Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

感應篇彙編

Quyển 4

Phần 1

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Chánh văn) Cưỡng thủ cưỡng cầu, hiếu xâm, hiếu đoạt.

          (正文)強取強求。好侵好奪。

          (Chánh văn: Đoạt ngang, cướp cạn, thích xâm lấn, thích chiếm đoạt).

         

          Phần số chẳng đáng có, mà cứ ắt muốn đạt được th́ gọi là Cưỡng (). Lấy những thứ của người khác để cung cấp cho chính ḿnh là Thủ (). Do v́ chính ḿnh nhờ cậy người khác th́ gọi là Cầu (). Dùng quỷ kế để ngấm ngầm chiếm lấy th́ gọi là Xâm (). Cậy thế chiếm lấy công khai th́ gọi là Đoạt (). Đạt được như thế, sẽ khó thể tiêu thụ, ắt sẽ là ngay cả những ǵ vốn có cũng bị mất luôn!

          Trịnh Tuyên nói: - Tôi thấy tiền bạc là món vật mọi người đều yêu mến, ắt sẽ tranh giành. Cốt nhục bởi nó mà dẫn đến gây hấn. Hàng quan lại do tiền mà danh tiếng suy bại. Con buôn v́ thứ này mà mất mạng. Phố phường do tiền mà đấu đá, chém giết. Nó chợt đến, chợt đi, thoáng sang, thoạt hèn, lung lạc suốt một đời. Nói chung, [tiền bạc đem lại] phước cho con người th́ ít, mà dẫn đến họa cho con người th́ nhiều. Tôi đă từng nh́n kỹ h́nh dạng của nó, [trong chữ Tiền ()], bên cạnh chữ Kim () là chữ Qua (, cái giáo), đúng là vật giết người! [Thế mà] người ta chẳng tỉnh. Ôi! Tiền ơi, tiền hỡi, do ta nghèo túng, cầu ngươi nuôi sống ta mà chẳng thể được! V́ thế, ta đành bó tay với ngươi! Do ta nghèo hèn, ngươi muốn giết ta mà cũng chẳng thể được, há ngươi có thể làm ǵ được ta ư?

          Vệ công Triệu Hùng lúc c̣n hàn vi, nghèo khổ nhất. Mẹ c̣n sống mà không có ǵ để phụng dưỡng mẹ sống qua ngày, vợ chồng nh́n nhau khóc. Hôm sau, quét đất, nhặt được một nén bạc, nặng hai mươi lăm lượng bèn có thể sống tạm. Về sau, ông đạt đến địa vị Tể Tướng, theo lệ, [tiền lương là] một trăm đĩnh bạc; [khi nhận bạc], bị thiếu mất một đĩnh. Ông sắp sửa vặn hỏi người giữ kho, th́ đêm mộng thấy thần bảo: “Vào ngày tháng năm đó, tướng công đă mượn dùng trước một đĩnh”. Ôi! Trong mạng có tiền tài, thời vận chưa đến, c̣n chẳng thể ra sức giành giật được, huống hồ [trong vận mạng] vốn chẳng có mà cứ cưỡng chiếm ư!

          Tại Giang Tây, Triệu Thượng Thư sống gần nhà ông Thường Tỉnh Nguyên. Ông Thường có một mảnh vườn hết sức tao nhă. Họ Triệu dùng đủ mọi kế cưỡng chiếm, ông Thường bèn lập văn khế tặng cho họ Triệu, đề bài thơ đằng sau [tờ văn khế] rằng:

          Càn khôn đáo xứ thị ngô đ́nh,

          Cơ giới tùng lai vị tất chân,

          Phúc vũ phiên vân thành để sự,

          Thanh phong hạo nguyệt lănh khan (khán) nhân,

          Lan Đ́nh hễ sự kim phi Tấn,

          Đào động hoa thần dă tiếu Tần,

          Viên thị chủ nhân, thân thị khách,

          Vấn quân hoàn hữu kỷ niên xuân?

          (Tạm dịch:

          Đất trời mọi chốn vốn vườn nhà,

          Mưu mẹo giành về há thật a?

          Đảo lộn mây mưa ḥng đoạt lấy,

          Trăng trong gió mát vẫn ơ hờ.

          Buổi tế Lan Đ́nh thành quá khứ[1],

          Thần hoa Đào Động vẫn cười Tần[2],

          Vườn là chủ nhân, ta khách trọ,

          Hỏi chàng c̣n được mấy năm xuân?)

          Ông Triệu nhận được bài thơ, hối hận, tạ ơn, từ chối, chẳng dám nhận [khu vườn ấy]. Về sau, ông Thường đậu cao. Ông Thường dùng đức để khiến cho người khác cảm động, ông Triệu dũng mănh hối lỗi; hiện thời, hiếm có kẻ được như hai vị ấy.

          Dương X… ở Côn Sơn một hôm ngồi ở cửa, thấy một phụ nữ đi qua, đánh rơi cái trâm bằng bạc xuống đá lót đường, vang tiếng leng keng. Cụ vội đến xem, thấy là một con giun (con trùn). Do dự một hồi lâu, bỗng có một người đàn ông đi qua, nhặt lấy. Cụ Dương lớn tiếng bảo: “Đây là cái trâm do ta đánh rơi”. Người ấy biết là xạo, rảo bước bỏ đi. Cụ Dương [cứ quấn lấy] không buông, người ấy lấy ra hai phân bạc, dùng một nửa để mua cá, giao cho cụ nửa phân kia, dặn: “Ông già đừng [khiến cho tôi] vướng bận chân tay nữa, hăy dùng bạc này để mua rượu, nấu cá, nhậu cho đă một tối là được rồi”. Cụ Dương quay về, sai con dâu nấu cá. Trong khi đang hâm rượu, con mèo nhà hàng xóm bỗng ngậm cá tha đi. Người con dâu vội lấy gậy phang mèo; do đó, rượu bị đổ sạch, mà vật dụng đựng cá cũng vỡ nát. Trâm hóa thành giun, dường như là chuyện đáng nên tỉnh ngộ, thế mà vẫn cứ cưỡng lấy, có thể ăn được hay chăng? Ôi chao! Kẻ tham lam! Ôi chao! Kẻ bạc mạng. Việc nhỏ [mà c̣n] như thế, vậy th́ cũng biết chuyện lớn [là như thế nào]!

          Ở huyện Ngân, có gă họ Lục gian trá, giàu có. Do sản nghiệp của họ Trịnh ở gần nhà hắn, họ Lục bèn ngấm ngầm tính kế xâm chiếm. [Đă đoạt được], bèn san bằng ngôi nhà [của họ Trịnh] để kiến tạo thành vườn hoa theo lối cung đ́nh, chỉ chừa lại một cội cây đẹp nhất. Về sau, họ Lục sanh được một trai, nó đă lên năm mà câm bặt, chẳng thể nói. Bỗng một hôm, nó chỉ cội cây, nói: “Cây ơi! Nay mày vẫn c̣n đó à?” Người nhà hết sức kinh hăi; nó nói xong lại câm. Chữa trị đủ kiểu, trọn chẳng thốt ra một tiếng nào. Đến khi khôn lớn, nó hoang dâm, ăn chơi, kiêu ngạo, khi gia sản đă khánh kiệt bèn chết. Người ta nói nó là hậu thân của họ Trịnh.

          Đời Minh, Vương sanh ở Nam Đô tánh tham lam, thô bỉ. Người bác họ của hắn đă chết, không có con, nhưng đă có người thừa kế. Vương sanh nḥm ngó gia sản của ông ta, muốn cưỡng chiếm. Thưa kiện suốt mấy năm, gặp phải vị quan xét xử giữ đúng lẽ công bằng, hơi trấn áp hắn, hắn liền nhục mạ, hủy báng không ngớt. Năm ấy, khi hắn dự khóa thi mùa Thu, khéo sao, vị quan từng thẩm vấn hắn lại làm chủ khảo. Các giám khảo đă chấm văn bài của hắn đậu hạng nhất, [niêm phong quyển văn, tŕnh lên quan chủ khảo]. Tới khi [quan chủ khảo] rọc niêm phong ra coi, thấy tên của thí sinh chính là gă đă chiếm đoạt cơ nghiệp [của người bác họ] khi trước, bèn quăng đi, loại bỏ tên hắn.

         

          (Chánh văn) Lỗ lược trí phú, xảo trá cầu thiên.

          (正文)擄掠致富,巧詐求遷。

          (Chánh văn: Cướp bóc để trở nên giàu có. Xảo trá để cầu thăng quan tấn chức).

 

          Nói đến “lỗ lược” (擄掠, cướp bóc), chẳng phải là do [áp dụng phương thức] chiến tranh [để chiếm đoạt] th́ làm sao quư vị đạt được? Nhưng kẻ làm quan bóc lột dân chúng, lén ḅn rút công quỹ, hoặc bọn cường hào ác bá cho vay lăi nặng, đều là “lỗ lược”. Dùng kiểu ấy để làm giàu, ắt sẽ dẫn đến chuyện nhà tan cửa nát, gia đ́nh chia ĺa, vợ gào, con khóc có thừa; há có thể an hưởng? Chẳng nghe nói đến chuyện “heo đất” (撲滿, phác măn) ư? Hậu () như trong Hán Thư đă nói chính là cái “muộn hồ lô” (悶葫蘆, heo đất, ống để dành tiền) trong hiện thời, làm bằng gốm. Phía trên vật ấy có khe hở, chỉ có thể bỏ [tiền] vào, chẳng thể lấy ra. Người ta dùng nó để dành tiền, đợi đến khi nó đă đầy (măn, 滿), bèn đập ra (phác, ) để lấy tiền. V́ thế, gọi là “phác măn”. Trong khi để dành, chỉ sợ nó chẳng đầy; tới khi nó đă đầy tiền, đập vỡ rồi thôi. B́nh vỡ, tiền chẳng c̣n, hai bên đều trở thành hư huyễn! Cất chứa cho lắm, về sau mất đi, có khác ǵ chuyện này?

          Đời Tống, Lộ Công Văn Ngạn Bác được cử trông coi Trường An. Một hôm, ông đến đập Bôn Ngưu, có một con trâu dùng để chở đất đắp đập nói tiếng người: “Ta và Văn Ngạn Bác làm quan đồng triều hai mươi năm, nay ta c̣n mặt mũi ǵ để nh́n ông ta?” Lính canh đập thưa tŕnh chuyện ấy, ông bảo dắt con trâu ấy tới. Con trâu tới nơi, nằm mọp xuống đất, cúi gằm đầu, tuôn nước mắt như mưa. Ông than dài: “Vị này lúc c̣n sống đă ḅn rút công quỹ, nay mắc phải báo ứng này”. Do vậy, ông bảo người giữ kho trong nhà ḿnh bỏ ra hai mươi quan tiền để tăng thêm lượng thức ăn cho con trâu ấy. Phàm công quỹ là do dân đóng góp, [viên quan tham ô công quỹ] biến thành con trâu chở đất đắp đập để đền trả dân chúng. Kẻ đọc đến chuyện này, hăy nên suy nghĩ!

          Đới Văn tánh tham lam. Mỗi lần, hắn cho kẻ khác vay tiền, đều tính lăi nặng gấp mấy lần để bóc lột. Nếu trả nợ hơi trễ, liền đích thân đến chèn ép thúc nợ. Nợ nhiều th́ xiết ruộng nương, nhà cửa, con cái; nợ ít th́ quần áo, đồ trang sức, gia súc, thảy đều dọn sạch. Tới khi hắn chết, sanh làm trâu trong nhà hàng xóm, dưới hông có lông trắng, ghi hai chữ Đới Văn. Hàng xóm đều mướn nó để cày ruộng. Có người đă từng bị [Đới Văn] tước đoạt [khi hắn c̣n sống], cho nên sai khiến, đày đọa [con trâu] tàn nhẫn!

          Một gă bán dầu ở Tô Châu đến một nhà giàu có, trông thấy một đứa bé năm tuổi đội mũ gắn chân châu, đeo ṿng vàng, bèn dấy ḷng ác, ôm nó tới chỗ vắng vẻ, giết chết. Do vậy, hắn bỗng trở nên giàu có. Hắn sanh một đứa con, giống hệt như đứa bé đă bị giết, cho nên trong tâm hắn rất ghét nó. Tới khi đứa con năm tuổi, gă bán dầu trong tháng Hè bỗng ngủ [gà gật], đứa bé rút cây trâm bằng bạc trong búi tóc, giỡn hớt chọc vào ngực hắn. Gă đó ngỡ là ruồi bu, giơ tay đập một phát, trâm xuyên thủng ngực mà chết. Xem câu chuyện này, [phải biết] người hiện thời dùng vàng ngọc trang hoàng cho con cái cũng phải nên thận trọng!

          Bậc quân tử hễ dự vào hàng quan lại, hăy nên coi trung trực, công bằng, thanh liêm là chuyện thuộc về phận sự của chính ḿnh. Nay cũng v́ cầu được thiên chuyển, thăng chức mà xảo trá, ắt tâm thuật chẳng đoan chánh đến tột cùng! Đặt kẻ ấy trong triều, ắt hắn sẽ chẳng tận trung, chẳng công bằng; đưa hắn ra cai trị dân, hắn làm sao có thể liêm khiết cho được? V́ thế, đức Thái Thượng đặc biệt răn nhắc. Huống chi trong đời người, công danh và tánh t́nh nhanh nhẹn hay chậm chạp đă được định sẵn từ lúc mới sanh ra, dẫu lo toan, chạy vạy suốt đời, chẳng thêm được mảy may nào, chỉ tạo tṛ cười cho người thông đạt, bị quỷ thần quở trách!

          Thời vua Tống Hiếu Vũ nhà Lưu Tống, Đới Pháp Minh, Đới Minh Bảo, Sào Thượng Chi là ba kẻ nắm trọng quyền thuở ấy. Hễ kẻ nào được họ tiến dẫn, hoặc những điều họ nói ra, không ǵ chẳng được [vua chuẩn tấu] thực hiện. Chỉ có ḿnh ông Cố Khải Chi chẳng chịu xu phụ [bọn chúng]. Ông từng nói: “Vận mạng đă được ấn định sẵn, chẳng phải là do trí lực mà có thể đổi dời được. Chỉ nên cung kính, kiềm chế bản thân, giữ đạo. Nếu do xảo quyệt, hư vọng mà may mắn đạt được, chỉ là chôn vùi tiết tháo đó thôi, liên quan ǵ đến chuyện được mất? Nếu có kẻ thấy nói kiểu này bèn hỏi tôi: ‘Thời nay thường có kẻ dùng mưu trí đđạt được quan chức là v́ lẽ nào?’ Thưa rằng, vẫn là do mạng. Tuy nhiên, dùng phương pháp quỷ quyệt để bắt chim, bậc quân tử ắt chẳng làm!”

          Năm Ất Tỵ (1665) đời Khang Hy nhà Thanh, gă họ Kê ở huyện Sơn Âm được cử làm dịch thừa[3] tại Long Giang Kiều tỉnh Vân Nam. Hắn sợ xa xôi, chẳng muốn đi. Có người dân bán rượu họ Châu, gia cảnh thuộc loại đủ ăn, họ Kê từng chủ động đến nhà anh ta, bảo: “Ngươi đưa cho ta hai trăm lạng, ta sẽ trao văn bằng cho ngươi”. Họ Châu trong ḷng rất cao hứng, liền trao tiền, nhận bằng. Người ấy đến nhận chức, khéo sao phủ quân (quan Thái Thú) đă quen biết với anh ta từ trước, luôn giao phó cho [anh ta] những công tác tốt đẹp. [Anh ta] làm năm năm bèn có được mấy ngàn lạng. Họ Châu đă măn nguyện, bèn viện cớ bệnh tật để xin về. Gă họ Kê sau khi nhận được vàng, lại đổi tên, vào làm việc ở bộ Lại. Tới khi ông Châu đă xin về, họ Kê lại được phái đảm nhận chức vụ ấy. [Trước khi đó], có một đêm nọ, hắn đi nhà xí, thấy hai người áo xanh nói với nhau: “Gă này là quan ǵ vậy?” Đáp: “Quan coi dịch trạm tại Long Giang Kiều”. Nói xong, không thấy đâu nữa. Đến khi tới nhậm chức, [họ Kê] lại được bổ về Long Giang Kiều! Hắn vừa mới nhậm chức, Ngô Tam Quế[4] làm phản triều đ́nh, chẳng biết [họ Kê] có kết cục như thế nào!

          Đời Thanh, Tiền Bang Khởi ở Đơn Đồ nói: - Phàm nhân luôn có tác dụng thông thiên, rốt cuộc th́ làm thế nào để có thể tranh đua với số phận đă định? Chỉ có một cách là dùng âm chất, ắt có thể văn hồi số phận đă định. Hôm qua làm, hôm nay có hiệu nghiệm; buổi sáng làm, buổi tối có hiệu nghiệm. Báo ứng trong cơi âm nhanh chóng nhất, sự giám sát của thần minh tột bậc rơ rệt. Đấy chính là đường lối không ǵ nhanh chóng bằng! Kẻ có tâm hễ thử sẽ biết ngay!

         

          (Chánh văn) Thưởng phạt bất b́nh, dật lạc quá tiết.

          (正文)賞罰不平。逸樂過節。

          (Chánh văn: Thưởng phạt chẳng công bằng, hưởng lạc quá độ).

         

          [Trừng phạt tội lỗi và tưởng thưởng công lao] quá nhẹ hay quá nặng, chỉ cần hơi phạm sai lầm một phần, sẽ là chẳng công bằng. Chẳng giữ công đạo (lẽ công bằng), ḷng người chẳng phục. [Như thế th́] không chỉ là chẳng thể biểu dương công lao, trừng phạt tội lỗi, mà c̣n đâm ra tạo thành oán hận chất chứa, chuốc lấy tai họa.

          Đời Thục Hán, Gia Cát Khổng Minh nói: “Tâm ta như cái cân, chớ nên v́ một ai mà [thiên vị] nặng nhẹ”. Trần Thọ khen ngợi [Khổng Minh] như sau: “Đối với kẻ tận trung, có lợi cho triều chánh, thời thế, dẫu là kẻ oán cừu, [Khổng Minh] ắt tưởng thưởng. Kẻ phạm pháp, bê trễ [trong chức vụ], dẫu là người thân, ông ta ắt trừng phạt. Đối với kẻ đă nhận tội, biểu lộ sự chân thành, dẫu phạm tội nặng, ông ta ắt tha. Kẻ ăn nói khoác lác, xảo trá, màu mè, dẫu phạm tội nhẹ, ắt bị ông ta xử tử. V́ thế, các tướng thuở ấy đều phục vụ quên thân. Dẫu Ngụy Diên là phường phản trắc, vẫn vâng phục [Khổng Minh], chẳng nói đôi co. Lư B́nh, Liêu Lập bị ông ta băi truất mà suốt đời chẳng có một câu oán hận”. Kẻ nắm giữ trách nhiệm thưởng phạt hăy noi theo gương ấy.

          Dật lạc là chuyện ai nấy đều cùng ham muốn. Lễ Kư chép: “Lạc bất khả cực, dục bất khả túng” (Lạc chớ nên đạt tới tột cùng, dục chớ nên luông tuồng). Sách Quốc Ngữ[5] chép: “Dân lao tắc tư thiện, dật tắc tư dâm” (Dân chúng vất vả sẽ nghĩ đến điều lành, nhàn rỗi sẽ nghĩ đến dâm), tức là chẳng mong dân chúng nhàn rỗi. Mạnh Tử nói: “Nhân sanh ư ưu hoạn, tử ư an lạc” (người ta do biết lo âu mà sống, quá lo hưởng yên vui sẽ chết), tức là chẳng mong người ta hưởng an vui suông, huống hồ quá mức ư! Nhưng cội nguồn của sự dật lạc trong thế giới, nói chung chẳng có ǵ lớn hơn tửu, sắc, tài, khí (, buông lung theo ư thích). Người thời nay ham mê rượu, chẳng đoái hoài thân thể! Kẻ háo sắc sẽ chẳng màng bệnh tật. Kẻ tham tài sẽ chẳng đoái hoài thân thuộc. Kẻ xử sự buông lung theo ư thích, sẽ chẳng quan tâm đến tánh mạng. Trước khi gặp phải những thứ ấy, ai nấy đều có thể tự hiểu [những đạo lư ấy], mà cũng có thể khuyên bảo kẻ khác. Cho đến lúc những cảnh ngộ [dụ dỗ, mê hoặc ấy] đưa đến trước mặt, sẽ mê muội, tự ḿnh phạm phải. Chỉ là tuy thấy thấu suốt, nhưng chẳng thể nhẫn được. Nếu có thể thấu hiểu bốn chữ “dật lạc quá tiết”, ắt sẽ có thể sửa đổi những thói hư tật xấu. Kẻ có thể ở trong những cảnh ngộ [tửu, sắc, tài, khí] rất thân thuộc mà quên bẵng, đạt đến mức độ “ít ham muốn, tâm trong lặng” th́ sẽ có thể đội trời, đạp đất.

          Ḥa thượng Chí Công bàn luận cùng Lương Vũ Đế về lạc sự. Sư xin nhà vua thả mấy người tử tù để làm thí nghiệm. [Người hầu] đă đem các tử tù đến, Sư liền bảo họ mỗi người bưng một chén nước đầy ắp đi một ṿng trong cung, căn dặn: “Nếu chẳng làm sánh nước ra ngoài, sẽ tha tội chết cho ngươi”. Dặn ḍ xong, bèn sai tấu nhạc để động tâm họ. Hồi lâu xem lại, chẳng có giọt nước nào văng ra ngoài. Vua thở dài, hỏi [tử tù]: “Ngươi có nghe nhạc hay không?” [Kẻ đó] tâu: “Không nghe ạ!” Sư nói: “Bọn họ chính v́ sợ chết, chỉ e nước tràn ra ngoài, làm sao c̣n nghe nhạc cho nổi!” Người nào có thể luôn giữ ḷng kiêng sợ như thế, ắt cái tâm buông lung hưởng lạc sẽ tự nhiên chẳng sanh!

          Vu Thiết Tiều nói: - Chuyên ṛng siêng gắng như vận chuyển ngói, dè dặt như đi trên vực băng. Hào kiệt, thánh hiền, không ai đều chẳng như thế, ta là hạng người nào mà dám an vui, xa xỉ? Kinh Dịch chép: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức” (Trời vận hành chánh đáng, bậc quân tử hăy nên học tập tinh thần tự cường chẳng ngưng nghỉ ấy)[6]. Chỉ v́ con người không dốc chí tự cường, cho nên mới ơ hờ đối với những chuyện liên quan bức thiết đến thân thể, cứ mong nhàn hạ cho qua ngày tháng. Nếu có chí tự cường, th́ những chuyện bản thân ta đáng nên làm sẽ là vô cùng, vô tận, thật sự chỉ cảm thấy chẳng đủ thời gian, chẳng rảnh đâu để vui sướng, cũng chẳng dám buông lung!

          Đời Tống, Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) nói: - Ta mỗi đêm khi sắp ngủ, ắt tính toán chi phí dành cho ăn uống suốt ngày từ tiền bổng lộc và [so sánh với] những việc đă làm được trong ngày. Nếu tương xứng, ắt sẽ ngủ sâu, yên giấc, chẳng c̣n hổ thẹn. Nếu như chẳng tương xứng, suốt đêm sẽ chẳng thể yên giấc.

          Đời Tống, Tư Mă Ôn Công nói: - Lúc cha ta làm quận phán (郡判, quận mục phán quan), khách đến thăm bèn mời rượu, hoặc là [mời cạn ly] ba lượt, hoặc năm lượt, chẳng hơn bảy lượt. Rượu mua ngoài chợ, quả hạt [để nhắm rượu] chỉ là lê, hạt dẻ, táo, hồng. Cỗ bàn chỉ là canh rau nấu thịt khô, hoặc thịt muối. Chén bát chỉ dùng loại bằng sành hoặc tre, gỗ. Sĩ phu thuở ấy toàn là như vậy, chẳng có ai phê phán!

          Đời Tống, Cừu Thái Nhiên làm tri huyện Tứ Minh, rất tương đắc với một thuộc quan (屬官, quan lại dưới quyền). Một hôm, ông hỏi người ấy về chi phí tiêu dùng hằng ngày. Người ấy thưa: “Nhà tôi có mười người, mỗi ngày tốn hết một ngàn đồng”. Thái Nhiên hỏi: “Sao dùng nhiều thế?” Người ấy thưa: “Bữa sáng có chút thịt, buổi tối th́ canh rau”. Thái Nhiên kinh hăi, bảo: “Ta làm Thái Thú mà thường xuyên ăn rau. Ông bữa nào cũng ăn thịt, chắc chắn không phải là kẻ thanh liêm rồi”, bèn lợt lạt với người ấy.

          Đời Nguyên, có hai sinh viên trường Thái Học, sanh cùng ngày, giờ, tháng, năm, cùng đỗ khoa thi Hương, cùng được chọn làm quan. Một người được bổ làm Giáo Thụ ở Ngạc Châu, người kia được bổ làm Giáo Thụ ở Hoàng Châu. Không lâu sau, người ở Hoàng Châu chết. Người ở Ngạc Châu hết sức sợ hăi, sắp đặt sẵn hậu sự. Vài ngày sau, vẫn chẳng chết, bèn sắp đặt lễ vật đến phúng điếu [người ở Hoàng Châu], khóc rằng: “Ông và tôi sanh cùng ngày, giờ, tháng, năm, lại cùng đỗ đạt, ra làm quan. Nay ông qua đời trước tôi, [chắc là] tôi cũng sắp chết. Nay đă sau bảy ngày rồi, nếu có linh thiêng, hăy nên báo mộng cho tôi”. Đêm đến, ông ta mộng thấy người ở Hoàng Châu bảo: “Ông đối với mọi việc đều tiết kiệm, cho nên sống thọ. Tôi hưởng dụng quá lố, nên yểu thọ!”

          Đời Lương có kẻ giàu có họ Ngu, dựng một ṭa lầu cao bên đường lớn, ngày đêm cùng mỹ nhân ca xướng, tiệc tùng, cờ bạc, chơi cờ vây trên đó. [Có một lần, trong đám khách khứa], có người thắng bạc đang bưng miệng mà cười, vừa khéo có ba người khách đi qua dưới lầu, có một con chim ưng ngậm chuột chết thối nát [bay qua], làm rơi xuống thân mấy người khách đó. Khách ngẩng đầu lên nhằm đúng lúc kẻ đó đang cười, [ngỡ kẻ đó ném chuột lên người họ], hết sức giận dữ nói: “Họ Ngu giàu sang, sung sướng đă lâu rồi! Tao không xâm phạm nó, sao nó lại [xúi người khác] làm nhục tao?” Họ bèn kéo bè đảng đến tiêu diệt nhà ấy. Cố Tích Trù nói: “Dẫu chẳng dựng lầu cao bên đường lớn, cũng sẽ bị tai họa lạ lùng!” Đó gọi là tai ương do thói kiêu căng, xa xỉ mà ra. Nguyên nhân dẫn đến tai họa chẳng phải chỉ là một thứ, nhưng trong các tai họa do thói kiêu căng, xa hoa gây nên, chỉ có nữ sắc là khốc liệt nhất, là nhanh chóng nhất, càng phải nên ngăn ngừa trước tiên! Vụ Thật Dă Phu nói: “Da bọc xương thịt và ô uế. Gắng sức yêu kiều mê hoặc người. Thiên cổ anh hùng thường mắc họa. Trăm năm rồi cũng hố tro thôi”. Nếu ai có thể biết được lư này, và [lănh hội những giáo huấn] từ những phần chú giải cho câu “kiến tha sắc mỹ, khởi tâm tư chi” (thấy sắc đẹp của vợ con người khác bèn dấy ḷng toan dan díu) và “dâm dục quá độ”, kính cẩn vâng giữ những răn dạy ấy, ắt sắc đẹp nào cũng trở thành rỗng tuếch, mới ḥng tránh khỏi họa hoạn do phóng túng hưởng lạc vậy!

 

          (Chánh văn) Hà ngược kỳ hạ, khủng hách ư tha.

          (正文)苛虐其下。恐嚇於他。

          (Chánh văn: Hà khắc, ngược đăi cấp dưới, đe dọa người khác).

         

          Kẻ ở địa vị trên mà tàn khốc, ngược đăi thuộc hạ và dân chúng; ở trong nhà th́ đánh đập tôi tớ quá đáng, đều là “hà ngược” (苛虐, hà khắc, ngược đăi). Làm cấp trên mà ngược đăi thuộc hạ, trong các phần trước của tác phẩm này đă nói tường tận. V́ thế, ở đây, chỉ nói tường tận về chuyện đối đăi với kẻ dưới trong nhà.

          Đức Phật bảo Thi Ca La Việt[7]: “Hết thảy người đời đối đăi nô bộc, hăy nên có năm sự:

          1) Một là trước hết hăy nên biết họ đói, khát, lạnh, nóng [như thế nào] rồi mới sai khiến.

          2) Hai là đối với kẻ có bệnh, hăy nên điều trị.

          3) Ba là chẳng được xằng bậy đánh đập. Hăy nên hỏi han [để biết rơ] thật, hư, sau đấy mới trách phạt, trừng trị. Có thể tha thứ th́ hăy tha thứ. Chẳng thể tha thứ th́ mới giáo huấn, trừng phạt.

          4) Bốn là nếu họ có đôi chút tài sản riêng, chẳng được tước đoạt.

          5) Năm là cho họ đồ vật ǵ, hăy giữ sao cho b́nh đẳng, chớ nên thiên vị, thiếu công bằng”.

          Sách Viên Thị Thế Phạm[8] viết: - Kẻ tôi đ̣i, đầy tớ phần nhiều bẩm tánh ngu tối, làm việc hay sai sót, tánh lại dễ quên. Dặn ḍ công việc, họ chẳng ghi nhớ trọn vẹn. Cá tánh phần nhiều lại hay thiên chấp, nếu chẳng phải là kẻ hay tự cho ḿnh là đúng, th́ tánh t́nh lại hay ương bướng, ăn nói bừa băi, chẳng biết tôn ty. Phàm là bậc gia trưởng, trong khi sai khiến họ, hăy nên đối xử bằng ḷng khoan dung, giáo huấn nhiều phen, chớ nên giận dữ, th́ trong tâm của chủ nhân cũng cảm thấy an lạc. Dẫu chuyện phạm lỗi của họ đáng nên trừng trị, [chủ nhân] cũng nên b́nh tâm tra hỏi. Đă trừng phạt, quở trách, trong khi kêu gọi, sai khiến, hăy nên giữ vẻ mặt như thường, ngơ hầu chẳng có chuyện khác xảy ra. C̣n như phụ nữ bản tánh hẹp ḥi, cố chấp, bậc gia trưởng phải thường nên khuyên nhủ, dạy dỗ. Cũng đừng cho phép con em trong nhà tự tiện đánh đập người hầu. Hễ có chuyện, phải tŕnh báo với gia trưởng. Nếu [đầy tớ] là kẻ ương bướng, hung bạo, bất thiện, hăy nên khéo léo trả kẻ đó về nhà, chớ nên [đối xử] quá nghiêm khắc, sợ kẻ ấy sẽ ôm ḷng oán hận mà làm ác!

          Bài thơ Bán Con có đoạn:

          Dưỡng nhữ như phượng sồ,

          Niên hoang trị kỷ tiền,

          Khổ cần đương tự ái,

          Bất tỷ tại nương biên.     

          (Nuôi con như phượng non,

          Năm đói đáng mấy đồng!

          Siêng khổ nên bảo trọng,

          Chẳng như bên mẹ đâu!)

          Lại c̣n:

          Khốc tận nhăn trung huyết,

          Sái nhữ thân thượng y,

          Nghiệp duyên như vị đoạn,

          Do vọng mộng lai quy.

          (Mắt tuôn sạch huyết lệ,

          Tưới đẫm áo con thơ,

          Nghiệp duyên nếu chưa dứt,

          Vẫn mơ chuộc con về).

          Vu Thiết Tiều nói: - Cai quản kẻ dưới, cố nhiên chẳng nỡ ḷng hà khắc, bạo ngược, mà buông thả [cho họ tự tung tự tác] lại càng chẳng nên! Thường thấy nhà quan lớn hoặc người sang cả, bọn nô bộc ngang ngược, hung tợn, được tôn sùng như Thượng Đế. Hễ ra ngoài, chúng bèn cưỡi ngựa khỏe, mặc y phục lộng lẫy; trở về nhà th́ cờ bạc, nhậu nhẹt. Hoặc là khách khứa đến cửa, [lũ tôi tớ] vẫn ngồi ́ ra đó, chẳng thưa hỏi. Hoặc thân thích đến thăm [chủ nhà], [bọn chúng] bèn cự tuyệt, chẳng thông báo, khiến cho kẻ mạnh th́ nổi giận bỏ đi, kẻ yếu thế nuốt hận lui ra. Thậm chí chúng nó c̣n mượn cớ sanh sự, cậy thế lường gạt tiền bạc. Kẻ làm chủ trọn chẳng nghe biết, [do lũ đầy tớ làm càn mà chủ nhân bị] mọi người chống trái, thân thuộc xa ĺa, bạn hờn, người oán đă chẳng thể đếm xiết! Hăy nên thận trọng!

          Đời Tấn, ông Đào Uyên Minh răn dạy con: - Công việc sớm tối của con nếu đều tự làm sẽ khó khăn. Nay sai khiến họ (tôi tớ) giúp con lo liệu nỗi nhọc nhằn về củi, nước. Những kẻ ấy cũng là con cái của người khác, hăy nên đối xử đàng hoàng.

          Đời Tống, phu nhân của ông Thành Trai Dương Vạn Lư Tống tuổi đă ngoài bảy mươi. Mỗi khi đến tháng Đông, cụ sáng sớm thức dậy, xuống bếp, tự tay nấu một nồi cháo cho tất cả tôi tớ ăn rồi mới sai họ làm việc. Con bà cụ là Đông Sơn nói: “Trời lạnh ngắt, mẹ tội ǵ khổ sở như vậy?” Phu nhân nói: “Tôi tớ cũng là con của người ta. Sáng sớm trời rét buốt, cần phải làm cho bụng họ tạm có hơi ấm th́ họ mới có thể làm lụng được”.

          Đời Hán, Lưu Khoan đối xử với người hầu tột bậc khoan dung. Dẫu trong lúc hốt hoảng, ông chưa hề ăn nói cộc cằn, hay lộ vẻ cáu kỉnh. Phu nhân muốn thử làm cho Lưu Khoan tức giận, bèn chờ đến lúc ông sắp vào chầu vua, đă ăn mặc chỉnh tề xong, bèn sai đứa tớ gái bưng canh, [giả vờ sẩy tay], đổ dơ triều phục của ông. Lưu Khoan thong thả hỏi: “Canh có làm phỏng tay ngươi hay không?” Thần sắc ông bất động.

          Mẹ ông Hồ Thái tánh hết sức tàn khốc, thường đánh đập tớ gái khổ sở, tàn độc chẳng thể nói được. Sau khi bà ta chết đă mười năm, cha đă lấy vợ khác. Một hôm, Hồ Thái đi vắng, trong nhà muốn giết một con gà, gà bỗng nói tiếng người rằng: “Đừng có nấu ta, hăy đợi thằng Thái trở về”. Trong chốc lát, Hồ Thái trở về, gà chạy quanh chỗ ông ta ngồi, tự nói ŕ rầm: “Do mẹ ngược đăi tớ gái, thác sanh làm gà”. Lại nói rất tường tận những chuyện trong nhà. Hồ Thái khóc lóc, kể với cha. [Cha con bèn nuôi con gà ấy], nuôi nó đă lâu, nó bay lên mổ người vợ sau [của cha ông Hồ Thái]. Khi Hồ Thái đi vắng, kế mẫu bèn ném chết con gà. Ôi! Hiện thời, gà, chó thật nhiều, biết là vợ của nhà nào? Đáng thương thay, đáng sợ thay!

          Quan Tư Mă Vương Giản Dịch ở Hồng Châu bị chứng bệnh nghịch khí công tâm. Ông chết đi rồi sống lại, bảo vợ rằng: “Khi xưa, ta sai bảo bọn tớ nhỏ, đôi khi do chẳng cẩn thận mà bó buộc chúng nó quá nghiêm khắc đến nỗi chúng nó chết mất. Vừa rồi, ta tới âm ty là do bị đứa đầy tớ nhỏ tố cáo, chẳng thể ḥa giải được! Nay ta mắc căn bệnh này chính là v́ nó quấy phá”. Vợ nói: “Đứa đầy tớ nhỏ bé mà dám làm như vậy hả?” Ông bảo: “Dương gian có sang hèn, chứ trong minh ty (âm ty) nhất loạt như nhau”. Ông chết ngay sau đó.

          Đe dọa có hai trường hợp:

          1) Một là thấy người khác gặp nạn cấp bách, chẳng lo an ủi, mà cố ư phô trương oai thế, khiến cho kẻ ấy sợ hăi.

          2) Hai là chỉ mong cầu lợi, hoặc báo đền oán thù từ trước, mà hư trương thanh thế, khiến cho kẻ khác sợ ta, ḥng thỏa ḷng ham muốn.

          Từng nghe Quán Thế Âm Bồ Tát trong chốn nạn gấp, sợ hăi, Ngài có thể khiến cho chúng sanh chẳng sợ hăi, chứng đắc Viên Thông; đấy là bậc nhất. V́ thế, chúng sanh trong cơi Diêm Phù đều gọi Ngài là đấng Thí Vô Úy. Như vậy th́ kẻ dọa nạt người khác sẽ trở thành [hạng người] như thế nào? Do đó, bậc quân tử hễ gặp người khác lâm vào cảnh sợ hăi, không ai chẳng tận lực an ủi. Tiếc là cơi đời chẳng biết, thích làm cho kẻ khác kinh sợ; sau khi chết đi, [những kẻ dọa nạt người khác] sẽ sanh làm nai, làm mễn. Phàm những con nai, con mễn, ban ngày th́ né tránh, sợ hăi các con thú khác, hễ có động liền kinh hăi bỏ chạy tán loạn. Đêm th́ gác sừng lên cành cây, g̣ ḿnh mà ngủ. Hễ bị đánh thức, ắt sẽ guồng bốn chân kinh hoảng chạy bừa. Đă hết kinh sợ lại ngủ, đă ngủ rồi lại bị kinh động. Từ sẩm tối cho đến sáng, chẳng có một khắc nào yên! Đấy là quả báo của chúng nó vậy!

          Một khách thương nhỏ ở Hồ Châu buôn bán gừng tại Vĩnh Gia. Kẻ nhà giàu là Vương sanh, do tranh căi về giá gừng, tức giận đánh vào lưng gă khách thương. Gă ta té lăn ra đất, chết ngất, được cấp cứu bèn tỉnh lại. [Vương sanh] xin lỗi, biếu một xấp lụa. Khách thương về tới cửa sông, nhà thuyền hỏi do đâu mà có lụa, [khách thương liền] kể rành rẽ mọi chuyện. Nhà thuyền bèn mua lại lụa và giỏ gừng. Khách thương đi rồi, chủ thuyền bèn vớt một cái xác chết trôi vô chủ, đem về chỗ ḿnh ở, đến gặp Vương sanh thưa chuyện. Hắn nói: “Buổi chiều có một người khách từ Hồ Châu qua đ̣ nói bị ông đánh sắp chết, cậy tôi báo cho cha mẹ, vợ con [người ấy] báo quan, để lại lụa và cái giỏ làm chứng. Chẳng mấy chốc, [người đó] tắt thở mà chết. Tôi chẳng dám không thưa tŕnh”. Cả nhà Vương sanh khóc lóc, kinh hăi, đem hai trăm ngàn đồng đút lót cho hắn. Gă nhà thuyền cố ư làm ra vẻ miễn cưỡng nhận lời cầu xin, cùng nhau đem xác chôn trong núi sâu. Có một đứa đầy tớ của Vương sanh lên huyện tố cáo, Vương sanh bị bắt giam, chết trong ngục. Năm sau, gă khách thương buôn gừng lại đến, ghé thăm nhà họ Vương, con ông Vương tưởng là quỷ. Khách thương nói ḿnh chưa chết, nay đem một chút thổ sản đến đáp tạ. Con ông Vương bèn giữ khách lại, bắt gă đầy tớ thưa lên quan. Quan bắt gă nhà thuyền, [tên đầy tớ và gă nhà thuyền] đều chết trong ngục.

 

          (Chánh văn) Oán thiên vưu nhân, ha phong mạ vũ.

          (正文)怨天尤人。呵風罵雨。

          (Chánh văn: Oán trời, hờn người, chửi gió, mắng mưa).

 

          Thế giới Diêm Phù thường được gọi là Khuyết Hăm (缺陷), con người mỗi chuyện làm sao đều được vừa ḷng cho nổi? Kẻ chẳng xứng ư, ắt là v́ đă tích lũy [phước đức] đơn bạc, cho nên được hưởng thụ cũng đơn bạc. Hăy nên giữ đúng bổn phận, suy nghĩ lỗi ḿnh, ḥng sửa chữa tước vị đă được trời định sẵn. Đấy là đường lối tốt lành từ ngàn xưa để cư xử trong cảnh khốn cùng, mà cũng là cách tốt lành để hướng lành, tránh dữ. Oán trời, ắt trời càng giận. Hờn người, ắt người càng ghét. Không chỉ là vô ích, mà c̣n hại thêm!

          Tiêu Tuấn Minh đă sớm đỗ đạt, nhưng đă lâu mà chẳng được thăng chức, đă nhiều lượt v́ vận mạng trắc trở mà oán trời. Anh ta lại c̣n dâng sớ, cầu đảo. Đêm hôm ấy, có một bức thư màu trắng rơi xuống trước lư hương. Xem kỹ th́ là mười sáu chữ viết theo kiểu chữ Triện từ cơi trời. Tuấn Minh nghe nói Hà Tiên Cô[9] linh ứng, bèn đến hỏi, tiên cô chẳng đáp. Tuấn Minh tha thiết cầu xin, tiên cô bèn bảo: “Nhận năm lượng vàng [hối lộ], bị giảm thọ mười năm. Giết oan uổng một người, sau khi [người ấy] đă chết, lại c̣n bị xử lư, ngươi có làm những chuyện ấy hay không?” Tiêu Tuấn Minh cứng họng, chẳng thể đáp được!

          Đời Tống, Chương Đôn làm Tể Tướng, đă đày hết những vị trọng thần thời Nguyên Hựu[10] xuống Lănh Nam. Phạm Thuần Nhân thuộc vào số đó. Khi ấy, Thuần Nhân đă bảy mươi tuổi, vâng theo mạng lệnh, vui vẻ lên đường, thường căn dặn các con, chớ nên bất b́nh chút nào! Hễ nghe các con có lời oán trách Chương Đôn, ông Phạm bèn tức giận, ngăn cấm. Trên đường đi, thuyền bị lật trên sông, áo của Thuần Nhân bị ướt sạch. Ông quay lại nh́n các con, bảo: “Đây cũng là do Chương Đôn làm ra hay sao?” Qua câu chuyện của ông Phạm, [ta biết] đạo học “vui theo mạng trời”. Ai có thể thấu đạt lư này, sẽ an vui hứng chịu, thuận theo, tự nhiên là chẳng có chuyện oán trời, hờn người!

          Gió mưa là công năng của tạo hóa, mỗi chuyện đều có thần trông coi, chưởng quản. Khổng Tử hễ gặp sấm rền, gió mạnh, ắt nghiêm túc cầu khẩn thượng thiên. Sách Khúc Lễ chép: “Nhược hữu tật phong, tấn lôi, thậm vũ, tắc tất biến. Tuy dạ tất hưng, y phục quan nhi tọa” (Nếu có gió giật, sấm rền, mưa dữ, ắt thay đổi tư thế. Dẫu ban đêm cũng thức dậy, mặc áo, đội mũ mà ngồi). Tŕnh Tử mỗi khi gặp gió mưa ắt thức dậy, đó là v́ kính trọng trời. Dân chúng vô tri, hễ mưa nhiều sẽ oán hận ngập lụt, tạnh ráo nhiều, sẽ oán thán hạn hán, gió mạnh ắt oán băo tố, chẳng nghĩ âm dương mỗi thứ đều có vận số định sẵn. Hoặc là quan lại hà khắc, hung tợn, hoặc là do dân chúng tạo nghiệp, sẽ đều có thể dẫn tới [mưa gió] chẳng đúng thời; há có nên chửi mắng hay không? [Chửi mưa mắng gió] chỉ càng làm tăng thêm cái tội nghịch trời!

          Tại trường huyện ở Hàm Ninh, xứ Chân Định, có người lao công nhà trường là Dương Khoan. Trong tiệc nhà quan, ông ta lo châm rượu, trông thấy góc tường có hai luồng gió lốc, bèn rưới rượu để đăi họ. Về sau, ông ta theo mọi người tới núi Đông Nhạc (Thái Sơn) thắp hương, gặp hai người lính mời uống rượu. Chưa kịp hỏi tên tuổi đă chia tay. Ngày hôm sau lên núi, đến một ngôi miếu thờ thần, thấy h́nh dáng, dung mạo của hai [bức tượng] lính hầu giống hệt như người đă mời ḿnh uống rượu, ḷng hết sức kinh sợ. Đến chỗ trọ, bèn thấy hai người lính nói: “Ông đừng ngờ vực! Hai người bọn ta đều là thuộc hạ của Đông Nhạc Đại Đế. Ngày nọ được sai phái, đi qua quư xứ, được ông ban cho hai bầu rượu. Do vậy, hôm qua dùng chén rượu để đáp tạ”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa!

          Đời Tống, có một phụ nữ ở Ngạc Châu cọ rửa một cái chậu bằng sành bên sông. Bỗng mưa dầm khiến đường sá ướt đẫm, mụ ta bèn buông lời tục tằn chửi trời. Ngay lập tức, một cơn gió lạ cuốn mụ ta lọt xuống sông. Chồng mụ vội cứu lên, cái chậu sành đă bị phá thủng, mắc vào cổ mụ ta như đeo gông. Toan gỡ ra, đau thấu cốt tủy. Người đến xem chật cửa. Vài hôm sau, mụ chịu không xiết nỗi khổ ấy, chết ngắc!

         

          (Chánh văn) Đấu hợp tránh tụng, vọng trục bằng đảng.

          (正文)鬬合爭訟。妄逐朋黨。

          (Chánh văn: Tranh chấp kiện tụng. Kéo bè kết đảng làm quấy).

         

          Kẻ khác có chuyện tranh chấp, thưa kiện, hăy nên lựa lời khéo léo khuyên giải, khiến cho việc lớn hóa thành nhỏ, việc nhỏ hóa thành chẳng c̣n ǵ, ắt đôi bên đều cùng hưởng phước ấy. Nếu thừa dịp đó, [xui nguyên giục bị], khiến cho họ đấu đá nhau, hoặc ngấm ngầm đốc xúi, hoặc tự đứng ra làm chứng, hoặc thay họ nhào nặn bằng chứng, thưa gởi, hoặc lo hết chuyện kiện tụng nơi nha môn, để tiện làm ngư ông hưởng lợi. Hạng người ấy bị thần trách, người oán, tạo nên oan nghiệt rất nặng do ḷng sái quấy. Khi nghiệp báo xảy đến, sẽ chẳng kham nổi nỗi khổ ấy, hối hận chẳng kịp!

          Lưu Nguyện Chất lưng nổi nhọt độc, thuốc men chẳng lành. Thầy lang bảo: “Đă trọn hết sức người rồi, sợ là bị trời hại”. Nguyện Chất bèn cậy đạo sĩ cầu khẩn thần Bắc Đẩu. Đêm mộng thấy thần bảo: “Ngươi phạm vào luật trời, dẫu cầu khẩn Bắc Đẩu, cũng khó tránh được”. Nguyện Chất thưa ḿnh vô tội, thần bảo: “Ngươi ngồi dạy học ở nhà nọ, gây chuyện dẫn đến thưa kiện, khiến cho hai nhà đều bị tan nát”. Nguyện Chất thưa: “Đó là do em tôi là Nguyện Lập làm, chẳng phải là Nguyện Chất”. Vua sai thuộc hạ xét lại, đúng là như vậy, [Nguyện Chất] bèn được khỏi bệnh. Năm sau, Nguyện Lập chết. Báo ứng do xui giục kiện tụng từ xưa tới nay luôn luôn là thảm khốc, mắt thấy, tai nghe, rành rành chẳng sai! Khuyên khắp người đời, trăm nghề đều có thể kiếm sống, tội ǵ phải theo đuổi nghề kiện tụng? Gần đây nhất, tôi thấy câu chuyện về một vụ án trong cơi âm xảy ra tại Lâu Đông[11], theo ghi chép, một thầy căi đă đến cơi âm, Diêm Vương bảo: “Ngươi tuy tạo ác nghiệp, nhưng mỗi khi viết án từ, thường khuyên người khác thôi tranh chấp, đừng nên vu cáo [kẻ khác]. Lại nữa, trong đơn kiện, hồ sơ tranh tụng, thường ngấm ngầm giảm nhẹ tội [của người bị thưa]. Do có thiện niệm ấy, hăy tạm thời tha tội, quyết định cho ngươi được sống”. Do vậy, kẻ đă trót theo nghề nghiệp này, trong t́nh thế chẳng đổi nghề ngay được, hăy nh́n vào tấm gương này, ngơ hầu có thể giảm thiểu [ác nghiệp] đấy chăng?

          Một thầy giáo dạy vỡ ḷng ở Hưu Ninh, nhà nghèo tận lực học hành, thích đọc luật. Trong thôn, có con của một người giàu có, [cha đă mất], hai đứa con tranh giành gia sản. Thằng anh muốn thưa kiện đứa em, đem lễ vật hậu hĩnh đến nhờ thầy viết đơn thưa. Thầy giáo nói: “Tôi học luật để mai sau tránh khỏi bị phán quyết phạt tù, há chịu v́ anh dấy khởi chuyện thưa kiện ư?” [Sau đó], thầy giáo nói cặn kẽ t́nh [anh em] thân thiết như chân tay, cũng như dùng những chuyện cùng nhau suy bại do thưa kiện lẫn nhau để cảnh tỉnh. Đứa anh bị cảm động, hiểu ra. Thằng em t́m đến, thầy cũng khuyên răn, huấn dụ, thằng em cảm phục. Anh em chúng nó bèn vui vẻ, ḥa thuận như thuở đầu, đồng tâm làm giàu. Một hôm, họ buôn bán sa bản, bỗng thấy trên tấm sa bản[12] có khắc tên họ vị thầy ấy. Anh em ngộ ra, bảo nhau: “Nhờ ông X… khuyên chấm dứt tranh chấp, kiện tụng, chúng ta may mắn ăn nên làm ra, ân lớn chưa báo. V́ thế, trời viết tên họ ông ấy để chỉ dạy hai đứa chúng ta”. Họ hẹn nhau khi trở về, sẽ biếu thầy món tiền do bán số sa bản ấy. Họ về đến chợ ở quê nhà, bán được món tiền ba trăm lạng bạc. Khi ấy, đă hết năm, thầy không có chỗ ngồi dạy học, cha con đối diện nhau húp cháo lúa mạch [cầm hơi]. Bỗng có hai người cầm bạc đến thưa chuyện, thuật cặn kẽ nguyên do. Thoạt đầu, thầy cảm tạ, từ khước. Hai người nói: “Trời ban cho thầy mà”, rốt cuộc biếu tặng thầy.

          Vu Thiết Tiều nói: - Kẻ đang làm quan phải thống thiết trừng phạt, ngăn cấm những kẻ xúi giục kiện tụng, thưa quan. Kẻ sống trong làng (những vị quan đă cáo lăo hồi hưu) th́ dốc ḷng khuyên can kẻ đă thưa kiện lẫn người chưa kiện hăy nên thôi đi. Đấy là việc đứng đầu nhằm vun bồi nguyên khí. [Người làm như vậy] sẽ là đại công thần của nước nhà, mà cũng là đại công thần của trời đất vậy.

          Tạ Cầu thích làm thiện sự, tánh chẳng tranh chấp, ghét chuyện thưa gởi, kiện cáo. Láng giềng có kẻ xâm lấn đất đai của ông, kẻ khác khuyên ông thưa lên quan, Tạ Cầu giảng giải: “Chiếm được đất, chứ chẳng chiếm được trời!” Mọi chuyện ông đều ôn ḥa, nồng hậu [như thế đó]. Ông thọ tới bảy mươi lăm, con cháu đông đảo, lại có đứa hiển đạt.

          Tức Tụng Ca (息訟歌, bài ca chấm dứt thưa kiện) có đoạn như sau: - Chớ nên đi thưa kiện, gia sản bởi đó sẽ tan hoang. Dẫu thắng một vạn binh, ḿnh hao ba ngàn lính. Thầy căi vung gậy mềm, kẻ làm chứng đ̣i hậu tạ, há có bọn công sai nào tốt lành, mà cũng chẳng có bọn nha lại giữ văn thư trong sạch! Quan phán quyết như thế nào c̣n chưa biết, mà đă nguy ngập, đáng sợ như vào vực sâu, như đi trên băng mỏng. Nếu gặp lúc sảy chân, mang nhục khó che đậy! Thường nghe có kẻ gia sản tan nát phần nhiều v́ tranh chấp đất đai, vườn tược. Thường thấy kẻ kiện cáo v́ gia sản, t́nh anh em bỗng mất sạch. V́ tức khí nhất thời mà đâm đơn thưa kiện, đă kiện rồi càng tức tối hơn. Do tham lợi lôi nhau ra ṭa, đâm ra mất cả vốn lẫn lời, biến hôn nhân thành kết mối oán cừu, vứt sạch hàng thân thích. Đưa nhau ra cửa quan c̣n tệ hơn bị giặc cướp đoạt, phải chịu tốn phí gấp bội. Do trượng nghĩa mà thưa kiện thay người khác, rốt cuộc lâu ngày trở thành phường bất nghĩa. Do người thân ép buộc ta đứng mũi chịu sào, từ đấy t́nh giao hảo bị cắt đứt. [Do kiện tụng] mà sĩ tử học hành lỡ làng, thợ thuyền quên cả nghề khéo, nông dân bỏ hoang ruộng nương, thương nhân bỏ buôn bán. Kẻ giàu do thưa kiện mà nghèo nàn, kẻ nghèo do thưa kiện mà chết ngóp. Việc nhỏ chẳng châu toàn, chuyện lớn càng rối ren, phải tránh né, biến chuyện giả thành sự thật, rốt cuộc trở thành khó khăn là v́ ban đầu dễ dàng! Mệt sức lại bận ḷng, há có thú vị ǵ? Tuy cao hứng nhất thời, khổ sở về sau ai hứng chịu giùm? Ta khuyên người thế gian, chớ coi thưa kiện như tṛ con nít đùa bỡn. Nếu chẳng phải là kẻ mang mối thù chẳng đội trời chung, đừng lôi kéo nhau vào ṿng kiện tụng. Lời quê mùa tường tận và xác đáng, muôn phần khẩn cầu [người đọc] hăy nhớ kỹ!

          “Vọng” () có nghĩa là chẳng cần quan tâm là có hay không. “Trục” () là theo đuổi. Lớn th́ như kẻ làm bầy tôi của người khác mà chia bè lập đảng, nắm quyền triều chánh, công khai bài xích [kẻ khác phe, hoặc người thanh cao không chịu hùa theo], ngấm ngầm khuynh đảo. Nhỏ th́ như dân thường lập đoàn thể hoặc kết nghĩa để làm vây cánh. [Những hành vi] lôi kéo kẻ cùng ư thích kết bè đảng đều là “vọng trục bằng đảng” (xằng bậy kéo bè kết đảng), ắt mắc tội lớn, họa sâu! Hàng công khanh cũng như dân chúng, hăy nên cùng nhau hết sức răn tránh vậy!

          Đời Đường, Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích, tài cao, tuyệt học, danh trùm một thuở. Gặp lúc Đường Thuận Tông mắc bệnh, câm bặt, chẳng thể nói. Gă tiểu nhân Vương Thúc Văn thừa cơ nắm giữ đại quyền. Hai ông luồn ḿnh phù tá hắn, khinh suất bon chen, hiến kế, tưởng chừng như Y Doăn, Châu Công lại xuất hiện. Họ gấp rút như cuồng, được thăng cấp nhanh chóng lên chức Thị Ngự Sử. Cả triều đ́nh khinh thường họ. Chẳng lâu sau, Đường Thuận Tông truyền ngôi cho Thái Tử, chuyện Vương Thúc Văn [chuyên quyền, nhiễu loạn triều chánh] bại lộ, những gián quan (quan ngự sử) đua nhau dâng sớ công kích. Bọn họ đều bị đày đi làm Tư Mă tại các châu, đều khốn đốn, chết nơi những miền đất xa xôi. Ôi, ông Lưu và ông Liễu nếu chẳng bị hăm vào bè đảng của Vương Thúc Văn, do họ sẵn có tài năng văn chương, cũng sẽ là bậc đại thần lừng danh một thuở. Sảy chân trong chốc lát, suốt đời chẳng thể ngóc đầu lên được, há có nên chẳng cẩn thận? Nhưng nỗi hại này vẫn c̣n là nhỏ! Như các biến loạn trong ba triều đại Đường, Tống, Minh đều bắt nguồn từ chuyện này. V́ thế, kẻ làm bầy tôi của người khác mà kéo bè kết đảng, tội lỗi của bọn đó rất lớn!

          Một người là con em của một thế gia đă suy sụp, nhà nghèo, vô hạnh. Mấy lần anh ta đă theo một kép hát đi chơi, kép hát nhiều lượt biếu tặng quần áo. Do vậy, đôi bên hết sức tương đắc. Tuy ưa thích, nhưng [anh ta] biết gă kép hát là phường trộm cắp. Về sau, do anh chàng [con em thế gia] mặc quần áo [do gă kép hát] đă trộm được ra phố, người bị mất của liền bắt chàng ta thưa lên quan, c̣n gă kép hát đă trốn xa. Rốt cuộc, chàng ta chẳng thể biện bác được, chết trong ngục!

          Lại có con của một phú ông thích vơ thuật, kết nghĩa huynh đệ với mười người. Cha biết được, bảo là có thể khiến cho làng xóm nể sợ, chẳng ngăn cấm. Về sau, trong số đó, có một đứa là ăn trộm. Chuyện bại lộ, tên đó cung khai, liên lụy đến con trai phú ông. Quan do thấy nó là nhà giàu, bèn nghĩ nó là đứa oa trữ đồ trộm cắp. [Do đó], tan nhà nát cửa. Ôi chao! Kết bè đảng, chơi với bạn bè, phải xem gương này!

          Đời Nguyên, Trung Tuyên Công Dư Khuyết nói: “Nếu ai gần bậc hiền lương ví như một tờ giấy. Dùng tờ giấy ấy bọc hoa lan hay xạ hương, do những thứ ấy thơm tho mà tờ giấy được thơm tho theo. Nếu ai thân cận bạn tà, ví như một cành liễu, dùng cành liễu để xuyên xỏ cá, hoặc ba ba. Do những con vật ấy tanh hôi, cành liễu sẽ tanh hôi theo”. Chúng ta lập thân xử thế, hăy nên suy đi nghĩ lại lời ấy!

 

          (Chánh văn) Dụng thê thiếp ngữ, vi phụ mẫu huấn.

          (正文)用妻妾語。違父母訓。

          (Chánh văn: Nghe lời thê thiếp, trái nghịch lời cha mẹ dạy răn).

 

          Lời của thê thiếp ngọt nào, dễ lọt tai. Cha mẹ răn dạy, tuy chánh đáng, khó thể vâng theo! Lời thê thiếp chẳng có ǵ không trái nghịch lời răn dạy của cha mẹ. Sở dĩ ḷng hiếu của người đời suy bại là v́ vợ vậy. Cha mẹ từng trải đă nhiều, nh́n sự việc ắt thích đáng, lại thương yêu con tha thiết, ắt mưu tính châu đáo cho con. Há có trường hợp nữ nhân ít tuổi nào mà đâm ra lại có cái nh́n vượt trỗi bậc lăo thành đă từng trải, thông hiểu ư? Lư lẫn Sự cũng thế, không chỉ v́ khuyên con cái hiếu thuận mà nói như vậy.

          Trương Củng Thần nói: - Đối với giáo huấn của cha mẹ, dẫu người ta muôn phần tuân theo, rốt cuộc vẫn chẳng thể [hoàn toàn] tuân theo. Lời thê thiếp, [tuy] người ta nói là “muôn phần chẳng nghe theo”, rốt cuộc đều làm theo trọn vẹn! Lư chẳng thắng nổi dục. Do quá gần gũi, nên bị [những lời xui khôn xui dại của thê thiếp] che lấp [tâm trí], khó thể nhận biết. Những kẻ bực bội, tự cho ḿnh là hay (tự cho là không nghe theo lời thê thiếp rủ rỉ), đừng thấy chuyện này là dễ dàng! Trừ phi trong tâm có công phu vi tế, nghiêm mật, sẽ không chỉ là chẳng thể làm được, mà c̣n là cũng chẳng thể biết được!

          Thê thiếp là nội trợ của mỗi người. Nếu họ có những lời tốt lành, chưa chắc không thể nghe theo. Nhưng đàn bà ít kẻ hiền minh, lắm kẻ ngu dốt, tối tăm! Hơn nữa, tánh t́nh họ phần nhiều hẹp ḥi, cố chấp, chẳng nhẫn nại chịu đựng. Họ lại khéo che giấu khuyết điểm, ăn nói tột bậc đúng chỗ yếu hại, khiến kẻ làm chồng dễ bị mê hoặc nhất. Nhưng kẻ đă bị mê muội bởi lời vợ, ắt sẽ đến nỗi chống trái cha mẹ. V́ thế, đức Thái Thượng răn dạy nghiêm ngặt. Ôi, ly gián cốt nhục, khiến cho thân thích lợt lạt, xa ĺa, lừa dối, lấn hiếp làng xóm, thiên vị con cái, hiếp đáp, ngược đăi tôi tớ, nguyên nhân phần nhiều là do vợ mà ra! Lại hăy nên tùy theo từng việc mà tự phản tỉnh, suy xét bản thân, khuyên dụ [thê thiếp] noi theo đạo nghĩa. C̣n như chồng nghe theo lời thiếp mà ngược đăi hoặc bỏ vợ cả, chính là chuyện dễ nghiêng theo, dễ bị mê hoặc nhất trong thói thường của con người, chớ nên không thận trọng. Đối với thê thiếp, đức Thái Thượng [đă răn dạy] đúng là hết sức hữu lư.

          Con cái đối với cha mẹ, hăy nên tận tâm kiệt lực. Bất luận Đông, Tây, Nam, Bắc, đều nên vâng theo, há có nên ứng phó qua quưt cho xong, bề ngoài phục tùng, trong tâm chống trái, trái nghịch giáo huấn của cha mẹ. Đó là cái tội căn bản, là điều ác chẳng thể tha thứ được! C̣n như v́ sủng ái thê thiếp mà trái nghịch cha mẹ, cơi đời lại càng chẳng thiếu bọn ấy! Tội ấy lại càng nặng hơn một bậc. Mong sao ai nấy đọc kỹ thiên sách này, tự hối lỗi quấy thuở trước, sớm mong báo đền [ân cha nghĩa mẹ], lập thân, cư xử, trọn hết ḷng hiếu kính, trọn bề phụng dưỡng ḥng báo đáp đôi chút một phần vạn vạn nỗi đau cù lao, ngơ hầu chẳng bị trời giáng sét, quỷ thần tru lục, chẳng vướng phải tai họa ngang trái, bất ngờ!

          Tŕnh Ngạn Tuân thờ mẹ chí hiếu. Mẹ tánh t́nh hết sức nghiêm khắc, dữ dằn, do ghét vợ của Ngạn Tuân bèn trục xuất cô ta. Khi ấy, Ngạn Tuân đang độ tuổi tráng niên, vâng theo ư mẹ, suốt đời chẳng cưới vợ khác. Người vợ ấy hiền thục mà bị đuổi, chẳng thốt lời oán hận chút nào. Mỗi Tết đều đến vấn an, ở một ḿnh thủ tiết, chẳng lấy chồng khác. Sĩ phu coi cô ta là người hiền thục, viết thành truyện hiếu thuận, tiết liệt. Ôi! Trường hợp này có thể nói là con hiếu, vợ hiền, không ai tốt đẹp hơn được nữa! Những đứa con và dâu ngỗ nghịch có thể nào chẳng hổ thẹn đến chết ư?

          Ở huyện Văn An, có một cư dân cưới vợ. Cô vợ đẹp nhưng ương bướng, chẳng phụng sự mẹ chồng. Hễ chồng [đi đâu] trở về, cô ta ắt đều tố cáo mẹ chồng hiếp đáp, ngược đăi. Chồng luôn im lặng. Một tối, chồng lấy ra một con dao sắc đưa cho vợ coi. Vợ hỏi: “Để làm ǵ vậy”, đáp: “Nàng luôn mách là mẹ chồng ngược đăi, hăy cùng cầm dao này để trừ khử mẹ, nàng nghĩ như thế nào?” Vợ đáp: “Em chịu ngay!” Chồng nói: “Nàng hăy khéo phụng sự mẹ một tháng, khiến cho hàng xóm đều biết là nàng siêng năng, c̣n mẹ chồng bạo ngược. Sau đấy mới ngấm ngầm giết đi”. Vợ theo đúng lời, vẻ mặt tươi vui, ăn nói mềm mỏng, sáng tối hầu hạ mẹ chồng. Gần được một tháng, chồng lại lấy dao ra chơi đùa dưới ánh đèn, hỏi vợ: “Mẹ chồng đối đăi với nàng ra sao?” Đáp: “Chẳng thể so với khi trước được”. Lại qua một tháng, chồng lại rút dao ra, hỏi vợ. Vợ vui vẻ đáp: “Nay mẹ chồng đối với em rất tốt. Chuyện khi trước, chàng hăy thận trọng, đừng làm nữa!” Chồng thong thả nắm dao, trừng mắt hỏi vợ: “Nàng có thấy trong đời có chồng giết vợ hay không?” Đáp: “Có chứ!” Hỏi: “Có thấy con giết mẹ hay chưa?” Thưa: “Chưa nghe nói”. Chồng bảo: “Đời người coi sự hiếu dưỡng to nhất. Ơn cha mẹ dẫu tự giết chính ḿnh vẫn chẳng thể báo đáp được. Đến khi lớn lên cưới vợ, chính là để phụng dưỡng bố mẹ chồng, nối tiếp gịng giống. Ta thường quan sát thấy nàng chẳng thể hiếu thuận với mẹ ta, lại ngược ngạo xúi ta làm chuyện đại nghịch. Đao này ta thật sự muốn chặt đầu nàng để làm vui ḷng mẹ. Mẹ cho nàng hoăn lại hai tháng để sửa lỗi, đổi thái độ, trọn hết đạo làm vợ, biểu lộ ḷng mẹ ta đối đăi với nàng, [để nàng biết] vấn đề không phải do mẹ ta, nàng hăy nhắm mắt mà nhận đao!” Vợ kinh hoảng, khóc lóc, lạy lục: “Mong chàng tha tội chết cho em, em sẽ suốt đời hiếu thuận với mẹ chồng, chẳng dám biếng nhác chút nào!” Hồi lâu sau, chồng mới bằng ḷng. Về sau, vợ và mẹ chồng thuận thảo, danh truyền khắp xóm làng. Ôi! Người dân ở Văn An bất quá là một kẻ tầm thường, mà khéo điều phục, biến đổi vợ chuyển từ ác độc thành hiền lương, dẫu là bậc quân tử, sĩ phu cũng chẳng thể làm được! Ngạn ngữ có câu: “Trong thiên hạ, chẳng có ai không là cha mẹ”. Lại c̣n nói: “Trong thiên hạ, không có cha mẹ nào chẳng thể chuyển hóa được”, đúng lắm thay, có lư thay!

          Trầm Trạch Chi lúc hai mươi lăm tuổi bèn bỏ học hành, tính buôn bán. Vợ anh ta là Thạch Thị hiền đức, tận lực can gián, nhưng chồng không nghe, bèn kể khổ với bố mẹ chồng: “Cô và em dâu của con đều được gả làm vợ của người có học, nay chồng con chẳng chịu học hành. Nếu [bố mẹ] cho đứa con dâu mới cưới là con về thăm nhà, gặp thân thích sẽ xấu hổ lắm! Con xin tự bỏ ra tiền học, xin [bố mẹ] hăy chọn thầy, khuyến khích chồng con đến học. Con chẳng dám mong chồng hiển đạt hanh thông, chỉ thành một chàng Tú Tài tốt đẹp, chẳng khiến cho gia phong mang nhục, mà cũng là một người chồng hiền năng vậy!” Bố mẹ chồng thuận theo. Năm năm sau, quả nhiên Trạch Chi thi đỗ, làm quan tới chức Chánh Lang[13]. Những kẻ hăm chồng vào chỗ ác trong hiện thời, há chẳng nên noi gương người vợ hiền họ Thạch ư?

          Vợ Lưu Kiến Đức hung tợn, ác độc. Họ Lưu không thể chế ngự được, nhiều lúc phải chiều theo. Nhằm lúc mẹ chồng bị bệnh, vợ bắt chồng gởi mẹ sang am ni cô. Mẹ không muốn đến đó, họ Lưu chỉ nghe lời vợ, chỉ sai một đứa tớ gái lo thuốc thang mà thôi. Mẹ sắp chết, chửi mắng ầm ĩ: “Tao ắt tố cáo mày dưới âm ty”. Không đầy mấy hôm, vợ điên cuồng, hô ầm lên: “Ta chẳng ra ǵ, đuổi mẹ chồng đến am ni cô. Âm ty rút ruột ta, lột da ta”. Do vậy, khắp thân mụ ta tím bầm mà chết. Lại hai hôm sau nữa, họ Lưu cũng phát cuồng, hô lên: “Ta là Lưu Kiến Đức bị vợ khống chế, ngỗ nghịch với mẹ ruột. Vợ đă bị âm ty rút ruột, lột da, chịu tội trong địa ngục Vô Gián. Nay lại truy ta rất gấp. Người đời hăy nên lấy ta làm gương, đừng bị thê thiếp mê hoặc mà ngỗ nghịch với cha mẹ”. Hắn chết đột ngột, khâm liệm vài hôm, bỗng sét đánh ầm một tiếng, hai cỗ quan tài đều nứt toác, mùi hôi thối bốc xa mấy dặm! Bị chịu h́nh phạt ngũ h́nh có ba ngàn tội, mà không tội nào lớn bằng bất hiếu. Vương pháp là như thế đó, ai nấy đều biết. C̣n như trời giáng sấm sét tru diệt đều là những đứa con trai con dâu ngỗ nghịch, có lẽ có kẻ chẳng biết. [Do vậy], chép chuyện này để bảo ban khắp thiên hạ.

 

          (Chánh văn) Đắc tân vong cố, khẩu thị tâm phi.

          (正文)得新忘故。口是心非。

          (Chánh văn: Có mới nới cũ, tâm khẩu chẳng nhất trí).

 

          Nhỏ th́ là quần áo, vật dụng, lớn th́ là t́nh nghĩa bạn bè, thân thích. Trong là thê thiếp, dưới là thằng hầu, tớ gái, đều có mới, cũ. Nếu có mới nới cũ, đấy là hạng người bạc t́nh, thiếu ân nghĩa nhất. Tiên hiền có nói: “Dữ kỳ kết tân giao, bất như đôn cựu hảo” (Kết bạn mới chẳng bằng vun đắp t́nh quen biết cũ), lời ấy đúng lắm thay! Xưa kia, vua Sở (Sở Chiêu Vương) từng hạ chiếu t́m một chiếc giày bị mất như sau: “Ta buồn v́ nó cùng ra ngoài với ta, mà nó không cùng về với ta”. Từ đấy, người trong nước chẳng dám vứt bỏ những thứ cũ. Đấy thật sự là người có t́nh nghĩa cả ngàn đời, mà cũng là người hiểu biết trong ngàn đời vậy.

          Chị của vua[14] Quang Vũ đời Hán là công chúa Hồ Dương vừa mới góa chồng, muốn lấy Tống Hoằng. Vua bảo [Tống Hoằng]: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ, là lẽ thường t́nh của con người!” [Tống Hoằng] tâu: “Bần tiện chi giao bất khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường” (Bạn trong lúc nghèo khó chẳng thể quên, người vợ tấn cám (người vợ chia sẻ hoạn nạn, nghèo khó) chẳng thể ruồng bỏ được). Vua ngó công chúa, bảo: “Chuyện này chẳng thể thành được!” Kẻ ngu này đọc đến đây, thở dài nói: “Chuộng mới, nới cũ, cả cơi đời đều là như thế. Đối với thê thiếp, càng dễ thay đổi nhất. Thường là do kẻ chung gối nẩy sanh hiềm khích, mà ươm thành mầm họa trong chốn khuê các, gây hại chẳng thể nói nổi, mọi người há chẳng cẩn thận ư?”

          Một phú ông không có con, đă nuôi dưỡng đứa con của người anh mười năm. Bỗng người thiếp sanh một đứa con trai, ông ta bèn bỏ rơi đứa con của người anh, giao hết tài sản cho con người thiếp sở hữu. Về sau, đứa con của người anh do cần kiệm mà thành gia, lập nghiệp, lại c̣n hiếu đễ, cung kính, nhân từ, cả họ đều khen ngợi, nhưng đứa con của người thiếp lớn lên, phóng đăng, gái gú, cờ bạc, tiêu sạch gia sản. Ông căm hận chết luôn!

          Cảnh Dương ở huyện Nghi Trưng lúc nghèo khó là bạn thân của Sử Thành ở Dương Châu. Cảnh Dương chết, để lại một đứa con côi nghèo khó. Họ hàng, bạn bè thuở trước không ai lui tới, riêng Sử Thành chẳng quên [t́nh bạn], luôn thăm hỏi, cho quà c̣n hơn xưa kia. Cảnh Dương để lại di cảo gồm mấy chục quyển, Sử Thành bỏ ra ngàn vàng để khắc in, bảo: “Ta chẳng đành ḷng thấy tinh hoa của cố nhân bị chôn vùi”. Về sau, Sử Thành làm quan lớn.

          Đời Tống, Phạm Văn Chánh (Phạm Trọng Yêm) lúc làm Viên Ngoại Lang của bộ Lại, đứng đầu một quận, có ba đứa tớ gái theo hầu, măi cho đến khi ông làm quan suốt cả nhị phủ[15] cho tới khi mất, suốt cả mười năm, chẳng thêm một người nào, mà cũng chưa hề thay đổi một người nào.

          Tâm và miệng đều đúng lẽ như nhau, đó là người thuần thiện. Nếu tâm và miệng đều sai trái, kẻ khác vẫn đề pḥng. Chỉ có những kẻ ăn nói như Nghiêu, Thuấn, tâm giống như Kiệt, Trụ, miệng thề non hẹn biển, mà tâm ngầm đặt bẫy rập, là khó ḍ lường nhất. Kẻ ấy thờ vua ắt chẳng trung, thờ cha mẹ ắt bất hiếu, chơi với bạn bè ắt bất tín, đối xử với thuộc hạ ắt bất nghĩa. Hạng người ấy là phường tiểu nhân nhất. Nếu ai lầm tin lời kẻ ấy, sẽ lọt vào mưu mô của hắn, tội lỗi của kẻ ấy [bị cơi âm trừng phạt] nặng gấp mấy lần dương gian! Kinh Phật có nói: “Kẻ nói dối, ác khẩu, chết rồi sẽ đọa trong địa ngục kéo lưỡi, nước đồng sôi [rót vào miệng], cày lưỡi, chịu khổ rất nhiều kiếp đă xong, sẽ sanh trong loài súc sanh, luôn ăn gai góc. Nếu lại được làm người, thiệt căn chẳng trọn vẹn, hơi miệng luôn hôi thối. Dẫu thốt lời tốt lành, kẻ khác chẳng tin nhận”. Nghiệp “miệng đúng, tâm sai” mắc quả báo như thế, há chẳng đáng kiêng dè ư?

          Đời Minh, ông Tiết Văn Thanh nói: - Kinh Dịch chép: “Dung ngôn tất tín” (Lời ăn tiếng nói thông thường đều phải giữ chữ tín). Đối với lời ăn tiếng nói b́nh phàm, người ta cứ ngỡ là chẳng khẩn yếu, cứ tùy tiện, chẳng thận trọng thốt lời. Chẳng biết một lời hư vọng là đă phạm sai lầm trong lời ăn tiếng nói. V́ thế, lời ăn tiếng nói b́nh phàm ắt phải giữ chữ tín, tức là đức sâu dầy vậy!

          Đời Tống, Tư Mă Ôn Công (Tư Mă Quang) dạy Lưu Khí Chi (Lưu An Thế) về lẽ trọng yếu trong chuyện tận tâm xử thế lập thân: “Chỉ là Thành mà thôi!” Công phu ấy trước hết được khởi đầu bằng không nói dối. Tư Mă Ôn Công lại từng nói: “Khí Chi b́nh sanh chỉ là một chữ Thành; do vậy, ông ta nói năng rất chánh xác, chẳng ai có thể sửa đổi được”. Dân tại thành thị hay nông dân thuở ấy đều nói: “Nếu đă từng đi qua Nam Kinh, mà không gặp Lưu Thị Chế[16], khác nào qua Tứ Châu[17] mà không gặp bậc đại thánh. Do lẽ nào mà cảm động [ḷng người] như thế ấy? Cũng thưa rằng: “Chỉ là Thành mà thôi!” Xét theo chuyện này, há chữ Thành có khiến cho người ta bị lầm lạc ư? Cớ sao người ta chẳng dốc sức nơi đây vậy thay?

          Nhậm Quốc Tá bị bệnh lâu ngày, lập đàn cúng tế cầu được gia hộ. Trong mộng, ông Nhậm nghe thần bảo: “Nhậm Quốc Tá! Ngươi b́nh sanh làm người tâm và miệng chẳng nhất trí. Từ thuở bé cho tới khi trưởng thành, chẳng có một công hạnh tốt lành nào, tội ác đă định, sẽ chết trong sớm tối”. Quả nhiên, ông ta chết. Hành Thổ không có vị trí nhất định, nhưng nó nắm quyền làm chủ Ngũ Hành, bốn mùa dựa vào đó để vận hành, vạn vật dựa vào Thổ để sanh trưởng. Trong Ngũ Thường, nó chính là Tín. Nếu bốn giềng mối kia mà chẳng có Tín, th́ cũng sẽ chẳng thành tựu Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. V́ thế nói: “Thành là khởi đầu và chung cục của muôn vật; chẳng có ḷng Thành, sẽ chẳng có vật ǵ”. Người hiện thời ăn nói hoàn toàn chẳng có chân tâm đối với người khác, chính ḿnh há có thể giúp người khác thành tựu ư? Nếu từ nay trở đi sửa đổi, tỉnh ngộ, lời nói đi đôi với việc làm, trong ngoài tương ứng, ắt gặp chuyện sẽ thản nhiên, thường là thong dong có thừa, ngửa lên chẳng hổ với trời, cúi xuống chẳng thẹn với người, há chẳng sung sướng ư? Nhưng chúng ta dễ phạm chuyện này nhất, khó ngăn ngừa, kiểm điểm nhất. Đừng nên lơi lỏng chút nào, [kẻo sẽ] tự cắt đứt với quê hương quang minh, chánh trực, dấn ḿnh vào cảnh tối tăm, gai góc vậy!


          (Chánh văn) Tham mạo ư tài, khi vơng kỳ thượng, tạo tác ác ngữ, sàm hủy b́nh nhân.

          (正文)貪冒於財。欺罔其上。造作惡語。讒毀平人。

          (Chánh văn: Tham lam, xằng bậy đoạt tiền của, lừa dối bề trên. Nói lời ác độc, gièm chê, hủy báng người lành).

 

          Đ̣i lấy [tiền tài, vật dụng] chẳng chán là Tham (). Tăm tối, chẳng biết hổ thẹn là Mạo (). Tận trung phụng sự bề trên, giữ ḿnh liêm khiết, đó là khí tiết to lớn của người làm bầy tôi cho kẻ khác. Nay cũng v́ nguyên do tham lam, xằng đoạt chiếm đoạt mà lừa dối bề trên, tiết tháo của kẻ bầy tôi c̣n đâu nữa! Dẫu [làm như vậy] sẽ được phú quư nhất thời, phần nhiều là chẳng mấy chốc sẽ suy bại, con cháu chật vật. Sao bằng vâng giữ ḷng trung, liêm khiết, ngơ hầu giữ vẹn tánh mạng và thanh danh ư? C̣n như bọn sai nha tại nha môn ḅn rút tiền lương, bọn đầy tớ trong các điền trang giấu diếm ḥng tránh né nộp thuế, nộp địa tô, đủ mọi tệ đoan chẳng thể nêu trọn! Nói chung, đều là bọn thuộc hạ lấy tiền tài của người trên, dùng mưu kế để che giấu, dùng tài trí để lừa gạt. Nhưng tiền tài họ lấy được vốn là thứ có sẵn trong vận mạng [của chính họ], hiềm rằng do đoạt lấy bằng phương cách bất chánh, sẽ đến nỗi thân mạng và tài sản đôi đường đều mất mát! Sao bằng chẳng có mảy may cẩu thả đối với chuyện này, ắt sẽ đạt được tiền tài vốn có [trong vận mạng] bằng những phương cách chánh đáng khác, ta cũng sẽ có được [tiền của, tài sản] giống như vậy, nhưng lẽ b́nh an và nguy hiểm khác xa nhau. Mọi người hăy đừng nên mê muội đối với lư tột cùng này!

          Đời Minh, ông Vương giữ chức Đại Trung Thừa[18] tại Quư Châu, làm Tổng Đốc Lưỡng Quảng. Ông thanh tra công khố, thấy tiền dư ra ba mươi bốn vạn lượng. [Thẩm tra sổ sách chi tiêu] th́ đối với bộ Hộ, đă khai báo chi phí hoàn tất, tiền lương cho quân đội cũng đă phát đủ, chẳng biết món tiền ấy thuộc về bộ phận nào! Ấy là v́ thái b́nh lâu ngày, quân đội ít, mà lương hướng lại nhiều, năm tháng tích lũy lại, cho nên mới dư ra món tiền ấy, chẳng có cách nào truy ra món tiền ấy do đâu mà có. Triều đ́nh cũng không hay biết, ông tra ra được, muốn dâng sớ tấu tŕnh. Người nhà chẳng dám nói ǵ, có một vị bạn học cũ thong dong thưa rằng: “Ông chẳng nhiễm mảy trần, trong triều đ́nh, ngoài đồng nội đều cùng biết; nhưng món tiền này, dưới đă chẳng phải do bóc lột máu mỡ của dân, mà trên cũng chẳng phải là xâm phạm thuế khóa nước nhà. Ông có bốn đứa con nối dơi, có thể v́ chúng nó tính kế đôi chút hay chăng? Hăy báo lên trên ba mươi vạn lượng, giữ lại bốn vạn lượng để chia cho bốn đứa nó. [Làm như vậy] cũng chẳng tổn hại ḷng trung và phẩm giá của ông”. Ông cười bảo: “Anh nói cũng hợp t́nh, hợp lư, nhưng tôi đă ở góa (giữ vẹn phẩm tiết liêm khiết) ba mươi năm, một mai v́ con cháu tính kế, đầu bạc rồi mà thay đổi tiết tháo, không ǵ chẳng suy bại theo ư!” Rốt cuộc, ông tŕnh báo trọn hết số tiền ấy, chẳng giữ lại mảy may nào. Về sau, ông lần lượt làm đến chức Quận Thủ. Các cháu nối tiếp nhau đỗ Trạng Nguyên, nối tiếp nhau giữ những chức vị trọng yếu, họ chính là anh em của quan Thái Sử Tuyết Viên vậy. Than ôi! Ông Vương có thể làm chuyện khó có như vậy, có thể nói là bậc quân tử thật sự trong thiên hạ!

          Trong niên hiệu Thành Hóa đời Minh, Tống Hoằng làm Tuần Phủ tỉnh Thiểm Tây. Bọn kỳ hiệu thuộc Tần phủ[19] mặc sức hoành hành làm khổ cư dân. Tống Hoằng đều bắt giam, trừng trị hết, chẳng khoan nhượng chút nào. Tần Vương tấu tŕnh [triều đ́nh, tố cáo] Tống Hoằng khi dễ, [có ư định] diệt trừ các phiên vương. Chúa thượng tức giận, sai tống ông vào nhà ngục của Cẩm Y Vệ[20]. Vua sai nội thần[21] Thượng Hanh tịch biên gia sản của ông, chỉ kiếm được một xấp lụa vàng, mấy bộ quần áo cũ. Thượng Hanh trở về, tấu tŕnh t́nh trạng nghèo khó của Tống Hoằng. Vua đích thân tra xét của cải nhà Tống Hoằng, than thở hồi lâu, hạ chiếu tha bổng Tống Hoằng, ban thưởng một vạn đĩnh bạc nhằm tuyên dương sự liêm khiết của ông, điều ông về làm Tuần Phủ Hà Nam. Ông đă đến nơi trấn nhậm, thái giám Uông Trực cũng v́ có công vụ mà phải đến đó. Thuở ấy, oai thế của Uông Trực lừng lẫy, các vị Tuần Phủ khác đều cúi lạy cầu kiến, riêng ông Hoằng vái chào, không lạy. Uông Trực biết ông là bậc trung thần, liêm khiết, càng thêm kính trọng. Tống Hoằng ngầm dâng sớ, đàn hặc Uông Trực mang theo nhiều bọn kỳ hiệu, quấy nhiễu địa phương. Về sau, Uông Trực trở về kinh, chúa thượng hỏi quan Tuần Phủ các tỉnh có hiền hay chăng? Uông Trực chỉ khen ngợi Tống Hoằng là bậc liêm khiết, có năng lực. Chúa thượng đưa sớ tấu đàn hặc của Tống Hoằng cho Uông Trực coi, Uông Trực khấu đầu nhận tội, ca ngợi Tống Hoằng hiền đức chẳng ngớt. Chúa thượng tha tội cho hắn. Về sau, Tống Hoằng làm Thượng Thư.

          Đời Minh, Nhan Mậu Do nói: - Phẩm hạnh, tiết tháo đến mức ấy, như trăng sáng ngời, như lửa cháy mạnh, như vàng ṛng, như ngọc đẹp, cũng chẳng phải là tốt lành ư? Nếu ông Tần tích trữ tài vật đôi chút, lúc bị hạ chiếu tống giam, há có thể thoát khỏi [ngục tù] tiêu sái như thế hay chăng? Oai đức liêm khiết đă vang dội, bọn thái giám đều sợ hăi. Bọn Oai Ninh Bá, Doăn Thượng Thư đều cúi đầu xin hắn (Uông Trực) thương xót, riêng ông Tần dùng thân phận viễn thần (遠臣, quan ở ngoài các tỉnh, chẳng trực thuộc triều đ́nh) để bẻ gẫy oai phong của hắn. Than ôi! [Thân phận] sang hay hèn cố nhiên là do chính ta tự đặt ḿnh vào!

          Đời Tống, Đỗ Diễn là người xứ Sơn Âm, ăn uống tại nhà [mỗi bữa] chỉ một bát ḿ mà thôi! Có người nói ông quá tiết kiệm. Ông đáp: “Diễn tôi vốn là một gă học tṛ nghèo túng. Danh vị, phước, lộc, mũ, đai, quần áo, vật dụng đều là những thứ sở hữu của nước nhà. Một khi chúng ĺa khỏi thân, lại là một chàng học tṛ đói nghèo, lấy ǵ để tự tiêu dùng? Tiết kiệm là phương cách để liêm khiết. [Nếu để cho] tài vật và quyền thế cùng nhau bức bách, rất mất tự do. Xa hoa, phung phí, mặc t́nh tiêu xài, những thứ ấy đều là của cải [của đất nước], dẫu mong liêm khiết, có được hay chăng? V́ thế, để thanh liêm, không ǵ bằng dùng cách tiết kiệm. Khi cai trị dân, chẳng khác ǵ lúc chính ḿnh đang ở nhà, dùng tiền tài từ công quỹ [dè xẻn] giống như dùng tiền tài của chính ḿnh! Như thế th́ mới được!”

          Một viên quan Bố Chánh ở phủ Thiệu Hưng giỏi nghề tham ô, chất chứa tài sản đến mấy chục vạn. Tới khi mất chức quan, quay về nhà, bèn mua mười vạn mẫu ruộng tốt, giàu có nhất quận. Ông nội của hắn nhiều lần nằm mộng, bảo hắn sắp bị cơi âm trừng phạt. Hắn chẳng tin. Hắn chỉ có một thằng con, một đứa cháu nội, quả nhiên chúng nó đều [mê đắm] gái gú, cờ bạc, chẳng biết hối cải, đều bị chết yểu. Không lâu sau, viên quan Bố Chánh bị bệnh, trở thành tê liệt. Con dâu và vợ đứa cháu của gă quan ấy đều mang tiếng xấu! Những kẻ [thừa cơ] kiếm chác, bu đến như c̣. Quan Bố Chánh c̣n chính mắt trông thấy [t́nh trạng tài sản bị xâu xé ấy]. Lúc hắn gần chết, gia sản đă khánh kiệt. Lúc hắn lâm chung, trừng mắt, hét ầm lên: “Ta làm quan tới chức Bố Chánh chẳng nhỏ, ruộng tới mười vạn [mẫu] không ít, toàn là do tay ta tậu, mất sạch trong tay ta”. Nói xong th́ chết. Chao ôi! Đấy chỉ là hoa báo, quả báo là trong địa ngục, lại chẳng biết sẽ đến mức nào! Lành thay ông Dương Bá Khởi đă nói: “Ta tuy chẳng để lại tài sản đồ sộ cho con cháu, nhưng nếu đời sau gọi chúng nó là con cháu của một viên quan thanh bạch th́ chẳng phải là ta đă để lại rất nhiều ư?”

          Con người dẫu có lỗi, cũng sẽ quanh co che giấu! Nếu [đối tượng bị hủy báng] là người trong sạch, vô tội, ắt [kẻ có ác ư] sẽ bịa đặt, rao truyền, dựng chuyện ác độc để gièm chê, hủy báng. Chuyện ấy c̣n tàn độc hơn dao, búa, cọp, sói. Bởi lẽ người ta vốn vô tội, nhưng do một kẻ đồn thổi, lũ tiểu nhân sủa hùa theo, khiến cho người nghe mờ mịt, chẳng thể biện định đúng sai, đến nỗi người hiền, kẻ gian nháo nhào, đảo lộn chuyện bị giáng chức hay thăng quan. Bậc quân tử quở trách chuyện này rất sâu! Đức Phật dạy: “Do nghiệp ác khẩu, chết rồi sẽ đọa trong địa ngục binh đao rút lưỡi, c̣n sống th́ bị báo ứng rạch, mổ, h́nh thể tàn tật, hủy hoại!”

          Cổ thi có câu:

          Sàm ngôn thận mạc thính,

          Thính chi họa ương kết,

          Quân thính, thần đương tru,

          Phụ thính, tử đương quyết.

          Phu thê thính chi ly,

          Huynh đệ thính chi biệt,

          Bằng hữu thính chi sơ,

          Cốt nhục thính chi tuyệt.

          Đường đường thất xích khu,

          Mạc thính tam thốn thiệt,

          Thiệt thượng hữu long tuyền,

          Sát nhân bất kiến huyết.

          (Cẩn thận, đừng nghe gièm,

          Nghe rồi, họa ương kết,

          Vua nghe, sẽ giết quan,

          Cha nghe, con ắt chết.

          Chồng vợ nghe, chia ĺa,

          Anh em nghe, cách biệt,

          Bạn bè nghe, lợt lạt,

          Ruột thịt nghe, đoạn tuyệt.

          Đường đường thân bảy thước,

          Nghe chi ba tấc lưỡi?

          Trên lưỡi có gươm bén,

          Giết người chẳng thấy máu).

          Nỗi hại của gièm chê, hủy báng là như thế đó. Kẻ nghe lời [người khác nói], há chẳng nên cẩn thận ư?

          Trịnh Tuyên nói: - Lời nói thông tục [khiến cho người nghe cảm thấy] ở gần chợ búa, lời lẽ nhơng nhẽo khiến ta cảm thấy đang gần bọn kỹ nữ ca xướng. Lời nói đùa bỡn khiến ta cảm thấy như đang ở gần bọn đào kép. Quân tử hễ hơi dính dáng đến những thứ ấy, không chỉ là oai đức bị tổn hoại, mà c̣n bị giảm phước, huống hồ là nói năng độc mồm độc miệng ư?

          Đời Minh, Trần Lương Mô nói: - Ta xưa kia làm Phân Thủ[22] tại huyện Công An, có viên Giáo Dụ[23] họ Bạch lên kinh đô thi Hội. Vợ ông ta thích làm lành, từng dùng tên của viên Giáo Dụ ấy viết vào văn sớ, cúng thí đạo cô một lượng bạc, và làm chiếc phan thêu kết bằng sợi gai dài một trượng. Khéo sao có đồng nghiệp [của ông Bạch] đến thăm trông thấy, bèn kinh hăi bảo: “Quan nhà Nho lui tới với đạo cô sẽ gây phiền lụy chẳng nhỏ”. Vợ ông Bạch bèn tưởng con đường làm quan của chồng từ đây sẽ chấm dứt, trong tâm phiền muộn. Đến khi Bạch giáo dụ thi rớt trở về, lấy vải gai để cắt áo, cắt luôn tấm phan ấy, bà vợ càng thêm bất an, bèn tự treo cổ chết. Tôi vừa mới nghe chuyện, hỏi thăm viên tri huyện, ông ta kể cặn kẽ mọi chuyện, chẳng có ai không thương xót ông Bạch, buồn cho bà vợ. Về sau, phủ viện[24] Lâm Nhị Sơn thảo luận về danh sách những quan lại có hiền năng hay không, bảo tôi: “Bạch giáo dụ cưỡng gian vợ đồng sự, vợ ông Bạch cằn nhằn. Ông Bạch bèn ép vợ thắt cổ chết, tội chẳng thể dung không giết!” Tôi bèn kể lại những điều đă nghe được. Trong lúc ông ta trầm ngâm, tôi thưa: “Chẳng hiểu những lời Ngài đă nghe trước đó xuất phát từ kẻ nào. Nếu [kẻ nói những lời nói đó] đúng là bậc quân tử th́ c̣n có thể tin tưởng. Chứ nếu kẻ ấy chẳng phải là [người đáng trọng] như vậy, xin hăy t́m hiểu thêm”. Ông ta lập tức vỗ bàn nói: “Đúng lắm! Đúng lắm”, lập tức vung bút xóa sạch những [lời lẽ kết tội ông Bạch]. Về sau, ông Bạch được thăng làm Trợ Giáo trường Quốc Tử Giám, tôi chuyển sang làm quan Niết (Án Sát Sứ) tại đất Mân (Phước Kiến). Tôi gặp ông Nhị Sơn tại đất Phủ (Phủ Điền), ông chỉ nhà hàng xóm bảo tôi: “Gă họ Ngô ấy từng làm Huấn Đạo[25] tại huyện Công An. Kẻ sàm báng ông giáo dụ họ Bạch chính là hắn. Xưa nay, tâm thuật của hắn bất chánh. Tôi nhờ lời ông [khuyên can] mà vỡ lẽ. Hắn ta về sau được thăng làm Giáo Dụ ở B́nh Hương, cũng v́ bị đồng liêu sàm báng mà bị băi chức, về nhà. Qua hồ Bà Dương, thuyền lật, chỉ giữ được cái mạng; nay hắn tịch mịch lắm”. Tôi thưa: “Thích bàn chuyện buồng the và các thứ khuyết điểm của kẻ khác, ắt sẽ khiến cho quỷ thần tức giận. Nếu chẳng gặp tai họa lạ lùng, ắt sẽ bị khốn cùng quá đỗi!” Xét ra, ông Huấn Đạo họ Ngô sàm báng, bôi đen người trong sạch, báo ứng sẽ không chỉ là như vậy! Nhưng phương pháp để nghe lời nói của kẻ khác sẽ là chỉ nên quan sát [phẩm hạnh] của người nói, chẳng phải là cũng rơ rệt hay sao?

 

          (Chánh văn) Hủy nhân xưng trực, mạ thần xưng chánh.

          (正文)毀人稱直。罵神稱正。

          (Chánh văn: Hủy báng kẻ khác, tự khoe bản thân chánh trực. Nhục mạ thần linh, tự xưng ḿnh là chánh đáng).

 

          Bậc sĩ quân tử lập thân, xử thế, phải nên giữ sao cho hành vi của chính ḿnh ắt đều chánh trực, chẳng tà vạy. Đấy là Trực (). Nếu bản thân chưa thể chánh trực, chỉ lo hủy báng người khác [để tự khoe ḿnh là bậc] chánh trực th́ lương tâm đă bị chôn vùi; há đáng gọi là chánh trực ư? Hơn nữa, người chánh trực cơi ḷng ắt trung hậu, hễ đáng nên nói liền nói, khiến cho người khác biết sửa đổi. Cốt yếu là ḷng thành có thừa mà lời lẽ chẳng đủ [để diễn tả]. Đó gọi là Trực vậy! Những kẻ hủy báng, bôi nhọ tiếng tăm của người khác ḥng thỏa cơn tức giận của chính ḿnh, mà vẫn tự xưng là “chánh trực”, há chẳng đáng thống thiết căm giận ư? Lăo Tử nói: “Người thông minh, xét đoán sâu xa mà gần như lâm vào tử địa là v́ thích chê bai, bàn tán kẻ khác”. Ông Tŕnh Y Xuyên nói: “Bậc quân tử đối xử với người khác, hăy nên từ chỗ lỗi lầm của họ mà t́m ra chỗ không lầm lỗi, chớ nên từ chỗ không lầm lỗi mà bươi móc lầm lỗi, nhưng xét lỗi ḿnh th́ phải nên làm ngược lại”. Ôi! Người trong thế gian khẩu nghiệp vô cùng. V́ thế, đức Thái Thượng đôi ba lượt nghiêm ngặt răn nhắc.

          Đời Minh, Thị Lang Vương Vỹ do Thiếu Bảo Vu Khiêm tiến cử mà được thăng chức. Hắn ḍ t́m lỗi lầm của ông Vu để ngầm tấu tŕnh hủy báng ḥng được tiếng là người thẳng thắn. Khi ấy, Cảnh Đế[26] tín nhiệm ông Vu, triệu ông vào cung, trao cho ông bản sớ tấu của Vương Vỹ. Ông dập đầu nhận tội. Vua bảo: “Ta tự biết khanh, khanh chớ nên lo buồn”. Ông lui ra, Vương Vỹ đón đường, thưa hỏi: “Hoàng thượng truyền bảo chuyện ǵ thế?” Ông chẳng nói. Hắn lại hỏi nữa, ông bèn cười bảo: “Lăo phu có chuyện ǵ không đúng, hăy nên nói thẳng ngay mặt, chẳng cần phải hùa theo, sao mà tàn nhẫn đến thế?” Ông bèn lấy tờ sớ tấu [của Vương Vỹ] đưa cho hắn coi. Vương Vỹ hoảng sợ, khúm núm, không biết làm sao. Ông cười an ủi hắn.

          Đời Nguyên, Dương Thiết Nhai danh vọng cao trọng cả nước. Ở Lâm Giang, có đền thờ người đàn bà tiết hạnh họ Vương; ông Dương đề thơ rằng:

          Giáp mă đà đà bách lư tŕnh,

          Thanh Phong hậu dạ huyết thư thành,

          Chỉ ưng Lưu Nguyễn đào hoa thủy,

          Bất tự Ba Lăng Hán Thủy thanh.

          (Trăm dặm cặp kè lưng ngựa chiến,

          Thanh Phong đêm thẳm huyết thư đề,

          Chỉ nên tận hưởng Thiên Thai thú,

          Nhạc Dương sông Hán chẳng trong bằng)[27].

          Về sau, ông Dương không có con. Ông mộng thấy một phụ nữ bảo: “Ông làm thơ vịnh tiết phụ họ Vương, tuy chẳng thể tổn hại thanh danh của tiết phụ, nhưng do ôm tấm ḷng khắc bạc, trời đă khiến cho ông tuyệt tự”.

          Ông Dương hối hận, lại làm thơ rằng:

          Thiên tùy địa lăo, thiếp tùy binh,

          Thiên địa vô t́nh, thiếp hữu t́nh,

          Chỉ huyết khiết khai hà kiệu xích,

          Đài ngân hóa tác tuyết giang thanh.

          Nguyện tùy tương sắt thanh trung tử,

          Bất trục hồ già phách lư sanh.

          Tam nguyệt tử quy đề đoạn huyết,

          Thu phong vô lệ tả ai minh.

          (Tạm dịch:

          Trời già theo đất, thiếp theo quân,

          Trời đất vô t́nh, thiếp hữu t́nh,

          Máu cắn ngón tay như ráng đỏ,

          Sông trinh xanh ngắt vết rêu in.

          Nguyện chết theo chồng cho trọn nghĩa,

          Chẳng ham sống nhục với quân Hồ,

          Tháng Ba chim cuốc gào tan huyết,

          Gió thu khôn tả nỗi buồn thương).

          Lại mộng thấy người đàn bà nói: “Ông đă hối lỗi, sẽ có con”. Quả nhiên, ông sanh một trai. Do vậy, tiên sinh Thiết Nhai tấn tu, chứng đắc quả tiên.

          Thông minh chánh trực th́ gọi là Thần, bậc quân tử hăy nên kính sợ. Thế mà có phường tiểu nhân chẳng biết kiêng nể, tự xưng là “chánh trực, chẳng tà vạy, có thể khuất phục quỷ thần”. Chẳng biết tâm thuật vừa mới dấy mảy niệm, quỷ thần đă thấy rành rành, chỉ tự chuốc lấy tội lệ đó thôi!

          Đời Hậu Ngụy[28], Thôi Hạo phụng sự Ngụy Thái Tổ (Thác Bạt Khuê) được sủng ái, đăi ngộ đặc biệt trọng hậu, lần lượt làm quan tới chức Tư Đồ. Do chuyện tu chỉnh quốc sử đă phô bày những điều ác của đất nước (tức là phô bày những lỗi ác của hoàng tộc đương triều) mà hắn bị giết chết. Trước đó, Thôi Hạo bài xích, hủy báng Phật pháp. Vợ hắn là Quách Thị kính yêu nội điển (kinh Phật), Thôi Hạo tức giận, giật lấy đem đốt hết, vứt tro kinh vào nhà xí! Tới khi Thôi Hạo bị giam kín, nhốt vào trong lồng giam, [bọn giám ngục] sai quân lính đái tung tóe lên thân hắn. Từ xưa, những kẻ đă từng đứng đầu các quan [khi thất thế], không có ai bị [giam cầm], lăng nhục rồi mới giết chết như Thôi Hạo!

                Tại Trấn Giang, có một người chủ tiệm bánh họ Vu, đứa con thơ của hắn bị chết v́ bệnh đậu mùa. Họ Vu bèn viết đơn thưa, toan dâng lên Thành Hoàng tố cáo thần đậu mùa. Vợ hắn đoạt lấy, đem đốt dưới bếp ḷ. Đến đêm, hắn mộng thấy quỷ tốt bắt đi. Thành Hoàng nói: “Táo Quân trong nhà ngươi đă tâu tŕnh chuyện ngươi có đơn tố cáo thần đậu mùa, ông ta mắc tội ǵ vậy?” Họ Vu thưa: “Thần đậu mùa đ̣i được cúng tế mà chẳng toại ư, bèn khiến cho con tôi bị chết”. Chốc lát, thần đậu mùa đến, thưa: “Mạng con hắn đă hết, liên quan ǵ đến tiểu thần?” Thành Hoàng phán: “Nghĩ t́nh tiểu dân vô tri, giao cho Dương tri huyện trách phạt hai mươi gậy, bệnh một tháng”. Khi ấy, Dương Thục Đ́nh làm huyện lệnh huyện Đơn Đồ. Ngày hôm sau, hắn ở ngoài tiệm, chống cửa lên, [vô t́nh] gây trở ngại, phá nát cái tán che [kiệu của] quan, bị quan trách phạt hai mươi gậy, nằm mọp trên giường bệnh một tháng mới lành! Quỷ thần và phép vua giúp nhau thành tựu. V́ thế, đắc tội với quỷ thần, sẽ thường là đích thân trái phạm phép vua!

 

          (Chánh kinh) Khí thuận hiệu nghịch, bối thân hướng sơ.

          (正文)棄順效逆。背親向疏。

          (Chánh kinh: Bỏ thuận theo nghịch. Phản bội người thân thuộc, chạy theo người ngoài).

         

          Thạch Thước là người nước Vệ đời Châu đă nói: - Vua có nghĩa, bầy tôi trung thành, cha nhân từ, con hiếu thảo, anh yêu thương, em kính mến; đó là sáu điều thuận thảo. Kẻ hèn hạ xâm phạm người tôn quư, kẻ trẻ tuổi hiếp đáp người lớn tuổi, kẻ ở xa ly gián người thân cận, kẻ mới ly gián người cũ, kẻ nhỏ lấn lướt người lớn, dùng sự dâm uế phá hoại nghĩa lư, đó là sáu điều trái nghịch. Do bỏ điều thuận thảo, noi theo điều trái nghịch; cho nên, họa sẽ nhanh chóng đưa tới. Kinh Thư chép: “Huệ địch cát, tùng nghịch hung” (Thuận theo đạo trời sẽ dẫn đến sự tốt lành, trái nghịch đạo trời sẽ là hung hiểm). Lại chép: “Thuận thiên giả xương, nghịch thiên giả vong” (Thuận theo đạo trời sẽ hưng thịnh, trái nghịch đạo trời sẽ bị diệt vong). Thuận theo, ắt sẽ là trung, là hiếu, làm thánh, làm hiền. Trái nghịch th́ sẽ là điên cuồng, tàn bạo, tâm t́nh thay đổi xoành xoạch, là kẻ giặc. Có nghĩa là trong ṿng một niệm, họa và phước được phán định khác biệt một trời một vực, há chẳng nên thận trọng ư?

          Triệu Phong Tử là người ở huyện Văn An, Bá Châu có sức mạnh, dũng cảm. Hắn cùng với Lưu Lục và Lưu Thất chia nhau làm cướp. Hắn cướp phá Hà Nam, tiến vào Bí Dương, đào tung hết các mộ phần tổ tiên của Tiêu Phương, nói: “Ta phải tận tay giết thằng giặc này để tạ tội với thiên hạ”. Hắn bị quan quân đánh bại, phải chuyển sang cướp bóc tại Lục An. Quan quân lại truy kích, Phong Tử đoạt được độ điệp của một vị Tăng, bèn cạo tóc giả vờ làm Tăng. Hắn bị bộ tướng Triệu Thành bắt được, chém vụn thành từng miếng! Lưu Lục và Lưu Thất chạy tới Lang Sơn ở Thông Châu, bỗng băo lốc nổi lên dữ dội, bọn giặc bị giết sạch. Phàm trái nghịch có hai loại: Một là bầy tôi hoặc con cái trái nghịch vua, cha. Hai là đạo tặc quấy nhiễu, làm hại xóm làng. Đối với chuyện kẻ bầy tôi hoặc phận làm con mà trái nghịch, th́ trong phần nói về “bất trung, bất hiếu” thuộc phần trước đă răn bảo tường tận. V́ thế, ở đây chuyên nói về những kẻ dấy loạn, làm giặc, ḥng mọi người sẽ an phận, noi theo lư mà giữ vẹn thân mạng vậy!

          Phản bội thân thuộc, chạy theo người ngoài, không chỉ là một mối. Như dối lừa, chống trái cha mẹ, hoặc ỷ thế nhà vợ mà đối đăi thân thuộc của cha mẹ không theo lẽ chánh đáng, đối đăi nồng hậu với thân thuộc bên vợ, nhưng so đo từng ly từng tư với anh em. Đặc biệt đối xử khảng khái với bạn bè, người ngoài, chẳng đoái hoài họ hàng của chính ḿnh đói lạnh, bần hàn, mạo nhận [bạn bè, người ngoài] mới là thân tộc của chính ḿnh. Phàm những kẻ bạc bẽo đối với những người đáng nên đối xử trọng hậu, hậu đăi những người đáng nên đối xử sơ sài, đều thuộc [trong phạm vi của lời răn này]. Khổng Tử bảo: “Bất ái kỳ thân nhi ái tha nhân giả, vị chi bột đức. Bất kính kỳ thân, nhi kính tha nhân giả, vị chi bột lễ” (Chẳng yêu thương cha mẹ mà yêu thương người khác th́ gọi là trái nghịch đức. Chẳng kính trọng cha mẹ mà kính trọng người khác th́ gọi là trái lễ). Nay những kẻ bội nghịch người thân, thuận theo những kẻ có mối quan hệ chẳng thân thiết, nếu chẳng v́ ân oán mà xử sự theo t́nh cảm riêng tư th́ là do thuận theo t́nh cảm thường t́nh nồng ấm hay lạnh nhạt, trái đức, nghịch lễ quá đỗi! Đấy là trọng tội căn bản, sẽ bị báo ứng rất nặng!

          Châu Thông do nhiều lần thi Cử Nhân chẳng đậu, bèn sang Tiếu Quận nhận viên Đô Lại[29] là Châu Cát làm cha, hằng ngày tự xếp ḿnh vào hàng ngũ các đứa con ruột của ông ta. Hết thảy những kiêng kỵ về tên húy của ba đời [tổ tiên] đều dùng theo nhà họ Châu. Năm sau, nhờ đó mà hắn thi đỗ Cử Nhân, chẳng trở về nhà. Cha hắn viết bài thơ trách móc, Châu Thông hổ thẹn mà chết.

          Đời Minh, Bạch Hy không có con, chẳng nuôi cháu làm kẻ thừa kế, mà nuôi một đứa con của một gă đồ tể. Về sau, Bạch Hy chết, có người khách ban đêm ngủ lại nhà ấy. Trong đêm, nghe có tiếng chân bước vội, người ấy bèn ngồi dậy, từ khe cửa nh́n ra, thấy mấy người đàn ông, đàn bà, lẩn quẩn mong ngóng, dường như có vẻ đói khát. Lại thấy một người, eo cài con dao mổ, khật khưỡng tiến vào. Chốc sau, vỗ bụng đi ra. Mấy người đàn ông, đàn bà chùn chân nói: “Khổ quá! Thôi rồi, lại chẳng được ăn”, thảm năo lui ra. Đến sáng, người khách hỏi đầy tớ, đầy tớ đáp: “Đêm qua chủ nhà cúng bái tổ tiên”. Do vậy, người khách vỡ lẽ: “Kẻ cầm con dao mổ chính là cha ruột [của chủ nhà]. Mấy người đàn ông, đàn bà chính là tổ tiên nhà họ Bạch và vợ chồng Bạch Hy”. Người khách ấy than thở, ra đi.

 

          (Chánh văn) Chỉ thiên địa dĩ chứng bỉ hoài. Dẫn thần minh nhi giám ổi sự. Thí dữ hậu hối, giả tá bất hoàn.

          (正文)指天地以證鄙懷。引神明而鑒猥事。施與後悔。假借不還。

          (Chánh văn: Chỉ trời đất thề thốt làm chứng cho ḷng dạ xấu xa. Viện dẫn thần minh ḥng chứng giám chuyện tồi tệ. Cho rồi lại hối, vay mượn không trả).

         

          Trời đất vô tư, thần minh chánh trực, thuận theo sẽ tốt lành, trái nghịch sẽ hung hiểm. Báo ứng như tiếng vang, đă chú tâm kinh sợ, vẫn c̣n phải dè chừng phạm tội, huống hồ dám chỉ trỏ [trời đất], viện dẫn [thần minh] ḥng chứng giám những chuyện bại hoại, bỉ ổi, cũng chẳng phải là khinh nhờn lắm ư? Há lẽ nào trời đất, thần minh chịu giúp con người làm ác ư? [Những kẻ hở ra là chỉ trời, vạch đất thề thốt, viện dẫn thần minh làm chứng] chỉ là tự nhanh chóng chuốc họa vậy!

          Nhà của Trương Trung tụ tập toàn hạng người bất măn, hung tợn. Cha, con, anh, em, mẹ chồng và con dâu, chị em dâu hở ra là xô xát, tranh chấp. Họ thường hô trời, gọi đất, chỉ trỏ thần minh ḥng muốn biểu lộ bản thân trong sạch. Đến khi mỗi gia đ́nh tách ra riêng, sự tranh chấp càng quá đáng, ai nấy cầu cúng thần, nguyền rủa lẫn nhau. Từ đó, yêu quỷ lộng hành ngày càng nhiều, bệnh tật nhiều lần phát sanh. Trong ṿng mấy năm, cả nhà gần như chết sạch!

          Đời Minh, Liên Tŕ đại sư nói: “Thế tục hứa nguyện, như các chuyện cầu có con, cầu thọ, cầu giải nguy, cầu công danh, cầu tài lộc v.v… chớ nên hứa nguyện mổ giết những con vật [để đáp tạ]. Đó gọi là ác nguyện, tạo oan nghiệt, chẳng có công hiệu ǵ! Cho đến hứa may áo bào [cho thần tượng], hứa may phan, hứa tạo điện phủ, hứa dâng cúng đồ thờ [đều chớ nên]. Chỉ nên cốt sao giữ tấm ḷng trang nghiêm Phật pháp, nguyện cho khắp chúng sanh thâu nhiếp cái tâm kính sợ, chớ nên có ḷng cầu phước. Ấy là v́ đại bi b́nh đẳng th́ gọi là Phật, chánh trực chẳng thiên vị là thần. Nếu ai chỉ có ḷng riêng tư cầu phước, há có lẽ nào trời đất quỷ thần v́ được hối lộ mà giáng điều cát tường hay chăng? Dựa theo lư để luận định, chỉ cốt yếu là chính ḿnh trọn hết tấm ḷng, rộng hành các điều thiện, trung, hiếu, ḥa, thuận, thương người nghèo, mến người già, giúp người gặp tai nạn, giúp đỡ kẻ khổ, kiêng giết, phóng sanh, làm các thứ âm chất, mọi điều phương tiện tùy theo khả năng, tận hết sức nỗ lực thực hiện, do công năng của điều thiện cảm vời, tự nhiên phước sẽ giáng xuống. Nếu chẳng làm lành, chỉ sanh ḷng cầu nguyện, mong mỏi, đó chính là hoài băo hèn tệ, là chuyện bỉ ổi, khinh nhờn thần minh. Bảo khắp người đời, hăy nên dốc ḷng tin tưởng lời y.

          Chuyện thí xả là chuyện lập công nhanh chóng nhất, ắt phải ưa thích làm lành chẳng mỏi mệt th́ mới có tiến bộ. Dẫu tài lực chẳng đủ [không thể tiếp tục thực hiện], vẫn cần phải nên thường giữ tấm ḷng ấy. Huống hồ có nên nẩy sanh ḷng keo kiệt, chôn vùi ư niệm ban đầu ư? Chưa cho đă hối hận, ắt chẳng có kết quả do thí xả. Đă cho rồi hối hận, tức là chẳng c̣n thí nữa, tàn hại ḷng nhân nghĩa, là cội gốc của tâm bệnh. V́ thế, đức Thái Thượng chẳng nhắc đến sự tốt lành của thí xả, chỉ nói về lẽ ác của việc “đă cho rồi hối hận”. Bởi lẽ, chuyện được thánh nhân khen ngợi nhất chính là “hướng thiện, sửa lỗi”, điều bị các Ngài ghét nhất không ǵ bằng “chẳng làm lành đến cùng”.

          Kẻ đă thí xả rồi sau đó hối hận, xét đến thuở đầu, [sẽ thấy] rốt cuộc là chẳng do chân tâm thích làm lành; bất quá là nhất thời cao hứng cầu danh, mong được phước đó thôi. Chỗ khởi nguồn đă trật, sao không hối hận về sau cho được? Nếu là chân tâm thí xả, ta và người đều không, chắc chắn sẽ chẳng đến nỗi này. Do vậy, người làm lành chẳng thể không dốc sức biện định nơi một niệm vừa mới chớm nẩy.

          Phù Nhă thích bố thí cho người khác, kẻ ăn mày bâu đầy trước cửa. Ông thường nói: “Tài vật trong thiên hạ vô định. Hôm nay giàu, mai sau nghèo, giống như chiếc ṿng xoay măi. Nếu một ngày chẳng thí, ắt ḷng chẳng vui sướng”. Người thuở ấy nói: “Chẳng thèm giàu như Quyền Hưng, thà nghèo như Phù Nhă”. Về sau, ông làm quan tới chức Thượng Thư Lệnh, con cháu càng giàu có hơn.

          Lưu Khoan thích thí cho người nghèo túng, khốn khó, vất vả, chẳng mỏi mệt. Về sau, ông được Thái Thượng Lăo Quân thâu nhận, giữ chức vụ Đồng Sơ Phủ Soái Thượng Hầu, chưởng quản những người mới đắc đạo.

          Vĩnh Thanh Sử chánh trực. Khi dựng nhà, đào đất, t́m được mấy vạn lượng bạc. Ông thở dài, nói: “Tiền tài là tánh mạng của con người. Đă do trời ban cho, há nên hưởng riêng?” Phàm những chuyện có thể giúp đỡ, châu cấp kẻ nghèo khổ, túng thiếu, hay đang gặp nguy cấp, không ǵ ông chẳng làm. Về sau, gặp năm mất mùa, ông bỏ ra tám vạn thạch gạo để cứu tế dân đói. Chẳng lâu sau, đạo tặc nổi dậy như ong, ông lại bỏ ra tài sản để bảo vệ xóm làng. Quan viên tâu lên, ông được [triều đ́nh] ban quan chức, và lập bia biểu dương. Ông thọ chín mươi bốn tuổi, con cháu đông đảo.

          Trương Hiến Khả ở Vũ Tấn, tánh nhân từ, thích bố thí. Ông đă từng thí ba ngàn cỗ quan tài xong xuôi, lại tiếp tục thí. Ông mướn những người ăn xin chôn cất những xác chết [vô thừa nhận] trên đường, cứ mỗi xác sẽ trả công chừng đó tiền. Kẻ ăn xin mỗi khi thấy có tử thi trên đường đều vui mừng, cho đó là nguồn tiền. Từ ấy, trong huyện chẳng có thi hài bị phơi sương dăi nắng. Ông lại nấu thuốc cao để thí cho người bệnh hoạn. Lúc lạnh th́ nấu cháo thí cho người đói ăn. Ông nói: “Đă chôn người chết, há chẳng nên cứu người sống ư?” Hai con trai ông thi đỗ, được phong chức tước. Mất mùa là thiên tai, kẻ cùng khốn là do số mạng. Cứu người gặp tai ương chính là tấm ḷng của trời đất; tạo nên số mạng là sở học của thánh hiền. Mấy vị ấy dùng ḷng thành để thí xả, cho nên được phước thọ, phú quư, con cái nối ḍng. Lại c̣n được siêu sanh về chốn lành, lư là như vậy đó.

          Hề Bách Tam vốn là một người nghèo, ngẫu nhiên gặp một đạo nhân đến xin tại một tiệm buôn. Chủ tiệm buôn không cho. Bách Tam sờ lưng chỉ c̣n một đồng, bèn cho [vị đạo nhân ấy]. Đêm hôm đó, ông mộng thấy đạo nhân trừ bỏ bướu thịt cho ḿnh. Đến khi tỉnh giấc, cái bướu thịt dưới cằm quả nhiên rụng mất. Thí một đồng mà rốt cuộc được ĺa đau khổ. Có thể thấy là bố thí chẳng quan trọng là ít hay nhiều, mà là do tấm ḷng. Người đời hăy nên tự ḿnh nhất tâm tận lực thực hiện, khuyên người khác cùng làm, c̣n e là chậm chạp, huống hồ có nên hối hận ư?

          Vay mượn là để chuyển từ người sẵn có cho đến người chẳng có, ḥng giúp đỡ trong cơn túng ngặt, vốn là chuyện tốt đẹp. [Người vay mượn] chịu ân đức [của người cho mượn] chẳng nhỏ, há nên cậy mạnh, ngoan cố, viện vào mánh khóe giảo hoạt để thoái thác, trốn nợ ư? Nào có biết chưa trả xong nợ cũ, chết rồi sẽ phải đền bồi. Nhẹ th́ làm nô tỳ cho họ (chủ nợ), nặng th́ sẽ làm lừa, ngựa, trâu, chó để đền bù, cũng đáng sợ thay!

          Phàm mượn vật dụng của người ta, phải nên chú ư quư tiếc, giữ ǵn. Mượn vật dụng của người khác, nếu chẳng phải là bất đắc dĩ, đừng nên mượn. Mượn rồi dùng xong, hăy ngay lập tức trả lại. Như thế th́ không chỉ là người ta chẳng chán ghét, mà chính ḿnh cũng chẳng hổ thẹn. C̣n như vay nợ tiền bạc, càng phải nên trả lại người ta ṣng phẳng. Đời nay, đa số thường là vay mượn không chịu trả, chẳng nghĩ tiền tài ấy chẳng phải là tiền tài của ta, dẫu có giữ rịt th́ rốt cuộc nó cũng mất đi. Tiền tài đă chẳng c̣n, chỉ c̣n nợ đọng lại, có lợi ích ǵ chăng? Xin hăy suy nghĩ!

          Mùa Thu năm Mậu Ngọ (1678) đời Khang Hy nhà Thanh, một cư dân ở Yên Kinh (Bắc Kinh) là Trương Nguyên nuôi một con lừa, mỗi ngày đi được hai trăm dặm. Nó thích cắn, đá người khác, chỉ có ba người cha con họ Trương cưỡi lên, ắt nó vâng chịu, chứ người khác chẳng thể cưỡi được. Ngẫu nhiên, một người họ Dương bèn thử mượn, rất dễ dàng cưỡi nó, bèn cưỡi đi. Đă trả lại, ban đêm, họ Dương mộng thấy một người áo đen nói: “Tôi là con lừa của họ Trương. Đời trước, tôi đă mượn ông ba trăm đồng không trả, nay sẽ bồi thường. Ngày hôm qua, ông cưỡi tôi đi hai trăm tám mươi dặm, xin hăy cưỡi tôi thêm hai mươi dặm nữa cho xong nợ của tôi”. Ông Dương hỏi: “Ngươi thiếu họ Trương bao nhiêu tiền?” [Người ấy] chau mày nói: “Nhiều lắm! Chẳng thể nói”. Ông Dương tỉnh giấc, quả nhiên lại mượn lừa cưỡi đi. Đi khá xa, lừa bỗng lồng lên, quăng ông Dương xuống đất. Tính đường đi, quả nhiên là hai mươi dặm, họ Dương càng lấy làm lạ hơn, khuyên nhủ: “Ta biết nguyên do [ngươi quăng ta xuống đất rồi], nhưng nay c̣n cách nhà ta mười dặm nữa. Không cưỡi ngươi, làm sao có thể về cho được? Ta trở về, sẽ dùng mười đồng mua cỏ cho ngươi ăn được không?” Con lừa đứng đó, nh́n ông ta một lúc lâu, [sau đó] lại ngoan ngoăn lên đường. Sau đấy, ông Dương cố ư muốn thử, vừa mới tới gần, lừa liền đá, cắn, hí dài!

          Ông Châu Tại Am nói: - Có kẻ do nghèo mà quỵt nợ, có kẻ giàu mà quỵt nợ. Do nghèo mà quỵt nợ là v́ không đủ sức. Nếu dựa theo Trung Giới Kinh, hăy nên tha thiết nghĩ đền trả, tự nhiên sẽ không phạm lỗi. C̣n như có [đủ sức trả] mà không trả, nếu chẳng phải là phường cậy oai, ỷ thế, chắc chắn là hạng mê muội thiên lư, chôn vùi lương tâm, nào có biết đời đời kiếp kiếp phải đền trả cho hết nợ mới xong!        

          Lái buôn họ Ngô ở An Huy giữ tín nghĩa; lúc lâm chung, dặn hai đứa con: “Một ngàn lượng vàng ta sở hữu trong hiện tại đều là do vay mượn từ họ Phù. Con phải thanh toán từng khoản một, thà chịu đói rét, chớ làm kẻ phụ bạc tấm ḷng [người khác đă tử tế cho vay]”. Con ông ta đều vâng lời cha dạy, [trả sạch nợ xong], nghèo khổ, không thể trông cậy vào đâu được. Bỗng từ một cái giếng cạn, họ t́m được hai ngàn lạng bạc, [trên mỗi nén bạc] có khắc niên hiệu đời Đường. Họ đóng cửa, giấu kín, chẳng có ai biết. Hôm sau, bỗng có người từ huyện bên cạnh tới nói: “Các ông có phải là con của ông Ngô hay không?” “Thưa phải!” Người ấy nói: “Các ông phát tài rồi! Hôm trước, tôi do bị bệnh, đến phủ Đông Nhạc, thấy có vị thần giải tiền từ ty Tài Bạch tới, tự xưng là thần giếng và suối. Vị chủ quản bảo: “Đây là số bạc từ trong nội khố (kho tiền trong cung) của nhà Đường. Thượng Đế do thấy ông Ngô phân minh đối với chuyện tiền bạc, con ông ta khắc khổ tuân theo chí cha, bèn ban cho họ khoản tiền này, khiến cho họ suốt đời được hưởng sự đại phú. Tôi tỉnh lại, lấy làm lạ; v́ thế, đến thưa hỏi”. Anh em họ Ngô kinh ngạc, kể thật mọi chuyện. Hiện thời, trong họ Ngô, những người giàu to rất nhiều, toàn là con cháu của ông Ngô vậy.

 

          (Chánh văn) Phận ngoại doanh cầu. Lực thượng thi thiết.

          (正文)分外營求。力上施設。

          (Chánh văn: Cầu mong quá phận. Dốc hết sức bày vẽ, tạo tác).

 

          Con người do chẳng nương theo bổn phận, chỉ cho rằng “do toan tính mong cầu, sẽ được lợi ích”, cũng ngỡ là “phú quư hay bần tiện trong đời người là nhất định, chẳng thay đổi”. [Tài vận do đă được] ghi chép trong cơi âm, [cho nên] cơi dương [có thể] hưởng dụng, đều là do túc nghiệp, há có thể toan tính mong cầu quá phận ư? Vọng tâm tham niệm, mong mỏi sẽ do may mắn mà đạt được, không chỉ là vô ích, lại c̣n sợ rằng do t́nh chấp hư vọng mà bị giảm phước! Sao chẳng lănh hội câu nói của Mạnh Tử: “Cầu chi hữu đạo, đắc chi hữu mạng” (Có phương cách để cầu, nhưng đạt được [hay không] là do vận mạng), hoặc ư chỉ “nhất thiết phước điền bất ly phương thốn” (hết thảy phước điền chẳng rời khỏi cái tâm) của Lục Tổ vậy?

          Đời Đường, vào đầu niên hiệu Trường Khánh[30], huyện úy Tân B́nh là Bùi Phác chết. Người anh họ bên ngoại là Hoa Nguyên ở trọ tại Lũng Hữu, trên đường gặp một vị quan vơ, các kỵ sĩ theo hầu rất đông. [Vị quan ấy] chính là Bùi Phác. Hoa Nguyên kinh ngạc, mừng rỡ, hỏi: “Huynh ĺa cơi đời, làm chức quan vơ ǵ thế?” Bùi Phác nói: “Tôi giữ chức Tây Xuyên Soát Lược Sứ, chuyên trông coi sự tăng giảm của tiền tài trong thế gian. Một hớp uống, một miếng ăn của người đời, không ǵ chẳng đă định sẵn, huống hồ tài vật ư? Âm ty ghi chép, hạn định [tiền tài của mỗi cá nhân] có mức hạn. Nếu vượt quá [hạn mức ấy], sẽ tước đoạt bớt (刷掠, soát lược) [khiến cho kẻ ấy] hoặc là tự hao phí, gặp chuyện ngang trái, hoặc buôn bán lỗ vốn, hoặc do bệnh tật [mà tiền của] tiêu tán, đều là do tôi trông coi về sự tước đoạt vậy. Trong thế gian, nhà nông siêng năng cầu thóc gạo, lái buôn siêng năng bèn phát tài, kẻ sĩ do siêng năng mà có lộc, chỉ đạt được những ǵ vốn có trong phận ḿnh, không thể tăng thêm những thứ ǵ chẳng có trong phận ḿnh. Không siêng năng th́ ngay cả những thứ vốn nên có trong vận mạng cũng bị mất đi. Ông gặp tôi cũng là tiền định. Ông đáng có hai cân bạch kim. Cho ông quá con số ấy, sẽ lại bị đoạt mất. V́ thế, chẳng dám hậu đăi ông”. Nói xong, biến mất.

          Lưu Hàng khá giỏi văn chương, tự cho rằng sẽ có thể sớm chiếm địa vị cao trên bảng vàng. Khi ấy, Dực Thánh Chân Quân[31] giáng bút tại núi Chung Nam. Do vậy, Lưu Hàng đến thưa hỏi, Chân Quân bảo: “Văn chương của ông tuy hạng khá, nhưng mạng lại cạn cợt, mỏng manh. Nếu an phận, náu ḿnh, sẽ có thể b́nh an trong những năm c̣n lại. Quá mức mong cầu, ắt sẽ dẫn đến tổn thọ”. Lưu Hàng chẳng thể nghe theo, rốt cuộc chẳng thành đạt ǵ mà chết! Phàm là chuyện đỗ đạt, rạng mày nở mặt tổ tông, phước ấm cho con cháu, há có thể dùng trí xảo để toan tính mưu cầu mà đạt được ư? Hăy nỗ lực vun bồi âm chất, sẽ có thể đặt để [công danh] trong chỗ chẳng thấy, chẳng nghe (cơi âm), há có nên mong cầu quá phận ư? Đối với tiền tài cũng thế.

          Trương Thuyết cáo lăo hồi hương, đóng cửa chẳng ra ngoài. Từ đấy, chuyện công hay tư bên ngoài, ông đều chẳng can dự bất cứ chuyện nào. Ông càng đề cao tiết kiệm, nêu gương [tiết kiệm] cho con cháu. Ông từng có lời dạy được viết rơ trên tấm b́nh phong như sau: “Khách đến thăm, giữ lại mời dùng cơm, hăy tiết kiệm, đơn giản sao cho hợp với t́nh người. Món ăn tùy theo những ǵ có sẵn trong nhà mà khoản đăi, trái cây tùy theo mùa mà dọn ra. Dẫu là hàng thân thích mới đến, chẳng bày cỗ bàn thịnh soạn; dẫu khách quư cũng chẳng làm thịt các con vật. Không chỉ nhằm răn ngừa thói xa xỉ đă lâu, mà c̣n nhằm tránh khỏi phiền năo ḥng sống an vui”.

          Trương Củng Thần nói: - An vui giữ phận nghèo, tiêu xài tiết kiệm ḥng khỏi phải cầu cạnh người khác. Bớt việc cho ḷng thanh thản. Mong cầu quá lố chỉ là chuốc khổ. Phước được hưởng trong đời người trời đă an bài. Dư dả, nghèo túng, cùng quẫn, hanh thông, đều được định sẵn trong mạng. Dẫu dùng trí xảo có thể đạt được th́ cũng là do thời vận đưa đến. Hiểu thấu suốt điều then chốt này, sẽ có thể đạt được bao nhiêu tự tại. Đợi cho đủ th́ ai có thể đủ? Để ngưng dứt [mong cầu quá lố], hăy buông xuống.

          “Dốc hết sức bày vẽ, tạo tác” có nghĩa là đối với những ǵ sức ḿnh có thể làm được, bèn tận hết sức ra oai, bày cách [nhằm đạt mục đích], chẳng c̣n chừa lại chút nào, cứ ắt sao cho chẳng đạt đến tận cùng sẽ chẳng thôi. Đó chính là như câu nói “buồm mở hết cỡ căng gió, lại thêm tám mái chèo”.

          Đời Lưu Tống, Hề Hiển Độ làm quan tới chức Viên Ngoại Tán Kỵ Thị Lang. Tống Hiếu Vũ Đế từng sai hắn đôn đốc những người làm tạp dịch cho chánh quyền, hắn hà khắc bạo ngược, vô đạo. Hở ra là đánh đập, đấm đá, tháng Hạ mưa dầm, trời Đông tuyết đổ, chẳng cho họ nghỉ ngơi chút nào! Người ta chẳng chịu nổi, có kẻ phải tự sát. [Về sau], Hiển Độ cũng do mắc tội mà bị giết chết.

          Học sĩ Tiền Hạc Than ở Hoa Đ́nh kiến tạo phủ đệ trong vùng rừng rậm. Những phu phen lao dịch [phải phục vụ] rất vất vả, khổ sở, người làng cũng v́ đó mà ngă bệnh. Một công nhân chẳng thể đi làm lao dịch, ông giận dữ, quở trách. Người công nhân thưa rằng: “Xưa kia quan Đề H́nh[32] họ Hoàng kiến tạo phủ đệ, tôi v́ phải làm lao dịch mà thành bệnh. Nay nhà ông Hoàng đă dột nát, tường vây sụp đổ, mà bệnh tôi vẫn chưa lành. V́ thế, tôi không thể đến phục dịch được”. Ông Tiền nghe nói, vỡ lẽ, bèn thôi công tác ấy. Những kẻ có chức vị mà bày vẽ, chèn ép dân chúng, kẻ phú quư bày tṛ bóc lột kẻ nghèo hèn, cố nhiên đă phạm vào điều răn của đức Thái Thượng. C̣n như kẻ dùng năng lực của con người để chèn ép, bóc lột súc sanh th́ cũng là chuyện chớ nên. Như trâu, lừa trong cày cấy, hoặc ngựa, la để cưỡi, nếu chẳng phải do ta từ trước đă tu [phước báo] mà có, ắt những con vật ấy là những kẻ đă thiếu nợ ta. Hăy nên yêu thương, chăm sóc, khi sử dụng chúng, đừng vắt kiệt sức chúng, chớ nên nói: “Súc sanh thuộc loài khác [so với con người], ta muốn làm ǵ th́ làm” ư?

 

          (Chánh văn) Dâm dục quá độ.

          (正文)淫慾過度。

          (Chánh văn: Dâm dục quá độ).

         

          Các tà duyên kết hợp ở bên ngoài (quan hệ trai gái bất chánh ngoài hôn nhân), [khiến cho] đạo đức diệt tuyệt, lương tâm bị chôn vùi. V́ thế, đức Thái Thượng đă buông lời răn dạy trong phần trước. C̣n như đối với chánh sắc (正色, chuyện ăn nằm chánh đáng) giữa vợ chồng, càng cần phải có chừng mực. Nếu nói “chánh sắc chẳng phải là dâm”, há có tránh khỏi cái họa sát thân do buông lung t́nh dục? Bởi lẽ, nguyên tinh[33] trong thân người được phân bố trong Tam Tiêu[34], tươi nhuận trăm mạch. Khi lửa dục vừa dấy động, [nguyên tinh] bèn tụ hợp lại, lưu chuyển [đổ vào thận tạng], đều phát xuất từ Mạng Môn[35], do Vĩ Lư[36] chẳng bị ngăn chặn, biển xanh sẽ bị kiệt quệ[37], tột bậc đáng sợ! Phàm nhân hễ tinh đầy đủ th́ thần sanh, tinh và thần đầy đủ th́ trí khôn sanh, [dẫn đến] trí thông minh được tăng cường, củng cố, có chuyện ǵ mà chẳng làm thành công? Nếu tuổi thiếu niên trác táng, anh khí tiêu mất, sự nghiệp suốt cả một đời cũng bị mất theo!

          Người suốt đời bệnh tật luôn luôn là do bắt đầu từ thuở tân hôn. Tuổi trẻ vô tri, thường là dục t́nh chẳng có chừng mực. [Do hành dâm] nhiều mà thành chứng lao tổn, suy nhược, thậm chí chết yểu, liên lụy vợ phải chịu nỗi khổ góa bụa. Chẳng nghĩ do hôn nhân mà [vợ chồng trở thành] quyến thuộc trăm năm, suốt đời bầu bạn. Tội ǵ buông lung trong ṿng một tháng, gieo thành gốc họa suốt đời? Lúc con em sắp kết hôn, cha anh hăy nên ra rả răn nhắc chuyện này!

          Tục ngữ có câu: “Lạc cực sanh bi, túng dục thành hoạn” (Vui quá hóa buồn, phóng túng ḷng dục thành bệnh). Lại có câu: “Quả dục tất đa nam, tham dâm mỗi vô hậu” (Ít dục, ắt phần nhiều sanh con trai; tham dâm thường không có con). Khổng Tử bảo: “Huyết khí vị định, giới chi tại sắc” (Khi huyết khí c̣n chưa ổn định (đang trong tuổi phát triển của thanh thiếu niên), phải kiêng dè sắc dục). Lăo Bành nói: “Người thuộc bậc thượng th́ [vợ chồng] ngủ khác giường, bậc trung th́ đắp khác mền. Uống trăm viên thuốc, chẳng bằng ngủ một ḿnh”. Đức Phật dạy: “Nữ sắc là cội gốc của các nỗi khổ, là cội gốc của chướng ngại, là cội gốc của sát hại, là cội gốc của ưu sầu”. Kinh Hoàng Đ́nh[38] chép: “Hăy gấp ǵn giữ tinh thất, đừng tiết tinh bừa băi. Hăy bế tinh ḥng bảo đảm có thể sống lâu”. Quả thật là v́ dâm dục dẫn đến t́nh cảnh “diệt tánh, vong thân. Có kẻ ngấm ngầm hứng chịu nỗi hại này mà chẳng hay biết. Có kẻ biết rơ nỗi hại này, nhưng chẳng đoái hoài! Do vậy, thánh hiền phải khăng khăng răn nhắc. Phàm phu chẳng hay biết, cứ buông lung, chẳng kiêng kỵ, mang khí phận dâm uế, chọc giận quỷ thần. Đủ mọi nỗi bất tường do đấy mà ra. Nguyện khắp [mọi người], hăy kịp thời rất nhẫn nại [chế ngự dâm niệm], ngơ hầu đạt được phép tắc kéo dài mạng sống. Nếu không, cái thân sẽ chết chắc, chẳng thể cứu được!

          Nhậm Huệ Cung tuổi già càng thêm mạnh khỏe, cứng cáp. Có người hỏi ông về thuật dưỡng sanh, ông đáp: “Tôi đọc bộ Văn Tuyển[39] ngộ một điều: Do đá chứa ngọc mà núi rạng rỡ, do nước chứa châu mà đẹp đẽ”, chính là nói đến ư này (tiết chế dâm dục).

          Tŕnh Y Xuyên coi chuyện quên thân theo đuổi dục vọng là điều sỉ nhục sâu xa. Đến tuổi bảy mươi, gân sức của ông Tŕnh chẳng kém lúc trẻ tuổi.

          Lư Giác đă trăm tuổi, sắc diện như trẻ thơ. Người ta hỏi bí quyết, ông đáp: “Do tôi sớm tuyệt dục”.

          Lưu Nguyên Thành đă tám mươi mà cứng cáp, mạnh mẽ, tự nói [chính ḿnh] đă quả dục ba mươi năm, huyết khí lẫn tinh thần vẫn như thuở trẻ.

          Vị ḥa thượng họ Châu ở Lô Lăng đă chín mươi mấy tuổi, đi đường xa vùn vụt như bay, râu tóc chẳng bạc. Sư nói chẳng có thuật chi khác, chỉ là lúc tuổi trẻ đă có thể tiết dục.

          Trương Thúy ở Thái Thương chín mươi mấy tuổi, tai mắt thông tỏ, vẫn c̣n có thể vẽ vời. Người ta hỏi [bí quyết], ông bảo: “B́nh thời tôi chỉ mỏng nhẹ ḷng dục, có chừng mực về chuyện t́nh dục”.

          Người đă già mà cứng cáp, mạnh mẽ, chính là chuyện vui bậc nhất trong đời người, nhưng nguyên do [dẫn đến t́nh trạng già cả mà khỏe mạnh ấy] bất quá là giảm thiểu, giữ chừng mực về dâm dục đó thôi! Người ta có khó ǵ mà chẳng tuân theo pháp tắc ấy? Bành Tổ[40] nói: “Mỗi tháng xuất tinh hai lần, một năm xuất tinh hai mươi bốn lần. Đấy là phương cách giữ chừng mực, thận trọng vậy”. Tố Nữ[41] nói: “Người sống đến tuổi sáu mươi, hăy nên bế tinh, đừng xuất tinh. Đấy là phương pháp để ngăn ngừa nguy cơ. Làm như thế th́ chẳng phế nhân đạo, mà cũng chẳng hao tổn nguyên dương”. Tôi cho rằng vào thời Bành Tổ và Tố Nữ, bẩm tánh của con người khá thuần hậu, cho nên [hai vị] nói như thế. C̣n như hiện thời, thuần phong mỹ tục đă lạt lẽo quá mức, há nên chấp những lời ấy là lẽ thường! Huống chi kẻ nguyên khí yếu ớt, há chẳng càng bội phần thận trọng ư?

          Đời Minh, có người họ Từ ở Cù Châu, dung mạo đẹp đẽ, có tiếng là tài năng. Chưa đầy hai mươi tuổi, họ Từ đă đỗ Tiến Sĩ, được bổ làm Tiết Thôi[42] ở phủ Tùng Giang. Thân thích, bạn bè đều hâm mộ. Nhưng anh ta háo sắc, nuôi những cô thiếp yêu tột bậc xinh đẹp đến mười mấy nàng. Do hành dục phóng túng vô độ, anh ta đến nhậm chức hơn một tháng, [nguyên tinh] hư hao, thất thoát mà chết. Các nàng thiếp đều được gả cho người khác!

          Chàng họ Ngu ở huyện Ngân phong thái đẹp đẽ, nhưng ưa dâm dục. Một tối, chàng ta mộng thấy Thành Hoàng trách phạt, tính toán những lần chàng ta phạm tội gian dâm, đánh cho mấy chục roi. Đến khi chàng ta tỉnh giấc, hai chân đều tím bầm, sau đó rữa nát. Chàng nằm bệnh hơn một năm rồi chết.

          Muôn điều ác, dâm đứng đầu. Trăm điều thiện, hiếu đứng đầu. Đấy chính luật lệ sắt đanh nơi điện Sâm La[43], tức là quỷ thần chuộng hiếu, mà cũng ghét dâm cùng cực. Tuy có thể lọt lưới dương gian, luật lệ trong cơi âm chẳng sai chạy. Con người há có nên cố ư phạm vào điều [quỷ thần] căm ghét ư? V́ thế, từ xưa, những kẻ hoang đàng, đam mê nữ sắc, chẳng có kẻ nào không mất mạng, tan nhà! C̣n như kẻ đă có tuổi, càng chẳng nên nạp tiểu thiếp; bởi lẽ, ta đă chẳng quản họ được, họ càng hận ta đặc biệt sâu! Oán khí tích tụ, [ắt ta sẽ bị] tổn đức, tiêu phước. Hơn nữa, họ trẻ tuổi, tánh chất, t́nh cảm khó uốn nắn theo khuôn khổ, sẽ càng có [những chuyện nghiêm trọng hơn], chứ không chỉ là như thế, há chẳng nên kiêng tránh ư? Huống chi bóng mặt trời đă khuất dần sau núi, sáng tối thật sự khó thể giữ ḿnh, lại vội vàng cầu quỷ sứ đến áp giải, ngu chi hơn nữa?

 

Ghi thêm: Tu thân lập mạng giới kỳ (những ngày nên kiêng hành dâm để tu thân lập mạng) của tiên sinh Tần Chuyết Am

 

          1) Tháng Giêng:

          Mùng Một tháng Giêng được gọi là Thiên Lạp, Ngũ Đế[44] so lường thần khí và lộc mạng của nhân dân. Kẻ phạm sắc dục [trong ngày này] sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Mồng Ba: Vạn thần nhóm họp, lại là ngày Bắc Đẩu Thất Tinh giáng hạ. Kẻ phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mồng Năm là ngày Ngũ Hư[45]. Mồng sáu: Lục Hao[46]. Mồng Bảy: Thượng hội. Mồng Chín: Thiên đản[47]. Mười Bốn: Tam Nguyên[48] giáng hạ. Mười Lăm: Tam Nguyên giáng hạ [nhân gian], đồng thời là ngày khánh đản của Thượng Nguyên Thiên Quan. Kẻ phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu Thất Tinh giáng hạ. Hai Mươi Tám: Các vị nhân thần tụ hội tại cơi âm; kẻ phạm dâm sẽ bị bệnh ngặt. Mỗi tháng đều như thế. Ngày Ba Mươi: Tư Mạng Táo Quân tấu tŕnh thiên đ́nh. Kẻ phạm dâm bị giảm thọ một năm. Mỗi tháng đều như thế. Nếu như gặp tháng thiếu th́ là ngày Hai Mươi Chín.

 

          2) Tháng Hai:

          Mùng Một: Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm, mỗi tháng đều như thế. Lại c̣n là ngày vía của Lưu Chân Quân[49]. Mồng Ba: Vía Văn Xương Đế Quân. Phạm dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Ngày ấy c̣n là ngày vạn thần nhóm hội, và Bắc Đẩu giáng hạ. Ngày Rằm: Vía Thái Thượng Lăo Quân. Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mười Tám: Ngày mất của Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử. Phạm dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Mười Chín: Khánh đản của Quán Âm Đại Sĩ. Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Ngày Hai Mươi Mốt: Khánh đản Phổ Hiền Bồ Tát. Ngày Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám và Ba Mươi: Giống như trong phần trên.

 

          3) Tháng Ba:

          Mùng Một: Giống như phần trên. Mồng Ba: Vía Nguyên Đế[50], phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm; lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Chín: Ngưu quỷ thần xuất hiện, phạm dâm sẽ sanh ra ác thai[51]. Ngày Rằm: Khánh đản của Hạo Thiên Thượng Đế[52]. Lại là ngày vía của Nguyên Đàn[53], phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mười Sáu: Khánh đản Chuẩn Đề Bồ Tát, phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mười Tám: Vía Trung Nhạc Đại Đế[54]. Mười Chín: Vía Nhật Cung Thái Dương Tinh Quân. Phạm dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Vía Đông Nhạc Đại Đế[55], phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Lại là thánh đản của Thương Hiệt[56]. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          4) Tháng Tư:

          Mồng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Bốn: Khánh đản Văn Thù Bồ Tát, lại là ngày vạn thần khuyến hóa điều thiện. Kẻ phạm dâm sẽ bị câm. Mồng Tám: Khánh đản Phật Thích Ca. Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Lại là ngày Thiện Ác Đồng Tử giáng hạ, kẻ phạm dâm sẽ bị chảy máu đến chết. Mười Bốn: Vía Lữ Tổ. Ngày Rằm: Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mỗi tháng đều như thế. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          5) Tháng Năm:

          Mùng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Năm là ngày Địa Lạp[57], là ngày Ngũ Đế khảo hạch quan tước của người đời. Kẻ phạm dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Mười Một: Vía Đô Thành Hoàng (thành hoàng cai quản kinh đô). Mười Ba: Vía Quan Đế (Quan Thánh Đế Quân), phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Ngày mồng Năm, mồng Sáu, mồng Bảy, Rằm, Mười Sáu, Mười Bảy, Hai Mươi Lăm, Hai Mươi Sáu, Hai Mươi Bảy [trong tháng này] được gọi là ngày Cửu Độc. Kẻ phạm dâm [trong những ngày ấy] sẽ bị chết yểu. [Nếu hành dâm trong] giờ Tư ngày Rằm th́ trong ṿng ba năm, nam lẫn nữ đều chết. Ngày Mười Sáu lại là thời khắc để vạn vật được sanh thành trong đời nhất, kỵ [hành dâm] nhất. Ngày Hai Mươi Bảy lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          6) Tháng Sáu:

          Mồng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Rằm: Giống như trên. Mười Chín: Quán Âm đắc đạo. Hai Mươi Ba: Vía Hỏa Thần. Hai Mươi Bốn; Vía Lôi Tổ[58]. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          7) Tháng Bảy:

          Mồng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Bảy: Đạo Đức Lạp, lại là ngày Trung Hội. Mười Ba: Khánh đản Đại Thế Chí Bồ Tát. Rằm: Vía Trung Nguyên Địa Quan, phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mười Chín: Thái Tuế[59]. Hai Mươi Hai: Vía Tăng Phước Tài Thần[60]. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          8) Tháng Tám:

          Mồng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Vía Tư Mạng Táo Quân, cũng là ngày vía Bắc Đẩu, và là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mồng Mười: Vía Bắc Nhạc Đại Đế[61]. Rằm: Giống như trên, lại là ngày Thái Âm Triều Nguyên (Trung Thu), hăy nên dâng hương, thức đêm. Hai Mươi Bảy: Sinh nhật Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử. Kẻ phạm dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          9) Tháng Chín:

          Mồng Một: Giống như trên, lại là ngày vía Nam Đẩu. Mồng Ba: Vía Ôn Thần, lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Chín: Vía Đẩu Mẫu. Từ ngày mồng Một tới mồng Chín là ngày cửu hoàng đản (ngày vía của chín vị hoàng đế)[62], phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Rằm: Giống như trên. Mười Bảy: Vía Kim Long Tứ Đại Vương[63]. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên, lại là ngày khánh đản Phật Dược Sư.

 

          10) Tháng Mười:

          Mồng Một: Dân Tuế Lạp. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng năm: Hạ hội, cũng là ngày vía Tổ Đạt Ma. Mồng Mười: Tây Thiên Vương giáng hạ. Kẻ phạm dâm sẽ chết trong ṿng một năm. Rằm: Vía Hạ Nguyên Thủy Quan, phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Hai Mươi Bảy: Vía Bắc Cực Tử Vi Đại Đế, lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          11) Tháng Mười Một:

          Mồng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Sáu: Vía Tây Nhạc Đại Đế. Mười Một: Vía Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn. Rằm: Giống như trên. Mười Bảy: Khánh đản A Di Đà Phật, phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mười Chín: Vía Nhật Cung Thái Dương Thiên Tôn. Hai Mươi Lăm: Lược Soát Đại Phu giáng hạ. Người phạm dâm trong ngày ấy sẽ gặp hung hiểm. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          12) Tháng Mười Hai:

          Mồng Một: Vương Hầu Lạp. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Rằm: Giống như trên. Mười Sáu: Vía Nam Nhạc Đại Đế[64]. Hai Mươi Mốt: Vía Thiên Do Thượng Đế[65]. Hai Mươi Bốn: Tư Mạng Táo Quân lên trời. Hai Mươi Lăm: Tam Thanh Ngọc Đế đồng giáng hạ. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Chư thần giáng hạ, xem xét thiện, ác; kẻ phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm.

          Ngày vía của thần thánh rất nhiều, ở đây, chỉ chép những ngày trọng yếu. Nếu có thể đều vâng giữ, ắt sẽ có thể đạt đến thượng thọ. Nếu không thể tuân thủ trọn hết, th́ như trong ghi chú trên đây, “đoạt kỷ” là giảm thọ mười hai năm. Kẻ vi phạm [luật răn cấm đừng hành dâm trong những ngày kiêng kỵ], chắc chắn sẽ bị rút ngắn tuổi thọ. Lại trong những ngày Tứ Lập (Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông), Nhị Phân (Xuân Phân và Thu Phân), Nhị Chí (Hạ Chí và Đông Chí), Xă Nhật (ngày cúng tế thần thổ địa), ngày Tam Phục[66], ngày Giáp Tư, Canh Thân, ngày Bính Tư, Bính Đinh, ngày thượng huyền (trăng non) và hạ huyền (trăng khuyết), sinh nhật của cha mẹ, tổ tiên, ngày giỗ, sinh nhật của chính ḿnh, ngày bổn mạng của tổ tiên, cha mẹ, bản thân, ngày gió to, mưa lớn, nóng gắt, rét đậm, sấm sét, chớp nhóa, trời đất tối tăm, ngày nhật thực và nguyệt thực, ngày cầu vồng đỏ, động đất v.v… Đối với chỗ có thần linh trong núi, sông, đàn xă tắc, nơi giếng, nơi bếp… dưới đèn đuốc mà có kẻ phạm dâm sự, hoặc có chuyện say sưa, ăn no, mừng, giận, ưu, sầu, bi ai, hoảng sợ, trước khi có thai, sau khi sanh nở, hoặc lúc có kinh nguyệt, [những ngày được coi là] thiên kỵ, địa kỵ, nhân kỵ, hễ phạm phải, lớn th́ là giảm lộc, giảm thọ, hoặc sanh con không nuôi được, h́nh thể chẳng đầy đủ, nhỏ th́ là bệnh tật khốn khó, hung hiểm, thân thể tổn thương, chịu khổ. Hăy nên cẩn thận!

 

          (Chánh văn) Tâm độc mạo từ, uế thực ủy nhân, tả đạo hoặc chúng.

          (正文)心毒貌慈。穢食餧人。左道惑眾。

          (Chánh văn: Ḷng dạ thâm độc, ra vẻ hiền lành. Cho người khác ăn thực phẩm dơ. Bàng môn tả đạo dối đời).

 

          “Tâm độc” đă khiến cho người khác chẳng chịu đựng nổi, “mạo từ” (貌慈, diện mạo giả vờ hiền lành) lại khiến cho kẻ khác chẳng thể lường được! Không ai chẳng tránh né cọp, sói, sợ rắn, rết, v́ những loài ấy độc địa. Nếu tâm địa độc ác, diện mạo giả vờ nhân từ, vờ vĩnh rất thân thiện với kẻ khác, khiến cho kẻ khác thân cận, [hạng người ấy] sẽ mặc sức nhả độc, [khiến cho kẻ khác] chẳng kịp đề pḥng. Hạng người ấy hiểm độc càng quá đáng hơn cọp, sói, rắn, rết. Họ chết đi sẽ đọa trong tam đồ nhanh chóng như tên bay, đời đời chuốc lấy quả báo, chịu khổ vô cùng, chẳng nên kiêng tránh ư?

          Thái Nguyên Độ[67] đối với khách vẻ mặt luôn tươi hơn hớn. Dẫu là kẻ bị hắn căm ghét, vẫn đối xử thân thiết, trọng hậu, chẳng sơ sót, người khác chẳng lường được, gọi hắn là Tiếu Diện Dạ Xoa (quỷ dạ-xoa mặt tươi cười). Về sau, hắn mắc tội, chết trên đường lưu đày. Hạng người này chỗ nào cũng có, chúng ta hăy cư xử theo đúng nghĩa lư, đối đăi lễ độ đối với họ. Hễ một mực b́nh đẳng để đối phó, dẫu họ độc hại, làm sao có thể ảnh hưởng đến ta cho được!

          Vu Thiết Tiều nói: - Phàm kẻ nào mắt thường nh́n xuống, chẳng nói lời nào, nhưng ở giữa hai mày, trọn chẳng có khí chất đạo đức ngưng tĩnh, nhân từ, an tường, ắt là kẻ tâm địa độc ác. Chọn bạn để chơi th́ hăy nên tránh xa [hạng người này]! Xưa kia có một vị Tăng, ngủ giữa ban ngày, [có vị] thần từ mũi thoát ra, hóa thành một con rắn độc đen đúa uốn éo ḅ đi, ai nấy đều trông thấy. Khi kẻ đó chết, khắp thân nứt toác, đều biến thành da rắn, đấy chính là hạng người như thế đó. Nếu có thể tự biết sự độc hại ấy, thống thiết gột rửa, như lương y trị liệu ung loét, trừ sạch chất độc ấy mới thôi, chưa hề không thể nhập đạo! Nhưng đối với kẻ chẳng chịu làm như vậy th́ biết làm sao được nữa, thật đáng buồn thay!

          Uế thực (穢食, đồ ăn bẩn thỉu) là do nấu nướng chẳng sạch sẽ, hoặc là đă bị trùng ḅ qua, chuột gặm, hoặc để qua đêm tới sáng, màu sắc và hương vị đă biến đổi. Ăn vào đủ để gây bệnh, khiến cho người khác bị tổn thương. Nếu đem [thức ăn ấy] cho người ta ăn, ắt người ta sẽ nổi cáu, mà thần cũng căm ghét. C̣n như kẻ làm tôi tớ cho người khác, lăng phí nước, các thứ tương, nấu món ăn quá nhiều, thức ăn bị hư dơ bèn đổ đầy nhà xí, càng là tạo thành nỗi oan nghiệt to lớn. Tội ấy quá nửa quy về gia chủ, há chẳng nên răn nhắc lẫn nhau ư?

          Tại thành phố Hàng Châu, có một con ngỗng quay bị rắn độc ḅ quanh. Một vị thầy dạy vỡ ḷng cho trẻ trông thấy, nghĩ “đem ngỗng cho người ta ăn, ắt sẽ bị trúng độc”. Ông ta tính mua, [nhà hàng] nói giá hai trăm. Trong tay thầy chỉ có một trăm đồng, lại vay tiền từ người hàng xóm thân thiết, [mua ngỗng xong] cùng nhau đi chôn. Lúc đào đất, nhặt được một thỏi vàng tía to lớn. Người hàng xóm quen biết bèn nói: “[Vàng này] do ta giấu”. Chủ tiệm ăn cũng nói: “Là vàng do ta đánh mất”. Khéo sao quan huyện vừa đến, quan hỏi han sự t́nh, thở dài: “Rơ ràng [đĩnh vàng ấy] là do thiện niệm cảm vời, các ngươi muốn tranh đoạt mối lợi ấy, đều là hết sức trái nghịch ḷng trời”. Do vậy, phạt hai gă ấy bị đánh trượng, giao vàng cho vị thầy dạy trẻ vỡ ḷng.

          Gă X… ở Hoài An gian hiểm, xảo trá, thích đùa bỡn, từ trong nhà bắt được chuột con chưa mọc lông, bèn nghiền nát, ướp bă rượu (hèm) để gạt khách ăn, bảo là “đồ biển”. Những chuyện giống như vậy chẳng phải chỉ một. Về sau, hắn bị kẻ thù bắt giữ, trói vào thân cây, bắt ăn phân của người, thú, chim chóc. Chẳng ăn bèn đánh đập tàn nhẫn, ép ăn trọn hết mới thôi! Làm ác mắc quả báo đều là giống như thế.

          Viên nha lại ở Kiền Châu tên là Lư Cơ cho vay nặng lăi. Hắn có một đứa đầy tớ chuyên đi đ̣i nợ. Hễ đ̣i không được, sẽ trói người thiếu tiền vào thân cây, dùng nước phân rưới lên. Do làm như vậy, nên thâu được một ngàn đồng. Bỗng sấm sét đánh gă đầy tớ ấy ngay trước chùa Phổ An, tiền hắn giắt ở thắt lưng đều khảm vào thịt, da phủ lên trên. Câu chuyện này không chỉ cảnh cáo kẻ xấu, mà cũng nhằm cảnh o những gă đầy tớ ác độc. Bởi lẽ, bọn tôi tớ của người có thế lực, ỷ thế đ̣i nợ, có khi xông thẳng vào buồng thêu, chẳng đếm xỉa thể diện của người khác, thường là dẫn đến đại họa, lẽ nào lưỡi búa sấm sét chẳng thường [lơ lửng] ở trên đỉnh đầu bọn chúng?

          Vu Ngọc Bệ nói: - Đạo là con đường chánh đáng để mọi người cùng noi theo. Đạo của thánh nhân trong tam giáo, tuy xét về h́nh tích th́ bất đồng, nhưng bậc thượng th́ khiến cho con người minh tâm kiến tánh. Kém hơn là khiến cho người ta hướng thiện, sửa ác. [Đạo của thánh nhân trong tam giáo] như thốt ra từ cùng một miệng, chưa hề chuộng dùng những chuyện quỷ dị để mê hoặc người khác. Những thứ xuất phát từ sự bất chánh, mê hoặc ḷng người th́ đều là “tả đạo”. Như Trương Giác[68] đời Hán, Tôn Ân và Lô Tuần[69] đời Tấn, Hồng Cân và Lưu Phước Thông cuối đời Nguyên, cận đại th́ là những pháp như Vô Vi Hoàng Thiên, Bạch Liên v.v… đều là tả đạo. [Chúng nó] lập tâm chẳng đoan chánh, xuẩn hoặc dân chúng ngu muội, phản vua, trái nghịch cha mẹ, tạo họa, gieo ác. Đó là hành vi của lũ loạn thần tặc tử, phép nước ắt tru diệt, lại càng chẳng thoát khỏi báo ứng trong cơi âm! C̣n như bọn thầy bà, đồng cốt tà thuật, giả mượn lời thần, nói họa phước quàng xiên, gạt gẫm, lừa phỉnh dân chúng, cũng sẽ mắc tội giống như vậy.

          Đời Tùy, Tống Tử Hiền có lắm huyễn thuật như phóng quang trên lầu, biến hóa h́nh tượng Phật. Hắn tự xưng là Di Lặc xuất thế. Hắn lại treo gương trong nhà, hễ có người yết kiến, bèn bảo họ soi [vào đó để biết] đời sau, [trong gương] hiện ra h́nh rắn hoặc thú. Hắn bảo họ lễ bái, bèn hiện h́nh người. Do vậy, tụ tập mấy ngàn người, xướng suất làm loạn. Quan quân vây bắt, [trông thấy] chung quanh chỗ hắn ở đều là hầm lửa, mọi người không dám tiến vào. Vị chủ soái bảo: “Nơi này thật sự không có hầm hố, chỉ là yêu thuật lừa dối đó thôi!” Đến khi quân sĩ tiến lên, quả thật chẳng có lửa, bèn bắt được hắn, bằm hắn nát bét!

          Đạo sĩ ở núi Thanh Thành có huyễn thuật, dẫn con em nhà phú quư đi chơi, đến một ngôi đ́nh viện xa vắng, dâng hương, giăng màn, thi thố pháp thuật. Vu Sơn thần nữ và các vị tiên cô đều ứng theo lời triệu thỉnh mà tới đó nhậu nhẹt, chung chạ chẳng khác ǵ người b́nh thường. Hoan lạc, cười nói xong xuôi, họ bèn cưỡi mây bay đi. Hắn để cho những người “học đạo” lén nh́n qua kẽ màn. Thiếu chủ nước Thục vây bắt, chẳng bắt được hắn, bèn đem máu lợn, máu chó theo, [phá được tà pháp] mới đuổi kịp. Triều đ́nh tống giam hắn, tra khảo. Hắn khai: Hằng năm bắt trộm gái trinh trong dân gian, mặc sức hành dâm với họ. [Do vậy], vô số người bị chết. Vua bèn ra lệnh phanh thây hắn.

          Đời Minh, ông Nhan Mậu Do nói: - Có được yêu thuật có thể lừa dối cơi đời mà chẳng truyền bá, phước ấy cực lớn. Cổ nhân nói: “Người có được thuật ẩn thân mà suốt ba năm chẳng thử dùng, ắt thành tiên”. Lại nói: “Ông có thuật Hoàng Bạch[70] mà không dùng, ắt có thể nhập đạo”. Bởi lẽ, bậc tu chân giấu diếm tung tích, ẩn giấu bản lănh, coi chuyện độ người, cứu đời là chánh yếu. Nếu cậy vào một chút tài nghệ để huyễn hoặc người khác; đó là cội gốc danh lợi chưa thoát, hăy c̣n cách đạo xa lắm! Huống hồ kẻ làm càn, gian trá, giả mạo ư? Thanh thiên bạch nhật, há dung bọn lỵ mị ấy hiện h́nh ư?

          Tam Quy trong Phật giáo là “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”. Trong ấy, khẩn yếu nhất chính là Phật pháp. Thuở đức Phật tại thế, Ngài dùng pháp ấy để dạy dỗ, hóa độ chúng sanh. Sau khi đức Phật diệt độ, lưu lại giáo pháp để độ chúng sanh. Đức Phật thuyết pháp, Tăng truyền pháp. Nếu chẳng quy y Tăng, nghe pháp từ chỗ nào? Nếu chẳng có Pháp, nhờ vào đâu để tu hành? Nhưng nương vào Phật pháp để tự tu, nương vào Phật pháp để dạy người khác, lấy “liễu sanh tử, chứng Bồ Đề làm bản hoài” th́ chính là Tăng. Nếu chính ḿnh chẳng nương theo Phật pháp tu hành, [chỉ lo] buôn bán Như Lai ḥng cầu lợi dưỡng, tiếng tăm, khiến cho người khác lầm lạc, dẫu là hạng đầu tṛn áo vuông, nghiễm nhiên giống như Tăng, nhưng thật ra là con cháu của ma! Thân người khó được, Phật pháp khó gặp. Đă được làm thân người, càng phải nên quy y Phật. Thời cổ th́ cầu pháp từ Tăng, ngày nay th́ trước hết, cần phải dùng pháp để khảo nghiệm Tăng. Đă biết [người xuất gia ấy] là Tăng [chân chánh], hăy khăng khăng một dạ thọ giáo tu hành. Pháp ở nơi đâu? Pháp ở trong kinh. Xin trước hết hăy xem từ bộ Vân Thê Pháp Vựng của Liên Tŕ đại sư.

 

          (Chánh văn) Đoản xích, hiệp độ, khinh xứng, tiểu thăng, dĩ ngụy tạp chân, thải thủ gian lợi.     

          (正文)短尺狹度。輕秤小升。以偽雜真。採取姦利。

          (Chánh văn: Thước non, thước thiếu, cân nhẹ, thưng non. Đồ giả xen lẫn hàng thật. Dùng thủ đoạn để kiếm lợi gian trá).

 

          Bốn câu đều nói về chuyện của phường tiểu nhân tham lợi. Thước, đồ đo lường, thưng, cân vv… là những thứ dùng để lượng định giá trị của mọi vật được mọi người cùng đồng ư. Người đời có hai cách thức: Nhập vào th́ gắng làm sao cho to, xuất ra th́ gắng sức cho nhỏ; nhập vào th́ [chú trọng sao] cho nặng, xuất ra th́ [cố ư] giảm nhẹ. Lập tâm như vậy, chỉ mong chiếm tiện nghi [cho bản thân ta]. Nào có biết: Chiếm nửa phần tiện nghi, sẽ tổn một phần phước đức! Huống hồ ích ta, tổn người, ắt bị tai ương, thiêu đốt bởi lửa sét cơi trời. [Tuy nhiên], chưa chắc đều là như thế cả, cũng có khi chủ nhân chẳng biết, mà chắc là do con em hoặc tôi tớ trông coi việc thâu vào, xuất ra đă ngấm ngầm làm như thế, tội ấy rốt cuộc quy về chủ nhân, chớ nên không xem xét [tường tận].

          Đời Nguyên, Phí Vinh Mẫn Công (Phí Dung) tiết kiệm, chánh trực, thích điều lành, chuộng thí. Dụng cụ đo lường trong nhà đều theo đúng tiêu chuẩn. Ông thường khắc trên các dụng cụ đo lường như sau: “Xuất như thế nào, phải nhập đúng như thế ấy. Con cháu vĩnh viễn làm như vậy”. Về sau, con cháu của ông nghiêm ngặt tuân thủ pháp thế gian, đời đời quư hiển.

          Tại Quảng Lăng, có bà lăo họ Vương dùng thước hụt để bán vải vóc. Sau khi chết, báo mộng cho con: “Ta lúc sống dùng thước hụt để lừa dối người khác. Âm ty phạt ta làm trâu ở nhà họ Hạo tại Tây Khê[71], dưới bụng có chữ Vương”. Con bà ta t́m tới nhà họ Hạo, quả nhiên [trâu nhà ấy] vừa sanh một con nghé, dưới bụng có lông trắng thành h́nh chữ Vương. Đứa con mua lại, đem về. Cho con nghé ăn đồ mềm mịn, nó không ăn, cho cỏ rơm th́ ăn. Bắt nó chở nặng hoặc cày ruộng th́ trâu yên tĩnh, nuôi nấng an nhàn th́ nó nhảy lồng lên, húc chuồng đủ mọi cách, dường như chẳng thể yên ổn nổi. Kẻ tâm địa mê muội kiếm lợi có biết nghiệp báo này hay chăng?

          Trong niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, tại Dương Châu có một tiệm bán hàng tạp hóa lớn[72]. Chủ tiệm lúc sắp chết, dặn con: “Ta b́nh sanh lập nghiệp là nhờ cái cân này. Cái cân này làm bằng ô mộc[73], chính giữa rỗng, chứa thủy ngân. Khi cân hàng để bán ra, nghiêng cân cho thủy ngân chảy vào đầu cân. Khi cân hàng để mua vào, bèn dốc cân cho thủy ngân chảy vào phần đuôi cân. [Do vậy], thâu vào th́ nặng [hơn số lượng thật sự], xuất ra th́ nhẹ hơn [số lượng cần bán]. V́ thế, làm giàu”. Đứa con trong ḷng lấy lạ, nhưng chẳng dám nói. Cha chết, con liền đốt cháy cái cân, khói hóa thành một con rồng bay lên trời. Chẳng lâu sau, hai đứa con trai của người con đều chết. Do vậy, anh ta oán hận nói: “Cha dụng tâm bất b́nh, đâm ra được b́nh an. Nay tôi mua vào, bán ra công bằng, chẳng dám dối trá, lại trớ trêu chôn hai con! Đạo trời há như thế chăng?” Bỗng dưng anh ta mơ màng [thấy ḿnh] tới một dinh thự của quan lại, vị chủ nhân [của dinh thự ấy] phủ dụ: “Cha ngươi thường ngày bán ra th́ nhẹ, mua vào th́ nặng, gạt gẫm người khác để ḿnh được béo bở. Tuy nhiều tiền lắm của, vẫn là cố nhiên vốn sẵn có trong số phận. Chỉ v́ dùng cái tâm dối lừa tạo nghiệp mà mắc tội với trời. Do đó, Thượng Đế sai hai tinh tú phá tán, tiêu tan đến làm con của ngươi. Khi chúng trưởng thành, sẽ xài phung phí tài sản của ngươi, kế đó là bị hỏa hoạn, khiến cho ngươi hết sạch tài sản, con cháu tuyệt diệt, ḥng hiển thị sự báo ứng [của cơi trời đối với kẻ cam tâm lừa dối thủ lợi]. Nay ngươi có thể sửa đổi ác báo, tu hành. Hơn nữa, mọi chuyện đều công bằng, ḥa hoăn, tốt lành; do vậy, Thượng Đế gọi hai ngôi sao ấy về. Không lâu sau, sẽ đổi cho ngươi hai đứa con tốt lành, khiến cho gia đ́nh ngươi được rạng rỡ. Ngươi hăy nên gắng sức làm lành, đừng oán hờn xằng bậy”. Người ấy tỉnh lại, nhất nhất ghi nhớ, càng thêm nỗ lực làm lành. Trong ṿng ba năm, sanh được hai đứa con. Chúng đều đậu Tiến Sĩ, con cháu đông đảo. Ông Trương Củng Thần nói: “Khi tôi ở Hàn Quan, chơi thân với con cháu của ông ấy. V́ thế, biết chuyện rất tường tận, nhưng giấu tên người ấy, [kẻo người] thân thiết sẽ biết lỗi lầm cũ [của tổ tiên họ]”.

          Tạ Tú Lâm ở Uất Lâm, đối với thước đo, đấu, cân, đều luôn [dùng những phương cách gian trá để] xuất ra nhẹ hơn ḥng ngang ngược kiếm lợi. Một hôm, gă ấy bị sét đánh chết. Nhiều lần chôn, nhiều lượt bị [sét đánh xuống] quật tung mồ, thịt tan nát, bị đốt cháy. Trong bụng có một lưỡi tầm sét.

          Đời Tống, Vương Lương Nhụ chết đi sống lại, nói ḿnh đă tới âm phủ. Thấy trên tường treo đấu, hộc, cân, thước. Hỏi những thứ ấy dùng để làm ǵ, nha lại cơi âm bảo: “Do tăng giảm [trọng lượng] nặng nhẹ, mang ḷng lừa dối kiếm lợi, mà mắc phải tội này”. Sau khi Lương Nhụ sống lại mười ngày, phàm là những vật dụng như đấu, cân v.v… sai trái, không đúng tiêu chuẩn, đều bị cháy rụi!

          Đời Tống, Lư Giác ở Quảng Lăng buôn bán kiếm sống. Ông thấy những người cùng nghề xuất ít, thu nhiều, bỏ ra nhỏ nhoi, thu vào to lớn, tâm chán ghét, bèn khuyên bảo [những kẻ ấy] hăy thôi đi! Lư Giác thu vào bán ra như nhau, kiếm đôi chút tiền lời để có cái sinh sống. Lâu ngày, gia cảnh cũng giàu có. Về sau, có một vị Chế Trí Sứ[74] tại Giang Hoài có tên họ giống như ông. Người ấy ban đêm nằm mộng, thấy vào động phủ, xem trong sổ tiên có ghi tên họ Lư Giác, bèn rất mừng rỡ, tưởng mai sau sẽ được lên cơi tiên. Bỗng có hai đồng tử bảo: “Lư Giác này chẳng phải là ông đâu, mà là một người dân ở huyện Quảng Lăng”. Ông ta tỉnh giấc, bèn ḍ t́m người ấy, hỏi ông ta đă tu những chuyện ǵ? Đáp: “Chẳng có ǵ khác, chỉ là tâm đối đăi công bằng với muôn vật mà thôi”. Về sau, Lư Giác thọ tới một trăm tuổi, bỏ xác phàm thành tiên. Châu Trinh nói: “Cơi đời nói chẳng lừa dối thần minh. Tôi nói [“thần minh” trong lời ấy] không phải là tất cả các vị thần trong trời đất, mà là ‘chẳng lừa dối vị thần trong tâm ta’ th́ chính là chẳng lừa dối thần minh”. Than ôi! Người có thể hiểu điều này được mấy người vậy?

          Người đất Thục (Tứ Xuyên) là Lê Vĩnh Chánh khéo tạo đấu và cân, tăng, giảm nặng nhẹ. Chỉ cần có người thuê làm, trả giá gấp bội, hắn sẽ không ǵ chẳng làm. Kẻ tiểu nhân chẳng đoái hoài đạo trời, thường đến nhờ hắn làm. Hắn bị thần tư sát (vị thần có chức trách tra xét) tấu lên thượng thiên, Vĩnh Chánh và hai con đều mù, năm ngón tay đều thương tổn, tàn phế, các khớp tay rơi rụng mà chết. Ôi! Chế tạo giùm người khác mà bị quả báo như thế, chính là v́ trừng trị tận gốc. Phàm hết thảy những kẻ sống bằng nghề buôn bán, có kẻ nào chẳng muốn tự nuôi thân, nuôi gia đ́nh, thế mà cứ thường chọc giận cơi trời, là v́ lẽ nào vậy? Sao bằng xem xét tường tận câu chuyện này, dũng mănh sửa đổi th́ may mắn lắm thay!

          Gần đây, những vật được buôn bán ngoài chợ búa, gần như là đồ giả nhiều hơn đồ thật. Đấy cũng là v́ thế đạo nhân tâm bị biến đổi. Phàm những món thực phẩm cần thiết, những món thuốc men cần dùng, những thứ như vàng, lụa, vật dụng v.v… nếu là đồ giả, hoặc kém phẩm chất đôi chút, kẻ [buôn bán những thứ ấy] sẽ là phường chôn vùi lương tâm, hại người không chi hơn nổi! C̣n như kẻ sử dụng bạc giả, tội ác càng sâu, trời sẽ tru diệt càng nhanh chóng hơn.

          Năm Canh Tuất (1670) đời Khang Hy nhà Thanh, có người họ Cố từ đất Mân (Phước Kiến), ngụ cư tại Giang Âm, ngầm buôn bán bạc giả. Hắn mang bạc ra chợ, không ai có thể nhận biết [là bạc giả hay thật], nhưng chẳng quá mười ngày. Hễ quá [thời hạn ấy, thoi bạc giả] lại hiện nguyên bản chất. Có gă tên Giáp nọ dùng sáu lượng [bạc thật] để đổi lấy hai mươi lượng [bạc giả], tới Xương Môn mua sa, đoạn. Quay thuyền trở về, đêm qua Hoa Đăng, gió mạnh lật thuyền, chẳng c̣n một tấc lụa là nào. Gă đó may nhờ bơi lội giỏi nên thoát chết, lơa lồ quay về. Cũng trong ngày hôm ấy, gă họ Cố bị sét đánh chết. Ḷ nung, búa rèn để chế bạc giả đều nát như bột. Than ôi, ngu dại thay! Họ Cố v́ gian trá mà bị giết là lẽ đương nhiên. C̣n gă Giáp do một niệm tham lam, mất bay sáu lượng tiền vốn, chẳng biết áo mền, hành lư đem theo giá trị bao nhiêu tiền nữa? Buôn bán đến mức này, có thể nói là lỗ vốn! May mà tánh mạng chẳng chôn vùi trong sóng cuồn cuộn, nguy ngập thay! Kẻ tiểu nhân vô tri đáng thương đến mức ấy. Ngu tôi có một lời cảnh tỉnh mọi người rằng: “Ta buôn bán là muốn cầu sống c̣n. Ta muốn sống c̣n, người khác chẳng mong sống sót ư? Ta muốn nuôi gia đ́nh, người khác trọn chẳng muốn nuôi nấng gia đ́nh họ ư? Huống hồ kẻ mang tâm lừa dối nghịch thiên, báo ứng vằng vặc, chẳng có kẻ nào không bị mất mạng rồi mà lại c̣n gây hại khiến cho gia đ́nh bị diệt môn, đó có phải là ư muốn kẻ buôn bán hay chăng?”

          Ông nội của Thượng Thư Tôn Thẩn Xuyên một hôm buôn bán thâu vào hai lượng bạc. Cụ đưa cho người khác xem, th́ ra là bạc giả. Cụ nghĩ: “Bạc y chẳng thể dùng, há nên giữ lại khiến cho người khác bị lầm lạc ư?” Tới băi sông Đông Hà, ông lại lội xuống nước đi mấy chục bước, quăng bạc xuống chỗ sâu. Con trai cụ thi đỗ, làm Phó Sứ. Cháu nội của cụ chính là Thẩn Xuyên. Cụ Tôn thu được bạc giả bèn quăng xuống hồ, tấm ḷng ấy hợp với tâm Lữ Tổ. Con cháu hiển vinh, sang quư, vẫn là báo ứng nhỏ nhặt vậy!

          Đời Tống, Lô Thường ở Lư Sơn bán dầu và nến, bỏ lẫn mỡ cá trong ấy [để làm nến]. C̣n Hoàng Vũ tại Kiến Long Quán dùng mỡ ḅ pha vào dầu để làm nến. Hai gă đều bị thiên lôi đánh chết. Ôi! Nay th́ có kẻ bán muối lẫn cát, bán rượu pha nước, những kẻ ấy cũng nên nh́n vào gương này!

          Gă họ Nghê ở Hải Diêm dùng các loại vụn gỗ nghiền nát làm hương để buôn bán. Một đêm, đám mạt hương bỗng bốc cháy, tỏa khói. Họ Nghê muốn chạy ra khỏi cửa, nhưng bị khói làm cho mê muội, không chạy ra được, người lẫn nhà đều cháy tiêu.

          Đời Minh, Trương An Quốc khi làm tri phủ, do thấy ngoài chợ có nhiều kẻ bán thuốc giả, bèn yết bảng răn cấm: “Do Đào Ẩn Cư (Đào Hoằng Cảnh) trước tác bộ Thảo Mộc Kinh Tập Chú Yếu, Tôn Chân Nhân (Tôn Tư Mạo) trước tác Thiên Kim Phương Nhân giúp vật, lợi sanh, tích chứa nhiều âm đức, cho nên được lưu danh trong các vị tiên. Từ đó tới nay, người làm nghề y, bán thuốc, thành tâm cứu người, đạt được phước báo rất đông. Nếu chẳng bàn đến những điều được sách vở ghi chép, chỉ xét trong thời gần đây, sự ứng nghiệm càng nhiều. Có kẻ chỉ bán thuốc thật, tài sản to lớn cả vạn, hoặc là bản thân an nhàn, vinh hiển, hưởng cao thọ. Hoặc là con cháu đỗ đạt, thay đổi môn hộ, [báo ứng] như bóng theo h́nh, chẳng có sai sót. Lại từng thấy kẻ buôn bán thuốc giả, thoạt đầu tích tụ đôi chút tài sản, tự cho là ổn thỏa, chẳng biết trong cơi ngấm ngầm, tài lộc đáng lẽ nên có của chính ḿnh đă bị tước giảm. Hoặc bản thân gặp nhiều tai họa ngang trái, hoặc con cháu phi lư phá tán sạch sành sanh. Đến nỗi có kẻ bị lửa trời [thiêu đốt], hoặc bị sét đánh. Bởi lẽ, người mua thuốc phần nhiều là do bệnh tật cấp bách; do vậy, họ đem tiền cầu t́m. Con cháu hiếu thuận chỉ mong [cha mẹ, ông bà] uống thuốc vào sẽ thấy ngay hiệu quả, kiến hiệu, nhưng mua nhầm thuốc giả, không chỉ là vô ích, mà c̣n đâm ra bị tổn thương. B́nh thường, giết một con vật thuộc loại phi cầm, tẩu thú c̣n có nhân quả; huống hồ trong muôn vật, mạng người trọng nhất. Vô tội mà mắc họa, đau đớn kể sao cho trọn, há chẳng nên kiêng dè ư?”

          Đoạt lấy (thủ) mà dùng chữ Thải () để nói [nhằm h́nh dung phương cách chiếm đoạt chẳng đơn giản], do gian trá mà đắc lợi, tức là dụng tâm tàn nhẫn, hà khắc, không ǵ chẳng làm! Hiện thời, hết thảy những chủ thuyền gian trá cậy thế quan phủ, hoặc những kẻ đứng làm trung gian giao dịch đều thuộc loại này, không nhất thiết phải là những kẻ lén đúc tiền riêng hay buôn bán muối tiêng tư mới gọi là “thải thủ gian lợi”. V́ thế, trong giới áo mũ (quan lại) cũng có chuyện ác này, há có nên chỉ chê trách bọn tiểu dân nơi phố chợ mà thôi!

          Cổ nhân có thơ rằng:

          Việt gian, việt xảo, việt bần cùng,

          Gian xảo nguyên lai thiên bất dung,

          Phú quư nhược tùng gian xảo đắc,

          Thế gian ngốc hán hấp tây phong!

          (Càng thêm gian xảo, càng nghèo khó,

          Trời vốn chẳng dung kẻ dối gian,

          Nếu nhờ gian xảo mà giàu có,

          Thế gian kẻ ngốc đói ḅ càng).

          Trương Phụng thông hiểu chuyện thưa kiện, biết rơ thuế ruộng của từng nhà trong vùng. Hắn có thể khiến cho kẻ có ruộng liên tiếp nối bờ (rất nhiều ruộng đất) biến thành sạch túi, không có tấc đất cắm dùi. Do vậy, sổ bộ ghi tên hắn là chủ ruộng rất nhiều. Cả vùng khổ sở v́ sự tàn độc của hắn mà không dám nói. Buổi sáng mà nói [động chạm tới hắn], buổi chiều thuế má đă ập tới. Hắn rất thông thạo cách bóc lột dân chúng. Hễ có quan trên tới [trấn nhậm], liền gọi hắn hỏi han, trong chốc lát, đă nắm tay vui vẻ. Rốt cuộc quan trên nh́n theo sắc mặt của hắn mà hành xử. Hắn hằng ngày chỉ dạy trưởng quan phương cách bóc lột tận cùng tiền tài của dân chúng. Quan trên được hai phần, c̣n bảy phần giao về Trương Phụng. Quan Tuần Phủ là ông Đường ḍ xét, nắm rơ t́nh trạng ấy, sai thuộc hạ vơ công cao cường bắt trói hắn. Trên đường bị đóng gông giải đi, hắn hối lộ người áp giải trọng hậu nhưng không được, bèn giở mưu kế trốn thoát, người áp tải hắn đuổi theo chẳng kịp. Khi ấy, bốn phía đồng hoang không có mây, đột nhiên sét đánh đằng Đông mà Trương Phụng chết ngắc ở đằng Tây. Bụng hắn toang hoác như bị mổ tung ra, ngũ tạng như bị khoét mất. Dân chúng chán ghét, ngay cả chó, lợn cũng chán ghét [chẳng thèm ăn thịt thối của hắn].

Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

Quyển 4

Phần 2

 



[1] Lan Đ́nh (蘭亭) là tên một cái đ́nh nơi Vương Hy Chi cử hành tế lễ; nhân đó, sáng tác bài Lan Đ́nh Thiếp lừng danh. “Hễ sự” (禊事) là một nghi lễ thời cổ, được cử hành vào tháng Ba. Thời cổ, khi tiết trời đă ấm, mọi người tụ họp tế thần, xuống chỗ có nước để vốc nước gột rửa, hàm ư tẩy trừ mọi nỗi xui xẻo, bất hạnh của năm qua. Trong phần đầu bài Lan Đ́nh Tập Tự, Vương Hy Chi đă ghi rơ: “Vĩnh Ḥa cửu niên, tuế tại Quư Sửu, mộ xuân chi sơ, hội ư Cối Kê Sơn Âm chi Lan Đ́nh, tu hễ sự dă” (năm Vĩnh Ḥa thứ chín, nhằm năm Quư Sửu, mới đầu tháng Ba, họp nhau ở huyện Sơn Âm thuộc Cối Kê để cử hành hễ sự). Đây là chuyện thuộc thời Tấn, thiếp Lan Đ́nh nổi tiếng như thế, được ngưỡng mộ như thế, nhưng hiện thời đă chẳng c̣n là thời Tấn.

[2] Theo Đào Nguyên Kư, có người đi lạc vào Đào Nguyên, mới biết cư dân trong ấy là hậu duệ của những người do lánh nạn Tần Thủy Hoàng mà vào đó sống, cách biệt với nhân gian. Họ vẫn chê cười Tần Thủy Hoàng hà khắc, bạc ác, tuy Tần Thủy Hoàng đă chết lâu lắm rồi!

[3] Dịch Thừa (驛丞): Chức vụ quản lư các dịch trạm, truyền tải văn thư, tấu chương. Đời Minh - Thanh, mỗi phủ, châu, huyện đều có một người đặc trách quản lư dịch phu chuyển giao công văn, người ấy được gọi là Dịch Thừa.

[4] Ngô Tam Quế, tự là Trường Bạch, hay Trường Bá, làm Tổng Binh nhà Minh. Ngô Tam Quế được giao nhiệm vụ trấn giữ Sơn Hải Quan để chống quân Thanh. Năm Sùng Trinh thứ mười bảy (1644), Sấm Vương Lư Tự Thành làm phản, toan lật đổ nhà Minh, vua Sùng Trinh phong cho Ngô Tam Quế làm B́nh Tây Vương, truyền hịch gọi hắn về kinh đô cứu viện. Ngô Tam Quế kéo quân về không kịp, Lư Tự Thành đă chiếm Bắc Kinh, vua Sùng Trinh tự vẫn tại Cảnh Sơn. Lư Tự Thành lên làm vua, đă nhiều lần dụ Tam Quế đầu hàng. Tam Quế do dự, muốn đầu hàng, nhưng khi hay tin Lư Tự Thành chiếm mất ái thiếp Trần Viên Viên, hắn bèn đầu hàng quân Thanh, mở cửa ải dẫn quân Thanh xâm chiếm Trung Hoa. Do công lao bán nước ấy, Ngô Tam Quế được phong làm B́nh Tây Vương trấn thủ Vân Nam, cùng với B́nh Nam Vương Thượng Khả Hỷ ở Quảng Đông và Tĩnh Nam Vương Cảnh Tinh Trung ở Phước Kiến là ba tên Hán gian làm phên giậu cho nhà Thanh, Thanh Sử thường gọi bọn chúng là Tam Phiên. Do ba người này đều là hàng tướng nhà Minh, đều nắm giữ binh quyền và có thế lực mạnh mẽ, lại thuộc những vùng đất trù phú, cho nên vua Khang Hy nhà Thanh quyết chí dẹp Tam Phiên. E ngại trước những biện pháp quyết liệt của triều đ́nh, Ngô Tam Quế làm phản, chiếm giữ các tỉnh Vân Nam, Quư Châu, Quảng Đông, Phước Kiến, Hồ Nam, Tứ Xuyên v.v… Với chánh sách khôn ngoan, vua Khang Hy đă dần dần xé lẻ thế lực loạn quân, vây bức Ngô Tam Quế phải rút về Vân Nam cố thủ rồi chết ở đó v́ tuổi già.

[5] Sách Quốc Ngữ (國語) c̣n gọi là Xuân Thu Ngoại Truyện, chép về sự tích, ngôn luận của các nhân vật thuộc tám nước Châu, Lỗ, Tề, Tấn, Trịnh, Sở, Ngô, Việt thời Xuân Thu. Bộ sách này do Tả Khâu Minh biên soạn, có tác dụng giống như bộ Tả Truyện nhằm giải thích những sự kiện được chép trong kinh Xuân Thu. Khi biên soạn bộ Sử Kư, Tư Mă Thiên đă dùng nhiều dữ liệu từ bộ sách này.

[6] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của ông Hoàng Bách Lâm.

[7] Thi Ca La Việt (Śīgalovāda) là con của một vị trưởng giả, dịch theo nghĩa tiếng Hán, sẽ là Thiện Sanh đồng tử. Thi Ca La Việt mỗi sáng tuân theo lời cha dạy mà lễ bái sáu phương, nhưng chẳng hiểu v́ sao phải làm như vậy. Đức Phật trông thấy, bèn dạy Thiện Sanh ư nghĩa của việc lễ sáu phương. Chẳng hạn như phương Đông là phải cung kính với cha mẹ… Những lời dạy ấy được chép lại thành bộ Phật Thuyết Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ Kinh.

[8] Viên Thị Thế Phạm là tác phẩm gồm ba quyển do Viên Thái biên soạn vào đời Nam Tống, thoạt đầu đặt tên là Tục Huấn, về sau đổi thành Thế Phạm (khuôn phép cư xử trong cơi đời). Sách ghi lại những lời dạy về cách đối nhân xử thế đúng lư, đúng t́nh, phù hợp đạo đức, và thuần phong mỹ tục.

[9] Hà Tiên Cô (何仙姑) là một vị trong Bát Tiên của Đạo Giáo. Cô vốn có tên là Hà Quỳnh (có thuyết nói tên là Hà Tú Cô, hoặc Hà Hương), người xứ Linh Lăng, Vĩnh Châu (nay thuộc tỉnh Quảng Đông) vào đời Đường. Thân thế của vị tiên này có nhiều thuyết. Thuyết phổ biến nhất nói Hà Tiên Cô lúc mười sáu tuổi vào núi hái trà, gặp tiên nhân chỉ điểm (có thuyết nói vị tiên ấy chính là Lữ Động Tân), cho ăn đào tiên và bột vân mẫu. Cô bèn phát thệ không lấy chồng, thường vào ở trong hang núi, tu luyện thành tiên. Tranh Đạo giáo thường vẽ Hà Tiên Cô có h́nh dạng thiếu nữ xinh đẹp, tay cầm hoa sen, hoặc cầm giỏ đựng hoa (“lam hoa” (籃花) chỉ có nghĩa là đựng hoa. Thế mà có một giáo phái tu tiên tại Việt Nam lại nghiễm nhiên viết trong sách vở của họ là Hà Tiên Cô cầm giỏ đựng loài hoa “lam hoa”). Bát Tiên là Hán Chung Ly, Trương Quả Lăo, Lư Thiết Quải, Tào Quốc Cữu, Lữ Động Tân, Hàn Tương Tử, Lam Thái Ḥa và Hà Tiên Cô.

[10] Nguyên Hựu (元祐) là niên hiệu thứ nhất của Tống Triết Tông (Triệu Hú) từ năm 1086 đến năm 1094. Trong thời gian này, Triết Tông mới mười tuổi, triều chánh do Cao Thái Hậu quyết đoán. Bà quyết liệt băi trừ tân pháp của Vương An Thạch, trọng dụng Tư Mă Quang, Phạm Thuần Nhân, Tô Thức v.v… Khi Cao Thái Hậu qua đời, vua lập tức cải nguyên, ngả theo đường lối tân pháp của Vương An Thạch.

[11] Lâu Đông (婁東) là một thị trấn thuộc huyện Thái Thương thuộc tỉnh Giang Tô. Do trấn này nằm ở phía Đông sông Lâu Thủy nên có tên như vậy.

[12] Sa bản (沙板) là những phiến gỗ dẹp, thường làm bằng gỗ sam, có tính chịu lực cao. Người xưa chôn “sa bản” xuống nền đất để giữ cho nền nhà hoặc các công tŕnh xây dựng khỏi bị sụp lở do đất dịch chuyển.

[13] Chánh Lang (正郎) là danh xưng để gọi các Lang Trung làm việc trong Thượng Thư Tỉnh. Lang Trung là các quan chức cao cấp phụ tá cho vị Thượng Thư và Thị Lang. Thượng Thư và Thị Lang là hai quan chức đứng đầu ba cơ cấu hành chánh cao nhất thời ấy (Thượng Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh, và Trung Thư Tỉnh). Thượng Thư tương đương với bộ trưởng và Thị Lang tương đương với thứ trưởng trong hiện thời.

[14] Nguyên văn là “đệ” (), có nghĩa là em dâu. Một nghĩa khác là khi xưa, nhiều phụ nữ chung một chồng, người lớn tuổi hơn được gọi là Tự (), c̣n nhỏ hơn gọi là Đệ. Hán Thư chép Hồ Dương Công Chúa tên thật là Lưu Hoàng, là chị cả của Hán Quang Vũ (Lưu Tú). Do vậy, chúng tôi nghĩ chữ Đệ ở đây là do bị chép lầm. Khi cha mất sớm, Lưu Hoàng phải làm lụng cực khổ để nuôi em, nên đối với Lưu Tú, Lưu Hoàng vừa là chị vừa là mẹ. Đến khi Lưu Tú dựng cờ khởi nghĩa, lật đổ Vương Măng, tái lập nhà Hán, trở thành Hán Quang Vũ Đế, ông đặc biệt ưu đăi bà, đến nỗi bà có những hành vi coi thường luật pháp.

[15] “Nhị phủ” (二府) là hai cơ cấu hành chánh cao cấp đời Tống, gồm Trung Thư Tỉnh và Xu Mật Viện.

[16] Thị Chế (侍制) là từ ngữ viết sai của Đăi Chế (待制), nhưng do thường dùng, cho nên trở thành đúng. Chức vụ Đăi Chế là quan văn có nhiệm vụ “đăi chiếu”, tức là từ đời Hán, những vị đại thần có tài văn chương, thông thạo kinh điển trong triều đ́nh phải luân phiên làm người túc trực đợi mệnh lệnh của vua khi vua cần tham khảo ư kiến, giúp vua soạn thảo chiếu chỉ, hoặc nhuận sắc chiếu chỉ, cũng như giám sát việc thi hành chiếu chỉ. Về sau, trong cơ cấu Hàn Lâm Viện đặt ra một chức quan thường trực là Hàn Lâm Đăi Chiếu để đặc trách công tác này. Chức quan này c̣n chịu trách nhiệm huấn luyện nhân tài mới cho viện Hàn Lâm, cũng như quản thủ văn từ, sớ chương, biểu tấu. Đến đời Tống, do công việc quản trị hành chánh phức tạp, phải lập ra nhiều “các” (), tức là các tiểu tổ văn pḥng (hoặc các pḥng nghiệp vụ theo cách hiểu hiện thời), mỗi các đều có một vị Đăi Chế để đứng đầu trông coi, như Long Đồ Các Đăi Chế, Thiên Chương Các Đăi Chế v.v… Do ông Lưu từng giữ chức Chánh Tự, tức là một chức vụ tương tự như vai tṛ Đăi Chế, nên người thời ấy vẫn quen gọi ông Lưu An Thế là Lưu Thị Chế.

[17] Tứ Châu Đại Thánh (泗州大聖) chính là một vị cao tăng được tôn xưng là “thần tăng”, sống vào đời Đường. Ngài từ Tây Vực sang Trung Hoa, hiệu là Tăng Già đại sư, c̣n có mỹ hiệu là Tứ Châu Văn Phật. Theo truyền thuyết, trong quá khứ vô lượng kiếp, Ngài đă dùng âm thanh làm Phật sự. Vào những năm đầu trong niên hiệu Long Sóc (661-663), Ngài đến hoằng hóa tại Lạc Dương và Trường An, trụ tích tại chùa Lâm Hoài ở Tứ Châu. Nhận thấy tứ chúng kính ngưỡng đạo hạnh của Ngài, Đường Trung Tông cung thỉnh Ngài về trụ tŕ chùa Tiến Phước ở Trường An. Ngài đă từng v́ nhà vua cầu mưa rất linh nghiệm và lưu lại rất nhiều sự linh nghiệm khác. Do vậy, vua ban tặng tấm biển Phổ Quang Vương Tự cho chùa Lâm Hoài.

[18] Đại Trung Thừa (大中丞) là danh xưng khác để gọi chức Tuần Phủ vào thời Minh - Thanh. Chức Tuần Phủ thuở ấy thường trông coi hai hoặc ba tỉnh.

[19] Kỳ hiệu (旗校) tức là các quan vơ trông coi kỳ quân. Kỳ quân là quân đội của các thân vương dưới đời Minh, kể cả quân đội bảo vệ hoàng thành. Chúng thường cấu kết với các thái giám nên rất lộng hành. Hiệu quan ở dưới cấp tướng, được chia thành ba bậc là thượng hiệu, trung hiệu và thiếu hiệu. Tần phủ là vương phủ của Tần Vương. Sau khi Châu Nguyên Chương lập ra nhà Minh, đă phong cho các con làm phiên vương để làm vây cánh ở những vùng xa. Con thứ hai của Châu Nguyên Chương là Châu Sảng được phong làm Tần Vương, đứng đầu các phiên vương, trông coi tỉnh Thiểm Tây, đặt vương phủ tại Tây An. Quyền hạn của Tần Vương khá lớn, ông ta có thể điều động lính từ các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ. Do Thành Hóa (1465-1487) là niên hiệu của Minh Hiến Tông, cho nên Tần Vương ở đây không phải là Châu Sảng, mà chỉ là cháu chắt của ông ta, v́ tước vị Tần Vương được truyền đến mười một đời.

[20] Cẩm Y Vệ gọi đầy đủ là Cẩm Y Vệ Chỉ Huy Sứ Ty (錦衣衛指揮使司), là một cơ quan do Minh Thái Tổ đặt ra có chức trách như một cơ cấu an ninh mật vụ riêng do nhà vua trực tiếp chỉ huy. Cơ quan này có nhiệm vụ trinh sát, ḍ xét, t́m ra những quan chức bất trung, cũng như phát hiện những âm mưu chống đối triều đ́nh. Cẩm Y Vệ có quyền bắt người, tra khảo và giam giữ. Những viên mật thám thân tín nhất của nhà vua thuộc Cẩm Y Vệ được gọi là Kiểm Hiệu. Đứng đầu cơ quan này là Tả Hữu Đô Đốc, phụ tá có Đô Đốc Đồng Tri, Đô Đốc Kiểm Sự, Đô Chỉ Huy Sứ và Đô Chỉ Huy Sứ Kiểm Sự.

[21] Nội thần (內臣) là các quan viên trực thuộc quyền sử dụng của hoàng đế, không do Tể Tướng cai quản. Thông thường là các quan viên giữ chức vụ bí thư, thái giám hoặc người đứng đầu, trưởng quan thị vệ v.v…

[22] Phân Thủ (分守) là danh xưng để gọi chung các chức vụ Án Sát Sứ và Án Sát Phân Ty (Giám Ty) vào thời Minh.

[23] Giáo Dụ (教諭) là chức quan trông coi về việc học vấn tại một huyện, đồng thời trông nom việc tế tự tại Văn Miếu.

[24] Phủ viện (撫院): Tiếng gọi tôn xưng quan Tuần Phủ.

[25] Huấn Đạo (訓導) là chức trợ tá của các chức quan trông coi việc học. Theo quy chế thời Minh - Thanh, người trông coi việc học tại một phủ gọi là Giáo Thụ (教授), tại cấp châu th́ gọi là Học Chánh (學正), c̣n cấp huyện là Giáo Dụ (教諭). Mỗi cấp này đều có nhiều trợ tá, các trợ tá đều được gọi chung là Huấn Đạo.

[26] Minh Cảnh Đế (Minh Đại Tông Châu Kỳ Ngọc) chính là em trai của Minh Anh Tông (Châu Kỳ Trấn). Lúc Anh Tông lên ngôi, Châu Kỳ Ngọc được phong làm Thành Vương. Năm Chánh Thống 14, Minh Anh Tông thân chinh đánh giặc Mông Cổ Ngơa Lạt (Oirats), bị bắt làm tù binh tại Thổ Mộc Bảo. Hoàng Thái Hậu bèn lập Châu Kỳ Ngọc lên làm Giám Quốc. Về sau, nghe lời khuyến cáo, Châu Kỳ Ngọc bèn xưng đế, tôn Minh Anh Tông làm Thái Thượng Hoàng. Do trong bảy năm trị v́, Minh Đại Tông chỉ dùng niên hiệu là Cảnh Thái, nên thường được gọi là Cảnh Thái Đế hay gọi tắt là Cảnh Đế. Khi Anh Tông được quân Ngơa Lạt trả về, Anh Tông đă bị Đại Tông quản thúc tại Diên An Cung. Trong thời gian Minh Đại Tông cai trị, dưới sự phù tá của Vu Khiêm, nhà vua đă đặc biệt chú ư phát triển kinh tế, tăng cường quân đội. Khi Minh Đại Tông bệnh nặng, không thể lâm triều, đại thần Thạch Hanh cùng với các ông Từ Hữu Trinh, Dương Thiện và Tào Cát Tường đă cùng nhau mưu sự, đưa Anh Tông lên ngôi trở lại. Đại Tông bị giam lỏng trong Tây Uyển, một tháng sau th́ chết.

[27] Theo Thọ Khang Bảo Giám, vào thời Tống Đoan Tông, quân Nguyên tấn công Thai Châu, vợ một người dân ở Lâm Hải là Vương thị rất đẹp, bị bọn giặc bắt đem vào trong quân doanh. Gă thiên phu trưởng Mông Cổ giết chết bố mẹ chồng và chồng cô ta, muốn ăn nằm với cô. Cô ta thà chết chẳng thuận theo, giả vờ nói: “Xin cho tôi để tang bố mẹ chồng và chồng một tháng rồi mới có thể hầu hạ bậc quân tử”. Gă thiên phu trưởng thấy cô không đ̣i chết nữa, bèn chấp thuận lời thỉnh cầu, nhưng vẫn sai nữ tù nhân canh giữ cô ta. Hôm quân Nguyên rút lui, hắn mang theo cô ta. Khi đi qua rặng Thanh Phong ở huyện Sơ, Vương thị ngửa mặt lên trời than: “Hôm nay, ta đă có chỗ để chết rồi”. Liền cắn ngón tay, [lấy máu] viết thơ lên đá, gieo ḿnh vào vách đá mà chết. Chuyện đă cách nay tám, chín mươi năm, máu trên đá vẫn rơ nét như mới, chẳng bị mưa gió xóa nḥa. Bài thơ của ông Dương mang ư nghĩa hủy nhục, khinh bạc rất lớn, chê trách Vương Thị đă chịu để cho viên tướng Mông Cổ kèm cặp trên ngựa dẫn đi cả trăm dặm, đến cuối cùng mới viết huyết thư liều thân, sao không tiếp tục sống để hưởng lạc thú giống như Lưu Nguyễn vào chốn Thiên Thai. Dẫu có liều thân th́ thân đă nhơ uế, đâu có trong sạch như nước ḍng Hán Thủy ở Ba Lăng (Ba Lăng là tên gọi cũ của Nhạc Dương).

[28] Hậu Ngụy (386-534) c̣n gọi là Thác Bạt Ngụy, Bắc Ngụy, hay Nguyên Ngụy để phân biệt với nhà Tào Ngụy của Tào Phi (con trai Tào Tháo). Triều đại này do Thác Bạt Khuê người Tiên Ty sáng lập, lănh thổ gồm trọn miền Bắc Trung Hoa, kinh đô là Lạc Dương và Trường An.

[29] Đô Lại (都吏) c̣n gọi là Đốc Bưu (督郵), là chức quan phụ tá Thái Thú (người đứng đầu một quận), đặc trách giám sát quan lại có xứng đáng với chức vụ hay không, kiêm nhiệm chưởng quản những vấn đề về dịch trạm (chuyển giao công văn), h́nh ngục. Về sau, do hành chánh phức tạp, mỗi quận đều có nhiều viên Đô Lại để coi một phân khu trong quận. Các chức vị phụ tá của Đô Lại bao gồm Đốc Bưu Duyện, Đốc Bưu Thư Duyện v.v…

[30] Trường Khánh là niên hiệu của Đường Mục Tông (Lư Hựu).

[31] Dực Thánh Chân Quân có danh hiệu đầy đủ là Dực Thánh Bảo Đức Chân Quân. Theo Đạo giáo, trong niên hiệu Kiến Long đời Tống Thái Tổ, một người dân ở huyện Châu Chí, thuộc phủ Phụng Tường, tên là Trương Thủ Chân vào núi Chung Nam, gặp một vị tiên tự xưng là Cao Thiên Đại Thánh Ngọc Đế Phụ Thần vâng lệnh Ngọc Đế phù tá nhà Tống, xưng danh là Hắc Sát Thần. Vị thần ấy dạy ông ta cách lập đàn cầu khẩn. Sau khi lên ngôi, Tống Thái Tổ đă sai lập Thượng Thanh Thái B́nh Cung để thờ vị thần ấy, gia phong tước hiệu là Dực Thánh Chân Quân.  

[32] Đề H́nh (提刑) gọi đầy đủ là Đề Điểm H́nh Ngục Công Sự, là chức quan được đặt ra từ thời Bắc Tống, đặc trách tư pháp tại các châu, kiêm nhiệm giám sát và chưởng quản nông nghiệp, tầm tang. Dinh thự của chức quan này thường được gọi là Hiến Ty. Đến đời Minh -Thanh, chức vụ này được đổi thành Đề H́nh Án Sát Sứ.

[33] Nguyên Tinh (元精) theo nghĩa gốc chính là tinh khí của trời đất. Cổ nhân quan niệm: Con người do bẩm thụ nguyên khí ấy mà được sanh thành như Vương Sung đă viết trong bộ Luận Hành: “Thiên bẩm nguyên khí, nhân thọ nguyên tinh” (nguyên khí vốn sẵn có trong trời đất được con người lănh thọ mà thành nguyên tinh).

[34] Tam Tiêu (三焦) tuy được xếp vào một trong ngũ tạng, nhưng thật ra nó gồm có ba phần là Thượng Tiêu, Trung Tiêu, và Hạ Tiêu. Thượng Tiêu là phần ngực ở phía trên hoành cách mô (thoraci diaphgram), tức là phần bao gồm tim và phổi. Trung Tiêu là phần dưới hoành cách mô cho đến phía trên phần eo, bao gồm tỳ (tụy tạng) và bao tử. Hạ Tiêu là phần c̣n lại bao gồm thận, bàng quang, gan, ruột v.v…

[35] Mạng Môn (命門): Theo Nạn Kinh, chữ Mạng Môn chỉ quả thận bên phải. Trong Nạn Kinh, phần Tam Thập Lục Nạn có chép: “Tả giả vi thận, hữu giả vi Mạng Môn. Mạng Môn giả chư thần tinh chi sở hàm, nguyên khí chi sở hệ. Cố nam dĩ tàng tinh, nữ tử dĩ hệ bào” (bên trái gọi là thận, bên phải là Mạng Môn. Mạng Môn là chỗ chứa đựng Thần và Tinh, duy tŕ nguyên khí. V́ thế, đàn ông th́ phải chứa tinh (đừng phung phí tinh), đàn bà phải giữ cẩn thận tử cung).

[36] Vĩ Lư (尾閭, c̣n có tên gọi là Trường Cường) là một huyệt đạo nằm ở xương cụt, phía trên hậu môn. Vĩ Lư có nghĩa gốc là “chỗ quy tụ của các ḍng nước biển”. Theo Trung Y, huyệt Vĩ Lư có tác dụng khống chế hai mạch Nhâm và Đốc.

[37] Câu này có nghĩa là mỗi lần hành dâm, tinh, khí, thần đều bị hao tán, tức là nguyên tinh trong hai mạch Nhâm và Đốc cũng bị hao tổn. Nếu phóng túng trong chuyện ân ái, tinh, khí, thần bị hao tán đến nỗi không kịp sanh ra để bù đắp, giống như nước biển bị cạn kiệt.

[38] Hoàng Đ́nh (黃庭) thật ra là hai bộ kinh trọng yếu của Đạo giáo, tức Thái Thượng Hoàng Đ́nh Nội Cảnh Ngọc Kinh và Thái Thượng Hoàng Đ́nh Ngoại Cảnh Ngọc Kinh. Hai kinh này xuất hiện vào thời Ngụy - Tấn, được xếp vào phần Động Huyền trong Chánh Thống Đạo Tạng. Nội dung chỉ cách tu luyện tinh, khí, thần. Nội Cảnh được phái Thượng Thanh rất coi trọng, tôn xưng kinh này là kinh điển căn bản để tu luyện nội đan. Theo đa số các nhà chú giải, Hoàng Đ́nh có nghĩa là Trung Ương; nếu hiểu theo cơ thể, th́ mỗi bộ vị đều có một vị thần cư trú. Hoàng Đ́nh là nơi cư trú của vị thần chủ tể, trung ương, c̣n Hoàng Đ́nh cụ thể ở đâu th́ mỗi nhà có mỗi thuyết khác nhau. Do là kinh điển căn bản của cách tu nội đan, nên kinh Hoàng Đ́nh rất được Đạo gia coi trọng. Thậm chí có người tin tưởng chỉ cần tụng kinh Hoàng Đ́nh th́ cũng có thể thành tiên. Do vậy, trong các bộ tiểu thuyết cổ của Trung Hoa, mang nặng tánh chất thần thoại, hay chép những chuyện như cây tre, cây thông, thậm chí những cái mơ gỗ, những cái linh bằng đồng lâu đời, do nghe đạo sĩ tụng kinh Hoàng Đ́nh bao nhiêu năm bèn biến thành yêu quái.

[39] Văn Tuyển (文選) có tên gọi đầy đủ là Chiêu Minh Văn Tuyển, là một bộ sách tổng tập về thơ văn của Trung Hoa cổ đại. Bộ sách này do Chiêu Minh Thái Tử Tiêu Thống (con trai Lương Vũ Đế) đă lănh đạo các văn nhân hữu danh thuở ấy biên soạn. Tác phẩm này gồm có sáu mươi quyển, bao gồm những tác phẩm nổi tiếng tính từ thời cổ cho đến thuở ấy, bao gồm đủ thể loại phú, thơ, tao (chẳng hạn như Ly Tao), chiếu, sách, lệnh, giáo, văn, biểu, thư, khải v.v… So với Ngũ Kinh, Văn Tuyển được người đọc sách hâm mộ đến nỗi người đời Tống c̣n nói: “Văn Tuyển lạn, Tú Tài bán” (Văn Tuyển hư nát th́ tú tài chỉ c̣n một nửa). Tác phẩm này được chú giải rất nhiều.

[40] Bành Tổ (彭祖) tên thật là Bành Tiễn, là một người theo truyền thuyết sống rất thọ. Đạo giáo coi ông là hóa thân của Nam Cực Tiên Ông. Tương truyền, ông sống đến tám trăm tuổi. Ông là “lai tôn” (cháu đời thứ năm, ta thường gọi là “chít”) của vua Chuyên Húc. Cha ông là Lục Chung, con trưởng của Ngô Hồi, mẹ là Nữ Khoái (em của thủ lănh bộ tộc Quỷ Phương). Do Bành Tổ khéo nấu canh gà được vua Nghiêu ưa thích, nên Lục Chung được phong ở đất Đại Bành; do vậy, con cháu đều mang họ Bành. Bành Tổ từng làm quan cho các triều đại Hạ, Thương, và Châu.

[41] Tố Nữ (素女) tức là Cửu Thiên Tố Nữ, c̣n gọi là Bạch Thủy Tố Nữ, là một vị nữ thần trong truyền thuyết của Trung Hoa cổ đại, sống cùng thời với Hoàng Đế. Bà giỏi âm nhạc, biết rành về đạo âm dương, tinh thông pḥng trung thuật. Bà cùng với Huyền Nữ (Cửu Thiên Huyền Nữ) làm thầy của Hoàng Đế. Tương truyền bộ Tố Nữ Kinh là những lời dạy bảo của bà dành cho Hoàng Đế về pḥng trung thuật. Có một truyền thuyết về đàn cầm (cổ cầm) như sau: Vua Thần Nông chế ra đàn cầm có năm dây. Hậu nhân cải tiến dần dần, biến thành đàn cổ cầm có năm mươi dây. Tố Nữ giỏi đàn cầm, nhưng những khúc nhạc của bà quá bi thiết, Hoàng Đế nghe rồi buồn bực, bèn chặt cây cổ cầm của Tố Nữ làm đôi; do vậy, đàn cổ cầm chỉ c̣n hai mươi lăm dây.

[42] Tiết Thôi (節推) là gọi tắt của chức Tiết Độ Sứ Thôi Quan, tức vị quan phụ tá của Tiết Độ Sứ, chuyên lo về thẩm vấn, tra án, quản trị giam giữ, lao tù.

[43] Theo Đạo giáo, cung điện của vua Diêm La (Diêm Vương) được gọi là Sâm La điện (森羅殿). Chữ Sâm La thường bị đọc trại thành Sum La.

[44] Ngũ Đế là năm vị Đại Đế trong Đạo Giáo. Những vị này đă được thờ phụng từ đời Châu. Năm vị ấy chính là Đông Phương Thanh Đế Linh Oai Ngưỡng, Nam Phương Xích Đế Xích Tiêu Nộ, Trung Ương Hoàng Đế Hàm Xu Nữu, Tây Phương Bạch Đế Bạch Chiêu Cự, và Bắc Phương Hắc Đế Diệp Quang Kỷ.

[45] Ngũ Hư (五虛) là năm chứng bệnh, thường gọi là năm hư chứng do tinh khí tại ngũ tạng bị hư tổn. Theo sách Tố Vấn, thiên Ngọc Cơ Chân Tạng Luận, mạch nhỏ yếu, da lạnh, thở yếu ớt, tiết tinh dầm dề đồng thời với thổ tả, chẳng ăn uống được th́ gọi là Ngũ Hư. Hoặc có thể hiểu đơn giản hơn, Ngũ Hư là tim, phổi, gan, tỳ, thận đều bị hư tổn. Ngũ Hư không chữa trị th́ sẽ chết.

[46] Lục Hao (六耗) là ngày có thể bị cảm nhiễm bởi sáu thứ bệnh do các yếu tố âm, dương, sáng, tối, gió, mưa theo Đông Y.

[47] Thiên đản (天誕) là sinh nhật của Ngọc Hoàng Thượng Đế.

[48] Tam Nguyên (三元) c̣n gọi là Tam Nguyên Đại Đế, hoặc Tam Quan Đại Đế, tức Thượng Nguyên Thiên Quan Tứ Phước, Trung Nguyên Địa Quan Xá Tội, và Hạ Nguyên Thủy Quan Giải Ách. Ngày vía của họ tương ứng với ba ngày Rằm lớn trong năm (tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười).

[49] Lưu Chân Quân, c̣n gọi là Lưu Chân Nhân. Ông họ Lưu, tên Tư Kính. Thuở trẻ, thích uống rượu, chuộng thuật trường sanh. Đến lớn, ông sang chơi Tứ Xuyên, được Linh Bảo Trần Quân truyền dạy bí quyết luyện đan, thực hành phép tu Hỗn Nguyên; sau đấy, vào núi Long Sơn làm đạo sĩ, có đạo hiệu là Chân Không Tử.

[50] Nguyên Đế ở đây chính là Huyền Thiên Thượng Đế, tức Huyền Vũ Đại Đế, hoặc gọi đầy đủ sẽ là Bắc Cực Trấn Thiên Chân Vũ Huyền Thiên Thượng Đế Ngọc Hư Tổ Sư Kim Khuyết Hóa Thân Đăng Ma Vĩnh Trấn Chung Kiếp Tế Khổ Thiên Tôn. Vị này c̣n được gọi là Nguyên Thiên Thượng Đế, Khai Thiên Thượng Đế, hoặc Bắc Cực Hựu Thánh Chân Quân, hoặc Hắc Đế, là thần thống trị phương Bắc theo Đạo Giáo, tương ứng với Huyền Vũ trong tứ phương và là hóa thân của Bắc Cực Tinh. Vị này được thờ phụng như thần bảo hộ thành Thăng Long (Hà Nội), và nơi thờ Ngài được gọi là đền Trấn Vũ, hay gọi nôm na là Quán Thánh, và đă bị đọc trại thành đền Quan Thánh.

[51] Theo ông Hoàng Bách Lâm, “ác thai” là thai nhi chết trong bụng mẹ, hoặc bị dị tật nặng nề, có sanh ra cũng khó nuôi sống được.

[52] Hạo Thiên Thượng Đế là danh xưng khác của Ngọc Hoàng Thượng Đế (c̣n gọi là Thiên Hoàng Đại Đế, Thái Nhất, Hạo Thiên Huyền Khung Thượng Đế, Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu Di La Chí Chân Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả Ngọc Hoàng Xá Tội Tứ Phước Đại Thiên Tôn Huyền Khung Cao Thượng Đế), là vị thần tối cao trong tam giới, nhưng vẫn thấp hơn Tam Thanh (Ngọc Thanh, Thái Thanh và Thượng Thanh). Đạo giáo coi vị này là một vị tôn thần do Tam Thanh ứng hóa.

[53] Nguyên Đàn (元壇) chính là Triệu Huyền Đàn, là vị Vũ Tài Thần trong Đạo giáo. Ông c̣n được gọi là Triệu Nguyên Soái (Triệu Công Minh).

[54] Vị này là thần cai quản Trung Nhạc tức Tung Sơn, tôn hiệu đầy đủ là Trung Nhạc Tung Sơn Trung Thiên Sùng Thánh Đại Đế, là một vị trong Ngũ Nhạc Đại Đế, chủ tŕ khảo hạch thiện ác.

[55] Vị này có tôn hiệu là Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Tề Nhân Thánh Đại Đế, đứng đầu năm vị Ngũ Nhạc Đại Đế, chưởng quản sự sống chết, sang hèn của người trong cơi trần, đồng thời là cấp trên của Thập Điện Diêm Vương.

[56] Thương Hiệt (蒼頡) là người được coi là đă sáng tạo ra chữ Hán. Đạo giáo tôn xưng ông là Thương Hiệt Tiên Sư, Chế Tự Tiên Sư, Chế Tự Tiên Thánh, hoặc Thương Hiệt Chí Thánh. Tương truyền, ông có đến bốn con mắt. Ông làm quan Hữu Sử của Hoàng Đế.

[57] Địa Lạp là một trong năm ngày Lạp của Đạo giáo. Theo sách Vân Cấp Thất Thiêm, Đạo Giáo định ra năm ngày cúng tế cầu phước trong một năm, gọi là Ngũ Lạp, bao gồm Thiên Lạp, Địa Lạp, Đạo Đức Lạp, Dân Tuế Lạp và Hầu Vương Lạp. Thiên Lạp là ngày mồng Một tháng Giêng.

[58] Lôi Tổ là cách gọi tắt của dân gian đối với vị thần Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn trong Đạo Giáo. Vị này chưởng quản Ngũ Lôi (Thiên Lôi, Địa Lôi, Thủy Lôi, Thần Lôi, và Xă Lôi). Thuộc hạ dưới quyền là Cửu Thiên Lôi Môn Sứ Giả. Về nguồn gốc của vị này, có nhiều thuyết, phổ biến nhất là vị này do Trường Sanh Đại Đế hóa thân, thuyết thứ hai nói vị này là hóa thân của Hoàng Đế, nhằm trấn áp yêu ma, chưởng quản sấm sét.

[59] Theo Đạo giáo, có tất cả sáu mươi vị thần lần lượt chưởng quản nhân gian mỗi năm. Sáu mươi vị thần ấy tương ứng với chu kỳ sáu mươi năm của một Hoa Giáp (tức là mười Thiên Can phối hợp với mười hai Địa Chi thành sáu mươi năm). Tùy theo vũ khí hoặc dụng cụ cầm trong tay của mỗi vị thần ấy (thường gọi là Trị Niên Thái Tuế hoặc Tuế Quân) mà người ta có thể dự đoán t́nh h́nh trong năm ấy. Chẳng hạn như năm Mậu Th́n, Thái Tuế là Triệu Đạt đại tướng quân, mang h́nh rồng, hai tay cầm rồng; năm Quư Dậu, Thái Tuế là Khang Chí đại tướng quân, có h́nh gà, tay cầm cờ lệnh v.v…

[60] Tăng Phước Tài Thần c̣n gọi là Tăng Phước Chân Quân, hoặc Tăng Phước Tướng Công. Theo Đạo giáo, vào thời Bắc Ngụy, tại núi Ngũ Tùng thuộc Truy Châu, quan huyện lệnh Khúc Lương là Lư Quỷ Tổ liêm chánh, đạo đức, yêu dân như con, thường bỏ hết bổng lộc để thí xả nhân dân. Sau khi chết, ông được dân chúng tôn thờ thành thần. Về sau, ông trở thành thủ hạ của Đông Nhạc Đế Quân đặc trách xét đoán công và lỗi của người mới mất. Cho đến đời Đường, ông được sắc phong là Tài Bạch Chân Quân, rồi được phong là Thần Quân Tăng Phước Tướng Công. Đến đời Nguyên lại được phong là Phước Thiện B́nh Thí Chân Quân.

[61] Vị này có tên gọi đầy đủ là Bắc Nhạc Hằng Sơn An Thiên Huyền Thánh Đại Đế, là thần núi của Hằng Sơn, trông coi sông, ng̣i, hồ, suối, biển cả, cũng như các loài hổ, báo, rắn rết, độc thú v.v…

[62] Phong tục thờ phụng này thịnh hành tại phương Nam Trung Hoa, thường gọi là Cửu Hoàng Thắng Hội. Cửu Hoàng (c̣n gọi là Cửu Vương Gia, Cửu Vương) là chín vị thần tinh tú. Có nhiều thuyết, phổ biến nhất là thuyết cho rằng: Cửu Hoàng là chín vị tinh quân thuộc về tinh ṭa Bắc Đẩu, tức Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, cộng thêm Tả Phù và Hữu Bật. Thông thường, Đạo Giáo tin chín vị tinh quân ấy do Đẩu Mẫu sanh ra.

[63] Kim Long Tứ Đại Vương vừa là thần núi Kim Long tại tỉnh Chiết Giang vừa là thủy thần tại khu Tào Vận tỉnh ấy. Tương truyền, ông là ẩn sĩ Tạ Tự sống vào thời Tống. Khi nhà Nam Tống bị diệt, ông đă để lại di huấn: “Sống đă chẳng thể báo đền đất nước, chết sẽ cầu khẩn Thượng Đế” rồi nhảy xuống sông tự sát, nên được tôn thờ thành thần. Sau khi chết, thân thể trôi ngược ḍng, tấp vào chân núi Kim Long, nên được thờ làm thần núi tại đó. V́ ông là con thứ tư trong gia đ́nh, nên gọi là Kim Long Tứ Đại Vương.

[64] Nam Nhạc Đại Đế có tên gọi đầy đủ là Nam Nhạc Hành Sơn Tư Thiên Chiêu Thánh Đại Đế, là thần núi Hành Sơn.

[65] Thiên Do Thượng Đế là một trong Bắc Cực Tứ Thánh của Đạo giáo, tức là bốn vị chân quân ở phương Bắc. Bắc Cực Tứ Thánh bao gồm Thiên Bồng Đại Nguyên Soái Chân Quân, Thiên Do Phó Nguyên Soái Chân Quân, Dực Thánh Bảo Đức Trừ Khánh Chân Quân, và Chân Vũ Linh Ứng Hựu Thánh Chân Quân. Bốn vị này đều là thuộc hạ của Bắc Đế (Huyền Thiên Thượng Đế).

[66] Tam Phục là ba thời kỳ được coi là nóng nhất trong năm. Theo Âm lịch, từ sau tiết Hạ Chí cho đến ngày Canh thứ ba sẽ là Sơ Phục; ngày Canh thứ tư gọi là Trung Phục, từ sau Lập Thu cho đến ngày Canh thứ nhất là Hạ Phục.

[67] Thái Nguyên Độ tên thật là Thái Biện, là em trai của gian thần Thái Kinh (tể tướng nhà Tống), con rể của Vương An Thạch. Về sau, hắn bất ḥa với Thái Kinh, bị Thái Kinh hủy báng, gièm pha, vu cáo, phải bị biếm làm tri huyện tại Hà Nam. Do giao du thân thiết với yêu đạo Trương Hoài Tố, hắn bị trị tội, giáng chức.

[68] Trương Giác (?-184) là người ở quận Cự Lộc (nay là huyện Ninh Tấn, tỉnh Hà Nam), thủ lănh của Thái B́nh Đạo đời Đông Hán, và là chủ soái của giặc Hoàng Cân. Hắn tự xưng là vào núi hái thuốc, được Nam Hoa Lăo Tiên truyền trao thiên thư Thái B́nh Yếu Thuật. Thật ra sách này chỉ là bộ sách Thái B́nh Thanh Lănh Thư do Can Cát biên soạn, trá xưng được thần tiên trao tặng, chủ yếu là dùng phù chú để chữa bệnh. Đệ tử của Can Cát là Cung Sùng và Tương Khải đă từng dâng sách này lên hoàng đế, nhưng không được coi trọng. Khi sách lọt vào tay Trương Giác, hắn bèn khéo léo tuyên truyền để sáng lập Thái B́nh Đạo, tự xưng là Đại Hiền Lương Sư. Nhân dịp một căn bệnh dịch lớn nổ ra vào tháng Giêng năm Trung B́nh nguyên niên (184), Trương Giác chữa nhiều người lành bệnh, nên dân chúng tin theo, gọi hắn là thần tiên sống. Do đó, Thái B́nh Đạo truyền khắp các vùng Thanh Châu, Từ Châu, Kư Châu, Kinh Châu v.v… tín chúng lên tới mấy chục vạn người. Hắn chia tín đồ thành ba mươi sáu phương, mỗi phương lập ra một thủ lănh, tuyên bố “trời xanh đă chết, trời vàng đang thành lập, vào năm Giáp Tư, thiên hạ đại cát”. Lại truyền tín đồ dùng đất sét trắng viết hai chữ Giáp Tư lên cửa. Sau đó, cùng năm ấy, Trương Giác cùng với em là Trương Bảo, Trương Lương dựng cờ khởi nghĩa. Do loạn quân quấn khăn vàng nên Sử gọi là giặc Hoàng Cân. Không lâu sau, Trương Giác bị bệnh chết, Trương Bảo và Trương Lương chiến bại, đều tử trận. Loạn Hoàng Cân nhanh chóng tan ră.

[69] Tôn Ân tự là Linh Tú, quê ở quận Lang Gia, đệ tử của Ngũ Đấu Mễ Đạo, tôn Đỗ Tử Cung làm thầy, về sau kế vị thành giáo chủ của Ngũ Đấu Mễ Đạo. Hắn cùng chú là Tôn Thái dấy binh phản Tấn, ba lần tấn công vùng Tam Ngô, nhưng đều bị triều đ́nh phải chạy ra hải đảo ẩn náu. Năm Long An thứ năm (401), hắn lại kéo quân về tấn công Hải Diêm, nhưng bị Lưu Dụ đánh bại. Hắn chuyển hướng tấn công vùng Hỗ Độc, thừa cơ uy hiếp kinh đô Kiến Khang. Quân Đông Tấn dưới sự chỉ huy của Tư Mă Nguyên Hiển phản công mạnh mẽ, lại thêm bị Lưu Dụ tấn công, Tôn Ân dần dần thất thế, phải rút chạy về hải đảo. Đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (402), do quyền thần Hoàn Huyền giết cha con Tư Mă Đạo Tử, giành được quyền hành tuyệt đối trong triều, Tôn Ân cho là thời cơ đă đến, bèn trở về đất liền, lại thất bại, thế cùng phải nhảy xuống biển tự trầm. Dư đảng tôn em rể của hắn là Lô Tuần lên làm thủ lĩnh, đánh nhau dây dưa măi cho đến khi bị Lưu Dụ dẹp yên vào năm 411. Lô Tuần phải tự sát.

[70] Hoàng Bạch là từ ngữ chỉ thuật luyện đan dược, điểm hóa sắt thành vàng bạc v.v… Theo Nhị Khắc Phách Án Kinh Kỳ quyển mười tám: “V́ sao gọi là thuật Hoàng Bạch? Bọn phương sĩ luyện đan dụ người khác [bỏ tiền mua vật liệu cho họ] luyện đan, nói là chúng đă dưỡng thành Hoàng Nha, lại sanh ra Bạch Tuyết, dùng loại đan dược ấy để điểm hóa th́ những loại như thủy ngân, ch́ sẽ biến thành hoàng kim, bạch ngân. V́ thế, thuật luyện đan được gọi là thuật Hoàng Bạch”.

[71] Quảng Lăng nay là thành phố Dương Châu thuộc tỉnh Giang Tô, c̣n Tây Khê thuộc phía Đông thành phố Đông Đài tỉnh Giang Tô.

[72] Nguyên văn “nam hóa điếm”, ta thường gọi là tiệm chạp phô (tức chữ “tạp hóa” mô phỏng cách phát âm trong tiếng Quảng Đông). Sở dĩ gọi là Nam Hóa v́ thoạt đầu các sản phẩm bán trong các tiệm ấy đa số là sản phẩm của những vùng phía Nam Trường Giang. Về sau, hễ tiệm nào bán đủ thứ mặt hàng linh tinh đều gọi là Nam Hóa Điếm, hoặc Tạp Hóa Điếm.

[73] Ô mộc (Ebony) là một loại cứng, lơi đen bóng, thuộc họ Thị (Diospyros). Loại gỗ này rất nặng và bền, thả xuống nước sẽ ch́m lỉm, nên đôi khi c̣n gọi là Trầm Mộc. Gỗ mun của ta thuộc loại này.

[74] Chế Trí Sứ (制置使) là chức quan trông coi việc binh bị tại các lộ (tỉnh) thời Tống, đa số thường kiêm thêm chức An Phủ Sứ.