Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên
感應篇彙編
Quyển 4
Phần 2
(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội năm 2000)
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
(Chánh văn) Áp lương vi tiện.
Mạn mạch ngu nhân.
(正文)壓良為賤。謾驀愚人。
(Chánh văn: Chèn ép người
lành khiến họ trở thành ty tiện. Dối gạt kẻ
ngu).
Những kẻ hiện thời
làm nô tỳ cho người khác là do đời trước tạo nghiệp, tích ác, những
lỗi ác [đă tích tụ] cho đến con số một
ngàn tám trăm điều. Trong số ấy, có những kẻ
chẳng phải thật sự là nô tỳ, mà vốn là con
cái nhà đàng hoàng, nhưng do ta dùng thế lực cưỡng
chế, ép buộc họ làm nô tỳ, tức là “chèn ép người lành, khiến cho
họ trở thành hàng ty tiện”. C̣n như mua con gái nhà
lành về làm kỹ nữ xướng ca, sẽ thuộc về
tội “thập ác bất xá”[1] (十惡不赦, mười điều ác chẳng thể
ân xá), lại càng chẳng cần phải nói nữa!
Châu Tường ở Chương
Châu làm bạn với Tiết Thuần. Tiết Thuần
nghèo nàn, chỉ có một đứa con. Tiết Thuần chết,
đứa con được gởi cho Châu Tường
nuôi. Rốt cuộc, Châu Tường coi nó như tôi đ̣i;
hễ có chút ǵ chẳng bằng ḷng, liền đánh đập
tơi bời. Một ngày, Châu Tường gặp Tiết
Thuần trên đường, kinh hăi hỏi: “Anh đă qua
đời, sao lại đến nhân gian?” Đáp: “Đến
thăm con tôi và bắt anh đi theo”. Châu Tường tuôn mồ
hôi như mưa, trở về nhà, chết đột ngột.
Từng thấy trong nhà phú quư, những kẻ thân
tộc khốn khổ không nơi nương tựa, gởi
thân vào nhà ấy, mong có được miếng cơm, manh
áo, thường bị sai khiến như kẻ tôi đ̣i! Thậm chí c̣n bị chửi mắng, quát
tháo. Đấy là những trường hợp bị đức
Thái Thượng răn cấm. Nhưng hạng người như thế
ấy thoạt đầu là có ḷng giúp đỡ, chăm
sóc, về sau lại làm chuyện vùi dập, đày đọa, không chỉ là chẳng có công lao ǵ, mà c̣n tổn
đức, há chẳng đáng tiếc ư?
Tại kho Quảng Tế[2] của
tỉnh Chiết Giang, [quan lại địa phương]
mỗi năm thường sai những người có tiền
trong thành Hàng Châu đảm nhiệm công tác khố dịch[3] để
trông coi chuyện thâu vào, phát ra. Có kẻ v́ ḅn rút công khố
quá nhiều, chẳng thể bù đắp được,
viên Phủ Phán[4]
là Vương X… bèn bắt thê, thiếp, con cái của người ấy lên quan. Rốt cuộc, người
ấy chẳng đền được, ông Vương bèn sai [cấp dưới] dùng thuyền nhỏ,
chở họ ra Tây Hồ làm người hầu cho các du
khách để lấy tiền nạp cho quan phủ. Về
sau, con cháu của họ Vương có đứa
làm kỹ nữ ca xướng!
Có một hạng cha mẹ, do
bất đắc dĩ, phải làm chuyện táng tận
lương tâm vô sỉ là bán con cái làm nô bộc cho kẻ
khác, nhưng ta có nỡ ḷng [đứng nh́n cảnh ấy]
hay chăng? Người chuộng nghĩa, do có sức bèn bỏ
ra tiền bạc để giúp đỡ người ấy
trong cơn túng ngặt, ḥng bảo vệ con cái của nhà
đàng hoàng ấy. Đó là đức dầy. Nếu
như chẳng thể, ta đừng làm nhục chúng. Tuy chẳng
tránh khỏi phải bán chúng cho người khác, vẫn chẳng
đánh mất sự tận tâm của ta!
Hạng trung lưu và bần
tiện vốn chẳng có nhất định. Bất quá
con cái của kẻ nghèo bán cho người giàu có th́ gọi
là “tiện” (賤, bần tiện, hèn kém), thật ra đều
là “lương” (良, đàng hoàng, không phải là thân phận tôi tớ,
nông nô). Người thời nay
yêu quư con cái của chính ḿnh như châu báu. Cao lương mỹ
vị ngon béo, lụa là, thêu thùa [đều dành cho con ḿnh],
nhưng đối với con nuôi trai gái th́ coi như bụi,
rác, đ̣n roi, đối xử thô ác, [chẳng quan tâm chúng nó] đói khát, rách rưới, rét buốt! Những
đứa trẻ ấy cũng do cha mẹ sanh ra, sao mà [bị
đối xử] chẳng công bằng như thế ấy?
Sao chẳng nghĩ kẻ giàu có thể trở thành nghèo nàn,
người nghèo nàn có thể trở thành giàu có? Đạo
trời thật sự chưa thể biết
được, có thể bảo đảm hạng trung
lưu chẳng đâm ra trở thành nghèo hèn, kẻ nghèo hèn
chẳng đâm ra trở thành trung lưu ư?
Đối đăi người
ngoài, xử sự với người dưới, cần
phải là “ở vào địa vị phú quư, thấu hiểu
nỗi đau đớn của kẻ nghèo hèn”. Đang lúc
trẻ trung, khoẻ mạnh, hăy nghĩ tưởng nỗi
niềm cay cực,
chua xót của người
già cả. Ở trong hoàn cảnh an lạc, hăy thấu hiểu,
thương xót hoàn cảnh, trạng huống của
người hoạn nạn. Ở trong cảnh bàng quan, hăy
thông cảm nỗi khổ tâm của người trong cuộc.
“Mạn”
(謾) là lừa dối kẻ không biết, không thấy. “Mạch” (驀) là dáng
vẻ nhanh nhảu, lanh lợi. Hễ dùng quỷ kế để
bày cách lừa đảo, khiến cho kẻ khác bị vướng vào mưu mô ấy,
th́ gọi là “mạn mạch”
(謾驀). “Mạn mạch”
đều chớ nên dùng; áp dụng [những mánh khóe ấy]
vào kẻ ngu lại càng đáng thương hơn! Dẫu
kẻ ngu chẳng thể trả đũa, trong cơi ngấm
ngầm, sẽ tự có kẻ báo đền thay cho họ.
Kẻ ngu chẳng bị tổn hại mà ta đă bị tổn
hại trước!
Sách Viên Thị Thế Phạm
chép: - Nghèo, giàu chẳng hề là chuyện nhất định.
Ruộng nương, nhà cửa, chẳng có chủ cố
định. Có tiền bèn mua, không tiền th́ bán. Kẻ mua
sản nghiệp hăy nên biết lư này. Huống hồ người
ta bán tài sản là v́ thiếu cái ăn, hoặc do mắc nợ,
hoặc v́ bệnh tật, tử vong, kết hôn, thưa kiện.
Do có trăm ngàn thứ phải chi tiêu mà bán trăm ngàn sản
nghiệp. Kẻ mua sản nghiệp, hăy chú trọng khoan
dung, đôn hậu, trả cho đúng giá trị, [ngơ hầu]
người bán sau khi đă chuyển giao [sản nghiệp],
tuy chẳng c̣n lại ǵ, [nhưng món tiền người ấy
nhận được] vẫn đủ để giải
quyết xong xuôi chuyện ấy. Kẻ làm giàu bất nhân,
chuyên chú trọng lừa dối, lươn lẹo, biết
người bán có chuyện gấp phải cần dùng, bèn bề
ngoài cự tuyệt, bên trong ngấm ngầm dẫn dụ
để d́m giá thật sâu. Đă lập xong văn khế,
lại dằng dai, chẳng lập tức thanh toán trọn số, hoặc dùng gạo,
thóc, hay những món vật khác tính cao giá lên để khấu
trừ [món tiền phải thanh toán], hoặc ước hẹn
kỳ hạn để trả lẻ tẻ. Kẻ đă
bán sản nghiệp sẽ v́ đó mà tiêu hao hết tiền nhưng chẳng thể giải quyết xong xuôi
chuyện ấy, phải qua lại đ̣i nợ, chi phí và công
sức lại chiếm mất nửa. Kẻ giàu có kia lén lút
vui sướng, ngỡ là mưu mô hay khéo, chẳng biết đạo trời sẽ báo đền. Có trường hợp báo ứng
ngay trên thân người ấy, có khi rơi vào thân
con cháu. Lắm kẻ mê muội chẳng tỉnh, v́ lẽ
ǵ vậy?
(Chánh văn) Tham lam vô yếm, chú
trớ cầu trực.
(正文)貪婪無厭。呪詛求直。
(Chánh văn: Tham lam chẳng
chán, thề thốt để người khác tin là ḿnh
chánh trực).
Dùng miệng nuốt chửng
đồ vật th́ gọi là Lam (婪), ư nói ḷng tham của con người giống
như cái miệng ăn nuốt thực phẩm chẳng
chán, chẳng ngừng, chẳng có cùng cực. Lăo Tử nói:
“Tội mạc đại
ư đa dục, họa mạc đại ư bất
tri túc” (Tội không ǵ lớn bằng lắm dục
vọng, họa không ǵ lớn bằng chẳng biết
đủ). Kẻ biết đủ dẫu nghèo hèn vẫn
vui sướng. Kẻ chẳng biết đủ, dẫu
phú quư vẫn lo rầu. Người đời tham cầu
quá nhiều, rốt cuộc đều hao tán! V́ thế, chẳng cần phải nói nữa,
lại c̣n gieo mầm tai họa, càng khó kết liễu!
Chân Bân là người có phẩm
hạnh, đạo đức cao thượng. Ông từng
đem một bó sợi gai đến tiệm cầm đồ
để cầm lấy tiền. Về sau, ông chuộc bó
gai về, thấy trong ấy có năm lượng vàng. Chân
Bân đem vàng giao trả, chủ tiệm cho Chân Bân một nửa.
Chân Bân chẳng nhận, bảo: “Kẻ tháng Năm mặc
áo dầy, đội củi[5], há chịu
nhận vàng ư?”
Vào thời Đường Đại
Tông, Trung Thư Thị Lang Nguyên Tải[6] qua trung
gian của các con mà móc nối ăn hối lộ. Ở
kinh đô và các nơi, hắn đều dẹp trừ bậc
trung lương, cất nhắc bọn tham lam, bỉ ổi.
Hắn giàu có, xa xỉ, hằng ngày đều ca xướng,
hoan lạc, ngay cả hoàng cung cũng chẳng bằng. Vua
đă từng răn nhắc, hắn chẳng thay đổi.
Về sau, vua giận, bắt giam Nguyên Tải, hạ chiếu
ban chết. Vợ con hắn cũng được ban chết,
tịch biên gia sản, [tịch thâu] năm trăm lượng
chung nhũ[7].
Vua hạ lệnh chia cho các quan thuộc [các cơ cấu] Trung
Thư, Môn Hạ, và Đài Tỉnh, [c̣n có] hồ tiêu đến
tám trăm thạch. Những món vật khác cũng nhiều
ngần ấy. Trịnh Tuyên nói: “Từ xưa, những kẻ
ở vào địa vị Tể Tướng, có bao giờ
chết v́ đói rét, mà thường là chết v́ của cải,
vật chất, cũng đáng nực cười thay!”
Đời Minh, trong niên hiệu
Thiên Thuận (đời Minh Anh Tông), Lư Minh ở Gia Hưng
có một chiếc b́nh báu. Kẻ nhà giàu là Tào Viện muốn
đổi bằng hai mươi thạch gạo, nhưng
ông Lư không đồng ư. Về sau, [Lư Minh] lại gạ gẫm
Hoài Duyệt, Hoài Duyệt trả gấp bội, [Lư Minh] vẫn
không bán. Lại giao cho Ngô Nhữ Huy xem, Nhữ Huy trả
giá một trăm thạch gạo. Đă đồng ư bán,
có gă Lưu Chúc bảo Lư Minh: “Tôi có một kế,
khiến cho ông thâu lợi to lớn. Nếu ông dâng cái b́nh ấy
cho quan Trấn Thủ Trương Thái Giám để đổi
lấy giấy phép vận chuyển và tiêu thụ muối
trong cả quận Gia Hưng th́ sẽ được lợi gấp
trăm lần”. Lư Minh đồng ư. Lưu Chúc đi chạy
chọt thay, quả nhiên đạt được đúng
mưu đồ, tính ra sẽ được lợi
hơn ba ngàn lượng. Họ Lưu được chia
một phần ba [số phiếu lănh muối]. Lư Minh lănh về,
qua sông, thuyền lật, các tấm phiếu lănh muối
đều bị ướt nhẹp, hư nát. Thái Thú quận
Gia Hưng là Dương Kế Tông thúc bách đ̣i nộp [số
lượng muối đúng với] những giấy phép [đă
cấp] ấy, Lư Minh bị [giam cầm], chết trong ngục.
Lưu Chúc bán sạch gia sản để bồi thường!
Cổ nhân nói: “Cơi đời chẳng có người
trăm tuổi, oan uổng bày mưu tính kế ngàn năm”.
Mong cầu chẳng chán để làm ǵ? Có phải là v́ muốn
tính toán cho con cháu đó chăng? Chẳng biết tục ngữ
có câu: “Nếu con cháu chẳng
được như ta, chúng nó cần tiền để
làm ǵ? Con cháu mạnh mẽ như ta, [chúng nó] cần tiền
để làm ǵ?”
Đời Hán, Sớ Quảng
nói: “Há có phải là ta già cả, hồ đồ, chẳng
nghĩ tới con cháu ư? Ta có ruộng đất, nhà cửa
cũ, con cháu siêng năng cày bừa, sẽ đủ để
cung cấp áo, cơm. Nếu tăng thêm ḥng được
dư dả
hơn, chính là dạy con ôm ḷng
lười nhác. Kẻ hiền mà có lắm tiền của,
ắt ư chí hao tổn. Đứa ngu mà có lắm tiền của,
sẽ càng tăng thêm lỗi lầm. Hơn nữa, kẻ
giàu bị nhiều người oán hận. Ta đă chẳng
có ǵ để dạy con cháu, chẳng muốn chúng nó tăng
thêm lỗi để sanh oán”. Do vậy, ta thấy Tư Mă Ôn Công đă giáo huấn:
“Chứa vàng chẳng bằng
tích đức”. Sao chúng ta không đọc tụng nằm
ḷng [câu nói ấy] ḥng nỗ lực thực hiện vậy
thay!
“Chú
trớ” (呪詛) là thề với thần. “Cầu trực” (求直) là cầu thần báo ứng nhanh chóng. Chuyện
này chẳng phải đợi đến khi dùng h́nh thức
sớ tấu [để thề thốt với thần],
mà hễ tức giận trong khi tranh chấp, xằng bậy
kêu gọi [quỷ thần] th́ đều thuộc vào phạm
vi của lời răn này. Xét ra, Chú Thệ Chương có
nói: “Hễ có thề thốt, ắt
bốn phương tám hướng đều tiếp nhận lời thề thốt của kẻ ấy, hết thảy loài quỷ hung ác sẽ đều
thừa cơ kiếm sơ hở
để đột nhập, gây nên họa hại. Nếu
chẳng sám hối, thỉnh thiên thần giáng hạ hóa giải,
sẽ chẳng dễ đoạn trừ”. Vậy th́ có nên thề thốt hay
chăng?
Đầu thời Vạn Lịch
nhà Minh, một gă lư dịch là Vương Trứ ở Tây
Hoa, do đôi co với người nạp thuế về
chuyện thiếu thuế, đă thề thốt ở miếu
Thành Hoàng. Ban đêm, hắn ngủ lại chùa Dương Thiện,
bỗng nghe tiếng quát tháo. Hắn thức dậy xem, thấy
một vị quan đứng dưới ánh đuốc,
đội phốc đầu[8], áo
đỏ, người theo hộ vệ rất đông. [Vị
ấy] quát bảo hai tráng sĩ vung đao hướng về
phía Vương Trứ. Vương Trứ cầm nghiên mực
trên án quăng họ, rốt cuộc vẫn bị đâm
trúng, miệng và má đều bị đổ máu. Tăng
chúng trong chùa bị kinh động thức dậy, chẳng
thấy một ai. [Vương Trứ] mới biết là thần
Thành Hoàng. Sáng hôm sau, hắn mặc áo tù nhân, đến miếu
tạ tội, thấy thần tượng trong miếu
nghiễm nhiên như giống như trong mộng. [Tượng]
thị vệ đứng bên phải th́ cầm đao, trên
thân có vết mực. Hơn một tháng, vết thương nơi miệng
mới lành, giống hệt như vết đao chém. Phàm Lư và Sự vốn có
đúng hay sai, vốn là đúng th́ công luận khó thể dẹp
trừ được, lâu ngày [sự thật] sẽ tự tỏa rạng, tội ǵ phải so đo?
Nếu là sai th́ hăy tự phản tỉnh, hối lỗi,
há dám đối trước thần mà hờn oán người
khác ư? Huống hồ mọi chuyện chỉ nên xét theo đúng lư mà an phận. Hễ thề
thốt, sẽ bị quỷ thần chán ghét, ắt bị
trời phạt, há chẳng nên kiêng tránh ư?
(Chánh văn) Thị tửu bột
loạn.
(正文)嗜酒悖亂。
(Chánh văn: Ham nhậu nhẹt,
quậy phá).
Rượu có thể làm loạn
tánh. Nếu quá mức mê rượu, sẽ bị tổn
thất cực lớn. Xem bài Tửu Cáo[9] bèn biết
cổ nhân đă lo lắng sâu xa. Xem bài Tửu Tụng[10], sẽ
biết cổ nhân gởi gắm niềm hứng thú sâu xa. Như
trong [cổ] lễ đă nói, hễ kính nhau một lượt
rượu[11],
chủ và khách vái chào lẫn nhau nhằm ngăn ngừa do
rượu mà thất lễ! Người đời ham thích rượu chè vô độ; do vậy,
dẫn đến chuyện thân thể chệnh choạng,
lễ pháp bị chôn vùi, rối loạn, chửi bới
người cùng ngồi [trong bàn rượu], nằm
lăn ra đường phố, trái pháp, phạm thượng.
Lâu ngày, [do say sưa], sẽ bị chôn vùi cái tâm, mất hết
phẩm đức, có thể khiến cho kẻ sĩ bại
hoại danh tiết, quan lại bị mất chức, nhà
nông bỏ mặc ruộng nương, lái buôn cụt sạch
vốn. Thậm chí mất mạng, tan nhà, há chẳng
đau xót ư?
Đời Tống, Lỗ
Công Phạm Chất răn con rằng: “Cha răn các con
đừng ham uống rượu. Rượu là loại
thuốc gây cuồng, chẳng phải mỹ vị. Nó có thể
khiến cho người tánh t́nh cẩn trọng, nồng hậu
hóa thành hung hăng, ương bướng”. Tào
Nguyệt Xuyên nói: “Để dưỡng tánh, chớ tham
đắm loại nước khiến cho tánh bị hôn ám.
Đă lập gia đ́nh, phải kiêng loại ‘canh phá nhà’. Hơn
nữa, cội nguồn của hết thảy các chuyện
dâm loạn phần nhiều bắt nguồn từ rượu”.
V́ thế, trong bốn điều răn, lấy rượu
làm điều răn đầu tiên.
Kẻ say ắt mất sạch
thiện niệm, ác niệm dấy lên lừng lẫy. Khi tỉnh,
ắt chẳng dám làm, ắt chẳng dám nói; hễ say, sẽ
làm luông tuồng, sẽ nói bừa băi. V́ thế, người
uống rượu mà biết giữ chừng mực, th́
[rượu sẽ] được gọi là Thái Ḥa Thang (太和湯, canh Thái Ḥa), hoặc gọi là Vong T́nh Hữu
(忘情友, người bạn giúp ḿnh quên buồn). Kẻ
uống rượu mà chẳng thể giữ chừng mực
th́ [rượu được] gọi là Nhu Ma (柔魔, con ma dịu dàng), gọi là Cam Độc (甘毒, chất độc ngọt ngào).
Rượu là củi để
[đốt lên] ḷng dâm. Phóng túng rượu chè mà chẳng
phóng túng dâm dật th́ hiếm lắm! Bởi lẽ, nội
hỏa vừa bừng bừng bốc lên, dâm dục hừng
hực phừng lên, đă là khó ngăn ngừa; huống hồ,
rượu chè phóng túng khiến cho ngọn lửa ấy
càng thêm mạnh mẽ ư? Nhậu say rồi ăn nằm,
ngũ tạng đảo lộn, sẽ mắc bệnh chẳng
nhẹ, càng phải nên đau đáu kiêng dè! Lại có kẻ
do say sưa mà nói huỵch toẹt những chuyện dâm uế,
[đến nỗi] phải chịu nhục, táng mạng, hối
hận sao kịp?
Chuyện đáng nực cười
nhất trong thế gian không ǵ bằng tranh đua thắng
thua trong tiệc rượu. Xử sự trong cơi đời,
mỗi chuyện đều nên lùi bước, nhân nhượng.
Huống chi đôi khi [cùng nhau tụ tập] vui chơi, hành
tửu lệnh[12] so quyền,
bất quá là để cao hứng trong chốc lát, thắng
chẳng đáng để vinh, thua chẳng đáng nhục!
Thua th́ chẳng bị mất mát ǵ, thắng chẳng đạt
được ǵ. Đúng như người chơi cờ
vây đă nói: “Thắng th́ cố
nhiên là vui thú, thua th́ cũng vui vẻ”. Những kẻ
đă hôn ám chẳng biết, cứ ắt phải thắng
mới được, đến nỗi chẳng say chẳng
nghỉ! Sao mà ngu si quá mức vậy? Lại có kẻ tự
khoe tửu lượng cao, coi chuyện không ai có tửu
lượng bằng ḿnh là hành vi hào hùng. Chẳng biết
đạo đức, văn chương, đỗ đạt,
công danh của chính ḿnh đúng là nhiều phần chẳng
sánh bằng kẻ khác, [thế mà] cứ khăng khăng
khoe khoang tửu lượng cao, há cũng chẳng lầm lạc ư? Lại có một
hạng người, khoe khoang coi chuyện tửu lệnh nghiêm
minh là điều đáng đắc ư, chẳng
nghĩ rượu dùng để chung vui với nhau, hăy nên
thuận theo tửu lượng của từng người,
tội ǵ cưỡng ép [kẻ khác] uống cho nhiều
đến nỗi tổn thương thân thể! Tục ngữ
có câu: “Chánh trị hà khắc
c̣n tệ hơn cọp dữ”. Tôi nói: Tửu lệnh hà
khắc th́ cũng giống như vậy. Trong tiệc
rượu, nếu có hạng người ấy, hăy nên gấp
viện cớ để tránh đi.
Trong Đại Trí Độ
Luận đă ra nêu các lầm lỗi do uống rượu
như sau:
1) Tâm không tiết chế, chẳng
có chừng hạn.
2) Tài vật hư hao, kiệt
quệ.
3) Cửa ngơ dẫn đến
các thứ bệnh.
4) Cội rễ của sự đấu tranh.
5) Lơa lồ chẳng hổ
thẹn, giống như trâu ngựa.
6) Do ta làm nhục, khinh miệt,
chửi bới những người cùng uống, mà bị người ta ghét bỏ.
7) Chẳng đạt
được vật đáng lẽ đạt được.
8) Bỏ mất vật
đă đạt được.
9) Trong khi say, phun ra hết những
chuyện giấu diếm; khi tỉnh rượu bèn hối
tiếc.
10) Khi say có nhiều hành vi sai
trái, khi tỉnh sẽ hổ thẹn.
11) Sức lực suy yếu.
12) Sắc mặt biến
đổi.
13) Tâm chí mê hoặc.
14) Trí huệ bị che lấp.
15) Chẳng biết tôn kính
cha mẹ.
16) Chẳng biết tôn kính quỷ
thần.
17) Chẳng biết sợ lời
nói của người khác.
18) Chẳng biết sợ
phép vua.
19) Kéo bè kết đảng
làm chuyện cuồng vọng, bạo ngược.
20) Lợt lạt, xa lánh bậc
hiền thiện.
21) Chẳng hổ thẹn.
22) Dễ nổi giận đùng đùng.
23) Chẳng kiềm chế lục
t́nh (mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét).
24) Phóng túng sắc dục vô
độ.
25) Bị người đă
từng cung kính ta bài xích, xua đuổi.
26) Chẳng cẩn thận,
kiêng sợ.
27) Coi ngày là đêm, sự nghiệp đều bỏ bê.
28) Phạm lỗi về luân
thường, đạo đức.
29) Vứt bỏ thiện
pháp.
30) Xa ĺa Niết Bàn.
31) Gieo cái nhân ngu si, cuồng vọng.
32) Khi thân hoại, mạng
chung, sẽ đọa trong ác đạo. Nếu được
làm người, tâm luôn cuồng loạn, hết thảy những
vật bên ngoài cần dùng cho cuộc sống thảy đều
bị bại hoại.
Một kẻ sĩ ở
đất Mân (Phước Kiến) là Lưu X… b́nh thời
phẩm hạnh đoan nghiêm, học tṛ rất đông. Hằng
ngày, ông ta thường răn dạy [học tṛ] kiêng dè sắc dục. Một
hôm, ngẫu nhiên say sưa, tranh giành gái điếm với bạn.
Khi tỉnh, hết sức hối hận, xấu hổ chẳng
muốn gặp các học tṛ, đóng cửa suốt ba ngày,
biên tập các chuyện xưa nay mắc hại v́ rượu
để tự cảnh tỉnh chính ḿnh, đặt tên là
Bách Hối Kinh.
Lại có kẻ sĩ ở
đất Ngô (Giang Tô) là Diệp X… bẩm tánh vốn hiếu
thảo, ḥa thuận với anh em. Một hôm, sau khi say sưa, đă tranh chấp, chửi bới
em trai. Cha dùng lư để khuyên, chàng ta phun ra một, hai câu bất kính. Canh năm tỉnh rượu,
vợ kể lại t́nh trạng khi say sưa, chàng ta hối
hận muốn chết phứt, vội đến pḥng cha,
khấu đầu, khóc lóc, quỳ xin tạ tội, cơn
giận của cha mới nguôi.
Ôi! Hai ông bẩm tánh thuần
hậu, nghiêm cẩn, c̣n chẳng khỏi ngang ngược,
phóng túng khi say. Nếu là hạng người phóng túng, tà vạy,
xa xỉ, sẽ càng tệ hại đến mức nào?
Rượu được gọi là Họa Tuyền (禍泉, suối họa), đúng lắm thay!
Đời Tống, Ngô Dục
làm Xu Mật Sứ. Khi ấy, Trần Chấp Trung bị
băi chức Tể Tướng, tiến cử Ngô Dục
thay thế. Do Ngô Dục hầu vua dự yến tiệc,
say sưa, ngủ vùi, bỗng vỗ giường, gọi
tùy tùng; vua tức giận, băi truất ông ta làm Tây Kinh
Lưu Đài. Lại nữa, Quách Chí làm Tham Chánh (Tham Tri
Chánh Sự, tức Phó Tể Tướng) vào cung tâu tŕnh,
mùi rượu xông sực ṭa ngự, ông bị giáng chức,
đổi đi Nam Kinh.
Say rồi lỡ lời, thường
gặp đại họa. Một danh sĩ ở huyện
Vô Tích, tuổi trẻ, đa tài. Uống say rồi phê phán chuyện xấu trong buồng the của
người khác ngay trước mặt kẻ đó. Kẻ
đó thản nhiên cười bảo: “Ông X… say nên nói vậy”,
dường như chẳng có mảy may nào so đo. Những
người đang ngồi cùng bàn đều cảm phục
độ lượng của ông ta. Một người từng
trải chờ cho người ấy đi khỏi, bảo
những người cùng ngồi: “[Bị làm nhục] mà tức
giận là chuyện thường, chứ kẻ cười
x̣a khó thể ḍ lường được”. Nửa năm
sau, chàng ta rốt cuộc bị người khác mưu hại.
Ai nấy đều nghi người ra tay hăm hại chính là kẻ đă chịu nhục khi
trước. Than ôi! Rượu gây tai họa đến mức
ấy. C̣n như do say sưa mà lọt sông, sụp hố, ngă toác đầu vỡ mặt, đánh mất
tiền của, tiết lộ chuyện cơ mật, xúc phạm
quỷ thần, đủ mọi nỗi tai ương và lỗi
họa ắt đều do rượu gây họa, cớ
sao chẳng kiêng tránh?
Đời Tống, Tô Dịch
Giản làm Học Sĩ (Hàn Lâm Đại Học Sĩ), do
uống quá chén mà lỗ mũi tóe máu, bị bệnh rồi
chết. Lại c̣n Vương Toàn làm Điện Trung Thừa,
do quá mức say sưa, nứt rốn mà chết. Ôi! Thuốc
gây cuồng loạn thấm đẫm người, hiếm
khi chẳng phát sanh bệnh tật. Bệnh phát ra sớm
th́ nhẹ, phát chậm sẽ là bệnh nặng, chẳng
có trường hợp nào không dẫn đến chết
chóc. V́ thế, xem xét khắp những vị cao thọ,
đều là những vị chẳng ham mê rượu. Người ta cớ sao lại
để di thể của tổ tiên rơi vào ṿng “sống say, chết mộng”
vậy thay!
Trần Hạo tánh thích uống
rượu, làm Đề Học[13] ở
Sơn Đông. Cha ông ta gởi thư răn nhắc, ông bèn
sai thợ làm ra một cái chén nhỏ, trên đó có khắc
chữ như sau: “Cha dạy
kiêng rượu”, chỉ uống mười chén.
Gia quy của họ Trịnh
ở Phố Giang [như sau]: “Con cháu chưa đến ba
mươi tuổi, rượu không được nhấp
môi. Kẻ đă tráng niên tuy cho phép uống đôi chút, nhưng kẻ mê đắm,
gây huyên náo v́ rượu, ắt sẽ bị đ̣n. Đăi
đằng khách khứa, chỉ chú trọng chân thành, chẳng
bắt buộc dùng rượu. Phụ nữ không
được cùng uống. Nếu tuổi đă quá năm
mươi, chỉ đành để cho họ được
thuận tiện”. Gia quy này có thể dùng làm pháp tắc để
giữ yên gia đ́nh vậy!
Cổ nhân nói: - Rượu là
tựu tập, tựu tập với người chánh đáng
th́ [chính ḿnh] sẽ là chánh đáng, tựu tập với kẻ
sai trái th́ [chính ḿnh] sẽ sai trái. Rượu là “tạo”, tạo
điều lành th́ là thiện, tạo điều ác th́ là ác.
Rượu chẳng thể khiến cho con người
đúng, sai, thiện, ác, mà do con người vốn tự
tạo cho ḿnh trở thành đúng, sai, thiện, ác. Hai chữ
“tiết tỉnh” (節省, giữ chừng mực, phản tỉnh)
cố nhiên có thể thiếu được ư?
(Chánh văn) Cốt nhục phẫn
tranh, nam bất trung lương, nữ bất nhu thuận.
(正文)骨肉忿爭。男不忠良。女不柔順。
(Chánh văn: Là ruột thịt
[với nhau mà] giận dữ, tranh chấp. Trai không trung
lương. Gái chẳng nhu thuận).
Đời Đường, [gia
tộc của ông] Trương Công Nghệ chín đời sống
chung với nhau, chỉ do một chữ Nhẫn. Phẫn hận tranh chấp
là v́ chẳng thể nhẫn. Trong ṿng cốt nhục, hễ
chấp lư bèn tổn thương t́nh cảm; hễ t́nh cảm
bị tổn thương, tức là chẳng đúng lư, há có nên xằng bậy phẫn nộ, tranh chấp
ư? Nhưng cội nguồn của chuyện này phần
nhiều là do bị lời lẽ của phụ nữ
xúi bẩy, tạo thành hiềm khích. Bởi lẽ, ḷng dạ
phụ nữ chẳng công bằng, luôn ôm ḷng ghen tỵ. Hơn
nữa, những người được gọi là “bố mẹ chồng, chú bác, chị em dâu”, [cũng
như] những người
cùng hàng đều là duyên giả hợp, [tức là] gượng xưng hô
[như thế], vốn chẳng phải là quyến thuộc
tự nhiên. V́ thế, dễ cắt đứt t́nh thân ái, dễ
phẫn nộ, tranh chấp. Lời nói được truyền
qua hai lượt, [ư nghĩa ban đầu sẽ bị sai
lệch], chất chứa thành oán hận. Trong một nhà, những
chuyện chống trái, biến hóa cứ nẩy sanh đầy
dẫy là do nhiều đầu mối (nguyên nhân, nguyên do),
chẳng thể nói khái lược được. Chỉ có những người dốc
ḷng coi trọng thiên luân, hiểu biết sâu xa, đuốc
sáng soi tỏ, chẳng nghe lời gièm siểm, tự nhiên sẽ là một niềm ḥa khí ấm áp, đối xử với
nhau bằng t́nh nghĩa vui vẻ, ḥa hợp, làm sao có chuyện
phẫn hận, tranh chấp cho được?
Đời Minh, nhà Trịnh
Liêm ở Phố Giang suốt hai trăm năm [mỗi tiểu
gia đ́nh trong ḍng họ] chẳng tách ra sống riêng. Mọi
người gọi xóm ấy là Nghĩa Môn. Quan Thái Thú trao tặng tấm biển đề
“thiên hạ đệ nhất
gia”. Minh Thái Tổ lên ngôi, triệu ông Trịnh vào kinh, hỏi: “Nhà ông có bao nhiêu người
cùng nhau ăn cơm?” Ông Trịnh tâu: “Hơn một ngàn người”. Chúa thượng
nói: “Đúng là thiên hạ đệ nhất gia”. Khi đó,
Mă hậu ở sau vách nghe tiếng, nói với Thái Tổ: “Bệ
hạ có thiên hạ là do một ḿnh cử sự, nay cả
nhà họ Trịnh hơn một ngàn người, há chẳng
cử sự dễ dàng ư?” Chúa thượng kinh hăi, lại
hỏi ông ta: “Cả gia tộc của khanh được
giữ vẹn cũng là do có phương cách nào?” Trịnh
Liêm thưa rằng: “Chẳng có ǵ khác, chỉ là không nghe lời
vợ mà thôi!” Chúa thượng bất giác cười to.
Khi ấy, [nhằm lúc] vùng Hà Nam tiến cống lê thơm;
do vậy, vua ban cho ông hai trái. Trịnh Liêm hai tay nâng lê đặt
trên đầu, lui ra. Chúa thượng bèn sai người
theo ḍ xét. Về tới nhà, Trịnh Liêm triệu tập
người trong họ, hướng về cửa khuyết
dập đầu, tạ ơn, đặt hai chum nước lớn, nghiền nát lê bỏ
vào đó, chia nhau uống. Thái Tổ nghe chuyện, vui mừng.
Về sau, có kẻ vu cáo nhà ông Trịnh thông đồng với
bọn quyền thần. Thái Tổ bảo: “Họ Trịnh
không phải là như vậy, đó là vu cáo”. Về sau, vua hạ
lệnh cho ông chọn ba mươi người từ đám
con em đưa tới kinh đô, đều cho họ làm
quan. Trưởng họ là Trịnh Anh tới cửa khuyết
tạ ơn. Chúa thượng ngự giá tới cửa Phụng
Thiên, đích thân viết ba chữ to “hiếu nghĩa gia” ban tặng, c̣n dùng ấn ngọc
đóng lên đó.
Trung (忠) có nghĩa là tận hết sức ḿnh.
Lương (良) là ngay
thẳng, chánh đáng. Trong muôn vật, chỉ có loài người là tối linh, con người lại coi đàn ông là quư.
Đă có được cái thể linh và quư ấy, lại
gian trá, bất trung, hiểm ác, tà vạy, bất
lương, không chỉ là tự phụ bạc chính ḿnh, mà
cũng là cô phụ tạo vật quá đỗi!
Đời Tống, Phạm
Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) vừa hai tuổi
đă mồ côi. Đến khi hơi lớn, bèn đích thân
tự lập, ngày đêm học tập, ngồi lặng lẽ
thầm suy nghĩ. Trong sáu năm bèn tinh thông lục kinh. Ông
đỗ Tiến Sĩ lúc hai mươi tuổi,
được bổ về làm chức phán[14] ở
Hà Trung, trung nghĩa, yêu dân, hợp ḷng người. Ông lần
lượt trải qua các chức vụ, làm tới Thị
Lang. Làm quan trong triều cũng như quản trị gia
đ́nh, ân lẫn uy đều dùng, trung quân, ái quốc, lưu lại những
hành vi tốt đẹp rạng ngời. Ông dạy con noi
theo điều nghĩa, giúp người nghèo, châu cấp kẻ
khổ, thanh danh vang rền một thuở, được
trăm đời kính ngưỡng, đúng là chẳng thẹn
với hai chữ Nam Tử.
Sách Lễ Kư chép: “Nam soái nữ, nữ tùng nam” (Nam lănh đạo nữ, nữ tuân theo nam).
Lại chép: “Ấu tùng phụ
huynh, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử” (Lúc bé th́ nghe theo lời cha, anh, lấy chồng
th́ thuận theo chồng, chồng chết th́ nghe theo con).
Sách Nhan Thị Gia Huấn chép: “Phụ nữ chủ yếu
trông coi về ẩm thực, chuyên trông coi về rượu, thức ăn, quần áo trong lễ nghi. Nếu là người có thông minh, tài trí,
chỉ nên phụ tá bậc quân tử, giúp chồng bù đắp
khuyết điểm. Nếu lấn hiếp, chế ngự
chồng, can dự vào chánh sự bên ngoài; đó là gà mái gáy
sáng, là bọn cú diều lưỡi dài. Gia đạo không thể
hưng thịnh nổi bắt nguồn từ chuyện
này!”
Đời Hán, Viên Ngỗi lấy
con gái của Mă Quư Lương, [vợ đem theo] của hồi môn rất nhiều. Viên Ngỗi
nói: “Vợ chăm nom nhà cửa mà thôi, cần ǵ phải [đem
theo] quá nhiều đồ quư báu, đẹp đẽ vậy!”
Vợ thưa: “Mẹ thiếp có ḷng thương tưởng,
chẳng dám trái mạng. Nếu chàng hâm mộ phong thái cao cả
của Bào Tuyên, Lương Hồng[15], thiếp
cũng có thể học đ̣i gương tiết nghĩa
của Thiếu Quân, Mạnh Quang”.
Đời Tống, phu nhân của
Tŕnh Hướng là Hầu Thị khiêm cung, thuận thảo,
nhu ḥa. Dẫu là việc nhỏ nhặt, ắt tŕnh với
chồng rồi mới đi. Bà trị gia đúng pháp tắc,
chẳng đánh đập nô tỳ. Nếu con cái quở mắng
đầy tớ, bà ắt răn dạy: “Tuy sang, hèn khác
nhau, nhưng đều là người như nhau”. Hễ
Tŕnh Hướng có ǵ tức giận, bà ắt khoan thai vuốt giận. Chỉ có điều
các con phạm lỗi, bà chẳng giấu diếm. Thường
nói: “Con cái không ra ǵ là do mẹ giấu lỗi, cha không biết
đến”. Về sau, hai con bà là Tŕnh Di và Tŕnh Hạo đều
trở thành bậc đại nho, địa vị quư hiển,
được thờ phối hưởng trong Khổng Miếu.
Gă cư dân X… ở Ḥa Châu
nuôi hơn một trăm con ngỗng. Một hôm, bọn ngỗng
ăn lúa của hàng xóm, gă hàng xóm đánh chết hơn năm
mươi con. Vợ gă X… trông thấy đùng đùng nổi
giận, nhưng lại nghĩ: “Nếu thưa kiện hắn,
ắt cũng phải tốn kém. Hơn nữa, chồng ta
đang say rượu nằm ngủ. Nếu biết chuyện
mà đánh lộn với hắn th́ càng bất tiện”. Bèn
nhặt nhạnh ngỗng chết đem chôn. Sáng hôm sau, bỗng
gă hàng xóm chết đột ngột. Chồng biết chuyện
ngày hôm qua, bèn hết sức cảm khái, nói: “Nếu hôm qua
bà kể lể với tôi, tôi đang say đánh lộn với
hắn, không chừng đă thành án giết người rồi!”
Tử Hà Tạo Phước
Quyết (bí quyết tạo phước của Tử Hà
Chân Quân) có đoạn: - Phàm nữ nhân tu thiện th́ chẳng
khác nam tử, nhưng nữ nhân chẳng có chuyện ǵ
khác, tam tùng là tốt đẹp. Nếu có hạnh lành, chẳng
bằng khuyên song thân và chồng thực hiện th́ càng tuyệt
diệu hơn. Bởi lẽ, cha mẹ có ba phần thiện
th́ con gái được một phần. Chồng có hai phần
thiện, vợ sẽ được một phần. Nếu
vợ dự phần suy nghĩ, cân nhắc [phương cách
làm lành cho chồng] th́ công sẽ giống hệt như chồng.
Nếu khuyến hóa phụ nữ khác làm lành, công đức
ấy so với [công đức do] chính người phụ
nữ ấy tự làm lành sẽ khó có gấp bội, tốt
lành gấp bội. Trong ṿng chị em dâu, chị em ruột, nếu [người nào] có thiện sự,
mà khen ngợi lẫn nhau, công [khen ngợi, tùy hỷ] ấy
cũng có thể bằng nhau. Điều đáng quư là hoan hỷ,
có cùng chí hướng, chẳng có ḷng ghen ghét. Nếu có thể
hiếu kính, ḥa thuận, giúp chồng dạy con ḥng trọn
hết bổn phận, lại c̣n tin sâu nhân quả, ăn chay, niệm Phật, ắt
sẽ trong đời hiện tại tự nhiên thân tâm an lạc,
con cháu hưng thịnh, lâm chung chắc chắn được đức
Phật rủ ḷng Từ tiếp dẫn, văng sanh Tây
Phương. Chỉ nên tiềm tu tại nhà, đừng
nên rong ruổi bên ngoài. Một là chẳng phí uổng thời
gian, hai là khỏi phải chuốc lấy tiếng dị
nghị của kẻ khác. Lại nữa, nếu như con
cháu mắc bệnh, lạy thần cầu cúng, tốn kém
tiền bạc, sao bằng thường ngày làm lành, phóng sanh, sẽ tự được thần gia hộ
ư? Trong chốn khuê môn, luôn có chốn động thiên
phước địa[16], hăy gắng
thực hiện!
(Chánh văn) Bất ḥa kỳ thất,
bất kính kỳ phu.
(正文)不和其室。不敬其夫。
(Chánh văn: Bất ḥa với
vợ. Chẳng kính trọng chồng).
Vợ chồng ḥa thuận, sau
đó, gia đạo sẽ hưng thịnh. Phụ nữ
chưa từng đọc sách, hiểu lư; nếu có điều
ǵ không đúng, [chồng] cũng phải nên giảng giải,
khuyên bảo rơ ràng. Cố nhiên là chớ nên mặc kệ
cho cô ta tự tung tự tác, mà cũng chớ nên lập tức
sanh ḷng
giận dữ, ghét bỏ.
Nhưng người đời gặp phải vợ tánh
hung tợn, mạnh mẽ, đành để cho vợ khinh
rẻ, lấn hiếp; gặp vợ nhu nhược, chất
phác, [ắt chồng] lấn hiếp, ngược đăi. Khinh rẻ người lành, sợ kẻ
ác, kẻ làm chồng há có nên như thế hay chăng?
Cũng có kẻ ngu đần hơn nữa, sủng ái vợ
lẽ, khinh nhục vợ cả, mê luyến gái điếm,
khinh rẻ vợ, thậm chí đánh đập, chửi bới,
giận dữ, quở trách. Hạng người ấy càng
chẳng được hưởng hết tuổi trời!
Nhan Quang Trung nói: - Sanh làm
người, đừng làm thân phụ nữ! Trăm nỗi
sướng, khổ đều do người khác [quyết
định]. Họ phải ĺa cha mẹ để yêu
thương người khác, sống chết tùy tay người
đó. Chủ nhân duy nhất là chồng. Đói không thể
ăn một ḿnh, lạnh không thể mặc ấm cho riêng
ḿnh. Họ xả thân ḿnh để lo cho thân ta, bỏ cha mẹ
ḿnh để phụng sự cha mẹ ta. Lỡ gặp cảnh
chồng buôn bán phương xa, hoặc là nho sĩ đi học
xa, ngủ trơ trọi trong căn pḥng đơn côi,
đêm rét buốt, mền lạnh ngắt như sắt, há
dễ chịu đựng ư? Ta là kẻ bạc t́nh, có
nhân t́nh bên ngoài, dồn hết t́nh cảm cho hoa, cho liễu,
mê luyến như cuồng. Nếu như ngày nào đó quư hiển,
[chồng
sẽ thâu nạp] hầu
non đầy dẫy, nào có nghĩ đến t́nh nghĩa kết
tóc se tơ? Chỉ riêng nàng gánh phần sợ
hăi, dành cho ta nỗi an lạc. Ôi chao! Sao mà đối xử
với người khác chẳng khoan dung như thế? [Nếu vợ] là mụ
đàn bà lưỡi dài, mặc sức cậy thế hiếp
đáp [thằng chồng nhu nhược], hoặc [vợ
là] hạng phụ nữ đánh mất đức hạnh,
chẳng hề tự kiểm điểm, luông tuồng,
chua ngoa th́ thôi rồi! Nếu vợ có thể phụng sự
bố mẹ chồng, ḥa thuận với chị em dâu, ḥa
hảo với các cô, các mợ [th́ may mắn lắm thay]!
Trong ṿng vợ cả, vợ lẽ, ḍng đích, ḍng thứ,
ai nấy đều có ḷng riêng tư, ai nấy đều
mong nắm lấy quyền hành, xoay vần trong cảnh ưu
phiền ấy, phải nhẫn nhục nín chịu,
đúng là chẳng thể diễn tả được. Nếu
gặp phải nhà chồng [lâm vào cảnh] khốn cùng, lao
đao, sáng tối phải lo nghĩ v́ cái ăn, phải
thêu thùa, may vá [thuê cho người khác] để kiếm sống,
cũng chẳng thể nào nói trọn hết [nỗi khổ
sở, nhọc nhằn] được! Há lẽ nào vợ
đă mong cùng ta chung sống suốt đời, ta lại nửa
chừng ruồng rẫy, về t́nh lẫn lư, phải nói
như thế nào đây? Đấy chính ư nghĩa của
bài thơ Quyển Nhĩ (卷耳, trong phần Châu Nam của Kinh Thi), [tác giả của
bài thơ ấy] đă dùng t́nh cảm nhu ḥa, vận điệu
uyển chuyển để miêu tả [nỗi ḷng của
người chồng] khi Đông chinh. Ư nghĩa bậc nhất
trong sự giáo hóa chánh đáng của quốc gia là “chồng khiến cho vợ yên
vui, gia đ́nh êm ấm, hiếu thuận với cha mẹ”,
đấy chính là thiện sự cát tường vậy!
Cố Khải đối xử
với vợ đúng lễ. Ông thường sáng ra ngoài, tối
về, ít khi gặp mặt. Ông bị bệnh nặng, vợ
đến thăm hỏi, Cố Khải sai tả hữu
đỡ dậy, buộc tóc, đội mũ đàng hoàng
[rồi mới cho vợ gặp mặt]. Thăm hỏi,
tṛ chuyện xong, liền bảo vợ trở về. Nh́n từ
đây, [ta biết] giữa vợ chồng với nhau, há có
nên vô lễ một khắc nào, để rồi dẫn
đến chuyện do quá thân cận mà thất lễ
ư? Nhưng
lễ có ǵ khác đâu? [Bất
quá là] “ḥa hợp mà có chừng
mực, thương yêu nhưng kính trọng” đó thôi!
Vương Bát Lang ở thành
Lạc Dương tánh t́nh hung tợn, thích đánh vợ. Hắn
bao một cô gái điếm, phá sạch gia sản. Vợ hắn
đă khốn khổ v́ nỗi đói rét, lại bị chồng
đánh đập dữ dội hơn. Vợ bất đắc
dĩ, phải cậy thân thích, hàng xóm phân xử. Bát Lang bắt
vợ sống ở chỗ khác, [để hắn] ở
chung nhà với cô gái điếm. Không lâu sau, hắn bệnh
tật, gia sản hết sạch, cô gái điếm tỉnh
bơ bỏ đi. Hắn lại đến nương cậy
vợ, vợ tránh né. Bát Lang chết đột ngột, vợ
hắn cũng chết. Thân thích, hàng xóm đặt xác hai
người cùng một chỗ. Đến đêm, bỗng
nghe có tiếng căi cọ, chửi bới, [mọi người]
mở cửa xem, thấy hai cái xác đứng đâu
lưng với nhau.
Chồng là trời của vợ,
là chỗ nương tựa suốt đời, làm sao có thể
bất kính cho được? Kẻ bất kính nếu chẳng
phải là hạng đàn bà hung tợn, th́ sẽ là hạng
phụ nữ phóng đăng, hoặc là nói năng thô ác, xúc phạm,
hoặc là trù ếm, trấn yểm, chẳng biết: Hễ
mang thân nữ là do nhiều cái nhân trong đời trước
sai sử. Nếu càng khinh miệt chồng, sẽ càng đọa
trong ác đạo. Thậm chí có kẻ chồng vừa chết,
xương thịt chưa lạnh, đă nghĩ tới chuyện
cải giá, coi con cái do ḿnh đẻ ra như kẻ qua
đường. [Chồng] đă chết mà chẳng thể
buồn thương, th́ khi sống làm sao kính trọng cho nổi?
Đỗ Xí làm người khiếp
nhược. Vợ hắn là Trương Thị luôn khinh rẻ chồng. [Đỗ Xí] tuổi già càng lắm bệnh, Trương
Thị chẳng đoái hoài. Không lâu sau, Trương Thị
chết trước Đỗ Xí. [Mụ ta đă được]
tẩn liệm, quan tài bị vỡ tung, [Trương Thị]
hóa thành măng xà, ḅ vội vào rừng. Ôi! Kẻ làm chồng là
trời của vợ; khinh mạn chồng tức là khinh mạn trời; có thể khinh mạn chồng ư? Xin hăy tự
nghĩ!
Đời Hậu Hán,
Lương Hồng cưới con gái nhà họ Mạnh, tên
là Quang. Thoạt đầu, [Mạnh Quang] đem đồ
trang sức về nhà chồng, [trang điểm lộng lẫy].
Suốt bảy ngày, Lương Hồng chẳng ngó ngàng
đến cô ta. Vợ liền búi tóc trần, mặc áo vải,
làm việc nhà như trước. Lương Hồng vui vẻ
bảo: “Đây mới thật sự là vợ của
Lương Hồng”. Bèn cùng nhau ẩn cư trong núi Bá
Lăng. Về sau, do tỵ nạn, họ sang đất
Ngô, ở nhờ nơi chái nhà của Tạo Bá Thông,
[Lương Hồng] giă gạo thuê cho người ta. Mỗi
khi trở về, vợ dọn sẵn cơm nước,
chẳng dám ngước lên nh́n trước mặt
Lương Hồng, nâng án ngang mày. Bá Thông nói: “Gă làm thuê ấy
có thể khiến cho vợ kính trọng như thế, chẳng
phải là hạng người tầm thường”, bèn tặng
nhà cho họ.
Đỗ Khuê mắt mù, vợ
ông ta ngày đêm hướng về sao Bắc Cực cầu
khẩn. Mỗi lần lễ bái, ắt lạy đủ bảy lần bảy bốn mươi chín lượt, rốt
cuộc có thể cảm Chân Vũ (Huyền Thiên Bắc
Đế) hóa thân giáng hạ trị liệu. Đỗ Khuê
lại thấy rơ như thuở đầu.
Vợ của Vũ Văn Bang
Ngạn là Lê Thị khắc khổ chăm lo gia đ́nh. Bà
thích xem sách, hiểu đại lược đại ư, bèn
tự tay biên chép để giúp chồng, lại c̣n nghiêm ngặt
đốc thúc các con học theo. Con cái bà anh em d́u dắt
nhau, quả nhiên thi đậu, trải từ chức quan Từ
Viên[17], vào Hàn
Lâm, đạt tới chức Hữu Hạt (右轄, Hữu Thừa Tướng). Làng xóm đều ca
ngợi, tôn kính. Đến nay hăy c̣n bộ Chế Cáo Luân
Ngôn Tập do chính bà Lê chép.
Đời Minh, Hoàng Quán là
người xứ An Khánh. Vào thời Kiến Văn (Minh Huệ
Đế), do đậu Tam Nguyên, ông làm quan tới chức
Học Sĩ Thừa Chỉ. Khi gặp cơn binh biến
Tĩnh Nạn[18], Hoàng
Quán chết. Vợ là Ông Thị và hai đứa con gái đều
bị bắt. Có chiếu chỉ truyền gả Ông Thị
cho người giữ voi. Ông Thị giả vờ nói khi tỵ
nạn, có chừng đó vàng gởi gắm ở nhà thân
thích ngoài thành: “Mẹ con tôi đến th́ lấy được;
nếu không, ắt họ sẽ giấu diếm”. Gă trông
voi muốn chiếm mối lợi ấy, cùng đi theo ra
ngoài thành. Vợ ông Hoàng Quán nói: “Hai đứa con gái hăy nên
buộc vạt áo với nhau, sợ bị lạc mất
trong đám đông”. Gă trông voi bằng ḷng, hai đứa con
gái cũng chẳng hiểu ư mẹ. Vừa đến bến
sông, bà ta liền ôm hai con cùng nhau trầm ḿnh tự vẫn.
Đến nay vẫn c̣n miếu thờ họ bên bờ
sông Tần Hoài.
Đời Tống, Sùng Quốc
Trịnh phu nhân là mẹ của Âu Dương Tu. Sùng công
đậu Tiến Sĩ, đến nhậm chức Thôi
Quan bèn mất, Âu Dương Tu [khi đó] mới bốn tuổi.
Nhà nghèo, mẹ tận lực lo toan cơm áo để nuôi
Âu Dương Tu tận lực học hành. Mẹ dạy
con học, đă từng vào đêm tuyết đổ dầy,
mẹ san phẳng tro lạnh [trong ḷ] để viết chữ
dạy con. Mẹ luôn khóc, bảo Âu Dương Tu:
- Cha con liêm khiết, thích bố
thí, ta chẳng được phụng sự bố mẹ
chồng, nhưng biết cha con có thể phụng dưỡng
họ. Mẹ chẳng thể biết con sẽ thành tựu
như thế nào, nhưng biết cha con sẽ có hậu duệ
[tốt lành]. Mẹ về với cha con, [cha con] đă
đoạn tang [ông bà nội] hơn một năm rồi,
mỗi lần cúng tế ắt khóc lóc. Hoặc mỗi khi
có rượu thịt, ắt khóc lóc v́ tiếc hận chẳng
thể phụng dưỡng cha mẹ nữa. Thoạt
đầu, mẹ tưởng là vừa mới đoạn
tang, nên lẽ đương nhiên là như thế. Về
sau, mới biết [cha con] luôn là như vậy; cho đến hết đời, vẫn chẳng
không khi nào như vậy. Do vậy mẹ biết cha con có thể phụng dưỡng
ông bà nội. Cha con làm quan, từng có đêm xem hồ
sơ phán án, nhiều lượt than thở: “Ta muốn [kiếm cách] cho [tội nhân]
này được sống mà không thể, đáng buồn
thay!” Quay đầu nh́n nhũ mẫu đang bế con
đứng bên cạnh, cha con chỉ con bảo: “Mạng ta
sẽ chết sớm, chỉ sợ không kịp thấy
con thành tài; nàng hăy nên bảo cho con biết những
điều ta đă nói”. Cha con dạy bọn con em cũng
đều là như thế. V́ thế, mẹ biết cha con
ắt sẽ có hậu duệ [tốt đẹp].
Do vậy, Âu Dương Tu cảm
động, khóc lóc, siêng gắng học hành. Tới lúc ông
đậu Tiến Sĩ, tôn quư, hiển đạt, vẫn
tiết kiệm, đơn sơ như cũ. Đến khi
Âu Dương Tu v́ can gián thẳng thừng mà bị biếm
trích, phu nhân cười nói thản nhiên, bảo: “[Nhà ta] vốn
sẵn nghèo khó [nên quen rồi], con ắt nên an ḷng”. Rốt
cuộc, do trung trực nên Âu Dương Tu trở thành bậc Tể Tướng hiền
năng, mẹ được sắc phong làm Việt Quốc
Thái Phu Nhân. Đạo kính trọng chồng, có ǵ hơn
được hai chuyện trọn hết tiết hạnh
và dạy con? V́ thế, thuật hai câu chuyện này để
làm khuôn mẫu tột bậc cho đạo kính chồng. Những
kẻ làm vợ hăy nên gắng sức!
(Chánh văn) Mỗi hiếu căng
khoa, thường hành đố kỵ.
(正文)每好矜誇。常行妒忌。
(Chánh văn: Thường thích
khoác lác, kiêu căng; thường hay ganh tỵ).
Lăo Tử nói: “Bất tự thị cố chương, bất tự
phạt cố hữu công, bất tự căng cố
trưởng” (Chẳng tự cho là đúng mà [sự thật
đúng sai] được phơi bày rơ rệt. Chẳng tự
cho là ḿnh đă bỏ công tốn sức mà tự nhiên là có
công lao. Chẳng tự kiêu căng tự đại mà sẽ
được kẻ khác coi trọng). Kinh Dịch chép: “Thiên đạo khuy doanh nhi ích
khiêm. Địa đạo biến doanh nhi lưu khiêm. Quỷ
thần hại doanh nhi phước khiêm” (Đạo trời khiến cho những ǵ quá
tràn đầy sẽ bị hao hụt, để bù đắp
cho sự khiêm tốn. Đạo đất khiến cho những
ǵ viên măn sẽ được chuyển sang chỗ khiêm hạ.
Quỷ thần phá hoại sự kiêu căng tràn đầy
ḥng tạo phước cho người khiêm tốn). Do khiêm
tốn mà được [mọi người] tôn kính, [thanh
danh, phẩm đức] tỏa rạng. Người giữ
phận nhún nhường, không ai có thể vượt
hơn được! Bậc quân tử luôn giữ trọn
[phẩm đức khiêm tốn, nhún nhường]. Đại
Vũ chẳng kiêu căng, chẳng kể công, [luôn nói] “hàng ngu phu ngu phụ ai nấy
đều có một điểm tài năng tốt đẹp
hơn ta”. Vua đục đẽo Long Môn[19], dẹp
trừ Y Khuyết[20], đất
đai được sửa sang tề chỉnh, ứng hợp
theo lẽ trời, công lao phủ trùm muôn đời. Châu Công
chẳng kiêu căng, chẳng tiếc tài năng, nhọc ḷng
khiêm hư tiếp đăi bậc hiền sĩ, búa mẻ Đông chinh[21], rốt
cuộc giữ yên nhà Châu. V́ thế nói: “Bậc đại thánh đại hiền chân chánh
luôn dè dặt, kiêng sợ như vào vực sâu, như đi
trên băng mỏng, dốc trọn [hết tinh thần]
để thực hiện”. Như Đại Vũ, Châu
Công là thánh nhân, [thế mà] chưa hề khoe khoang đạo
đức với ai. Như vậy th́ người đời
nay có kẻ khoe khoang xằng bậy, có ư nghĩa chi đâu?
Phần nhiều là phường chẳng biết lượng
sức vậy!
Đời Hán, Cố Ung
được phong tước hầu đă ba ngày mà
người nhà chẳng hay biết. Tạ An đời Tấn
cùng khách chơi cờ vây, thư báo tiệp (thư báo tin thắng
trận Ph́ Thủy) đưa tới, khách trọn chẳng
biết. Đời Tống, Tào Vũ Huệ (Tào Bân)
đánh hạ Giang Nam thành công, [căn dặn] viên quan hầu
cận dâng biểu về triều, chỉ nói là “phụng chỉ xuống Giang
Nam, lo xong công việc” để báo tiệp. Văn Lộ Công (Văn Ngạn Bác) trong
niên hiệu Chí Ḥa, cầm đầu các quan đề nghị
lập Tống Anh Tông làm người nối ngôi cho [Tống
Nhân Tông]. Cho tới khi Tống Thần Tông[22] tức
vị, ông (Văn Ngạn Bác) vẫn nói là công của Hàn Kỳ.
Do vậy, vua biết ông là người chẳng khoe khoang
công lao. Các vị ấy đều là những bậc nhân phẩm
tột bậc cao thượng, sự nghiệp công huân tột
bậc to tát, mà c̣n khiêm tốn, nhún nhường, chẳng
kiêu căng ngần ấy, sao mọi người chẳng
biết học theo?
Người độ lượng
to ắt phước trạch sâu dầy. Kẻ độ
lượng cạn cợt, ắt phước trạch mỏng
tanh! Khiêm hư hoặc là vênh vang tự măn, họa hay phước
rạch ṛi, há chẳng nên thận trọng ư? Hơn nữa,
những chuyện như phú quư, tài năng có ǵ đáng để
ỷ vào đó mà kiêu ngạo với kẻ khác? V́ thế,
chẳng bàn đến [chuyện kiêu căng] ắt chuốc
họa; trước hết, [kẻ hợm
hĩnh] đă chôn vùi lương tâm, chẳng biết sỉ
nhục vậy!
Đời Tấn, Thạch
Sùng và Vương Khải[23] tranh
giàu với nhau. Vương Khải làm một bức màn che
bằng tơ tía dài bốn mươi dặm. Thạch Sùng
làm bức màn bằng gấm dài năm mươi dặm
để giành phần hơn. Vương Khải lại từng
đem khối san hô được ban tặng từ trong
cung có đường kính cả thước để khoe
với Thạch Sùng. Thạch Sùng lấy thiết như ư đập
vỡ nát, Vương Khải nổi nóng. Thạch
Sùng bèn đem ra những thứ cất giữ trong nhà,
đều là [những
cây san hô] loại to hai, ba thước;
lấy ra một cành [san hô] để đền cho. Những vật
trân quư, hiếm lạ khác, không ai tranh thắng được!
Về sau, Thạch Sùng do mắc tội bị hành h́nh, bèn thở
dài: “Lũ tôi tớ
tụi bay chỉ v́ muốn chiếm
tài sản của tao”. Ôi! Một lời khi sắp chết
của Thạch Sùng c̣n ǵ rơ ràng hơn? Nhưng nếu
như sớm biết, ắt sẽ chẳng khoe khoang! Nỗi
họa do kiêu căng, khoe khoang khốc liệt đến mức
ấy, người thời nay trong mỗi câu nói, mỗi
hành động, há chẳng nên cẩn thận vậy thay!
Đố kỵ th́ nam lẫn
nữ đều có. Nam nhân thấy người khác có công
danh bèn ganh tỵ, thấy người khác phú quư bèn ganh tỵ,
[thấy người khác có] địa vị cao hơn ḿnh
bèn đố kỵ, [thấy kẻ khác] tài năng vượt
trỗi ḿnh bèn đố kỵ, đều là do ḷng dạ
nông cạn, hẹp ḥi mà ra. C̣n như phụ nữ do tranh
giành sự sủng ái kết thành oán cừu, thường
là dẫn đến gieo họa cho gia đ́nh, tuyệt tự!
Tội ấy càng chẳng thể kể xiết! Sống
th́ bị ai nấy đều nghiến răng, thống hận; chết
sẽ vĩnh viễn đọa trong địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, ngơ hầu bù đắp tội ấy.
Giữ cho bản thân chánh đáng ḥng làm gương mẫu
chính là chức trách của nam tử vậy!
Đời Châu, tướng nước Ngụy là Bàng Quyên
đố kỵ tài năng của Tôn Tẫn[24] bèn chặt
chân ông ta. Về sau, Bàng Quyên bị Tôn Tẫn giết. Đời
Đường, Ngư Triều Ân và Tŕnh Nguyên Chấn
đố kỵ Quách Tử Nghi công cao, chức cả,
thường mưu hại, gièm báng, rốt cuộc chúng nó đều
mắc tội, họ Ngư bị giết, họ Tŕnh bị
đi đày. Đời Tống, Hàn Thác Trụ đố kỵ
Văn Công Châu Hy đang giữ chức Hoán Chương Các
Đăi Chế, bèn kéo bè lập đảng bài xích Châu Hy là ngụy
học. Nhất thời, các bậc quân tử đều bị
bài xích, chèn ép. Về sau, Hàn Thác Trụ bị Sử Di Viễn
giết chết. Đời Bắc Tề, Thích Minh Sâm b́nh
sanh hễ thấy người tài đức cao hơn ḿnh,
luôn đố kỵ sâu xa. Về sau, hắn biến thành
măng xà trong chốn rừng rậm, chui vào hang hốc. Xét ra,
bài thuốc trị đố kỵ của Lương Vũ
Đế do tả hữu tâu tŕnh: “Xin bệ hạ hăy rộng
ban thưởng cho quần thần, khiến cho kẻ bất
tài chẳng đố kỵ người có tài, kẻ ham tự
lợi chẳng đố kỵ người giữ lẽ
công chánh, kẻ ô trược chẳng đố kỵ
người thanh cao, kẻ tham lam chẳng đố kỵ
bậc liêm khiết”, cũng là một đầu mối
để khuyến hóa. Vua cho là đúng, như vậy th́
đố kỵ há chỉ có phụ nữ là như vậy
mà thôi ư!
Vào đời Châu, vợ Tô Bào
ở nước Tống là Nữ Tông (女宗, tấm gương cho nữ giới) phụng sự mẹ chồng hết sức
hiếu thảo. Tô Bào làm quan ở nước Vệ ba
năm, lấy vợ ở ngoài. Chị dâu nói cho vợ ông
ta biết, Nữ Tông đáp: “Phụ nữ coi chuyên nhất
là trinh, coi khéo vâng lời là thuận, há chuyên coi chuyện được
chồng sủng ái là tốt lành ư? Theo lễ, đại
phu có thể lấy ba vợ, kẻ sĩ có thể lấy
hai vợ. Chồng em là kẻ sĩ có hai vợ th́ cũng
chẳng hợp lư hay sao? Vả nữa, phụ nữ có thất
xuất[25]
th́ ganh tỵ đứng đầu. Chị chẳng
đem lễ nghĩa cư xử sao cho gia đ́nh trong ấm ngoài êm để bảo ban em, lại ngược
ngạo muốn em làm theo hành vi khiến cho chồng ruồng
bỏ ư?” Vua Tống nghe chuyện, biểu dương
bà ta trong vùng ấy, phong hiệu là Nữ Tông.
Bác của Lô Biện làm huyện
lệnh Hồ Thành. Lô Biện đến thăm ông ta, mộng
thấy đến một nơi có mười chiếc cối
xay lớn. Bên cối xay có vô số phụ nữ, cối
xay luôn tự xoay chuyển. Lính đầu trâu dùng cái ky lớn
xúc phụ nữ đổ vào miệng cối, xay rồi
nhả ra, xương thịt nát bét, tiếng kêu than đau
đớn khó thể chịu đựng nổi. Từ
trong đám người ấy, Lô Biện thấy bác gái tức
vợ của quan huyện Hồ Thành. Trông thấy nhau,
[đôi bên] buồn vui xen lẫn; Lô Biện hỏi những người ấy v́ sao phải chịu tội? Bà ta đáp:
“Do phạm tội đố kỵ mà phải đến
nơi đây!” Ôi! Quả báo của sự ghen tỵ trong
địa ngục là như thế đó, đáng sợ lắm
thay!
Lương Nhân Dụ sủng
ái một tỳ nữ, vợ là Lư Thị ghen tuông, ngược
đăi cô ta, trói cô tỳ nữ, đánh vào đầu. Tỳ
nữ gào thét: “Tôi là hạng đầy tớ kém hèn, bị
ràng buộc, chẳng tự do, nương tử gô cổ
tôi, đau khổ, tàn độc c̣n ǵ hơn?” Cô tỳ nữ
chết hơn một tháng, Lư Thị ngă bệnh, luôn bị
[oan hồn của] cô tỳ nữ làm khổ, trên đầu
bốn phía đều mọc ung nhọt, gào khóc, rên xiết, thối rữa
năo mà chết.
Đời Tấn, vợ của
Giả Sung là Quách Thị tánh hay ghen tuông. Bà ta từng sanh
con. Nhũ mẫu ẵm đứa bé, Giả Sung [thừa
cơ giả vờ ôm con] để ôm lấy [nhũ mẫu].
Quách Thị bèn giết chết nhũ mẫu, đứa bé
nhớ nhũ mẫu, khóc lóc mà chết. Giả Sung rốt
cuộc tuyệt tự. Giả Sung là tay đại gian hùng gây hại cho nước nhà; v́ thế, hắn
lấy phải bà vợ ghen tuông để rồi ḍng họ
tuyệt diệt[26]. Đó
là đạo trời vậy, nhưng trong cơi đời, vẫn c̣n không ít kẻ do ghen tuông mà tuyệt tự! Những người đàn bà ghen tuông dẫu
chẳng nghĩ tội sâu ác lớn, khó trốn quả báo
trong địa ngục, sao chẳng nghĩ nỗi niềm
tuyệt tự trước mắt, mộ hoang, hài cốt lưu
lạc, hồn phách [vơ vẩn] nơi chốn mộ phần
trong đêm mưa dầm gió buốt thê lương, [chỗ
chôn cất trở thành] nơi chăn dắt, trâu dê giày xéo? Các tiết
Hàn Thực, Thanh Minh, ai dâng chén nước? Chốn đồng
hoang cỏ phủ, khói sương, quỷ khóc tỉ tê, là
v́ lẽ nào vậy? Buồn bă thay! Tôi nói đến đây,
cũng khôn ngăn động ḷng xót xa đau đớn
cho những hạng người ấy mà gào khóc, thở dài
sườn sượt. Phàm làm thân phụ nữ, hăy sớm
kịp suy nghĩ, nhưng tôi lại ngẫm nghĩ: Trường
hợp của Giả Sung bị tuyệt tự vốn là do đạo trời [báo ứng], khiến
cho mụ vợ ghen tuông xuất hiện trong nhà ấy;
cũng là sự xảo diệu của ác báo vậy. Người
đàn ông làm chồng há chẳng nên nghĩ tích đức
ḥng xoay chuyển ḷng trời, chỉ lo trách móc đàn bà ghen
tuông ư?
Đời Hậu Ngụy, vợ
của Đỗ Xương là Liễu Thị hết sức
ghen tuông. Có đứa tớ gái tên là Kim Kinh. Đỗ
Xương tắm, sai nó cắt tóc; Liễu Thị bèn chặt đứt hai ngón tay của
nó. Không lâu sau, Liễu Thị bị hồ ly cào, cắn, rụng mất hai ngón tay. Lại
có một tỳ nữ tên là Ngọc Liên có thể ca xướng,
Đỗ Xương yêu thích, Liễu Thị bèn cắt
lưỡi nó. Về sau, lưỡi của Liễu Thị
lở loét, thối rữa. Sự t́nh cấp bách, bà ta liền
đến chỗ Trù thiền sư sám hối. Sư dạy:
“Phu nhân đă cắt ngón tay của đứa tớ gái,
đă bị rụng ngón tay. Bà cắt lưỡi đứa
tớ gái, lại bị đứt lưỡi. Chí tâm hối
lỗi, sẽ có thể thoát khỏi”. Liễu Thị đảnh
lễ, xót xa cầu khẩn. Trải qua bảy ngày, thiền
sư bảo bà ta há to miệng, chú nguyện, có hai con rắn
từ miệng chui ra, dài hơn cả thước. Sư gấp
rút chú nguyện, rắn bèn rơi xuống đất,
lưỡi [Liễu Thị] cũng được b́nh phục.
Từ đấy, bà ta chẳng c̣n ghen tuông nữa. Phàm
người hối lỗi, sửa ác, thần và người
đều cùng hoan hỷ. Nếu quư vị đă tạo tác
vô biên tội nghiệp, chỉ cần từ nay trở
đi hối cải, chẳng tái phạm, tội trước
sẽ nhất thời tiêu tan. Câu chuyện này là một chứng
cớ rơ rệt. Nh́n vào chuyện này mà hối cải th́
đúng là may mắn to lớn vậy!
Than ôi! Sự oán hận của
phụ nữ chẳng cùng tận, tánh t́nh của phụ nữ dễ kết oán hận
nhất. V́ thế, phụ nữ đích thân làm những
chuyện độc địa thê thảm, hăm hại ngấm
ngầm chẳng thể ngờ được! Chỉ có
cách là khi người nữ c̣n chưa gả đi, cha, mẹ,
anh em trong gia đ́nh đă khuyên bảo sẵn. Nếu
đă gả đi th́ hăy khéo léo kiềm chế cô ta, đừng
giúp sức thổi bùng thêm ngọn lửa [ghen tuông], ngơ hầu
ḷng ghen tuông sẽ ngưng dứt bớt. Từ đó, chuyện
điều đ́nh, cảm hóa lại cậy vào chồng của
người ấy. Nếu chồng đắm sắc, công khai dâm uế, đến nỗi vợ nổi cơn
sư tử Hà Đông gầm rống, bậc quân tử chỉ kết tội người
chồng dâm dật, đấy cũng là đặc biệt
tiện nghi cho người vợ đó thôi!
(Chánh văn) Vô hạnh ư thê tử,
thất lễ ư cữu cô.
(正文)無行於妻子。失禮於舅姑。
(Chánh văn: Đối xử
với vợ con không ra ǵ, chẳng lễ phép đối với
bố mẹ chồng).
Đối đăi với vợ
hăy nên ḥa hoăn, kính trọng. Đối đăi với con cái,
hăy nên nghiêm nghị, chánh đáng. Chẳng đối đăi
với vợ bằng lễ nghĩa, ắt sẽ đánh
mất t́nh nghĩa “phu xướng
phụ tùy”. Chẳng dùng đạo để dạy
con, ắt sẽ tổn thương ân nghĩa sanh thành, dưỡng dục. Bất nghĩa, chẳng có ḷng từ,
đều gọi là “vô hạnh”.
Nay [người ta thường là] đối đăi với
vợ nếu không khắc bạc, thiếu ân huệ, ắt
sẽ suồng să, không chừng mực; đối đăi với con nếu không quá mức
nuông chiều, ắt sẽ nghiệt ngă, quở trách quá
đáng. Chính ḿnh đă thật sự vô hạnh, c̣n trách móc
vợ con nỗi ǵ?
Đời Hậu Hán, Trương
Trạm trang trọng, nghiêm cẩn, chuộng lễ, cư
xử ắt cung kính. Mỗi khi gặp vợ con, ắt giảng nói những giáo
huấn về lễ, cũng như dùng những lời lẽ
tốt lành, hạnh đẹp đẽ để giáo huấn,
giống như bậc quân vương trang nghiêm ngự giữa
bầy tôi. V́ thế, vợ ông ta [đối với người
trong nhà] cũng có thể khuyến khích, đốc thúc lẫn
nhau. [Do đó, gia đ́nh Trương Trạm] được
tiếng thơm trong làng nước. Tấm gương này thật đáng dùng
làm phương pháp tốt đẹp để dạy bảo
vợ con.
Sử Đường khi c̣n
hàn vi đă cưới vợ. Đến khi đỗ
đạt, hắn tiếc hận không thể cưới
con gái nhà giàu làm vợ. Do hối tiếc, hắn ngày càng xa
lánh vợ, chẳng c̣n ngủ chung nữa. Bà vợ uất
ức thành bệnh. Đă mấy năm, Sử Đường
chẳng ngó ngàng tới, vợ cũng nuốt hận. Lâm
chung, [vợ ở] cách vách, gọi Sử Đường:
“Nay tôi sắp chết, ông nhẫn tâm không ngó ngàng ư?” Sử
Đường trọn chẳng đoái hoài. Tới khi vợ
đă chết được một năm, cơi âm trách hắn
tội bạc ác, bất lương, tước giảm
thọ lộc của hắn. Hắn bị bệnh đột
ngột mà chết.
Vương Dao ở Trác Châu
nuông chiều hai đứa con trai quá lố, dưỡng
chúng thành tánh ác, không thể kiềm chế được,
[đành phải] thưa lên quan. Hai đứa con trai đều
chết, hắn bèn bị tuyệt hậu. Tới khi
Vương Dao chết, vào đêm ngày Rằm tháng Hai năm
sau, ông từ
giữ miếu Thành Hoàng xứ ấy
là Lưu Tiến ngó thấy một người cầm
đơn xin được cúng tế vào tiết Thanh Minh.
Thành Hoàng giận dữ phán: “Ngươi có con mà chẳng thể
dạy, tự chấm dứt gịng dơi, ai có thể cúng bái
cho ngươi?” Thành Hoàng sai quỷ tốt đuổi
đi. Người ấy khóc to, rời đi. Ngày hôm sau, miếu
chủ ḍ hỏi, mới biết là Vương Dao đă chết
hơn một năm. Cổ nhân có nói: “Con cái nhà Khổng Tử chẳng biết chửi,
con nhà Tăng Tử không biết đấu đá”.
Đó là do đă huân tập thành tánh. Lại nói: “Nuôi con em như dưỡng cỏ
chi, cỏ lan”. Đă dùng học vấn tích lũy để
vun bồi, lại c̣n nhuần thấm chúng bằng những
điều thiện đă tích tập. Trong ṿng cha con, chẳng
thể nuông chiều những đứa c̣n nhỏ. Từ
bé, đă đưa con vào khuôn khổ chặt chẽ, ràng buộc
bằng pháp tắc, ắt khi nó lớn lên, sẽ chẳng
trở thành hạng không ra ǵ! Lại nói: “Người có mấy
đứa con, đối với chuyện ăn uống,
quần áo, chớ nên không [chia sẻ] đồng
đều. Chớ nên không giữ nghiêm vai vế và tôn ty giữa
người lớn và trẻ nhỏ. Hiền, ngu, đúng,
sai khác biệt, chẳng thể không biện định. Từ
bé, đă thể hiện sự đồng đều, ắt
chẳng lo chúng lớn lên, sẽ tranh chấp tài sản. Từ bé đă bị
trách phạt nghiêm ngặt, ắt chẳng lo lớn lên, con
sẽ trái nghịch, khinh mạn. Từ bé đă dạy con
phân biệt [thiện, ác, đúng, sai, hiền, ngu], ắt chẳng
lo lớn lên, con sẽ thành phường trộm cướp”.
Gộp chung những điều vừa nói trên đây, mọi
người cũng sẽ biết pháp tắc [nuôi dạy
con]!
Vợ phụng sự bố
mẹ chồng giống hệt như con cái phụng sự bố
mẹ ruột. Mềm mỏng, vẻ mặt tươi
vui, ăn nói nhẹ nhàng. Thông cảm nỗi lạnh, nóng, quan
tâm bệnh tật, đau ngứa của [bố mẹ chồng].
Họ ra vào, ta đều đến nâng đỡ. Nếu
thất lễ đôi chút, sẽ là bất hiếu, tội ác ngập trời,
lửa sét sẽ lập tức tru diệt! Ôi! Tôi c̣n nói cao
hơn nữa, vợ đối với bố mẹ chồng
là sự kết hợp do mối quan hệ giữa con
người với nhau; con cái đối với cha mẹ
là sự kết hợp bởi t́nh thiên luân. Trước
nay, con bất hiếu với cha mẹ, mà vợ lại
riêng một niềm hiếu thảo với bố mẹ chồng,
tôi trộm sợ rằng chẳng hề có lẽ ấy! V́
thế, kẻ làm vợ mà thất lễ, đều là do kẻ
làm con [chẳng hiếu thảo với bố mẹ] mà ra vậy.
Thần tru diệt, quỷ quở trách, há chuyên trách phạt
kẻ làm vợ mà thôi ư? Mong trọn khắp những kẻ
làm con hăy suy nghĩ!
Ngày Hai Mươi Hai tháng Ba năm Sùng Trinh thứ năm (1632) đời
Minh, tại huyện Sơn Dương ở Hoài An, vợ
của Mao Kế Tông là Phùng Thị bẩm tánh chí hiếu. Mẹ
chồng tuổi cao, bệnh t́nh nguy ngập, ông Mao lại
phải vận lương vào kinh thành. Vợ bèn tắm rửa,
thay quần áo, trong đêm tối thỉnh cầu trời
cao cho ḿnh chết thay. Vợ cầm đao đâm vào hông,
đầu gan ló ra. Bỗng nghe con gọi, cô ta sợ con làm
kinh động mẹ chồng tỉnh giấc, bèn lấy
chiếc khăn che vết thương, vào vỗ về đứa
con. Lại lo một chút gan không đủ chữa lành, bèn
kiền thành cầu nguyện để mổ lần nữa.
Khi ấy, trăng c̣n chưa mọc, trời bỗng sáng sạch, các
ngôi sao đều chói ngời, chiếu vào thân người
vợ, sáng trưng như ban ngày. Vợ rạch bụng lấy
được một miếng gan, liền tức thời
nấu canh dâng cho mẹ chồng ăn. Mẹ chồng vừa
mới nếm canh, liền cảm thấy canh thơm ngọt
dị thường, bèn hỏi là vật ǵ? Vợ nói trại
đi là nhà hàng xóm bắt được con nai, đây là gan
nai. Mẹ chồng ăn hết, bệnh theo đó được
khỏi hẳn. Khi ấy, cô ta do ḷng chí thành cảm vời,
vết thương không đau, nhưng khó giấu vết
máu, bị cô em chồng phát hiện, cả nhà kinh hăi,
truyền tụng. Mẹ chồng mới biết con dâu cứu
ḿnh, khóc rống, cảm kích tấm ḷng thương yêu của
con dâu. Nhất thời, các sĩ phu trong làng hợp sức
viết sớ tâu lên triều đ́nh, nhưng do bị bọn
quan nha đ̣i hỏi [tiền lót tay], chẳng thể tâu lên
thiên tử. May mà có chư sanh Giang Thiên Nhất ở Huy Châu
viết thành bộ Kỳ Hiếu Kinh Thiên Tập để
truyền tụng chuyện này!
Đời Tống, Giả
Đam làm Tiết Độ Sứ ở Hoạt Châu. Khi ấy,
có một người đàn bà dân dă, phụng sự mẹ
chồng bất hiếu. Mẹ chồng tuổi già, mắt
ḷa, mụ ta cho mẹ chồng ăn thức ăn bẩn.
Mẹ chồng thấy đồ ăn có vị lạ, [nhằm
lúc] con trai từ bên ngoài trở về, mẹ chồng
đem thức ăn hỏi con. Đứa con trông thấy,
ngửa mặt lên trời khóc lớn. Bỗng sấm sét ầm
ầm giáng xuống, chặt phăng đầu mụ vợ, gắn đầu
chó vào đấy. Giả Đam biết chuyện, sai dắt
mụ ta đi khắp trong vùng nhằm cảnh tỉnh
phường bất hiếu. Than ôi! Người thời
nay cứ hở ra là bảo “tánh phụ nữ như nước,
chẳng thể lập tức dạy được”. Nói
kiểu ấy sao mà vô lư quá đáng vậy? Những kẻ
đang c̣n là con gái [chưa chồng] trong hiện thời,
cha mẹ đă đánh mất phương cách nuôi dạy,
đến khi những người nữ ấy làm vợ,
chồng lại ngu đần chẳng biết sự lợi ích của
việc nêu gương mẫu tốt
đẹp [cho vợ học theo], sẽ liền cảm thấy vợ mang thói ác ngỗ
nghịch, dâm đăng, đố kỵ, chẳng thể khống
chế. Nếu như người làm cha mẹ, [đối
với con gái] từ thuở bé cho đến tuổi cài
trâm, [thường luôn] dùng sự hiếu kính, nhu thuận
để chỉ bảo, hướng dẫn cái tâm của
con, [th́ mai sau con gái ḿnh] dẫu được gả làm vợ
một thằng chồng bất tài, con cũng có thể tự
biết cách thành gia lập nghiệp. Huống hồ là
được gả cho người thông hiểu lễ
pháp, lại c̣n là bậc quân tử hiếu, đễ, thiện
lương ư? Dạy con gái cũng như dạy con trai
đều phải coi trọng; cố nhiên phải bảo
ban lời này trọn khắp thiên hạ!
(Chánh văn) Khinh mạn tiên linh,
vi nghịch thượng mạng.
(正文)輕慢先靈。違逆上命。
(Chánh văn: Khinh
rẻ hương linh tổ tiên. Vi phạm mạng lệnh
của bề trên).
“Tiên
linh” (先靈) là hương linh tổ tiên. Phàm tẫn liệm
vô lễ, cư tang không theo chế định của lễ
nghi, chẳng nhanh chóng an táng, trai giới, cúng quải chẳng
có ḷng thành, chẳng siêng năng thăm viếng, quét dọn
mộ phần, miếu
thờ (chỗ thờ phụng) không ngăn nắp, hương đèn khi
có khi không, đều là khinh mạn! Ôi! Nguồn nước,
cội cây, há dám quên bẵng? Nếu kẻ nào phạm sai
sót đối với chuyện này, tôi chẳng biết nên gọi
hạng người ấy là ǵ nữa?
Đời Lương, Thái Tử
Chiêu Minh (Tiêu Thống) bẩm tánh nhân từ, hiếu thảo.
Mẹ ruột của ông là bà quư tần họ Đinh
(Đinh Lệnh Quang) mất, [Thái Tử] chẳng uống
nước hay canh, thường khóc ngất đi. Lương Vũ Đế khuyên nhủ: “[Người
đă mất, thân thể] hủy hoại, nhưng bản
tánh bất diệt. Có ta c̣n đây, con há có nên như thế”.
Thái Tử mới miễn cưỡng uống mấy hớp.
Từ ngày ấy cho đến khi an táng mẹ, mỗi ngày
chỉ dùng một thưng cháo mạch. Thân thể Thái Tử
vốn tráng kiện, eo to lớn. Cho đến khi ấy (an táng xong xuôi), giảm
mất quá nửa. Mỗi khi vào triều, các quan và dân chúng
trông thấy, không ai chẳng ứa lệ.
Trần Cảo do đă đậu
Cống Sanh bèn tới kinh đô. Anh ta đến miếu thờ
thần cầu xin thần giáng mộng, mộng thấy thần
nói: “Quan tài của cha ngươi chưa hạ táng, chẳng
thể hỏi đến chuyện đỗ đạt
được!” Trần Cảo chưa tin. Năm sau, anh ta
thi trượt khóa thi Hội, bèn trở về, vội vă
lo an táng xong xuôi. Lại đi thi, mới thi đỗ. Công
Quá Cách chép: “Cha mẹ mất mà
ba năm chưa chôn, [cứ tính] mỗi tháng chậm trễ
là mười lỗi. Chôn cất mà không trọn hết tâm
lực, hoặc là đến nỗi [để cho di thể
của cha mẹ] bị hư hoại, phạm một
trăm lỗi. Sau khi đă nhận biết mà không sửa
đổi, [cứ tính] mỗi ngày chậm trễ là mười
lỗi”. Sách c̣n chép: “Bỏ
sót chuyện cúng giỗ tổ tiên, bất kính th́ tính là một
lỗi. Nếu do vui chơi mà bỏ sót ngày giỗ th́ tính [lỗi] gấp năm lần”.
Đặng Tả Danh mỗi
lần tảo mộ, ắt sẽ lưu lại đó cho đến
ngày hôm sau mới về. Ông nói: “Trong ṿng một năm,
đến đây được mấy ngày, tôi không nỡ
ḷng bỏ đi ngay”. Lời nói chí t́nh thay! Thế tục hiện thời mỗi năm vào dịp
tết nhất hoặc tiết Thanh Minh mới đến
nơi phần mộ một lần; ngoài ra, để mặc cho người thân
nơi g̣ hoang chẳng hỏi tới! Lúc cúng tế th́ đại
khái là cùng với anh em, thân hữu tận t́nh vui chơi, ngắm
cảnh, vui sướng hết ḿnh rồi về. Vào dịp
tết nhất, chẳng phải nhằm quét dọn lá tùng [phủ đầy trên mộ], mà chỉ là thưởng thức hoa mai. Thanh
Minh chẳng phải là đến thăm mộ, chỉ là dự hội Đạp Thanh[27]. Chao
ơi! Chẳng dùng bổng lộc phụng dưỡng
song thân, mà cứ
ôm vợ con th́ có lợi
ích ǵ? Lúc sống chẳng dâng chén cơm bát nước
đơn sơ, mất rồi bày cỗ bàn la liệt
để làm ǵ?
Bầy tôi nghe theo lệnh
vua. Con nghe theo lệnh cha mẹ. Đệ tử nghe theo lời
thầy. Phàm hết thảy những kẻ thuộc phận
dưới, nghe theo lệnh của người trên, đều
gọi là “thượng mạng”.
Nếu xét theo đạo nghĩa, chẳng thể thi hành [mạng
lệnh ấy], cũng nên uyển chuyển [thưa bày khiến
cho người bề trên bị] cảm động.
Trước hết, xin hăy dâng lời can ngăn, [thưa tŕnh nguyên do] chẳng
dám vâng theo lệnh ấy. Nếu xét theo đạo nghĩa
[là chuyện] đáng nên làm mà chẳng dốc hết sức
vâng làm, đă là có tội, huống là trái nghịch ư? Kẻ
trái nghịch chính là khởi nguồn của phường
loạn thần tặc tử vậy!
Đời Minh, Đào An là
người huyện Đương Đồ. Minh Thái Tổ
sai ông ta trông coi Hoàng Châu, phủ dụ rằng:
“Ngươi hăy khéo vỗ về dân chúng”. Đào An kính cẩn
vâng theo lệnh trên. Khi tới quận, ông miễn trừ
thuế khóa, giảm nhẹ những việc lao dịch
rườm rà, siêng năng giáo huấn các quan [cấp dưới],
giảm nhẹ trừng phạt, dân chúng đều vui vẻ
khâm phục. Ông lại được triệu về kinh
làm Học Sĩ, đổi sang làm chức Giang Tây Hành Tỉnh,
Tham Tri Chánh Sự. Không chuyện ǵ chẳng tận tâm kiệt
lực châu toàn lệnh trên. Đào An mất, vua đích thân
soạn bài văn tế, tặng thụy hiệu, cho con ông
ta được tập ấm. Con cháu ông đều đỗ
đạt, đạt tới địa vị khanh tá (卿佐, địa vị chấp chánh phù tá đại
thần). Những kẻ nay được làm người
chăm nom dân đen, đều là cậy vào mạng lệnh
của hoàng đế, thế mà họ bạo ngược
tàn khốc đối với sanh linh, tàn hại dân chúng, trọn
chẳng thấu hiểu tấm ḷng nuôi dạy của
đức vua ta. Cái tội trái nghịch không chi hơn
được tội này! Cố nhiên là dân chúng chẳng thể
làm ǵ được họ, nào có biết trời cao soi thấu
chẳng xa. Chẳng thể ngược đăi dân, chẳng
thể dối lừa trời cao đâu nhé!
(Chánh văn) Tác vi vô ích, hoài hiệp
ngoại tâm.
(正文)作為無益。懷挾外心。
(Chánh văn: Làm chuyện vô
ích. Ngầm đổi ḷng thay dạ).
Vạn sự trong thế
gian, chớp mắt đă thành rỗng không. Chỉ có những
chuyện như tích đức, hành thiện, dấy điều lợi, trừ
điều hại v.v… là đời đời kiếp kiếp
thân luôn được thọ dụng, chẳng có cùng tận.
Những thứ khác như dinh thự, nhà cửa, đài, ao, áo cơm, xe ngựa,
cùng với hết thảy những thứ thơ, họa,
những món đồ trân ngoạn đều đủ khiến
cho người ta suy sụp chí hướng, thân thể phiền
lụy, có ích lợi ǵ đâu? C̣n như treo đèn diễn
tuồng, hát ḥ, uống rượu, chơi xu bồ[28],
đánh bạc, cờ vây… há chỉ là vô ích, mà c̣n gây hại
to tát, hăy cật lực răn dè!
Đời Tống, Trương
Vịnh trấn thủ Thành Đô. Ông lo dân chúng v́ khó kiếm
ăn sẽ trộm cướp, cho nên mỗi năm trích từ tiền thuế ruộng
thu từ các huyện để mua sáu vạn hộc gạo.
Tới mùa Xuân, dựa theo sổ sách [ghi chép] cặn kẽ
về dân chúng, tính theo số người trong mỗi nhà
để cấp phiếu [mua gạo], [nhà kho của chánh
quyền sẽ] chiếu theo giá gốc để bán ra. Do vậy,
dẫu gặp năm mất mùa, cũng chẳng đến
nỗi quá đói.
Trần Nghiêu Tá làm Tào Vận
tại Quảng Nam. Phong tục xứ ấy là không uống
thuốc. Hễ bị bệnh bèn cầu khẩn quỷ,
đa số là bị chết. Ông sưu tập những bài
thuốc có hiệu nghiệm gia truyền cho khắc lên
đá nơi dịch trạm, quán xá; do vậy, thổ dân (dân chúng nơi ấy) được nhờ.
Vương Địch làm
tri phủ Thành Đô, dân chúng phần nhiều hỏa táng,
ông tận lực ngăn cấm, dùng đất công để
lập nghĩa địa thí, chôn cất những người
chưa được an táng. Nơi ấy chẳng c̣n lệ
hỏa táng nữa.
Tô Thức làm tri phủ Hàng
Châu, đă cho vét sâu hai con sông, sửa chữa sáu cái giếng,
đắp đê dài trồng liễu để ngăn
lũ lụt. Do vậy,
dân chúng đặt tên cho
cái đê ấy là Tô Công Đề (蘇公堤, đê ông Tô).
Dụ Trọng Khoan làm tri phủ
Thuận Xương. Tục lệ xứ ấy hay d́m chết
con gái. Ông soạn bài văn khuyên răn, triệu tập phụ
lăo tới dinh tri phủ, ân cần thăm hỏi, lại lấy bài văn ấy để khuyên lơn. Hủ tục ấy bèn
được biến đổi.
Trên đây, đều là những
tấm gương tạo lợi ích cho người khác. Do
vậy, ta biết bậc quân tử xử thế cốt
sao hữu ích cho người, cho vật, há chỉ bàn suông
chuyện cao xa, chẳng hề thực tế ư? C̣n
như chúng ta tu thân, giữ ḿnh chánh đáng, bớt lỗi,
trừ sai, thật sự là chẳng đủ thời gian
mà sự việc vẫn ê hề ra đó, há có các thứ hành vi vô ích xằng bậy ư? Chẳng
biết huyễn thân huyễn cảnh bỗng dưng lâm vào
cảnh tan diệt, chỉ có tánh viên minh là thường c̣n muôn
kiếp, vốn chẳng có sanh diệt. Người thời
nay tiêu phí thời gian vă nước cho ướt bùn (làm
chuyện vô ích), sao chẳng hướng vào đây để
dụng công dốc sức đôi chút vậy thay?
Bầy tôi lừa dối vua,
con ngỗ nghịch cha mẹ, vợ phản bội chồng,
anh em xâm phạm lẫn nhau, bạn bè khuynh đảo lẫn
nhau, đều là do cái tâm rong ruổi theo ngoại cảnh sai khiến.
Nhưng chẳng đợi đến khi cái tâm ấy thể
hiện ra hành động, hễ có mảy may ư niệm chớm
động, người chưa biết mà quỷ thần
đă biết rành rành cái tâm ấy!
Đời Tống, Tần Cối
âm mưu thông đồng với người Kim, tận lực
chủ trương ḥa nghị. Các tướng hễ chiến
trận hơi thắng thế, ngay lập tức, hắn
hạ lệnh giục giă họ rút quân; những thành thị, quận huyện vừa đoạt lại [từ tay quân
Kim] lập tức bị vây hăm, thất thủ. Hắn lại
giết chết Nhạc Phi trong ngục. Về sau, có
người vào cơi âm, thấy Tần Cối ở trong
địa ngục Vô Gián. Nay ở trước mộ phần
Nhạc Vương ở Hàng Châu, có tượng sắt của
vợ chồng Tần Cối quỳ trước đó.
Người đến viếng thường đánh đập
tượng đó và vẩy nước tiểu lên tượng
để trút bớt nỗi hận!
Đời Minh, có gă dân tên X… ở
Việt Trung đối với vợ t́nh cảm rất thắm
thiết. [Thế mà] vợ hắn lại hâm mộ đứa
thiếu niên hàng xóm, luôn mắt đi mày lại với nó. Dẫu
ở cùng nhà với chồng, mà ḷng cô ả luôn tơ tưởng
đứa thiếu niên ấy. Về sau, người chồng
bị bệnh mất. Chưa măn tang mà ả ta đă tái
giá. Đến đêm, ả liền mộng thấy chồng đến bảo:
“Ta chết mà nàng tái giá, ta chẳng trách móc ǵ. Ta hăy c̣n sống
mà nàng đă mang tâm tơ tưởng người ngoài, chuyện
này thật đáng hận”. Bèn cầm chùy sắt đập
vào lưng vợ, ả ta ngay lập tức ói máu mà chết.
(Chánh văn) Tự chú, chú tha, thiên tăng, thiên ái.
(正文)自咒咒他。偏憎偏愛。
(Chánh văn: Rủa ḿnh, rủa
người. Yêu ghét thiên vị).
Câu này nhằm nói đến
chuyện nguyền rủa mà chẳng t́m được lư
do chánh đáng nào! “Hễ giận dữ mà tự nguyền
rủa chính ḿnh, lại c̣n nguyền rủa người
khác” sẽ thuộc vào phạm vi của lời răn này. Đấy
chính là điềm báo trước kẻ tiểu nhân hoặc
phụ nữ sẽ chuốc họa, thường là chẳng
đợi đến chết, mà là ngay lập tức
đúng như lời nguyền, há chẳng nên kiêng dè ư?
Vợ của Yển Điển
từng lén tằng tịu với kẻ khác, lại ăn
trộm một chiếc khăn tay từ nhà hàng xóm. Hàng xóm
chửi bới, Yển Điển bèn tự nguyền rủa,
rủa người khác như sau: “Nếu vợ tao thật
sự tằng tịu với thằng khác, và ăn trộm
khăn tay của mày, tao sẽ bị sét đánh. Nếu
không, ắt mày sẽ bị gánh lấy!” Không lâu sau, Yển
Điển chết dưới lưỡi búa của thiên
lôi. Dưới hông có chữ viết: “Gă si che chở cho vợ”.
Vợ hắn cũng bị sét đánh chết. Dưới
hông cũng có chữ ghi rằng: “Hành gian, trộm cắp”.
Đời Châu, Tử Hăn[29] nước
Trịnh nói: - Hễ có nguyền rủa th́ chính là căn bản
của sự rối loạn. Sanh tử có số mạng
định sẵn; chẳng phải là do yêu mà có thể sống,
há có lẽ nào do ghét mà chết được ư? Nay có kẻ
tự rủa ḿnh, rủa người, mê hoặc quá đỗi,
ngu muội quá đỗi!
Phạm vi của “thiên tăng, thiên ái” (yêu ghét thiên vị) rất rộng. Phàm vua đối
với bầy tôi, cha đối với con, chồng đối
với thê thiếp, chủ đối với tôi tớ,
đều có [chuyện yêu ghét thiên vị]; chỉ có trong
ṿng vợ trước, vợ sau, vợ cả, vợ lẽ
nơi phụ nữ là nặng nề nhất. Do vậy,
xưa kia Tăng Tử sau khi chôn vợ, suốt đời
chẳng cưới vợ mới. Ông nói: “Cao Tông[30]
v́ vợ sau mà giết [con ruột ḿnh là] Hiếu Kỷ.
Quan lệnh doăn Cát Phủ[31]
v́ vợ sau mà giết [con ruột là] Bá Kỳ. Ta trên là chẳng
sánh bằng Cao Tông, giữa là chẳng thể sánh bằng
Cát Phủ, sao có thể chẳng phạm sai lầm cho được?” Lành thay! Đấy là v́ sợ có ḷng yêu ghét thiên vị mà giữ vẹn ân
t́nh của người làm cha vậy. Thế nhưng, vợ
đă chết, chẳng tục huyền, xét về mặt
t́nh người khó khăn lắm. Chỉ mong sao sau khi tục
huyền, luôn có thể lănh hội [thâm ư] trong lời nói của
Tăng Tử, ngơ hầu chẳng đến nỗi phạm
sai lầm to tát vậy! Vợ
trước của Từ Giáp ở Đông Hải là Hứa
Thị sanh được một con trai, đặt tên là Thiết
Cữu (鐵臼, cối sắt). Hứa Thị chết, Từ
Giáp lại lấy Trần Thị. Mụ ta tánh hung dữ, đố kỵ, muốn giết
con của vợ trước. Trần Thị sanh một
đứa con trai, do vậy, đặt tên là Thiết Xử
(鐵杵, chày sắt), [hàm ư] muốn giă nát cối. Thiết
Cữu luôn bị đánh đập, chết v́ đói rét.
Khi đó, [Thiết Cữu] mười sáu tuổi. Sau khi chết
được hơn mười ngày, quỷ hồn bỗng
trở về nhà, bảo: “Ta là Thiết Cữu. Mẹ ta
đă kêu oan trên trời, đă được thiên tào ban lệnh
phù rửa sạch nỗi hận, muốn làm cho Thiết Xử
bệnh tật mà chết, giống hệt như ta khi phải chịu đựng nỗi khổ
vậy”. Trần Thị trăm kế cầu đảo,
cúng bái [ḥng thoát nạn], [hồn Thiết Cữu] chẳng
rời đi. Khi ấy, Thiết Xử mới sáu tuổi,
bỗng bụng trương phềnh, thân thể đau
đớn, khắp thân tím bầm rồi chết!
Vào đời Châu, từ mẫu
(người mẹ hiền từ) nước Ngụy vốn
là con gái của Mạnh Dương, là vợ sau của Mang
Măo, sanh ba đứa con. Vợ trước có năm đứa
con. Chúng nó đều chẳng yêu mến mẹ kế,
nhưng mẹ kế đối xử hết sức nồng
hậu. Năm đứa con ấy vẫn không yêu mến mẹ
kế. Từ mẫu bèn giữ cho ba đứa con ruột
của ḿnh không bằng con vợ trước: Quần áo,
thức ăn, sanh hoạt đều thua kém rất xa. Năm đứa con của vợ trước
vẫn chẳng yêu mến mẹ kế. Chẳng lâu sau, có
một đứa con của vợ trước vi phạm
lệnh cấm của vua nước Ngụy, mắc tội
sắp bị xử tử. Từ mẫu buồn rầu,
đau xót, sớm chiều chịu đựng nhọc nhằn
t́m cách cứu nó. Có người bảo: “Con chẳng yêu
thương mẹ quá đáng. Việc ǵ phải vất vả,
lo sợ như thế?” Từ mẫu đáp: “Con ruột của
thiếp tuy chẳng yêu mến thiếp, thiếp ắt cứu
văn tai họa, trừ tội cho nó. Nay đối với con
vợ trước, nếu không làm như vậy, [chúng nó] có
khác ǵ không có mẹ? Cha chúng nó v́ thấy chúng nó côi cút, chọn
thiếp làm mẹ kế. Mẹ kế là mẹ của
người ta, mà chẳng yêu thương con chồng, có thể gọi là nhân từ hay chăng? Thân thiết với
con ruột, lơ là con vợ trước, có thể nói là
nghĩa hay chăng? Bất từ, bất nghĩa, làm sao đứng trong cơi đời được
nữa? Tuy chúng nó chẳng yêu thương thiếp, thiếp
há có nên quên nghĩa ư?” Bà bèn đến thuyết
phục vua Ngụy, vua coi trọng lời nghị luận
của bà, bèn xá tội, cho đứa con ấy trở về nhà. Từ
đó, năm đứa con thân thiết, kề cận từ
mẫu, ḥa thuận [với các em] như con cùng một mẹ.
Do vậy,
bà dùng lễ nghĩa dạy
bảo tám đứa con, chúng đều trở thành hạng
đại phu hoặc khanh sĩ của nước Ngụy.
(Chánh văn) Việt tỉnh, việt
táo, khiêu thực, khiêu nhân.
(正文)越井越灶。跳食跳人。
(Chánh văn: Nhảy qua giếng
và bếp ḷ. Nhảy qua thức ăn, nhảy qua người
khác).
“Việt”
(越) là nhảy qua. Giếng giúp đỡ, có lợi
cho con người rất rộng, có thần suối trông
coi, tên là Quán (觀), h́nh dạng
như mỹ nữ. Hơn nữa, nước trong giếng
đă lợi lạc, nhuần thấm quần sanh, [nước
giếng] lại c̣n dùng để cúng thần, cúng Phật,
há có nên khinh nhờn? Táo Quân là một trong năm vị thần[32] trong
nhà. Ông ta là Thái Ất Hỏa Thần, họ
Trương, tên Trác, tự là Tử Quách, chưởng quản
vận mạng tốt xấu của cả một nhà,
chuyên xem xét thiện, ác, hay, dở [của mỗi thành viên
trong một gia đ́nh], báo trước cát, hung, họa,
phước. Nhảy qua [giếng hoặc bếp ḷ] chính là khinh mạn, lăng nhục thần
linh, tội ấy rất lớn! Không chỉ là nhảy vượt qua, mà ngồi trên bờ
giếng, giẫm đạp miệng ḷ, thiêu đốt những
vật dơ bẩn trong ḷ, sẽ đều là xúc phạm,
ô uế [thần linh] vậy!
Trương Hiếu Tiên mỗi
lúc say rượu thích cùng kẻ khác nhảy qua giếng
để đùa giỡn. Một hôm, trong giếng có một
vị thần kim giáp cầm mâu đâm hắn. Bụng Hiếu
Tiên hết sức đau đớn, luôn như bị
mũi thương đâm trúng. Hắn kiền thành cầu
đảo mới lành bệnh.
Đời Thanh, Ngô Trạm
làm nha lại ở huyện, nhà ở gần Kinh Khê. Kinh Khê
có một con suối, nước hết sức trong, mọi
người đều nhờ vào [con suối ấy mà có
nước để dùng]. Ngô Trạm dựng hàng rào trúc
để bảo vệ, không cho những thứ bẩn thỉu
rớt xuống suối. Bỗng ở bên cạnh suối,
ông nhặt được một con ốc trắng, bèn bỏ
nó trong ṿ. Mỗi lần ông ra ngoài, trở về, thấy
trong bếp cơm nước đă chuẩn bị sẵn,
tâm hết sức lấy làm lạ. Một ngày lén ŕnh, th́ ra
là một cô gái từ trong con ốc chui ra, ra tay dọn dẹp,
nấu nướng. Ngô Trạm vội chạy tới, cô
gái hết sức lúng túng, [bị ông ngăn cản] chẳng
cho trở vào vỏ ốc, bèn nói thật với Ngô Trạm: “Tôi là thần
suối. Thượng Đế v́ thấy ông kính
trọng, bảo vệ nguồn nước, lại biết
ông ở góa, sai tôi lo liệu cơm nước cho ông. Ông
ăn cơm do tôi nấu sẽ đắc đạo”. Nói
xong, chẳng thấy đâu nữa!
Đời Hán, Âm Tử Phương
là người chí hiếu, lại rất nhân từ, nồng
hậu. Nhằm ngày mồng Tám tháng Chạp, đang nấu
bữa sáng, bỗng thấy Táo Quân hiện ra trước mặt,
Tử Phương vội lạy. [Từ đó], mỗi dịp
mồng Tám tháng Chạp, ông đều cúng bái. Kể từ
đó, giàu to ngang ngửa với vua. Tới đời cháu
là Âm Thức, có đứa con gái được chọn làm
Hoàng Hậu, [Âm Thức] bèn được phong tước
hầu. Do vậy, con cháu họ Âm đời đời thờ
phụng ông Táo.
Hướng Lẫm tánh t́nh
giống như cuồng. Một hôm, hắn ngồi trên nóc
của căn nhà gỗ ở phía Bắc bếp ḷ, mộng
thấy Táo Quân quở trách. Nhà hắn lập tức phá tán.
Thức ăn là thứ để
nuôi nấng tánh mạng, con người là một trong Tam Tài,
há có nên khinh rẻ, coi thường ư? Nếu nhảy
vượt qua, sẽ là tội lỗi, há chẳng kiêng
tránh ư?
Đời Đường,
có một viên quan vào núi, đến chỗ hoang vắng, thấy
một tửu điếm, bèn mua rượu uống. Một
người đàn bà thâu tiền trước rồi mới
vào trong. Hồi lâu sau mới đem rượu ra. Rượu
sắc đỏ như máu, uống vào hết sức ngọt
ngào, [viên quan] muốn uống nữa. Người đàn bà
khóc, thưa rằng: “Thiếp chẳng phải là người
sống. Do lúc c̣n sống, tiêu dùng xa xỉ vô độ, uống
rượu chẳng biết giữ chừng mực,
thường giẫm đạp canh thừa, thịt dư
rồi cho người khác ăn. V́ thế, hứng chịu
quả báo này. Mỗi lần có người mua rượu,
liền lấy máu trên thân thiếp dâng ra”. Vị quan ấy
hết sức kinh hăi, quay về. Trên núi cao làm sao có quán
rượu cho được? Tôi cho rằng vị quan ấy
vốn sẵn thói khinh rẻ đồ ăn thức uống,
cho nên âm ty mượn cảnh ấy để điểm
hóa vậy!
Đời
Tống, Trạch Lâm từng đưa tiễn tiên sinh Chánh
Thúc (Tŕnh Di) dời sang phía Tây. Trên đường, ngủ lại
ở tăng xá, chỗ ngồi ngẫu nhiên xoay lưng vào
thánh tượng. Tiên sinh bảo: “Ông hăy chuyển ghế,
đừng ngồi xoay lưng vào tượng!” Trạch
Lâm nói: “Há có nên v́ tín đồ của họ cung kính, mà
[chúng ta] cũng nên cung kính ư?” Tiên sinh đáp: “Phàm những
ǵ có h́nh mạo con người đầy đủ, đều
chớ nên khinh mạn”. Tiên sinh Quy Sơn (Dương Thời)
nghe chuyện, hết sức tán thưởng lời ấy,
vui mừng nói: “Thấy giống như người mà c̣n chẳng
dám khinh thường, ắt sẽ có thể thấy đối
với người sẽ là như thế nào!” Phàm là xoay
lưng vào mà c̣n chẳng nên, huống hồ là nhảy qua
ư?
(Chánh văn) Tổn tử đọa
thai, hành đa ẩn tịch.
(正文)損子墮胎。行多隱僻。
(Chánh văn: Tổn hại con
cái, phá thai. Làm nhiều chuyện ám muội).
Thân người quư nhất,
được làm thân người khó nhất. Đức Phật
bảo khi con người sắp sanh ra, có cửu thiên
tư mă hiện diện, cửu thiên đều chúc mừng,
Thái Ất cầm phù mạng, Đế Quân phẩm định
mạng vận, vị quan coi sổ sách ghi chép vào sổ. Vị
thần Tư Mạng tính toán thọ mạng, Ngũ Đế
giám sát sanh mạng, thánh mẫu bảo vệ, che chở [sản
phụ trong pḥng sanh][33]. Các vị
thiên chân, địa kỳ pḥng thủ cẩn mật tam giới,
[đă canh giữ
nghiêm mật như thế
rồi] mới được sanh vào nhân đạo, được
phô thân h́nh dưới ánh mặt trời, [đúng là] chuyện
kinh trời động đất, quư khôn kể xiết!
[Sanh mạng nhỏ bé ấy có] phụ bạc quư vị nỗi
ǵ, sao lại dám giết hại chúng? Kẻ nữ dâm bôn
đă mang thai bèn phá thai, chẳng bằng cầm thú, không có cách nào khuyên nhủ được! C̣n
như có kẻ nhà nghèo, chán ngán con cái đông đúc, hoặc
là con đă sanh ra bèn gây thương tổn [cho nó chết
đi], hoặc là con chưa sanh ra bèn phá thai, tội nghiệp
giết người chẳng thể sám hối, chuộc lỗi
được! [Đối với] sanh mạng của loài
vật bé nhỏ nhất c̣n mong phóng sanh, kiêng giết, huống
hồ con cái ư? Nay những kẻ suốt đời
không có con, hoặc sanh con mà chẳng nuôi được, hoặc
đến tuổi già, đâm ra con chết trước,
đều là quả báo do đời trước đă tạo
ra các ác nghiệp ấy mà chuốc phải.
Huyện lệnh Quư Khê là Tiền
Bang Vỹ do thấy [dân chúng trong vùng] quen thói hễ sanh con
gái, phần nhiều chẳng nuôi, ông bèn dạy họ đạo
nghĩa chánh đáng, lại c̣n thưởng phạt nghiêm
ngặt: “Kẻ giết con gái sẽ khiến cho năm nhà
hàng xóm bị liên lụy”. Do vậy, cứu sống chẳng
kể xiết [những bé gái sơ sanh]. Về sau, Bang Vỹ
làm Thái Thú ở Đinh Châu, hưởng thượng thọ,
con cháu đều hưng
thịnh. Phàm nghiêm cấm
tổn hại con cái và phá thai đạt được báo
ứng như thế, người thời nay hăy nên luôn khuyên nhủ, công ấy cũng
chẳng nhỏ nhặt đâu nhé!
Quách Ấn có đứa con
gái tên là Dẫn Phượng bị hai con quỷ truy bắt,
dẫn qua khắp mười tám ngục. Trong ngục cuối
cùng, có một vị vương giả ngồi trên điện,
phía dưới là mấy trăm người đàn bà, ai nấy
đều có trẻ
nhỏ đang ôm chân họ gào
khóc đ̣i mạng. Có kẻ v́ sanh nhiều con gái mà d́m chết
[trẻ gái] mới sanh. Có kẻ v́ nhà nghèo, sanh ra [con gái] bèn
chẳng nuôi. Có kẻ v́ vợ cả ghen tuông vợ lẽ
sẽ sanh con mà đánh đập đến nỗi [vợ
lẽ bị] sẩy thai. Có kẻ v́ chửa hoang bèn tự
dùng thuốc độc [giết chết thai nhi]. Có kẻ
v́ đấu đá, bị va chạm mà tổn hại thai. Có
kẻ v́ giận con khóc nhè mà đánh, mà quăng đến
nỗi làm chết con. Có kẻ v́ trông trẻ không cẩn thận,
khiến cho con chẳng do yểu mạng [mà bị chết
oan]. Vị vương giả cật vấn từng
người một, không ai chẳng mang gông đeo cùm trên
thân, [thân h́nh]
quắt queo đáng
thương. Dẫn Phượng đă trở về, bèn kể
đầy đủ với cha. Do đó, ông bèn cho viết
lại chữ to trên vách chùa Thiên Ninh để răn đời.
Người đàn bà tên
Dương A Thặng từ bé đă nghèo nàn, bệnh tật.
Đến tuổi già càng chật vật. Lâm chung, tự
nói: “Đời trước, ta vốn là một thầy thuốc.
Do không tra hỏi tường tận, có một phụ nữ
tự nói bị bệnh do trúng cổ độc, ta chẳng
biết là cô ta có thai, liền cho uống rượu Nguyên Hoa[34]. Cô ta và
hai đứa con trong bụng đều chết, tức là
ta đă giết chết ba người một lượt.
Quan cơi âm bắt tội ta, chịu khổ đă măn, lại bị phạt
làm thân nữ, đến nay đă là ba lần. Đời
đời luôn luôn là kẻ tôi tớ hèn hạ, luôn bị
khốn khổ v́ đói khát, lắm bệnh, ít được
an vui. Khuyên những người làm nghề y trong cơi đời,
hăy lấy ta làm gương”. Nói xong bèn chết.
Văn Xương Đế
Quân nói: “Kẻ làm con bất hiếu,
ắt có luật trời tru lục. Vô tội giết con
chính là giết nhân dân trong thiên hạ. Hơn nữa, người
ta muốn giết con, sao chẳng tiết dục, mà lại
dám giết người chẳng màng! Trong đời này, hạng
người như vậy há có thể bảo đảm là
không có! Ta thấy những kẻ chịu tội trong chốn
Phong Đô phạm lỗi này thật đông! Hăy gấp cùng
nhau tỉnh ngộ, để khỏi nhanh chóng bị trời
phạt”.
Bài Giới Nịch Nữ Ca
(戒溺女歌, bài ca khuyên kiêng d́m chết con gái) của Hà
Long Đồ có nói:
- Cọp sói tánh ác nhất, vẫn
biết có cha con. Người linh nhất muôn vật, hiềm
rằng chẳng bằng chúng! Sanh trai cùng sanh gái, bồng ẵm
đều như nhau. Tôi nghe giết trẻ gái, khốn khổ khôn sánh bằng, bào thai c̣n đẫm máu, có miệng chẳng
thể nói, khóc ọ ẹ trong bồn, hồi lâu mới chết
hẳn. Chao ôi! Ḷng cha mẹ, tàn nhẫn đến ngần
ấy! Do vậy, tôi khuyên dân, đừng nên giết con gái,
thoa gai cùng váy vải, chưa chắc khiến ngươi
nghèo. Nữ tánh hiền dịu nhất, yêu cha mẹ hơn
trai. Con trai hay ra ngoài, gái thường quấn mẹ cha.
Trai phần nhiều ương bướng, gái luôn thuận
cha mẹ. Trai hay thích chơi xa, gái luôn gần cha mẹ. Trai
thường ít bi ai, gái luôn khóc cha mẹ. Gái có tâm hiếu
thuận, thường cứu giúp mẹ cha. Nữ có chồng
con tốt, thường rạng danh cha mẹ. Chẳng thấy
cô Đề Oanh[35], giúp
cha thoát nhục h́nh. Chẳng thấy cô Đường Hương[36], cứu
cha bèn chặn hổ. Đàm Thị mười tám tuổi,
lo ma chay cho cha. Tào Nga[37] mười
bốn tuổi, trầm ḿnh kiếm xác cha. Thúc Tiên[38] cha chết đuối, đau xót ôm thây cha, lập
lờ trôi theo gịng. Mẹ nàng Viên tê bại, hỏa hoạn
chẳng dậy được, nàng khóc, chẳng nỡ ĺa,
cam chịu thiêu cùng mẹ. Đời Tống, cô Trần
Tam, cha mẹ nghèo kiết xác, ba chị em húp cháo, chuyên hái ấu đổi gạo. Mẹ chết, chẳng lấy chồng,
dựng lều sống bên mộ, cho đến hết một
đời. Đời Đường, Ngọc Ḥa Tử,
cha anh đều chết trận. Ḥa Tử mới mười
bảy, lặn lội tận biên cương, ăn xin,
đưa xương về, bọc lụa là chôn cất,
cắt tóc, hủy diện mạo. Rồi dựng lều
bên mộ. Tiết lớn, vua nghe biết. Xuống chiếu
khen ngợi nàng. Hiếu thay nàng Tiêu Cơ! Cha mẹ chết
đất khách, nàng mới mười sáu tuổi,
đưa ḥm về quê nhà. Nhà thuyền khinh con côi, giữa
đường bỏ quan tài, giong thuyền đi mất
hút. Nàng cùng một tỳ nữ, khoét đất, đào
thành huyệt, [ḥng chôn tạm song thân]. Nàng hủy hoại
dung mạo, ngày đêm luôn buồn bă, dựng cḥi bên mé
nước. Hết tang, chẳng chịu rời. Cầu
hôn, chẳng chịu gả, [đưa ra điều kiện
rằng]: “Ai đưa ḥm về quê, sẽ chịu
theo làm vợ”. Quả nhiên lấy một người,
đưa ḥm về quê cũ, là lăo úy[39] họ
Dương, vốn
là người Dương Xá. Cô Đồ ở Đông Ô, cha mù, tay chân vẹo,
cơm ăn lo từng bữa, người thân với xóm
giềng, đều cùng chẳng thèm ngó. Cô bèn dời song
thân, đến sống trong phường dệt, ở một
chốn xa xôi. Ngày đẵn củi đổi gạo,
đêm se gai thành sợi. Song thân hết tuổi thọ,
đắp đất thành mộ phần, giữ mộ chẳng
lấy chồng, chỉ v́ không anh em. Gương xưa gái
hiếu hiền, nhiều khó thể chép xuể. Quan lại hoặc tặng vàng,
hoặc triều đ́nh khâm thưởng. Có người
làm phi tần, hoặc thành bậc phu nhân. Nếu giữ mạng
con gái, con sẽ biết báo đền, chẳng hề thành
ngỗ nghịch. Kính khuyên người thế gian, đạo
trời sẽ báo đền, chớ bảo trẻ gái ngốc,
oán hận chẳng biết báo. Chẳng xót mạng trẻ
gái, mẹ cha sao dám chắc, giữ nổi mạng chính
ḿnh? Tuyệt tự, giảm tuổi thọ. Luật âm ty
rành rành, đến khi bị đ̣i mạng, cắn rốn
chẳng thể kịp! Sao chẳng tṛn mạng con, cốt
nhục đều vui sướng!
“Ẩn
tịch” (隱僻, ám muội) chẳng phải chỉ là một
chuyện. Như gian trá, trộm cắp, tà dâm v.v… phàm những
ǵ không thể cho trời biết, chẳng thể nói với
người khác th́ đều là [“ẩn tịch”]. Nhưng chuyện lớn nhất,
ắt thuộc loại chuyện dâm uế; do vậy, đức
Thái Thượng viết điều này vào sau [lời
răn về chuyện] tổn hại con cái, phá thai là v́ có
lư do vậy.
Đời Minh, Mạo Khởi
Tông nói: - Tại phía Bắc huyện Phù Lương, có
Trương Minh Tam theo cha đến lỵ sở trấn
nhậm tại Quỳnh Nhai. Dinh quan gần nhà Lư Chỉ
Huy. Hai cô con gái họ Lư đều xinh đẹp, Minh Tam
đều tằng tịu với họ. Đến khi trở
về, [Minh Tam] ngầm đem cả hai cô giấu trong thuyền.
Thuyền sắp ra biển, ông Lư đuổi theo rất gấp.
Minh Tam túng kế, vội đẩy hai cô gái xuống nước.
Mười năm sau, Minh Tam thắt lưng đau buốt,
đón thầy thuốc họ Tôn chữa trị. Thầy cắt
thuốc vừa mới đỡ đau; đêm ấy, ông
Tôn mộng thấy ở chỗ đánh cá nơi rặng
mai trong làng, có hai người con gái lơa lồ từ trong nước biển ngoi lên, nắm áo họ
Tôn nói: “Bọn thiếp là người Quỳnh Nhai. Ông
đến chữa bệnh cho thằng Trương, sao ông cố
ư đoạt công của bọn thiếp?” Do đó, họ
lôi ông Tôn vào nước. Ông Tôn kinh hoảng tỉnh giấc,
mồ hôi tuôn đẫm lưng. Đến sáng, [ông Tôn] kể
với
Minh Tam, Minh Tam đấm ngực, than thở: “Nghiệp đă đến rồi, ta
đă tới số rồi”. Quả nhiên, hơn một
tháng, hắn bèn chết. Đấy chính là chuyện “hành đa ẩn tịch” (làm
nhiều chuyện ám muội) giữa nam và nữ, [dẫn
đến t́nh trạng] hứng chịu báo ứng lẫn
nhau vậy. Như Minh Tam và hai cô gái, thoạt đầu ngấm
ngầm chung chạ, lại cùng nhau ngầm trốn đi.
Rốt cuộc, hai cô gái chết bởi tay Minh Tam, mà Minh Tam
lại chết bởi vong linh hai cô. Có thể nói là báo ứng
tột bậc xảo diệu, chẳng sơ sót. Đại
để là gian dâm vợ và con gái [kẻ khác], gây tổn hại
cho công danh của kẻ khác, hai chuyện ấy thuộc về
hành vi ám muội nhiều nhất, tổn thương t́nh
người và lư trời nhiều nhất. V́ thế, kẻ
gian dâm vợ và con cái kẻ khác, vợ và con gái của chính
hắn sẽ bị người khác dâm loạn. Kẻ tổn
hại công danh của người khác, công danh của chính
hắn ắt sẽ bị người khác làm hại! Tục
ngữ có câu: “Ám thất khuy
tâm, thần mục như điện” (Làm chuyện thiếu lương tâm trong
pḥng tối, mắt thần thánh sáng ngời như chớp),
há chẳng nên răn dè ư?
(Chánh văn) Hối lạp ca
vũ, sóc đán hào nộ, đối Bắc thế thóa cập
nịch, đối táo ngâm vịnh cập khốc.
(正文)晦臘歌舞,朔旦號怒。對北涕唾及溺,對竈吟咏及哭。
(Chánh văn: Ca múa
vào cuối tháng, ngày lạp. Gào hét, giận dữ vào ngày
đầu tháng hoặc sáng sớm. Quay về hướng
Bắc hỉ mũi, khạc nhổ, và tiểu tiện. Đối trước bếp ḷ
ca hát, khóc lóc).
“Hối”
(晦) là nguyệt hối (月晦, ngày cuối tháng), chính là ngày Tư Mạng
Táo Quân tấu tŕnh công và lỗi của người đời.
“Lạp” (臘) là năm ngày lạp, chính là ngày Ngũ Khí Thiên Quân[40] tụ
họp để thẩm tra điều thiện lẽ ác
của chúng sanh. Trong những ngày ấy, các vị thiên quân tụ
về huyền đô[41], suất
lănh ba vạn sáu ngàn vị thần trong cơi âm và dương
trần thuộc nhân gian, địa phủ, ngũ nhạc
để so sánh, quyết định những chuyện thiện,
ác, tội, phước, vinh diệu, tài lộc, tuổi thọ,
cát, hung, sanh, tử v.v… của chúng sanh. Mỗi điều
đều được ghi chép vào trong sổ sách. Ngày mồng
Một tháng Giêng gọi Thiên Lạp,
mồng Năm tháng Năm là Địa Lạp (tiết
Đoan Ngọ), mồng Bảy tháng Bảy là Đạo
Đức Lạp, mồng Một
tháng Mười là Tuế Lạp (Dân Tuế Lạp), mồng
Tám tháng Chạp là Hầu Vương (Vương Hầu) Lạp. Phàm gặp những ngày ấy, vạn nhất
phạm lỗi, một khi bị ghi vào sổ đen, há có
thể chuộc tội ư? Huống chi Phong Đô Bắc
Đế[42],
Thái Âm Thiên Quân[43],
cũng vào những ngày ấy, dẫn dắt tổ tiên, cha
mẹ, quyến thuộc lâu đời của chúng sanh, cho
đến các quỷ hồn bị giam kín trong ngục, tra
hỏi họ đă ở trong âm ty thời gian bao lâu,
cũng như tra hỏi nguyên do dẫn đến tích
lũy tội lỗi, phần mộ đặt ở
nơi nào, con cháu tên họ là ǵ. Đă có tên họ của
con cháu, anh em, thân nhân, sui gia trong cửu tộc, [các vị thần
tiên] sẽ liền nhóm họp lại để giảo định,
dùng những điều ấy để định đoạt
tội trạng của chúng sanh. Nếu đă trải qua
nhiều kiếp mà con cháu chẳng hề cầu siêu, chuộc
tội, chắc chắn sẽ liên lụy đến thân
nhân c̣n sống trong nhân gian. Huống hồ trong những
ngày ấy, tiên linh quyến thuộc đều được
phóng thích, ai nấy trở về nhà ḿnh để thọ lănh [con cháu] cúng quải. Kẻ làm con cháu, hăy
nên nương cậy đạo pháp để cúng quải,
cầu siêu, cứu chuộc. Nếu mặc t́nh ca múa, sẽ
mắc tội với trời đất, tổ tông.
Như vậy th́ trong các ngày hối, ngày lạp, hăy nên truy
tiến (追薦, cúng bái, cầu siêu, tưởng niệm),
hay nên ca múa?
Ông Vu Ngọc Bệ nói: - “Hối” là ngày cuối của
một tháng. “Lạp” là tận
cùng của một năm. Trong những ngày ấy, mọi
người hăy nên so lường công đức, gắng
chí tấn tu. Do đó, tổ sư đă khuyên mọi
người như sau: “Nếu
chẳng chuẩn bị thấu triệt sẵn sàng, ngày Ba
Mươi tháng Chạp xảy đến, chắc chắn
sẽ là một hồi náo nhiệt” (Ư nói người mất tay chân luống cuống,
hoang mang; họ hàng quyến thuộc bàng hoàng, nháo nhào, càng
khiến cho vong linh mê loạn hơn).
Lại nói: - Hỡi các vị
ơi! Hăy thử kiểm điểm chính ḿnh, xét xem từ
trẻ đến già, từ sống đến chết,
[tâm ta] đă ḥa lẫn cùng trần lao nghiệp thức thành
một khối, biến thành một bầu hỗn loạn.
Rốt cuộc là kết quả như thế nào? Có ai quay
đầu suy nghĩ hay chăng? Bỗng dưng ba tấc
khí đứt đoạn, mắt nhắm tịt lại,
chỉ là một thần hồn vẩn vơ theo nghiệp
chịu báo! Há chẳng phải là sống uổng chết
phí ư?
Trong Cảnh Lăo Nghi Thức
(nghi thức cảnh tỉnh về tuổi già) của ngài
Vân Thê (Liên Tŕ đại sư), đối với mỗi
ngày cuối tháng, Ngài đă dạy đại chúng: “Mạng người vô thường,
ngắn ngủi trong hơi thở. Ví như cá bơi trong nồi,
khoảnh khắc bỗng bị nấu chín nhừ. Đèn ở
trước gió, sát-na tắt phụt. Huống hồ thân này
chẳng lâu dài, ắt đến cửa tử. Nẻo
đường phía trước mịt mờ, chẳng biết
về đâu? Há chẳng nên dũng mănh tỉnh ngộ vô
thường, dè dặt, kinh sợ, gắng sức buông xuống
muôn duyên, nhất tâm niệm Phật”. Tổ sư rát miệng
khuyên người như thế, há có nên làm chuyện ca múa
trong ngày cuối tháng ư?
Có một nhà giàu sụ ở
Hoài Âm, b́nh sanh giữ ḿnh cẩn thận, giao tiếp khiêm tốn,
nhu ḥa. Mỗi dịp mồng Một, ngày Rằm, ngày Lạp, đều đọc tụng phạm
kinh (kinh Phật), lễ bái thần kỳ, từ đầu
tới cuối chẳng bỏ sót. Khi ấy gặp đúng
ngày Thiên Lạp vào hôm Nguyên Đán (mồng Một Tết), có một đứa tiểu
nhân cậy men rượu để nhục mạ, người
nhà giàu đóng cửa, không màng tới. Người nhà và
hàng xóm chung quanh đều chẳng nhịn nổi. Phú ông
nói: “Đang trong lúc lễ Tết, có ai mà chẳng uống rượu. Say
sưa rồi phát cuồng là thói thường của con
người. Nếu so đo với kẻ ấy, lẽ
nào chẳng phải là thiếu độ lượng
ư?” Do một lời ấy, cảm động thần
kỳ. Đêm hôm ấy, ông nằm ngủ, mộng thấy
đến một chỗ, gặp một người đội
măo vàng, áo tía, bảo: “Trong ngày Thiên Lạp,
ngươi có thể nhẫn điều người khác
chẳng thể nhẫn. Thượng Đế khen ngợi,
ban cho ngươi phước thọ, con cháu của
ngươi đời đời có mũ áo (làm quan)”. Ông bỗng
bị người nhà đánh thức. Về sau, quả
nhiên hưởng thọ ngoài tám mươi, hai con trai và một
cháu đều do thi đậu Minh Kinh mà được bổ
làm quan. Đến nay, lớp chắt chút đều không ngớt
nổi danh học rộng, đỗ đạt. Đấy
chính là [phước báo đạt được] do biết
phản tỉnh bản
thân trong ngày Hối, ngày Lạp vậy. Những kẻ trong những ngày ấy
cuồng vọng kêu gào, ca múa, mặc sức rượu chè phóng đăng, đă mạo phạm
giới luật của cơi trời, ắt đă đánh mất cái tâm tu tỉnh,
thật sự đáng bị tiêu ma phước lộc, giảm
bớt tuổi thọ. Hăy nên răn dè!
Cơ sở để tính một
tháng là ngày mồng Một. Cơ sở để tính mỗi
ngày là buổi sáng. Nhằm lúc ấy đúng là lúc hăy nên lắng
đọng tâm tư, thanh tĩnh ḥng phù hợp với chân
lư trong thiên đạo. Nếu gào thét, tức giận,
trược khí sẽ từ gan bốc lên, chân khí sẽ
theo tiếng hét mà tan mất. Do vậy, tâm thần hôn ám, khí
ô trược, thiện niệm tiêu diệt. Có bài thơ cổ
như sau: “Nhất thiết
chư phiền năo, giai tùng bất nhẫn sanh. Lâm cơ như
đối kính. Diệu xử tại quang minh. Phật ngữ
cầu vô tránh. Nho thư quư bất tranh. Hảo điều
khoái hoạt lộ. Thế thượng thiểu nhân hành”
(Hết thảy các phiền năo, do chẳng nhẫn mà sanh, gặp
chuyện như soi kiếng, quang minh khéo ở yên. Phật
dạy đừng căi cọ, sách Nho trọng đừng
tranh, một nẻo đường vui sướng, cơi
đời ít kẻ theo). Kinh Phật dạy: “Sân là căn bản khiến cho
các pháp lành bị mất đi, là nhân duyên khiến đọa
vào các ác đạo”. Trong khi tức khí, đừng để cho cơn giận tăng trưởng; bởi
lẽ, gào thét, tức giận đă
tạo phiền lụy quá đỗi cho con người,
trong ngày thường vẫn phải nên cẩn thận, huống
hồ là ngày mồng Một hay sáng sớm ư?
Vợ của Trần Anh là
Triệu Thị tánh hung tợn, thích tranh chấp, gặp
ngày mồng Một, mụ ta càng quá quắt hơn nữa.
Những ai lui tới nhà ấy, chỉ nghe tiếng gào thét,
giận dữ chửi bớt không ngớt. Bỗng có một
đạo nhân t́m tới. Mụ ta hỏi: “Ngươi tới
làm chi vậy?” Đáp: “Bán linh đan. Uống vào sẽ trường
sanh”. Mụ ta thích lắm, mua rồi nuốt ngay, [thế
là] câm luôn!
Đời Hán, mẹ của
quan Tư Không Đệ Ngũ Luân do già cả không thể
theo ông đến nhiệm sở làm quan. Mỗi dịp cuối
tháng, ngày Lạp, mồng Một, ngày Rằm, ông Luân thường buồn nhớ, tuôn lệ, lạy trời
cầu thọ cho mẹ. Ôi! Bậc quân tử thuở
xưa cảm khái trước thời tiết, tưởng
nhớ mẹ dường ấy. Những kẻ ca múa, gào
thét, giận dữ, cũng chẳng biết họ nghĩ
ǵ? Huống chi, trong phần trước đă nói hết sức
tường tận về chuyện tưởng nhớ,
cúng bái, siêu độ tổ tiên, há chẳng tỉnh ngộ
đôi chút ư?
Phương Bắc là chỗ
ngự của Bắc Đẩu Tinh Quân. Bắc Cực là chỗ
then chốt của cơi trời. Vạn linh, các vị thiên
chân (thần tiên) trong tam giới mười phương
đều thuộc quyền quản hạt của Ngài. Do
vậy, Trung Thiên Đẩu Cực được xưng
là Chí Tôn. Thế th́ chỗ cư ngụ của đấng
tôn quư há có nên xúc phạm, ô uế ư? Xét theo lễ, con
trai, con dâu chẳng được khạc, nhổ, phun
nước miếng bên cạnh cha, mẹ, bố mẹ chồng,
[v́ làm như
vậy] là bất kính; huống hồ đối với phương Bắc
là chỗ cư trụ của thần ư! Hỉ mũi,
khạc nhổ c̣n chẳng được, há có thể tiểu
tiện ư?
Ở đất Ngô có kẻ
ban đêm thức dậy, trần truồng, hướng về
phương Bắc tiểu tiện. Bỗng thấy cờ
đen rợp trời, đức Chân Vũ hiện thân, [kẻ
ấy hoảng hốt] ḅ vào cửa, nằm bệnh suốt
mấy tháng; sám hối mới lành bệnh. Kinh Trường Sanh nói: “Mùa Xuân ở phương Đông, mùa Hạ tại
phương Nam, mùa Thu tại phương Tây, mùa Đông tại
phương Bắc. [Đối với] những
phương hướng như sách Nguyệt Lệnh đă
chỉ ra [mà xúc phạm, ô uế], sẽ đều là phạm
tới chuôi sao Bắc Đẩu, sẽ bị giảm thọ
nhanh chóng nhất”. Nh́n từ chỗ này, các phương
vị đều có răn cấm, không chỉ là
phương vị Chánh Bắc!
Họ Tiền ở Thường
Thục là một họ lớn. Trong niên hiệu Chánh Đức
(thời Minh Vũ Tông), bị hỏa hoạn lớn, ba
ngày mới tắt. Trong đám tro tàn, chỉ riêng ba gian tiểu
lâu c̣n nguyên. Đấy chính là nhà của Tiền Tiểu Tứ.
Mẹ chồng và con dâu là hai bà góa, cùng ở trên đó. Gặp
lúc lửa hừng
hực thiêu đốt bốn
phía, hai người quẫn bách, không có cách nào trốn thoát được, do thường ngày thờ
phụng Bắc Đẩu, họ chỉ biết khấu
đầu cầu cứu. Bỗng dưng thấy bảy
người mặc áo đỏ, đứng dưới mái hiên, vung tay áo xua lửa, lửa theo tay
họ tản ra. Do vậy, mẹ chồng và con dâu không sao,
nhưng bốn phía chẳng c̣n sót lại một cái rùi kèo
nhà nào. [Do chuyện này] cả một vùng được cảm hóa, đều
thờ phụng Bắc Đẩu. Phàm những ai tôn sùng Bắc
Đẩu đều được kéo dài tuổi thọ,
trừ bệnh, mạng vận b́nh yên, thoát tai nạn, được
hưởng phước, gịng dơi tiếp nối dài lâu. Nước,
lửa, trộm cướp, yêu, ma, quỷ quái, ôn dịch,
các thứ ấy đều chẳng xâm hại, [những
điều lợi ích] chẳng thể gập ngón tay để
tính đếm trọn hết. Ở đây, chỉ nêu một
trường hợp để suy ra những điều
c̣n lại. Điều trọng yếu là làm lành th́ mới
có thể cảm ứng cơi trời. Người có thể biết như thế, há có chuyện hướng
về phương Bắc mà khạc, nhổ, tiểu tiện
ư?
Hoàng Đế Táo Kinh chép: “Không được đối
trước cửa ḷ mà ca hát, ngâm vịnh, khóc lóc, chửi
rủa, quát tháo. Phàm ngâm vịnh và khóc lóc, tuy buồn vui khác
nhau, nhưng đều là khinh mạn thần, ắt bị
giảm lộc, giảm thọ”. Vả nữa, người
thời nay ở trước mặt quan phủ, c̣n chẳng
dám lớn tiếng nói bừa, sao lại riêng đối với
thần bèn chẳng kiêng dè vậy thay? Bọn ngu phu ngu phụ
hăy nên hết sức răn dè, c̣n như do kính trọng mà
được phước, do khinh nhờn mà mắc họa
th́ trong phần trước đă nói rơ ràng rồi!
(Chánh văn) Hựu dĩ táo hỏa
thiêu hương, uế sài tác thực, dạ khởi lơa lộ,
bát tiết hành h́nh.
(正文)又以灶火燒香。穢柴作食。夜起裸露。八節行刑。
(Chánh văn: Lại
c̣n dùng lửa từ bếp ḷ để châm hương. Nấu
thức ăn bằng củi dơ. Ban đêm thức dậy,
thân thể lơa lồ. Hành h́nh nhằm tám ngày Tiết).
Theo Thiên Sư Môn Hạ Khoa Lệnh,
lửa vùi dưới tro nơi đáy bếp ḷ được
gọi là Phục Long Thỉ (伏龍屎, phân của rồng nằm ẩn); do vậy,
chẳng thể dùng để thắp hương. Tôi từng
trộm đọc giáo điển, [biết] những
điều kiêng kỵ trong nhang đèn lại không chỉ
là một chuyện này. Như chẳng thể dùng giấy bổi xoắn lại thấm
cặn dầu để [làm mồi lửa] đốt giấy
[tiền vàng bạc]. [Giấy tiền vàng bạc đốt
kiểu đó] gọi là “uổng
tích lạp tiền” (tiền sáp bị chất chứa
oan uổng). Tại Đông Nhạc, [loại tiền vô dụng
ấy] chất chứa như núi, các ty sở âm
dương trong trời đất đều chẳng tiếp
nhận. Lại như cúng dường Chân Vũ (Huyền Thiên Đại
Đế, Huyền Vũ Đại Đế), vào tháng mùa Hạ không thể dùng quả mận,
tháng mùa Đông chẳng thể dùng thạch lựu. Thỉnh
cầu bậc thượng chân (chân tiên) giáng hạ, không thể đốt nhũ đầu
hương[44].
Đàn hương được gọi là dục
hương (浴香, hương để tắm), hoa nguyệt
quư[45]
được gọi là Bất Thời Hoa (hoa chẳng
đúng thời), hoa kim đồng (金桐) được gọi là Quỷ Hoa. Những
thứ ấy đều nên tránh dùng. So với chuyện chẳng
tránh né để rồi tự mạo phạm [mà chuốc
lấy tội lỗi], sao bằng tuân theo, kính trọng giáo
pháp ấy?
Chư Kinh Yếu Tập[46] nói: -
Do Sự mà ngộ Lư, ắt phải nhờ vào tướng để
dẫn đến lẽ chân thật. Chiêm ngưỡng
thánh dung, cậy vào hương, hoa để cúng dường,
phụng tŕ. Đức Phật dạy: “Sau khi Như Lai diệt độ, nếu lại có
người dùng một đóa hoa, một nén hương
để cúng dường, lấy một vốc nước,
trừ bỏ những thứ bất tịnh, nhấc chân
một bước, đến trước chư Phật,
xưng nam-mô Phật một tiếng, nếu người ấy
đọa trong ba ác đạo th́ chẳng thể có chuyện
ấy”. Tịnh Danh Sớ chép: “Hương là danh xưng ĺa uế, có tác dụng thơm
ngát lan tỏa”. Cảm Thông
Truyện[47]
chép: “Mùi hôi thối trong nhân gian, xông lên hư không bốn mươi
vạn dặm. Chư thiên thanh tịnh, không vị nào chẳng
chán ghét, nhưng do tiếp nhận lời phó chúc của
đức Phật mà hộ tŕ Phật pháp. Đức Phật
c̣n ở chung với con người, chư thiên chẳng
dám không đến. V́ thế, trong Phật pháp, dùng
hương làm Phật sự, đáng gọi là bậc nhất”.
Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Trong Thiện
Pháp Thiên, có loại hương tên là Tịnh Trang Nghiêm. Nếu
đốt một hoàn để xông, sẽ khiến cho khắp các chư thiên đều dốc ḷng niệm Phật”. Như vậy th́ dùng lửa bếp để thắp
hương chẳng đáng kiêng tránh ư?
Đời Tống, Châu Khai
Sơn tụng kinh Hoa Nghiêm; lại có một vị Tăng
có thể tụng Kim Cang. Hai người chết đột
ngột cùng một
lúc. Vua cơi âm mời Khai
Sơn tụng kinh, hết sức lễ kính. Lại mời
vị Tăng tụng kinh Kim Cang, tâm chẳng hết sức
cung kính. Tụng xong, vua nói: “Do công đức
tụng kinh, hai vị Tăng đều được tăng thọ
hai mươi bốn năm. Vị tŕ kinh Hoa Nghiêm, càng hết
sức đáng nên kính trọng, mai sau sẽ chẳng đến
chỗ ta!” Khi ấy, vị Tăng tụng kinh Kim Cang tâm hết sức hổ
thẹn. Do vậy, hỏi chỗ ở của Khai Sơn,
nguyện sẽ đến bái phỏng. Tỉnh lại, vị
Tăng liền đến Lộ Châu, t́m đến thăm
Khai Sơn. Hỏi nguyên do, Khai Sơn đáp: “Mỗi lần
tụng kinh, ắt y phục tinh khiết, dùng nước
thơm rửa dọn tịnh thất. Sau đó, lấy lửa
xẹt từ đá [lửa], hoặc lửa do dùi gỗ mà có để
đốt hương, tâm nghiêm túc chú nguyện, mở miệng [tụng niệm
với thái độ cung kính] giống hệt như đối
trước Phật, chưa hề dám biếng nhác, ơ hờ!
Nếu chẳng có loại lửa thanh tịnh ấy, quyết
chẳng dám khinh thị dùng loại lửa khác để thắp
hương”. Vị Tăng tụng kinh Kim Cang cảm tạ, nói: “Tôi có
tội. Mỗi lần tôi tụng kinh, liền dùng lửa bếp
để thiêu hương. Do chuyện này, tôi đă bất
kính nhiều lắm”. Bởi lẽ, thắp hương nhằm
biểu lộ tâm cung kính, ắt phải thanh khiết, ắt phải thanh tịnh th́ mới có thể thiêu
hương. Vạn nhất bếp ḷ đốt củi
dơ bẩn, dùng lửa ấy để đốt
hương, tức là cái tâm kính trọng ngược ngạo
biến thành khinh nhờn; v́ vậy, đức Thái Thượng
răn dạy.
Củi tuy đốt dưới
đáy nồi hay vạc [để nấu thức ăn],
nhưng hơi khói thật sự bốc lên, huân ướp
[thức ăn]. Củi bẩn bất tịnh, có mùi hôi bẩn,
đáng chán ghét, xúc phạm ông Táo. Đó là một điều
chớ nên. Đă dùng [củi bẩn] để nấu thức
ăn, chẳng tránh khỏi dùng những món ấy để
cúng tế; đó là hai điều chớ nên. Hơi khói xông
lên tận hư không, dễ khiến cho thần thánh tức
giận; đó là ba điều chớ nên. Người nấu
thức ăn phải nên hết sức kiêng tránh!
Năm Chánh Ḥa thứ bảy
(1117) nhà Tống, Lư Bát bị bệnh cùi đă ba năm, trăm
loại thuốc chẳng chữa lành. Thoạt đầu,
chàng Lư chưa bị bệnh, đă tụng kinh Đại
Bi Quán Thế Âm Bồ Tát đủ ba tạng[48]. Một
hôm, bỗng có một vị Tăng đến, cho một
hoàn thuốc bảo uống. Họ Lư chần chừ giữ
lại, chẳng chịu uống ngay. Đêm ấy, mộng
thấy vị Tăng đă cho thuốc bảo: “Ta chính là
Quán Thế Âm. Do ngươi thường ngày dùng củi bẩn
để nấu ăn, xúc phạm quỷ thần. V́ thế,
mắc chứng bịnh phong này. Lại do ngươi từng
tụng kinh đến ba tạng, đặc biệt ban cho
ngươi một viên thuốc cứu khổ. Sao
ngươi không uống?” Chàng Lư đă tỉnh giấc, liền
lấy thuốc uống. Sau bảy ngày, da nơi toàn thân
tróc hết, râu và tóc mọc lại. Củi bẩn xúc phạm
thần thánh, cố nhiên đáng nên kiêng tránh. C̣n như [sử
dụng] thân hoặc cành cây đào, cây liễu để làm
củi thổi nấu th́ cũng xúc phạm đến Táo
Quân. [Đối với] những điều cấm kỵ
trong kinh Đạo giáo, cũng phải nên biết.
Bậc chánh nhân quân tử, ở
chỗ sáng th́ sợ người, ở chỗ tối
tăm th́ sợ thần. V́ thế, dẫu ở trong nhà tối,
hoặc chỗ kín đáo không ai thấy, nghiễm nhiên
như đối trước thần minh. Hơn nữa,
thần minh ngự tại chỗ tối tăm, kín đáo, vốn chẳng có chỗ nào không đến, mà đêm thuộc
về âm, lại là lúc chư thần tụ hội xét soi,
há nên không cẩn thận để rồi tự chuốc
lấy tội lỗi hung họa ư?
Ở Bành Thành có một cô gái
con quan, lấy chồng chưa đầy một tháng, vô
duyên vô cớ phát cuồng, trần truồng chạy cuồng lên, trọn chẳng biết hổ thẹn.
Thuốc men, cầu khấn đều chẳng thể chữa
lành. Khéo sao, Trương Chân Nhân[49] trở về kinh đô, chủ nhân dâng thư thưa tŕnh.
Chân Nhân sai đệ tử dùng bùa để trị. Người
ấy [vừa tác pháp liền] lảo đảo
lùi bước, c̣n cô gái cứ cuồng dại lơa lồ
như không! Chân Nhân bèn tự đến làm pháp, triệu thỉnh
thần tướng hiện h́nh trong đàn. Huyền Đế
(Huyền Thiên Thượng Đế) vừa giáng hạ,
cô gái ấy mới thay đổi nét mặt nói: “Ả
đàn bà thường dân này nửa đêm trần truồng,
phạm đến thần tướng của ta, đáng bị
giết chết, c̣n làm phiền bậc thượng chân ngự
tới, nên đă tha cho nó”. Cô ta nói xong, đột ngột
ngă nhào xuống đất, bèn lành bệnh.
Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ,
Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí là
tám tiết. Trong những ngày ấy, chư thiên, các vị
thần tiên, chân tiên chia nhau hóa độ trọn khắp, dạy
bảo, cứu độ quần sanh, ghi chép rành rẽ từng
điều tội phước. Mọi người hăy nên
thanh tịnh, ḥa b́nh, giữ ḷng phản tỉnh, xem xét
[chính ḿnh ḥng] tăng thêm điều lành, trừ bỏ điều
ác, noi theo đường chánh, từ bỏ lẽ tà, ngơ hầu
ứng hợp với tấm ḷng khai thị, độ
thoát của đức Thái Thượng và các vị chân
tiên. Kẻ hành h́nh sao không kiêng dè mà dám làm như thế ư? Tổn thương ḥa khí trong trời đất,
tổn phước của chính ḿnh và gia đ́nh không ǵ quá đáng
hơn nữa! Chớ nên không kiêng tránh!
Năm Vũ Đức thứ
ba (620), Đường Cao Tổ xuống chiếu [quy
định]: “Trong các tháng Giêng,
tháng Năm, tháng Chín và trong mười ngày trai, không
được hành h́nh”. Lại nữa, theo quy định
chung của triều đại trước, vào ngày mồng
Một mỗi tháng, cấm hành h́nh [tội nhân], giết mổ
[súc vật]. Trong mỗi ngày tiết, th́ giảm bớt h́nh
phạt. Đấy cũng là một điều thuộc về
ḷng nhân của hoàng đế vậy. Nay những kẻ cai
trị dân có từng thấu hiểu [tấm ḷng ấy] hay
chăng?
Đời Đường,
Đậu Quỹ là anh họ của Thái Mục Hoàng Hậu[50], làm
Đô Đốc tại Lạc Châu, tánh t́nh cứng cỏi,
nghiêm khắc, ưa giết chóc, đă hành h́nh nhiều nho
sĩ và thường dân. Hễ gặp những vụ án
đă phán quyết [tử h́nh], dẫu gặp tháng [triều
đ́nh hạ lệnh] thâu nhặt chôn cất tử thi, hoặc
lúc [vua xuống
chiếu] giảm nhẹ tù đày,
bỏ gông cùm (giảm án), ông ta đều chẳng ngưng hay giảm bớt sự
hành h́nh. Ông ta c̣n hại chết Thượng Thư Vi Vân Khởi.
Năm Trinh Quán thứ hai (628), ông ta bị bệnh nguy ngập,
bỗng tự nói có người cho ông ta ăn dưa. Kẻ
hầu chung quanh thưa “chẳng có”. Đậu Quỹ nói:
“Một mâm dưa ngon, sao lại bảo chẳng có?” Chốc
lát, ông ta kinh hăi nh́n cḥng chọc, kêu lên: “Chẳng phải là
dưa, toàn là đầu người, đến đ̣i mạng
ta”. Lại kêu: “Mau đỡ ta dậy để gặp Vi
Thượng Thư”. Nói xong, chết ngắc. Hành h́nh trong
tám ngày tiết, không chỉ là nói về chuyện giết
chóc, dẫu là đánh đập cũng chớ nên! Khoan từ
nhân hậu hay tàn nhẫn chỉ cậy vào một niệm
chuyển dời, [kết quả là] tai biến hay cát tường
khác biệt vời vợi một trời một vực. Kẻ
làm quan hay người chủ tŕ gia đ́nh đều phải
nên kiêng dè cẩn thận!
(Chánh văn) Thóa lưu tinh, chỉ
hồng nghê, triếp chỉ tam quang, cửu thị nhật
nguyệt.
(正文)唾流星。指虹霓。輒指三光。久視日月。
(Chánh văn: Hướng
về sao băng khạc nhổ, chỉ trỏ cầu vồng,
bộp chộp chỉ trỏ tam quang, nh́n mặt trời,
mặt trăng thật lâu).
Tinh tú ở trên trời xoay
chuyển qua các cung [hoàng đạo], liên quan ǵ đến
con người mà khạc nhổ để làm ǵ? Có kẻ
ngu c̣n xằng bậy nói [tinh tú vận chuyển] là yêu quái,
[hướng về chúng] phun nước bọt [nhằm biểu
lộ] sự hết sức chán ghét! Những lời lẽ
ấy đúng là xuất phát từ những lời bịa
đặt vô căn cứ. Nếu dân chúng thất đức,
trời ắt hiện bày sự chuyển biến. Sao chổi
bay xẹt quả thật là do chính ḿnh chuốc vời, chính ḿnh hăy nên kinh sợ, tu tỉnh, tạo
lập đức hạnh để giải trừ tai nạn; há có nên phỉ nhổ [tinh tú] hay chăng? Do
Tống Cảnh Công nói ba câu tốt lành mà tai tinh Huỳnh Hoặc[51] lui mất.
Sự cảm ứng do tu đức vằng vặc chẳng
dối vậy!
Trắng lẫn đỏ là
Hồng (虹, cầu
vồng), trắng lẫn xanh là Nghê (霓)[52].
Đấy chính là khí âm và dương giao tiếp. Kinh
Thi nói: “Đế Đông tại
Đông, mạc chi cảm chỉ” (Cầu vồng mọc ở phương
Đông, không ai dám chỉ trỏ). Sách Xuân Thu Vận Đẩu
Xu[53] chép: “Tinh tú tản mát là Hồng. Hăy
nên biết cầu vồng thật sự là khí thừa của
sao Bắc Đẩu được biểu hiện rất
rơ rệt bằng h́nh sắc”. V́ thế, xưa kia Khổng
Tử biên soạn xong kinh Xuân Thu và Hiếu Kinh, bèn tấu
tŕnh Bắc Đẩu. Ngay khi ấy, có cầu vồng màu
đỏ giáng hạ và hoàng ngọc khắc văn[54]. Ai nói
cầu vồng chẳng phải là khí thừa của sao Bắc
Đẩu? Nếu chỉ trỏ, làm sao vô tội cho
được?
Mặt trời, mặt
trăng, và tinh tú là “tam quang”,
c̣n gọi là “tam thần” (三辰). [Tam quang] được phân bố trên bầu
trời nhằm chiếu soi thiên hạ, ḥng nêu dạy pháp tắc.
Đức Thái Thượng nói: “Nếu
thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, Bắc
Đẩu, Nam Đẩu, ắt trịnh trọng dập
đầu, cầu xin che chở, ắt sẽ được
dung thứ tội khiên. Chớ nên khinh mạn, kẻo chuốc
lấy ương lụy”. Trong Đạo Tạng (Đại Tạng Kinh
của Đạo giáo), dạy mọi người hiến tế mặt
trời, mặt trăng. Ngày mồng Một tháng Hai mỗi
năm chính là ngày tế mặt trời; ngày Rằm tháng Tám,
tế mặt trăng. Hăy nên sắm sửa hương,
hoa, cỗ chay, lễ bái, cầu đảo để báo
ân, [làm như vậy] sẽ khiến cho con người
tăng phước, kéo dài tuổi thọ. Như vậy
th́ có nên bộp chộp chỉ trỏ mặt trời, mặt
trăng, tinh tú, có nên tùy tiện nh́n lâu hay chăng?
Châu Hồng nói trong huyện
của ông ta, nhằm lúc mọi người đang cùng nhau
chè chén, thấy trên bầu trời, ŕa ngoài mặt trời có ánh sáng lạ, mọi
người cùng chỉ trỏ. Bỗng gió mưa sầm sập
tràn tới, [từ trên trời] giáng xuống một vật
giống như con khỉ, hai mắt sáng ngời. Mọi
người kinh sợ, nằm mọp dưới đất,
khoảnh khắc nó biến mất. Tai mọi người
lấp đầy bùn, ai nấy đều thành bệnh hoảng
sợ.
Đời Tống, Thái Kinh
có thể nh́n mặt trời khá lâu mà chẳng hoa mắt. Có
người nói đó là điềm quư hiển, nhưng ỷ
vào thị lực dám chống lại thái dương, người
thông hiểu
liền biết hắn ta chẳng có ḷng nghĩ đến vua. Rốt cuộc,
hắn chuyên quyền, khiến cho đất nước lầm
than. Hắn bị biếm trích mà chết.
Đời Nguyên, Tôn Cẩn
tang cha, hết sức đau buồn. Trời mùa Đông rét
buốt, ông đi chân trần. Quan tài c̣n quàn đó chưa
chôn, ông chẳng tháo đai áo. Ông đưa quan tài qua sông, trời
đất tối mù, Tôn Cẩn kiền thành cầu đảo tam quang, [tức
thời] gió yên, sóng lặng, lại trông thấy mặt trời.
Ông phụng sự mẹ kế là Đường Thị rất
có hiếu. Mẹ kế từng bị ung nhọt, Tôn Cẩn
đích thân hút mủ. Mẹ lại bị mù, Tôn Cẩn cầu
khẩn tam quang, liếm
[mí mắt], mắt mẹ được sáng lại. Đường Thị mất
đă mười ngày, sắp sửa an táng; khi ấy, nhằm đúng tiết Xuân, khổ
sở v́ mưa dầm dề. Tôn Cẩn ban đêm khóc lóc,
trời bèn tạnh mưa, mây quang đăng, mặt trời
chiếu sáng. Đưa tới huyệt, [đă là lúc] đêm
tối không có ánh sáng, Tôn Cẩn lại buồn bă gào khóc,
ánh sao sáng ngời, mặt trăng chẳng nhằm ngày
trăng tṛn mà bỗng chiếu sáng ngời như ban ngày.
Nh́n từ chuyện này, [ta thấy] tam quang ở trên cao, không chỉ là có ân chiếu
soi, mà c̣n có thể ứng theo lời mong cầu, há có nên coi
thường chỉ trỏ để rồi tự phạm
lấy oan khiên, tai họa nặng nề ư?
(Chánh văn) Xuân nguyệt liệu
liệp, đối Bắc ác mạ, vô cố sát quy, đả xà.
(正文)春月燎獵。對北惡罵。無故殺龜打蛇。
(Chánh văn: Trong các tháng mùa Xuân,
đốt rừng để săn bắn. Hướng về
phương Bắc chửi rủa độc địa.
Vô duyên vô cớ, đánh giết rắn rùa).
Đốt rừng để
săn bắn th́ gọi là “liệu
liệp” (燎獵). Đối với chuyện bắn chim, đuổi
thú, đức Thái Thượng đă có lời răn rơ
ràng. Huống hồ do đốt rừng săn bắn mà
giết chóc chẳng cùng tận! Nhưng dùng “xuân nguyệt” (các tháng trong mùa
Xuân) để nói, v́ đấy là lúc tăng trưởng,
sanh nở [của muôn vật], nếu làm chuyện
này (săn bắn, đốt rừng), trên là trái nghịch
sự vận hành của trời, dưới là giết chóc
sanh mạng loài vật, càng là bất nhân quá đỗi! Chẳng
phải là trong những tháng khác th́ không cần phải kiêng tránh đâu nhé!
Đời Đường,
Lưu Ma Nhi một hôm và
con trai cùng chết. Hàng xóm có người họ Kỳ, bị
bệnh chết đi rồi sống lại. Do vậy, ông
ta kể chính ḿnh đă tới cơi âm, thấy cha con Ma Nhi
đang ở trong vạc sôi sùng sục, da thịt đều
ră hết, chỉ thấy xương trắng. Hồi lâu
sau, khôi phục thân h́nh. Đă khôi phục [rồi lại bị
nấu] chín ră. Một hồi lâu sau lại khôi phục, [lại
bị nấu nhừ], chẳng có lúc nào ngừng. Diêm
Vương phán: “Gă này chuyên thích phóng hỏa để
săn bắn, cho nên hứng chịu quả báo này”. Chúng
sanh đều có Phật Tánh, há có nên coi thường mà sát
hại. Săn bắn đă là chớ nên, huống hồ c̣n
thiêu đốt [núi rừng] ư! Vạn vật đều
bị cháy khô, các loài sâu đang ngủ vùi đều cháy rụi.
Nỗi hại ấy chẳng nỡ ḷng nói nữa! Thiên
Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Kư đă chép những cấm
đoán liên quan đến thời tiết và thời vụ
rất tường tận; c̣n đức Thái Thượng
lại răn cấm thêm, v́ chuyện này liên quan đến
sanh mạng. V́ thế, Ngài không chỉ dăm ba lượt
ngăn cấm, giảng giải vậy!
Phun nước miếng, hỉ
mũi là chuyện nhỏ nhặt, hướng về
phương Bắc mà làm th́ c̣n là tội lỗi, huống hồ chửi
bới hung tợn ư? Kẻ ngu bị cái tâm phẫn nộ
sai khiến, chẳng màng cố kỵ, chẳng nghĩ: Ta
giận bèn muốn xả giận, thần giận th́ sẽ
như thế nào?
Khẩu nghiệp của
người đời có bốn thứ, chửi rủa
độc địa là nghiệp nặng nhất. Kinh dạy:
“Phàm phu do tam độc hừng
hực, lửa giận thường bùng cháy, gặp cảnh
bèn sanh ḷng sân, gặp duyên gây chướng. V́ thế, thốt
lời giận dữ, buột miệng phun ra, [lửa giận]
thiêu đốt cái tâm, tổn hại người trước
mặt ta, [khiến họ] đau đớn như dao cắt,
phần nhiều bị tổn thương, khổ năo vô
lượng. Giả sử chúng sanh tuy thân chẳng có tội
lỗi, nhưng do không cẩn thận mà tạo khẩu
nghiệp th́ cũng đọa trong ác đạo”.
Một người đàn bà
ở Tân An tánh t́nh hung tợn, không có con, ghen ghét đứa
con do người thiếp sanh ra. Mỗi lúc hoàng hôn đều
hướng về phía Bắc nguyền rủa, chửi bới
độc địa. Một hôm, mụ ta lại hướng
về đó rủa xả, bỗng thấy một ngôi sao rơi
xuống đất, h́nh thể to như cái đấu, tiếng
rền vang như sấm. Mụ ta kinh hăi thành bệnh, bụng
dần dần to phè như mang thai. Đến lúc sanh nở,
bảy ngày chẳng sanh nổi. Thật ra, trong bụng chẳng
có ǵ hết! Sám hối mới lành bệnh. Thần minh hiển
hách, không đâu chẳng tồn tại, [Cảm Ứng Thiên]
chỉ riêng nêu lên phương Bắc nhằm nhấn mạnh
chỗ trọng yếu nhất. Vậy th́ mọi người
có nên chẳng nghĩ quỷ thần đông đảo, dày
đặc [ở quanh ta] ḥng kinh sợ, tu tỉnh ư?
Ứng Thế Chân Nhân nói: - Chớ
nên giết sanh mạng của hết thảy muôn vật,
mà âm tinh của rắn và rùa lại thuộc về ngôi sao Chân Vũ ở phương Bắc, càng chẳng thể giết. Vô cớ giết
hại, ắt chuốc lấy báo ứng thê thảm. Do vậy,
người có ḷng nhân thường lập cách cứu giúp,
che chở.
Một thôn dân ở Nhạc
Châu tát ao bắt cá. Do bắt được rất nhiều
rùa, bèn mổ rùa làm thịt, chở yếm rùa sang bán ở
Giang Lăng, được lời to. Đến khi trở
về, khắp thân bị ghẻ lở, đau đớn
kêu gào. Người khác chẳng nỡ ḷng nghe tiếng! Ắt
phải đổ nước vào một cái bồn lớn,
[ngâm kẻ ấy vào đó], người khác dùng tay xoa nắn
mới hơi êm được. Về sau, da tróc ḷi
xương, biến thành h́nh rùa, nứt nẻ mà chết.
Bên cạnh nhà một phú ông
có một cái cây khô. Ông ta sắp chặt bỏ, mộng thấy
một người dắt nhiều người đến
cầu xin hăy thong thả, chờ cho họ dọn đi xong
rồi hăy tùy ư chặt. Ông tỉnh giấc, sai người
trèo lên cây xem, thấy trong bộng cây có rắn cuộn tṛn
vô số. Ông liền sai nổi lửa đốt rụi.
Chẳng lâu sau, nhà ấy vào nửa đêm bỗng thấy
lửa bay vào nhà; hễ thức dậy chữa lửa, bèn
chẳng có động tĩnh ǵ. Nhiều lượt
như thế, [người nhà ấy] chẳng thấy lạ
nữa. Một tối, có đứa tớ gái làm rớt một
đốm lửa vào đống củi, lửa cháy lan ra
cánh đồng. Nhà ấy cứ tưởng lửa sẽ
tự tắt như cũ, đều ngủ ngon lành, chẳng
trở dậy. Do vậy, [tới khi lửa cháy bừng bừng],
muốn trốn tránh nhưng chẳng kịp, cả nhà
đều chết sạch.
Cha của ông Lưu Ngạn
Hồi làm Thứ Sử ở Hồ Châu. Có người từ
Bạch Ngân Hàng (thuộc Toại Huyện, tỉnh Giang Tây)
đến biếu một con rùa to, bảo: “Ăn con rùa
này, có thể sống một ngàn năm”. Cha Ngạn Hồi
liền ngầm thả nó về chỗ cũ. Cha mất,
Ngạn Hồi làm Tư Sĩ[55] ở
Pḥng Châu, bỗng nước lũ từ trên núi tràn về,
đất bằng ngập dưới mấy thước
nước, cả nhà không có đường nào né tránh. Bỗng
có một con rùa lớn dẫn đường, họ đều
tới được chỗ cạn, thoát khỏi tai nạn
ấy. Đến đêm, Ngạn Hồi mộng thấy một
người áo trắng nói: “Tôi là con rùa được cha
ông thả lại Bạch Ngân Hàng; v́ thế, đến báo
đáp”.
Đời Đường,
Tôn Chân Nhân (Tôn Tư Mạo) đi đường núi, thấy
thôn dân đang đập một con rắn xanh, ông bèn mua lại,
đem thả. Chẳng lâu sau, một thiếu niên đón
Chân Nhân tới một vương cung. Có một người mặc áo đỏ bước ra, thưa: “Trước kia, đứa con út gặp nạn,
may được tiên sinh cứu giúp. V́ thế, tôi sai đứa con cả
đón ngài đến đây, ḥng biểu lộ phần nào
tấm ḷng cảm tạ”. Người ấy dẫn ông Tôn
vào trong thâm cung. Một phi tần dẫn một đứa
bé áo xanh ra lạy chào, cảm ơn nhiều lần. Họ
mời ông ở chơi ba ngày, các món ăn ngon quư, [dâng biếu]
các món lụa là, châu ngọc chẳng thiếu thứ ǵ.
Chân Nhân đều khước từ chẳng nhận, chỉ
đem về ba mươi toa thuốc tiên do Thượng
Đế ban tặng cho long cung, [nhờ những toa thuốc ấy]
mà cứu sống vô số người. Sách Thiên Kim Phương hiện thời
chính là do có được ba mươi toa thuốc ấy
[mà Tôn Tư Mạo nghiên cứu, biên soạn ra các bài thuốc
mới].
(Chánh văn) Như thị đẳng
tội, Tư Mạng tùy kỳ khinh trọng, đoạt kỳ
kỷ toán, toán tận tắc tử, tử hữu dư
trách, năi ương cập tử tôn.
(正文)如是等罪。司命隨其輕重。奪其紀算。算盡則死。死有餘責。乃殃及子孫。
(Chánh văn: Đối
với các tội như thế, thần Tư Mạng tùy
theo tội nặng hay nhẹ mà trừ bớt tuổi thọ
của người gây tội. Tuổi thọ đă hết,
sẽ phải chết. Đă chết mà c̣n chưa hết nợ
th́ con cháu phải gánh tai ương).
Câu “như thị đẳng tội” (những tội
như thế) nhằm tổng kết đoạn văn
trước đó. “Tội”
chính là những chuyện đă nêu ngay sau câu “phi nghĩa nhi động” (làm chuyện trái nghịch
đạo nghĩa). Từ chữ “Tư Mạng” trở đi nhằm nêu rơ chuyện
tùy theo nghiệp mà chịu báo. Kinh dạy: “Nghiệp tùng tâm khởi, tâm vi nghiệp dụng, nghiệp
dẫn tâm nhi thọ h́nh. Tâm tùy nghiệp nhi hiện cảnh,
như ảnh tùy h́nh, nhi khúc trực du phân, do hưởng ứng
thanh, nhi đại tiểu các dị, hào ly bất sảng,
báo ứng vô sai” (Nghiệp bắt nguồn từ tâm, tâm lại
do nghiệp [tác động] mà dấy lên tác dụng, nghiệp dẫn dắt
cái tâm đi đầu thai, nhận
lấy h́nh thể. Tâm thuận theo nghiệp mà hiện ra cảnh,
như bóng theo h́nh, nhưng đúng sai khác biệt, ví như
tiếng vọng thuận theo âm thanh mà có lớn nhỏ mỗi
thứ khác nhau, trọn chẳng sai sót mảy may, báo ứng
không sai chạy). C̣n như nói “ương
cập tử tôn” (hại đến con cháu) cũng là luận
định khắp ba đời. Nói chung, sự báo ứng
xa là con cháu, gần th́ ở nơi chính ḿnh, tức là báo ứng rạng ngời,
chẳng sai chạy. Chính v́ người đời tích tập
điều ác, làm chuyện trá ngụy, tổn thương
tấm ḷng hiếu sanh của Thượng Đế, trái
nghịch ư định bảo vệ, che chở của tổ
tông. Do đó, dẫn đến t́nh cảnh con cháu gian nan,
gịng dơi đoạn tuyệt. [Thế mà con người chẳng
tự hiểu biết, cứ] đổ thừa cho số
mạng, hoặc đổ thừa là do khí chất bẩm
sanh. Ôi! Đức to lớn của trời đất là sanh
thành, đối với cỏ, cây, chim, cá, c̣n chẳng nỡ tuyệt diệt
chúng, huống hồ con người là “vạn vật chi linh” mà nỡ ḷng dứt tuyệt
con cháu của họ ư? V́ thế, nếu ai chẳng phải
là hạng cực ác, sẽ chẳng tuyệt tự. Ác báo
chẳng hết, sẽ lan đến con cháu lại chính là Sự Lư thường hằng vậy!
Đời Tùy, Dương Tố[56] khuyên
vua (Tùy Văn Đế) lập Dượng Đế làm
Thái Tử khiến
cho nhà Tùy bị nguy ngập.
Con ông ta là Nguyên Cảm rốt cuộc bị Dượng
Đế diệt tộc. Lư Tích[57] khuyên
vua lập Vũ Hậu, khiến mạng vận nhà
Đường bị cách trở. Cháu ông ta là Lư Kính Nghiệp
cũng bị Vũ Hậu giết chết. Đấy
chính hại đến con cháu! Ngạn ngữ có câu: “Ngươi do chuyện này bắt
đầu th́ cũng sẽ do chuyện này mà chấm dứt”.
Sự báo ứng do ngươi tạo ra, sẽ hại
ngược trở lại ngươi, cố nhiên là chẳng
thể dối trá được! Người hiện thời
căn cứ vào chuyện gần gũi trước mắt,
thấy kẻ nào đó làm ác mà không hề hấn ǵ, bèn nói:
“Trời không có mắt”. Thấy kẻ nào đó làm ác mà
hưng vượng lừng lẫy, bèn nói: “Làm ác được
phước”. Tích chứa điều thiện th́ điều
vui mừng có thừa, tích chứa điều ác th́ tai hại
có thừa. Nói “có thừa”
th́ phạm vi bao quát hết sức rộng. Suy luận từ
bản thân, chính là nói [họa, phước] có thừa sẽ
ứng vào con cháu, há có phải là nói “sáng tạo nghiệp, tối
phải đền trả” ư? Nhưng Thượng
Đế hiếu sanh, “họa
ương c̣n sót lại sẽ hại đến con cháu”
cũng là nhằm để trừng ác, khuyến thiện.
Nếu như con hiếu, cháu hiền, tu tâm, tu thân, tích
lũy điều thiện và công đức để cứu chuộc những nỗi oan khiên của tiền nhân, nghiêm ngặt chẳng
khoan dung đối với chính ḿnh, th́ lại chính là điều mong mỏi sâu xa của
đức Thái Thượng vậy!
Xét theo thuyết nhân quả
thọ sanh trong kinh Phật, th́ một là thiên đạo,
hai là tiên đạo, ba là A Tu La đạo, bốn là nhân đạo,
năm là súc sanh đạo, sáu là ngạ quỷ đạo,
bảy là địa ngục đạo. Trời, tiên, và Tu
La cố nhiên là do tích tập các nhân cảm vời mà có, c̣n
bốn đường như người, súc sanh v.v… càng là
quả báo nhất định do nghiệp duyên [cảm vời].
Do vậy, khảo sát cặn kẽ theo đó, nói đến
nhân đạo (人道, loài người) th́ nhân (人) là nhẫn (忍),
[nghĩa là] trong t́nh cảnh thuận hay nghịch, ắt
đều có thể an nhẫn (yên phận chịu đựng).
Đó là do xưa kia trong lúc tu nhân, tâm luôn vui sướng, tu
tập Ngũ Thường, Ngũ Giới, hành trung phẩm
Thập Thiện, mà cảm vời thân thể trong
đường ấy.
Kinh dạy: “Làm người có thế lực, sang cả, hoặc
làm quốc vương, hoặc làm trưởng giả, là
do lễ bái, phụng sự Tam Bảo mà ra. Làm người
đoan chánh, dáng vẻ trắng trẻo, sạch sẽ,
dung mạo bậc nhất, là do Nhẫn Nhục mà ra. Làm
người tinh tấn, chẳng hề lười nhác,
thích làm chuyện phước đức, là từ Tinh Tấn
mà ra. Làm người an tường, lời nói và việc
làm luôn cân nhắc kỹ lưỡng, chắc thật, th́ là do từ Thiền Định sanh ra. Làm
người có tài, sáng suốt, liễu đạt pháp sâu,
giảng nói diệu nghĩa để khai ngộ kẻ ngu muội. Kẻ
nghe nói những lời ấy, tin tưởng chúng là trân bảo,
[người như vậy] là do từ trí huệ mà ra. Tiếng
nói trong trẻo, thấu triệt, là do ca vịnh Tam Bảo
mà ra. Làm người sạch sẽ, chẳng bị bệnh
tật, là do tâm từ bi sanh ra. Làm người mà có nhiều
nỗi sợ hăi, âm thanh rè đục, rạn vỡ, là do từ
địa ngục mà ra. Làm người tối tăm, chậm
lụt, lười nhác, ăn nhiều, nói năng chẳng
rơ ràng, lại c̣n khiếp nhược, thích bầu bạn với người si dại,
rất thích chỗ tối tăm, là do từ súc sanh mà ra.
Làm người bẩn thỉu là từ loài lợn mà ra. Làm
người hung ác là do từ loài rắn, rết mà ra. Tâm chẳng
liêm khiết, do từ loài chó mà ra. Tánh luôn hung tợn là từ
loài dê mà ra. Thích đồ ăn ngon, mặc t́nh giết hại
sanh mạng loài vật, chẳng có từ tâm là do từ sói,
lang, cáo, chim ưng mà ra. Chẳng thể an tường, chẳng
thể nhẫn nại mọi sự, là từ loài khỉ
mà ra”.
Lại nói: - Làm người mà cao lớn là v́ cung kính người
khác. Làm người lùn xủn, nhỏ bé là v́ khinh mạn kẻ
khác. Làm người xấu xí là do thích nóng giận. Cả
đời chẳng hiểu biết ǵ là v́ không có học vấn.
Làm người ngu đần là v́ không dạy người khác. Yểu mạng, lắm bệnh là v́ thích sát sanh.
Chẳng có đồ dùng cần thiết cho cuộc sống,
luôn khổ sở, nghèo nàn, túng quẫn là v́ thích trộm cắp.
Chẳng có con cái, con dâu là v́ dâm loạn với vợ người khác. Con
cái dâm loạn là v́ loạn dâm với con gái chưa chồng
của người khác. Góa bụa, mồ côi, trơ trọi,
là v́ ngược đăi con cái. Làm người đói khát là
v́ thích ăn một ḿnh [không chia sẻ với người
khác]. Làm nô tỳ của kẻ khác là v́ thiếu nợ không
trả, chẳng lễ kính Tam Tôn (Tam Bảo). Làm người
xấu ác là v́ che đèn cúng Phật. Sanh làm loài trâu cày là do
làm quan tàn khốc, đối xử khắc bạc với
bọn dân đen. Sanh trong loài nai, mễn, là v́ làm cho người
khác kinh sợ. Sanh trong các loài rồng, v́ thích chọc ghẹo,
ép bức [phụ nữ]. Thân thể sanh ghẻ độc,
chữa trị không có hiệu quả, là v́ đánh đập
người khác. Người khác trông thấy ta bèn hoan hỷ,
là v́ ta đối xử vui vẻ
với người khác. Người khác trông thấy ta chẳng
vui vẻ, v́ ta chẳng đối xử vui vẻ với
người khác. Bị quan lại bỏ tù, trói buộc,
thân mang gông cùm, là v́ đă bắt nhốt chúng sanh. Làm người
sứt miệng là v́ thích câu cá. Sanh trong xứ sở trần
truồng, là v́ mặc áo mỏng đường đột
vào tinh xá của đức Phật. Sanh trong xứ chân có
móng guốc như ngựa là v́ mang giày dép dẫm đạp
đất Phật. Sanh trong xứ bị đâm thủng ngực
là v́ bố thí, làm phước, bèn sanh ḷng hối hận. Những
điều ấy đều là do đă tích tập từ
trước, đền trả xong rồi mới lại
được sanh làm người, đều là từ vô
thỉ đến nay, do nghiệp lực và những toan
tính điên đảo mà sanh ra nhau, giết chóc lẫn nhau. Chẳng gặp
Như Lai, chẳng nghe chánh pháp, ở trong trần lao, vốn
sẵn luân chuyển như thế ấy. Hạng người ấy
chính là hạng người đáng thương xót vậy!
Nói đến súc sanh đạo
th́ bẩm tánh ngu si, chẳng thể tự lập,
được con người nuôi nấng. V́ thế, gọi
là “súc sanh”. Do xưa kia trong lúc tu nhân, đă ngu mê, tham dục,
tạo hạ phẩm Thập Ác, cho nên cảm thân trong
đường này. Kinh dạy: “Nghiệp
làm quỷ đă hết, mới sanh trong thế gian, sẽ
gặp gỡ kẻ ta vốn đă thiếu nợ và kẻ
oán thù, đối đầu,
[chính ḿnh] làm thân súc sanh để đền món nợ cũ”. Những hạng chúng sanh này đều do cái nghiệp
hư vọng chiêu cảm, dẫn dắt. Nếu ngộ Bồ
Đề th́ [sẽ liễu giải] vọng duyên ấy vốn vô sở hữu.
Nói đến ngạ quỷ
đạo th́ loài quỷ này gầy c̣m, xấu ác, luôn tham cầu được no ḷng một
bữa, luôn bị đánh đập, [phải làm những
việc nặng nề như] lấp sông, ngăn biển,
chịu khổ vô lượng. Đấy là do xưa kia
trong khi tu nhân, đă tham lam, keo kiệt thành tánh, ôm ḷng nịnh
bợ, dối gạt, hành trung phẩm Thập Ác, cho nên cảm
thân trong đường này. Kinh dạy: “Các chúng sanh ấy đều v́ thuần t́nh mà đọa
lạc, lửa nghiệp thiêu rụi, cho nên hiện ra h́nh
hài loài quỷ. Những chúng sanh này đều do cái nghiệp
vọng tưởng chuốc vời, dẫn dắt. Nếu
ngộ Bồ Đề, sẽ diệu chứng viên minh vốn
vô sở hữu”.
Nói đến địa ngục
đạo là nói đến tù ngục ở dưới
đất; nhưng các địa ngục ấy to nhỏ
khác nhau, tuổi thọ trong ấy cũng là dài ngắn mỗi
ngục mỗi khác. Kẻ chịu khổ trong ấy sẽ
tùy theo nghiệp đă tạo, ai nấy có kiếp số nặng
nhẹ khác nhau. Kẻ nặng nhất sẽ là trong một
ngày muôn lần sống, muôn lần chết, trải qua vô
lượng kiếp. Do khi trước lúc c̣n đang tu nhân, mỗi niệm trong tâm
đều là tham, sân, si, tạo nghiệp cực ác, hành
thượng phẩm Thập Ác, cho nên cảm thân trong
đường này. Kinh dạy: “Những
chúng sanh ấy đều là do tự nghiệp (nghiệp của
chính ḿnh) cảm vời, tạo mười tập nhân, hứng
chịu sáu thứ giao báo”.
[Mười thứ tập
nhân]:
1) Một là dâm tập (婬習, tập khí dâm dục) giao tiếp, phát khởi
thành tướng chà xát, nghiền, mài chẳng ngừng. Do như vậy bèn có ánh lửa sáng rực
phát động trong ấy. Như người dùng hai tay tự
chà xát vào nhau, tướng ấm nóng sẽ hiện tiền.
Do hai thứ tập khí[58] cùng
thiêu đốt, cho nên có những chuyện như giường
sắt, cột đồng. Mười phương Như
Lai đều đích thân trông thấy h́nh tướng [họa
hại] của sự hành dâm, cùng gọi [những nỗi họa
hại ấy là] “dục hỏa” (lửa dục). Bồ Tát trông thấy dục liền
ĺa tránh như [né tránh] hầm lửa.
2) Hai là do tham tập (貪習, tập khí tham lam) ảnh hưởng lẫn
nhau, phát khởi thành sự thu hút lẫn nhau để thu hút, lôi kéo không ngừng. Do như vậy
mà tích tụ khí lạnh tạo thành băng cứng, lạnh
buốt trong ấy. Như người dùng miệng hút lấy
hơi gió, sẽ cảm thấy lạnh. Hai thứ tập
khí lấn át nhau; v́ thế, có những chuyện như [địa
ngục] Trá Trá, Ba Ba, La La, Thanh, Xích, Bạch Liên, Hàn Băng v.v… Mười phương
Như Lai trông thấy h́nh tướng của sự nhiều ham muốn, mong cầu, nên cùng gọi
là Tham Thủy (nước tham). Bồ Tát thấy tham, bèn
tránh né như [tránh né] nơi dầy đặc chướng
khí.
3) Ba là mạn tập (慢習, tập khí khinh mạn) lấn lướt lẫn
nhau, phát khởi thành sự ỷ
vào lẫn nhau, tuôn chảy không ngừng. Do như vậy mà
có sóng cuộn tung lên, cuồn cuộn, sóng tích tụ thành nước, như
người đưa đẩy cái lưỡi trong miệng,
sẽ tự cảm thấy có mùi vị. V́ thế, có
nước sanh ra (nước miếng). Hai thứ tập
khí thôi thúc lẫn nhau, cho nên có [những địa ngục]
như Huyết Hà (sông máu), Hôi Hà (sông tro), Nhiệt Sa (cát
nóng), Độc Hải (biển độc), Dương
Đồng (烊銅, nước đồng nung chảy), Quán Thốn
(灌吞, rót nước đồng nung chảy, bắt
nuốt hoàn sắt nóng) v.v… Mười phương Như
Lai trông thấy sắc tướng của [nỗi họa
hại] do ngă mạn gây ra, nên gọi là Ẩm Si Thủy
(uống nước si mê). Bồ Tát thấy khinh mạn bèn
tránh né như tránh né chỗ chết đuối to lớn.
4) Bốn là do sân tập (瞋習, tập khí sân hận) xung động lẫn
nhau, phát khởi thành sự chống trái lẫn nhau, xung
đột không ngớt. Tâm nhiệt bốc lửa, nung
đúc chất
khí thành kim loại. Do như vậy
mà có [các địa ngục] Đao Sơn (núi đao), Thiết
Quyết (鐵橛, gậy sắt), Kiếm Thụ (cây có cành
nhánh toàn là gươm sắc), Kiếm Luân (ṿng kiếm xoay
tṛn), búa, ŕu, thương, cưa. Như người ôm nỗi
oán hận, sát khí bốc lên ngùn ngụt. Hai thứ tập
khí công kích lẫn nhau; v́ thế, có chuyện thiến, cắt,
chặt, chém, giă, đâm, đập, quất v.v… Mười
phương Như Lai trông thấy sắc tướng của
sự sân hận, gọi nó là Lợi Đao Kiếm (đao,
gươm sắc bén). Bồ Tát thấy sân, như tránh né
tru lục.
5) Năm là trá tập (詐習, tập khí gian trá) cùng dụ dỗ, phát khởi
thành sự
dẫn dụ chẳng ngừng.
Do như vậy mà có dây và gỗ chằng buộc, bó chặt,
như nước đẫm ruộng, cỏ cây sanh trưởng.
Hai thứ tập khí duyên lẫn nhau; v́ thế, có những
chuyện như gông, cùm, xiềng, xích, roi, gậy, phang, quất
v.v… Mười phương Như Lai trông thấy sắc
tướng gian ngụy, cùng gọi nó là Sàm Tặc (讒賊, tên giặc gièm siểm). Bồ Tát thấy sự
dối trá như sợ sài lang.
6) Sáu là cuống tập (誑習, tập khí lừa dối) lường gạt
lẫn nhau, phát khởi thành sự lừa đảo lẫn
nhau. Dối gạt chẳng ngừng, mặc t́nh gian dối.
Do như vậy mà có bụi, đất, phân, tiểu, ô uế
bất tịnh như bụi tung theo gió, mỗi thứ
đều chẳng thấy. Do hai tập khí dồn ép, cho
nên có các sự ch́m đắm, vọt lên, quăng ném, tung
bay, rơi xuống, nổi trôi. Mười phương Như
Lai trông thấy sắc tướng dối gạt, đều
gọi là Kiếp Sát. Bồ Tát thấy dối gạt
như đạp phải rắn rết.
7) Bảy là oán tập (怨習, tập khí oán hận) hiềm nghi lẫn nhau, phát khởi thành sự ngậm hờn. Do
như vậy mà có đá bay, ngói rớt, nhồi nhét trong chỗ
hẹp, bị giam cầm trong xe tù, chứa trong ṿ, quăng vào túi, như kẻ
âm độc nghĩ tưởng, chất chứa điều
ác. Do hai tập khí cùng nuốt, cho nên có những sự ném,
quăng, bắt giữ, đập, bắn, liệng, túm
v.v… Mười phương Như Lai mắt thấy các
h́nh tướng oán gia, gọi chúng là Vi Hại Quỷ (loài quỷ làm hại, trái nghịch). Bồ Tát thấy sự oán hận
như uống rượu ngâm lông chim Trấm.
8) Tám là kiến tập (見習, tập khí về kiến giải) soi rọi
lẫn nhau, như Tát Già Da (Satkāya-dṛṣṭi, các kiến chấp),
kiến giới cấm thủ, hoặc các nghiệp do ngộ
giải sai lầm, phát khởi từ sự chống trái,
sanh ra sự tương phản. Do như vậy mà có
vương sứ, chủ lại[59] thẩm
tra, quản trị sổ sách, như người đi đường qua lại
trông thấy nhau. Do hai thứ tập khí giao nhau, cho nên có những
sự thẩm vấn, khám nghiệm, quyền biến trí
trá để tra khảo, hạch hỏi, xem xét, t́m ṭi, vạch
trần đến cùng ḥng làm sáng tỏ v.v… Mười
phương Như Lai trông thấy h́nh tướng của
ác kiến, cùng gọi tên Kiến Khanh (見坑, hầm bẫy kiến giải). Bồ Tát thấy
những điều thiên chấp (chấp chặt một bề)
hư vọng như vào nơi hang hốc có khí độc.
9) Chín là uổng tập (枉習, tập khí gây nên sự oan uổng cho
người khác) vây bủa, phát khởi thành sự vu cáo,
báng bổ. Do như vậy mà có núi ép lại, đá hợp
lại, nghiền, xay, cày, mài. Như gă giặc sàm báng, ép bức, oan uổng người
lương thiện. Hai thứ tập khí cùng an bài; v́ thế,
có các sự như đè, nén, nện, ấn, ép, lọc,
đo lường v.v… Mười phương Như Lai
trông thấy h́nh tướng của sự gièm báng oán thù,
cùng gọi là Sàm Hổ (con cọp gièm siểm). Bồ Tát thấy
sự oan uổng như gặp sấm, sét.
10) Mười là tụng tập
(訟習, tập khí thưa kiện) cùng tuyên nói,
phát khởi nơi che giấu. Do như vậy mà có sự
xét soi, chiếu tỏ. Như lúc giữa trưa, chẳng
thể giấu diếm h́nh bóng. Do hai tập khí phô bày lẫn
nhau, cho nên có những sự như bạn ác, nghiệp kính,
hỏa châu, bộc lộ, túc nghiệp, đối chứng
v.v… Mười phương Như Lai trông thấy sắc
tướng của sự giấu diếm, cùng gọi tên
là Âm Tặc. Bồ Tát thấy “che giấu” giống như đội ḥn núi cao để đi vào biển rộng!
Sáu giao báo (交報) là ǵ? Hết thảy chúng sanh do sáu thức
tạo nghiệp, chiêu cảm ác báo, lưu xuất từ
sáu căn.
1) Một là Kiến Báo (見報, quả báo của cái Thấy), chiêu cảm,
dẫn khởi ác quả. Đấy là do nghiệp Thấy giao cảm;
do vậy, khi lâm chung, trước hết, thấy lửa mạnh
đầy tràn các cơi trong mười phương. Thần
thức của người chết bay lên, đọa lạc,
theo khói mà vào địa ngục Vô Gián.
2) Hai là Văn Báo (聞報, quả báo của cái Nghe), chiêu cảm, dẫn
khởi ác quả. Do nghiệp của cái Nghe giao cảm, khi
lâm chung, trước hết, thấy sóng cuộn nhấn ch́m trời đất. Thần
thức của người chết giáng xuống, tuôn chảy,
nương theo sự tuôn chảy ấy mà vào địa ngục
Vô Gián.
3) Ba là Khứu Báo (齅報, quả báo của cái Ngửi), chiêu cảm,
dẫn khởi ác quả. Đấy là do nghiệp của cái
Ngửi giao cảm, khi lâm chung, trước hết, thấy
độc khí phủ kín xa gần. Thần thức của
người chết từ dưới đất vọt
lên, vào trong địa ngục Vô Gián.
3) Bốn là Vị Báo (味報, quả báo của cái Nếm), chiêu cảm,
dẫn khởi ác quả. Đấy là do nghiệp Nếm
giao cảm, khi lâm chung, trước hết trông thấy
lưới sắt, lửa mạnh cháy hừng hực, chói
ngời phủ trùm trọn khắp thế giới. Thần
thức của người chết lọt xuống, xuyên mắc
vào lưới, treo ngược đầu xuống dưới,
vào trong địa ngục Vô Gián.
5) Năm là Xúc Báo (觸報, quả báo của sự đụng chạm),
chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là cái nghiệp
do sự đụng chạm giao cảm, khi lâm chung, trước
hết, thấy núi lớn từ bốn phía ép lại, chẳng
c̣n nẻo thoát ra. Thần thức của người chết
thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp,
sói, sư tử, ngục tốt đầu trâu, tay cầm
thương, giáo, xua đuổi
[tội nhân] chạy vào cửa thành, hướng
tới địa ngục Vô Gián.
6) Sáu là Tư Báo (思報, quả báo của sự suy nghĩ), chiêu
cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là do cái nghiệp
suy tư giao cảm, khi lâm chung, trước hết, thấy
gió ác thổi tan nát cơi nước. Thần thức của
người chết bị thổi vất vưởng xoay
tṛn trên không, rơi xuống, nương theo gió mà đọa
vào địa ngục Vô Gián.
Đấy gọi là mười
nhân và sáu quả của địa ngục, đều do sự
mê vọng của chúng sanh tạo ra. Do các thứ nhân quả
khó thể nói trọn hết, nay chỉ trích dẫn những
phần thiết yếu thuộc về sự báo ứng trong ba đời, ghép vào đây nhằm nói rơ
lư “nặng, nhẹ, giảm bớt, tước đoạt”,
ngơ hầu người đời nh́n vào điều răn
rơ ràng này
sẽ biết tỉnh
ngộ, kiêng dè vậy!
(Chánh văn) Hựu chư hoạnh thủ nhân tài giả, năi kế
kỳ thê tử gia khẩu dĩ đáng chi, tiệm chí tử
táng. Nhược bất tử táng, tắc hữu thủy,
hỏa, đạo tặc, di vong khí vật, tật bệnh,
khẩu thiệt chư sự, dĩ đáng vọng thủ
chi trực.
(正文)又諸橫取人財者。乃計其妻子家口以當之。漸至死喪。若不死喪。則有水火盜賊。遺亡器物。疾病口舌諸事。以當妄取之直。
(Chánh văn: Lại c̣n những
kẻ cướp ngang tài vật của người khác
th́ vợ con, cả gia đ́nh của hắn phải hứng
chịu dần dần cho đến chết mất, tang tóc. Nếu không chết chóc, tang tóc, sẽ
bị những chuyện như tai họa nước, lửa,
trộm cướp, mất mát vật dụng, bệnh tật,
khẩu thiệt để đền trả cái giá cướp
càn).
Câu trước đă nói rơ sự
chịu báo theo từng sự, c̣n đoạn này lại nói
về chuyện “ngang ngược đoạt lấy”, tức
là nói về kẻ có thế lực. Chuyện này bất nhân
bất nghĩa tột cùng, nhưng người đời
lại khó thể
tránh khỏi nhất. V́
thế, lại đặc biệt nêu ra để dạy mọi
người. “Hoạnh” (橫) là tàn bạo, ngang ngược mà làm, dùng
oai thế lấn lướt để uy hiếp. “Trực” (直) có nghĩa là “nguyên
số” (原數, đúng với con số ban đầu). “Đáng trực” (當直) là phù hợp với số lượng vốn
đă đoạt lấy. Những kẻ cướp ngang
tài vật của người khác, phần nhiều v́
mưu tính cho vợ, con, người nhà, chẳng biết
thần Tư Mạng cũng tính toán [đ̣i nợ] ngay từ
vợ, con, người nhà của họ để báo trả sự tham ác. [Như
vậy th́ cứ tưởng khiến cho vợ, con, người nhà] được lợi mà chính là
làm hại họ vậy. Dùng t́nh cốt nhục hữu
t́nh, đổi lấy kim tiền vô t́nh, cũng quá đáng
tiếc lắm thay! Hơn nữa, do điều ác tích tập,
tuổi thọ đă tận, thân ta cũng chẳng tránh khỏi
chết chóc, chôn vùi, vậy th́ muốn có món kim tiền ấy
có ích ǵ đâu? Nếu toan hối lộ nhằm nhờ cậy
bậc quyền thế trong chốn âm ty, chỉ sợ [âm
phủ] chưa chắc đă khoan dung. Cho tới khi ấy,
có ai c̣n chẳng đành chịu thấy hết thảy
đều rỗng tuếch, [nay chưa trông thấy quả
báo thảm khốc] chỉ là do [sự báo ứng] chậm trễ đó thôi!
Sao bằng ngay trong lúc này, khi báo ứng c̣n chưa xảy đến, hăy sớm nghĩ đặt ḿnh vào t́nh cảnh
đó, may mà điều ác c̣n hơi nhẹ, chưa đến
nỗi chết chóc, tang tóc; nhưng [các tai nạn về] nước, lửa,
trộm cướp, mất mát đồ đạc, bệnh
tật, khẩu thiệt, con cháu không ra ǵ, những cách thức
khiến cho tài vật của ta bị hao hụt rất nhiều.
Đối với những kẻ ngang ngược đoạt
lấy tài vật của kẻ khác, người gảy bàn
tính to lớn [để tính toán] trong chốn âm thầm
cũng ngang ngược đoạt lấy [tiền tài của
bọn họ]. Rốt cuộc tiền tài chẳng c̣n ǵ, mà
nỗi kinh sợ do nước, lửa, trộm cướp,
nỗi áo năo, căm hận do bị mất mát đồ
đạc, nỗi đau đớn, khổ sở do bệnh
tật, niềm phẫn hận, nỗi nhục nhă do khẩu
thiệt, nỗi xấu hổ, điếm nhục do con
cháu không ra ǵ [đă sờ sờ ra đó], rành rành là chính
ḿnh bị thua thiệt, đă chẳng có cách nào bồi
thường, lại c̣n thiếu nợ bao nhiêu tội lỗi
oan nghiệt, chẳng được tự tại, bù
đắp chẳng hết, biết làm thế nào đây? Kẻ
đoạt lấy ngang ngược, hễ nghĩ đến
chỗ này, sẽ không chỉ là tê buốt tấm ḷng, mà cái
tâm cũng
sẽ nguội lạnh!
H́nh Thụ đi sứ Tân La[60], trở
về, đi qua Thán Sơn, thấy có hơn một trăm
khách buôn, chở theo mấy thuyền hàng hóa, giá trị mấy
chục vạn mân[61]. H́nh Thụ
bèn tập kích, giết chết họ, đoạt lấy số hàng hóa ấy. Cho đến
khi con hắn là H́nh Tể cùng với Vương Hồng
mưu phản, hắn bèn bị giết chết. Vợ,
con, người nhà đều chết sạch chẳng c̣n
ǵ!
Vi Công Cán làm châu mục Quỳnh
Châu hay ngang ngược chiếm đoạt tài vật. Tới
khi hắn măn nhiệm, trở về, thuyền lật trên
sông, vật dụng, tài sản mất sạch, chỉ thoát
được cái thân.
Lữ Sư Tạo làm Thứ
Sử Tŕ Châu, xâm phạm, chiếm đoạt tài sản của
dân chúng, chở khẳm thuyền trở về, bỗng lửa
đốt rụi những món tài vật ấy! Chỉ có
thuyền và người là chẳng bị thương tổn.
Đinh Vị[62] bị
đày đi Châu Nhai, bị đạo tặc cướp
bóc, mất sạch những thứ sở hữu. Không lâu
sau, hắn chết ngắc.
Mă Tương tánh tham lam, làm
Tào Ty[63] ở
Tây Xuyên. Gặp loạn Lưu Hu, Mă Tương bỏ vàng
xuống giếng [để giấu]. Sau khi cuộc biến
loạn được dẹp yên, chẳng thể t́m thấy
đâu nữa, mất sạch tất cả.
Hai gă Hồ Ứng Quế và
Lục Nhất Kỳ kết bè đảng dụ dỗ một đứa con quan cờ
bạc để chiếm gia tài của nó. Bỗng họ Hồ
bị mù một mắt, c̣n gă họ Lục bị xụi một
chân. Chúng nó tàn phế, nghèo nàn, túng quẫn suốt đời.
Cường Hoài Nhân tham lam, do
ngang ngược [chiếm đoạt] mà trở thành giàu
có. Con cái hắn không ra ǵ, thích cờ bạc, gái gú, phóng
đăng, không bữa nào chẳng có chuyện dính líu khẩu
thiệt, thưa kiện, tù ngục. Chẳng đầy
mười năm, gia sản khánh kiệt, lênh đênh, khốn
khổ. Con cháu không ngóc đầu lên nổi.
Những trường hợp
[vừa nêu] trên đây đều là những chuyện về
những kẻ ngang ngược chiếm đoạt tài sản
của người khác, tùy theo từng sự việc mà thể
hiện sự báo ứng xứng đáng [với tội lỗi
của bọn chúng], nhưng nặng nề nhất chính là
sự chết chóc, tang tóc của bản thân H́nh Thụ và
người nhà của hắn. Trong cơi đời có chuyện
bất minh, chứ cơi trời chẳng có chuyện ǵ không
báo ứng; con người có thể vận dụng cơ
mưu xảo quyệt, cơi trời báo ứng càng hay khéo
hơn. Ôi! Đáng sợ thay!
(Chánh
văn) Hựu uổng sát nhân giả, thị dịch
đao binh nhi tương sát dă.
(正文)又枉殺人者。是易刀兵而相殺也。
(Chánh văn: Lại
c̣n những kẻ giết oan người khác, sẽ đổi
lại bị giết trong chiến tranh).
Phần trước nói về
chuyện ngang ngược chiếm đoạt, kế đó, nói về chuyện giết chóc oan uổng.
Chuyện giết chóc oan uổng thường
là do khởi nguồn từ yêu mến tài sản,
tiếc nuối tài sản mà ra. So với chuyện “chẳng phải là do
chính ḿnh mà giết chóc, có khác ǵ đâu?” như Mạnh Tử đă nói[64] th́ ngữ
ư giống nhau, một mực thẳng thừng, nhanh chóng, thống
khoái nhất. Nói đại lược về nguyên do của chuyện giết chóc oan uổng th́ có bảy điều:
1) Một là xử án, do
ăn hối lộ mà khiến cho kẻ khác bị oan khuất,
bị vu hăm, mặc t́nh [hành hạ] thảm khốc.
2) Hai là dẫn quân đội,
[viện cớ tác chiến] để tàn sát, bắt bớ, cướp bóc tài vật, ngụy tạo lư do để chặt
đầu người khác ḥng mạo nhận chiến
công.
3) Ba là dùng thuốc, do mong cầu
tài vật, [nhưng không thông thạo dược tánh], bèn cắt thuốc sai lầm, mê muội thiên
lư mà công phạt chứng bệnh [khiến cho bệnh nhân bị
tàn phế hay mất mạng].
4) Bốn là phá thai, hoặc do
tiếc nuối những khoản tiền tốn kém [để
nuôi con thơ] mà d́m chết con gái. Do dục vọng phóng
túng mà phá thai.
5) Năm là bọn sâu mọt
trong nha môn, lường gạt tài sản, hăm hại, giấu
diếm cấp trên, hoành hành ngược đăi.
6) Sáu là Phong Thủy, chuyển
dời phần mộ hại người, [khiến cho người ta lâm vào] cảnh tuyệt địa, vướng
mắc tai họa.
7) Bảy là thầy dốt khiến
cho người khác lỡ làng suốt đời, làm hại
con em của người ta.
Tuy chẳng giống như
sát nhân, [nhưng khiến cho người ta bị] oan uổng,
trắc trở giống hệt. Những tội lỗi ấy,
luật lệ sẽ chẳng tha thứ. Nếu không mắc
phải họa người, ắt sẽ bị trời trừng
phạt. Tuy nói là giết người khác, rốt cuộc sẽ
là giết ḿnh vậy!
Vào đời Tống, thiền
sư X… lúc trẻ say rượu, cùng người khác tranh
đoạt tài vật, dùng hết sức đánh người
khác, kẻ đó chết ngay lập tức. Sư sợ tội,
trốn xa, xuất gia tu hành siêng khổ, bèn triệt ngộ,
trở thành đại thiền sư, khai đường
thuyết pháp, học tṛ tới mấy trăm người.
Lúc Sư bảy mươi mấy tuổi, bỗng một
hôm, Sư tắm gội, thăng ṭa, bảo đại
chúng rằng: “Các vị đừng hành động, đừng
nói ǵ, để xem một tầng công án của lăo tăng
từ hơn bốn mươi năm trước!” Sư
ngồi tới giờ Ngọ, có một viên doanh biện (營弁, quan vơ cấp thấp) đột ngột t́m tới,
giương cung tên chực bắn. Sư chắp tay, bảo:
“Lăo tăng kính chờ đă lâu!” Viên doanh biện kinh hăi, bảo:
“Ta và ḥa thượng chẳng biết nhau, vừa trông thấy
liền muốn giết, chính ḿnh cũng chẳng hiểu
duyên cớ!” Sư đáp: “Thiếu nợ phải trả tiền,
giao dịch công bằng, chỉ xin Ngài ra tay, chẳng cần
phải chần chừ, ngờ vực”. Sư ngoái lại,
bảo đại chúng: “Sau khi ta chết, các vị hăy mời
vị cư sĩ này dùng cơm, đưa tiễn. Nếu
có nửa câu sân hận, hoặc kết tội, sẽ là nghịch
trời, trái đạo, chẳng phải là đệ tử
của ta”. Viên doanh biện càng nghi, kiên quyết vặn hỏi
[nguyên do của] lời nói ấy. Sư đáp: “Ông là
người đă trải qua hai đời, cho nên quên bẵng.
Tôi là kẻ
[chỉ mới sống]
một đời cho nên chẳng quên”. Do vậy, Sư kể
lại chuyện cũ; viên doanh biện vốn chẳng biết chữ, bỗng
ngâm lớn rằng:
Oan
oan tương báo hà thời liễu,
Kiếp
kiếp tương triền khởi ngẫu nhiên,
Bất
nhược dữ Sư câu giải thích.
Như
kim lập địa văng Tây Thiên”
(Oan oan tương báo bao giờ
hết,
Kiếp kiếp buộc ràng
há ngẫu nhiên!
Sao bằng cùng Sư trừ oán
hận,
Nay ta lập tức tới
Tây Thiên).
Nói xong, tay cầm cung tên,
đứng sừng
sững qua đời.
Sư từ ṭa bước xuống, xuống tóc, đặt
pháp danh cho viên quan doanh biện ấy, thay quần áo, nhập
liệm [cho người ấy] rồi cũng ngồi xếp
bằng, từ biệt đại chúng mà hóa. Sát nhân từ
bốn mươi năm trước, đền mạng vào
bốn mươi năm sau; đ̣i nợ tuy chậm, trả
nợ như nhau. May mắn là cả hai vị đều là người
có bản lănh to lớn; v́ thế, oan gia trên đường,
đúng lúc chạm mặt nhau, đối đầu ác liệt,
đâm ra trở thành nhân duyên tốt đẹp. Cái chết
của người ấy (tiền thân của viên quan doanh
biện) đă ép người mắc nợ (vị ḥa
thượng) tu hành chứng đạo. Cách đối
đăi của thiền sư đă thôi thúc chủ nợ cởi
gỡ oán kết, sanh thiên. Đấy là duyên thù thắng,
chuyện lạ lùng khó gặp gỡ trong ngàn đời vậy!
Nếu chẳng phải là [vị thiền sư] thật sự đắc
đạo, hoặc viên quan doanh biện không có bản lănh ấy,
ắt sẽ chẳng chịu xóa nợ không đ̣i. V́ thế,
“giết người chẳng
khác giết chính ḿnh” cũng rơ rệt thay. Đối với
bảy thứ giết chóc oan uổng đă được
nêu bày trên đây; mọi người hăy tùy theo từng việc
[để tự xét ḿnh] mà răn ngừa, chớ nên vay
mượn bừa băi những món nợ rất nghiêm trọng
vậy!
(Chánh
văn) Thủ phi nghĩa chi tài giả, thí như lậu bô
cứu cơ, trấm tửu chỉ khát, phi bất tạm
băo, tử diệc cập chi.
(正文)取非義之財者。譬如漏脯救饑。鴆酒止渴。非不暫飽。死亦及之。
(Chánh văn: Kẻ chiếm giữ tài sản
phi nghĩa, ví như dùng thịt nhiễm độc[65]
để cứu đói, dùng rượu ngâm lông chim Trấm
để khỏi khát, không chỉ là chẳng tạm no mà
c̣n phải chết).
Đoạn này lại nói rơ sự
tai hại do tham lợi. Do cái tâm ham lợi của người
đời nặng nề, cho nên [đức Thái Thượng]
chẳng kiêng nể dùng lời lẽ nặng nề, nhắc
đi nhắc lại. Đức Thái Thượng ḷng
đau đáu, căn dặn nhiều lượt, [tấm
ḷng tha thiết] ấy đă đạt tới tột bậc.
Những tội như dâm, giết, hung ác, phản nghịch
v.v… người đời chẳng dễ làm, mà hạng
người như vậy (hạng người phạm những
tội ấy) cũng chẳng thấy nhiều. Chỉ
riêng phương cách để chiếm đoạt tài sản
[của người khác] là thiên biến vạn hóa, chẳng
thể nói trọn
hết được. Trong
thiên hạ, không có ngày nào chẳng dùng đến tiền
tài, cho nên trong thiên hạ, chẳng có ai không lấy tiền
tài. Trong
thiên hạ, [đă là] không có ai chẳng lấy tiền tài,
nhưng phương pháp để
đạt được [tiền tài] đúng đạo
nghĩa th́ ít ỏi, bất nghĩa th́ nhiều, chẳng cần
phải hỏi cũng biết. “Nghĩa” là ǵ vậy? T́nh và lư đó thôi. Lấy mà
người khác vui vẻ cho ta, th́ gọi là đúng t́nh, gọi
là “nghĩa”. [Người khác]
chẳng vui vẻ cho ta th́ sẽ chẳng hợp t́nh, mà
cũng là phi nghĩa. Đă lấy rồi mà ta có thể nói với người khác th́ gọi
là “hợp lư”, gọi là “nghĩa”. Nếu chẳng thể
nói cho ai biết, tức là bất hợp lư và
phi nghĩa. Bất luận là ít hay nhiều, nếu có
được [tài vật ấy] phi nghĩa mà vẫn có thể
an nhiên sử dụng, [vậy th́] cũng chẳng ngại
thuận theo ḷng người mà cho phép làm như vậy. Thế
nhưng, đức Thái Thượng ra rả răn dạy
như vậy, là v́ biết trong cơi đời, có kẻ lấy
tiền tài bằng cách phi nghĩa, tức là có kẻ bị
mất mát tiền tài một cách phi nghĩa. Một đằng
th́ vui sướng, một đằng th́ đau ḷng, hoặc
một kẻ khoái trá, mười người đau ḷng,
hoặc trăm người đau ḷng, hoặc ngàn vạn người đau ḷng. Đạo
trời khéo báo đền, có lẽ nào hậu đăi kẻ
vui sướng mà đối xử bạc bẽo với kẻ
đau ḷng ư? Trong ngấm ngầm, đối với những
nỗi bất b́nh, [thần minh] suy nghĩ bù đắp cho
chuyện ấy, ắt đều xắn tay áo mà thực
hiện. Đức Thái Thượng biết nguyên do này, bèn
nghiêm mặt răn dạy họ rằng: “Chớ đoạt
lấy [tiền tài của người khác]”, người
ta chẳng nghe theo! Dùng lời lẽ dịu dàng khuyên nhủ
người ta mà chẳng thể được, họ chẳng
tin, bèn dùng lời lẽ khiến cho họ kinh sợ để
khuyên họ rằng: “Kẻ có được tài sản [bằng
cách chiếm đoạt] sẽ gặp chuyện bất
tường”, [thế mà] người ta vẫn cứ tham cầu
những thứ trước mắt, chẳng rảnh
đâu để suy nghĩ sâu xa. Không ǵ bằng đánh thức
họ: “Đạt được và chẳng đạt được
là như nhau”, như vậy th́ ḷng tham của con người may ra cũng
giảm bớt đôi chút! V́ thế, dùng thịt ngấm
nước, rượu ngâm lông chim Trấm làm thí dụ. Thịt
ngấm nước, rượu ngâm lông chim Trấm hễ lọt
vào miệng, sẽ chết ngay lập tức. V́ thế, kẻ
tuy ngu cuồng chưa có ai nếu đă biết là thịt
ngấm nước bị mốc, rượu ngâm lông chim
Trấm mà vẫn cứ tham lam ăn uống, nhấc
đũa, ngậm chén! Biết tài vật phi nghĩa là thịt
ngấm nước, rượu ngâm lông chim Trấm, dẫu
ngàn vạn lọt vào tay, cũng sẽ thấy là vật vô
dụng, chẳng dùng đến, há chẳng phải là “đạt
được” và “không đạt được” đều
như nhau ư? Có được mà chẳng dùng được, sẽ là vật đáng bỏ đi, vô
ích trong cơi đời. Trọn hết tâm thuật bại hoại,
sử dụng trọn hết mưu mẹo ḥng cầu vật
bỏ đi, vô ích trong thiên hạ để làm ǵ cơ chứ?
Nhưng thịt bị ngấm nước thơm tho
như chả nướng, rượu ngâm lông chim Trấm
ngon ngọt chẳng kém Đề Hồ. Người ta thấy
mùi thơm tho, vị ngon ngọt, lại dấy lên tâm niệm
cầu may: “Chưa chắc đă thật sự có chất
độc!” [Do vậy], dẫn đến t́nh trạng hiếm có kẻ nào không uống tít cung thang! Tới khi phun ra chẳng
nổi, nuốt xuống chẳng thể, đứt ruột,
nứt da, chết chẳng kịp trở tay rồi mới
than thở: “Chẳng trông thấy sớm hơn, chớ nên
ăn uống là được rồi!” Canh rau, cơm lúa mạch,
rượu quê, rau núi, lọt vào miệng tuy chẳng có mùi
vị ǵ cho mấy, hơi say lâng lâng, chưa trọn hết
hứng thú, nhưng an b́nh no dạ, xoa bụng tự đắc.
Sự khổ sở và niềm vui sướng ấy khác biệt
như thế nào? Những câu chuyện nhằm chứng tỏ
lời răn dạy này có thể thấy rải rác trong những
đoạn văn trước, đă vừa tường tận,
rơ ràng, vừa
lại trọn hết; do vậy, ở đây chẳng cần phải ghi thêm nữa!
(Chánh văn) Phù tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi,
nhi cát thần dĩ tùy chi. Hoặc tâm khởi ư ác, ác
tuy vị vi, nhi hung thần dĩ tùy chi.
(正文)夫心起於善。善雖未為。而吉神已隨之。或心起於惡。惡雖未為。而凶神已隨之。
(Chánh văn: Hễ dấy thiện niệm, tuy chưa làm lành,
cát thần đă đi theo. Tâm móng niệm ác, tuy chưa làm
ác, hung thần đă theo).
Nêu ra chữ Tâm (心) nhằm dạy mọi người mầm
mống thiện ác, ngơ hầu mọi người sẽ biết cẩn thận
từ chỗ khởi nguồn. Hăy nghiền ngẫm chữ
Phù (夫) và chữ Hoặc (或) [trong lời răn trên đây], [sẽ ngộ ra
trong ấy] có ư nghĩa “hễ rời khỏi thiện liền đọa
vào ác”. Hăy nên xem lời răn này, kèm thêm chương “kê minh nhi khởi” (gà gáy liền
thức dậy)[66] trong sách Mạnh Tử nhiều lượt. Kinh Phật dạy: “Tam giới vô biệt pháp, duy thị nhất tâm tác”
(Tam giới chẳng có pháp nào khác, chỉ do
một tâm tạo ra). Lại nói: “Năng
tùy duyên nhiễm tịnh, biến tạo thập pháp giới”
(Có thể tùy theo duyên nhiễm hay tịnh, mà
tạo ra trọn khắp mười pháp giới). Thế
gian và xuất thế gian, chẳng ngoài tứ thánh lục
phàm pháp giới. Mười pháp giới như thế vốn
chẳng có tự tánh, đều do nhất tâm tạo ra. Vốn
dĩ cái tâm này tuy nói là “bất
biến”, nhưng nó thật sự tùy duyên. Do nó tùy duyên nên nói là “năng
tạo” (có thể tạo). V́ thế, tâm có thể làm Phật,
mà tâm [cũng] có thể làm chúng sanh, tâm tạo thiên
đường, tâm tạo địa ngục. “Tâm khởi” tức là một
niệm chớm nẩy. Một niệm tuy nhỏ bé, [có thể]
cảm động trời đất, thông thấu quỷ
thần. Ai có thể dấy lên một thiện tâm, chỉ một
niệm ấy là lá bùa thiêng liêng để phá địa ngục,
là gươm trí huệ để chém sạch các thứ tà,
là thuyền Từ để vượt biển khổ, là
đèn sáng soi tan tăm tối. Nếu dấy lên một ác
tâm, ắt tam đồ hiện tiền, trầm luân chẳng
dứt. V́ thế, cát thần hay hung thần tùy
thuộc ư niệm mà đến, chẳng cần phải chờ
đợi mảy may nào! Đời Minh, Hám Sơn đại
sư nói: “Cần phải thấy
thấu suốt từ chỗ niệm dấy lên, khi sự chưa xảy đến th́ đừng
lầm lạc sanh khởi. Khi ác niệm dấy
lên, một đao chặt đứt phăng, ắt nghiệp căn lập
tức tiêu trừ, vọng niệm có chỗ nào để
an trụ? Đầu mối để siêu phàm nhập thánh
hoàn toàn ở chỗ này”.
Xưa kia, Nguyên Tự Thật
hận gă họ Mâu phụ bạc ân nghĩa, canh năm muốn
đến giết hắn. Trên đường, ông ta đi
qua một cái am, am chủ là ông Hiên Viên, sáng sớm tụng
kinh, thấy có mấy trăm con quỷ h́nh thù kỳ quặc,
bộ dạng lạ lùng, con nào con nấy đều cầm
đao hoặc búa theo Nguyên Tự Thật mà đi, khí thế
hết sức hung ác. Chẳng mấy chốc, chúng nó lại
lui về. Những người tùy tùng [của Tự Thật]
đều đội măo vàng, giắt ngọc, đông đảo
cỡ cả trăm người, [cầm theo] hương,
hoa, tràng phan, dáng điệu và vẻ mặt ḥa hoăn, vui tươi. Ông Hiên Viên gọi
Tư Thật lại hỏi, Tư Thật bèn nói: “Họ
Mâu phụ ân tôi, tôi muốn đến giết nó. Đến
cửa nhà ông, [tôi lại nghĩ] tuy họ Mâu phụ bạc
tôi, nhưng vợ con nó tội t́nh ǵ? Nó lại c̣n có mẹ già. Giết một ḿnh nó, thật
ra là giết chết cả nhà nó, sao nỡ nhẫn tâm! Bèn thay đổi ư niệm trở về”.
Ông Hiên Viên kể lại những ǵ đă thấy, lại
c̣n chúc mừng: “Chuyện ông đă làm, thần minh đă biết,
ắt sẽ hưởng lộc sâu dầy”. Tự Thật
bèn dũng mănh hướng lành, gắng sức chẳng
ngơi. Về sau, quả nhiên đỗ đạt, đạt
tới địa vị khanh tướng.
Lăo Tử nói: “Thiện và ác khác biệt đến cỡ nào!”
Tôi đă từng trộm nghiền ngẫm lời ấy,
[hiểu rằng]: Nói
chung, hai nẻo thiện ác,
thoạt đầu chẳng cách xa nhau, đặc biệt
là bắt nguồn từ một niệm trong cuộc sống
hằng ngày có đúng và có sai. Có thể hiểu lư này, luôn
thiết tha tu tỉnh, tự nhiên toàn thể sẽ là thiện,
phước đức không ǵ chẳng tăng, họa hoạn
không ǵ chẳng lui mất. Nh́n vào một niệm của ông
Nguyên là thiện, bèn chuyển họa thành phước, nhanh
chóng như thế đó. Nói “tâm
dấy lên thiện hay ác, cát thần hay hung thần bèn thuận
theo” đă được chứng minh ở đây,
cũng chẳng đáng tin rành rành ư?
(Chánh văn) Kỳ hữu tằng hành ác sự, hậu tự cải
hối, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, cửu
cửu tất hoạch cát khánh. Sở vị chuyển họa
vi phước dă.
(正文)其有曾行惡事。後自改悔。諸惡莫作。眾善奉行。久久必獲吉慶。所謂轉禍為福也。
(Chánh văn: Nếu kẻ đă từng làm chuyện ác, về sau sửa đổi, hối hận, chẳng
làm các điều ác, vâng làm các điều lành, lâu ngày chầy
tháng, ắt được cát khánh, đó gọi là “chuyển
họa thành phước” vậy).
Đoạn này nêu ra hai chữ
Cải Hối (改悔), dạy mọi người phương pháp
để hướng thiện, sửa lỗi, là then chốt để xoay họa,
chuyển phước. “Cải”
(改) là sửa lỗi. “Hối” (悔) là sám
hối. Trong thiên hạ, người thuần thiện th́
ít, kẻ đă từng làm ác th́ nhiều, nhưng kẻ bất
thiện đều có thể trở lại thành người
chí thiện. V́ thế, đức Thái Thượng rát miệng
rườm lời, trong phần kết thúc thiên sách này, Ngài
bèn nói ra ư chỉ cội gốc của sự cải hối,
hét to [để đánh thức kẻ vẫn lẩn quẩn]
nơi cửa ải mê muội, khiến cho họ “quay đầu là bờ”. Kế đó, Ngài lại sợ người
ta sẽ hiểu lầm hai câu “buông
dao đồ tể xuống, ngay lập tức thành Phật”
mà vọng tưởng dùng một chén nước để
cứu cả xe củi đang cháy. V́ thế nói “đừng làm ác điều ác”, để mong khoét bỏ hết sạch [vọng tưởng] ấy.
Lại nói “vâng làm các điều
thiện” để mong [mọi người] sẽ tích
lũy viên măn [thiện hạnh], hành lâu ngày chầy tháng, sẽ
có thể trừ khử những nỗi oan khiên trước
kia, những mối họa c̣n thừa sót mới tiêu. Sau
đấy, hành thiện ngày càng viên măn, phước mới
tự đưa đến. Những kẻ ngu trong hiện
tại tự biết chính ḿnh đă làm những điều
bất thiện, hoặc là do lương tâm phát hiện,
toan nhờ vào tăng nhân, đạo sĩ tuyên đọc, lễ bái sám
văn ḥng được tiêu tội, đúng là muốn dùng
một chén nước để cứu xe củi [đang cháy]
vậy! Há chẳng phải là lầm lạc to tát ư? Huống
hồ thường là thoạt đầu hối hận; về
sau, lỗi lại tăng thêm! V́ thế, rốt cuộc đến
nỗi ch́m lỉm trong biển khổ, táng thân, diệt
tánh, buồn thay! Nếu kẻ nào hối cải kiểu
đó, há chẳng phải là đă hết sức cô phụ
ư ra rả bảo ban, răn dạy của đức Thái Thượng
ư?
Than ôi! Đức Thái Thượng
dạy người ta phương pháp sửa lỗi,
phương pháp sám hối, mấy lời ấy hết sức
trọng yếu, khẩn thiết, [đối với tội
lỗi của con người, đúng là] đâm mũi kim
nào cũng thấy máu. Đó gọi là một viên thần
đan điểm sắt thành vàng, là một lời chí lư chuyển phàm thành thánh. Ai nấy
hăy nên quyết chí thề nỗ lực thực hiện, ngơ
hầu ứng hợp ḷng Từ rộng lớn. Nay trước
hết, nói rơ phương pháp sám hối; kế đó, nói rơ phương cách sửa
lỗi. Sám hối là “cải
văng tu lai” (sửa đổi những sai lầm trong quá
khứ, từ nay tu tập), là đạo trọng yếu
để sanh ra điều thiện, diệt trừ điều
ác. V́ thế, hăy nên vun bồi thiện căn, [ngơ hầu]
các điều thiện đều sanh. Tội căn hăy nên
phát lộ th́ các tội đều diệt
1) Một là chánh tín nhân quả,
chẳng mê, chẳng lầm lạc, [biết rơ] “làm thiện được
phước, làm ác mắc họa”. Tuy [các nghiệp nhân] chẳng
có tác giả, nhưng quả báo chẳng mất. Tuy niệm
niệm đều diệt, nghiệp chẳng bại vong.
Tín là cội nguồn của đạo, do trí mà có thể
nhập. Đấy là căn bản của các điều thiện.
Dùng sự chánh tín này để phá trừ cái tâm Nhất Xiển
Đề.
2) Hai là sám hối tội ác,
hổ thẹn làm gốc: Thẹn v́ ta phạm tội này,
chẳng được dự vào loài người; xấu
hổ “ta do tội này, ắt bị trời phạt”. Đấy gọi là bạch pháp nhằm
phá trừ pháp “không biết thẹn”.
3) Ba là sợ hăi vô thường.
Một hơi thở ra, chẳng hít vào được nữa,
mạng liền theo đó mà diệt, sẽ theo nghiệp chịu
báo, luân chuyển vô cùng. Đă ngộ vô thường, đấy
là [cơ sở để] phá dẹp cái tâm chẳng sợ
ác đạo.
4) Bốn là phát lộ, [tức
là] hướng về người khác bộc bạch tội
lỗi nặng nhẹ. Do phát lộ nên tội liền cháy
khô, như chặt rễ cây, cành nhánh bèn xơ xác, rơi rụng.
Đấy là phá trừ cái tâm che giấu vậy.
5) Năm là đoạn cái tâm
tương tục, rốt cuộc xả ác, quyết tâm dũng
mănh như đao thép chặt đứt mọi vật; hễ
chặt xuống, thảy đều đứt rời.
Đấy chính là phá trừ cái tâm tương tục vậy.
6) Sáu là phát Bồ Đề
tâm, dẹp trừ khắp hết thảy các nỗi khổ,
ban trọn khắp hết thảy các niềm vui. Do cái tâm rộng
lớn ấy, phá trừ cái tâm duyên trọn khắp hết
thảy ác nghiệp.
7) Bảy là tu công để
bù lỗi, siêng năng sách tấn ba nghiệp, tinh tấn chẳng
ngơi. Đấy là tu công lập đức để phá
trừ cái ác tâm “chẳng tu ba nghiệp”, chẳng dấy khởi tội lỗi.
8) Tám là thủ hộ chánh
pháp, chẳng nghĩ tới tà sư ngoại đạo phá
hoại Phật pháp. Đấy là [phương cách để]
thay đổi cái tâm “phá diệt hết thảy các thiện
sự”.
9) Chín là nghĩ tới vô
lượng công đức, thần thông, trí huệ của
mười phương Phật xót thương gia hộ,
trừ tội cho ta, [đấy chính] là thanh lương diệu dược.
Đấy là [phương cách] thay đổi phá trừ cái
tâm “nghĩ tới ác tri thức”.
10) Mười là quán tánh của
tội là Không. Tội từ tâm sanh, lại từ tâm diệt.
V́ thế nói: “Nếu tâm diệt
th́ tội cũng mất”. Nếu biết tội phước
vô chủ, tâm thể (bản thể của cái tâm) tự là không, trở về nguồn cội,
rốt ráo thanh tịnh. Đấy là phương pháp để
thay đổi, phá trừ cái tâm vô minh điên đảo chấp
trước. Kinh dạy: “Biển
hết thảy các nghiệp chướng đều sanh từ vọng
tưởng. Nếu muốn sám hối, hăy ngồi ngay ngắn
niệm Thật Tướng, các tội như sương,
móc, huệ nhật (vầng mặt trời trí huệ) có thể
tiêu trừ. Do vậy, hăy nên chí tâm sám hối. Như cái áo
dơ bẩn suốt trăm năm, có thể giặt sạch
sẽ trong một ngày. Như tấm gương cổ ngàn
năm, có thể trong một lúc lau chùi đến mức tỏa sáng, có thể giải
trừ oan khiên ngàn đời muôn kiếp, có thể diệt
tội Tứ Trọng, Ngũ Nghịch”. Sám hối như thế, có ác nào chẳng diệt,
thiện nào chẳng sanh?
Ngài A Na Luật trong đời
xưa kia vốn là một tên giặc cướp. Ban
đêm tới chùa Phật, thấy ngọn đèn thờ Phật
sắp tắt, bèn rút mũi tên khêu bấc đèn, đèn bỗng sáng bừng, chói ngời lóa mắt. A Na Luật
sợ hăi, lập tức bỏ ác theo thiện, các điều
ác dần dần tiêu diệt, muôn điều thiện đều
tṛn đầy, bèn được chứng quả.
Đời Tống,
Dương Trọng Ḥa vốn giữ chức Thôi Tư ở
Hứa Châu, trong niên hiệu Thiên Thánh[67] bị
sai tới Thái Châu để xét duyệt các vụ án. Do phán
quyết oan uổng, ông bị Bắc Cực (Tử Vi
Đại Đế) tấu tŕnh [Thượng Đế],
sắp bị [thiên đ́nh] phạt nặng. Trọng Ḥa hối
hận, sợ hăi, lập tức bỏ chức quan xử
án, thề tu một trăm điều thiện để
chuộc lỗi. Mỗi lần gặp tăng đạo
qua lại, người nghèo cùng thiếu thốn, góa bụa,
mồ côi, trơ trọi, tang ma hoặc bệnh tật ngặt
nghèo, ông không ǵ chẳng giúp đỡ, châu cấp. Chẳng
đầy mấy năm, gia sản trống rỗng. Sớm
chiều ông chỉ thờ phụng, dâng hương, thắp
đèn cho Chân Vũ Chân Quân. Rốt cuộc, do ông dũng
mănh sửa lỗi, được Chân Quân thương xót,
hóa thành đạo nhân, trao cho mười hai cây xăm thiêng
của Chân Quân để giúp cho ông tu đạo. Kế
đó, ông được Đông Nhạc thâu nhận, trọng dụng, bổ làm người ghi chép, trông coi sổ
sách ở Ma Khê. Triều đ́nh truy phong ông là Ngộ Bổn
Chân Nhân.
Đời Minh, Mạo Khởi
Tông nói: - [Trong phần chú giải kinh Dịch về] sáu hào
của quẻ Càn, sau cùng là nói cát tường, trước
hết là nói “vô cữu”
(không phạm lỗi). Có hối hận, có thể hối th́
sẽ có thể bù đắp lỗi, sẽ là tốt lành.
Lớn lao thay ư nghĩa của chữ Hối.
Đời Minh, ông Trần Lương
Mô lại nói: - Nghèo, giàu, sang, hèn, thọ, yểu của con
người cho đến một hớp uống, một
miếng ăn, mỗi hành vi, đều có vận số nhất
định, chẳng thể trái nghịch được.
Nhưng điều then chốt để chuyển dời
họa, phước lại ở nơi con người, mạng
số chẳng thể hạn cuộc được. Bởi
lẽ, số mạng đă định là mạng trời,
cảm ứng là ḷng trời. Trời lấy “sanh thành muôn vật” làm tâm, tột
bậc chân thành, không hư vọng. Nếu ai có một niệm
“giúp người, lợi vật” xuất phát tự đáy
ḷng, thoạt đầu chẳng phải là do v́ hữu vi
mà làm, tuy là một chuyện nhất thời, nhưng do ḷng
tinh thành tột bậc, sẽ có thể cảm cách ḷng trời,
như tiếng vang ứng theo [âm thanh]. Đấy lại là lẽ tất nhiên. “Số” là số trời. Ḷng trời đă cảm
cách, số (vận số) cũng sẽ chuyển theo, làm
sao có thể hạn cuộc cho được! Ví như
pháp chế trừng phạt hay ban thưởng của
nước nhà, nhất định là chẳng thay đổi. Nếu bầy tôi thật sự có thể
dùng ḷng trung thành khiến cho tâm vua cảm động, ắt
là tuy đă bị biếm trích mà vua có thể gọi trở
về, sắp bị hành h́nh mà được ân xá. Trong khoảnh
khắc, mừng, giận khác hẳn, làm sao chẳng thể
thay đổi cho được? Do vậy biết thiên lư
và vận số ảnh hưởng lẫn nhau xưa nay
chính là chuyện âm đức cảm ứng rất rơ rệt,
chẳng hư dối vậy!
(Chánh
văn) Cố cát nhân ngữ thiện, thị thiện, hành
thiện, nhất nhật hữu tam thiện, tam niên thiên tất
giáng chi phước. Hung nhân ngữ ác, thị ác, hành ác, nhất
nhật hữu tam ác, tam niên thiên tất giáng chi họa, hồ
bất miễn nhi hành chi?
(正文)故吉人語善。視善。行善。一日有三善。三年天必降之福。凶人語惡。視惡。行惡。一日有三惡。三年天必降之禍。胡不勉而行之。
(Chánh văn: Do vậy,
người cát tường nói lời lành, xem điều
lành, làm điều lành, mỗi ngày có ba điều lành th́
ba năm trời ắt ban phước cho. C̣n kẻ ác nói lời
ác, xem điều ác, làm điều ác, mỗi ngày có ba
điều ác, ba năm trời ắt sẽ giáng họa.
Sao không cố gắng thi hành vậy thay?)
Đoạn này tổng kết
toàn bộ thiên sách, chân thật dạy mọi người
con đường “thuận theo điều
thiện, trừ khử điều ác”. Chữ Cố (故) nhằm liên kết với hết thảy những câu văn trước đó. “Cát nhân” (吉人) là người do làm lành mà có thể
được phước. “Hung
nhân” (凶人) là kẻ do làm ác mà có thể mắc họa. Các
điều ác, các điều thiện, chẳng thể kể
trọn
hết; nói tổng quát, sẽ là ba loại “ngữ, thị, hạnh” (lời nói, cách nh́n, việc làm). Đấy chính là chỗ thiết thực để
đổ công dốc sức.
1) “Ngữ
thiện” (語善) là như lời phi lễ chớ nói, thích
nói điều tốt lành của người khác, khơi gợi
thiện tâm của người ta.
2) “Thị
thiện” (視善) là như phi lễ chớ nh́n, thích thấy
người lành, thích xem thiện thư, luôn thấy lỗi
ác của chính ḿnh, chẳng thấy người
khác sai trái.
3) “Hạnh thiện” (行善) là như chuyện phi lễ chớ làm, chuyện
phi pháp chớ dính dáng, dũng mănh làm lành, luôn tạo thuận
lợi [cho người
khác], làm đủ mọi thứ
âm công, xướng suất, hướng dẫn một
phương, cho đến thấu đạt bốn
phương, khiến cho ai nấy đều
được cảm hóa mà có cùng chí hướng.
Thiện nhân và những
người giống như họ đều là [ngữ thiện,
thị thiện, hạnh thiện] như thế; kẻ làm ác th́ ngược lại (tức
là ngữ ác, thị ác, hạnh ác). “Ba năm” là một ngàn ngày. Đấy là
phương pháp từ thời Đường Ngu (Nghiêu, Thuấn) dùng để khảo hạch thành tích, là
kỳ hạn để viên măn. [Với thời hạn
đó], thiện sẽ tích tập, mà ác cũng sẽ chứa
đầy. Ḷng người hết sức linh động,
biến hóa bất thường. Nếu suốt ba năm mà
cái tâm không thay đổi, tức là thiện và ác cũng đă
thuần. Nêu ra chữ Thiên, đấy chính là vị đại
chủ tể hưởng thiện phạt ác, ban phước,
giáng họa, là chỗ quy kết trọng yếu của
toàn thể thiên sách này, nhưng [ở đây phải hiểu] “Thiên” (天) chính
là cái tâm của ta. Mạnh Tử nói: “Tồn kỳ tâm, dưỡng
kỳ tánh, sở dĩ sự thiên dă” (Giữ tấm ḷng này, dưỡng tánh này;
đó chính là thờ phụng trời). Hai chữ Tất (必) không nhất định là nói trời xanh
thăm thẳm, không tiếng động, không mùi vị ắt
sẽ làm như thế, mà là nói cái tâm ta đă phát khởi
ngữ, thị, hạnh trong suốt ba năm [th́ sẽ sanh
ra tác dụng ấy]. Do vậy nói “không ǵ chẳng cầu từ chính ḿnh” chính là nói về
lư này. Bậc chí nhân vui với đạo, vốn chẳng
phải là cầu phước. Do cầu phước mà làm
lành, cái tâm đă dính dáng lẽ riêng tư. V́ thế, chỉ
nên trọn hết sức ḿnh, vâng thuận theo trời, chớ
nên có một mảy tâm niệm mong mỏi, đón chờ.
[Bởi lẽ, họa hay phước] chỉ là do cái tâm tự
cảm vời, mà đạo trời khéo đáp đền. Lư họa phước vốn
mênh mông, tràn đầy trời đất, chẳng sai sót mảy
may. Người đời nếu coi chuyện “làm lành, trừ ác” là chuyện thuộc
về bổn phận của chính ḿnh, cố nhiên là thuộc
về bậc thượng thượng; nhưng trên cơi
đời, đại đa số là kẻ b́nh phàm, làm sao
có thể trọn hết đều là bậc thượng
căn cho được? V́ thế, do sợ tai họa, do
cầu phước mà trừ bỏ điều ác, làm lành,
th́ cũng [ứng hợp] với ḷng mong mỏi của
đức Thái Thượng, chỉ sợ con người
chẳng cầu phước! Nói “cầu chi hữu
đạo, đắc chi hữu mạng” (có
phương cách để cầu, nhưng đạt
được hay không là do vận mạng) tức là cầu
phước th́ cũng có ích cho việc được
phước. Cầu như thế, cố nhiên chẳng gây
hại cho điều đang cầu mong. “Giáng phước” là như bản thân được
hưởng phước lộc, con cháu thiện
lương, vinh hiển, thịnh vượng, tăng thêm
tuổi thọ, gia đạo hưng thịnh, vạn sự
thuận ḥa. Thậm chí làm thánh, làm hiền, thành tiên, thành Phật,
triệt ngộ tự tánh, chứng thẳng vào Vô Sanh,
độ người, độ vật, tạo thành chuẩn
tắc tối cao cho muôn đời. “Giáng họa” (降禍) là như đích thân gặp phải những tai
họa rơ rệt, con cháu nham hiểm, ác độc, thường
bị dồn vào cảnh bại vong, tuổi thọ ngắn
ngủi, gia đạo ch́m đắm, mọi sự đều
bị trở ngại, thậm chí chết rồi sẽ vào
địa ngục Vô Gián, luân hồi trong dị loại,
vĩnh viễn chịu tội, điều ác lan sang đời
sau, muôn năm bị thóa mạ. Than ôi! Do vậy mà luận
định, đạo họa phước to lớn thay,
đúng là chẳng thể nghĩ bàn được.
Câu cuối cùng nêu ra hai chữ
“miễn hành” (勉行) chỉ nhằm nói đến ư “chúng thiện phụng hành”
(vâng làm các điều thiện) trong phần trước;
đó là điểm
then chốt chung của toàn bộ Cảm
Ứng Thiên. Chữ Miễn (勉) chính là bí quyết trọng yếu nhất
để “hướng thiện, sửa
lỗi”, há chẳng phải là từ ngữ trách móc, cảm thán ư? “Hành”
(行) là bản thân nỗ lực thực hiện.
“Miễn hành” là gắng hết
sức nỗ lực thực hiện, thà chết chẳng lùi!
Kinh Thư chép: “Phi tri chi nan, duy
hành chi nan” (Biết chẳng phải là khó, chỉ có
hành là khó). Ngạn ngữ có câu: “Thuyết
đắc nhất xích, bất như hành đắc nhất
thốn” (Nói cả thước, chẳng bằng làm được một
tấc). Nếu biết mà chẳng hành, chắc chắn chẳng
có thọ dụng ǵ! Đă chẳng được thọ
dụng, chẳng tránh khỏi hướng vào biển sanh tử,
tự làm tự chịu. Người đời mong cầu một sanh lộ, cần phải bỏ ra tử
công (死功, công phu dẫu chết không lùi bước). Châu Tử
nói: “Khi khí Dương phát khởi;
vàng, đá cũng bị xuyên qua”. Tinh thần đạt
đến khắp mọi nơi, có chuyện ǵ mà chẳng
thành! Ai có thể như thế th́ công hạnh sẽ viên
măn, thành chân (thành tiên), chứng thánh, há lẽ nào chẳng phải
là chuyện tất yếu ư?
Chẳng có điều thiện,
sẽ không có phước; chẳng có điều ác, sẽ
không có họa. Đấy là lẽ thường hằng
trong đạo trời, nhưng báo ứng thiện ác có khi
rơi vào bản thân người ấy, có khi rơi vào con
cháu. Có kẻ là người ác trong đời hiện tại,
nhưng do phước trong đời trước chín muồi,
đáng phải chịu họa mà chuyển thành hưởng
phước. Có người là thiện nhân trong đời hiện
tại, do tội trong đời trước chín muồi,
đáng hưởng phước mà chuyển thành chịu họa.
Đợi cho tới khi đă hưởng phước
hay chịu họa trong đời trước xong xuôi, thiện
báo hay ác báo trong đời này mới sẽ mỗi mỗi
đều tiếp nhận. Chuyện này chẳng qua là sớm
hay muộn, trước hay sau đó thôi! Chẳng phải
là báo ứng thiện ác bị mất đi. V́ thế nói: “Pháp luật dương gian nhanh
chóng, có thể trốn thoát. Pháp luật cơi âm chậm chạp,
nhưng chẳng bỏ sót!” Lưới dương gian
thưa dễ lọt, lưới cơi âm kín kẽ, khó trốn.
Người thời nay ngẫu nhiên làm một điều thiện, bèn mong được báo ứng; hễ
hơi có điều ǵ chẳng vừa ư, liền bảo: “Đạo trời khó biết”. Nào
có biết người không bị đói, chẳng bị rét, không tai, không họa, kẻ
sĩ được đọc sách, nông dân được
cày cấy, thợ thuyền được làm lụng, lái buôn
được buôn bán, luôn toét miệng cười, hằng
ngày ít phải chau mày, há chẳng phải là cái phước
b́nh an đấy ư? Nếu không, nguyện vọng trong
cơi đời không ngằn mé, thế giới khuyết hăm,
há ai nấy đều có thể phú quư, thuận lợi, hiển
đạt ư? Người đời chỉ nên tôn kính,
tin tưởng Cảm Ứng Thiên, vâng làm theo từng chuyện,
tự nhiên sẽ là phước lộc vô lượng, con
cháu vinh hiển, hưng thịnh. Hành suốt một
năm, muôn tội tiêu diệt. Hành suốt bốn năm, trăm
phước đều nhóm họp. Hành suốt bảy năm,
con cháu đỗ đạt. Hành cả mười năm,
thọ mạng kéo dài. Hành mười lăm năm, vạn
sự như ư. Hành hai mươi hoặc ba mươi
năm, được ghi tên vào sổ tiên. Hành năm
mươi năm, thiên thần cung kính, được xếp
vào ngôi vị nơi thượng giới. Đấy là lời
chân thật chẳng dối gạt của đức Thái
Thượng, sợ người đời chẳng thể
thật sự thực hiện đó thôi! Đại khái, bậc
dốc chí nơi đại đạo, khi mới phát nguyện,
liền chú trọng tự độ và độ người.
Để tự độ và độ người khác,
trước hết là phải phước huệ song tu. Tu
huệ, ắt phải kiến tánh minh tông. Tu phước, ắt
phải [chú trọng] nơi ngũ thường, bách hạnh.
Hai thứ [phước và huệ] bổ trợ nhau, Thượng
Đế ắt hạ chiếu thư cơi trời đối
đăi, chư Phật nhất định dùng Tịnh Độ
để nhiếp thọ. Không chỉ là siêu sanh thượng
giới, mà thật ra, c̣n là mau chóng chứng Vô Sanh, bất
sanh, bất diệt, sau đấy mới có thể nhập
thế độ sanh. Liễu ngộ đại sự nhân
duyên này, nếu khăng khăng mong cầu trường
sanh, tu tánh mạng, đó chính là “chẳng tu tam-muội”; khi báo hết, sẽ trở lại, liền
sanh vào Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, thọ
tới tám vạn bốn ngàn đại kiếp. Rốt cuộc,
lại vào trong các nẻo [của lục đạo], chẳng
thể xuất thế, nhưng ở trong các đường
ấy, đều là do chẳng liễu ngộ diệu minh
chân tâm, những thứ hư vọng đă
tích tập sẽ phát sanh, bèn hư vọng có tam giới, lầm
lạc ch́m đắm nơi bảy đường trong ấy!
Do vọng nghiệp chiêu cảm, dẫn khởi tùy theo từng loài [mà sanh vào trong các
đường]. Chỉ có triệt ngộ Bồ Đề
th́ các vọng duyên ấy vốn là vô sở hữu,
hạnh lực Phổ Môn lại đủ để duy
tŕ. Do vậy, người có thể liễu ngộ đại
sự nhân duyên ắt sẽ nương về chư vị
Phước Huệ Lưỡng Túc Tôn vậy!
Trong Bàn Sơn Ngữ Lục[68] của
Thê Vân Chân Nhân Vương Chí [Cẩn] có chép:
- Nếu hỏi: “Làm thế
nào để thoát khỏi tội phước nhân quả?” Thầy
(Vương đạo sĩ) đáp: “Tội phước
nhân quả là cái vỏ của âm dương. Nếu ông
thoát khỏi cái vỏ âm dương, sẽ không có tội phước
nhân quả. Cái vỏ âm dương là như thế nào? Phàm
là trong tâm có một mảy ư niệm tư dục tự lợi,
sẽ thuộc vào cái vỏ âm. Hễ có một mảy niệm
thích làm thiện sự, sẽ thuộc vào cái vỏ dương.
Nơi âm bèn có ác báo; nơi dương th́ có thiện báo. Nếu
có thể luyện sao cho tâm thể như hư không, chẳng
thiện, chẳng ác, chẳng có mảy may vướng mắc,
tự làm chủ được, ắt họa phước
sẽ chẳng thể dính mắc người ấy, nhân
quả chẳng thể ràng buộc người ấy được.
Đó là bậc chân nhân thoát khỏi cái vỏ âm
dương”.
Đời Tống, ông Châu Hối
Am nỗ lực thực hiện quy củ rất nghiêm, tạo
thành sự bất tiện cho kẻ hậu học, nào có biết
trong khi chưa thấu hiểu rơ ràng Lư Học, khi mô phỏng,
học tập tâm tánh [theo khuôn khổ của thánh hiền
Nho gia] trong cơi đời mà nếu bỏ sót, chán ghét điểm
then chốt trọng yếu này, [Lư Học] sẽ bị ẩn mất ngay trong thuở
đó. Nếu không do ông Châu một
phen chống đỡ, duy tŕ, ắt Lư
Học đă bị băng hoại, biến mất từ
lâu rồi. Thuở ấy, Đạo học bị cấm
đoán, bị quy kết là ngụy học, bị chỉ
trích là tà khí (mang hơi hướng tà vạy). Trong những
kẻ gây chuyện ồn ào, có gă hề Hàn Thác Trụ, có
Lâm Lật Chi đánh phá những kẻ có ư kiến khác ḿnh,
có Vương Hoài, Trần Cổ báo thù oán xưa, khiến
cho sáu kinh của Khổng Mạnh trở thành thứ bị
cấm ngặt trong cơi đời, thuyết “chánh
tâm, thành ư” bị những người ở địa
vị cao chán ghét, chẳng muốn nghe. Những kẻ
sĩ tuân theo quy củ đều nín hơi, lặng câm, c̣n
bọn học tṛ xu thời phụ thế th́ mạo danh thầy
của bọn họ [làm ra vẻ ḿnh là kẻ ưu thời
mẫn thế]. Chỉ riêng ḿnh Châu Hy gánh vác đạo thống,
chẳng lo sầu, chẳng run sợ, cứ dâng biểu
[lên hoàng thượng] phơi bày mọi lẽ chẳng sót,
tiến cử, tiếp dẫn [bậc hiền tài] không bỏ
lỡ ngày nào. Trong những tờ biểu tâu tŕnh lên vua, ông
đă khoét tủy, rỗng ḷng [phơi bày nhiệt tâm thành
ư], [đề nghị] các biện pháp như lập kho chứa
thóc tại các châu huyện để pḥng ngừa năm mất
mùa, cứu người bị hỏa hoạn, cứu vớt
người bị chết đuối. Ứng xử tiến
thoái, chẳng cẩu thả bước nào! Ông bị kẻ
khác sàm báng, đối với trăm nỗi vùi dập vẫn
ung dung, tích cực dạy dỗ kẻ hậu học, cho
nên có nhiều kẻ hiền tài đua nhau xuất hiện.
Ông nghiêm cẩn kềm giữ chính ḿnh, chẳng hề vi phạm
Tứ Vật[69] [của
Nhan Hồi]. Do vậy,
cái học Trâu Lỗ Liêm Lạc[70] như
mặt trời giữa trưa chính là hiệu quả do Châu
Tử đă dốc sức thực hiện vậy!
Đời Tống, Phạm
Nghiễm là người xứ Nhân Ḥa, tuổi tráng niên thi
đỗ Tiến Sĩ, làm quan tại các quận, huyện
rồi đạt đến chức khanh tá (卿佐, chấp chánh đại thần), làm quan
suốt hai mươi mấy năm. Mỗi ngày, ông ắt suy
nghĩ đạo “trung với
vua, tạo ân trạch cho dân”. Thấy, nghe, nói năng,
hành động, không dám cẩu thả mảy may. Tuy ở
trong nhà tối, pḥng kín, luôn luôn giữ ḿnh dè dặt, kinh sợ,
cảnh tỉnh. Đến khi con ông trưởng thành, ông
liền từ quan, quy ẩn, áo vải, cơm rau, chẳng
dính dáng đến duyên trong cơi đời, thanh tâm nhập
đạo. Hằng ngày, niệm tŕ các kinh Pháp Hoa, Kim Cang; hễ
rảnh rỗi th́ Thiền Định, quán tưởng. Hết
thảy Thế Đế, chẳng có mảy may [dính mắc].
Đạo đức và tánh mạng cũng đều quy về tự nhiên. Trong niên
hiệu Đại Quán [thời Tống Huy Tông], ông đă
chín mươi mấy tuổi, bỗng nhiên liễu ngộ, dặn ḍ người hầu:
- Con người sống
trong cơi đời, giống như một vở tuồng.
Khi trống, phèng la vang rền, kép, đào, hề, kép râu[71]… ai nấy
đều phô bày tài nghệ cho đến khi đuốc rụi,
đèn tàn, thành ra hứng thú nỗi ǵ? Như ta đến thế
gian, chín mươi năm như huyễn, như hóa, như
sương, như chớp, may mà ngộ được
điều ấy. Điều ấy chẳng có bờ mé,
cũng chẳng vuông, tṛn, lớn, nhỏ, cũng chẳng
phải là đỏ, trắng, xanh, vàng, cũng chẳng phải
là dài, ngắn, trên, dưới, chẳng sân, chẳng hỷ, không đúng,
không sai, chẳng thiện, chẳng ác. Đó gọi là “chẳng có một vật mà muôn
h́nh tượng thảy đều được bao gồm”.
Điều này là chân thật nhất, cao tột nhất, là diệu đế chẳng
đến chẳng đi, chỉ tại do ḷng người
chí thành, tinh tấn, tâm tâm tiếp nối, niệm niệm
chẳng đoạn. Tam thế chư Phật đều từ
lư này mà xuất hiện. Đó gọi là chân ngữ, thật
ngữ, như ngữ, phi cuống ngữ (lời lẽ chẳng
dối gạt), phi dị ngữ (lời nói chẳng khác lạ).
Các ngươi ai nấy hăy nên gắng hành.
Nói xong, ông ngồi yên, chắp
tay mà hóa. Nhất thời, mùi hương lạ đầy nhà,
mây lành phủ khắp không trung, các thứ quang minh chiếu
rọi thế giới mấy ngày chẳng an. Muôn mắt
đều cùng nh́n vào, ngưỡng mộ.
Những điều vừa
nêu trên đây chính là đường lối để gắng
sức thực hiện tam giáo từ hạ học cho tới
thượng đạt, đều quy về “cùng lư, tận tánh, là chỗ cao tột
nhất của bản tánh”. Tôi sao chép vào đây để
mong làm khuôn phép tột bậc cho các hành giả trong tam giáo, người
có chí hăy nên nghĩ tưởng!
Trương Củng Thần
nói: - Hết thảy các hành động, không ǵ là chẳng bắt đầu
từ nhỏ cho đến lớn. V́ thế, phàm thuộc loài có huyết khí đều có thể chứng
thẳng vào Vô Thượng Bồ Đề. Nhưng Vô Thượng
Bồ Đề chỉ ở chỗ cẩn trọng đối
với những ư niệm nhỏ nhặt vừa nẩy
sanh, thận trọng ngay khi chỉ ở một ḿnh, mở
rộng ra cho đến trọn hết mới thôi. Ông Viên
[Liễu Phàm] chẳng nói rồi đấy sao? Những thứ
[trót gây tạo] trước kia, ví như ngày hôm qua đă chết.
Những thứ từ nay trở đi, ví như sanh từ
hôm nay, há nên tự đành ḷng ruồng rẫy chính ḿnh,
để rồi phó mặc hết thảy họa phước
cho mạng trời, chần chờ, cẩu thả cho xong một
đời này vậy thay? Tôi đă gởi ḷng nơi cửa
Thích, đối với phần cuối của thiên sách này,
chẳng e ngại đôi ba lượt múa lưỡi, mong sao những
người đă có thiện căn sẽ đều nhờ
vào đây mà tự mở rộng [đức hạnh của
chính ḿnh].
Thiên hạ lớn tột
cùng, muôn đời xa tột cùng. Dẫu dùng vạn tay, vạn
mắt để cứu tế cơi đời này, vẫn chẳng
thể đủ. V́ thế, chuyện cấp bách nhất
chỉ là dạy dỗ người khác, há bắt buộc
phải đều là thánh hiền rồi mới có thể dạy dỗ người khác ư? Nếu
ai có thể thật sự nghe điều thiện mà hoan hỷ,
thấy điều thiện bèn vui ḷng, lúc nào cũng nói lời
thiện, bàn bạc việc thiện, nói đến thiện
báo, phân phát thiện thư, tức là đă giáo hóa khá nhiều.
C̣n [trong quá tŕnh giáo hóa ấy], sẽ chuyển đổi
linh hoạt, khéo léo, ứng dụng những mẹo vặt
hay ho, sống động, đều là càng ngày càng tinh tấn,
càng tinh vi hơn, đạt đến tột bậc biến
hóa, khế hợp, mà chính ḿnh chẳng tự biết. Dạy
kẻ vụng về, tầm thường, lại chẳng
bằng dạy bậc hào kiệt. Dạy được một
người, sẽ xoay chuyển càn khôn, tiếp nối
người trước, lưu truyền cho người sau, khiến cho người ấy lại dạy bảo
người khác, ắt sẽ là dạy [một người]
mà thành dạy trọn khắp. Bậc thánh hiền thuở
trước, truyền lại kinh thư cho cơi đời,
đều là v́ một nhân duyên đại sự này. Nay thiên sách này, [chính là] lời huyền diệu độ đời
của đức Thái Thượng, là mật đế (chân lư bí mật) cứu độ
chúng sanh của chư Phật, [đúng là] trước tác mầu
nhiệm nhân từ đời đời chẳng cùng tận.
Những ai tụng thiên sách này, hành theo, ấn loát, lưu
truyền, cũng đều là do có một đại
sự nhân duyên trong ấy. Giác ngộ cơi đời, yên dân,
bồi đắp nguyên khí, tạo phước, khiến
cho mọi người cùng làm lành, trời đất trong lặng,
yên ổn. Tâm lượng ức kiếp thường tṛn
đầy, quả thật chẳng thể nghĩ bàn
được!
Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên
Quyển 4 hết
Trọn Bộ
Thay lời kết & Hồi
Hướng
Có lẽ không có bộ thiện thư nào
được chú giải, truyền bá rộng răi bằng Cảm
Ứng Thiên. Trong các tác phẩm chú giải Cảm Ứng
Thiên, tổ Ấn Quang đặc biệt tán thán và ấn hành
Cảm Ứng Thiên Vựng Biên với một số lượng
khá lớn. Mỗi khi dạy người khác về nhân quả,
Ngài luôn biếu tặng sách này và An Sĩ Toàn Thư. Tuy thế,
mạt nhân vẫn không quan tâm lắm, cho đến khi có cơ
duyên lui tới Tịnh Tông Học Hội Dallas, mạt nhân
rất ngạc nhiên khi thấy trong các sách vở được
cơ quan Hoa Tạng và Phật Đà Giáo Dục ấn hành
thường xuyên có Cảm Ứng Thiên Vựng Biên và Cảm
Ứng Thiên Đồ Thuyết. Tiếc rằng khi ấy,
do thiếu tài liệu tham khảo, đối với những
lời chú giải của các bậc túc nho do quá cô đọng, quá nhiều
điển tích, dẫu có chú tâm đọc, mạt nhân vẫn không hiểu rơ cho lắm.
Khi xem đến quyển Cảm Ứng Thiên Vựng Thiên Bạch
Thoại Tiết Bổn th́ thấy đối với mỗi
điều, sách chỉ trích yếu vài đoạn, không đủ
giúp cho một kẻ học trộm, chữ nghĩa nhấp
nhem như mạt nhân hiểu được phần nào các
lời chú giải. Đến nay, như một duyên lành,
trước là pháp sư Định Hoằng giảng đoạn
mở đầu, sau là ông Hoàng Bách Lâm giảng trọn bộ
Cảm Ứng Thiên Vựng Biên; những điển cố,
những thành ngữ khó t́m, khó tra cứu đều được ông Hoàng
giảng rất tường tận; do đó, những phần
phải tự tra cứu đă giảm bớt rất nhiều.
Càng đọc, mạt nhân càng hiểu phần nào lư do v́ sao các vị tổ sư như
Liên Tŕ, Ấn Quang đều đề xướng Cảm
Ứng Thiên, Công Quá Cách, và Phật môn Trung Hoa coi trọng Cảm
Ứng Thiên đến thế. Đến nay, cảo bản
tiếng Việt đă hoàn thành, có người đọc
những phần dịch đă chê “toàn là chuyện thần tiên
hoang đường, toàn là tín ngưỡng Đạo giáo,
phí công dịch để làm ǵ”, nhưng chúng tôi dốc
ḷng tin tưởng lời Tổ đă dạy: “Hết thảy do tâm tạo”. Nếu chúng ta lănh hội
bằng cái tâm học Phật, sẽ thấy dẫu là pháp thế
gian, vẫn là Phật
pháp. Các vị thần, thánh, tiên, quỷ v.v… như sách này đă nói biết đâu
đều là hóa thân của Phật, Bồ Tát, chư
vị thánh hiền, nhằm ứng hợp với tâm tư t́nh cảm của
người thuở ấy mà hiện thân dưới các h́nh tướng quen thuộc trong tâm khảm
của đại chúng để dẫn dắt họ về
nẻo giác. Hơn nữa, bàng bạc trong tác phẩm này, tư
tưởng Phật giáo vẫn là chủ đạo. Có những
điều thoạt nh́n thuần là Đạo giáo, nhưng
trong lời chú giải, đă được diễn
giải theo cách nh́n duyên khởi của Phật giáo. Chúng
tôi tin rằng, ngoại trừ những bậc thượng
căn đại trí, dẫu chẳng chú trọng nhân quả
mà vẫn bất muội nhân quả, chứ hàng phàm phu lè tè
sát đất như mạt nhân, nếu chẳng do sợ quả
báo, sợ địa ngục, ắt sẽ khó thể chẳng
phạm những lỗi sai trái, khó thể làm tṛn nhân đạo
để mong tấn tu trên đường Phật đạo
được. Chúng tôi trộm nghĩ, thường đọc
Cảm Ứng Thiên, luôn giữ ḷng dè dặt, kinh sợ, cẩn
thận nơi từng tâm niệm nhỏ nhặt, phản
tỉnh suy xét chính ḿnh, chúng ta sẽ có thể thực hiện
phần nào giáo huấn “nhàn tà tồn
thành, đôn luân tận phận, tín nguyện niệm Phật,
văng sanh Tịnh Độ” như tổ Ấn Quang đă
dạy. Tuy đă có sẵn một số tài liệu, nhưng
do tâm trí chậm chạp, tối tăm, cũng
như do những bận rộn vụn vặt trong cuộc
sống thường ngày và việc làm, chúng tôi khởi sự
chuyển ngữ từ ngày 14 tháng Giêng năm 2017 nhưng măi
cho đến ngày mồng Chín tháng Ba năm 2018 mới tạm
xong cảo bản. Xin trân trọng cảm tạ ân đức
giảng giải của pháp sư Định Hoằng và cư
sĩ Hoàng Bách Lâm, cơ quan phát hành kinh sách Hoa Tạng, các vị
đạo hữu Đức Phong, Huệ Trang, Hồ Xuân
Trường, Trịnh Văn Lộc đă góp ư sửa chữa,
luôn khuyên nhủ, sách tấn trong suốt quá tŕnh chuyển
ngữ. Chỉ sợ tâm huyết đau đáu thương
đời, vệ đạo của bao thế hệ tiền
nhân, nay được chuyển ngữ sang tiếng Việt
qua cái nh́n hạn hẹp, ngu ám và tŕnh độ Hán Việt
nhấp nhem của mạt nhân đă bị sai lạc, biến
tướng, tạo thành duyên chê cười, phỉ báng,
gai mắt người đọc. Nếu việc làm liều
lĩnh này có chút công đức hay phước đức nào,
đều xin hồi hướng cho lịch đại tổ
tiên, sư trưởng, phụ mẫu hiện thế, đa
sanh phụ mẫu, các huynh đệ Đức Phong, Minh Tiến,
Huệ Trang, Xuân Trường, Văn Lộc cùng các vị
liên hữu và những ai tin tưởng nhân quả, tin
kính Phật Di Đà, sẽ đều được nghiệp
chướng tiêu trừ, thân tâm khang thái, nhất tâm nhất
ư phát nguyện văng sanh, cùng nhau hội ngộ nơi đài
sen của đấng Từ Phụ Di Đà.
Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa ngưỡng bạch
[1] “Thập ác bất xá” bao gồm mười điều
đại ác:
1. Mưu phản (謀反): Có âm mưu làm phản,
đảo chánh.
2. Mưu đại nghịch (謀大逆): Mưu tính hủy hoại
tông miếu, sơn lăng (lăng mộ của vua và hoàng tộc),
cung điện.
3. Mưu bội quốc
tùng ngụy (謀背國從僞): Âm mưu phản bội
quốc gia, làm tay sai cho ngoại bang.
4. Ác nghịch (惡逆): Đánh đập, mưu
sát cha mẹ, giết bác, chú, bác dâu, thím, ông bà, anh em của
ông bà.
5. Bất đạo (不道): Giết ba người
chẳng đáng tội chết trong một gia đ́nh, dùng
những h́nh thức giết chóc tàn nhẫn như chặt
tay chân, bùa chú, hoặc độc trùng để giết hại.
6. Đại bất cung (大不恭): Trộm cắp đồ
vật những vật dùng để cúng tế trong tông miếu
của vua, tự tiện sử dụng những vật dụng
như xe cộ, quần áo của vua, trộm cắp, hoặc ngụy tạo
những đồ vật quư báu của hoàng đế, chế
thuốc cho vua dùng không đúng toa, đúng liều, không bào
chế thuốc thang đúng cách, nấu ăn cho vua mà phạm
phải những món cấm kỵ, làm thuyền bè, xe cộ
cho vua ngồi không kiên cố.
7. Bất hiếu (不孝): Chửi bới, nói hỗn
với cha mẹ, ông bà, chẳng phụng dưỡng chu
đáo. Tội này c̣n bao gồm trường hợp cha mẹ
hoặc ông bà vừa mới chết, mà con cháu đă
làm đám cưới, đám hỏi, hoặc vui chơi, tiệc
tùng, ca xướng, hoặc là có tang mà giấu diếm, lén
lút chôn cất, hoặc v́ mục đích nào khác bèn nói dối
là ông bà, cha mẹ đều đă chết cả rồi.
8. Bất mục (不睦): Mưu sát, đánh đập
thân nhân, thưa kiện chồng, hoặc các bậc tôn
trưởng.
9. Bất nghĩa (不義): Giết hại trưởng
quan ở địa phương như huyện lệnh,
tri phủ, thứ sử… Cũng như giết chóc, làm hại
thầy dạy, hoặc thuộc hạ giết cấp
trên, hoặc chồng chết mà vợ giấu diếm không
làm đám tang.
10. Nội loạn (内亂): Gian dâm với nàng hầu,
thê thiếp của trưởng bối trong nhà.
[2] Quảng Tế (廣濟) là kho chứa thóc của
triều đ́nh để dự trữ khi mất mùa sẽ
bán ra với giá rẻ hoặc phát chẩn cho người
nghèo.
[3] Khố dịch (庫役) là những người
trông coi kho, chia thành các cấp bậc khố tử,
thương tử, đấu tử, xứng tử. Họ
trông coi việc nhập và xuất kho sao cho đúng số
lượng, ghi chép hóa đơn, phiếu nhập xuất,
biên lai thu thuế (thường gọi là “hộ sao”, 戶鈔).
[4] Phủ Phán ở đây
là chức Thông Phán (通判) ở cấp phủ. Từ
thời Bắc Tống trở đi, nhằm tăng cường
sự kiểm soát, khống chế các quan chức địa
phương, bên cạnh các quan đứng đầu các
châu, nhà Tống đặt ra chức Thông Phán Mỗ Châu Quân
Châu Sự, trong đó Mỗ là tên gọi của một
địa danh nào đó. Chẳng hạn, Thông Phán Hàng Châu
Quân Châu Sự. Thế tục thường gọi tắt chức
vụ này là Thông Phán, Thông Châu, Giám Quận, Quận Tá, Châu
Tá, Trị Trung, Biệt Hạ, Quận Thừa v.v… có nhiệm
vụ giám sát các quan trên, cũng như trông coi về
lương thực, vận chuyển gạo, muối, khai
thác mỏ v.v… cũng như giám sát một phần quân sự.
Từ thời Nguyên trở đi, triều đ́nh đặt thêm chức
Thông Phán tại các phủ. Đến đời Minh, dưới
quyền trưởng quan mỗi quận, huyện đều
có chức Thông Phán.
[5] Đây là một thành ngữ
xuất phát từ một điển tích trong chương Thư Hư
sách Luận Hành của Vương Sung đời Hán. Theo
đó, Quư Tử ở Diên Lăng đi chơi, thấy trên
đường có một túi vàng. Lúc ấy, đang tiết
tháng Năm, khí trời nóng bức oi nồng, trên đường
có một người mặc áo rất dày, đội củi,
chắc là tiều phu. Quư Tử bèn gọi người ấy
lại, bảo hăy nhặt vàng ở dưới đất
lên đem về mà dùng. Người ấy trừng mắt,
phẩy tay nói: “Ngươi sao
dám coi ḿnh là bậc cao khiết, coi rẻ người khác?
Tướng mạo của ngươi trông đàng hoàng, cớ
sao ăn nói tục tằn làm vậy? Ta đang trong tháng
Năm mùa Hạ mặc áo dầy, đội củi, há có
phải là hạng người nhận lấy vàng ư?”
Về sau, cổ nhân dùng thành ngữ “phi cừu phụ tân” (披裘負薪, mặc áo dầy, đội
củi) để h́nh dung bậc chí hướng cao cả,
thanh khiết, ẩn dật, bần cư.
[6]
Nguyên Tải quê ở
huyện Kỳ Sơn, thuộc huyện Phụng Tường.
Không rơ cha ruột là ai, mẹ tái giá với Cảnh
Thăng. Cảnh Thăng vốn là gia nô của Nguyên Thị,
Nguyên Thị là nguyên phi (vợ chánh) của Tào Vương
Lư Minh (con trai Đường Thái Tông). Do thâu tô đắc lực,
Cảnh Thăng rất được nhà họ Nguyên tin
dùng; hắn bèn xin được mang họ Nguyên. Do vậy,
Nguyên Tải cũng theo cha dượng đổi thành họ
Nguyên. Nguyên Tải thông minh, nhạy bén, đọc nhiều
sách vở, tinh thông sách vở của Đạo gia. Sau khi
đậu Tiến Sĩ, nhờ Thái Phỏng Sứ Lư Sát
Ngôn tiến cử, hắn được cử làm Phó Quan,
con đường hoạn lộ rộng mở, cuối
cùng ngoi lên chức Chi Độ Lang Trung. Do tài ăn nói,
Đường Trung Tông rất coi trọng hắn. Hắn
trở thành Trung Thư Thị Lang Đồng B́nh
Chương Sự (Tể Tướng) đời
Đường Đại Tông. Do trước sau đă bày
mưu tính kế giúp Đường Đại Tông tiêu diệt
hoạn quan Lư Quốc Phụ (tuy trước đó, khi c̣n
là Hộ Bộ Thị Lang, hắn đă từng xun xoe, xu nịnh
Lư Quốc Phụ) và hoạn quan Ngư Triều Ân, hắn
càng được Đường Đại Tông tín nhiệm.
Do khéo đón ư vua, vua tin tưởng hắn tuyệt đối,
khiến quyền hành của hắn ngày càng lớn, tự
tung tự tác, thậm chí loại bỏ những người
trung trực chẳng về hùa với hắn. Vua bèn sử
dụng Lư Tế Quân làm người đứng đầu
bộ Lại, dần dần chặn đứt vây cánh của
Nguyên Tải. Cuối cùng, nhà vua thành công kết tội hắn
tham ô và bắt giam Nguyên Tải. Sau khi hắn và các con bị
xử tử, lăng mộ của tổ tiên hắn c̣n bị
khai quật, lại c̣n bị đặt thụy hiệu là
Hứa Xương Hoang Tử (kẻ ngang ngược, lộng
quyền ở Hứa Xương). Một người con
gái của hắn là Nguyên Chân Nhất do làm đạo cô nên
được miễn tội chết, nhưng bị
đuổi khỏi đạo quán, sung làm nô tỳ. Măi cho đến
đời Đường Đức Tông, do nhớ ơn
hắn đă ủng hộ ḿnh trở thành Thái Tử, vua hạ
chiếu cải táng, khôi phục chức vụ cho hắn,
đổi thụy hiệu của hắn từ chữ
Hoang thành Thành Tổng (nghĩa là có tài năng, nhưng thiếu
đức hạnh).
[7] Chung nhũ (鐘乳) ở đây là các
nhũ thạch (Stalactite) lấy từ các thạch động.
Người Hoa dùng nó làm thuốc, hoặc chế thành
rượu ngâm nhũ thạch. Theo Đông Y, chung nhũ thạch
được coi là tánh ôn, vị ngọt, đi vào các kinh
Phế và Thận, có tác dụng khiến cho nguyên
dương tráng kiện, trị bệnh lao suyễn, ho hen
v́ lạnh, tay chân tê lạnh v.v…
[8] “Phốc đầu” (幞頭) là một loại măo. Loại
măo này thường dùng dây mây bện thành sườn mũ, bên ngoài phủ một
lớp sa. Tùy theo chức quan mà phốc đầu có nhiều
loại, nhưng loại “triển
giác phốc đầu” th́ giống như mũ cánh chuồn.
Loại “dực thiện quan”
không có cánh chuồn, thường được dành riêng
cho nhà vua đội vào thời Minh.
[9] Tửu Cáo (酒誥) là bài văn khuyên răn
nhắc nhở những họa hoạn về rượu
do Châu Công soạn. Bài này được chép trong phần Châu
Thư của sách Thượng Thư.
[10] Tác phẩm này có tên gọi
đầy đủ là Tửu Đức Tụng do Lưu
Linh soạn dưới đời Tây Tấn.
[11] Nguyên văn “nhất tước chi hiến”.
Tước (爵) là dụng cụ để đựng
rượu có h́nh dạng giống như con chim sẻ, chỉ
chứa được một thưng rượu. Dụng
cụ này cũng có thể dùng để uống rượu.
Trong khi cúng tế, nói “hiến
tước” (獻爵) tức là dâng rượu
vậy. Ở đây, nói “nhất
tước chi hiến” hàm ư chủ và khách mời nhau uống
một lượt rượu, có chừng mực, trang trọng,
cung kính như đang hiến rượu trong khi cúng tế.
[12] “Tửu lệnh” (酒令) tức là trong khi uống
rượu, người “cầm đầu” sẽ đặt
ra một quy tắc, chẳng hạn như dùng chén rượu,
hay thẻ rút thăm, chuyền đến phiên ai, người
đó phải làm ǵ đó, như giải đáp câu đố,
hoặc ngâm thơ, ca hát, làm tṛ, hay gồng tay (so quyền).
Kẻ thắng th́ được thưởng rượu,
người thua th́ cũng bị phạt uống rượu.
Mục đích chỉ là làm tṛ vui, gây náo nhiệt trong tiệc
rượu mà thôi.
[13]
Đề Học (提學) c̣n gọi là Học Chánh Sứ, là chức
quan quản trị hành chánh về việc học, có trách
nhiệm trông coi các cấp trường học và ấn
định các nội dung thi cử, tổ
chức các khóa thi tại địa phương theo mệnh
lệnh của bộ Lễ. Từ đời Tống, triều
đ́nh đặt ra Đề Cử Học Sự Ty
để quản lư các trường học trong mỗi quận
huyện. Đến đời Thanh, trưởng quan của
ty này được gọi là Đề Đốc Học
Chánh, gọi tắt là Đề Học, Học Đài, hoặc
Học Đạo, chưởng quản hành chánh về
phương diện giáo dục trong một tỉnh, tức
là tương đương với trưởng ty giáo dục
hiện thời.
[14] Phán (判) là chức phó quan phụ
tá người đứng đầu một địa
phương, có địa vị thấp hơn Tri Phủ
và Đồng Tri, cũng có thể là người đứng
đầu một sảnh (cơ quan hành chánh) tại địa
phương. Chức vụ này có nhiều cấp bậc
như Châu Phán, Thông Phán…
[15] Bào Tuyên sống vào thời
Tây Hán, là người xứ Bột Hải, học vấn
lỗi lạc, thông thạo kinh điển. Ông làm Gián Nghị
Đại Phu dưới thời Hán Ai Đế, thường
dâng thư can gián vua chăm lo triều chánh, gạt bỏ
gian thần, chủ trương cải cách những tệ
nạn thời ấy. Về sau, ông bị kết tội,
băi quan. Ông bị ép tự sát khi Vương Măng nắm giữ
quyền hành.
Lương Hồng sống
vào thời Đông Hán, gia cảnh hết sức nghèo nàn, khí
tiết cao thượng. Ông học rộng, thông đạt,
nhưng không thích theo đuổi văn chương. Sau khi
từ quan trở về, ông lấy Mạnh Quang làm vợ.
Mạnh Quang diện mạo hơi xấu, nhưng rất
hiền thục, đảm đang. Về sau, hai vợ chồng
vào núi Bá Lăng ẩn cư, chồng cày ruộng, vợ dệt
cửi, luôn đối đăi kính trọng nhau rất mực.
Thiếu Quân tên thật
là Hoàn Thiếu Quân, vợ của Bào Tuyên. Bào Tuyên theo học
với cha của Thiếu Quân. Do nhà Bào Tuyên nghèo khổ, c̣n
họ Hoàn rất giàu, nên của hồi môn mang theo rất
nhiều. Bào Tuyên không vui, bảo vợ: “Thiếu Quân sống
trong cảnh phú quư, quen trang điểm đẹp đẽ,
ta rất nghèo hèn, chẳng dám nhận lễ vật”. Thiếu
Quân nói: “Cha thiếp do biết tiên sinh là người tu
đức, giữ cương thường, bèn sai tiện
thiếp nâng khăn, sửa túi. Đă theo bậc quân tử,
thiếp chỉ vâng mạng”. Bào Tuyên cười đáp:
“Được như thế, chính là chí hướng của
ta”.
[16] Động thiên phước
địa (洞天福地) là chốn tiên cảnh
trong nhân gian.
[17]
Từ Viên (詞垣) là danh xưng khác của Hàn Lâm Viện
Học Sĩ. Từ đời Nguyên trở đi, hễ
được bổ vào Hàn Lâm Viện đều gọi
là Từ Viên.
[18] Tĩnh Nạn (靖難) là cuộc nội loạn
đầu thời Minh, do Yên Vương Châu Đệ khởi
xướng nhằm cướp ngôi của cháu là Châu Doăn
Văn (Minh Huệ Đế). Cuộc chiến này kéo dài suốt
ba năm, kết thúc khi Yên Vương chiến thắng, trở
thành Minh Thành Tổ (hoàng đế Vĩnh Lạc). Thái Tử
Châu Tiêu (con trai Minh Thái Tổ Châu Nguyên Chương) chết
trẻ, ngôi vua được truyền cho con trai của
Châu Tiêu là Châu Doăn Văn. E ngại trước các phiên
vương có thế lực quân sự mạnh mẽ, Huệ
Đế tính đến chuyện triệt giảm các phiên
vương. Do Châu Đệ là kẻ có
quyền lực lớn nhất, ông đă trở thành cái gai trong mắt
nhà vua. Trước các vụ án xử tử Châu
Vương, Tề Vương, Hằng Vương, Mẫn
Vương, Đại Vương liên tiếp, Châu Đệ quyết
định mưu phản.
[19] Long Môn là một địa
danh ở giáp ranh vùng Tây Bắc huyện Hà Tân của tỉnh
Hà Nam và miền Đông Bắc của thành phố Hàn Thành tỉnh
Thiểm Tây. Hoàng Hà chảy đến chỗ này nước
xiết, hai bên đều là vách đá cao hiểm trở,
trông giống như một cửa thành. V́ thế, gọi là
Long Môn. Theo truyền thuyết, Đại Vũ đă đục
thủng vách núi này để khơi ḍng chảy cho Hoàng Hà.
[20] Y Khuyết (伊闕) là vùng đất ở
phía Nam thành phố Lạc Dương. Theo truyền thuyết,
thuở trước vách núi hiểm trở, châu vào nhau, nh́n
xa như ṿm cửa. Nước sông Y Thủy chảy qua hẻm
núi này để tiến lên Bắc. V́ thế, nơi này
được gọi là Y Khuyết.
[21] Nguyên văn “Đông chinh phá phủ” (東征破斧) là nói đến công lao của
Châu Công đánh dẹp loạn chư hầu, giúp bốn
nước kiến thiết, dốc sức xây dựng
đến nỗi búa bị mẻ. V́ thế, người thời
ấy làm bài thơ Phá Phủ (búa mẻ) để ca ngợi
Châu Công. Xin trích dẫn khổ thơ đầu của bài
thơ ấy như sau: “Kư phá
ngă phủ, hựu khuyết ngă trạng, Châu Công đông
chinh, tứ quốc thị hoàng, ai ngă nhân tư, diệc khổng
chi tướng” (Búa của ta đă mẻ, ŕu của ta lại
khuyết, ông Châu Công đông chinh, bốn nước
được hưng vượng, thương xót dân
nước ta, cũng giúp xây to lớn).
[22] Chí Ḥa (至和) là niên hiệu của Tống
Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1054 đến 1056. Tống
Nhân Tông có ba con trai, nhưng đều chết sớm, c̣n lại
toàn là con gái. Nhân Tông đă nuôi Triệu Thự là con của
Triệu Doăn Nhượng (anh họ của Nhân Tông. Doăn
Nhượng là hậu duệ của Triệu Nguyên Phận.
Nguyên Phận là con thứ tư của Tống Thái Tổ)
từ bé; do vậy, các quan (đứng đầu
là Văn Ngạn Bác) thuyết phục Tống Nhân Tông lập
Triệu Thự làm hoàng tử kế nghiệp, tức Tống
Anh Tông. Tống Anh Tông làm vua bốn năm th́ mất, hưởng
dương ba mươi bốn tuổi. Con trai ông là
Dĩnh Vương Triệu Húc nối ngôi, tức Tống
Thần Tông.
[23] Thạch Sùng tên tự là
Quư Luân, là Thái Thú quận Thành Âm. Do có công đánh hạ
Đông Ngô, cho nên được phong làm An Dương
Hương Hầu, làm đến chức Thứ Sử
Kinh Châu. Do tư thông với giặc cướp, cướp
bóc những khách buôn, hắn trở thành giàu có. Sẵn tiền
bạc, lại khéo kinh doanh, Thạch Sùng trở thành bậc
cự phú, nhất là các mối lợi do vận tải hàng
hóa bằng tàu bè khiến cho hắn giàu nhất thuở ấy.
Vương Khải là em trai của Vương Nguyên Cơ
(chánh thất của Tư Mă Chiêu. Về sau, Vương
Nguyên Cơ được phong làm Văn Minh Hoàng Hậu).
Do vậy, Vương Khải là cậu của Tấn
Vũ Đế và cũng là một tay giàu có cực kỳ
xa xỉ thời ấy. Hai bên đấu giàu đến mức
hoang đường như Vương Khải dùng nước
đường để chùi rửa nồi (đường
thuở ấy rất mắc), Thạch Sùng sai gia nhân dùng nến
đốt ḷ thay cho củi! Đến khi Tấn Huệ
Đế lên ngôi, Thạch Sùng cùng Tướng Quốc là
Triệu Vương Tư Mă Luân tranh giành kỹ nữ Lục
Châu. Khi ấy, Thạch Sùng được phong làm chức
Thái Phỏng ở đất Giao Chỉ. Tại đó, có một
kỹ nữ lừng danh là Lục Châu, Thạch Sùng mua về,
dựng một biệt thự đặt tên là Kim Cốc
cho nàng ở. Tư Mă Luân mê đắm, t́m cách chiếm
đoạt, nên lập kế gán tội cho Thạch Sùng, khiến
cho Thạch Sùng bị tử h́nh. Trong dân gian, tương
truyền Thạch Sùng v́ tiếc của, hóa thành một loài
ḅ sát hay chắt lưỡi, tức con thạch sùng.
[24]
Tôn Tẫn không rơ tên thật là ǵ, do bị
chặt chân (Tẫn, 臏),
nên gọi là Tôn Tẫn. Chỉ biết ông là hậu duệ
của danh tướng Tôn Vũ. Tổ tiên của Tôn Tẫn
vốn họ Trần, là hậu duệ của công tử
Trần Hoàn nước Trần. Đến đời Trần
Thư, do giúp vua Tề đánh nước Cử lập
đại công, nên được ban họ là Tôn, đất
phong tại Lạc An. Trần Thư trở thành thỉ tổ
họ Tôn. Đến đời cháu của Tôn Thư là Tôn
Vũ do tránh nội loạn nước Tề, chạy sang
Ngô, trở thành danh tướng tại đó. Tôn Tẫn là
cháu năm đời của Tôn Vũ. Khi Bàng Quyên trở
thành đại tướng tại nước Ngụy, tự
biết tài năng không bằng Tôn Tẫn, bèn sai người
thỉnh Tôn Tẫn đến nước Ngụy. Bàng Quyên
trọng đăi ḥng học lóm binh pháp của Tôn Tẫn, lại
ngấm ngầm vu tội đến nỗi vua Ngụy tức
giận hạ lệnh chặt chân Tôn Tẫn, thích chữ
lên mặt. Khi sứ giả nước Tề sang sứ
nước Ngụy, Tôn Tẫn bí mật dùng thân phận tù
nhân bái kiến sứ giả, dùng lời lẽ thuyết phục
khiến cho ông ta đồng ư lén giấu Tôn Tẫn đem
về nước Tề. Khi về Tề, ông được
tướng Điền Kỵ coi trọng. Tôn Tẫn bày kế
khiến cho Điền Kỵ luôn thắng cuộc, thắng
Tề Oai Vương cả ngàn lạng vàng. Do vậy, Tề
Oai Vương biết tiếng, mời ông dạy binh pháp.
Ông đă khiến cho quân nước Tề hùng mạnh, luôn
chiến thắng, đánh bại nước Ngụy, giết
sạch quân Ngụy và Bàng Quyên trong trận Mă Lăng. Trong
dân gian, Tôn Tẫn được tôn là tổ của các nghề
làm hài cỏ, thuộc da, đốt than, làm đậu hủ
và đắp tượng.
[25] Theo thiên Bổn Mạng
trong sách Lễ Kư, nếu phụ nữ phạm vào một
trong bảy điều th́ sẽ bị chồng bỏ, gọi
chung là Thất Xuất (七出), tức là: 1. Chẳng
hiếu thuận với cha mẹ chồng. 2. Không có con. 3.
Phạm tội tà dâm. 4. Đố kỵ. 5. Có ác tật. 6.
Nói quá nhiều, thèo lẻo, đâm thọc, dựng chuyện
v.v… 7. Trộm cắp.
[26] Giả Sung, tên tự là
Công Lư, người huyện Tương Lăng, quận
B́nh Dương. Hắn làm Thượng Thư Lang dưới
đời Tào Ngụy. Về sau làm Tham Quân cho Đại
Tướng Quân Tư Mă Sư, lập chiến công,
được con của Tư Mă Sư là Tư Mă
Chiêu rất tán thưởng. Hắn dốc hết tâm lực
phục vụ Tư Mă Chiêu. Khi vua Tào Ngụy là Tào Mao
đánh Tư Mă Chiêu để giành lại quyền bính,
đội quân cấm vệ của Tư Mă Do (em trai Tư
Mă Chiêu) thất thế, Giả Sung đă cầm quân chống
lại, xúi vệ binh Thành Tế đâm chết Tào Mao rồi
đổ tội giết vua lên đầu Thành Tế. Khi con Tư Mă Chiêu là
Tư Mă Viêm ép vua Ngụy là Tào Hoán nhường ngôi, Giả
Sung được phong làm Thượng Thư Lệnh, Thị
Trung (tức vai tṛ Thừa Tướng thời ấy).
Trước khi lấy Quách Thị (tức Quách Ḥe, con gái của
Quách Phối), Giả Sung đă lấy Lư Phu Nhân. V́ cha của
Lư Phu Nhân chống lại Tư Mă Sư, bị kết tội,
Giả Sung bèn bỏ Lư Phu Nhân nhằm tỏ ḷng trung thành với
gịng họ Tư Mă. Quách Ḥe
sanh được hai con gái là Giả Nam Phong và Giả Ngọ,
một trai là Giả Lê Dân (tức là đứa bé bị chết
đang nói ở đây). Thoạt đầu, Tấn Vũ
Đế (Tư Mă Chiêu) muốn cưới Giả Ngọ
cho Thái Tử Tư Mă Trung, nhưng Giả Ngọ c̣n quá bé,
cho nên Giả Sung đă lấy Giả Nam Phong thay vào. Tuy Giả
Nam Phong xấu xí, đen đúa, Tư Mă Trung lại mê mệt
Giả Nam Phong, không thiết tha học tập chánh sự.
Một vị đại thần là Vệ Quán đă khuyên
vua Tấn Vũ Đế (Tư Mă Viêm) hăy phế Thái Tử
v́ Thái Tử trí huệ chậm lụt, kém phát triển. Tấn
Vũ Đế bèn sai người đem các tấu
chương cho Thái Tử phê tŕnh để xem Tư Mă Trung
có quá đần độn như lời Vệ Quán nói hay
không. Giả Nam Phong đă khéo léo nhờ người tài giỏi
phê các tấu chương, rồi bảo Tư Mă Trung chép lại,
cho nên Tấn Vũ Đế vẫn tưởng Tư Mă
Trung có năng lực. Giả Sung biết chuyện, xúi Giả
Nam Phong ton hót với Tư Mă Trung nói khéo với Tấn
Vũ Đế ḥng lung lạc nhà vua, hại chết Vệ
Quán. Cuối thời Tấn Vũ Đế, ba tên gian thần
là Giả Sung, Bùi Tú và Vương Nhung đă lũng đoạn
triều chánh. Khi Tấn Huệ Đế (Tư
Mă Trung) lên ngôi, do quá nhu nhược, quyền hành hoàn toàn
nằm trong tay các đại thần. Giả Hậu (Giả
Nam Phong) thừa cơ cấu kết với Tư Mă Lượng
lập mưu giết chết Dương Tuấn (ông ngoại
của Huệ Đế) đang nắm quyền Thái Phó, giết
chết cả Dương Thái Hậu (mẹ của Huệ
Đế) và vợ Dương Tuấn (bà ngoại của
Huệ Đế), Huệ Đế chỉ biết ngơ
ngác nh́n họ bị hành h́nh. Sau đó, Giả
Hậu mặc sức dâm loạn, công khai bắt thanh
niên trai tráng vào cung hành lạc mỗi đêm, Huế Đệ
chỉ biết câm lặng nín chịu cho đến khi chú
vua là Tư Mă Luân khởi binh, giết chết Giả Hậu,
tận diệt ḍng họ Giả Sung. Sau đó, Tư Mă Luân
cướp ngôi Tấn Huệ Đế. Về sau, nhờ
Tư Mă Quưnh đánh bại Tư Mă Luân, Huệ Đế lại
làm vua.
[27] Đạp Thanh (踏青) là đi ra ngoại thành
chơi xuân. Do tản bộ du ngoạn, bước lên cỏ
xanh, nên gọi là Đạp
Thanh. Thuở xưa lấy ngày Thanh Minh làm hội Đạp
Thanh, vừa đi tảo mộ, vừa đi chơi dă ngoại.
Thoạt đầu, Đạp Thanh chỉ là dịp để
du ngoạn chơi xuân sau những tháng tù túng v́ mùa Đông, dần
dần kết hợp với tảo mộ. Ngày này cũng
là dịp để nam thanh nữ tú thừa cơ gặp gỡ,
mắt đi mày lại, ngấm nghé chọn người phối ngẫu, cho nên sách Cảm Ứng
Thiên mới chê trách chuyện mang tiếng tảo mộ,
nhưng thật ra là diện quần áo xênh xang, ngoạn cảnh,
ăn uống, trai gái ngắm nghía, ṭ vè nhau, trọn chẳng có
ḷng tưởng nhớ tổ tiên.
[28] Xu Bồ (樗蒲), c̣n gọi là Sư Bồ,
Ngũ Mộc, Trịch Lô, hoặc Hô Lô, là một món cờ bạc,
giải trí, từ ngoại quốc truyền vào Trung Hoa
dưới thời Hán. Có người nói món cờ này có nguồn
gốc từ tṛ chơi Chaupar của Ấn Độ. Bộ
cờ này gồm có năm loại con cờ, nên gọi là
Ngũ Mộc, tức là Bôi, Mă, Mộc, Trù, Thỉ, chia thành
bốn màu đen, trắng, trĩ và độc (thật ra
chỉ có hai màu là trắng và đen. Trĩ là quân cờ toàn
màu đen, kèm thêm hai con cờ màu trắng có viết chữ
Trĩ và Độc màu đen. C̣n Độc là quân cờ
toàn trắng, kèm thêm hai con cờ đen viết chữ
Trĩ và Mộc màu trắng). Tṛ chơi này bị ngăn cấm
dưới thời Tống, biến tướng thành cờ
Đả Mă (gần giống tṛ lắc xí ngầu chơi
cá ngựa hiện thời,
nhưng phức tạp hơn rất nhiều).
[29] Tử Hăn là tên tự của
công tử Hỷ (Cơ Hỷ), con trai của Trịnh Mục
Công (Cơ Tử Lan). Trịnh là một nước chư
hầu thời Châu, nay thuộc địa phận
tỉnh Sơn Tây. Nước Trịnh được thành
lập khi Châu Tuyên Vương (Cơ Tĩnh) phong cho em trai
là Cơ Hữu đất Trịnh Yển. Cơ Hữu trở
thành vua đầu tiên của nước Trịnh, tức
Trịnh Hoàn Công. Khi Châu U Vương say mê Bao Tự, phế
Thân Hậu và Thái Tử Nghi Cữu, cha Thân Hậu là Thân Hầu
đă mượn quân Khuyển Nhung tấn công nhà Châu, giết
chết Châu U Vương. Trịnh Hoàn Công do cứu giá,
cũng chết trong cuộc chiến này. Trịnh Mục
Công là vị vua thứ mười của nước Trịnh,
có mười ba người con trai. Ngoại trừ hai
người làm vua (tức công tử Di trở thành Trịnh
Linh Công, công tử Kiên thành Trịnh Tương Công), Tử
Khổng bị sát hại, Tử Nhiên lưu vong, con cháu Tử
Vũ và Tử Chí không được làm quan Khanh, quyền
hành nước Trịnh lọt vào tay con cháu của bảy
vị công tử c̣n lại. Họ tranh giành quyền lực
đấu đá nhau, sử gọi là Trịnh Quốc Thất
Mục, tức con cháu của Tử Tứ, Tử Hăn, Tử
Quốc, Tử Lương, Tử Ấn, Tử Du, và Tử
Phong. Sử thường gọi họ là Tứ Thị, Hăn
Thị v.v…
[30] Cao Tông tức là vua
Vũ Đinh nhà Thương, c̣n gọi là Ân Vũ, tên thật
là Tử Chiêu, là vua thứ hai mươi ba của nhà
Thương. Hiếu Kỷ là con trai vua Vũ Đinh, hết
sức hiếu thuận, nhưng do bị mẹ kế gièm
siểm, nên bị cha xua đuổi, giết chết. Thi Tử
đă chép về Hiếu Kỷ như sau: “Hiếu Kỷ sự thân, nhất dạ nhi ngũ khởi,
thị y hậu bạc, chẩm chi cao hạ dă” (Hiếu
Kỷ phụng sự cha mẹ, mỗi đêm thức dậy
năm lần để nh́n xem cha mẹ mặc áo dầy
hay mỏng, gối kê đầu cao hay thấp).
[31] Cát Phủ là đại
thần thời Châu Tuyên Vương, ông được nhà
Châu hết sức coi trọng, có thi tài, khéo làm thơ, phù tá
Châu Tuyên Vương trung hưng nhà Châu, tu chỉnh đại
nghiệp cả văn lẫn vơ, từng đánh tan quân rợ
Hiểm Doăn khi chúng tấn công kinh thành nhà Châu. Bá Kỳ là
con của Cát Phủ. Do vợ đă chết, Cát Phủ bèn
tục huyền. Vợ sau sợ Bá Kỳ sẽ được
nối chức cha, bèn gièm siểm, khiến cho Bá Kỳ bị
đuổi khỏi nhà, phải lang thang bẻ
lá sen che thân, vớt bèo ăn cho đỡ đói.
[32]
Năm vị thần (ngũ tự) trong
nhà theo truyền thống xưa của Trung Hoa là môn thần
(thần giữ cửa chánh), hộ thần (c̣n gọi là
song thần, tức thần cửa sổ, hoặc hiểu
theo nghĩa rộng là thần trông coi các cửa phụ),
trung lựu (thần đất, c̣n gọi là địa chủ
cơ, tức là người chủ của nền đất,
nhỏ hơn thần thổ địa. Thần thổ địa
tức thổ công cai quản cả một làng, một xă),
táo thần (thần bếp) và hành thần (thần trông coi
đường nẻo trong nhà. Do nhà xưa thường có
nhiều gian, giữa các gian nhà thường có hành lang thông
nhau, hoặc những khoảng sân rộng ngăn cách). Theo
Bạch Hổ Thông Đức Luận, năm vị thần
ấy lại là môn thần, hộ thần, tỉnh thần
(thần giếng), táo thần và trung lựu. Theo Lễ Kư,
thuở xưa chỉ hàng sĩ đại phu trở lên mới
được thờ thần đất, như Khúc Lễ
đă chép: “Thiên tử tế
thiên địa, khanh, đại phu tế ngũ tự,
sĩ tế kỳ tổ”
(thiên tử cúng trời đất, hàng khanh đại phu cúng
tế năm vị thần, c̣n dân chúng chỉ thờ cúng tổ
tiên).
[33] Theo Đạo giáo, vị
này được gọi là Vệ Pḥng Thánh Mẫu, tên thật
là Trần Tĩnh Cô, c̣n gọi là Lâm Thủy Phu Nhân, hoặc Thuận Thiên Thánh Mẫu,
sống vào đời Đường, quê ở làng Lâm Thủy,
huyện Cổ Điền, tỉnh Phước Kiến.
Tương truyền, bà từ một giọt máu của
Quán Âm Bồ Tát mà hóa thân, theo học đạo với Hứa
Chân Nhân. Có nhiều sự tích linh dị về vị nữ
thần này. Lời chú giải ở đây chắc là do một
vị đạo sĩ hoặc người theo Đạo
giáo viết ra.
[34] Nguyên Hoa (芫花) là một loại cây có
chất độc, có tên khoa học là Daphne Genkwa. Hoa của nó có thể dùng
làm thuốc độc, c̣n gọi là Ngư Độc, có
tánh chất tương tự như dây Thuốc Cá ở Việt
Nam. Hễ nghiền nát hoa này vứt xuống nước,
cá sẽ bị ngấm chất độc, chết nổi
ph́nh bụng lên mặt nước.
[35] Vào thời Hán Văn
Đế, có một danh y là Thuần Vu Ư, do phạm tội
bị áp giải đến Trường An. Ông chỉ có
năm đứa con gái, không có con trai. Năm cô gái khóc lóc muốn
theo cha đến Trường An. Ông thất vọng nói:
“Chỉ toàn con gái, chẳng có nửa mống con trai nào. Khi
hữu sự, cũng chẳng có ai giúp đỡ”. Đứa
con gái út là Đề Oanh nghe cha nói vậy, hết sức
đau ḷng, một mực theo cha đến Trường
An. Cô viết thư cho vua, xin vua tha tội cho cha, cô sẽ
vào hoàng cung làm nô lệ suốt đời để cho cha
có cơ hội sửa chữa sai lầm. Hán Văn Đế
bị tấm ḷng hiếu thảo của Đề Oanh cảm
động, tha cho Thuần Vu Ư. “Nhục
h́nh” (肉刑) là các h́nh phạt nặng nề, bao gồm
Mặc (墨, xăm chữ kể tội vào mặt), Tỵ (劓, cắt mũi), Phí (剕, chặt chân), Cung (宫, thiến), và Đại
Tịch (大辟, tử h́nh).
[36] Đường Hương
là một tấm gương trong Nhị Thập Tứ Hiếu,
mười bốn tuổi, cô thường theo cha mót lúa.
Khi hai cha con bị cọp tấn công, cô không có tấc sắt
trong tay, chẳng đoái hoài tánh mạng, chỉ lo cho tánh mạng
của cha, bèn xông tới, kẹp chặt cổ cọp. Cọp
hoảng sợ, lủi mất.
[37] Tào Nga là người huyện
Thượng Ngu, quận Cối Kê, sống vào thời
Đông Hán. Cha cô ta là Tào Hu sống bằng nghề thầy
cúng. Một hôm, Tào Hu đi cúng, ngồi thuyền đi tế
thần sông ở Thuấn Giang. Vô ư, té xuống nước,
chết mất xác. Tào Nga đi dọc theo sông khóc lóc suốt
mười bảy ngày. Cuối cùng, cô nhảy xuống sông
trầm ḿnh. Vài ngày sau, xác cô nổi lên c̣n cơng xác cha trên
lưng. Dân chúng thương xót lập đền thờ.
[38] Theo Liệt Nữ Truyện
trong Đông Hán Thư, cô này có tên gọi đầy đủ
là Thúc Tiên Hùng. Cha cô là Thúc Tiên Nê Ḥa sống vào thời Hán Thuận
Đế, từng giữ chức Công Tào tại huyện.
Ông vâng lệnh quan trên đến gặp Thái Thú Ba Quận.
Ngồi thuyền ra đi, do nước xiết, thuyền
lật, bị chết đuối. Con gái ông là Thúc Tiên Hùng
thương xót, khóc lóc không ngừng, muốn tự trầm
theo cha. Người nhà canh giữ nghiêm ngặt, nên cô không
làm ǵ được. Hơn một trăm ngày sau, thừa
lúc người nhà lơi lỏng, Thúc Tiên Hùng chèo thuyền
đến chỗ cha chết đuối, khóc lóc đau xót,
rồi gieo ḿnh tự tử. Em trai cô được chị
báo mộng sáu ngày sau sẽ đem xác cha nổi lên. Đến
hẹn, quả nhiên xác hai cha con cùng nổi lên mặt nước
ngay chỗ cô tự trầm. Huyện lệnh sai dựng bia kỷ niệm, lập
đền thờ.
[39] Úy (尉) là một chức quan.
Lăo úy ở đây là một người làm quan đến
chức Úy đă già. Không rơ Úy ở đây chỉ chức vụ
nào, v́ thời cổ, trong thời đại Xuân Thu, đă
có các chức quan Quân Úy, Dư Úy. Từ đời Tần -
Hán trở đi, có Thái Úy, Đ́nh Úy, Đô Úy, Huyện Úy, Vệ
Úy, Hiệu Úy v.v… đều gọi tắt là Úy. Nói chung
đây là một chức quan vơ; trong đó, Thái Úy lớn
nhất, tương đương với Bộ Trưởng
Quốc Pḥng hiện thời.
[40] Theo Đạo giáo, Ngũ Khí Thiên Quân c̣n
gọi là Ngũ Phương Ngũ Lăo Thiên Quân. Năm vị này được
coi là thần linh tối cổ, do thiên địa tự
nhiên sanh thành, địa vị dưới Tam Thanh (Thái
Thanh, Thượng Thanh, và Ngọc Thanh), bao gồm Đông
Phương Thanh Đế Thanh Linh Thỉ Lăo Cửu Khí
Thiên Quân, Nam Phương Xích Đế Đan Linh Chân Lăo Tam
Khí Thiên Quân, Trung Ương Hoàng Đế Huyền Linh Hoàng
Lăo Nhất Khí Thiên Quân, Tây Phương Bạch Đế Hạo
Linh Hoàng Lăo Thất Khí Thiên Quân, và Bắc Phương Hắc
Đế Ngũ Linh Huyền Lăo Ngũ Khí Thiên Quân.
[41] Huyền Đô (玄都) là cơi thần tiên,
thường được gọi là Vô Thượng Huyễn
Cảnh. Theo Đạo giáo, đó là nơi ở của
Thái Thượng Lăo Quân. Do vậy, có truyền thuyết cho
rằng đệ tử đích truyền duy nhất của
Thái Thượng Lăo Quân được gọi là Huyền
Đô Đại Pháp Sư. Có thuyết nói Vương Thiền
Lăo Tổ (Quỷ Cốc Tử) chính là Huyền Đô Đại
Pháp Sư.
[42] Vị này có danh xưng
đầy đủ Bắc Âm Phong Đô Đại Đế,
là vị thần chủ quản cơi địa ngục theo
Đạo giáo.
[43] Thái Âm Thiên Quân c̣n gọi
là Thái Âm Đế Quân, Thái Âm Nguyên Quân, hoặc Thái Âm Tinh
Quân, chính là thần mặt trăng trong Đạo giáo.
[44]
Nhũ Đầu Hương, c̣n gọi
là Nhũ Hương (frankincense), Ma Lặc Hương, Mă
Vĩ Hương, Tháp Hương, Tây Hương, Thiên Trạch
Hương… Loại hương này chính là chất nhựa
trích từ các loài cây thuộc họ Boswellia.
[45] Nguyệt Quư (月季) ở đây là một loại
hoa hồng, có tên khoa học là Rosa Chinensis, có màu từ hồng
cho tới đỏ đậm. Loại hoa này mọc nhiều
ở Quư Châu, Hồ Bắc và Tứ Xuyên. Tùy theo vùng mà hoa
này c̣n được gọi là Nguyệt Nguyệt Hồng,
Nguyệt Nguyệt Hoa, Trường Xuân Hoa, Canh Thân Tường
Vi v.v… Loài hoa này có nhiều chủng loại, nổi tiếng
nhất là Mai Khôi (Rosa Rugosa), Hoàng Thứ Khôi (Rosa Xanthira), Thu
Thủy Nguyệt Quư (Rosa Odorata). Cánh hoa dùng làm thuốc, chế
tinh dầu, nhất là chi hoa Mộc Hương Hoa (Rosa Banksiae). Loài hoa này hoàn toàn
không phải là hoa Nguyệt Quới như thường thấy
ở Việt Nam.
[46] Chư Kinh Yếu Tập,
c̣n gọi là Thiện Ác Nghiệp Báo Luận, do ngài Đạo
Thế vào đời Đường biên soạn, trích lục
những phần trọng yếu trong Tam Tạng về vấn
đề thiện, ác nghiệp báo. Bộ sách này mang tánh chất
tự điển Bách Khoa giống như bộ Kinh Luật
Dị Tướng do ngài Bảo Xướng biên soạn
vào đời Lương.
[47] Cảm Thông Truyện c̣n
gọi là Đạo Tuyên Luật Sư Cảm Ứng Lục,
hoặc Luật Tướng Cảm Thông Truyện do ngài
Đạo Tuyên biên soạn vào đời Đường.
Do ngài Đạo Tuyên hành tŕ giới luật
tinh nghiêm, cảm được một vị trời giáng
xuống, phụng sự, cùng Ngài vấn đáp về giới
luật. Những vấn đề hỏi đáp ấy
được tập hợp thành bộ sách này.
[48] Theo lệ xưa, một
tạng là 5.048 bộ. Cứ tụng hết toàn bộ một
bản kinh, bất luận kinh dài hay ngắn đều gọi
là một bộ. Chẳng hạn tụng trọn bản
kinh Kim Cang th́ gọi là tụng một bộ Kim Cang. Tụng
hết mười ba phẩm của kinh Địa Tạng
th́ cũng gọi là tụng một bộ Địa Tạng,
tụng hết hai mươi tám phẩm kinh Diệu Pháp
Liên Hoa th́ gọi là tụng một bộ Pháp Hoa. Khi nào tụng
đủ số 5.048 bộ như thế th́ gọi là tụng
được một tạng. Như vậy, ông Lư Bát
đă tụng 3x5.048=15.144 bộ Đại Bi Quán Âm Kinh.
[49] Trương Chân Nhân ở
đây là Trương Khôn Hạc, sống vào thời Đạo
Quang nhà Thanh. Năm hai mươi ba tuổi, ông quy y với
Đoàn Chân Nhân ở Văn Xương Các, tu tập Đạo
giáo, đạt thành tựu to lớn.
[50] Thái Mục Hoàng Hậu
(569-613) họ Đậu, sử không chép rơ tên, chỉ ghi bà
là con gái của Thượng Trụ Quốc Đậu Nghị
nhà Bắc Châu và Tương Dương Công Chúa (con gái của
Vũ Văn Thái, tức con gái của Bắc Châu Thái Tổ
Văn Hoàng Đế). Bà là vợ của Lư Uyên (Đường
Cao Tổ). Bà xinh đẹp, thông minh, thông thạo binh
thư. Ngay từ lúc bốn tuổi, bà đă khiến cho cậu
là Bắc Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) kinh ngạc
khi khuyên cậu phải sủng ái công chúa A Sử Na người
Đột Quyết, hăy nên tấn phong A Sử Na làm Hoàng Hậu, v́ nhà Châu c̣n có hai địch
thủ đáng gờm là Bắc Tề và Nam Trần. Nếu
sủng ái A Sử Na, nhà Châu sẽ có một lực lượng
hùng mạnh là Đột Quyết làm hậu thuẫn. Bắc
Châu Vũ Đế hết sức tán thưởng sự
phân tích sáng suốt của cô cháu gái, hết sức khâm phục
trí thông minh của cô. Khi bà mười tám tuổi, cha bà là
Đậu Nghị kiên quyết chỉ gả bà cho người
xứng đáng. Đậu Nghị cho vẽ hai con chim Khổng
Tước lên b́nh phong, ai đến cầu hôn th́ phải bắn trúng hai
con chim ấy trong một phát tên, chỉ có Lư Uyên là thành công.
Do vậy, bà lấy Lư Uyên. Bà qua đời trước khi
Lư Uyên lên ngôi hoàng đế. Về sau, dù Lư Uyên có nhiều
phi tần, không bao giờ lập người khác làm Hoàng Hậu.
Bà là mẹ đẻ của Lư Kiến Thành, Lư Thế Dân
(Đường Thái Tông), Lư Huyền Bá, Lư Nguyên Cát và B́nh
Dương Chiêu Công Chúa.
[51] Huỳnh Hoặc (熒惑) chính là Hỏa Tinh. Theo
Lă Thị Xuân Thu, phần Quư Hạ Kỷ, vào thời Tống
Cảnh Công (Tử Đầu Loan), Hỏa Tinh xâm phạm
sao Tâm, đấy là điềm bất tường. Vua sợ
hăi, triệu quan Thái Sử Tử Vi vào thương nghị.
Tử Vi nói: “Huỳnh Hoặc là h́nh phạt của cơi trời,
sao Tâm thuộc phận dă nước Tống. Vua sẽ mắc
họa, nhưng có thể dời hiểm họa ấy sang
Tể Tướng”. Vua đáp: “Tể Tướng là
người giúp ta cai trị đất nước, ông ta bị
chết, sẽ là điềm bất tường”. Tử
Vi lại nói: “Có thể chuyển họa sang dân chúng”. Vua
nói: “Dân chết th́ trẫm làm vua với ai? Thà là một ḿnh
ta chết”. Tử Vi lại nói: “Có thể chuyển thành mất
mùa”. Vua lắc đầu: “Mất mùa th́ dân đói. Dân bị
đói ắt chết, làm vua của dân mà giết dân để
chính ḿnh được sống, ai c̣n coi ta là vua? Mạng quả
nhân cố nhiên đă tận rồi, ngươi chẳng cần
phải nói nữa!” Tử Vi sắp rời đi, lại lạy
vua, thưa: “Thần dám chúc mừng bệ hạ, trời ở
trên cao, nhưng nghe thấu dưới thấp. Do ba lời
đức hạnh cao tột của bệ hạ, trời
cao ắt sẽ ban thưởng bệ hạ ba điều.
Tối nay, sao Huỳnh Hoặc sẽ lùi lại ba cung. Vua sống
thọ thêm hai mươi mốt năm”. Về sau, quả
nhiên đúng như vậy.
[52] Tuy gọi tên khác nhau,
nhưng đều là cầu vồng. Ánh sáng chiếu qua một
viên nước nhỏ, bị khúc xạ thành bảy màu là
đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh dương, chàm (indigo) và
tím, phản chiếu lên bầu trời, tạo thành h́nh ṿng
cung. Khi màu đỏ ở ngoài, màu tím ở trong cùng th́ gọi
là Hồng, hoặc Hùng Hồng (cầu vồng đực).
Khi màu đỏ nằm ở phía trong cầu vồng, màu
tím ở ngoài cùng, th́ gọi là Nghê, hoặc Thư Hồng
(cầu vồng cái). Lời chú giải nói “trắng lẫn đỏ” là nói tới
ŕa ngoài của cầu vồng
in trên nền trời màu trắng.
[53] Xuân Thu Vận Đẩu
Xu là một bộ sách bói toán có tên gọi chính xác là Xuân Thu Vỹ
Vận Đẩu Xu do các nhà Dịch học thời Hán viết
về thuật bói toán, chiêm tinh, chiêm nghiệm thiên tượng
(những biểu hiện trên bầu trời) dựa theo
các ư nghĩa trong kinh sách của Nho gia, thường gọi
chung là Vỹ Thư. Nội dung của Vỹ Thư bao gồm
kiến thức về thiên văn, lịch pháp, địa
lư v.v… kể cả những thần thoại.
[54] Theo Tống Thư, phần
Phù Thụy Chí, sau khi soạn xong Xuân Thu và Hiếu Kinh, Khổng
Tử cùng học tṛ làm lễ bẩm cáo với cơi trời.
Trời kéo mây dầy đặc, sương phủ trắng
đất, cầu vồng đỏ giáng xuống, hóa hiện
thành một miếng ngọc màu vàng, dài ba thước, trên
đó có khắc chữ. Khổng Tử quỳ nhận,
đọc: “Bảo văn xuất,
Lưu Quư ác, măo kim đao, tại Chẩn bắc, tự ḥa
tử, thiên hạ phục”. Các nhà chú giải giảng
câu này là dự ngôn (lời tiên đoán) Tần Thủy Hoàng
thống trị Trung Nguyên một thời gian ngắn, cuối
cùng Lưu Bang sẽ thống nhất sơn hà. Chẳng hạn
ba chữ Măo Kim Đao (卯金刀) ghép lại thành chữ
Lưu (劉). “Tại chẩn bắc”
là ngồi ở phương Bắc, ngoảnh mặt về
phương Nam, tức là làm vua. Tự Ḥa Tử là chữ
Ḥa (禾) và Tử (子) ghép thành chữ Quư (季), tức là dự báo
Lưu Bang sẽ làm vua. Theo Sử Kư, Lưu Bang có tên tự
là Quư; do đó, nhiều sách chép Hán Cao Tổ là Lưu Quư,
thay v́ chép tên ông là Lưu Bang.
[55] Tư Sĩ (司士) là một chức quan
được đặt ra từ thời Tây Châu. Chức
quan này cùng với Tư Mă, Tư Không, Tư Đồ, và
Tư Khấu được gọi là Ngũ Quan, chịu
trách nhiệm giám sát các quan. Về sau, chức vụ này
được thay thế bằng chức Ngự Sử
Đại Phu, nhưng người ta vẫn quen gọi Ngự
Sử Đại Phu là Tư Sĩ. Thậm chí các quan Gián
Nghị tại các cấp châu, huyện, phủ cũng
đều được gọi là Tư Sĩ.
[56] Dương Tố là
đại thần thời Tùy Văn Đế
(Dương Kiên). Ông ta thông minh, tài hoa, học rộng, nghe
nhiều, nhưng rất xảo trá. Do khéo dùng binh,
Dương Tố lập nhiều chiến công. V́ vậy,
ông ta được phong làm Thượng Thư Tả Bộc
Xạ, nắm quyền ngang ngửa với Tể Tướng
thời ấy. Tùy Văn Đế có ba đứa con trai,
con trưởng là Dương Dũng. Tùy Văn Đế
đă lập Dương Dũng làm Thái Tử, nhưng dần
dần do thấy Dương Dũng thiếu tài
trí, ham chơi, bèn phế đi, lập Dương Quảng
làm Thái Tử (tức là Tùy Dượng Đế sau này)
theo lời khuyên của Dương Tố. Dần dần,
Tùy Văn Đế phát hiện Dương Quảng là
người tàn nhẫn, hẹp ḥi. Trong khi vua nằm bệnh,
Dương Tố đến chầu hầu hằng ngày.
Ông ta nghe vua muốn tái lập Dương Dũng, bèn hạ
lệnh thay đổi quân túc vệ, khiến cho ư định
của vua không thể thực hiện được. Do vậy,
khi Tùy Văn Đế chết, Dương Quảng lên ngôi
vua không trở ngại. Dương Tố ỷ vào công lao
phù tá, kiêu ngạo, tự tung tự tác. Dượng Đế
ngày càng ghét Dương Tố. Em út của Dượng
Đế là Dương Lượng mượn cớ trừ
khử Dương Tố, dấy binh làm loạn ở Tinh
Châu. Dương Tố đem quân đi đánh dẹp, bắt
được Dương Lượng. Về sau, do Dượng
Đế ngày càng nghi kỵ, chèn ép gịng họ Dương Tố,
con Dương Tố là Dương Nguyên Cảm sợ bị
bức hại bèn dấy binh phản Tùy. Sau nhiều lần
bị đánh bại, Dương Nguyên Cảm bị Dượng
Đế sai người đánh thuốc độc giết
chết, và tru di tông tộc của Dương Tộc.
[57] Lư Tích là một danh
tướng đời Đường, vốn tên là Từ
Thế Tích. Do theo Đường Thái Tông lập nhiều
công lao, nên được ban họ Lư. V́ sợ phạm húy
Đường Thái Tông (Lư Thế Dân), Lư Thế Tích bỏ
chữ Thế trong tên của chính ḿnh. Ông làm đến chức
Binh Bộ Thượng Thư dưới triều
Đường Thái Tông. Ông ta là kẻ rất giảo hoạt,
khéo luồn lách, khéo gió chiều nào che chiều ấy. Về
sau, Đường Cao Tông (Lư Trị) muốn lập Vũ
Chiêu Nghi (Vũ Tắc Thiên) làm Hoàng Hậu, đa số các
đại thần phản đối. Vua bực bội, hỏi ư Lư Tích, Lư Tích
đáp ngay: “Đó là chuyện riêng trong nhà bệ hạ, cần
ǵ phải hỏi ư người ngoài!” Do vậy, Vũ Tắc
Thiên rất coi trọng ông ta. Cháu nội ông ta là Từ Kính
Nghiệp là danh tướng, do phù tá Đường Trung
Tông chống lại sự chuyên quyền của Vũ Tắc
Thiên, nên đă chiếm cứ Dương Châu dựng cờ
khởi nghĩa. Vũ Hậu sai Lư Hiếu Dật cầm
quân đánh dẹp. Kính Nghiệp bị đánh bại tại
mặt trận Cao Bưu. Anh em Kính Nghiệp đều
bị quân Đường truy bức, giết chết.
[58] Nhị tập (hai thứ
tập khí) ở đây chính là chủng tập và hiện tập.
“Chủng tập” là những
chủng tử có sẵn do những thói quen từ trước
hoặc do kinh nghiệm từng trải từ trước
kết thành, khi gặp đúng duyên, chúng sẽ dấy lên hiện
hành. Sự hiện hành ấy được gọi là “hiện tập”.
[59] Theo ông Hoàng Bách Lâm, “vương sứ” là sứ
giả của Diêm Vương. “Chủ
lại” là những viên quan chủ quản sổ sách
trong cơi âm.
[60] Tân La (Silla) là một
vương quốc cổ nằm ở phía Nam và một phần
miền
Trung bán
đảo Triều Tiên, tồn tại từ năm 57
đến năm 935. Tân La cùng với Bách Tế (Baekje) và Cao Câu Ly (Goguryeo) hợp thành Tam Quốc
trong cổ sử Đại Hàn. Vương triều này do
Phác Hách Cư Thế Cư Tây Can (Bak Hyeokgeose Geoseogan) sáng lập.
Cuối cùng, vương triều này thôn tính Bách Tế và Cao
Câu Ly. Sau gần một ngàn năm thịnh trị, Tân La lại rơi vào t́nh trạng
tam phân, tức là Hậu Tân La, Hậu Bạch Tế, và Thái
Phong (Taebong). Sau đó, Tân La bị vương quốc Cao Ly
(Goryeo) tiêu diệt.
[61] Mân (緡) là một ngàn đồng.
[62] Đinh Vị (966-1037) là
một gă đại gian thần thời Bắc Tống. Hắn
quê ở Trường Châu thuộc Tô Châu, có tài ăn nói, giỏi
thơ, họa, tinh thông sách vở và cờ vây. Hắn xuất
thân là môn hạ của Khấu Chuẩn. Nhờ khéo luồn
lách, hắn làm đến Hộ Bộ Thị Lang, kiêm Tham
Tri Chánh Sự. Khi đă nắm quyền, hắn tận lực
hạ bệ, bài xích Khấu Chuẩn, khiến ông Khấu
bị đày đi Lôi Châu. Đinh Vị cùng với
Vương Khâm Nhược, Lâm Đặc, Trần Bành Niên
và Lưu Thừa Khuê kéo bè kết đảng khuynh loát triều
chánh, sử thường gọi bọn chúng là Ngũ Quỷ.
Về sau, do đồng đảng là Lôi Doăn Cung phạm tội
xâm phạm lăng tẩm của hoàng đế, hắn bị
liên lụy, bị giáng chức làm Thái Tử Thái Bảo,
rồi bị đày đi Nhai Châu (Châu Nhai).
[63] Tào Ty (漕司) là chức quan quản
trị vận chuyển theo đường thủy.
[64] Đây là nói đến một
đoạn trong thiên Tận Tâm Hạ sách Mạnh Tử: “Ngô kim nhi hậu tri sát nhân thân chi
trọng dă. Sát nhân chi phụ, nhân diệc sát kỳ phụ.
Sát nhân chi huynh, nhân diệc sát kỳ huynh. Nhiên tắc phi tự
sát chi dă, nhất gián nhĩ” (Từ nay trở đi ta biết giết người
thân của kẻ khác là nặng nề. Giết cha của
người ta, người ta cũng giết cha ḿnh. Giết
anh của người ta, người ta cũng giết anh
của chính ḿnh. Tuy chẳng phải do chính ḿnh tự giết,
nhưng xét đến nguồn cội, có khác ǵ đâu?)
[65] Nguyên văn “lậu bô” (漏脯) nghĩa là thịt khô
để nơi dột nát, hoặc bị ngấm nước,
sẽ sanh ra nấm mốc rất độc.
[66] Đây
là một đoạn trong thiên Tận Tâm Hạ của sách
Mạnh Tử: “Kê minh nhi khởi,
tư tư vi thiện giả, Thuấn chi đồ dă. Kê
minh nhi khởi, tư tư vi lợi giả, Chích chi đồ
dă. Dục tri Thuấn dữ Chích chi phân, vô tha, lợi dữ
thiện chi gian dă” (gà gáy bèn thức dậy, siêng gắng
làm lành, đó là hạng người giống như vua Thuấn.
Gà gáy bèn thức dậy, chăm chú làm lợi cho [bản thân],
đó là hạng người giống như Đạo Chích.
Muốn biết rơ để phân biệt giữa hạng người
giống như vua Thuấn hay như Đạo Chích, chẳng
có ǵ khác, chỉ là [sự khác biệt] giữa lợi và thiện).
[67] Thiên Thánh là niên hiệu của
Tống Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1023 tới
năm 1032.
[68] Bàn Sơn Ngữ Lục
là tác phẩm do đệ tử của đạo sĩ
Vương Chí Cẩn biên soạn vào cuối đời
Kim, đầu đời Nguyên. Vương Chí Cẩn là
đạo sĩ của Toàn Chân Giáo, đạo hiệu là
Thê Vân Tử. Sách này ghi chép những lời dạy của
Vương đạo sĩ về cách tu luyện trong
Đạo giáo dựa trên những luận giải về
Thanh Tịnh Kinh. Do ông Vương tham khảo bộ Thiền
Tông Tâm Tánh Luận, nên trong tác phẩm này có rất nhiều
yếu tố Thiền.
[69] Tứ Vật (四勿) là “bốn điều đừng nên”, trích từ
thiên Nhan Uyên trong sách Luận Ngữ. Sách chép: “Tử viết: ‘Khắc kỷ
phục lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục
lễ, thiên hạ quy nhân yên, vi nhân do kỷ, nhi do nhân hồ
tai?’ Nhan Uyên viết: ‘Thỉnh vấn kỳ mục’. Tử
viết: ‘Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính,
phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (Khổng
Tử nói: “Khắc chế sự ham muốn của chính
ḿnh, khôi phục lễ nghĩa, đó là nội dung của
nhân. Ngày nào mọi người đều khắc chế
tư dục, tuân thủ lễ nghĩa, [ngày ấy] khắp
thiên hạ đều là người có ḷng nhân. Thực hiện
ḷng nhân phải từ chính ḿnh, chứ [chờ đợi]
người khác thực hiện ḷng nhân th́ làm sao được?”
Nhan Uyên thưa: “Xin thầy dạy cho biết các điều
mục [để thực hiện ḷng nhân]”. Khổng Tử bảo:
“Việc
phi lễ chớ nh́n,
điều phi lễ chớ nghe, chuyện phi lễ chớ
nói, hành vi phi lễ chớ làm”).
[70] Trâu là quê hương của
Mạnh Tử, nước Lỗ là quê hương của Khổng Tử,
Liêm là nói đến Châu Đôn Di v́ ông sống tại Liêm
Khê thuộc Đạo Châu, Lạc là nói đến anh em
Tŕnh Di, Tŕnh Hạo v́ họ sống ở Lạc
Dương. “Trâu Khê Liêm Lạc” là nói đến Tống
Nho (Trâu Lỗ là học thuyết Khổng Mạnh, c̣n Liêm Lạc
là nói về Lư Học).
[71] Nguyên văn “sanh, đán, sửu, mạt” (生旦丑末) là thuật ngữ dùng
để phân loại các diễn viên tuồng:
1. Sanh (生) là vai diễn viên nam
(kép), thường vẽ mặt thanh tú, trắng trẻo,
không vằn vện, chia thành tiểu sanh (các vai nam trẻ tuổi),
lăo sanh (vai nam già), vũ sanh (vai vơ tướng đẹp
trai như Tiết Nhân Quư, Tiết Đinh San, La Thông v.v…), oa
oa sanh (kép nhí, tức các vai bé trai)...
2. Đán (旦) là đào, chia thành chánh
đán (thanh y) tức các vai đào chánh, hoặc đào
thương, giữ các vai tṛ đoan trang, trang trọng, tiết
liệt, chủ yếu là đ̣i hỏi giọng hát, không cần
vũ đạo nhiều, hoa đán (đào mùi hoặc
đào lẳng, tùy theo vở tuồng), vũ đán (nữ
tướng), lăo đán (đào mụ), thái đán (đào
độc, chuyên đóng các vai gian trá, hung ác, ty tiện, hoặc
những vai nữ tỳ hay b́nh dân tinh nghịch, có tánh cách
chọc cười, ăn nói sắc sảo, hoạt kê).
3. Tịnh (c̣n gọi là
hoa kiểm) là các vai vẽ mặt vằn vện, thường
là nam; đa số là vai vũ tướng, rậm râu
như Hạng Vũ, Trương Phi v.v...
4. Sửu (丑) là các vai hề.
5. Mạt (末) là những vai nam đeo
râu dài, nhưng không vẽ mặt vằn vện, thường
đóng vai quan văn, ẩn sĩ, đạo sĩ…