Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

感應篇彙編

Quyển 4

Phần 2

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Chánh văn) Áp lương vi tiện. Mạn mạch ngu nhân.

          (正文)壓良為賤。謾驀愚人。

          (Chánh văn: Chèn ép người lành khiến họ trở thành ty tiện. Dối gạt kẻ ngu).

 

          Những kẻ hiện thời làm nô tỳ cho người khác là do đời trước tạo nghiệp, tích ác, những lỗi ác [đă tích tụ] cho đến con số một ngàn tám trăm điều. Trong số ấy, có những kẻ chẳng phải thật sự là nô tỳ, mà vốn là con cái nhà đàng hoàng, nhưng do ta dùng thế lực cưỡng chế, ép buộc họ làm nô tỳ, tức là “chèn ép người lành, khiến cho họ trở thành hàng ty tiện”. C̣n như mua con gái nhà lành về làm kỹ nữ xướng ca, sẽ thuộc về tội “thập ác bất xá”[1] (十惡不赦, mười điều ác chẳng thể ân xá), lại càng chẳng cần phải nói nữa!

          Châu Tường ở Chương Châu làm bạn với Tiết Thuần. Tiết Thuần nghèo nàn, chỉ có một đứa con. Tiết Thuần chết, đứa con được gởi cho Châu Tường nuôi. Rốt cuộc, Châu Tường coi nó như tôi đ̣i; hễ có chút ǵ chẳng bằng ḷng, liền đánh đập tơi bời. Một ngày, Châu Tường gặp Tiết Thuần trên đường, kinh hăi hỏi: “Anh đă qua đời, sao lại đến nhân gian?” Đáp: “Đến thăm con tôi và bắt anh đi theo”. Châu Tường tuôn mồ hôi như mưa, trở về nhà, chết đột ngột. Từng thấy trong nhà phú quư, những kẻ thân tộc khốn khổ không nơi nương tựa, gởi thân vào nhà ấy, mong có được miếng cơm, manh áo, thường bị sai khiến như kẻ tôi đ̣i! Thậm chí c̣n bị chửi mắng, quát tháo. Đấy là những trường hợp bị đức Thái Thượng răn cấm. Nhưng hạng người như thế ấy thoạt đầu là có ḷng giúp đỡ, chăm sóc, về sau lại làm chuyện vùi dập, đày đọa, không chỉ là chẳng có công lao ǵ, mà c̣n tổn đức, há chẳng đáng tiếc ư?

          Tại kho Quảng Tế[2] của tỉnh Chiết Giang, [quan lại địa phương] mỗi năm thường sai những người có tiền trong thành Hàng Châu đảm nhiệm công tác khố dịch[3] để trông coi chuyện thâu vào, phát ra. Có kẻ v́ ḅn rút công khố quá nhiều, chẳng thể bù đắp được, viên Phủ Phán[4] là Vương X… bèn bắt thê, thiếp, con cái của người ấy lên quan. Rốt cuộc, người ấy chẳng đền được, ông Vương bèn sai [cấp dưới] dùng thuyền nhỏ, chở họ ra Tây Hồ làm người hầu cho các du khách để lấy tiền nạp cho quan phủ. Về sau, con cháu của họ Vương có đứa làm kỹ nữ ca xướng!

          Có một hạng cha mẹ, do bất đắc dĩ, phải làm chuyện táng tận lương tâm vô sỉ là bán con cái làm nô bộc cho kẻ khác, nhưng ta có nỡ ḷng [đứng nh́n cảnh ấy] hay chăng? Người chuộng nghĩa, do có sức bèn bỏ ra tiền bạc để giúp đỡ người ấy trong cơn túng ngặt, ḥng bảo vệ con cái của nhà đàng hoàng ấy. Đó là đức dầy. Nếu như chẳng thể, ta đừng làm nhục chúng. Tuy chẳng tránh khỏi phải bán chúng cho người khác, vẫn chẳng đánh mất sự tận tâm của ta!

          Hạng trung lưu và bần tiện vốn chẳng có nhất định. Bất quá con cái của kẻ nghèo bán cho người giàu có th́ gọi là “tiện” (, bần tiện, hèn kém), thật ra đều là “lương” (, đàng hoàng, không phải là thân phận tôi tớ, nông nô). Người thời nay yêu quư con cái của chính ḿnh như châu báu. Cao lương mỹ vị ngon béo, lụa là, thêu thùa [đều dành cho con ḿnh], nhưng đối với con nuôi trai gái th́ coi như bụi, rác, đ̣n roi, đối xử thô ác, [chẳng quan tâm chúng nó] đói khát, rách rưới, rét buốt! Những đứa trẻ ấy cũng do cha mẹ sanh ra, sao mà [bị đối xử] chẳng công bằng như thế ấy? Sao chẳng nghĩ kẻ giàu có thể trở thành nghèo nàn, người nghèo nàn có thể trở thành giàu có? Đạo trời thật sự chưa thể biết được, có thể bảo đảm hạng trung lưu chẳng đâm ra trở thành nghèo hèn, kẻ nghèo hèn chẳng đâm ra trở thành trung lưu ư?

          Đối đăi người ngoài, xử sự với người dưới, cần phải là “ở vào địa vị phú quư, thấu hiểu nỗi đau đớn của kẻ nghèo hèn”. Đang lúc trẻ trung, khoẻ mạnh, hăy nghĩ tưởng nỗi niềm cay cực, chua xót của người già cả. Ở trong hoàn cảnh an lạc, hăy thấu hiểu, thương xót hoàn cảnh, trạng huống của người hoạn nạn. Ở trong cảnh bàng quan, hăy thông cảm nỗi khổ tâm của người trong cuộc.

          “Mạn” () là lừa dối kẻ không biết, không thấy. “Mạch” () là dáng vẻ nhanh nhảu, lanh lợi. Hễ dùng quỷ kế để bày cách lừa đảo, khiến cho kẻ khác bị vướng vào mưu mô ấy, th́ gọi là “mạn mạch” (謾驀). “Mạn mạch” đều chớ nên dùng; áp dụng [những mánh khóe ấy] vào kẻ ngu lại càng đáng thương hơn! Dẫu kẻ ngu chẳng thể trả đũa, trong cơi ngấm ngầm, sẽ tự có kẻ báo đền thay cho họ. Kẻ ngu chẳng bị tổn hại mà ta đă bị tổn hại trước!

          Sách Viên Thị Thế Phạm chép: - Nghèo, giàu chẳng hề là chuyện nhất định. Ruộng nương, nhà cửa, chẳng có chủ cố định. Có tiền bèn mua, không tiền th́ bán. Kẻ mua sản nghiệp hăy nên biết lư này. Huống hồ người ta bán tài sản là v́ thiếu cái ăn, hoặc do mắc nợ, hoặc v́ bệnh tật, tử vong, kết hôn, thưa kiện. Do có trăm ngàn thứ phải chi tiêu mà bán trăm ngàn sản nghiệp. Kẻ mua sản nghiệp, hăy chú trọng khoan dung, đôn hậu, trả cho đúng giá trị, [ngơ hầu] người bán sau khi đă chuyển giao [sản nghiệp], tuy chẳng c̣n lại ǵ, [nhưng món tiền người ấy nhận được] vẫn đủ để giải quyết xong xuôi chuyện ấy. Kẻ làm giàu bất nhân, chuyên chú trọng lừa dối, lươn lẹo, biết người bán có chuyện gấp phải cần dùng, bèn bề ngoài cự tuyệt, bên trong ngấm ngầm dẫn dụ để d́m giá thật sâu. Đă lập xong văn khế, lại dằng dai, chẳng lập tức thanh toán trọn số, hoặc dùng gạo, thóc, hay những món vật khác tính cao giá lên để khấu trừ [món tiền phải thanh toán], hoặc ước hẹn kỳ hạn để trả lẻ tẻ. Kẻ đă bán sản nghiệp sẽ v́ đó mà tiêu hao hết tiền nhưng chẳng thể giải quyết xong xuôi chuyện ấy, phải qua lại đ̣i nợ, chi phí và công sức lại chiếm mất nửa. Kẻ giàu có kia lén lút vui sướng, ngỡ là mưu mô hay khéo, chẳng biết đạo trời sẽ báo đền. Có trường hợp báo ứng ngay trên thân người ấy, có khi rơi vào thân con cháu. Lắm kẻ mê muội chẳng tỉnh, v́ lẽ ǵ vậy?

 

          (Chánh văn) Tham lam vô yếm, chú trớ cầu trực.

          (正文)貪婪無厭。呪詛求直。

          (Chánh văn: Tham lam chẳng chán, thề thốt để người khác tin là ḿnh chánh trực).

 

          Dùng miệng nuốt chửng đồ vật th́ gọi là Lam (), ư nói ḷng tham của con người giống như cái miệng ăn nuốt thực phẩm chẳng chán, chẳng ngừng, chẳng có cùng cực. Lăo Tử nói: “Tội mạc đại ư đa dục, họa mạc đại ư bất tri túc” (Tội không ǵ lớn bằng lắm dục vọng, họa không ǵ lớn bằng chẳng biết đủ). Kẻ biết đủ dẫu nghèo hèn vẫn vui sướng. Kẻ chẳng biết đủ, dẫu phú quư vẫn lo rầu. Người đời tham cầu quá nhiều, rốt cuộc đều hao tán! V́ thế, chẳng cần phải nói nữa, lại c̣n gieo mầm tai họa, càng khó kết liễu!

          Chân Bân là người có phẩm hạnh, đạo đức cao thượng. Ông từng đem một bó sợi gai đến tiệm cầm đồ để cầm lấy tiền. Về sau, ông chuộc bó gai về, thấy trong ấy có năm lượng vàng. Chân Bân đem vàng giao trả, chủ tiệm cho Chân Bân một nửa. Chân Bân chẳng nhận, bảo: “Kẻ tháng Năm mặc áo dầy, đội củi[5], há chịu nhận vàng ư?”

          Vào thời Đường Đại Tông, Trung Thư Thị Lang Nguyên Tải[6] qua trung gian của các con mà móc nối ăn hối lộ. Ở kinh đô và các nơi, hắn đều dẹp trừ bậc trung lương, cất nhắc bọn tham lam, bỉ ổi. Hắn giàu có, xa xỉ, hằng ngày đều ca xướng, hoan lạc, ngay cả hoàng cung cũng chẳng bằng. Vua đă từng răn nhắc, hắn chẳng thay đổi. Về sau, vua giận, bắt giam Nguyên Tải, hạ chiếu ban chết. Vợ con hắn cũng được ban chết, tịch biên gia sản, [tịch thâu] năm trăm lượng chung nhũ[7]. Vua hạ lệnh chia cho các quan thuộc [các cơ cấu] Trung Thư, Môn Hạ, Đài Tỉnh, [c̣n có] hồ tiêu đến tám trăm thạch. Những món vật khác cũng nhiều ngần ấy. Trịnh Tuyên nói: “Từ xưa, những kẻ ở vào địa vị Tể Tướng, có bao giờ chết v́ đói rét, mà thường là chết v́ của cải, vật chất, cũng đáng nực cười thay!”

          Đời Minh, trong niên hiệu Thiên Thuận (đời Minh Anh Tông), Lư Minh ở Gia Hưng có một chiếc b́nh báu. Kẻ nhà giàu là Tào Viện muốn đổi bằng hai mươi thạch gạo, nhưng ông Lư không đồng ư. Về sau, [Lư Minh] lại gạ gẫm Hoài Duyệt, Hoài Duyệt trả gấp bội, [Lư Minh] vẫn không bán. Lại giao cho Ngô Nhữ Huy xem, Nhữ Huy trả giá một trăm thạch gạo. Đă đồng ư bán, có Lưu Chúc bảo Lư Minh: “Tôi có một kế, khiến cho ông thâu lợi to lớn. Nếu ông dâng cái b́nh ấy cho quan Trấn Thủ Trương Thái Giám để đổi lấy giấy phép vận chuyển và tiêu thụ muối trong cả quận Gia Hưng th́ sẽ được lợi gấp trăm lần”. Lư Minh đồng ư. Lưu Chúc đi chạy chọt thay, quả nhiên đạt được đúng mưu đồ, tính ra sẽ được lợi hơn ba ngàn lượng. Họ Lưu được chia một phần ba [số phiếu lănh muối]. Lư Minh lănh về, qua sông, thuyền lật, các tấm phiếu lănh muối đều bị ướt nhẹp, hư nát. Thái Thú quận Gia Hưng là Dương Kế Tông thúc bách đ̣i nộp [số lượng muối đúng với] những giấy phép [đă cấp] ấy, Lư Minh bị [giam cầm], chết trong ngục. Lưu Chúc bán sạch gia sản để bồi thường!       

          Cổ nhân nói: “Cơi đời chẳng có người trăm tuổi, oan uổng bày mưu tính kế ngàn năm”. Mong cầu chẳng chán để làm ǵ? Có phải là v́ muốn tính toán cho con cháu đó chăng? Chẳng biết tục ngữ có câu: “Nếu con cháu chẳng được như ta, chúng nó cần tiền để làm ǵ? Con cháu mạnh mẽ như ta, [chúng nó] cần tiền để làm ǵ?”

          Đời Hán, Sớ Quảng nói: “Há có phải là ta già cả, hồ đồ, chẳng nghĩ tới con cháu ư? Ta có ruộng đất, nhà cửa cũ, con cháu siêng năng cày bừa, sẽ đủ để cung cấp áo, cơm. Nếu tăng thêm ḥng được dư dả hơn, chính là dạy con ôm ḷng lười nhác. Kẻ hiền mà có lắm tiền của, ắt ư chí hao tổn. Đứa ngu mà có lắm tiền của, sẽ càng tăng thêm lỗi lầm. Hơn nữa, kẻ giàu bị nhiều người oán hận. Ta đă chẳng có ǵ để dạy con cháu, chẳng muốn chúng nó tăng thêm lỗi để sanh oán. Do vậy, ta thấy Tư Mă Ôn Công đă giáo huấn: “Chứa vàng chẳng bằng tích đức”. Sao chúng ta không đọc tụng nằm ḷng [câu nói ấy] ḥng nỗ lực thực hiện vậy thay!

          “Chú trớ” (呪詛) là thề với thần. “Cầu trực” (求直) là cầu thần báo ứng nhanh chóng. Chuyện này chẳng phải đợi đến khi dùng h́nh thức sớ tấu [để thề thốt với thần], mà hễ tức giận trong khi tranh chấp, xằng bậy kêu gọi [quỷ thần] th́ đều thuộc vào phạm vi của lời răn này. Xét ra, Chú Thệ Chương có nói: “Hễ có thề thốt, ắt bốn phương tám hướng đều tiếp nhận lời thề thốt của kẻ ấy, hết thảy loài quỷ hung ác sẽ đều thừa cơ kiếm sơ hở để đột nhập, gây nên họa hại. Nếu chẳng sám hối, thỉnh thiên thần giáng hạ hóa giải, sẽ chẳng dễ đoạn trừ”. Vậy th́ có nên thề thốt hay chăng?

          Đầu thời Vạn Lịch nhà Minh, một gă lư dịch là Vương Trứ ở Tây Hoa, do đôi co với người nạp thuế về chuyện thiếu thuế, đă thề thốt ở miếu Thành Hoàng. Ban đêm, hắn ngủ lại chùa Dương Thiện, bỗng nghe tiếng quát tháo. Hắn thức dậy xem, thấy một vị quan đứng dưới ánh đuốc, đội phốc đầu[8], áo đỏ, người theo hộ vệ rất đông. [Vị ấy] quát bảo hai tráng sĩ vung đao hướng về phía Vương Trứ. Vương Trứ cầm nghiên mực trên án quăng họ, rốt cuộc vẫn bị đâm trúng, miệng và má đều bị đổ máu. Tăng chúng trong chùa bị kinh động thức dậy, chẳng thấy một ai. [Vương Trứ] mới biết là thần Thành Hoàng. Sáng hôm sau, hắn mặc áo tù nhân, đến miếu tạ tội, thấy thần tượng trong miếu nghiễm nhiên như giống như trong mộng. [Tượng] thị vệ đứng bên phải th́ cầm đao, trên thân có vết mực. Hơn một tháng, vết thương nơi miệng mới lành, giống hệt như vết đao chém. Phàm Lư và Sự vốn có đúng hay sai, vốn là đúng th́ công luận khó thể dẹp trừ được, lâu ngày [sự thật] sẽ tự tỏa rạng, tội ǵ phải so đo? Nếu là sai th́ hăy tự phản tỉnh, hối lỗi, há dám đối trước thần mà hờn oán người khác ư? Huống hồ mọi chuyện chỉ nên xét theo đúng lư mà an phận. Hễ thề thốt, sẽ bị quỷ thần chán ghét, ắt bị trời phạt, há chẳng nên kiêng tránh ư?

 

          (Chánh văn) Thị tửu bột loạn.

          (正文)嗜酒悖亂。

          (Chánh văn: Ham nhậu nhẹt, quậy phá).

 

          Rượu có thể làm loạn tánh. Nếu quá mức mê rượu, sẽ bị tổn thất cực lớn. Xem bài Tửu Cáo[9] bèn biết cổ nhân đă lo lắng sâu xa. Xem bài Tửu Tụng[10], sẽ biết cổ nhân gởi gắm niềm hứng thú sâu xa. Như trong [cổ] lễ đă nói, hễ kính nhau một lượt rượu[11], chủ và khách vái chào lẫn nhau nhằm ngăn ngừa do rượu mà thất lễ! Người đời ham thích rượu chè vô độ; do vậy, dẫn đến chuyện thân thể chệnh choạng, lễ pháp bị chôn vùi, rối loạn, chửi bới người cùng ngồi [trong bàn rượu], nằm lăn ra đường phố, trái pháp, phạm thượng. Lâu ngày, [do say sưa], sẽ bị chôn vùi cái tâm, mất hết phẩm đức, có thể khiến cho kẻ sĩ bại hoại danh tiết, quan lại bị mất chức, nhà nông bỏ mặc ruộng nương, lái buôn cụt sạch vốn. Thậm chí mất mạng, tan nhà, há chẳng đau xót ư?

          Đời Tống, Lỗ Công Phạm Chất răn con rằng: “Cha răn các con đừng ham uống rượu. Rượu là loại thuốc gây cuồng, chẳng phải mỹ vị. Nó có thể khiến cho người tánh t́nh cẩn trọng, nồng hậu hóa thành hung hăng, ương bướng”. Tào Nguyệt Xuyên nói: “Để dưỡng tánh, chớ tham đắm loại nước khiến cho tánh bị hôn ám. Đă lập gia đ́nh, phải kiêng loại ‘canh phá nhà’. Hơn nữa, cội nguồn của hết thảy các chuyện dâm loạn phần nhiều bắt nguồn từ rượu”. V́ thế, trong bốn điều răn, lấy rượu làm điều răn đầu tiên.

          Kẻ say ắt mất sạch thiện niệm, ác niệm dấy lên lừng lẫy. Khi tỉnh, ắt chẳng dám làm, ắt chẳng dám nói; hễ say, sẽ làm luông tuồng, sẽ nói bừa băi. V́ thế, người uống rượu mà biết giữ chừng mực, th́ [rượu sẽ] được gọi là Thái Ḥa Thang (太和湯, canh Thái Ḥa), hoặc gọi là Vong T́nh Hữu (忘情友, người bạn giúp ḿnh quên buồn). Kẻ uống rượu mà chẳng thể giữ chừng mực th́ [rượu được] gọi là Nhu Ma (柔魔, con ma dịu dàng), gọi là Cam Độc (甘毒, chất độc ngọt ngào).

          Rượu là củi để [đốt lên] ḷng dâm. Phóng túng rượu chè mà chẳng phóng túng dâm dật th́ hiếm lắm! Bởi lẽ, nội hỏa vừa bừng bừng bốc lên, dâm dục hừng hực phừng lên, đă là khó ngăn ngừa; huống hồ, rượu chè phóng túng khiến cho ngọn lửa ấy càng thêm mạnh mẽ ư? Nhậu say rồi ăn nằm, ngũ tạng đảo lộn, sẽ mắc bệnh chẳng nhẹ, càng phải nên đau đáu kiêng dè! Lại có kẻ do say sưa mà nói huỵch toẹt những chuyện dâm uế, [đến nỗi] phải chịu nhục, táng mạng, hối hận sao kịp?

          Chuyện đáng nực cười nhất trong thế gian không ǵ bằng tranh đua thắng thua trong tiệc rượu. Xử sự trong cơi đời, mỗi chuyện đều nên lùi bước, nhân nhượng. Huống chi đôi khi [cùng nhau tụ tập] vui chơi, hành tửu lệnh[12] so quyền, bất quá là để cao hứng trong chốc lát, thắng chẳng đáng để vinh, thua chẳng đáng nhục! Thua th́ chẳng bị mất mát ǵ, thắng chẳng đạt được ǵ. Đúng như người chơi cờ vây đă nói: “Thắng th́ cố nhiên là vui thú, thua th́ cũng vui vẻ”. Những kẻ đă hôn ám chẳng biết, cứ ắt phải thắng mới được, đến nỗi chẳng say chẳng nghỉ! Sao mà ngu si quá mức vậy? Lại có kẻ tự khoe tửu lượng cao, coi chuyện không ai có tửu lượng bằng ḿnh là hành vi hào hùng. Chẳng biết đạo đức, văn chương, đỗ đạt, công danh của chính ḿnh đúng là nhiều phần chẳng sánh bằng kẻ khác, [thế mà] cứ khăng khăng khoe khoang tửu lượng cao, há cũng chẳng lầm lạc ư? Lại có một hạng người, khoe khoang coi chuyện tửu lệnh nghiêm minh là điều đáng đắc ư, chẳng nghĩ rượu dùng để chung vui với nhau, hăy nên thuận theo tửu lượng của từng người, tội ǵ cưỡng ép [kẻ khác] uống cho nhiều đến nỗi tổn thương thân thể! Tục ngữ có câu: “Chánh trị hà khắc c̣n tệ hơn cọp dữ”. Tôi nói: Tửu lệnh hà khắc th́ cũng giống như vậy. Trong tiệc rượu, nếu có hạng người ấy, hăy nên gấp viện cớ để tránh đi.

          Trong Đại Trí Độ Luận đă ra nêu các lầm lỗi do uống rượu như sau:

          1) Tâm không tiết chế, chẳng có chừng hạn.

          2) Tài vật hư hao, kiệt quệ.

          3) Cửa ngơ dẫn đến các thứ bệnh.

          4) Cội rễ của sự đấu tranh.

          5) Lơa lồ chẳng hổ thẹn, giống như trâu ngựa.

          6) Do ta làm nhục, khinh miệt, chửi bới những người cùng uống, mà bị người ta ghét bỏ.

          7) Chẳng đạt được vật đáng lẽ đạt được.

          8) Bỏ mất vật đă đạt được.

          9) Trong khi say, phun ra hết những chuyện giấu diếm; khi tỉnh rượu bèn hối tiếc.

          10) Khi say có nhiều hành vi sai trái, khi tỉnh sẽ hổ thẹn.

          11) Sức lực suy yếu.

          12) Sắc mặt biến đổi.

          13) Tâm chí mê hoặc.

          14) Trí huệ bị che lấp.

          15) Chẳng biết tôn kính cha mẹ.

          16) Chẳng biết tôn kính quỷ thần.

          17) Chẳng biết sợ lời nói của người khác.

          18) Chẳng biết sợ phép vua.

          19) Kéo bè kết đảng làm chuyện cuồng vọng, bạo ngược.

          20) Lợt lạt, xa lánh bậc hiền thiện.

          21) Chẳng hổ thẹn.

          22) Dễ nổi giận đùng đùng.

          23) Chẳng kiềm chế lục t́nh (mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét).

          24) Phóng túng sắc dục vô độ.

          25) Bị người đă từng cung kính ta bài xích, xua đuổi.

          26) Chẳng cẩn thận, kiêng sợ.  

          27) Coi ngày là đêm, sự nghiệp đều bỏ bê.

          28) Phạm lỗi về luân thường, đạo đức.

          29) Vứt bỏ thiện pháp.

          30) Xa ĺa Niết Bàn.

          31) Gieo cái nhân ngu si, cuồng vọng.

          32) Khi thân hoại, mạng chung, sẽ đọa trong ác đạo. Nếu được làm người, tâm luôn cuồng loạn, hết thảy những vật bên ngoài cần dùng cho cuộc sống thảy đều bị bại hoại.

          Một kẻ sĩ ở đất Mân (Phước Kiến) là Lưu X… b́nh thời phẩm hạnh đoan nghiêm, học tṛ rất đông. Hằng ngày, ông ta thường răn dạy [học tṛ] kiêng dè sắc dục. Một hôm, ngẫu nhiên say sưa, tranh giành gái điếm với bạn. Khi tỉnh, hết sức hối hận, xấu hổ chẳng muốn gặp các học tṛ, đóng cửa suốt ba ngày, biên tập các chuyện xưa nay mắc hại v́ rượu để tự cảnh tỉnh chính ḿnh, đặt tên là Bách Hối Kinh.

          Lại có kẻ sĩ ở đất Ngô (Giang Tô) là Diệp X… bẩm tánh vốn hiếu thảo, ḥa thuận với anh em. Một hôm, sau khi say sưa, đă tranh chấp, chửi bới em trai. Cha dùng lư để khuyên, chàng ta phun ra một, hai câu bất kính. Canh năm tỉnh rượu, vợ kể lại t́nh trạng khi say sưa, chàng ta hối hận muốn chết phứt, vội đến pḥng cha, khấu đầu, khóc lóc, quỳ xin tạ tội, cơn giận của cha mới nguôi. 

          Ôi! Hai ông bẩm tánh thuần hậu, nghiêm cẩn, c̣n chẳng khỏi ngang ngược, phóng túng khi say. Nếu là hạng người phóng túng, tà vạy, xa xỉ, sẽ càng tệ hại đến mức nào? Rượu được gọi là Họa Tuyền (禍泉, suối họa), đúng lắm thay!

          Đời Tống, Ngô Dục làm Xu Mật Sứ. Khi ấy, Trần Chấp Trung bị băi chức Tể Tướng, tiến cử Ngô Dục thay thế. Do Ngô Dục hầu vua dự yến tiệc, say sưa, ngủ vùi, bỗng vỗ giường, gọi tùy tùng; vua tức giận, băi truất ông ta làm Tây Kinh Lưu Đài. Lại nữa, Quách Chí làm Tham Chánh (Tham Tri Chánh Sự, tức Phó Tể Tướng) vào cung tâu tŕnh, mùi rượu xông sực ṭa ngự, ông bị giáng chức, đổi đi Nam Kinh.

          Say rồi lỡ lời, thường gặp đại họa. Một danh sĩ ở huyện Vô Tích, tuổi trẻ, đa tài. Uống say rồi phê phán chuyện xấu trong buồng the của người khác ngay trước mặt kẻ đó. Kẻ đó thản nhiên cười bảo: “Ông X… say nên nói vậy”, dường như chẳng có mảy may nào so đo. Những người đang ngồi cùng bàn đều cảm phục độ lượng của ông ta. Một người từng trải chờ cho người ấy đi khỏi, bảo những người cùng ngồi: “[Bị làm nhục] mà tức giận là chuyện thường, chứ kẻ cười x̣a khó thể ḍ lường được”. Nửa năm sau, chàng ta rốt cuộc bị người khác mưu hại. Ai nấy đều nghi người ra tay hăm hại chính là kẻ đă chịu nhục khi trước. Than ôi! Rượu gây tai họa đến mức ấy. C̣n như do say sưa mà lọt sông, sụp hố, ngă toác đầu vỡ mặt, đánh mất tiền của, tiết lộ chuyện cơ mật, xúc phạm quỷ thần, đủ mọi nỗi tai ương và lỗi họa ắt đều do rượu gây họa, cớ sao chẳng kiêng tránh?

          Đời Tống, Tô Dịch Giản làm Học Sĩ (Hàn Lâm Đại Học Sĩ), do uống quá chén mà lỗ mũi tóe máu, bị bệnh rồi chết. Lại c̣n Vương Toàn làm Điện Trung Thừa, do quá mức say sưa, nứt rốn mà chết. Ôi! Thuốc gây cuồng loạn thấm đẫm người, hiếm khi chẳng phát sanh bệnh tật. Bệnh phát ra sớm th́ nhẹ, phát chậm sẽ là bệnh nặng, chẳng có trường hợp nào không dẫn đến chết chóc. V́ thế, xem xét khắp những vị cao thọ, đều là những vị chẳng ham mê rượu. Người ta cớ sao lại để di thể của tổ tiên rơi vào ṿng “sống say, chết mộng” vậy thay!

          Trần Hạo tánh thích uống rượu, làm Đề Học[13] ở Sơn Đông. Cha ông ta gởi thư răn nhắc, ông bèn sai thợ làm ra một cái chén nhỏ, trên đó có khắc chữ như sau: “Cha dạy kiêng rượu”, chỉ uống mười chén.

          Gia quy của họ Trịnh ở Phố Giang [như sau]: “Con cháu chưa đến ba mươi tuổi, rượu không được nhấp môi. Kẻ đă tráng niên tuy cho phép uống đôi chút, nhưng kẻ mê đắm, gây huyên náo v́ rượu, ắt sẽ bị đ̣n. Đăi đằng khách khứa, chỉ chú trọng chân thành, chẳng bắt buộc dùng rượu. Phụ nữ không được cùng uống. Nếu tuổi đă quá năm mươi, chỉ đành để cho họ được thuận tiện”. Gia quy này có thể dùng làm pháp tắc để giữ yên gia đ́nh vậy!

          Cổ nhân nói: - Rượu là tựu tập, tựu tập với người chánh đáng th́ [chính ḿnh] sẽ là chánh đáng, tựu tập với kẻ sai trái th́ [chính ḿnh] sẽ sai trái. Rượu là “tạo”, tạo điều lành th́ là thiện, tạo điều ác th́ là ác. Rượu chẳng thể khiến cho con người đúng, sai, thiện, ác, mà do con người vốn tự tạo cho ḿnh trở thành đúng, sai, thiện, ác. Hai chữ “tiết tỉnh” (節省, giữ chừng mực, phản tỉnh) cố nhiên có thể thiếu được ư?

 

          (Chánh văn) Cốt nhục phẫn tranh, nam bất trung lương, nữ bất nhu thuận.

          (正文)骨肉忿爭。男不忠良。女不柔順。

          (Chánh văn: Là ruột thịt [với nhau mà] giận dữ, tranh chấp. Trai không trung lương. Gái chẳng nhu thuận).

 

          Đời Đường, [gia tộc của ông] Trương Công Nghệ chín đời sống chung với nhau, chỉ do một chữ Nhẫn. Phẫn hận tranh chấp là v́ chẳng thể nhẫn. Trong ṿng cốt nhục, hễ chấp lư bèn tổn thương t́nh cảm; hễ t́nh cảm bị tổn thương, tức là chẳng đúng lư, há có nên xằng bậy phẫn nộ, tranh chấp ư? Nhưng cội nguồn của chuyện này phần nhiều do bị lời lẽ của phụ nữ xúi bẩy, tạo thành hiềm khích. Bởi lẽ, ḷng dạ phụ nữ chẳng công bằng, luôn ôm ḷng ghen tỵ. Hơn nữa, những người được gọi là bố mẹ chồng, chú bác, chị em dâu, [cũng như] những người cùng hàng đều là duyên giả hợp, [tức là] gượng xưng hô [như thế], vốn chẳng phải là quyến thuộc tự nhiên. V́ thế, dễ cắt đứt t́nh thân ái, dễ phẫn nộ, tranh chấp. Lời nói được truyền qua hai lượt, [ư nghĩa ban đầu sẽ bị sai lệch], chất chứa thành oán hận. Trong một nhà, những chuyện chống trái, biến hóa cứ nẩy sanh đầy dẫy là do nhiều đầu mối (nguyên nhân, nguyên do), chẳng thể nói khái lược được. Chỉ có những người dốc ḷng coi trọng thiên luân, hiểu biết sâu xa, đuốc sáng soi tỏ, chẳng nghe lời gièm siểm, tự nhiên sẽ là một niềm ḥa khí ấm áp, đối xử với nhau bằng t́nh nghĩa vui vẻ, ḥa hợp, làm sao có chuyện phẫn hận, tranh chấp cho được?

          Đời Minh, nhà Trịnh Liêm ở Phố Giang suốt hai trăm năm [mỗi tiểu gia đ́nh trong ḍng họ] chẳng tách ra sống riêng. Mọi người gọi xóm ấy là Nghĩa Môn. Quan Thái Thú trao tặng tấm biển đề “thiên hạ đệ nhất gia”. Minh Thái Tổ lên ngôi, triệu ông Trịnh vào kinh, hỏi: “Nhà ông có bao nhiêu người cùng nhau ăn cơm?” Ông Trịnh tâu: “Hơn một ngàn người”. Chúa thượng nói: “Đúng là thiên hạ đệ nhất gia”. Khi đó, Mă hậu ở sau vách nghe tiếng, nói với Thái Tổ: “Bệ hạ có thiên hạ là do một ḿnh cử sự, nay cả nhà họ Trịnh hơn một ngàn người, há chẳng cử sự dễ dàng ư?” Chúa thượng kinh hăi, lại hỏi ông ta: “Cả gia tộc của khanh được giữ vẹn cũng là do có phương cách nào?” Trịnh Liêm thưa rằng: “Chẳng có ǵ khác, chỉ là không nghe lời vợ mà thôi!” Chúa thượng bất giác cười to. Khi ấy, [nhằm lúc] vùng Hà Nam tiến cống lê thơm; do vậy, vua ban cho ông hai trái. Trịnh Liêm hai tay nâng lê đặt trên đầu, lui ra. Chúa thượng bèn sai người theo ḍ xét. Về tới nhà, Trịnh Liêm triệu tập người trong họ, hướng về cửa khuyết dập đầu, tạ ơn, đặt hai chum nước lớn, nghiền nát lê bỏ vào đó, chia nhau uống. Thái Tổ nghe chuyện, vui mừng. Về sau, có kẻ vu cáo nhà ông Trịnh thông đồng với bọn quyền thần. Thái Tổ bảo: “Họ Trịnh không phải là như vậy, đó là vu cáo”. Về sau, vua hạ lệnh cho ông chọn ba mươi người từ đám con em đưa tới kinh đô, đều cho họ làm quan. Trưởng họ là Trịnh Anh tới cửa khuyết tạ ơn. Chúa thượng ngự giá tới cửa Phụng Thiên, đích thân viết ba chữ to “hiếu nghĩa gia” ban tặng, c̣n dùng ấn ngọc đóng lên đó.

          Trung () có nghĩa là tận hết sức ḿnh. Lương () là ngay thẳng, chánh đáng. Trong muôn vật, chỉ có loài người là tối linh, con người lại coi đàn ông là quư. Đă có được cái thể linh và quư ấy, lại gian trá, bất trung, hiểm ác, tà vạy, bất lương, không chỉ là tự phụ bạc chính ḿnh, mà cũng là cô phụ tạo vật quá đỗi!

          Đời Tống, Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) vừa hai tuổi đă mồ côi. Đến khi hơi lớn, bèn đích thân tự lập, ngày đêm học tập, ngồi lặng lẽ thầm suy nghĩ. Trong sáu năm bèn tinh thông lục kinh. Ông đỗ Tiến Sĩ lúc hai mươi tuổi, được bổ về làm chức phán[14] ở Hà Trung, trung nghĩa, yêu dân, hợp ḷng người. Ông lần lượt trải qua các chức vụ, làm tới Thị Lang. Làm quan trong triều cũng như quản trị gia đ́nh, ân lẫn uy đều dùng, trung quân, ái quốc, lưu lại những hành vi tốt đẹp rạng ngời. Ông dạy con noi theo điều nghĩa, giúp người nghèo, châu cấp kẻ khổ, thanh danh vang rền một thuở, được trăm đời kính ngưỡng, đúng là chẳng thẹn với hai chữ Nam Tử.

          Sách Lễ Kư chép: “Nam soái nữ, nữ tùng nam” (Nam lănh đạo nữ, nữ tuân theo nam). Lại chép: “Ấu tùng phụ huynh, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử” (Lúc bé th́ nghe theo lời cha, anh, lấy chồng th́ thuận theo chồng, chồng chết th́ nghe theo con). Sách Nhan Thị Gia Huấn chép: “Phụ nữ chủ yếu trông coi về ẩm thực, chuyên trông coi về rượu, thức ăn, quần áo trong lễ nghi. Nếu là người có thông minh, tài trí, chỉ nên phụ tá bậc quân tử, giúp chồng bù đắp khuyết điểm. Nếu lấn hiếp, chế ngự chồng, can dự vào chánh sự bên ngoài; đó là gà mái gáy sáng, là bọn cú diều lưỡi dài. Gia đạo không thể hưng thịnh nổi bắt nguồn từ chuyện này!”

          Đời Hán, Viên Ngỗi lấy con gái của Mă Quư Lương, [vợ đem theo] của hồi môn rất nhiều. Viên Ngỗi nói: “Vợ chăm nom nhà cửa mà thôi, cần ǵ phải [đem theo] quá nhiều đồ quư báu, đẹp đẽ vậy!” Vợ thưa: “Mẹ thiếp có ḷng thương tưởng, chẳng dám trái mạng. Nếu chàng hâm mộ phong thái cao cả của Bào Tuyên, Lương Hồng[15], thiếp cũng có thể học đ̣i gương tiết nghĩa của Thiếu Quân, Mạnh Quang”.

          Đời Tống, phu nhân của Tŕnh Hướng là Hầu Thị khiêm cung, thuận thảo, nhu ḥa. Dẫu là việc nhỏ nhặt, ắt tŕnh với chồng rồi mới đi. Bà trị gia đúng pháp tắc, chẳng đánh đập nô tỳ. Nếu con cái quở mắng đầy tớ, bà ắt răn dạy: “Tuy sang, hèn khác nhau, nhưng đều là người như nhau”. Hễ Tŕnh Hướng có ǵ tức giận, bà ắt khoan thai vuốt giận. Chỉ có điều các con phạm lỗi, bà chẳng giấu diếm. Thường nói: “Con cái không ra ǵ là do mẹ giấu lỗi, cha không biết đến”. Về sau, hai con bà là Tŕnh Di và Tŕnh Hạo đều trở thành bậc đại nho, địa vị quư hiển, được thờ phối hưởng trong Khổng Miếu.

          Gă cư dân X… ở Ḥa Châu nuôi hơn một trăm con ngỗng. Một hôm, bọn ngỗng ăn lúa của hàng xóm, gă hàng xóm đánh chết hơn năm mươi con. Vợ gă X… trông thấy đùng đùng nổi giận, nhưng lại nghĩ: “Nếu thưa kiện hắn, ắt cũng phải tốn kém. Hơn nữa, chồng ta đang say rượu nằm ngủ. Nếu biết chuyện mà đánh lộn với hắn th́ càng bất tiện”. Bèn nhặt nhạnh ngỗng chết đem chôn. Sáng hôm sau, bỗng gă hàng xóm chết đột ngột. Chồng biết chuyện ngày hôm qua, bèn hết sức cảm khái, nói: “Nếu hôm qua bà kể lể với tôi, tôi đang say đánh lộn với hắn, không chừng đă thành án giết người rồi!”

          Tử Hà Tạo Phước Quyết (bí quyết tạo phước của Tử Hà Chân Quân) có đoạn: - Phàm nữ nhân tu thiện th́ chẳng khác nam tử, nhưng nữ nhân chẳng có chuyện ǵ khác, tam tùng là tốt đẹp. Nếu có hạnh lành, chẳng bằng khuyên song thân và chồng thực hiện th́ càng tuyệt diệu hơn. Bởi lẽ, cha mẹ có ba phần thiện th́ con gái được một phần. Chồng có hai phần thiện, vợ sẽ được một phần. Nếu vợ dự phần suy nghĩ, cân nhắc [phương cách làm lành cho chồng] th́ công sẽ giống hệt như chồng. Nếu khuyến hóa phụ nữ khác làm lành, công đức ấy so với [công đức do] chính người phụ nữ ấy tự làm lành sẽ khó có gấp bội, tốt lành gấp bội. Trong ṿng chị em dâu, chị em ruột, nếu [người nào] có thiện sự, mà khen ngợi lẫn nhau, công [khen ngợi, tùy hỷ] ấy cũng có thể bằng nhau. Điều đáng quư là hoan hỷ, có cùng chí hướng, chẳng có ḷng ghen ghét. Nếu có thể hiếu kính, ḥa thuận, giúp chồng dạy con ḥng trọn hết bổn phận, lại c̣n tin sâu nhân quả, ăn chay, niệm Phật, ắt sẽ trong đời hiện tại tự nhiên thân tâm an lạc, con cháu hưng thịnh, lâm chung chắc chắn được đức Phật rủ ḷng Từ tiếp dẫn, văng sanh Tây Phương. Chỉ nên tiềm tu tại nhà, đừng nên rong ruổi bên ngoài. Một là chẳng phí uổng thời gian, hai là khỏi phải chuốc lấy tiếng dị nghị của kẻ khác. Lại nữa, nếu như con cháu mắc bệnh, lạy thần cầu cúng, tốn kém tiền bạc, sao bằng thường ngày làm lành, phóng sanh, sẽ tự được thần gia hộ ư? Trong chốn khuê môn, luôn có chốn động thiên phước địa[16], hăy gắng thực hiện!

 

          (Chánh văn) Bất ḥa kỳ thất, bất kính kỳ phu.

          (正文)不和其室。不敬其夫。

          (Chánh văn: Bất ḥa với vợ. Chẳng kính trọng chồng).

         

          Vợ chồng ḥa thuận, sau đó, gia đạo sẽ hưng thịnh. Phụ nữ chưa từng đọc sách, hiểu lư; nếu có điều ǵ không đúng, [chồng] cũng phải nên giảng giải, khuyên bảo rơ ràng. Cố nhiên là chớ nên mặc kệ cho cô ta tự tung tự tác, mà cũng chớ nên lập tức sanh ḷng giận dữ, ghét bỏ. Nhưng người đời gặp phải vợ tánh hung tợn, mạnh mẽ, đành để cho vợ khinh rẻ, lấn hiếp; gặp vợ nhu nhược, chất phác, [ắt chồng] lấn hiếp, ngược đăi. Khinh rẻ người lành, sợ kẻ ác, kẻ làm chồng há có nên như thế hay chăng? Cũng có kẻ ngu đần hơn nữa, sủng ái vợ lẽ, khinh nhục vợ cả, mê luyến gái điếm, khinh rẻ vợ, thậm chí đánh đập, chửi bới, giận dữ, quở trách. Hạng người ấy càng chẳng được hưởng hết tuổi trời!

          Nhan Quang Trung nói: - Sanh làm người, đừng làm thân phụ nữ! Trăm nỗi sướng, khổ đều do người khác [quyết định]. Họ phải ĺa cha mẹ để yêu thương người khác, sống chết tùy tay người đó. Chủ nhân duy nhất là chồng. Đói không thể ăn một ḿnh, lạnh không thể mặc ấm cho riêng ḿnh. Họ xả thân ḿnh để lo cho thân ta, bỏ cha mẹ ḿnh để phụng sự cha mẹ ta. Lỡ gặp cảnh chồng buôn bán phương xa, hoặc là nho sĩ đi học xa, ngủ trơ trọi trong căn pḥng đơn côi, đêm rét buốt, mền lạnh ngắt như sắt, há dễ chịu đựng ư? Ta là kẻ bạc t́nh, có nhân t́nh bên ngoài, dồn hết t́nh cảm cho hoa, cho liễu, mê luyến như cuồng. Nếu như ngày nào đó quư hiển, [chồng sẽ thâu nạp] hầu non đầy dẫy, nào có nghĩ đến t́nh nghĩa kết tóc se tơ? Chỉ riêng nàng gánh phần sợ hăi, dành cho ta nỗi an lạc. Ôi chao! Sao mà đối xử với người khác chẳng khoan dung như thế? [Nếu vợ] là mụ đàn bà lưỡi dài, mặc sức cậy thế hiếp đáp [thằng chồng nhu nhược], hoặc [vợ là] hạng phụ nữ đánh mất đức hạnh, chẳng hề tự kiểm điểm, luông tuồng, chua ngoa th́ thôi rồi! Nếu vợ có thể phụng sự bố mẹ chồng, ḥa thuận với chị em dâu, ḥa hảo với các cô, các mợ [th́ may mắn lắm thay]! Trong ṿng vợ cả, vợ lẽ, ḍng đích, ḍng thứ, ai nấy đều có ḷng riêng tư, ai nấy đều mong nắm lấy quyền hành, xoay vần trong cảnh ưu phiền ấy, phải nhẫn nhục nín chịu, đúng là chẳng thể diễn tả được. Nếu gặp phải nhà chồng [lâm vào cảnh] khốn cùng, lao đao, sáng tối phải lo nghĩ v́ cái ăn, phải thêu thùa, may vá [thuê cho người khác] để kiếm sống, cũng chẳng thể nào nói trọn hết [nỗi khổ sở, nhọc nhằn] được! Há lẽ nào vợ đă mong cùng ta chung sống suốt đời, ta lại nửa chừng ruồng rẫy, về t́nh lẫn lư, phải nói như thế nào đây? Đấy chính ư nghĩa của bài thơ Quyển Nhĩ (卷耳, trong phần Châu Nam của Kinh Thi), [tác giả của bài thơ ấy] đă dùng t́nh cảm nhu ḥa, vận điệu uyển chuyển để miêu tả [nỗi ḷng của người chồng] khi Đông chinh. Ư nghĩa bậc nhất trong sự giáo hóa chánh đáng của quốc gia là “chồng khiến cho vợ yên vui, gia đ́nh êm ấm, hiếu thuận với cha mẹ”, đấy chính là thiện sự cát tường vậy!

          Cố Khải đối xử với vợ đúng lễ. Ông thường sáng ra ngoài, tối về, ít khi gặp mặt. Ông bị bệnh nặng, vợ đến thăm hỏi, Cố Khải sai tả hữu đỡ dậy, buộc tóc, đội mũ đàng hoàng [rồi mới cho vợ gặp mặt]. Thăm hỏi, tṛ chuyện xong, liền bảo vợ trở về. Nh́n từ đây, [ta biết] giữa vợ chồng với nhau, há có nên vô lễ một khắc nào, để rồi dẫn đến chuyện do quá thân cận mà thất lễ ư? Nhưng lễ có ǵ khác đâu? [Bất quá là] “ḥa hợp mà có chừng mực, thương yêu nhưng kính trọng” đó thôi!

          Vương Bát Lang ở thành Lạc Dương tánh t́nh hung tợn, thích đánh vợ. Hắn bao một cô gái điếm, phá sạch gia sản. Vợ hắn đă khốn khổ v́ nỗi đói rét, lại bị chồng đánh đập dữ dội hơn. Vợ bất đắc dĩ, phải cậy thân thích, hàng xóm phân xử. Bát Lang bắt vợ sống ở chỗ khác, [để hắn] ở chung nhà với cô gái điếm. Không lâu sau, hắn bệnh tật, gia sản hết sạch, cô gái điếm tỉnh bơ bỏ đi. Hắn lại đến nương cậy vợ, vợ tránh né. Bát Lang chết đột ngột, vợ hắn cũng chết. Thân thích, hàng xóm đặt xác hai người cùng một chỗ. Đến đêm, bỗng nghe có tiếng căi cọ, chửi bới, [mọi người] mở cửa xem, thấy hai cái xác đứng đâu lưng với nhau.

          Chồng là trời của vợ, là chỗ nương tựa suốt đời, làm sao có thể bất kính cho được? Kẻ bất kính nếu chẳng phải là hạng đàn bà hung tợn, th́ sẽ là hạng phụ nữ phóng đăng, hoặc là nói năng thô ác, xúc phạm, hoặc là trù ếm, trấn yểm, chẳng biết: Hễ mang thân nữ là do nhiều cái nhân trong đời trước sai sử. Nếu càng khinh miệt chồng, sẽ càng đọa trong ác đạo. Thậm chí có kẻ chồng vừa chết, xương thịt chưa lạnh, đă nghĩ tới chuyện cải giá, coi con cái do ḿnh đẻ ra như kẻ qua đường. [Chồng] đă chết mà chẳng thể buồn thương, th́ khi sống làm sao kính trọng cho nổi?

          Đỗ Xí làm người khiếp nhược. Vợ hắn là Trương Thị luôn khinh rẻ chồng. [Đỗ Xí] tuổi già càng lắm bệnh, Trương Thị chẳng đoái hoài. Không lâu sau, Trương Thị chết trước Đỗ Xí. [Mụ ta đă được] tẩn liệm, quan tài bị vỡ tung, [Trương Thị] hóa thành măng xà, ḅ vội vào rừng. Ôi! Kẻ làm chồng là trời của vợ; khinh mạn chồng tức là khinh mạn trời; có thể khinh mạn chồng ư? Xin hăy tự nghĩ!

          Đời Hậu Hán, Lương Hồng cưới con gái nhà họ Mạnh, tên là Quang. Thoạt đầu, [Mạnh Quang] đem đồ trang sức về nhà chồng, [trang điểm lộng lẫy]. Suốt bảy ngày, Lương Hồng chẳng ngó ngàng đến cô ta. Vợ liền búi tóc trần, mặc áo vải, làm việc nhà như trước. Lương Hồng vui vẻ bảo: “Đây mới thật sự là vợ của Lương Hồng”. Bèn cùng nhau ẩn cư trong núi Bá Lăng. Về sau, do tỵ nạn, họ sang đất Ngô, ở nhờ nơi chái nhà của Tạo Bá Thông, [Lương Hồng] giă gạo thuê cho người ta. Mỗi khi trở về, vợ dọn sẵn cơm nước, chẳng dám ngước lên nh́n trước mặt Lương Hồng, nâng án ngang mày. Bá Thông nói: “Gă làm thuê ấy có thể khiến cho vợ kính trọng như thế, chẳng phải là hạng người tầm thường”, bèn tặng nhà cho họ.

          Đỗ Khuê mắt mù, vợ ông ta ngày đêm hướng về sao Bắc Cực cầu khẩn. Mỗi lần lễ bái, ắt lạy đủ bảy lần bảy bốn mươi chín lượt, rốt cuộc có thể cảm Chân Vũ (Huyền Thiên Bắc Đế) hóa thân giáng hạ trị liệu. Đỗ Khuê lại thấy rơ như thuở đầu.

          Vợ của Vũ Văn Bang Ngạn là Lê Thị khắc khổ chăm lo gia đ́nh. Bà thích xem sách, hiểu đại lược đại ư, bèn tự tay biên chép để giúp chồng, lại c̣n nghiêm ngặt đốc thúc các con học theo. Con cái bà anh em d́u dắt nhau, quả nhiên thi đậu, trải từ chức quan Từ Viên[17], vào Hàn Lâm, đạt tới chức Hữu Hạt (右轄, Hữu Thừa Tướng). Làng xóm đều ca ngợi, tôn kính. Đến nay hăy c̣n bộ Chế Cáo Luân Ngôn Tập do chính bà Lê chép.

          Đời Minh, Hoàng Quán là người xứ An Khánh. Vào thời Kiến Văn (Minh Huệ Đế), do đậu Tam Nguyên, ông làm quan tới chức Học Sĩ Thừa Chỉ. Khi gặp cơn binh biến Tĩnh Nạn[18], Hoàng Quán chết. Vợ là Ông Thị và hai đứa con gái đều bị bắt. Có chiếu chỉ truyền gả Ông Thị cho người giữ voi. Ông Thị giả vờ nói khi tỵ nạn, có chừng đó vàng gởi gắm ở nhà thân thích ngoài thành: “Mẹ con tôi đến th́ lấy được; nếu không, ắt họ sẽ giấu diếm”. Gă trông voi muốn chiếm mối lợi ấy, cùng đi theo ra ngoài thành. Vợ ông Hoàng Quán nói: “Hai đứa con gái hăy nên buộc vạt áo với nhau, sợ bị lạc mất trong đám đông”. Gă trông voi bằng ḷng, hai đứa con gái cũng chẳng hiểu ư mẹ. Vừa đến bến sông, bà ta liền ôm hai con cùng nhau trầm ḿnh tự vẫn. Đến nay vẫn c̣n miếu thờ họ bên bờ sông Tần Hoài.

          Đời Tống, Sùng Quốc Trịnh phu nhân là mẹ của Âu Dương Tu. Sùng công đậu Tiến Sĩ, đến nhậm chức Thôi Quan bèn mất, Âu Dương Tu [khi đó] mới bốn tuổi. Nhà nghèo, mẹ tận lực lo toan cơm áo để nuôi Âu Dương Tu tận lực học hành. Mẹ dạy con học, đă từng vào đêm tuyết đổ dầy, mẹ san phẳng tro lạnh [trong ḷ] để viết chữ dạy con. Mẹ luôn khóc, bảo Âu Dương Tu:

          - Cha con liêm khiết, thích bố thí, ta chẳng được phụng sự bố mẹ chồng, nhưng biết cha con có thể phụng dưỡng họ. Mẹ chẳng thể biết con sẽ thành tựu như thế nào, nhưng biết cha con sẽ có hậu duệ [tốt lành]. Mẹ về với cha con, [cha con] đă đoạn tang [ông bà nội] hơn một năm rồi, mỗi lần cúng tế ắt khóc lóc. Hoặc mỗi khi có rượu thịt, ắt khóc lóc v́ tiếc hận chẳng thể phụng dưỡng cha mẹ nữa. Thoạt đầu, mẹ tưởng là vừa mới đoạn tang, nên lẽ đương nhiên là như thế. Về sau, mới biết [cha con] luôn là như vậy; cho đến hết đời, vẫn chẳng không khi nào như vậy. Do vậy mẹ biết cha con có thể phụng dưỡng ông bà nội. Cha con làm quan, từng có đêm xem hồ sơ phán án, nhiều lượt than thở: “Ta muốn [kiếm cách] cho [tội nhân] này được sống mà không thể, đáng buồn thay!” Quay đầu nh́n nhũ mẫu đang bế con đứng bên cạnh, cha con chỉ con bảo: “Mạng ta sẽ chết sớm, chỉ sợ không kịp thấy con thành tài; nàng hăy nên bảo cho con biết những điều ta đă nói”. Cha con dạy bọn con em cũng đều là như thế. V́ thế, mẹ biết cha con ắt sẽ có hậu duệ [tốt đẹp].

          Do vậy, Âu Dương Tu cảm động, khóc lóc, siêng gắng học hành. Tới lúc ông đậu Tiến Sĩ, tôn quư, hiển đạt, vẫn tiết kiệm, đơn sơ như cũ. Đến khi Âu Dương Tu v́ can gián thẳng thừng mà bị biếm trích, phu nhân cười nói thản nhiên, bảo: “[Nhà ta] vốn sẵn nghèo khó [nên quen rồi], con ắt nên an ḷng”. Rốt cuộc, do trung trực nên Âu Dương Tu trở thành bậc Tể Tướng hiền năng, mẹ được sắc phong làm Việt Quốc Thái Phu Nhân. Đạo kính trọng chồng, có ǵ hơn được hai chuyện trọn hết tiết hạnh và dạy con? V́ thế, thuật hai câu chuyện này để làm khuôn mẫu tột bậc cho đạo kính chồng. Những kẻ làm vợ hăy nên gắng sức!

 

          (Chánh văn) Mỗi hiếu căng khoa, thường hành đố kỵ.

          (正文)每好矜誇。常行妒忌。

          (Chánh văn: Thường thích khoác lác, kiêu căng; thường hay ganh tỵ).

         

          Lăo Tử nói: “Bất tự thị cố chương, bất tự phạt cố hữu công, bất tự căng cố trưởng” (Chẳng tự cho là đúng mà [sự thật đúng sai] được phơi bày rơ rệt. Chẳng tự cho là ḿnh đă bỏ công tốn sức mà tự nhiên là có công lao. Chẳng tự kiêu căng tự đại mà sẽ được kẻ khác coi trọng). Kinh Dịch chép: “Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm. Địa đạo biến doanh nhi lưu khiêm. Quỷ thần hại doanh nhi phước khiêm” (Đạo trời khiến cho những ǵ quá tràn đầy sẽ bị hao hụt, để bù đắp cho sự khiêm tốn. Đạo đất khiến cho những ǵ viên măn sẽ được chuyển sang chỗ khiêm hạ. Quỷ thần phá hoại sự kiêu căng tràn đầy ḥng tạo phước cho người khiêm tốn). Do khiêm tốn mà được [mọi người] tôn kính, [thanh danh, phẩm đức] tỏa rạng. Người giữ phận nhún nhường, không ai có thể vượt hơn được! Bậc quân tử luôn giữ trọn [phẩm đức khiêm tốn, nhún nhường]. Đại Vũ chẳng kiêu căng, chẳng kể công, [luôn nói] “hàng ngu phu ngu phụ ai nấy đều có một điểm tài năng tốt đẹp hơn ta”. Vua đục đẽo Long Môn[19], dẹp trừ Y Khuyết[20], đất đai được sửa sang tề chỉnh, ứng hợp theo lẽ trời, công lao phủ trùm muôn đời. Châu Công chẳng kiêu căng, chẳng tiếc tài năng, nhọc ḷng khiêm hư tiếp đăi bậc hiền sĩ, búa mẻ Đông chinh[21], rốt cuộc giữ yên nhà Châu. V́ thế nói: “Bậc đại thánh đại hiền chân chánh luôn dè dặt, kiêng sợ như vào vực sâu, như đi trên băng mỏng, dốc trọn [hết tinh thần] để thực hiện”. Như Đại Vũ, Châu Công là thánh nhân, [thế mà] chưa hề khoe khoang đạo đức với ai. Như vậy th́ người đời nay có kẻ khoe khoang xằng bậy, có ư nghĩa chi đâu? Phần nhiều là phường chẳng biết lượng sức vậy!

          Đời Hán, Cố Ung được phong tước hầu đă ba ngày mà người nhà chẳng hay biết. Tạ An đời Tấn cùng khách chơi cờ vây, thư báo tiệp (thư báo tin thắng trận Ph́ Thủy) đưa tới, khách trọn chẳng biết. Đời Tống, Tào Vũ Huệ (Tào Bân) đánh hạ Giang Nam thành công, [căn dặn] viên quan hầu cận dâng biểu về triều, chỉ nói là “phụng chỉ xuống Giang Nam, lo xong công việcđể báo tiệp. Văn Lộ Công (Văn Ngạn Bác) trong niên hiệu Chí Ḥa, cầm đầu các quan đề nghị lập Tống Anh Tông làm người nối ngôi cho [Tống Nhân Tông]. Cho tới khi Tống Thần Tông[22] tức vị, ông (Văn Ngạn Bác) vẫn nói là công của Hàn Kỳ. Do vậy, vua biết ông là người chẳng khoe khoang công lao. Các vị ấy đều là những bậc nhân phẩm tột bậc cao thượng, sự nghiệp công huân tột bậc to tát, mà c̣n khiêm tốn, nhún nhường, chẳng kiêu căng ngần ấy, sao mọi người chẳng biết học theo?

          Người độ lượng to ắt phước trạch sâu dầy. Kẻ độ lượng cạn cợt, ắt phước trạch mỏng tanh! Khiêm hư hoặc là vênh vang tự măn, họa hay phước rạch ṛi, há chẳng nên thận trọng ư? Hơn nữa, những chuyện như phú quư, tài năng có ǵ đáng để ỷ vào đó mà kiêu ngạo với kẻ khác? V́ thế, chẳng bàn đến [chuyện kiêu căng] ắt chuốc họa; trước hết, [kẻ hợm hĩnh] đă chôn vùi lương tâm, chẳng biết sỉ nhục vậy!         

          Đời Tấn, Thạch Sùng và Vương Khải[23] tranh giàu với nhau. Vương Khải làm một bức màn che bằng tơ tía dài bốn mươi dặm. Thạch Sùng làm bức màn bằng gấm dài năm mươi dặm để giành phần hơn. Vương Khải lại từng đem khối san hô được ban tặng từ trong cung có đường kính cả thước để khoe với Thạch Sùng. Thạch Sùng lấy thiết như ư đập vỡ nát, Vương Khải nổi nóng. Thạch Sùng bèn đem ra những thứ cất giữ trong nhà, đều là [những cây san hô] loại to hai, ba thước; lấy ra một cành [san hô] để đền cho. Những vật trân quư, hiếm lạ khác, không ai tranh thắng được! Về sau, Thạch Sùng do mắc tội bị hành h́nh, bèn thở dài: “Lũ tôi tớ tụi bay chỉ v́ muốn chiếm tài sản của tao”. Ôi! Một lời khi sắp chết của Thạch Sùng c̣n ǵ rơ ràng hơn? Nhưng nếu như sớm biết, ắt sẽ chẳng khoe khoang! Nỗi họa do kiêu căng, khoe khoang khốc liệt đến mức ấy, người thời nay trong mỗi câu nói, mỗi hành động, há chẳng nên cẩn thận vậy thay!

          Đố kỵ th́ nam lẫn nữ đều có. Nam nhân thấy người khác có công danh bèn ganh tỵ, thấy người khác phú quư bèn ganh tỵ, [thấy người khác có] địa vị cao hơn ḿnh bèn đố kỵ, [thấy kẻ khác] tài năng vượt trỗi ḿnh bèn đố kỵ, đều là do ḷng dạ nông cạn, hẹp ḥi mà ra. C̣n như phụ nữ do tranh giành sự sủng ái kết thành oán cừu, thường là dẫn đến gieo họa cho gia đ́nh, tuyệt tự! Tội ấy càng chẳng thể kể xiết! Sống th́ bị ai nấy đều nghiến răng, thống hận; chết sẽ vĩnh viễn đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ngơ hầu bù đắp tội ấy. Giữ cho bản thân chánh đáng ḥng làm gương mẫu chính là chức trách của nam tử vậy!

          Đời Châu, tướng nước Ngụy là Bàng Quyên đố kỵ tài năng của Tôn Tẫn[24] bèn chặt chân ông ta. Về sau, Bàng Quyên bị Tôn Tẫn giết. Đời Đường, Ngư Triều Ân và Tŕnh Nguyên Chấn đố kỵ Quách Tử Nghi công cao, chức cả, thường mưu hại, gièm báng, rốt cuộc chúng nó đều mắc tội, họ Ngư bị giết, họ Tŕnh bị đi đày. Đời Tống, Hàn Thác Trụ đố kỵ Văn Công Châu Hy đang giữ chức Hoán Chương Các Đăi Chế, bèn kéo bè lập đảng bài xích Châu Hy là ngụy học. Nhất thời, các bậc quân tử đều bị bài xích, chèn ép. Về sau, Hàn Thác Trụ bị Sử Di Viễn giết chết. Đời Bắc Tề, Thích Minh Sâm b́nh sanh hễ thấy người tài đức cao hơn ḿnh, luôn đố kỵ sâu xa. Về sau, hắn biến thành măng xà trong chốn rừng rậm, chui vào hang hốc. Xét ra, bài thuốc trị đố kỵ của Lương Vũ Đế do tả hữu tâu tŕnh: “Xin bệ hạ hăy rộng ban thưởng cho quần thần, khiến cho kẻ bất tài chẳng đố kỵ người có tài, kẻ ham tự lợi chẳng đố kỵ người giữ lẽ công chánh, kẻ ô trược chẳng đố kỵ người thanh cao, kẻ tham lam chẳng đố kỵ bậc liêm khiết”, cũng là một đầu mối để khuyến hóa. Vua cho là đúng, như vậy th́ đố kỵ há chỉ có phụ nữ là như vậy mà thôi ư!

          Vào đời Châu, vợ Tô Bào ở nước Tống là Nữ Tông (女宗, tấm gương cho nữ giới) phụng sự mẹ chồng hết sức hiếu thảo. Tô Bào làm quan ở nước Vệ ba năm, lấy vợ ở ngoài. Chị dâu nói cho vợ ông ta biết, Nữ Tông đáp: “Phụ nữ coi chuyên nhất là trinh, coi khéo vâng lời là thuận, há chuyên coi chuyện được chồng sủng ái là tốt lành ư? Theo lễ, đại phu có thể lấy ba vợ, kẻ sĩ có thể lấy hai vợ. Chồng em là kẻ sĩ có hai vợ th́ cũng chẳng hợp lư hay sao? Vả nữa, phụ nữ có thất xuất[25] th́ ganh tỵ đứng đầu. Chị chẳng đem lễ nghĩa cư xử sao cho gia đ́nh trong ấm ngoài êm để bảo ban em, lại ngược ngạo muốn em làm theo hành vi khiến cho chồng ruồng bỏ ư?” Vua Tống nghe chuyện, biểu dương bà ta trong vùng ấy, phong hiệu là Nữ Tông.

          Bác của Lô Biện làm huyện lệnh Hồ Thành. Lô Biện đến thăm ông ta, mộng thấy đến một nơi có mười chiếc cối xay lớn. Bên cối xay có vô số phụ nữ, cối xay luôn tự xoay chuyển. Lính đầu trâu dùng cái ky lớn xúc phụ nữ đổ vào miệng cối, xay rồi nhả ra, xương thịt nát bét, tiếng kêu than đau đớn khó thể chịu đựng nổi. Từ trong đám người ấy, Lô Biện thấy bác gái tức vợ của quan huyện Hồ Thành. Trông thấy nhau, [đôi bên] buồn vui xen lẫn; Lô Biện hỏi những người ấy v́ sao phải chịu tội? Bà ta đáp: “Do phạm tội đố kỵ mà phải đến nơi đây!” Ôi! Quả báo của sự ghen tỵ trong địa ngục là như thế đó, đáng sợ lắm thay!

          Lương Nhân Dụ sủng ái một tỳ nữ, vợ là Lư Thị ghen tuông, ngược đăi cô ta, trói cô tỳ nữ, đánh vào đầu. Tỳ nữ gào thét: “Tôi là hạng đầy tớ kém hèn, bị ràng buộc, chẳng tự do, nương tử gô cổ tôi, đau khổ, tàn độc c̣n ǵ hơn?” Cô tỳ nữ chết hơn một tháng, Lư Thị ngă bệnh, luôn bị [oan hồn của] cô tỳ nữ làm khổ, trên đầu bốn phía đều mọc ung nhọt, gào khóc, rên xiết, thối rữa năo mà chết.

          Đời Tấn, vợ của Giả Sung là Quách Thị tánh hay ghen tuông. Bà ta từng sanh con. Nhũ mẫu ẵm đứa bé, Giả Sung [thừa cơ giả vờ ôm con] để ôm lấy [nhũ mẫu]. Quách Thị bèn giết chết nhũ mẫu, đứa bé nhớ nhũ mẫu, khóc lóc mà chết. Giả Sung rốt cuộc tuyệt tự. Giả Sung là tay đại gian hùng gây hại cho nước nhà; v́ thế, hắn lấy phải bà vợ ghen tuông để rồi ḍng họ tuyệt diệt[26]. Đó là đạo trời vậy, nhưng trong cơi đời, vẫn c̣n không ít kẻ do ghen tuông mà tuyệt tự! Những người đàn bà ghen tuông dẫu chẳng nghĩ tội sâu ác lớn, khó trốn quả báo trong địa ngục, sao chẳng nghĩ nỗi niềm tuyệt tự trước mắt, mộ hoang, hài cốt lưu lạc, hồn phách [vơ vẩn] nơi chốn mộ phần trong đêm mưa dầm gió buốt thê lương, [chỗ chôn cất trở thành] nơi chăn dắt, trâu dê giày xéo? Các tiết Hàn Thực, Thanh Minh, ai dâng chén nước? Chốn đồng hoang cỏ phủ, khói sương, quỷ khóc tỉ tê, là v́ lẽ nào vậy? Buồn bă thay! Tôi nói đến đây, cũng khôn ngăn động ḷng xót xa đau đớn cho những hạng người ấy mà gào khóc, thở dài sườn sượt. Phàm làm thân phụ nữ, hăy sớm kịp suy nghĩ, nhưng tôi lại ngẫm nghĩ: Trường hợp của Giả Sung bị tuyệt tự vốn là do đạo trời [báo ứng], khiến cho mụ vợ ghen tuông xuất hiện trong nhà ấy; cũng là sự xảo diệu của ác báo vậy. Người đàn ông làm chồng há chẳng nên nghĩ tích đức ḥng xoay chuyển ḷng trời, chỉ lo trách móc đàn bà ghen tuông ư?

          Đời Hậu Ngụy, vợ của Đỗ Xương là Liễu Thị hết sức ghen tuông. Có đứa tớ gái tên là Kim Kinh. Đỗ Xương tắm, sai nó cắt tóc; Liễu Thị bèn chặt đứt hai ngón tay của nó. Không lâu sau, Liễu Thị bị hồ ly cào, cắn, rụng mất hai ngón tay. Lại có một tỳ nữ tên là Ngọc Liên có thể ca xướng, Đỗ Xương yêu thích, Liễu Thị bèn cắt lưỡi nó. Về sau, lưỡi của Liễu Thị lở loét, thối rữa. Sự t́nh cấp bách, bà ta liền đến chỗ Trù thiền sư sám hối. Sư dạy: “Phu nhân đă cắt ngón tay của đứa tớ gái, đă bị rụng ngón tay. Bà cắt lưỡi đứa tớ gái, lại bị đứt lưỡi. Chí tâm hối lỗi, sẽ có thể thoát khỏi”. Liễu Thị đảnh lễ, xót xa cầu khẩn. Trải qua bảy ngày, thiền sư bảo bà ta há to miệng, chú nguyện, có hai con rắn từ miệng chui ra, dài hơn cả thước. Sư gấp rút chú nguyện, rắn bèn rơi xuống đất, lưỡi [Liễu Thị] cũng được b́nh phục. Từ đấy, bà ta chẳng c̣n ghen tuông nữa. Phàm người hối lỗi, sửa ác, thần và người đều cùng hoan hỷ. Nếu quư vị đă tạo tác vô biên tội nghiệp, chỉ cần từ nay trở đi hối cải, chẳng tái phạm, tội trước sẽ nhất thời tiêu tan. Câu chuyện này là một chứng cớ rơ rệt. Nh́n vào chuyện này mà hối cải th́ đúng là may mắn to lớn vậy!

          Than ôi! Sự oán hận của phụ nữ chẳng cùng tận, tánh t́nh của phụ nữ dễ kết oán hận nhất. V́ thế, phụ nữ đích thân làm những chuyện độc địa thê thảm, hăm hại ngấm ngầm chẳng thể ngờ được! Chỉ có cách là khi người nữ c̣n chưa gả đi, cha, mẹ, anh em trong gia đ́nh đă khuyên bảo sẵn. Nếu đă gả đi th́ hăy khéo léo kiềm chế cô ta, đừng giúp sức thổi bùng thêm ngọn lửa [ghen tuông], ngơ hầu ḷng ghen tuông sẽ ngưng dứt bớt. Từ đó, chuyện điều đ́nh, cảm hóa lại cậy vào chồng của người ấy. Nếu chồng đắm sắc, công khai dâm uế, đến nỗi vợ nổi cơn sư tử Hà Đông gầm rống, bậc quân tử chỉ kết tội người chồng dâm dật, đấy cũng là đặc biệt tiện nghi cho người vợ đó thôi!

 

          (Chánh văn) Vô hạnh ư thê tử, thất lễ ư cữu cô.

          (正文)無行於妻子。失禮於舅姑。

          (Chánh văn: Đối xử với vợ con không ra ǵ, chẳng lễ phép đối với bố mẹ chồng).

 

          Đối đăi với vợ hăy nên ḥa hoăn, kính trọng. Đối đăi với con cái, hăy nên nghiêm nghị, chánh đáng. Chẳng đối đăi với vợ bằng lễ nghĩa, ắt sẽ đánh mất t́nh nghĩa “phu xướng phụ tùy”. Chẳng dùng đạo để dạy con, ắt sẽ tổn thương ân nghĩa sanh thành, dưỡng dục. Bất nghĩa, chẳng có ḷng từ, đều gọi là “vô hạnh”. Nay [người ta thường là] đối đăi với vợ nếu không khắc bạc, thiếu ân huệ, ắt sẽ suồng să, không chừng mực; đối đăi với con nếu không quá mức nuông chiều, ắt sẽ nghiệt ngă, quở trách quá đáng. Chính ḿnh đă thật sự vô hạnh, c̣n trách móc vợ con nỗi ǵ?

          Đời Hậu Hán, Trương Trạm trang trọng, nghiêm cẩn, chuộng lễ, cư xử ắt cung kính. Mỗi khi gặp vợ con, ắt giảng nói những giáo huấn về lễ, cũng như dùng những lời lẽ tốt lành, hạnh đẹp đẽ để giáo huấn, giống như bậc quân vương trang nghiêm ngự giữa bầy tôi. V́ thế, vợ ông ta [đối với người trong nhà] cũng có thể khuyến khích, đốc thúc lẫn nhau. [Do đó, gia đ́nh Trương Trạm] được tiếng thơm trong làng nước. Tấm gương này thật đáng dùng làm phương pháp tốt đẹp để dạy bảo vợ con.

          Sử Đường khi c̣n hàn vi đă cưới vợ. Đến khi đỗ đạt, hắn tiếc hận không thể cưới con gái nhà giàu làm vợ. Do hối tiếc, hắn ngày càng xa lánh vợ, chẳng c̣n ngủ chung nữa. Bà vợ uất ức thành bệnh. Đă mấy năm, Sử Đường chẳng ngó ngàng tới, vợ cũng nuốt hận. Lâm chung, [vợ ở] cách vách, gọi Sử Đường: “Nay tôi sắp chết, ông nhẫn tâm không ngó ngàng ư?” Sử Đường trọn chẳng đoái hoài. Tới khi vợ đă chết được một năm, cơi âm trách hắn tội bạc ác, bất lương, tước giảm thọ lộc của hắn. Hắn bị bệnh đột ngột mà chết.

          Vương Dao ở Trác Châu nuông chiều hai đứa con trai quá lố, dưỡng chúng thành tánh ác, không thể kiềm chế được, [đành phải] thưa lên quan. Hai đứa con trai đều chết, hắn bèn bị tuyệt hậu. Tới khi Vương Dao chết, vào đêm ngày Rằm tháng Hai năm sau, ông từ giữ miếu Thành Hoàng xứ ấy là Lưu Tiến ngó thấy một người cầm đơn xin được cúng tế vào tiết Thanh Minh. Thành Hoàng giận dữ phán: “Ngươi có con mà chẳng thể dạy, tự chấm dứt gịng dơi, ai có thể cúng bái cho ngươi?” Thành Hoàng sai quỷ tốt đuổi đi. Người ấy khóc to, rời đi. Ngày hôm sau, miếu chủ ḍ hỏi, mới biết là Vương Dao đă chết hơn một năm. Cổ nhân có nói: “Con cái nhà Khổng Tử chẳng biết chửi, con nhà Tăng Tử không biết đấu đá”. Đó là do đă huân tập thành tánh. Lại nói: “Nuôi con em như dưỡng cỏ chi, cỏ lan”. Đă dùng học vấn tích lũy để vun bồi, lại c̣n nhuần thấm chúng bằng những điều thiện đă tích tập. Trong ṿng cha con, chẳng thể nuông chiều những đứa c̣n nhỏ. Từ bé, đă đưa con vào khuôn khổ chặt chẽ, ràng buộc bằng pháp tắc, ắt khi nó lớn lên, sẽ chẳng trở thành hạng không ra ǵ! Lại nói: “Người có mấy đứa con, đối với chuyện ăn uống, quần áo, chớ nên không [chia sẻ] đồng đều. Chớ nên không giữ nghiêm vai vế và tôn ty giữa người lớn và trẻ nhỏ. Hiền, ngu, đúng, sai khác biệt, chẳng thể không biện định. Từ bé, đă thể hiện sự đồng đều, ắt chẳng lo chúng lớn lên, sẽ tranh chấp tài sản. Từ bé đă bị trách phạt nghiêm ngặt, ắt chẳng lo lớn lên, con sẽ trái nghịch, khinh mạn. Từ bé đă dạy con phân biệt [thiện, ác, đúng, sai, hiền, ngu], ắt chẳng lo lớn lên, con sẽ thành phường trộm cướp”. Gộp chung những điều vừa nói trên đây, mọi người cũng sẽ biết pháp tắc [nuôi dạy con]!

          Vợ phụng sự bố mẹ chồng giống hệt như con cái phụng sự bố mẹ ruột. Mềm mỏng, vẻ mặt tươi vui, ăn nói nhẹ nhàng. Thông cảm nỗi lạnh, nóng, quan tâm bệnh tật, đau ngứa của [bố mẹ chồng]. Họ ra vào, ta đều đến nâng đỡ. Nếu thất lễ đôi chút, sẽ là bất hiếu, tội ác ngập trời, lửa sét sẽ lập tức tru diệt! Ôi! Tôi c̣n nói cao hơn nữa, vợ đối với bố mẹ chồng là sự kết hợp do mối quan hệ giữa con người với nhau; con cái đối với cha mẹ là sự kết hợp bởi t́nh thiên luân. Trước nay, con bất hiếu với cha mẹ, mà vợ lại riêng một niềm hiếu thảo với bố mẹ chồng, tôi trộm sợ rằng chẳng hề có lẽ ấy! V́ thế, kẻ làm vợ mà thất lễ, đều là do kẻ làm con [chẳng hiếu thảo với bố mẹ] mà ra vậy. Thần tru diệt, quỷ quở trách, há chuyên trách phạt kẻ làm vợ mà thôi ư? Mong trọn khắp những kẻ làm con hăy suy nghĩ!

          Ngày Hai Mươi Hai tháng Ba năm Sùng Trinh thứ năm (1632) đời Minh, tại huyện Sơn Dương ở Hoài An, vợ của Mao Kế Tông là Phùng Thị bẩm tánh chí hiếu. Mẹ chồng tuổi cao, bệnh t́nh nguy ngập, ông Mao lại phải vận lương vào kinh thành. Vợ bèn tắm rửa, thay quần áo, trong đêm tối thỉnh cầu trời cao cho ḿnh chết thay. Vợ cầm đao đâm vào hông, đầu gan ló ra. Bỗng nghe con gọi, cô ta sợ con làm kinh động mẹ chồng tỉnh giấc, bèn lấy chiếc khăn che vết thương, vào vỗ về đứa con. Lại lo một chút gan không đủ chữa lành, bèn kiền thành cầu nguyện để mổ lần nữa. Khi ấy, trăng c̣n chưa mọc, trời bỗng sáng sạch, các ngôi sao đều chói ngời, chiếu vào thân người vợ, sáng trưng như ban ngày. Vợ rạch bụng lấy được một miếng gan, liền tức thời nấu canh dâng cho mẹ chồng ăn. Mẹ chồng vừa mới nếm canh, liền cảm thấy canh thơm ngọt dị thường, bèn hỏi là vật ǵ? Vợ nói trại đi là nhà hàng xóm bắt được con nai, đây là gan nai. Mẹ chồng ăn hết, bệnh theo đó được khỏi hẳn. Khi ấy, cô ta do ḷng chí thành cảm vời, vết thương không đau, nhưng khó giấu vết máu, bị em chồng phát hiện, cả nhà kinh hăi, truyền tụng. Mẹ chồng mới biết con dâu cứu ḿnh, khóc rống, cảm kích tấm ḷng thương yêu của con dâu. Nhất thời, các sĩ phu trong làng hợp sức viết sớ tâu lên triều đ́nh, nhưng do bị bọn quan nha đ̣i hỏi [tiền lót tay], chẳng thể tâu lên thiên tử. May mà có chư sanh Giang Thiên Nhất ở Huy Châu viết thành bộ Kỳ Hiếu Kinh Thiên Tập để truyền tụng chuyện này!

          Đời Tống, Giả Đam làm Tiết Độ Sứ ở Hoạt Châu. Khi ấy, có một người đàn bà dân dă, phụng sự mẹ chồng bất hiếu. Mẹ chồng tuổi già, mắt ḷa, mụ ta cho mẹ chồng ăn thức ăn bẩn. Mẹ chồng thấy đồ ăn có vị lạ, [nhằm lúc] con trai từ bên ngoài trở về, mẹ chồng đem thức ăn hỏi con. Đứa con trông thấy, ngửa mặt lên trời khóc lớn. Bỗng sấm sét ầm ầm giáng xuống, chặt phăng đầu mụ vợ, gắn đầu chó vào đấy. Giả Đam biết chuyện, sai dắt mụ ta đi khắp trong vùng nhằm cảnh tỉnh phường bất hiếu. Than ôi! Người thời nay cứ hở ra là bảo “tánh phụ nữ như nước, chẳng thể lập tức dạy được”. Nói kiểu ấy sao mà vô lư quá đáng vậy? Những kẻ đang c̣n là con gái [chưa chồng] trong hiện thời, cha mẹ đă đánh mất phương cách nuôi dạy, đến khi những người nữ ấy làm vợ, chồng lại ngu đần chẳng biết sự lợi ích của việc nêu gương mẫu tốt đẹp [cho vợ học theo], sẽ liền cảm thấy vợ mang thói ác ngỗ nghịch, dâm đăng, đố kỵ, chẳng thể khống chế. Nếu như người làm cha mẹ, [đối với con gái] từ thuở bé cho đến tuổi cài trâm, [thường luôn] dùng sự hiếu kính, nhu thuận để chỉ bảo, hướng dẫn cái tâm của con, [th́ mai sau con gái ḿnh] dẫu được gả làm vợ một thằng chồng bất tài, con cũng có thể tự biết cách thành gia lập nghiệp. Huống hồ là được gả cho người thông hiểu lễ pháp, lại c̣n là bậc quân tử hiếu, đễ, thiện lương ư? Dạy con gái cũng như dạy con trai đều phải coi trọng; cố nhiên phải bảo ban lời này trọn khắp thiên hạ!

         

          (Chánh văn) Khinh mạn tiên linh, vi nghịch thượng mạng.

          (正文)輕慢先靈。違逆上命。

          (Chánh văn: Khinh rẻ hương linh tổ tiên. Vi phạm mạng lệnh của bề trên).

         

          “Tiên linh” (先靈) là hương linh tổ tiên. Phàm tẫn liệm vô lễ, cư tang không theo chế định của lễ nghi, chẳng nhanh chóng an táng, trai giới, cúng quải chẳng có ḷng thành, chẳng siêng năng thăm viếng, quét dọn mộ phần, miếu thờ (chỗ thờ phụng) không ngăn nắp, hương đèn khi có khi không, đều là khinh mạn! Ôi! Nguồn nước, cội cây, há dám quên bẵng? Nếu kẻ nào phạm sai sót đối với chuyện này, tôi chẳng biết nên gọi hạng người ấy là ǵ nữa?

          Đời Lương, Thái Tử Chiêu Minh (Tiêu Thống) bẩm tánh nhân từ, hiếu thảo. Mẹ ruột của ông là bà quư tần họ Đinh (Đinh Lệnh Quang) mất, [Thái Tử] chẳng uống nước hay canh, thường khóc ngất đi. Lương Vũ Đế khuyên nhủ: “[Người đă mất, thân thể] hủy hoại, nhưng bản tánh bất diệt. Có ta c̣n đây, con há có nên như thế”. Thái Tử mới miễn cưỡng uống mấy hớp. Từ ngày ấy cho đến khi an táng mẹ, mỗi ngày chỉ dùng một thưng cháo mạch. Thân thể Thái Tử vốn tráng kiện, eo to lớn. Cho đến khi ấy (an táng xong xuôi), giảm mất quá nửa. Mỗi khi vào triều, các quan và dân chúng trông thấy, không ai chẳng ứa lệ.

          Trần Cảo do đă đậu Cống Sanh bèn tới kinh đô. Anh ta đến miếu thờ thần cầu xin thần giáng mộng, mộng thấy thần nói: “Quan tài của cha ngươi chưa hạ táng, chẳng thể hỏi đến chuyện đỗ đạt được!” Trần Cảo chưa tin. Năm sau, anh ta thi trượt khóa thi Hội, bèn trở về, vội vă lo an táng xong xuôi. Lại đi thi, mới thi đỗ. Công Quá Cách chép: “Cha mẹ mất mà ba năm chưa chôn, [cứ tính] mỗi tháng chậm trễ là mười lỗi. Chôn cất mà không trọn hết tâm lực, hoặc là đến nỗi [để cho di thể của cha mẹ] bị hư hoại, phạm một trăm lỗi. Sau khi đă nhận biết mà không sửa đổi, [cứ tính] mỗi ngày chậm trễ là mười lỗi”. Sách c̣n chép: “Bỏ sót chuyện cúng giỗ tổ tiên, bất kính th́ tính là một lỗi. Nếu do vui chơi mà bỏ sót ngày giỗ th́ tính [lỗi] gấp năm lần”.

          Đặng Tả Danh mỗi lần tảo mộ, ắt sẽ lưu lại đó cho đến ngày hôm sau mới về. Ông nói: “Trong ṿng một năm, đến đây được mấy ngày, tôi không nỡ ḷng bỏ đi ngay”. Lời nói chí t́nh thay! Thế tục hiện thời mỗi năm vào dịp tết nhất hoặc tiết Thanh Minh mới đến nơi phần mộ một lần; ngoài ra, để mặc cho người thân nơi g̣ hoang chẳng hỏi tới! Lúc cúng tế th́ đại khái là cùng với anh em, thân hữu tận t́nh vui chơi, ngắm cảnh, vui sướng hết ḿnh rồi về. Vào dịp tết nhất, chẳng phải nhằm quét dọn lá tùng [phủ đầy trên mộ], mà chỉ là thưởng thức hoa mai. Thanh Minh chẳng phải là đến thăm mộ, chỉ là dự hội Đạp Thanh[27]. Chao ơi! Chẳng dùng bổng lộc phụng dưỡng song thân, mà cứ ôm vợ con th́ có lợi ích ǵ? Lúc sống chẳng dâng chén cơm bát nước đơn sơ, mất rồi bày cỗ bàn la liệt để làm ǵ?

          Bầy tôi nghe theo lệnh vua. Con nghe theo lệnh cha mẹ. Đệ tử nghe theo lời thầy. Phàm hết thảy những kẻ thuộc phận dưới, nghe theo lệnh của người trên, đều gọi là “thượng mạng”. Nếu xét theo đạo nghĩa, chẳng thể thi hành [mạng lệnh ấy], cũng nên uyển chuyển [thưa bày khiến cho người bề trên bị] cảm động. Trước hết, xin hăy dâng lời can ngăn, [thưa tŕnh nguyên do] chẳng dám vâng theo lệnh ấy. Nếu xét theo đạo nghĩa [là chuyện] đáng nên làm mà chẳng dốc hết sức vâng làm, đă là có tội, huống là trái nghịch ư? Kẻ trái nghịch chính là khởi nguồn của phường loạn thần tặc tử vậy!

          Đời Minh, Đào An là người huyện Đương Đồ. Minh Thái Tổ sai ông ta trông coi Hoàng Châu, phủ dụ rằng: “Ngươi hăy khéo vỗ về dân chúng”. Đào An kính cẩn vâng theo lệnh trên. Khi tới quận, ông miễn trừ thuế khóa, giảm nhẹ những việc lao dịch rườm rà, siêng năng giáo huấn các quan [cấp dưới], giảm nhẹ trừng phạt, dân chúng đều vui vẻ khâm phục. Ông lại được triệu về kinh làm Học Sĩ, đổi sang làm chức Giang Tây Hành Tỉnh, Tham Tri Chánh Sự. Không chuyện ǵ chẳng tận tâm kiệt lực châu toàn lệnh trên. Đào An mất, vua đích thân soạn bài văn tế, tặng thụy hiệu, cho con ông ta được tập ấm. Con cháu ông đều đỗ đạt, đạt tới địa vị khanh tá (卿佐, địa vị chấp chánh phù tá đại thần). Những kẻ nay được làm người chăm nom dân đen, đều là cậy vào mạng lệnh của hoàng đế, thế mà họ bạo ngược tàn khốc đối với sanh linh, tàn hại dân chúng, trọn chẳng thấu hiểu tấm ḷng nuôi dạy của đức vua ta. Cái tội trái nghịch không chi hơn được tội này! Cố nhiên là dân chúng chẳng thể làm ǵ được họ, nào có biết trời cao soi thấu chẳng xa. Chẳng thể ngược đăi dân, chẳng thể dối lừa trời cao đâu nhé!

 

          (Chánh văn) Tác vi vô ích, hoài hiệp ngoại tâm.

          (正文)作為無益。懷挾外心。

          (Chánh văn: Làm chuyện vô ích. Ngầm đổi ḷng thay dạ).

         

          Vạn sự trong thế gian, chớp mắt đă thành rỗng không. Chỉ có những chuyện như tích đức, hành thiện, dấy điều lợi, trừ điều hại v.v… là đời đời kiếp kiếp thân luôn được thọ dụng, chẳng có cùng tận. Những thứ khác như dinh thự, nhà cửa, đài, ao, áo cơm, xe ngựa, cùng với hết thảy những thứ thơ, họa, những món đồ trân ngoạn đều đủ khiến cho người ta suy sụp chí hướng, thân thể phiền lụy, có ích lợi ǵ đâu? C̣n như treo đèn diễn tuồng, hát ḥ, uống rượu, chơi xu bồ[28], đánh bạc, cờ vây… há chỉ là vô ích, mà c̣n gây hại to tát, hăy cật lực răn dè!

          Đời Tống, Trương Vịnh trấn thủ Thành Đô. Ông lo dân chúng v́ khó kiếm ăn sẽ trộm cướp, cho nên mỗi năm trích từ tiền thuế ruộng thu từ các huyện để mua sáu vạn hộc gạo. Tới mùa Xuân, dựa theo sổ sách [ghi chép] cặn kẽ về dân chúng, tính theo số người trong mỗi nhà để cấp phiếu [mua gạo], [nhà kho của chánh quyền sẽ] chiếu theo giá gốc để bán ra. Do vậy, dẫu gặp năm mất mùa, cũng chẳng đến nỗi quá đói.

          Trần Nghiêu Tá làm Tào Vận tại Quảng Nam. Phong tục xứ ấy là không uống thuốc. Hễ bị bệnh bèn cầu khẩn quỷ, đa số là bị chết. Ông sưu tập những bài thuốc có hiệu nghiệm gia truyền cho khắc lên đá nơi dịch trạm, quán xá; do vậy, thổ dân (dân chúng nơi ấy) được nhờ.

          Vương Địch làm tri phủ Thành Đô, dân chúng phần nhiều hỏa táng, ông tận lực ngăn cấm, dùng đất công để lập nghĩa địa thí, chôn cất những người chưa được an táng. Nơi ấy chẳng c̣n lệ hỏa táng nữa.

          Tô Thức làm tri phủ Hàng Châu, đă cho vét sâu hai con sông, sửa chữa sáu cái giếng, đắp đê dài trồng liễu để ngăn lũ lụt. Do vậy, dân chúng đặt tên cho cái đê ấy là Tô Công Đề (蘇公堤, đê ông Tô).

          Dụ Trọng Khoan làm tri phủ Thuận Xương. Tục lệ xứ ấy hay d́m chết con gái. Ông soạn bài văn khuyên răn, triệu tập phụ lăo tới dinh tri phủ, ân cần thăm hỏi, lại lấy bài văn ấy để khuyên lơn. Hủ tục ấy bèn được biến đổi.

          Trên đây, đều là những tấm gương tạo lợi ích cho người khác. Do vậy, ta biết bậc quân tử xử thế cốt sao hữu ích cho người, cho vật, há chỉ bàn suông chuyện cao xa, chẳng hề thực tế ư? C̣n như chúng ta tu thân, giữ ḿnh chánh đáng, bớt lỗi, trừ sai, thật sự là chẳng đủ thời gian mà sự việc vẫn ê hề ra đó, há có các thứ hành vi vô ích xằng bậy ư? Chẳng biết huyễn thân huyễn cảnh bỗng dưng lâm vào cảnh tan diệt, chỉ có tánh viên minh là thường c̣n muôn kiếp, vốn chẳng có sanh diệt. Người thời nay tiêu phí thời gian vă nước cho ướt bùn (làm chuyện vô ích), sao chẳng hướng vào đây để dụng công dốc sức đôi chút vậy thay?

          Bầy tôi lừa dối vua, con ngỗ nghịch cha mẹ, vợ phản bội chồng, anh em xâm phạm lẫn nhau, bạn bè khuynh đảo lẫn nhau, đều là do cái tâm rong ruổi theo ngoại cảnh sai khiến. Nhưng chẳng đợi đến khi cái tâm ấy thể hiện ra hành động, hễ có mảy may ư niệm chớm động, người chưa biết mà quỷ thần đă biết rành rành cái tâm ấy!         

          Đời Tống, Tần Cối âm mưu thông đồng với người Kim, tận lực chủ trương ḥa nghị. Các tướng hễ chiến trận hơi thắng thế, ngay lập tức, hắn hạ lệnh giục giă họ rút quân; những thành thị, quận huyện vừa đoạt lại [từ tay quân Kim] lập tức bị vây hăm, thất thủ. Hắn lại giết chết Nhạc Phi trong ngục. Về sau, có người vào cơi âm, thấy Tần Cối ở trong địa ngục Vô Gián. Nay ở trước mộ phần Nhạc Vương ở Hàng Châu, có tượng sắt của vợ chồng Tần Cối quỳ trước đó. Người đến viếng thường đánh đập tượng đó và vẩy nước tiểu lên tượng để trút bớt nỗi hận!

          Đời Minh, có gă dân tên X… ở Việt Trung đối với vợ t́nh cảm rất thắm thiết. [Thế mà] vợ hắn lại hâm mộ đứa thiếu niên hàng xóm, luôn mắt đi mày lại với nó. Dẫu ở cùng nhà với chồng, mà ḷng cô ả luôn tơ tưởng đứa thiếu niên ấy. Về sau, người chồng bị bệnh mất. Chưa măn tang mà ả ta đă tái giá. Đến đêm, ả liền mộng thấy chồng đến bảo: “Ta chết mà nàng tái giá, ta chẳng trách móc ǵ. Ta hăy c̣n sống mà nàng đă mang tâm tơ tưởng người ngoài, chuyện này thật đáng hận”. Bèn cầm chùy sắt đập vào lưng vợ, ả ta ngay lập tức ói máu mà chết.

 

          (Chánh văn) Tự chú, chú tha, thiên tăng, thiên ái.

          (正文)自咒咒他。偏憎偏愛。

          (Chánh văn: Rủa ḿnh, rủa người. Yêu ghét thiên vị).

 

          Câu này nhằm nói đến chuyện nguyền rủa mà chẳng t́m được lư do chánh đáng nào! “Hễ giận dữ mà tự nguyền rủa chính ḿnh, lại c̣n nguyền rủa người khác” sẽ thuộc vào phạm vi của lời răn này. Đấy chính là điềm báo trước kẻ tiểu nhân hoặc phụ nữ sẽ chuốc họa, thường là chẳng đợi đến chết, mà là ngay lập tức đúng như lời nguyền, há chẳng nên kiêng dè ư?

          Vợ của Yển Điển từng lén tằng tịu với kẻ khác, lại ăn trộm một chiếc khăn tay từ nhà hàng xóm. Hàng xóm chửi bới, Yển Điển bèn tự nguyền rủa, rủa người khác như sau: “Nếu vợ tao thật sự tằng tịu với thằng khác, và ăn trộm khăn tay của mày, tao sẽ bị sét đánh. Nếu không, ắt mày sẽ bị gánh lấy!” Không lâu sau, Yển Điển chết dưới lưỡi búa của thiên lôi. Dưới hông có chữ viết: “Gă si che chở cho vợ”. Vợ hắn cũng bị sét đánh chết. Dưới hông cũng có chữ ghi rằng: “Hành gian, trộm cắp”.

          Đời Châu, Tử Hăn[29] nước Trịnh nói: - Hễ có nguyền rủa th́ chính là căn bản của sự rối loạn. Sanh tử có số mạng định sẵn; chẳng phải là do yêu mà có thể sống, há có lẽ nào do ghét mà chết được ư? Nay có kẻ tự rủa ḿnh, rủa người, mê hoặc quá đỗi, ngu muội quá đỗi!

          Phạm vi của “thiên tăng, thiên ái” (yêu ghét thiên vị) rất rộng. Phàm vua đối với bầy tôi, cha đối với con, chồng đối với thê thiếp, chủ đối với tôi tớ, đều có [chuyện yêu ghét thiên vị]; chỉ có trong ṿng vợ trước, vợ sau, vợ cả, vợ lẽ nơi phụ nữ là nặng nề nhất. Do vậy, xưa kia Tăng Tử sau khi chôn vợ, suốt đời chẳng cưới vợ mới. Ông nói: “Cao Tông[30] v́ vợ sau mà giết [con ruột ḿnh là] Hiếu Kỷ. Quan lệnh doăn Cát Phủ[31] v́ vợ sau mà giết [con ruột là] Bá Kỳ. Ta trên là chẳng sánh bằng Cao Tông, giữa là chẳng thể sánh bằng Cát Phủ, sao có thể chẳng phạm sai lầm cho được?” Lành thay! Đấy là v́ sợ ḷng yêu ghét thiên vị mà giữ vẹn ân t́nh của người làm cha vậy. Thế nhưng, vợ đă chết, chẳng tục huyền, xét về mặt t́nh người khó khăn lắm. Chỉ mong sao sau khi tục huyền, luôn có thể lănh hội [thâm ư] trong lời nói của Tăng Tử, ngơ hầu chẳng đến nỗi phạm sai lầm to tát vậy!      Vợ trước của Từ Giáp ở Đông Hải là Hứa Thị sanh được một con trai, đặt tên là Thiết Cữu (鐵臼, cối sắt). Hứa Thị chết, Từ Giáp lại lấy Trần Thị. Mụ ta tánh hung dữ, đố kỵ, muốn giết con của vợ trước. Trần Thị sanh một đứa con trai, do vậy, đặt tên là Thiết Xử (鐵杵, chày sắt), [hàm ư] muốn giă nát cối. Thiết Cữu luôn bị đánh đập, chết v́ đói rét. Khi đó, [Thiết Cữu] mười sáu tuổi. Sau khi chết được hơn mười ngày, quỷ hồn bỗng trở về nhà, bảo: “Ta là Thiết Cữu. Mẹ ta đă kêu oan trên trời, đă được thiên tào ban lệnh phù rửa sạch nỗi hận, muốn làm cho Thiết Xử bệnh tật mà chết, giống hệt như ta khi phải chịu đựng nỗi khổ vậy”. Trần Thị trăm kế cầu đảo, cúng bái [ḥng thoát nạn], [hồn Thiết Cữu] chẳng rời đi. Khi ấy, Thiết Xử mới sáu tuổi, bỗng bụng trương phềnh, thân thể đau đớn, khắp thân tím bầm rồi chết!

          Vào đời Châu, từ mẫu (người mẹ hiền từ) nước Ngụy vốn là con gái của Mạnh Dương, là vợ sau của Mang Măo, sanh ba đứa con. Vợ trước có năm đứa con. Chúng nó đều chẳng yêu mến mẹ kế, nhưng mẹ kế đối xử hết sức nồng hậu. Năm đứa con ấy vẫn không yêu mến mẹ kế. Từ mẫu bèn giữ cho ba đứa con ruột của ḿnh không bằng con vợ trước: Quần áo, thức ăn, sanh hoạt đều thua kém rất xa. Năm đứa con của vợ trước vẫn chẳng yêu mến mẹ kế. Chẳng lâu sau, có một đứa con của vợ trước vi phạm lệnh cấm của vua nước Ngụy, mắc tội sắp bị xử tử. Từ mẫu buồn rầu, đau xót, sớm chiều chịu đựng nhọc nhằn t́m cách cứu nó. Có người bảo: “Con chẳng yêu thương mẹ quá đáng. Việc ǵ phải vất vả, lo sợ như thế?” Từ mẫu đáp: “Con ruột của thiếp tuy chẳng yêu mến thiếp, thiếp ắt cứu văn tai họa, trừ tội cho nó. Nay đối với con vợ trước, nếu không làm như vậy, [chúng nó] có khác ǵ không có mẹ? Cha chúng nó v́ thấy chúng nó côi cút, chọn thiếp làm mẹ kế. Mẹ kế là mẹ của người ta, mà chẳng yêu thương con chồng, có thể gọi là nhân từ hay chăng? Thân thiết với con ruột, lơ là con vợ trước, có thể nói là nghĩa hay chăng? Bất từ, bất nghĩa, làm sao đứng trong cơi đời được nữa? Tuy chúng nó chẳng yêu thương thiếp, thiếp há nên quên nghĩa ư?” Bà bèn đến thuyết phục vua Ngụy, vua coi trọng lời nghị luận của bà, bèn xá tội, cho đứa con ấy trở về nhà. Từ đó, năm đứa con thân thiết, kề cận từ mẫu, ḥa thuận [với các em] như con cùng một mẹ. Do vậy, bà dùng lễ nghĩa dạy bảo tám đứa con, chúng đều trở thành hạng đại phu hoặc khanh sĩ của nước Ngụy.

 

          (Chánh văn) Việt tỉnh, việt táo, khiêu thực, khiêu nhân.

          (正文)越井越灶。跳食跳人。

          (Chánh văn: Nhảy qua giếng và bếp ḷ. Nhảy qua thức ăn, nhảy qua người khác).

 

          “Việt” () là nhảy qua. Giếng giúp đỡ, có lợi cho con người rất rộng, có thần suối trông coi, tên là Quán (), h́nh dạng như mỹ nữ. Hơn nữa, nước trong giếng đă lợi lạc, nhuần thấm quần sanh, [nước giếng] lại c̣n dùng để cúng thần, cúng Phật, há có nên khinh nhờn? Táo Quân là một trong năm vị thần[32] trong nhà. Ông ta là Thái Ất Hỏa Thần, họ Trương, tên Trác, tự là Tử Quách, chưởng quản vận mạng tốt xấu của cả một nhà, chuyên xem xét thiện, ác, hay, dở [của mỗi thành viên trong một gia đ́nh], báo trước cát, hung, họa, phước. Nhảy qua [giếng hoặc bếp ḷ] chính là khinh mạn, lăng nhục thần linh, tội ấy rất lớn! Không chỉ nhảy vượt qua, mà ngồi trên bờ giếng, giẫm đạp miệng ḷ, thiêu đốt những vật dơ bẩn trong ḷ, sẽ đều là xúc phạm, ô uế [thần linh] vậy!

          Trương Hiếu Tiên mỗi lúc say rượu thích cùng kẻ khác nhảy qua giếng để đùa giỡn. Một hôm, trong giếng có một vị thần kim giáp cầm mâu đâm hắn. Bụng Hiếu Tiên hết sức đau đớn, luôn như bị mũi thương đâm trúng. Hắn kiền thành cầu đảo mới lành bệnh.

          Đời Thanh, Ngô Trạm làm nha lại ở huyện, nhà ở gần Kinh Khê. Kinh Khê có một con suối, nước hết sức trong, mọi người đều nhờ vào [con suối ấy mà có nước để dùng]. Ngô Trạm dựng hàng rào trúc để bảo vệ, không cho những thứ bẩn thỉu rớt xuống suối. Bỗng ở bên cạnh suối, ông nhặt được một con ốc trắng, bèn bỏ nó trong ṿ. Mỗi lần ông ra ngoài, trở về, thấy trong bếp cơm nước đă chuẩn bị sẵn, tâm hết sức lấy làm lạ. Một ngày lén ŕnh, th́ ra là một cô gái từ trong con ốc chui ra, ra tay dọn dẹp, nấu nướng. Ngô Trạm vội chạy tới, cô gái hết sức lúng túng, [bị ông ngăn cản] chẳng cho trở vào vỏ ốc, bèn nói thật với Ngô Trạm: “Tôi là thần suối. Thượng Đế v́ thấy ông kính trọng, bảo vệ nguồn nước, lại biết ông ở góa, sai tôi lo liệu cơm nước cho ông. Ông ăn cơm do tôi nấu sẽ đắc đạo”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa!

          Đời Hán, Âm Tử Phương là người chí hiếu, lại rất nhân từ, nồng hậu. Nhằm ngày mồng Tám tháng Chạp, đang nấu bữa sáng, bỗng thấy Táo Quân hiện ra trước mặt, Tử Phương vội lạy. [Từ đó], mỗi dịp mồng Tám tháng Chạp, ông đều cúng bái. Kể từ đó, giàu to ngang ngửa với vua. Tới đời cháu là Âm Thức, có đứa con gái được chọn làm Hoàng Hậu, [Âm Thức] bèn được phong tước hầu. Do vậy, con cháu họ Âm đời đời thờ phụng ông Táo.

          Hướng Lẫm tánh t́nh giống như cuồng. Một hôm, hắn ngồi trên nóc của căn nhà gỗ ở phía Bắc bếp ḷ, mộng thấy Táo Quân quở trách. Nhà hắn lập tức phá tán.

          Thức ăn là thứ để nuôi nấng tánh mạng, con người là một trong Tam Tài, há có nên khinh rẻ, coi thường ư? Nếu nhảy vượt qua, sẽ là tội lỗi, há chẳng kiêng tránh ư?

          Đời Đường, có một viên quan vào núi, đến chỗ hoang vắng, thấy một tửu điếm, bèn mua rượu uống. Một người đàn bà thâu tiền trước rồi mới vào trong. Hồi lâu sau mới đem rượu ra. Rượu sắc đỏ như máu, uống vào hết sức ngọt ngào, [viên quan] muốn uống nữa. Người đàn bà khóc, thưa rằng: “Thiếp chẳng phải là người sống. Do lúc c̣n sống, tiêu dùng xa xỉ vô độ, uống rượu chẳng biết giữ chừng mực, thường giẫm đạp canh thừa, thịt dư rồi cho người khác ăn. V́ thế, hứng chịu quả báo này. Mỗi lần có người mua rượu, liền lấy máu trên thân thiếp dâng ra”. Vị quan ấy hết sức kinh hăi, quay về. Trên núi cao làm sao có quán rượu cho được? Tôi cho rằng vị quan ấy vốn sẵn thói khinh rẻ đồ ăn thức uống, cho nên âm ty mượn cảnh ấy để điểm hóa vậy!

          Đời Tống, Trạch Lâm từng đưa tiễn tiên sinh Chánh Thúc (Tŕnh Di) dời sang phía Tây. Trên đường, ngủ lại ở tăng xá, chỗ ngồi ngẫu nhiên xoay lưng vào thánh tượng. Tiên sinh bảo: “Ông hăy chuyển ghế, đừng ngồi xoay lưng vào tượng!” Trạch Lâm nói: “Há có nên v́ tín đồ của họ cung kính, mà [chúng ta] cũng nên cung kính ư?” Tiên sinh đáp: “Phàm những ǵ có h́nh mạo con người đầy đủ, đều chớ nên khinh mạn”. Tiên sinh Quy Sơn (Dương Thời) nghe chuyện, hết sức tán thưởng lời ấy, vui mừng nói: “Thấy giống như người mà c̣n chẳng dám khinh thường, ắt sẽ có thể thấy đối với người sẽ là như thế nào!” Phàm là xoay lưng vào mà c̣n chẳng nên, huống hồ là nhảy qua ư?

         

          (Chánh văn) Tổn tử đọa thai, hành đa ẩn tịch.

          (正文)損子墮胎。行多隱僻。

          (Chánh văn: Tổn hại con cái, phá thai. Làm nhiều chuyện ám muội).

 

          Thân người quư nhất, được làm thân người khó nhất. Đức Phật bảo khi con người sắp sanh ra, có cửu thiên tư mă hiện diện, cửu thiên đều chúc mừng, Thái Ất cầm phù mạng, Đế Quân phẩm định mạng vận, vị quan coi sổ sách ghi chép vào sổ. Vị thần Tư Mạng tính toán thọ mạng, Ngũ Đế giám sát sanh mạng, thánh mẫu bảo vệ, che chở [sản phụ trong pḥng sanh][33]. Các vị thiên chân, địa kỳ pḥng thủ cẩn mật tam giới, [đă canh giữ nghiêm mật như thế rồi] mới được sanh vào nhân đạo, được phô thân h́nh dưới ánh mặt trời, [đúng là] chuyện kinh trời động đất, quư khôn kể xiết! [Sanh mạng nhỏ bé ấy có] phụ bạc quư vị nỗi ǵ, sao lại dám giết hại chúng? Kẻ nữ dâm bôn đă mang thai bèn phá thai, chẳng bằng cầm thú, không cách nào khuyên nhủ được! C̣n như có kẻ nhà nghèo, chán ngán con cái đông đúc, hoặc là con đă sanh ra bèn gây thương tổn [cho nó chết đi], hoặc là con chưa sanh ra bèn phá thai, tội nghiệp giết người chẳng thể sám hối, chuộc lỗi được! [Đối với] sanh mạng của loài vật bé nhỏ nhất c̣n mong phóng sanh, kiêng giết, huống hồ con cái ư? Nay những kẻ suốt đời không có con, hoặc sanh con mà chẳng nuôi được, hoặc đến tuổi già, đâm ra con chết trước, đều là quả báo do đời trước đă tạo ra các ác nghiệp ấy mà chuốc phải.

          Huyện lệnh Quư Khê là Tiền Bang Vỹ do thấy [dân chúng trong vùng] quen thói hễ sanh con gái, phần nhiều chẳng nuôi, ông bèn dạy họ đạo nghĩa chánh đáng, lại c̣n thưởng phạt nghiêm ngặt: “Kẻ giết con gái sẽ khiến cho năm nhà hàng xóm bị liên lụy”. Do vậy, cứu sống chẳng kể xiết [những bé gái sơ sanh]. Về sau, Bang Vỹ làm Thái Thú ở Đinh Châu, hưởng thượng thọ, con cháu đều hưng thịnh. Phàm nghiêm cấm tổn hại con cái và phá thai đạt được báo ứng như thế, người thời nay hăy nên luôn khuyên nhủ, công ấy cũng chẳng nhỏ nhặt đâu nhé!  

          Quách Ấn có đứa con gái tên là Dẫn Phượng bị hai con quỷ truy bắt, dẫn qua khắp mười tám ngục. Trong ngục cuối cùng, có một vị vương giả ngồi trên điện, phía dưới là mấy trăm người đàn bà, ai nấy đều có trẻ nhỏ đang ôm chân họ gào khóc đ̣i mạng. Có kẻ v́ sanh nhiều con gái mà d́m chết [trẻ gái] mới sanh. Có kẻ v́ nhà nghèo, sanh ra [con gái] bèn chẳng nuôi. Có kẻ v́ vợ cả ghen tuông vợ lẽ sẽ sanh con mà đánh đập đến nỗi [vợ lẽ bị] sẩy thai. Có kẻ v́ chửa hoang bèn tự dùng thuốc độc [giết chết thai nhi]. Có kẻ v́ đấu đá, bị va chạm mà tổn hại thai. Có kẻ v́ giận con khóc nhè mà đánh, mà quăng đến nỗi làm chết con. Có kẻ v́ trông trẻ không cẩn thận, khiến cho con chẳng do yểu mạng [mà bị chết oan]. Vị vương giả cật vấn từng người một, không ai chẳng mang gông đeo cùm trên thân, [thân h́nh] quắt queo đáng thương. Dẫn Phượng đă trở về, bèn kể đầy đủ với cha. Do đó, ông bèn cho viết lại chữ to trên vách chùa Thiên Ninh để răn đời.

          Người đàn bà tên Dương A Thặng từ bé đă nghèo nàn, bệnh tật. Đến tuổi già càng chật vật. Lâm chung, tự nói: “Đời trước, ta vốn là một thầy thuốc. Do không tra hỏi tường tận, có một phụ nữ tự nói bị bệnh do trúng cổ độc, ta chẳng biết là cô ta có thai, liền cho uống rượu Nguyên Hoa[34]. Cô ta và hai đứa con trong bụng đều chết, tức là ta đă giết chết ba người một lượt. Quan cơi âm bắt tội ta, chịu khổ đă măn, lại bị phạt làm thân nữ, đến nay đă là ba lần. Đời đời luôn luôn là kẻ tôi tớ hèn hạ, luôn bị khốn khổ v́ đói khát, lắm bệnh, ít được an vui. Khuyên những người làm nghề y trong cơi đời, hăy lấy ta làm gương”. Nói xong bèn chết.

          Văn Xương Đế Quân nói: “Kẻ làm con bất hiếu, ắt có luật trời tru lục. Vô tội giết con chính là giết nhân dân trong thiên hạ. Hơn nữa, người ta muốn giết con, sao chẳng tiết dục, mà lại dám giết người chẳng màng! Trong đời này, hạng người như vậy há có thể bảo đảm là không có! Ta thấy những kẻ chịu tội trong chốn Phong Đô phạm lỗi này thật đông! Hăy gấp cùng nhau tỉnh ngộ, để khỏi nhanh chóng bị trời phạt”.

          Bài Giới Nịch Nữ Ca (戒溺女歌, bài ca khuyên kiêng d́m chết con gái) của Hà Long Đồ có nói:

          - Cọp sói tánh ác nhất, vẫn biết có cha con. Người linh nhất muôn vật, hiềm rằng chẳng bằng chúng! Sanh trai cùng sanh gái, bồng ẵm đều như nhau. Tôi nghe giết trẻ gái, khốn khổ khôn sánh bằng, bào thai c̣n đẫm máu, có miệng chẳng thể nói, khóc ọ ẹ trong bồn, hồi lâu mới chết hẳn. Chao ôi! Ḷng cha mẹ, tàn nhẫn đến ngần ấy! Do vậy, tôi khuyên dân, đừng nên giết con gái, thoa gai cùng váy vải, chưa chắc khiến ngươi nghèo. Nữ tánh hiền dịu nhất, yêu cha mẹ hơn trai. Con trai hay ra ngoài, gái thường quấn mẹ cha. Trai phần nhiều ương bướng, gái luôn thuận cha mẹ. Trai hay thích chơi xa, gái luôn gần cha mẹ. Trai thường ít bi ai, gái luôn khóc cha mẹ. Gái có tâm hiếu thuận, thường cứu giúp mẹ cha. Nữ có chồng con tốt, thường rạng danh cha mẹ. Chẳng thấy cô Đề Oanh[35], giúp cha thoát nhục h́nh. Chẳng thấy cô Đường Hương[36], cứu cha bèn chặn hổ. Đàm Thị mười tám tuổi, lo ma chay cho cha. Tào Nga[37] mười bốn tuổi, trầm ḿnh kiếm xác cha. Thúc Tiên[38] cha chết đuối, đau xót ôm thây cha, lập lờ trôi theo gịng. Mẹ nàng Viên tê bại, hỏa hoạn chẳng dậy được, nàng khóc, chẳng nỡ ĺa, cam chịu thiêu cùng mẹ. Đời Tống, cô Trần Tam, cha mẹ nghèo kiết xác, ba chị em húp cháo, chuyên hái ấu đổi gạo. Mẹ chết, chẳng lấy chồng, dựng lều sống bên mộ, cho đến hết một đời. Đời Đường, Ngọc Ḥa Tử, cha anh đều chết trận. Ḥa Tử mới mười bảy, lặn lội tận biên cương, ăn xin, đưa xương về, bọc lụa là chôn cất, cắt tóc, hủy diện mạo. Rồi dựng lều bên mộ. Tiết lớn, vua nghe biết. Xuống chiếu khen ngợi nàng. Hiếu thay nàng Tiêu Cơ! Cha mẹ chết đất khách, nàng mới mười sáu tuổi, đưa ḥm về quê nhà. Nhà thuyền khinh con côi, giữa đường bỏ quan tài, giong thuyền đi mất hút. Nàng cùng một tỳ nữ, khoét đất, đào thành huyệt, [ḥng chôn tạm song thân]. Nàng hủy hoại dung mạo, ngày đêm luôn buồn bă, dựng cḥi bên mé nước. Hết tang, chẳng chịu rời. Cầu hôn, chẳng chịu gả, [đưa ra điều kiện rằng]: Ai đưa ḥm về quê, sẽ chịu theo làm vợ. Quả nhiên lấy một người, đưa ḥm về quê cũ, là lăo úy[39] họ Dương, vốn là người Dương Xá. Cô Đồ ở Đông Ô, cha mù, tay chân vẹo, cơm ăn lo từng bữa, người thân với xóm giềng, đều cùng chẳng thèm ngó. Cô bèn dời song thân, đến sống trong phường dệt, ở một chốn xa xôi. Ngày đẵn củi đổi gạo, đêm se gai thành sợi. Song thân hết tuổi thọ, đắp đất thành mộ phần, giữ mộ chẳng lấy chồng, chỉ v́ không anh em. Gương xưa gái hiếu hiền, nhiều khó thể chép xuể. Quan lại hoặc tặng vàng, hoặc triều đ́nh khâm thưởng. Có người làm phi tần, hoặc thành bậc phu nhân. Nếu giữ mạng con gái, con sẽ biết báo đền, chẳng hề thành ngỗ nghịch. Kính khuyên người thế gian, đạo trời sẽ báo đền, chớ bảo trẻ gái ngốc, oán hận chẳng biết báo. Chẳng xót mạng trẻ gái, mẹ cha sao dám chắc, giữ nổi mạng chính ḿnh? Tuyệt tự, giảm tuổi thọ. Luật âm ty rành rành, đến khi bị đ̣i mạng, cắn rốn chẳng thể kịp! Sao chẳng tṛn mạng con, cốt nhục đều vui sướng!

          “Ẩn tịch” (隱僻, ám muội) chẳng phải chỉ là một chuyện. Như gian trá, trộm cắp, tà dâm v.v… phàm những ǵ không thể cho trời biết, chẳng thể nói với người khác th́ đều là [“ẩn tịch”]. Nhưng chuyện lớn nhất, ắt thuộc loại chuyện dâm uế; do vậy, đức Thái Thượng viết điều này vào sau [lời răn về chuyện] tổn hại con cái, phá thai là v́ có lư do vậy.

          Đời Minh, Mạo Khởi Tông nói: - Tại phía Bắc huyện Phù Lương, có Trương Minh Tam theo cha đến lỵ sở trấn nhậm tại Quỳnh Nhai. Dinh quan gần nhà Lư Chỉ Huy. Hai cô con gái họ Lư đều xinh đẹp, Minh Tam đều tằng tịu với họ. Đến khi trở về, [Minh Tam] ngầm đem cả hai cô giấu trong thuyền. Thuyền sắp ra biển, ông Lư đuổi theo rất gấp. Minh Tam túng kế, vội đẩy hai cô gái xuống nước. Mười năm sau, Minh Tam thắt lưng đau buốt, đón thầy thuốc họ Tôn chữa trị. Thầy cắt thuốc vừa mới đỡ đau; đêm ấy, ông Tôn mộng thấy ở chỗ đánh cá nơi rặng mai trong làng, có hai người con gái lơa lồ từ trong nước biển ngoi lên, nắm áo họ Tôn nói: “Bọn thiếp là người Quỳnh Nhai. Ông đến chữa bệnh cho thằng Trương, sao ông cố ư đoạt công của bọn thiếp?” Do đó, họ lôi ông Tôn vào nước. Ông Tôn kinh hoảng tỉnh giấc, mồ hôi tuôn đẫm lưng. Đến sáng, [ông Tôn] kể với Minh Tam, Minh Tam đấm ngực, than thở: “Nghiệp đă đến rồi, ta đă tới số rồi”. Quả nhiên, hơn một tháng, hắn bèn chết. Đấy chính là chuyện “hành đa ẩn tịch” (làm nhiều chuyện ám muội) giữa nam và nữ, [dẫn đến t́nh trạng] hứng chịu báo ứng lẫn nhau vậy. Như Minh Tam và hai cô gái, thoạt đầu ngấm ngầm chung chạ, lại cùng nhau ngầm trốn đi. Rốt cuộc, hai cô gái chết bởi tay Minh Tam, mà Minh Tam lại chết bởi vong linh hai cô. Có thể nói là báo ứng tột bậc xảo diệu, chẳng sơ sót. Đại để là gian dâm vợ và con gái [kẻ khác], gây tổn hại cho công danh của kẻ khác, hai chuyện ấy thuộc về hành vi ám muội nhiều nhất, tổn thương t́nh người lư trời nhiều nhất. V́ thế, kẻ gian dâm vợ và con cái kẻ khác, vợ và con gái của chính hắn sẽ bị người khác dâm loạn. Kẻ tổn hại công danh của người khác, công danh của chính hắn ắt sẽ bị người khác làm hại! Tục ngữ có câu: “Ám thất khuy tâm, thần mục như điện” (Làm chuyện thiếu lương tâm trong pḥng tối, mắt thần thánh sáng ngời như chớp), há chẳng nên răn dè ư?

 

          (Chánh văn) Hối lạp ca vũ, sóc đán hào nộ, đối Bắc thế thóa cập nịch, đối táo ngâm vịnh cập khốc.

          (正文)晦臘歌舞,朔旦號怒。對北涕唾及溺,對竈吟咏及哭。

          (Chánh văn: Ca múa vào cuối tháng, ngày lạp. Gào hét, giận dữ vào ngày đầu tháng hoặc sáng sớm. Quay về hướng Bắc hỉ mũi, khạc nhổ, tiểu tiện. Đối trước bếp ḷ ca hát, khóc lóc).

 

          “Hối” () là nguyệt hối (月晦, ngày cuối tháng), chính là ngày Tư Mạng Táo Quân tấu tŕnh công và lỗi của người đời. “Lạp” () là năm ngày lạp, chính là ngày Ngũ Khí Thiên Quân[40] tụ họp để thẩm tra điều thiện lẽ ác của chúng sanh. Trong những ngày ấy, các vị thiên quân tụ về huyền đô[41], suất lănh ba vạn sáu ngàn vị thần trong cơi âm và dương trần thuộc nhân gian, địa phủ, ngũ nhạc để so sánh, quyết định những chuyện thiện, ác, tội, phước, vinh diệu, tài lộc, tuổi thọ, cát, hung, sanh, tử v.v… của chúng sanh. Mỗi điều đều được ghi chép vào trong sổ sách. Ngày mồng Một tháng Giêng gọi Thiên Lạp, mồng Năm tháng Năm là Địa Lạp (tiết Đoan Ngọ), mồng Bảy tháng Bảy là Đạo Đức Lạp, mồng Một tháng Mười là Tuế Lạp (Dân Tuế Lạp), mồng Tám tháng Chạp là Hầu Vương (Vương Hầu) Lạp. Phàm gặp những ngày ấy, vạn nhất phạm lỗi, một khi bị ghi vào sổ đen, há có thể chuộc tội ư? Huống chi Phong Đô Bắc Đế[42], Thái Âm Thiên Quân[43], cũng vào những ngày ấy, dẫn dắt tổ tiên, cha mẹ, quyến thuộc lâu đời của chúng sanh, cho đến các quỷ hồn bị giam kín trong ngục, tra hỏi họ đă ở trong âm ty thời gian bao lâu, cũng như tra hỏi nguyên do dẫn đến tích lũy tội lỗi, phần mộ đặt ở nơi nào, con cháu tên họ là ǵ. Đă có tên họ của con cháu, anh em, thân nhân, sui gia trong cửu tộc, [các vị thần tiên] sẽ liền nhóm họp lại để giảo định, dùng những điều ấy để định đoạt tội trạng của chúng sanh. Nếu đă trải qua nhiều kiếp mà con cháu chẳng hề cầu siêu, chuộc tội, chắc chắn sẽ liên lụy đến thân nhân c̣n sống trong nhân gian. Huống hồ trong những ngày ấy, tiên linh quyến thuộc đều được phóng thích, ai nấy trở về nhà ḿnh để thọ lănh [con cháu] cúng quải. Kẻ làm con cháu, hăy nên nương cậy đạo pháp để cúng quải, cầu siêu, cứu chuộc. Nếu mặc t́nh ca múa, sẽ mắc tội với trời đất, tổ tông. Như vậy th́ trong các ngày hối, ngày lạp, hăy nên truy tiến (追薦, cúng bái, cầu siêu, tưởng niệm), hay nên ca múa?

          Ông Vu Ngọc Bệ nói: - “Hối” là ngày cuối của một tháng. “Lạp” là tận cùng của một năm. Trong những ngày ấy, mọi người hăy nên so lường công đức, gắng chí tấn tu. Do đó, tổ sư đă khuyên mọi người như sau: “Nếu chẳng chuẩn bị thấu triệt sẵn sàng, ngày Ba Mươi tháng Chạp xảy đến, chắc chắn sẽ là một hồi náo nhiệt” (Ư nói người mất tay chân luống cuống, hoang mang; họ hàng quyến thuộc bàng hoàng, nháo nhào, càng khiến cho vong linh mê loạn hơn).

          Lại nói: - Hỡi các vị ơi! Hăy thử kiểm điểm chính ḿnh, xét xem từ trẻ đến già, từ sống đến chết, [tâm ta] đă ḥa lẫn cùng trần lao nghiệp thức thành một khối, biến thành một bầu hỗn loạn. Rốt cuộc là kết quả như thế nào? Có ai quay đầu suy nghĩ hay chăng? Bỗng dưng ba tấc khí đứt đoạn, mắt nhắm tịt lại, chỉ là một thần hồn vẩn vơ theo nghiệp chịu báo! Há chẳng phải là sống uổng chết phí ư?

          Trong Cảnh Lăo Nghi Thức (nghi thức cảnh tỉnh về tuổi già) của ngài Vân Thê (Liên Tŕ đại sư), đối với mỗi ngày cuối tháng, Ngài đă dạy đại chúng: “Mạng người vô thường, ngắn ngủi trong hơi thở. Ví như cá bơi trong nồi, khoảnh khắc bỗng bị nấu chín nhừ. Đèn ở trước gió, sát-na tắt phụt. Huống hồ thân này chẳng lâu dài, ắt đến cửa tử. Nẻo đường phía trước mịt mờ, chẳng biết về đâu? Há chẳng nên dũng mănh tỉnh ngộ vô thường, dè dặt, kinh sợ, gắng sức buông xuống muôn duyên, nhất tâm niệm Phật”. Tổ sư rát miệng khuyên người như thế, há có nên làm chuyện ca múa trong ngày cuối tháng ư?

          Có một nhà giàu sụ ở Hoài Âm, b́nh sanh giữ ḿnh cẩn thận, giao tiếp khiêm tốn, nhu ḥa. Mỗi dịp mồng Một, ngày Rằm, ngày Lạp, đều đọc tụng phạm kinh (kinh Phật), lễ bái thần kỳ, từ đầu tới cuối chẳng bỏ sót. Khi ấy gặp đúng ngày Thiên Lạp vào hôm Nguyên Đán (mồng Một Tết), có một đứa tiểu nhân cậy men rượu để nhục mạ, người nhà giàu đóng cửa, không màng tới. Người nhà và hàng xóm chung quanh đều chẳng nhịn nổi. Phú ông nói: “Đang trong lúc lễ Tết, có ai mà chẳng uống rượu. Say sưa rồi phát cuồng là thói thường của con người. Nếu so đo với kẻ ấy, lẽ nào chẳng phải là thiếu độ lượng ư?” Do một lời ấy, cảm động thần kỳ. Đêm hôm ấy, ông nằm ngủ, mộng thấy đến một chỗ, gặp một người đội măo vàng, áo tía, bảo: “Trong ngày Thiên Lạp, ngươi có thể nhẫn điều người khác chẳng thể nhẫn. Thượng Đế khen ngợi, ban cho ngươi phước thọ, con cháu của ngươi đời đời có mũ áo (làm quan)”. Ông bỗng bị người nhà đánh thức. Về sau, quả nhiên hưởng thọ ngoài tám mươi, hai con trai và một cháu đều do thi đậu Minh Kinh mà được bổ làm quan. Đến nay, lớp chắt chút đều không ngớt nổi danh học rộng, đỗ đạt. Đấy chính là [phước báo đạt được] do biết phản tỉnh bản thân trong ngày Hối, ngày Lạp vậy. Những kẻ trong những ngày ấy cuồng vọng kêu gào, ca múa, mặc sức rượu chè phóng đăng, đă mạo phạm giới luật của cơi trời, ắt đă đánh mất cái tâm tu tỉnh, thật sự đáng bị tiêu ma phước lộc, giảm bớt tuổi thọ. Hăy nên răn dè!

          Cơ sở để tính một tháng là ngày mồng Một. Cơ sở để tính mỗi ngày là buổi sáng. Nhằm lúc ấy đúng là lúc hăy nên lắng đọng tâm tư, thanh tĩnh ḥng phù hợp với chân lư trong thiên đạo. Nếu gào thét, tức giận, trược khí sẽ từ gan bốc lên, chân khí sẽ theo tiếng hét mà tan mất. Do vậy, tâm thần hôn ám, khí ô trược, thiện niệm tiêu diệt. Có bài thơ cổ như sau: “Nhất thiết chư phiền năo, giai tùng bất nhẫn sanh. Lâm cơ như đối kính. Diệu xử tại quang minh. Phật ngữ cầu vô tránh. Nho thư quư bất tranh. Hảo điều khoái hoạt lộ. Thế thượng thiểu nhân hành” (Hết thảy các phiền năo, do chẳng nhẫn mà sanh, gặp chuyện như soi kiếng, quang minh khéo ở yên. Phật dạy đừng căi cọ, sách Nho trọng đừng tranh, một nẻo đường vui sướng, cơi đời ít kẻ theo). Kinh Phật dạy: “Sân là căn bản khiến cho các pháp lành bị mất đi, là nhân duyên khiến đọa vào các ác đạo”. Trong khi tức khí, đừng để cho cơn giận tăng trưởng; bởi lẽ, gào thét, tức giận đă tạo phiền lụy quá đỗi cho con người, trong ngày thường vẫn phải nên cẩn thận, huống hồ là ngày mồng Một hay sáng sớm ư?

          Vợ của Trần Anh là Triệu Thị tánh hung tợn, thích tranh chấp, gặp ngày mồng Một, mụ ta càng quá quắt hơn nữa. Những ai lui tới nhà ấy, chỉ nghe tiếng gào thét, giận dữ chửi bớt không ngớt. Bỗng có một đạo nhân t́m tới. Mụ ta hỏi: “Ngươi tới làm chi vậy?” Đáp: “Bán linh đan. Uống vào sẽ trường sanh”. Mụ ta thích lắm, mua rồi nuốt ngay, [thế là] câm luôn!

          Đời Hán, mẹ của quan Tư Không Đệ Ngũ Luân do già cả không thể theo ông đến nhiệm sở làm quan. Mỗi dịp cuối tháng, ngày Lạp, mồng Một, ngày Rằm, ông Luân thường buồn nhớ, tuôn lệ, lạy trời cầu thọ cho mẹ. Ôi! Bậc quân tử thuở xưa cảm khái trước thời tiết, tưởng nhớ mẹ dường ấy. Những kẻ ca múa, gào thét, giận dữ, cũng chẳng biết họ nghĩ ǵ? Huống chi, trong phần trước đă nói hết sức tường tận về chuyện tưởng nhớ, cúng bái, siêu độ tổ tiên, há chẳng tỉnh ngộ đôi chút ư?

          Phương Bắc là chỗ ngự của Bắc Đẩu Tinh Quân. Bắc Cực là chỗ then chốt của cơi trời. Vạn linh, các vị thiên chân (thần tiên) trong tam giới mười phương đều thuộc quyền quản hạt của Ngài. Do vậy, Trung Thiên Đẩu Cực được xưng là Chí Tôn. Thế th́ chỗ cư ngụ của đấng tôn quư há có nên xúc phạm, ô uế ư? Xét theo lễ, con trai, con dâu chẳng được khạc, nhổ, phun nước miếng bên cạnh cha, mẹ, bố mẹ chồng, [v́ làm như vậy] là bất kính; huống hồ đối với phương Bắc là chỗ cư trụ của thần ư! Hỉ mũi, khạc nhổ c̣n chẳng được, há có thể tiểu tiện ư?

          Ở đất Ngô có kẻ ban đêm thức dậy, trần truồng, hướng về phương Bắc tiểu tiện. Bỗng thấy cờ đen rợp trời, đức Chân Vũ hiện thân, [kẻ ấy hoảng hốt] ḅ vào cửa, nằm bệnh suốt mấy tháng; sám hối mới lành bệnh. Kinh Trường Sanh nói: “Mùa Xuân ở phương Đông, mùa Hạ tại phương Nam, mùa Thu tại phương Tây, mùa Đông tại phương Bắc. [Đối với] những phương hướng như sách Nguyệt Lệnh đă chỉ ra [mà xúc phạm, ô uế], sẽ đều là phạm tới chuôi sao Bắc Đẩu, sẽ bị giảm thọ nhanh chóng nhất”. Nh́n từ chỗ này, các phương vị đều có răn cấm, không chỉ là phương vị Chánh Bắc!

          Họ Tiền ở Thường Thục là một họ lớn. Trong niên hiệu Chánh Đức (thời Minh Vũ Tông), bị hỏa hoạn lớn, ba ngày mới tắt. Trong đám tro tàn, chỉ riêng ba gian tiểu lâu c̣n nguyên. Đấy chính là nhà của Tiền Tiểu Tứ. Mẹ chồng và con dâu là hai bà góa, cùng ở trên đó. Gặp lúc lửa hừng hực thiêu đốt bốn phía, hai người quẫn bách, không có cách nào trốn thoát được, do thường ngày thờ phụng Bắc Đẩu, họ chỉ biết khấu đầu cầu cứu. Bỗng dưng thấy bảy người mặc áo đỏ, đứng dưới mái hiên, vung tay áo xua lửa, lửa theo tay họ tản ra. Do vậy, mẹ chồng và con dâu không sao, nhưng bốn phía chẳng c̣n sót lại một cái rùi kèo nhà nào. [Do chuyện này] cả một vùng được cảm hóa, đều thờ phụng Bắc Đẩu. Phàm những ai tôn sùng Bắc Đẩu đều được kéo dài tuổi thọ, trừ bệnh, mạng vận b́nh yên, thoát tai nạn, được hưởng phước, gịng dơi tiếp nối dài lâu. Nước, lửa, trộm cướp, yêu, ma, quỷ quái, ôn dịch, các thứ ấy đều chẳng xâm hại, [những điều lợi ích] chẳng thể gập ngón tay để tính đếm trọn hết. Ở đây, chỉ nêu một trường hợp để suy ra những điều c̣n lại. Điều trọng yếu là làm lành th́ mới có thể cảm ứng cơi trời. Người có thể biết như thế, há có chuyện hướng về phương Bắc mà khạc, nhổ, tiểu tiện ư?

          Hoàng Đế Táo Kinh chép: “Không được đối trước cửa ḷ mà ca hát, ngâm vịnh, khóc lóc, chửi rủa, quát tháo. Phàm ngâm vịnh và khóc lóc, tuy buồn vui khác nhau, nhưng đều là khinh mạn thần, ắt bị giảm lộc, giảm thọ”. Vả nữa, người thời nay ở trước mặt quan phủ, c̣n chẳng dám lớn tiếng nói bừa, sao lại riêng đối với thần bèn chẳng kiêng dè vậy thay? Bọn ngu phu ngu phụ hăy nên hết sức răn dè, c̣n như do kính trọng mà được phước, do khinh nhờn mà mắc họa th́ trong phần trước đă nói rơ ràng rồi!

 

          (Chánh văn) Hựu dĩ táo hỏa thiêu hương, uế sài tác thực, dạ khởi lơa lộ, bát tiết hành h́nh.

          (正文)又以灶火燒香。穢柴作食。夜起裸露。八節行刑。

          (Chánh văn: Lại c̣n dùng lửa từ bếp ḷ để châm hương. Nấu thức ăn bằng củi dơ. Ban đêm thức dậy, thân thể lơa lồ. Hành h́nh nhằm tám ngày Tiết).

 

          Theo Thiên Sư Môn Hạ Khoa Lệnh, lửa vùi dưới tro nơi đáy bếp ḷ được gọi là Phục Long Thỉ (伏龍屎, phân của rồng nằm ẩn); do vậy, chẳng thể dùng để thắp hương. Tôi từng trộm đọc giáo điển, [biết] những điều kiêng kỵ trong nhang đèn lại không chỉ là một chuyện này. Như chẳng thể dùng giấy bổi xoắn lại thấm cặn dầu để [làm mồi lửa] đốt giấy [tiền vàng bạc]. [Giấy tiền vàng bạc đốt kiểu đó] gọi là “uổng tích lạp tiền” (tiền sáp bị chất chứa oan uổng). Tại Đông Nhạc, [loại tiền vô dụng ấy] chất chứa như núi, các ty sở âm dương trong trời đất đều chẳng tiếp nhận. Lại như cúng dường Chân Vũ (Huyền Thiên Đại Đế, Huyền Vũ Đại Đế), vào tháng mùa Hạ không thể dùng quả mận, tháng mùa Đông chẳng thể dùng thạch lựu. Thỉnh cầu bậc thượng chân (chân tiên) giáng hạ, không thể đốt nhũ đầu hương[44]. Đàn hương được gọi là dục hương (浴香, hương để tắm), hoa nguyệt quư[45] được gọi là Bất Thời Hoa (hoa chẳng đúng thời), hoa kim đồng (金桐) được gọi là Quỷ Hoa. Những thứ ấy đều nên tránh dùng. So với chuyện chẳng tránh né để rồi tự mạo phạm [mà chuốc lấy tội lỗi], sao bằng tuân theo, kính trọng giáo pháp ấy?

          Chư Kinh Yếu Tập[46] nói: - Do Sự mà ngộ Lư, ắt phải nhờ vào tướng để dẫn đến lẽ chân thật. Chiêm ngưỡng thánh dung, cậy vào hương, hoa để cúng dường, phụng tŕ. Đức Phật dạy: “Sau khi Như Lai diệt độ, nếu lại có người dùng một đóa hoa, một nén hương để cúng dường, lấy một vốc nước, trừ bỏ những thứ bất tịnh, nhấc chân một bước, đến trước chư Phật, xưng nam-mô Phật một tiếng, nếu người ấy đọa trong ba ác đạo th́ chẳng thể có chuyện ấy”. Tịnh Danh Sớ chép: “Hương là danh xưng ĺa uế, có tác dụng thơm ngát lan tỏa”. Cảm Thông Truyện[47] chép: “Mùi hôi thối trong nhân gian, xông lên hư không bốn mươi vạn dặm. Chư thiên thanh tịnh, không vị nào chẳng chán ghét, nhưng do tiếp nhận lời phó chúc của đức Phật mà hộ tŕ Phật pháp. Đức Phật c̣n ở chung với con người, chư thiên chẳng dám không đến. V́ thế, trong Phật pháp, dùng hương làm Phật sự, đáng gọi là bậc nhất”. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Trong Thiện Pháp Thiên, có loại hương tên là Tịnh Trang Nghiêm. Nếu đốt một hoàn để xông, sẽ khiến cho khắp các chư thiên đều dốc ḷng niệm Phật”. Như vậy th́ dùng lửa bếp để thắp hương chẳng đáng kiêng tránh ư?

          Đời Tống, Châu Khai Sơn tụng kinh Hoa Nghiêm; lại có một vị Tăng có thể tụng Kim Cang. Hai người chết đột ngột cùng một lúc. Vua cơi âm mời Khai Sơn tụng kinh, hết sức lễ kính. Lại mời vị Tăng tụng kinh Kim Cang, tâm chẳng hết sức cung kính. Tụng xong, vua nói: “Do công đức tụng kinh, hai vị Tăng đều được tăng thọ hai mươi bốn năm. Vị tŕ kinh Hoa Nghiêm, càng hết sức đáng nên kính trọng, mai sau sẽ chẳng đến chỗ ta!” Khi ấy, vị Tăng tụng kinh Kim Cang tâm hết sức hổ thẹn. Do vậy, hỏi chỗ ở của Khai Sơn, nguyện sẽ đến bái phỏng. Tỉnh lại, vị Tăng liền đến Lộ Châu, t́m đến thăm Khai Sơn. Hỏi nguyên do, Khai Sơn đáp: “Mỗi lần tụng kinh, ắt y phục tinh khiết, dùng nước thơm rửa dọn tịnh thất. Sau đó, lấy lửa xẹt từ đá [lửa], hoặc lửa do dùi gỗ mà có để đốt hương, tâm nghiêm túc chú nguyện, mở miệng [tụng niệm với thái độ cung kính] giống hệt như đối trước Phật, chưa hề dám biếng nhác, ơ hờ! Nếu chẳng có loại lửa thanh tịnh ấy, quyết chẳng dám khinh thị dùng loại lửa khác để thắp hương”. Vị Tăng tụng kinh Kim Cang cảm tạ, nói: “Tôi có tội. Mỗi lần tôi tụng kinh, liền dùng lửa bếp để thiêu hương. Do chuyện này, tôi đă bất kính nhiều lắm”. Bởi lẽ, thắp hương nhằm biểu lộ tâm cung kính, ắt phải thanh khiết, ắt phải thanh tịnh th́ mới có thể thiêu hương. Vạn nhất bếp ḷ đốt củi dơ bẩn, dùng lửa ấy để đốt hương, tức là cái tâm kính trọng ngược ngạo biến thành khinh nhờn; v́ vậy, đức Thái Thượng răn dạy.

          Củi tuy đốt dưới đáy nồi hay vạc [để nấu thức ăn], nhưng hơi khói thật sự bốc lên, huân ướp [thức ăn]. Củi bẩn bất tịnh, có mùi hôi bẩn, đáng chán ghét, xúc phạm ông Táo. Đó là một điều chớ nên. Đă dùng [củi bẩn] để nấu thức ăn, chẳng tránh khỏi dùng những món ấy để cúng tế; đó là hai điều chớ nên. Hơi khói xông lên tận hư không, dễ khiến cho thần thánh tức giận; đó là ba điều chớ nên. Người nấu thức ăn phải nên hết sức kiêng tránh!

          Năm Chánh Ḥa thứ bảy (1117) nhà Tống, Lư Bát bị bệnh cùi đă ba năm, trăm loại thuốc chẳng chữa lành. Thoạt đầu, chàng Lư chưa bị bệnh, đă tụng kinh Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát đủ ba tạng[48]. Một hôm, bỗng có một vị Tăng đến, cho một hoàn thuốc bảo uống. Họ Lư chần chừ giữ lại, chẳng chịu uống ngay. Đêm ấy, mộng thấy vị Tăng đă cho thuốc bảo: “Ta chính là Quán Thế Âm. Do ngươi thường ngày dùng củi bẩn để nấu ăn, xúc phạm quỷ thần. V́ thế, mắc chứng bịnh phong này. Lại do ngươi từng tụng kinh đến ba tạng, đặc biệt ban cho ngươi một viên thuốc cứu khổ. Sao ngươi không uống?” Chàng Lư đă tỉnh giấc, liền lấy thuốc uống. Sau bảy ngày, da nơi toàn thân tróc hết, râu và tóc mọc lại. Củi bẩn xúc phạm thần thánh, cố nhiên đáng nên kiêng tránh. C̣n như [sử dụng] thân hoặc cành cây đào, cây liễu để làm củi thổi nấu th́ cũng xúc phạm đến Táo Quân. [Đối với] những điều cấm kỵ trong kinh Đạo giáo, cũng phải nên biết.

          Bậc chánh nhân quân tử, ở chỗ sáng th́ sợ người, ở chỗ tối tăm th́ sợ thần. V́ thế, dẫu ở trong nhà tối, hoặc chỗ kín đáo không ai thấy, nghiễm nhiên như đối trước thần minh. Hơn nữa, thần minh ngự tại chỗ tối tăm, kín đáo, vốn chẳng chỗ nào không đến, mà đêm thuộc về âm, lại là lúc chư thần tụ hội xét soi, há nên không cẩn thận để rồi tự chuốc lấy tội lỗi hung họa ư?

          Ở Bành Thành có một cô gái con quan, lấy chồng chưa đầy một tháng, vô duyên vô cớ phát cuồng, trần truồng chạy cuồng lên, trọn chẳng biết hổ thẹn. Thuốc men, cầu khấn đều chẳng thể chữa lành. Khéo sao, Trương Chân Nhân[49] trở về kinh đô, chủ nhân dâng thư thưa tŕnh. Chân Nhân sai đệ tử dùng bùa để trị. Người ấy [vừa tác pháp liền] lảo đảo lùi bước, c̣n cô gái cứ cuồng dại lơa lồ như không! Chân Nhân bèn tự đến làm pháp, triệu thỉnh thần tướng hiện h́nh trong đàn. Huyền Đế (Huyền Thiên Thượng Đế) vừa giáng hạ, cô gái ấy mới thay đổi nét mặt nói: “Ả đàn bà thường dân này nửa đêm trần truồng, phạm đến thần tướng của ta, đáng bị giết chết, c̣n làm phiền bậc thượng chân ngự tới, nên đă tha cho nó”. Cô ta nói xong, đột ngột ngă nhào xuống đất, bèn lành bệnh.

          Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí là tám tiết. Trong những ngày ấy, chư thiên, các vị thần tiên, chân tiên chia nhau hóa độ trọn khắp, dạy bảo, cứu độ quần sanh, ghi chép rành rẽ từng điều tội phước. Mọi người hăy nên thanh tịnh, ḥa b́nh, giữ ḷng phản tỉnh, xem xét [chính ḿnh ḥng] tăng thêm điều lành, trừ bỏ điều ác, noi theo đường chánh, từ bỏ lẽ tà, ngơ hầu ứng hợp với tấm ḷng khai thị, độ thoát của đức Thái Thượng và các vị chân tiên. Kẻ hành h́nh sao không kiêng dè mà dám làm như thế ư? Tổn thương ḥa khí trong trời đất, tổn phước của chính ḿnh và gia đ́nh không ǵ quá đáng hơn nữa! Chớ nên không kiêng tránh!       

          Năm Vũ Đức thứ ba (620), Đường Cao Tổ xuống chiếu [quy định]: “Trong các tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín và trong mười ngày trai, không được hành h́nh”. Lại nữa, theo quy định chung của triều đại trước, vào ngày mồng Một mỗi tháng, cấm hành h́nh [tội nhân], giết mổ [súc vật]. Trong mỗi ngày tiết, th́ giảm bớt h́nh phạt. Đấy cũng là một điều thuộc về ḷng nhân của hoàng đế vậy. Nay những kẻ cai trị dân có từng thấu hiểu [tấm ḷng ấy] hay chăng?

          Đời Đường, Đậu Quỹ là anh họ của Thái Mục Hoàng Hậu[50], làm Đô Đốc tại Lạc Châu, tánh t́nh cứng cỏi, nghiêm khắc, ưa giết chóc, đă hành h́nh nhiều nho sĩ và thường dân. Hễ gặp những vụ án đă phán quyết [tử h́nh], dẫu gặp tháng [triều đ́nh hạ lệnh] thâu nhặt chôn cất tử thi, hoặc lúc [vua xuống chiếu] giảm nhẹ tù đày, bỏ gông cùm (giảm án), ông ta đều chẳng ngưng hay giảm bớt sự hành h́nh. Ông ta c̣n hại chết Thượng Thư Vi Vân Khởi. Năm Trinh Quán thứ hai (628), ông ta bị bệnh nguy ngập, bỗng tự nói có người cho ông ta ăn dưa. Kẻ hầu chung quanh thưa “chẳng có”. Đậu Quỹ nói: “Một mâm dưa ngon, sao lại bảo chẳng có?” Chốc lát, ông ta kinh hăi nh́n cḥng chọc, kêu lên: “Chẳng phải là dưa, toàn là đầu người, đến đ̣i mạng ta”. Lại kêu: “Mau đỡ ta dậy để gặp Vi Thượng Thư”. Nói xong, chết ngắc. Hành h́nh trong tám ngày tiết, không chỉ là nói về chuyện giết chóc, dẫu là đánh đập cũng chớ nên! Khoan từ nhân hậu hay tàn nhẫn chỉ cậy vào một niệm chuyển dời, [kết quả là] tai biến hay cát tường khác biệt vời vợi một trời một vực. Kẻ làm quan hay người chủ tŕ gia đ́nh đều phải nên kiêng dè cẩn thận!

 

          (Chánh văn) Thóa lưu tinh, chỉ hồng nghê, triếp chỉ tam quang, cửu thị nhật nguyệt.

          (正文)唾流星。指虹霓。輒指三光。久視日月。

          (Chánh văn: Hướng về sao băng khạc nhổ, chỉ trỏ cầu vồng, bộp chộp chỉ trỏ tam quang, nh́n mặt trời, mặt trăng thật lâu).

 

          Tinh tú ở trên trời xoay chuyển qua các cung [hoàng đạo], liên quan ǵ đến con người mà khạc nhổ để làm ǵ? Có kẻ ngu c̣n xằng bậy nói [tinh tú vận chuyển] là yêu quái, [hướng về chúng] phun nước bọt [nhằm biểu lộ] sự hết sức chán ghét! Những lời lẽ ấy đúng là xuất phát từ những lời bịa đặt vô căn cứ. Nếu dân chúng thất đức, trời ắt hiện bày sự chuyển biến. Sao chổi bay xẹt quả thật là do chính ḿnh chuốc vời, chính ḿnh hăy nên kinh sợ, tu tỉnh, tạo lập đức hạnh để giải trừ tai nạn; há có nên phỉ nhổ [tinh tú] hay chăng? Do Tống Cảnh Công nói ba câu tốt lành mà tai tinh Huỳnh Hoặc[51] lui mất. Sự cảm ứng do tu đức vằng vặc chẳng dối vậy!

          Trắng lẫn đỏ là Hồng (, cầu vồng), trắng lẫn xanh là Nghê ()[52]. Đấy chính là khí âm và dương giao tiếp. Kinh Thi nói: “Đế Đông tại Đông, mạc chi cảm chỉ” (Cầu vồng mọc ở phương Đông, không ai dám chỉ trỏ). Sách Xuân Thu Vận Đẩu Xu[53] chép: “Tinh tú tản mát là Hồng. Hăy nên biết cầu vồng thật sự là khí thừa của sao Bắc Đẩu được biểu hiện rất rơ rệt bằng h́nh sắc”. V́ thế, xưa kia Khổng Tử biên soạn xong kinh Xuân Thu và Hiếu Kinh, bèn tấu tŕnh Bắc Đẩu. Ngay khi ấy, có cầu vồng màu đỏ giáng hạ và hoàng ngọc khắc văn[54]. Ai nói cầu vồng chẳng phải là khí thừa của sao Bắc Đẩu? Nếu chỉ trỏ, làm sao vô tội cho được?

          Mặt trời, mặt trăng, và tinh tú là “tam quang”, c̣n gọi là “tam thần” (三辰). [Tam quang] được phân bố trên bầu trời nhằm chiếu soi thiên hạ, ḥng nêu dạy pháp tắc. Đức Thái Thượng nói: “Nếu thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, Bắc Đẩu, Nam Đẩu, ắt trịnh trọng dập đầu, cầu xin che chở, ắt sẽ được dung thứ tội khiên. Chớ nên khinh mạn, kẻo chuốc lấy ương lụy”. Trong Đạo Tạng (Đại Tạng Kinh của Đạo giáo), dạy mọi người hiến tế mặt trời, mặt trăng. Ngày mồng Một tháng Hai mỗi năm chính là ngày tế mặt trời; ngày Rằm tháng Tám, tế mặt trăng. Hăy nên sắm sửa hương, hoa, cỗ chay, lễ bái, cầu đảo để báo ân, [làm như vậy] sẽ khiến cho con người tăng phước, kéo dài tuổi thọ. Như vậy th́ có nên bộp chộp chỉ trỏ mặt trời, mặt trăng, tinh tú, có nên tùy tiện nh́n lâu hay chăng?

          Châu Hồng nói trong huyện của ông ta, nhằm lúc mọi người đang cùng nhau chè chén, thấy trên bầu trời, ŕa ngoài mặt trời có ánh sáng lạ, mọi người cùng chỉ trỏ. Bỗng gió mưa sầm sập tràn tới, [từ trên trời] giáng xuống một vật giống như con khỉ, hai mắt sáng ngời. Mọi người kinh sợ, nằm mọp dưới đất, khoảnh khắc nó biến mất. Tai mọi người lấp đầy bùn, ai nấy đều thành bệnh hoảng sợ.

          Đời Tống, Thái Kinh có thể nh́n mặt trời khá lâu mà chẳng hoa mắt. Có người nói đó là điềm quư hiển, nhưng ỷ vào thị lực dám chống lại thái dương, người thông hiểu liền biết hắn ta chẳng có ḷng nghĩ đến vua. Rốt cuộc, hắn chuyên quyền, khiến cho đất nước lầm than. Hắn bị biếm trích mà chết.

          Đời Nguyên, Tôn Cẩn tang cha, hết sức đau buồn. Trời mùa Đông rét buốt, ông đi chân trần. Quan tài c̣n quàn đó chưa chôn, ông chẳng tháo đai áo. Ông đưa quan tài qua sông, trời đất tối mù, Tôn Cẩn kiền thành cầu đảo tam quang, [tức thời] gió yên, sóng lặng, lại trông thấy mặt trời. Ông phụng sự mẹ kế là Đường Thị rất có hiếu. Mẹ kế từng bị ung nhọt, Tôn Cẩn đích thân hút mủ. Mẹ lại bị mù, Tôn Cẩn cầu khẩn tam quang, liếm [mí mắt], mắt mẹ được sáng lại. Đường Thị mất đă mười ngày, sắp sửa an táng; khi ấy, nhằm đúng tiết Xuân, khổ sở v́ mưa dầm dề. Tôn Cẩn ban đêm khóc lóc, trời bèn tạnh mưa, mây quang đăng, mặt trời chiếu sáng. Đưa tới huyệt, [đă là lúc] đêm tối không có ánh sáng, Tôn Cẩn lại buồn bă gào khóc, ánh sao sáng ngời, mặt trăng chẳng nhằm ngày trăng tṛn mà bỗng chiếu sáng ngời như ban ngày. Nh́n từ chuyện này, [ta thấy] tam quang ở trên cao, không chỉ là có ân chiếu soi, mà c̣n có thể ứng theo lời mong cầu, há có nên coi thường chỉ trỏ để rồi tự phạm lấy oan khiên, tai họa nặng nề ư?

 

          (Chánh văn) Xuân nguyệt liệu liệp, đối Bắc ác mạ, vô cố sát quy, đả xà.

          (正文)春月燎獵。對北惡罵。無故殺龜打蛇。

          (Chánh văn: Trong các tháng mùa Xuân, đốt rừng để săn bắn. Hướng về phương Bắc chửi rủa độc địa. Vô duyên vô cớ, đánh giết rắn rùa).

         

          Đốt rừng để săn bắn th́ gọi là “liệu liệp” (燎獵). Đối với chuyện bắn chim, đuổi thú, đức Thái Thượng đă có lời răn rơ ràng. Huống hồ do đốt rừng săn bắn mà giết chóc chẳng cùng tận! Nhưng dùng “xuân nguyệt” (các tháng trong mùa Xuân) để nói, v́ đấy là lúc tăng trưởng, sanh nở [của muôn vật], nếu làm chuyện này (săn bắn, đốt rừng), trên là trái nghịch sự vận hành của trời, dưới là giết chóc sanh mạng loài vật, càng là bất nhân quá đỗi! Chẳng phải là trong những tháng khác th́ không cần phải kiêng tránh đâu nhé!

          Đời Đường, Lưu Ma Nhi một hôm và con trai cùng chết. Hàng xóm có người họ Kỳ, bị bệnh chết đi rồi sống lại. Do vậy, ông ta kể chính ḿnh đă tới cơi âm, thấy cha con Ma Nhi đang ở trong vạc sôi sùng sục, da thịt đều ră hết, chỉ thấy xương trắng. Hồi lâu sau, khôi phục thân h́nh. Đă khôi phục [rồi lại bị nấu] chín ră. Một hồi lâu sau lại khôi phục, [lại bị nấu nhừ], chẳng có lúc nào ngừng. Diêm Vương phán: “Gă này chuyên thích phóng hỏa để săn bắn, cho nên hứng chịu quả báo này”. Chúng sanh đều có Phật Tánh, há có nên coi thường mà sát hại. Săn bắn đă là chớ nên, huống hồ c̣n thiêu đốt [núi rừng] ư! Vạn vật đều bị cháy khô, các loài sâu đang ngủ vùi đều cháy rụi. Nỗi hại ấy chẳng nỡ ḷng nói nữa! Thiên Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Kư đă chép những cấm đoán liên quan đến thời tiết và thời vụ rất tường tận; c̣n đức Thái Thượng lại răn cấm thêm, v́ chuyện này liên quan đến sanh mạng. V́ thế, Ngài không chỉ dăm ba lượt ngăn cấm, giảng giải vậy!

          Phun nước miếng, hỉ mũi là chuyện nhỏ nhặt, hướng về phương Bắc làm th́ c̣n là tội lỗi, huống hồ chửi bới hung tợn ư? Kẻ ngu bị cái tâm phẫn nộ sai khiến, chẳng màng cố kỵ, chẳng nghĩ: Ta giận bèn muốn xả giận, thần giận th́ sẽ như thế nào?

          Khẩu nghiệp của người đời có bốn thứ, chửi rủa độc địa là nghiệp nặng nhất. Kinh dạy: “Phàm phu do tam độc hừng hực, lửa giận thường bùng cháy, gặp cảnh bèn sanh ḷng sân, gặp duyên gây chướng. V́ thế, thốt lời giận dữ, buột miệng phun ra, [lửa giận] thiêu đốt cái tâm, tổn hại người trước mặt ta, [khiến họ] đau đớn như dao cắt, phần nhiều bị tổn thương, khổ năo vô lượng. Giả sử chúng sanh tuy thân chẳng có tội lỗi, nhưng do không cẩn thận mà tạo khẩu nghiệp th́ cũng đọa trong ác đạo”.

          Một người đàn bà ở Tân An tánh t́nh hung tợn, không có con, ghen ghét đứa con do người thiếp sanh ra. Mỗi lúc hoàng hôn đều hướng về phía Bắc nguyền rủa, chửi bới độc địa. Một hôm, mụ ta lại hướng về đó rủa xả, bỗng thấy một ngôi sao rơi xuống đất, h́nh thể to như cái đấu, tiếng rền vang như sấm. Mụ ta kinh hăi thành bệnh, bụng dần dần to phè như mang thai. Đến lúc sanh nở, bảy ngày chẳng sanh nổi. Thật ra, trong bụng chẳng có ǵ hết! Sám hối mới lành bệnh. Thần minh hiển hách, không đâu chẳng tồn tại, [Cảm Ứng Thiên] chỉ riêng nêu lên phương Bắc nhằm nhấn mạnh chỗ trọng yếu nhất. Vậy th́ mọi người có nên chẳng nghĩ quỷ thần đông đảo, dày đặc [ở quanh ta] ḥng kinh sợ, tu tỉnh ư?

          Ứng Thế Chân Nhân nói: - Chớ nên giết sanh mạng của hết thảy muôn vật, mà âm tinh của rắn rùa lại thuộc về ngôi sao Chân Vũ ở phương Bắc, càng chẳng thể giết. Vô cớ giết hại, ắt chuốc lấy báo ứng thê thảm. Do vậy, người có ḷng nhân thường lập cách cứu giúp, che chở.

          Một thôn dân ở Nhạc Châu tát ao bắt cá. Do bắt được rất nhiều rùa, bèn mổ rùa làm thịt, chở yếm rùa sang bán ở Giang Lăng, được lời to. Đến khi trở về, khắp thân bị ghẻ lở, đau đớn kêu gào. Người khác chẳng nỡ ḷng nghe tiếng! Ắt phải đổ nước vào một cái bồn lớn, [ngâm kẻ ấy vào đó], người khác dùng tay xoa nắn mới hơi êm được. Về sau, da tróc ḷi xương, biến thành h́nh rùa, nứt nẻ mà chết.

          Bên cạnh nhà một phú ông có một cái cây khô. Ông ta sắp chặt bỏ, mộng thấy một người dắt nhiều người đến cầu xin hăy thong thả, chờ cho họ dọn đi xong rồi hăy tùy ư chặt. Ông tỉnh giấc, sai người trèo lên cây xem, thấy trong bộng cây có rắn cuộn tṛn vô số. Ông liền sai nổi lửa đốt rụi. Chẳng lâu sau, nhà ấy vào nửa đêm bỗng thấy lửa bay vào nhà; hễ thức dậy chữa lửa, bèn chẳng có động tĩnh ǵ. Nhiều lượt như thế, [người nhà ấy] chẳng thấy lạ nữa. Một tối, có đứa tớ gái làm rớt một đốm lửa vào đống củi, lửa cháy lan ra cánh đồng. Nhà ấy cứ tưởng lửa sẽ tự tắt như cũ, đều ngủ ngon lành, chẳng trở dậy. Do vậy, [tới khi lửa cháy bừng bừng], muốn trốn tránh nhưng chẳng kịp, cả nhà đều chết sạch.

          Cha của ông Lưu Ngạn Hồi làm Thứ Sử ở Hồ Châu. Có người từ Bạch Ngân Hàng (thuộc Toại Huyện, tỉnh Giang Tây) đến biếu một con rùa to, bảo: “Ăn con rùa này, có thể sống một ngàn năm”. Cha Ngạn Hồi liền ngầm thả nó về chỗ cũ. Cha mất, Ngạn Hồi làm Tư Sĩ[55] ở Pḥng Châu, bỗng nước lũ từ trên núi tràn về, đất bằng ngập dưới mấy thước nước, cả nhà không có đường nào né tránh. Bỗng có một con rùa lớn dẫn đường, họ đều tới được chỗ cạn, thoát khỏi tai nạn ấy. Đến đêm, Ngạn Hồi mộng thấy một người áo trắng nói: “Tôi là con rùa được cha ông thả lại Bạch Ngân Hàng; v́ thế, đến báo đáp”.

          Đời Đường, Tôn Chân Nhân (Tôn Tư Mạo) đi đường núi, thấy thôn dân đang đập một con rắn xanh, ông bèn mua lại, đem thả. Chẳng lâu sau, một thiếu niên đón Chân Nhân tới một vương cung. Có một người mặc áo đỏ bước ra, thưa: “Trước kia, đứa con út gặp nạn, may được tiên sinh cứu giúp. V́ thế, tôi sai đứa con cả đón ngài đến đây, ḥng biểu lộ phần nào tấm ḷng cảm tạ”. Người ấy dẫn ông Tôn vào trong thâm cung. Một phi tần dẫn một đứa bé áo xanh ra lạy chào, cảm ơn nhiều lần. Họ mời ông ở chơi ba ngày, các món ăn ngon quư, [dâng biếu] các món lụa là, châu ngọc chẳng thiếu thứ ǵ. Chân Nhân đều khước từ chẳng nhận, chỉ đem về ba mươi toa thuốc tiên do Thượng Đế ban tặng cho long cung, [nhờ những toa thuốc ấy] mà cứu sống vô số người. Sách Thiên Kim Phương hiện thời chính là do có được ba mươi toa thuốc ấy [mà Tôn Tư Mạo nghiên cứu, biên soạn ra các bài thuốc mới].

 

          (Chánh văn) Như thị đẳng tội, Tư Mạng tùy kỳ khinh trọng, đoạt kỳ kỷ toán, toán tận tắc tử, tử hữu dư trách, năi ương cập tử tôn.

          (正文)如是等罪。司命隨其輕重。奪其紀算。算盡則死。死有餘責。乃殃及子孫。

          (Chánh văn: Đối với các tội như thế, thần Tư Mạng tùy theo tội nặng hay nhẹ mà trừ bớt tuổi thọ của người gây tội. Tuổi thọ đă hết, sẽ phải chết. Đă chết mà c̣n chưa hết nợ th́ con cháu phải gánh tai ương).

 

          Câu “như thị đẳng tội” (những tội như thế) nhằm tổng kết đoạn văn trước đó. “Tội” chính là những chuyện đă nêu ngay sau câu “phi nghĩa nhi động” (làm chuyện trái nghịch đạo nghĩa). Từ chữ “Tư Mạng” trở đi nhằm nêu rơ chuyện tùy theo nghiệp mà chịu báo. Kinh dạy: “Nghiệp tùng tâm khởi, tâm vi nghiệp dụng, nghiệp dẫn tâm nhi thọ h́nh. Tâm tùy nghiệp nhi hiện cảnh, như ảnh tùy h́nh, nhi khúc trực du phân, do hưởng ứng thanh, nhi đại tiểu các dị, hào ly bất sảng, báo ứng vô sai” (Nghiệp bắt nguồn từ tâm, tâm lại do nghiệp [tác động] mà dấy lên tác dụng, nghiệp dẫn dắt cái tâm đi đầu thai, nhận lấy h́nh thể. Tâm thuận theo nghiệp mà hiện ra cảnh, như bóng theo h́nh, nhưng đúng sai khác biệt, ví như tiếng vọng thuận theo âm thanh mà có lớn nhỏ mỗi thứ khác nhau, trọn chẳng sai sót mảy may, báo ứng không sai chạy). C̣n như nói “ương cập tử tôn” (hại đến con cháu) cũng là luận định khắp ba đời. Nói chung, sự báo ứng xa là con cháu, gần th́ ở nơi chính ḿnh, tức là báo ứng rạng ngời, chẳng sai chạy. Chính v́ người đời tích tập điều ác, làm chuyện trá ngụy, tổn thương tấm ḷng hiếu sanh của Thượng Đế, trái nghịch ư định bảo vệ, che chở của tổ tông. Do đó, dẫn đến t́nh cảnh con cháu gian nan, gịng dơi đoạn tuyệt. [Thế mà con người chẳng tự hiểu biết, cứ] đổ thừa cho số mạng, hoặc đổ thừa là do khí chất bẩm sanh. Ôi! Đức to lớn của trời đất là sanh thành, đối với cỏ, cây, chim, cá, c̣n chẳng nỡ tuyệt diệt chúng, huống hồ con người là “vạn vật chi linh” mà nỡ ḷng dứt tuyệt con cháu của họ ư? V́ thế, nếu ai chẳng phải là hạng cực ác, sẽ chẳng tuyệt tự. Ác báo chẳng hết, sẽ lan đến con cháu lại chính là Sự Lư thường hằng vậy!

          Đời Tùy, Dương Tố[56] khuyên vua (Tùy Văn Đế) lập Dượng Đế làm Thái Tử khiến cho nhà Tùy bị nguy ngập. Con ông ta là Nguyên Cảm rốt cuộc bị Dượng Đế diệt tộc. Lư Tích[57] khuyên vua lập Vũ Hậu, khiến mạng vận nhà Đường bị cách trở. Cháu ông ta là Lư Kính Nghiệp cũng bị Vũ Hậu giết chết. Đấy chính hại đến con cháu! Ngạn ngữ có câu: “Ngươi do chuyện này bắt đầu th́ cũng sẽ do chuyện này mà chấm dứt”. Sự báo ứng do ngươi tạo ra, sẽ hại ngược trở lại ngươi, cố nhiên là chẳng thể dối trá được! Người hiện thời căn cứ vào chuyện gần gũi trước mắt, thấy kẻ nào đó làm ác mà không hề hấn ǵ, bèn nói: “Trời không có mắt”. Thấy kẻ nào đó làm ác mà hưng vượng lừng lẫy, bèn nói: “Làm ác được phước”. Tích chứa điều thiện th́ điều vui mừng có thừa, tích chứa điều ác th́ tai hại có thừa. Nói “có thừa” th́ phạm vi bao quát hết sức rộng. Suy luận từ bản thân, chính là nói [họa, phước] có thừa sẽ ứng vào con cháu, há có phải là nói “sáng tạo nghiệp, tối phải đền trả” ư? Nhưng Thượng Đế hiếu sanh, “họa ương c̣n sót lại sẽ hại đến con cháu” cũng là nhằm để trừng ác, khuyến thiện. Nếu như con hiếu, cháu hiền, tu tâm, tu thân, tích lũy điều thiện và công đức để cứu chuộc những nỗi oan khiên của tiền nhân, nghiêm ngặt chẳng khoan dung đối với chính ḿnh, th́ lại chính là điều mong mỏi sâu xa của đức Thái Thượng vậy!

          Xét theo thuyết nhân quả thọ sanh trong kinh Phật, th́ một là thiên đạo, hai là tiên đạo, ba là A Tu La đạo, bốn là nhân đạo, năm là súc sanh đạo, sáu là ngạ quỷ đạo, bảy là địa ngục đạo. Trời, tiên, và Tu La cố nhiên là do tích tập các nhân cảm vời mà có, c̣n bốn đường như người, súc sanh v.v… càng là quả báo nhất định do nghiệp duyên [cảm vời]. Do vậy, khảo sát cặn kẽ theo đó, nói đến nhân đạo (人道, loài người) th́ nhân () là nhẫn (), [nghĩa là] trong t́nh cảnh thuận hay nghịch, ắt đều có thể an nhẫn (yên phận chịu đựng). Đó là do xưa kia trong lúc tu nhân, tâm luôn vui sướng, tu tập Ngũ Thường, Ngũ Giới, hành trung phẩm Thập Thiện, mà cảm vời thân thể trong đường ấy.

          Kinh dạy: “Làm người có thế lực, sang cả, hoặc làm quốc vương, hoặc làm trưởng giả, là do lễ bái, phụng sự Tam Bảo mà ra. Làm người đoan chánh, dáng vẻ trắng trẻo, sạch sẽ, dung mạo bậc nhất, là do Nhẫn Nhục mà ra. Làm người tinh tấn, chẳng hề lười nhác, thích làm chuyện phước đức, là từ Tinh Tấn mà ra. Làm người an tường, lời nói và việc làm luôn cân nhắc kỹ lưỡng, chắc thật, th́ là do từ Thiền Định sanh ra. Làm người có tài, sáng suốt, liễu đạt pháp sâu, giảng nói diệu nghĩa để khai ngộ kẻ ngu muội. Kẻ nghe nói những lời ấy, tin tưởng chúng là trân bảo, [người như vậy] là do từ trí huệ mà ra. Tiếng nói trong trẻo, thấu triệt, là do ca vịnh Tam Bảo mà ra. Làm người sạch sẽ, chẳng bị bệnh tật, là do tâm từ bi sanh ra. Làm người mà có nhiều nỗi sợ hăi, âm thanh rè đục, rạn vỡ, là do từ địa ngục mà ra. Làm người tối tăm, chậm lụt, lười nhác, ăn nhiều, nói năng chẳng rơ ràng, lại c̣n khiếp nhược, thích bầu bạn với người si dại, rất thích chỗ tối tăm, là do từ súc sanh mà ra. Làm người bẩn thỉu là từ loài lợn mà ra. Làm người hung ác là do từ loài rắn, rết mà ra. Tâm chẳng liêm khiết, do từ loài chó mà ra. Tánh luôn hung tợn là từ loài dê mà ra. Thích đồ ăn ngon, mặc t́nh giết hại sanh mạng loài vật, chẳng có từ tâm là do từ sói, lang, cáo, chim ưng mà ra. Chẳng thể an tường, chẳng thể nhẫn nại mọi sự, là từ loài khỉ mà ra”.

          Lại nói: - Làm người mà cao lớn là v́ cung kính người khác. Làm người lùn xủn, nhỏ bé là v́ khinh mạn kẻ khác. Làm người xấu xí là do thích nóng giận. Cả đời chẳng hiểu biết ǵ là v́ không có học vấn. Làm người ngu đần là v́ không dạy người khác. Yểu mạng, lắm bệnh là v́ thích sát sanh. Chẳng có đồ dùng cần thiết cho cuộc sống, luôn khổ sở, nghèo nàn, túng quẫn là v́ thích trộm cắp. Chẳng có con cái, con dâu là v́ dâm loạn với vợ người khác. Con cái dâm loạn là v́ loạn dâm với con gái chưa chồng của người khác. Góa bụa, mồ côi, trơ trọi, là v́ ngược đăi con cái. Làm người đói khát là v́ thích ăn một ḿnh [không chia sẻ với người khác]. Làm nô tỳ của kẻ khác là v́ thiếu nợ không trả, chẳng lễ kính Tam Tôn (Tam Bảo). Làm người xấu ác là v́ che đèn cúng Phật. Sanh làm loài trâu cày là do làm quan tàn khốc, đối xử khắc bạc với bọn dân đen. Sanh trong loài nai, mễn, là v́ làm cho người khác kinh sợ. Sanh trong các loài rồng, v́ thích chọc ghẹo, ép bức [phụ nữ]. Thân thể sanh ghẻ độc, chữa trị không có hiệu quả, là v́ đánh đập người khác. Người khác trông thấy ta bèn hoan hỷ, là v́ ta đối xử vui vẻ với người khác. Người khác trông thấy ta chẳng vui vẻ, v́ ta chẳng đối xử vui vẻ với người khác. Bị quan lại bỏ tù, trói buộc, thân mang gông cùm, là v́ đă bắt nhốt chúng sanh. Làm người sứt miệng là v́ thích câu cá. Sanh trong xứ sở trần truồng, là v́ mặc áo mỏng đường đột vào tinh xá của đức Phật. Sanh trong xứ chân có móng guốc như ngựa là v́ mang giày dép dẫm đạp đất Phật. Sanh trong xứ bị đâm thủng ngực là v́ bố thí, làm phước, bèn sanh ḷng hối hận. Những điều ấy đều là do đă tích tập từ trước, đền trả xong rồi mới lại được sanh làm người, đều là từ vô thỉ đến nay, do nghiệp lực và những toan tính điên đảo mà sanh ra nhau, giết chóc lẫn nhau. Chẳng gặp Như Lai, chẳng nghe chánh pháp, ở trong trần lao, vốn sẵn luân chuyển như thế ấy. Hạng người ấy chính là hạng người đáng thương xót vậy!

          Nói đến súc sanh đạo th́ bẩm tánh ngu si, chẳng thể tự lập, được con người nuôi nấng. V́ thế, gọi là súc sanh. Do xưa kia trong lúc tu nhân, đă ngu mê, tham dục, tạo hạ phẩm Thập Ác, cho nên cảm thân trong đường này. Kinh dạy: “Nghiệp làm quỷ đă hết, mới sanh trong thế gian, sẽ gặp gỡ kẻ ta vốn đă thiếu nợ và kẻ oán thù, đối đầu, [chính ḿnh] làm thân súc sanh để đền món nợ ”. Những hạng chúng sanh này đều do cái nghiệp hư vọng chiêu cảm, dẫn dắt. Nếu ngộ Bồ Đề th́ [sẽ liễu giải] vọng duyên ấy vốn vô sở hữu.

          Nói đến ngạ quỷ đạo th́ loài quỷ này gầy c̣m, xấu ác, luôn tham cầu được no ḷng một bữa, luôn bị đánh đập, [phải làm những việc nặng nề như] lấp sông, ngăn biển, chịu khổ vô lượng. Đấy là do xưa kia trong khi tu nhân, đă tham lam, keo kiệt thành tánh, ôm ḷng nịnh bợ, dối gạt, hành trung phẩm Thập Ác, cho nên cảm thân trong đường này. Kinh dạy: “Các chúng sanh ấy đều v́ thuần t́nh mà đọa lạc, lửa nghiệp thiêu rụi, cho nên hiện ra h́nh hài loài quỷ. Những chúng sanh này đều do cái nghiệp vọng tưởng chuốc vời, dẫn dắt. Nếu ngộ Bồ Đề, sẽ diệu chứng viên minh vốn vô sở hữu”.

          Nói đến địa ngục đạo là nói đến tù ngục ở dưới đất; nhưng các địa ngục ấy to nhỏ khác nhau, tuổi thọ trong ấy cũng là dài ngắn mỗi ngục mỗi khác. Kẻ chịu khổ trong ấy sẽ tùy theo nghiệp đă tạo, ai nấy có kiếp số nặng nhẹ khác nhau. Kẻ nặng nhất sẽ là trong một ngày muôn lần sống, muôn lần chết, trải qua vô lượng kiếp. Do khi trước lúc c̣n đang tu nhân, mỗi niệm trong tâm đều là tham, sân, si, tạo nghiệp cực ác, hành thượng phẩm Thập Ác, cho nên cảm thân trong đường này. Kinh dạy: “Những chúng sanh ấy đều là do tự nghiệp (nghiệp của chính ḿnh) cảm vời, tạo mười tập nhân, hứng chịu sáu thứ giao báo”.

          [Mười thứ tập nhân]:

          1) Một là dâm tập (婬習, tập khí dâm dục) giao tiếp, phát khởi thành tướng chà xát, nghiền, mài chẳng ngừng. Do như vậy bèn có ánh lửa sáng rực phát động trong ấy. Như người dùng hai tay tự chà xát vào nhau, tướng ấm nóng sẽ hiện tiền. Do hai thứ tập khí[58] cùng thiêu đốt, cho nên có những chuyện như giường sắt, cột đồng. Mười phương Như Lai đều đích thân trông thấy h́nh tướng [họa hại] của sự hành dâm, cùng gọi [những nỗi họa hại ấy là] “dục hỏa” (lửa dục). Bồ Tát trông thấy dục liền ĺa tránh như [né tránh] hầm lửa.

          2) Hai là do tham tập (貪習, tập khí tham lam) ảnh hưởng lẫn nhau, phát khởi thành sự thu hút lẫn nhau để thu hút, lôi kéo không ngừng. Do như vậy mà tích tụ khí lạnh tạo thành băng cứng, lạnh buốt trong ấy. Như người dùng miệng hút lấy hơi gió, sẽ cảm thấy lạnh. Hai thứ tập khí lấn át nhau; v́ thế, có những chuyện như [địa ngục] Trá Trá, Ba Ba, La La, Thanh, Xích, Bạch Liên, Hàn Băng v.v… Mười phương Như Lai trông thấy h́nh tướng của sự nhiều ham muốn, mong cầu, nên cùng gọi là Tham Thủy (nước tham). Bồ Tát thấy tham, bèn tránh né như [tránh né] nơi dầy đặc chướng khí.

          3) Ba là mạn tập (慢習, tập khí khinh mạn) lấn lướt lẫn nhau, phát khởi thành sự ỷ vào lẫn nhau, tuôn chảy không ngừng. Do như vậy mà có sóng cuộn tung lên, cuồn cuộn, sóng tích tụ thành nước, như người đưa đẩy cái lưỡi trong miệng, sẽ tự cảm thấy có mùi vị. V́ thế, có nước sanh ra (nước miếng). Hai thứ tập khí thôi thúc lẫn nhau, cho nên có [những địa ngục] như Huyết Hà (sông máu), Hôi Hà (sông tro), Nhiệt Sa (cát nóng), Độc Hải (biển độc), Dương Đồng (烊銅, nước đồng nung chảy), Quán Thốn (灌吞, rót nước đồng nung chảy, bắt nuốt hoàn sắt nóng) v.v… Mười phương Như Lai trông thấy sắc tướng của [nỗi họa hại] do ngă mạn gây ra, nên gọi là Ẩm Si Thủy (uống nước si mê). Bồ Tát thấy khinh mạn bèn tránh né như tránh né chỗ chết đuối to lớn.

          4) Bốn là do sân tập (瞋習, tập khí sân hận) xung động lẫn nhau, phát khởi thành sự chống trái lẫn nhau, xung đột không ngớt. Tâm nhiệt bốc lửa, nung đúc chất khí thành kim loại. Do như vậy mà có [các địa ngục] Đao Sơn (núi đao), Thiết Quyết (鐵橛, gậy sắt), Kiếm Thụ (cây có cành nhánh toàn là gươm sắc), Kiếm Luân (ṿng kiếm xoay tṛn), búa, ŕu, thương, cưa. Như người ôm nỗi oán hận, sát khí bốc lên ngùn ngụt. Hai thứ tập khí công kích lẫn nhau; v́ thế, có chuyện thiến, cắt, chặt, chém, giă, đâm, đập, quất v.v… Mười phương Như Lai trông thấy sắc tướng của sự sân hận, gọi nó là Lợi Đao Kiếm (đao, gươm sắc bén). Bồ Tát thấy sân, như tránh né tru lục.

          5) Năm là trá tập (詐習, tập khí gian trá) cùng dụ dỗ, phát khởi thành sự dẫn dụ chẳng ngừng. Do như vậy mà có dây và gỗ chằng buộc, bó chặt, như nước đẫm ruộng, cỏ cây sanh trưởng. Hai thứ tập khí duyên lẫn nhau; v́ thế, có những chuyện như gông, cùm, xiềng, xích, roi, gậy, phang, quất v.v… Mười phương Như Lai trông thấy sắc tướng gian ngụy, cùng gọi nó là Sàm Tặc (讒賊, tên giặc gièm siểm). Bồ Tát thấy sự dối trá như sợ sài lang.

          6) Sáu là cuống tập (誑習, tập khí lừa dối) lường gạt lẫn nhau, phát khởi thành sự lừa đảo lẫn nhau. Dối gạt chẳng ngừng, mặc t́nh gian dối. Do như vậy mà có bụi, đất, phân, tiểu, ô uế bất tịnh như bụi tung theo gió, mỗi thứ đều chẳng thấy. Do hai tập khí dồn ép, cho nên có các sự ch́m đắm, vọt lên, quăng ném, tung bay, rơi xuống, nổi trôi. Mười phương Như Lai trông thấy sắc tướng dối gạt, đều gọi là Kiếp Sát. Bồ Tát thấy dối gạt như đạp phải rắn rết.

          7) Bảy là oán tập (怨習, tập khí oán hận) hiềm nghi lẫn nhau, phát khởi thành sự ngậm hờn. Do như vậy mà có đá bay, ngói rớt, nhồi nhét trong chỗ hẹp, bị giam cầm trong xe tù, chứa trong ṿ, quăng vào túi, như kẻ âm độc nghĩ tưởng, chất chứa điều ác. Do hai tập khí cùng nuốt, cho nên có những sự ném, quăng, bắt giữ, đập, bắn, liệng, túm v.v… Mười phương Như Lai mắt thấy các h́nh tướng oán gia, gọi chúng là Vi Hại Quỷ (loài quỷ làm hại, trái nghịch). Bồ Tát thấy sự oán hận như uống rượu ngâm lông chim Trấm.

          8) Tám là kiến tập (見習, tập khí về kiến giải) soi rọi lẫn nhau, như Tát Già Da (Satkāya-dṛṣṭi, các kiến chấp), kiến giới cấm thủ, hoặc các nghiệp do ngộ giải sai lầm, phát khởi từ sự chống trái, sanh ra sự tương phản. Do như vậy mà có vương sứ, chủ lại[59] thẩm tra, quản trị sổ sách, như người đi đường qua lại trông thấy nhau. Do hai thứ tập khí giao nhau, cho nên có những sự thẩm vấn, khám nghiệm, quyền biến trí trá để tra khảo, hạch hỏi, xem xét, t́m ṭi, vạch trần đến cùng ḥng làm sáng tỏ v.v… Mười phương Như Lai trông thấy h́nh tướng của ác kiến, cùng gọi tên Kiến Khanh (見坑, hầm bẫy kiến giải). Bồ Tát thấy những điều thiên chấp (chấp chặt một bề) hư vọng như vào nơi hang hốc có khí độc.

          9) Chín là uổng tập (枉習, tập khí gây nên sự oan uổng cho người khác) vây bủa, phát khởi thành sự vu cáo, báng bổ. Do như vậy mà có núi ép lại, đá hợp lại, nghiền, xay, cày, mài. Như gă giặc sàm báng, ép bức, oan uổng người lương thiện. Hai thứ tập khí cùng an bài; v́ thế, có các sự như đè, nén, nện, ấn, ép, lọc, đo lường v.v… Mười phương Như Lai trông thấy h́nh tướng của sự gièm báng oán thù, cùng gọi là Sàm Hổ (con cọp gièm siểm). Bồ Tát thấy sự oan uổng như gặp sấm, sét.

          10) Mười là tụng tập (訟習, tập khí thưa kiện) cùng tuyên nói, phát khởi nơi che giấu. Do như vậy mà có sự xét soi, chiếu tỏ. Như lúc giữa trưa, chẳng thể giấu diếm h́nh bóng. Do hai tập khí phô bày lẫn nhau, cho nên có những sự như bạn ác, nghiệp kính, hỏa châu, bộc lộ, túc nghiệp, đối chứng v.v… Mười phương Như Lai trông thấy sắc tướng của sự giấu diếm, cùng gọi tên là Âm Tặc. Bồ Tát thấy “che giấu” giống như đội ḥn núi cao để đi vào biển rộng!

          Sáu giao báo (交報) là ǵ? Hết thảy chúng sanh do sáu thức tạo nghiệp, chiêu cảm ác báo, lưu xuất từ sáu căn.

          1) Một là Kiến Báo (見報, quả báo của cái Thấy), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là do nghiệp Thấy giao cảm; do vậy, khi lâm chung, trước hết, thấy lửa mạnh đầy tràn các cơi trong mười phương. Thần thức của người chết bay lên, đọa lạc, theo khói mà vào địa ngục Vô Gián.

          2) Hai là Văn Báo (聞報, quả báo của cái Nghe), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Do nghiệp của cái Nghe giao cảm, khi lâm chung, trước hết, thấy sóng cuộn nhấn ch́m trời đất. Thần thức của người chết giáng xuống, tuôn chảy, nương theo sự tuôn chảy ấy mà vào địa ngục Vô Gián.

          3) Ba là Khứu Báo (齅報, quả báo của cái Ngửi), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là do nghiệp của cái Ngửi giao cảm, khi lâm chung, trước hết, thấy độc khí phủ kín xa gần. Thần thức của người chết từ dưới đất vọt lên, vào trong địa ngục Vô Gián.

          3) Bốn là Vị Báo (味報, quả báo của cái Nếm), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là do nghiệp Nếm giao cảm, khi lâm chung, trước hết trông thấy lưới sắt, lửa mạnh cháy hừng hực, chói ngời phủ trùm trọn khắp thế giới. Thần thức của người chết lọt xuống, xuyên mắc vào lưới, treo ngược đầu xuống dưới, vào trong địa ngục Vô Gián.

          5) Năm là Xúc Báo (觸報, quả báo của sự đụng chạm), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là cái nghiệp do sự đụng chạm giao cảm, khi lâm chung, trước hết, thấy núi lớn từ bốn phía ép lại, chẳng c̣n nẻo thoát ra. Thần thức của người chết thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp, sói, sư tử, ngục tốt đầu trâu, tay cầm thương, giáo, xua đuổi [tội nhân] chạy vào cửa thành, hướng tới địa ngục Vô Gián.

          6) Sáu là Tư Báo (思報, quả báo của sự suy nghĩ), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là do cái nghiệp suy tư giao cảm, khi lâm chung, trước hết, thấy gió ác thổi tan nát cơi nước. Thần thức của người chết bị thổi vất vưởng xoay tṛn trên không, rơi xuống, nương theo gió mà đọa vào địa ngục Vô Gián.

          Đấy gọi là mười nhân và sáu quả của địa ngục, đều do sự mê vọng của chúng sanh tạo ra. Do các thứ nhân quả khó thể nói trọn hết, nay chỉ trích dẫn những phần thiết yếu thuộc về sự báo ứng trong ba đời, ghép vào đây nhằm nói rơ lư “nặng, nhẹ, giảm bớt, tước đoạt”, ngơ hầu người đời nh́n vào điều răn rơ ràng này sẽ biết tỉnh ngộ, kiêng dè vậy!

 

          (Chánh văn) Hựu chư hoạnh thủ nhân tài giả, năi kế kỳ thê tử gia khẩu dĩ đáng chi, tiệm chí tử táng. Nhược bất tử táng, tắc hữu thủy, hỏa, đạo tặc, di vong khí vật, tật bệnh, khẩu thiệt chư sự, dĩ đáng vọng thủ chi trực.

          (正文)又諸橫取人財者。乃計其妻子家口以當之。漸至死喪。若不死喪。則有水火盜賊。遺亡器物。疾病口舌諸事。以當妄取之直。

          (Chánh văn: Lại c̣n những kẻ cướp ngang tài vật của người khác th́ vợ con, cả gia đ́nh của hắn phải hứng chịu dần dần cho đến chết mất, tang tóc. Nếu không chết chóc, tang tóc, sẽ bị những chuyện như tai họa nước, lửa, trộm cướp, mất mát vật dụng, bệnh tật, khẩu thiệt để đền trả cái giá cướp càn).

         

          Câu trước đă nói rơ sự chịu báo theo từng sự, c̣n đoạn này lại nói về chuyện “ngang ngược đoạt lấy”, tức là nói về kẻ có thế lực. Chuyện này bất nhân bất nghĩa tột cùng, nhưng người đời lại khó thể tránh khỏi nhất. V́ thế, lại đặc biệt nêu ra để dạy mọi người. “Hoạnh” () là tàn bạo, ngang ngược mà làm, dùng oai thế lấn lướt để uy hiếp. “Trực” () có nghĩa là “nguyên số” (原數, đúng với con số ban đầu). “Đáng trực” (當直) là phù hợp với số lượng vốn đă đoạt lấy. Những kẻ cướp ngang tài vật của người khác, phần nhiều v́ mưu tính cho vợ, con, người nhà, chẳng biết thần Tư Mạng cũng tính toán [đ̣i nợ] ngay từ vợ, con, người nhà của họ để báo trả sự tham ác. [Như vậy th́ cứ tưởng khiến cho vợ, con, người nhà] được lợi mà chính là làm hại họ vậy. Dùng t́nh cốt nhục hữu t́nh, đổi lấy kim tiền vô t́nh, cũng quá đáng tiếc lắm thay! Hơn nữa, do điều ác tích tập, tuổi thọ đă tận, thân ta cũng chẳng tránh khỏi chết chóc, chôn vùi, vậy th́ muốn có món kim tiền ấy có ích ǵ đâu? Nếu toan hối lộ nhằm nhờ cậy bậc quyền thế trong chốn âm ty, chỉ sợ [âm phủ] chưa chắc đă khoan dung. Cho tới khi ấy, có ai c̣n chẳng đành chịu thấy hết thảy đều rỗng tuếch, [nay chưa trông thấy quả báo thảm khốc] chỉ là do [sự báo ứng] chậm trễ đó thôi! Sao bằng ngay trong lúc này, khi báo ứng c̣n chưa xảy đến, hăy sớm nghĩ đặt ḿnh vào t́nh cảnh đó, may mà điều ác c̣n hơi nhẹ, chưa đến nỗi chết chóc, tang tóc; nhưng [các tai nạn về] nước, lửa, trộm cướp, mất mát đồ đạc, bệnh tật, khẩu thiệt, con cháu không ra ǵ, những cách thức khiến cho tài vật của ta bị hao hụt rất nhiều. Đối với những kẻ ngang ngược đoạt lấy tài vật của kẻ khác, người gảy bàn tính to lớn [để tính toán] trong chốn âm thầm cũng ngang ngược đoạt lấy [tiền tài của bọn họ]. Rốt cuộc tiền tài chẳng c̣n ǵ, mà nỗi kinh sợ do nước, lửa, trộm cướp, nỗi áo năo, căm hận do bị mất mát đồ đạc, nỗi đau đớn, khổ sở do bệnh tật, niềm phẫn hận, nỗi nhục nhă do khẩu thiệt, nỗi xấu hổ, điếm nhục do con cháu không ra ǵ [đă sờ sờ ra đó], rành rành là chính ḿnh bị thua thiệt, đă chẳng có cách nào bồi thường, lại c̣n thiếu nợ bao nhiêu tội lỗi oan nghiệt, chẳng được tự tại, bù đắp chẳng hết, biết làm thế nào đây? Kẻ đoạt lấy ngang ngược, hễ nghĩ đến chỗ này, sẽ không chỉ là tê buốt tấm ḷng, mà cái tâm cũng sẽ nguội lạnh!

          H́nh Thụ đi sứ Tân La[60], trở về, đi qua Thán Sơn, thấy có hơn một trăm khách buôn, chở theo mấy thuyền hàng hóa, giá trị mấy chục vạn mân[61]. H́nh Thụ bèn tập kích, giết chết họ, đoạt lấy số hàng hóa ấy. Cho đến khi con hắn là H́nh Tể cùng với Vương Hồng mưu phản, hắn bèn bị giết chết. Vợ, con, người nhà đều chết sạch chẳng c̣n ǵ!

          Vi Công Cán làm châu mục Quỳnh Châu hay ngang ngược chiếm đoạt tài vật. Tới khi hắn măn nhiệm, trở về, thuyền lật trên sông, vật dụng, tài sản mất sạch, chỉ thoát được cái thân.

          Lữ Sư Tạo làm Thứ Sử Tŕ Châu, xâm phạm, chiếm đoạt tài sản của dân chúng, chở khẳm thuyền trở về, bỗng lửa đốt rụi những món tài vật ấy! Chỉ có thuyền và người là chẳng bị thương tổn.

          Đinh Vị[62] bị đày đi Châu Nhai, bị đạo tặc cướp bóc, mất sạch những thứ sở hữu. Không lâu sau, hắn chết ngắc.

          Mă Tương tánh tham lam, làm Tào Ty[63] ở Tây Xuyên. Gặp loạn Lưu Hu, Mă Tương bỏ vàng xuống giếng [để giấu]. Sau khi cuộc biến loạn được dẹp yên, chẳng thể t́m thấy đâu nữa, mất sạch tất cả.

          Hai gă Hồ Ứng Quế và Lục Nhất Kỳ kết bè đảng dụ dỗ một đứa con quan cờ bạc để chiếm gia tài của nó. Bỗng họ Hồ bị mù một mắt, c̣n gă họ Lục bị xụi một chân. Chúng nó tàn phế, nghèo nàn, túng quẫn suốt đời.

          Cường Hoài Nhân tham lam, do ngang ngược [chiếm đoạt] mà trở thành giàu có. Con cái hắn không ra ǵ, thích cờ bạc, gái gú, phóng đăng, không bữa nào chẳng có chuyện dính líu khẩu thiệt, thưa kiện, tù ngục. Chẳng đầy mười năm, gia sản khánh kiệt, lênh đênh, khốn khổ. Con cháu không ngóc đầu lên nổi.

          Những trường hợp [vừa nêu] trên đây đều là những chuyện về những kẻ ngang ngược chiếm đoạt tài sản của người khác, tùy theo từng sự việc mà thể hiện sự báo ứng xứng đáng [với tội lỗi của bọn chúng], nhưng nặng nề nhất chính là sự chết chóc, tang tóc của bản thân H́nh Thụ và người nhà của hắn. Trong cơi đời có chuyện bất minh, chứ cơi trời chẳng có chuyện ǵ không báo ứng; con người có thể vận dụng cơ mưu xảo quyệt, cơi trời báo ứng càng hay khéo hơn. Ôi! Đáng sợ thay!

 

          (Chánh văn) Hựu uổng sát nhân giả, thị dịch đao binh nhi tương sát dă.

          (正文)又枉殺人者。是易刀兵而相殺也。

          (Chánh văn: Lại c̣n những kẻ giết oan người khác, sẽ đổi lại bị giết trong chiến tranh).

         

          Phần trước nói về chuyện ngang ngược chiếm đoạt, kế đó, nói về chuyện giết chóc oan uổng. Chuyện giết chóc oan uổng thường là do khởi nguồn từ yêu mến tài sản, tiếc nuối tài sản mà ra. So với chuyện chẳng phải là do chính ḿnh mà giết chóc, có khác ǵ đâu?” như Mạnh Tử đă nói[64] th́ ngữ ư giống nhau, một mực thẳng thừng, nhanh chóng, thống khoái nhất. Nói đại lược về nguyên do của chuyện giết chóc oan uổng th́ có bảy điều:

          1) Một là xử án, do ăn hối lộ mà khiến cho kẻ khác bị oan khuất, bị vu hăm, mặc t́nh [hành hạ] thảm khốc.

          2) Hai là dẫn quân đội, [viện cớ tác chiến] để tàn sát, bắt bớ, cướp bóc tài vật, ngụy tạo lư do để chặt đầu người khác ḥng mạo nhận chiến công.

          3) Ba là dùng thuốc, do mong cầu tài vật, [nhưng không thông thạo dược tánh], bèn cắt thuốc sai lầm, mê muội thiên lư mà công phạt chứng bệnh [khiến cho bệnh nhân bị tàn phế hay mất mạng].

          4) Bốn là phá thai, hoặc do tiếc nuối những khoản tiền tốn kém [để nuôi con thơ] mà d́m chết con gái. Do dục vọng phóng túng mà phá thai.

          5) Năm là bọn sâu mọt trong nha môn, lường gạt tài sản, hăm hại, giấu diếm cấp trên, hoành hành ngược đăi.

          6) Sáu là Phong Thủy, chuyển dời phần mộ hại người, [khiến cho người ta lâm vào] cảnh tuyệt địa, vướng mắc tai họa.

          7) Bảy là thầy dốt khiến cho người khác lỡ làng suốt đời, làm hại con em của người ta.

          Tuy chẳng giống như sát nhân, [nhưng khiến cho người ta bị] oan uổng, trắc trở giống hệt. Những tội lỗi ấy, luật lệ sẽ chẳng tha thứ. Nếu không mắc phải họa người, ắt sẽ bị trời trừng phạt. Tuy nói là giết người khác, rốt cuộc sẽ là giết ḿnh vậy!

          Vào đời Tống, thiền sư X… lúc trẻ say rượu, cùng người khác tranh đoạt tài vật, dùng hết sức đánh người khác, kẻ đó chết ngay lập tức. Sư sợ tội, trốn xa, xuất gia tu hành siêng khổ, bèn triệt ngộ, trở thành đại thiền sư, khai đường thuyết pháp, học tṛ tới mấy trăm người. Lúc Sư bảy mươi mấy tuổi, bỗng một hôm, Sư tắm gội, thăng ṭa, bảo đại chúng rằng: “Các vị đừng hành động, đừng nói ǵ, để xem một tầng công án của lăo tăng từ hơn bốn mươi năm trước!” Sư ngồi tới giờ Ngọ, có một viên doanh biện (營弁, quan vơ cấp thấp) đột ngột t́m tới, giương cung tên chực bắn. Sư chắp tay, bảo: “Lăo tăng kính chờ đă lâu!” Viên doanh biện kinh hăi, bảo: “Ta và ḥa thượng chẳng biết nhau, vừa trông thấy liền muốn giết, chính ḿnh cũng chẳng hiểu duyên cớ!” Sư đáp: “Thiếu nợ phải trả tiền, giao dịch công bằng, chỉ xin Ngài ra tay, chẳng cần phải chần chừ, ngờ vực”. Sư ngoái lại, bảo đại chúng: “Sau khi ta chết, các vị hăy mời vị cư sĩ này dùng cơm, đưa tiễn. Nếu có nửa câu sân hận, hoặc kết tội, sẽ là nghịch trời, trái đạo, chẳng phải là đệ tử của ta”. Viên doanh biện càng nghi, kiên quyết vặn hỏi [nguyên do của] lời nói ấy. Sư đáp: “Ông là người đă trải qua hai đời, cho nên quên bẵng. Tôi là kẻ [chỉ mới sống] một đời cho nên chẳng quên”. Do vậy, Sư kể lại chuyện cũ; viên doanh biện vốn chẳng biết chữ, bỗng ngâm lớn rằng:

          Oan oan tương báo hà thời liễu,

          Kiếp kiếp tương triền khởi ngẫu nhiên,

          Bất nhược dữ Sư câu giải thích.

          Như kim lập địa văng Tây Thiên”

          (Oan oan tương báo bao giờ hết,

          Kiếp kiếp buộc ràng há ngẫu nhiên!

          Sao bằng cùng Sư trừ oán hận,

          Nay ta lập tức tới Tây Thiên).

          Nói xong, tay cầm cung tên, đứng sừng sững qua đời. Sư từ ṭa bước xuống, xuống tóc, đặt pháp danh cho viên quan doanh biện ấy, thay quần áo, nhập liệm [cho người ấy] rồi cũng ngồi xếp bằng, từ biệt đại chúng mà hóa. Sát nhân từ bốn mươi năm trước, đền mạng vào bốn mươi năm sau; đ̣i nợ tuy chậm, trả nợ như nhau. May mắn là cả hai vị đều là người có bản lănh to lớn; v́ thế, oan gia trên đường, đúng lúc chạm mặt nhau, đối đầu ác liệt, đâm ra trở thành nhân duyên tốt đẹp. Cái chết của người ấy (tiền thân của viên quan doanh biện) đă ép người mắc nợ (vị ḥa thượng) tu hành chứng đạo. Cách đối đăi của thiền sư đă thôi thúc chủ nợ cởi gỡ oán kết, sanh thiên. Đấy là duyên thù thắng, chuyện lạ lùng khó gặp gỡ trong ngàn đời vậy! Nếu chẳng phải là [vị thiền sư] thật sự đắc đạo, hoặc viên quan doanh biện không có bản lănh ấy, ắt sẽ chẳng chịu xóa nợ không đ̣i. V́ thế, “giết người chẳng khác giết chính ḿnh” cũng rơ rệt thay. Đối với bảy thứ giết chóc oan uổng đă được nêu bày trên đây; mọi người hăy tùy theo từng việc [để tự xét ḿnh] mà răn ngừa, chớ nên vay mượn bừa băi những món nợ rất nghiêm trọng vậy!

 

          (Chánh văn) Thủ phi nghĩa chi tài giả, thí như lậu bô cứu cơ, trấm tửu chỉ khát, phi bất tạm băo, tử diệc cập chi.

          (正文)取非義之財者。譬如漏脯救饑。鴆酒止渴。非不暫飽。死亦及之。

          (Chánh văn: Kẻ chiếm giữ tài sản phi nghĩa, ví như dùng thịt nhiễm độc[65] để cứu đói, dùng rượu ngâm lông chim Trấm để khỏi khát, không chỉ là chẳng tạm no mà c̣n phải chết).

 

          Đoạn này lại nói rơ sự tai hại do tham lợi. Do cái tâm ham lợi của người đời nặng nề, cho nên [đức Thái Thượng] chẳng kiêng nể dùng lời lẽ nặng nề, nhắc đi nhắc lại. Đức Thái Thượng ḷng đau đáu, căn dặn nhiều lượt, [tấm ḷng tha thiết] ấy đă đạt tới tột bậc. Những tội như dâm, giết, hung ác, phản nghịch v.v… người đời chẳng dễ làm, mà hạng người như vậy (hạng người phạm những tội ấy) cũng chẳng thấy nhiều. Chỉ riêng phương cách để chiếm đoạt tài sản [của người khác] là thiên biến vạn hóa, chẳng thể nói trọn hết được. Trong thiên hạ, không có ngày nào chẳng dùng đến tiền tài, cho nên trong thiên hạ, chẳng có ai không lấy tiền tài. Trong thiên hạ, [đă là] không có ai chẳng lấy tiền tài, nhưng phương pháp để đạt được [tiền tài] đúng đạo nghĩa th́ ít ỏi, bất nghĩa th́ nhiều, chẳng cần phải hỏi cũng biết. “Nghĩa” là ǵ vậy? T́nh và lư đó thôi. Lấy mà người khác vui vẻ cho ta, th́ gọi là đúng t́nh, gọi là “nghĩa”. [Người khác] chẳng vui vẻ cho ta th́ sẽ chẳng hợp t́nh, mà cũng là phi nghĩa. Đă lấy rồi mà ta có thể nói với người khác th́ gọi là “hợp lư”, gọi là “nghĩa”. Nếu chẳng thể nói cho ai biết, tức là bất hợp lư và phi nghĩa. Bất luận là ít hay nhiều, nếu có được [tài vật ấy] phi nghĩa mà vẫn có thể an nhiên sử dụng, [vậy th́] cũng chẳng ngại thuận theo ḷng người mà cho phép làm như vậy. Thế nhưng, đức Thái Thượng ra rả răn dạy như vậy, là v́ biết trong cơi đời, có kẻ lấy tiền tài bằng cách phi nghĩa, tức là có kẻ bị mất mát tiền tài một cách phi nghĩa. Một đằng th́ vui sướng, một đằng th́ đau ḷng, hoặc một kẻ khoái trá, mười người đau ḷng, hoặc trăm người đau ḷng, hoặc ngàn vạn người đau ḷng. Đạo trời khéo báo đền, có lẽ nào hậu đăi kẻ vui sướng mà đối xử bạc bẽo với kẻ đau ḷng ư? Trong ngấm ngầm, đối với những nỗi bất b́nh, [thần minh] suy nghĩ bù đắp cho chuyện ấy, ắt đều xắn tay áo mà thực hiện. Đức Thái Thượng biết nguyên do này, bèn nghiêm mặt răn dạy họ rằng: “Chớ đoạt lấy [tiền tài của người khác]”, người ta chẳng nghe theo! Dùng lời lẽ dịu dàng khuyên nhủ người ta mà chẳng thể được, họ chẳng tin, bèn dùng lời lẽ khiến cho họ kinh sợ để khuyên họ rằng: “Kẻ có được tài sản [bằng cách chiếm đoạt] sẽ gặp chuyện bất tường”, [thế mà] người ta vẫn cứ tham cầu những thứ trước mắt, chẳng rảnh đâu để suy nghĩ sâu xa. Không ǵ bằng đánh thức họ: “Đạt được và chẳng đạt được là như nhau”, như vậy th́ ḷng tham của con người may ra cũng giảm bớt đôi chút! V́ thế, dùng thịt ngấm nước, rượu ngâm lông chim Trấm làm thí dụ. Thịt ngấm nước, rượu ngâm lông chim Trấm hễ lọt vào miệng, sẽ chết ngay lập tức. V́ thế, kẻ tuy ngu cuồng chưa có ai nếu đă biết là thịt ngấm nước bị mốc, rượu ngâm lông chim Trấm mà vẫn cứ tham lam ăn uống, nhấc đũa, ngậm chén! Biết tài vật phi nghĩa là thịt ngấm nước, rượu ngâm lông chim Trấm, dẫu ngàn vạn lọt vào tay, cũng sẽ thấy là vật vô dụng, chẳng dùng đến, há chẳng phải là “đạt được” và “không đạt được” đều như nhau ư? Có được mà chẳng dùng được, sẽ là vật đáng bỏ đi, vô ích trong cơi đời. Trọn hết tâm thuật bại hoại, sử dụng trọn hết mưu mẹo ḥng cầu vật bỏ đi, vô ích trong thiên hạ để làm ǵ cơ chứ? Nhưng thịt bị ngấm nước thơm tho như chả nướng, rượu ngâm lông chim Trấm ngon ngọt chẳng kém Đề Hồ. Người ta thấy mùi thơm tho, vị ngon ngọt, lại dấy lên tâm niệm cầu may: “Chưa chắc đă thật sự có chất độc!” [Do vậy], dẫn đến t́nh trạng hiếm kẻ nào không uống tít cung thang! Tới khi phun ra chẳng nổi, nuốt xuống chẳng thể, đứt ruột, nứt da, chết chẳng kịp trở tay rồi mới than thở: “Chẳng trông thấy sớm hơn, chớ nên ăn uống là được rồi!” Canh rau, cơm lúa mạch, rượu quê, rau núi, lọt vào miệng tuy chẳng có mùi vị ǵ cho mấy, hơi say lâng lâng, chưa trọn hết hứng thú, nhưng an b́nh no dạ, xoa bụng tự đắc. Sự khổ sở và niềm vui sướng ấy khác biệt như thế nào? Những câu chuyện nhằm chứng tỏ lời răn dạy này có thể thấy rải rác trong những đoạn văn trước, đă vừa tường tận, rơ ràng, vừa lại trọn hết; do vậy, ở đây chẳng cần phải ghi thêm nữa!

 

          (Chánh văn) Phù tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi, nhi cát thần dĩ tùy chi. Hoặc tâm khởi ư ác, ác tuy vị vi, nhi hung thần dĩ tùy chi.

          (正文)夫心起於善。善雖未為。而吉神已隨之。或心起於惡。惡雖未為。而凶神已隨之。

          (Chánh văn: Hễ dấy thiện niệm, tuy chưa làm lành, cát thần đă đi theo. Tâm móng niệm ác, tuy chưa làm ác, hung thần đă theo).

         

          Nêu ra chữ Tâm () nhằm dạy mọi người mầm mống thiện ác, ngơ hầu mọi người sẽ biết cẩn thận từ chỗ khởi nguồn. Hăy nghiền ngẫm chữ Phù () và chữ Hoặc () [trong lời răn trên đây], [sẽ ngộ ra trong ấy] có ư nghĩa “hễ rời khỏi thiện liền đọa vào ác”. Hăy nên xem lời răn này, kèm thêm chương “kê minh nhi khởi” (gà gáy liền thức dậy)[66] trong sách Mạnh Tử nhiều lượt. Kinh Phật dạy: “Tam giới vô biệt pháp, duy thị nhất tâm tác” (Tam giới chẳng có pháp nào khác, chỉ do một tâm tạo ra). Lại nói: “Năng tùy duyên nhiễm tịnh, biến tạo thập pháp giới” (Có thể tùy theo duyên nhiễm hay tịnh, mà tạo ra trọn khắp mười pháp giới). Thế gian và xuất thế gian, chẳng ngoài tứ thánh lục phàm pháp giới. Mười pháp giới như thế vốn chẳng có tự tánh, đều do nhất tâm tạo ra. Vốn dĩ cái tâm này tuy nói là “bất biến”, nhưng nó thật sự tùy duyên. Do nó tùy duyên nên nói là “năng tạo” (có thể tạo). V́ thế, tâm có thể làm Phật, mà tâm [cũng] có thể làm chúng sanh, tâm tạo thiên đường, tâm tạo địa ngục. “Tâm khởi” tức là một niệm chớm nẩy. Một niệm tuy nhỏ bé, [có thể] cảm động trời đất, thông thấu quỷ thần. Ai có thể dấy lên một thiện tâm, chỉ một niệm ấy là lá bùa thiêng liêng để phá địa ngục, là gươm trí huệ để chém sạch các thứ tà, là thuyền Từ để vượt biển khổ, là đèn sáng soi tan tăm tối. Nếu dấy lên một ác tâm, ắt tam đồ hiện tiền, trầm luân chẳng dứt. V́ thế, cát thần hay hung thần tùy thuộc ư niệm mà đến, chẳng cần phải chờ đợi mảy may nào! Đời Minh, Hám Sơn đại sư nói: “Cần phải thấy thấu suốt từ chỗ niệm dấy lên, khi sự chưa xảy đến th́ đừng lầm lạc sanh khởi. Khi ác niệm dấy lên, một đao chặt đứt phăng, ắt nghiệp căn lập tức tiêu trừ, vọng niệm có chỗ nào để an trụ? Đầu mối để siêu phàm nhập thánh hoàn toàn ở chỗ này”.

          Xưa kia, Nguyên Tự Thật hận gă họ Mâu phụ bạc ân nghĩa, canh năm muốn đến giết hắn. Trên đường, ông ta đi qua một cái am, am chủ là ông Hiên Viên, sáng sớm tụng kinh, thấy có mấy trăm con quỷ h́nh thù kỳ quặc, bộ dạng lạ lùng, con nào con nấy đều cầm đao hoặc búa theo Nguyên Tự Thật mà đi, khí thế hết sức hung ác. Chẳng mấy chốc, chúng nó lại lui về. Những người tùy tùng [của Tự Thật] đều đội măo vàng, giắt ngọc, đông đảo cỡ cả trăm người, [cầm theo] hương, hoa, tràng phan, dáng điệu vẻ mặt ḥa hoăn, vui tươi. Ông Hiên Viên gọi Tư Thật lại hỏi, Tư Thật bèn nói: “Họ Mâu phụ ân tôi, tôi muốn đến giết nó. Đến cửa nhà ông, [tôi lại nghĩ] tuy họ Mâu phụ bạc tôi, nhưng vợ con nó tội t́nh ǵ? Nó lại c̣n có mẹ già. Giết một ḿnh nó, thật ra là giết chết cả nhà nó, sao nỡ nhẫn tâm! Bèn thay đổi ư niệm trở về”. Ông Hiên Viên kể lại những ǵ đă thấy, lại c̣n chúc mừng: “Chuyện ông đă làm, thần minh đă biết, ắt sẽ hưởng lộc sâu dầy”. Tự Thật bèn dũng mănh hướng lành, gắng sức chẳng ngơi. Về sau, quả nhiên đỗ đạt, đạt tới địa vị khanh tướng.

          Lăo Tử nói: “Thiện và ác khác biệt đến cỡ nào!” Tôi đă từng trộm nghiền ngẫm lời ấy, [hiểu rằng]: Nói chung, hai nẻo thiện ác, thoạt đầu chẳng cách xa nhau, đặc biệt là bắt nguồn từ một niệm trong cuộc sống hằng ngày có đúng và có sai. Có thể hiểu lư này, luôn thiết tha tu tỉnh, tự nhiên toàn thể sẽ là thiện, phước đức không ǵ chẳng tăng, họa hoạn không ǵ chẳng lui mất. Nh́n vào một niệm của ông Nguyên là thiện, bèn chuyển họa thành phước, nhanh chóng như thế đó. Nói “tâm dấy lên thiện hay ác, cát thần hay hung thần bèn thuận theo” đă được chứng minh ở đây, cũng chẳng đáng tin rành rành ư?

 

          (Chánh văn) Kỳ hữu tằng hành ác sự, hậu tự cải hối, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, cửu cửu tất hoạch cát khánh. Sở vị chuyển họa vi phước dă.

          (正文)其有曾行惡事。後自改悔。諸惡莫作。眾善奉行。久久必獲吉慶。所謂轉禍為福也。 

          (Chánh văn: Nếu kẻ đă từng làm chuyện ác, về sau sửa đổi, hối hận, chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, lâu ngày chầy tháng, ắt được cát khánh, đó gọi là “chuyển họa thành phước” vậy).

         

          Đoạn này nêu ra hai chữ Cải Hối (改悔), dạy mọi người phương pháp để hướng thiện, sửa lỗi, là then chốt để xoay họa, chuyển phước. “Cải” () là sửa lỗi. “Hối” () là sám hối. Trong thiên hạ, người thuần thiện th́ ít, kẻ đă từng làm ác th́ nhiều, nhưng kẻ bất thiện đều có thể trở lại thành người chí thiện. V́ thế, đức Thái Thượng rát miệng rườm lời, trong phần kết thúc thiên sách này, Ngài bèn nói ra ư chỉ cội gốc của sự cải hối, hét to [để đánh thức kẻ vẫn lẩn quẩn] nơi cửa ải mê muội, khiến cho họ “quay đầu là bờ”. Kế đó, Ngài lại sợ người ta sẽ hiểu lầm hai câu “buông dao đồ tể xuống, ngay lập tức thành Phật” mà vọng tưởng dùng một chén nước để cứu cả xe củi đang cháy. V́ thế nói “đừng làm ác điều ác”, để mong khoét bỏ hết sạch [vọng tưởng] ấy. Lại nói “vâng làm các điều thiện” để mong [mọi người] sẽ tích lũy viên măn [thiện hạnh], hành lâu ngày chầy tháng, sẽ có thể trừ khử những nỗi oan khiên trước kia, những mối họa c̣n thừa sót mới tiêu. Sau đấy, hành thiện ngày càng viên măn, phước mới tự đưa đến. Những kẻ ngu trong hiện tại tự biết chính ḿnh đă làm những điều bất thiện, hoặc là do lương tâm phát hiện, toan nhờ vào tăng nhân, đạo sĩ tuyên đọc, lễ bái sám văn ḥng được tiêu tội, đúng là muốn dùng một chén nước để cứu xe củi [đang cháy] vậy! Há chẳng phải là lầm lạc to tát ư? Huống hồ thường là thoạt đầu hối hận; về sau, lỗi lại tăng thêm! V́ thế, rốt cuộc đến nỗi ch́m lỉm trong biển khổ, táng thân, diệt tánh, buồn thay! Nếu kẻ nào hối cải kiểu đó, há chẳng phải là đă hết sức cô phụ ư ra rả bảo ban, răn dạy của đức Thái Thượng ư?

          Than ôi! Đức Thái Thượng dạy người ta phương pháp sửa lỗi, phương pháp sám hối, mấy lời ấy hết sức trọng yếu, khẩn thiết, [đối với tội lỗi của con người, đúng là] đâm mũi kim nào cũng thấy máu. Đó gọi là một viên thần đan điểm sắt thành vàng, một lời chí lư chuyển phàm thành thánh. Ai nấy hăy nên quyết chí thề nỗ lực thực hiện, ngơ hầu ứng hợp ḷng Từ rộng lớn. Nay trước hết, nói rơ phương pháp sám hối; kế đó, nói rơ phương cách sửa lỗi. Sám hối là “cải văng tu lai” (sửa đổi những sai lầm trong quá khứ, từ nay tu tập), là đạo trọng yếu để sanh ra điều thiện, diệt trừ điều ác. V́ thế, hăy nên vun bồi thiện căn, [ngơ hầu] các điều thiện đều sanh. Tội căn hăy nên phát lộ th́ các tội đều diệt

          1) Một là chánh tín nhân quả, chẳng mê, chẳng lầm lạc, [biết rơ] “làm thiện được phước, làm ác mắc họa”. Tuy [các nghiệp nhân] chẳng có tác giả, nhưng quả báo chẳng mất. Tuy niệm niệm đều diệt, nghiệp chẳng bại vong. Tín là cội nguồn của đạo, do trí mà có thể nhập. Đấy là căn bản của các điều thiện. Dùng sự chánh tín này để phá trừ cái tâm Nhất Xiển Đề.

          2) Hai là sám hối tội ác, hổ thẹn làm gốc: Thẹn v́ ta phạm tội này, chẳng được dự vào loài người; xấu hổ ta do tội này, ắt bị trời phạt. Đấy gọi là bạch pháp nhằm phá trừ pháp “không biết thẹn”.

          3) Ba là sợ hăi vô thường. Một hơi thở ra, chẳng hít vào được nữa, mạng liền theo đó mà diệt, sẽ theo nghiệp chịu báo, luân chuyển vô cùng. Đă ngộ vô thường, đấy là [cơ sở để] phá dẹp cái tâm chẳng sợ ác đạo.

          4) Bốn là phát lộ, [tức là] hướng về người khác bộc bạch tội lỗi nặng nhẹ. Do phát lộ nên tội liền cháy khô, như chặt rễ cây, cành nhánh bèn xơ xác, rơi rụng. Đấy là phá trừ cái tâm che giấu vậy.

          5) Năm là đoạn cái tâm tương tục, rốt cuộc xả ác, quyết tâm dũng mănh như đao thép chặt đứt mọi vật; hễ chặt xuống, thảy đều đứt rời. Đấy chính là phá trừ cái tâm tương tục vậy.

          6) Sáu là phát Bồ Đề tâm, dẹp trừ khắp hết thảy các nỗi khổ, ban trọn khắp hết thảy các niềm vui. Do cái tâm rộng lớn ấy, phá trừ cái tâm duyên trọn khắp hết thảy ác nghiệp.

          7) Bảy là tu công để bù lỗi, siêng năng sách tấn ba nghiệp, tinh tấn chẳng ngơi. Đấy là tu công lập đức để phá trừ cái ác tâm “chẳng tu ba nghiệp, chẳng dấy khởi tội lỗi.

          8) Tám là thủ hộ chánh pháp, chẳng nghĩ tới tà sư ngoại đạo phá hoại Phật pháp. Đấy là [phương cách để] thay đổi cái tâm “phá diệt hết thảy các thiện sự”.

          9) Chín là nghĩ tới vô lượng công đức, thần thông, trí huệ của mười phương Phật xót thương gia hộ, trừ tội cho ta, [đấy chính] là thanh lương diệu dược. Đấy là [phương cách] thay đổi phá trừ cái tâm “nghĩ tới ác tri thức”.

          10) Mười là quán tánh của tội là Không. Tội từ tâm sanh, lại từ tâm diệt. V́ thế nói: “Nếu tâm diệt th́ tội cũng mất”. Nếu biết tội phước vô chủ, tâm thể (bản thể của cái tâm) tự là không, trở về nguồn cội, rốt ráo thanh tịnh. Đấy là phương pháp để thay đổi, phá trừ cái tâm vô minh điên đảo chấp trước. Kinh dạy: “Biển hết thảy các nghiệp chướng đều sanh từ vọng tưởng. Nếu muốn sám hối, hăy ngồi ngay ngắn niệm Thật Tướng, các tội như sương, móc, huệ nhật (vầng mặt trời trí huệ) có thể tiêu trừ. Do vậy, hăy nên chí tâm sám hối. Như cái áo dơ bẩn suốt trăm năm, có thể giặt sạch sẽ trong một ngày. Như tấm gương cổ ngàn năm, có thể trong một lúc lau chùi đến mức tỏa sáng, có thể giải trừ oan khiên ngàn đời muôn kiếp, có thể diệt tội Tứ Trọng, Ngũ Nghịch”. Sám hối như thế, có ác nào chẳng diệt, thiện nào chẳng sanh?

          Ngài A Na Luật trong đời xưa kia vốn là một tên giặc cướp. Ban đêm tới chùa Phật, thấy ngọn đèn thờ Phật sắp tắt, bèn rút mũi tên khêu bấc đèn, đèn bỗng sáng bừng, chói ngời lóa mắt. A Na Luật sợ hăi, lập tức bỏ ác theo thiện, các điều ác dần dần tiêu diệt, muôn điều thiện đều tṛn đầy, bèn được chứng quả.

          Đời Tống, Dương Trọng Ḥa vốn giữ chức Thôi Tư ở Hứa Châu, trong niên hiệu Thiên Thánh[67] bị sai tới Thái Châu để xét duyệt các vụ án. Do phán quyết oan uổng, ông bị Bắc Cực (Tử Vi Đại Đế) tấu tŕnh [Thượng Đế], sắp bị [thiên đ́nh] phạt nặng. Trọng Ḥa hối hận, sợ hăi, lập tức bỏ chức quan xử án, thề tu một trăm điều thiện để chuộc lỗi. Mỗi lần gặp tăng đạo qua lại, người nghèo cùng thiếu thốn, góa bụa, mồ côi, trơ trọi, tang ma hoặc bệnh tật ngặt nghèo, ông không ǵ chẳng giúp đỡ, châu cấp. Chẳng đầy mấy năm, gia sản trống rỗng. Sớm chiều ông chỉ thờ phụng, dâng hương, thắp đèn cho Chân Vũ Chân Quân. Rốt cuộc, do ông dũng mănh sửa lỗi, được Chân Quân thương xót, hóa thành đạo nhân, trao cho mười hai cây xăm thiêng của Chân Quân để giúp cho ông tu đạo. Kế đó, ông được Đông Nhạc thâu nhận, trọng dụng, bổ làm người ghi chép, trông coi sổ sách ở Ma Khê. Triều đ́nh truy phong ông là Ngộ Bổn Chân Nhân.

          Đời Minh, Mạo Khởi Tông nói: - [Trong phần chú giải kinh Dịch về] sáu hào của quẻ Càn, sau cùng là nói cát tường, trước hết là nói “vô cữu” (không phạm lỗi). Có hối hận, có thể hối th́ sẽ có thể bù đắp lỗi, sẽ là tốt lành. Lớn lao thay ư nghĩa của chữ Hối.

          Đời Minh, ông Trần Lương Mô lại nói: - Nghèo, giàu, sang, hèn, thọ, yểu của con người cho đến một hớp uống, một miếng ăn, mỗi hành vi, đều có vận số nhất định, chẳng thể trái nghịch được. Nhưng điều then chốt để chuyển dời họa, phước lại ở nơi con người, mạng số chẳng thể hạn cuộc được. Bởi lẽ, số mạng đă định là mạng trời, cảm ứng là ḷng trời. Trời lấy “sanh thành muôn vật” làm tâm, tột bậc chân thành, không hư vọng. Nếu ai có một niệm “giúp người, lợi vật” xuất phát tự đáy ḷng, thoạt đầu chẳng phải là do v́ hữu vi mà làm, tuy là một chuyện nhất thời, nhưng do ḷng tinh thành tột bậc, sẽ có thể cảm cách ḷng trời, như tiếng vang ứng theo [âm thanh]. Đấy lại là lẽ tất nhiên. “Số” là số trời. Ḷng trời đă cảm cách, số (vận số) cũng sẽ chuyển theo, làm sao có thể hạn cuộc cho được! Ví như pháp chế trừng phạt hay ban thưởng của nước nhà, nhất định là chẳng thay đổi. Nếu bầy tôi thật sự có thể dùng ḷng trung thành khiến cho tâm vua cảm động, ắt là tuy đă bị biếm trích mà vua có thể gọi trở về, sắp bị hành h́nh mà được ân xá. Trong khoảnh khắc, mừng, giận khác hẳn, làm sao chẳng thể thay đổi cho được? Do vậy biết thiên lư và vận số ảnh hưởng lẫn nhau xưa nay chính là chuyện âm đức cảm ứng rất rơ rệt, chẳng hư dối vậy!

 

          (Chánh văn) Cố cát nhân ngữ thiện, thị thiện, hành thiện, nhất nhật hữu tam thiện, tam niên thiên tất giáng chi phước. Hung nhân ngữ ác, thị ác, hành ác, nhất nhật hữu tam ác, tam niên thiên tất giáng chi họa, hồ bất miễn nhi hành chi?

   (正文)故吉人語善。視善。行善。一日有三善。三年天必降之福。凶人語惡。視惡。行惡。一日有三惡。三年天必降之禍。胡不勉而行之。

          (Chánh văn: Do vậy, người cát tường nói lời lành, xem điều lành, làm điều lành, mỗi ngày có ba điều lành th́ ba năm trời ắt ban phước cho. C̣n kẻ ác nói lời ác, xem điều ác, làm điều ác, mỗi ngày có ba điều ác, ba năm trời ắt sẽ giáng họa. Sao không cố gắng thi hành vậy thay?)

 

          Đoạn này tổng kết toàn bộ thiên sách, chân thật dạy mọi người con đường thuận theo điều thiện, trừ khử điều ác. Chữ Cố () nhằm liên kết với hết thảy những câu văn trước đó. “Cát nhân” (吉人) là người do làm lành mà có thể được phước. “Hung nhân” (凶人) là kẻ do làm ác mà có thể mắc họa. Các điều ác, các điều thiện, chẳng thể kể trọn hết; nói tổng quát, sẽ là ba loại ngữ, thị, hạnh (lời nói, cách nh́n, việc làm). Đấy chính là chỗ thiết thực để đổ công dốc sức.

          1) “Ngữ thiện” (語善) là như lời phi lễ chớ nói, thích nói điều tốt lành của người khác, khơi gợi thiện tâm của người ta.

          2) “Thị thiện” (視善) là như phi lễ chớ nh́n, thích thấy người lành, thích xem thiện thư, luôn thấy lỗi ác của chính ḿnh, chẳng thấy người khác sai trái.

          3) “Hạnh thiện” (行善) là như chuyện phi lễ chớ làm, chuyện phi pháp chớ dính dáng, dũng mănh làm lành, luôn tạo thuận lợi [cho người khác], làm đủ mọi thứ âm công, xướng suất, hướng dẫn một phương, cho đến thấu đạt bốn phương, khiến cho ai nấy đều được cảm hóa mà có cùng chí hướng.

          Thiện nhân và những người giống như họ đều là [ngữ thiện, thị thiện, hạnh thiện] như thế; kẻ làm ác th́ ngược lại (tức là ngữ ác, thị ác, hạnh ác). “Ba năm” là một ngàn ngày. Đấy là phương pháp từ thời Đường Ngu (Nghiêu, Thuấn) dùng để khảo hạch thành tích, là kỳ hạn để viên măn. [Với thời hạn đó], thiện sẽ tích tập, mà ác cũng sẽ chứa đầy. Ḷng người hết sức linh động, biến hóa bất thường. Nếu suốt ba năm mà cái tâm không thay đổi, tức là thiện và ác cũng đă thuần. Nêu ra chữ Thiên, đấy chính là vị đại chủ tể hưởng thiện phạt ác, ban phước, giáng họa, là chỗ quy kết trọng yếu của toàn thể thiên sách này, nhưng [ở đây phải hiểu] “Thiên” () chính là cái tâm của ta. Mạnh Tử nói: Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tánh, sở dĩ sự thiên dă” (Giữ tấm ḷng này, dưỡng tánh này; đó chính là thờ phụng trời). Hai chữ Tất () không nhất định là nói trời xanh thăm thẳm, không tiếng động, không mùi vị ắt sẽ làm như thế, mà là nói cái tâm ta đă phát khởi ngữ, thị, hạnh trong suốt ba năm [th́ sẽ sanh ra tác dụng ấy]. Do vậy nói “không ǵ chẳng cầu từ chính ḿnh” chính là nói về lư này. Bậc chí nhân vui với đạo, vốn chẳng phải là cầu phước. Do cầu phước mà làm lành, cái tâm đă dính dáng lẽ riêng tư. V́ thế, chỉ nên trọn hết sức ḿnh, vâng thuận theo trời, chớ nên có một mảy tâm niệm mong mỏi, đón chờ. [Bởi lẽ, họa hay phước] chỉ là do cái tâm tự cảm vời, mà đạo trời khéo đáp đền. Lư họa phước vốn mênh mông, tràn đầy trời đất, chẳng sai sót mảy may. Người đời nếu coi chuyện “làm lành, trừ ác” là chuyện thuộc về bổn phận của chính ḿnh, cố nhiên là thuộc về bậc thượng thượng; nhưng trên cơi đời, đại đa số là kẻ b́nh phàm, làm sao có thể trọn hết đều là bậc thượng căn cho được? V́ thế, do sợ tai họa, do cầu phước mà trừ bỏ điều ác, làm lành, th́ cũng [ứng hợp] với ḷng mong mỏi của đức Thái Thượng, chỉ sợ con người chẳng cầu phước! Nói “cầu chi hữu đạo, đắc chi hữu mạng” (có phương cách để cầu, nhưng đạt được hay không là do vận mạng) tức là cầu phước th́ cũng có ích cho việc được phước. Cầu như thế, cố nhiên chẳng gây hại cho điều đang cầu mong. “Giáng phước” là như bản thân được hưởng phước lộc, con cháu thiện lương, vinh hiển, thịnh vượng, tăng thêm tuổi thọ, gia đạo hưng thịnh, vạn sự thuận ḥa. Thậm chí làm thánh, làm hiền, thành tiên, thành Phật, triệt ngộ tự tánh, chứng thẳng vào Vô Sanh, độ người, độ vật, tạo thành chuẩn tắc tối cao cho muôn đời. “Giáng họa” (降禍) là như đích thân gặp phải những tai họa rơ rệt, con cháu nham hiểm, ác độc, thường bị dồn vào cảnh bại vong, tuổi thọ ngắn ngủi, gia đạo ch́m đắm, mọi sự đều bị trở ngại, thậm chí chết rồi sẽ vào địa ngục Vô Gián, luân hồi trong dị loại, vĩnh viễn chịu tội, điều ác lan sang đời sau, muôn năm bị thóa mạ. Than ôi! Do vậy mà luận định, đạo họa phước to lớn thay, đúng là chẳng thể nghĩ bàn được.

          Câu cuối cùng nêu ra hai chữ “miễn hành” (勉行) chỉ nhằm nói đến ư “chúng thiện phụng hành” (vâng làm các điều thiện) trong phần trước; đó là điểm then chốt chung của toàn bộ Cảm Ứng Thiên. Chữ Miễn () chính là bí quyết trọng yếu nhất để hướng thiện, sửa lỗi, há chẳng phải là từ ngữ trách móc, cảm thán ư? “Hành” () là bản thân nỗ lực thực hiện. “Miễn hành” là gắng hết sức nỗ lực thực hiện, thà chết chẳng lùi! Kinh Thư chép: “Phi tri chi nan, duy hành chi nan” (Biết chẳng phải là khó, chỉ có hành là khó). Ngạn ngữ có câu: “Thuyết đắc nhất xích, bất như hành đắc nhất thốn” (Nói cả thước, chẳng bằng làm được một tấc). Nếu biết mà chẳng hành, chắc chắn chẳng có thọ dụng ǵ! Đă chẳng được thọ dụng, chẳng tránh khỏi hướng vào biển sanh tử, tự làm tự chịu. Người đời mong cầu một sanh lộ, cần phải bỏ ra tử công (死功, công phu dẫu chết không lùi bước). Châu Tử nói: “Khi khí Dương phát khởi; vàng, đá cũng bị xuyên qua”. Tinh thần đạt đến khắp mọi nơi, có chuyện ǵ mà chẳng thành! Ai có thể như thế th́ công hạnh sẽ viên măn, thành chân (thành tiên), chứng thánh, há lẽ nào chẳng phải là chuyện tất yếu ư?

          Chẳng có điều thiện, sẽ không có phước; chẳng có điều ác, sẽ không có họa. Đấy là lẽ thường hằng trong đạo trời, nhưng báo ứng thiện ác có khi rơi vào bản thân người ấy, có khi rơi vào con cháu. Có kẻ là người ác trong đời hiện tại, nhưng do phước trong đời trước chín muồi, đáng phải chịu họa mà chuyển thành hưởng phước. Có người là thiện nhân trong đời hiện tại, do tội trong đời trước chín muồi, đáng hưởng phước mà chuyển thành chịu họa. Đợi cho tới khi đă hưởng phước hay chịu họa trong đời trước xong xuôi, thiện báo hay ác báo trong đời này mới sẽ mỗi mỗi đều tiếp nhận. Chuyện này chẳng qua là sớm hay muộn, trước hay sau đó thôi! Chẳng phải là báo ứng thiện ác bị mất đi. V́ thế nói: “Pháp luật dương gian nhanh chóng, có thể trốn thoát. Pháp luật cơi âm chậm chạp, nhưng chẳng bỏ sót!” Lưới dương gian thưa dễ lọt, lưới cơi âm kín kẽ, khó trốn. Người thời nay ngẫu nhiên làm một điều thiện, bèn mong được báo ứng; hễ hơi có điều ǵ chẳng vừa ư, liền bảo: “Đạo trời khó biết”. Nào có biết người không bị đói, chẳng bị rét, không tai, không họa, kẻ sĩ được đọc sách, nông dân được cày cấy, thợ thuyền được làm lụng, lái buôn được buôn bán, luôn toét miệng cười, hằng ngày ít phải chau mày, há chẳng phải là cái phước b́nh an đấy ư? Nếu không, nguyện vọng trong cơi đời không ngằn mé, thế giới khuyết hăm, há ai nấy đều có thể phú quư, thuận lợi, hiển đạt ư? Người đời chỉ nên tôn kính, tin tưởng Cảm Ứng Thiên, vâng làm theo từng chuyện, tự nhiên sẽ là phước lộc vô lượng, con cháu vinh hiển, hưng thịnh. Hành suốt một năm, muôn tội tiêu diệt. Hành suốt bốn năm, trăm phước đều nhóm họp. Hành suốt bảy năm, con cháu đỗ đạt. Hành cả mười năm, thọ mạng kéo dài. Hành mười lăm năm, vạn sự như ư. Hành hai mươi hoặc ba mươi năm, được ghi tên vào sổ tiên. Hành năm mươi năm, thiên thần cung kính, được xếp vào ngôi vị nơi thượng giới. Đấy là lời chân thật chẳng dối gạt của đức Thái Thượng, sợ người đời chẳng thể thật sự thực hiện đó thôi! Đại khái, bậc dốc chí nơi đại đạo, khi mới phát nguyện, liền chú trọng tự độ và độ người. Để tự độ và độ người khác, trước hết là phải phước huệ song tu. Tu huệ, ắt phải kiến tánh minh tông. Tu phước, ắt phải [chú trọng] nơi ngũ thường, bách hạnh. Hai thứ [phước và huệ] bổ trợ nhau, Thượng Đế ắt hạ chiếu thư cơi trời đối đăi, chư Phật nhất định dùng Tịnh Độ để nhiếp thọ. Không chỉ là siêu sanh thượng giới, mà thật ra, c̣n là mau chóng chứng Vô Sanh, bất sanh, bất diệt, sau đấy mới có thể nhập thế độ sanh. Liễu ngộ đại sự nhân duyên này, nếu khăng khăng mong cầu trường sanh, tu tánh mạng, đó chính là “chẳng tu tam-muội”; khi báo hết, sẽ trở lại, liền sanh vào Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, thọ tới tám vạn bốn ngàn đại kiếp. Rốt cuộc, lại vào trong các nẻo [của lục đạo], chẳng thể xuất thế, nhưng ở trong các đường ấy, đều là do chẳng liễu ngộ diệu minh chân tâm, những thứ hư vọng đă tích tập sẽ phát sanh, bèn hư vọng có tam giới, lầm lạc ch́m đắm nơi bảy đường trong ấy! Do vọng nghiệp chiêu cảm, dẫn khởi tùy theo từng loài [mà sanh vào trong các đường]. Chỉ có triệt ngộ Bồ Đề th́ các vọng duyên ấy vốn là vô sở hữu, hạnh lực Phổ Môn lại đủ để duy tŕ. Do vậy, người có thể liễu ngộ đại sự nhân duyên ắt sẽ nương về chư vị Phước Huệ Lưỡng Túc Tôn vậy!

          Trong Bàn Sơn Ngữ Lục[68] của Thê Vân Chân Nhân Vương Chí [Cẩn] có chép:

          - Nếu hỏi: “Làm thế nào để thoát khỏi tội phước nhân quả?” Thầy (Vương đạo sĩ) đáp: “Tội phước nhân quả là cái vỏ của âm dương. Nếu ông thoát khỏi cái vỏ âm dương, sẽ không có tội phước nhân quả. Cái vỏ âm dương là như thế nào? Phàm là trong tâm có một mảy ư niệm tư dục tự lợi, sẽ thuộc vào cái vỏ âm. Hễ có một mảy niệm thích làm thiện sự, sẽ thuộc vào cái vỏ dương. Nơi âm bèn có ác báo; nơi dương th́ có thiện báo. Nếu có thể luyện sao cho tâm thể như hư không, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng có mảy may vướng mắc, tự làm chủ được, ắt họa phước sẽ chẳng thể dính mắc người ấy, nhân quả chẳng thể ràng buộc người ấy được. Đó là bậc chân nhân thoát khỏi cái vỏ âm dương”.

          Đời Tống, ông Châu Hối Am nỗ lực thực hiện quy củ rất nghiêm, tạo thành sự bất tiện cho kẻ hậu học, nào có biết trong khi chưa thấu hiểu rơ ràng Lư Học, khi mô phỏng, học tập tâm tánh [theo khuôn khổ của thánh hiền Nho gia] trong cơi đời mà nếu bỏ sót, chán ghét điểm then chốt trọng yếu này, [Lư Học] sẽ bị ẩn mất ngay trong thuở đó. Nếu không do ông Châu một phen chống đỡ, duy tŕ, ắt Lư Học đă bị băng hoại, biến mất từ lâu rồi. Thuở ấy, Đạo học bị cấm đoán, bị quy kết là ngụy học, bị chỉ trích là tà khí (mang hơi hướng tà vạy). Trong những kẻ gây chuyện ồn ào, có gă hề Hàn Thác Trụ, có Lâm Lật Chi đánh phá những kẻ có ư kiến khác ḿnh, có Vương Hoài, Trần Cổ báo thù oán xưa, khiến cho sáu kinh của Khổng Mạnh trở thành thứ bị cấm ngặt trong cơi đời, thuyết “chánh tâm, thành ư” bị những người ở địa vị cao chán ghét, chẳng muốn nghe. Những kẻ sĩ tuân theo quy củ đều nín hơi, lặng câm, c̣n bọn học tṛ xu thời phụ thế th́ mạo danh thầy của bọn họ [làm ra vẻ ḿnh là kẻ ưu thời mẫn thế]. Chỉ riêng ḿnh Châu Hy gánh vác đạo thống, chẳng lo sầu, chẳng run sợ, cứ dâng biểu [lên hoàng thượng] phơi bày mọi lẽ chẳng sót, tiến cử, tiếp dẫn [bậc hiền tài] không bỏ lỡ ngày nào. Trong những tờ biểu tâu tŕnh lên vua, ông đă khoét tủy, rỗng ḷng [phơi bày nhiệt tâm thành ư], [đề nghị] các biện pháp như lập kho chứa thóc tại các châu huyện để pḥng ngừa năm mất mùa, cứu người bị hỏa hoạn, cứu vớt người bị chết đuối. Ứng xử tiến thoái, chẳng cẩu thả bước nào! Ông bị kẻ khác sàm báng, đối với trăm nỗi vùi dập vẫn ung dung, tích cực dạy dỗ kẻ hậu học, cho nên có nhiều kẻ hiền tài đua nhau xuất hiện. Ông nghiêm cẩn kềm giữ chính ḿnh, chẳng hề vi phạm Tứ Vật[69] [của Nhan Hồi]. Do vậy, cái học Trâu Lỗ Liêm Lạc[70] như mặt trời giữa trưa chính là hiệu quả do Châu Tử đă dốc sức thực hiện vậy!

          Đời Tống, Phạm Nghiễm là người xứ Nhân Ḥa, tuổi tráng niên thi đỗ Tiến Sĩ, làm quan tại các quận, huyện rồi đạt đến chức khanh tá (卿佐, chấp chánh đại thần), làm quan suốt hai mươi mấy năm. Mỗi ngày, ông ắt suy nghĩ đạo “trung với vua, tạo ân trạch cho dân”. Thấy, nghe, nói năng, hành động, không dám cẩu thả mảy may. Tuy ở trong nhà tối, pḥng kín, luôn luôn giữ ḿnh dè dặt, kinh sợ, cảnh tỉnh. Đến khi con ông trưởng thành, ông liền từ quan, quy ẩn, áo vải, cơm rau, chẳng dính dáng đến duyên trong cơi đời, thanh tâm nhập đạo. Hằng ngày, niệm tŕ các kinh Pháp Hoa, Kim Cang; hễ rảnh rỗi th́ Thiền Định, quán tưởng. Hết thảy Thế Đế, chẳng có mảy may [dính mắc]. Đạo đức và tánh mạng cũng đều quy về tự nhiên. Trong niên hiệu Đại Quán [thời Tống Huy Tông], ông đă chín mươi mấy tuổi, bỗng nhiên liễu ngộ, dặn ḍ người hầu:

          - Con người sống trong cơi đời, giống như một vở tuồng. Khi trống, phèng la vang rền, kép, đào, hề, kép râu[71]… ai nấy đều phô bày tài nghệ cho đến khi đuốc rụi, đèn tàn, thành ra hứng thú nỗi ǵ? Như ta đến thế gian, chín mươi năm như huyễn, như hóa, như sương, như chớp, may mà ngộ được điều ấy. Điều ấy chẳng có bờ mé, cũng chẳng vuông, tṛn, lớn, nhỏ, cũng chẳng phải là đỏ, trắng, xanh, vàng, cũng chẳng phải là dài, ngắn, trên, dưới, chẳng sân, chẳng hỷ, không đúng, không sai, chẳng thiện, chẳng ác. Đó gọi là “chẳng có một vật mà muôn h́nh tượng thảy đều được bao gồm”. Điều này là chân thật nhất, cao tột nhất, là diệu đế chẳng đến chẳng đi, chỉ tại do ḷng người chí thành, tinh tấn, tâm tâm tiếp nối, niệm niệm chẳng đoạn. Tam thế chư Phật đều từ lư này mà xuất hiện. Đó gọi là chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, phi cuống ngữ (lời lẽ chẳng dối gạt), phi dị ngữ (lời nói chẳng khác lạ). Các ngươi ai nấy hăy nên gắng hành.

          Nói xong, ông ngồi yên, chắp tay mà hóa. Nhất thời, mùi hương lạ đầy nhà, mây lành phủ khắp không trung, các thứ quang minh chiếu rọi thế giới mấy ngày chẳng an. Muôn mắt đều cùng nh́n vào, ngưỡng mộ.

          Những điều vừa nêu trên đây chính là đường lối để gắng sức thực hiện tam giáo từ hạ học cho tới thượng đạt, đều quy về “cùng lư, tận tánh, là chỗ cao tột nhất của bản tánh”. Tôi sao chép vào đây để mong làm khuôn phép tột bậc cho các hành giả trong tam giáo, người có chí hăy nên nghĩ tưởng!

          Trương Củng Thần nói: - Hết thảy các hành động, không ǵ là chẳng bắt đầu từ nhỏ cho đến lớn. V́ thế, phàm thuộc loài có huyết khí đều có thể chứng thẳng vào Vô Thượng Bồ Đề. Nhưng Vô Thượng Bồ Đề chỉ ở chỗ cẩn trọng đối với những ư niệm nhỏ nhặt vừa nẩy sanh, thận trọng ngay khi chỉ ở một ḿnh, mở rộng ra cho đến trọn hết mới thôi. Ông Viên [Liễu Phàm] chẳng nói rồi đấy sao? Những thứ [trót gây tạo] trước kia, ví như ngày hôm qua đă chết. Những thứ từ nay trở đi, ví như sanh từ hôm nay, há nên tự đành ḷng ruồng rẫy chính ḿnh, để rồi phó mặc hết thảy họa phước cho mạng trời, chần chờ, cẩu thả cho xong một đời này vậy thay? Tôi đă gởi ḷng nơi cửa Thích, đối với phần cuối của thiên sách này, chẳng e ngại đôi ba lượt múa lưỡi, mong sao những người đă có thiện căn sẽ đều nhờ vào đây mà tự mở rộng [đức hạnh của chính ḿnh].

          Thiên hạ lớn tột cùng, muôn đời xa tột cùng. Dẫu dùng vạn tay, vạn mắt để cứu tế cơi đời này, vẫn chẳng thể đủ. V́ thế, chuyện cấp bách nhất chỉ là dạy dỗ người khác, há bắt buộc phải đều là thánh hiền rồi mới có thể dạy dỗ người khác ư? Nếu ai có thể thật sự nghe điều thiện mà hoan hỷ, thấy điều thiện bèn vui ḷng, lúc nào cũng nói lời thiện, bàn bạc việc thiện, nói đến thiện báo, phân phát thiện thư, tức là đă giáo hóa khá nhiều. C̣n [trong quá tŕnh giáo hóa ấy], sẽ chuyển đổi linh hoạt, khéo léo, ứng dụng những mẹo vặt hay ho, sống động, đều là càng ngày càng tinh tấn, càng tinh vi hơn, đạt đến tột bậc biến hóa, khế hợp, mà chính ḿnh chẳng tự biết. Dạy kẻ vụng về, tầm thường, lại chẳng bằng dạy bậc hào kiệt. Dạy được một người, sẽ xoay chuyển càn khôn, tiếp nối người trước, lưu truyền cho người sau, khiến cho người ấy lại dạy bảo người khác, ắt sẽ là dạy [một người] mà thành dạy trọn khắp. Bậc thánh hiền thuở trước, truyền lại kinh thư cho cơi đời, đều là v́ một nhân duyên đại sự này. Nay thiên sách này, [chính là] lời huyền diệu độ đời của đức Thái Thượng, mật đế (chân lư bí mật) cứu độ chúng sanh của chư Phật, [đúng là] trước tác mầu nhiệm nhân từ đời đời chẳng cùng tận. Những ai tụng thiên sách này, hành theo, ấn loát, lưu truyền, cũng đều là do có một đại sự nhân duyên trong ấy. Giác ngộ cơi đời, yên dân, bồi đắp nguyên khí, tạo phước, khiến cho mọi người cùng làm lành, trời đất trong lặng, yên ổn. Tâm lượng ức kiếp thường tṛn đầy, quả thật chẳng thể nghĩ bàn được!

Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

Quyển 4 hết

Trọn Bộ

 

 

Thay lời kết & Hồi Hướng

 

           Có lẽ không có bộ thiện thư nào được chú giải, truyền bá rộng răi bằng Cảm Ứng Thiên. Trong các tác phẩm chú giải Cảm Ứng Thiên, tổ Ấn Quang đặc biệt tán thán và ấn hành Cảm Ứng Thiên Vựng Biên với một số lượng khá lớn. Mỗi khi dạy người khác về nhân quả, Ngài luôn biếu tặng sách này và An Sĩ Toàn Thư. Tuy thế, mạt nhân vẫn không quan tâm lắm, cho đến khi có cơ duyên lui tới Tịnh Tông Học Hội Dallas, mạt nhân rất ngạc nhiên khi thấy trong các sách vở được cơ quan Hoa Tạng và Phật Đà Giáo Dục ấn hành thường xuyên có Cảm Ứng Thiên Vựng Biên và Cảm Ứng Thiên Đồ Thuyết. Tiếc rằng khi ấy, do thiếu tài liệu tham khảo, đối với những lời chú giải của các bậc túc nho do quá cô đọng, quá nhiều điển tích, dẫu có chú tâm đọc, mạt nhân vẫn không hiểu rơ cho lắm. Khi xem đến quyển Cảm Ứng Thiên Vựng Thiên Bạch Thoại Tiết Bổn th́ thấy đối với mỗi điều, sách chỉ trích yếu vài đoạn, không đủ giúp cho một kẻ học trộm, chữ nghĩa nhấp nhem như mạt nhân hiểu được phần nào các lời chú giải. Đến nay, như một duyên lành, trước là pháp sư Định Hoằng giảng đoạn mở đầu, sau là ông Hoàng Bách Lâm giảng trọn bộ Cảm Ứng Thiên Vựng Biên; những điển cố, những thành ngữ khó t́m, khó tra cứu đều được ông Hoàng giảng rất tường tận; do đó, những phần phải tự tra cứu đă giảm bớt rất nhiều. Càng đọc, mạt nhân càng hiểu phần nào lư do v́ sao các vị tổ sư như Liên Tŕ, Ấn Quang đều đề xướng Cảm Ứng Thiên, Công Quá Cách, và Phật môn Trung Hoa coi trọng Cảm Ứng Thiên đến thế. Đến nay, cảo bản tiếng Việt đă hoàn thành, có người đọc những phần dịch đă chê “toàn là chuyện thần tiên hoang đường, toàn là tín ngưỡng Đạo giáo, phí công dịch để làm ǵ, nhưng chúng tôi dốc ḷng tin tưởng lời Tổ đă dạy: “Hết thảy do tâm tạo”. Nếu chúng ta lănh hội bằng cái tâm học Phật, sẽ thấy dẫu là pháp thế gian, vẫn là Phật pháp. Các vị thần, thánh, tiên, quỷ v.v… như sách này đă nói biết đâu đều là hóa thân của Phật, Bồ Tát, chư vị thánh hiền, nhằm ứng hợp với tâm tư t́nh cảm của người thuở ấy mà hiện thân dưới các h́nh tướng quen thuộc trong tâm khảm của đại chúng để dẫn dắt họ về nẻo giác. Hơn nữa, bàng bạc trong tác phẩm này, tư tưởng Phật giáo vẫn là chủ đạo. Có những điều thoạt nh́n thuần là Đạo giáo, nhưng trong lời chú giải, đă được diễn giải theo cách nh́n duyên khởi của Phật giáo. Chúng tôi tin rằng, ngoại trừ những bậc thượng căn đại trí, dẫu chẳng chú trọng nhân quả mà vẫn bất muội nhân quả, chứ hàng phàm phu lè tè sát đất như mạt nhân, nếu chẳng do sợ quả báo, sợ địa ngục, ắt sẽ khó thể chẳng phạm những lỗi sai trái, khó thể làm tṛn nhân đạo để mong tấn tu trên đường Phật đạo được. Chúng tôi trộm nghĩ, thường đọc Cảm Ứng Thiên, luôn giữ ḷng dè dặt, kinh sợ, cẩn thận nơi từng tâm niệm nhỏ nhặt, phản tỉnh suy xét chính ḿnh, chúng ta sẽ có thể thực hiện phần nào giáo huấn “nhàn tà tồn thành, đôn luân tận phận, tín nguyện niệm Phật, văng sanh Tịnh Độ” như tổ Ấn Quang đă dạy. Tuy đă có sẵn một số tài liệu, nhưng do tâm trí chậm chạp, tối tăm, cũng như do những bận rộn vụn vặt trong cuộc sống thường ngày và việc làm, chúng tôi khởi sự chuyển ngữ từ ngày 14 tháng Giêng năm 2017 nhưng măi cho đến ngày mồng Chín tháng Ba năm 2018 mới tạm xong cảo bản. Xin trân trọng cảm tạ ân đức giảng giải của pháp sư Định Hoằng và cư sĩ Hoàng Bách Lâm, cơ quan phát hành kinh sách Hoa Tạng, các vị đạo hữu Đức Phong, Huệ Trang, Hồ Xuân Trường, Trịnh Văn Lộc đă góp ư sửa chữa, luôn khuyên nhủ, sách tấn trong suốt quá tŕnh chuyển ngữ. Chỉ sợ tâm huyết đau đáu thương đời, vệ đạo của bao thế hệ tiền nhân, nay được chuyển ngữ sang tiếng Việt qua cái nh́n hạn hẹp, ngu ám và tŕnh độ Hán Việt nhấp nhem của mạt nhân đă bị sai lạc, biến tướng, tạo thành duyên chê cười, phỉ báng, gai mắt người đọc. Nếu việc làm liều lĩnh này có chút công đức hay phước đức nào, đều xin hồi hướng cho lịch đại tổ tiên, sư trưởng, phụ mẫu hiện thế, đa sanh phụ mẫu, các huynh đệ Đức Phong, Minh Tiến, Huệ Trang, Xuân Trường, Văn Lộc cùng các vị liên hữu những ai tin tưởng nhân quả, tin kính Phật Di Đà, sẽ đều được nghiệp chướng tiêu trừ, thân tâm khang thái, nhất tâm nhất ư phát nguyện văng sanh, cùng nhau hội ngộ nơi đài sen của đấng Từ Phụ Di Đà.

Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa ngưỡng bạch



[1] “Thập ác bất xá” bao gồm mười điều đại ác:

1. Mưu phản (): Có âm mưu làm phản, đảo chánh.

2. Mưu đại nghịch (大逆): Mưu tính hủy hoại tông miếu, sơn lăng (lăng mộ của vua và hoàng tộc), cung điện.

3. Mưu bội quốc tùng ngụy (謀背國從僞): Âm mưu phản bội quốc gia, làm tay sai cho ngoại bang.

4. Ác nghịch (): Đánh đập, mưu sát cha mẹ, giết bác, chú, bác dâu, thím, ông bà, anh em của ông bà.

5. Bất đạo (不道): Giết ba người chẳng đáng tội chết trong một gia đ́nh, dùng những h́nh thức giết chóc tàn nhẫn như chặt tay chân, bùa chú, hoặc độc trùng để giết hại.

6. Đại bất cung (大不恭): Trộm cắp đồ vật những vật dùng để cúng tế trong tông miếu của vua, tự tiện sử dụng những vật dụng như xe cộ, quần áo của vua, trộm cắp, hoặc ngụy tạo những đồ vật quư báu của hoàng đế, chế thuốc cho vua dùng không đúng toa, đúng liều, không bào chế thuốc thang đúng cách, nấu ăn cho vua mà phạm phải những món cấm kỵ, làm thuyền bè, xe cộ cho vua ngồi không kiên cố.

7. Bất hiếu (不孝): Chửi bới, nói hỗn với cha mẹ, ông bà, chẳng phụng dưỡng chu đáo. Tội này c̣n bao gồm trường hợp cha mẹ hoặc ông bà vừa mới chết, mà con cháu đă làm đám cưới, đám hỏi, hoặc vui chơi, tiệc tùng, ca xướng, hoặc là có tang mà giấu diếm, lén lút chôn cất, hoặc v́ mục đích nào khác bèn nói dối là ông bà, cha mẹ đều đă chết cả rồi.

8. Bất mục (不睦): Mưu sát, đánh đập thân nhân, thưa kiện chồng, hoặc các bậc tôn trưởng.

9. Bất nghĩa (不義): Giết hại trưởng quan ở địa phương như huyện lệnh, tri phủ, thứ sử… Cũng như giết chóc, làm hại thầy dạy, hoặc thuộc hạ giết cấp trên, hoặc chồng chết mà vợ giấu diếm không làm đám tang.

10. Nội loạn (内亂): Gian dâm với nàng hầu, thê thiếp của trưởng bối trong nhà.

[2] Quảng Tế (廣濟) là kho chứa thóc của triều đ́nh để dự trữ khi mất mùa sẽ bán ra với giá rẻ hoặc phát chẩn cho người nghèo.

[3] Khố dịch (庫役) là những người trông coi kho, chia thành các cấp bậc khố tử, thương tử, đấu tử, xứng tử. Họ trông coi việc nhập và xuất kho sao cho đúng số lượng, ghi chép hóa đơn, phiếu nhập xuất, biên lai thu thuế (thường gọi là “hộ sao”, 戶鈔).

[4] Phủ Phán ở đây là chức Thông Phán (通判) ở cấp phủ. Từ thời Bắc Tống trở đi, nhằm tăng cường sự kiểm soát, khống chế các quan chức địa phương, bên cạnh các quan đứng đầu các châu, nhà Tống đặt ra chức Thông Phán Mỗ Châu Quân Châu Sự, trong đó Mỗ là tên gọi của một địa danh nào đó. Chẳng hạn, Thông Phán Hàng Châu Quân Châu Sự. Thế tục thường gọi tắt chức vụ này là Thông Phán, Thông Châu, Giám Quận, Quận Tá, Châu Tá, Trị Trung, Biệt Hạ, Quận Thừa v.v… có nhiệm vụ giám sát các quan trên, cũng như trông coi về lương thực, vận chuyển gạo, muối, khai thác mỏ v.v… cũng như giám sát một phần quân sự. Từ thời Nguyên trở đi, triều đ́nh đặt thêm chức Thông Phán tại các phủ. Đến đời Minh, dưới quyền trưởng quan mỗi quận, huyện đều có chức Thông Phán.

[5] Đây là một thành ngữ xuất phát từ một điển tích trong chương Thư Hư sách Luận Hành của Vương Sung đời Hán. Theo đó, Quư Tử ở Diên Lăng đi chơi, thấy trên đường có một túi vàng. Lúc ấy, đang tiết tháng Năm, khí trời nóng bức oi nồng, trên đường có một người mặc áo rất dày, đội củi, chắc là tiều phu. Quư Tử bèn gọi người ấy lại, bảo hăy nhặt vàng ở dưới đất lên đem về mà dùng. Người ấy trừng mắt, phẩy tay nói: “Ngươi sao dám coi ḿnh là bậc cao khiết, coi rẻ người khác? Tướng mạo của ngươi trông đàng hoàng, cớ sao ăn nói tục tằn làm vậy? Ta đang trong tháng Năm mùa Hạ mặc áo dầy, đội củi, há có phải là hạng người nhận lấy vàng ư?” Về sau, cổ nhân dùng thành ngữ “phi cừu phụ tân” (披裘負薪, mặc áo dầy, đội củi) để h́nh dung bậc chí hướng cao cả, thanh khiết, ẩn dật, bần cư.

[6] Nguyên Tải quê ở huyện Kỳ Sơn, thuộc huyện Phụng Tường. Không rơ cha ruột là ai, mẹ tái giá với Cảnh Thăng. Cảnh Thăng vốn là gia nô của Nguyên Thị, Nguyên Thị là nguyên phi (vợ chánh) của Tào Vương Lư Minh (con trai Đường Thái Tông). Do thâu tô đắc lực, Cảnh Thăng rất được nhà họ Nguyên tin dùng; hắn bèn xin được mang họ Nguyên. Do vậy, Nguyên Tải cũng theo cha dượng đổi thành họ Nguyên. Nguyên Tải thông minh, nhạy bén, đọc nhiều sách vở, tinh thông sách vở của Đạo gia. Sau khi đậu Tiến Sĩ, nhờ Thái Phỏng Sứ Lư Sát Ngôn tiến cử, hắn được cử làm Phó Quan, con đường hoạn lộ rộng mở, cuối cùng ngoi lên chức Chi Độ Lang Trung. Do tài ăn nói, Đường Trung Tông rất coi trọng hắn. Hắn trở thành Trung Thư Thị Lang Đồng B́nh Chương Sự (Tể Tướng) đời Đường Đại Tông. Do trước sau đă bày mưu tính kế giúp Đường Đại Tông tiêu diệt hoạn quan Lư Quốc Phụ (tuy trước đó, khi c̣n là Hộ Bộ Thị Lang, hắn đă từng xun xoe, xu nịnh Lư Quốc Phụ) và hoạn quan Ngư Triều Ân, hắn càng được Đường Đại Tông tín nhiệm. Do khéo đón ư vua, vua tin tưởng hắn tuyệt đối, khiến quyền hành của hắn ngày càng lớn, tự tung tự tác, thậm chí loại bỏ những người trung trực chẳng về hùa với hắn. Vua bèn sử dụng Lư Tế Quân làm người đứng đầu bộ Lại, dần dần chặn đứt vây cánh của Nguyên Tải. Cuối cùng, nhà vua thành công kết tội hắn tham ô và bắt giam Nguyên Tải. Sau khi hắn và các con bị xử tử, lăng mộ của tổ tiên hắn c̣n bị khai quật, lại c̣n bị đặt thụy hiệu là Hứa Xương Hoang Tử (kẻ ngang ngược, lộng quyền ở Hứa Xương). Một người con gái của hắn là Nguyên Chân Nhất do làm đạo cô nên được miễn tội chết, nhưng bị đuổi khỏi đạo quán, sung làm nô tỳ. Măi cho đến đời Đường Đức Tông, do nhớ ơn hắn đă ủng hộ ḿnh trở thành Thái Tử, vua hạ chiếu cải táng, khôi phục chức vụ cho hắn, đổi thụy hiệu của hắn từ chữ Hoang thành Thành Tổng (nghĩa là có tài năng, nhưng thiếu đức hạnh).

[7] Chung nhũ (鐘乳) ở đây là các nhũ thạch (Stalactite) lấy từ các thạch động. Người Hoa dùng nó làm thuốc, hoặc chế thành rượu ngâm nhũ thạch. Theo Đông Y, chung nhũ thạch được coi là tánh ôn, vị ngọt, đi vào các kinh Phế và Thận, có tác dụng khiến cho nguyên dương tráng kiện, trị bệnh lao suyễn, ho hen v́ lạnh, tay chân tê lạnh v.v…

[8] “Phốc đầu” (幞頭) là một loại măo. Loại măo này thường dùng dây mây bện thành sườn mũ, bên ngoài phủ một lớp sa. Tùy theo chức quan mà phốc đầu có nhiều loại, nhưng loại “triển giác phốc đầu” th́ giống như mũ cánh chuồn. Loại “dực thiện quan” không có cánh chuồn, thường được dành riêng cho nhà vua đội vào thời Minh.

[9] Tửu Cáo (酒誥) là bài văn khuyên răn nhắc nhở những họa hoạn về rượu do Châu Công soạn. Bài này được chép trong phần Châu Thư của sách Thượng Thư.

[10] Tác phẩm này có tên gọi đầy đủ là Tửu Đức Tụng do Lưu Linh soạn dưới đời Tây Tấn.

[11] Nguyên văn “nhất tước chi hiến”. Tước () là dụng cụ để đựng rượu có h́nh dạng giống như con chim sẻ, chỉ chứa được một thưng rượu. Dụng cụ này cũng có thể dùng để uống rượu. Trong khi cúng tế, nói “hiến tước” (獻爵) tức là dâng rượu vậy. Ở đây, nói “nhất tước chi hiến” hàm ư chủ và khách mời nhau uống một lượt rượu, có chừng mực, trang trọng, cung kính như đang hiến rượu trong khi cúng tế.

[12] “Tửu lệnh” (酒令) tức là trong khi uống rượu, người “cầm đầu” sẽ đặt ra một quy tắc, chẳng hạn như dùng chén rượu, hay thẻ rút thăm, chuyền đến phiên ai, người đó phải làm ǵ đó, như giải đáp câu đố, hoặc ngâm thơ, ca hát, làm tṛ, hay gồng tay (so quyền). Kẻ thắng th́ được thưởng rượu, người thua th́ cũng bị phạt uống rượu. Mục đích chỉ là làm tṛ vui, gây náo nhiệt trong tiệc rượu mà thôi.

[13] Đề Học (提學) c̣n gọi là Học Chánh Sứ, là chức quan quản trị hành chánh về việc học, có trách nhiệm trông coi các cấp trường học và ấn định các nội dung thi cử, tổ chức các khóa thi tại địa phương theo mệnh lệnh của bộ Lễ. Từ đời Tống, triều đ́nh đặt ra Đề Cử Học Sự Ty để quản lư các trường học trong mỗi quận huyện. Đến đời Thanh, trưởng quan của ty này được gọi là Đề Đốc Học Chánh, gọi tắt là Đề Học, Học Đài, hoặc Học Đạo, chưởng quản hành chánh về phương diện giáo dục trong một tỉnh, tức là tương đương với trưởng ty giáo dục hiện thời.

[14] Phán () là chức phó quan phụ tá người đứng đầu một địa phương, có địa vị thấp hơn Tri Phủ và Đồng Tri, cũng có thể là người đứng đầu một sảnh (cơ quan hành chánh) tại địa phương. Chức vụ này có nhiều cấp bậc như Châu Phán, Thông Phán…

[15] Bào Tuyên sống vào thời Tây Hán, là người xứ Bột Hải, học vấn lỗi lạc, thông thạo kinh điển. Ông làm Gián Nghị Đại Phu dưới thời Hán Ai Đế, thường dâng thư can gián vua chăm lo triều chánh, gạt bỏ gian thần, chủ trương cải cách những tệ nạn thời ấy. Về sau, ông bị kết tội, băi quan. Ông bị ép tự sát khi Vương Măng nắm giữ quyền hành.

Lương Hồng sống vào thời Đông Hán, gia cảnh hết sức nghèo nàn, khí tiết cao thượng. Ông học rộng, thông đạt, nhưng không thích theo đuổi văn chương. Sau khi từ quan trở về, ông lấy Mạnh Quang làm vợ. Mạnh Quang diện mạo hơi xấu, nhưng rất hiền thục, đảm đang. Về sau, hai vợ chồng vào núi Bá Lăng ẩn cư, chồng cày ruộng, vợ dệt cửi, luôn đối đăi kính trọng nhau rất mực.

Thiếu Quân tên thật là Hoàn Thiếu Quân, vợ của Bào Tuyên. Bào Tuyên theo học với cha của Thiếu Quân. Do nhà Bào Tuyên nghèo khổ, c̣n họ Hoàn rất giàu, nên của hồi môn mang theo rất nhiều. Bào Tuyên không vui, bảo vợ: “Thiếu Quân sống trong cảnh phú quư, quen trang điểm đẹp đẽ, ta rất nghèo hèn, chẳng dám nhận lễ vật”. Thiếu Quân nói: “Cha thiếp do biết tiên sinh là người tu đức, giữ cương thường, bèn sai tiện thiếp nâng khăn, sửa túi. Đă theo bậc quân tử, thiếp chỉ vâng mạng”. Bào Tuyên cười đáp: “Được như thế, chính là chí hướng của ta”.

[16] Động thiên phước địa (洞天福地) là chốn tiên cảnh trong nhân gian.

[17] Từ Viên (詞垣) là danh xưng khác của Hàn Lâm Viện Học Sĩ. Từ đời Nguyên trở đi, hễ được bổ vào Hàn Lâm Viện đều gọi là Từ Viên.

[18] Tĩnh Nạn (靖難) là cuộc nội loạn đầu thời Minh, do Yên Vương Châu Đệ khởi xướng nhằm cướp ngôi của cháu là Châu Doăn Văn (Minh Huệ Đế). Cuộc chiến này kéo dài suốt ba năm, kết thúc khi Yên Vương chiến thắng, trở thành Minh Thành Tổ (hoàng đế Vĩnh Lạc). Thái Tử Châu Tiêu (con trai Minh Thái Tổ Châu Nguyên Chương) chết trẻ, ngôi vua được truyền cho con trai của Châu Tiêu là Châu Doăn Văn. E ngại trước các phiên vương có thế lực quân sự mạnh mẽ, Huệ Đế tính đến chuyện triệt giảm các phiên vương. Do Châu Đệ là kẻ có quyền lực lớn nhất, ông đă trở thành cái gai trong mắt nhà vua. Trước các vụ án xử tử Châu Vương, Tề Vương, Hằng Vương, Mẫn Vương, Đại Vương liên tiếp, Châu Đệ quyết định mưu phản.

[19] Long Môn là một địa danh ở giáp ranh vùng Tây Bắc huyện Hà Tân của tỉnh Hà Nam và miền Đông Bắc của thành phố Hàn Thành tỉnh Thiểm Tây. Hoàng Hà chảy đến chỗ này nước xiết, hai bên đều là vách đá cao hiểm trở, trông giống như một cửa thành. V́ thế, gọi là Long Môn. Theo truyền thuyết, Đại Vũ đă đục thủng vách núi này để khơi ḍng chảy cho Hoàng Hà.

[20] Y Khuyết (伊闕) là vùng đất ở phía Nam thành phố Lạc Dương. Theo truyền thuyết, thuở trước vách núi hiểm trở, châu vào nhau, nh́n xa như ṿm cửa. Nước sông Y Thủy chảy qua hẻm núi này để tiến lên Bắc. V́ thế, nơi này được gọi là Y Khuyết.

[21] Nguyên văn “Đông chinh phá phủ” (東征破斧) là nói đến công lao của Châu Công đánh dẹp loạn chư hầu, giúp bốn nước kiến thiết, dốc sức xây dựng đến nỗi búa bị mẻ. V́ thế, người thời ấy làm bài thơ Phá Phủ (búa mẻ) để ca ngợi Châu Công. Xin trích dẫn khổ thơ đầu của bài thơ ấy như sau: “Kư phá ngă phủ, hựu khuyết ngă trạng, Châu Công đông chinh, tứ quốc thị hoàng, ai ngă nhân tư, diệc khổng chi tướng” (Búa của ta đă mẻ, ŕu của ta lại khuyết, ông Châu Công đông chinh, bốn nước được hưng vượng, thương xót dân nước ta, cũng giúp xây to lớn).

[22] Chí Ḥa (至和) là niên hiệu của Tống Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1054 đến 1056. Tống Nhân Tông có ba con trai, nhưng đều chết sớm, c̣n lại toàn là con gái. Nhân Tông đă nuôi Triệu Thự là con của Triệu Doăn Nhượng (anh họ của Nhân Tông. Doăn Nhượng là hậu duệ của Triệu Nguyên Phận. Nguyên Phận là con thứ tư của Tống Thái Tổ) từ bé; do vậy, các quan (đứng đầu là Văn Ngạn Bác) thuyết phục Tống Nhân Tông lập Triệu Thự làm hoàng tử kế nghiệp, tức Tống Anh Tông. Tống Anh Tông làm vua bốn năm th́ mất, hưởng dương ba mươi bốn tuổi. Con trai ông là Dĩnh Vương Triệu Húc nối ngôi, tức Tống Thần Tông.

[23] Thạch Sùng tên tự là Quư Luân, là Thái Thú quận Thành Âm. Do có công đánh hạ Đông Ngô, cho nên được phong làm An Dương Hương Hầu, làm đến chức Thứ Sử Kinh Châu. Do tư thông với giặc cướp, cướp bóc những khách buôn, hắn trở thành giàu có. Sẵn tiền bạc, lại khéo kinh doanh, Thạch Sùng trở thành bậc cự phú, nhất là các mối lợi do vận tải hàng hóa bằng tàu bè khiến cho hắn giàu nhất thuở ấy. Vương Khải là em trai của Vương Nguyên Cơ (chánh thất của Tư Mă Chiêu. Về sau, Vương Nguyên Cơ được phong làm Văn Minh Hoàng Hậu). Do vậy, Vương Khải là cậu của Tấn Vũ Đế và cũng là một tay giàu có cực kỳ xa xỉ thời ấy. Hai bên đấu giàu đến mức hoang đường như Vương Khải dùng nước đường để chùi rửa nồi (đường thuở ấy rất mắc), Thạch Sùng sai gia nhân dùng nến đốt ḷ thay cho củi! Đến khi Tấn Huệ Đế lên ngôi, Thạch Sùng cùng Tướng Quốc là Triệu Vương Tư Mă Luân tranh giành kỹ nữ Lục Châu. Khi ấy, Thạch Sùng được phong làm chức Thái Phỏng ở đất Giao Chỉ. Tại đó, có một kỹ nữ lừng danh là Lục Châu, Thạch Sùng mua về, dựng một biệt thự đặt tên là Kim Cốc cho nàng ở. Tư Mă Luân mê đắm, t́m cách chiếm đoạt, nên lập kế gán tội cho Thạch Sùng, khiến cho Thạch Sùng bị tử h́nh. Trong dân gian, tương truyền Thạch Sùng v́ tiếc của, hóa thành một loài ḅ sát hay chắt lưỡi, tức con thạch sùng.

[24] Tôn Tẫn không rơ tên thật là ǵ, do bị chặt chân (Tẫn, ), nên gọi là Tôn Tẫn. Chỉ biết ông là hậu duệ của danh tướng Tôn Vũ. Tổ tiên của Tôn Tẫn vốn họ Trần, là hậu duệ của công tử Trần Hoàn nước Trần. Đến đời Trần Thư, do giúp vua Tề đánh nước Cử lập đại công, nên được ban họ là Tôn, đất phong tại Lạc An. Trần Thư trở thành thỉ tổ họ Tôn. Đến đời cháu của Tôn Thư là Tôn Vũ do tránh nội loạn nước Tề, chạy sang Ngô, trở thành danh tướng tại đó. Tôn Tẫn là cháu năm đời của Tôn Vũ. Khi Bàng Quyên trở thành đại tướng tại nước Ngụy, tự biết tài năng không bằng Tôn Tẫn, bèn sai người thỉnh Tôn Tẫn đến nước Ngụy. Bàng Quyên trọng đăi ḥng học lóm binh pháp của Tôn Tẫn, lại ngấm ngầm vu tội đến nỗi vua Ngụy tức giận hạ lệnh chặt chân Tôn Tẫn, thích chữ lên mặt. Khi sứ giả nước Tề sang sứ nước Ngụy, Tôn Tẫn bí mật dùng thân phận tù nhân bái kiến sứ giả, dùng lời lẽ thuyết phục khiến cho ông ta đồng ư lén giấu Tôn Tẫn đem về nước Tề. Khi về Tề, ông được tướng Điền Kỵ coi trọng. Tôn Tẫn bày kế khiến cho Điền Kỵ luôn thắng cuộc, thắng Tề Oai Vương cả ngàn lạng vàng. Do vậy, Tề Oai Vương biết tiếng, mời ông dạy binh pháp. Ông đă khiến cho quân nước Tề hùng mạnh, luôn chiến thắng, đánh bại nước Ngụy, giết sạch quân Ngụy và Bàng Quyên trong trận Mă Lăng. Trong dân gian, Tôn Tẫn được tôn là tổ của các nghề làm hài cỏ, thuộc da, đốt than, làm đậu hủ và đắp tượng.

[25] Theo thiên Bổn Mạng trong sách Lễ Kư, nếu phụ nữ phạm vào một trong bảy điều th́ sẽ bị chồng bỏ, gọi chung là Thất Xuất (七出), tức là: 1. Chẳng hiếu thuận với cha mẹ chồng. 2. Không có con. 3. Phạm tội tà dâm. 4. Đố kỵ. 5. Có ác tật. 6. Nói quá nhiều, thèo lẻo, đâm thọc, dựng chuyện v.v… 7. Trộm cắp.

[26] Giả Sung, tên tự là Công Lư, người huyện Tương Lăng, quận B́nh Dương. Hắn làm Thượng Thư Lang dưới đời Tào Ngụy. Về sau làm Tham Quân cho Đại Tướng Quân Tư Mă Sư, lập chiến công, được con của Tư Mă Sư là Tư Mă Chiêu rất tán thưởng. Hắn dốc hết tâm lực phục vụ Tư Mă Chiêu. Khi vua Tào Ngụy là Tào Mao đánh Tư Mă Chiêu để giành lại quyền bính, đội quân cấm vệ của Tư Mă Do (em trai Tư Mă Chiêu) thất thế, Giả Sung đă cầm quân chống lại, xúi vệ binh Thành Tế đâm chết Tào Mao rồi đổ tội giết vua lên đầu Thành Tế. Khi con Tư Mă Chiêu là Tư Mă Viêm ép vua Ngụy là Tào Hoán nhường ngôi, Giả Sung được phong làm Thượng Thư Lệnh, Thị Trung (tức vai tṛ Thừa Tướng thời ấy). Trước khi lấy Quách Thị (tức Quách Ḥe, con gái của Quách Phối), Giả Sung đă lấy Lư Phu Nhân. V́ cha của Lư Phu Nhân chống lại Tư Mă Sư, bị kết tội, Giả Sung bèn bỏ Lư Phu Nhân nhằm tỏ ḷng trung thành với gịng họ Tư Mă. Quách Ḥe sanh được hai con gái là Giả Nam Phong và Giả Ngọ, một trai là Giả Lê Dân (tức là đứa bé bị chết đang nói ở đây). Thoạt đầu, Tấn Vũ Đế (Tư Mă Chiêu) muốn cưới Giả Ngọ cho Thái Tử Tư Mă Trung, nhưng Giả Ngọ c̣n quá bé, cho nên Giả Sung đă lấy Giả Nam Phong thay vào. Tuy Giả Nam Phong xấu xí, đen đúa, Tư Mă Trung lại mê mệt Giả Nam Phong, không thiết tha học tập chánh sự. Một vị đại thần là Vệ Quán đă khuyên vua Tấn Vũ Đế (Tư Mă Viêm) hăy phế Thái Tử v́ Thái Tử trí huệ chậm lụt, kém phát triển. Tấn Vũ Đế bèn sai người đem các tấu chương cho Thái Tử phê tŕnh để xem Tư Mă Trung có quá đần độn như lời Vệ Quán nói hay không. Giả Nam Phong đă khéo léo nhờ người tài giỏi phê các tấu chương, rồi bảo Tư Mă Trung chép lại, cho nên Tấn Vũ Đế vẫn tưởng Tư Mă Trung có năng lực. Giả Sung biết chuyện, xúi Giả Nam Phong ton hót với Tư Mă Trung nói khéo với Tấn Vũ Đế ḥng lung lạc nhà vua, hại chết Vệ Quán. Cuối thời Tấn Vũ Đế, ba tên gian thần là Giả Sung, Bùi Tú và Vương Nhung đă lũng đoạn triều chánh. Khi Tấn Huệ Đế (Tư Mă Trung) lên ngôi, do quá nhu nhược, quyền hành hoàn toàn nằm trong tay các đại thần. Giả Hậu (Giả Nam Phong) thừa cơ cấu kết với Tư Mă Lượng lập mưu giết chết Dương Tuấn (ông ngoại của Huệ Đế) đang nắm quyền Thái Phó, giết chết cả Dương Thái Hậu (mẹ của Huệ Đế) và vợ Dương Tuấn (bà ngoại của Huệ Đế), Huệ Đế chỉ biết ngơ ngác nh́n họ bị hành h́nh. Sau đó, Giả Hậu mặc sức dâm loạn, công khai bắt thanh niên trai tráng vào cung hành lạc mỗi đêm, Huế Đệ chỉ biết câm lặng nín chịu cho đến khi chú vua là Tư Mă Luân khởi binh, giết chết Giả Hậu, tận diệt ḍng họ Giả Sung. Sau đó, Tư Mă Luân cướp ngôi Tấn Huệ Đế. Về sau, nhờ Tư Mă Quưnh đánh bại Tư Mă Luân, Huệ Đế lại làm vua.

[27] Đạp Thanh (踏青) là đi ra ngoại thành chơi xuân. Do tản bộ du ngoạn, bước lên cỏ xanh, nên gọi là Đạp Thanh. Thuở xưa lấy ngày Thanh Minh làm hội Đạp Thanh, vừa đi tảo mộ, vừa đi chơi dă ngoại. Thoạt đầu, Đạp Thanh chỉ là dịp để du ngoạn chơi xuân sau những tháng tù túng v́ mùa Đông, dần dần kết hợp với tảo mộ. Ngày này cũng là dịp để nam thanh nữ tú thừa cơ gặp gỡ, mắt đi mày lại, ngấm nghé chọn người phối ngẫu, cho nên sách Cảm Ứng Thiên mới chê trách chuyện mang tiếng tảo mộ, nhưng thật ra là diện quần áo xênh xang, ngoạn cảnh, ăn uống, trai gái ngắm nghía, ṭ vè nhau, trọn chẳng có ḷng tưởng nhớ tổ tiên.

[28] Xu Bồ (樗蒲), c̣n gọi là Sư Bồ, Ngũ Mộc, Trịch Lô, hoặc Hô Lô, là một món cờ bạc, giải trí, từ ngoại quốc truyền vào Trung Hoa dưới thời Hán. Có người nói món cờ này có nguồn gốc từ tṛ chơi Chaupar của Ấn Độ. Bộ cờ này gồm có năm loại con cờ, nên gọi là Ngũ Mộc, tức là Bôi, Mă, Mộc, Trù, Thỉ, chia thành bốn màu đen, trắng, trĩ và độc (thật ra chỉ có hai màu là trắng và đen. Trĩ là quân cờ toàn màu đen, kèm thêm hai con cờ màu trắng có viết chữ Trĩ và Độc màu đen. C̣n Độc là quân cờ toàn trắng, kèm thêm hai con cờ đen viết chữ Trĩ và Mộc màu trắng). Tṛ chơi này bị ngăn cấm dưới thời Tống, biến tướng thành cờ Đả Mă (gần giống tṛ lắc xí ngầu chơi cá ngựa hiện thời, nhưng phức tạp hơn rất nhiều).

[29] Tử Hăn là tên tự của công tử Hỷ (Cơ Hỷ), con trai của Trịnh Mục Công (Cơ Tử Lan). Trịnh là một nước chư hầu thời Châu, nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Tây. Nước Trịnh được thành lập khi Châu Tuyên Vương (Cơ Tĩnh) phong cho em trai là Cơ Hữu đất Trịnh Yển. Cơ Hữu trở thành vua đầu tiên của nước Trịnh, tức Trịnh Hoàn Công. Khi Châu U Vương say mê Bao Tự, phế Thân Hậu và Thái Tử Nghi Cữu, cha Thân Hậu là Thân Hầu đă mượn quân Khuyển Nhung tấn công nhà Châu, giết chết Châu U Vương. Trịnh Hoàn Công do cứu giá, cũng chết trong cuộc chiến này. Trịnh Mục Công là vị vua thứ mười của nước Trịnh, có mười ba người con trai. Ngoại trừ hai người làm vua (tức công tử Di trở thành Trịnh Linh Công, công tử Kiên thành Trịnh Tương Công), Tử Khổng bị sát hại, Tử Nhiên lưu vong, con cháu Tử Vũ và Tử Chí không được làm quan Khanh, quyền hành nước Trịnh lọt vào tay con cháu của bảy vị công tử c̣n lại. Họ tranh giành quyền lực đấu đá nhau, sử gọi là Trịnh Quốc Thất Mục, tức con cháu của Tử Tứ, Tử Hăn, Tử Quốc, Tử Lương, Tử Ấn, Tử Du, và Tử Phong. Sử thường gọi họ là Tứ Thị, Hăn Thị v.v…

[30] Cao Tông tức là vua Vũ Đinh nhà Thương, c̣n gọi là Ân Vũ, tên thật là Tử Chiêu, là vua thứ hai mươi ba của nhà Thương. Hiếu Kỷ là con trai vua Vũ Đinh, hết sức hiếu thuận, nhưng do bị mẹ kế gièm siểm, nên bị cha xua đuổi, giết chết. Thi Tử đă chép về Hiếu Kỷ như sau: “Hiếu Kỷ sự thân, nhất dạ nhi ngũ khởi, thị y hậu bạc, chẩm chi cao hạ dă” (Hiếu Kỷ phụng sự cha mẹ, mỗi đêm thức dậy năm lần để nh́n xem cha mẹ mặc áo dầy hay mỏng, gối kê đầu cao hay thấp).

[31] Cát Phủ là đại thần thời Châu Tuyên Vương, ông được nhà Châu hết sức coi trọng, có thi tài, khéo làm thơ, phù tá Châu Tuyên Vương trung hưng nhà Châu, tu chỉnh đại nghiệp cả văn lẫn vơ, từng đánh tan quân rợ Hiểm Doăn khi chúng tấn công kinh thành nhà Châu. Bá Kỳ là con của Cát Phủ. Do vợ đă chết, Cát Phủ bèn tục huyền. Vợ sau sợ Bá Kỳ sẽ được nối chức cha, bèn gièm siểm, khiến cho Bá Kỳ bị đuổi khỏi nhà, phải lang thang bẻ lá sen che thân, vớt bèo ăn cho đỡ đói.

[32] Năm vị thần (ngũ tự) trong nhà theo truyền thống xưa của Trung Hoa là môn thần (thần giữ cửa chánh), hộ thần (c̣n gọi là song thần, tức thần cửa sổ, hoặc hiểu theo nghĩa rộng là thần trông coi các cửa phụ), trung lựu (thần đất, c̣n gọi là địa chủ cơ, tức là người chủ của nền đất, nhỏ hơn thần thổ địa. Thần thổ địa tức thổ công cai quản cả một làng, một xă), táo thần (thần bếp) và hành thần (thần trông coi đường nẻo trong nhà. Do nhà xưa thường có nhiều gian, giữa các gian nhà thường có hành lang thông nhau, hoặc những khoảng sân rộng ngăn cách). Theo Bạch Hổ Thông Đức Luận, năm vị thần ấy lại là môn thần, hộ thần, tỉnh thần (thần giếng), táo thần và trung lựu. Theo Lễ Kư, thuở xưa chỉ hàng sĩ đại phu trở lên mới được thờ thần đất, như Khúc Lễ đă chép: “Thiên tử tế thiên địa, khanh, đại phu tế ngũ tự, sĩ tế kỳ tổ” (thiên tử cúng trời đất, hàng khanh đại phu cúng tế năm vị thần, c̣n dân chúng chỉ thờ cúng tổ tiên).

[33] Theo Đạo giáo, vị này được gọi là Vệ Pḥng Thánh Mẫu, tên thật là Trần Tĩnh Cô, c̣n gọi là Lâm Thủy Phu Nhân, hoặc Thuận Thiên Thánh Mẫu, sống vào đời Đường, quê ở làng Lâm Thủy, huyện Cổ Điền, tỉnh Phước Kiến. Tương truyền, bà từ một giọt máu của Quán Âm Bồ Tát mà hóa thân, theo học đạo với Hứa Chân Nhân. Có nhiều sự tích linh dị về vị nữ thần này. Lời chú giải ở đây chắc là do một vị đạo sĩ hoặc người theo Đạo giáo viết ra.

[34] Nguyên Hoa (芫花) là một loại cây có chất độc, có tên khoa học là Daphne Genkwa. Hoa của nó có thể dùng làm thuốc độc, c̣n gọi là Ngư Độc, có tánh chất tương tự như dây Thuốc Cá ở Việt Nam. Hễ nghiền nát hoa này vứt xuống nước, cá sẽ bị ngấm chất độc, chết nổi ph́nh bụng lên mặt nước.

[35] Vào thời Hán Văn Đế, có một danh y là Thuần Vu Ư, do phạm tội bị áp giải đến Trường An. Ông chỉ có năm đứa con gái, không có con trai. Năm cô gái khóc lóc muốn theo cha đến Trường An. Ông thất vọng nói: “Chỉ toàn con gái, chẳng có nửa mống con trai nào. Khi hữu sự, cũng chẳng có ai giúp đỡ”. Đứa con gái út là Đề Oanh nghe cha nói vậy, hết sức đau ḷng, một mực theo cha đến Trường An. Cô viết thư cho vua, xin vua tha tội cho cha, cô sẽ vào hoàng cung làm nô lệ suốt đời để cho cha có cơ hội sửa chữa sai lầm. Hán Văn Đế bị tấm ḷng hiếu thảo của Đề Oanh cảm động, tha cho Thuần Vu Ư. “Nhục h́nh” (肉刑) là các h́nh phạt nặng nề, bao gồm Mặc (, xăm chữ kể tội vào mặt), Tỵ (, cắt mũi), Phí (, chặt chân), Cung (, thiến), và Đại Tịch (大辟, tử h́nh).

[36] Đường Hương là một tấm gương trong Nhị Thập Tứ Hiếu, mười bốn tuổi, cô thường theo cha mót lúa. Khi hai cha con bị cọp tấn công, cô không có tấc sắt trong tay, chẳng đoái hoài tánh mạng, chỉ lo cho tánh mạng của cha, bèn xông tới, kẹp chặt cổ cọp. Cọp hoảng sợ, lủi mất.

[37] Tào Nga là người huyện Thượng Ngu, quận Cối Kê, sống vào thời Đông Hán. Cha cô ta là Tào Hu sống bằng nghề thầy cúng. Một hôm, Tào Hu đi cúng, ngồi thuyền đi tế thần sông ở Thuấn Giang. Vô ư, té xuống nước, chết mất xác. Tào Nga đi dọc theo sông khóc lóc suốt mười bảy ngày. Cuối cùng, cô nhảy xuống sông trầm ḿnh. Vài ngày sau, xác cô nổi lên c̣n cơng xác cha trên lưng. Dân chúng thương xót lập đền thờ.

[38] Theo Liệt Nữ Truyện trong Đông Hán Thư, cô này có tên gọi đầy đủ là Thúc Tiên Hùng. Cha cô là Thúc Tiên Nê Ḥa sống vào thời Hán Thuận Đế, từng giữ chức Công Tào tại huyện. Ông vâng lệnh quan trên đến gặp Thái Thú Ba Quận. Ngồi thuyền ra đi, do nước xiết, thuyền lật, bị chết đuối. Con gái ông là Thúc Tiên Hùng thương xót, khóc lóc không ngừng, muốn tự trầm theo cha. Người nhà canh giữ nghiêm ngặt, nên cô không làm ǵ được. Hơn một trăm ngày sau, thừa lúc người nhà lơi lỏng, Thúc Tiên Hùng chèo thuyền đến chỗ cha chết đuối, khóc lóc đau xót, rồi gieo ḿnh tự tử. Em trai cô được chị báo mộng sáu ngày sau sẽ đem xác cha nổi lên. Đến hẹn, quả nhiên xác hai cha con cùng nổi lên mặt nước ngay chỗ cô tự trầm. Huyện lệnh sai dựng bia kỷ niệm, lập đền thờ.

[39] Úy () là một chức quan. Lăo úy ở đây là một người làm quan đến chức Úy đă già. Không rơ Úy ở đây chỉ chức vụ nào, v́ thời cổ, trong thời đại Xuân Thu, đă có các chức quan Quân Úy, Dư Úy. Từ đời Tần - Hán trở đi, có Thái Úy, Đ́nh Úy, Đô Úy, Huyện Úy, Vệ Úy, Hiệu Úy v.v… đều gọi tắt là Úy. Nói chung đây là một chức quan vơ; trong đó, Thái Úy lớn nhất, tương đương với Bộ Trưởng Quốc Pḥng hiện thời.

[40] Theo Đạo giáo, Ngũ Khí Thiên Quân c̣n gọi là Ngũ Phương Ngũ Lăo Thiên Quân. Năm vị này được coi là thần linh tối cổ, do thiên địa tự nhiên sanh thành, địa vị dưới Tam Thanh (Thái Thanh, Thượng Thanh, và Ngọc Thanh), bao gồm Đông Phương Thanh Đế Thanh Linh Thỉ Lăo Cửu Khí Thiên Quân, Nam Phương Xích Đế Đan Linh Chân Lăo Tam Khí Thiên Quân, Trung Ương Hoàng Đế Huyền Linh Hoàng Lăo Nhất Khí Thiên Quân, Tây Phương Bạch Đế Hạo Linh Hoàng Lăo Thất Khí Thiên Quân, và Bắc Phương Hắc Đế Ngũ Linh Huyền Lăo Ngũ Khí Thiên Quân.

[41] Huyền Đô (玄都) là cơi thần tiên, thường được gọi là Vô Thượng Huyễn Cảnh. Theo Đạo giáo, đó là nơi ở của Thái Thượng Lăo Quân. Do vậy, có truyền thuyết cho rằng đệ tử đích truyền duy nhất của Thái Thượng Lăo Quân được gọi là Huyền Đô Đại Pháp Sư. Có thuyết nói Vương Thiền Lăo Tổ (Quỷ Cốc Tử) chính là Huyền Đô Đại Pháp Sư.

[42] Vị này có danh xưng đầy đủ Bắc Âm Phong Đô Đại Đế, là vị thần chủ quản cơi địa ngục theo Đạo giáo.

[43] Thái Âm Thiên Quân c̣n gọi là Thái Âm Đế Quân, Thái Âm Nguyên Quân, hoặc Thái Âm Tinh Quân, chính là thần mặt trăng trong Đạo giáo.

[44] Nhũ Đầu Hương, c̣n gọi là Nhũ Hương (frankincense), Ma Lặc Hương, Mă Vĩ Hương, Tháp Hương, Tây Hương, Thiên Trạch Hương… Loại hương này chính là chất nhựa trích từ các loài cây thuộc họ Boswellia.

[45] Nguyệt Quư (月季) ở đây là một loại hoa hồng, có tên khoa học là Rosa Chinensis, có màu từ hồng cho tới đỏ đậm. Loại hoa này mọc nhiều ở Quư Châu, Hồ Bắc và Tứ Xuyên. Tùy theo vùng mà hoa này c̣n được gọi là Nguyệt Nguyệt Hồng, Nguyệt Nguyệt Hoa, Trường Xuân Hoa, Canh Thân Tường Vi v.v… Loài hoa này có nhiều chủng loại, nổi tiếng nhất là Mai Khôi (Rosa Rugosa), Hoàng Thứ Khôi (Rosa Xanthira), Thu Thủy Nguyệt Quư (Rosa Odorata). Cánh hoa dùng làm thuốc, chế tinh dầu, nhất là chi hoa Mộc Hương Hoa (Rosa Banksiae). Loài hoa này hoàn toàn không phải là hoa Nguyệt Quới như thường thấy ở Việt Nam.

[46] Chư Kinh Yếu Tập, c̣n gọi là Thiện Ác Nghiệp Báo Luận, do ngài Đạo Thế vào đời Đường biên soạn, trích lục những phần trọng yếu trong Tam Tạng về vấn đề thiện, ác nghiệp báo. Bộ sách này mang tánh chất tự điển Bách Khoa giống như bộ Kinh Luật Dị Tướng do ngài Bảo Xướng biên soạn vào đời Lương.

[47] Cảm Thông Truyện c̣n gọi là Đạo Tuyên Luật Sư Cảm Ứng Lục, hoặc Luật Tướng Cảm Thông Truyện do ngài Đạo Tuyên biên soạn vào đời Đường. Do ngài Đạo Tuyên hành tŕ giới luật tinh nghiêm, cảm được một vị trời giáng xuống, phụng sự, cùng Ngài vấn đáp về giới luật. Những vấn đề hỏi đáp ấy được tập hợp thành bộ sách này.

[48] Theo lệ xưa, một tạng là 5.048 bộ. Cứ tụng hết toàn bộ một bản kinh, bất luận kinh dài hay ngắn đều gọi là một bộ. Chẳng hạn tụng trọn bản kinh Kim Cang th́ gọi là tụng một bộ Kim Cang. Tụng hết mười ba phẩm của kinh Địa Tạng th́ cũng gọi là tụng một bộ Địa Tạng, tụng hết hai mươi tám phẩm kinh Diệu Pháp Liên Hoa th́ gọi là tụng một bộ Pháp Hoa. Khi nào tụng đủ số 5.048 bộ như thế th́ gọi là tụng được một tạng. Như vậy, ông Lư Bát đă tụng 3x5.048=15.144 bộ Đại Bi Quán Âm Kinh.

[49] Trương Chân Nhân ở đây là Trương Khôn Hạc, sống vào thời Đạo Quang nhà Thanh. Năm hai mươi ba tuổi, ông quy y với Đoàn Chân Nhân ở Văn Xương Các, tu tập Đạo giáo, đạt thành tựu to lớn.

[50] Thái Mục Hoàng Hậu (569-613) họ Đậu, sử không chép rơ tên, chỉ ghi bà là con gái của Thượng Trụ Quốc Đậu Nghị nhà Bắc Châu và Tương Dương Công Chúa (con gái của Vũ Văn Thái, tức con gái của Bắc Châu Thái Tổ Văn Hoàng Đế). Bà là vợ của Lư Uyên (Đường Cao Tổ). Bà xinh đẹp, thông minh, thông thạo binh thư. Ngay từ lúc bốn tuổi, bà đă khiến cho cậu là Bắc Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) kinh ngạc khi khuyên cậu phải sủng ái công chúa A Sử Na người Đột Quyết, hăy nên tấn phong A Sử Na làm Hoàng Hậu, v́ nhà Châu c̣n có hai địch thủ đáng gờm là Bắc Tề và Nam Trần. Nếu sủng ái A Sử Na, nhà Châu sẽ có một lực lượng hùng mạnh là Đột Quyết làm hậu thuẫn. Bắc Châu Vũ Đế hết sức tán thưởng sự phân tích sáng suốt của cô cháu gái, hết sức khâm phục trí thông minh của cô. Khi bà mười tám tuổi, cha bà là Đậu Nghị kiên quyết chỉ gả bà cho người xứng đáng. Đậu Nghị cho vẽ hai con chim Khổng Tước lên b́nh phong, ai đến cầu hôn th́ phải bắn trúng hai con chim ấy trong một phát tên, chỉ có Lư Uyên là thành công. Do vậy, bà lấy Lư Uyên. Bà qua đời trước khi Lư Uyên lên ngôi hoàng đế. Về sau, dù Lư Uyên có nhiều phi tần, không bao giờ lập người khác làm Hoàng Hậu. Bà là mẹ đẻ của Lư Kiến Thành, Lư Thế Dân (Đường Thái Tông), Lư Huyền Bá, Lư Nguyên Cát và B́nh Dương Chiêu Công Chúa.

[51] Huỳnh Hoặc (熒惑) chính là Hỏa Tinh. Theo Lă Thị Xuân Thu, phần Quư Hạ Kỷ, vào thời Tống Cảnh Công (Tử Đầu Loan), Hỏa Tinh xâm phạm sao Tâm, đấy là điềm bất tường. Vua sợ hăi, triệu quan Thái Sử Tử Vi vào thương nghị. Tử Vi nói: “Huỳnh Hoặc là h́nh phạt của cơi trời, sao Tâm thuộc phận dă nước Tống. Vua sẽ mắc họa, nhưng có thể dời hiểm họa ấy sang Tể Tướng”. Vua đáp: “Tể Tướng là người giúp ta cai trị đất nước, ông ta bị chết, sẽ là điềm bất tường”. Tử Vi lại nói: “Có thể chuyển họa sang dân chúng”. Vua nói: “Dân chết th́ trẫm làm vua với ai? Thà là một ḿnh ta chết”. Tử Vi lại nói: “Có thể chuyển thành mất mùa”. Vua lắc đầu: “Mất mùa th́ dân đói. Dân bị đói ắt chết, làm vua của dân mà giết dân để chính ḿnh được sống, ai c̣n coi ta là vua? Mạng quả nhân cố nhiên đă tận rồi, ngươi chẳng cần phải nói nữa!” Tử Vi sắp rời đi, lại lạy vua, thưa: “Thần dám chúc mừng bệ hạ, trời ở trên cao, nhưng nghe thấu dưới thấp. Do ba lời đức hạnh cao tột của bệ hạ, trời cao ắt sẽ ban thưởng bệ hạ ba điều. Tối nay, sao Huỳnh Hoặc sẽ lùi lại ba cung. Vua sống thọ thêm hai mươi mốt năm”. Về sau, quả nhiên đúng như vậy.

[52] Tuy gọi tên khác nhau, nhưng đều là cầu vồng. Ánh sáng chiếu qua một viên nước nhỏ, bị khúc xạ thành bảy màu là đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh dương, chàm (indigo) và tím, phản chiếu lên bầu trời, tạo thành h́nh ṿng cung. Khi màu đỏ ở ngoài, màu tím ở trong cùng th́ gọi là Hồng, hoặc Hùng Hồng (cầu vồng đực). Khi màu đỏ nằm ở phía trong cầu vồng, màu tím ở ngoài cùng, th́ gọi là Nghê, hoặc Thư Hồng (cầu vồng cái). Lời chú giải nói “trắng lẫn đỏ” là nói tới ŕa ngoài của cầu vồng in trên nền trời màu trắng.

[53] Xuân Thu Vận Đẩu Xu là một bộ sách bói toán có tên gọi chính xác là Xuân Thu Vỹ Vận Đẩu Xu do các nhà Dịch học thời Hán viết về thuật bói toán, chiêm tinh, chiêm nghiệm thiên tượng (những biểu hiện trên bầu trời) dựa theo các ư nghĩa trong kinh sách của Nho gia, thường gọi chung là Vỹ Thư. Nội dung của Vỹ Thư bao gồm kiến thức về thiên văn, lịch pháp, địa lư v.v… kể cả những thần thoại.

[54] Theo Tống Thư, phần Phù Thụy Chí, sau khi soạn xong Xuân Thu và Hiếu Kinh, Khổng Tử cùng học tṛ làm lễ bẩm cáo với cơi trời. Trời kéo mây dầy đặc, sương phủ trắng đất, cầu vồng đỏ giáng xuống, hóa hiện thành một miếng ngọc màu vàng, dài ba thước, trên đó có khắc chữ. Khổng Tử quỳ nhận, đọc: “Bảo văn xuất, Lưu Quư ác, măo kim đao, tại Chẩn bắc, tự ḥa tử, thiên hạ phục”. Các nhà chú giải giảng câu này là dự ngôn (lời tiên đoán) Tần Thủy Hoàng thống trị Trung Nguyên một thời gian ngắn, cuối cùng Lưu Bang sẽ thống nhất sơn hà. Chẳng hạn ba chữ Măo Kim Đao (卯金刀) ghép lại thành chữ Lưu (). “Tại chẩn bắc” là ngồi ở phương Bắc, ngoảnh mặt về phương Nam, tức là làm vua. Tự Ḥa Tử là chữ Ḥa () và Tử () ghép thành chữ Quư (), tức là dự báo Lưu Bang sẽ làm vua. Theo Sử Kư, Lưu Bang có tên tự là Quư; do đó, nhiều sách chép Hán Cao Tổ là Lưu Quư, thay v́ chép tên ông là Lưu Bang.

[55] Tư Sĩ (司士) là một chức quan được đặt ra từ thời Tây Châu. Chức quan này cùng với Tư Mă, Tư Không, Tư Đồ, và Tư Khấu được gọi là Ngũ Quan, chịu trách nhiệm giám sát các quan. Về sau, chức vụ này được thay thế bằng chức Ngự Sử Đại Phu, nhưng người ta vẫn quen gọi Ngự Sử Đại Phu là Tư Sĩ. Thậm chí các quan Gián Nghị tại các cấp châu, huyện, phủ cũng đều được gọi là Tư Sĩ.

[56] Dương Tố là đại thần thời Tùy Văn Đế (Dương Kiên). Ông ta thông minh, tài hoa, học rộng, nghe nhiều, nhưng rất xảo trá. Do khéo dùng binh, Dương Tố lập nhiều chiến công. V́ vậy, ông ta được phong làm Thượng Thư Tả Bộc Xạ, nắm quyền ngang ngửa với Tể Tướng thời ấy. Tùy Văn Đế có ba đứa con trai, con trưởng là Dương Dũng. Tùy Văn Đế đă lập Dương Dũng làm Thái Tử, nhưng dần dần do thấy Dương Dũng thiếu tài trí, ham chơi, n phế đi, lập Dương Quảng làm Thái Tử (tức là Tùy Dượng Đế sau này) theo lời khuyên của Dương Tố. Dần dần, Tùy Văn Đế phát hiện Dương Quảng là người tàn nhẫn, hẹp ḥi. Trong khi vua nằm bệnh, Dương Tố đến chầu hầu hằng ngày. Ông ta nghe vua muốn tái lập Dương Dũng, bèn hạ lệnh thay đổi quân túc vệ, khiến cho ư định của vua không thể thực hiện được. Do vậy, khi Tùy Văn Đế chết, Dương Quảng lên ngôi vua không trở ngại. Dương Tố ỷ vào công lao phù tá, kiêu ngạo, tự tung tự tác. Dượng Đế ngày càng ghét Dương Tố. Em út của Dượng Đế là Dương Lượng mượn cớ trừ khử Dương Tố, dấy binh làm loạn ở Tinh Châu. Dương Tố đem quân đi đánh dẹp, bắt được Dương Lượng. Về sau, do Dượng Đế ngày càng nghi kỵ, chèn ép gịng họ Dương Tố, con Dương Tố là Dương Nguyên Cảm sợ bị bức hại bèn dấy binh phản Tùy. Sau nhiều lần bị đánh bại, Dương Nguyên Cảm bị Dượng Đế sai người đánh thuốc độc giết chết, và tru di tông tộc của Dương Tộc.

[57] Lư Tích là một danh tướng đời Đường, vốn tên là Từ Thế Tích. Do theo Đường Thái Tông lập nhiều công lao, nên được ban họ Lư. V́ sợ phạm húy Đường Thái Tông (Lư Thế Dân), Lư Thế Tích bỏ chữ Thế trong tên của chính ḿnh. Ông làm đến chức Binh Bộ Thượng Thư dưới triều Đường Thái Tông. Ông ta là kẻ rất giảo hoạt, khéo luồn lách, khéo gió chiều nào che chiều ấy. Về sau, Đường Cao Tông (Lư Trị) muốn lập Vũ Chiêu Nghi (Vũ Tắc Thiên) làm Hoàng Hậu, đa số các đại thần phản đối. Vua bực bội, hỏi ư Lư Tích, Lư Tích đáp ngay: “Đó là chuyện riêng trong nhà bệ hạ, cần ǵ phải hỏi ư người ngoài!” Do vậy, Vũ Tắc Thiên rất coi trọng ông ta. Cháu nội ông ta là Từ Kính Nghiệp là danh tướng, do phù tá Đường Trung Tông chống lại sự chuyên quyền của Vũ Tắc Thiên, nên đă chiếm cứ Dương Châu dựng cờ khởi nghĩa. Vũ Hậu sai Lư Hiếu Dật cầm quân đánh dẹp. Kính Nghiệp bị đánh bại tại mặt trận Cao Bưu. Anh em Kính Nghiệp đều bị quân Đường truy bức, giết chết.

[58] Nhị tập (hai thứ tập khí) ở đây chính là chủng tập và hiện tập. “Chủng tập” là những chủng tử có sẵn do những thói quen từ trước hoặc do kinh nghiệm từng trải từ trước kết thành, khi gặp đúng duyên, chúng sẽ dấy lên hiện hành. Sự hiện hành ấy được gọi là “hiện tập”.

[59] Theo ông Hoàng Bách Lâm, “vương sứ” là sứ giả của Diêm Vương. “Chủ lại” là những viên quan chủ quản sổ sách trong cơi âm.

[60] Tân La (Silla) là một vương quốc cổ nằm ở phía Nam và một phần miền Trung bán đảo Triều Tiên, tồn tại từ năm 57 đến năm 935. Tân La cùng với Bách Tế (Baekje) và Cao Câu Ly (Goguryeo) hợp thành Tam Quốc trong cổ sử Đại Hàn. Vương triều này do Phác Hách Cư Thế Cư Tây Can (Bak Hyeokgeose Geoseogan) sáng lập. Cuối cùng, vương triều này thôn tính Bách Tế và Cao Câu Ly. Sau gần một ngàn năm thịnh trị, Tân La lại rơi vào t́nh trạng tam phân, tức là Hậu Tân La, Hậu Bạch Tế, và Thái Phong (Taebong). Sau đó, Tân La bị vương quốc Cao Ly (Goryeo) tiêu diệt.

[61] Mân () là một ngàn đồng.

[62] Đinh Vị (966-1037) là một gă đại gian thần thời Bắc Tống. Hắn quê ở Trường Châu thuộc Tô Châu, có tài ăn nói, giỏi thơ, họa, tinh thông sách vở và cờ vây. Hắn xuất thân là môn hạ của Khấu Chuẩn. Nhờ khéo luồn lách, hắn làm đến Hộ Bộ Thị Lang, kiêm Tham Tri Chánh Sự. Khi đă nắm quyền, hắn tận lực hạ bệ, bài xích Khấu Chuẩn, khiến ông Khấu bị đày đi Lôi Châu. Đinh Vị cùng với Vương Khâm Nhược, Lâm Đặc, Trần Bành Niên và Lưu Thừa Khuê kéo bè kết đảng khuynh loát triều chánh, sử thường gọi bọn chúng là Ngũ Quỷ. Về sau, do đồng đảng là Lôi Doăn Cung phạm tội xâm phạm lăng tẩm của hoàng đế, hắn bị liên lụy, bị giáng chức làm Thái Tử Thái Bảo, rồi bị đày đi Nhai Châu (Châu Nhai).

[63] Tào Ty (漕司) là chức quan quản trị vận chuyển theo đường thủy.

[64] Đây là nói đến một đoạn trong thiên Tận Tâm Hạ sách Mạnh Tử: “Ngô kim nhi hậu tri sát nhân thân chi trọng dă. Sát nhân chi phụ, nhân diệc sát kỳ phụ. Sát nhân chi huynh, nhân diệc sát kỳ huynh. Nhiên tắc phi tự sát chi dă, nhất gián nhĩ” (Từ nay trở đi ta biết giết người thân của kẻ khác là nặng nề. Giết cha của người ta, người ta cũng giết cha ḿnh. Giết anh của người ta, người ta cũng giết anh của chính ḿnh. Tuy chẳng phải do chính ḿnh tự giết, nhưng xét đến nguồn cội, có khác ǵ đâu?)

[65] Nguyên văn “lậu bô” (漏脯) nghĩa là thịt khô để nơi dột nát, hoặc bị ngấm nước, sẽ sanh ra nấm mốc rất độc.

[66] Đây là một đoạn trong thiên Tận Tâm Hạ của sách Mạnh Tử: “Kê minh nhi khởi, tư tư vi thiện giả, Thuấn chi đồ dă. Kê minh nhi khởi, tư tư vi lợi giả, Chích chi đồ dă. Dục tri Thuấn dữ Chích chi phân, vô tha, lợi dữ thiện chi gian dă” (gà gáy bèn thức dậy, siêng gắng làm lành, đó là hạng người giống như vua Thuấn. Gà gáy bèn thức dậy, chăm chú làm lợi cho [bản thân], đó là hạng người giống như Đạo Chích. Muốn biết rơ để phân biệt giữa hạng người giống như vua Thuấn hay như Đạo Chích, chẳng có ǵ khác, chỉ là [sự khác biệt] giữa lợi và thiện).

[67] Thiên Thánh là niên hiệu của Tống Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1023 tới năm 1032.

[68] Bàn Sơn Ngữ Lục là tác phẩm do đệ tử của đạo sĩ Vương Chí Cẩn biên soạn vào cuối đời Kim, đầu đời Nguyên. Vương Chí Cẩn là đạo sĩ của Toàn Chân Giáo, đạo hiệu là Thê Vân Tử. Sách này ghi chép những lời dạy của Vương đạo sĩ về cách tu luyện trong Đạo giáo dựa trên những luận giải về Thanh Tịnh Kinh. Do ông Vương tham khảo bộ Thiền Tông Tâm Tánh Luận, nên trong tác phẩm này có rất nhiều yếu tố Thiền.

[69] Tứ Vật (四勿) là “bốn điều đừng nên”, trích từ thiên Nhan Uyên trong sách Luận Ngữ. Sách chép: “Tử viết: ‘Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên, vi nhân do kỷ, nhi do nhân hồ tai?’ Nhan Uyên viết: ‘Thỉnh vấn kỳ mục’. Tử viết: ‘Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (Khổng Tử nói: “Khắc chế sự ham muốn của chính ḿnh, khôi phục lễ nghĩa, đó là nội dung của nhân. Ngày nào mọi người đều khắc chế tư dục, tuân thủ lễ nghĩa, [ngày ấy] khắp thiên hạ đều là người có ḷng nhân. Thực hiện ḷng nhân phải từ chính ḿnh, chứ [chờ đợi] người khác thực hiện ḷng nhân th́ làm sao được?” Nhan Uyên thưa: “Xin thầy dạy cho biết các điều mục [để thực hiện ḷng nhân]”. Khổng Tử bảo: “Việc phi lễ chớ nh́n, điều phi lễ chớ nghe, chuyện phi lễ chớ nói, hành vi phi lễ chớ làm”).

[70] Trâu là quê hương của Mạnh Tử, nước Lỗ là quê hương của Khổng Tử, Liêm là nói đến Châu Đôn Di v́ ông sống tại Liêm Khê thuộc Đạo Châu, Lạc là nói đến anh em Tŕnh Di, Tŕnh Hạo v́ họ sống ở Lạc Dương. Trâu Khê Liêm Lạc là nói đến Tống Nho (Trâu Lỗ là học thuyết Khổng Mạnh, c̣n Liêm Lạc là nói về Lư Học).

[71] Nguyên văn “sanh, đán, sửu, mạt” (生旦丑末) là thuật ngữ dùng để phân loại các diễn viên tuồng:

1. Sanh () là vai diễn viên nam (kép), thường vẽ mặt thanh tú, trắng trẻo, không vằn vện, chia thành tiểu sanh (các vai nam trẻ tuổi), lăo sanh (vai nam già), vũ sanh (vai vơ tướng đẹp trai như Tiết Nhân Quư, Tiết Đinh San, La Thông v.v…), oa oa sanh (kép nhí, tức các vai bé trai)...

2. Đán () là đào, chia thành chánh đán (thanh y) tức các vai đào chánh, hoặc đào thương, giữ các vai tṛ đoan trang, trang trọng, tiết liệt, chủ yếu là đ̣i hỏi giọng hát, không cần vũ đạo nhiều, hoa đán (đào mùi hoặc đào lẳng, tùy theo vở tuồng), vũ đán (nữ tướng), lăo đán (đào mụ), thái đán (đào độc, chuyên đóng các vai gian trá, hung ác, ty tiện, hoặc những vai nữ tỳ hay b́nh dân tinh nghịch, có tánh cách chọc cười, ăn nói sắc sảo, hoạt kê).

3. Tịnh (c̣n gọi là hoa kiểm) là các vai vẽ mặt vằn vện, thường là nam; đa số là vai vũ tướng, rậm râu như Hạng Vũ, Trương Phi v.v...

4. Sửu () là các vai hề.

5. Mạt () là những vai nam đeo râu dài, nhưng không vẽ mặt vằn vện, thường đóng vai quan văn, ẩn sĩ, đạo sĩ…