Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên
感應篇彙編
Quyển 4
Phần 1
(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội năm 2000)
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
(Chánh văn) Cưỡng thủ
cưỡng cầu, hiếu xâm, hiếu đoạt.
(正文)強取強求。好侵好奪。
(Chánh văn: Đoạt ngang,
cướp cạn, thích xâm lấn, thích chiếm đoạt).
Phần số chẳng
đáng có, mà cứ ắt muốn đạt được
th́ gọi là Cưỡng (強). Lấy những thứ của người khác
để cung cấp cho chính ḿnh là Thủ (取). Do v́ chính ḿnh mà nhờ cậy người khác th́ gọi là Cầu (求). Dùng quỷ kế để ngấm ngầm chiếm
lấy th́ gọi là Xâm (侵). Cậy
thế chiếm lấy công khai th́ gọi là Đoạt (奪). Đạt được như thế, sẽ
khó thể tiêu thụ, ắt sẽ là ngay cả những ǵ vốn có cũng bị mất luôn!
Trịnh Tuyên nói: - Tôi thấy
tiền bạc là món vật mọi người đều
yêu mến, ắt sẽ tranh giành. Cốt nhục bởi nó mà dẫn đến gây hấn. Hàng quan lại
do tiền mà danh tiếng suy bại. Con buôn v́ thứ này mà mất mạng. Phố phường do
tiền mà đấu đá, chém giết. Nó chợt đến,
chợt đi, thoáng sang, thoạt hèn, lung lạc suốt một
đời. Nói chung, [tiền bạc đem lại] phước
cho con người th́ ít, mà dẫn đến họa cho con
người th́ nhiều. Tôi đă từng nh́n kỹ h́nh dạng của nó, [trong chữ
Tiền (錢)], bên cạnh
chữ Kim (金) là chữ
Qua (戈, cái giáo), đúng là vật giết người!
[Thế mà] người ta chẳng tỉnh. Ôi! Tiền
ơi, tiền hỡi, do ta nghèo túng, cầu ngươi nuôi sống ta mà chẳng thể
được! V́ thế, ta đành bó tay với
ngươi! Do ta nghèo hèn, ngươi muốn giết ta mà cũng
chẳng thể được, há ngươi có thể làm
ǵ được ta ư?
Vệ công Triệu Hùng lúc c̣n
hàn vi, nghèo khổ nhất. Mẹ c̣n sống mà không có ǵ
để phụng dưỡng mẹ sống qua ngày, vợ
chồng nh́n nhau khóc. Hôm sau, quét đất, nhặt
được một nén bạc, nặng hai mươi
lăm lượng bèn có thể sống tạm. Về sau,
ông đạt đến địa vị Tể Tướng,
theo lệ, [tiền lương là] một trăm đĩnh bạc; [khi nhận bạc], bị thiếu mất
một đĩnh. Ông sắp sửa vặn hỏi người giữ
kho, th́ đêm mộng thấy thần bảo: “Vào ngày tháng
năm đó, tướng công đă mượn dùng trước một đĩnh”. Ôi! Trong mạng có tiền tài, thời vận
chưa đến, c̣n chẳng thể ra sức giành giật
được, huống hồ [trong vận mạng] vốn
chẳng có mà cứ cưỡng chiếm ư!
Tại Giang Tây, Triệu Thượng
Thư sống gần nhà ông Thường Tỉnh Nguyên. Ông
Thường có một mảnh vườn hết sức
tao nhă. Họ Triệu dùng đủ mọi kế cưỡng
chiếm, ông Thường bèn lập văn khế tặng cho họ Triệu,
đề bài thơ đằng sau [tờ văn khế] rằng:
Càn
khôn đáo xứ thị ngô đ́nh,
Cơ giới
tùng lai vị tất chân,
Phúc
vũ phiên vân thành để sự,
Thanh
phong hạo nguyệt lănh khan (khán) nhân,
Lan
Đ́nh hễ sự kim phi Tấn,
Đào
động hoa thần dă tiếu Tần,
Viên thị
chủ nhân, thân thị khách,
Vấn
quân hoàn hữu kỷ niên xuân?
(Tạm dịch:
Đất trời mọi chốn
vốn vườn nhà,
Mưu mẹo giành về há
thật a?
Đảo lộn mây mưa
ḥng đoạt lấy,
Trăng trong gió mát vẫn
ơ hờ.
Buổi tế Lan Đ́nh
thành quá khứ[1],
Thần hoa Đào Động
vẫn cười Tần[2],
Vườn là chủ nhân, ta
khách trọ,
Hỏi chàng c̣n được
mấy năm xuân?)
Ông Triệu nhận
được bài thơ, hối hận, tạ ơn, từ
chối, chẳng dám nhận [khu vườn ấy]. Về
sau, ông Thường đậu cao. Ông Thường dùng
đức để khiến cho người khác cảm
động, ông Triệu dũng mănh hối lỗi; hiện
thời, hiếm có kẻ được như hai vị ấy.
Dương X… ở Côn
Sơn một hôm ngồi ở cửa, thấy một phụ
nữ đi qua, đánh rơi cái trâm bằng bạc xuống đá lót đường,
vang tiếng leng keng. Cụ vội đến xem, thấy
là một con giun (con trùn). Do dự một hồi lâu, bỗng
có một người đàn ông đi qua, nhặt lấy. Cụ
Dương lớn tiếng bảo: “Đây là cái trâm do ta
đánh rơi”. Người ấy biết là xạo, rảo
bước bỏ đi. Cụ Dương [cứ quấn
lấy] không buông, người ấy lấy ra hai phân bạc,
dùng một nửa để mua cá, giao cho cụ nửa phân
kia, dặn: “Ông già đừng [khiến cho tôi] vướng
bận chân tay nữa, hăy dùng bạc này để mua rượu,
nấu cá, nhậu cho đă một tối là được
rồi”. Cụ Dương quay về, sai con dâu nấu cá.
Trong khi đang hâm rượu, con mèo nhà hàng xóm bỗng ngậm
cá tha đi. Người con dâu vội lấy gậy phang
mèo; do đó, rượu bị đổ sạch, mà vật
dụng đựng cá cũng vỡ nát. Trâm hóa thành giun,
dường như là chuyện đáng nên tỉnh ngộ,
thế mà vẫn cứ cưỡng lấy, có thể ăn được hay
chăng? Ôi chao! Kẻ tham lam! Ôi chao! Kẻ bạc mạng.
Việc nhỏ [mà c̣n] như thế, vậy th́ cũng biết
chuyện lớn [là như thế nào]!
Ở huyện Ngân, có gă họ
Lục gian trá, giàu có. Do sản nghiệp của họ Trịnh
ở gần nhà hắn, họ Lục bèn ngấm ngầm
tính kế xâm chiếm. [Đă đoạt được], bèn san bằng ngôi nhà [của họ Trịnh]
để kiến tạo thành vườn hoa theo lối
cung đ́nh, chỉ chừa lại một cội cây đẹp
nhất. Về sau, họ Lục sanh được một
trai, nó đă lên năm mà câm bặt, chẳng thể nói. Bỗng
một hôm, nó chỉ cội cây, nói: “Cây ơi! Nay mày vẫn
c̣n đó à?” Người nhà hết sức kinh hăi; nó nói xong
lại câm. Chữa trị đủ kiểu, trọn chẳng
thốt ra một tiếng nào. Đến khi khôn lớn, nó
hoang dâm, ăn chơi, kiêu ngạo, khi gia sản đă khánh
kiệt bèn chết. Người ta nói nó là hậu thân của
họ Trịnh.
Đời Minh, Vương
sanh ở Nam Đô tánh tham lam, thô bỉ. Người bác họ
của hắn đă chết, không có con, nhưng đă có
người thừa kế. Vương sanh nḥm ngó gia sản
của ông ta, muốn
cưỡng chiếm. Thưa kiện suốt mấy năm, gặp phải vị quan
xét xử giữ đúng lẽ công bằng, hơi trấn
áp hắn, hắn liền nhục mạ, hủy báng không ngớt.
Năm ấy, khi hắn dự khóa thi mùa Thu, khéo sao, vị
quan từng thẩm vấn hắn lại làm chủ khảo.
Các giám khảo đă chấm văn bài của hắn đậu
hạng nhất, [niêm phong quyển văn, tŕnh lên quan chủ
khảo]. Tới khi [quan chủ khảo] rọc niêm phong ra
coi, thấy tên của thí sinh chính là gă đă chiếm đoạt
cơ nghiệp [của người bác họ] khi trước,
bèn quăng đi, loại bỏ tên hắn.
(Chánh văn) Lỗ lược trí
phú, xảo trá cầu thiên.
(正文)擄掠致富,巧詐求遷。
(Chánh văn: Cướp bóc
để trở nên giàu có. Xảo trá để cầu
thăng quan tấn chức).
Nói đến “lỗ lược” (擄掠, cướp bóc), chẳng phải là do [áp
dụng phương thức] chiến tranh [để chiếm
đoạt] th́ làm sao quư vị đạt được?
Nhưng kẻ làm quan bóc lột dân chúng, lén ḅn rút công quỹ,
hoặc bọn cường hào ác bá cho vay lăi nặng, đều
là “lỗ lược”. Dùng
kiểu ấy để làm giàu, ắt sẽ dẫn đến
chuyện nhà tan cửa nát, gia đ́nh chia ĺa, vợ gào, con
khóc có thừa; há có thể an hưởng? Chẳng nghe nói đến chuyện “heo đất” (撲滿, phác măn) ư? Hậu (銗) như trong Hán Thư đă nói chính là cái “muộn hồ lô” (悶葫蘆, heo đất, ống để dành tiền)
trong hiện thời, làm bằng gốm. Phía trên vật ấy
có khe hở, chỉ có thể bỏ [tiền] vào, chẳng
thể lấy ra. Người ta dùng nó để dành tiền,
đợi đến khi nó đă đầy (măn, 滿), bèn đập ra (phác, 撲) để lấy tiền. V́ thế, gọi
là “phác măn”. Trong khi để
dành, chỉ sợ nó chẳng đầy; tới khi nó đă đầy tiền, đập
vỡ rồi thôi. B́nh vỡ, tiền chẳng c̣n, hai bên
đều trở thành hư huyễn! Cất chứa cho lắm,
về sau mất đi, có khác ǵ chuyện này?
Đời Tống, Lộ
Công Văn Ngạn Bác được cử trông coi Trường
An. Một hôm, ông đến đập Bôn Ngưu, có một
con trâu dùng để chở đất đắp đập
nói tiếng người: “Ta và Văn Ngạn Bác làm quan
đồng triều hai mươi năm, nay ta c̣n mặt
mũi ǵ để nh́n ông ta?” Lính canh đập thưa
tŕnh chuyện ấy, ông bảo dắt con trâu ấy tới.
Con trâu tới nơi, nằm mọp xuống đất, cúi gằm đầu, tuôn nước mắt
như mưa. Ông than dài: “Vị này lúc c̣n sống đă ḅn
rút công quỹ, nay mắc phải báo ứng này”. Do vậy,
ông bảo người giữ kho trong nhà ḿnh bỏ ra hai
mươi quan tiền để tăng thêm lượng thức
ăn cho con trâu ấy. Phàm công quỹ là do dân đóng góp,
[viên quan tham ô công quỹ] biến thành con trâu chở đất
đắp đập để đền trả dân chúng.
Kẻ đọc đến chuyện này, hăy nên suy nghĩ!
Đới Văn tánh tham lam.
Mỗi lần, hắn cho kẻ khác vay tiền, đều
tính lăi nặng gấp mấy lần để bóc lột. Nếu
trả nợ hơi trễ, liền đích thân đến
chèn ép thúc nợ. Nợ
nhiều th́ xiết ruộng
nương, nhà cửa, con cái; nợ ít th́ quần áo, đồ
trang sức, gia súc, thảy đều dọn sạch. Tới
khi hắn chết, sanh làm trâu trong nhà hàng xóm, dưới
hông có lông trắng, ghi hai chữ Đới Văn. Hàng xóm
đều mướn nó để cày ruộng. Có người
đă từng bị [Đới Văn] tước đoạt
[khi hắn c̣n sống], cho nên sai khiến, đày đọa
[con trâu] tàn nhẫn!
Một gă bán dầu ở Tô
Châu đến một nhà giàu có, trông thấy một đứa
bé năm tuổi đội mũ gắn chân châu, đeo
ṿng vàng, bèn dấy ḷng ác, ôm nó tới chỗ vắng vẻ,
giết chết. Do vậy, hắn bỗng trở nên giàu
có. Hắn sanh một đứa con, giống hệt như
đứa bé đă bị giết, cho nên trong tâm hắn rất ghét nó. Tới khi đứa
con năm tuổi, gă bán dầu trong tháng Hè bỗng ngủ
[gà gật], đứa bé rút cây trâm bằng bạc trong búi
tóc, giỡn hớt chọc vào ngực hắn. Gă đó ngỡ
là ruồi bu, giơ tay đập một phát, trâm xuyên thủng
ngực mà chết. Xem câu chuyện này, [phải biết]
người hiện thời dùng vàng ngọc trang hoàng cho con
cái cũng phải nên thận trọng!
Bậc quân tử hễ dự
vào hàng quan lại, hăy nên coi “trung trực, công bằng,
thanh liêm” là chuyện thuộc về phận sự
của chính ḿnh. Nay cũng v́ cầu được thiên
chuyển, thăng chức mà xảo trá, ắt tâm thuật chẳng
đoan chánh đến tột cùng! Đặt kẻ ấy
trong triều, ắt hắn sẽ chẳng tận trung, chẳng
công bằng; đưa hắn ra cai trị dân, hắn làm sao
có thể liêm khiết cho được? V́ thế, đức
Thái Thượng đặc biệt răn nhắc. Huống
chi trong đời người, công danh và tánh t́nh nhanh nhẹn
hay chậm chạp đă được định sẵn
từ lúc mới sanh ra, dẫu lo toan, chạy vạy suốt
đời, chẳng thêm được mảy may nào, chỉ tạo tṛ cười cho người
thông đạt, bị quỷ thần quở trách!
Thời vua Tống Hiếu
Vũ nhà Lưu Tống, Đới Pháp Minh, Đới Minh
Bảo, và Sào Thượng Chi là ba kẻ nắm trọng quyền thuở ấy. Hễ
kẻ
nào được họ tiến
dẫn, hoặc những điều họ nói ra, không ǵ chẳng
được [vua chuẩn tấu] thực hiện. Chỉ
có ḿnh ông Cố Khải Chi chẳng chịu xu phụ [bọn
chúng]. Ông từng nói: “Vận mạng đă được ấn
định sẵn, chẳng phải là do trí lực mà có thể
đổi dời được. Chỉ nên cung kính, kiềm
chế bản thân, giữ đạo. Nếu do xảo quyệt,
hư vọng mà may mắn đạt được, chỉ
là chôn vùi tiết tháo đó thôi, liên quan ǵ đến chuyện
được mất? Nếu có kẻ thấy nói kiểu
này bèn hỏi tôi: ‘Thời
nay thường có kẻ dùng
mưu trí để đạt được quan chức là v́
lẽ nào?’ Thưa rằng, vẫn là do mạng. Tuy nhiên,
dùng phương pháp quỷ quyệt để bắt chim,
bậc quân tử ắt chẳng làm!”
Năm Ất Tỵ (1665) đời Khang Hy nhà Thanh, gă họ Kê ở
huyện Sơn Âm được cử làm dịch thừa[3] tại
Long Giang Kiều tỉnh Vân Nam. Hắn sợ xa xôi, chẳng
muốn đi. Có người dân bán rượu họ Châu,
gia cảnh thuộc loại đủ ăn, họ Kê từng
chủ động đến nhà anh ta, bảo:
“Ngươi đưa cho ta hai trăm lạng, ta sẽ
trao văn bằng cho ngươi”. Họ Châu trong ḷng rất
cao hứng, liền trao tiền, nhận bằng. Người
ấy đến nhận chức, khéo sao phủ quân (quan
Thái Thú) đă quen biết với anh ta từ trước,
luôn giao phó cho [anh ta] những công tác tốt đẹp. [Anh ta] làm năm năm
bèn có được mấy ngàn lạng. Họ Châu đă
măn nguyện, bèn viện cớ bệnh tật để xin
về. Gă họ Kê sau khi nhận được vàng, lại
đổi tên, vào làm việc ở bộ Lại. Tới
khi ông Châu đă xin về, họ Kê lại được
phái đảm nhận chức vụ ấy. [Trước khi đó], có một đêm nọ, hắn đi nhà xí, thấy hai người
áo xanh nói với nhau: “Gă này là quan ǵ vậy?” Đáp: “Quan coi
dịch trạm tại Long Giang Kiều”. Nói xong, không thấy
đâu nữa. Đến khi tới nhậm chức, [họ Kê] lại được
bổ về Long Giang Kiều! Hắn vừa mới nhậm
chức, Ngô Tam Quế[4] làm phản
triều đ́nh, chẳng biết [họ Kê] có kết cục
như thế nào!
Đời Thanh, Tiền Bang
Khởi ở Đơn Đồ nói: - Phàm nhân luôn có tác dụng thông thiên, rốt
cuộc th́ làm thế nào để có thể tranh đua với
số phận đă định? Chỉ có một cách là
dùng âm chất, ắt có thể văn hồi số
phận đă định. Hôm qua làm, hôm nay có hiệu nghiệm;
buổi sáng làm, buổi tối có hiệu nghiệm. Báo ứng
trong cơi âm nhanh chóng nhất, sự giám sát của thần
minh tột bậc rơ rệt. Đấy chính là đường
lối không ǵ nhanh chóng bằng! Kẻ có tâm hễ thử sẽ
biết ngay!
(Chánh văn) Thưởng phạt
bất b́nh, dật lạc quá tiết.
(正文)賞罰不平。逸樂過節。
(Chánh văn: Thưởng phạt
chẳng công bằng, hưởng lạc quá độ).
[Trừng phạt tội lỗi
và tưởng thưởng công lao] quá nhẹ hay quá nặng,
chỉ cần hơi phạm sai lầm một phần, sẽ
là chẳng công bằng. Chẳng giữ công đạo (lẽ
công bằng), ḷng người chẳng phục. [Như thế
th́] không chỉ là chẳng thể biểu dương công
lao, trừng phạt tội lỗi, mà c̣n đâm ra tạo
thành oán hận chất chứa, chuốc lấy tai họa.
Đời Thục Hán, Gia Cát
Khổng Minh nói: “Tâm ta như
cái cân, chớ nên v́ một ai mà [thiên vị] nặng nhẹ”.
Trần Thọ khen ngợi [Khổng Minh] như sau: “Đối
với kẻ tận trung, có lợi cho triều chánh, thời
thế, dẫu là kẻ oán cừu, [Khổng Minh] ắt
tưởng thưởng. Kẻ phạm pháp, bê trễ
[trong chức vụ], dẫu là người thân, ông ta ắt
trừng phạt. Đối với kẻ đă nhận tội,
biểu lộ sự chân thành, dẫu phạm tội nặng,
ông ta ắt tha. Kẻ ăn nói khoác lác, xảo trá, màu mè, dẫu
phạm tội nhẹ, ắt bị ông ta xử tử. V́
thế, các tướng thuở ấy đều phục vụ
quên thân. Dẫu Ngụy Diên là phường phản trắc,
vẫn vâng phục [Khổng
Minh], chẳng nói đôi co. Lư
B́nh, Liêu Lập bị ông ta băi truất mà suốt đời
chẳng có một câu oán hận”. Kẻ nắm giữ trách
nhiệm thưởng phạt hăy noi theo gương ấy.
Dật lạc là chuyện ai
nấy đều cùng ham muốn. Lễ Kư chép: “Lạc bất khả cực, dục bất khả
túng” (Lạc chớ nên đạt
tới tột cùng, dục chớ nên luông tuồng). Sách Quốc Ngữ[5] chép: “Dân lao tắc tư thiện, dật
tắc tư dâm” (Dân chúng vất vả sẽ nghĩ
đến điều lành, nhàn rỗi sẽ nghĩ đến
dâm), tức là chẳng mong dân chúng nhàn rỗi. Mạnh Tử
nói: “Nhân sanh ư ưu hoạn,
tử ư an lạc” (người ta do biết lo âu mà sống,
quá lo hưởng yên vui sẽ chết), tức là chẳng
mong người ta hưởng an vui suông, huống hồ
quá mức ư! Nhưng cội nguồn của sự dật
lạc trong thế giới, nói chung chẳng có ǵ lớn
hơn tửu, sắc, tài, khí (氣, buông lung theo ư thích). Người thời nay ham mê
rượu, chẳng đoái hoài thân thể! Kẻ háo sắc
sẽ chẳng màng bệnh tật. Kẻ tham tài sẽ chẳng
đoái hoài thân thuộc. Kẻ xử sự buông lung theo ư
thích, sẽ chẳng quan tâm đến tánh mạng. Trước
khi gặp phải những thứ ấy, ai nấy đều
có thể tự hiểu [những đạo lư ấy], mà
cũng có thể khuyên bảo kẻ khác. Cho đến lúc những
cảnh ngộ [dụ dỗ, mê hoặc ấy] đưa
đến trước mặt, sẽ mê muội, tự
ḿnh phạm phải. Chỉ là tuy thấy thấu suốt,
nhưng chẳng thể nhẫn được. Nếu có
thể thấu hiểu bốn chữ “dật lạc quá tiết”, ắt sẽ có thể sửa
đổi những thói hư tật xấu. Kẻ có thể
ở trong những cảnh ngộ [tửu, sắc, tài, khí]
rất thân thuộc mà quên bẵng, đạt đến mức
độ “ít ham muốn, tâm
trong lặng” th́ sẽ có thể đội trời, đạp
đất.
Ḥa thượng Chí Công bàn luận
cùng Lương Vũ Đế về lạc sự. Sư
xin nhà vua thả mấy người tử tù để làm
thí nghiệm. [Người hầu] đă đem các tử tù
đến, Sư liền bảo họ mỗi người
bưng một chén nước đầy ắp đi một
ṿng trong cung, căn dặn: “Nếu chẳng làm sánh nước
ra ngoài, sẽ tha tội chết cho ngươi”. Dặn ḍ
xong, bèn sai tấu nhạc để động tâm họ.
Hồi lâu xem lại, chẳng có giọt nước nào
văng ra ngoài. Vua thở dài, hỏi [tử tù]:
“Ngươi có nghe nhạc hay không?” [Kẻ đó] tâu: “Không
nghe ạ!” Sư nói: “Bọn họ chính v́ sợ chết,
chỉ e nước tràn ra ngoài, làm sao c̣n nghe nhạc cho nổi!”
Người nào có thể luôn giữ ḷng kiêng sợ như
thế, ắt cái tâm buông lung hưởng lạc sẽ tự
nhiên chẳng sanh!
Vu Thiết Tiều nói: - Chuyên
ṛng siêng gắng như vận chuyển ngói, dè dặt
như đi trên vực băng. Hào kiệt, thánh hiền,
không ai đều chẳng như thế, ta là hạng
người nào mà dám an vui, xa xỉ? Kinh Dịch chép: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường
bất tức” (Trời vận hành chánh đáng, bậc quân tử
hăy nên học tập tinh thần tự cường chẳng
ngưng nghỉ ấy)[6]. Chỉ
v́ con người không dốc chí tự cường, cho nên
mới ơ hờ đối với những chuyện liên quan bức thiết đến
thân thể, cứ mong nhàn hạ cho qua ngày tháng. Nếu có
chí tự cường, th́ những chuyện bản thân ta đáng
nên làm sẽ là vô cùng, vô tận, thật sự chỉ cảm thấy chẳng đủ thời
gian, chẳng rảnh đâu để vui sướng, mà cũng chẳng dám buông lung!
Đời Tống, Phạm
Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) nói: - Ta mỗi đêm
khi sắp ngủ, ắt tính toán chi phí dành cho ăn uống
suốt ngày từ tiền bổng lộc và [so sánh với] những việc đă làm được
trong ngày. Nếu tương xứng, ắt sẽ ngủ
sâu, yên giấc, chẳng c̣n hổ thẹn. Nếu như chẳng
tương xứng, suốt đêm sẽ chẳng thể yên
giấc.
Đời Tống, Tư Mă
Ôn Công nói: - Lúc cha ta làm quận phán (郡判, quận mục phán quan), khách đến
thăm bèn mời rượu, hoặc là [mời cạn ly]
ba lượt, hoặc năm lượt, chẳng hơn bảy
lượt. Rượu mua ngoài chợ, quả hạt
[để nhắm rượu] chỉ là lê, hạt dẻ,
táo, hồng. Cỗ
bàn chỉ là canh rau nấu
thịt khô, hoặc thịt muối. Chén bát chỉ dùng loại
bằng sành hoặc tre, gỗ. Sĩ phu thuở ấy toàn là như vậy,
chẳng có ai phê phán!
Đời Tống, Cừu
Thái Nhiên làm tri huyện Tứ Minh, rất tương đắc
với một thuộc quan (屬官, quan lại dưới quyền). Một hôm, ông hỏi
người ấy về chi phí tiêu dùng hằng ngày. Người
ấy thưa: “Nhà tôi có mười người, mỗi
ngày tốn hết một ngàn đồng”. Thái Nhiên hỏi:
“Sao dùng nhiều thế?” Người ấy thưa: “Bữa
sáng có chút thịt, buổi tối th́ canh rau”. Thái Nhiên kinh
hăi, bảo: “Ta làm Thái Thú mà thường xuyên ăn rau. Ông bữa
nào cũng ăn thịt, chắc chắn không phải là kẻ
thanh liêm rồi”, bèn lợt lạt với người ấy.
Đời Nguyên, có hai sinh
viên trường Thái Học, sanh cùng ngày, giờ, tháng,
năm, cùng đỗ khoa thi Hương, cùng được
chọn làm quan. Một người được bổ làm
Giáo Thụ ở Ngạc Châu, người kia được
bổ làm Giáo Thụ ở Hoàng Châu. Không lâu sau, người
ở Hoàng Châu chết. Người ở Ngạc Châu hết
sức sợ hăi, sắp đặt sẵn hậu sự.
Vài ngày sau, vẫn chẳng chết, bèn sắp đặt lễ
vật đến phúng điếu [người ở Hoàng
Châu], khóc rằng: “Ông và tôi sanh cùng ngày, giờ, tháng, năm,
lại cùng đỗ đạt, ra làm quan. Nay ông qua đời
trước tôi, [chắc là] tôi cũng sắp chết. Nay
đă sau bảy ngày rồi, nếu có linh thiêng, hăy nên báo mộng
cho tôi”. Đêm đến, ông ta mộng thấy người
ở Hoàng Châu bảo: “Ông đối với mọi việc
đều tiết kiệm, cho nên sống thọ. Tôi hưởng
dụng quá lố, nên yểu thọ!”
Đời Lương có kẻ
giàu có họ Ngu, dựng một ṭa lầu cao bên đường
lớn, ngày đêm cùng mỹ nhân ca xướng, tiệc
tùng, cờ
bạc, chơi cờ vây trên đó. [Có một lần, trong đám khách
khứa], có người thắng bạc đang bưng miệng
mà cười, vừa khéo có ba người khách đi qua
dưới lầu, có một con chim ưng ngậm chuột
chết thối nát [bay qua], làm rơi xuống thân mấy
người khách đó. Khách ngẩng đầu lên nhằm
đúng lúc kẻ đó đang cười, [ngỡ kẻ
đó ném chuột lên người họ], hết sức giận
dữ nói: “Họ Ngu giàu sang, sung sướng đă lâu rồi!
Tao không xâm phạm nó, sao nó lại [xúi người khác] làm
nhục tao?” Họ bèn kéo bè đảng đến tiêu diệt
nhà ấy. Cố Tích Trù nói: “Dẫu chẳng dựng lầu
cao bên đường lớn, cũng sẽ bị tai họa
lạ lùng!” Đó gọi là tai ương do thói kiêu căng,
xa xỉ mà ra. Nguyên nhân dẫn đến tai họa chẳng
phải chỉ là một thứ, nhưng trong các tai họa
do thói kiêu căng, xa hoa gây nên, chỉ có nữ sắc là khốc
liệt nhất, là nhanh chóng nhất, càng phải nên ngăn
ngừa trước tiên! Vụ Thật Dă Phu nói: “Da bọc xương thịt và ô
uế. Gắng sức yêu kiều mê hoặc người. Thiên
cổ anh hùng thường mắc họa. Trăm năm rồi
cũng hố tro thôi”. Nếu ai có thể biết
được lư này, và [lănh hội những giáo huấn] từ
những phần chú giải cho câu “kiến tha sắc mỹ, khởi tâm tư
chi” (thấy sắc đẹp
của vợ con người khác bèn dấy ḷng toan dan díu)
và “dâm dục quá độ”, kính cẩn vâng giữ những
răn dạy ấy, ắt sắc đẹp nào cũng trở
thành rỗng tuếch, mới ḥng tránh khỏi họa hoạn
do phóng túng hưởng lạc vậy!
(Chánh văn) Hà ngược kỳ
hạ, khủng hách ư tha.
(正文)苛虐其下。恐嚇於他。
(Chánh văn: Hà khắc, ngược
đăi cấp dưới, đe dọa người khác).
Kẻ ở địa vị
trên mà tàn khốc, ngược đăi thuộc hạ và dân
chúng; ở trong nhà th́ đánh đập tôi tớ quá
đáng, đều là “hà ngược”
(苛虐, hà khắc, ngược đăi). Làm cấp
trên mà ngược đăi thuộc hạ, trong các phần
trước của tác phẩm này đă nói tường tận.
V́ thế, ở đây, chỉ nói tường tận về
chuyện đối đăi với kẻ dưới trong
nhà.
Đức Phật bảo
Thi Ca La Việt[7]: “Hết thảy người
đời đối đăi nô bộc, hăy nên có năm sự:
1) Một
là trước hết hăy nên biết họ đói, khát, lạnh,
nóng [như thế nào] rồi mới sai khiến.
2) Hai là đối
với kẻ có bệnh, hăy nên điều trị.
3) Ba là
chẳng được xằng bậy đánh đập.
Hăy nên hỏi han [để biết rơ] thật, hư, sau
đấy mới trách phạt, trừng trị. Có thể
tha thứ th́ hăy tha thứ. Chẳng thể tha thứ th́ mới
giáo huấn, trừng phạt.
4) Bốn
là nếu họ có đôi chút tài sản riêng, chẳng
được tước đoạt.
5)
Năm là cho họ đồ vật ǵ, hăy giữ sao cho b́nh
đẳng, chớ nên thiên vị, thiếu công bằng”.
Sách Viên Thị Thế Phạm[8] viết:
- Kẻ tôi đ̣i, đầy tớ phần nhiều bẩm
tánh ngu tối, làm việc hay sai sót, tánh lại dễ quên. Dặn
ḍ công việc, họ chẳng ghi nhớ trọn vẹn. Cá
tánh phần nhiều lại hay thiên chấp, nếu chẳng
phải là kẻ hay tự cho ḿnh là đúng, th́ tánh t́nh lại
hay ương bướng, ăn nói bừa băi, chẳng biết
tôn ty. Phàm là bậc gia trưởng, trong khi sai khiến họ,
hăy nên đối xử bằng ḷng khoan dung, giáo huấn nhiều
phen, chớ nên giận dữ, th́ trong tâm của chủ nhân
cũng cảm thấy an lạc. Dẫu chuyện phạm lỗi
của họ đáng
nên trừng trị, [chủ nhân] cũng nên b́nh tâm tra hỏi.
Đă trừng phạt, quở trách, trong khi kêu gọi, sai
khiến, hăy nên giữ vẻ mặt như thường,
ngơ hầu chẳng có chuyện khác xảy ra. C̣n như phụ
nữ bản tánh hẹp ḥi, cố chấp, bậc gia
trưởng phải thường nên khuyên nhủ, dạy
dỗ. Cũng đừng cho phép con em trong nhà tự tiện
đánh đập người hầu. Hễ có chuyện,
phải tŕnh báo với
gia trưởng. Nếu [đầy tớ] là kẻ ương bướng, hung bạo,
bất thiện, hăy nên khéo léo trả kẻ đó về
nhà, chớ nên [đối xử] quá nghiêm khắc, sợ kẻ
ấy sẽ ôm ḷng oán hận mà làm ác!
Bài thơ Bán Con có đoạn:
Dưỡng
nhữ như phượng sồ,
Niên hoang
trị kỷ tiền,
Khổ
cần đương tự ái,
Bất
tỷ tại nương biên.
(Nuôi con như phượng
non,
Năm đói đáng mấy
đồng!
Siêng khổ nên bảo trọng,
Chẳng như bên mẹ
đâu!)
Lại c̣n:
Khốc
tận nhăn trung huyết,
Sái nhữ
thân thượng y,
Nghiệp
duyên như vị đoạn,
Do vọng
mộng lai quy.
(Mắt tuôn sạch huyết
lệ,
Tưới đẫm áo con thơ,
Nghiệp duyên nếu chưa
dứt,
Vẫn mơ chuộc con về).
Vu Thiết Tiều nói: - Cai
quản kẻ dưới, cố nhiên chẳng nỡ ḷng
hà khắc, bạo ngược, mà buông thả [cho họ tự
tung tự tác] lại càng chẳng nên! Thường thấy
nhà quan lớn hoặc người sang cả, bọn nô bộc
ngang ngược, hung tợn, được tôn sùng như
Thượng Đế. Hễ ra ngoài, chúng bèn cưỡi ngựa
khỏe, mặc y phục lộng lẫy; trở về nhà
th́ cờ bạc, nhậu nhẹt. Hoặc là khách khứa
đến cửa, [lũ tôi tớ] vẫn ngồi ́ ra
đó, chẳng thưa hỏi. Hoặc thân thích đến
thăm [chủ nhà], [bọn chúng] bèn cự tuyệt, chẳng
thông báo, khiến cho kẻ mạnh th́ nổi giận bỏ
đi, kẻ yếu thế nuốt hận lui ra. Thậm
chí chúng nó c̣n mượn cớ sanh sự, cậy thế
lường gạt tiền bạc. Kẻ làm chủ trọn
chẳng nghe biết, [do lũ đầy tớ làm càn mà chủ
nhân bị] mọi người chống trái, thân thuộc xa
ĺa, bạn hờn, người oán đă chẳng thể
đếm xiết! Hăy nên thận trọng!
Đời Tấn, ông Đào
Uyên Minh răn dạy con: - Công việc sớm tối của
con nếu đều tự làm sẽ khó khăn. Nay sai khiến
họ (tôi tớ) giúp con lo liệu nỗi nhọc nhằn về củi, nước. Những kẻ ấy
cũng là con cái của người khác, hăy nên đối xử
đàng hoàng.
Đời Tống, phu nhân của
ông Thành Trai Dương Vạn Lư Tống tuổi đă ngoài
bảy mươi. Mỗi khi đến tháng Đông, cụ
sáng sớm thức
dậy, xuống bếp, tự
tay nấu một nồi cháo cho tất cả tôi tớ
ăn rồi mới sai họ làm việc. Con bà cụ là
Đông Sơn nói: “Trời lạnh ngắt, mẹ tội
ǵ khổ sở như vậy?” Phu nhân nói: “Tôi tớ
cũng là con của người ta. Sáng sớm trời rét
buốt, cần phải làm cho bụng họ tạm có
hơi ấm th́ họ mới có thể làm lụng
được”.
Đời Hán, Lưu Khoan
đối xử với người hầu tột bậc
khoan dung. Dẫu trong lúc hốt hoảng, ông chưa hề
ăn nói cộc cằn, hay lộ vẻ cáu kỉnh. Phu nhân
muốn thử làm cho Lưu Khoan tức giận, bèn chờ
đến lúc ông sắp vào chầu vua, đă ăn mặc
chỉnh tề xong, bèn sai đứa tớ gái bưng canh,
[giả vờ sẩy tay], đổ dơ triều phục
của ông. Lưu Khoan thong thả hỏi: “Canh có làm phỏng
tay ngươi hay không?” Thần sắc ông bất động.
Mẹ ông Hồ Thái tánh hết
sức tàn khốc, thường đánh đập tớ
gái khổ
sở, tàn độc chẳng thể nói được. Sau khi bà ta chết đă mười năm, cha
đă lấy vợ khác. Một hôm, Hồ Thái đi vắng,
trong nhà muốn giết một con gà, gà bỗng nói tiếng
người rằng: “Đừng có nấu ta, hăy đợi
thằng Thái trở về”. Trong chốc lát, Hồ Thái trở
về, gà chạy quanh chỗ ông ta ngồi, tự nói ŕ rầm:
“Do mẹ ngược đăi tớ gái, thác sanh làm gà”. Lại
nói rất tường tận những chuyện trong nhà. Hồ
Thái khóc lóc, kể với cha. [Cha con bèn nuôi con gà ấy], nuôi
nó đă lâu, nó bay lên mổ người vợ sau [của
cha ông Hồ Thái]. Khi Hồ Thái đi vắng, kế mẫu
bèn ném chết con gà. Ôi! Hiện thời, gà, chó thật nhiều,
biết là vợ của nhà nào? Đáng thương thay,
đáng sợ thay!
Quan Tư Mă Vương Giản Dịch ở
Hồng Châu bị chứng bệnh nghịch khí công tâm. Ông
chết đi rồi sống lại, bảo vợ rằng:
“Khi xưa, ta sai bảo bọn tớ nhỏ, đôi khi do chẳng cẩn thận mà bó buộc chúng
nó quá nghiêm khắc đến nỗi chúng nó chết mất.
Vừa rồi, ta tới âm ty là do bị đứa đầy
tớ nhỏ tố cáo, chẳng thể ḥa giải
được! Nay ta mắc căn bệnh này chính là v́ nó
quấy phá”. Vợ nói: “Đứa đầy tớ nhỏ
bé mà dám làm như vậy hả?” Ông bảo: “Dương gian
có sang hèn, chứ trong minh ty (âm ty) nhất loạt như nhau”. Ông chết
ngay sau đó.
Đe dọa có hai trường
hợp:
1) Một là thấy người
khác gặp nạn cấp bách, chẳng lo an ủi, mà cố
ư phô trương oai thế, khiến cho kẻ ấy sợ hăi.
2) Hai là chỉ mong cầu lợi,
hoặc báo đền oán thù từ trước, mà hư
trương thanh thế, khiến cho kẻ khác sợ ta,
ḥng thỏa ḷng ham muốn.
Từng nghe Quán Thế Âm Bồ
Tát trong chốn nạn gấp, sợ hăi, Ngài có thể khiến
cho chúng sanh chẳng sợ hăi, chứng đắc Viên Thông;
đấy là bậc nhất. V́ thế, chúng sanh trong cơi Diêm
Phù đều gọi Ngài là “đấng Thí Vô Úy”. Như vậy th́ kẻ dọa nạt
người khác sẽ trở thành [hạng người] như thế nào? Do
đó, bậc quân tử hễ gặp người khác lâm
vào cảnh sợ hăi, không ai chẳng tận lực an ủi. Tiếc là cơi đời chẳng
biết, thích làm cho kẻ khác kinh sợ; sau khi chết
đi, [những kẻ dọa nạt người khác] sẽ
sanh làm nai, làm mễn. Phàm những con nai, con mễn, ban ngày
th́ né tránh, sợ hăi các con thú khác, hễ có động liền
kinh hăi bỏ chạy tán loạn. Đêm th́ gác sừng lên cành
cây, g̣ ḿnh mà ngủ. Hễ bị đánh thức, ắt sẽ
guồng bốn chân kinh hoảng chạy bừa. Đă hết
kinh sợ lại ngủ, đă ngủ rồi lại bị
kinh động. Từ sẩm tối cho đến sáng, chẳng có một khắc
nào yên! Đấy là quả báo của chúng nó vậy!
Một khách thương nhỏ
ở Hồ Châu buôn bán gừng tại Vĩnh Gia. Kẻ nhà
giàu là Vương sanh, do tranh căi về giá gừng, tức
giận đánh vào lưng gă khách thương. Gă ta té lăn
ra đất, chết ngất, được cấp cứu
bèn tỉnh lại. [Vương sanh] xin lỗi, biếu một
xấp lụa. Khách thương về tới cửa sông,
nhà thuyền hỏi do đâu mà có lụa, [khách thương
liền] kể rành rẽ mọi chuyện. Nhà thuyền bèn
mua lại lụa và giỏ gừng. Khách thương đi
rồi, chủ thuyền bèn vớt một cái xác chết
trôi vô chủ, đem về chỗ ḿnh ở, đến gặp
Vương sanh thưa chuyện. Hắn nói: “Buổi chiều
có một người khách từ Hồ Châu qua đ̣ nói bị
ông đánh sắp chết, cậy tôi báo cho cha mẹ, vợ
con [người ấy] báo quan, để lại lụa và
cái giỏ làm chứng. Chẳng mấy chốc, [người
đó] tắt thở mà chết. Tôi chẳng dám không thưa
tŕnh”. Cả nhà Vương sanh khóc lóc, kinh hăi, đem hai
trăm ngàn đồng đút lót cho hắn. Gă nhà thuyền
cố ư làm ra vẻ miễn cưỡng nhận lời cầu
xin, cùng nhau đem xác chôn trong núi sâu. Có một đứa đầy
tớ của Vương sanh lên huyện tố cáo,
Vương sanh bị bắt giam, chết trong ngục.
Năm sau, gă khách thương buôn gừng lại đến, ghé thăm nhà họ
Vương, con ông Vương tưởng là quỷ. Khách
thương nói ḿnh chưa chết, nay đem một chút thổ
sản đến đáp tạ. Con ông Vương bèn giữ
khách lại, bắt gă đầy tớ thưa lên quan. Quan
bắt gă nhà thuyền, [tên đầy tớ và gă nhà thuyền]
đều chết trong ngục.
(Chánh văn) Oán thiên vưu nhân, ha
phong mạ vũ.
(正文)怨天尤人。呵風罵雨。
(Chánh văn: Oán trời, hờn người, chửi
gió, mắng mưa).
Thế giới Diêm Phù thường
được gọi là Khuyết Hăm (缺陷), con người mỗi chuyện làm sao đều
được vừa ḷng cho nổi? Kẻ chẳng xứng ư, ắt là v́ đă tích lũy
[phước đức] đơn bạc, cho nên được
hưởng thụ cũng đơn bạc. Hăy nên giữ
đúng bổn phận, suy nghĩ lỗi ḿnh, ḥng sửa chữa
tước vị đă được trời định
sẵn. Đấy là đường lối tốt lành từ
ngàn xưa để cư xử trong cảnh khốn cùng,
mà cũng là cách tốt lành để hướng lành, tránh
dữ. Oán trời, ắt trời càng giận. Hờn
người, ắt người càng ghét. Không chỉ là vô
ích, mà c̣n hại thêm!
Tiêu Tuấn Minh đă sớm đỗ đạt, nhưng đă lâu mà
chẳng được thăng chức, đă nhiều
lượt v́ vận mạng trắc trở mà oán trời.
Anh ta lại c̣n dâng sớ, cầu đảo. Đêm hôm ấy,
có một bức thư màu trắng rơi xuống trước lư
hương. Xem kỹ th́ là mười sáu chữ viết
theo kiểu chữ Triện từ cơi trời. Tuấn Minh
nghe nói Hà Tiên Cô[9]
linh ứng, bèn đến hỏi, tiên cô chẳng đáp. Tuấn
Minh tha thiết cầu xin, tiên cô bèn bảo: “Nhận năm
lượng vàng [hối lộ], bị giảm thọ
mười năm. Giết oan uổng một người,
sau khi [người ấy] đă chết, lại c̣n bị
xử lư, ngươi có làm những chuyện ấy hay
không?” Tiêu Tuấn Minh cứng họng, chẳng thể
đáp được!
Đời Tống, Chương
Đôn làm Tể Tướng, đă đày hết những
vị trọng thần thời Nguyên Hựu[10] xuống
Lănh Nam. Phạm Thuần Nhân thuộc vào số đó. Khi ấy,
Thuần Nhân đă bảy mươi tuổi, vâng theo mạng
lệnh, vui vẻ lên đường, thường căn
dặn các con, chớ nên bất b́nh chút nào! Hễ nghe các con
có lời oán trách Chương Đôn, ông Phạm bèn tức
giận, ngăn cấm. Trên đường đi, thuyền
bị lật trên sông, áo của Thuần Nhân bị ướt
sạch. Ông quay lại nh́n các con, bảo: “Đây cũng là
do Chương Đôn làm ra hay sao?” Qua câu chuyện của
ông Phạm, [ta biết] đạo học “vui theo mạng trời”. Ai có thể thấu đạt
lư này, sẽ an vui hứng
chịu, thuận theo, tự nhiên là chẳng có chuyện oán trời, hờn
người!
Gió mưa là công năng của
tạo hóa, mỗi chuyện đều có thần trông coi,
chưởng quản. Khổng Tử hễ gặp sấm
rền, gió mạnh, ắt nghiêm túc cầu khẩn thượng
thiên. Sách Khúc Lễ chép: “Nhược
hữu tật phong, tấn lôi, thậm vũ, tắc tất biến. Tuy dạ tất
hưng, y phục quan nhi tọa” (Nếu có gió giật, sấm rền,
mưa dữ, ắt thay đổi tư thế. Dẫu
ban đêm cũng thức dậy, mặc áo, đội mũ mà ngồi). Tŕnh Tử mỗi
khi gặp gió mưa ắt thức dậy, đó là v́ kính trọng
trời. Dân chúng vô tri, hễ mưa nhiều sẽ oán hận
ngập lụt, tạnh ráo nhiều, sẽ oán thán hạn
hán, gió mạnh ắt oán băo tố, chẳng nghĩ âm
dương mỗi thứ đều có vận số định sẵn. Hoặc là quan lại hà khắc, hung tợn, hoặc là do dân chúng
tạo nghiệp, sẽ đều có thể dẫn tới
[mưa gió] chẳng đúng thời; há có nên chửi mắng
hay không? [Chửi mưa mắng gió] chỉ càng làm tăng
thêm cái tội nghịch trời!
Tại trường huyện
ở Hàm Ninh, xứ Chân Định, có người lao công
nhà trường là Dương Khoan. Trong tiệc nhà quan, ông
ta lo châm rượu, trông thấy góc tường có hai luồng
gió lốc, bèn rưới rượu để đăi họ.
Về sau, ông ta theo mọi người tới núi Đông Nhạc
(Thái Sơn) thắp hương, gặp hai người lính
mời uống rượu. Chưa kịp hỏi tên tuổi
đă chia tay. Ngày hôm sau lên núi, đến một ngôi miếu
thờ thần, thấy h́nh dáng, dung mạo của hai [bức tượng] lính hầu giống hệt như người
đă mời ḿnh uống rượu, ḷng hết sức
kinh sợ. Đến chỗ trọ, bèn thấy hai người
lính nói: “Ông đừng ngờ vực! Hai người bọn
ta đều là thuộc hạ của Đông Nhạc Đại
Đế. Ngày nọ được sai phái, đi qua
quư xứ, được ông ban cho hai bầu rượu.
Do vậy, hôm qua dùng chén rượu để đáp tạ”.
Nói xong, chẳng thấy đâu nữa!
Đời Tống, có một
phụ nữ ở Ngạc Châu cọ rửa một cái chậu bằng sành bên sông. Bỗng mưa dầm khiến đường
sá ướt đẫm, mụ ta bèn buông lời tục tằn chửi
trời. Ngay lập tức, một cơn gió lạ cuốn
mụ ta lọt xuống sông. Chồng mụ vội cứu
lên, cái chậu sành đă bị phá thủng, mắc vào cổ mụ ta
như đeo gông. Toan gỡ ra, đau thấu cốt tủy.
Người đến xem chật cửa. Vài hôm sau, mụ
chịu không xiết nỗi khổ ấy, chết ngắc!
(Chánh văn) Đấu hợp tránh
tụng, vọng trục bằng đảng.
(正文)鬬合爭訟。妄逐朋黨。
(Chánh văn: Tranh chấp kiện
tụng. Kéo bè kết đảng làm quấy).
Kẻ khác có chuyện tranh chấp,
thưa kiện, hăy nên lựa lời khéo léo khuyên giải,
khiến cho việc lớn hóa thành nhỏ, việc nhỏ
hóa thành chẳng c̣n ǵ, ắt đôi bên đều cùng hưởng
phước ấy. Nếu thừa dịp đó, [xui nguyên
giục bị], khiến cho họ đấu đá nhau, hoặc
ngấm ngầm đốc xúi, hoặc tự đứng
ra làm chứng, hoặc thay họ nhào nặn bằng chứng,
thưa gởi, hoặc lo hết chuyện kiện tụng
nơi nha môn, để tiện làm ngư ông hưởng lợi.
Hạng người ấy bị thần trách, người
oán, tạo nên oan nghiệt rất nặng do ḷng sái quấy.
Khi nghiệp báo xảy đến, sẽ chẳng kham nổi
nỗi khổ ấy, hối hận chẳng kịp!
Lưu Nguyện Chất
lưng nổi nhọt độc, thuốc men chẳng lành.
Thầy lang bảo: “Đă trọn hết sức người
rồi, sợ là bị trời hại”. Nguyện Chất
bèn cậy đạo sĩ cầu khẩn thần Bắc
Đẩu. Đêm mộng thấy thần bảo:
“Ngươi phạm vào luật trời, dẫu cầu khẩn
Bắc Đẩu, cũng khó tránh được”. Nguyện
Chất thưa ḿnh vô tội, thần bảo: “Ngươi ngồi
dạy học ở nhà nọ, gây chuyện dẫn đến
thưa kiện, khiến cho hai nhà đều bị tan nát”.
Nguyện Chất thưa: “Đó là do em tôi là Nguyện Lập
làm, chẳng phải là Nguyện Chất”. Vua sai thuộc hạ
xét lại, đúng là như vậy, [Nguyện Chất] bèn
được khỏi bệnh. Năm sau, Nguyện Lập
chết. Báo ứng do xui giục kiện tụng từ
xưa tới nay luôn luôn là thảm khốc, mắt thấy,
tai nghe, rành rành chẳng sai! Khuyên khắp người đời,
trăm nghề đều có thể kiếm sống, tội
ǵ phải theo đuổi nghề kiện tụng? Gần
đây nhất, tôi thấy câu chuyện về một vụ
án trong cơi
âm xảy ra tại Lâu Đông[11], theo
ghi chép, một thầy căi đă đến cơi âm, Diêm Vương bảo: “Ngươi tuy tạo
ác nghiệp, nhưng mỗi khi viết án từ, thường
khuyên người khác thôi tranh chấp, đừng nên vu cáo
[kẻ khác]. Lại nữa, trong đơn kiện, hồ
sơ tranh tụng, thường ngấm ngầm giảm nhẹ
tội [của người bị thưa]. Do có thiện niệm
ấy, hăy tạm thời tha tội, quyết định
cho ngươi được sống”. Do vậy, kẻ
đă trót theo nghề nghiệp này, trong t́nh thế chẳng
đổi nghề ngay được, hăy nh́n vào tấm
gương này, ngơ hầu có thể giảm thiểu [ác nghiệp]
đấy chăng?
Một thầy giáo dạy vỡ
ḷng ở Hưu Ninh, nhà nghèo tận lực học hành, thích
đọc luật. Trong thôn, có con của một người
giàu có, [cha đă mất], hai đứa con tranh giành gia sản.
Thằng anh muốn thưa kiện đứa em, đem lễ
vật hậu hĩnh đến nhờ thầy viết
đơn thưa. Thầy giáo nói: “Tôi học luật để
mai sau tránh khỏi bị phán quyết phạt tù, há chịu
v́ anh dấy khởi chuyện thưa kiện ư?” [Sau đó], thầy giáo nói cặn kẽ
t́nh [anh em] thân thiết
như chân tay, cũng
như dùng những chuyện cùng nhau suy bại do thưa kiện lẫn nhau để cảnh tỉnh. Đứa
anh bị cảm động, hiểu ra. Thằng em t́m
đến, thầy cũng khuyên răn, huấn dụ, thằng
em cảm phục. Anh em chúng nó bèn vui vẻ, ḥa thuận như thuở
đầu, đồng tâm làm giàu. Một hôm, họ buôn bán
sa bản, bỗng thấy trên tấm sa bản[12] có khắc
tên họ vị thầy ấy. Anh em ngộ ra, bảo nhau:
“Nhờ ông X… khuyên chấm dứt tranh chấp, kiện tụng,
chúng ta may mắn ăn nên làm ra, ân lớn chưa báo. V́ thế,
trời viết tên họ ông ấy để chỉ dạy
hai đứa chúng ta”. Họ hẹn nhau khi trở về, sẽ
biếu thầy món tiền do bán số sa bản ấy. Họ
về đến chợ ở quê nhà, bán được món
tiền ba trăm lạng bạc. Khi ấy, đă hết
năm, thầy không có chỗ ngồi dạy học, cha con
đối diện nhau húp cháo lúa mạch [cầm hơi]. Bỗng
có hai người cầm bạc đến thưa chuyện,
thuật cặn kẽ nguyên do. Thoạt đầu, thầy
cảm tạ, từ khước. Hai người nói: “Trời
ban cho thầy mà”, rốt cuộc biếu tặng thầy.
Vu
Thiết Tiều nói: - Kẻ đang làm quan phải thống
thiết trừng phạt, ngăn cấm những kẻ
xúi giục kiện tụng, thưa quan. Kẻ sống trong
làng (những vị quan đă cáo lăo hồi hưu) th́ dốc
ḷng khuyên can kẻ đă thưa kiện lẫn người
chưa kiện hăy nên thôi đi. Đấy là việc đứng
đầu nhằm vun bồi nguyên khí. [Người làm
như vậy] sẽ là đại công thần của
nước nhà, mà cũng là đại công thần của
trời đất vậy.
Tạ Cầu thích làm thiện
sự, tánh chẳng tranh chấp, ghét chuyện thưa gởi,
kiện cáo. Láng giềng có kẻ xâm lấn đất
đai của ông, kẻ khác khuyên ông thưa lên quan, Tạ Cầu
giảng giải: “Chiếm được đất, chứ
chẳng chiếm được trời!” Mọi chuyện
ông đều ôn ḥa, nồng hậu [như thế đó].
Ông thọ tới bảy mươi lăm, con cháu đông
đảo, lại có đứa hiển đạt.
Tức Tụng Ca (息訟歌, bài ca chấm dứt thưa kiện) có
đoạn như sau: - Chớ nên đi thưa kiện, gia
sản bởi đó sẽ tan hoang. Dẫu thắng một
vạn binh, ḿnh hao ba ngàn lính. Thầy căi vung gậy mềm,
kẻ làm chứng đ̣i hậu tạ, há có bọn công sai
nào tốt lành, mà cũng chẳng có bọn nha lại giữ
văn thư trong sạch! Quan phán quyết như thế
nào c̣n chưa biết, mà đă nguy ngập, đáng sợ như
vào vực sâu, như đi trên băng mỏng. Nếu gặp
lúc sảy chân, mang nhục khó che đậy! Thường
nghe có kẻ gia sản tan nát phần nhiều v́ tranh chấp
đất đai, vườn tược. Thường thấy
kẻ kiện cáo v́ gia sản, t́nh anh em bỗng mất sạch.
V́ tức khí nhất thời mà đâm đơn thưa kiện,
đă kiện rồi càng tức tối hơn. Do tham lợi
lôi nhau ra ṭa, đâm ra mất cả vốn lẫn lời,
biến hôn nhân thành kết mối oán cừu, vứt sạch
hàng thân thích. Đưa nhau ra cửa quan c̣n tệ hơn bị
giặc cướp đoạt, phải chịu tốn phí
gấp bội. Do trượng nghĩa mà thưa kiện
thay người khác, rốt cuộc lâu ngày trở thành
phường bất nghĩa. Do người thân ép buộc ta đứng mũi chịu sào, từ đấy
t́nh giao hảo bị cắt đứt. [Do kiện tụng]
mà sĩ tử học hành lỡ làng, thợ thuyền quên cả
nghề khéo, nông dân bỏ hoang ruộng nương, thương
nhân bỏ buôn bán. Kẻ giàu do thưa kiện mà nghèo
nàn, kẻ nghèo do thưa kiện mà chết ngóp. Việc nhỏ
chẳng châu toàn, chuyện lớn càng rối ren, phải tránh
né, biến chuyện giả thành sự thật, rốt cuộc
trở thành khó khăn là v́ ban đầu dễ dàng! Mệt
sức lại bận ḷng, há có thú vị ǵ? Tuy cao hứng
nhất thời, khổ sở về sau ai hứng chịu
giùm? Ta khuyên người thế gian, chớ coi thưa kiện
như tṛ con nít đùa bỡn. Nếu chẳng phải là kẻ
mang mối thù chẳng đội trời chung, đừng
lôi kéo nhau vào ṿng kiện tụng. Lời quê mùa tường
tận và xác đáng, muôn phần khẩn cầu [người
đọc] hăy nhớ kỹ!
“Vọng”
(妄) có nghĩa là chẳng cần quan tâm là có
hay không. “Trục” (逐) là theo đuổi. Lớn th́ như kẻ
làm bầy tôi của người khác mà chia bè lập đảng,
nắm quyền triều chánh, công khai bài xích [kẻ khác phe, hoặc người
thanh cao không chịu hùa theo], ngấm ngầm khuynh đảo.
Nhỏ th́ như dân thường lập đoàn thể hoặc
kết nghĩa để làm vây cánh. [Những hành vi] lôi kéo
kẻ cùng ư thích kết bè đảng đều là “vọng trục bằng đảng”
(xằng bậy kéo bè kết đảng), ắt mắc tội
lớn, họa sâu! Hàng công khanh cũng như dân chúng, hăy nên
cùng nhau hết sức răn tránh vậy!
Đời Đường,
Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích, tài cao, tuyệt học,
danh trùm một thuở. Gặp lúc Đường Thuận
Tông mắc bệnh, câm bặt, chẳng thể nói. Gă tiểu
nhân Vương Thúc Văn thừa cơ nắm giữ
đại quyền. Hai ông luồn ḿnh phù tá hắn, khinh suất
bon chen, hiến kế, tưởng chừng như Y Doăn,
Châu Công lại xuất hiện. Họ gấp rút như cuồng,
được thăng cấp nhanh chóng lên chức Thị
Ngự Sử. Cả triều đ́nh khinh thường họ. Chẳng lâu sau, Đường Thuận Tông truyền ngôi cho Thái Tử,
chuyện Vương Thúc Văn [chuyên quyền, nhiễu loạn
triều chánh] bại lộ, những gián quan (quan ngự sử)
đua nhau dâng sớ công kích. Bọn họ đều bị
đày đi làm Tư Mă tại các châu, đều khốn đốn,
chết nơi những miền đất xa xôi. Ôi, ông
Lưu và ông Liễu nếu chẳng bị hăm vào bè đảng
của Vương Thúc Văn, do họ sẵn có tài năng
văn chương, cũng sẽ là bậc đại thần
lừng danh một thuở. Sảy chân trong chốc lát, suốt đời chẳng
thể ngóc đầu lên được, há có nên chẳng cẩn
thận? Nhưng nỗi hại này vẫn c̣n là nhỏ! Như
các biến loạn trong ba triều đại Đường,
Tống, Minh đều bắt nguồn từ chuyện này.
V́ thế, kẻ làm bầy tôi của người khác mà kéo
bè kết đảng, tội lỗi của bọn đó rất
lớn!
Một người là con em của
một thế gia đă suy sụp, nhà nghèo, vô hạnh. Mấy
lần anh ta đă theo một kép hát đi chơi, kép hát nhiều
lượt biếu tặng quần áo. Do vậy, đôi bên
hết sức tương đắc. Tuy ưa thích,
nhưng [anh ta] biết gă kép hát là phường trộm cắp.
Về sau, do anh chàng [con em thế gia] mặc quần áo [do gă
kép hát] đă trộm được ra phố, người
bị mất của liền bắt chàng ta thưa lên quan, c̣n gă kép hát đă trốn
xa. Rốt cuộc, chàng ta chẳng thể biện bác
được, chết trong ngục!
Lại có con của một
phú ông thích vơ thuật, kết nghĩa huynh đệ với
mười người. Cha biết được, bảo
là có thể khiến cho làng xóm nể sợ, chẳng
ngăn cấm. Về sau, trong số đó, có một đứa
là ăn trộm. Chuyện bại lộ, tên đó cung khai,
liên lụy đến con trai phú ông. Quan do thấy nó là nhà
giàu, bèn nghĩ nó là đứa oa trữ đồ trộm
cắp. [Do đó], tan nhà nát cửa. Ôi chao! Kết bè đảng,
chơi với bạn bè, phải xem gương này!
Đời Nguyên, Trung Tuyên
Công Dư Khuyết nói: “Nếu ai gần bậc hiền
lương ví như một tờ giấy. Dùng tờ giấy
ấy bọc hoa lan hay xạ hương, do những thứ
ấy thơm tho mà tờ giấy được thơm
tho theo. Nếu ai thân cận bạn tà, ví như một cành liễu,
dùng cành liễu để xuyên xỏ cá, hoặc ba ba. Do những
con vật ấy tanh hôi, cành liễu sẽ tanh hôi theo”. Chúng
ta lập thân xử thế, hăy nên suy đi nghĩ lại lời
ấy!
(Chánh văn) Dụng thê thiếp
ngữ, vi phụ mẫu huấn.
(正文)用妻妾語。違父母訓。
(Chánh văn: Nghe lời thê thiếp,
trái nghịch lời cha mẹ dạy răn).
Lời của thê thiếp ngọt
nào, dễ lọt tai. Cha mẹ răn dạy, tuy chánh
đáng, khó thể vâng theo! Lời thê thiếp chẳng có ǵ
không trái nghịch lời răn dạy của cha mẹ. Sở
dĩ ḷng hiếu của người đời suy bại
là v́ vợ vậy. Cha mẹ từng trải đă nhiều,
nh́n sự việc ắt thích đáng, lại thương yêu con tha thiết,
ắt mưu tính châu đáo cho con. Há có trường hợp
nữ nhân ít tuổi nào mà đâm ra lại có cái nh́n vượt
trỗi bậc lăo thành đă từng trải, thông hiểu
ư? Lư lẫn Sự cũng thế, không chỉ v́ khuyên
con cái hiếu thuận mà nói như vậy.
Trương Củng Thần
nói: - Đối với giáo huấn của cha mẹ, dẫu
người ta muôn phần tuân theo, rốt cuộc vẫn
chẳng thể [hoàn toàn] tuân theo. Lời thê thiếp, [tuy]
người ta nói là “muôn phần chẳng nghe theo”, rốt
cuộc đều làm theo trọn vẹn! Lư chẳng thắng
nổi dục. Do quá gần gũi, nên bị [những lời
xui khôn xui dại của thê thiếp] che lấp [tâm trí], khó
thể nhận biết. Những kẻ bực bội, tự
cho ḿnh là hay (tự cho là không nghe theo lời thê thiếp rủ
rỉ), đừng thấy chuyện này là dễ dàng! Trừ
phi trong tâm có công phu vi tế, nghiêm mật, sẽ không chỉ là chẳng thể
làm được, mà c̣n là cũng chẳng thể biết được!
Thê thiếp là nội trợ
của mỗi người. Nếu họ có những lời
tốt lành, chưa chắc không thể nghe theo. Nhưng
đàn bà ít kẻ hiền minh, lắm kẻ ngu dốt, tối
tăm! Hơn nữa, tánh t́nh họ phần nhiều hẹp
ḥi, cố chấp, chẳng nhẫn nại chịu đựng.
Họ lại khéo che giấu khuyết điểm, ăn
nói tột bậc đúng chỗ yếu hại, khiến kẻ
làm chồng dễ bị mê hoặc nhất. Nhưng kẻ
đă bị mê muội bởi lời vợ, ắt sẽ đến nỗi chống trái cha
mẹ. V́ thế, đức Thái
Thượng răn dạy nghiêm ngặt. Ôi, ly gián cốt
nhục, khiến cho thân thích lợt lạt, xa ĺa, lừa
dối, lấn hiếp làng xóm, thiên vị con cái, hiếp đáp, ngược
đăi tôi tớ, nguyên nhân phần nhiều là do vợ mà ra!
Lại hăy nên tùy theo từng việc mà tự phản tỉnh, suy xét bản thân, khuyên dụ [thê thiếp] noi
theo đạo nghĩa. C̣n như chồng nghe theo lời
thiếp mà ngược đăi hoặc bỏ vợ cả,
chính là chuyện dễ nghiêng theo, dễ bị mê hoặc nhất
trong thói thường của con người, chớ nên
không thận trọng. Đối với thê thiếp, đức
Thái Thượng [đă răn dạy] đúng là hết sức
hữu lư.
Con cái đối với cha mẹ,
hăy nên tận tâm kiệt lực. Bất luận Đông, Tây,
Nam, Bắc, đều nên vâng theo, há có nên ứng phó qua quưt
cho xong, bề ngoài phục tùng, trong tâm chống trái, trái nghịch
giáo huấn của cha mẹ. Đó là cái tội căn bản,
là điều ác chẳng thể tha thứ được! C̣n như v́ sủng
ái thê thiếp mà trái nghịch cha mẹ, cơi đời lại
càng chẳng thiếu bọn ấy! Tội ấy lại
càng nặng hơn một bậc. Mong sao ai nấy đọc
kỹ thiên sách này, tự hối lỗi quấy thuở
trước, sớm mong báo đền [ân cha nghĩa mẹ],
lập thân, cư xử, trọn hết ḷng hiếu kính, trọn
bề phụng dưỡng ḥng báo đáp đôi chút một
phần vạn vạn nỗi đau cù lao, ngơ hầu chẳng
bị trời giáng sét, quỷ thần tru lục, chẳng
vướng phải tai họa ngang trái, bất ngờ!
Tŕnh Ngạn Tuân thờ mẹ
chí hiếu. Mẹ tánh t́nh hết sức nghiêm khắc, dữ
dằn, do ghét vợ của Ngạn Tuân bèn trục xuất
cô ta. Khi ấy, Ngạn Tuân đang độ tuổi tráng
niên, vâng theo ư mẹ, suốt đời chẳng cưới
vợ khác. Người vợ ấy hiền thục mà bị
đuổi, chẳng thốt lời oán hận chút nào. Mỗi
Tết đều đến vấn an, ở một ḿnh thủ
tiết, chẳng lấy chồng khác. Sĩ phu coi cô ta là
người hiền thục, viết thành truyện hiếu
thuận, tiết liệt. Ôi! Trường hợp này có thể
nói là con hiếu, vợ hiền, không ai tốt đẹp
hơn được nữa! Những đứa con và dâu
ngỗ nghịch có thể nào chẳng hổ thẹn đến
chết ư?
Ở huyện Văn An, có một
cư dân cưới vợ. Cô vợ đẹp nhưng ương
bướng, chẳng phụng sự mẹ chồng. Hễ
chồng [đi đâu] trở về, cô ta ắt đều
tố cáo mẹ chồng hiếp đáp, ngược đăi. Chồng luôn im lặng.
Một tối, chồng lấy ra một con dao sắc
đưa cho vợ coi. Vợ hỏi: “Để làm ǵ vậy”,
đáp: “Nàng luôn mách là mẹ chồng ngược đăi,
hăy cùng cầm dao này để trừ khử mẹ, nàng
nghĩ như thế nào?” Vợ đáp: “Em chịu ngay!” Chồng
nói: “Nàng hăy khéo phụng sự mẹ một tháng, khiến
cho hàng xóm đều biết là nàng siêng năng, c̣n mẹ chồng
bạo ngược. Sau đấy mới ngấm ngầm
giết đi”. Vợ theo đúng lời, vẻ mặt
tươi vui, ăn nói mềm mỏng, sáng tối hầu
hạ mẹ chồng. Gần được một tháng,
chồng lại lấy dao ra chơi đùa dưới ánh
đèn, hỏi vợ: “Mẹ chồng đối đăi với
nàng ra sao?” Đáp: “Chẳng thể so với khi trước
được”. Lại qua một tháng, chồng lại rút
dao ra, hỏi vợ. Vợ vui vẻ đáp: “Nay mẹ chồng đối với em rất
tốt. Chuyện khi trước, chàng hăy thận trọng,
đừng làm nữa!” Chồng thong thả nắm dao, trừng
mắt hỏi vợ: “Nàng có thấy trong đời có chồng giết vợ hay không?” Đáp: “Có chứ!”
Hỏi: “Có thấy con giết mẹ hay chưa?” Thưa: “Chưa nghe nói”. Chồng
bảo: “Đời người coi sự hiếu dưỡng
to nhất. Ơn cha mẹ dẫu tự giết chính ḿnh vẫn
chẳng thể
báo đáp được.
Đến khi lớn lên cưới vợ, chính là để
phụng dưỡng bố mẹ chồng, nối tiếp
gịng giống. Ta thường quan sát thấy nàng chẳng thể
hiếu thuận với mẹ ta, lại ngược ngạo xúi ta làm chuyện
đại nghịch. Đao này ta thật sự muốn chặt
đầu nàng để làm vui ḷng mẹ. Mẹ cho nàng hoăn
lại hai tháng để sửa lỗi, đổi thái độ, trọn hết đạo làm vợ, biểu
lộ ḷng mẹ ta đối đăi với nàng, [để
nàng biết] vấn đề không phải do mẹ ta, nàng hăy
nhắm mắt mà nhận đao!” Vợ kinh hoảng, khóc lóc, lạy lục:
“Mong chàng tha tội
chết cho em, em sẽ suốt đời
hiếu thuận với mẹ chồng, chẳng dám biếng
nhác chút nào!” Hồi lâu sau, chồng mới bằng ḷng. Về
sau, vợ và mẹ chồng thuận thảo, danh truyền
khắp xóm làng. Ôi! Người dân ở Văn An bất quá
là một kẻ tầm thường, mà khéo điều phục,
biến
đổi vợ chuyển từ
ác độc thành hiền lương, dẫu là bậc quân
tử, sĩ phu cũng chẳng thể làm được!
Ngạn ngữ có câu: “Trong thiên
hạ, chẳng có ai không là cha mẹ”. Lại c̣n nói: “Trong thiên hạ, không có cha mẹ
nào chẳng thể chuyển hóa được”, đúng lắm thay, có lư
thay!
Trầm Trạch Chi lúc hai
mươi lăm tuổi bèn bỏ học hành, tính buôn bán.
Vợ anh ta là Thạch Thị hiền đức, tận lực
can gián, nhưng chồng không nghe, bèn kể khổ với bố
mẹ chồng: “Cô và em dâu của con đều được
gả làm vợ của người có học, nay chồng
con chẳng chịu học hành. Nếu [bố mẹ] cho
đứa con dâu mới cưới là con về thăm nhà,
gặp thân thích sẽ xấu hổ lắm! Con xin tự bỏ
ra tiền học, xin [bố mẹ] hăy chọn thầy,
khuyến khích chồng con đến học. Con chẳng
dám mong chồng hiển đạt hanh thông, chỉ thành một
chàng Tú Tài tốt đẹp, chẳng khiến cho gia phong
mang nhục, mà cũng là một người chồng hiền
năng vậy!” Bố mẹ chồng thuận theo. Năm
năm sau, quả nhiên Trạch Chi thi đỗ, làm quan tới
chức Chánh Lang[13]. Những
kẻ hăm chồng vào chỗ ác trong hiện thời, há chẳng nên noi gương người
vợ hiền họ Thạch ư?
Vợ Lưu Kiến Đức
hung tợn, ác độc. Họ Lưu không thể chế
ngự được, nhiều lúc phải chiều theo. Nhằm
lúc mẹ chồng bị bệnh, vợ bắt chồng gởi
mẹ sang am ni cô. Mẹ không muốn đến đó, họ
Lưu chỉ nghe lời vợ, chỉ sai một đứa
tớ gái lo thuốc thang mà thôi. Mẹ sắp chết, chửi
mắng ầm ĩ: “Tao ắt tố cáo mày dưới âm
ty”. Không đầy mấy hôm, vợ điên cuồng, hô ầm
lên: “Ta chẳng ra ǵ, đuổi mẹ chồng đến
am ni cô. Âm ty rút ruột ta, lột da ta”. Do vậy, khắp
thân mụ ta tím bầm mà chết. Lại hai hôm sau nữa,
họ Lưu cũng phát cuồng, hô lên: “Ta là Lưu Kiến
Đức bị vợ khống chế, ngỗ nghịch
với mẹ ruột. Vợ đă bị âm ty rút ruột,
lột da, chịu tội trong địa ngục Vô Gián. Nay
lại truy ta rất gấp. Người đời hăy nên
lấy ta làm gương, đừng bị thê thiếp mê hoặc
mà ngỗ nghịch với cha mẹ”. Hắn chết đột
ngột, khâm liệm vài hôm, bỗng sét đánh ầm một
tiếng, hai cỗ quan tài đều nứt toác, mùi hôi thối bốc xa mấy dặm!
Bị chịu h́nh phạt ngũ h́nh có ba ngàn tội, mà không tội nào lớn bằng
bất hiếu.
Vương pháp là như thế đó, ai nấy đều
biết. C̣n như trời giáng sấm sét tru diệt đều
là những
đứa con trai và con dâu ngỗ nghịch, có lẽ có kẻ chẳng
biết. [Do vậy], chép chuyện này để bảo ban khắp
thiên hạ.
(Chánh văn) Đắc tân vong cố,
khẩu thị tâm phi.
(正文)得新忘故。口是心非。
(Chánh văn: Có mới nới
cũ, tâm khẩu chẳng nhất trí).
Nhỏ th́ là quần áo, vật
dụng, lớn th́ là t́nh nghĩa bạn bè, thân thích. Trong là
thê thiếp, dưới là thằng hầu, tớ gái, đều
có mới, cũ. Nếu có mới nới cũ, đấy
là hạng người bạc t́nh, thiếu ân nghĩa nhất.
Tiên hiền có nói: “Dữ kỳ
kết tân giao, bất như đôn cựu hảo” (Kết bạn mới chẳng bằng vun
đắp t́nh quen biết cũ), lời ấy đúng lắm
thay! Xưa kia, vua Sở (Sở Chiêu Vương) từng hạ
chiếu t́m một chiếc giày bị mất như sau: “Ta
buồn v́ nó cùng ra ngoài với ta, mà nó không cùng về với
ta”. Từ đấy, người trong nước chẳng
dám vứt bỏ những thứ cũ. Đấy thật
sự là người có t́nh nghĩa cả ngàn đời,
mà cũng là người hiểu biết trong ngàn đời
vậy.
Chị của vua[14] Quang Vũ
đời Hán là công chúa Hồ Dương vừa mới
góa chồng, muốn lấy Tống Hoằng. Vua bảo [Tống
Hoằng]: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ, là
lẽ thường t́nh của con người!” [Tống Hoằng]
tâu: “Bần tiện chi giao bất
khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường”
(Bạn trong lúc nghèo khó chẳng thể quên, người vợ
tấn cám (người vợ chia sẻ hoạn nạn,
nghèo khó) chẳng thể ruồng bỏ được).
Vua ngó công chúa, bảo: “Chuyện này chẳng thể thành
được!” Kẻ ngu này đọc đến đây,
thở dài nói: “Chuộng mới, nới cũ, cả cơi đời
đều là như thế. Đối với thê thiếp,
càng dễ thay đổi nhất. Thường là do kẻ
chung gối nẩy sanh hiềm khích, mà ươm thành mầm
họa trong chốn khuê các, gây hại chẳng thể nói nổi,
mọi người há chẳng cẩn thận ư?”
Một phú ông không có con,
đă nuôi dưỡng đứa con của người anh
mười năm. Bỗng người thiếp sanh một
đứa con trai, ông ta bèn bỏ rơi đứa con của
người anh, giao hết tài sản cho con người thiếp
sở hữu. Về sau, đứa con của người
anh do cần kiệm mà thành gia, lập nghiệp, lại c̣n
hiếu đễ, cung kính, nhân từ, cả họ đều
khen ngợi, nhưng đứa con của người thiếp
lớn lên, phóng đăng, gái gú, cờ bạc, tiêu sạch gia
sản. Ông căm hận chết luôn!
Cảnh Dương ở huyện
Nghi Trưng lúc nghèo khó là bạn thân của Sử Thành ở
Dương Châu. Cảnh Dương chết, để lại
một đứa con côi nghèo khó. Họ hàng, bạn bè thuở trước không ai lui tới, riêng Sử Thành chẳng
quên [t́nh bạn], luôn thăm hỏi, cho quà c̣n hơn xưa kia. Cảnh Dương để lại di cảo
gồm mấy chục quyển, Sử Thành bỏ ra ngàn
vàng để khắc in, bảo: “Ta chẳng đành ḷng thấy
tinh hoa của cố nhân bị chôn vùi”. Về sau, Sử
Thành làm quan lớn.
Đời Tống, Phạm Văn
Chánh (Phạm Trọng Yêm) lúc làm Viên Ngoại Lang của bộ
Lại, đứng đầu một quận, có ba đứa
tớ gái theo hầu, măi cho đến khi ông làm quan suốt
cả nhị phủ[15] cho tới
khi mất, suốt cả mười năm, chẳng thêm một
người nào, mà cũng chưa hề thay đổi một
người nào.
Tâm và miệng đều
đúng lẽ như nhau, đó là người thuần thiện.
Nếu tâm và miệng đều sai trái, kẻ khác vẫn
đề pḥng. Chỉ có những kẻ ăn nói như Nghiêu,
Thuấn, tâm giống như Kiệt, Trụ, miệng thề
non hẹn biển, mà tâm ngầm đặt bẫy rập,
là khó ḍ lường nhất. Kẻ ấy thờ vua ắt
chẳng trung, thờ cha mẹ ắt bất hiếu,
chơi với bạn bè ắt bất tín, đối xử
với thuộc hạ ắt bất nghĩa. Hạng
người ấy là phường tiểu nhân nhất. Nếu
ai lầm tin lời kẻ ấy, sẽ lọt vào mưu mô của
hắn, tội lỗi của kẻ ấy [bị cơi âm trừng
phạt] nặng gấp mấy lần dương gian! Kinh
Phật có nói: “Kẻ nói dối,
ác khẩu, chết rồi sẽ đọa trong địa
ngục kéo lưỡi, nước đồng sôi [rót vào miệng],
cày lưỡi, chịu khổ rất nhiều kiếp
đă xong, sẽ sanh trong loài súc sanh, luôn ăn gai góc. Nếu
lại được làm người, thiệt căn chẳng
trọn vẹn, hơi miệng luôn hôi thối. Dẫu thốt
lời tốt lành, kẻ khác chẳng tin nhận”. Nghiệp
“miệng đúng, tâm sai” mắc
quả báo như thế, há chẳng đáng kiêng dè ư?
Đời Minh, ông Tiết
Văn Thanh nói: - Kinh Dịch chép: “Dung
ngôn tất tín” (Lời ăn tiếng nói thông thường
đều phải giữ chữ tín). Đối với lời
ăn tiếng nói b́nh phàm, người ta cứ ngỡ là chẳng
khẩn yếu, cứ tùy tiện, chẳng thận trọng
thốt lời. Chẳng biết một lời hư vọng là đă phạm sai lầm trong lời
ăn tiếng nói. V́ thế, lời ăn tiếng nói b́nh
phàm ắt phải giữ chữ tín, tức là đức
sâu dầy vậy!
Đời
Tống, Tư Mă Ôn Công (Tư Mă Quang) dạy Lưu Khí Chi
(Lưu An Thế) về lẽ trọng yếu trong chuyện
tận tâm xử thế lập thân: “Chỉ là Thành mà thôi!”
Công phu ấy trước hết được khởi
đầu bằng không nói dối. Tư Mă Ôn Công lại từng
nói: “Khí Chi b́nh sanh chỉ là một chữ Thành; do vậy,
ông ta nói năng rất chánh xác, chẳng ai có thể sửa
đổi được”. Dân tại thành thị hay nông
dân thuở ấy đều nói: “Nếu
đă từng đi qua Nam Kinh, mà không gặp Lưu Thị
Chế[16],
khác nào qua Tứ Châu[17]
mà không gặp bậc đại thánh”. Do lẽ nào mà cảm động
[ḷng người] như thế ấy? Cũng thưa rằng:
“Chỉ là Thành mà thôi!” Xét theo chuyện này, há chữ Thành có
khiến cho người ta bị lầm lạc ư? Cớ
sao người ta chẳng dốc sức nơi đây vậy
thay?
Nhậm Quốc Tá bị bệnh
lâu ngày, lập đàn cúng tế cầu được gia hộ.
Trong mộng, ông Nhậm nghe thần bảo: “Nhậm Quốc
Tá! Ngươi b́nh sanh làm người
tâm và miệng chẳng nhất trí. Từ thuở bé cho tới
khi trưởng thành, chẳng có một công hạnh tốt
lành nào, tội ác đă định, sẽ chết trong sớm
tối”. Quả nhiên, ông ta chết. Hành Thổ không có vị
trí nhất định, nhưng nó nắm quyền làm chủ
Ngũ Hành, bốn mùa dựa vào đó để vận
hành, vạn vật dựa vào Thổ để sanh trưởng.
Trong Ngũ Thường, nó chính là Tín. Nếu bốn giềng
mối kia mà chẳng có Tín, th́ cũng sẽ chẳng thành tựu
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. V́ thế nói: “Thành là khởi đầu và chung cục của muôn vật;
chẳng có ḷng Thành, sẽ chẳng có vật ǵ”. Người
hiện thời ăn nói hoàn toàn chẳng có chân tâm đối
với người khác, chính ḿnh há có thể giúp người khác thành tựu
ư? Nếu từ nay trở
đi sửa đổi, tỉnh ngộ, lời nói đi
đôi với việc làm, trong ngoài tương ứng, ắt
gặp chuyện sẽ thản nhiên, thường là thong dong có
thừa, ngửa lên chẳng hổ
với trời, cúi xuống chẳng thẹn với người,
há chẳng sung sướng ư? Nhưng chúng ta dễ phạm
chuyện này nhất, khó ngăn ngừa, kiểm điểm
nhất. Đừng nên lơi lỏng chút nào, [kẻo sẽ]
tự cắt đứt với quê hương quang minh,
chánh trực, dấn ḿnh vào cảnh tối tăm, gai góc vậy!
(Chánh văn) Tham mạo ư
tài, khi vơng kỳ thượng, tạo tác ác ngữ, sàm hủy
b́nh nhân.
(正文)貪冒於財。欺罔其上。造作惡語。讒毀平人。
(Chánh văn: Tham lam,
xằng bậy đoạt tiền của, lừa dối
bề trên. Nói lời ác độc, gièm chê, hủy báng
người lành).
Đ̣i lấy [tiền tài, vật
dụng] chẳng chán là Tham (貪). Tăm tối, chẳng biết hổ thẹn
là Mạo (冒). Tận
trung phụng sự bề trên, giữ ḿnh liêm khiết,
đó là khí tiết to lớn của người làm bầy
tôi cho kẻ khác. Nay cũng v́ nguyên do tham lam, xằng
đoạt chiếm đoạt mà lừa dối bề
trên, tiết tháo của kẻ bầy tôi c̣n đâu nữa!
Dẫu [làm như vậy] sẽ được phú quư nhất
thời, phần nhiều là chẳng mấy chốc sẽ
suy bại, con cháu chật vật. Sao bằng vâng giữ
ḷng trung, liêm khiết, ngơ hầu giữ vẹn tánh mạng và thanh danh ư? C̣n như bọn sai nha tại
nha môn ḅn rút tiền lương, bọn đầy tớ
trong các điền trang giấu diếm ḥng tránh né nộp
thuế, nộp địa tô, đủ mọi tệ
đoan chẳng thể nêu trọn! Nói chung, đều là bọn thuộc hạ lấy tiền tài của người
trên, dùng mưu kế để che giấu, dùng tài trí để
lừa gạt. Nhưng tiền tài họ lấy được
vốn là thứ có sẵn trong vận mạng [của chính
họ], hiềm rằng do đoạt lấy bằng
phương cách bất chánh, sẽ đến nỗi thân mạng và tài sản đôi đường đều mất mát! Sao
bằng chẳng có mảy may cẩu thả đối với
chuyện này, ắt sẽ đạt được tiền
tài vốn có [trong vận mạng] bằng những
phương cách chánh đáng khác, ta cũng sẽ có
được [tiền của, tài sản] giống như
vậy, nhưng lẽ b́nh an và nguy hiểm khác xa nhau. Mọi
người hăy đừng nên mê muội đối với
lư tột cùng này!
Đời Minh, ông
Vương giữ chức Đại Trung Thừa[18] tại
Quư Châu, làm Tổng Đốc Lưỡng Quảng. Ông thanh
tra công khố, thấy tiền dư ra ba mươi bốn
vạn lượng. [Thẩm tra sổ sách chi tiêu] th́ đối với bộ Hộ,
đă khai báo chi phí hoàn tất, tiền lương cho quân
đội cũng đă phát đủ, chẳng biết món
tiền ấy thuộc về bộ phận nào! Ấy là
v́ thái b́nh lâu ngày, quân đội ít, mà lương hướng lại nhiều,
năm tháng tích lũy lại, cho nên mới dư ra món tiền
ấy, chẳng có cách nào truy ra món tiền ấy do đâu
mà có. Triều đ́nh cũng không hay biết, ông tra ra
được, muốn dâng sớ tấu tŕnh. Người
nhà chẳng dám nói ǵ, có một vị bạn học cũ
thong dong thưa rằng: “Ông chẳng nhiễm mảy trần,
trong triều đ́nh, ngoài đồng nội đều cùng biết; nhưng món tiền này, dưới
đă chẳng phải do bóc lột máu mỡ của dân, mà trên
cũng chẳng phải là xâm phạm thuế khóa nước
nhà. Ông có bốn đứa con nối dơi, có thể v́ chúng nó tính kế đôi chút
hay chăng? Hăy báo lên trên ba mươi vạn lượng,
giữ lại bốn vạn lượng để chia cho
bốn đứa nó. [Làm như vậy] cũng chẳng tổn
hại ḷng trung và phẩm giá của ông”. Ông cười bảo:
“Anh nói cũng hợp t́nh, hợp lư, nhưng tôi đă ở góa (giữ vẹn
phẩm tiết liêm khiết) ba mươi năm, một mai v́ con cháu tính kế, đầu bạc rồi
mà thay đổi tiết tháo, không ǵ chẳng suy bại theo
ư!” Rốt cuộc, ông tŕnh báo trọn hết số tiền
ấy, chẳng giữ lại mảy may nào. Về sau, ông lần
lượt làm đến chức Quận Thủ. Các cháu nối
tiếp nhau đỗ Trạng Nguyên, nối tiếp nhau giữ
những chức vị trọng yếu, họ chính là anh em
của quan Thái Sử Tuyết Viên vậy. Than ôi! Ông
Vương có thể làm chuyện khó có như vậy, có thể
nói là bậc quân tử thật sự trong thiên hạ!
Trong niên hiệu Thành Hóa đời
Minh, Tống Hoằng làm Tuần Phủ tỉnh Thiểm
Tây. Bọn kỳ hiệu thuộc Tần phủ[19] mặc
sức hoành hành làm khổ cư dân. Tống Hoằng đều
bắt giam, trừng trị hết, chẳng khoan nhượng
chút nào. Tần Vương tấu tŕnh [triều đ́nh, tố
cáo] Tống Hoằng khi dễ,
[có ư định] diệt trừ các phiên vương. Chúa
thượng tức giận, sai tống ông vào nhà ngục của Cẩm Y Vệ[20]. Vua sai
nội thần[21] Thượng
Hanh tịch biên gia sản của ông, chỉ kiếm
được một xấp lụa vàng, mấy bộ quần
áo cũ. Thượng Hanh trở về, tấu tŕnh t́nh trạng
nghèo khó của Tống Hoằng. Vua đích thân tra xét của
cải nhà Tống Hoằng, than thở hồi lâu, hạ chiếu tha
bổng Tống Hoằng, ban thưởng một vạn
đĩnh bạc nhằm tuyên dương sự liêm khiết
của ông, điều ông về làm Tuần Phủ Hà Nam. Ông
đă đến nơi trấn nhậm, thái giám Uông Trực
cũng v́ có công vụ mà phải đến đó. Thuở ấy,
oai thế của Uông Trực lừng lẫy, các vị Tuần
Phủ khác đều cúi lạy cầu kiến, riêng ông Hoằng
vái chào, không lạy. Uông Trực biết ông là bậc trung thần, liêm khiết, càng thêm kính trọng. Tống
Hoằng ngầm dâng sớ, đàn hặc Uông Trực mang
theo nhiều bọn kỳ hiệu, quấy nhiễu địa
phương. Về sau, Uông Trực trở về kinh, chúa
thượng hỏi quan Tuần Phủ các tỉnh có hiền
hay chăng? Uông Trực chỉ khen ngợi Tống Hoằng
là bậc liêm khiết, có năng lực. Chúa thượng
đưa sớ tấu đàn hặc của Tống Hoằng
cho Uông Trực coi, Uông Trực khấu đầu nhận tội,
ca ngợi Tống Hoằng hiền đức chẳng ngớt.
Chúa thượng tha tội cho hắn. Về sau, Tống Hoằng
làm Thượng Thư.
Đời Minh, Nhan Mậu Do
nói: - Phẩm hạnh, tiết tháo đến mức ấy,
như trăng sáng ngời, như lửa cháy mạnh,
như vàng ṛng, như ngọc đẹp, cũng chẳng
phải là tốt lành ư? Nếu ông Tần tích trữ tài
vật đôi chút, lúc bị hạ chiếu tống giam, há có thể
thoát khỏi [ngục
tù] tiêu sái như thế hay
chăng? Oai đức liêm khiết đă vang dội, bọn
thái giám đều sợ hăi. Bọn Oai Ninh Bá, Doăn Thượng
Thư đều cúi đầu xin hắn (Uông Trực)
thương xót, riêng ông Tần dùng thân phận viễn thần
(遠臣, quan ở ngoài các tỉnh, chẳng trực thuộc triều đ́nh) để bẻ
gẫy oai phong của hắn. Than ôi! [Thân phận] sang hay
hèn cố nhiên là do chính ta tự đặt ḿnh vào!
Đời Tống, Đỗ
Diễn là người xứ Sơn Âm, ăn uống tại
nhà [mỗi
bữa] chỉ một bát ḿ mà
thôi! Có người nói ông quá tiết kiệm. Ông đáp: “Diễn
tôi vốn là một gă học tṛ nghèo túng. Danh vị, phước,
lộc, mũ, đai, quần áo, vật dụng đều
là những thứ sở hữu của nước nhà. Một
khi chúng ĺa khỏi thân, lại là một chàng học tṛ
đói nghèo, lấy ǵ để tự tiêu dùng? Tiết kiệm
là phương cách để liêm khiết. [Nếu để
cho] tài vật và quyền thế cùng nhau bức bách, rất
mất tự do. Xa hoa, phung phí, mặc t́nh tiêu xài, những
thứ ấy đều là của cải [của đất
nước], dẫu mong liêm khiết, có được hay
chăng? V́ thế, để thanh liêm, không ǵ bằng dùng
cách tiết kiệm. Khi cai trị dân, chẳng khác ǵ lúc chính ḿnh đang ở nhà, dùng tiền tài từ công
quỹ [dè xẻn] giống như dùng tiền tài của
chính ḿnh! Như thế th́ mới được!”
Một viên quan Bố Chánh ở
phủ Thiệu Hưng giỏi nghề tham ô, chất chứa
tài sản đến mấy chục vạn. Tới khi mất
chức quan, quay về nhà, bèn mua mười vạn mẫu
ruộng tốt, giàu có nhất quận. Ông nội của hắn
nhiều lần nằm mộng, bảo hắn sắp bị
cơi âm trừng phạt. Hắn chẳng tin. Hắn chỉ
có một thằng con, một đứa cháu nội, quả nhiên chúng nó đều [mê đắm] gái gú,
cờ bạc, chẳng biết hối cải, đều
bị chết yểu. Không lâu sau, viên quan Bố Chánh bị
bệnh, trở thành tê liệt. Con dâu và vợ đứa
cháu của gă quan ấy đều mang tiếng xấu! Những
kẻ [thừa cơ] kiếm chác, bu đến như c̣.
Quan Bố Chánh c̣n chính mắt trông thấy [t́nh trạng tài
sản bị xâu xé ấy]. Lúc hắn gần chết, gia sản
đă khánh kiệt. Lúc hắn lâm chung, trừng mắt, hét ầm
lên: “Ta làm quan tới chức Bố Chánh chẳng nhỏ, ruộng
tới mười vạn [mẫu] không ít, toàn là do tay ta tậu,
mất sạch trong tay ta”. Nói xong th́ chết. Chao ôi! Đấy
chỉ là hoa báo, quả báo là trong địa ngục, lại
chẳng biết sẽ đến mức nào! Lành thay ông
Dương Bá Khởi đă nói: “Ta
tuy chẳng để lại tài sản đồ sộ
cho con cháu, nhưng nếu đời sau gọi chúng nó là ‘con cháu của một viên quan thanh bạch’ th́ chẳng phải là ta đă để lại
rất nhiều ư?”
Con người dẫu có lỗi,
cũng sẽ quanh co che giấu! Nếu [đối tượng
bị hủy báng] là người trong sạch, vô tội, ắt
[kẻ có ác ư] sẽ bịa đặt, rao truyền, dựng
chuyện ác độc để gièm chê, hủy báng. Chuyện
ấy c̣n tàn độc hơn dao, búa, cọp, sói. Bởi lẽ
người ta vốn vô tội, nhưng do một kẻ
đồn thổi, lũ tiểu nhân sủa hùa theo, khiến
cho người nghe mờ mịt, chẳng thể biện
định đúng sai, đến nỗi người hiền,
kẻ gian nháo nhào, đảo lộn chuyện bị giáng chức hay thăng
quan. Bậc quân tử quở trách chuyện này rất sâu!
Đức Phật dạy: “Do
nghiệp ác khẩu, chết rồi sẽ đọa trong
địa ngục binh đao rút lưỡi, c̣n sống th́
bị báo ứng rạch, mổ, h́nh thể tàn tật, hủy
hoại!”
Cổ thi có câu:
Sàm
ngôn thận mạc thính,
Thính chi
họa ương kết,
Quân thính,
thần đương tru,
Phụ
thính, tử đương quyết.
Phu thê
thính chi ly,
Huynh
đệ thính chi biệt,
Bằng
hữu thính chi sơ,
Cốt
nhục thính chi tuyệt.
Đường
đường thất xích khu,
Mạc
thính tam thốn thiệt,
Thiệt
thượng hữu long tuyền,
Sát nhân bất
kiến huyết.
(Cẩn thận, đừng
nghe gièm,
Nghe rồi, họa
ương kết,
Vua nghe, sẽ giết quan,
Cha nghe, con ắt chết.
Chồng vợ nghe, chia ĺa,
Anh em nghe, cách biệt,
Bạn bè nghe, lợt lạt,
Ruột thịt nghe, đoạn
tuyệt.
Đường đường
thân bảy thước,
Nghe chi ba tấc lưỡi?
Trên lưỡi có gươm
bén,
Giết người chẳng
thấy máu).
Nỗi hại của gièm
chê, hủy báng là như thế đó. Kẻ nghe lời [người
khác nói], há chẳng nên cẩn thận ư?
Trịnh Tuyên nói: - Lời nói
thông tục [khiến cho người nghe cảm thấy] ở
gần chợ búa, lời lẽ nhơng nhẽo khiến ta cảm
thấy đang gần bọn kỹ nữ ca xướng.
Lời nói đùa bỡn khiến ta cảm thấy như
đang ở gần bọn đào kép. Quân tử hễ
hơi dính dáng đến những thứ ấy, không chỉ
là oai đức bị tổn hoại, mà c̣n bị giảm
phước, huống hồ là nói năng độc mồm
độc miệng ư?
Đời Minh, Trần Lương
Mô nói: - Ta xưa kia làm Phân Thủ[22] tại
huyện Công An, có viên Giáo Dụ[23] họ
Bạch lên kinh đô thi Hội. Vợ ông ta thích làm lành, từng
dùng tên của viên Giáo Dụ ấy viết vào văn sớ,
cúng thí đạo cô một lượng bạc, và làm chiếc
phan thêu kết bằng sợi gai dài một trượng.
Khéo sao có đồng nghiệp [của ông Bạch] đến
thăm trông thấy, bèn kinh hăi bảo: “Quan nhà Nho lui tới
với đạo cô sẽ gây phiền lụy chẳng nhỏ”.
Vợ ông Bạch bèn tưởng con đường làm quan
của chồng từ đây sẽ chấm dứt, trong
tâm phiền muộn. Đến khi Bạch giáo dụ thi rớt
trở về, lấy vải gai để cắt áo, cắt
luôn tấm phan ấy, bà vợ càng thêm bất an, bèn tự
treo cổ chết. Tôi vừa mới nghe chuyện, hỏi
thăm viên tri huyện, ông ta kể cặn kẽ mọi
chuyện, chẳng có ai không thương xót ông Bạch, buồn
cho bà vợ. Về sau, phủ viện[24] Lâm Nhị
Sơn thảo luận về danh sách những quan lại có
hiền năng hay không, bảo tôi: “Bạch giáo dụ cưỡng
gian vợ đồng sự, vợ ông Bạch cằn nhằn.
Ông Bạch bèn ép vợ thắt cổ chết, tội chẳng
thể dung không giết!” Tôi bèn kể lại những
điều đă nghe được. Trong lúc ông ta trầm ngâm,
tôi thưa: “Chẳng hiểu những lời Ngài đă nghe
trước đó xuất phát từ kẻ nào. Nếu [kẻ
nói những lời nói đó] đúng là bậc quân tử th́ c̣n có thể tin tưởng.
Chứ nếu kẻ ấy chẳng phải là [người
đáng trọng] như vậy, xin hăy t́m hiểu thêm”. Ông ta
lập tức vỗ bàn nói: “Đúng lắm! Đúng lắm”,
lập tức vung bút xóa sạch những [lời lẽ kết
tội ông Bạch]. Về sau, ông Bạch được
thăng làm Trợ Giáo trường Quốc Tử Giám, tôi
chuyển sang làm quan Niết (Án Sát Sứ) tại đất
Mân (Phước Kiến). Tôi gặp ông Nhị Sơn tại đất
Phủ (Phủ Điền), ông chỉ nhà hàng xóm bảo tôi: “Gă họ Ngô ấy từng làm Huấn
Đạo[25]
tại huyện Công An. Kẻ sàm báng ông giáo dụ họ Bạch
chính là hắn. Xưa nay, tâm thuật của hắn bất
chánh. Tôi nhờ lời ông [khuyên can] mà vỡ lẽ. Hắn
ta về sau được thăng làm Giáo Dụ ở B́nh
Hương, cũng v́ bị đồng liêu sàm báng mà bị
băi chức, về nhà. Qua hồ Bà Dương, thuyền lật,
chỉ giữ được cái mạng; nay hắn tịch mịch lắm”. Tôi
thưa: “Thích bàn chuyện buồng the và các thứ khuyết
điểm của kẻ khác, ắt sẽ khiến cho quỷ
thần tức giận. Nếu chẳng gặp tai họa
lạ lùng, ắt sẽ bị khốn cùng quá đỗi!”
Xét ra, ông Huấn Đạo họ Ngô sàm báng, bôi đen
người trong sạch, báo ứng sẽ không chỉ là
như vậy! Nhưng
phương pháp để nghe lời nói của kẻ khác
sẽ là chỉ nên quan sát [phẩm
hạnh] của người nói, chẳng phải là cũng rơ rệt hay sao?
(Chánh văn) Hủy nhân xưng trực,
mạ thần xưng chánh.
(正文)毀人稱直。罵神稱正。
(Chánh văn: Hủy
báng kẻ khác, tự khoe bản thân chánh trực. Nhục mạ
thần linh, tự xưng ḿnh là chánh đáng).
Bậc sĩ quân tử lập
thân, xử thế, phải nên giữ sao cho hành vi của
chính ḿnh ắt đều chánh trực, chẳng tà vạy.
Đấy là Trực (直). Nếu
bản thân chưa thể chánh trực, chỉ lo hủy báng người khác [để tự
khoe ḿnh là bậc] chánh trực th́ lương tâm đă bị
chôn vùi; há đáng gọi là “chánh trực” ư? Hơn nữa, người chánh trực cơi
ḷng ắt trung hậu, hễ đáng nên nói liền nói, khiến
cho người khác biết sửa đổi. Cốt yếu
là ḷng thành có thừa mà lời lẽ chẳng đủ
[để diễn tả]. Đó gọi là Trực vậy!
Những kẻ hủy báng, bôi nhọ tiếng tăm của
người khác ḥng thỏa cơn tức giận của
chính ḿnh, mà vẫn tự xưng là “chánh trực”, há chẳng đáng thống thiết
căm giận ư? Lăo Tử nói: “Người thông minh, xét đoán sâu xa mà gần
như lâm vào tử địa là v́ thích chê bai, bàn tán kẻ
khác”. Ông Tŕnh Y Xuyên nói: “Bậc
quân tử đối xử với người khác, hăy nên
từ chỗ lỗi lầm của họ mà t́m ra chỗ
không lầm lỗi, chớ nên từ chỗ không lầm lỗi
mà bươi móc lầm lỗi, nhưng xét lỗi ḿnh th́ phải
nên làm ngược lại”. Ôi! Người trong thế gian khẩu
nghiệp vô cùng. V́ thế, đức Thái Thượng đôi
ba lượt nghiêm ngặt răn nhắc.
Đời Minh, Thị Lang
Vương Vỹ do Thiếu Bảo Vu Khiêm tiến cử
mà được thăng chức. Hắn ḍ t́m lỗi lầm
của ông Vu để ngầm tấu tŕnh hủy báng ḥng
được tiếng là người thẳng thắn.
Khi ấy, Cảnh Đế[26] tín nhiệm
ông Vu, triệu ông vào cung, trao cho ông bản sớ tấu của Vương Vỹ.
Ông dập đầu nhận tội. Vua bảo: “Ta tự
biết khanh, khanh chớ nên lo buồn”. Ông lui ra,
Vương Vỹ đón đường, thưa hỏi:
“Hoàng thượng truyền
bảo chuyện ǵ thế?” Ông
chẳng nói. Hắn lại hỏi nữa, ông bèn cười
bảo: “Lăo phu có chuyện ǵ không đúng, hăy nên nói thẳng
ngay mặt, chẳng cần phải hùa theo, sao mà tàn nhẫn
đến thế?” Ông bèn lấy tờ sớ tấu [của
Vương Vỹ] đưa cho hắn coi. Vương Vỹ
hoảng sợ, khúm núm, không biết làm sao. Ông cười
an ủi hắn.
Đời Nguyên, Dương
Thiết Nhai danh vọng cao trọng cả nước. Ở
Lâm Giang, có đền thờ người đàn bà tiết
hạnh họ Vương; ông Dương đề thơ
rằng:
Giáp
mă đà đà bách lư tŕnh,
Thanh Phong
hậu dạ huyết thư thành,
Chỉ
ưng Lưu Nguyễn đào hoa thủy,
Bất
tự Ba Lăng Hán Thủy thanh.
(Trăm dặm cặp kè
lưng ngựa chiến,
Thanh Phong đêm thẳm huyết
thư đề,
Chỉ nên tận hưởng Thiên Thai thú,
Nhạc Dương sông Hán chẳng
trong bằng)[27].
Về sau, ông Dương
không có con. Ông mộng thấy một phụ nữ bảo:
“Ông làm thơ vịnh tiết phụ họ Vương, tuy
chẳng thể tổn hại thanh danh của tiết phụ,
nhưng do ôm tấm ḷng khắc bạc, trời đă khiến cho ông tuyệt tự”.
Ông Dương hối hận,
lại làm thơ rằng:
Thiên
tùy địa lăo, thiếp tùy binh,
Thiên
địa vô t́nh, thiếp hữu t́nh,
Chỉ
huyết khiết khai hà kiệu xích,
Đài
ngân hóa tác tuyết giang thanh.
Nguyện
tùy tương sắt thanh trung tử,
Bất
trục hồ già phách lư sanh.
Tam nguyệt
tử quy đề đoạn huyết,
Thu phong
vô lệ tả ai minh.
(Tạm dịch:
Trời già theo đất,
thiếp theo quân,
Trời đất vô t́nh, thiếp
hữu t́nh,
Máu cắn ngón tay như ráng
đỏ,
Sông trinh xanh ngắt vết
rêu in.
Nguyện chết theo chồng
cho trọn nghĩa,
Chẳng ham sống nhục
với quân Hồ,
Tháng Ba chim cuốc gào tan huyết,
Gió thu khôn tả nỗi buồn
thương).
Lại mộng thấy
người đàn bà nói: “Ông đă hối lỗi, sẽ có
con”. Quả nhiên, ông sanh một trai. Do vậy, tiên sinh Thiết
Nhai tấn tu, chứng đắc quả tiên.
Thông minh chánh trực th́ gọi
là Thần, bậc quân tử hăy nên kính sợ. Thế mà có phường
tiểu nhân chẳng biết kiêng nể, tự xưng là
“chánh trực, chẳng tà vạy, có thể khuất phục
quỷ thần”. Chẳng biết tâm thuật vừa mới
dấy mảy niệm, quỷ thần đă thấy rành
rành, chỉ tự chuốc lấy tội lệ đó thôi!
Đời Hậu Ngụy[28], Thôi Hạo
phụng sự Ngụy Thái Tổ (Thác Bạt Khuê) được
sủng ái, đăi ngộ đặc biệt trọng hậu,
lần lượt làm quan tới chức Tư Đồ. Do
chuyện tu chỉnh quốc sử đă phô bày những
điều ác của đất nước (tức là phô
bày những lỗi ác của hoàng tộc đương triều)
mà hắn bị giết chết. Trước đó, Thôi Hạo
bài xích, hủy báng Phật pháp. Vợ hắn là Quách Thị
kính yêu nội điển (kinh Phật), Thôi Hạo tức
giận, giật lấy đem đốt hết, vứt
tro kinh vào nhà xí! Tới khi Thôi Hạo bị giam kín, nhốt
vào trong lồng giam, [bọn giám ngục] sai quân lính đái
tung tóe lên thân hắn. Từ xưa, những kẻ đă từng đứng
đầu các quan [khi thất thế], không có ai bị [giam
cầm], lăng nhục rồi mới giết chết như
Thôi Hạo!
Tại Trấn
Giang, có một người chủ tiệm
bánh họ Vu, đứa con thơ của hắn bị chết
v́ bệnh đậu mùa. Họ Vu bèn viết đơn thưa, toan dâng lên Thành Hoàng tố
cáo thần đậu mùa. Vợ hắn đoạt lấy,
đem đốt dưới
bếp ḷ. Đến đêm, hắn mộng thấy quỷ
tốt bắt đi. Thành Hoàng nói: “Táo Quân trong nhà
ngươi đă tâu tŕnh chuyện ngươi có đơn
tố cáo thần đậu mùa, ông ta mắc tội ǵ vậy?”
Họ Vu thưa: “Thần đậu mùa đ̣i được
cúng tế mà chẳng toại ư, bèn khiến cho con tôi bị
chết”. Chốc lát, thần đậu mùa đến,
thưa: “Mạng con hắn đă hết, liên quan ǵ đến
tiểu thần?” Thành Hoàng phán: “Nghĩ t́nh tiểu dân vô
tri, giao cho Dương tri huyện trách phạt hai
mươi gậy, bệnh một tháng”. Khi ấy,
Dương Thục Đ́nh làm huyện lệnh huyện
Đơn Đồ. Ngày hôm sau, hắn ở ngoài tiệm,
chống cửa lên, [vô t́nh] gây trở ngại, phá nát cái tán
che [kiệu của] quan, bị quan trách phạt hai
mươi gậy, nằm mọp trên giường bệnh
một tháng mới lành! Quỷ thần và phép vua giúp nhau
thành tựu. V́ thế, đắc tội với quỷ thần,
sẽ thường là đích thân trái phạm phép vua!
(Chánh kinh) Khí thuận hiệu nghịch,
bối thân hướng sơ.
(正文)棄順效逆。背親向疏。
(Chánh kinh: Bỏ
thuận theo nghịch. Phản bội người thân thuộc,
chạy theo người ngoài).
Thạch Thước là
người nước Vệ đời Châu đă nói: -
Vua có nghĩa, bầy tôi trung thành, cha nhân từ, con hiếu
thảo, anh yêu thương, em kính mến; đó là sáu điều
thuận thảo. Kẻ hèn hạ xâm phạm người
tôn quư, kẻ trẻ tuổi hiếp đáp người lớn
tuổi, kẻ ở xa ly gián người thân cận, kẻ
mới ly gián người cũ, kẻ nhỏ lấn
lướt người lớn, dùng sự dâm uế phá hoại
nghĩa lư, đó là sáu điều trái nghịch. Do bỏ
điều thuận thảo, noi theo điều trái nghịch;
cho nên, họa sẽ nhanh chóng đưa tới. Kinh Thư
chép: “Huệ địch cát,
tùng nghịch hung” (Thuận theo đạo trời sẽ dẫn
đến sự tốt lành, trái nghịch đạo trời
sẽ là hung hiểm). Lại chép: “Thuận thiên giả xương, nghịch thiên giả
vong” (Thuận theo đạo trời sẽ
hưng thịnh, trái nghịch đạo trời sẽ bị
diệt vong). Thuận theo, ắt sẽ là trung, là hiếu,
làm thánh, làm hiền. Trái nghịch th́ sẽ là điên cuồng,
tàn bạo, tâm t́nh thay đổi xoành xoạch, là kẻ giặc.
Có nghĩa là trong ṿng một niệm, họa và phước
được phán định khác biệt một trời
một vực, há chẳng nên thận trọng ư?
Triệu Phong Tử là người
ở huyện Văn An, Bá Châu có sức mạnh,
dũng cảm. Hắn cùng với Lưu Lục và Lưu Thất
chia nhau làm cướp. Hắn cướp phá Hà Nam, tiến
vào Bí Dương, đào tung hết các mộ phần tổ
tiên của Tiêu Phương, nói: “Ta phải tận tay giết
thằng giặc này để tạ tội với thiên hạ”.
Hắn bị quan quân đánh bại, phải chuyển sang
cướp bóc tại Lục An. Quan quân lại truy kích,
Phong Tử đoạt được độ điệp
của một vị Tăng, bèn cạo tóc giả vờ
làm Tăng. Hắn bị bộ tướng Triệu Thành bắt
được, chém vụn thành từng miếng! Lưu Lục
và Lưu Thất chạy tới Lang Sơn ở Thông Châu, bỗng
băo lốc nổi lên dữ dội, bọn giặc bị
giết sạch. Phàm trái nghịch có hai loại: Một là bầy
tôi hoặc con cái trái nghịch vua, cha. Hai là đạo tặc
quấy nhiễu, làm hại xóm làng. Đối với chuyện
kẻ bầy tôi hoặc phận làm con mà trái nghịch, th́
trong phần nói về “bất
trung, bất hiếu” thuộc phần trước
đă răn bảo tường tận. V́ thế, ở đây
chuyên nói về những kẻ dấy loạn, làm giặc,
ḥng mọi người sẽ an phận, noi theo lư mà giữ
vẹn thân mạng vậy!
Phản bội thân thuộc,
chạy theo người ngoài, không chỉ là một mối.
Như dối lừa, chống trái cha mẹ, hoặc ỷ
thế nhà vợ mà đối đăi thân thuộc của
cha mẹ không theo lẽ chánh đáng, đối đăi nồng
hậu với thân thuộc bên vợ, nhưng so đo từng
ly từng tư với anh em. Đặc biệt đối xử
khảng khái với bạn bè, người ngoài, chẳng
đoái hoài họ hàng của chính ḿnh đói lạnh, bần
hàn, mạo nhận [bạn bè, người ngoài] mới là
thân tộc của chính ḿnh. Phàm những kẻ bạc bẽo
đối với những người đáng nên đối
xử trọng hậu, hậu đăi những người
đáng nên đối xử sơ sài, đều thuộc
[trong phạm vi của lời răn này]. Khổng Tử bảo:
“Bất ái kỳ thân nhi ái tha
nhân giả, vị chi bột đức. Bất kính kỳ thân,
nhi kính tha nhân giả, vị chi bột lễ” (Chẳng yêu thương cha mẹ mà yêu
thương người khác th́ gọi là trái nghịch
đức. Chẳng kính trọng cha mẹ mà kính trọng
người khác th́ gọi là trái lễ). Nay những kẻ
bội nghịch người thân, thuận theo những kẻ
có mối quan hệ chẳng thân thiết, nếu chẳng v́
ân oán mà xử sự theo t́nh cảm riêng tư th́ là do thuận
theo t́nh cảm thường t́nh nồng ấm hay lạnh
nhạt, trái đức, nghịch lễ quá đỗi!
Đấy là trọng tội căn bản, sẽ bị
báo ứng rất nặng!
Châu Thông do nhiều lần
thi Cử Nhân chẳng đậu, bèn sang Tiếu Quận nhận
viên Đô Lại[29] là Châu
Cát làm cha, hằng ngày tự xếp ḿnh vào hàng ngũ các đứa
con ruột của ông ta. Hết thảy những kiêng kỵ
về tên húy của ba đời [tổ tiên] đều
dùng theo nhà họ Châu. Năm sau, nhờ đó mà hắn thi
đỗ Cử Nhân, chẳng trở về nhà. Cha hắn viết
bài thơ trách móc, Châu Thông hổ thẹn mà chết.
Đời Minh, Bạch Hy
không có con, chẳng nuôi cháu làm kẻ thừa kế, mà nuôi một
đứa con của một gă đồ tể. Về sau,
Bạch Hy chết, có người khách ban đêm ngủ lại
nhà ấy. Trong đêm, nghe có tiếng chân bước vội,
người ấy bèn ngồi dậy, từ khe cửa nh́n
ra, thấy mấy người đàn ông, đàn bà, lẩn
quẩn mong ngóng, dường như có vẻ đói khát. Lại
thấy một người, eo cài con dao mổ, khật
khưỡng tiến vào. Chốc sau, vỗ bụng đi
ra. Mấy người đàn ông, đàn bà chùn chân nói: “Khổ
quá! Thôi rồi, lại chẳng được ăn”, thảm năo lui ra. Đến sáng, người khách hỏi
đầy tớ, đầy tớ đáp: “Đêm qua chủ
nhà cúng bái tổ tiên”. Do vậy, người khách vỡ lẽ:
“Kẻ cầm con dao mổ chính là cha ruột [của chủ nhà]. Mấy người đàn ông, đàn bà
chính là tổ tiên nhà họ Bạch và vợ chồng Bạch
Hy”. Người khách ấy than thở, ra đi.
(Chánh văn) Chỉ thiên địa
dĩ chứng bỉ hoài. Dẫn thần minh nhi giám ổi
sự. Thí dữ hậu hối, giả tá bất hoàn.
(正文)指天地以證鄙懷。引神明而鑒猥事。施與後悔。假借不還。
(Chánh văn: Chỉ
trời đất thề thốt làm chứng cho ḷng dạ
xấu xa. Viện dẫn thần minh ḥng chứng giám chuyện
tồi tệ. Cho rồi lại hối, vay mượn
không trả).
Trời đất vô tư,
thần minh chánh trực, thuận theo sẽ tốt lành,
trái nghịch sẽ hung hiểm. Báo ứng như tiếng
vang, đă chú tâm kinh sợ, vẫn c̣n phải dè chừng phạm
tội, huống hồ dám chỉ trỏ [trời đất],
viện dẫn [thần minh] ḥng chứng giám những chuyện
bại hoại, bỉ ổi, cũng chẳng phải là
khinh nhờn lắm ư? Há lẽ nào trời đất,
thần minh chịu giúp con người làm ác ư? [Những kẻ hở ra là chỉ trời,
vạch đất thề
thốt, viện dẫn thần
minh làm chứng] chỉ là tự nhanh chóng chuốc họa vậy!
Nhà của Trương Trung tụ
tập toàn hạng người bất măn, hung tợn. Cha,
con, anh, em, mẹ chồng và con dâu, chị em dâu hở ra là
xô xát, tranh chấp. Họ thường hô trời, gọi
đất, chỉ trỏ thần minh ḥng muốn biểu
lộ bản thân trong sạch. Đến khi mỗi gia
đ́nh tách ra riêng, sự tranh chấp càng quá đáng, ai nấy
cầu cúng thần, nguyền rủa lẫn nhau. Từ
đó, yêu quỷ lộng hành ngày càng nhiều, bệnh tật
nhiều lần phát sanh. Trong ṿng mấy năm, cả nhà gần
như chết sạch!
Đời Minh, Liên Tŕ đại
sư nói: “Thế tục hứa nguyện, như các chuyện
cầu có con, cầu thọ, cầu giải nguy, cầu
công danh, cầu tài lộc v.v… chớ nên hứa nguyện mổ
giết những con vật [để đáp tạ]. Đó
gọi là ác nguyện, tạo oan nghiệt, chẳng có công
hiệu ǵ! Cho đến hứa may áo bào [cho thần tượng],
hứa may phan, hứa tạo điện phủ, hứa
dâng cúng đồ thờ [đều chớ nên]. Chỉ nên
cốt sao giữ tấm ḷng trang nghiêm Phật pháp, nguyện
cho khắp chúng sanh thâu nhiếp cái tâm kính sợ, chớ nên
có ḷng cầu phước. Ấy là v́ đại bi b́nh đẳng th́ gọi là Phật, chánh
trực chẳng thiên vị là thần. Nếu ai chỉ có
ḷng riêng tư cầu phước, há có lẽ nào trời
đất quỷ thần v́ được hối lộ
mà giáng điều cát tường hay chăng? Dựa theo lư
để luận định, chỉ cốt yếu là
chính ḿnh trọn hết tấm ḷng, rộng hành các điều
thiện, trung, hiếu, ḥa, thuận, thương người
nghèo, mến người già, giúp người gặp tai nạn,
giúp đỡ kẻ khổ, kiêng giết, phóng sanh, làm các thứ
âm chất, mọi điều phương tiện tùy theo
khả năng, tận hết sức nỗ lực thực
hiện, do công năng của điều thiện cảm vời,
tự nhiên phước sẽ giáng xuống. Nếu chẳng
làm lành, chỉ sanh ḷng cầu nguyện, mong mỏi, đó
chính là hoài băo hèn tệ, là chuyện bỉ ổi, khinh nhờn
thần minh”. Bảo khắp người đời, hăy nên dốc
ḷng tin tưởng lời này.
Chuyện thí xả là chuyện
lập công nhanh chóng nhất, ắt phải ưa thích làm
lành chẳng mỏi mệt th́ mới có tiến bộ. Dẫu
tài lực chẳng đủ [không thể tiếp tục
thực hiện], vẫn cần phải nên thường giữ
tấm ḷng ấy. Huống hồ có nên nẩy sanh ḷng keo kiệt, chôn vùi ư niệm ban đầu ư? Chưa cho
đă hối hận, ắt chẳng có kết quả do thí
xả. Đă cho rồi hối hận, tức là chẳng
c̣n thí nữa, tàn hại ḷng nhân nghĩa, là cội gốc của
tâm bệnh. V́ thế, đức Thái Thượng chẳng
nhắc đến sự tốt lành của thí xả, chỉ
nói về lẽ ác của việc “đă cho rồi
hối hận”. Bởi lẽ, chuyện được
thánh nhân khen ngợi nhất chính là “hướng thiện, sửa
lỗi”, điều bị các Ngài ghét nhất không ǵ bằng “chẳng làm lành đến cùng”.
Kẻ đă thí xả rồi
sau đó hối hận, xét đến thuở đầu,
[sẽ thấy] rốt cuộc là chẳng do chân tâm thích làm
lành; bất quá là nhất thời cao hứng cầu danh,
mong được phước đó thôi. Chỗ khởi
nguồn đă trật, sao không hối hận về sau cho
được? Nếu là chân tâm thí xả, ta và người
đều không, chắc chắn sẽ chẳng đến
nỗi này. Do vậy,
người làm lành chẳng thể không dốc
sức biện định
nơi một niệm vừa mới chớm nẩy.
Phù Nhă thích bố thí cho người
khác, kẻ ăn mày bâu đầy trước cửa. Ông
thường nói: “Tài vật trong thiên hạ vô định.
Hôm nay giàu, mai sau nghèo, giống như chiếc ṿng xoay măi. Nếu
một ngày chẳng thí, ắt ḷng chẳng vui sướng”.
Người thuở ấy nói: “Chẳng
thèm giàu như Quyền Hưng, thà nghèo như Phù Nhă”. Về
sau, ông làm quan tới chức Thượng Thư Lệnh,
con cháu càng giàu có hơn.
Lưu Khoan thích thí cho người
nghèo túng, khốn khó, vất vả, chẳng mỏi mệt.
Về sau, ông được Thái Thượng Lăo Quân thâu nhận,
giữ chức vụ Đồng Sơ Phủ Soái Thượng
Hầu, chưởng quản những người mới
đắc đạo.
Vĩnh Thanh Sử chánh trực.
Khi dựng nhà, đào đất, t́m được mấy
vạn lượng bạc. Ông thở dài, nói: “Tiền tài
là tánh mạng của con người. Đă do trời ban
cho, há nên hưởng riêng?” Phàm những chuyện có thể
giúp đỡ, châu cấp kẻ nghèo khổ, túng thiếu,
hay đang gặp nguy cấp, không ǵ ông chẳng làm. Về
sau, gặp năm mất mùa, ông bỏ ra tám vạn thạch
gạo để cứu tế dân đói. Chẳng lâu sau,
đạo tặc nổi dậy như ong, ông lại bỏ
ra tài sản để bảo vệ xóm làng. Quan viên tâu lên, ông được [triều đ́nh]
ban quan chức, và lập bia biểu dương. Ông thọ
chín mươi bốn tuổi, con cháu đông đảo.
Trương Hiến Khả ở
Vũ Tấn, tánh nhân từ, thích bố thí. Ông đă từng
thí ba ngàn cỗ quan tài xong xuôi, lại tiếp tục thí.
Ông mướn những người ăn xin chôn cất những
xác chết [vô thừa nhận] trên đường, cứ
mỗi xác sẽ trả công chừng đó tiền. Kẻ ăn
xin mỗi khi thấy có tử thi trên đường đều
vui mừng, cho đó là nguồn tiền. Từ ấy, trong
huyện chẳng có thi hài bị phơi sương dăi nắng.
Ông lại nấu thuốc cao để thí cho người bệnh
hoạn. Lúc lạnh th́ nấu cháo thí cho người đói
ăn. Ông nói: “Đă chôn người chết, há chẳng nên
cứu người sống ư?” Hai con trai ông thi đỗ, được
phong chức tước. Mất mùa là thiên tai, kẻ cùng khốn
là do số mạng. Cứu người gặp tai
ương chính là tấm ḷng của trời đất; tạo
nên số mạng là sở học của thánh hiền. Mấy
vị ấy dùng ḷng thành để thí xả, cho nên
được phước thọ, phú quư, con cái nối
ḍng. Lại c̣n được siêu sanh về chốn lành, lư
là như vậy đó.
Hề Bách Tam vốn là một
người nghèo, ngẫu nhiên gặp một đạo
nhân đến xin tại một tiệm buôn. Chủ tiệm
buôn không cho. Bách Tam sờ lưng chỉ c̣n một đồng,
bèn cho [vị đạo nhân ấy]. Đêm hôm đó, ông mộng
thấy đạo nhân trừ bỏ bướu thịt
cho ḿnh. Đến khi tỉnh giấc, cái bướu thịt dưới cằm quả nhiên rụng
mất. Thí một đồng mà rốt cuộc được
ĺa đau khổ. Có thể thấy là bố thí chẳng
quan trọng là ít hay nhiều, mà là do tấm ḷng. Người
đời hăy nên tự ḿnh nhất tâm tận lực thực hiện, khuyên người khác cùng làm, c̣n e là chậm chạp, huống hồ có
nên hối hận ư?
Vay mượn là để
chuyển từ người sẵn có cho đến người
chẳng có, ḥng giúp đỡ trong cơn túng ngặt, vốn
là chuyện tốt đẹp. [Người vay mượn]
chịu ân đức [của người cho mượn]
chẳng nhỏ, há nên cậy mạnh, ngoan cố, viện
vào mánh khóe giảo hoạt để thoái thác, trốn nợ
ư? Nào có biết chưa trả xong nợ cũ, chết
rồi sẽ phải đền bồi. Nhẹ th́ làm nô tỳ
cho họ (chủ nợ), nặng th́ sẽ làm lừa, ngựa,
trâu, chó để đền bù, cũng đáng sợ thay!
Phàm mượn vật dụng
của người ta, phải nên chú ư quư tiếc, giữ
ǵn. Mượn vật dụng của người khác, nếu
chẳng phải là bất đắc dĩ, đừng nên
mượn. Mượn rồi dùng xong, hăy ngay lập tức
trả lại. Như thế th́ không chỉ là người
ta chẳng chán ghét, mà chính ḿnh cũng chẳng hổ thẹn.
C̣n như vay nợ tiền bạc, càng phải nên trả lại
người ta ṣng phẳng. Đời nay, đa số thường là
vay mượn không chịu trả, chẳng nghĩ tiền
tài ấy chẳng phải là tiền tài của ta, dẫu có giữ rịt th́ rốt cuộc nó cũng mất
đi. Tiền tài đă chẳng c̣n, chỉ c̣n nợ đọng
lại, có lợi ích ǵ chăng? Xin hăy suy nghĩ!
Mùa Thu năm Mậu Ngọ (1678) đời Khang Hy nhà Thanh, một cư dân ở
Yên Kinh (Bắc
Kinh) là Trương Nguyên nuôi một
con lừa, mỗi ngày đi được hai trăm dặm.
Nó thích cắn, đá người khác, chỉ có ba người
cha con họ Trương cưỡi lên, ắt nó vâng chịu,
chứ người khác chẳng thể cưỡi
được. Ngẫu nhiên, một người họ Dương bèn thử
mượn, rất dễ dàng cưỡi nó, bèn cưỡi
đi. Đă trả lại, ban đêm, họ Dương mộng
thấy một người áo đen nói: “Tôi là con lừa của
họ Trương. Đời trước, tôi đă mượn ông ba trăm đồng
không trả, nay sẽ bồi thường. Ngày hôm qua, ông
cưỡi tôi đi hai trăm tám mươi dặm, xin hăy
cưỡi tôi thêm hai mươi dặm nữa cho xong nợ
của tôi”. Ông Dương hỏi: “Ngươi thiếu họ
Trương bao nhiêu tiền?” [Người ấy] chau mày
nói: “Nhiều lắm! Chẳng thể nói”. Ông Dương tỉnh
giấc, quả nhiên lại mượn lừa cưỡi
đi. Đi khá xa, lừa bỗng lồng lên, quăng ông
Dương xuống đất. Tính đường đi,
quả nhiên là hai mươi dặm, họ Dương càng
lấy làm lạ hơn, khuyên nhủ: “Ta biết nguyên do
[ngươi quăng ta xuống đất rồi],
nhưng nay c̣n cách nhà ta mười dặm nữa. Không
cưỡi ngươi, làm sao có thể về cho được?
Ta trở về, sẽ dùng mười đồng mua cỏ
cho ngươi ăn được không?” Con lừa đứng
đó, nh́n ông ta một lúc lâu, [sau đó] lại ngoan ngoăn lên
đường. Sau đấy, ông Dương cố ư muốn
thử, vừa mới tới gần, lừa liền
đá, cắn, hí dài!
Ông Châu Tại Am nói: - Có kẻ
do nghèo mà quỵt nợ, có kẻ giàu mà quỵt nợ. Do
nghèo mà quỵt nợ là v́ không đủ sức. Nếu dựa
theo Trung Giới Kinh, hăy nên tha thiết nghĩ đền trả,
tự nhiên sẽ không phạm lỗi. C̣n như có [đủ
sức trả] mà không trả, nếu chẳng phải là
phường cậy oai, ỷ thế, chắc chắn là hạng
mê muội thiên lư, chôn vùi lương tâm, nào có biết đời
đời kiếp kiếp phải đền trả cho hết
nợ mới xong!
Lái buôn họ Ngô ở An Huy
giữ tín nghĩa; lúc lâm chung, dặn hai đứa con: “Một
ngàn lượng vàng ta sở hữu trong hiện tại đều là do vay mượn từ họ
Phù. Con phải thanh toán từng khoản một, thà chịu
đói rét, chớ làm kẻ phụ bạc tấm ḷng [người khác đă tử tế cho vay]”. Con ông ta đều vâng lời cha dạy,
[trả sạch nợ xong], nghèo khổ, không thể trông cậy
vào đâu được. Bỗng từ một cái giếng
cạn, họ t́m được hai ngàn lạng bạc,
[trên mỗi nén bạc] có khắc niên hiệu đời
Đường. Họ đóng cửa, giấu kín, chẳng
có ai biết. Hôm sau, bỗng có người từ huyện
bên cạnh tới nói: “Các ông có phải là con của ông Ngô
hay không?” “Thưa phải!” Người ấy nói: “Các ông
phát tài rồi! Hôm trước, tôi do bị bệnh, đến
phủ Đông Nhạc, thấy có vị thần giải tiền
từ ty Tài Bạch tới, tự xưng là thần giếng
và suối. Vị chủ quản bảo: “Đây là số bạc
từ trong nội
khố (kho tiền trong cung) của nhà Đường. Thượng Đế
do thấy ông Ngô phân minh đối với chuyện tiền
bạc, con ông ta khắc
khổ tuân theo chí cha, bèn ban cho họ
khoản tiền này, khiến cho họ suốt đời được hưởng sự
đại phú. Tôi tỉnh lại, lấy làm lạ; v́ thế,
đến thưa hỏi”. Anh em họ Ngô kinh ngạc, kể
thật mọi chuyện. Hiện thời, trong họ Ngô,
những người giàu to rất nhiều, toàn là con cháu của
ông Ngô vậy.
(Chánh văn) Phận ngoại
doanh cầu. Lực thượng thi thiết.
(正文)分外營求。力上施設。
(Chánh văn: Cầu
mong quá phận. Dốc hết sức bày vẽ, tạo tác).
Con người do chẳng
nương theo bổn phận, chỉ cho rằng “do toan
tính mong cầu, sẽ được lợi ích”, cũng ngỡ
là “phú quư hay bần tiện trong đời người là
nhất định, chẳng thay đổi”. [Tài vận do
đă được] ghi chép trong cơi âm, [cho nên] cơi dương
[có thể] hưởng dụng, đều là do túc nghiệp,
há có thể toan tính mong cầu quá phận ư? Vọng tâm
tham niệm, mong mỏi sẽ do may mắn mà đạt
được, không chỉ là vô ích, lại c̣n sợ rằng
do t́nh chấp hư vọng mà bị giảm phước! Sao
chẳng lănh hội câu nói của Mạnh Tử: “Cầu chi hữu đạo,
đắc chi hữu mạng” (Có phương cách để cầu, nhưng đạt
được [hay không] là do vận mạng), hoặc ư chỉ
“nhất thiết phước
điền bất ly
phương thốn” (hết thảy phước điền
chẳng rời khỏi cái tâm) của Lục Tổ vậy?
Đời Đường,
vào đầu niên hiệu Trường Khánh[30], huyện
úy Tân B́nh là Bùi Phác chết. Người anh họ bên ngoại
là Hoa Nguyên ở trọ tại Lũng Hữu, trên
đường gặp một vị quan vơ, các kỵ
sĩ theo hầu rất đông. [Vị quan ấy] chính là
Bùi Phác. Hoa Nguyên kinh ngạc, mừng rỡ, hỏi: “Huynh
ĺa cơi đời, làm chức quan vơ ǵ thế?” Bùi Phác nói:
“Tôi giữ chức Tây Xuyên Soát Lược Sứ, chuyên trông
coi sự tăng giảm của tiền tài trong thế
gian. Một hớp uống, một miếng ăn của
người đời, không ǵ chẳng đă định sẵn,
huống hồ tài vật ư? Âm ty ghi chép, hạn định
[tiền tài của mỗi cá nhân] có mức hạn. Nếu
vượt quá [hạn mức ấy], sẽ tước
đoạt bớt (刷掠, soát lược) [khiến cho kẻ ấy] hoặc là tự
hao phí, gặp chuyện ngang trái, hoặc buôn bán lỗ vốn,
hoặc do bệnh tật [mà tiền của] tiêu tán, đều
là do tôi trông coi về sự tước đoạt vậy.
Trong thế gian, nhà nông siêng năng cầu thóc gạo, lái
buôn siêng năng bèn phát tài, kẻ sĩ do siêng năng mà có lộc,
chỉ đạt được những ǵ vốn có trong
phận ḿnh, không thể tăng thêm những thứ ǵ chẳng
có trong phận ḿnh. Không siêng năng th́ ngay cả những
thứ vốn nên có trong vận mạng cũng bị mất
đi. Ông gặp tôi cũng là tiền định. Ông
đáng có hai cân bạch kim. Cho ông quá con số ấy, sẽ
lại bị đoạt mất. V́ thế, chẳng dám hậu
đăi ông”. Nói xong, biến mất.
Lưu Hàng khá giỏi văn
chương, tự cho rằng sẽ có thể sớm chiếm
địa vị cao trên bảng vàng. Khi ấy, Dực Thánh
Chân Quân[31]
giáng bút tại núi Chung Nam. Do vậy, Lưu Hàng đến
thưa hỏi, Chân Quân bảo: “Văn chương của
ông tuy hạng khá, nhưng mạng lại cạn cợt, mỏng
manh. Nếu an phận, náu ḿnh, sẽ có thể b́nh an trong những
năm c̣n lại. Quá mức mong cầu, ắt sẽ dẫn
đến tổn thọ”. Lưu Hàng chẳng thể nghe
theo, rốt cuộc chẳng thành đạt ǵ mà chết!
Phàm là chuyện đỗ đạt, rạng mày nở mặt
tổ tông, phước ấm cho con cháu, há có thể dùng trí
xảo để toan tính mưu cầu mà đạt
được ư? Hăy nỗ lực vun bồi âm chất,
sẽ có thể đặt để [công danh] trong chỗ
chẳng thấy, chẳng nghe (cơi âm), há có nên mong cầu quá
phận ư? Đối với tiền tài cũng thế.
Trương Thuyết cáo lăo
hồi hương, đóng cửa chẳng ra ngoài. Từ
đấy, chuyện công hay tư bên ngoài, ông đều chẳng
can dự bất cứ chuyện nào. Ông càng đề cao tiết
kiệm, nêu gương [tiết kiệm] cho con cháu. Ông từng
có lời dạy được viết rơ trên tấm b́nh
phong như sau: “Khách đến thăm, giữ lại mời
dùng cơm, hăy tiết kiệm, đơn giản sao cho hợp
với t́nh người. Món ăn tùy theo những ǵ có sẵn
trong nhà mà khoản đăi, trái cây tùy theo mùa mà dọn ra. Dẫu
là hàng thân thích mới đến, chẳng bày cỗ bàn thịnh soạn; dẫu khách quư cũng chẳng
làm thịt các con vật. Không chỉ nhằm răn ngừa
thói xa xỉ đă lâu, mà c̣n nhằm tránh khỏi phiền
năo ḥng sống an vui”.
Trương Củng Thần
nói: - An vui giữ phận nghèo, tiêu xài tiết kiệm
ḥng khỏi phải cầu cạnh người khác. Bớt
việc cho ḷng thanh thản. Mong cầu quá lố chỉ là
chuốc khổ. Phước được hưởng
trong đời người trời đă an bài. Dư dả,
nghèo túng, cùng quẫn, hanh thông, đều được định
sẵn trong mạng. Dẫu dùng trí xảo có thể đạt
được th́ cũng là do thời vận đưa
đến. Hiểu thấu suốt điều then chốt
này, sẽ có thể đạt được bao nhiêu tự
tại. Đợi cho đủ th́ ai có thể đủ? Để
ngưng dứt [mong cầu quá lố], hăy buông xuống.
“Dốc
hết sức bày vẽ, tạo tác” có nghĩa là đối
với những ǵ sức ḿnh có thể làm được,
bèn tận hết sức ra oai, bày cách [nhằm đạt mục
đích], chẳng c̣n chừa lại chút nào, cứ ắt
sao cho chẳng đạt đến tận cùng sẽ chẳng
thôi. Đó chính là như câu nói “buồm
mở hết cỡ căng gió, lại thêm tám mái chèo”.
Đời Lưu Tống, Hề
Hiển Độ làm quan tới chức Viên Ngoại Tán Kỵ
Thị Lang. Tống Hiếu Vũ Đế từng sai hắn
đôn đốc những người làm tạp dịch
cho chánh quyền, hắn hà khắc bạo ngược, vô đạo.
Hở ra là đánh đập, đấm đá, tháng Hạ
mưa dầm, trời Đông tuyết đổ, chẳng
cho họ nghỉ ngơi chút nào! Người ta chẳng chịu
nổi, có kẻ phải tự sát. [Về sau], Hiển
Độ cũng do mắc tội mà bị giết chết.
Học sĩ Tiền Hạc
Than ở Hoa Đ́nh kiến tạo phủ đệ trong
vùng rừng rậm. Những phu phen lao dịch [phải phục
vụ] rất vất vả, khổ sở, người
làng cũng v́ đó mà ngă bệnh. Một công nhân chẳng thể
đi làm lao dịch, ông giận dữ, quở trách. Người
công nhân thưa rằng: “Xưa kia quan Đề H́nh[32] họ
Hoàng kiến tạo phủ
đệ, tôi v́ phải làm lao dịch mà thành bệnh. Nay
nhà ông Hoàng đă dột nát, tường vây sụp đổ,
mà bệnh tôi vẫn chưa lành. V́ thế, tôi không thể
đến phục dịch được”. Ông Tiền nghe nói, vỡ lẽ, bèn thôi công tác ấy.
Những kẻ có chức vị mà bày vẽ, chèn ép dân chúng,
kẻ phú quư bày tṛ bóc lột kẻ nghèo hèn, cố nhiên
đă phạm vào điều răn của đức Thái
Thượng. C̣n như kẻ dùng năng lực của con
người để chèn ép, bóc lột súc sanh th́ cũng là
chuyện chớ nên. Như trâu, lừa trong cày cấy, hoặc
ngựa, la để cưỡi, nếu chẳng phải
do ta từ trước
đă tu [phước báo] mà có, ắt
những con vật ấy là những kẻ đă thiếu
nợ ta. Hăy nên yêu thương, chăm sóc, khi sử dụng
chúng, đừng vắt kiệt sức chúng, chớ nên nói: “Súc sanh thuộc loài khác [so
với con người], ta muốn làm ǵ th́ làm” ư?
(Chánh văn) Dâm dục quá độ.
(正文)淫慾過度。
(Chánh văn: Dâm dục quá
độ).
Các tà duyên kết hợp ở
bên ngoài (quan hệ trai gái bất chánh ngoài hôn nhân), [khiến
cho] đạo đức diệt tuyệt, lương tâm
bị chôn vùi. V́ thế, đức Thái Thượng đă
buông lời răn dạy trong phần trước. C̣n
như đối với chánh sắc (正色, chuyện ăn nằm chánh đáng) giữa vợ chồng, càng cần phải
có chừng mực. Nếu nói “chánh sắc chẳng phải
là dâm”, há có tránh khỏi cái họa sát thân do buông lung t́nh dục? Bởi lẽ, nguyên tinh[33] trong
thân người được phân bố trong Tam Tiêu[34],
tươi nhuận trăm mạch. Khi lửa dục vừa
dấy động, [nguyên tinh] bèn tụ hợp lại, lưu chuyển [đổ vào thận tạng],
đều phát xuất từ Mạng Môn[35], do
Vĩ Lư[36]
chẳng bị ngăn chặn, biển xanh sẽ bị kiệt
quệ[37],
tột bậc đáng sợ! Phàm nhân hễ tinh đầy đủ th́ thần sanh,
tinh và thần đầy đủ th́ trí khôn sanh, [dẫn
đến] trí thông minh được tăng cường,
củng cố, có chuyện ǵ mà chẳng làm thành công? Nếu
tuổi thiếu niên trác táng, anh khí tiêu mất, sự nghiệp
suốt cả một đời cũng bị mất theo!
Người suốt đời
bệnh tật luôn luôn là do bắt đầu từ thuở
tân hôn. Tuổi trẻ vô tri, thường là dục t́nh chẳng có chừng mực. [Do
hành dâm] nhiều mà thành chứng lao tổn, suy nhược, thậm chí chết yểu, liên lụy vợ
phải chịu nỗi khổ góa bụa. Chẳng nghĩ
do hôn nhân mà [vợ chồng trở thành] quyến thuộc
trăm năm, suốt đời bầu bạn. Tội ǵ
buông lung trong ṿng một tháng, gieo thành gốc họa suốt
đời? Lúc con em sắp kết hôn, cha anh hăy nên ra rả
răn nhắc chuyện này!
Tục ngữ có câu: “Lạc cực sanh bi, túng dục
thành hoạn” (Vui quá hóa buồn, phóng túng ḷng dục thành bệnh).
Lại có câu: “Quả dục tất
đa nam, tham dâm mỗi vô hậu” (Ít dục, ắt phần nhiều sanh con
trai; tham dâm thường không có con). Khổng Tử bảo:
“Huyết khí vị định,
giới chi tại sắc” (Khi huyết khí c̣n chưa ổn định
(đang trong tuổi phát triển của thanh thiếu niên),
phải kiêng dè sắc dục). Lăo Bành nói: “Người thuộc
bậc thượng th́ [vợ chồng] ngủ khác giường,
bậc trung th́ đắp khác mền. Uống trăm viên
thuốc, chẳng bằng ngủ một ḿnh”. Đức
Phật dạy: “Nữ sắc
là cội gốc của các nỗi khổ, là cội gốc
của chướng ngại, là cội gốc của sát hại,
là cội gốc của ưu sầu”. Kinh Hoàng Đ́nh[38] chép:
“Hăy gấp ǵn giữ tinh thất, đừng tiết tinh bừa
băi. Hăy bế tinh ḥng bảo đảm có thể sống
lâu”. Quả thật là v́ dâm dục dẫn đến t́nh cảnh “diệt tánh, vong thân”. Có kẻ ngấm ngầm hứng chịu nỗi
hại này mà chẳng hay biết. Có kẻ biết rơ nỗi
hại này, nhưng chẳng đoái hoài! Do vậy, thánh hiền
phải khăng khăng răn nhắc. Phàm phu chẳng hay
biết, cứ buông lung, chẳng kiêng kỵ, mang khí phận
dâm uế, chọc giận quỷ thần. Đủ mọi
nỗi bất tường do đấy mà ra. Nguyện khắp
[mọi người], hăy kịp thời rất nhẫn nại [chế
ngự dâm niệm], ngơ hầu đạt được
phép tắc kéo dài mạng sống. Nếu không, cái thân sẽ
chết chắc, chẳng thể cứu được!
Nhậm Huệ Cung tuổi
già càng thêm mạnh khỏe, cứng cáp. Có người hỏi
ông về thuật dưỡng sanh, ông đáp: “Tôi đọc
bộ Văn Tuyển[39] ngộ
một điều: Do đá chứa ngọc mà núi rạng rỡ,
do nước chứa châu mà đẹp đẽ”, chính là
nói đến ư này (tiết chế dâm dục).
Tŕnh Y Xuyên coi chuyện quên
thân theo đuổi dục vọng là điều sỉ nhục
sâu xa. Đến tuổi bảy mươi, gân sức của
ông Tŕnh chẳng kém lúc trẻ tuổi.
Lư Giác đă trăm tuổi,
sắc diện như trẻ thơ. Người ta hỏi
bí quyết, ông đáp: “Do tôi sớm tuyệt dục”.
Lưu Nguyên Thành đă tám
mươi mà cứng cáp, mạnh mẽ, tự nói [chính
ḿnh] đă quả dục ba mươi năm, huyết khí lẫn
tinh thần vẫn như thuở trẻ.
Vị ḥa thượng họ
Châu ở Lô Lăng đă chín mươi mấy tuổi,
đi đường xa vùn vụt như bay, râu tóc chẳng
bạc. Sư nói chẳng có thuật chi khác, chỉ là lúc tuổi
trẻ đă có thể tiết dục.
Trương Thúy ở Thái Thương
chín mươi mấy tuổi, tai mắt thông tỏ, vẫn
c̣n có thể vẽ vời. Người ta hỏi [bí quyết],
ông bảo: “B́nh thời tôi chỉ mỏng nhẹ ḷng dục,
có chừng mực về chuyện t́nh dục”.
Người đă già mà cứng
cáp, mạnh mẽ, chính là chuyện vui bậc nhất trong
đời người, nhưng nguyên do [dẫn đến
t́nh trạng già cả mà khỏe mạnh ấy] bất quá
là giảm thiểu, giữ chừng mực về dâm dục
đó thôi! Người ta có khó ǵ mà chẳng tuân theo pháp tắc
ấy? Bành Tổ[40] nói: “Mỗi
tháng xuất tinh hai lần, một năm xuất tinh hai
mươi bốn lần. Đấy là phương cách giữ
chừng mực, thận trọng vậy”. Tố Nữ[41] nói: “Người
sống đến tuổi sáu mươi, hăy nên bế tinh,
đừng xuất tinh. Đấy là phương pháp để
ngăn ngừa nguy cơ. Làm như thế th́ chẳng phế
nhân đạo, mà cũng chẳng hao tổn nguyên
dương”. Tôi cho rằng vào thời Bành Tổ và Tố Nữ,
bẩm tánh của con người khá thuần hậu, cho
nên [hai vị] nói như thế. C̣n như hiện thời, thuần
phong mỹ tục đă lạt lẽo quá mức, há nên chấp
những lời ấy là lẽ thường! Huống chi kẻ
nguyên khí yếu ớt, há chẳng càng bội phần thận
trọng ư?
Đời Minh, có người
họ Từ ở Cù Châu, dung mạo đẹp đẽ,
có tiếng là tài năng. Chưa đầy hai mươi tuổi,
họ Từ đă đỗ Tiến Sĩ, được
bổ làm Tiết Thôi[42] ở
phủ Tùng Giang. Thân thích, bạn bè đều hâm mộ.
Nhưng anh ta háo sắc, nuôi những cô thiếp yêu tột
bậc xinh đẹp đến mười mấy nàng. Do
hành dục phóng túng vô độ, anh ta đến nhậm chức hơn một tháng, [nguyên tinh]
hư hao, thất thoát mà chết. Các nàng thiếp đều
được gả cho người khác!
Chàng họ Ngu ở huyện
Ngân phong thái đẹp đẽ, nhưng ưa dâm dục.
Một tối, chàng ta mộng thấy Thành Hoàng trách phạt,
tính toán những lần chàng ta phạm tội gian dâm,
đánh cho mấy chục roi. Đến khi chàng ta tỉnh
giấc, hai chân đều tím bầm, sau đó rữa nát.
Chàng nằm bệnh hơn một năm rồi chết.
Muôn điều ác, dâm đứng
đầu. Trăm điều thiện, hiếu đứng
đầu. Đấy chính luật lệ sắt đanh
nơi điện Sâm La[43], tức
là quỷ thần chuộng hiếu, mà cũng ghét dâm cùng cực.
Tuy có thể lọt lưới dương gian, luật lệ
trong cơi âm chẳng sai chạy. Con người há có nên cố ư phạm vào điều [quỷ thần]
căm ghét ư? V́ thế, từ xưa, những kẻ
hoang đàng, đam mê nữ sắc, chẳng có kẻ nào
không mất mạng, tan nhà! C̣n như kẻ đă có tuổi,
càng chẳng nên nạp tiểu thiếp; bởi lẽ, ta đă chẳng quản
họ được, họ càng hận ta đặc biệt
sâu! Oán khí tích tụ, [ắt ta sẽ bị] tổn đức, tiêu phước. Hơn
nữa, họ trẻ tuổi, tánh chất, t́nh cảm khó uốn
nắn theo khuôn khổ, sẽ càng có [những chuyện
nghiêm trọng hơn], chứ không chỉ là như thế,
há chẳng nên kiêng tránh ư? Huống chi bóng mặt trời
đă khuất dần sau núi, sáng tối thật sự khó
thể giữ ḿnh, lại vội vàng cầu quỷ sứ
đến áp giải, ngu chi hơn nữa?
Ghi thêm: Tu thân lập mạng giới kỳ (những
ngày nên kiêng hành dâm để tu thân lập mạng) của
tiên sinh Tần Chuyết Am
1) Tháng Giêng:
Mùng Một tháng Giêng
được gọi là Thiên Lạp, Ngũ Đế[44] so lường
thần khí và lộc mạng của nhân dân. Kẻ phạm
sắc dục [trong ngày này] sẽ bị tước lộc,
giảm thọ mười hai năm. Mồng Ba: Vạn thần
nhóm họp, lại là ngày Bắc Đẩu Thất Tinh
giáng hạ. Kẻ phạm dâm sẽ bị giảm thọ
mười hai năm. Mồng Năm là ngày Ngũ Hư[45]. Mồng
sáu: Lục Hao[46]. Mồng
Bảy: Thượng hội. Mồng Chín: Thiên đản[47]. Mười
Bốn: Tam Nguyên[48] giáng hạ.
Mười Lăm: Tam Nguyên giáng hạ [nhân gian], đồng
thời là ngày khánh đản của Thượng Nguyên
Thiên Quan. Kẻ phạm dâm sẽ bị giảm thọ
mười hai năm. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu
Thất Tinh giáng hạ. Hai Mươi Tám: Các vị nhân thần
tụ hội tại cơi âm; kẻ phạm dâm sẽ bị
bệnh ngặt. Mỗi tháng đều như thế. Ngày Ba
Mươi: Tư Mạng Táo Quân tấu tŕnh thiên đ́nh. Kẻ
phạm dâm bị giảm thọ một năm. Mỗi
tháng đều như thế. Nếu như gặp tháng thiếu
th́ là ngày Hai Mươi Chín.
2) Tháng Hai:
Mùng Một: Phạm dâm sẽ
bị giảm thọ mười hai năm, mỗi tháng
đều như thế. Lại c̣n là ngày vía của Lưu
Chân Quân[49].
Mồng Ba: Vía Văn Xương Đế Quân. Phạm dâm
sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười
hai năm. Ngày ấy c̣n là ngày vạn thần nhóm hội, và
Bắc Đẩu giáng hạ. Ngày Rằm: Vía Thái Thượng
Lăo Quân. Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười
hai năm. Mười Tám: Ngày mất của Chí Thánh Tiên
Sư Khổng Tử. Phạm dâm sẽ bị tước
lộc, giảm thọ mười hai năm. Mười
Chín: Khánh đản
của Quán Âm Đại Sĩ.
Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm.
Ngày Hai Mươi Mốt: Khánh đản Phổ Hiền Bồ
Tát. Ngày Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ.
Hai Mươi Tám và Ba Mươi: Giống như trong phần
trên.
3) Tháng Ba:
Mùng Một: Giống như
phần trên. Mồng Ba: Vía Nguyên Đế[50], phạm
dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm; lại
là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Chín: Ngưu quỷ
thần xuất hiện, phạm dâm sẽ sanh ra ác thai[51]. Ngày Rằm:
Khánh đản của Hạo Thiên Thượng Đế[52]. Lại
là ngày vía của Nguyên Đàn[53], phạm
dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm.
Mười Sáu: Khánh đản Chuẩn Đề Bồ
Tát, phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai
năm. Mười Tám: Vía Trung Nhạc Đại Đế[54]. Mười
Chín: Vía Nhật Cung Thái Dương Tinh Quân. Phạm dâm sẽ
bị tước lộc, giảm thọ mười hai
năm. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ.
Hai Mươi Tám: Vía Đông Nhạc Đại Đế[55], phạm
dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Lại
là thánh đản của Thương Hiệt[56]. Ba
Mươi: Giống như trên.
4) Tháng Tư:
Mồng Một: Giống
như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng
Bốn: Khánh đản Văn Thù Bồ Tát, lại là ngày vạn
thần khuyến hóa điều thiện. Kẻ phạm
dâm sẽ bị câm. Mồng Tám: Khánh đản Phật
Thích Ca. Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười
hai năm. Lại là ngày Thiện Ác Đồng Tử giáng hạ,
kẻ phạm dâm sẽ bị chảy máu đến chết.
Mười Bốn: Vía Lữ Tổ. Ngày Rằm: Phạm
dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mỗi
tháng đều như thế. Hai Mươi Bảy: Bắc
Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như
trên. Ba Mươi: Giống như trên.
5) Tháng Năm:
Mùng Một: Giống như
trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng
Năm là ngày Địa Lạp[57], là ngày
Ngũ Đế khảo hạch quan tước của
người đời. Kẻ phạm dâm sẽ bị tước
lộc, giảm thọ mười hai năm. Mười Một:
Vía Đô Thành Hoàng (thành hoàng cai quản kinh đô). Mười
Ba: Vía Quan Đế (Quan Thánh Đế Quân), phạm dâm sẽ
bị giảm thọ mười hai năm. Ngày mồng
Năm, mồng Sáu, mồng Bảy, Rằm, Mười Sáu,
Mười Bảy, Hai Mươi Lăm, Hai Mươi Sáu,
Hai Mươi Bảy [trong tháng này] được gọi
là ngày Cửu Độc. Kẻ phạm dâm [trong những
ngày ấy] sẽ bị chết yểu. [Nếu hành dâm
trong] giờ Tư ngày Rằm th́ trong ṿng ba năm, nam lẫn nữ
đều chết. Ngày Mười Sáu lại là thời khắc
để vạn vật được sanh thành trong đời
nhất, kỵ [hành dâm] nhất. Ngày Hai Mươi Bảy lại
là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống
như trên. Ba Mươi: Giống như trên.
6) Tháng Sáu:
Mồng Một: Giống
như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Rằm:
Giống như trên. Mười Chín: Quán Âm đắc đạo. Hai
Mươi Ba: Vía Hỏa Thần. Hai Mươi Bốn; Vía
Lôi Tổ[58].
Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai
Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống
như trên.
7) Tháng Bảy:
Mồng Một: Giống
như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng
Bảy: Đạo Đức Lạp, lại là ngày Trung Hội.
Mười Ba: Khánh đản Đại Thế Chí Bồ
Tát. Rằm: Vía Trung Nguyên Địa Quan, phạm dâm sẽ bị
giảm thọ mười hai năm. Mười Chín: Thái
Tuế[59].
Hai Mươi Hai: Vía Tăng Phước Tài Thần[60]. Hai
Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai
Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống
như trên.
8) Tháng Tám:
Mồng Một: Giống
như trên. Mồng Ba: Vía Tư Mạng Táo Quân, cũng là
ngày vía Bắc Đẩu, và là ngày Bắc Đẩu giáng hạ.
Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai
năm. Mồng Mười: Vía Bắc Nhạc Đại Đế[61]. Rằm:
Giống như trên, lại là ngày Thái Âm Triều Nguyên (Trung
Thu), hăy nên dâng hương, thức đêm. Hai Mươi Bảy:
Sinh nhật Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử. Kẻ phạm
dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười
hai năm. Lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Hai
Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống
như trên.
9) Tháng Chín:
Mồng Một: Giống
như trên, lại là ngày vía Nam Đẩu. Mồng Ba: Vía Ôn
Thần, lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng
Chín: Vía Đẩu Mẫu. Từ ngày mồng Một tới
mồng Chín là ngày cửu
hoàng đản (ngày vía của
chín vị hoàng đế)[62], phạm
dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Rằm:
Giống như trên. Mười Bảy: Vía Kim Long Tứ
Đại Vương[63]. Hai
Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai
Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống
như trên, lại là ngày khánh đản Phật Dược
Sư.
10)
Tháng Mười:
Mồng Một: Dân Tuế Lạp.
Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng năm: Hạ
hội, cũng là ngày vía Tổ Đạt Ma. Mồng Mười:
Tây Thiên Vương giáng hạ. Kẻ phạm dâm sẽ chết
trong ṿng một năm. Rằm: Vía Hạ Nguyên Thủy Quan,
phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai
năm. Hai Mươi Bảy: Vía Bắc Cực Tử Vi
Đại Đế, lại là ngày Bắc Đẩu giáng
hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi:
Giống như trên.
11) Tháng Mười Một:
Mồng Một: Giống
như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng
Sáu: Vía Tây Nhạc Đại Đế. Mười Một:
Vía Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn. Rằm: Giống
như trên. Mười Bảy: Khánh đản A Di Đà Phật,
phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai
năm. Mười Chín: Vía Nhật Cung Thái Dương Thiên
Tôn. Hai Mươi Lăm: Lược Soát Đại Phu giáng
hạ. Người phạm dâm trong ngày ấy sẽ gặp
hung hiểm. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ.
Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống
như trên.
12) Tháng Mười Hai:
Mồng Một: Vương
Hầu Lạp. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Rằm:
Giống như trên. Mười Sáu: Vía Nam Nhạc Đại
Đế[64].
Hai Mươi Mốt: Vía Thiên Do Thượng Đế[65]. Hai
Mươi Bốn: Tư Mạng Táo Quân lên trời. Hai
Mươi Lăm: Tam Thanh Ngọc Đế đồng
giáng hạ. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ.
Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Chư
thần giáng hạ, xem xét thiện, ác; kẻ phạm dâm sẽ
bị giảm thọ mười hai năm.
Ngày vía của thần thánh rất
nhiều, ở đây, chỉ chép những ngày trọng yếu.
Nếu có thể đều vâng giữ, ắt sẽ có thể
đạt đến thượng thọ. Nếu không thể
tuân thủ trọn hết, th́ như trong ghi chú trên đây, “đoạt kỷ” là giảm
thọ mười hai năm. Kẻ vi phạm [luật
răn cấm đừng hành dâm trong những ngày kiêng kỵ],
chắc chắn sẽ bị rút ngắn tuổi thọ. Lại trong những
ngày Tứ Lập (Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập
Đông), Nhị Phân (Xuân Phân và Thu Phân), Nhị Chí (Hạ Chí
và Đông Chí), Xă Nhật (ngày cúng tế thần thổ
địa), ngày Tam Phục[66], ngày
Giáp Tư, Canh Thân, ngày Bính Tư, Bính Đinh, ngày thượng huyền
(trăng non) và hạ huyền (trăng khuyết), sinh nhật
của cha mẹ, tổ tiên, ngày giỗ, sinh nhật của
chính ḿnh, ngày bổn mạng của tổ tiên, cha mẹ, bản
thân, ngày gió to, mưa lớn, nóng gắt, rét đậm, sấm
sét, chớp nhóa, trời đất tối tăm, ngày nhật
thực và nguyệt thực, ngày cầu vồng đỏ,
động đất v.v… Đối với chỗ có thần
linh trong núi, sông, đàn xă tắc, nơi giếng, nơi bếp…
dưới đèn đuốc mà có kẻ phạm dâm sự,
hoặc có chuyện say sưa, ăn no, mừng, giận,
ưu, sầu, bi ai, hoảng sợ, trước khi có thai,
sau khi sanh nở, hoặc lúc có kinh nguyệt, [những ngày
được coi là] thiên kỵ, địa kỵ, nhân kỵ,
hễ phạm phải, lớn th́ là giảm lộc, giảm
thọ, hoặc sanh con không nuôi được, h́nh thể
chẳng đầy đủ, nhỏ th́ là bệnh tật
khốn khó, hung hiểm, thân thể tổn thương, chịu
khổ. Hăy nên cẩn thận!
(Chánh văn) Tâm độc mạo
từ, uế thực ủy nhân, tả đạo hoặc
chúng.
(正文)心毒貌慈。穢食餧人。左道惑眾。
(Chánh văn: Ḷng dạ
thâm độc, ra vẻ hiền lành. Cho người khác
ăn thực phẩm dơ. Bàng môn tả đạo dối
đời).
“Tâm
độc” đă khiến cho người khác chẳng
chịu đựng nổi, “mạo
từ” (貌慈, diện
mạo giả vờ hiền
lành) lại khiến cho kẻ khác chẳng thể lường
được! Không ai chẳng tránh né cọp, sói, sợ rắn,
rết, v́ những loài ấy độc địa.
Nếu tâm địa độc ác, diện mạo giả vờ nhân từ, vờ vĩnh rất thân thiện
với kẻ khác, khiến cho kẻ khác thân cận, [hạng
người ấy] sẽ mặc sức nhả độc,
[khiến cho kẻ khác] chẳng kịp đề pḥng. Hạng người ấy hiểm độc
càng quá đáng hơn cọp, sói, rắn, rết. Họ chết
đi sẽ đọa trong tam đồ nhanh chóng như
tên bay, đời đời chuốc lấy quả
báo, chịu khổ vô cùng, chẳng nên kiêng tránh ư?
Thái Nguyên Độ[67] đối
với khách vẻ mặt luôn tươi hơn hớn. Dẫu
là kẻ bị hắn căm ghét, vẫn đối xử
thân thiết, trọng hậu, chẳng sơ sót, người
khác chẳng lường được, gọi hắn là
Tiếu Diện Dạ Xoa (quỷ dạ-xoa mặt
tươi cười). Về sau, hắn mắc tội,
chết trên đường lưu đày. Hạng người
này chỗ nào cũng có, chúng ta hăy cư xử theo đúng
nghĩa lư, đối đăi lễ độ đối với
họ. Hễ một mực b́nh đẳng để
đối phó, dẫu họ độc hại, làm sao có thể
ảnh hưởng đến ta cho được!
Vu Thiết Tiều nói: - Phàm
kẻ nào mắt thường nh́n xuống, chẳng nói lời
nào, nhưng ở giữa hai mày, trọn chẳng có khí chất
đạo đức ngưng tĩnh, nhân từ, an tường,
ắt là kẻ tâm địa độc ác. Chọn bạn
để chơi th́ hăy nên tránh xa [hạng người này]!
Xưa kia có một vị Tăng, ngủ giữa ban ngày, [có vị] thần từ
mũi thoát ra, hóa thành một con rắn độc đen đúa uốn éo ḅ
đi, ai nấy đều trông thấy. Khi kẻ đó chết, khắp
thân nứt toác, đều biến thành da rắn, đấy
chính là hạng người như thế đó. Nếu có thể
tự biết sự độc hại ấy, thống thiết
gột rửa, như lương y trị liệu ung loét, trừ sạch chất độc ấy
mới thôi, chưa hề không thể nhập đạo! Nhưng
đối với kẻ chẳng chịu làm như vậy
th́ biết làm sao được nữa, thật đáng buồn
thay!
Uế thực (穢食, đồ ăn bẩn thỉu) là do nấu
nướng chẳng sạch sẽ, hoặc là đă bị
trùng ḅ qua, chuột gặm, hoặc để qua đêm tới
sáng, màu sắc và hương vị đă biến đổi.
Ăn vào đủ để gây bệnh, khiến cho
người khác bị tổn thương. Nếu đem
[thức ăn ấy] cho người ta ăn, ắt
người ta sẽ nổi cáu, mà thần cũng căm
ghét. C̣n như kẻ làm tôi tớ cho người khác, lăng
phí nước, các thứ tương, nấu món ăn quá
nhiều, thức ăn bị hư dơ bèn đổ
đầy nhà xí, càng là tạo thành nỗi oan nghiệt to lớn. Tội ấy
quá nửa quy về gia chủ, há chẳng nên răn nhắc
lẫn nhau ư?
Tại thành phố Hàng Châu,
có một con ngỗng quay bị rắn độc ḅ quanh. Một
vị thầy dạy vỡ ḷng cho trẻ trông thấy,
nghĩ “đem ngỗng cho người ta ăn, ắt sẽ
bị trúng độc”. Ông ta tính mua, [nhà hàng] nói giá hai
trăm. Trong tay thầy chỉ có một trăm đồng,
lại vay tiền từ người hàng xóm thân thiết,
[mua ngỗng xong] cùng nhau đi chôn. Lúc đào đất, nhặt
được một thỏi vàng tía to lớn. Người
hàng xóm quen biết bèn nói: “[Vàng này] do ta giấu”. Chủ tiệm
ăn cũng nói: “Là vàng do ta đánh mất”. Khéo sao quan huyện vừa
đến, quan hỏi han sự t́nh,
thở dài: “Rơ ràng [đĩnh vàng ấy] là do thiện niệm
cảm vời, các ngươi muốn tranh đoạt mối
lợi ấy, đều là hết sức trái nghịch
ḷng trời”. Do vậy, phạt hai gă ấy bị đánh
trượng, giao vàng cho vị thầy dạy trẻ vỡ
ḷng.
Gă X… ở Hoài An gian hiểm,
xảo trá, thích đùa bỡn, từ trong nhà bắt
được chuột con chưa mọc lông, bèn nghiền
nát, ướp bă rượu (hèm) để gạt khách ăn, bảo là “đồ
biển”. Những chuyện giống như vậy chẳng phải chỉ một.
Về sau, hắn bị kẻ thù bắt giữ, trói vào
thân cây, bắt ăn phân của người, thú, chim chóc. Chẳng
ăn bèn đánh đập tàn nhẫn, ép ăn trọn hết
mới thôi! Làm ác mắc quả báo đều là giống
như thế.
Viên nha lại ở Kiền
Châu tên là Lư Cơ cho vay nặng lăi. Hắn có một đứa
đầy tớ chuyên đi đ̣i nợ. Hễ đ̣i
không được, sẽ trói người thiếu tiền
vào thân cây, dùng nước phân rưới lên. Do làm như vậy,
nên thâu được một ngàn đồng. Bỗng sấm sét đánh gă đầy tớ ấy ngay
trước chùa Phổ An, tiền hắn giắt ở thắt
lưng đều khảm vào thịt, da phủ lên trên. Câu
chuyện này không chỉ cảnh cáo kẻ xấu, mà
cũng nhằm cảnh cáo những gă đầy tớ ác độc.
Bởi lẽ, bọn tôi tớ của người có thế
lực, ỷ thế đ̣i nợ, có khi xông thẳng vào buồng
thêu, chẳng đếm xỉa thể diện của
người khác, thường là dẫn đến đại
họa, lẽ nào lưỡi búa sấm sét chẳng thường
[lơ lửng] ở trên đỉnh đầu bọn
chúng?
Vu Ngọc Bệ nói: - Đạo
là con đường chánh đáng để mọi người
cùng noi theo. Đạo của thánh nhân trong tam giáo, tuy xét về
h́nh tích th́ bất đồng, nhưng bậc thượng
th́ khiến cho con người minh tâm kiến tánh. Kém hơn
là khiến cho người ta hướng thiện, sửa
ác. [Đạo của thánh nhân trong tam giáo] như thốt ra
từ cùng một miệng, chưa hề chuộng dùng những
chuyện quỷ dị để mê hoặc người
khác. Những thứ xuất phát từ sự bất chánh,
mê hoặc ḷng người th́ đều là “tả đạo”. Như Trương Giác[68] đời
Hán, Tôn Ân và Lô Tuần[69] đời
Tấn, Hồng Cân và Lưu Phước Thông cuối đời
Nguyên, cận đại th́ là những pháp như Vô Vi Hoàng
Thiên, Bạch Liên v.v… đều là tả đạo. [Chúng
nó] lập tâm chẳng đoan chánh, xuẩn hoặc dân chúng
ngu muội, phản vua, trái nghịch cha mẹ, tạo họa,
gieo ác. Đó là hành vi của lũ loạn thần tặc tử,
phép nước ắt tru diệt, lại càng chẳng thoát khỏi báo ứng
trong cơi âm! C̣n như bọn thầy bà, đồng cốt
tà thuật, giả mượn lời thần, nói họa
phước quàng xiên, gạt gẫm, lừa phỉnh dân chúng, cũng sẽ mắc tội giống
như vậy.
Đời Tùy, Tống Tử
Hiền có lắm huyễn thuật như phóng quang trên lầu,
biến hóa h́nh tượng Phật. Hắn tự xưng
là Di Lặc xuất thế. Hắn lại treo gương
trong nhà, hễ có người yết kiến, bèn bảo họ
soi [vào đó để biết] đời sau, [trong gương]
hiện ra h́nh rắn hoặc thú. Hắn bảo họ lễ
bái, bèn hiện h́nh người. Do vậy, tụ tập mấy ngàn người, xướng suất làm
loạn. Quan quân vây bắt, [trông thấy] chung quanh chỗ hắn
ở đều là hầm lửa, mọi người không
dám tiến vào. Vị chủ soái bảo: “Nơi này thật
sự không có hầm hố, chỉ là yêu thuật lừa dối
đó thôi!” Đến khi quân sĩ tiến lên, quả thật
chẳng có lửa, bèn bắt được hắn, bằm
hắn nát bét!
Đạo sĩ ở núi
Thanh Thành có huyễn thuật, dẫn con em nhà phú quư đi chơi, đến một ngôi đ́nh viện xa vắng,
dâng hương, giăng màn, thi thố pháp thuật. Vu
Sơn thần nữ và các vị tiên cô đều ứng
theo lời triệu
thỉnh mà tới đó
nhậu nhẹt, chung chạ chẳng khác ǵ người
b́nh thường. Hoan lạc, cười nói xong xuôi, họ
bèn cưỡi mây bay đi. Hắn để cho những
người “học đạo” lén nh́n qua kẽ màn. Thiếu
chủ nước Thục vây bắt, chẳng bắt
được hắn, bèn đem máu lợn, máu chó theo, [phá
được tà pháp] mới đuổi kịp. Triều
đ́nh tống giam hắn, tra khảo. Hắn khai: “Hằng năm bắt trộm gái trinh trong
dân gian, mặc sức hành dâm với họ”. [Do vậy], vô số người bị
chết. Vua bèn ra lệnh phanh thây hắn.
Đời Minh, ông Nhan Mậu
Do nói: - Có được yêu thuật có thể lừa dối
cơi đời mà chẳng truyền bá, phước ấy cực
lớn. Cổ nhân nói: “Người
có được thuật ẩn thân mà suốt ba năm chẳng
thử dùng, ắt thành tiên”. Lại nói: “Ông có thuật Hoàng Bạch[70]
mà không dùng, ắt có thể nhập đạo”. Bởi
lẽ, bậc tu chân giấu diếm tung tích, ẩn giấu
bản lănh, coi chuyện “độ người, cứu đời” là chánh yếu. Nếu cậy vào một chút tài
nghệ để huyễn hoặc người khác; đó
là cội gốc danh lợi chưa thoát, hăy c̣n cách đạo
xa lắm! Huống hồ kẻ làm càn, gian trá, giả mạo
ư? Thanh thiên bạch nhật, há dung bọn lỵ mị ấy
hiện h́nh ư?
Tam Quy trong Phật giáo là “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”.
Trong ấy, khẩn yếu nhất chính là Phật pháp. Thuở
đức Phật tại thế, Ngài dùng pháp ấy để
dạy dỗ, hóa độ chúng sanh. Sau khi đức Phật
diệt độ, lưu lại giáo pháp để độ
chúng sanh. Đức Phật thuyết pháp, Tăng truyền
pháp. Nếu chẳng quy y Tăng, nghe pháp từ chỗ nào?
Nếu chẳng có Pháp, nhờ vào đâu để tu hành? Nhưng
nương vào Phật pháp để tự tu, nương
vào Phật pháp để dạy người khác, lấy “liễu sanh tử, chứng Bồ
Đề làm bản hoài” th́ chính là Tăng. Nếu chính ḿnh chẳng nương theo Phật pháp tu hành, [chỉ lo] buôn bán Như Lai ḥng cầu lợi dưỡng,
tiếng tăm, khiến cho người khác lầm lạc,
dẫu là hạng đầu tṛn áo vuông, nghiễm nhiên giống
như Tăng, nhưng thật ra là con cháu của ma! Thân
người khó được, Phật pháp khó gặp.
Đă được làm thân người, càng phải nên quy
y Phật. Thời cổ th́ cầu pháp từ Tăng, ngày nay th́ trước hết, cần phải
dùng pháp để khảo nghiệm Tăng. Đă biết [người xuất gia ấy]
là Tăng [chân chánh], hăy khăng khăng một dạ thọ
giáo tu hành. Pháp ở nơi đâu? Pháp ở trong kinh. Xin
trước hết hăy xem từ bộ Vân Thê Pháp Vựng của
Liên Tŕ đại sư.
(Chánh văn) Đoản xích, hiệp
độ, khinh xứng, tiểu thăng, dĩ ngụy tạp
chân, thải thủ gian lợi.
(正文)短尺狹度。輕秤小升。以偽雜真。採取姦利。
(Chánh văn: Thước
non, thước thiếu, cân nhẹ, thưng non. Đồ
giả xen lẫn hàng thật. Dùng thủ đoạn để
kiếm lợi gian trá).
Bốn câu đều nói về
chuyện của phường tiểu nhân tham lợi. Thước,
đồ đo lường, thưng, cân vv… là những thứ
dùng để lượng định giá trị của mọi
vật được mọi người cùng đồng
ư. Người đời có hai cách thức: Nhập vào th́ gắng làm sao cho to, xuất ra th́ gắng sức cho nhỏ; nhập vào th́ [chú trọng sao]
cho nặng, xuất ra th́ [cố ư] giảm nhẹ. Lập tâm như vậy, chỉ mong chiếm tiện nghi [cho bản thân
ta]. Nào có biết: Chiếm nửa phần tiện nghi, sẽ
tổn một phần phước đức! Huống hồ
ích ta, tổn người, ắt bị tai ương, thiêu
đốt bởi lửa sét cơi trời. [Tuy nhiên], chưa chắc đều là như thế cả, cũng
có khi chủ nhân chẳng biết, mà chắc là do con em hoặc
tôi tớ trông coi việc thâu vào, xuất ra đă ngấm ngầm
làm như thế, tội ấy rốt cuộc quy về chủ
nhân, chớ nên không xem xét [tường tận].
Đời Nguyên, Phí Vinh Mẫn
Công (Phí Dung) tiết kiệm, chánh trực, thích điều
lành, chuộng thí. Dụng cụ đo lường trong nhà
đều theo đúng tiêu chuẩn. Ông thường khắc
trên các dụng cụ đo lường như sau: “Xuất như thế nào, phải
nhập đúng như thế ấy. Con cháu vĩnh viễn
làm như vậy”. Về sau, con cháu của ông nghiêm ngặt tuân thủ pháp thế
gian, đời đời quư hiển.
Tại Quảng Lăng, có bà
lăo họ Vương dùng thước hụt để bán
vải vóc. Sau khi chết, báo mộng cho con: “Ta lúc sống
dùng thước hụt để lừa dối người
khác. Âm ty phạt ta làm trâu ở nhà họ Hạo tại Tây
Khê[71], dưới
bụng có chữ Vương”. Con bà ta t́m tới nhà họ
Hạo, quả nhiên [trâu nhà ấy] vừa sanh một con
nghé, dưới bụng có lông trắng thành h́nh chữ Vương.
Đứa con mua lại, đem về. Cho con nghé ăn
đồ mềm mịn, nó không ăn, cho cỏ rơm th́ ăn. Bắt nó chở nặng hoặc
cày ruộng th́ trâu yên tĩnh, nuôi nấng an nhàn th́ nó nhảy
lồng lên, húc chuồng đủ mọi cách, dường như chẳng thể yên ổn
nổi. Kẻ tâm địa mê muội kiếm lợi có biết
nghiệp báo này hay chăng?
Trong niên hiệu Vạn Lịch
nhà Minh, tại Dương Châu có một tiệm bán hàng tạp hóa lớn[72]. Chủ
tiệm lúc sắp chết, dặn con: “Ta b́nh sanh lập
nghiệp là nhờ cái cân này. Cái cân này làm bằng ô mộc[73], chính
giữa rỗng, chứa thủy ngân. Khi cân hàng để
bán ra, nghiêng cân cho thủy ngân chảy vào đầu cân. Khi
cân hàng để mua vào, bèn dốc cân cho thủy ngân chảy
vào phần đuôi cân. [Do vậy], thâu vào th́ nặng [hơn
số lượng thật sự], xuất ra th́ nhẹ
hơn [số lượng cần bán]. V́ thế, làm giàu”.
Đứa con trong ḷng lấy lạ, nhưng chẳng dám nói.
Cha chết, con liền đốt cháy cái cân, khói hóa thành một
con rồng bay lên trời. Chẳng lâu sau, hai đứa con
trai của người con đều chết. Do vậy,
anh ta oán hận nói: “Cha dụng tâm bất b́nh, đâm ra được
b́nh an. Nay tôi mua vào, bán ra công bằng, chẳng dám dối
trá, lại trớ trêu chôn hai con! Đạo trời há
như thế chăng?” Bỗng dưng anh ta mơ màng [thấy
ḿnh] tới một dinh thự của quan lại, vị chủ nhân [của dinh thự ấy] phủ dụ: “Cha ngươi thường ngày bán ra th́
nhẹ, mua vào th́ nặng, gạt gẫm người khác để
ḿnh được béo bở. Tuy nhiều tiền lắm của,
vẫn là cố
nhiên vốn sẵn có trong số phận. Chỉ v́ dùng cái tâm dối
lừa tạo nghiệp mà mắc tội với trời.
Do đó, Thượng Đế sai hai tinh tú phá tán, tiêu tan
đến làm con của ngươi. Khi chúng trưởng
thành, sẽ xài phung phí tài sản của ngươi, kế đó là bị hỏa
hoạn, khiến cho ngươi
hết sạch tài sản, con cháu tuyệt diệt, ḥng hiển
thị sự báo ứng [của cơi trời đối với
kẻ cam tâm lừa dối thủ lợi]. Nay ngươi
có thể sửa đổi ác báo, tu hành. Hơn nữa, mọi
chuyện đều công bằng, ḥa hoăn, tốt lành; do vậy,
Thượng Đế gọi hai ngôi sao ấy về. Không
lâu sau, sẽ đổi cho ngươi hai đứa con tốt
lành, khiến cho gia đ́nh ngươi được rạng
rỡ. Ngươi hăy nên gắng sức làm lành, đừng
oán hờn xằng bậy”. Người ấy tỉnh lại,
nhất nhất ghi nhớ, càng thêm nỗ lực làm lành.
Trong ṿng ba năm, sanh được hai đứa con. Chúng
đều đậu Tiến Sĩ, con cháu đông đảo.
Ông Trương Củng Thần nói: “Khi tôi ở Hàn Quan,
chơi thân với con cháu của ông ấy. V́ thế, biết
chuyện rất tường tận, nhưng giấu tên
người ấy, [kẻo người] thân thiết sẽ
biết lỗi lầm cũ [của tổ tiên họ]”.
Tạ Tú Lâm ở Uất Lâm,
đối với thước đo, đấu, cân, đều
luôn [dùng những phương cách gian trá để] xuất
ra nhẹ hơn ḥng ngang ngược kiếm lợi. Một
hôm, gă ấy bị sét đánh chết. Nhiều lần chôn,
nhiều lượt bị [sét đánh xuống] quật
tung mồ, thịt tan nát, bị đốt cháy. Trong bụng
có một lưỡi tầm sét.
Đời Tống, Vương
Lương Nhụ chết đi sống lại, nói ḿnh
đă tới âm phủ. Thấy trên tường treo đấu,
hộc, cân, thước. Hỏi những thứ ấy dùng
để làm ǵ, nha lại cơi âm bảo: “Do tăng giảm
[trọng lượng] nặng nhẹ, mang ḷng lừa dối
kiếm lợi, mà mắc phải tội này”. Sau khi Lương
Nhụ sống lại mười ngày, phàm là những vật
dụng như đấu, cân v.v… sai trái, không đúng tiêu chuẩn,
đều bị cháy rụi!
Đời Tống, Lư Giác ở
Quảng Lăng buôn bán kiếm sống. Ông thấy những
người cùng nghề xuất ít, thu nhiều, bỏ ra nhỏ
nhoi, thu vào to lớn, tâm chán ghét, bèn khuyên bảo [những kẻ
ấy] hăy thôi đi! Lư Giác thu vào bán ra như nhau, kiếm
đôi chút tiền lời để có cái sinh sống. Lâu
ngày, gia cảnh cũng giàu có. Về sau, có một vị Chế
Trí Sứ[74]
tại Giang Hoài có tên họ giống như ông. Người
ấy ban đêm nằm mộng, thấy vào động phủ,
xem trong sổ tiên có ghi tên họ Lư Giác, bèn rất mừng rỡ,
tưởng mai sau sẽ được lên cơi tiên. Bỗng
có hai đồng tử bảo: “Lư Giác này chẳng phải
là ông đâu, mà là một người dân ở huyện Quảng
Lăng”. Ông ta tỉnh giấc, bèn ḍ t́m người ấy,
hỏi ông ta đă tu những chuyện ǵ? Đáp: “Chẳng có ǵ khác, chỉ là tâm
đối đăi công bằng với muôn vật mà thôi”. Về
sau, Lư Giác thọ tới một trăm tuổi, bỏ xác
phàm thành tiên. Châu Trinh nói: “Cơi đời nói ‘chẳng lừa dối thần minh’. Tôi nói [“thần minh” trong lời ấy] không phải
là tất cả các vị thần trong trời đất,
mà là ‘chẳng lừa dối vị
thần trong tâm ta’ th́ chính là chẳng lừa dối thần
minh”. Than ôi! Người có thể hiểu điều này có được mấy người vậy?
Người đất Thục
(Tứ Xuyên) là Lê Vĩnh Chánh khéo tạo đấu và cân, tăng,
giảm nặng nhẹ. Chỉ cần có người thuê
làm, trả giá gấp bội, hắn sẽ không ǵ chẳng
làm. Kẻ tiểu nhân chẳng đoái hoài đạo trời,
thường đến nhờ hắn làm. Hắn bị thần
tư sát (vị thần có chức trách tra xét) tấu lên
thượng thiên, Vĩnh Chánh và hai con đều mù, năm
ngón tay đều thương tổn, tàn phế, các khớp tay rơi rụng mà chết. Ôi! Chế tạo
giùm người khác mà bị quả báo như thế, chính
là v́ trừng trị tận gốc. Phàm hết thảy những
kẻ sống bằng nghề buôn bán, có kẻ nào chẳng
muốn tự nuôi thân, nuôi gia đ́nh, thế mà cứ
thường chọc giận cơi trời, là v́ lẽ nào vậy?
Sao bằng xem xét tường tận câu chuyện này, dũng mănh sửa đổi th́ may mắn
lắm thay!
Gần đây, những vật
được buôn bán ngoài chợ búa, gần như là đồ
giả nhiều hơn đồ thật. Đấy
cũng là v́ thế đạo nhân tâm bị biến đổi.
Phàm những món thực phẩm cần thiết, những
món thuốc men cần dùng, những thứ như vàng, lụa,
vật dụng v.v… nếu là đồ giả, hoặc kém
phẩm chất đôi chút, kẻ [buôn bán những thứ ấy]
sẽ là phường chôn vùi lương tâm, hại người
không chi hơn nổi! C̣n như kẻ sử dụng bạc
giả, tội ác càng sâu, trời sẽ tru diệt càng nhanh chóng hơn.
Năm Canh Tuất (1670) đời Khang Hy nhà Thanh, có người họ
Cố từ đất Mân (Phước Kiến), ngụ
cư tại Giang Âm, ngầm buôn bán bạc giả. Hắn
mang bạc ra chợ, không ai có thể nhận biết [là bạc
giả hay thật], nhưng chẳng quá mười ngày. Hễ
quá [thời hạn ấy, thoi bạc giả] lại hiện
nguyên bản chất. Có gă tên Giáp nọ dùng sáu lượng
[bạc thật] để đổi lấy hai
mươi lượng [bạc giả], tới Xương
Môn mua sa, đoạn. Quay thuyền trở về, đêm qua
Hoa Đăng, gió mạnh lật thuyền, chẳng c̣n một
tấc lụa là nào. Gă đó may nhờ bơi lội giỏi
nên thoát chết, lơa lồ quay về. Cũng trong ngày hôm ấy,
gă họ Cố bị sét đánh chết. Ḷ nung, búa rèn để
chế bạc giả đều nát như bột. Than ôi,
ngu dại thay! Họ Cố v́ gian trá mà bị giết là lẽ
đương nhiên. C̣n gă Giáp do một niệm tham lam, mất
bay sáu lượng tiền vốn, chẳng biết áo mền, hành lư đem theo giá trị bao nhiêu tiền nữa?
Buôn bán đến mức này, có thể nói là lỗ vốn!
May mà tánh mạng chẳng chôn vùi trong sóng cuồn cuộn,
nguy ngập thay! Kẻ tiểu nhân vô tri đáng
thương đến mức ấy. Ngu tôi có một lời
cảnh tỉnh mọi người rằng: “Ta buôn bán là muốn
cầu sống c̣n. Ta muốn sống c̣n, người khác
chẳng mong sống sót ư? Ta muốn nuôi gia đ́nh,
người khác trọn chẳng muốn nuôi nấng gia
đ́nh họ ư? Huống hồ kẻ mang tâm lừa dối
nghịch thiên, báo ứng vằng vặc, chẳng có kẻ nào không
bị mất mạng rồi mà lại c̣n gây hại khiến
cho gia đ́nh bị diệt môn, đó có phải là ư muốn
kẻ buôn bán hay chăng?”
Ông nội của Thượng
Thư Tôn Thẩn Xuyên một hôm buôn bán thâu vào hai lượng
bạc. Cụ đưa cho người khác xem, th́ ra là bạc
giả. Cụ nghĩ: “Bạc này chẳng thể dùng, há nên giữ lại khiến
cho người khác bị lầm lạc ư?” Tới băi sông
Đông Hà, ông lại lội xuống nước đi mấy
chục bước, quăng bạc xuống chỗ sâu. Con
trai cụ
thi đỗ, làm Phó Sứ.
Cháu nội của
cụ chính là Thẩn Xuyên. Cụ Tôn thu được bạc giả bèn
quăng xuống hồ, tấm ḷng ấy hợp với
tâm Lữ Tổ. Con cháu hiển vinh, sang quư, vẫn là báo ứng
nhỏ nhặt vậy!
Đời Tống, Lô Thường
ở Lư Sơn bán dầu và nến, bỏ lẫn mỡ
cá trong ấy [để làm nến]. C̣n Hoàng Vũ tại Kiến
Long Quán dùng mỡ ḅ pha vào dầu để làm nến. Hai
gă đều bị thiên lôi đánh chết. Ôi! Nay th́ có kẻ
bán muối lẫn cát, bán rượu pha nước, những
kẻ ấy cũng nên nh́n vào gương này!
Gă họ Nghê ở Hải Diêm
dùng các loại vụn gỗ nghiền nát làm hương
để buôn bán. Một đêm, đám mạt hương
bỗng bốc cháy, tỏa khói. Họ Nghê muốn chạy
ra khỏi cửa, nhưng bị khói làm cho mê muội, không
chạy ra được, người lẫn nhà đều
cháy tiêu.
Đời Minh, Trương An
Quốc khi làm tri phủ, do thấy ngoài chợ có nhiều
kẻ bán thuốc giả, bèn yết bảng răn cấm:
“Do Đào Ẩn Cư (Đào Hoằng Cảnh) trước
tác bộ Thảo Mộc Kinh Tập Chú Yếu, Tôn Chân Nhân
(Tôn Tư Mạo) trước tác Thiên Kim Phương Nhân
giúp vật, lợi sanh, tích chứa nhiều âm đức, cho
nên được lưu danh trong các vị tiên. Từ
đó tới nay, người làm nghề y, bán thuốc, thành
tâm cứu người, đạt được phước
báo rất đông. Nếu chẳng bàn đến những
điều được sách vở ghi chép, chỉ xét
trong thời gần đây, sự ứng nghiệm càng nhiều.
Có kẻ chỉ bán thuốc thật, tài sản to lớn cả
vạn, hoặc là bản thân an nhàn, vinh hiển, hưởng
cao thọ. Hoặc là con cháu đỗ đạt, thay đổi
môn hộ, [báo ứng] như bóng theo h́nh, chẳng có sai sót.
Lại từng thấy kẻ buôn bán thuốc giả, thoạt
đầu tích tụ đôi chút tài sản, tự cho là ổn
thỏa, chẳng biết trong cơi ngấm ngầm, tài lộc
đáng lẽ nên có của chính ḿnh đă bị tước
giảm. Hoặc bản thân gặp nhiều tai họa ngang trái, hoặc con cháu
phi lư phá tán sạch sành sanh. Đến nỗi có kẻ bị
lửa trời [thiêu đốt], hoặc bị sét đánh.
Bởi lẽ, người mua thuốc phần nhiều là
do bệnh tật cấp bách; do vậy, họ đem tiền
cầu t́m. Con cháu hiếu thuận chỉ mong [cha mẹ, ông
bà] uống thuốc vào sẽ thấy ngay hiệu quả, kiến
hiệu, nhưng mua nhầm thuốc giả, không chỉ là
vô ích, mà c̣n đâm ra bị tổn thương. B́nh thường,
giết một con vật thuộc loại phi cầm, tẩu
thú c̣n có nhân quả; huống hồ trong muôn vật, mạng
người trọng nhất. Vô tội mà mắc họa,
đau đớn kể sao cho trọn, há chẳng nên kiêng
dè ư?”
Đoạt lấy (thủ)
mà dùng chữ Thải (採) để nói [nhằm h́nh dung
phương cách chiếm đoạt chẳng đơn giản],
do gian trá mà đắc lợi, tức là dụng tâm tàn nhẫn,
hà khắc, không ǵ chẳng làm! Hiện thời, hết thảy
những chủ thuyền gian trá cậy thế quan phủ,
hoặc những kẻ đứng làm trung gian giao dịch
đều thuộc loại này, không nhất thiết phải
là những kẻ lén đúc tiền riêng hay buôn bán muối
tiêng tư mới gọi là “thải
thủ gian lợi”. V́ thế, trong giới áo mũ (quan
lại) cũng có chuyện ác này, há có nên chỉ chê trách bọn
tiểu dân nơi phố chợ mà thôi!
Cổ nhân có thơ rằng:
Việt
gian, việt xảo, việt bần cùng,
Gian xảo
nguyên lai thiên bất dung,
Phú quư
nhược tùng gian xảo đắc,
Thế
gian ngốc hán hấp tây phong!
(Càng thêm gian xảo, càng nghèo
khó,
Trời vốn chẳng dung
kẻ dối gian,
Nếu nhờ gian xảo mà
giàu có,
Thế gian kẻ ngốc
đói ḅ càng).
Trương Phụng thông hiểu
chuyện thưa kiện, biết rơ thuế ruộng của
từng nhà trong vùng. Hắn có thể khiến cho kẻ có
ruộng liên tiếp nối bờ (rất nhiều ruộng
đất) biến thành sạch túi, không có tấc đất
cắm dùi. Do vậy, sổ bộ ghi tên hắn là chủ
ruộng rất nhiều. Cả vùng khổ sở v́ sự
tàn độc của hắn mà không dám nói. Buổi sáng mà nói
[động chạm tới hắn], buổi chiều thuế
má đă ập tới. Hắn rất thông thạo cách bóc lột
dân chúng. Hễ có quan trên tới [trấn nhậm], liền
gọi hắn hỏi han, trong chốc lát, đă nắm tay
vui vẻ. Rốt cuộc quan trên nh́n theo sắc mặt của
hắn mà hành xử. Hắn hằng ngày chỉ dạy
trưởng quan phương cách bóc lột tận cùng tiền
tài của dân chúng. Quan trên được hai phần, c̣n bảy
phần giao về Trương Phụng. Quan Tuần Phủ
là ông Đường ḍ xét, nắm rơ t́nh trạng ấy,
sai thuộc hạ vơ công cao cường bắt trói hắn.
Trên đường bị đóng gông giải đi, hắn
hối lộ người áp giải trọng hậu
nhưng không được, bèn giở mưu kế trốn
thoát, người áp tải hắn đuổi theo chẳng
kịp. Khi ấy, bốn phía đồng hoang không có mây,
đột nhiên sét đánh đằng Đông mà
Trương Phụng chết ngắc ở đằng Tây.
Bụng hắn toang hoác như bị mổ tung ra, ngũ tạng
như bị khoét mất. Dân chúng chán ghét, ngay cả chó, lợn
cũng chán ghét [chẳng thèm ăn thịt thối của hắn].
Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên
Quyển 4
Phần 2
[1] Lan Đ́nh (蘭亭) là tên một cái đ́nh nơi
Vương Hy Chi cử hành tế lễ; nhân đó, sáng tác bài Lan Đ́nh Thiếp lừng danh. “Hễ sự” (禊事) là một nghi lễ thời cổ,
được cử hành vào tháng Ba. Thời cổ, khi tiết
trời đă ấm, mọi người tụ họp tế
thần, xuống chỗ có nước để vốc
nước gột rửa, hàm ư tẩy trừ mọi nỗi
xui xẻo, bất hạnh của năm qua. Trong phần
đầu bài Lan Đ́nh Tập Tự, Vương Hy Chi
đă ghi rơ: “Vĩnh Ḥa cửu
niên, tuế tại Quư Sửu, mộ xuân chi sơ, hội
ư Cối Kê Sơn Âm chi Lan Đ́nh, tu hễ sự dă”
(năm Vĩnh Ḥa thứ chín, nhằm năm Quư Sửu, mới
đầu tháng Ba, họp nhau ở huyện Sơn Âm thuộc
Cối Kê để cử hành hễ sự). Đây là chuyện
thuộc thời Tấn, thiếp Lan Đ́nh nổi tiếng
như thế, được ngưỡng mộ như thế,
nhưng hiện thời đă chẳng c̣n là thời Tấn.
[2] Theo Đào Nguyên Kư, có người
đi lạc vào Đào Nguyên, mới biết cư dân trong ấy là hậu duệ của những
người do lánh nạn Tần Thủy Hoàng mà vào đó sống,
cách biệt với nhân gian. Họ vẫn chê cười Tần
Thủy Hoàng hà khắc, bạc ác, tuy Tần Thủy Hoàng
đă chết lâu lắm rồi!
[3] Dịch Thừa (驛丞): Chức vụ quản lư các dịch
trạm, truyền tải văn thư, tấu
chương. Đời Minh - Thanh, mỗi phủ, châu, huyện
đều có một người đặc trách quản lư
dịch phu chuyển giao công văn, người
ấy được gọi là Dịch Thừa.
[4]
Ngô Tam Quế, tự là Trường
Bạch, hay Trường Bá, làm Tổng Binh nhà Minh. Ngô Tam Quế
được giao nhiệm vụ trấn giữ Sơn Hải
Quan để chống quân Thanh. Năm Sùng Trinh thứ
mười bảy (1644), Sấm Vương Lư Tự Thành làm phản, toan lật
đổ nhà Minh, vua Sùng Trinh phong cho Ngô Tam Quế làm B́nh Tây Vương, truyền hịch
gọi hắn về kinh đô cứu viện. Ngô Tam Quế kéo quân về không kịp,
Lư Tự Thành đă chiếm Bắc Kinh, vua Sùng Trinh tự vẫn
tại Cảnh Sơn. Lư Tự Thành lên làm vua, đă nhiều
lần dụ Tam Quế đầu hàng. Tam Quế do dự,
muốn đầu hàng, nhưng khi hay tin Lư Tự Thành chiếm
mất ái thiếp Trần Viên Viên, hắn bèn đầu
hàng quân Thanh, mở cửa ải dẫn quân Thanh xâm chiếm
Trung Hoa. Do công lao bán nước ấy, Ngô Tam Quế
được phong làm B́nh Tây Vương trấn thủ
Vân Nam, cùng với B́nh Nam Vương Thượng Khả Hỷ
ở Quảng Đông và Tĩnh Nam Vương Cảnh Tinh
Trung ở Phước Kiến là ba tên Hán gian làm phên giậu
cho nhà Thanh, Thanh Sử thường gọi bọn chúng là Tam Phiên. Do ba người này
đều là hàng tướng nhà Minh, đều nắm giữ
binh quyền và có thế lực mạnh mẽ, lại thuộc
những vùng đất trù phú, cho nên vua Khang Hy nhà Thanh quyết
chí dẹp Tam Phiên. E ngại trước những biện
pháp quyết liệt của triều đ́nh, Ngô Tam Quế làm phản, chiếm
giữ các tỉnh Vân Nam, Quư Châu, Quảng Đông, Phước
Kiến, Hồ Nam, Tứ Xuyên v.v… Với chánh sách khôn ngoan, vua Khang Hy đă dần dần xé lẻ
thế lực loạn quân, vây bức Ngô Tam Quế phải
rút về Vân Nam cố thủ rồi chết ở đó v́
tuổi già.
[5] Sách Quốc Ngữ (國語) c̣n gọi là Xuân Thu Ngoại Truyện,
chép về sự tích, ngôn luận của các nhân vật thuộc
tám nước Châu, Lỗ, Tề, Tấn, Trịnh, Sở,
Ngô, và Việt thời Xuân Thu. Bộ sách
này do Tả Khâu Minh biên soạn, có tác dụng giống
như bộ Tả Truyện nhằm giải thích những
sự kiện được chép trong kinh Xuân Thu. Khi biên soạn
bộ Sử Kư, Tư Mă Thiên đă dùng nhiều dữ liệu
từ bộ sách này.
[6] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn
giải của ông Hoàng Bách Lâm.
[7] Thi Ca La Việt
(Śīgalovāda) là con của
một vị trưởng giả, dịch theo nghĩa tiếng
Hán, sẽ là Thiện Sanh đồng tử. Thi Ca La Việt
mỗi sáng tuân theo lời cha dạy mà lễ bái sáu
phương, nhưng chẳng hiểu v́ sao phải làm
như vậy. Đức Phật trông thấy, bèn dạy
Thiện Sanh ư nghĩa của việc lễ sáu
phương. Chẳng hạn như phương Đông là
phải cung kính với cha mẹ… Những lời dạy ấy
được chép lại thành bộ Phật Thuyết Thi
Ca La Việt Lục Phương Lễ Kinh.
[8] Viên Thị Thế Phạm là tác
phẩm gồm ba quyển do Viên Thái biên soạn vào đời
Nam Tống, thoạt đầu đặt tên là Tục Huấn,
về sau đổi thành Thế Phạm
(khuôn phép cư xử trong cơi đời). Sách ghi lại những
lời dạy về cách đối nhân xử thế
đúng lư, đúng t́nh, phù hợp đạo đức, và
thuần phong mỹ tục.
[9]
Hà Tiên Cô (何仙姑) là một vị
trong Bát Tiên của Đạo Giáo. Cô vốn có tên là Hà Quỳnh
(có thuyết nói tên là Hà Tú Cô, hoặc Hà Hương), người
xứ Linh Lăng, Vĩnh Châu (nay thuộc tỉnh Quảng
Đông) vào đời Đường. Thân thế của vị
tiên này có nhiều thuyết. Thuyết phổ biến nhất
nói Hà Tiên Cô lúc mười sáu tuổi vào núi hái trà, gặp
tiên nhân chỉ điểm
(có thuyết nói vị tiên ấy chính là Lữ Động
Tân), cho ăn đào tiên và bột vân mẫu.
Cô bèn phát thệ không lấy chồng, thường vào ở
trong hang núi, tu luyện thành tiên. Tranh Đạo giáo thường
vẽ Hà Tiên Cô có h́nh dạng thiếu nữ xinh đẹp,
tay cầm hoa sen, hoặc cầm giỏ đựng hoa (“lam hoa” (籃花) chỉ có nghĩa là đựng hoa. Thế
mà có một giáo phái tu tiên tại Việt Nam lại nghiễm
nhiên viết trong sách vở của họ là Hà Tiên Cô cầm
giỏ đựng loài hoa “lam hoa”). Bát Tiên là Hán Chung Ly, Trương Quả
Lăo, Lư Thiết Quải, Tào Quốc Cữu, Lữ Động
Tân, Hàn Tương Tử, Lam Thái Ḥa và Hà Tiên Cô.
[10]
Nguyên Hựu (元祐) là
niên hiệu thứ nhất của Tống Triết Tông (Triệu
Hú) từ năm 1086 đến năm 1094. Trong thời gian
này, Triết Tông mới mười tuổi, triều chánh
do Cao Thái Hậu quyết đoán. Bà quyết liệt băi trừ
tân pháp của Vương An Thạch, trọng dụng
Tư Mă Quang, Phạm Thuần Nhân, Tô Thức v.v… Khi Cao Thái
Hậu qua đời, vua lập tức cải nguyên, ngả
theo đường lối tân pháp của Vương An Thạch.
[11] Lâu Đông (婁東) là một thị trấn thuộc
huyện Thái Thương thuộc tỉnh Giang Tô. Do trấn
này nằm ở phía Đông sông Lâu Thủy nên có tên như vậy.
[12] Sa bản (沙板) là những phiến gỗ dẹp,
thường làm bằng gỗ sam, có tính chịu lực
cao. Người xưa chôn “sa bản” xuống nền đất
để giữ cho nền nhà hoặc các công tŕnh xây dựng
khỏi bị sụp lở do đất dịch chuyển.
[13] Chánh Lang (正郎) là danh xưng để gọi
các Lang Trung làm việc trong Thượng Thư Tỉnh. Lang
Trung là các quan chức cao cấp phụ tá cho vị Thượng
Thư và Thị Lang. Thượng Thư và Thị Lang là hai quan chức đứng
đầu ba cơ cấu hành chánh cao nhất thời ấy
(Thượng Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh, và Trung
Thư Tỉnh). Thượng Thư tương
đương với bộ trưởng và Thị Lang
tương đương với thứ trưởng
trong hiện thời.
[14]
Nguyên văn là “đệ”
(娣), có nghĩa
là em dâu. Một nghĩa khác là khi xưa, nhiều phụ nữ
chung một chồng, người lớn tuổi hơn
được gọi là Tự (姒), c̣n nhỏ hơn gọi là Đệ.
Hán Thư chép Hồ Dương Công Chúa tên thật là Lưu
Hoàng, là chị cả của Hán Quang Vũ (Lưu Tú). Do vậy,
chúng tôi nghĩ chữ Đệ ở đây là do bị
chép lầm. Khi cha mất sớm, Lưu Hoàng phải làm lụng
cực khổ để nuôi em, nên đối với
Lưu Tú, Lưu Hoàng vừa là chị vừa là mẹ.
Đến khi Lưu Tú dựng cờ khởi nghĩa, lật
đổ Vương Măng, tái lập nhà Hán, trở thành Hán
Quang Vũ Đế, ông đặc biệt ưu đăi bà,
đến nỗi bà có những hành vi coi thường luật
pháp.
[15] “Nhị
phủ” (二府) là hai cơ cấu hành chánh cao cấp
đời Tống, gồm Trung Thư Tỉnh và Xu Mật
Viện.
[16]
Thị Chế (侍制) là từ ngữ viết sai của Đăi Chế
(待制), nhưng do thường dùng, cho nên trở
thành đúng. Chức vụ Đăi Chế là quan văn có nhiệm
vụ “đăi chiếu”, tức là từ đời Hán, những vị
đại thần có tài văn chương, thông thạo
kinh điển trong triều đ́nh phải luân
phiên làm người túc trực đợi mệnh lệnh
của vua khi vua
cần tham khảo ư kiến,
giúp vua soạn thảo chiếu chỉ, hoặc nhuận sắc
chiếu chỉ, cũng như giám sát việc thi hành chiếu
chỉ. Về sau, trong cơ cấu Hàn Lâm Viện đặt
ra một chức quan thường trực là Hàn Lâm Đăi
Chiếu để đặc trách công tác này. Chức quan này c̣n chịu trách nhiệm
huấn luyện nhân tài mới cho viện Hàn Lâm, cũng
như quản thủ văn từ, sớ chương, biểu
tấu. Đến đời Tống, do công việc quản
trị hành chánh phức tạp, phải lập ra nhiều
“các” (閣), tức là các tiểu
tổ văn pḥng (hoặc các
pḥng nghiệp vụ theo cách hiểu hiện thời),
mỗi các đều có
một vị Đăi Chế
để đứng đầu
trông coi, như Long Đồ Các Đăi Chế, Thiên
Chương Các Đăi Chế v.v… Do ông Lưu từng giữ
chức Chánh Tự, tức là một chức vụ
tương tự như vai tṛ Đăi Chế, nên người
thời ấy vẫn quen gọi ông Lưu An Thế là
Lưu Thị Chế.
[17] Tứ Châu Đại Thánh (泗州大聖) chính là một vị cao tăng
được tôn xưng là “thần
tăng”, sống vào đời Đường. Ngài từ
Tây Vực sang Trung Hoa, hiệu là Tăng Già đại
sư, c̣n có mỹ hiệu là Tứ Châu Văn Phật. Theo
truyền thuyết, trong quá khứ vô lượng kiếp,
Ngài đă dùng âm thanh làm Phật sự. Vào những năm
đầu trong niên hiệu Long Sóc (661-663), Ngài đến hoằng
hóa tại Lạc Dương và Trường An, trụ tích
tại chùa Lâm Hoài ở Tứ Châu. Nhận thấy tứ
chúng kính ngưỡng đạo hạnh của Ngài,
Đường Trung Tông cung thỉnh Ngài về trụ tŕ
chùa Tiến Phước ở Trường An. Ngài đă từng
v́ nhà vua cầu mưa rất linh nghiệm và lưu lại
rất nhiều sự linh nghiệm khác. Do vậy, vua ban tặng
tấm biển Phổ Quang Vương Tự cho chùa Lâm
Hoài.
[18] Đại Trung Thừa (大中丞) là danh xưng khác để gọi
chức Tuần Phủ vào thời Minh - Thanh. Chức Tuần
Phủ thuở ấy thường trông coi hai hoặc ba tỉnh.
[19] Kỳ hiệu (旗校) tức là các quan vơ trông coi kỳ
quân. Kỳ quân là quân đội của các thân vương
dưới đời Minh, kể cả quân đội bảo
vệ hoàng thành. Chúng thường cấu kết với các
thái giám nên rất lộng hành. Hiệu quan ở dưới
cấp tướng, được chia thành ba bậc là
thượng hiệu, trung hiệu và thiếu hiệu. Tần
phủ là vương phủ của Tần Vương. Sau
khi Châu Nguyên Chương lập ra nhà Minh, đă phong cho các
con làm phiên vương để làm vây cánh ở những
vùng xa. Con thứ hai của Châu Nguyên Chương là Châu Sảng
được phong làm Tần Vương, đứng
đầu các phiên vương, trông coi tỉnh Thiểm Tây,
đặt vương phủ tại Tây An. Quyền hạn
của Tần Vương khá lớn, ông ta có thể điều
động lính từ các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ.
Do Thành Hóa (1465-1487) là niên hiệu của Minh Hiến Tông, cho
nên Tần Vương ở đây không phải là Châu Sảng,
mà chỉ là cháu chắt của ông ta, v́ tước vị Tần
Vương được truyền đến mười
một đời.
[20]
Cẩm Y Vệ gọi đầy đủ là Cẩm Y Vệ
Chỉ Huy Sứ Ty (錦衣衛指揮使司), là một cơ quan do Minh Thái
Tổ đặt ra có chức trách như một cơ cấu
an ninh mật vụ riêng do nhà vua trực tiếp chỉ huy. Cơ quan này
có nhiệm vụ trinh sát, ḍ xét, t́m ra những quan chức bất
trung, cũng như phát hiện những âm mưu chống
đối triều
đ́nh. Cẩm Y Vệ có quyền bắt
người, tra khảo và giam giữ. Những viên mật
thám thân tín nhất của nhà vua thuộc Cẩm Y Vệ
được gọi là Kiểm Hiệu. Đứng đầu
cơ quan này là Tả Hữu Đô Đốc, phụ tá có
Đô Đốc Đồng Tri, Đô Đốc Kiểm Sự,
Đô Chỉ Huy Sứ và Đô Chỉ Huy Sứ Kiểm Sự.
[21]
Nội thần
(內臣) là các quan viên trực thuộc quyền
sử dụng của hoàng đế, không do Tể Tướng
cai quản. Thông thường là các quan viên giữ chức vụ
bí thư, thái giám hoặc người đứng đầu,
trưởng quan thị vệ v.v…
[22] Phân Thủ (分守) là danh xưng để gọi
chung các chức vụ Án Sát Sứ và Án Sát Phân Ty (Giám Ty) vào
thời Minh.
[23] Giáo Dụ (教諭) là chức quan trông coi về việc
học vấn tại một huyện, đồng thời
trông nom việc tế tự tại Văn Miếu.
[24] Phủ viện (撫院): Tiếng gọi tôn xưng quan
Tuần Phủ.
[25]
Huấn Đạo
(訓導) là chức trợ
tá của các chức quan trông coi việc học. Theo quy chế
thời Minh - Thanh, người trông coi việc học tại
một phủ gọi là Giáo Thụ (教授), tại cấp châu th́ gọi là Học
Chánh (學正), c̣n cấp huyện
là Giáo Dụ (教諭). Mỗi cấp này đều có
nhiều trợ tá, các trợ tá đều được gọi
chung là Huấn Đạo.
[26] Minh Cảnh Đế (Minh Đại
Tông Châu Kỳ Ngọc) chính là em trai của Minh Anh Tông (Châu Kỳ
Trấn). Lúc Anh Tông lên ngôi, Châu Kỳ Ngọc được
phong làm Thành Vương. Năm Chánh Thống 14, Minh Anh Tông
thân chinh đánh giặc Mông Cổ Ngơa Lạt (Oirats), bị
bắt làm tù binh tại Thổ Mộc Bảo. Hoàng Thái Hậu
bèn lập Châu Kỳ Ngọc lên làm Giám Quốc. Về sau,
nghe lời khuyến cáo, Châu Kỳ Ngọc bèn xưng đế,
tôn Minh Anh Tông làm Thái Thượng Hoàng. Do trong bảy năm trị
v́, Minh Đại Tông chỉ dùng niên hiệu là Cảnh Thái,
nên thường được gọi là Cảnh Thái Đế
hay gọi tắt là Cảnh Đế. Khi Anh Tông được
quân Ngơa Lạt trả về, Anh Tông đă bị Đại
Tông quản thúc tại Diên An Cung. Trong thời gian Minh Đại
Tông cai trị, dưới sự phù tá của Vu Khiêm, nhà vua
đă đặc biệt chú ư phát triển kinh tế,
tăng cường quân đội. Khi Minh Đại Tông bệnh
nặng, không thể lâm triều, đại thần Thạch
Hanh cùng với các ông Từ Hữu Trinh, Dương Thiện và Tào Cát
Tường đă cùng nhau mưu sự, đưa Anh Tông
lên ngôi trở lại. Đại Tông bị giam lỏng
trong Tây Uyển, một tháng sau th́ chết.
[27] Theo Thọ Khang Bảo Giám, vào thời
Tống Đoan Tông, quân Nguyên tấn công Thai Châu, vợ một
người dân ở Lâm Hải là Vương thị rất
đẹp, bị bọn giặc bắt đem vào trong quân
doanh. Gă thiên phu trưởng Mông Cổ giết chết bố mẹ chồng và chồng
cô ta, muốn ăn nằm với cô. Cô ta thà chết chẳng
thuận theo, giả vờ nói: “Xin cho tôi để tang bố
mẹ chồng và chồng một tháng rồi mới có thể
hầu hạ bậc quân tử”. Gă thiên phu trưởng thấy
cô không đ̣i chết nữa, bèn chấp thuận lời thỉnh
cầu, nhưng vẫn sai nữ tù nhân canh giữ cô ta. Hôm
quân Nguyên rút lui, hắn mang theo cô ta. Khi đi qua rặng
Thanh Phong ở huyện Sơ, Vương thị ngửa mặt
lên trời than: “Hôm nay, ta đă có chỗ để chết
rồi”. Liền cắn ngón tay, [lấy máu] viết thơ
lên đá, gieo ḿnh vào vách đá mà chết. Chuyện đă
cách nay tám, chín mươi năm, máu trên đá vẫn rơ nét
như mới, chẳng bị mưa gió xóa nḥa. Bài thơ của
ông Dương mang ư nghĩa hủy nhục, khinh bạc rất
lớn, chê trách Vương Thị đă chịu để
cho viên tướng Mông Cổ kèm cặp trên ngựa dẫn
đi cả trăm dặm, đến cuối cùng mới
viết huyết thư liều thân, sao không tiếp tục
sống để hưởng lạc thú giống như
Lưu Nguyễn vào chốn Thiên Thai. Dẫu có liều thân th́ thân đă nhơ uế,
đâu có trong sạch như nước ḍng Hán Thủy ở
Ba Lăng (Ba Lăng là tên gọi cũ của Nhạc
Dương).
[28]
Hậu Ngụy (386-534) c̣n gọi là Thác Bạt Ngụy, Bắc
Ngụy, hay Nguyên Ngụy để phân biệt với nhà
Tào Ngụy của Tào Phi (con trai Tào Tháo). Triều đại
này do Thác Bạt Khuê người Tiên Ty sáng lập, lănh thổ
gồm trọn miền Bắc Trung Hoa, kinh đô là Lạc
Dương và Trường An.
[29]
Đô Lại (都吏) c̣n gọi là Đốc Bưu (督郵), là chức quan phụ tá Thái Thú (người
đứng đầu một quận), đặc trách giám
sát quan lại có xứng đáng với chức vụ hay
không, kiêm nhiệm chưởng quản những vấn
đề về dịch trạm (chuyển giao công văn),
h́nh ngục. Về sau, do hành chánh phức tạp, mỗi quận
đều có nhiều viên Đô Lại để coi một
phân khu trong quận. Các chức vị phụ tá của
Đô Lại bao gồm Đốc Bưu Duyện, Đốc
Bưu Thư Duyện v.v…
[30] Trường Khánh là niên hiệu của
Đường Mục Tông (Lư Hựu).
[31]
Dực Thánh Chân Quân có danh hiệu đầy
đủ là Dực Thánh Bảo Đức Chân Quân. Theo
Đạo giáo, trong niên hiệu Kiến Long đời Tống
Thái Tổ, một người dân ở huyện Châu Chí, thuộc
phủ Phụng Tường, tên là Trương Thủ Chân
vào núi Chung Nam, gặp một vị tiên tự xưng là Cao
Thiên Đại Thánh Ngọc Đế Phụ Thần vâng lệnh
Ngọc Đế phù tá nhà Tống, xưng danh là Hắc Sát
Thần. Vị thần ấy dạy ông ta cách lập
đàn cầu khẩn. Sau khi lên ngôi, Tống Thái Tổ
đă sai lập Thượng Thanh Thái B́nh Cung để thờ
vị thần ấy, gia phong tước hiệu là Dực
Thánh Chân Quân.
[32]
Đề H́nh (提刑) gọi đầy đủ là Đề
Điểm H́nh Ngục Công Sự, là chức quan được
đặt ra từ thời Bắc Tống, đặc
trách tư pháp tại các châu, kiêm nhiệm giám sát và chưởng
quản nông nghiệp, tầm tang. Dinh thự của chức
quan này thường được gọi là Hiến Ty.
Đến đời Minh -Thanh, chức vụ này được
đổi thành Đề H́nh Án Sát Sứ.
[33]
Nguyên Tinh (元精) theo nghĩa gốc chính là tinh khí của
trời đất. Cổ nhân quan niệm: Con người
do bẩm thụ nguyên khí ấy mà được sanh thành
như Vương Sung đă viết trong bộ Luận
Hành: “Thiên bẩm nguyên khí, nhân
thọ nguyên tinh” (nguyên khí vốn sẵn có trong trời
đất được con người lănh thọ mà
thành nguyên tinh).
[34] Tam Tiêu (三焦) tuy được xếp vào một
trong ngũ tạng, nhưng thật ra nó gồm có ba phần
là Thượng Tiêu, Trung Tiêu, và Hạ Tiêu. Thượng Tiêu là phần ngực ở
phía trên hoành cách mô (thoraci diaphgram), tức là phần bao gồm
tim và phổi. Trung Tiêu là phần dưới hoành cách mô cho
đến phía trên phần eo, bao gồm tỳ (tụy tạng)
và bao tử. Hạ Tiêu là phần c̣n lại bao gồm thận,
bàng quang, gan, ruột v.v…
[35] Mạng Môn (命門): Theo Nạn Kinh, chữ Mạng
Môn chỉ quả thận bên phải. Trong Nạn Kinh, phần
Tam Thập Lục Nạn có chép: “Tả
giả vi thận, hữu giả vi Mạng Môn. Mạng Môn
giả chư thần tinh chi sở hàm, nguyên khí chi sở hệ.
Cố nam dĩ tàng tinh, nữ tử dĩ hệ bào”
(bên trái gọi là thận, bên phải là Mạng Môn. Mạng Môn là chỗ chứa đựng Thần
và Tinh, duy tŕ nguyên khí. V́ thế, đàn ông th́ phải chứa
tinh (đừng phung phí tinh), đàn bà phải giữ cẩn
thận tử cung).
[36] Vĩ Lư (尾閭, c̣n có tên gọi là Trường
Cường) là một huyệt đạo nằm ở
xương cụt, phía trên hậu môn. Vĩ Lư có
nghĩa gốc là “chỗ quy tụ
của các ḍng nước biển”. Theo Trung Y, huyệt
Vĩ Lư có tác dụng khống chế hai mạch Nhâm và
Đốc.
[37] Câu này có nghĩa là mỗi lần
hành dâm, tinh, khí, thần đều bị hao tán, tức là nguyên tinh trong hai mạch Nhâm
và Đốc cũng bị hao tổn. Nếu phóng túng trong
chuyện ân ái, tinh, khí, thần bị hao tán đến nỗi
không kịp sanh ra để bù đắp, giống như
nước biển bị cạn kiệt.
[38] Hoàng Đ́nh (黃庭) thật ra là hai bộ kinh trọng
yếu của Đạo giáo, tức Thái Thượng Hoàng
Đ́nh Nội Cảnh Ngọc Kinh và Thái Thượng Hoàng
Đ́nh Ngoại Cảnh Ngọc Kinh. Hai kinh này xuất hiện
vào thời Ngụy - Tấn, được xếp vào phần
Động Huyền trong Chánh Thống Đạo Tạng. Nội
dung chỉ cách tu luyện tinh, khí, thần. Nội Cảnh
được phái Thượng Thanh rất coi trọng,
tôn xưng kinh này là kinh điển căn bản
để tu luyện nội đan. Theo đa số các nhà
chú giải, Hoàng Đ́nh có nghĩa là Trung Ương; nếu
hiểu theo cơ thể, th́ mỗi bộ vị đều
có một vị thần cư trú. Hoàng Đ́nh là nơi
cư trú của vị thần chủ tể, trung
ương, c̣n Hoàng Đ́nh cụ thể ở đâu th́ mỗi
nhà có mỗi thuyết khác nhau. Do là kinh điển căn bản
của cách tu nội đan, nên kinh Hoàng Đ́nh rất
được Đạo gia coi trọng. Thậm chí có người tin tưởng
chỉ cần tụng kinh Hoàng Đ́nh th́ cũng có thể
thành tiên. Do vậy, trong các bộ tiểu thuyết cổ của Trung Hoa, mang nặng tánh chất thần
thoại, hay chép những chuyện như cây tre, cây thông, thậm
chí những cái mơ gỗ, những cái linh bằng đồng lâu đời, do nghe đạo
sĩ tụng kinh Hoàng Đ́nh bao nhiêu năm bèn biến thành
yêu quái.
[39] Văn Tuyển (文選) có tên gọi đầy đủ
là Chiêu Minh Văn Tuyển, là một bộ sách tổng tập
về thơ văn của Trung Hoa cổ đại. Bộ
sách này do Chiêu Minh Thái Tử Tiêu Thống (con trai Lương
Vũ Đế) đă lănh đạo các văn nhân hữu
danh thuở ấy biên soạn. Tác phẩm này gồm có sáu
mươi quyển, bao gồm những tác phẩm nổi
tiếng tính từ thời cổ cho đến thuở ấy,
bao gồm đủ thể loại phú, thơ, tao (chẳng
hạn như Ly Tao), chiếu, sách, lệnh, giáo, văn, biểu,
thư, khải v.v… So với Ngũ Kinh, Văn Tuyển
được người đọc sách hâm mộ đến
nỗi người đời Tống c̣n nói: “Văn Tuyển lạn, Tú Tài bán”
(Văn Tuyển hư nát th́ tú tài chỉ c̣n một nửa).
Tác phẩm này được chú giải rất nhiều.
[40] Bành Tổ (彭祖) tên thật là Bành Tiễn, là một
người theo truyền thuyết sống rất thọ.
Đạo giáo coi ông là hóa thân của Nam Cực Tiên Ông.
Tương truyền, ông sống đến tám trăm tuổi.
Ông là “lai tôn” (cháu đời
thứ năm, ta thường gọi là “chít”) của vua
Chuyên Húc. Cha ông là Lục Chung, con trưởng của Ngô Hồi,
mẹ là Nữ Khoái (em của thủ lănh bộ tộc Quỷ
Phương). Do Bành Tổ khéo nấu canh gà được
vua Nghiêu ưa thích, nên Lục Chung được phong ở
đất Đại Bành; do vậy, con cháu đều mang
họ Bành. Bành Tổ từng làm quan cho các triều đại
Hạ, Thương, và Châu.
[41] Tố Nữ (素女) tức là Cửu Thiên Tố Nữ, c̣n gọi là Bạch
Thủy Tố Nữ, là một vị nữ thần trong truyền thuyết
của Trung Hoa cổ đại, sống cùng thời với
Hoàng Đế. Bà giỏi âm nhạc, biết rành về
đạo âm dương, tinh thông pḥng trung thuật. Bà cùng
với Huyền Nữ (Cửu Thiên Huyền Nữ) làm thầy
của Hoàng Đế. Tương truyền bộ Tố Nữ
Kinh là những lời dạy bảo của bà dành cho Hoàng
Đế về pḥng trung thuật. Có một truyền thuyết về
đàn cầm (cổ cầm) như sau: Vua Thần Nông chế ra đàn cầm có
năm dây. Hậu nhân cải tiến dần dần, biến
thành đàn cổ cầm có năm mươi dây. Tố Nữ
giỏi đàn cầm, nhưng những khúc nhạc của
bà quá bi thiết, Hoàng Đế nghe rồi buồn bực,
bèn chặt cây cổ cầm của Tố Nữ làm đôi;
do vậy, đàn cổ cầm chỉ c̣n hai mươi
lăm dây.
[42] Tiết Thôi (節推) là gọi tắt của chức
Tiết Độ Sứ Thôi Quan, tức vị quan phụ
tá của Tiết Độ Sứ, chuyên lo về thẩm vấn, tra án, quản trị
giam giữ, lao tù.
[43] Theo Đạo giáo, cung điện của vua Diêm
La (Diêm Vương) được gọi là Sâm La điện
(森羅殿). Chữ Sâm La thường bị đọc trại
thành Sum La.
[44] Ngũ Đế là năm vị
Đại Đế trong Đạo Giáo. Những vị
này đă được thờ phụng từ đời
Châu. Năm vị ấy chính là Đông Phương Thanh
Đế Linh Oai Ngưỡng, Nam Phương Xích Đế
Xích Tiêu Nộ, Trung Ương Hoàng Đế Hàm Xu Nữu,
Tây Phương Bạch Đế Bạch Chiêu Cự, và Bắc
Phương Hắc Đế Diệp Quang Kỷ.
[45] Ngũ Hư (五虛) là năm chứng bệnh,
thường gọi là năm hư chứng do tinh khí tại
ngũ tạng bị hư tổn. Theo sách Tố Vấn,
thiên Ngọc Cơ Chân Tạng Luận, mạch nhỏ yếu,
da lạnh, thở yếu ớt, tiết tinh dầm dề
đồng thời với thổ tả, chẳng ăn uống
được th́ gọi là Ngũ Hư. Hoặc có thể
hiểu đơn giản hơn, Ngũ Hư là tim, phổi,
gan, tỳ, thận đều bị hư tổn. Ngũ
Hư không chữa trị th́ sẽ chết.
[46]
Lục Hao (六耗) là ngày có thể bị cảm nhiễm
bởi sáu thứ bệnh do các yếu tố âm,
dương, sáng, tối, gió, mưa theo Đông Y.
[47] Thiên đản (天誕) là sinh nhật của Ngọc
Hoàng Thượng Đế.
[48] Tam Nguyên (三元) c̣n gọi là Tam Nguyên Đại
Đế, hoặc Tam Quan Đại Đế, tức
Thượng Nguyên Thiên Quan Tứ Phước, Trung Nguyên
Địa Quan Xá Tội, và Hạ Nguyên Thủy Quan Giải
Ách. Ngày vía của họ tương ứng với ba ngày Rằm
lớn trong năm (tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười).
[49] Lưu Chân Quân, c̣n gọi là
Lưu Chân Nhân. Ông họ Lưu, tên Tư Kính. Thuở trẻ,
thích uống rượu, chuộng thuật trường
sanh. Đến lớn, ông sang chơi Tứ Xuyên, được
Linh Bảo Trần Quân truyền dạy bí quyết luyện
đan, thực hành phép tu Hỗn Nguyên; sau đấy, vào núi
Long Sơn làm đạo sĩ, có đạo hiệu là Chân Không Tử.
[50]
Nguyên Đế ở đây chính là Huyền Thiên Thượng
Đế, tức Huyền Vũ Đại Đế, hoặc
gọi đầy đủ sẽ là Bắc Cực Trấn
Thiên Chân Vũ Huyền Thiên Thượng Đế Ngọc
Hư Tổ Sư Kim Khuyết Hóa Thân Đăng Ma Vĩnh Trấn
Chung Kiếp Tế Khổ Thiên Tôn. Vị này c̣n được
gọi là Nguyên Thiên Thượng Đế, Khai Thiên Thượng
Đế, hoặc Bắc Cực Hựu Thánh Chân Quân, hoặc
Hắc Đế, là thần thống trị phương Bắc
theo Đạo Giáo, tương ứng với Huyền
Vũ trong tứ phương và là hóa thân của Bắc Cực
Tinh. Vị này được thờ phụng như thần
bảo hộ thành Thăng Long (Hà Nội), và nơi thờ
Ngài được gọi là đền Trấn Vũ, hay gọi
nôm na là Quán Thánh, và đă bị đọc trại thành
đền Quan Thánh.
[51]
Theo ông Hoàng Bách Lâm, “ác thai” là
thai nhi chết trong bụng mẹ, hoặc bị dị tật
nặng nề, có sanh ra cũng khó nuôi sống được.
[52]
Hạo Thiên Thượng Đế là
danh xưng khác của Ngọc Hoàng Thượng Đế
(c̣n gọi là Thiên Hoàng Đại Đế, Thái Nhất, Hạo
Thiên Huyền Khung Thượng Đế, Hạo Thiên Kim
Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu
Di La Chí Chân Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân
Giả Ngọc Hoàng Xá Tội Tứ Phước Đại
Thiên Tôn Huyền Khung Cao Thượng Đế), là vị
thần tối cao trong tam giới, nhưng vẫn thấp
hơn Tam Thanh (Ngọc Thanh, Thái Thanh và Thượng Thanh).
Đạo giáo coi vị này là một vị tôn thần do
Tam Thanh ứng hóa.
[53] Nguyên Đàn (元壇) chính là Triệu Huyền Đàn,
là vị Vũ Tài Thần trong Đạo giáo. Ông c̣n
được gọi là Triệu Nguyên Soái (Triệu Công
Minh).
[54] Vị này là thần cai quản
Trung Nhạc tức Tung Sơn, tôn hiệu đầy đủ
là Trung Nhạc Tung Sơn Trung Thiên Sùng Thánh Đại Đế,
là một vị trong
Ngũ Nhạc Đại Đế, chủ tŕ khảo hạch
thiện ác.
[55] Vị này có tôn hiệu là Đông
Nhạc Thái Sơn Thiên Tề Nhân Thánh Đại Đế,
đứng đầu năm vị Ngũ Nhạc Đại
Đế, chưởng quản sự sống chết,
sang hèn của người trong cơi trần, đồng thời
là cấp trên của Thập Điện Diêm Vương.
[56] Thương Hiệt (蒼頡) là người được
coi là đă sáng tạo ra chữ Hán. Đạo giáo tôn
xưng ông là Thương Hiệt Tiên Sư, Chế Tự
Tiên Sư, Chế Tự Tiên Thánh, hoặc Thương Hiệt
Chí Thánh. Tương truyền, ông có đến bốn con mắt.
Ông làm quan Hữu Sử của Hoàng Đế.
[57] Địa Lạp là một trong
năm ngày Lạp của Đạo giáo. Theo sách Vân Cấp
Thất Thiêm, Đạo Giáo định ra năm ngày cúng tế
cầu phước trong một năm, gọi là Ngũ Lạp,
bao gồm Thiên Lạp, Địa Lạp, Đạo Đức
Lạp, Dân Tuế Lạp và Hầu Vương Lạp.
Thiên Lạp là ngày mồng Một tháng Giêng.
[58] Lôi Tổ là cách gọi tắt của
dân gian đối với vị thần Cửu Thiên Ứng
Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn trong Đạo Giáo. Vị
này chưởng quản Ngũ Lôi (Thiên Lôi, Địa Lôi,
Thủy Lôi, Thần Lôi, và Xă Lôi). Thuộc hạ dưới
quyền là Cửu Thiên Lôi Môn Sứ Giả. Về nguồn
gốc của vị này, có nhiều thuyết, phổ biến
nhất là vị này do Trường Sanh Đại Đế
hóa thân, thuyết thứ hai nói vị này là hóa thân của
Hoàng Đế, nhằm trấn áp yêu ma, chưởng quản
sấm sét.
[59]
Theo Đạo giáo, có tất cả
sáu mươi vị thần lần lượt chưởng
quản nhân gian mỗi năm. Sáu mươi vị thần
ấy tương ứng với chu kỳ sáu mươi
năm của một Hoa Giáp (tức là mười Thiên Can
phối hợp với mười hai Địa Chi thành sáu
mươi năm). Tùy theo vũ khí hoặc dụng cụ cầm
trong tay của mỗi vị thần ấy (thường gọi
là Trị Niên Thái Tuế hoặc Tuế Quân) mà người
ta có thể dự đoán t́nh h́nh trong năm ấy. Chẳng
hạn như năm Mậu Th́n, Thái Tuế là Triệu
Đạt đại tướng quân, mang h́nh rồng, hai
tay cầm rồng; năm Quư Dậu, Thái Tuế là Khang Chí đại
tướng quân, có h́nh gà, tay cầm cờ lệnh v.v…
[60]
Tăng Phước Tài Thần c̣n gọi
là Tăng Phước Chân Quân, hoặc Tăng Phước
Tướng Công. Theo Đạo giáo, vào thời Bắc Ngụy,
tại núi Ngũ Tùng thuộc Truy Châu, quan huyện lệnh
Khúc Lương là Lư Quỷ Tổ liêm chánh, đạo đức,
yêu dân như con, thường bỏ hết bổng lộc
để thí xả nhân dân. Sau khi chết, ông được
dân chúng tôn thờ thành thần. Về sau, ông trở thành thủ
hạ của Đông Nhạc Đế Quân đặc trách
xét đoán công và lỗi của người mới mất.
Cho đến đời Đường, ông được
sắc phong là Tài Bạch Chân Quân, rồi được
phong là Thần Quân Tăng Phước Tướng Công.
Đến đời Nguyên lại được phong là
Phước Thiện B́nh Thí Chân Quân.
[61] Vị này có tên gọi đầy
đủ là Bắc Nhạc Hằng Sơn An Thiên Huyền
Thánh Đại Đế, là thần núi của Hằng
Sơn, trông coi sông, ng̣i, hồ, suối, biển cả,
cũng như các loài hổ, báo, rắn rết, độc
thú v.v…
[62] Phong tục thờ phụng
này thịnh hành tại
phương Nam Trung Hoa, thường gọi là Cửu Hoàng
Thắng Hội. Cửu Hoàng (c̣n gọi là Cửu
Vương Gia, Cửu Vương) là chín vị thần
tinh tú. Có nhiều thuyết, phổ biến nhất là thuyết
cho rằng: Cửu Hoàng là chín vị tinh quân thuộc về
tinh ṭa Bắc Đẩu, tức Tham
Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ
Khúc, Phá Quân, cộng thêm Tả Phù và Hữu Bật. Thông
thường, Đạo Giáo tin chín vị tinh quân ấy do
Đẩu Mẫu sanh ra.
[63]
Kim Long Tứ Đại Vương vừa
là thần núi Kim Long tại tỉnh Chiết Giang vừa là
thủy thần tại khu Tào Vận tỉnh ấy.
Tương truyền, ông là ẩn sĩ Tạ Tự sống
vào thời Tống. Khi nhà Nam Tống bị diệt, ông
đă để lại di huấn: “Sống đă chẳng
thể báo đền đất nước, chết sẽ
cầu khẩn Thượng Đế” rồi nhảy xuống
sông tự sát, nên được tôn thờ thành thần. Sau
khi chết, thân thể trôi ngược ḍng, tấp vào chân
núi Kim Long, nên được thờ làm thần núi tại
đó. V́ ông là con thứ tư trong gia đ́nh, nên gọi là
Kim Long Tứ Đại Vương.
[64]
Nam Nhạc Đại Đế có tên gọi đầy
đủ là Nam Nhạc Hành Sơn Tư Thiên Chiêu Thánh Đại
Đế, là thần núi Hành Sơn.
[65]
Thiên Do Thượng Đế là một trong Bắc Cực
Tứ Thánh của Đạo giáo, tức là bốn vị
chân quân ở phương Bắc. Bắc Cực Tứ
Thánh bao gồm Thiên Bồng Đại Nguyên
Soái Chân Quân, Thiên Do Phó Nguyên Soái Chân Quân, Dực Thánh Bảo
Đức Trừ Khánh Chân Quân, và Chân
Vũ Linh Ứng Hựu Thánh Chân Quân. Bốn vị này đều
là thuộc hạ của Bắc Đế (Huyền Thiên
Thượng Đế).
[66]
Tam Phục là ba thời kỳ được coi là nóng nhất
trong năm. Theo Âm lịch, từ sau tiết Hạ Chí cho đến ngày Canh thứ ba sẽ
là Sơ Phục; ngày Canh thứ tư gọi là Trung Phục,
từ sau Lập Thu cho đến ngày Canh thứ nhất là
Hạ Phục.
[67] Thái Nguyên Độ tên thật là
Thái Biện, là em trai của gian thần Thái Kinh (tể
tướng nhà Tống), là con rể của Vương An Thạch. Về sau,
hắn bất ḥa với Thái Kinh, bị Thái Kinh hủy báng,
gièm pha, vu cáo, phải bị biếm làm tri huyện tại
Hà Nam. Do giao du thân thiết với yêu đạo
Trương Hoài Tố, hắn bị trị tội, giáng
chức.
[68]
Trương Giác (?-184) là người ở quận Cự Lộc
(nay là huyện Ninh Tấn, tỉnh Hà Nam), thủ lănh của
Thái B́nh Đạo đời Đông Hán, và là chủ soái của
giặc Hoàng Cân. Hắn tự xưng là vào núi hái thuốc,
được Nam Hoa Lăo Tiên truyền trao thiên thư Thái
B́nh Yếu Thuật. Thật ra sách này chỉ là bộ sách
Thái B́nh Thanh Lănh Thư do Can Cát biên soạn, trá xưng
được thần tiên trao tặng, chủ yếu là
dùng phù chú để chữa bệnh. Đệ tử của
Can Cát là Cung Sùng và Tương Khải đă từng dâng sách
này lên hoàng đế, nhưng không được coi trọng.
Khi sách lọt vào tay Trương Giác, hắn bèn khéo léo tuyên
truyền để sáng lập Thái B́nh Đạo, tự
xưng là Đại Hiền Lương Sư. Nhân dịp
một căn bệnh dịch lớn nổ ra vào tháng Giêng
năm Trung B́nh nguyên niên (184), Trương Giác chữa nhiều
người lành bệnh, nên dân chúng tin theo, gọi hắn
là “thần tiên sống”.
Do đó, Thái B́nh Đạo truyền khắp các vùng Thanh
Châu, Từ Châu, Kư Châu, Kinh Châu v.v… tín chúng lên tới mấy
chục vạn người. Hắn chia tín đồ thành
ba mươi sáu phương, mỗi phương lập ra
một thủ lănh, tuyên bố “trời
xanh đă chết, trời vàng đang thành lập, vào
năm Giáp Tư, thiên hạ đại cát”. Lại truyền
tín đồ dùng đất sét trắng viết hai chữ
Giáp Tư lên cửa. Sau đó, cùng năm ấy, Trương
Giác cùng với em là Trương Bảo, Trương
Lương dựng cờ khởi nghĩa. Do loạn quân
quấn khăn vàng nên Sử gọi là giặc Hoàng Cân. Không
lâu sau, Trương Giác bị bệnh chết, Trương
Bảo và Trương Lương chiến bại, đều
tử trận. Loạn Hoàng Cân nhanh chóng tan ră.
[69]
Tôn Ân tự là Linh Tú, quê ở quận
Lang Gia, đệ tử của Ngũ Đấu Mễ
Đạo, tôn Đỗ Tử Cung làm thầy, về sau kế
vị thành giáo chủ của Ngũ Đấu Mễ Đạo.
Hắn cùng chú là Tôn Thái dấy binh phản Tấn, ba lần
tấn công vùng Tam Ngô, nhưng đều bị triều
đ́nh phải chạy ra hải đảo ẩn náu.
Năm Long An thứ năm (401), hắn lại kéo quân về
tấn công Hải Diêm, nhưng bị Lưu Dụ đánh
bại. Hắn chuyển hướng tấn công vùng Hỗ
Độc, thừa cơ uy hiếp kinh đô Kiến Khang.
Quân Đông Tấn dưới sự chỉ huy của
Tư Mă Nguyên Hiển phản công mạnh mẽ, lại
thêm bị Lưu Dụ tấn công, Tôn Ân dần dần thất
thế, phải rút chạy về hải đảo. Đến
năm Nguyên Hưng nguyên niên (402), do quyền thần Hoàn Huyền
giết cha con Tư Mă Đạo Tử, giành được
quyền hành tuyệt đối trong triều, Tôn Ân cho là thời
cơ đă đến, bèn trở về đất liền,
lại thất bại, thế cùng phải nhảy xuống
biển tự trầm. Dư đảng tôn em rể của
hắn là Lô Tuần lên làm thủ lĩnh, đánh nhau dây
dưa măi cho đến khi bị Lưu Dụ dẹp yên
vào năm 411. Lô Tuần phải tự sát.
[70] Hoàng Bạch là từ ngữ chỉ
thuật luyện đan dược, điểm hóa sắt
thành vàng bạc v.v… Theo Nhị Khắc Phách Án Kinh Kỳ quyển
mười tám: “V́ sao gọi là
thuật Hoàng Bạch? Bọn phương sĩ luyện
đan dụ người khác [bỏ tiền mua vật liệu
cho họ] luyện đan, nói là chúng
đă dưỡng thành Hoàng Nha, lại sanh ra Bạch Tuyết,
dùng loại đan dược ấy để điểm
hóa th́ những loại như thủy ngân, ch́ sẽ biến
thành hoàng kim, bạch ngân. V́ thế, thuật luyện
đan được gọi là thuật Hoàng Bạch”.
[71] Quảng Lăng nay là thành phố
Dương Châu thuộc tỉnh Giang Tô, c̣n Tây Khê thuộc
phía Đông thành phố Đông Đài tỉnh Giang Tô.
[72]
Nguyên văn “nam
hóa điếm”, ta thường gọi là tiệm chạp
phô (tức chữ “tạp hóa” mô phỏng cách phát âm trong tiếng
Quảng Đông). Sở dĩ gọi là Nam Hóa v́ thoạt
đầu các sản phẩm bán trong các tiệm ấy
đa số là sản phẩm của những vùng phía Nam
Trường Giang. Về sau, hễ tiệm nào bán đủ
thứ mặt hàng linh tinh đều gọi là Nam Hóa Điếm,
hoặc Tạp Hóa Điếm.
[73] Ô mộc (Ebony) là một loại
cứng, lơi đen bóng, thuộc họ Thị (Diospyros). Loại
gỗ này rất nặng và bền, thả xuống nước
sẽ ch́m lỉm, nên đôi khi c̣n gọi là Trầm Mộc.
Gỗ mun của ta thuộc loại này.
[74]
Chế Trí Sứ (制置使) là chức
quan trông coi việc binh bị tại các lộ (tỉnh) thời
Tống, đa số thường kiêm thêm chức An Phủ
Sứ.