [tham dục] diệt mất.
Đời Minh có một
người mắc chứng háo sắc, hỏi tiên sinh
Vương Long Khê[54]. Tiên sinh bảo:
“Có chỗ rủ màn treo trướng nơi đây, có
người bảo ông trong ấy có một ả kỷ nữ
nổi danh. Tới lúc ông vạch màn ra, ả gái làng chơi
ấy chính là em gái hay con gái của ông, ngay trong lúc ấy, tấm
ḷng dâm của ông có ngay lập tức dứt bặt hay
không?” Thưa: “Dứt liền”. Tiên sinh bảo: “Vậy th́
dâm vốn là không, ông nhận lầm nó là thật”.
Trong mười đoạn
Tiêu Song[55]
của Văn Đế, đoạn đầu tiên là giới
dâm hạnh: “Chưa thấy, chớ
nên nghĩ. Trong khi thấy, chớ nên loạn. Đă thấy,
chớ nên nhớ”. “Chưa thấy đừng nghĩ”
chính là công phu tồn tâm dưỡng tánh lúc tĩnh (lúc chưa có ngoại duyên
dẫn dụ). Thường
ngày, hễ rảnh rang ở một ḿnh, ắt phải thâu
thập sao cho mỗi ư niệm đều sạch
làu, thời thời cảnh giác, khắc khắc nhắc nhở.
Thiên lư đă hiện diện, ắt ḷng ham muốn của
con người sẽ tự dứt. Phàm những ư tưởng dâm uế, tà vạy, đều chẳng để
lọt vào tấm ḷng quang minh chánh đại. Đấy là
học vấn chú trọng ḷng kính của bậc quân tử.
Tâm ta đă định, tự nhiên lúc sắc đẹp lộng
lẫy ở trước mặt, mặc cho kẻ đó dẫn
dụ đủ mọi cách, ta trọn chẳng bị nó lay động mảy may th́ là
định lực thuộc bậc nào? Cảnh giới ấy
đều là do thường nhật đă tu luyện phẩm
đức nghiêm ngặt, thiết thực, do chánh tâm thành ư mà
ra. Đấy chính là đối với chuyện gạn lọc, lắng trong cội nguồn, Đế Quân đă dạy phải
kiêng trừ những chuyện thuộc về dục vọng
của con người. Trước hết, Ngài dạy
ngăn ngừa từ cái tâm. Muốn ǵn giữ [dâm giới]
ngay trong [khi những ngoại
duyên dẫn dụ] hiện
tiền, trước hết, phải tu luyện trong lúc
thường ngày. C̣n như “trong
khi trông thấy mà chẳng loạn, đă thấy bèn chớ
nghĩ nhớ”, chính là như đức Thái Thượng
đă răn mọi người “chớ
nên dấy ḷng tư t́nh”. Đấy chính là công phu phản
tỉnh, soi xét bản thân trong khi [tâm niệm] dấy động
vậy. V́ thế, nếu phân tích chi tiết hơn, ba câu
nói của Đế Quân, mỗi câu là một cảnh giới.
“Nghĩ” là nghĩ tới
tương lai. “Loạn” là
loạn trong hiện tại. “Nhớ”
là nhớ về quá khứ. Người hiện thời dâm
ác ngập trời, không ai chẳng phải là do từ trong
ba cảnh ấy mà h́nh thành, xuất hiện. Có thể thật sự trừ hết ba cảnh ấy, dâm hạnh há có chỗ
nào để đặt chân nữa ư?
Dâm đứng đầu
muôn điều ác, [chuyện này] được nêu rơ trên bảng sắt trước
điện Sâm La. Bởi lẽ, hễ tâm dâm vừa sanh,
các điều ác lũ lượt tụ tập. Tà duyên chưa
tụ hợp, đă sanh tâm huyễn vọng. Nếu chẳng
có cách nào chèo kéo, dẫn dụ người khác, sẽ sanh
ḷng xảo trá. [Nếu có] đôi chút trở ngại, sẽ
sanh ḷng sân hận. Do dục t́nh điên đảo, bèn sanh
ḷng tham đắm. Do hâm mộ những thứ người
khác đang có, bèn sanh tâm đố kỵ, tàn độc,
tước đoạt thứ yêu mến của người
khác, sanh tâm giết hại, chôn vùi hết sạch liêm sỉ,
luân lư đều thiếu sót, các thứ ác nghiệp sanh ra từ
đấy, các thứ thiện niệm do đấy mà tiêu
mất. Hễ dấy động dâm tâm, tuy chẳng thật
sự thực hiện, mà đă tích ác, tạo tội như
thế đó, huống hồ là thực hiện [dâm sự]
hiển nhiên ư?
Pháp luật cơi âm có nói: - Gian
dâm vợ người khác, sẽ bị quả báo tuyệt
tự. Gian dâm với gái chưa chồng, sẽ bị quả
báo con cái dâm dật!
Ngạn ngữ có câu: “Khuyến quân mạc tá phong
lưu trái, tá đắc khoái lai, hoàn đắc khoái, gia
trung tự hữu đại hoàn nhân, nhĩ yếu lại
thời, tha bất lại” (Khuyên đừng gây nợ
phong lưu, mượn đă mau rồi, trả chóng
hơn. Người nhà rồi sẽ đền nợ thế,
dẫu ngươi muốn quỵt, chẳng tha đâu!)
Sát nhân th́ giết một
thân, gian dâm với kẻ khác th́ giết cả ba đời
[kẻ bị gian dâm]! Bởi lẽ, [hành vi gian dâm ấy]
không chỉ là phá hoại danh tiết của người ấy,
mà c̣n khiến cho bố mẹ chồng, chồng người
ấy và con cái của họ mất hết mặt mũi, đau đớn
thấu tâm can. Thậm chí có người v́ xấu hổ mà
đến nỗi chết, hoặc là chồng giết vợ,
hoặc là bố thắt cổ con gái, con không nhận mẹ,
[khi gặp mặt] thân thích khó giữ thái độ đối
xử lịch sự, những nhà đàng hoàng chẳng dám kết
thông gia với nhà ấy. V́ niềm vui vụng trộm trong
chốc lát bèn tạo tội ác ngập trời, quả báo
tuyệt tự vẫn chưa đủ xứng với cái
tội ấy!
Có vợ chồng rồi mới
có cha con, anh em. Gian dâm người khác, không chỉ là rối
loạn giềng mối vợ chồng, mà c̣n rối loạn
cả cha con, anh em người ta! Ngũ luân đă bị mất
ba. Thậm chí khiến cho tổ tông của kẻ ấy
[v́ bị người khác khinh thường con cháu] là “hạng
người không ra ǵ” mà phải nếm trải nỗi
đau khổ không người cúng tế. [Kẻ gian dâm] sẽ
bị quỷ thần tru lục, há có thể trốn tránh
được ư? Sát nhân
th́ sẽ tiêu diệt hậu thiên, nhưng kẻ gian dâm
người khác sẽ rối loạn tiên thiên của
người ấy. Huống hồ, sát nhân là v́ hận [thù
người ấy] mà làm, c̣n kẻ gian dâm người khác,
có hận thù ǵ với chồng, bố
mẹ chồng, bố mẹ
ruột của người ta? Lại c̣n
hận thù ǵ với cô gái đẹp ấy mà cứ muốn
ô uế thân thể, chôn vùi tiết hạnh của cô ta?
Dâm niệm nhiều, ắt
thiện niệm ít. Dâm niệm ít, ắt thiện niệm tự
nhiều. Do vậy, dâm niệm hoàn toàn tiêu mất th́ trong
năm phước sẽ đạt được ba
phước là thọ, khang ninh (mạnh khỏe, yên vui) và
khảo chung mạng (chết yên lành). Kẻ thường dấy
lên dâm niệm, ắt sẽ bị khốn đốn v́ bệnh tật, mắc các tai ương hung tàn, đoản mạng, trắc
trở.
Dục niệm trong chốc
lát dễ tiêu mất. Công danh và tánh mạng
cả một đời rất trọng, tội ǵ đem
danh dự, tiết tháo cả trăm năm, tiền tŕnh suốt
một đời, [âm đức] tích lũy của tổ tông,
phước lộc của con cháu phí sạch vào nỗi mê
hoặc ngắn ngủi? Đúng là chẳng biết [kẻ
như thế ấy] có bụng dạ như thế nào? Cũng
có kẻ v́ kinh hăi trốn thoát khỏi [sự lùng bắt của
gia đ́nh người bị gian dâm] mà thành bệnh, dẫu
uống thuốc cũng khó lành, gây liên lụy khiến cho gia
đ́nh của chính ḿnh suy bại, cắn rốn chẳng kịp[56]. Thậm
chí gian t́nh bại lộ, đem tánh mạng đổi lấy
một khắc hoan lạc! Báo ứng oan nghiệt tuần
hoàn, dùng vợ và con gái để trả cái nợ phong lưu, thê thảm
càng khó nói nổi, hăy mau cảnh giác!
Ngạn ngữ có câu: “Gian dâm gần giống như là
giết chóc”. Đúng lắm thay, nhưng nói “gần giống
như giết chóc” th́ vẫn là lời lẽ nhẹ nhàng.
Tôi cho rằng: Hễ gian dâm th́ chưa hề chẳng có chuyện
giết chóc! [Bởi lẽ], chồng người ấy
hay biết, giận dữ vung đao giết chết [gian
phu, dâm phụ]. [Nếu như là hai hay nhiều gă đàn ông] cùng
gian dâm [với một nữ nhân], sẽ do ghen tuông mà đâm
chém nhau, trở thành giết chóc. Do gian dâm mà dẫn đến
chết chóc, sẽ bị phép vua giết chết. Nếu
may mắn lọt lưới, sẽ bị oán quỷ giết
hại. Có mấy kẻ tránh khỏi, sẽ mắc bệnh
hư nhược, lao sái trầm kha, Biển Thước[57] khó thể
trị lành, tức là bị thần Tư Mạng giết.
Con người rốt cuộc tự đặt tấm
thân “tối linh, tối quư, có thể làm rất nhiều
chuyện hữu ích lớn lao” vào chỗ “ắt bị giết
chết” th́ ngu lắm thay, đau đớn lắm thay!
Sách Nhật Càn Sơ Điệp
có nói: - Xưa có bậc hiền nhân, trong khi dâm niệm bộc
phát, bèn đút tay vào lửa, đau đớn chẳng chịu
nổi, dâm niệm liền dứt. Nếu chẳng dứt, ắt
lắng ḷng tĩnh tọa, coi như tấm thân đă chết.
Lại nghĩ đến mộ phần của cổ nhân,
tự nhủ: “Người ấy đă sống trên đời
như ta; mai sau, ta sẽ giống như người ấy,
dâm lạc để làm ǵ cơ chứ?”
Ngăn ngừa ư niệm dâm hoàn
toàn cậy vào huệ lực. Đời Đường,
Địch Lương Công (Địch Nhân Kiệt) đă
từng nói: “Người đối diện với sắc
đẹp, hăy mau nghĩ người phụ nữ ấy
mai sau mắc bệnh chết đi, thi thể rữa nát,
gịi trùng xúm lại đục khoét, hôi thối nồng nặc,
rất đáng kinh sợ, tà niệm liền tan ngay!”
Trong bài B́ Nang
Ca (皮囊歌, bài ca về cái đăy da) của
Đạt Ma Tổ Sư đời Lương có đoạn:
“Niệu thỉ cừ, nùng huyết
tụ, toán lai hữu thậm phong lưu thú” (Mương
phân tiểu, đống máu mủ, tính ra có ǵ là thú phong
lưu).
Đời Đường,
Lữ Tổ nói: “Đừng khoe c̣n trẻ để thừa
dịp phong lưu, [làm như thế] chính là ép ḿnh đi vào
con đường luân hồi buôn bán xương khô. Không
tin th́ hăy đối trước gương sáng mà xem, dưới lớp da mặt
là đầu lâu”. Lại nói: “Giai nhân mười sáu như
bơ, eo giắt kiếm sắc chặt đầu gă ngu. Dẫu
không thấy kẻ rụng đầu, ngấm ngầm giục
giă người thành xương khô”.
Trong Giới Dâm Pháp có đoạn
viết: - Nó (dâm dục) là sự vật dẫn dụ ta giết
ḿnh, phá nhà, tổn thọ, giảm phước, thật sự
làm hại tánh mạng của ta. Đáng nên coi nó như
lưỡi đao bén giết người, xem như hổ,
sói, xem như rắn độc, xem như quỷ sứ bắt
hồn, xem như oán đối từ đời trước.
Nếu có thể quán như vậy, sẽ như dùng nước
chữa lửa, dâm niệm chẳng hề không dứt vậy!
Đời Minh, ông Cao Tông Hiến
nói: - Thân này như bạch ngọc, hễ sảy chân liền
vỡ nát. Chuyện này (dâm dục) như chất độc
của chim Trấm, vừa lọt vào miệng bèn chết
ngay.
Người thời nay
thường bị lầm lẫn bởi một chữ
T́nh, chẳng biết chữ T́nh chính là tác dụng do trời
ban cho ta để thực hiện trung, hiếu, ḥa thuận
với anh em, nhân từ với dân chúng, yêu thương muôn
vật. Sử dụng chánh đáng th́ sẽ là thánh hiền.
Sử dụng tà vạy, sẽ là cầm thú, há chẳng sợ
ư?
Sách Đạo gia nói: “Tội
gian dâm với kẻ khác nặng gấp mấy lần tội
sát nhân!” Lại nói: “Phàm là người khổ hạnh tu
hành, các tội đều có thể tiêu trừ, chỉ có tội
từng phá tấm thân trong trắng của kẻ khác, dẫu mai sau
đạo cao, hạnh măn, vẫn chẳng thể tiêu trừ,
ắt phải hứng chịu ác báo th́ mới có thể
thành tiên được”.
Đức Phật dạy: “Người sống trong thế
gian, chẳng xâm phạm phụ nữ của kẻ khác,
tâm chẳng nghĩ tà vạy; do vậy,
sẽ được năm điều thiện. Một là
chẳng bị tổn thất tiền tài, hai là chẳng sợ
bị quan huyện [bức bách], ba là chẳng sợ hăi kẻ
khác, bốn là được sanh lên trời, ngọc nữ
trên cơi trời làm vợ, năm là từ trên trời giáng hạ,
sanh vào nhân gian, phần nhiều là phụ nữ đoan
chánh”. Nay thấy có bao
nhiêu người đoan chánh, xinh đẹp, đều là
do trong đời quá khứ chẳng xâm phạm phụ nữ
của người khác mà ra. “Người
sống trong thế gian mà dâm dật, xâm phạm phụ nữ
của người khác. Do vậy, sẽ mắc năm
điều ác. Một là gia đ́nh bất ḥa, nhiều lần
mất mát tiền bạc. Hai là sợ hăi quan huyện,
thường bị đánh đập. Ba là tự dối
ḿnh, bản thân thường sợ sệt kẻ khác. Bốn
là vào trong địa ngục Thái Sơn, cột sắt đang đỏ rực, thân luôn ôm lấy! Do xâm phạm phụ
nữ của người khác, mà mắc họa ương như thế mấy ngàn vạn năm, h́nh phạt
mới xong. Năm là từ địa ngục thoát ra, làm
gà, le, chim, vịt, dâm dật chẳng nề hà mẹ con, mà
cũng chẳng có chừng mực”. Ngựa có lễ, nhạn trinh lương, chúng
đều giữ chữ tín, có chừng mực, c̣n riêng gà,
le le dâm dật chẳng biết chừng hạn, đều
là v́ đời trước dâm dật, xâm phạm phụ nữ
của người khác, hứng chịu thân gà, le le, thường
bị kẻ khác ăn nuốt. Khổ sở như thế,
chẳng thể kể trọn!
Đức Phật nói năm
giới, [có] một giới là “chẳng
tà dâm” sẽ cảm quả báo đời này và đời
sau, cha mẹ, quyến thuộc sống lâu, mạnh khỏe,
ḥa thuận, vui vẻ, vợ con trinh lương.
Kinh Báo Ứng[58] chép: - Một
con quỷ hỏi: “Tôi thọ thân này, tánh hay sợ hăi,
thường sợ bị kẻ khác bắt nhốt, trói buộc,
c̣n bị hành hạ khổ sở, tàn độc, chưa hề có tâm vui sướng, do tội ǵ mà
nên nỗi?” [Ngài Mục Liên] đáp rằng “Khi ngươi
làm người, thích hành tà dâm, xâm phạm phụ nữ của
người khác, luôn lo nghĩ bị phát giác, tâm chẳng tự
an. Nay hứng chịu hoa báo, quả báo là trong địa ngục,
hoặc là nằm trên giường sắt, hoặc ôm cột
đồng. Tội lỗi như thế, chẳng thể
tính kể!”
Sách Văn Xương Đế
Quân Thiên Giới Lục chép: - Gian dâm vợ con người
ta, điếm nhục khuê môn[59], sẽ chịu
khổ năm trăm kiếp trong địa ngục mới
được thoát sanh, làm la, làm ngựa năm trăm kiếp
nữa, mới lại làm thân người. [Làm người]
th́ làm nghề xướng ca, đào kép. Gian dâm gái góa,
tăng, ni, bại hoại tiết tháo của người
ta, sẽ chịu khổ tám trăm kiếp trong địa
ngục mới được thoát sanh, [lại làm] dê, làm lợn
để cho người ta giết mổ tám trăm kiếp
nữa mới lại được làm người. [Khi
làm người] th́ bị mù, bị câm, là kẻ tàn phế,
ngũ quan, tứ chi chẳng được trọn vẹn, tàn phế! Dùng thân phận ty tiện để dâm loạn bậc
tôn quư, dùng thân phận người lớn để dâm loạn
trẻ nhỏ, bại hoại cương thường, sẽ
chịu khổ một ngàn năm trăm kiếp trong địa
ngục mới được thoát sanh, làm rắn, làm chuột
một ngàn năm trăm kiếp nữa, mới được
làm thân người, nhưng hoặc là chết khi c̣n trong
thai mẹ, hay là chết trong khi c̣n ẵm ngửa, rốt cuộc
chẳng thể trưởng thành. Tội báo do phạm dâm đáng
buồn thay!
Sách Khuê Châm chép: - Đàn bà mà
phạm phải nỗi oan nghiệt dâm dật, suốt
đời chẳng thể gột rửa. Dẫu [người
ấy có] con hiếu, cháu hiền, chẳng thể gột sạch
[danh tiếng nhơ nhuốc được]. V́ thế, bậc
thục nữ khuê các giữ thân như ngọc, chẳng
để có nửa điểm tỳ vết nào. Nếu gặp
kẻ khinh cuồng, cẩu thả, hăy lập tức gieo
thoi, quyết liệt cự tuyệt[60], tự
nhiên hắn sẽ chẳng dám tái phạm. Đấy là
chánh khí trong chốn buồng thơm, sẽ được
quỷ thần che chở. Nếu đàn bà dâm loạn, há chẳng
có ác báo ư? Luật lệ cơi âm trị tội bằng
cách bắt họ đầu thai làm chó, làm lợn, chứ
chẳng phải là chỉ bị cơi đời thóa mạ
mà thôi! Hăy nên răn dè!
Phàm con người dễ sảy
chân nhất chỉ là khi đối diện với sắc
đẹp lộng lẫy. Bỗng dưng, trong khoảnh khắc, sẽ khó
thể chế ngự, khi ấy, sẽ có ba loại ma:
1) Mắt nh́n vào mặt
[người xinh đẹp ấy], tư thái yêu kiều của
người ấy đă xoáy vào tâm, xương nóng, tâm thần
lơ mơ, như [bị bao phủ trong] khói mịt mù, lửa
cháy hừng hực. Đó gọi là hỏa ma.
2) Dục căn chớm nẩy,
mạch Nhâm Đốc ngầm mở, như đê sắp
vỡ, như sông chảy xiết sắp xoáy thủng
đê. Đó gọi là thủy ma.
3) Thủy hỏa cùng nung nấu,
thân thể và thần hồn xung động lẫn nhau, như
bánh xe [xoay] không ngừng, như chiếc ṿng không có chỗ
khởi đầu. Đó gọi là phong ma.
Ba thứ ma ấy là ba cửa ải.
Để chém ba thứ ma, vượt ba cửa ải, không có
chi khác, có một thanh gươm trí huệ, [thanh huệ
kiếm ấy] chính là Nhẫn mà thôi, là kiên nhẫn mà thôi, là
rất nhẫn nại mà thôi! Khi đói, đừng ăn
món ăn của cọp, khi khát đừng uống rượu
ngâm lông chim Trấm; đó là nói đến Nhẫn vậy. Khi
hai người đấu với nhau, đều muốn
đoạt đao [của đối phương], dẫu
đổ máu vẫn không chịu buông tay. Quân chiến bại
đoạt đường [tẩu thoát], dẫu trúng tên chẳng
quay lại. Đó là nói đến sự kiên nhẫn vậy.
Bị rắn độc mổ vào tay, tráng sĩ chặt cổ
tay. Thân trúng phải tên độc, anh hùng khoét xương.
Đó là nói về chuyện rất nhẫn! [Giữ
được như thế], th́ ngay trong lúc quan yếu ấy,
giữ được Định, nhẫn được,
ắt sẽ cảm trời đất, động quỷ
thần, công hạnh viên măn.
Nếu có một niệm vấn
vương, sẽ đến nỗi chẳng thể giữ
vững Định. Những kẻ liễu ngơ, hoa tường, phấn
trắng, mày đen, chớp mắt đă chẳng c̣n ǵ,
nhưng [kẻ đắm đuối chúng] sẽ do vậy
mà bị giảm thọ, do vậy mà bị giảm lộc.
Thậm chí có thể v́ vậy mà táng thân, lại c̣n mạng
đáng lẽ phú quư mà trở thành nghèo hèn, số vận
đáng lẽ b́nh an mà thành họa hại biến chuyển,
số phận lẽ ra có con mà thành tuyệt tự, mong mỏi con quư, cháu hiền, lại toàn nẩy ṇi hạ
lưu! Lại c̣n mắc quả báo trong địa ngục,
quả báo trong đời sau, quả báo trong đường
súc sanh, bị báo ứng vợ con dâm dật, báo ứng con
cháu khốn cùng, quả báo là ca kỹ, đào kép hạ tiện.
Một niệm thoáng đâm quàng đường rẽ, [sẽ
thành] độc hại vô biên. Than ôi! Dám chẳng nhẫn
ư?
Để ngăn dứt tà
dâm, trước hết, phải do cha, anh, thầy, bạn
thường ngày đổ công giáo huấn, chỉ bày, khiến
cho [ư niệm kiên quyết chẳng tà dâm] được
tiêm nhiễm dần dần, khiến cho [con em, học tṛ]
tin tưởng sâu xa: “Trong pḥng tối mà có tâm sai trái, mắt
thần minh [sáng ngời] như chớp”. Trong tâm [luôn ấp
ủ] lễ pháp, nhân quả, họa phước báo ứng,
chẳng nghi ngờ mảy may, tự nhiên là khi tiếp xúc
[những cảnh ngộ quyến rũ], sẽ dũng mănh
phản tỉnh, ngay lập tức hồi quang, chẳng cẩu
thả ngay trong lúc ấy.
Trong trường trăng
gió, lắm kẻ sảy chân, nửa đời luân lạc,
đọa đày, nh́n lại bóng ḿnh mà thẹn thùng, kinh hoảng.
[Ai mà chẳng] mong giữ lẽ chánh, chẳng tiêm nhiễm
[thói trăng hoa tà vạy], [thế mà] mấy ai có thể
làm được? Suốt ngày răn [đừng ôm giữ]
ḷng dâm, nhưng kẻ ấy dâm tâm lừng lẫy. Gặp
người khác bèn nói “hăy ít ham muốn”, nhưng [chính ḿnh] chủng tử dục vọng càng nẩy nở. Phóng túng t́nh dục chẳng biết quay đầu,
sẽ rước lấy tội lỗi không ai hơn! Nếu
thật sự có thể là thoạt đầu mê muội, rốt
cuộc giác ngộ, họa ương sẽ
mất đi, phước sẽ theo đến. Đời
Tống, tiên sinh Tạ Thượng Thái đă nói: “Đạo trời giáng họa
cho những kẻ dâm đăng, nhưng chẳng phạt
người biết hối hận tội lỗi”. Lời
ấy đúng lắm thay!
Ác báo do dâm đă nặng, vậy
th́ báo ứng do công phu ngăn ngừa dâm và báo ứng của
tội hướng dẫn dâm, đương nhiên là chẳng
nhẹ! Nguyện cho khắp mỗi người đều
thốt lời [thanh tịnh như] sen xanh, cất ngọn
bút soạn ra những áng văn diễm lệ, nhằm bộc
lộ rơ ràng sự cảm ứng, ḥng cứu bạt những
kẻ đang mê muội nơi dâm. Xoay vần lưu thông,
khuyến hóa lẫn nhau. Hoặc tuyên dương rộng
răi những lời chánh đáng, hoặc rát miệng [khuyên
nhủ] nơi pḥng kín, chẳng sợ bị
chê là cổ hủ, cứ mềm mỏng khuyên dạy, ắt
sẽ có thể khiến cho người ta nghe lọt tai, tỉnh
ngộ sâu xa, đạt được lợi ích vô cùng.
Dùng đó để đẩy lùi cơn sóng cuồng loạn
làm hại tâm tánh của bọn mày ngài, là thuốc hay để quay đầu nơi trận
địa giăng màn gấm, [như vậy th́] há chẳng
phải là bậc quân tử lấy sự yêu thương
người khác làm phẩm đức, tự cầu nhiều
phước ư?
Khẩu nghiệp của
người hiện thời không ǵ quá đáng hơn là thích bàn luận chuyện [riêng tư] trong buồng the của
người khác, thuật chuyện dâm dật, bỉ ổi,
lắm cách phỏng đoán, thăm ḍ. Một kẻ xướng,
trăm người họa! Thường là v́ kẻ nói hứng
thú dạt dào mà đến nỗi kẻ nghe hí hởn. Gian
ác, ngấm ngầm dan díu, thật sự liên quan đến
danh tiết cả đời. Một lời ngẫu nhiên lỡ
miệng, ương lụy vô cùng! Trên là khiến cho trời
giận, không ǵ hơn chuyện này! Sao bằng thường
nói đến quả báo của trinh và dâm, nâng
đỡ danh giáo[61]
cương thường, sẽ càng hưởng phước
trời nhiều hơn!
Thiên Giới Lục có nói: - Tạo
tác dâm thư, bại hoại tâm thuật của người
khác, chết rồi sẽ vào địa ngục Vô Gián măi cho
đến khi sách ấy diệt mất. Khi tội báo của
những kẻ v́ sách ấy mà làm ác đă đều hết
sạch th́ [kẻ soạn dâm thư] mới được
thoát sanh.
Đời Minh, ông Viên Liễu
Phàm nói: - Kẻ thu nhặt tà thư dâm uế, những thứ
h́nh ảnh xấu xa, và những lời báng bổ đem
đốt, sẽ được quả báo là con cháu trung
hiếu, tiết nghĩa. Kẻ thích đọc tiểu
thuyết dâm uế và kể nói những câu chuyện
trong dâm thư [cho người khác nghe], và cất giữ
sách dâm, tranh dâm trong nhà, sẽ mắc quả báo là con cháu làm
ca kỹ, đào kép!
Thiên sách Dục Hải Hồi
Cuồng [trong An Sĩ Toàn Thư] đă chép các lời răn
kiêng dâm, phân loại rơ ràng, lớp lang, tùy theo từng việc
mà khuyên răn. Ở đây, do khuôn khổ nhỏ hẹp của
Cảm Ứng Thiên, chẳng thể ghi lại toàn bộ,
chỉ trích dẫn [một vài điều tiêu biểu] ghép
vào đây.
Gái trinh thuở ở trong khuê
pḥng đợi dịp cưới gả, đấy chính là lúc khởi
đầu danh tiết suốt một đời
của cô ta. Nếu có kẻ táng tận lương tâm, phá
hoại danh tiết của cô ấy,
cha mẹ, họ hàng sẽ xấu hổ, ngượng
ngùng. Dẫu có người cưới về, sẽ
thường là bị bại lộ, rốt cuộc bị
[nhà chồng] đuổi về; [cô ta] sẽ thường
đến nỗi phẫn uất, nhục nhă, hổ thẹn
mà hủy hoại tánh mạng. Ví như trong chuyện hôn
nhân có thể giấu diếm được, [cô ta] sẽ
thường ngấm ngầm ôm ḷng hổ thẹn, sợ
hăi, danh tiết lớn lao đă khuyết, ngàn đời
khó gột rửa. Phàm là những ai có ḷng, hăy nên thống
thiết kiêng dè trước hết.
Bà góa có chí thủ tiết, thần
lẫn quỷ đều khâm phục, kính ngưỡng, triều
đ́nh biểu dương, tưởng thưởng. Nếu
tiết tháo kiên trinh ấy bị bại hoại, kẻ sống
chẳng c̣n mặt mũi nào trên cơi đời, người
đă chết (chồng bà ta) sẽ càng đớn đau ôm
hận nơi chín suối. Xin hăy thử nh́n lại, thử
nghĩ chính ḿnh lâm vào t́nh cảnh ấy, há chẳng nguội
lạnh tấm ḷng ư? Đúng là hăy nên khéo léo ǵn giữ,
khiến cho bà ta được thành danh, giữ trọn tiết
hạnh, gieo đức càng dầy, há có phải chỉ là
không dâm [th́ mới có đức dầy] mà thôi ư?
Tỳ nữ há chẳng phải
là gái trinh ư? Ta mong con gái ta trinh tiết, há có thể làm
nhơ nhuốc sự trinh tiết của con gái người
khác ư? Vợ đầy tớ th́ cũng là vợ của
người khác. Muốn vợ ḿnh tiết hạnh, há có nên
chôn vùi tiết hạnh của vợ kẻ khác ư? Tuy
sang hèn khác biệt, danh tiết như nhau, há có nên chôn vùi
lương tâm, gây nên sự báo ứng nghiêm trọng trong
cơi âm? Huống hồ [do chồng lẹo tẹo với tớ
gái hoặc vợ kẻ hầu], vợ ta v́ ghen tuông sẽ
đánh đập, gây thương tổn cho họ, hoặc
kẻ tôi tớ hung hăn sẽ quay ngược lại bêu riếu,
phản chủ. Cha con do chẳng hay biết mà cùng tằng
tịu với một đứa tớ
gái, anh em do mê muội mà cùng chung chạ với một
người, hoặc là cốt nhục bào thai mà luân lạc
trong hàng hạ tiện. Kẻ đời sau (con cháu của
chủ nhân) vô tri, [do chẳng biết đó là anh chị em
ruột thịt của ḿnh], lầm lẫn làm nhục, lấn hiếp, trên danh nghĩa là chủ tớ sai
khác, nhưng ngấm ngầm có t́nh huynh muội! Tổn
thương phong hóa, bại hoại mỹ tục, chẳng
nỡ nói đến! Người ta sao lại v́ thấy
[tôi tớ] dễ gian dâm bèn thản nhiên [làm xằng] chẳng
răn dè vậy?
Vú nuôi được xếp
vào bát mẫu[62], ni cô tu hành
tĩnh lặng nơi đất Phật, xâm phạm họ
sẽ là tạo ra oan nghiệt nặng nề nhất trong các
tội nghiệt. Hiện thời, những kẻ bị
quan lại trừng phạt và gặp phải những tai họa
riêng tư khác, cố nhiên vẫn là nhẹ hơn [ác báo do tội
lỗi này].
Cũng thường có chuyện
kẻ nữ chưa kết hôn[63] [làm chuyện]
dâm bôn, muốn quyến rũ kẻ khác hành dâm ḥng
được sủng ái, hăy đừng nghĩ “cô ả tự
dâng ḿnh tới tay ta. Nếu ta từ khước, sẽ
quá tuyệt t́nh”. Trong lúc ấy mà vượt được
sự thử thách ấy, sẽ là đức dầy, phẩm
lạ, sẽ được trời cao xét soi, chẳng
mong kẻ khác biết đến. Đấy là cửa ải
giữa thiện và ác, là ranh giới giữa họa và
phước, hăy càng nên nỗ lực!
Cặp kè vui chơi với
gái ăn sương tợ hồ chẳng có tội lỗi,
nhưng đă rơi vào cái bẫy ấy, sẽ thường
bị táng gia bại sản. Huống hồ [v́ ta dan
díu với gái làng chơi], cha mẹ ghét bỏ, thân hữu lợt
lạt, vợ con oán hận, [như thế th́ kẻ ăn
chơi ấy] đă hoàn toàn đặt ḿnh ra ngoài luân thường,
chôn vùi [sự tiết tháo vốn được] giữ ǵn
như ngọc. Thậm chí [có kẻ do
ăn chơi mà] thân nhiễm các bệnh phong t́nh, rụng
lông mày, khuyết mũi. Có kẻ
khắp thân chẳng có miếng da nào lành lặn! Có một
người bạn, bộ phận sinh dục thối rữa,
tự nói là v́ cuồng hứng nhất thời, [trở
thành giống như kẻ] bị thiến suốt
đời, tuyệt tự, tổn thương thân thể,
khóc lóc, hối hận chẳng kịp! Lại có một kẻ
ở An Huy, do bệnh hoa liễu truyền nhiễm, con sanh
ra lộ thịt đỏ hỏn, không có da, chẳng nuôi
được, đều chết. Than ôi! Người ta cứ
bảo [chơi bời] chẳng tổn hại âm chất,
ai ngờ chẳng khác ǵ bị cơi âm khiển trách! Hăy hết
sức răn giữ!
Chuyện nam nhân hành dâm với
nhau, có sáu điều chẳng nên là:
1) Dâm ô khinh mạn, thể diện
bị thương tổn, đă đánh mất ḷng cung
kính, chẳng có ḷng hổ thẹn. Đó là một điều
chẳng nên vậy.
2) Ruồng rẫy kẻ
đă kết tóc se tơ với ḿnh, sủng ái bọn trai trẻ, khí
phận tà ác dẫn đến những điều quái dị,
yêu ghét sai lệch. Đó là hai điều chẳng nên.
3) Các ngươi khinh bạc,
phóng đăng, có hạnh kiểm ǵ. [Cũng có lúc làm chuyện]
trộm ngọc, cắp hương, nhuốm bẩn khuê nữ!
Đấy là ba điều chẳng nên.
4) Ngẩng đầu [trên
cao] ba thước, chắc chắn có thần minh phẫn nộ
v́ sự nhơ uế
ấy, [các Ngài sẽ] giáng xuống h́nh phạt chẳng nhẹ. Đấy
là bốn điều chẳng nên.
5) Luật lệ chép về
hành vi kê gian, phép vua rành rành. Gian dâm lại gần giống
như giết chóc, có mối quan hệ to lớn với
thân thể. Đấy là năm điều chẳng nên.
6) Chẳng v́ cầu có
người nối dơi mà tiết tinh bừa băi, hành vi ấy
ngu xuẩn thay, sẽ khiến cho sanh mạng bị hủy
hoại mau chóng. Đấy là sáu điều chẳng nên.
Khuyên khắp người
đời, kẻ chưa phạm hăy chú trọng dè dặt,
cẩn thận vâng giữ ḥng “tránh dữ, hướng lành”,
suốt đời giữ trọn điều răn về sắc dục. Nếu là kẻ đă phạm, hăy gấp sửa lỗi,
làm chuyện lành rộng răi, khắc in sách răn dâm để
khuyên rộng khắp, ḥng chuộc lầm lỗi cũ, ngơ
hầu chuyển họa thành phước.
Xưa kia, Diêu Đ́nh Nhược
ở Đồng Thành đă in những tờ đơn thề
giữ giới như sau: “Trăm hạnh hiếu đứng
đầu, vạn ác dâm đứng đầu. Con người
khác với cầm thú là do biết suy nghĩ. Nhạn là loài
phi điểu c̣n chẳng loạn bầy, con người
nắm giữ Tứ Đức, sao lại chẳng bằng
chim? Do vậy, dùng [tờ đơn phát nguyện này] để
nương tựa, hướng về, thề kiêng tà dâm. Nếu
manh nha ư niệm ấy, họa sẽ giáng xuống thân. Nếu
phạm giới này, sẽ ương hại đến con
cháu. Chỉ mong từ bi, thương xót chứng minh, hộ
tŕ, ngầm gia hộ, xin hăy đời đời bảo vệ.
Phàm những ai nhận tờ đơn này, hăy tụ tập
mấy người cùng chí hướng, viết mười
tám câu này lên tờ giấy khác, lại ghi quê quán, mỗi
người tự ghi tên, kư tên, phát thệ đem đốt
trước Văn Xương Đế Quân, hoặc
trước Quan Thánh, hoặc trước hết thảy
chư Phật, vĩnh viễn giữ giới chẳng
quên. Mỗi năm đều nghiệm chứng một lần,
mấy người cùng chí hướng sau khi đă thề
kiêng [tà dâm], liền quyên góp để in đơn này thành một
vạn tờ thí tặng, ngơ hầu cách thức tốt đẹp được
lưu truyền chẳng dứt”. Mặt sau tờ
đơn có ghi thêm vài câu cách ngôn và [vài chuyện] quả
báo.
Thu thập các lời dạy
như trên, khuyên lơn hoặc răn đe đều
đầy đủ, pháp tắc, lời răn đều
nêu bày. Có những lời lẽ mềm mỏng lẫn những
lời lẽ quyết liệt, từ ngữ rơ ràng, ư thiết
tha, ai có thể thời thời đọc, khắc khắc
nghĩ, ắt sẽ được lợi ích. Nhưng những
điều vừa dẫn trên đây đều là tiện
tay chọn lấy, vẫn thẹn chữ nghĩa, thứ
lớp chẳng thỏa đáng, người đọc chỉ
cần hiểu ư chỉ là được rồi. Tôi lại
đem những [câu chuyện về] quả báo do trinh
lương hay dâm đăng chép tường tận sau đây,
ḥng giúp cho [người đọc] dũng mănh tỉnh ngộ.
Chàng học tṛ nọ ở
Quư Khê, thi nhiều lần chẳng đỗ, xin
Trương Chân Nhân dâng sớ, xuất
hồn lên xem bảng trời. Thần phê rằng: “Người
này số phận đáng lẽ đỗ đạt, nhưng
do lén lút với người thím mà bị mất sạch”.
Chân Nhân hoàn hồn[64], nói với
chàng ta lời ấy. Chàng học tṛ bảo là không có, bèn tự
soạn sớ để biện luận. Thần lại
phê: “Tuy chẳng có chuyện ấy, nhưng thật sự
có cái tâm ấy”. Chàng học tṛ hổ thẹn chẳng kịp,
ấy là v́ thời trẻ thấy người thím xinh
đẹp, ngẫu nhiên động một niệm [tà vạy]
vậy!
Trong niên hiệu Chánh Đức[65] nhà Minh, Triệu
Vĩnh Trinh thuở bé gặp bậc dị nhân bảo:
“Năm ngươi hai mươi ba tuổi, ắt đậu
Giải Nguyên”. Đến khi thi Hương, văn hay tột
bậc, quan chủ khảo đă định chấm cho [Vĩnh
Trinh] đậu Giải Nguyên từ mấy hôm trước,
chẳng ngờ trong kỳ thi hậu trường, [văn bài của
Vĩnh Trinh] bỗng phạm sai sót, cho nên chẳng thi đỗ.
Tâm Vĩnh Trinh hết sức uất ức, do vậy, cầu
nguyện mộng thấy Văn Xương Đế Quân
[để thưa hỏi. Trong giấc mộng] Đế
Quân nói: “Khoa thi này ngươi vốn đậu Giải
Nguyên, nhưng do gần đây ngươi cḥng
ghẹo tỳ nữ, dụ dỗ con gái nhà hàng xóm. Tuy
đều chưa thành chuyện gian dâm, nhưng đă dấy
ḷng điên đảo, ư dâm vấn víu! Ruộng tâm ngày một
tối tăm, tiếng tăm lẫn địa vị đều
tiêu; v́ thế, bị phạt trừ sạch!” Vĩnh Trinh
khóc lóc, sửa lỗi, làm lành, cho khắc in những lời
răn dâm để cảnh tỉnh cơi đời. Khoa thi
sau, anh ta bèn đỗ Giải Nguyên, làm quan tới chức
Phiên Hiến[66].
Lư Đăng năm mười
tám, sau khi đỗ đầu kỳ thi Hương Tiến,
cho đến lúc năm mươi tuổi vẫn chẳng
đỗ đạt, bèn đến chỗ thầy pháp Diệp
Tĩnh, cậy thầy ḍ hỏi [thiên đ́nh]. Thầy pháp
tâu tŕnh với Văn Xương Đế Quân. Đế Quân
sai nha lại đem sổ cho [Diệp Tĩnh] xem, [thấy
ghi]: Lư Đăng lúc sanh ra đă được ban ấn
ngọc, mười tám tuổi đậu Giải Nguyên, mười
chín đỗ Trạng Nguyên, năm mươi hai tuổi
đạt tới địa vị Hữu Tướng
(Phó Thừa Tướng). Nhưng do sau khi thi đỗ,
đă nh́n trộm con gái hàng xóm tắm; do vậy, [công danh] bị
trễ mất mười năm, [kết quả thi cử]
giáng xuống thành Nhị Giáp [Tiến Sĩ]. Do xâm phạm
nền nhà của anh là Lư Phong, nên [công danh] lại trễ mười
năm, giáng xuống thành Tam Giáp Tiến Sĩ. Do gian dâm một
phụ nữ nhà đàng hoàng là Trịnh Thị, [công danh] lại
bị trễ mười năm. Nay lại lén lút tằng tịu
với cô gái chưa chồng hàng xóm, làm ác chẳng hối cải,
đă bị gạch tên khỏi
sổ công danh, suốt đời chẳng
đỗ đạt”. Thầy pháp kể lại với Lư
Đăng, Lư Đăng xấu hổ, ân hận, chết
mất. Ôi! Tổ phụ tích đức bao nhiêu năm, [con
cháu] mới được thành Trạng Nguyên, Tể Tướng.
Vậy mà để bị tước trừ như thế,
cô phụ ân trời, cô phụ cha ông! Hắn coi hoan lạc
quan trọng như thế đó, coi đỗ đạt
chẳng bằng một phần vạn. Rốt cuộc v́
chuyện phóng túng dâm đăng cỏn con mà chôn vùi phước lớn to
tát. Buồn thay!
Ông Vu Thiết Tiều nói: - Trạng
Nguyên, Tể Tướng chẳng khó ǵ một nét bút xóa sạch!
Huống hồ những kẻ [có âm đức của cha
ông] thấp hơn [Lư Đăng] th́ sẽ như thế
nào? Tôi trộm cho rằng: Sẽ
càng nguy ngập khôn cùng vậy!
Lưu Quán là người xứ
Long Thư, có con trai là Nghiêu Cử, tên tự là Đường
Khanh lên thuyền đi thi. Chủ thuyền có đứa
con gái, Nghiêu Cử bèn ṭ vè, nhưng chủ thuyền đề
pḥng, canh chừng rất nghiêm ngặt,
chẳng thể thân cận được. Đến hôm
thi, chủ thuyền ngỡ trường thi cửa đóng
then cài chặt chẽ, chẳng phải lo lắng chuyện
ǵ khác, bèn vào chợ mua bán. Thế nhưng đề thi lại
trúng nhằm sở trường của Nghiêu Cử, cho nên
hắn ra khỏi trường thi rất sớm. Chủ
thuyền chưa về, rốt cuộc hắn lén tằng
tịu với cô gái ấy. Vợ chồng Lưu Quán một
tối mộng thấy hai người mặc áo vàng dẫn đến chỗ có bảng
niêm yết kết quả thi, nói:
“Cậu nhà đỗ đầu”. Lưu Quán muốn coi tấm
bảng ấy, một người bên cạnh bỗng xé đi,
nói: “Lưu Nghiêu Cử gần đây đă làm chuyện dối
ḷng, đă bị trời phạt”. Khi [các khảo quan] ghi
danh sách thi đỗ, quả nhiên do [bài văn của Nghiêu
Cử] có tỳ vết đôi chút bèn
đánh trượt. Rốt cuộc, hắn chẳng đỗ
đạt, [phiền muộn] mà chết!
Trong niên hiệu Gia Tĩnh
đời Minh, Lục Trọng Tích sanh ra đă có tài lạ.
Lúc mười bảy tuổi, [Trọng Tích] theo thầy là
Khâu X… đến sống tại kinh đô. Nhà đối diện
có một cô gái rất xinh đẹp, thầy
tṛ nhiều lần lén ngắm nghía, tâm ngứa ngáy. Thầy
bảo tṛ: “Thành Hoàng tại kinh đô thiêng nhất, con thử
đến miếu cầu đảo, chắc sẽ
được toại nguyện”. Tṛ bèn đến cầu
nguyện. Tới đêm, hai người đều mộng
thấy bị Thành Hoàng bắt đến, lại c̣n quở
trách nặng nề: ‘Thằng nhăi ngươi là thứ ǵ mà
ḷng dạ ngu tối, khinh nhờn thần thánh đến
thế?” Thành Hoàng lại sai thuộc hạ tra sổ tài lộc.
Nha lại kiểm sổ sách, thấy dưới tên họ
Lục có ghi: “Đậu Trạng Nguyên năm Giáp Tuất”,
c̣n dưới tên họ Khâu hoàn toàn chẳng có ǵ. Thần
phán: “Đối với họ Lục, ta sẽ tâu tŕnh
Thượng Đế, gạt tên nó khỏi
sổ tài lộc, khiến cho nó nghèo
hèn suốt đời. Họ Khâu bị rút ruột”. Vừa
tỉnh mộng, họ Khâu liền bị thổ tả mà
chết. Trọng Tích về sau suốt đời nghèo hèn
đúng như lời thần nói!
Đời Đường,
Ngự Sử Lư Nghiễm vâng lệnh đi sứ ngoài vùng
Lănh Nam, bỗng gặp một con hổ xông vào vùng rừng
cây, nói tiếng người: “Ta gần như làm tổn
thương cố nhân của ta!” Lư Nghiễm nói: “Sao mà giống
tiếng của bạn đồng niên Lư Vi Thanh vậy?” Hổ
nói: “Giă biệt đă lâu”, kể lể những mối giao
t́nh khi xưa rất tường tận. [Lư Nghiễm]
hỏi: “Cớ ǵ đến tận nơi đây?” Hổ
đáp: “Một hôm, tôi đang tĩnh tọa, bỗng nghe
ngoài cửa có tiếng gọi to, bèn điên cuồng, trở
thành h́nh dạng này. Nay thấy cố nhân, há có thể chẳng
bi thương ư?” Lư Nghiễm hỏi: “Đời ông có
chuyện ǵ đáng hối hận hay không?” Đáp: “Ta từng
ở ngoại thành Nam Dương gian dâm với một bà
góa. Nhà ấy phát hiện, ta ngầm lập mưu làm hại.
Do say sưa mà giết sạch cả nhà ấy. Đó là chuyện
đáng hận!” Hổ rống to, bỏ đi.
Ở Kinh Khê có hai người
chơi thân với nhau từ lúc c̣n để chỏm. Tới
khi khôn lớn, một người dư dật, một
người túng thiếu. Do vợ chàng nghèo xinh đẹp,
gă nhà giàu bày mưu, bảo bạn: “Có nhà giàu nọ có thể
đến làm mướn”. Chàng nghèo cảm tạ, gă giàu sắm
sửa thuyền, lại chở cả vợ chàng nghèo cùng
đi. Thuyền đến dưới chân một ngọn
núi, [gă giàu] bảo: “Để vợ anh ở lại
giữ thuyền, tôi với anh đi trước”. Hắn
dẫn bạn vào rừng, rút búa giắt ngang lưng chém chết
bạn, giả vờ khóc lóc xuống núi, bảo vợ bạn:
“Chồng chị bị cọp vồ chết rồi”.
Người vợ khóc ̣a, gă giàu nói: “Ta thử cùng nhau
đi t́m”. Cùng nhau lên núi, tới chỗ khe suối, rừng
sâu vắng vẻ, hắn ôm chầm lấy
cô ta, đ̣i hành dâm. Người vợ hét ầm lên, chợt
hổ trong rừng rậm xông ra, cắn gă giàu
tha đi. Người vợ kinh hăi, bỏ chạy, nghĩ
chồng quả nhiên đă vùi thây trong miệng cọp, khóc lóc quay về. Thấy đằng
xa từ trong núi có một người khóc lóc đi đến,
th́ ra là chồng ḿnh, cùng ôm nhau khóc ṛng. Đôi bên nói chuyện
mọi lẽ. Chồng nói: “Nó muốn hiếp dâm em đó!
Em chưa bị nó hiếp. Nó toan giết anh, anh chưa chết,
anh hận nó chi đâu?” Vợ nói: “Em khổ sở
v́ tưởng anh đă chết, anh chưa chết. Em muốn
báo thù thằng giặc ấy, nhưng thằng giặc
đă tự bị quả báo, em c̣n hận
ǵ nữa?” Do vậy, chuyển buồn thành vui, trở về
làng.
Vương Cần Chánh ở
Địch Dương tằng tịu với vợ hàng
xóm, ước hẹn cùng nhau bỏ trốn, nhưng [ả ta] sợ chồng ả đuổi kịp, ả bèn lập
kế giết chết chồng. Cần Chánh nghe chuyện, hết
sức kinh hăi, liền một ḿnh trốn tới huyện
Giang Sơn, cách đó bảy mươi dặm, tự cho
là đă xa rồi, có thể thoát họa. Do đói bụng,
[anh ta] vào tiệm cơm, chủ tiệm dọn cơm đủ cho hai người ăn. Cần Chánh hỏi nguyên do, [chủ tiệm] đáp: “V́ có người xơa tóc theo ông đi vào, chẳng
phải là hai người ư?” Cần Chánh biết là oán
quỷ đi theo, bèn đến quan tự thú. Nam lẫn nữ
đều đền tội.
Trong niên hiệu Gia Tĩnh
đời Minh, ở Nghi Hương, có bà góa họ Trần
làm chủ tiệm nhuộm, có nhan sắc. Một gă lái buôn
gỗ trông thấy, ưa thích, mượn cớ nhuộm
lụa đến nhà bà ta dụ dỗ đủ kiểu. Hắn biết chẳng
thể khiến cho bà ta thuận theo, bèn lấy mấy súc gỗ quăng vào nhà bà ta, hôm sau
thưa quan bà ta ăn trộm gỗ. Hắn lại hối
lộ bọn sai nha để bắt bớ, hiếp
đáp khiến cho bà ta khốn quẫn, nhục nhă, mong bà
ta sẽ thuận theo [chịu làm thiếp cho hắn]. Bà ta
ngày đêm xót xa cầu đảo thần Huyền Đàn[67], thưa:
“Nhà con đă kiền thành thờ thần rất lâu, sao chẳng
thể che chở cho con?” Đêm ấy, bà ta mộng
thấy thần bảo: “Đă sai hắc hổ rồi”. Gă
lái buôn gỗ nghe kể lại, c̣n chửi bà ta là ngu si. Chẳng
được mấy bữa, gă lái buôn gỗ và sáu bảy
người vào núi mua gỗ, hổ từ trong rừng xông
ra, vượt qua mấy người, cắn đầu
[gă lái buôn gỗ] tha đi.
Tường sanh[68] họ Quách
ở Giang Ninh, năm Kỷ Măo vào trường thi. Khi
chưa yết bảng, chàng họ Dương ở trước
nhà nói: “Ta gần đây làm phán quan ở âm phủ, biết
ông đáng lẽ thi đỗ hạng thứ năm
mươi bảy. Nhưng v́ ngày đó, tháng đó, ông đi
thâu tô ở Giang Bắc, đă cùng vợ một tá điền
mây mưa suồng să dưới trăng sao. Lại c̣n ép một
đứa tớ gái trong nhà ông làm thiếp, do ông giận dữ,
khiến cho nó bị chết ngang trái, nó đă nhiều lần
đến cáo giác ông [dưới cơi âm]. Ta đă nhọc
ḷng khuyên giải, nhưng nỗi uất ức của nó
khó thể tiêu tan được. Do vậy, [thiên đ́nh]
đă v́ những chuyện này mà trừ bỏ
công danh của ông!”
Trương Bảo làm tri phủ
Thành Đô. Lư Úy ở Hoa Dương có vợ đẹp nhất
xứ Thục Trung, Trương Bảo muốn tằng tịu,
nhờ cậy khắp bọn ni cô, nhũ mẫu ngấm
ngầm dùng ư ấy khuyên dụ. Lâu ngày, người vợ
cũng động ḷng. Bỗng gặp chuyện Lư Úy ăn
hối lộ bị bại lộ, Trương Bảo thừa
dịp tấu tŕnh đàn hặc. [Lư Úy] bị tống giam,
điều tra đến nơi đến chốn. [Lư Úy]
bị đày ra ngoài rặng Ngũ Lănh[69], chết
trên đường đi. Trương Bảo biếu xén mẹ
Lư Úy trọng hậu, ép gả vợ Lư Úy cho ḿnh, [lấy nhau rồi], vui sướng khôn xiết. Không biết v́ sao
người vợ lâm bệnh, [tinh thần] hoảng hốt,
thấy Lư Úy bên cạnh. Lúc lâm chung, cô ta nói với
Trương Bảo: “Thiếp cảm ơn chàng, chẳng
dám không nói. Lư Úy đă tố cáo lên cơi trời,
sớm tối chàng sẽ bị bắt. Nếu ẩn kín,
chưa chắc họ đă có dịp [lùng bắt]. Nếu
khinh thường ra ngoài, ắt sẽ bị bắt”. Nói
xong bèn chết. Không lâu sau, Trương Bảo cũng ngă bệnh,
do nhớ lời vợ dặn, đề pḥng hết sức
nghiêm ngặt, chẳng dám bước chân ra khỏi nhà. Một
chiều đang ngồi, bỗng thấy xa xa trong đám
trúc dưới nhà, có một người giơ tay áo đỏ
vẫy nhẹ. [Trương Bảo] hoảng hốt tưởng
là vợ Lư Úy, vội rảo chạy tới, [đến gần]
th́ ra là Lư Úy, bị ông ta bắt lấy, đánh đấm
tơi bời, chửi bới: “Thằng giặc này, nếu
tao không dùng áo hồng rộng tay vẫy gọi, mày chịu
đến đây ư?” Hồi lâu sau, [Trương Bảo]
tuôn máu mũi, kể nguyên do với người nhà rồi
chết.
Đời Đường,
Nghiêm Vũ lúc trẻ làm hàng xóm của một vị quân sứ,
dụ dỗ con gái ông ta cùng bỏ trốn. Vị quân sứ
vào kinh tố giác, vua xuống chiếu truy bắt. Nghiêm
Vũ sợ tội, giết cô ta, d́m xuống nước.
[Do vậy, sai nha truy bắt] chẳng có chứng cớ ǵ,
nên hắn may mắn thoát tội. Tới khi hắn nhiễm
bệnh ở đất Thục, thấy cô ta ở trước
mặt, trách móc: “Thiếp trốn theo chàng cố nhiên là
đă đánh mất tiết hạnh, nhưng thiếp thật
sự chẳng phụ rẫy chàng. Nếu chàng sợ tội,
sao không bỏ thiếp mà đi, lại c̣n giết chết,
đúng là kẻ tàn nhẫn! Thiếp đă tố cáo nơi
âm tào, hạn kỳ là ngày mai!” Nghiêm Vũ thẹn thùng, xin
tha. Sáng hôm sau, hắn quả nhiên chết ngắc. Than ôi!
Oai quyền của Tiết Độ Sứ khi ấy[70] chẳng thể
xoay chuyển mảy may! Người hiện thời cứ
hở ra là t́m cái chết, nào có sau khi đă chết, ân biến
thành cừu, oán đối chẳng ngớt!
Đời Minh, Hứa Triệu
Hinh ở Tấn Giang, đỗ Cử Nhân năm Mậu Ngọ,
đến châu Phước Ninh để yết kiến vị
quan giám khảo chấm thi của ḿnh. Hắn ngẫu nhiên
đi qua một am ni cô, ưa thích một ni cô trẻ tuổi, bèn
dùng oai thế hiếp đáp, cưỡng bức làm nhục
cô ta. Hôm sau, hắn cắn lưỡi đứt đôi mà
chết. Lại có gă Vương Vũ ở Tấn Giang nổi
tiếng giỏi văn chương, mang rượu đến
uống tại chùa Thừa Thiên. Hắn vào Tàng Kinh
Đường, thấy một sa-di
đang độ tuổi thiếu niên ngồi ngay ngắn
xem kinh, bèn cưỡng ép chú tiểu ấy uống rượu.
Sa-di chẳng vâng theo, hắn bèn ôm chầm lấy chú ta sờ
mó, trêu chọc. Hắn về nhà được ba hôm, bỗng
vung tay tát vào miệng, tự chửi bới, cắn đứt
lưỡi, máu tuôn đầy đất mà chết. Cái chết
của hai gă ấy chỉ là hoa báo, quả báo là trong địa
ngục!
Có ông già nọ ở Giang Tây
từng ngủ lại nhà vợ, gian dâm với họ hàng
bà ta, lén sanh được một đứa con bèn chôn
đi. Về sau, khá giả lên, hưởng dụng đă
lâu. Kẻ biết chuyện nói: “Đạo trời chẳng thể hỏi đến!” Về
sau, cháu nội gái của ông ta tằng tịu với đầy tớ.
Ông ta biết chuyện, hết sức tức giận, lấy
một cỗ quan tài, đem hai người [bỏ vào
đó], đóng đinh, đem chôn sống. Ông ta bị
thưa kiện dằng dai nhiều năm, tài sản tiêu sạch
mà chết.
Gă họ Trầm vốn ỷ
sức cường tráng, nhiều lượt gian dâm. Vương
Hành Am đă từng răn nhắc: “Ta gian dâm vợ người
khác, người khác sẽ gian dâm vợ ta. Báo ứng
đáng sợ, anh hăy nên sửa đổi đôi chút”. Họ Trầm
cười bảo: “Chẳng lẽ mấy thằng háo sắc
đều biến thành lũ bị cắm sừng hết
hay sao? Chỉ cần giữ nghiêm khuê môn, lo ǵ có chuyện
đó!” Một hôm, gă từ bên ngoài trở về, chính mắt
thấy vợ đang lơa lồ hành dâm với kẻ khác, muốn
lấy vật dụng đánh họ, nhưng tay chẳng
thể giở lên được. Vợ hắn tưởng là chồng không đếm xỉa tới, cứ
thong dong tận t́nh hưởng thú hoan lạc. Họ Trầm
tức giận quá đỗi, trừng mắt, giậm chân,
hộc lên một tiếng rồi chết luôn!
Một người suốt
đời làm ác, có một đêm nghỉ tại nhà thân
thích, nghe hai người nói với nhau: “Gă nọ tội ác
ngập đầu, sẽ phải thọ báo”. Người
kia đáp: “[Phạt hắn] tuyệt tự nhé?” Người
trước bảo: “Quá nặng”. Người kia lại hỏi:
“Bị hỏa hoạn nhé?” Người trước nói:
“Quá nhẹ!” Người kia lại hỏi: “Vương Tiểu
Tiểu nhé?” Đáp: “Ờ, được đấy”. Hắn
nghe nói kinh ngạc, chẳng hiểu là như thế nào? Mấy
năm sau, gă đó mê luyến một kỹ nữ tên là
Vương Tiểu Tiểu, cưới cô ả về nhà.
Hắn nghe theo những mưu kế của cô ả, [khiến
cho] cốt nhục ly gián, tài sản khánh kiệt mà chết!
Một vị Tăng
pháp danh là Hành Uẩn thấy hoa sen bỗng động ḷng
dâm. Đêm ấy, có một nữ nhân
gơ cửa. Hành Uẩn bèn mở cửa nh́n xem, thấy có một
cô gái, dẫn theo một đứa tớ gái, tự
xưng là Liên Hoa Nương Tử, dung mạo rạng rỡ
động ḷng người. Hành Uẩn hết sức vui mừng,
bèn chuyện tṛ huyên thiên không ngớt. Chốc lát, đuốc
tắt, thị giả nghe Hành Uẩn kêu khổ, cô gái cất tiếng hung ác nói: “Sao ngươi xằng bậy dấy lên dâm tâm?
Nếu ta là nữ nhân thật sự, há chịu ăn nằm
bừa băi với ngươi ư?” Thị giả vội
chạy gọi mọi người trong chùa, phá cửa mà vào, trông thấy
hai con quỷ dạ-xoa, c̣n Hành Uẩn đă thân một
nơi, đầu một nẻo rồi!
Nay biên chép, kể ra các tấm
gương mắc họa v́ dâm, xếp chuyện của gă
học tṛ ở Quư Khê lên đầu, nhằm nêu rơ ư
nghĩa [răn dạy] của đức Thái Thượng
về chuyện ư niệm kín nhiệm
“khởi tâm tư” (dấy ḷng muốn gian díu), ḥng khuyên mọi người
phải dè dặt ngay từ đầu. Trong lúc mắt thấy,
tâm động, phải dốc hết sức chú ư cẩn
thận. C̣n chuyện của Hành Uẩn lại chẳng phải
là thấy sắc mà khởi tâm, mà là do ông ta thiếu đầu
óc, do vọng niệm tạo ra h́nh tượng, chẳng có
ốc mà thành lầu, chẳng có biển mà hiện thành thị[71], [tâm địa]
u mê, tăm tối, nẩy sanh sự huyễn hoặc, xấu
ác, tự gây ra sự hỗn độn đến nỗi
bị dạ-xoa nuốt mất mạng, đầu một
nơi, thân một nẻo! [Chuốc lấy] tai họa kỳ
lạ từ loài ma hung dữ, thảm khốc dường
ấy! Xem đến những câu chuyện ấy, có ai
mà tâm chẳng rét run, sợ hăi? V́ thế, dùng câu chuyện
này để kết thúc [các trường hợp mắc họa
v́ dâm dật], đúng là có dụng ư sâu xa. Hăy suy nghĩ
đi!
Lâm Mậu Tiên ở Tín Châu
tài cao, thi đậu kỳ thi Hương. Nhà nghèo, anh ta
đóng cửa đọc sách. Người đàn bà hàng xóm chán
chồng chẳng học hành, hâm mộ tài danh của Mậu
Tiên, ban đêm, lén t́m tới. Mậu Tiên quở trách: “Nam nữ
khác biệt, lễ pháp chẳng dung. Quỷ thần trong trời
đất dầy dẫy khắp nơi, cớ sao lại
ô nhục ta?” Bà ta hổ thẹn, lui ra. Năm sau, Mậu
Tiên thi đỗ. Về sau, ba đứa con đều
đỗ đạt.
Diêu Tam Cửu vốn có họ
là Biện, học rộng, giỏi thơ văn. Ông đến
làm gia sư tại nhà họ Hoài. Có đứa con gái thường
đến nh́n trộm. Ông Biện trang nghiêm, chẳng ngó
ngàng. Một hôm, ông đem giày phơi ngoài sân. Cô ta viết
thư, bỏ vào giày. Ông Biện thấy thư, bèn mượn
cớ có chuyện khác, xin nghỉ dạy, trở về
nhà. Ông Viên Di Hạnh làm thơ khen ngợi, có câu: “Nhất điểm trinh tâm kiên
phỉ thạch. Xuân phong đào lư mạc tương sai”
(Một tấm ḷng trinh bền tựa đá, gió xuân đào
mận chẳng thèm ngờ). Ông Biện chẳng nhận
bài thơ, trong thư hồi đáp, cực lực biện
bác là không có chuyện ấy. Viên Di Hạnh phong kín lá
thư, đề lên đó: “Đức
chí hậu hĩ, tử tôn tất xương” (Đức
sâu đến tột bậc, con cháu ắt hưng thịnh).
Về sau, con ông Biện (Diêu Tam Cửu) là Kham và chắt là
Tích đều đậu Tiến Sĩ.
Đường Cao thuở
trẻ đọc sách dưới đèn, có kẻ nữ chọc
ghẹo, chọc thủng giấy dán cửa sổ[72]. Ông dán lại,
đề thơ rằng: “Đào
phá chỉ song dung dị bổ, tổn nhân âm đức tối
nan tu” (Chọc thủng giấy, hăy c̣n dễ vá; phá đức
người, khó sửa khôn ngằn). Một tối, có một
vị Tăng đi qua cửa nhà ấy, thấy có tấm
biển đề Trạng Nguyên, hai bên treo hai cái đèn,
trên đèn đề hai câu ấy. Vị Tăng lấy làm
lạ, gạn hỏi. Về sau, quả nhiên Đường
Cao đỗ đầu thiên hạ.
Uông Thiên Dữ gặp dị
nhân xem tướng, bảo: “Tướng của ông giống
như La Hán, không có người nối dơi, mà cũng chẳng
thọ”. Do vậy, ông Uông coi nhẹ tiền tài, chuộng bố
thí. Một hôm, ông làm khách ở Thanh Giang Phố, bà chủ
c̣n trẻ, xinh đẹp, lén đến chỗ ông. Ông Uông
đóng cửa không tiếp, bảo: “Tôi há có nên phá hoại
danh tiết của bà ư?” Bà ta hổ thẹn, bỏ
đi. Lại gặp người xem tướng ấy,
người ấy hỏi: “Ông có âm đức ǵ mà tướng
mạo bỗng thay đổi, sẽ sanh quư tử, thọ
hơn tám mươi”. Về sau, đúng như lời ấy.
Xem khắp các bậc tiền
hiền cự tuyệt những kẻ muốn dâm bôn, [những
vị ấy] đắc lực là nhờ chữ Thứ (恕, khoan dung), điều ḿnh chẳng muốn, chớ
làm cho người khác. Có vị th́ sợ tổn hại âm chất,
chỉ e giảm phước, đoản thọ. Tuy học
vấn có thể khác nhau, nhưng đều cùng chánh
đáng, phù hợp thiên lư, thuận theo đạo lư “khiến
cho người khác an ḷng, ta và họ đều được
vẹn toàn”. Ngay trong lúc ấy, phước chí tâm linh,
đă giống như nhanh chóng bước lên mây xanh, chẳng
cần đợi hưởng phước báo rồi mới
vui sướng. Điều quan trọng là cự tuyệt
chuyện dâm bôn có nhiều cách khác nhau, ắt phải biết
tường tận sẵn trước đă. Sau đó, khi
gặp chuyện, sẽ chẳng phạm sai lầm. Bởi
lẽ, nghiêm mặt quở trách, cự tuyệt, [kẻ muốn
rù quến làm chuyện dâm bôn] sẽ bỏ đi cố
nhiên là nhiều, nhưng có kẻ bị cự tuyệt vẫn
chẳng bỏ đi. Như Lục Dung[73] viện cớ
bệnh chưa lành, hẹn ngày khác sẽ gặp, [đến
hôm sau liền rời đi, chuyển sang chỗ
trọ khác], có thể học theo gương ấy. Nếu
có thể mở tung cửa bỏ đi, như Tào Phân[74] qua chỗ
khác trọ, cũng là cách ứng phó nhanh nhạy của
người giữ tṛn đức hạnh vậy. Lại
có kẻ [dụ dỗ người khác gian dâm chẳng
được] bèn dùng cái chết để uy hiếp,
như ông Mao Lộc Môn cự tuyệt đứa tớ gái
[rủ rê làm chuyện] dâm bôn. [Bị cự tuyệt], cô ả
nói: “Như thế th́ tôi chỉ đành chết mà thôi”. Lộc
Môn chẳng nao núng. Suốt đêm cự tuyệt mà vẫn
giữ vẹn [đức hạnh] như thầy thuốc
họ Trần [lặp đi lặp lại] “chẳng thể,
chẳng thể”[75], đẩy
cửa sổ đứng chơ vơ ngoài sân, thề chẳng
có hành vi cẩu thả! Lại có người kiên quyết
tặng luôn món tiền trăm lạng[76]. Những vị
kiên quyết cự tuyệt [người khác dụ dỗ
làm tṛ chim chuột], đức trong sáng, quyết đoán anh
minh như thế đều đáng để học theo.
Nếu cửa đă đóng mà có kẻ nữ ở bên
ngoài, ắt chẳng thể mở cửa được. Ngày
hôm sau mượn cớ từ tạ, trở về nhà, mà
[người ta] vẫn cứ chèo kéo, chớ nên đến
nữa, nhưng cần phải suốt đời chẳng
hé môi [về chuyện ấy]. Dẫu với vợ con,
cũng không để cho họ biết chuyện ấy[77]. Đấy
là bậc đức dầy vậy. Từ đấy trở
đi, đỗ Trạng Nguyên, đạt tới địa
vị vinh hiển, rạng mày nở mặt cha ông, con cháu
[hưởng phước lộc] lâu dài, so với những
phương cách tích công lũy đức khác, sự khó dễ
muôn vàn sai khác một trời một vực!
Tại Chiết Giang, có vị
Chỉ Huy Sứ[78] là X… mời
thầy đến dạy con. Thầy bị cảm lạnh,
cần phải đổ mồ hôi, bảo tṛ lấy mền.
[Tṛ lấy mền], vô ư cuốn theo một chiếc hài của
mẹ. Bệnh lành, đem trả lại mền, chiếc
hài rớt bên chỗ nằm mà thầy lẫn tṛ đều
chẳng biết. Chỉ Huy Sứ trông thấy, ngờ vợ
ḿnh gian díu với thầy. [Tra hỏi], vợ chẳng nhận
tội; do vậy, [ông ta] sai đứa tớ gái đến
giả vâng lệnh bà chủ mời thầy [đến gặp
mặt riêng]. Thầy nổi giận, quát mắng đứa
tớ gái. Viên Chỉ Huy Sứ lại ép vợ đích thân đến [mời mọc thầy], chính ḿnh tuốt
sẵn đao bén, chờ thầy mở cửa [là chém liền].
Cố nhiên thầy cự tuyệt: “Tôi được ông
nhà mời đến, há nên ngấm ngầm có hành vi trụy
lạc ư?” Thề nhất quyết không mở cửa.
Sáng hôm sau, thầy từ biệt xin đi. Viên Chỉ Huy Sứ
nói: “Tiên sinh thật sự là bậc quân tử”, bèn thuật
lại đầu đuôi câu chuyện, tạ lỗi, xin thầy
ở lại. Khoa thi ấy, thầy đỗ đạt.
Tŕnh Ngạn Tân tấn công
Ninh Thành. Hôm thành bị hạ, kẻ tả hữu dâng lên
ba cô gái c̣n trinh, đều thuộc loại hết sức
xinh đẹp. Ông vừa mới say, bèn bảo các cô: “Các
ngươi như con gái của ta, há
dám xâm phạm ư?” Bèn tự khóa kín một gian pḥng (giữ
ba cô gái trong ấy). Đến sáng, t́m hỏi bố mẹ
để trả lại. Về sau, ông làm quan tới chức
Thị Sát. Khi chín mươi ba tuổi, ông từ biệt
thân hữu qua đời, các con đều hiển đạt.
Đời Minh, Từ Hy ở
Giang Âm, khi làm nha lại thuộc binh pḥng[79], có lệnh
tuyển tráng đinh đi làm làm lính thú ở vùng biên
cương. Có một người bị tuyển lầm, nhưng
người ấy chẳng thể giăi bày nỗi oan uổng,
muốn cầu Từ Hy giúp cho thoát khỏi. Nhà nghèo, chỉ
có cô vợ là có nhan sắc. Anh ta bèn bày tiệc rượu
khoản đăi Từ Hy, sai vợ hầu rượu, c̣n
chính ḿnh th́ mượn cớ bỏ đi. Từ Hy vội
ra khỏi cửa, người vợ sợ Từ Hy bỏ
đi sẽ hư chuyện, bèn nắm áo để giữ
ông lại, kể lại ư chồng. Từ Hy kiên quyết cự
tuyệt, dứt áo bỏ đi. Hôm sau, ông lại trách mắng người
chồng thậm tệ. Rốt cuộc, [do ông tận lực
lo liệu] người ấy được miễn. Về
sau, [Từ Hy] làm quan đến chức Binh Bộ Thượng
Thư.
Trương Văn Khải ở
Phước Kiến và Châu X… do tránh cướp bèn lánh vào
hang núi. Có một cô gái đẹp đă [núp] sẵn ở
đó, thấy đàn ông đến, hốt hoảng toan bỏ
đi. Ông Trương nói: “Cô bỏ đi, ắt sẽ gặp
bọn cướp, chúng tôi là những người thành thật,
cẩn trọng, cũng v́ lánh giặc mà đến đây,
quyết chẳng dám xâm phạm”. Tới nửa đêm, họ
Châu nhiều lần toan ô nhục cô ta, ông Trương tận
lực ngăn cấm. Tới sáng, Trương và Châu rời
núi để thăm ḍ tin tức, ư ông là nhằm tách họ Châu
ra, để cô ta ở yên nơi đó. Rời núi, họ biết
bọn giặc cướp đă bỏ đi, bèn cùng những
người già trong thôn tới hang, hỏi han cha mẹ, quê
quán và tên họ cô ta. Ông Trương vội nhờ những
người lớn tuổi trong thôn đưa cô ta về. Không
lâu sau, có người họ Hoàng sắm sửa rất nhiều
của hồi môn, nhận ông Trương làm rể, đấy
chính là [cha mẹ] của cô gái tỵ nạn vậy. Cha cô
ta cảm ân đức của ông Trương, nên nhận
ông Trương làm rể. Về sau, hai con trai của ông
đều đỗ đạt.
Trần sanh ở Dư Can giỏi
nghề y. Có chàng học tṛ nghèo bệnh t́nh lâm nguy, ông Trần
trị lành bệnh, mà cũng chẳng đ̣i hỏi phải
báo đáp. Về sau, lúc trời sẩm tối,
ông Trần đi qua chỗ họ; do vậy, họ giữ
ông ngủ lại. Mẹ chồng bảo con dâu: “Chồng
con sống được thật sự là nhờ ông ta, sao
không ngủ với ông ta để báo ân?” Con dâu vâng dạ, tới
đêm bèn đến chỗ ông Trần. Ông Trần cự
tuyệt: “Mẹ chồng cô th́ sao?” Cô vợ đáp: “Đây
là ư của mẹ chồng”. Ông nói: “Ư chồng cô th́ sao?”
Đáp: “Mạng chồng tôi là do ông ban cho, có ǵ ngăn cản
tôi”. Ông Trần nói: “Không thể!” Cô vợ cứ thúc ép, ông
Trần liên tiếp bảo: “Không thể”, bèn ngồi đợi
trời sáng, lấy bút liên tục viết chữ “không thể” trên bàn. Về sau, gần như chẳng
thể giữ ḿnh được, ông lại hô to: “Hai chữ
Không Thể quá khó”, đẩy cửa, đứng chơ
vơ ngoài sân. Đến sáng, ông ra đi. Về sau, con trai
ông Trần đi thi. Quan chủ khảo loại bỏ bài
thi của nó, bỗng nghe có tiếng hô: “Không thể!” Quan
đọc lại, vẫn loại bỏ, lại nghe hô liên
tiếp: “Không thể!” Cuối cùng, khảo quan duyệt lại,
quyết ư loại bỏ, bỗng nghe có tiếng hô lớn
rằng: “Hai chữ Không Thể quá khó”, cứ hô liên tiếp
chẳng ngừng. Do vậy, quan chủ khảo bèn chấm
đậu. Về sau, con ông ta đậu Tiến Sĩ.
Những trường hợp
trên đây đều là những chuyện quyết tâm không
tằng tịu, nhưng không có chuyện nói về người
lâm vào cảnh lư và dục giao tranh, cho nên thuật câu chuyện
giữ vững
tâm ư vào lúc sắp loạn này
để chỉ bày cách thức vậy!
Tề Vượng ở Kim
Hoa, đă năm mươi mà không có con. Thầy
tướng số nói: “Ông có ác khí, ắt là có chuyện sai
trái”. Tề Vượng nói: “Lúc trẻ, tôi từng lang chạ
với vợ con người khác”. Thầy tướng số
kinh hăi, nói: “Phạm tội ấy sẽ tuyệt đường
con cháu. Dâm ác khó sám hối nhất. Ắt phải có điều
lành to lớn th́ mới ḥng xoay chuyển trời đất”. Do vậy,
Tề Vượng hối cải. Năm đầu tiên, hễ
có người làm việc thiện, ông ta đều vui ḷng
bố thí, chẳng keo tiếc. Thầy tướng nói vẫn
chưa được. Năm sau, hễ gặp việc thiện
khó làm, ông bèn đứng ra làm đầu, quyên tặng quá
nửa. Thầy tướng số bảo vẫn chưa
được. Năm thứ ba, ông một ḿnh nỗ lực
làm lành, chẳng chịu nhường ai. Thầy tướng
số nói: “Vết âm chất đă hiện, lo ǵ không con!” Quả
nhiên, sanh một trai. Năm bảy mươi tuổi, Tề
Vượng c̣n được ẵm cháu.
Lữ Thanh đời Minh
thích nói chuyện dâm uế, ḍm trộm phụ nữ. Tuổi
đă ba mươi, hết sức nghèo nàn, khốn khổ.
Hai đứa con theo nhau chết đi. Một hôm, ông ta bỗng
chết bất ngờ, thấy ông nội giận dữ, mắng:
“Hai đời chúng ta tích tập điều thiện, ngươi đáng lẽ hưởng quả
báo giàu to. Nào ngờ ngươi ôm ḷng mê sắc, miệng mắt
đều tạo oan nghiệt, phước sắp trừ
sạch. Ta sợ ngươi lại thật sự phạm
vào hành vi dâm ác, chẳng mong chi có người nối dơi nữa!
V́ thế, xót xa cầu khẩn vua cơi âm, bắt ngươi
đến âm phủ cho ngươi trông thấy
ḥng biết lợi hại”. Lữ Thanh thưa: “Cháu nghe nói
gian dâm vợ con người ta sẽ bị quả báo tuyệt
tự, con thật sự sợ chuyện ấy, chưa hề phạm!” Một nha lại bên cạnh
bèn bảo: “Há chỉ là tuyệt tự ư? Nếu như kẻ nữ quyến
rũ ngươi, ngươi chẳng từ chối, th́
chỉ bị quả báo tuyệt tự. Nếu là kẻ dụ
dỗ, cưỡng bức, và nhiều lần trái phạm, gây hại cho luân thường,
hoặc phá thai, giết chồng, sẽ là tội thuộc
bậc nào? Há chỉ tuyệt tự mà thôi! Luật
dương gian khoan dung với tội dâm ác, nhưng luật
cơi âm nghiêm ngặt nhất! Phàm kẻ nào dấy lên một dục
niệm, thần Tam Thi sẽ tự đứng đầu
[thưa gởi], Táo Quân, Thành Hoàng sẽ tấu tŕnh. Ẩn
giấu sẽ là lỗi to lớn. Cứ thử nh́n xem những
kẻ bị xét xử ngày hôm nay, ngươi sẽ biết”.
Trong chốc lát, quỷ tốt
dẫn những phạm nhân dâm dục đeo gông quỳ xuống,
vua cơi âm lớn tiếng căn dặn: “Gă X… sẽ biến
thành ăn mày, vừa điên vừa câm. Gă Y… biến thành
gái điếm, mù mắt. Gă nọ hai đời làm trâu. Gă
kia mười đời làm lợn”. Họ đều
bị quỷ tốt áp giải đi đầu thai. Lữ
Thanh rởn da gà run sợ. Nha lại bảo: “Cũng có kẻ
c̣n bị phạt nặng hơn những gă này nữa!
Ngươi chớ tham nửa khắc hoan lạc, đánh mất
thân người. Hăy nên tránh sắc như tránh tên,
khắc in thành văn chương để khuyên đời”.
Thế rồi, vua cơi âm thả Lữ Thanh về. Lữ Thanh
bèn khắc in bài Du Minh Lục (kư sự đến cơi âm), in
một vạn tờ để cảnh tỉnh cơi đời,
gắng hết sức làm lành. Đến lúc bốn
mươi tuổi, ông sanh liên tiếp hai con trai, tạo lập
sản nghiệp vạn lạng. Ông ta bèn đoạn tuyệt
trần duyên, tới Nam Hải tu đạo. Người
cùng làng là Thái Tinh v́ ông ta soạn bài kư.
Hai câu chuyện trên đây,
thuộc về báo ứng tốt lành do hối cải về
lỗi dâm. Kẻ đă sa chân, hăy giữ vững cái tâm hối
cải, đấy chính là phương cách để chuyển
họa thành phước vậy. Than ôi! Cái tội nghiệt
dâm dật chẳng thể viết trọn, nói sao cho cùng! Chỉ
hằng ngày mong mỏi những kẻ dù trí hay ngu, chưa lỡ
phạm, và kẻ đă trót nhúng chàm, ai nấy đều
suy nghĩ sâu xa, ngơ hầu thiên lương sẽ sớm
phát hiện.
(Chánh văn) Phụ tha hóa tài, nguyện
tha thân tử. Can cầu bất toại, tiện sanh chú hận.
(正文)負他貨財。願他身死。干求不遂。便生咒恨。
(Chánh văn: Thiếu nợ người khác vật
dụng, tiền bạc, bèn mong họ chết đi. Mong cầu
chẳng được toại ư, sanh ḷng oán hận, chửi
rủa).
“Hóa”
(貨) là đồ vật. “Tài”
(財) là tiền bạc, “phụ”
(負) nghĩa là khi thiếu thốn bèn mượn để
chi dùng. Lâu ngày vong ân, chẳng trả lại. Trung Giới
Kinh[80] nói: “Thiếu nợ của người
khác, trước mắt chẳng có ǵ để đền
trả, phải luôn lo nghĩ đến mối nợ ấy,
luôn nghĩ cách đền trả”. Nếu v́ nguyên do chẳng
trả được, bèn ngược ngạo mong cho
người ấy chết đi để xóa bỏ món nợ ấy, kẻ ôm ḷng như thế, đời này là
phường sài lang, đời sau khó trốn khỏi thân
chó, ngựa, cũng là ngu muội quá lắm!
Bạch Nguyên Thông thiếu tiền
Dương Quân bốn ngàn năm trăm đồng, nhiều
lần bị đ̣i mà chẳng trả. Dương Quân
chết, [họ Bạch] bèn giấu luôn chuyện ấy. Về
sau, trong nhà Dương Quân sanh ra một con lừa bỗng
nói tiếng người rằng: “Tôi là Bạch Nguyên Thông v́
thiếu tiền các vị bốn ngàn năm trăm đồng,
cho nên như thế này. Hiện thời, ở chợ Tây có
người bán lừa cũng thiếu tiền tôi vừa
đúng số ấy. Hăy mau bán tôi cho nhà ấy để có
tiền trả cho quư vị ḥng xong nợ”. Con ông
Dương làm đúng theo lời. Bán xong được hai
hôm, con lừa chết mất.
Đời Hán, Diêm Sưởng
làm quận duyện[81]. Thái Thú là
Đệ Ngũ Thường bị triệu về kinh,
đem món tiền lương bổng là một trăm ba
mươi vạn gởi Diêm Sưởng. Diêm Sưởng
đem chôn giấu. Về sau, Đệ Ngũ Thường
lúc mất, gọi đứa cháu mồ côi mới chín tuổi
đến bảo: “Ta có món tiền ba mươi vạn gởi
cho Quận Duyện Diêm Sưởng”. Đứa cháu lớn
lên, t́m đến Diêm Sưởng xin lại. Diêm Sưởng
trông thấy nó, ḷng buồn vui lẫn lộn, lấy tiền
giao lại. Dấu niêm phong vẫn c̣n nguyên
như cũ. Đứa cháu nói: “Ông nội cháu chỉ bảo
là ba mươi vạn, nay là một trăm ba mươi vạn,
chẳng dám nhận”. Diêm Sưởng nói: “Phủ quân[82] bị bệnh
làm khổ cho nên đă nói lầm, thiếu gia đừng ngờ”.
Rốt cuộc trả lại. Về sau, Diêm Sưởng
làm quan tới chức Thứ Sử.
“Can
cầu” (干求) là nói
đến hết thảy các chuyện lớn nhỏ, hễ
có chuyện cầu cạnh phải nhờ vả người
khác th́ đều là [“can cầu”].
“Bất toại” (不遂) là chẳng được như ư. “Chú” (咒) là
nguyền cho người ấy gặp họa, “hận” (恨) là ôm ḷng oán độc. Bậc quân tử thông đạt
lư, an vui với số mạng, há chịu cầu cạnh kẻ
khác? Nếu như có [chuyện cầu cạnh], đă chẳng
phải là kẻ đoan chánh. Nếu chẳng toại ư,
cũng chỉ nên tự phản tỉnh. Nếu c̣n nguyền
rủa, oán hận, sẽ thành phường tiểu nhân phản
phúc vậy.
Đời Tống, Lư X…
ban đêm đem trăm lạng vàng biếu Vương
Đán, xin được bổ làm chức Phát Vận Sứ[83] vùng Giang
Hoài. Ông Vương từ chối: “Tài sức của ông chẳng
kham nổi chức vụ này. Tôi há dám v́ t́nh riêng mà phế lẽ công chánh ư?” Họ Lư hổ
thẹn, lui ra, suốt đêm đốt phù chú, nguyền
cho Vương Đán sớm chết. Hắn mộng thấy
thần quát mắng: “Ông Vương ḷng trung v́ nước,
mày muốn cho ông ta mau chết. Thượng Đế sẽ
giáng tội cho mày!” Quả nhiên, mấy hôm sau, hắn chết
tươi!
Đời Minh, Lư Canh ở
Hàng Châu nhà nghèo, vô hạnh. Phàm ai là họ hàng, xóm giềng,
hắn đều vay mượn hết. Hơi có chút chẳng
vừa ư, bèn sân hận chẳng ngớt. Một hôm, hắn
hỏi vay lương thực từ người bạn. Bạn
chưa ưng thuận, Lư Canh bèn hướng về thần
nguyền rủa, nguyện cho người bạn ấy
chóng chết. Trong khoảnh khắc, sấm nổ ầm một
tiếng, Lư Canh chết tươi trước tượng
thần!
Vu Thiết Tiều nói: - Cầu
cạnh kẻ khác, tuy tâm t́nh ta rất bức thiết,
nhưng đối với người được cầu
cạnh, có khi sức người ấy chẳng thể
làm chuyện đó, hoặc lâm vào t́nh thế bất tiện.
Cho nên kẻ chẳng được toại ư là chín phần
mười, mà kẻ toại ư chỉ được một
phần mười. Đó là lẽ thường xét theo t́nh lẫn lư! Nếu xằng bậy sanh ḷng nguyền rủa, hận
thù, há người ấy có v́ ta nguyền rủa, oán hận
mà sẽ thay đổi [thái độ], sẽ giúp đỡ
hay sao? Chỉ là tự tăng thêm Phiền Năo Chướng
đó thôi! Kẻ đó không chỉ là chẳng biết thiên mạng,
mà cũng chẳng thông đạt t́nh đời vậy!
Đời Tống, ông Tạ
Lương Tá nói: - Muôn sự thật ra là có số mạng,
sức người có so đo cũng chẳng nổi! Tôi
suốt đời chưa hề cầu cạnh kẻ
khác, cũng chưa hề gởi thư cho người
đang nắm quyền bính. Nếu có kẻ khuyên lơn
[hăy cầu cạnh người có quyền thế], tôi
đáp: “Người ấy làm sao có thể thăng thưởng,
thiên chuyển cho tôi được, toàn là do trong mạng
tôi sẵn có”.
Đời Tống, ông Phạm
Trung Tuyên (Phạm Thuần Nhân) nói: - Người tuy chí ngu
mà biết tự trách th́ là sáng suốt. Kẻ tuy hết mực
sáng suốt, nhưng nếu khoan dung cho chính ḿnh sẽ là kẻ
hôn ám! Ai có thể dùng cái tâm trách móc người khác để
trách móc chính ḿnh, dùng cái tâm khoan dung chính ḿnh để khoan
dung người khác, sẽ chẳng lo không đạt đến
địa vị thánh hiền”.
Phàm những kẻ cầu cạnh
người khác rồi trách móc người ta, hăy nên suy
đi nghĩ lại lời của hai ông!
(Chánh văn) Kiến tha thất
tiện, tiện thuyết tha quá. Kiến tha thể tướng
bất cụ nhi tiếu chi, kiến tha tài năng khả
xưng nhi ức chi.
(正文)見他失便。便說他過。見他體相不具而笑之。見他才能可稱而抑之。
(Chánh văn: Thấy người khác sa chân lỡ
bước, bèn rêu rao lỗi lầm của họ. Thấy
người khác h́nh hài chẳng vẹn toàn bèn chê cười.
Thấy người khác có tài năng đáng ca ngợi bèn
chèn ép).
“Thất
tiện” (失便) là gặp
chuyện chẳng thể làm được, ở trong cảnh
bất đắc chí. Sự việc và cảnh duyên trong
thiên hạ vốn dễ bại, khó thành, nghịch nhiều,
thuận ít. Hoặc là do vận số chông chênh, thời thế
ngang trái, việc làm gặp rối ren. Hoặc là đôi khi
phạm sai lầm, hối hận, sửa đổi chẳng
kịp. Đường đi (hành xử trong cơi đời)
gian nan, xưa nay đều cùng than thở. Thế mà có hạng
người chẳng biết cảm thông, lúc b́nh thường
bèn giao du tốt đẹp, hễ [người khác] gặp
cảnh khốn khó, thường là đặt ḿnh ra ngoài phạm
vi ấy, cười cợt, gàn quải
người khác rằng: “Vốn là do kẻ ấy tự sai trái”. Than ôi! Xin hăy tự nh́n lại đời ḿnh, có
phải là [bản thân ta] thật sự chưa từng làm sai một chuyện nào hay chăng?
Đời Minh, Vương
sanh ở Hán Châu ưa chỉ trích lỗi lầm của
người khác. Hàng xóm của hắn có người phải chôn con, Vương sanh bèn chê
bai: “Do ngươi cực ác, cho nên có quả báo ấy”. Chẳng
lâu sau, hai đứa con trai [của Vương sanh] đều
bị bệnh chết. Người hàng xóm cười
ngược lại: “Tao nghĩ chắc là mày độc ác
c̣n cùng cực hơn tao nữa!” Lại c̣n một người
anh họ của hắn dự khóa thi hằng năm[84], điểm
thi bị giảm, lọt xuống bậc bốn. Vương
sanh cũng chê trách rằng: “Văn tài của anh đúng là quá
tệ hại, làm sao mong đậu cao cho được!”
Chưa đầy một năm, Vương sanh tham gia khoa
khảo[85],
rốt cuộc bị đánh xuống bậc năm.
Người anh họ cười chê ngược lại:
“Ta nghĩ em ta văn chương càng tệ hại hơn
nữa!”
Quản Trọng nói: - Ta
thường cùng Bảo Thúc Nha mưu sự, thế mà [càng
làm], càng thêm khốn cùng, Bảo Thúc Nha chẳng chê ta là ngu,
v́ ông ta biết thời vận [của mỗi người]
có lúc thuận lợi, có lúc bất lợi. Ta từng ba lần ra làm quan, ba lần bị vua xua đuổi,
Bảo Thúc Nha chẳng cho ta là hạng không ra ǵ,
v́ biết ta chẳng gặp thời.
Do vậy, có thể thấy
là bậc hào kiệt từ xưa cũng thường có
khi bị lỡ bước sa chân. Điều đáng quư là
kẻ tri kỷ, trong cảnh khốn cùng bèn an ủi, khích
lệ. Há có nên v́ kẻ khác sảy bước sa chân, bèn thừa
cơ quăng đá? Hạng người như vậy
đă đánh mất ḷng thương cảm, lại c̣n trái
nghịch ḷng nhân nâng đỡ [người khác], vui sướng
v́ kẻ khác mang tai, mắc họa, bất nhân, bất trí,
tai ương ắt sẽ lập tức bám theo thân!
Tứ chi
tàn khuyết, h́nh tướng xấu xí, thô kệch, nếu
chẳng phải là do mầm mống độc ác từ
đời trước gây nên, ắt là do họa
ương sót lại từ cha mẹ. Hễ gặp hạng
người ấy, hăy nên thương xót, bảo vệ cho
họ được toàn vẹn, sao lại nhẫn tâm chê
cười? Huống chi sự thành tựu của một
người là do tâm lượng và kiến thức, chẳng
phải do h́nh tướng nơi thân thể. Châu Bột[86] nói lắp
mà làm Tể Tướng, Yến Tử (Yến Anh) thân h́nh
loắt choắt mà khiến cho vua [Tề Cảnh Công]
được rạng mặt nở mày! [Những chuyện
giống như vậy] được chép trong sử sách,
chẳng thể nêu trọn. Hơn nữa, kẻ có thể
tướng chẳng đầy đủ thường tự
hận; do đó, cười cợt họ, đă phạm
vào điều cấm kỵ! Mẹ của Tề Khoảnh
Công do cười Khước Khắc mà bị trừng phạt[87], mỹ nhân
của B́nh Nguyên Quân do cười người teo chân mà bị
giết[88],
người một huyện nước Triệu cười
giễu Mạnh Thường Quân là một gă đàn ông loắt
choắt mà bị giết[89]. Đấy
đều là vết xe đổ từ trước,
đáng để răn dè sâu xa!
Kinh Phật có nói đến
Đẳng Lưu Quả, có ư nói người sống trên
cơi đời, tâm thuật chẳng đoan chánh, đời
đời về sau, h́nh thể chẳng toàn vẹn, miệng,
mắt lệch vẹo, tứ chi tàn khuyết. Đấy
là nói do đời trước tạo nghiệp, cho nên dẫn
đến kiếp này h́nh thể chẳng đầy đủ.
Như vậy th́ người ta trong lúc khởi tâm, trong khoảnh
khắc động niệm, há có nên chẳng kiêng dè, cẩn
thận, kính sợ để rồi đến nỗi lọt
vào chỗ tà vạy ư?
Sách Đạo Tạng Yếu
Lược nói: - Những điều cần phải kiêng kỵ
khi vợ chồng ăn nằm rất nhiều, nhưng khi
khí trời thay đổi th́ [hậu quả do không kiêng kỵ
ăn nằm] sẽ nặng nề nhất. Theo thiên Nguyệt
Lệnh [trong sách Lễ Kư], trước khi sấm động
ba ngày, [người cầm quyền sẽ sai người]
dùng linh có quả lắc bằng gỗ để truyền
lệnh cho dân chúng biết: “Sắp có sấm động, kẻ
chẳng kiêng kỵ chuyện ăn nằm [trong ngày sấm
động], sẽ sanh con [thân thể] chẳng hoàn bị,
ắt gặp tai họa hung hiểm. Bởi lẽ, kẻ ấy
khinh nhờn oai trời”. Đấy là nói do cha mẹ chẳng
cẩn thận, cho nên khiến cho đứa con h́nh thể
chẳng trọn vẹn vậy!
Đời Đường,
Lô Kỷ sắc mặt như màu chàm (xanh lè). Quách Tử
Nghi bị bệnh, bá quan lũ lượt đến vấn
an. Bọn hầu thiếp đứng đầy ra đó,
ông chưa từng bảo họ tránh đi. Tới khi Lô Kỷ
đến, Quách Tử Nghi bảo họ đều tránh
đi hết. Có người hỏi nguyên cớ, ông bảo:
“Ông ta mặt mũi xấu xí, tâm hiểm độc. Bọn
phụ nữ trông thấy ắt cười cợt. Ngày
sau, ông ta nắm quyền, gia tộc của ta sẽ chẳng
c̣n ai sống sót!” Về sau, Lô Kỷ làm Tể Tướng,
những kẻ nào có oán với ông ta ắt đều bị
trả thù, chỉ riêng nhà họ Quách rốt cuộc b́nh
yên.
Hầu Nguyên Công (Hầu Mông)
h́nh tướng hết sức xấu xí. Khi đi thi tuyển
Hương Tiến, có kẻ thấy ông đă lớn tuổi,
lại xấu xí, chẳng biết kính trọng. Có những
đứa khinh bạc bèn vẽ h́nh ông lên diều, căng
chỉ thả lên trời. Nguyên Công trông thấy chỉ
cười, đề lên đó: “Vị
ngộ hành tàng thùy khẳng tín? Như kim phương biểu
danh tung. Vô đoan lương tượng họa h́nh dung.
Đương phong khinh tá lực, nhất cử nhập
cao không, tài đắc xuy hư thân tiệm ổn, chỉ
nghi hà phó thiềm cung. Vũ dư thời hậu tịch
dương hồng, kỷ nhân b́nh địa thượng,
khán ngă tử tiêu trung”. (Chưa gặp thời cơ ai
chịu tin? Nay mới lộ ra chút tiếng tăm. Bỗng
dưng thợ khéo vẽ nên h́nh, mượn cơn gió nhẹ
bay cao vút, thoáng chốc lên cao tận thái không. Được
gió đỡ nâng, thân dần ổn, bay cao xa tít tận cung
hằng. Trời hết mưa rồi, chiều đỏ ối,
ḱa ai đứng măi trên nền đất, ngắm ta bay
lượn tận hư không). Năm ấy, ông thi đỗ,
đạt tới địa vị Tể Tướng. Những
đứa trẻ ở quê cũ đều hổ thẹn,
chẳng dám nh́n ông.
Vu Thiết Tiều nói: -
Đời người vốn chẳng thể ỷ vào thể
tướng được! Già yếu,
tàn tật đều là chuyện chẳng thể biết nổi! Mắt đẹp có thể bị đâm thành mù,
chân nhanh nhẹn có thể bị găy thành thọt. “Nhi kim nhi hậu, ngô tri miễn
phù?” (Từ nay về sau, ta biết có tránh nổi hay
không?) Lời Tăng Tử đă nói đúng lắm thay.
Thương thân c̣n chẳng xuể, nào dám cười ai? Những
kẻ đặt hỗn danh, đặt ra bài vè để
miêu tả, cười chê [h́nh hài kẻ khác] cũng [hăy nên]
nh́n vào gương này để sửa đổi thói xấu
ác vậy!
Thấy tài năng bèn đè
nén, khác với “che giấu
điều lành, vùi dập sở trường của
người khác”. “Che giấu” hàm ư ém nhẹm, “vùi dập” th́ có nỗi bi thảm
hủy hoại. Ở đây (thấy tài năng bèn đè
nén) lại cao hơn một mức nữa! Bởi lẽ,
đáng ca ngợi mà chẳng ca ngợi, tức là đè nén.
So với hai điều trước đó, dường
như tội nhẹ hơn, nhưng suy xét kỹ, sẽ là
càng vi tế hơn!
Vào thời Chiến Quốc
đời Châu, Lư Tư và Hàn Phi đều theo học với
Tuân Khanh. Lư Tư tự biết tài năng của chính ḿnh
chẳng bằng Hàn Phi. Vua Tần thấy bài Thuyết Nạn
Thư của Hàn Phi, hận không được gặp.
Đến khi vua nước Hàn sai Hàn Phi sang sứ nước
Tần, vua Tần nói chuyện với Hàn Phi hết sức
vui thích. Lư Tư sợ vua sẽ sủng ái Hàn Phi, bèn gièm
báng khiến cho [Hàn Phi] bị hạ ngục, vua ban
độc dược [bắt Hàn Phi tự sát]. Hàn Phi muốn
tự giăi bày, nhưng không được gặp vua Tần,
cuối cùng phải chết. Về sau, Lư Tư bị Triệu
Cao sàm tấu [với Tần Nhị Thế], cũng muốn trần t́nh, nhưng chẳng
được [vua tiếp kiến]. Người hiểu
chuyện biết là đạo trời đền trả!
Đời Tống, Tôn Biện
là người xứ My Sơn và Đường Giới,
Ngô Trung Phục chưa hề quen biết nhau, nhưng Tôn Biện
khâm phục họ cương trực, tận lực tiến
cử. Họ được đề bạt làm Ngự Sử.
Chương Tuân Công (Chương Đắc Dự) và
Văn Lộ Công (Văn Ngạn Bác) chưa hề gặp mặt,
nhưng ông Chương nghe danh ông Văn là bậc lỗi lạc,
vừa gặp gỡ bèn đề cử. Về sau, quả
nhiên ông Văn xuất tướng, nhập tướng[90]. Dương
Kính Chi yêu mến tài năng, công bằng, chánh trực,
được biết danh tiếng của bậc nhân
sĩ vùng Giang Biểu (phía Nam của sông Dương Tử)
là Hạng Tư, liền đề tặng thơ rằng:
“Xứ xứ kiến thi, thi tổng
hảo; cập quán tiêu cách quá ư thi, b́nh sanh vị giải
tàng nhân thiện, đáo xứ phùng nhân thuyết Hạng
Tư” (Đọc khắp thơ ông đều tuyệt
diệu, nh́n vào tư cách tuyệt hơn thơ. Suốt
đời chẳng biết d́m người khác, khắp chốn
gặp người khen Hạng Tư). Mấy vị ấy
đều giống nhau, đề cử người khác
ḥng khích lệ nhân tài. Những kẻ chẳng thể v́
nước cầu hiền, không chỉ là chèn ép những
người sau, mà c̣n cắt đứt hạt giống tạo
phước cho dân chúng! Than ôi! Biết đề cử
người hiền th́ là bậc chí nhân, vậy th́ kẻ
đố kỵ người hiền sẽ là phường
đại ác!
(Chánh văn) Mai cổ yểm[91]
nhân, dụng dược sát thụ.
(正文)埋蠱厭人。用藥殺樹。
(Chánh văn: Chôn bùa ếm đối hại người.
Dùng thuốc giết chết cây cối).
Theo Huyền Đô Luật[92], kẻ phạm
lỗi đủ số hai ngàn bảy trăm chuyện th́
tính là một điều hại, trong nhà kẻ ấy sẽ
sanh ra thầy mo, bà cốt. Nhưng sanh ra thầy mo, bà cốt
đă là do người đời trước tạo tội,
nay [con cháu] lại chôn bùa ếm đối hại người
khác, tức là khiến cho [quả báo] địa ngục [của
kẻ ấy] càng thêm sâu. Nhưng kẻ nào dấy ḷng sai
khiến [người khác] làm chuyện ếm đối
th́ tội càng nặng hơn những tay phù thủy. Nếu
có hạng người như vậy, phép vua sẽ xử
chém, luật lệ cơi âm càng nghiêm khắc.
Đời Đường, có
viên Chủ Bạ ở Vương Ốc là Công Tôn Xước.
Khi ông ta đến nhậm chức, bỗng chết đột
ngột. Một hôm, ông báo mộng cho quan huyện: “Tôi có nỗi
oán hận, cầu trưởng quan giải oan cho tôi. Mạng
tôi chưa đáng chết, bị nô tỳ ếm đối
để thuận tiện trộm cắp. Nhà tôi ở Hà
Âm, nếu trưởng quan có thể chọn bọn nha dịch
tráng kiện, cầm trát đến bắt chúng, ắt chúng sẽ
chẳng lọt lưới. Phía dưới hàng ngói thứ bảy đếm
từ phía Đông của mái nhà
tôi, có h́nh dạng của tôi làm bằng gỗ ngô đồng,
đinh đóng kín trên ấy. [Do thời gian đă lâu, h́nh
tượng ấy] đă bị biến đổi”. Hôm
sau, quan huyện quả nhiên chọn lính khỏe mạnh cầm
trát và gởi thư cho quan huyện Hà Âm, bắt hết bọn
nô tỳ, và lục soát trên mái nhà, t́m được h́nh
người dài hơn một thước, bị đóng
đinh khắp thân, chất gỗ đă dần dần biến
thành thịt, gơ vào th́ có âm thanh đùng đục. Gạo
thóc tích trữ trong nhà Công Tôn Xước đều bị
trộm sạch, [quan huyện] bèn báo lên tri phủ, chúng
đều bị xử cực h́nh. Phàm ác thuật yểm
mị vốn phần lớn do bọn phụ nữ, tỳ
thiếp làm ra. Ấy là v́ bọn chúng muốn nhờ vào
đó để chuyên quyền, hoặc được
sủng ái, so ra c̣n mạnh mẽ hơn cái tâm tham lợi. Người
thời nay hăy nên hết sức giữ cho bản thân chánh
đáng, giữ yên gia đ́nh, giữ môn hộ cẩn thận,
chớ để bọn thầy bà, đồng cốt, tà
giáo có thể ra vào, lui tới. Đấy là phương
cách để dứt tuyệt tận nguồn. Những kẻ
đang làm quan cũng nên ra lệnh nghiêm ngặt lùng bắt
bọn chúng để dứt tuyệt chuyện này, công ấy
cũng chẳng nhỏ!
Một nhánh cỏ, một
thân cây, đều là mầm sống của tạo vật.
Ông Cao Sài thấy thảo mộc vừa mới tăng
trưởng bèn chẳng bẻ, được Khổng Tử
khen ngợi. Đức Phật dạy: “Cây cối lâu năm, phần nhiều có quỷ thần
nương gá, chớ nên khinh thường đẵn chặt.
Hễ đẵn chặt, sẽ thường mắc họa”.
Đẵn chặt mà c̣n chẳng nên, huống hồ là dùng
thuốc giết chết ư?
Như Vân Cù ở Đào Nguyên
tánh âm hiểm, tàn độc, chẳng ưa hàng xóm, ngầm
dùng thuốc độc giết chết sạch những
cây ăn quả của người hàng xóm đă trồng.
Một hôm, Vân Cù ra ngoài, trở về, trong lúc nhá nhem thấy
ánh đèn lập ḷe, binh lính, giáo mác tua tủa. Hắn bị
bọn lính trói dẫn tới một khu rừng. Một vị
thần trách mắng: “Cỏ cây cũng là sanh mạng do trời
cao ban tặng, sao mày lại giận tức giết chết?
Phần nhiều là do ngũ tạng bất b́nh mà ra!” [Vị
thần] sai bọn lính mổ bụng hắn, lôi phổi,
gan ra. Như Vân Cù kinh hoảng tỉnh giấc, bị chứng
đau tim và đau bụng mà chết.
Trần Thức mời một
thầy địa lư xem mộ tổ, thấy trước
mộ có một cây to, vốn là cây trồng bên phần mộ
người khác. [Thầy địa lư] nghĩ cây sẽ
che lấp “thiên tâm”[93], cần phải
chặt cây ấy đi th́ mới có hy vọng đỗ
đạt. V́ thế, ông ta khuyên ông Trần mua gai cá hổ
để ngầm dùng chất độc giết chết cây. Ông Trần không chịu, nói:
“Chúng ta đôi bên đều mong tốt lành, thuận lợi,
huống chi cội cây to sum xuê sao lại nỡ giết chết?”
Chưa đầy một năm, cội cây ấy bị
gió to trốc gốc, thiên tâm rộng thênh thang, con ông là Khuê thi
đỗ liên tiếp, làm đến Ngự Sử.
(Chánh văn) Khuể nộ sư
phó, để xúc phụ huynh.
(正文)恚怒師傅。抵觸父兄。
(Chánh văn: Oán giận thầy
dạy của chính ḿnh, xung đột với cha anh).
Điều này khác với “mạn tiên sanh” (khinh mạn
thầy giáo) trong phần trước. “Mạn” (慢) là vô cớ mà ngạo mạn, c̣n ở đây là do thầy
dạy bảo, quở trách mà tức giận. Đạo phụng
sự thầy của cổ nhân là “chẳng trái phạm, chẳng
giấu diếm thầy”. Hễ được thầy dạy
bảo, thảy đều trống ḷng dịu ư tiếp nhận,
há có nên giận dữ? Kẻ tức giận ắt là
phường bạc đức, chẳng có phước vậy!
Đời Minh, Uông Hội
Đạo tánh dĩnh ngộ, mắt nh́n qua sách liền thuộc.
Tám tuổi đă có thể viết văn, nhưng phụng
sự thầy bèn ngạo mạn dị thường. Hễ
hơi trái ư, ắt giận dữ chửi bới sau
lưng thầy. Một ngày, hắn ngồi một ḿnh trong
pḥng học, bỗng ngáp to, trong miệng nhảy ra một
con quỷ, chỉ Hội Đạo bảo: “Mày vốn là đỗ đầu
thiên hạ, do mày tức giận thầy ḿnh, Thượng
Đế đă gạch tên trong sổ lộc; tao cũng rời khỏi nơi
đây”. Nói xong, chẳng thấy nữa.
Hắn giở xem những
ǵ đă biên chép trước đó, mờ mịt chẳng biết một chữ nào.
Ngụy Chiếu thời Đông
Hán, lúc c̣n bé gặp Quách Lâm Tông, nghĩ “kinh sư dễ gặp, nhân sư khó gặp”[94], bèn xin
được hầu hạ bên cạnh, quét tước, dọn
dẹp. Lâm Tông bệnh, sai Ngụy Chiếu nấu cháo. Cháo
nấu xong, dâng lên, Lâm Tông quở trách nặng nề: “V́
người bề trên nấu cháo, chẳng dốc ḷng cung
kính, khiến cháo nuốt không nổi!” Ngụy Chiếu lại
nấu cháo khác dâng lên, lại bị quở trách đến
ba lần, Ngụy Chiếu chẳng đổi sắc mặt.
Quách Lâm Tông nói: “Ta thoạt đầu thấy mặt ông, từ
nay trở đi mới biết tâm ông!”
Đời Tống, Đặng
Chí làm thầy dạy tại trường tư thục,
khéo khuyên dạy. Miệng không ngớt nói đến chuyện
hiếu đễ, gặp người khác bèn dùng ḷng thành,
tận tâm dạy bảo. Thời Tống Thần Tông, con cả
của ông là Oản làm Hàn Lâm Học Sĩ, con thứ là Tích
và hai cháu nội đều đậu Tiến Sĩ một lượt. Mọi người đều nói đó là quả
báo do ông đă dốc trọn ḷng thành dạy dỗ. Trẻ
nhỏ sanh trong nhà no ấm, khí chất của nó có thể
biến hóa trong sáng tối, nhưng kẻ đă kiêu căng
thành tánh, sẽ dễ mê muội, đọa lạc. Chỉ
cốt sao người làm thầy, hăy dùng phương tiện
khuyên dạy, khiến cho kẻ ấy khai ngộ. Hăy gắng
lên!
“Để
xúc” (抵觸, xung đột, chống trái, xúc phạm) cũng khác với “ám
vũ” (暗侮, ngấm
ngầm khinh nhờn). “Ám
vũ” th́ điều ác ẩn sâu, c̣n “để xúc” th́ tội rành rành. Phàm trong ăn
nói, cư xử, làm việc, hễ có chuyện chẳng vừa
ư vặt vănh bèn xung đột. Cha và anh đứng đầu
trong ngũ luân, hiếu đễ đứng đầu
đạo làm người. Chỉ nên cung kính, vâng theo,
ăn nói nhỏ nhẹ, sắc mặt dịu dàng. Dẫu
cha có thiên vị, anh có lấn lướt, chỉ nên khéo léo
giải thích, khuyên can, tự xét bản thân để tu tập.
Vạn nhất [cha, anh] cứ chấp mê chẳng phản tỉnh,
cũng nên ḥa khí b́nh tâm. Lâu ngày họ sẽ tự nhiên ḥa hảo.
Nếu hơi có tức giận, sẽ dẫn đến
xung đột, tức là trái nghịch luân lư, chẳng có chỗ
dung thân trong vũ trụ vậy!
Đời Minh, Phí Hoằng ở
Nga Hồ cùng một người bạn đồng niên[95] đấu
cờ vây, đùa giỡn tát má người ấy. Người
bạn đồng niên không vui, Phí Hoằng hối lỗi,
hằng ngày đến thỉnh tội, [người bạn
ấy] trọn chẳng ra tiếp. Cha Phí Hoằng nghe chuyện,
tức giận, đóng gói một cái roi cật tre, gởi tới kinh đô, truyền Phí Hoằng tự
đánh. Phí Hoằng cầm thư và roi cật tre, đến nhà người ấy, tự đánh
ba lần, người bạn đồng niên mới ra tiếp,
ôm đầu mà khóc. Phí Hoằng thưa: “Tội do tôi tạo,
anh khóc làm ǵ?” Người bạn đồng niên nói: “Anh có cha đốc thúc, quở trách, tôi cầu
có người đốc thúc, trách mắng ḿnh mà chẳng
thể được!” Đôi bên thân thiết như thuở
đầu. V́ thế, ta thấy cha mẹ đă khuất, mà c̣n
có thể gặp chuyện bèn xúc động, bi ai, ắt cũng biết [người ấy] sẽ
chẳng nỡ ḷng xúc phạm khi cha mẹ c̣n sống.
Nhưng cha mẹ c̣n sống cố nhiên là chẳng thể
sống lâu măi được, đau đớn lắm
thay!
Thôi Hiếu Vỹ đời
Hậu Ngụy phụng sự anh là Hiếu Phân cung kính, thuận
thảo trọn mọi bề. Ngồi, đứng, tiến,
lùi chỉ nghe theo mạng lệnh
của anh. Một đồng, một
thước vải, chẳng cất giấu riêng, các bà vợ
cũng thân ái với nhau, cũng là rất khó thấy trong
đời hiện thời vậy.
Đời Minh, ông Nhan Mậu
Do nói: - Người hiện thời bất hiếu với
cha mẹ, chỉ v́ chẳng chịu tự vấn
lương tâm. Chỉ cần nghĩ cái thân này do đâu mà
có, cha mẹ đi về đâu? Cành mới đă trổ, gốc
cũ bèn khô. Dẫu nghèo hèn mà vẫn cung kính phụng dưỡng
khiến cho cha mẹ hoan hỷ, làm sao có thể báo đáp?
[Nghĩ như vậy], ắt hiếu tâm tự nhiên đau đáu [dấy lên].
Lại nói: - Người hiện
thời chẳng tôn kính người bề trên, mà cũng chẳng
chịu hồi tâm tự vấn, chỉ cần nghĩ
trong cơi thế gian mênh mang này, sống trên đời
được mấy chốc, trong cơi nhân gian mịt mờ,
được mấy người là ruột thịt? Thuở
bé th́ cùng nhau giúp đỡ [trong cảnh khốn đốn],
đến già th́ nâng đỡ nhau, ắt t́nh nghĩa sẽ
tự nhiên khắng khít, khẩn thiết!
Người đời hăy đọc kỹ, suy nghĩ cặn kẽ hai câu chuyện của ông
Thôi và ông Phí, cũng như lời nói của ông Nhan, ắt
sẽ nhất thời nước mắt ràn rụa, chân
tánh bèn phơi bày trọn hết, lại cần ǵ phải
kể ra những quả báo v́ xung đột, xúc phạm nữa
ư?
Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên
Quyển 3 hết
[1] Tống Anh Tông tên thật
là Triệu Thự, là con trai thứ mười ba của
Triệu Doăn Nhượng (Triệu Doăn Nhượng là con
thứ tư của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa, và là em
của Tống Chân Tông Triệu Hằng). Do Tống Nhân Tông (tên thật
là Triệu
Trinh, con trai
của Tống Chân Tông, là em họ của Triệu Doăn Nhượng)
đă nhận nuôi Triệu Thự từ lúc bốn tuổi,
và các hoàng tử của Tống Nhân Tông đều chết
yểu, các phi tần lại chỉ sanh con gái, Tống Nhân
Tông bèn lập Triệu Thự làm Thái Tử. Khi Tống Nhân
Tông mất, Triệu Thự nối ngôi, nhưng vừa lên
ngôi nửa tháng đă bị bệnh nặng, triều thần
phải thỉnh Tào Thái Hậu (vợ vua Tống Nhân Tông)
buông rèm thính chánh. Kể từ sau khi lành bệnh, tánh t́nh Anh
Tông thất thường, hay đánh mắng kẻ hầu,
hoạn quan Nhậm Thủ Trung thừa cơ gièm xiểm,
cho nên giữa vua và Thái Hậu thường có xung khắc.
[2] Ôn Thành là thụy hiệu
của Trương Quư Phi, một sủng phi của Tống
Nhân Tông. Bà này là cháu của Trương Nghiêu Tá, thông minh, trí
xảo, thường khéo đón ư, khéo lấy ḷng, nên rất
được Nhân Tông cưng chiều.
[3] Hoàng hậu của Tống
Anh Tông tên là Cao Thao Thao. Bà là cháu nội của Cao Huân, mẹ của bà là chị của Từ
Thánh Quang Hiến Hoàng Hậu Tào Thị, tức Thái Hậu
của Tống Anh Tông đang được nói ở
đây. V́ thế, sách Cảm Ứng Thiên ghi hoàng hậu là “cháu bên ngoại” (ngoại
sanh, 外甥), v́ bà phải gọi Thái Hậu bằng
d́. Bà là mẹ ruột của Tống Thần Tông (Triệu
Húc), và là bà nội của Tống Triết Tông (Triệu Hú)
và Tống Huy Tông (Triệu Cát). Bà can thiệp rất mạnh
vào triều chánh dưới thời Tống Thần Tông và
Tống Triết Tông, kịch liệt phản đối
tân pháp của Vương An Thạch, trọng dụng
Tư Mă Quang. Khi Tống Thần Tông mất, bà được
tôn làm Thái Hoàng Thái Hậu, được mời nhiếp
chánh cho Tống Triết Tông. Bà đă hạ lệnh xóa bỏ
toàn bộ tân pháp của Vương An Thạch. Bà
được đánh giá là uyên bác, anh minh, tiết kiệm,
lễ pháp kỷ cương trọn vẹn. Do vậy, các
sử gia tôn xưng bà là Nữ Trung Nghiêu Thuấn.
[4] Quan gia (官家) là tiếng thời ấy
để các đại thần gọi nhà vua.
[5] Một mân (緡) là một ngàn đồng.
[6] Mạc khách (幕客), hay c̣n gọi là mạc
tân (幕賓), là những nhân viên trọng yếu
đóng vai tṛ cố vấn, tham mưu trong quan phủ.
Đời Thanh gọi họ là mạc khách, mạc tân, thời
cổ thường gọi là sư gia (師爷), tức là những thuộc
hạ chánh yếu như bí thư, tham mưu v.v…
[7] Tam Tề (三齊) tức là phần lớn
tỉnh Sơn Đông ngày nay. Khi Sở Vương (Hạng Vũ) diệt nhà Tần, đă
chia lănh thổ đất Tề thành ba phần là Tề Quốc
(kinh đô là Lâm Truy), Giao Đông (kinh đô là Tức Mặc), và Tề Bắc (kinh
đô là Bác Dương).
[8] Hồ Quảng (湖廣) từ ngữ chỉ hai
tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam. Từ ngữ này có ư
nghĩa khác với danh xưng Hồ Quảng Hành Tỉnh
thời Nguyên và Minh. Hồ Quảng Hành Tỉnh bao gồm
phía Nam tỉnh Hồ Bắc, toàn bộ tỉnh Hồ Nam,
vùng Đông Nam của Trùng Khánh, vùng Thiều Quan (kể cả
đảo Hải Nam) của Quảng Đông, và một phần
tỉnh Quảng Tây. Danh xưng Đại Hồ Quảng
lại chỉ một khu vực rộng hơn bao gồm
năm tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Đông, Quảng
Tây và Phước Kiến.
[9] Lưỡng Hà là hai tỉnh
Hà Nam và Hà Bắc.
[10] Luyện Hồ (練湖) là một cái hồ to thuộc huyện
Đan Dương, tỉnh Giang Tô.
[11] Hốt (笏) có hai cách hiểu:
1. Vàng, bạc đúc thành
miếng có h́nh dạng giống như cái hốt (vật cầm
trên tay của các quan khi vào chầu vua). Có thể hiểu
đại khái là đúc thành miếng mỏng, giống
như kiểu vàng lá (một lượng hay c̣n gọi là một
“cây” vàng).
2. Đúc thành từng thoi th́
cũng gọi là Hốt.
[12] “Chư sanh” (諸生) là tiếng gọi những
người đă đậu Tú Tài, được vào học
trường huyện, hoặc trường Thái Học tại
kinh đô (học tṛ tại trường Thái Học
sẽ thường được gọi là Giám Sanh). Do những người
này được chia thành nhiều loại như cống
sanh, lẫm sanh, phụ sanh, tăng sanh, hướng sanh, lệ
sanh, tường sanh, nên gọi chung là “chư sanh”.
[13] Tam điển (三典) là ba loại pháp điển
(luật lệ) của nước nhà, tức khinh điển,
trung điển và trọng điển. Cổ nhân quy định:
Khi nước nhà mới thành lập (vương triều
vừa mới thành lập) dùng khinh điển (luật lệ
nhẹ, khoan dung), trong thời kỳ thái b́nh, dùng trung
điển (luật lệ hạng trung). Vào đời loạn,
dùng trọng
điển (luật lệ nghiêm khắc). Như vậy chưởng
quản tam điển chính là chức quan trông coi về tư
pháp tại một quận. Theo Hán Thư, một quận có mười
hai vạn hộ gia đ́nh trở lên th́ gọi là đại
quận. Chưởng quản tam điển là trông
coi về tư pháp vậy.
[14] Thị Tùng (侍從) là danh xưng chung để
gọi các chức quan Hàn Lâm Học Sĩ, Cấp Sự
Trung, các quan Thượng Thư hoặc Thị Lang.
[15] Tư Không (司空): Chữ Không là cách viết
giả tá của chữ Công. Tư Không cùng với Tư
Đồ, Tư Mă, Tư Khấu, Tư Sĩ gọi là
Ngũ Quan, địa vị ngang với Lục Khanh (thời
Châu, Lục
Khanh là Thái
Tể, Thái Tông, Thái Sử, Thái Chúc, Thái Sĩ, Thái Bốc. Từ
đời Đường trở đi, Lục Khanh là
thượng thư sáu bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh,
H́nh, Công). Chức vị Tư Không chưởng quản các
công tác thủy lợi, xây dựng, kiến thiết v.v… Về
sau, chức quan Tư Không đồng nhất với Công Bộ
Thượng Thư.
[16] Quân (軍) là một đơn vị
hành chính thời Tống. Nhà Tống chia lănh thổ Trung Hoa
làm mười tám lộ (路, tương
đương một tỉnh hiện thời). Mỗi lộ
lại chia thành châu, phủ, quân và giám (監).
[17] Tuần Kiểm Ty (巡檢司) là một cơ quan hành
chánh đời Tống, có trách nhiệm tuần tra châu huyện,
bắt giữ đạo tặc.
[18] Việt Trung (越中) là vùng Thiệu Hưng tỉnh
Chiết Giang. Do vùng này thuộc vào trung tâm của nước
Việt thời Xuân Thu, nên gọi là Việt Trung.
[19]
Chủng Phóng (935-1015) là người sống
vào đời Tống, quê ở Lạc Dương, có hiệu
là Vân Khê Túy Hầu. Ông bảy tuổi đă có thể viết
văn, tinh thông Dịch học, nhưng không đi thi, ẩn
cư tại núi Chung Nam, chuyên dạy học. Do Xá Nhân Tống
Duy Hàn cực lực tiến cử, Tống Chân Tông vời
ông ra làm quan, phong chức Tả Tư Gián, sai trông coi Chiêu
Văn Quán. Ông lại được thăng thành Hữu
Nghị Gián Đại Phu. Cuối cùng, làm quan đến chức
Công Bộ Thị Lang. Khi đă đắc thế, ông tậu
nhiều ruộng tốt, cậy oai thế cưỡng ép
người khác phải bán ruộng. Thuộc hạ và thân
thuộc cũng cậy thế ông làm nhiều chuyện sai
quấy.
[20] Công Tào (工曹) là chức vụ
được đặt ra vào thời Tống, có nhiệm
vụ trông coi các công tŕnh xây dựng, lao động.
[21] Bổn đạo: Đạo
là đạo phủ (道府), tức là một cơ
quan hành chánh. Vị quan có chức trách tại khu vực ấy
tự xưng là Bổn Đạo.
[22] Bộ Ty gọi đầy
đủ là Tỷ Bộ Quan Ty (比部官司). Vào đời
Đường, H́nh Bộ được chia làm bốn
cơ cấu là H́nh Bộ, Đô Quan, Tỷ Bộ và Ty Môn.
Thông thường, các quan chức thuộc Bộ Ty chỉ
quản trị h́nh pháp, xử án, hoặc quản trị nhà giam,
không dính vào các sự vụ hành chánh và quân sự.
[23] Do vùng Hồ Quảng (Hồ
Nam và Hồ Bắc) thuộc lănh thổ của nước
Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc, nên vùng ấy thường
được gọi là đất Sở.
[24] Đồng Tri (同知) là chức phó tướng
hoặc phó huyện trưởng. Từ thời Tống,
đă lập ra các chức Đồng Tri Các Môn Sự,
Đồng Tri Xu Mật Viện Sự. Tại các châu phủ,
cũng có chức Đồng Tri Phủ Sự, Đồng
Tri Quân Sự, đều là các chức phó của Tri Phủ,
Tri Quân.
[25] Do khi dịch
sang tiếng Việt, số chữ có hạn, khó thể diễn
tả hết ư tứ tha thiết trong bài thơ, chúng tôi xin
diễn giải dông dài như sau: Gió lùa qua người phụ
nữ dệt cửi chỉ mặc áo mỏng, lạnh
đến nỗi cô ta phải nhiều lần xoa hai tay,
hít hà cho đỡ rét. Do nhà nghèo, phải dệt vải
bên cửa sổ để đỡ tốn dầu thắp
đèn, trời đă sẩm tối, vẫn cố đẩy
thoi dệt lách cách ḥng dệt được chút nào hay
chút nấy. Tháng Chạp trời tối mau, nên dù cố hết
sức, vẫn không dệt được đủ một
thước lụa. Chẳng như cô đào hát, chỉ một
khúc ca là được thưởng ngay một xấp lụa!
[26] Ông này chính là Tống
Vũ Đế, tức Lưu Dụ. Lưu Dụ lúc bé
nghèo hèn, phải đi bán hài cỏ, cày cấy thuê để
kiếm sống. Về sau, trở thành tướng. Do có
công dẹp tan quyền thần Hoàn Huyền dưới thời
Tấn An Đế, trở thành nắm nhiều quyền
hành, chưởng quản triều chánh. Ông cầm quân diệt
nhà Nam Yên, diệt Hậu Tần, được phong là Tống
Vương. Đến thời Tấn Cung Đế, ông ép
vua nhường ngôi, đổi quốc hiệu là Tống.
Sử gọi nhà Tống này là Lưu Tống để phân
biệt với nhà Tống do Triệu Khuông Dẫn sáng lập
(tức Triệu Tống).
[27] Hiếu Từ Hoàng Hậu
là vợ của Châu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ). Váy lụa
trơn nguyên văn là “luyện
quần” (練裙), “luyện” (練) là một loại lụa vừa dệt
xong, đem giặt tẩy cho trắng, rất tầm
thường, xoàng xĩnh.
[28] Nghệ Tổ (藝祖) có nghĩa gốc là ông
tổ về đức hạnh nho nhă, b́nh dị. Về
sau, mỹ từ này thường được dùng để
tôn xưng các vị vua khai sáng một triều
đại.
[29] Màu cánh trả tức là
màu xanh (thường gọi là màu phỉ thúy) như lông chim
bói cá (chim trả, chim thằng chài).
[30] Thiên Bảo (724-756) là
niên hiệu thứ ba và là niên hiệu cuối cùng của
Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng).
Đường Minh Hoàng có ba niên hiệu là Tiên Thiên, Khai
Nguyên, và Thiên Bảo.
[31] Nguyên văn “thượng Xuân Quan”(上春官): Đời Đường,
dưới thời Vũ Tắc Thiên, bà ta đă đổi bộ Lễ
thành Xuân Quan. Do vậy, về sau thường gọi bộ
Lễ là Xuân Quan. Trước khi có bộ Học, bộ Lễ
tổ chức các kỳ thi Hội và thi Đ́nh; do vậy, dân chúng
quen gọi
đậu khóa thi Hội do bộ Lễ tổ chức là “thượng Xuân Quan”.
[32] Phong quân (封君): Do con cháu đỗ
đạt vinh hiển, tổ phụ được vua
phong tước th́ vị được phong ấy sẽ
được gọi là “phong
quân”.
[33]
Theo nghĩa gốc, chức quan này có nhiệm
vụ tiếp nhận các bản tấu tŕnh của hàng
công khanh, phân loại để tŕnh báo thượng cấp,
kiêm nhiệm vụ đàn hặc. Đến thời Minh -
Thanh, danh xưng này dùng để gọi quan Tuần Phủ.
[34] Huyền Vũ (玄武) là danh xưng để
gọi chung bảy tinh ṭa thuộc phương Bắc trong
Nhị Thập Bát Tú, bao gồm các tinh ṭa Đẩu,
Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. Cổ nhân nói bảy
tinh ṭa ấy hợp thành h́nh dáng giống như con rùa
đen (Huyền Vũ), nên gọi như thế.
[35] Thái Lao (太牢) là đại tế theo
điển lễ thời cổ. Trong lễ tế ấy,
dùng ba con vật là trâu (hoặc ḅ), dê, lợn. Có khi chỉ
dùng trâu để tế mà cũng gọi là Thái Lao.
Sách Đại Đới
Lễ Kư chép: “Chư hầu
chi tế, ngưu viết Thái Lao” (Chư hầu tế lễ,
dùng trâu [làm cỗ cúng] th́ gọi là Thái Lao).
[36] Tế giao (郊祀, giao tự): Là lễ tế
trời đất. Nam Giao (phía Nam hoàng thành) là nơi đặt
đàn tế trời, Bắc Giao là nơi tế đất.
[37] Hâm hưởng (歆饗): Quỷ thần hưởng
thụ mùi của đồ cúng tế th́ gọi là “hâm hưởng”.
[38] Tức là ṭa sao Ngưu
trong Nhị Thập Bát Tú, phần Thiên Văn Chí trong Tống
Sử chép: “Ngưu tú lục
tinh, thiên chi quan lương” (sao Ngưu gồm sáu ngôi, là
then chốt trong cơi trời).
[39] Thái Ất (太乙) chính là núi Chung Nam
Sơn, nằm ở phía nam thành phố Tây An (Trường
An) tỉnh Thiểm Tây. Đây là quả núi chính của rặng
Tần Lănh, được coi là thánh địa của
Đạo giáo. Tương truyền, Chung Ly Quyền, Lữ
Động Tân, Lưu Hải Thiềm, và Vương Trùng
Dương (sáng tổ của Toàn Chân Giáo) đều tu tập
tại núi này.
[40] Lao Sơn (牢山) thuộc thành phố
Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông. Núi này c̣n có tên là Phụ
Đường hoặc Ngao Sơn, cũng là một ngọn
núi nổi danh của Đạo giáo.
[41] Theo giáo nghĩa của
Đạo Giáo, Ngọc Thanh (玉清) là một cảnh trong Tam
Thanh của Đạo Giáo (Thái Thanh Cảnh Đại Xích
Thiên, Thượng Thanh Cảnh Vũ Dư Thiên, và Ngọc
Thanh Cảnh Thanh Vi Thiên). Ngọc Thanh là nơi cư ngụ
của Nguyên Thỉ Thiên Tôn, Thượng Thanh là nơi
cư ngụ của Linh Bảo Thiên Tôn, c̣n Thái Thanh là
nơi cư ngụ của Đạo Đức Thiên Tôn
(Thái Thượng Lăo Quân, tức Lăo Tử).
[42] Ngũ Cốc là năm
loại hạt dùng để làm lương thực, có nhiều
cách giải thích. Ba cách hiểu thông thường nhất
là:
1. Ngũ cốc là mè, hạt
kê, lúa gạo, lúa mạch và đậu.
2. Gạo, đậu
đỏ, lúa mạch, đậu nành, hạt kê.
3. Đại mạch, lúa
ḿ, gạo, đậu nành, hạt mè đen.
Thông thường, Ngũ
Cốc được hiểu theo nghĩa rộng là các loại
hạt dùng làm lương thực, không chỉ là năm
loài.
[43] Tuyết Đậu Trọng
Hiển là một vị cao tăng hữu danh của tông
Vân Môn trong nhà Thiền. Sư họ Lư, tự là Ẩn Chi,
người xứ Toại Ninh (huyện Bồng Khê, tỉnh
Tứ Xuyên). Ngài xuất thân từ một gia đ́nh giàu có,
nhiều đời học Nho, đă có chí xuất trần
từ bé, mong thoát luân hồi. Ngài xin xuất gia với ngài Phổ An Nhân Thẩm để học kinh luận. Về
sau, Ngài đắc pháp nơi ngài Trí Môn Quang Tộ, theo hầu
thầy năm năm, nắm được đạo của
thầy, trở thành tổ trung hưng của tông Vân Môn.
[44] Đây là một quy chế
thể hiện sự ân thưởng của triều
đ́nh bắt nguồn từ đời Tấn, được
hoàn bị vào đời Đường. Khi con cái đỗ
đạt làm quan to, cha mẹ sẽ được phong
tước giống như vậy, tức là chỉ có danh
xưng, nhưng không có quyền hạn như người
làm quan thật sự. Cha mẹ c̣n sống th́ gọi là
Phong, cha mẹ đă mất th́ gọi là Tặng. Thoạt
đầu, chỉ có cha được phong tặng, mẹ
sẽ được gọi tương xứng là huyện
quân, phu nhân, nhụ nhân v.v… tùy theo tước vị của
cha. Đến đời Đường, sự phong tặng
này được tính đến ba đời, tức là
cha, ông nội và ông cố của người làm quan.
[45] Định Công ở
đây chính là Lỗ Định Công (Cơ Tống), vua
nước Lỗ thuở ấy. Ông này là em trai Lỗ Chiêu
Công (Cơ Trù). Trong thời ông, Tề Cảnh Công nhóm hội
chư hầu đă ép bức nước Lỗ, toan bắt
giam Lỗ Định Công. Khi đó, Khổng Tử đang
làm quan Đại Tư Khấu, kiêm Tể Tướng
nước Lỗ. Nhờ khéo léo, mưu trí, Khổng Tử
đă ngăn được âm mưu của vua Tề.
[46] Tạo Phụ (造父) là cháu chín đời của
Bá Ích, rất giỏi huấn luyện ngựa, phục vụ
nhà Tây Châu. Ông đă từng bắt tám con ngựa hoang trong rừng
đào, huấn luyện chúng thành tuấn mă rồi dâng lên
Châu Mục Vương. Do chúng kéo xe rất giỏi, nhà vua
thường dùng cỗ xe này để tuần hành, du ngoạn,
hay săn bắn.
[47] Cho đến hiện
nay, các sử gia vẫn tranh căi về nguồn gốc dân tộc
Hung Nô (v́ họ không có văn tự, không có sử liệu.
Mọi dữ liệu lịch sử về họ hoàn toàn dựa
theo sử liệu Trung Hoa), chỉ biết họ là dân du mục
sống ở phương Bắc. Những truyền thuyết
như người Hung Nô là con cháu của vua Hạ Kiệt,
hoặc là hậu duệ của người nước Kỷ,
đều không có chứng cứ khả tín. Thời Hán, nhiều
bộ tộc Hung Nô thống nhất dưới sự lănh
đạo của Mạo Đốn Thiền Vu (các nhà
nghiên cứu cho rằng “thiền
vu” là phiên âm sanok hay tsanak dựa theo cách phát âm hiện thời
của người Mông Cổ. Đây là tước hiệu
của vị thủ lănh tối cao; về sau, tước hiệu
này được thay thế bằng danh xưng Khả Hăn
(Khan) của người Nhu Nhiên, tức Rouran). Họ trở
thành một mối đe dọa thường xuyên cho
người Hán, v́ người Hung Nô thường xâm
lăng đất Hán. Khi Hán Cao Tổ (Lưu Bang) đem ba
mươi hai vạn quân chinh phạt phản tướng
Hàn Tín, đại quân kéo đến B́nh Thành (nay là thành phố
Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây), đă bị quân
Hung Nô do Mạo Đốn Thiền Vu vây chặt suốt bảy
ngày. Về sau, nhờ mưu kế, Hán Cao Tổ thoát khỏi
ṿng vây, nhưng đại quân bị hao tổn rất lớn.
Vua phải xuống nước dùng chánh sách “ḥa thân”, tức là mỗi năm tiến cống gấm
vóc, lụa là, tơ lụa, lương thực, rượu
ngon, cũng như dâng một số gái đẹp
cho vua chúa Hung Nô. Đổi lại,
quân Hung Nô không xâm phạm biên cương Trung Hoa.
[48] Vương Chấn là
thái giám dưới thời Minh Anh Tông, rất được
vua tin cậy. Hắn chưởng quản Tư Lễ
Giám, trông coi tấu chương trong ngoài cung, nên dễ dàng
thao túng triều chánh.
[49] Chí Nguyên là niên hiệu của
Nguyên Huệ Tông (Thỏa Hoàn Thiếp Mục Nhĩ, Toyan
Temur), sử dụng từ năm 1335 đến năm
1340.
[50] Chúc Dung (祝融) là thần lửa. Ông này
vốn có tên là Trọng Lê, hiệu là Xích Đế. Theo
Sơn Hải Kinh, Chúc Dung thuộc ḍng dơi của
vua Chuyên Húc, giữ chức Hỏa Chánh (trông coi về lửa)
cho Cao Tân Thị (Đế Cốc), nên được hậu
nhân tôn là Hỏa Thần. Theo huyền sử Trung Hoa, Toại
Nhân dạy dân dùi cây lấy lửa, nhưng dân chúng chỉ
biết dùng lửa để nướng động vật.
C̣n Chúc Dung dạy dân dùng lửa để nấu nướng
nhiều cách, chế ra các chất để giữ lửa, chứ không cần phải
dùi cây.
[51] Niêm Hăn (đúng ra phải
là Niêm Một Hát, sử Trung Hoa đă chép sai thành Niêm Hăn) là
tên húy của Hoàn Nhan Tông Hàn, con trai của tướng quốc
Hoàn Nhan Tát Cải, c̣n Oát Ly Bất (đôi khi c̣n phiên âm là Oát
Lỗ Bổ) chính là Hoàn Nhan Tông Vọng, là con trai của
Kim Thái Tổ (Hoàn Nhan A Cốt Đả, Wanyan Aguda). Cả
hai đều là đại tướng của người
Kim thời ấy. Tĩnh Khang là niên hiệu của
Tống Khâm Tông (Triệu Hoàn).
[52] Vũ Nguyên Hành là chắt
thuộc về bên nội của Vũ Tắc Thiên.
[53]
Tào quan là chức quan trông coi vận chuyển
hàng hóa, đánh thuế, cũng như ngăn ngừa chuyện
buôn lậu.
[54] Vương Long Khê tên thật
là Vương Kỳ, là một nhà tư tưởng đời
Minh. Ông là thành viên chủ yếu trong học phái của
Vương Dương Minh, tôn Vương Dương Minh
làm thầy. Tuy Vương Kỳ đỗ đạt,
nhưng không ra làm quan, mà chuyên tâm cùng với Tiền Đức
Hồng dạy dỗ hàng hậu học. Về sau, khi thầy
đă mất, ông có ra làm quan một thời gian ngắn. Sau
đó, v́ tư tưởng, học thuật của ông bị
Hạ Ngôn chán ghét, gièm báng, ông bị triều đ́nh băi chức
bèn trở về dạy
học hơn bốn mươi năm. Trước tác của
ông được tập hợp thành bộ Vương Long
Khê Toàn Tập.
[55] Văn Đế chính là
Văn Xương Đế Quân. “Mười đoạn”
là nói về bài Văn Xương Đế Quân Tiêu Song Thánh
Huấn.
[56] Đây là thành ngữ “phệ tễ mạc cập”
(噬臍莫及) hàm nghĩa “không thể xoay sở
cách nào được nữa”, v́ một người
chẳng thể nào cắn rốn của chính ḿnh.
[57]
Biển Thước (扁鵲) là một vị
thầy thuốc nổi danh thời cổ. Ông tên thật
là Tần Việt Nhân, c̣n có tên là Hoăn, hiệu là Lô Y. Ông sanh
vào năm đầu đời Châu An Vương (401
trước Công Nguyên), mất vào năm thứ năm đời
Châu Noăn Vương (310 trước Công Nguyên). Cùng với Hoa
Đà, Trương Trọng Cảnh và Lư Thời Trân, ông
được xếp vào hàng ngũ Tứ Đại Danh Y
của cổ Trung Hoa. Theo truyền thuyết, Hoàng Đế
có một bầy tôi làm nghề thuốc nổi danh có tên gọi
là Biển Thước. Do Tần Việt Nhân tài nghệ lẫy
lừng, nên người đương thời bèn gọi
ông là Biển Thước. Biển Thước được
coi là người đă đặt ra cơ sở cho phép bắt
mạch, hai tác phẩm Nội Kinh và Ngoại Kinh do ông biên
soạn đă thất truyền. Người ta vẫn cho rằng
tác phẩm Nạn Kinh chính là do Biển Thước biên soạn.
Theo truyền thuyết, mắt ông có thể thấy thấu
suốt nội tạng của người khác. Theo sử
chép, có lần ông đến nước Tề, khi đến
gặp Tề Hoàn Công (Điền Ngọ, không phải là Tề
Hoàn Công Khương Tiểu Bạch thời Xuân Thu), Biển
Thước nói “nhà vua đă bị bệnh nhẹ, hăy nên chữa
trị”. Tề Hoàn Công nghĩ ông muốn kiếm chác nên lờ
đi. Biển Thước ba lần gặp mặt, đều
xin vua hăy chữa bệnh, nhưng vua đều làm lơ.
Đến khi vua ngă bệnh, triệu ông vào chẩn trị,
ông nói bệnh đă lậm sâu trong tạng phủ, không thể
chữa được nữa. Quả nhiên mấy hôm sau,
vua Tề chết. Về sau, do Biển Thước trị
lành bệnh cho Tần Vũ Vương (Doanh Đăng), quan
Thái Y Lệnh nước Tần là Lư Ê ghen tài bèn sai thích
khách giết chết Biển Thước tại Ly Sơn.
[58] Bộ kinh này có tên gọi
đầy đủ là Ngạ Quỷ Báo Ứng Kinh,
được phiên dịch vào thời Tây Tấn, ghi chép những
lời vấn đáp về nghiệp nhân giữa ngài Đại
Mục Kiền Liên và các ngạ quỷ. Bản kinh này c̣n
được ngài An Thế Cao dịch với danh xưng
là Quỷ Vấn Mục Liên Kinh.
[59] “Điếm nhục khuê môn” là hăm hiếp hay gian dâm
gái chưa xuất giá.
[60] Nguyên văn “đầu thoa tuấn cự” (投梭峻拒). Theo chương Tạ Côn Truyện trong Tấn
Thư chép: “Nhà hàng xóm là họ Cao có một người con
gái xinh đẹp, Tạ Côn từng trêu ghẹo, cô ta
quăng thoi dệt cửi vào mặt khiến hắn găy mất
hai cái răng”.
[61] Danh giáo (名教) là lễ giáo chánh danh
định phận.
[62] Theo Châu Tử Gia Lễ,
bát mẫu (八母) là tám loại người
phải coi như mẹ, tức là đích mẫu (嫡母, vợ cả của cha),
kế mẫu (继母, mẹ ghẻ), dưỡng
mẫu (养母, mẹ nuôi), từ mẫu
(慈母, do mang thân phận tiểu thiếp,
không sanh nở được, hoặc không có con trai, phải
nuôi con của những thê thiếp khác của chồng làm
người thừa kế), giá mẫu (嫁母, bố chết, mẹ
đi lấy chồng khác th́ gọi là giá mẫu), xuất
mẫu (出母, mẹ ruột), thứ mẫu (庶母, vợ lẽ của cha),
nhũ mẫu (乳母, vú nuôi). Trong đó, “dưỡng mẫu” có thể
hiểu theo hai nghĩa:
1) Một là người
nhận nuôi ta trong trường hợp côi cút, hay là người
ấy hiếm muộn, xin ta làm con nuôi.
2) Hai là những bà vú em
chuyên chăm sóc trẻ cho đến khi ba tuổi. Bà vú này
chỉ chăm sóc, chứ không có sữa cho trẻ bú.
[63] Nguyên văn là “oán nữ” (怨女). Theo cổ lễ, nữ
nhân đă đến tuổi kết hôn, nhưng chưa có
đối tượng thích hợp để cưới gả
th́ gọi là “oán nữ”.
[64] Nguyên văn là “phục” (伏) và “khởi” (起), tức là theo Đạo
giáo, đạo sĩ có thể lễ bái trước
đàn tràng, xuất hồn lên thiên đ́nh, đó gọi là “phục”. Khi hồn nhập
trở lại xác th́ gọi là “khởi”.
[65] Chánh Đức là niên hiệu
của Minh Vũ Tông (Châu Hậu Chiếu) từ năm 1506
đến năm 1521.
[66] Phiên Hiến (藩憲) là tên gọi khác của
Bố Chánh Sứ (ta thường gọi tắt là Bố
Chánh), là người đứng đầu cơ quan hành
chánh của một tỉnh, dưới quyền quan Tuần
Phủ.
[67] Huyền Đàn là tên gọi
tắt của Kim Long Như Ư Chánh Nhất Long Hổ Huyền
Đàn Chân Quân. Vị này tên thật là Triệu Lăng, tự Công Minh, là một
trong bốn đại nguyên soái hộ pháp của Đạo
giáo, nên c̣n gọi là Huyền Đàn Nguyên Soái. Tương truyền,
Huyền Đàn Chân Quân là người đời Tần,
lánh ḿnh vào Chung Nam Sơn tu đạo, được gặp
tổ Đạo giáo là Chánh Nhất Thiên Sư Trương
Đạo Lăng nhận làm đồ đệ, sai
cưỡi hắc hổ, thủ hộ pḥng đan dược.
Vị này được coi là có nhiều công năng thần
dị, nên được dân chúng tôn thờ nhằm cầu tiêu tai, giải nạn.
Ông c̣n được
thờ như vị Vũ Tài Thần (Văn Tài Thần là
Phạm Lăi), với danh xưng Thiên Quan Trung Lộ Nguyên Soái,
có bốn bộ hạ là Chiêu Bảo Thiên Tôn Tiêu Thăng, Nạp
Trân Thiên Tôn Tào Bảo, Chiêu Tài Sứ Giả Trần Cửu
Công và Lợi Thị Tiên Quan Diêu Thiếu Tư. Ông cùng với
bốn bộ hạ được gọi chung là Ngũ Lộ
Tài Thần. Người Khách Gia (Hakka) c̣n gọi ông là Ngân Chủ
Vương Công.
[68] Trường học thời
cổ được gọi là Tường (庠). V́ thế, học tṛ
được gọi là Tường Sanh (庠生). Theo quy chế, đời
Minh, Thanh, sinh viên các trường học ở phủ, châu,
huyện (thường gọi là Ấp Tường), sẽ
được gọi là Tường Sanh, tức là những
người đă đỗ Tú Tài (c̣n gọi là Mậu Tài).
[69]
Ngũ Lănh là năm rặng núi ở phía
Nam Trung Hoa, nằm dọc theo ranh giới bốn tỉnh Quảng
Đông, Quảng Tây, Hồ Nam và Giang Tây. Vùng Lănh Nam (phía Nam
rặng Ngũ Lănh) thuộc địa bàn nước
Văn Lang thời cổ. Ngũ Lănh bao gồm các rặng
núi Việt Thành, Đô Bàng, Manh Chử, Kỵ Điền và
Đại Dữu.
[70] Khi ấy, Nghiêm Vũ đang
làm Kiếm Nam Tiết Độ Sứ, cai quản vùng Tứ
Xuyên.
[71] Thành ngữ có câu “thẩn lâu hải thị” (蜃樓海市, lầu thẩn, phố
biển). “Hải thị” (海市) là những huyễn ảnh
do ánh sáng khúc xạ phản chiếu những h́nh ảnh
trên bờ (có thể là ở rất xa), khiến cho người
đi biển vào lúc nắng gắt trông thấy có thành phố
trên mặt biển, đến gần bèn chẳng có.
Người xưa giải thích là ngoài biển có một giống
ốc lớn gọi là Thẩn (蜃), hơi thở của
nó bốc lên mặt biển, tạo thành huyễn ảnh
như lầu gác, đ́nh tạ, nên gọi “thẩn lâu”. Ở đây có ư nói, chẳng cần
nhờ ngoại duyên mà do vọng tưởng trong tâm, cho
nên Hành Uẩn tự thấy các huyễn tượng, trông
thấy hoa sen bèn tưởng tượng có mỹ nhân
đứng trên đó, hoặc tưởng tượng
đến gót sen của mỹ nhân mà dấy lên dâm niệm,
chiêu cảm quỷ dạ-xoa thừa dịp làm hại.
[72] Thuở xưa, chưa
có kiếng. Cổ nhân dùng loại giấy mỏng phết
hồ cho bền chắc dùng dán cửa sổ, vừa chống
gió lạnh, vừa lấy ánh sáng từ bên ngoài.
[73] Lục Dung là người
huyện Thái Thương, Tô Châu, sống vào đời Minh,
làm đến chức Lại Bộ Thượng
Thư. Theo Thọ Khang Bảo Giám, Lục Dung dáng dấp rất
đẹp đẽ. Vào năm Thiên Thuận thứ ba
(1459), ông đi thi ở Nam Kinh. Trong quán trọ, có nữ
nhân nửa đêm đến chỗ ông ngủ, toan tằng
tịu. Thoạt đầu, ông viện cớ mắc bệnh,
hẹn đêm sau. Cô ta lui ra. Ông bèn làm thơ rằng: “Phong thanh nguyệt bạch dạ
song hư, hữu nữ lai khuy tiếu độc thư, dục
bả cầm tâm thông nhất ngữ. Thập niên tiền
dĩ bạc Tương Như” (Song thưa, gió mát,
trăng thanh, cô gái ngấp nghé trêu anh học tṛ, mượn
đàn toan những hẹn ḥ, mười năm trước
đă phụ phàng Tương Như). Đợi đến
sáng, ông mượn cớ rời khỏi. Mùa Thu năm ấy,
ông đi thi. Trước đó, cha ông ta nằm mộng thấy
quan Quận Thủ tặng cờ và tấm biển [phong tặng],
[kèm thêm một đội] trống, kèn. Trên tấm biển
ấy, đề bốn chữ “nguyệt
bạch phong thanh”. Người cha nghĩ là điềm
báo con thi đậu, viết thư gởi cho ông. Ông càng
thêm dè dặt. Về sau, ông đỗ Tiến Sĩ, làm quan
tới chức Tham Chánh.
[74] Trong Thọ Khang Bảo
Giám đă chép câu chuyện này như sau: Thư sinh họ Tào
ở Tùng Giang đi thi. Ở quán trọ, có người
đàn bà t́m đến [dụ dỗ]. Ông Tào kinh hăi, vội
chạy sang chỗ khác tá túc. Đi nửa đường,
ông thấy có ánh đèn dẫn đường, dẫn vào một
ṭa cổ miếu. Nghe đánh trống thăng đường,
ông Tào phủ phục trước miếu, nghe trong điện
thờ xướng danh những người được
ghi tên trong bảng tân khoa. Tới người thứ sáu, lại
[có nha lại] bẩm rằng: “Ông X… gần đây làm chuyện
sai trái, Thượng Đế gạch tên, hăy nên bù người
nào vào?” Thần nói: “Ông Tào ở Tùng Giang chẳng hành dâm với
người đàn bà ở quán trọ, là bậc chánh khí,
đáng thêm tên vào”. [Nha lại] bèn thêm tên ông Tào vào. Ông Tào
[nghe phán bảo như vậy] vừa sợ hăi, vừa vui
mừng. Quả nhiên [về sau], Tào Phân đỗ thứ
sáu.
[75] Chuyện này được
chép ngay trong phần sau.
[76] Sách Thọ Khang Bảo
Giám chép câu chuyện này như sau: Đời Thanh, ông Viên ở
Thiểm Tây. Do giặc Sấm (Lư Tự Thành) dấy loạn,
cha con thất lạc, trôi nổi, ngụ tại Giang Nam, muốn
cưới thiếp sanh con. Vừa mua được vợ,
rước về nhà ông Viên, cô ta xoay lưng về ánh
đèn, khóc lóc. Ông Viên gạn hỏi, cô ta đáp: “Chẳng
có ǵ khác. Chỉ v́ trong nhà đói nghèo, chồng muốn t́m cái
chết, cho nên thiếp bán thân để chồng được
sống. Thiếp nghĩ tới vợ chồng t́nh sâu
nghĩa nặng trước nay; v́ thế, khôn ngăn
đau thương vậy”. Ông thương xót, xoay lưng
ngồi đợi sáng. Ngoài số tiền bán thân ra, c̣n tặng
thêm một trăm lạng, trả người vợ cho chồng,
bảo họ hăy buôn bán. Vợ chồng họ khóc lóc ra
đi. Về sau, họ muốn t́m một cô gái chưa chồng,
tặng cho ông Viên để sanh con, nhưng t́m đă lâu chẳng
được. Ngẫu nhiên tới Dương Châu, họ gặp một người
đem một đứa bé khôi ngô muốn bán; do vậy, họ
bàn riêng với nhau: “Ta chưa t́m được cô gái nào.
Trước hết, hăy mua đứa trẻ này về hầu
hạ ông Viên, có ǵ là không được?” Bèn mua lấy,
vượt sông, tặng nó cho ông Viên. Ông Viên nh́n kỹ, th́
ra là đứa con đă bị thất lạc.
[77] Sách Thọ Khang Bảo
Giám chép câu chuyện này như sau: Trầm Đồng ở
Quy An, có tên tự là Quán Di, nhà nghèo. Người anh họ là
Tốn Châu giới thiệu ông đến nhà sui gia dạy
trẻ vỡ ḷng. [Nhà ấy] mẹ góa, con thơ. Một
đêm, bà góa đến dụ dỗ ông làm chuyện chim chuột,
Trầm Đồng nghiêm khắc cự tuyệt. Ngày hôm sau, ông liền từ tạ trở
về. Bà góa sợ lộ chuyện, sắm sửa lễ vật
van nài [Trầm Đồng trở lại dạy học], lại thúc giục Tốn
Châu mời giùm mấy lượt, ông đều chẳng
nhận lời. [Tốn Châu] vặn hỏi nhiều lần,
ông Đồng trọn chẳng hé môi, chỉ nói “bất tiện”
mà thôi! Năm sau, [Trầm Đồng] đỗ đạt,
làm quan tới chức Tuần Phủ.
[78] Đời Minh, nhằm
phân tán quyền lực quan lại đứng đầu
các tỉnh (tức quan Tuần Phủ), triều đ́nh
đă lập ra ba chức quan khác biệt dưới Tuần
Phủ, gồm Đô Chỉ Huy Sứ (gọi tắt là Chỉ
Huy Sứ, trông nom việc quân sự), Bố Chánh Sứ (coi
hành việc hành chánh và tài chánh), và Án Sát Sứ (coi việc kiện
tụng, tư pháp).
[79] “Binh pḥng” là nha sở trông coi về việc
binh bị ở các quận,
huyện dưới thời Minh và Thanh.
[80] Trung Giới Kinh là bộ
Xích Tùng Tử Trung Giới Kinh của Đạo gia.
[81] Duyện (掾) là tiếng để gọi
chung phụ tá của các trưởng quan. Quận Duyện
(郡掾) tức là người phụ tá của
quan Thái Thú.
[82]
Phủ Quân (府君) là tiếng tôn xưng để gọi
Thái Thú đời Hán, đồng thời cũng là tiếng
tôn xưng để cháu gọi ông nội.
[83] Đây là chức quan
chuyên trông coi đánh thuế hàng hóa chuyên chở bằng
đường thủy và đường bộ.
[84] Nguyên văn là “tuế khảo” (歲考). Theo quy chế đời
Minh và Thanh, mỗi năm, vị quan trông coi việc giáo dục
(tức Đề Học, Học Chánh) tại các châu, huyện,
phủ sẽ khảo hạch sinh viên (những người
đă được vào trường huyện) để
phân định hơn kém. Nhất là các lẫm sanh (sinh viên
được nhà nước trợ cấp gạo), nếu
kết quả chẳng đạt, lẫm sanh ấy sẽ
bị cắt trợ cấp, hoặc cấm đi thi
Hội cho đến khi nào kết quả tuế khảo
khá hơn. Vào đời Thanh, quy định như sau:
Điểm số được xếp vào bậc nhất
và bậc nh́ th́ được khen thưởng, bậc ba
th́ không khen, không phạt, bậc bốn sẽ bị khiển
trách, bậc năm th́ tiền trợ cấp giảm bớt
một phần, bị cấm thi Hội cho đến khi
nào tuế khảo đạt điểm khá hơn, bậc
sáu th́ tước bỏ hẳn danh hiệu sinh viên, không cho
học tại trường huyện nữa, hoàn toàn cắt
hẳn các khoản trợ cấp.
[85] Khoa khảo (科考) là kỳ thi tại các
châu huyện để xét duyệt thí sinh có đủ tŕnh
độ để đi thi Hương hay chưa.
[86] Châu Bột là công thần
khai quốc nhà Tây Hán, xuất thân nghèo khổ. Thuở trẻ,
ông sống đắp đổi bằng nghề đan
nong nuôi tằm, cũng như thổi sáo trong đám ma để
kiếm cơm. Về sau, ông theo pḥ Lưu Bang lập nhiều
công lao rất to. V́ thế, khi Lưu Bang làm hoàng đế,
đă phong cho Châu Bột làm Giáng Hầu. Kế đó, ông
được cử làm Thái Úy, rồi làm Tướng Quốc
(Tể Tướng). Ông là người hết sức chất
phác, ăn nói vụng về, lắp bắp, nhưng chấp
chánh hết sức giỏi. Nhà Tây Hán được an
định phần lớn nhờ vào chánh sách của ông.
[87] Tề Khoảnh Công
(Khương Vô Dă) là cháu nội của Tề Hoàn Công
(Khương Tiểu Bạch). Khi Khước Khắc
nước Tấn cầm cờ tiết sang sứ nước
Tề, do mẹ của Tề Khoảnh Công ở trên lầu
nh́n xuống, thấy Khước Khắc thọt chân
đi tập tễnh bèn cười nhạo. Khước
Khắc ghim măi nỗi sỉ nhục ấy trong ḷng. Về sau, Tề
đánh Lỗ và Vệ. Vệ và Lỗ cầu cứu
nước Tấn, nước Tấn sai Khước Khắc
cầm quân. Khước Khắc đại phá quân Tề,
uy hiếp nước Tề. Tề cầu ḥa, Khước
Khắc đ̣i phải đem Tiêu Đồng Thúc Tử làm
con tin th́ mới chịu cho ḥa. Tiêu Đồng Thúc Tử
chính là mẹ của Tề Khoảnh Công.
[88] B́nh Nguyên Quân là Triệu
Thắng, người nước Triệu, là em trai của
Triệu Huệ Văn Vương, thích chiêu đăi tân khách,
được coi là một bậc hiền sĩ thuở ấy.
Cách vách của B́nh Nguyên Quân là nhà một người dân
thường. Anh ta bị thọt chân, tập tễnh ra giếng
gánh nước. Một nàng thiếp của B́nh Nguyên Quân
trông thấy bèn cười nhạo. Hôm sau, người ấy
đến gơ cửa thưa: “Tôi nghe Ngài coi trọng kẻ
sĩ, cho nên kẻ sĩ chẳng ngại xa xôi ngh́n dặm
t́m tới, v́ Ngài quư kẻ sĩ, mà coi thường mỹ
nữ. Tôi bất hạnh bại xụi, bị người
thiếp của Ngài cười nhạo, tôi xin cái đầu
của người đă cười nhạo tôi”. B́nh Nguyên
Quân đáp ứng. Người ấy bỏ đi, B́nh
Nguyên Quân nói: “Coi cái thằng nhăi đó ḱa! Cứ tưởng
ta sẽ giết thiếp yêu hay sao?” Rốt cuộc chẳng
giết, trong ṿng một năm, môn khách bỏ đi hết.
B́nh Nguyên Quân hỏi han, họ cho biết: “Ngài coi trọng
sắc, khinh thường kẻ sĩ, chúng tôi ở lại
làm ǵ?” B́nh Nguyên Quân đành cắt đầu người
thiếp đă cười nhạo, đưa cho người
thọt chân, đích thân xin lỗi. Tân khách mới lục tục
quay lại.
[89] Mạnh Thường
Quân là Điền Văn, con của Điền Anh. Ông tập
ấm tước vị của cha nên được phong
làm Tiết Công. Ông đối xử với các bậc danh
sĩ rất lễ độ, chu đáo. Trong nhà ông có đến
mấy ngàn tân khách. Ông là người thấp bé, ốm yếu.
Có một hôm, ông sang nước Triệu v́ B́nh Nguyên Quân mời
mọc. Người nước Triệu nghe danh Mạnh
Thường Quân là bậc hiền năng, tranh nhau đi
xem. Họ cười cợt: “Tưởng sao! Cứ ngỡ
Tiết Công khôi ngô, tráng kiện, nay trông thấy, hóa ra là một
thằng đàn ông bé choắt cheo”. Mạnh Thường
Quân hết sức tức giận, môn khách của ông đều
xuống xe, rút kiếm ra, chém chết mấy trăm người.
Số người bị giết chừng bằng dân số
một huyện.
[90] Xuất tướng, nhập
tướng (出將入相). Chữ Tướng thứ
nhất là Tướng Quân, chữ Tướng thứ hai
là Tể Tướng. Câu này có ư nói người ấy luôn nắm
giữ quyền cao chức trọng. Ra ngoài sẽ là vị
đại tướng cầm quân, vào triều sẽ làm Tể
Tướng.
[91] Chữ Yếm (厭) ở đây là cách viết
theo lối giả tá của chữ Yểm (魘, ếm đối). “Cổ” (蠱) là một loại độc
trùng, hoặc thuốc độc có tác dụng khống chế
người khác. Yểm vốn là dùng phù chú để trấn
ếm vào đồ vật, h́nh nhân để gây họa cho
người khác.
[92] Đây là quyển sách quy
định về những luật lệ trong Đạo giáo.
[93] “Thiên
tâm” ở đây là thuật ngữ của Phong Thủy
chỉ phần trung tâm của phần mộ.
[94] Ư nói: Bậc thầy giảng
dạy ư nghĩa kinh điển th́ dễ gặp, nhưng
bậc thầy có đủ tư cách hướng dẫn
ta làm một người hoàn thiện th́ khó gặp lắm.
[95] Đồng niên có hai cách hiểu:
1. Người có cùng lứa tuổi
với ḿnh.
2. Người đỗ đạt
cùng khoa thi với ḿnh.