Tứ Thập Hoa
Nghiêm Kinh
Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm
Cát Tường Vân Tỳ
Kheo Chương
四十華嚴經
普賢行品
吉詳雲比丘章
Phần 2
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm: Cảnh Mỹ
Hoa Tạng Đồ Thư Quán, Đài Loan
Tháng Ba năm 1997
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang
Tập thứ ba (
Xin giở
cuốn kinh, trang thứ sáu. Xin đọc kinh văn trong
trang thứ sáu:
(Kinh)
Thời Cát Tường Vân tỳ-kheo cáo Thiện Tài ngôn: “Thiện
tai, thiện tai! Thiện nam tử! Nhữ dĩ năng
phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, thị
sự vi nan. Phục năng thỉnh vấn hành Bồ Tát hạnh,
nan trung chi nan”.
(經)時 吉 祥 雲 比 丘 告 善 財 言,善
哉 善 哉,善 男 子,汝 已 能 發 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提 心,是 事 為 難。復
能 請 問 行 菩 薩 行,難 中 之 難。
(Kinh: Khi ấy, tỳ-kheo Cát Tường
Vân bảo Thiện Tài rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện
nam tử! Ông đă phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, đấy là chuyện khó. Lại c̣n có thể
thưa hỏi hành Bồ Tát hạnh, đấy là chuyện
khó nhất trong những chuyện khó”).
Kinh
văn từ chỗ này trở đi là lời thiện hữu
tán thán và truyền dạy pháp môn. Đáp ứng lời khải
thỉnh của Thiện Tài, trước khi truyền pháp, [thiện
tri thức] nhất định phải tán thán Thiện Tài.
Nói thật ra, lời tán thán này cũng nhằm để khuyến khích, cổ
vũ mọi người chúng ta, mà cũng là lời căn
dặn Thiện Tài phải tự trân trọng. Bởi lẽ,
phát tâm quá khó, nhất là sau khi đă phát tâm lại c̣n chịu
ham học. Đấy là hai sự khó khăn mà Ngài đều
có thể trọn đủ. Đấy mới đáng gọi
là pháp khí trong Phật môn, có năng lực, có đủ
điều kiện để tiếp nhận sự truyền
pháp của thiện tri thức. “A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” trong phần
trước, tôi đă giảng quá nhiều rồi. Tuy giảng
rất nhiều, nhưng trong bộ kinh này, câu này được
lặp lại mấy trăm lượt. Mỗi một lần
tham học trong năm mươi ba lần tham học, chúng
ta đều có thể thấy câu này đôi ba lượt,
đủ thấy câu này vô cùng trọng yếu.
Ở chỗ
này, đức Thế Tôn không ngừng nhắc nhở chúng
ta: Cái tâm ấy quả thật khó phát! Tuy đă phát
được, nhưng chỉ trong chớp mắt lại
quên tuốt! Phát đó, quên đó, đấy gọi là “lộ thủy đạo tâm”
(đạo tâm như nước trong một giọt
sương), chẳng đáng coi là pháp khí. Cũng có thể
nói là không có năng lực, không đủ điều kiện
để tiếp nhận đại pháp của Như Lai!
Đấy là sự thật. Nếu là người thật
sự phát đạo tâm, thân tâm cảnh giới của
người ấy có thể nói là sẽ đại chuyển
biến một trăm tám mươi độ. Chúng ta phát
tâm mà tâm thái của chúng ta chẳng chuyển biến ǵ hết!
Hễ thật sự phát tâm, sẽ chuyển biến ngay!
V́ sao nói người ấy có sự chuyển biến lớn
lao như vậy? Là v́ phàm phu và thánh nhân sai biệt chỉ trong
một ư niệm này. Ư niệm đă chuyển, tướng
mạo sẽ chuyển. Ư niệm đă chuyển, thể
chất sẽ chuyển, cảnh giới cũng đồng
thời xoay chuyển. Đấy là đạo lư nhất
định! Trong kinh luận, đức Phật thường
dạy chúng ta: “Cảnh tùy tâm
chuyển” (Cảnh chuyển theo tâm). Dung mạo, thể
chất của chúng ta đều thuộc về cảnh. Hễ
phát Bồ Đề tâm, sẽ không c̣n là phàm phu nữa!
Từ
kinh điển, chúng ta thấy Tiểu Thừa A La Hán và
Bích Chi Phật đều không phát Bồ Đề tâm, Quyền
Giáo Bồ Tát cũng chẳng thể phát Bồ Đề
tâm. Thế nhưng, quư vị phải hiểu rơ một
điều: Người niệm Phật nếu không phát Bồ
Đề tâm, sẽ chẳng thể văng sanh! Chúng ta phải
đặc biệt lưu ư điểm này! Quư vị thấy
Tam Bối Văng Sanh (Ba bậc văng sanh) trong Vô Lượng Thọ
Kinh, điều kiện văng sanh đều giống hệt
như nhau: “Phát Bồ Đề
tâm, một mực chuyên niệm A Di Đà Phật”.
Thượng Bối có điều kiện này, mà Trung Bối
và Hạ Bối vẫn có điều kiện này. Chúng ta chẳng
thể coi thường! Vậy th́ thế nào là phát Bồ
Đề tâm? Muốn nói rơ ra, sẽ rất
khó. Hễ nói, rất khó thể nào nói cho rơ ràng. Muốn nghe
cho thấu hiểu, muốn nghe cho hiểu rơ rệt,
đương nhiên cũng chẳng phải là chuyện
dễ dàng!
Vậy
th́ v́ sao rất nhiều người chẳng hiểu giáo
lư, nhưng niệm A Di Đà Phật vẫn được
văng sanh? Giống như pháp sư Đàm Hư đă kể
cho chúng ta nghe: Một đồ đệ của pháp sư
Đế Nhàn khi pháp sư c̣n trẻ, xuất thân là thợ
vá nồi, một chữ cũng không biết, ông ta niệm
Phật ba bốn năm, đứng văng sanh. Ông ta sống
trong một ngôi miếu nhỏ trong làng. Có người báo
tin cho cụ Đế Nhàn, nói: “Đồ đệ của
thầy đă đứng văng sanh rồi!” Ngày hôm sau, lăo nhân
gia mới ngồi thuyền, từ Kim Sơn ngồi thuyền
đến Ôn Châu cũng mất hai ba ngày. Đồ đệ
của Sư vẫn đứng sừng sững hai ba ngày
đợi sư phụ đến lo liệu hậu sự.
Nếu chúng ta hỏi: “Ông ta có phát Bồ Đề tâm hay
chăng?” Có phát! V́ chẳng phát Bồ Đề tâm, làm sao có
thể văng sanh cho được? Nếu quư vị hỏi
ông ta: “Bồ Đề tâm là ǵ?” Ông ta không biết, ông ta chẳng
hiểu Bồ Đề tâm là cái ǵ! Nhưng ông ta thật sự
phát Bồ Đề tâm! Bồ Đề tâm là tâm triệt
để giác ngộ. Ông ta giác ngộ điều ǵ? Giác ngộ
cơi nhân gian khổ sở. Hồi c̣n sống, ông ta là kẻ
rất khổ năo, cuộc sống hết sức vất vả,
đối với thế gian này, trọn chẳng lưu
luyến mảy may nào, một tí ti vướng mắc
cũng đều chẳng có; nhất tâm nhất ư mong ngóng
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Đấy là Bồ Đề tâm.
Chúng ta có
làm được hay chăng? Đích thực là chúng ta
vướng mắc quá nhiều chuyện; do vậy, tâm
chúng ta chẳng phải là Bồ Đề tâm, c̣n tâm ông ta
thật sự là Bồ Đề tâm. Tâm ông ta thanh tịnh,
tất cả những ô nhiễm trong thế gian này ông ta
đều chẳng có. Lăo ḥa thượng dạy ông ta một
câu Nam Mô A Di Đà Phật, điều ǵ cũng đều
không giảng giải, bảo ông ta: “Ông cứ thật thà niệm, niệm mệt bèn nghỉ,
nghỉ khỏe khoắn xong lại niệm. Cứ niệm
miết như thế, chớ nên xen tạp, đừng
hoài nghi, đừng nên gián đoạn”. Ba điều kiện
ấy ông ta đều làm được. Không gián đoạn
là ông ta niệm mệt bèn nghỉ. Điều này không kể,
điều này không tính là gián đoạn, ông ta nghỉ
ngơi thôi mà! Hễ tỉnh giấc, lại niệm tiếp
A Di Đà Phật. Đấy là không gián đoạn. Chứ
không phải là bảo ông ta đêm ngày không nghỉ ngơi,
điều này người b́nh thường chẳng thể
làm được đâu! Mệt rồi th́ nghỉ ngơi,
nghỉ ngơi khỏe khoắn xong lại niệm. Do ông
ta thật sự làm được, “phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”,
đây là tấm gương vô cùng tốt cho chúng ta.
Một
câu Phật hiệu niệm đến cùng cực, thời
gian trọn chẳng dài cho lắm, ba bốn năm liền
biết trước lúc mất, đứng sững văng
sanh. Người như vậy rất hiếm có, phát tâm khó
lắm! Sau khi phát tâm, lại chịu thật sự làm! Người
thợ vá nồi ấy hằng ngày niệm Phật, niệm
mệt bèn nghỉ, nghỉ khỏe rồi lại niệm;
đấy chính là hành Bồ Tát hạnh, khó khăn nhất
trong những sự khó. Ông ta không ra khỏi cửa, giống
như người ta thường nói là “bế quan” vậy! Ông ta không thật sự bế
quan, chúng ta thường gọi là “phương tiện quan”. Nói cho đúng, ông ta không
ra khỏi cửa lớn, một ḿnh ở trong một ngôi
miếu nát, thật thà niệm một câu A Di Đà Phật,
ông ta thành công. Ông ta thành tựu trọn chẳng kém những
vị thiện tri thức Pháp Thân đại sĩ trong
năm mươi ba lần tham học này. Thật đấy!
Một người căn tánh Hạ Hạ, tu hành đúng
theo lời dạy, trong thời gian ba bốn năm, sẽ
biến thành bậc Thượng Thượng! Nếu chúng
ta giác ngộ từ chỗ này, hiểu rơ từ chỗ này,
cũng kể như là quư vị đă phát Bồ Đề
tâm, quư vị thật sự giác ngộ rồi đấy!
Do đó, giác ngộ khó khăn lắm!
Sau khi
giác ngộ, nhất định phải buông xuống. Nếu
như quư vị nghĩ “tôi giác ngộ rồi, tôi phát tâm rồi,
nhưng vẫn c̣n có vướng mắc chưa buông xuống
được!” Nói thật ra, quư vị đang tự ḿnh
dối gạt ḿnh, quư vị chưa hề giác ngộ! V́
sao vậy? Hễ giác ngộ nhất định sẽ buông
xuống, c̣n có mảy may nào không buông xuống được
th́ hiển nhiên là quư vị chưa giác ngộ, điều
này khẩn yếu lắm! Do vậy, phải hiểu tướng
trạng, h́nh dạng của giác ngộ cho rơ ràng, chính ḿnh phải
chú tâm kiểm điểm, phản tỉnh, quán sát xem có phải
là giác ngộ thật sự hay chưa. Giác ngộ rồi bèn
khởi tu, ngộ rồi phải hành. Do vậy, lại phải
“thưa hỏi hành Bồ Tát hạnh”,
khó khăn là đây!
Ở
đây, có ba câu chú thích ngắn gọn, giảng rơ tỳ-kheo
Cát Tường Vân v́ sao khen ngợi Thiện Tài. Dụng ư của
Ngài là bảo Thiện Tài hăy tự ǵn giữ cho chắc chắn,
tự ḿnh phải trân trọng, quư tiếc, phải giữ
vững tín nguyện của chính ḿnh.
(Sớ) Hân văn thắng pháp.
(疏)欣 聞 勝 法。
(Sớ: Vui vẻ nghe pháp thù thắng).
Hướng
về thiện hữu thỉnh giáo, hoan hỷ lắng nghe,
tu học pháp môn thù thắng. Do vậy, trong đoạn
văn này, nửa đoạn trước giảng rơ hai thứ
khó khăn Thiện Tài đều trọn đủ, đều
khắc phục được. Đối với người
thông thường mà nói, hai thứ khó khăn ấy sẽ ngăn
trở người ấy khai ngộ, chướng ngại
người ấy tu hành. V́ sao ngày nay chúng ta nghe pháp, xem kinh
chẳng thể khai ngộ, công phu tu hành chẳng thể
đắc lực? Là v́ không khắc phục được
hai thứ khó khăn ấy! Nếu hai thứ khó khăn ấy
đều khắc phục được, hiện tượng
ấy sẽ không c̣n nữa! Chúng ta nghe kinh sẽ khai ngộ,
công phu sẽ đắc lực. Phần kinh văn tiếp
theo gồm có mười câu. [V́ thế, đại sư
Thanh Lương chú giải như sau]:
(Sớ) Văn
hữu thập cú.
(疏)文 有 十 句。
(Sớ:Kinh
văn có mười câu).
Mười
câu này nhằm nói lên hành Bồ Tát hạnh khó khăn. Sự
khó khăn trong hành Bồ Tát hạnh chẳng phải chỉ
nói một vài điều là xong! Chuyện khó khăn quá
ư là nhiều! Mười câu này vẫn là nói quy nạp,
đem những nỗi khó khăn phân loại, quy nạp
thành mười loại lớn. Mười câu này là mười
loại lớn. Chúng ta hăy đọc kinh văn một
lượt.
(Kinh)
Sở vị cần cầu Bồ Tát đạo, cần cầu
Bồ Tát cảnh giới, cần cầu Bồ Tát quảng
bác tịnh hạnh, cần cầu Bồ Tát xuất hiện
thần biến, cần cầu Bồ Tát thị hiện quảng
đại chư giải thoát môn, cần cầu Bồ Tát
thị hiện thế gian chủng chủng tác nghiệp, cần
cầu Bồ Tát tùy thuận chúng sanh chủng chủng tâm hạnh,
cần cầu Bồ Tát thị hiện nhập xuất
sanh tử Niết Bàn, cần cầu Bồ Tát ư vi vô vi
tâm vô sở trước, cần cầu Bồ Tát trừ
đoạn chúng sanh chủng chủng phiền năo vi tế
quá thất.
(經) 所 謂 勤 求 菩 薩 道。勤
求 菩 薩 境 界。勤 求 菩 薩 廣 博 淨 行。勤 求 菩 薩 出 現 神 變。勤 求 菩 薩 示 現 廣 大 諸 解 脫 門。勤 求 菩 薩 示 現 世 間 種 種 作 業。勤 求 菩 薩 隨 順 眾 生 種 種 心 行。勤 求 菩 薩 示 現 入 出 生 死 涅 槃。勤 求 菩 薩 於 為 無 為 心 無 所 著。勤 求 菩 薩 除 斷 眾 生 種 種 煩 惱 微 細 過 失。
(Kinh:
Chính là nói: Siêng cầu Bồ Tát đạo, siêng cầu cảnh
giới Bồ Tát, siêng cầu tịnh hạnh rộng lớn
của Bồ Tát, siêng cầu Bồ Tát xuất hiện thần
thông biến hóa, siêng cầu Bồ Tát thị hiện các môn
giải thoát rộng lớn, siêng cầu Bồ Tát thị
hiện các thứ tác nghiệp thế gian, siêng cầu Bồ
Tát tùy thuận các thứ tâm hạnh của chúng sanh, siêng cầu
Bồ Tát thị hiện vào ra sanh tử, Niết Bàn, siêng cầu
Bồ Tát đối với hữu vi hay vô vi tâm đều
không chấp trước, siêng cầu Bồ Tát trừ dứt
các thứ phiền năo, lỗi lầm vi tế của chúng
sanh).
Thiện
hữu nói cho Thiện Tài biết mười thứ khó
khăn trong Bồ Tát hạnh. Đây là tỳ-kheo Cát Tường
Vân truyền dạy pháp môn cho Thiện Tài. Câu thứ nhất
là nói tổng quát, chín câu sau là nói riêng biệt. Quư vị
đọc lời chú giải của đại sư Thanh
Lương, đọc kinh văn xong, chúng ta hăy xem lời chú
giải. Ngài chú giải rất rơ ràng, mỗi một câu
đều nói rơ ra.
(Sớ) Hậu
sở vị hạ.
(疏)後 所 謂 下。
(Sớ: Từ sau chữ “sở vị”
trở đi)
“Sở vị” là chữ được
dùng trong kinh văn, tức “sở
vị cần cầu Bồ Tát đạo”. Từ đoạn
kinh văn này trở đi.
(Sớ) Biệt
điệp tiền vấn.
(疏)別 牒 前 問。
(Sớ: Riêng nhắc lại những câu
hỏi trong phần trước).
Sau khi Thiện
Tài đă nêu ra những câu hỏi để thỉnh giáo,
theo thói quen thông thường, chúng ta nhất định phải
nhắc lại những câu hỏi một lượt để
đối chiếu xem có phải là quư vị nêu ra những
ư nghĩa này hay không, sau đấy mới trả lời quư
vị để tránh trường hợp quư vị nêu câu hỏi
xong, người trả lời nghe xong lại hiểu lầm
ư, đáp sai câu hỏi, lăng phí thời gian! Do vậy, nhất
định phải nhắc lại một lượt những
câu quư vị đă hỏi, [v́ vậy, thiện tri thức] lặp
lại câu hỏi của Thiện Tài.
(Sớ) Thị
thích hậu nan.
(疏)是 釋 後 難 。
(Sớ: Để giải thích những
điều khó khăn [sẽ được nói tới]
trong phần sau).
“Thị thích hậu nan” là lời
giải thích câu “thưa hỏi
hành Bồ Tát hạnh là sự khó nhất trong những sự
khó”, giải thích câu nói này.
(Sớ) Văn
hữu thập cú, tiểu hữu khai hợp.
(疏)文 有 十 句,小
有 開 合。
(Sớ:
Kinh văn gồm mười câu, [trong ấy] có chỗ tách
ra, có chỗ gom lại đôi chút).
Kinh
văn tổng cộng có mười câu, trong ấy có chỗ
khai, có chỗ hợp. Hợp là quy nạp hai hay ba vấn
đề thành một. Khai là đối với một vấn
đề, do có quá nhiều ư nghĩa trong ấy, bèn tách ra thành
hai hoặc ba. Nhưng “khai, hợp”
không nhiều, cho nên nói “tiểu
hữu khai hợp”.
(Sớ) Án
thứ điệp tiền.
(疏)案 次 牒 前。
(Sớ: Dựa theo thứ tự, nhắc
lại những câu hỏi trong phần trước).
Chiếu
theo thứ tự thuận, nhắc lại những câu hỏi
của Thiện Tài trong phần trước một lượt.
Câu thứ nhất là:
(Sớ) Điệp
tiền tổng trung nhị cú, nhược học, nhược
tu, giai Bồ Tát đạo.
(疏)牒 前 總 中 二 句,若
學 若 修,皆 菩 薩 道。
(Sớ: Ứng với hai câu hỏi tổng
quát trong phần trước, dù học hay tu đều là Bồ
Tát đạo).
Đây là
câu hỏi của Thiện Tài đồng tử: “Làm thế nào để học Bồ
Tát đạo, làm thế nào để tu Bồ Tát đạo?”
Học là Giải môn, tu là Hạnh môn. Giải Hạnh
tương ứng, Giải lẫn Hạnh đều coi
trọng, đều thuộc về Bồ Tát đạo.
Do vậy, khi trả lời Thiện Tài, [tỳ-kheo Cát Tường
Vân] đem hai câu hỏi trong phần trước gộp lại
thành một câu. Do vậy nói “siêng
cầu Bồ Tát đạo”. Trong mỗi một câu
đều có bốn chữ “cần
cầu Bồ Tát” (siêng cầu Bồ Tát), nhằm nêu rơ
những ǵ được nói ra hoàn toàn thuộc về Bồ
Tát đạo.
(Sớ)
Dư
cửu điệp biệt.
(疏)餘 九 牒 別。
(Sớ: Chín câu kia tương ứng những
câu hỏi riêng biệt).
Những
câu khác là nói riêng, c̣n câu đầu tiên là nói tổng quát.
(Sớ)
Nhất cần cầu Bồ
Tát cảnh giới giả, tức thị tiền văn khởi
Bồ Tát hạnh, phát khởi thú hướng Bồ Tát cảnh
cố.
(疏)一 勤 求 菩 薩 境 界 者,即 是 前 文 起 菩 薩 行,發 起 趣 向 菩 薩 境 故。
(Sớ:
Một, “siêng cầu cảnh
giới Bồ Tát” chính là đoạn kinh văn trong phần
trước “khởi Bồ Tát hạnh, phát khởi, tiến
hướng đến cảnh Bồ Tát”)
Chúng ta gộp
chung đoạn văn trước và sau lại để
xem, lại đọc lời chú giải của đại
sư Thanh Lương th́ ư nghĩa hết sức rơ ràng.
Trong phần trước Thiện Tài đă hỏi (số
trang của tôi khác với số trang trong sách của quư vị),
Ngài đă từng hỏi: “Học
Bồ Tát hạnh như thế nào? Tu Bồ Tát hạnh
như thế nào? Khởi Bồ Tát hạnh như thế
nào? Hành Bồ Tát hạnh như thế nào? Cho đến
làm thế nào để mau chóng viên măn Phổ Hiền hạnh?”
Trong phần trước tôi đă từng nói với quư vị,
trong khi phiên dịch, [các vị dịch giả] đă lược
bớt [những câu hỏi này]. Bởi lẽ, trong phần
trước, Ngài đă nêu ra tổng cộng mười ba
câu hỏi. Đối với câu “khởi
Bồ Tát hạnh” [của Thiện Tài] th́ câu “cần cầu Bồ Tát hạnh”
[của tỳ-kheo Cát Tường Vân] là giảng về “khởi Bồ Tát hạnh”. “Khởi” (起) nghĩa
là phát khởi, hưng khởi (dấy lên), tức là “phát khởi tiến hướng
đến cảnh Bồ Tát”. Chúng ta nói đến cảnh
giới, nói thật ra, đấy là những điều nhỏ
nhặt, vụn vặt trong cuộc sống hằng ngày.
Làm thế nào mới có thể giống như Bồ Tát, sống
như Bồ Tát? Vấn đề này rất trọng yếu,
chẳng thể không lưu ư. V́ vậy, tu hành là tu trong sinh
hoạt thường ngày.
(Sớ)
Nhị, cần cầu Bồ Tát quảng bác tịnh hạnh
giả.
(疏)二 勤 求 菩 薩 廣 博 淨 行 者。
(Sớ:
Hai, siêng cầu tịnh hạnh rộng lớn của Bồ
Tát).
Một
câu này…
(Sớ) Nhiếp tiền tam cú.
(疏)攝 前 三 句。
(Sớ:
Bao gồm cả ba câu
trước).
Đây là
chỗ Hợp. Trong phần trước, Thiện Tài có ba
câu hỏi, ở đây, hợp lại thành một câu. Chữ
“nhiếp” (攝) có nghĩa là hợp lại.
(Sớ)
Vị hạnh nhiếp tiền hành Bồ Tát hạnh. Quảng
bác nhiếp tiền biến măn Bồ Tát hạnh. Tịnh tức
nhiếp tiền tịnh Bồ Tát hạnh.
(疏)謂 行 攝 前 行 菩 薩 行。廣
博 攝 前 遍 滿 菩 薩行,淨 即 攝 前 淨 菩 薩 行。
(Sớ:
Nghĩa là chữ “hạnh” bao gồm “hành Bồ Tát hạnh”
trong phần trước. “Quảng bác” bao gồm “viên măn trọn
khắp Bồ Tát hạnh” trong phần trước. “Tịnh”
bao gồm “tịnh Bồ Tát hạnh” trong phần trước).
Cho thấy
trong một câu này bao gồm ba câu hỏi của Thiện
Tài trong phần trước. Ở đây, thiện hữu
quy nạp thành một câu để trả lời.
(Sớ) Cựu kinh cụ tam.
(疏)舊 經 具 三。
(Sớ: Bản dịch
cũ có đủ ba điều này).
Chữ “cựu kinh” chỉ bản dịch [kinh Hoa Nghiêm] đời
Tấn (tức bản Lục Thập Hoa Nghiêm).
(Sớ)
Nhất thị xuất ly đạo tức thị tiền
hạnh, hạnh tức xuất cố.
(疏)一 是 出 離 道 即 是 前 行,行
即 出 故。
(Sớ:
Một, chính là đạo xuất ly, tức là Hạnh
đă nói trong phần trước, v́ Hạnh chính là thoát ra
vậy).
Đối với bốn
chữ “hành Bồ Tát hạnh”,
nay chúng ta đang hành phàm phu hạnh. Bồ Tát khác phàm phu; mà
“Bồ Tát” được nói ở đây cũng khác với
Bồ Tát thường được nhắc đến,
sai khác ở chỗ nào? Thông thường, chúng ta nói tới
Bồ Tát, trong số ấy bao gồm Quyền, Tiểu Bồ
Tát. Nếu dựa theo giáo tướng của tông Thiên Thai để
nói, lại có Tạng giáo Bồ Tát, Thông giáo Bồ Tát, Biệt
giáo Bồ Tát, đều chưa thoát khỏi mười
pháp giới.
Nhưng Bồ Tát
được nói tới ở đây là những vị Bồ
Tát đă vượt thoát mười pháp giới, kinh Hoa
Nghiêm nói về bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ. Thiện Tài đến tham học
với một vị thiện tri thức là v́ như trong phần
trước tôi đă thưa với quư vị rồi đó,
Ngài sẽ khế nhập cảnh giới ấy. Ví dụ
như ở đây, tỳ-kheo Cát Tường Vân đại
diện cho hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Do vậy,
Thiện Tài đồng tử đến tham phỏng tỳ-kheo
Cát Tường Vân, cho thấy Thiện Tài đồng tử
cũng là bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo. Sơ Trụ của
Viên Giáo bằng với Sơ Địa trong Biệt Giáo,
đă vượt trỗi mười pháp giới, đă chứng
nhập Nhất Chân pháp giới. Kinh Đại Tiểu Thừa
thường gọi là “nhập
Bất Nhị pháp môn”. Ngài đă nhập pháp môn Bất
Nhị; Nhị là ǵ? Trong mười pháp giới là hai, chữ
“Nhị” biểu thị sự
phân biệt. Trong mười pháp giới có phân biệt,
trong Nhất Chân pháp giới không có phân biệt, đấy
là “không hai”. Nay Ngài là Sơ Trụ Bồ Tát, hạnh
được hỏi ở đây là hạnh của bậc
Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên. Do vậy, ở
đây nói đến Xuất: “Hạnh
tức xuất cố” (Hạnh chính là xuất), “xuất” là ra khỏi mười
pháp giới. Không chỉ thoát ĺa lục đạo, mà c̣n
thoát ĺa mười pháp giới.
Nói một cách khác, trong
Nhất Chân pháp giới có những vị Bồ Tát, họ
sống như thế nào? Hành Bồ Tát hạnh mang ư
nghĩa như thế đấy. Muốn thưa hỏi những
vị Pháp Thân đại sĩ, bọn họ hành Bồ Tát
hạnh như thế nào? Đấy là ư nghĩa thứ
hai.
(Sớ) Thanh tịnh đạo
tức thị tiền tịnh.
(疏)清 淨 道 即 是 前 淨。
(Sớ: Thanh tịnh đạo tức là
“tịnh” như đă nói trong phần trước).
Trong bản dịch
cũ gọi [“tịnh”] là “thanh tịnh đạo”. Tôi
nghĩ ư nghĩa này chắc quư vị cũng dễ hiểu
hơn. Trong tựa đề của Vô Lượng Thọ
Kinh ghi “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”, mong mọi người hăy đặc biệt chú ư!
Tâm phải thanh tịnh, chuyện ǵ cũng đều chớ
nên có! Chẳng những thế pháp (pháp thế gian) không thể
có, mà Phật pháp cũng không thể có; hễ có, sẽ chẳng
thể thoát khỏi lục đạo được!
Chúng ta là người
niệm A Di Đà Phật, chỉ chấp nhận có A Di Đà
Phật. Trong tâm quư vị, một ngày mười hai thời
từ sáng đến tối, chỉ chấp nhận có A Di
Đà Phật. Trừ A Di Đà Phật ra, chẳng thể
có ǵ khác! Nếu quư vị muốn thật sự có, quư vị
phải nhớ kỹ: Quư vị không thể ra khỏi lục
đạo luân hồi được đâu! Có A Di Đà Phật
th́ được! Cảm ứng đạo giao với Tây
Phương Cực Lạc thế giới, gọi là “đới nghiệp văng sanh”.
Quư vị thấy họ mang theo nghiệp ǵ? Mang theo những
nghiệp chẳng khởi tác dụng! Họ chưa đoạn
được nghiệp, chưa đoạn phiền năo tập
khí, tuy chưa đoạn, nhưng [những nghiệp ấy]
đều chẳng khởi tác dụng! Họ suốt một
ngày từ sáng đến tối là A Di Đà Phật, A Di
Đà Phật, A Di Đà Phật, tất cả những nghiệp
của họ đều chẳng khởi tác dụng, bị
một câu A Di Đà Phật nén xuống, khuất phục.
Kinh Kim Cang chép: “Vân hà hàng phục
kỳ tâm?” (Làm thế nào để hàng phục cái tâm ấy?) Chúng ta đem một
câu A Di Đà Phật hàng phục cái tâm, đấy gọi
là “đới nghiệp văng
sanh”. Tuyệt đối chẳng phải là một mặt
niệm Phật, mặt khác vẫn sanh phiền năo, vẫn
là khởi tâm động niệm, như vậy là vô dụng!
Nói trắng ra, một câu Phật hiệu của quư vị
không đắc lực, không đè nén vọng tưởng,
tạp niệm được; đấy là không đắc
lực. V́ sao không đè nén vọng tưởng, tạp niệm
được? Do quư vị không buông xuống, quư vị không
thật sự cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, không sanh tâm chân thật, không bỏ được
t́nh duyên thế gian, làm sao văng sanh cho được?
Do vậy, ở đây,
tôi đặc biệt muốn khuyến khích các vị đồng
tu chúng ta: Quán Trưởng văng sanh đă ban cho chúng ta một
sự khải thị rất lớn. Nói cách khác, bà đă
ban cho chúng ta một bài học trọng yếu nhất. Bà cảnh
tỉnh chúng ta: Văng sanh nhất định phải đứng
mà đi, phải ngồi mà đi, đừng sanh bệnh,
biết trước lúc mất th́ bản thân quư vị mới
có thể nắm vững, mới thật sự văng sanh. Nếu
ngă bệnh nằm trên giường, ngay cả sức lực
để tự trở ḿnh
cũng không có, hoàn toàn nghe theo người khác sắp đặt,
hy vọng văng sanh rất mờ mịt! Trong khi ấy, nếu
quư vị không gặp được thiện hữu giúp
đỡ, sẽ chẳng thể văng sanh. Thiện hữu thật
sự hiểu biết những kiến thức thông thường
trong thời điểm khẩn yếu ấy, thời thời
khắc khắc nhắc nhở người [sắp mất]
giữ chánh niệm. Chánh niệm là buông xuống hết thảy,
hết thảy mọi chuyện đều không quan tâm tới,
hết thảy đều chẳng cần bận ḷng nữa,
nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tịnh
Độ. Thường xuyên nhắc nhở, thường
xuyên căn dặn. Nếu không, người [sắp mất]
ấy sẽ lúc th́ thấy quỷ, lúc th́ thấy thần. Đấy
chính là nghiệp lực trong lục đạo hiện tiền.
Quán Trưởng có
phước báo, khi bà bịnh hơi nặng hơn, những
người xuất gia chúng ta đều vây quanh bà, bảo
vệ bà, [được như vậy] chẳng dễ
dàng đâu nhé! Có mấy người gặp được
[cơ hội này]? Quư vị nghĩ thử xem, tương
lai quư vị văng sanh, có gặp được duyên ấy
hay chăng? Quư vị gặp được duyên ấy th́
không có vấn đề ǵ, bảo đảm đưa quư
vị đi văng sanh. Nhưng nếu quư vị chẳng gặp
được duyên ấy th́ hỏng rồi, hỏng mất
rồi! Chúng tôi nghĩ như thế này: Chúng ta có thể bảo
vệ, đưa Quán Trưởng đi văng sanh, trong tương
lai, bản thân chúng ta văng sanh, ai sẽ bảo vệ
đưa chúng ta đi? Không nhờ cậy được!
Do vậy, chỉ có chính ḿnh thực sự làm, chính ḿnh phải
thật sự đứng mất, ngồi mất, không cần
người khác giúp đỡ, chẳng phiền tới
người khác, đấy mới là thật sự nắm
chắc. Đứng mất, ngồi mất, biết
trước lúc mất, chúng ta có thể làm được
hay không? Thưa với quư vị, ai cũng đều có thể
làm được! Chỉ cần quư vị thật sự
buông xuống, tâm quư vị niệm Phật thật sự khẩn
thiết, sẽ không có vấn đề ǵ cả!
Thông thường, nếu
niệm Phật như thế, đạt đến cảnh
giới ấy, công phu thành tựu nói chung ba năm là đủ
rồi. Quư vị đă niệm được ba năm rồi,
niệm được ba mươi năm rồi, v́ sao vẫn
chẳng có tin tức ǵ? Đấy là v́ quư vị công phu
không đắc lực, quư vị hoàn toàn không vứt bỏ
được vọng tưởng, tạp niệm. Một
mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng
tưởng, cho nên công phu của quư vị không đắc
lực. Nhất định phải chú ư tới điều
này: Con người trong sát-na lâm chung, trong sát-na hơi thở
dứt bặt, đấy chính là thời khắc quyết
định tương lai người ấy sẽ đi
vào đường nào. Trong sát-na ấy, một câu A Di
Đà Phật th́ người ấy liền văng sanh. Trong Vô
Lượng Thọ Kinh, nguyện thứ mười tám là “lâm chung mười niệm hay một
niệm, nhất định văng sanh thế giới Cực
Lạc”. Cho nên một niệm tối hậu ấy là
quyết định, là mấu chốt. Lúc b́nh thường
là luyện binh, khi lâm chung là chiến đấu, hy vọng
một niệm tối hậu là A Di Đà Phật, chứ
không phải là tạp niệm hay những lời thừa
thăi.
Thông thường,
người ta mất đi đều có thân Trung Ấm.
Tôi nghĩ quư vị có thân thích, bằng hữu, người
già qua đời, quư vị đến tiễn đưa,
rơ ràng là đă từng trông thấy. Người ấy
đă tắt hơi rồi, chúng ta đứng bên cạnh
người ấy niệm Phật, niệm tới tám tiếng
đồng hồ, khuôn mặt người ấy sẽ hiện
vẻ biến đổi. Tuy người ấy không nói
năng được, nhưng nếu quư vị quan sát cẩn
thận những biểu hiện trên khuôn mặt người
ấy: Nếu người ấy đau đớn, có giằng
co ǵ th́ quư vị chú tâm quán sát sẽ thấy có dấu tích.
Sau khi thần thức hoàn toàn rời đi, người ấy
có thể khôi phục lại dáng vẻ b́nh thường,
đấy là có Trung Ấm. Trong kinh dạy thần thức
tách rời thân thể giống như con rùa bị bóc mai
trong khi c̣n sống, rất đau khổ! Do vậy khi
người ấy sắp mất, quyết chớ nên đụng
chạm vào người ấy. Chúng ta thường nói là tám
tiếng đồng hồ, nhưng theo sách Sức Chung Tân
Lương dạy th́ là mười hai tiếng. Mười
hai tiếng là an toàn nhất. Người ấy đă hoàn
toàn rời ĺa xác thân, quư vị có thể đụng chạm,
sờ mó, không có vấn đề chi hết!
Trong ṿng mười hai
tiếng đồng hồ, chớ nên chạm vào. Không chỉ
là chẳng được chạm vào thân thể, mà c̣n có kẻ
vô tri, nghe kinh nói nếu ai được văng sanh th́ [thần
thức] sẽ thoát ra từ đỉnh đầu, toàn
thân đều lạnh, đến cuối cùng đỉnh
đầu vẫn c̣n có chút hơi nóng, muốn sờ vào
để thăm ḍ người mất ấy sẽ đi
về đâu? Thăm ḍ như vậy sẽ lôi người
ấy trở lại, lại đưa người ấy
vào trong tam ác đạo! Người thăm ḍ là oán gia trái
chủ của người mất, [những người hộ
niệm] phải chấn chỉnh người ấy, quyết
định chẳng được đụng chạm! Thăm
ḍ để làm ǵ cơ chứ? Không cần thiết! Thực
ra, khi đứng bên cạnh lắng ḷng quán sát, sẽ có thể
phán đoán được! Lâm chung ra đi không có Trung Ấm,
hết sức hiếm có! Tôi cũng đă đưa tiễn
không ít người, lúc lâm chung không có Trung Ấm th́ chỉ
có ḿnh Quán Trưởng, tôi chỉ thấy có ḿnh bà ta là không
có Trung Ấm. Ấy là vừa tắt thở liền văng
sanh, phù hợp với điều được dạy
trong kinh, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
không có Trung Ấm. Thêm nữa, người sanh lên trời
cũng không có Trung Ấm. Người cơi trời phước
báo lớn, nên chẳng qua giai đoạn Trung Ấm. Lại
c̣n một loại là đọa vào địa ngục
cũng không có Trung Ấm. Đấy là địa ngục
Vô Gián, vừa tắt thở liền đọa ngay,
nhưng người ấy lộ vẻ rất hoảng sợ,
tướng trạng rất khó coi! Nhưng tướng ấy
không hề có biến hóa. Kinh điển dạy chúng ta rằng:
Trong ba thứ t́nh huống ấy th́ không có Trung Ấm, c̣n
những trường hợp khác đều có Trung Ấm.
Do vậy, nếu chúng ta không việc ǵ, phải đọc
sách Sức Chung Tu Tri (những điều cần biết về
việc hộ niệm cho lúc lâm chung) cho nhiều. Không ǵ
quan trọng bằng hiểu rơ kiến thức này! Chúng ta
hiểu rơ rồi, tánh cảnh giác của chúng ta mới cao,
v́ sao vậy? Mỗi cá nhân đến lúc cuối cùng đều
phải trải qua giai đoạn này. Đến lúc ấy,
nếu như có oán thân trái chủ đến bên cạnh rờ
rẫm, thăm ḍ, làm cách nào đây? Không có biện pháp nào
ngăn ngừa được, cho nên [lúc b́nh thường]
phải thật thà niệm th́ mới an toàn.
Nhưng trong Niệm Phật
Luận, chúng ta đă cho in rất nhiều bản Niệm
Phật Luận. Cuốn sách này do lăo pháp sư Đàm Hư
giảng, pháp sư Đại Quang ghi lại. Hai tháng
trước đây, pháp sư Đại Quang đă văng sanh.
Chúng tôi cũng rất thân quen với thầy ấy,
cũng là bạn cũ của nhau. Năm nay, thầy ấy
cũng phải ngoài tám mươi tuổi rồi! Những
người được nói tới trong phần sau cuốn
Niệm Phật Luận toàn là phàm phu, đều là kẻ b́nh
thường. Người xuất gia như pháp sư Tu Vô
tại chùa Cực Lạc ở Cáp Nhĩ Tân (Harbin), chúng tôi
đọc xong bèn mong được đến thăm chùa
Cực Lạc. Pháp sư Tu Vô văng sanh tại nơi ấy,
biết trước lúc mất, ngồi mất. Vị pháp
sư ấy xuất gia cũng là người khổ năo;
trước khi xuất gia, Sư làm thợ nề, không biết
chữ, chỉ biết niệm một câu A Di Đà Phật,
chuyện ǵ cũng không biết, là người chất
phác. Người chất phác niệm Phật bèn thật thà
niệm; chúng ta không chất phác nên niệm Phật cũng
không thật thà! Các vị thấy Ngài ra đi thong dong, tự
tại như thế đó!
Cư sĩ Trịnh
Tích Tân là người buôn bán. Nghe lăo pháp sư Đàm Hư
giảng kinh Di Đà, biết Tây Phương Cực Lạc
thế giới tốt lành, ông ta giác ngộ, không buôn bán nữa,
chuyên môn niệm Phật, chuyên môn giảng kinh Di Đà,
đến các nơi giảng kinh Di Đà cho người ta
nghe, khuyên người khác niệm Phật. Khi ông ta mất
là biết trước lúc mất, không đổ bệnh,
ngồi qua đời. Trong truyện ấy c̣n kể kèm
thêm truyện của người em trai ông ta. Em trai ông ta thoạt
đầu không tin tưởng, trách móc người anh nghỉ
buôn bán, bỏ đi niệm Phật, chê anh mê tín, học Phật
đến nỗi mê muội luôn! Về sau, thấy anh ḿnh
ra đi tự tại như vậy ông ta bèn tin tưởng,
cũng niệm Phật! Niệm được ba năm
cũng văng sanh. Chẳng qua ông ta văng sanh c̣n mắc chút bệnh
khổ, không được thong dong như anh ḿnh, nhưng
kể như là có công phu.
Tại chùa Trạm
Sơn ở Thanh Đảo, có một vị nữ đồng
tu họ Trương cũng là người khổ năo. Chồng
bà ta là phu kéo xe, xe kéo hiện thời không c̣n nữa. Rất
khổ! Cu-li mà! Bà ta có hai đứa con nhỏ, một nhà bốn
miệng ăn. Ngày nào chồng bà ta không kéo xe, ngày đó
không có cơm ăn, sống khổ sở như vậy. Mỗi
Chủ Nhật, chùa Trạm Sơn có hội Niệm Phật,
bà ta đều tham gia. Bà niệm rất thành tâm, khi văng sanh
biết trước lúc mất, ngồi qua đời!
Chúng ta thấy những
người ấy đều là người khổ năo, bởi
lẽ họ khổ quá, cho nên đối với thế
gian này chẳng lưu luyến ǵ nữa. V́ sao ngày nay chúng
ta không thành công? Có một chút của cải đă hại chết
quư vị rồi! Cuộc sống của quư vị vẫn
c̣n khá, quư vị lưu luyến thế gian này, quư vị không
buông xuống được. Bọn họ một ngày không
làm là một ngày không có cơm ăn; chẳng biết ngày
mai sẽ sống bằng cách nào? Đối với thế
gian này, trọn chẳng có mảy may lưu luyến ǵ! Nghe
nói Tây Phương thế giới tốt lành liền nhất
tâm nhất ư cầu sanh. Ư niệm cầu sanh khẩn thiết,
chân thật, triệt để buông thế gian này xuống,
thật sự phù hợp với điều kinh đă giảng:
“Phát Bồ Đề tâm, một
mực chuyên niệm”. Do vậy, tâm họ thanh tịnh.
Đừng thấy người ta sống khổ sở, tuy
cuộc sống khổ sở như thế, nhưng tâm họ
thanh tịnh. Kẻ làm quan lớn trong thế gian, đại
phát tài đều thua họ. Tâm họ thanh tịnh, công phu
niệm Phật đắc lực. Đấy là những tấm
gương cho chúng ta, chúng ta phải nên
học tập theo đấy.
Học bằng cách nào?
Xả! Không xả là không được! Xả phiền
năo, xả sanh tử, xả lục đạo, xả bệnh
khổ, chẳng được lưu luyến mảy may
nào, sanh tử là chuyện lớn mà! Vô lượng kiếp
đến nay, chúng ta đều không có cách nào thoát ĺa lục
đạo luân hồi, đều không có cách ǵ liễu sanh
tử. Lần này gặp được cơ hội này, gặp
được kinh điển này, gặp được
pháp môn này, chỗ mấu chốt trong hiện thời là
chúng ta có buông xuống được hay không? Hễ có thể
buông xuống được, chiếu theo kinh luận, chiếu
theo phương pháp này để tu hành, chắc chắn sẽ
thành tựu. Do vậy, thanh tịnh đạo là trọng yếu.
Ư nghĩa thứ ba là:
(Sớ) Thanh tịnh quảng
đại tâm.
(疏)清 淨 廣 大 心。
(Sớ: Tâm thanh tịnh
rộng lớn).
Đây là ư
nghĩa “đầy đủ trọn
khắp” đă nói trong phần trước. Tâm chẳng
những phải thanh tịnh, mà c̣n phải rộng lớn,
phải giống như Phật, Bồ Tát. “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới” (Tâm
bao thái hư, lượng trọn khắp các cơi có số
lượng nhiều như cát). Phải có cái tâm ấy. Có cái
tâm như vậy, sẽ tự nhiên trên cúng dường
chư Phật, dưới hóa độ chúng sanh, không phân
biệt, không chấp trước, không thấy thân - sơ, tâm đại từ bi tự
nhiên lưu lộ. Câu này bao gồm nội dung của ba câu trong
số mười ba câu hỏi nơi phần trước.
Từ đây trở đi, mỗi câu [trả lời] đều
nhằm ăn khớp với
những câu hỏi trong phần trước. Chúng ta xem câu
thứ ba trong lời chú giải.
(Sớ)
Tam, tức tiền chuyển, Bồ Đề hạnh diệc
chuyển biến cố.
(疏)三 即 前 轉,菩 薩 行 亦 轉 變 故。
(Sớ: Điều
thứ ba chính là chuyển biến như trong phần
trước đă nói, v́ hạnh Bồ Đề cũng
chuyển biến)
Kinh
văn ghi “cần cầu Bồ
Tát xuất hiện thần biến” (siêng cầu Bồ
Tát xuất hiện thần thông biến hóa), chữ “thần biến” ấy có
nghĩa là Chuyển. V́ sao có chuyển biến? Nói thật
ra, biến hóa rất nhiều. Chuyển biến to lớn
như trong phẩm Phổ Môn đă nói “nên dùng thân nào để độ được, bèn
hiện thân ấy”. Đấy là chuyện lớn lao. Trong
những chuyện nhỏ nhặt thường ngày, tùy theo
thói quen sinh sống của chúng sanh, tùy thuận ư thức,
h́nh thái của chúng sanh, tùy thuận hết thảy ḷng
ưa ghét của chúng sanh mà Bồ Tát qua lại với họ,
cũng thường chuyển biến ở trong ấy. Những
điều ấy đều gọi là “thần biến”. Như vậy th́ mới có thể
hóa độ chúng sanh, cùng ḥa quang đồng trần với
chúng sanh, nay chúng ta gọi là “cơ
hội giáo dục”, tùy thời tùy chỗ vận dụng
cơ hội giáo dục khéo léo th́ đều thuộc về
chuyển biến.
(Sớ)
Tứ, tức thâm nhập.
(疏)四 即 深 入
。
(Sớ:
Điều thứ tư là thâm nhập).
Tức “siêng cầu Bồ Tát thị hiện
các môn giải thoát rộng lớn”.
(Sớ)
Thâm nhập quảng đại giải thoát môn cố.
(疏)深 入 廣 大 解 脫 門 故。
(Sớ:
V́ thâm nhập môn giải thoát rộng lớn).
“Môn” (門) là nói
tỷ dụ, tỷ dụ sự ra vào; ra vào đều theo cái cửa
ấy. Ở đây, nói ra tam giới, vào tam giới, ra
mười pháp giới, vào mười pháp giới, tỷ
dụ như vậy. “Quảng
đại giải thoát môn” là ra khỏi mười pháp
giới th́ mới là “quảng
đại”. Giải thoát môn được nói đến
trong Tiểu Thừa chỉ là thoát ĺa lục đạo
luân hồi th́ đă coi là giải thoát rồi! Chữ Giải
(解) là Phá Âm Tự[1] đọc
giọng Khứ Thanh, đừng đọc là jiě, hăy đọc là xiè, hăy nên coi
chữ này được dùng như động từ, [mang
ư nghĩa] “cởi gỡ ra”. Cởi gỡ những ǵ? Phiền
năo, giải trừ Kiến Tư phiền năo. “Thoát” (脫) là
thoát ĺa lục đạo luân hồi. Nếu quư vị chẳng
giải trừ được Kiến Tư phiền năo, sẽ
không ra khỏi lục đạo luân hồi. Do vậy, giải
thoát gồm hai chuyện. “Đại
giải thoát môn” ở đây chẳng những là giải
trừ Kiến Tư phiền năo, mà Trần Sa phiền năo
cũng giải trừ, Vô Minh phiền năo cũng phải tối
thiểu giải trừ được một phần.
Như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Bốn
mươi mốt phẩm vô minh phá được một
phẩm th́ mới thoát ĺa mười pháp giới, nhập
Nhất Chân pháp giới. Đấy gọi là đại giải
thoát, quảng đại giải thoát”. Quảng (廣) là khen ngợi nó lớn lao, bởi lẽ,
khi ấy đă minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật.
“Thâm nhập quảng đại”
ư nghĩa càng sâu, bởi lẽ, vô minh có bốn mươi
mốt phẩm, nay quư vị mới phá được một
phẩm, vẫn chưa thể thâm nhập. Bốn
mươi mốt phẩm vô minh phá sạch rồi, chứng
được Phật quả rốt ráo trong Viên Giáo, mới
gọi là “thâm nhập quảng
đại giải thoát môn”. Thiện Tài đồng tử
mong cầu, nguyện vọng cao cả, chẳng phải là
đạt đến giai đoạn này bèn “được
chút ít đă cho là đủ”, Ngài không hề như vậy. Ngài
hy vọng thành tựu viên măn giống hệt như chư
Phật Như Lai. Đấy là ư nghĩa của câu thứ
tư.
(Sớ)
Ngũ, tức xuất sanh.
(疏)五 即 出 生。
(Sớ:
Câu thứ năm là xuất sanh).
Tức
câu “cần cầu Bồ Tát thị
hiện thế gian chủng chủng tác nghiệp” (siêng
cầu Bồ Tát thị hiện các thứ công việc thế
gian).
(Sớ)
Chủng chủng tác nghiệp phương năng sanh cố.
(疏)種 種 作 業 方 能 生 故。
(Sớ:
Th́ các thứ tác nghiệp mới có thể sanh ra
được).
Đây là
ư nghĩa “xuất sanh”. Vậy
th́ Bồ Tát có sự nghiệp hay không? Có chứ! Ở
đây, chúng ta thấy năm mươi ba vị thiện
tri thức nh́n theo h́nh tướng có nam, nữ, già, trẻ;
nh́n từ công việc, bao gồm các ngành, các nghề. Thật
sự, đức Thế Tôn dùng bọn họ để
tượng trưng cho xă hội của chúng ta trong hiện
thời. Chúng ta từ sáng đến tối lục căn
tiếp xúc cảnh giới, người, sự, vật,
các thứ công việc, luôn có Bồ Tát thị hiện trong ấy.
Họ phải làm, họ chẳng thể không làm! Chẳng
những phải làm, mà như chúng tôi thường nói trong
các buổi giảng: “Họ phải nêu một tấm
gương tốt đẹp nhất cho hết thảy mọi
người!” Quư vị là học tṛ, Bồ Tát cũng làm học
tṛ, nhưng Bồ Tát là học tṛ ưu tú nhất, phẩm
hạnh lẫn học vấn đều nổi bật, là
tấm gương tốt nhất cho bọn học tṛ. Quư
vị làm thương nhân, Bồ Tát cũng làm thương
nhân. Trong giới con buôn, Bồ Tát nêu gương tốt nhất
cho lũ con buôn, gương tốt ấy chính là “giác chứ không mê, chánh chứ
không tà, tịnh chứ không nhiễm”. Do vậy, bất
luận trong nghề nghiệp nào, cũng đều làm
gương mẫu cho nghề nghiệp ấy, đều
là điển h́nh cho nghề nghiệp ấy. Nếu là bà
chủ trong gia đ́nh, Bồ Tát cũng nêu một tấm
gương tốt về bà chủ trong gia đ́nh, nêu khuôn
mẫu. Chư Phật Như Lai nêu gương tốt cho Bồ
Tát, Bồ Tát học theo Phật, nêu gương tốt cho
hết thảy chúng sanh. “Siêng cầu
Bồ Tát thị hiện các thứ công việc trong thế
gian” là Bồ Tát đạo, chẳng phải là phàm phu.
Câu kế tiếp đó: “Cần
cầu Bồ Tát tùy thuận chúng sanh chủng chủng tâm hạnh”
(Siêng cầu Bồ Tát tùy thuận các thứ tâm hạnh của
chúng sanh); đấy chính là
quán sát.
(Sớ) Quán sát chúng sanh tâm hạnh
dị cố.
(疏)觀 察 眾 生 心 行 異 故。
(Sớ: V́ quán sát thấy
tâm hạnh của chúng sanh khác biệt).
“Tâm hạnh” ở
đây chính là “khởi tâm động
niệm” như chúng ta thường gọi. Bồ Tát phải
quán sát chúng sanh khởi tâm động niệm đủ mọi
thứ khác nhau. V́ sao khác nhau? Nhân duyên trong ấy rất phức
tạp. Nếu Bồ Tát chẳng quán sát cặn kẽ, thâm
nhập quán sát, làm sao có thể giáo hóa chúng sanh cho khế
cơ được? Nhất định phải hiểu
tâm hạnh của chúng sanh rồi mới giảng kinh thuyết
pháp, câu nào cũng nói trúng phóc tâm trạng của họ, họ
mới có thể cảm nhận. Do vậy, điều này
rất trọng yếu. Trong kinh đă dạy rất hay! “Quán sát” không phải là bảo
quư vị nghiên cứu, chẳng phải là bảo quư vị
điều tra, chẳng phải là bảo quư vị hăy thống
kê, chẳng hề bảo quư vị làm những chuyện
đó! Quán sát phải có Định - Huệ; nói cách khác, nếu
tâm chính ḿnh không thanh tịnh, quư vị chẳng có cách nào chiếu
soi cảnh giới bên ngoài. Do vậy, tâm phải thanh tịnh,
tâm thanh tịnh sẽ tràn trề trí huệ. Có như vậy
th́ mới có thể chiếu soi tâm hạnh của hết
thảy chúng sanh.
V́ vậy, trong quá khứ,
các vị tổ sư, đại đức giảng kinh
thuyết pháp, thăng đại ṭa[2].
Trước khi thăng đại ṭa, sẽ có “nghi quy”, tức là có nghi thức:
xướng tán, lễ bái, tụng kinh, niệm chú, đại
khái trong thời gian trước khi giảng, tối thiểu
phải là nửa tiếng. [Cử hành] nghi thức rất
long trọng, hiện thời chúng tôi đều giản
lược hết. Hiện thời, chúng tôi chỉ lễ
Phật ba lạy, mọi người xướng bài Khai
Kinh Kệ, chúng tôi liền lên đài giảng kinh. Xưa kia,
chẳng giống như vậy, trước khi giảng
kinh th́ tối thiểu là phải nửa tiếng đồng
hồ. Sau khi pháp sư thăng ṭa, trong nửa tiếng ấy
sẽ làm ǵ? Nhập Định. Mục đích nhập
Định để xem xét căn cơ, ở đây gọi là “quán
sát”, nhập Định để xem xét căn cơ. Nếu
không thể nhập Định, th́ cũng là để cho
cái tâm định lại, tĩnh lại. Do vậy,
đối với pháp sư mà nói th́ Ngài nhập Định
quán sát căn cơ; c̣n về phía đại
chúng mà nói th́ cũng là chờ những người đến
sau, tức những người không thể canh thời
gian đến đúng lúc. V́ thời gian nửa tiếng
ấy là để chờ những người tới chậm,
đấy cũng là ḷng từ bi.
Xă hội hiện tại
khác hẳn với trước kia. Trước kia là xă hội
nông nghiệp, mọi người đều có thời gian
[rảnh rỗi], chờ đợi không sao cả. Nghi thức
long trọng th́ đối với mỗi người có tâm
nghe pháp cũng sẽ khởi ḷng tôn trọng, v́ thế cách
này có điểm hay. Xă hội hiện thời đă khác
xưa, mọi người rất quư thời gian; nói thật
ra, đấy là điều đáng nên làm. Thế nhưng bảo
“thời gian là tiền bạc”
th́ ngay trong câu nói ấy cũng có nhiều vấn đề,
vẫn là c̣n tham tiền tài, không buông xuống được.
Nói theo phương diện Phật pháp, thời gian là sanh mạng,
là mạng quang, rất nghiêm túc. Thời gian là tiền bạc,
đối với người chân chánh tu hành th́ họ
đă bỏ sạch tiền tài rồi, họ chẳng coi
trọng thứ ấy. Chúng ta cần phải hiểu
điều này. Bởi lẽ, trong xă hội hiện thời,
toàn bộ nghi thức đều bị giản lược,
mong sao thời gian chúng ta giảng kinh sẽ có thể dài
hơn một chút, giảng được nhiều hơn
một chút, chẳng phụ ḷng các vị đồng tu từ
nơi xa đến nghe. Đấy chính là điểm khác
biệt giữa hiện tại và quá khứ, nhưng công
phu quán sát này vẫn hết sức trọng yếu.
(Sớ) Thất tức
tăng quảng, hành vô trụ đạo phương
tăng quảng cố.
(疏)七 即 增 廣,行
無 住 道 方 增 廣 故。
(Sớ:
Câu thứ bảy chính là
mở rộng, v́ hạnh đạo vô trụ th́ mới
tăng rộng được).
Trong kinh
văn, câu này được ghi là “cần cầu Bồ Tát thị hiện nhập xuất
sanh tử Niết Bàn” (siêng cầu Bồ Tát thị hiện
ra vào sanh tử, Niết Bàn). Ở đây, đại sư
Thanh Lương chú giải rất đơn giản, mà ư
nghĩa rất viên măn. Phải “hành
vô trụ đạo” th́ mới thực hiện
được chuyện này, đây chính là tự tại
trong sanh tử Niết Bàn, tự tại
trong nơi ấy. Chúng ta thường gọi vị nào làm
được điều này là “thừa
nguyện tái lai”; vị ấy thật sự có
năng lực thừa nguyện tái lai. Phải như kinh
Kim Cang đă dạy: “Trụ vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Không trụ vào đâu
để sanh tâm) th́ mới được! Lục Tổ
Huệ Năng đại sư của Thiền Tông nhờ
câu kinh này mà khai ngộ. Ngài nhập vào cảnh giới ấy;
cho nên Ngài thật sự là “vô
trụ sanh tâm”. “Vô trụ” là tâm thanh tịnh, chẳng
nhiễm mảy trần. Ngài nói: “Bổn
lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai” (Vốn
không có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần).
Đấy là vô trụ, chẳng những trong tâm Ngài không có
pháp thế gian, mà Phật pháp cũng không có. V́ sao vậy? Phật
pháp vẫn là pháp do nhân duyên sanh. Kinh Kim Cang dạy: “Pháp thượng ưng xả, hà
huống phi pháp?” (Pháp c̣n nên bỏ, huống hồ phi
pháp). “Phi pháp” là pháp thế
gian, “pháp” là Phật pháp. Phật
pháp lẫn thế gian pháp đều chẳng trụ, “chẳng trụ” là không để
vào ḷng, tâm quư vị sạch sẽ, thanh tịnh! “Nhi sanh kỳ tâm”, sanh tâm ǵ?
Tâm đại từ đại bi. V́ vậy, cái tâm ấy
không phải là vắng lặng, Ngài vẫn c̣n có niệm, chứ
không phải là vô niệm. Đối với chính ḿnh th́ Ngài
vô niệm, nhưng niệm niệm v́ chúng sanh. Do vậy, Ngài
sống bằng tấm ḷng từ bi. “Vô trụ” và “sanh tâm”
là một, không phải hai. Đấy chính là pháp môn Bất
Nhị. Bậc Tiểu Thừa vô trụ, nhưng không sanh tâm,
chẳng sanh khởi tâm từ bi. Phàm phu chúng ta hễ sanh
tâm th́ phải trụ, hễ sanh tâm ắt có trụ. Chỉ
có Bồ Tát mới có thể vô trụ và sanh tâm đồng
thời. Đấy là chỗ cao minh của họ. V́ thế,
các vị ấy có thể tăng quảng. Chúng ta hăy xem nhé:
(Sớ)
Cựu kinh vân “cầu sanh tử Niết Bàn môn”, vị bất
trụ Niết Bàn tức sanh tử môn, bất trụ sanh
tử tức Niết Bàn môn.
(疏)舊 經 云 求 生 死 涅 槃 門,謂 不 住 涅 槃 即 生 死門,不 住 生 死 即 涅 槃 門。
(Sớ:
Bản dịch cũ (tức Lục Thập Hoa Nghiêm)
ghi là “cầu sanh tử Niết Bàn môn”, ư nói: Chẳng trụ
Niết Bàn th́ là sanh tử môn, chẳng trụ sanh tử
th́ là Niết Bàn môn).
Niết
Bàn là “vô trụ”, sanh tử là “sanh tâm”. Vị ấy sanh tâm
là vào trong lục đạo độ chúng sanh, đáng nên
dùng thân nào để độ được bèn thị hiện
thân ấy. Giống như Quán Thế Âm Bồ Tát có ba
mươi hai ứng thân, đáng nên dùng thân nào để
độ được, bèn thị hiện thân ấy. Tuy
thị hiện thân, tâm Ngài thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy
trần. V́ thế, luận theo phía Ngài, th́ Ngài trụ Niết
Bàn; luận theo phía chúng sanh, Ngài trụ trong sanh tử. Cả
hai phía Ngài đều trụ, mà cũng có thể nói là cả
hai phía Ngài đều chẳng trụ. Bởi lẽ, chính
Ngài đă trụ Niết Bàn, nên Ngài không có sanh tử. Ngài trụ
trong sanh tử, không trụ trong Niết Bàn, cả hai phía
đều chẳng trụ. V́ thế gọi là “đắc đại tự tại”.
Do vậy, “chẳng trụ sanh
tử tức Niết Bàn môn”.
(Sớ)
Nhị câu bất trụ, tức thị xuất nghĩa.
(疏)二 俱 不 住,即
是 出 義。
(Sớ:
Cả hai đều chẳng trụ chính là ư nghĩa của
chữ Xuất).
Vượt
thoát, chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ trong
Niết Bàn.
(Sớ) Do
câu bất trụ.
(疏)由 俱 不 住。
(Sớ: Do đều chẳng
trụ).
Hai bên
đều chẳng trụ.
(Sớ) Phương năng câu trụ.
(疏)方 能 俱 住。
(Sớ:
Th́ mới có thể đều cùng trụ).
“Trụ” ở đây chính là ư
nghĩa của chữ “nhập”.
“Nhập” là thả chiếc
bè từ, Ngài trụ vào cả hai bên. Tôi vừa mới nói,
đối với chính Ngài mà nói th́ Ngài trụ trong Niết
Bàn, đối với hết thảy chúng sanh để nói
th́ Ngài trụ trong sanh tử. Cả hai bên Ngài đều trụ,
chẳng trụ mà trụ nên gọi là “thị hiện”. Đấy chính là sự thị
hiện của Phật, Bồ Tát.
(Sớ)
Bát tức thành tựu.
(疏)八 即 成
就。
(Sớ:
Câu thứ tám là thành tựu).
Tức
là câu “cần cầu Bồ Tát
ư vi vô vi tâm vô sở trước” (siêng cầu Bồ
Tát đối với hữu vi và vô vi, tâm không chấp
trước). “Vi” là pháp hữu
vi, “vô vi” là pháp vô vi, Ngài
đều chẳng trụ vào pháp hữu vi lẫn pháp vô vi.
Hai bên đều chẳng trụ th́ mới gọi là thành tựu.
(Sớ)
Ư vi vô vi tâm vô sở trước, hà hạnh bất
thành?
(疏)於 為 無 為 心 無 所 著,何 行 不 成。
(Sớ:
Đối với hữu vi lẫn vô vi tâm đều
không chấp trước, hạnh nào chẳng thành?)
Do vậy,
vị ấy có thể ở trong thế gian thị hiện
các thứ thân phận, thị hiện các thứ việc
làm nhằm nêu gương cho hết thảy chúng sanh, dạy
hết thảy chúng sanh “chẳng biến đổi cuộc
sống hiện tại của quư vị”. Hiện thời,
quư vị đang sống như thế nào th́ quư vị cứ
sống như thế nấy, chẳng thay đổi công
việc hiện tại và hoàn cảnh sống của quư vị,
quư vị hành Bồ Tát đạo ngay trong ấy. Điều
này hay tuyệt đến cùng cực! Siêu phàm nhập thánh ở
ngay trong ấy. Quư vị muốn vượt thoát lục
đạo luân hồi, muốn vượt thoát mười
pháp giới th́ vượt nơi đâu? Vượt ngay
trong cuộc sống hiện tại của chính ḿnh, vượt
thoát ngay trong công việc thường ngày hiện tại; quư
vị thấy rất tự tại! Vị ấy nêu khuôn mẫu
cho chúng ta, biểu diễn cho chúng ta xem. Trong kinh thường
nói: “V́ người khác diễn
nói”. “Diễn” là nêu gương cho người ta nh́n vào,
“thuyết” là giảng giải.
Do vậy, đấy là thành tựu thật sự.
(Sớ)
Cố Thế Tôn thuyết tận vô tận pháp, bất tận
hữu vi, bất trụ vô vi. Ư hữu vi giới thị
vô vi pháp, ư vô vi giới thị hữu vi pháp. Hà sở
trước tai?
(疏)故 世 尊 說 盡 無 盡 法,不
盡 有 為,不 住 無 為。於 有 為 界 示 無 為 法,於 無 為 界 示 有 為 法,何 所 著 哉。
(Sớ:
Cho nên đức Thế Tôn nói trọn hết pháp vô tận,
chẳng tận hữu vi, chẳng trụ vô vi. Nơi hữu
vi giới, chỉ bày pháp vô vi, trong vô vi giới chỉ bày
pháp hữu vi! Há có ǵ để chấp nữa ư?)
Mấy
câu chú giải này, khi tôi giảng kinh Kim Cang vào năm ngoái,
[đă nói] mấy câu này là toàn bộ ư nghĩa kinh Kim Cang. Một
bộ kinh Kim Cang từ đầu đến cuối đều
nói mấy câu này. Quư vị thấy đó, trong thuở đức
Phật thị hiện trong cơi đời, cuộc sống
của Phật mỗi ngày là mặc y, tŕ bát, khất thực,
trở về giảng kinh thuyết pháp cho hàng đệ tử.
Đấy chính là nêu gương cho người xuất
gia. Du hóa mười phương, không ở nhất định
một chỗ nào. Địa phương nào có duyên, bèn
đến nơi ấy du hóa. Trong thuở ấy, quả
thật học sinh luôn lấy thầy làm gương. Học
sinh tại gia, nam, nữ, già, trẻ, các ngành các nghề
đều có, thân cận đức Phật, nghe Phật
thuyết pháp bèn giác ngộ, thực hiện sự nghiệp
Bồ Tát trong công việc, trong nghề nghiệp của
chính họ. Kẻ buôn bán th́ làm một vị Bồ Tát thương nhân, tôi vừa mới
nói rồi đó. Học sinh th́ làm một vị Bồ Tát học
sinh. Nội trợ th́ làm một vị Bồ Tát nội
trợ. Lắc ḿnh biến một cái, đều biến
thành Bồ Tát hết. Phàm phu đều biến thành Bồ
Tát, lục đạo đều biến thành Nhất Chân
pháp giới, chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, học
Hoa Nghiêm mà nếu không hiểu đạo lư này, chẳng biết
phương pháp này, sẽ không chuyển được cảnh
giới! Vậy là quư vị đă uổng công học rồi,
chẳng thọ dụng được. Học rồi phải
biết dùng, trở về nhà chuyển được cảnh
giới liền. Đấy chính là “vô trụ sanh tâm” như kinh Kim Cang đă nói. Câu cuối
cùng:
(Sớ)
Viên măn.
(疏)圓 滿 。
Tức
câu “cần cầu Bồ Tát trừ
đoạn chúng sanh chủng chủng phiền năo vi tế
quá thất” (siêng cầu Bồ Tát trừ dứt các lỗi
lầm vi tế phiền năo của chúng sanh).
(Sớ)
Năng trừ chúng sanh vi tế quá thất, phương
viên măn cố.
(疏)能 除 眾 生 微 細 過 失,方
圓 滿 故。
(Sớ:
V́ trừ được những lỗi lầm nhỏ
nhặt của chúng sanh th́ mới viên măn).
Đừng
nói là không có lỗi lầm lớn, lỗi lầm nhỏ nhặt
cũng đều không có. Đấy mới là đạt
đến viên măn. Nếu chúng ta hỏi, do đâu mà có lỗi
lầm ư? Vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, nơi tự tánh thanh tịnh trong tâm vốn
không có, không hề có ba món ấy! Do vậy, chúng là hư vọng.
V́ sao không gạt bỏ những hư vọng ấy? Thật
ra, chẳng bỏ được! Hăy học theo những kẻ
chất phác, trong mười hai thời, [chỉ có] một
câu Phật hiệu th́ lỗi lầm nhỏ nhặt quư vị
cũng không có nữa. Suốt ngày từ sáng đến tối
A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, nào c̣n
có lỗi lầm ǵ? Biện pháp ấy tốt đẹp
cho nên đối với người thật thà niệm Phật,
lỗi lầm nhỏ nhặt cũng không có. Chúng ta đi
theo con đường này, dễ đi, đă vừa hết
sức ổn thỏa, thích đáng, vừa hết sức
thiết thực, trong một thời gian ngắn, sẽ có
thể thành đạt to lớn. A! Hôm nay, tôi giảng đến
đây thôi.
Tập thứ tư (
Xin mở
quyển kinh, trang thứ mười một, ḍng thứ nhất.
(Kinh) Thiện
nam tử! Ngă đắc tự tại quyết định
giải lực, tín nhăn thanh tịnh, trí quang chiếu diệu,
phổ nhăn minh triệt, cụ thanh tịnh hạnh.
(經)善 男 子,我 得 自 在 決 定 解 力。信 眼 清 淨。智光 照 曜。普 眼 明 徹。具 清 淨 行。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Ta đắc tự tại quyết
định giải lực, tín nhăn thanh tịnh, trí quang chiếu
rạng, phổ nhăn soi thấu suốt, đầy đủ
hạnh thanh tịnh).
Đến
đây là một tiểu đoạn. Trong đoạn này, tỳ-kheo
Cát Tường Vân truyền dạy pháp yếu cho Thiện
Tài đồng tử. Ngài truyền thọ pháp do chính Ngài tu
học. Không chỉ là chính Ngài tu học, mà chính Ngài c̣n đă
chứng đắc. Do chính Ngài đă đích thân chứng
đắc th́ mới có thể nói tới chuyện truyền
pháp. Nếu chính ḿnh chẳng đích thân chứng đắc,
sẽ chẳng thể nói đến chuyện truyền dạy
được! Câu này ư nghĩa rất sâu. Trong một câu
trên đây đă nói đến bốn
chuyện. Ngài nói: “Ta đă
đạt được”,
điều thứ nhất là “tự
tại”. Ngài đă đạt được tự tại
rồi! Ngài đạt đến “quyết định” và “giải
lực”. Trong một câu này bao gồm bốn sự kiện,
bốn câu tiếp theo là nói về đức lực của
Ngài. Đây là cảnh giới của bậc Sơ Trụ Bồ
Tát trong Viên Giáo, cảnh giới “phá một phẩm vô minh,
chứng một phần Pháp Thân”. Chúng ta hăy xem chú giải:
(Sớ)
Đệ nhị.
(疏)第 二。
Chữ “đệ nhị” chỉ
đoạn thứ hai.
(Kinh) Thiện
nam tử! Ngă đắc.
(經)善 男 子! 我 得。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Ta đạt được).
Đoạn
kinh văn thứ hai là từ câu này trở đi, chỉ ra
đoạn kinh văn này.
(Sớ)
Chánh thị pháp giới.
(疏)正 示 法 界。
(Sớ:
Chỉ thẳng vào pháp giới).
“Thị” là chỉ dạy,
đến chỗ này mới chánh thức chỉ dạy sự
khế nhập pháp giới.
(Sớ)
Tức Niệm Phật tam-muội, thôi thắng chi nội
phương cử kỳ danh.
(疏)即 念 佛 三 昧。推 勝 之 內,方 舉 其 名。
(Sớ:
Chính là Niệm Phật
tam-muội, nhưng đến phần đề cao người
khác cao trỗi hơn ta th́ mới nêu ra danh hiệu [của
môn tam-muội] này).
Phần “thôi thắng” (đề cao vị
thiện tri thức khác cao trỗi hơn ḿnh) nằm trong
đoạn thứ tư. Ở đây là đoạn thứ
hai. Trong đoạn thứ tư, tỳ-kheo Cát Tường
Vân mới nói đem danh xưng của pháp giới do chính
ḿnh đă chứng được, danh xưng của quả
vị chính ḿnh đă chứng được để nói
ra. Đấy là đoạn kinh văn trong phần sau.
(Sớ)
Kim chánh thị trung, duy chương thể dụng.
(疏)今 正 示 中,唯 彰 體 用。
(Sớ:
Nay trong phần chánh thức
giảng giải cảnh giới này, chỉ nêu bày Thể
và Dụng).
Trong
đoạn này, trọng điểm trong lời chỉ dạy
của [tỳ-kheo Cát Tường Vân] dành cho Thiện Tài
đồng tử là Thể và Dụng của sự tu học,
tức Thể và Dụng do Ngài đă chứng đắc.
(Sớ)
Văn trung nhị, tiên minh thể tướng, hậu biện
thắng dụng.
(疏)文 中 二。先 明 體 相,後 辨 勝 用。
(Sớ:
Kinh văn được chia thành hai phần, trước
hết nêu ra thể tướng, kế đó là biện
định tác dụng thù thắng)
Trong
đoạn kinh văn này có hai đoạn; đây là đoạn
thứ nhất, thuyết minh về thể tướng.
(Sớ)
Văn hữu ngũ cú, cụ hàm danh nghĩa. Hạ kết
danh vân.
(疏)文 有 五 句,具 含 名 義。下 結 名 云。
(Sớ:
Kinh văn gồm năm câu, chứa đựng đủ
cả danh và nghĩa. Trong lời kết luận ở phần
sau, sẽ nêu [danh xưng của môn giải thoát này]).
Ở chỗ
này, đại sư đem phần kinh văn tiếp theo
trích lục ở nơi đây. Trong đoạn thứ
tư, tỳ-kheo Cát Tường Vân sẽ nói ra danh xưng
của pháp Ngài đă đắc.
(Sớ)
Ngă duy đắc thử “ức niệm chư Phật b́nh
đẳng cảnh giới vô ngại trí huệ phổ kiến
pháp môn” cố.
(疏)我 唯 得 此 憶 念 諸 佛 平 等 境 界 無 礙 智 慧 普見 法 門 故。
(Sớ: Ta chỉ
đạt được pháp môn “trí huệ vô ngại thấy
trọn khắp, nghĩ nhớ cảnh giới b́nh đẳng
của chư Phật” này).
Câu này nói
về sở chứng của tỳ-kheo Cát Tường Vân.
(Sớ)
Văn trung sơ cú vi tổng.
(疏)文 中 初 句 為 總。
(Sớ: Câu đầu tiên trong kinh
văn là nói chung).
Tôi vừa
mới nói [điều này] với quư vị.
(Sớ) Tự
tại quyết định giải lực.
(疏)自 在 決 定 解 力。
(Sớ: [Tức là giảng về] sức
tự tại quyết định giải).
Đây là
câu nói chung, tiếp theo là giảng rơ cho chúng ta biết ư
nghĩa của câu này.
(Sớ) Tự tại hữu nhị nghĩa, nhất
quán cảnh tự tại, dục quán, bất quán, nhược
nhất, nhược đa, giai tự tại cố.
(疏)自 在 有 二 義。一 觀 境 自 在。欲 觀 不 觀,若 一若 多,皆 自 在 故。
(Sớ: “Tự tại” có hai nghĩa.
Một là quán cảnh tự tại, v́ muốn quán hay chẳng quán, hoặc
một, hoặc nhiều, đều tự tại).
“Quán, bất quán, nhược nhất,
nhược đa”, nói thật ra, như vậy là đă
chẳng dễ dàng rồi, làm sao mới được tự
tại đối với cảnh được quán ở
đây? Đây là một câu hỏi lớn. Chữ Quán này
chính là sáu căn khởi tác dụng. Sáu căn đối với
cảnh giới sáu trần khởi tác dụng th́ dùng chữ
Quán. Mắt thấy sắc là Quán,
tai nghe tiếng cũng gọi là Quán. Mũi ngửi
hương, lưỡi nếm vị, đều dùng chữ
[Quán] này để tượng trưng. Bọn phàm phu chúng
ta sáu căn tiếp xúc sáu trần chẳng được
tự tại, v́ sao không tự tại? Khởi lên t́nh cảm,
t́nh cảm hết sức phức tạp! Cổ đức
Trung Quốc đem những mối t́nh cảm phức tạp
ấy quy nạp thành “thất
t́nh, ngũ dục”; thất t́nh ngũ dục là quy nạp
thành từng loại để nói cho tiện. Nói một
cách khác, sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới
sáu trần đều khởi tâm động niệm; khởi
tâm động niệm nói chung chẳng ngoài phạm vi thất
t́nh ngũ dục, quư vị chẳng được tự
tại. Các Ngài thật sự được tự tại.
V́ sao họ có thể tự tại? Họ đă ĺa khỏi
thất t́nh ngũ dục.
Nếu
quư vị nghe giảng bộ kinh này từ chương Thập
Tín ở phần trước cho đến chỗ này, tôi
nghĩ chắc là chẳng khó hiểu cho lắm. Sơ Trụ
Bồ Tát đă đoạn Kiến Tư phiền năo,
vượt thoát lục đạo. Kiến Tư phiền
năo đoạn rồi, chẳng c̣n tạo lục đạo
luân hồi nữa. Chẳng những Kiến Tư phiền
năo đă đoạn mà Trần Sa phiền năo cũng đoạn,
trí huệ của vị ấy mở mang. Lại phá một
phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, cùng dùng một
chân tâm với chư Phật Như Lai. Không nhập cảnh
giới ấy là v́ chúng ta sử dụng vọng tâm, quư vị
phải biết điều này. Nay chúng ta khởi tâm động
niệm chẳng phải là chân tâm, mà là vọng tâm. Trong Pháp
Tướng, vọng tâm được gọi là “năm mươi mốt Tâm Sở
của tám Thức”, năm mươi mốt Tâm Sở
nơi tám Thức ấy đều là vọng tâm. Sách Bách
Pháp Minh Môn vừa mở đầu liền nói tới Hữu
Vi Pháp. Trong Hữu Vi Pháp, loại thứ nhất là Tâm Pháp,
tức là tám Thức, [c̣n gọi là] tám Tâm Vương. Loại
thứ hai là Tâm Sở Pháp, tức là những pháp được
sở hữu bởi tâm, gồm năm mươi mốt
thứ. Loại thứ ba là Sắc Pháp, loại này là vật
chất. Loại thứ tư là Tâm Bất Tương Ưng
Hành Pháp, có hai mươi bốn loại lớn. Những
pháp này gom lại gồm chín mươi bốn loại,
đều gọi là Hữu Vi Pháp, chẳng phải là thật.
Hữu Vi là có sanh có diệt, có tạo tác. Kinh Kim Cang dạy:
“Nhất thiết hữu vi
pháp, như mộng huyễn bào ảnh,
như lộ, diệc như điển. Ưng tác
như thị quán” (Hết thảy các pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng. Như sương,
cũng như chớp. Hăy nên quán như thế). Quán như vậy là tự tại,
biết toàn thể là giả. “Tâm, Tâm Sở” là Năng, Sắc
pháp là Sở[3]. Năng và Sở
đều là giả, không có thứ nào là thật. V́ thế,
vị ấy đă tự tại, vượt trỗi
mười pháp giới rồi! Không chỉ là vượt
trỗi tam giới mà c̣n vượt trỗi mười
pháp giới.
Học
Phật đến tŕnh độ như vậy th́ mới
tính là thật sự có kết quả. Thưa cùng chư vị,
chỉ là tách rời lục đạo luân hồi; giải
quyết xong sanh tử trong lục đạo luân hồi
th́ trong Phật pháp gọi là “chứng
tiểu quả”. [Bất luận] Đại Thừa,
Trung Thừa, hay Tiểu Thừa, [hễ giải thoát lục
đạo luân hồi] th́ là tiểu quả, được
coi là có kết quả, quư vị đă vượt khỏi
lục đạo rồi. Do đây biết rằng: Không
vượt thoát lục đạo luân hồi th́ đều
là không có kết quả! Không cần biết quư vị tu
như thế nào, hễ quư vị không có năng lực
vượt thoát lục đạo luân hồi, quư vị
không có kết quả! Nhất định phải hiểu
điều này, phải hiểu cho rơ! Đấy là chuyện
lớn. Chiếu theo lời kinh giáo đă dạy, tu học
như thế đó, nói thật ra, hết sức khó khăn!
Trong chúng ta, mấy ai có thể thấy sắc, nghe tiếng,
mà thật sự chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước?
Nói th́ dễ lắm, mọi người đều nghe quen
tai quá rồi, quư vị cũng nói được mà! Nhưng
quư vị có làm được hay không? Nếu quư vị
không làm được th́ vẫn sanh tử luân hồi y
như cũ!
Nếu
như trong Phật pháp, gặp phải nghịch cảnh, cảnh
chẳng đúng với ư muốn của chính ḿnh, bèn dấy
tâm nóng giận, dấy ḷng ghen ghét, tạo nghiệp đấy!
Tạo nghiệp rất dễ dàng, dẫu thời gian
cũng chẳng lâu, quả báo đă chẳng thể
nghĩ bàn. Từ kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí
Nhạo, quư vị đă thấy rồi đó, quả báo thật
đáng sợ lắm. Đọa địa ngục, nếu
tính theo thời gian của chúng ta là một ngàn tám trăm vạn
năm. Sau khi thoát khỏi địa ngục, sẽ là ngạ
quỷ, súc sanh, hoặc cũng là kẻ bần cùng hạ
tiện trong loài người, sáu căn chẳng đầy
đủ, chịu đủ thứ vùi dập. Đến
khi thời Mạt Pháp của đức Thế Tôn đă
qua, [thời Mạt Pháp của] cả ba đức Phật
đều đă qua hết rồi, tới thời Mạt
Pháp của đức Phật thứ tư, mới
được làm thân người, mới nghe Phật pháp.
Quư vị nói xem: Thời gian dài như thế đó! V́ vậy,
nếu quư vị lắng ḷng nghĩ ngợi, mới biết
chuyện này đáng sợ lắm!
Như vậy
th́ đối với chúng ta, “quán
cảnh tự tại” vô cùng trọng yếu. Nếu
chúng ta thật sự có trí huệ, biết thân tâm thế giới
toàn là giả, toàn là không, chẳng sốt sắng nữa,
chẳng cần phải so đo nữa, quư vị
được tự tại rồi. Nếu quư vị vẫn
sốt sắng so đo, sẽ chẳng được tự
tại! Ở đây là nói tới cảnh giới của Bồ
Tát. Trong cảnh giới Bồ Tát, tận hư không, khắp
pháp giới, hết thảy các cơi Phật, y báo, chánh báo
trang nghiêm trong mười pháp giới, hễ vị ấy
mong trông thấy [những thứ ấy], chúng bèn hiện tiền.
Nếu vị ấy không nghĩ tới, cảnh giới ấy
sẽ chẳng có. Giống như chúng ta xem truyền h́nh vậy!
Chúng ta muốn xem th́ vặn qua băng tần ấy, màn
h́nh bèn hiện h́nh. Không mong thấy, sau khi tắt đi, màn
h́nh không c̣n ǵ nữa. Chúng ta vẫn c̣n phải giơ tay vặn,
chứ các vị Bồ Tát ấy không cần, chỉ cần
khởi ư niệm, mong trông thấy, cảnh giới bèn hiện
tiền. Tây Phương Cực Lạc thế giới chính
là cảnh giới ấy. Bản thân chúng ta phải dựa
vào công phu của chính ḿnh, tu đến cảnh giới ấy,
khó quá! Quá sức khó khăn! Thế nhưng nếu niệm
A Di Đà Phật, đới nghiệp văng sanh, sẽ rất
dễ dàng, có thể đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới được!
Tỳ-kheo
Cát Tường Vân tu pháp môn Niệm Phật. Trong lời chú
giải của đại sư Thanh Lương ở phần
trước, Ngài đă giảng cặn kẽ cho chúng ta: Ngài
Cát Tường Vân tu Ban Châu tam-muội. Điều này nhằm
bảo với chúng ta: Trong pháp môn Niệm Phật, điều
quan trọng nhất là Hành, quyết định chẳng
hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn. V́ thế,
Bồ Tát thị hiện cho chúng ta thấy Ngài đi kinh
hành trên ngọn núi khác. Điều này nhằm bảo với
chúng ta: “Trong Niệm Phật Đường, lấy kinh
hành làm chủ!” Các vị đồng tu muốn tu pháp môn này,
chớ nên không biết điều này. Nay chúng ta gọi [đi
kinh hành] là “nhiễu Phật”, lấy nhiễu Phật làm chủ.
Xưa kia, tổ sư đại đức dạy chúng
ta, người niệm Phật phải niệm ra tiếng.
Trước kia không có máy niệm Phật, trong Niệm Phật
Đường niệm ra tiếng, người nhiễu
Phật niệm ra tiếng, niệm mệt rồi bèn có thể
ngồi xuống. Ngồi xuống gọi là Chỉ Tịnh,
niệm thầm trong tâm chứ không niệm ra tiếng, nghỉ
ngơi. Ban thứ nhất nhiễu Phật rồi nghỉ
ngơi, nhiễu mấy ṿng rồi nghỉ ngơi, ban thứ
hai nhiễu tiếp, khi đó ban thứ hai niệm ra tiếng.
Trước kia chia thành ba ban, trong ba ban th́ một ban niệm
ra tiếng, quư vị có được hai tiếng để
nghỉ ngơi, có thể khôi phục thể lực
được. Ba ban niệm. V́ vậy, lấy nhiễu niệm
làm chủ.
Hiện
nay, chúng ta chia Niệm Phật Đường làm ba khu: Khu
chỉ tịnh, khu nhiễu Phật, khu lễ Phật. Lễ
Phật cũng không niệm ra tiếng, niệm thầm
trong tâm chẳng thốt ra tiếng; lễ Phật niệm
ra tiếng sẽ bị tổn khí. V́ vậy, niệm ra tiếng
là lúc nhiễu Phật. Phương pháp nhiễu Phật hiện
thời của chúng ta tốt lắm, không phân ra từng ban.
Mỗi một ban th́ phải tới lui cùng lúc với mọi
người, nay chúng ta hoàn toàn tự do, hoàn toàn rất tự
do! Quư vị khoẻ khoắn th́ nhiễu nhiều hơn mấy
ṿng nữa; quư vị yếu ớt, nhiễu vài ṿng đă mệt
th́ quư vị có thể tùy ư nghỉ, chẳng cần phải
cùng tiến hay lui theo mọi người, chúng ta không bị
áp lực! Niệm ra tiếng th́ quư vị niệm tiếng
lớn hay nhỏ không sao cả; quư vị niệm lớn
tiếng cũng được mà nhỏ tiếng cũng
được. Chỉ cần tốc độ niệm Phật
hiệu rất nhịp nhàng là được rồi. Hiện
thời, chúng ta dùng tốc độ niệm của máy niệm
Phật, niệm khớp với tốc độ của
máy niệm Phật là được rồi. Nhất định
phải biết nhiễu Phật nhiều
chắc chắn sẽ có lợi cho thân thể. Trong
chương kinh này, Cát Tường Vân Bồ Tát đă dạy
cho chúng ta điều này. Như vậy th́ mới được
tự tại.
Bởi lẽ
đó, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
th́ cảnh giới ấy hoàn toàn hiện tiền. Nếu quư
vị hoài niệm thế giới Sa Bà, hoài niệm thành phố
Đài Bắc ở Đài Loan, hễ quư vị muốn thấy
th́ cảnh giới ấy lập tức hiện tiền giống
như màn h́nh TV vậy, quư vị hoàn toàn trông thấy.
Nghĩ đến chỗ nào, liền có thể thấy
nơi đó. Chẳng những cảnh giới hiện tiền
hiện được, mà cảnh quá khứ cũng hiện
được! Năm mươi năm trước
Đài Loan như thế nào? Một trăm năm trước
Đài Bắc ra sao? Quư vị khởi niệm th́ cảnh giới
ấy hoàn toàn hiện tiền, có thể trông thấy
được quá khứ, cũng có thể thấy
được vị lai, mười phương hết
thảy các cơi Phật quư vị muốn thấy những
nơi ấy th́ chúng đều hiện tiền. Đấy
là “quán cảnh tự tại”.
(Sớ) Nhị,
tác dụng tự tại.
(疏)二 作 用 自 在。
(Sớ: Điều thứ hai là tác dụng
tự tại).
“Tác dụng tự tại” là
“muốn đi, muốn ở, tùy tâm tạo thành vậy”.
Điều này càng chẳng thể nghĩ bàn! Quư vị
trông thấy mười phương cơi nước, hoặc
là mười pháp giới, hoặc là lục đạo,
trông thấy không ít chúng sanh có duyên với ḿnh, do trong đời
quá khứ đă từng sống ở những nơi ấy
nên có duyên. Trông thấy những kẻ hữu duyên rồi lại
quán sát cặn kẽ, hễ duyên đă chín muồi, sẽ đến
giảng giải Phật pháp cho người ấy, người
ấy sẽ tin tưởng, sẽ tiếp nhận, như
vậy là thành thục họ. Quư vị có thể hiện
thân vào trong cảnh giới ấy, giống như ba
mươi hai ứng thân trong phẩm Phổ Môn vậy.
Chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát liền ứng. Vậy
th́ những người ấy trọn chẳng yêu cầu
chúng ta đến độ họ. Nếu họ mong quư vị
đến độ họ, sự cảm ứng ấy sẽ
rơ rệt, rất rành rẽ, hiển cảm, hiển ứng,
quư vị cũng ứng đến rơ rệt. Quư vị quán
sát căn tánh người ấy đă chín muồi, tuy
người ấy không khởi tâm động niệm, sự
cảm ứng ấy vẫn thành công, cho nên gọi là “minh cảm” (cảm ứng ngấm
ngầm). Thậm chí chính người ấy không biết.
Thế nhưng Bồ Tát biết, Bồ Tát cũng đến
thị hiện.
V́ thế,
cảm ứng đạo giao có bốn thứ: hiển cảm
hiển ứng, hiển cảm minh ứng, minh cảm minh ứng,
minh cảm hiển ứng (cảm rơ rệt, ứng rơ rệt;
cảm rơ rệt, ứng ngấm ngầm; cảm ngấm
ngầm, ứng ngấm ngầm; cảm ngấm ngầm, ứng
rơ rệt), bốn thứ! Chư Phật, Bồ Tát thị
hiện trong lục đạo mười pháp giới,
đấy gọi là “tác dụng
tự tại”. Chúng ta xem tới câu này, chẳng niệm
Phật có được hay chăng? Chúng ta cũng rất
mong mỏi chính ḿnh cũng sẽ rất mau chóng đạt
được cảnh giới ấy. Hiện thời, chỉ
có một biện pháp là niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ
khó hay dễ? Thưa với quư vị, chẳng khó khăn
chút nào! Khó ở chỗ nào? Khó là v́ quư vị không chịu
làm! Nếu thật sự chịu làm, chúng tôi từng thấy
những gương niệm Phật văng sanh, thời gian từ
ba năm đến năm năm là đủ rồi! Hiện
thời, chúng ta niệm tà tà hờ hững! Một câu Phật
hiệu lúc có, lúc không; do vậy, niệm chẳng thành công.
Thật sự chịu niệm, chuyện ấy đâu có
khó, nhất định thành tựu! Văng sanh thế giới
Tây Phương, quư vị sẽ hoàn toàn đạt
được cảnh giới trong năm mươi ba lần
tham học. Đấy là nói về tác dụng. Đây là tự
tại, hai thứ tự tại.
(Sớ) Quyết định diệc nhị
nghĩa, nhất trí quyết đoạn cố, nhị tín
vô hoặc cố.
(疏)決 定 亦 二 義。一
智 決 斷 故。二 信 無 惑 故。
(Sớ: Quyết định cũng có
hai nghĩa, một là trí quyết đoạn, hai là tin
tưởng không mê hoặc).
Hai thứ
quyết định. “Trí quyết
đoạn”: “Đoạn”
này chẳng những là đoạn nghi, mà c̣n là phiền năo,
tập khí đều đoạn trừ hết. Tập khí
Kiến, Tư, Trần Sa đều đoạn hết.
Quư vị phải biết, phải dựa vào trí huệ
để đoạn. Không có trí huệ, sẽ chẳng thể
đoạn được! Định chỉ có thể
đè nén phiền năo, chẳng thể đoạn phiền
năo. Những người tu Thiền Định dùng Định
để khuất phục khiến phiền năo chẳng khởi
tác dụng. Từ Định mở mang trí huệ, sẽ
đoạn được phiền năo. Do đây biết
được rằng: Nếu quư vị muốn mở
mang trí huệ, chẳng thể không tu Định. Quư vị
không tu Định, chắc chắn chẳng thể mở
trí huệ được. Trí huệ là do Định mà có. Định
là ǵ vậy? Tâm thanh tịnh. Trong Vô Lượng Thọ
Kinh, cương lănh tu hành là “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”. Thanh tịnh và b́nh đẳng
là Định, giác là Huệ. Giác chính là trí huệ. V́ vậy,
trí huệ khởi phát từ thanh tịnh, b́nh đẳng.
Nếu tâm quư vị chẳng thanh tịnh, chẳng b́nh
đẳng, chắc chắn là quư vị không có trí huệ.
Trong thế gian vẫn có rất nhiều kẻ thông minh, như
những nhà khoa học phát minh ra rất nhiều thứ,
thưa với quư vị, trong Phật pháp chẳng gọi
đấy là trí huệ, mà gọi là Thế Trí Biện Thông.
Trong Phật pháp gọi họ là “thông minh”, chứ không phải
là trí huệ. Cũng có nghĩa là trí huệ của họ và
trí huệ của Phật, Bồ Tát có chỗ bắt nguồn
khác nhau. Trí huệ của Phật, Bồ Tát là từ Định
mở ra, trí huệ của người thế gian là do từ
nghiên cứu, từ phân biệt mà
phát sanh. Nói cách khác, những người ấy vẫn dùng
tâm ư thức, sử dụng vọng tâm, cho nên gọi là Thế
Trí Biện Thông, chẳng phải là chân trí huệ. V́ thế,
dù trí huệ của bọn họ cao siêu, những phát minh
khoa học kỹ thuật hiện thời rất mạnh
mẽ, bọn họ chẳng đoạn được
phiền năo, không có năng lực đoạn phiền năo. Điều
này hết sức rơ ràng! Trí huệ chân chánh sẽ đoạn
được phiền năo, phá vô minh. Dù khoa học gia trí huệ
cao minh, vẫn chẳng thể đoạn được
phiền năo, chẳng thể phá được vô minh. Nói
cách khác, họ không thoát khỏi lục đạo luân hồi
được. Chúng ta nhất định phải phân biệt
điều này rơ ràng, phải cầu chân trí huệ, chắc
chắn là phải từ trí huệ phát sanh th́ mới đoạn
được phiền năo, mới có thể phá được
vô minh.
Thứ
hai, “tín vô hoặc cố”, Hoặc
(惑)
là mê hoặc. Câu này đặc biệt
nhấn mạnh “đoạn nghi, sanh tín”. Ngài nói câu này có ư
nghĩa rất sâu, quả thật là nói về pháp môn Niệm
Phật. Pháp môn này là pháp khó tin mà! Rất khó! Ngay như Thiện
Tài đồng tử đi tham học, gặp vị thứ
nhất là tỳ-kheo Cát Tường Vân truyền dạy cho
Ngài Ban Châu tam-muội, truyền dạy phương pháp này.
Ban Châu tam-muội lấy “niệm
A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới” làm mục đích. Bởi vậy, quư vị
hăy nghĩ xem, Thiện Tài học pháp môn ǵ? Niệm A Di
Đà Phật, cầu sanh Tịnh Độ, không cầu
chi khác! Đấy là mở đầu, đến lần
tham học cuối cùng gặp vị thiện tri thức thứ
năm mươi ba là Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười
đại nguyện vương hướng dẫn về
Cực Lạc, Ngài đă viên măn rồi, đă đến thế
giới Cực Lạc rồi. Điều này cho thấy từ
đầu đến cuối là “triệt
để thâm nhập một môn”, những ǵ Ngài tham học
trong khoảng thời gian ấy đều nhằm thành tựu
Hậu Đắc Trí. Ngài thông đạt hết thảy các
pháp môn, pháp nào cũng hiểu rơ, nhưng thứ ǵ Ngài
cũng không học. Một câu A Di Đà Phật niệm
đến tột cùng, người ta cao minh ở chỗ
này!
Nay chúng
ta tham học một cách lầm lạc, tham phỏng những
vị thiện tri thức, hễ được truyền
dạy một pháp môn th́ môn ǵ cũng đều muốn học
hết, học loạn mất rồi! Học tạp rồi!
Học loạn cào cào! Chỗ này có ư nghĩa rất sâu, rất
sâu đấy nhé! Thiện tri thức chân chánh chẳng phải
là người tầm thường. Nếu họ muốn
gây trở ngại cho quư vị, sẽ chẳng truyền dạy
cho quư vị pháp môn họ đă chọn lựa để
tu học lúc ban đầu. V́ sao vậy? Vị ấy phá hoại
pháp môn của quư vị! Trong nhà Phật thường nói: “Ninh động thiên giang thủy,
bất động đạo nhân tâm” (Thà động
nước ngàn sông, chẳng khuấy động đạo
tâm của người khác). Quư vị làm sao có thể phá hoại
pháp môn tu tập chánh yếu của người khác cho
được? V́ thế, tham học không dễ dàng, cần
phải hội đủ điều kiện tham học.
Truyền pháp càng chẳng dễ dàng. Quư vị muốn học
pháp môn này với tôi, muốn nghe, muốn thấy pháp tôi tu
tập, th́ chính quư vị vốn đang tu tập pháp môn nào
vậy? Quư vị có ḷng tin nơi pháp môn ấy hay không? Có
tâm nguyện hay không? Nghe người khác nói, tâm quư vị có
bị dao động hay không? Có bị biến đổi
hay không? Nếu tâm quư vị dao động, biến đổi,
lại muốn học, tu thử một phen, quư vị sẽ
không có tư cách tham học, tôi không dạy cho quư vị
đâu nhé! Người thật sự đạt đến
mức không động ḷng, “tôi có thể tiếp xúc, có thể
nghe, có thể thấy, nhưng trọn chẳng động
ḷng” th́ vị thiện tri thức ấy bèn truyền dạy
cho quư vị.
Vậy
là quư vị đă thâm nhập thành tựu một môn rồi,
v́ sao phải t́m hiểu những pháp môn ấy? Phải hiểu
rơ những pháp môn ấy? Nhằm thành tựu trí huệ viên
măn. Chẳng phải v́ chính ḿnh, mà nhằm giúp đỡ hết
thảy chúng sanh căn tánh bất đồng, v́ họ mà học,
chứ chẳng v́ ta mà học. V́ tự ḿnh th́ quư vị thấy
Thiện tài một câu A Di Đà Phật niệm đến
tột cùng, đấy là học cho chính ḿnh. Do căn tánh của
chúng sanh không giống nhau, vẫn c̣n rất nhiều người
chẳng tin tưởng pháp môn Niệm Phật, làm như thế
nào đây? Chúng ta đem pháp môn ấy giới thiệu với
họ, đó gọi là pháp phương tiện. Do vậy,
học vô lượng pháp môn nhằm mục đích “tiếp
dẫn vô lượng chúng sanh”. Thế nhưng, quư vị
phải nhớ rơ, tiếp dẫn vô lượng chúng sanh là
phương tiện, tối hậu vẫn là nhằm dẫn
dụ họ về pháp môn Niệm Phật. Nếu chẳng
thể đưa họ về pháp môn Niệm Phật, người
[học hạnh Bồ Tát] ấy vẫn chẳng thể
thành tựu. Đấy chính là khải thị trong phẩm
cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm, tức Phổ Hiền Bồ
Tát Hạnh Nguyện Phẩm. Chúng ta phải thấu hiểu
lư luận, phương tiện thiện xảo ấy; có
như vậy th́ mới thật sự thọ dụng
được. Bởi vậy, nói “tín vô hoặc cố” (v́ tin tưởng không mê hoặc),
chính là như kinh Kim Cang đă dạy: “Tín tâm thanh tịnh, tắc sanh Thật Tướng”
(Tín tâm thanh tịnh liền sanh Thật Tướng). Đối
với việc niệm Phật văng sanh thành Phật, quyết
định không có nghi hoặc, quyết định chẳng
dao động. Có tín tâm ấy, có nguyện tâm ấy, chắc
chắn được văng sanh. Đấy chính là hai ư
nghĩa của chữ quyết định. Tiếp theo là
chữ “giải”.
(Sớ) Giải tức thắng giải, diệc
hữu nhị nghĩa.
(疏)解 即 勝 解,亦 有 二 義。
(Sớ: Giải chính là hiểu thù thắng,
cũng có hai nghĩa)
“Thắng” là thù thắng. Nói
cách khác, chẳng phải là thấu hiểu thông thường,
mà là hiểu rơ, thâm nhập rất sâu. Ở đây, đại
sư Thanh Lương bảo chúng ta: Sự thắng giải
này có hai ư nghĩa.
(Sớ) Nhất
vi tín nhân, ư cảnh nhẫn khả cố.
(疏)一 為 信 因,於
境 忍 可 故。
(Sớ: Một là tin vào nhân, do có thể
nhẫn đối với cảnh).
Đây là
nói rơ: “Vạn pháp đều là
không, nhưng nhân quả chẳng không”. Quư vị phải
nhớ kỹ! Nhân quả có thuộc trong vạn pháp hay
chăng? Thưa với quư vị, nó cũng thuộc vào vạn
pháp, trọn chẳng phải là nhân quả nằm ngoài vạn
pháp, chẳng phải vậy, nó cũng nằm trong ấy.
Nhưng vạn pháp đều là không; v́ sao nhân quả chẳng
không? Thưa quư vị, “nhân quả
chẳng không” là do đối với chúng sanh trong mười
pháp giới mà nói. Chính v́ “nhân quả
chẳng không” nên quư vị mới có thể tu hành chứng
quả. Nếu nhân quả là không, quư vị sẽ vĩnh
viễn chẳng có hy vọng ngoi đầu ra được,
quư vị vẫn phải sanh tử, có thoát luân hồi
được hay chăng? Y báo, chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới là quả báo. Hễ có quả, ắt
phải có nhân. Hiện tướng (tướng được
biến hiện) tuy là “hết
thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng”, là giả! Tuy giả, nhưng chẳng thể nói là
không có tướng. Nay những hiện tướng đều
bày trước mắt chúng ta, chẳng thể nói là “không
có”. Chư Phật, Bồ Tát thấy những tướng ấy
là giả tướng, chẳng phải là thật có.
Nhưng quư vị chẳng thể không thừa nhận nó tạm
thời tồn tại, v́ thế là tạm có, chứ không
phải là vĩnh hằng, chúng tạm thời có mà thôi!
Đấy chính là đạo lư “nhân
quả chẳng không”.
Mười
pháp giới biến hiện như vậy, lục đạo
luân hồi cũng biến hiện theo đạo lư ấy.
Chúng ta tu thành Thanh Văn, tu thành Duyên Giác, tu thành Bồ Tát,
tu thành Phật, đều chẳng ĺa khỏi đạo
lư ấy. Đấy gọi là “nhân
quả chẳng không”, chúng ta phải tin tưởng. Nhất
là pháp môn Tịnh Độ, pháp môn Tịnh Độ kiến lập trên Tín, Nguyện, Hạnh.
Ba điều kiện ấy được gọi là
“ba tư lương”. Ba điều kiện đầy
đủ, quư vị quyết định được
văng sanh. Trong sách Yếu Giải, đại sư Ngẫu
Ích đă giảng về điều kiện Tín như sau:
Điều thứ nhất là phải tin vào chính ḿnh, tin
chính ḿnh và A Di Đà Phật có quan hệ mật thiết,
tin chính ḿnh và Tây Phương Tịnh Độ có quan hệ
mật thiết, quư vị phải có tín tâm ấy. Dựa
vào đâu mà chúng ta có thể thấy A Di Đà Phật? A Di
Đà Phật là tự tánh Di Đà của chúng ta, quan hệ
ấy mật thiết lắm! V́ sao chúng ta có tư cách văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới? Tây
Phương Tịnh Độ là duy tâm Tịnh Độ của
chính ḿnh, c̣n có ǵ để nói nữa! Nói cách khác, đấy
là quê nhà của quư vị. Quư vị thích trở về lúc
nào th́ trở về, ai cũng không ngăn trở quư vị
được! Do vậy, quư vị phải tin tưởng
điều này. Tín tâm trong pháp tu Tịnh Độ được
tạo dựng trên cơ sở này.
Thứ
hai là tín tha. Tha là Phật Thích Ca và Phật Di Đà. Thích Ca
Mâu Ni Phật giới thiệu Tây Phương Cực Lạc
thế giới cho chúng ta, Ngài giảng cho chúng ta ba kinh [Tịnh
Độ]. Chúng ta tin tưởng đức Thế Tôn nói
ra câu nào cũng chân thật, không có một chữ nào giả
dối. Chúng ta tin vào bốn mươi tám nguyện của
A Di Đà Phật, nguyện nào cũng độ hết thảy
chúng sanh, đương nhiên bao gồm cả chúng ta trong
đấy. Chúng sanh tạo tội nghiệp cực nặng,
trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, các vị đă
thấy rồi đó: Kẻ tạo tội nghiệp
Ngũ Nghịch Thập Ác đều có thể văng sanh.
Điều này hết sức chẳng thể nghĩ bàn! V́
sao tạo tội nghiệp nặng như vậy mà vẫn
được văng sanh? Tội nghiệp cũng là tánh Không,
cũng là pháp hữu vi, huyễn, mộng, bọt, bóng, trọn
chẳng thể được! Nhưng quư vị phải
biết: Quư vị văng sanh, tội nghiệp dẫu cực nặng
chẳng thể ngăn trở được, không chướng
ngại quư vị được; nhưng nếu quư vị
chẳng văng sanh, đấy mới là chướng ngại
lớn. Ở đây, tôi có một tỷ dụ, qua tỷ dụ
này, quư vị sẽ thấu hiểu ư nghĩa này. Văng sanh giống
như quư vị tỉnh mộng, những chuyện trong mộng
đều là hư vọng, đều là giả. Chưa
văng sanh, quư vị vẫn đang nằm mộng, chưa tỉnh
giấc. Chưa tỉnh giấc th́ trong mộng th́ có khổ,
quư vị phải chịu đựng, có vui quư vị
cũng phải lănh nhận, chẳng có cách nào không nhận
được. Văng sanh chính là đă tỉnh mộng rồi!
Do vậy biết rằng: Từ vô thủy kiếp đến
nay, tội nghiệp cực nặng như mộng, huyễn,
bọt, bóng, vốn chẳng phải là chuyện gây chướng
ngại, nhưng chẳng văng sanh th́ chúng sẽ trở thành
chuyện chướng ngại. Không văng sanh th́ tội nghiệp
cực nặng ấy sẽ khiến cho quư vị đọa
trong tam ác đạo.
V́ thế, đối với
người tạo tác tội nghiệp, quư vị không cần
phải sợ hăi, không cần phải lo buồn nghiệp
chướng của quư vị sâu nặng, [băn khoăn] làm
sao quư vị có tư cách văng sanh cho được? Quư vị
có mối hoài nghi như thế là hỏng rồi! Trong ba
điều kiện Tín - Nguyện - Hạnh, không hội
đủ điều kiện ấy (Tín). Theo Quán Kinh,
vương tử A Xà Thế là kẻ tạo tội
Ngũ Nghịch Thập Ác, giết cha, hại mẹ, hợp
tác với Đề Bà Đạt Đa phá ḥa hợp
Tăng, chướng ngại Phật pháp, không điều
ác nào chẳng làm. Cuối cùng, ông ta hồi tâm chuyển ư,
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Trong A Xà Thế
Vương Kinh, đức Phật dạy chúng ta: “Ông ta
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
thượng phẩm trung sanh”. Tạo tội nghiệp nặng
như vậy mà chẳng gây trở ngại [văng sanh].
Quay đầu
trở lại th́ chúng ta thấy trong Phát Khởi Bồ Tát
Thù Thắng Chí Nhạo Kinh có nói một vị tỳ-kheo, tức
là người xuất gia, v́ ghen ghét mà chướng ngại
một vị xuất gia hoằng pháp khác, nên đọa
địa ngục một ngàn tám trăm vạn năm. V́
nguyên nhân nào? Ông ta không niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Nếu ông ta niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, sẽ không có chuyện ấy! Quư vị hăy quay
đầu nghĩ lại đi! Nếu như vua A Xà Thế
không niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, sẽ
phải chịu tội trong địa ngục nào? Kinh giáo
gọi nơi ấy là địa ngục A Tỳ; kiếp
số dài như thế nào, thời gian dài như thế
nào, chư Phật Như Lai đều không nói ra. Kinh điển
giảng những điều này [cho nên] quư vị phải
chú tâm suy nghĩ, chú tâm thấu hiểu, người ấy
có tạo tội nghiệp hay không? Đời này chẳng tạo
tội nghiệp, quư vị vẫn c̣n có đời trước.
Đời trước c̣n có đời trước nữa,
từ vô lượng kiếp đến nay, có lẽ nào chẳng
tạo tội nghiệp ư? Chỉ là tạo tội nghiệp
lớn, nhỏ, nặng, nhẹ khác nhau, chứ không có chuyện
chẳng tạo tội nghiệp!
Nhất định quư vị phải
hiểu, đặc biệt là trong thời đại này.
Thời đại này được gọi là dân chủ,
tự do, cởi mở; trong xă hội này, cơ hội tạo
tội nghiệp đặc biệt nhiều. Nếu
như không văng sanh, có mấy ai có thể chẳng đọa
trong tam ác đạo? Nếu quư vị nghĩ chính ḿnh đời
sau không đọa trong tam ác đạo, hăy tự ḿnh lắng ḷng, lắng ḷng suy nghĩ: Không
sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ,
không uống rượu, năm giới ấy, quư vị có
thể giữ được tám mươi phần hay
không? Dựa theo lương tâm của quư vị để
tính toán, coi thử quư vị có giữ được tám
mươi phần hay không? Nếu giữ được
tám mươi phần, đại khái là đời sau quư vị
được sanh trong loài người. Nếu trong năm
điều trên, điều nào cũng phá sạch, điều
nào cũng phạm tuốt, đời sau không thể làm
thân người! Hễ không được thân người,
sẽ đọa trong tam đồ! Nghiệp nhân của
tam đồ là tham - sân - si.
Chúng ta
hăy so sánh: Đối với tâm tham th́
tâm tham [của quư vị] có nặng hay không? Đối
tượng để quư vị tham muốn là ngũ dục,
lục trần, danh văn, lợi dưỡng, tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Thậm chí học
Phật vẫn tham Phật pháp, đấy vẫn là tâm
tham. V́ sao thứ ǵ cũng đều muốn học hết?
Tham! V́ sao mỗi một pháp môn, kẻ ấy đều
mong đạt được hết? Ngạo mạn! Chẳng
chịu thua kém ai, hiếu thắng! Keo kiệt, hiếu thắng,
làm sao không đọa vào ngạ quỷ cho được?
V́ vậy, rất dễ đọa tam đồ, chúng ta phải
nhận biết rơ ràng điều này!
Ngoài việc
dạy chúng ta phải tín tự, tín tha ra, đại sư
Ngẫu Ích c̣n nói tới tín sự, tín lư, tín nhân, tín quả,
những điều này chúng tôi không cần phải nói cặn
kẽ, trong phần sau, cũng sẽ nhắc tới.
(Sớ) Nhị vi tác dụng nhân.
(疏)二 為 作 用 因。
(Sớ:
Hai là tác dụng nhân).
Đại
sư chú giải về “tín
nhân” như sau: “Ư cảnh
nhẫn khả cố” (V́ có thể nhẫn đối với
cảnh). Mấy chữ “ư
cảnh khả nhẫn” này ư nghĩa rất sâu. Nhẫn
là quư vị có thể chịu đựng; hễ cảnh giới
hiện tiền liền biết nhân quả của nó,
cũng như hiểu rơ hết thảy cảnh giới
không ǵ chẳng phải do nhân duyên quả báo biến hiện.
Trong cảnh thuận, đừng sanh tâm tham ái, quư vị nhịn
được, chẳng khởi tham ái. Trong nghịch cảnh,
chẳng sanh tâm nóng giận, cũng nhịn được.
V́ thế, chữ Nhẫn này là: Trong những cảnh giới,
quư vị giữ vững được cái tâm thanh tịnh,
b́nh đẳng. Dùng phương pháp nào để giữ vững?
“Nhẫn khả”. Trong cảnh
giới, quư vị đạt được tâm thanh tịnh,
đạt tâm b́nh đẳng. Chữ Nhẫn này không chỉ
có nghĩa là trong cảnh trái nghịch, quư vị phải nhẫn
nại, mà trong thuận cảnh cũng phải nhẫn, thuận
cảnh c̣n đáng sợ hơn nghịch cảnh! Trong tất
cả cảnh giới đều phải nên nhẫn, giữ
vững thanh tịnh, b́nh đẳng, mọi thứ đều
như pháp, tùy duyên. Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm
dạy chúng ta: “Hằng thuận
chúng sanh, tùy hỷ công đức”, như vậy là tốt.
Tiếp đó là:
(Sớ) Vi tác dụng nhân, ư cảnh
ấn tŕ, viễn xứ vi cận, nhược đại,
nhược tiểu, tùy tâm biến cố.
(疏)為 作 用 因,於
境 印 持,遠 處 為 近,若 大 若 小,隨 心 變 故。
(Sớ:
Là tác dụng nhân, ấn tŕ nơi cảnh, chỗ xa trở
thành gần, dù lớn, hay nhỏ đều tùy tâm biến hiện
vậy).
Đương
nhiên đây là cảnh giới của Bồ Tát, chẳng phải
là cảnh giới của chúng ta. Đấy chính là ư
nghĩa thứ hai của “thắng
giải”. Chữ “cảnh”
chỉ mười pháp giới, mười pháp giới bao
gồm lục đạo, đấy là ngoại cảnh.
Bên trong ấy là Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới
do nhất tâm biến hiện, mười pháp giới là do
tam tâm nhị cảnh biến hiện. Chúng ta gọi tam tâm
nhị cảnh là “ngoại”, nhất tâm là “nội”. “Ấn tŕ”: Ư nghĩa của
chữ “ấn” hoàn toàn rơ rệt.
“Ấn”
có nghĩa là chứng minh. Từ xưa đến nay, người
Trung Quốc thường hay nói tới ấn tín, ấn tín
để làm ǵ? Chứng minh “đây không phải là giả”.
V́ vậy, “ấn” có
nghĩa là chứng minh, tức là đối với sự
lư nhân quả của mười pháp giới hoàn toàn thông
đạt, hiểu rơ, chẳng nghi hoặc mảy may nào! Ư
nghĩa của chữ “tŕ” ở
đây chẳng thể hoàn toàn hiểu là “bảo tŕ” được. “Ấn tŕ” chẳng thể hiểu là “bảo tŕ”. Trong “bảo tŕ” có Năng và Sở,
c̣n trong “ấn tŕ” không có
Năng lẫn Sở. Do vậy, đối với chữ
Tŕ ở đây, Phật pháp có một thuật ngữ gọi
là “pháp nhi như thị”
(pháp là như vậy). Đấy chính là ư nghĩa của chữ
Tŕ. Nói theo cách hiện thời th́ là “tự nhiên”, tự nhiên là như vậy đó! Hiện
nay, chúng ta gọi đó là “phát
triển tự nhiên”. Đối với đạo lư,
quá tŕnh, sự lư, nhân quả trong sự phát triển tự
nhiên, quư vị đều có thể thông đạt, hiểu
rơ, đấy chính là ư nghĩa của chữ “ấn tŕ”.
“Viễn xứ vi cận” (Chỗ
xa thành gần) tức là không c̣n có xa gần nữa! Thật
đấy, chẳng giả đâu nhé! Không có xa gần, xa gần
là nói theo khoảng cách, cũng không có lớn nhỏ nữa.
Kinh Hoa Nghiêm thường nói: “Giới
tử nạp Tu Di” (Hạt cải chứa núi Tu Di”). “Giới tử” là hạt cải,
hạt cải rất nhỏ, to cỡ hạt mè. Núi Tu Di rất
lớn, đem núi Tu Di nhét vào trong hạt cải, hạt cải
không ph́nh to, núi Tu Di không rút nhỏ, làm sao nhét vào được?
Do không có lớn nhỏ, cho nên có thể nhét vào được.
Tây Phương Cực Lạc thế giới cách chúng ta
mười vạn ức cơi Phật. Phật nói “trong khoảng khảy ngón tay liền
tới được”, không có xa gần! Đến khi nào
quư vị mới không có lớn nhỏ nữa, không có xa gần
nữa? Thưa với quư vị, thấy tánh rồi th́ mới
không có! Bởi lẽ, tận hư không, trọn pháp giới
đều do tự tánh biến hiện. Trong tự tánh, há
có xa gần? Há có lớn nhỏ? Nói như vậy, người
chưa kiến tánh như chúng ta do vẫn dùng tâm ư thức,
dùng phân biệt, vọng tưởng, chấp trước,
sẽ rất khó thể hiểu được, không có cách
nào tưởng tượng được, chẳng thể
tưởng tượng nổi. V́ thế gọi là “cảnh giới giải thoát chẳng
thể nghĩ bàn”.
Câu tiếp
theo là “tùy tâm biến cố”
(do tùy tâm biến hiện vậy). Tất cả hết thảy
tướng cảnh giới đều chỉ do tâm hiện,
chỉ do thức biến, hai câu này được nói trong
kinh Hoa Nghiêm. Tâm có thể hiện tướng, thức có biến
hóa. Lại đọc tiếp câu kế đó:
(Sớ)
Tín trí tương tư, tha cảnh bất động, cố
danh vi lực, tức tam-muội nghĩa.
(疏)信 智 相 資,他 境 不 動,故 名 為 力,即 三 昧 義。
(Sớ:
Tín và trí giúp lẫn nhau, cảnh khác chẳng dao động
[tâm địa], nên gọi là Lực. Đấy chính là ư
nghĩa của tam-muội).
Tín chính
là chữ Giải đă được nói trong phần
trước. Quư vị hiểu không sâu, tín tâm sẽ chẳng
sâu. V́ sao chúng ta hoài nghi Tây Phương Cực Lạc thế
giới? Là v́ quư vị hiểu chưa thấu triệt! Quư
vị thật sự hiểu rơ, làm sao mà không tin cho
được? Nói trắng ra, thường những
người tu Tịnh Độ tín tâm có vấn đề
lớn, chủ yếu là do nhận thức chưa thấu
triệt. Cuối năm ngoái, chúng tôi hoàn tất lớp bồi
huấn tại Tân Gia Ba. Lớp bồi huấn chỉ có một
môn học là Vô Lượng Thọ Kinh. Học sinh gồm
hai mươi tám người, hai mươi tám người
đều học Vô Lượng Thọ Kinh. Mỗi người
đều phải học giảng, mỗi người phải
giảng hai lượt. Lần thứ nhất là giảng
tiểu ṭa, tức là chính ḿnh giảng cho các đồng học
nghe. Giảng xong, tiếp nhận lời phê b́nh của quư
vị đồng học. Lần thứ hai là giảng
đại ṭa, tức là lên ṭa giảng, giảng cho đại
chúng, giảng hai lượt. Mỗi người giảng
hai lượt. Hai mươi tám người, trong ṿng ba
tháng, các vị hăy nghĩ xem, hơn năm mươi lần!
Trong ba tháng, được huân tập hơn năm
mươi lần, họ có tin hay không? Chẳng tin cũng
phải tin! Hơn nữa, tín tâm của họ so với những
người khác kiên cố hơn nhiều lắm. Bởi lẽ,
được huân tập hơn năm mươi lần
trong ba tháng, hiểu rất rơ ràng rồi! Hiểu rất
minh bạch rồi! Lư luận, phương pháp, cảnh giới
ấy, nhân nhân, quả quả đều hiểu rơ ràng,
đều minh bạch hết. Điều ấy hoàn toàn khẳng
định, tín tâm kiên định, đấy là cái hay của
“thâm nhập một môn”.
Quư vị
đồng tu nghe Vô Lượng Thọ Kinh có nghe tới
năm mươi lần hay không? Vẫn có những hạng người nghe một lần xong,
giảng lần thứ hai họ không muốn nghe nữa,
[họ nói] “kinh này tôi đă nghe rồi!” V́ nguyên nhân
nào? Thiện căn mỏng cạn! Chẳng thể thành tựu
ngay trong một đời này được! Nếu
như cùng là một bộ kinh, vẫn rất vui thích nghe, lần
nào cũng đều có hứng thú, thiện căn sâu dầy
đấy! Người ấy quyết định thành tựu
ngay trong một đời. Thời cổ, có những vị
đại đức giảng kinh, một bộ kinh có thể
nghe bao nhiêu lần? Thật chẳng dễ dàng cho lắm! Ở
chỗ nào có pháp sư giảng kinh này, họ muốn tới
nghe, phải hỏi ḍ khắp nơi. Một vị pháp
sư giảng lặp lại mấy lần, không nhiều
lắm. Hiện thời, thuận tiện hơn, hiện
thời có băng thâu âm, có băng thâu h́nh. Quư vị có thể
nghe đi nghe lại không ngừng, nghe xong một lần lại
nghe thêm lần nữa! Đạo tràng Tịnh Tông chân chánh
phải đề xướng “thâm
nhập một môn”. Không chỉ Niệm Phật là
phương pháp duy nhất, mà giảng kinh cũng chỉ
giảng một bộ kinh. Một bộ kinh giảng xong,
lại giảng từ đầu, vĩnh viễn chẳng
thay đổi. Đấy là đạo phong, là học phong
khiến cho tứ chúng đồng tu trong đạo tràng ấy
kiên định tín nguyện, thật thà niệm Phật, ai
nấy đều thành tựu!
Do vậy,
Tín và Trí “tương tư”,
tức là giúp cho nhau thành tựu. Trí quyết đoán, giúp cho
tín tâm của quư vị. Tín giúp cho Trí. “Tha cảnh bất động”: Đối với
những cảnh giới khác, [tâm địa] quyết chẳng
lay động, đấy là có sức vậy! Sức ấy
chính là Ngũ Lực trong ba mươi bảy đạo phẩm,
là sức lực do Ngũ Căn của quư vị sanh ra. Sức
ấy chính là tam-muội, tam-muội là Định, chẳng
dao động. Đấy là ư nghĩa được chứa
đựng trong câu nói này. Câu tiếp theo:
(Sớ)
Dư tứ cú biệt thích thượng tổng cú.
(疏)餘 四 句 別 釋 上 總 句。
(Sớ:
Bốn câu c̣n lại là lời giải thích riêng biệt
cho những câu nêu vấn đề tổng quát trong phần
trước).
Bốn
câu sau như vừa mới nói là nhằm giải thích cho một
câu này. Đấy là cách sử dụng của chúng.
(Sớ) Nhất,
tín nhăn thanh tịnh, thích thượng tín quyết định
nghĩa.
(疏)一 信 眼 清 淨,釋
上 信 決 定 義。
(Sớ:
Một là tín nhăn thanh tịnh, nhằm giải thích ư
nghĩa ḷng tin quyết định đă được
nói trong phần trước).
Tín tâm của
người ấy quyết định. Ngài Thanh
Lương chú giải hay quá! Câu kế tiếp thật rơ
ràng, thật minh bạch!
(Sớ) Vị
dục tu Niệm Phật tam-muội, tiên đương
chánh tín.
(疏)謂 欲 修 念 佛 三 昧,先 當 正 信。
(Sớ:
Nghĩa là muốn tu Niệm Phật tam-muội, trước
hết phải chánh tín).
Niệm
Phật tam-muội là vua trong các tam-muội. Trăm ngàn
tam-muội, vô lượng tam-muội đều chẳng bằng
Niệm Phật tam-muội. Thưa quư vị, hễ đắc
Niệm Phật tam-muội, vô lượng tam-muội đều
đạt được hết. Quư vị tu các thứ
tam-muội khác, quư vị chỉ đạt được
một phần, chẳng thể đạt đến viên
măn. Chỉ có Niệm Phật tam-muội là quư vị đạt
được đại viên măn; nhưng Tín là trọng yếu nhất!
(Sớ)
Tín dữ giải câu, cố
danh vi nhăn.
(疏)信 與 解 俱,故 名 為 眼。
(Sớ:
Tín và giải đều có nên gọi là “mắt”)
“Mắt”
ở đây là nói tỷ dụ, “tín
nhăn thanh tịnh” là tỷ dụ. Đủ thấy ḷng
tin của người ấy chẳng phải là mê tín, mà là
thật sự thấu triệt hiểu rơ cho nên mới tin
tưởng. V́ thế, ḷng tin này là thanh tịnh tâm, quyết
định không có nghi hoặc, sự lư, nhân duyên đều
rơ ràng, đấy là “tín nhăn
thanh tịnh”.
(Sớ) Tắc
liễu kiến phân minh. Do hữu tín trí, ư thật đức
năng, thâm nhẫn nhạo dục, linh tâm đẳng tịnh,
cố danh thanh tịnh.
(疏) 則 了 見 分 明。由 有 信 智,於 實 德 能,深 忍 樂欲,令 心 等 淨,故 名 清 淨。
(Sớ: Th́ sẽ
thấy rơ ràng. Do có tín trí, nên đối với thật
đức năng, thâm nhẫn, ưa thích, khiến cho tâm
trong sạch, b́nh đẳng, nên gọi là thanh tịnh).
Sự lư
nhân quả thảy đều hiểu rơ. Trong Tín có Trí, trong
Trí có Tín, cho nên “ư thật
đức năng” (nơi thật đức năng). Trong
tựa đề bộ kinh này, “thật đức năng”
được gọi là Đại
Phương Quảng, hoặc như chúng ta thường
nói là Thể - Tướng - Dụng. Thật là chân thật,
là Thể. Đức là tướng, hiển thị tướng
trạng. Chúng ta gọi là y báo, chánh báo
trang nghiêm, tức y báo, chánh báo trang nghiêm của bốn cơi trong
Nhất Chân pháp giới. Trong mười pháp giới,
cũng có y báo, chánh báo trang nghiêm, Tướng đấy!
Năng là tác dụng. Do vậy, “thật
đức năng” là Thể - Tướng - Dụng. Thể
- Tướng - Dụng th́ bất cứ vật nhỏ nhặt
nào, [chẳng hạn như] một hạt vi trần,
cũng có Thể - Tướng - Dụng. Y báo nhỏ nhất,
chánh báo nhỏ nhất, trong kinh Phật thường nói:
Đầu sợi lông, lỗ chân lông cũng có Thể - Tướng
- Dụng. Đấy là vật nhỏ, c̣n lớn th́ sao?
Hư không, pháp giới, tận hư không, trọn pháp giới,
cũng có Thể Tướng Dụng của nó. V́ thế,
ba chữ “thật đức
năng” bao gồm trọn hết Thể - Tướng -
Dụng của hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất
thế gian, quư vị đều hiểu rơ, đều thông
đạt.
“Thâm nhẫn”, nhẫn này chẳng
cạn, rất sâu! Thâm nhẫn th́ đương nhiên quư vị
chẳng bị lay động, như tôi vừa mới nói
đó, trong hết thảy các pháp, quư vị thật sự
có thể chẳng khởi tâm, chẳng động niệm.
“Nhạo dục”: Nhạo là
hoan hỷ, ưa thích. Ưa thích là pháp hỷ đấy! Do
đâu có? Do quư vị thông đạt, hiểu rơ hết thảy.
Đấy là sự hoan hỷ chân chánh. “Dục” là nói quư vị khởi tác dụng, tác dụng
ǵ? Tùy loại hiện thân trong mười pháp giới, chẳng
khác ǵ chư Phật, Bồ Tát, phổ độ chúng sanh.
Dùng chữ Dục để tượng trưng, chứ
không phải là thật sự có Dục. Nếu thật sự
có dục như vậy, sẽ biến thành phàm phu. Tuy ở
trong mười pháp giới, hiện thân thuyết pháp độ
chúng sanh, nhưng trong tâm vẫn như không hề có chuyện
ấy, hai bên Có và Không đều chẳng trụ. Nếu
chính ḿnh nhập được cảnh giới ấy, thấy
c̣n có nhiều chúng sanh đang chịu khổ, chịu nạn,
họ có duyên với ta, ta đến giúp họ, họ sẽ
tin tưởng. Nếu quư vị chẳng chịu tới giúp
họ, tức là quư vị sai lầm mất rồi!
Quư vị
phải biết “Phật chẳng
độ kẻ vô duyên”. Quư vị không có duyên với họ,
quư vị chẳng độ họ được! Quư vị
với họ rất xa cách, không có cách ǵ kề cận
được. V́ thế, chúng ta trong vô lượng kiếp
đến nay kết duyên với hết thảy chúng sanh, bất
kể là thiện duyên hay ác duyên đều được!
Chỉ cần có duyên, khi thành Phật sẽ độ
được họ. Nếu quư vị không có duyên với
họ, một tí xíu biện pháp cũng không có! Thiện
duyên th́ tốt, mà ác duyên cũng được, phải biết
điều này! Chỉ cần có duyên, sẽ có cơ hội
ấy, có thể phổ độ, phải hiểu đạo
lư ấy. Do vậy, bốn chữ “thâm nhẫn nhạo dục” này có ư nghĩa rất
sâu, rất rộng.
“Linh tâm đẳng tịnh”:
Đẳng là b́nh đẳng; b́nh đẳng thanh tịnh
th́ mới gọi là “thanh tịnh”.
V́ thế, trong sự thanh tịnh ấy, có ư nghĩa b́nh
đẳng. Đây chính là như trong tựa đề Vô
Lượng Thọ Kinh, “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”.
(Sớ) Nhị,
trí quang chiếu diệu, thích thượng trí quyết
đoạn nghĩa.
(疏)二 智 光 照 曜,釋 上 智 決 斷 義。
(Sớ:
Hai là trí quang chiếu rạng, nhằm giải thích ư
nghĩa trí quyết đoạn trong phần trên).
Ở
đây, đại sư dùng một ư nghĩa của kinh
Văn Thù Bát Nhă chứ không phải là dẫn hoàn toàn kinh
văn, nhưng ư nghĩa này lấy từ kinh văn. V́ thế…
(Sớ)
Ư vân.
(疏)意 云。
(Sớ:
Có ư nói).
Ngài không
nói “kinh vân” (kinh chép). Nếu
là “kinh vân” th́ phải hoàn
toàn là văn tự trong kinh; “ư
vân” th́ sao? Tách khỏi văn tự của kinh, lấy ư
nghĩa của một đoạn được chép trong
kinh Bát Nhă.
(Sớ)
Dục nhập Nhất Hạnh tam-muội, tiên văn Bát
Nhă, như thuyết tu học, nhiên hậu năng nhập.
(疏)欲 入 一 行 三 昧,先
聞 般 若,如 說 修 學,然 後能 入。
(Sớ:
Muốn nhập Nhất Hạnh tam-muội, trước
hết nghe Bát Nhă, tu học đúng như lời dạy, sau
đấy mới nhập được).
Đây là
ư được nói trong kinh Bát Nhă. Quư vị muốn nhập
Nhất Hạnh tam-muội, Nhất Hạnh tam-muội này
chính là như chúng ta nhất tâm xưng niệm A Di Đà Phật
th́ là Nhất Hạnh tam-muội. Phải “trước hết nghe Bát Nhă”. Quư vị không có
trí huệ Bát Nhă, niệm Phật sẽ bị chướng
ngại. Chướng ngại ǵ vậy? Hoài nghi, xen tạp,
gián đoạn, quư vị có những thứ chướng
ngại ấy. Đấy là lư do v́ sao hồi đầu
năm ngoái, chúng tôi phải tốn một thời gian dài
để giảng kinh Kim Cang một lượt như vậy.
Có rất nhiều người đến hỏi tôi, họ
nói: “Thưa pháp sư! Chẳng phải là thầy chuyên hoằng
dương Tịnh Độ ư? Sao thầy lại giảng
kinh Kim Cang?” Tôi bảo họ: “Tôi giảng kinh Kim Cang vẫn
là giảng A Di Đà Phật!” Nguyên nhân là v́ mọi người
niệm Phật công phu không đắc lực, v́ sao không
đắc lực? Không thấy thấu suốt, không buông
xuống được. Kinh Kim Cang giảng những điều
nhằm dạy chúng ta thấy thấu
suốt, buông xuống, sau đấy thật thà niệm
Phật th́ sẽ thành công. Nếu quư vị không thấy thấu
suốt, không buông xuống được, quư vị sẽ
chẳng thể thật thà [niệm Phật] được!
Chẳng thật thà niệm Phật, sẽ chỉ là kết
duyên với A Di Đà Phật, chẳng
thể văng sanh trong một đời này! V́ vậy,
không thể nào chẳng giảng kinh Bát Nhă một lượt,
đạo lư là ở chỗ này!
Hiện
thời, vào mỗi thứ Năm, tôi giảng Bát Nhă
Cương Yếu ở Hàng Châu Nam Lộ, cũng nhằm
ư nghĩa này. Kinh Đại Bát Nhă phân lượng quá lớn,
quả thật là đọc một lượt cũng rất
khó khăn rồi. Người hiện thời thấy bộ
kinh quá lớn, chẳng muốn đọc nữa. Do vậy,
vào đời Thanh trước kia, cư sĩ Cát Ca rất
hy hữu! Cụ đă đem sáu trăm quyển đúc kết
thành mười quyển, trích yếu những câu tinh hoa
trong ấy, trích lục lại, trích lấy những câu trọng
yếu nhất. Những khai thị [trọng yếu] trong [bộ
kinh] ấy đều trích lục ra, biến thành mười
quyển. Chúng tôi đọc tác phẩm ấy thấy rất
hữu dụng, rất thuận tiện, chẳng lăng phí thời
gian. Nay chúng tôi giảng tác phẩm ấy, vẫn là tuyển
giảng, chứ không phải là giảng hoàn toàn. Chọn lọc
lấy những phần rất trọng yếu, rất hữu
ích cho người niệm Phật chúng ta, rồi giảng
giải phần kinh văn ấy nhằm khích lệ lẫn
nhau. Bởi vậy, “trước
hết nghe Bát Nhă” rất trọng yếu.
“Như thuyết tu hành, nhiên hậu
năng nhập” (Tu hành đúng như lời dạy, sau
đấy mới có thể nhập được): Thật
ra, trong kinh Bát Nhă, đến cuối cùng, quy kết về
một câu gồm ba chữ “bất
khả đắc” (chẳng thể được). Tất
cả hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế
gian đều bất khả đắc; Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác cũng bất khả đắc. Quư
vị thật sự nhập “bất
khả đắc” th́ thưa với quư vị, tận
hư không, trọn pháp giới quư vị đều đắc
hết. Quư vị nghĩ có thứ ǵ để đạt
được, sẽ chẳng được ǵ hết! Nếu
quư vị thật sự hiểu “hết
thảy đều bất khả đắc”, quư vị
sẽ đạt được hoàn toàn. Mọi người
hăy chú tâm suy tưởng đạo lư ấy. Tiếp theo
là:
(Sớ)
Ngôn nhất hạnh giả, nhất pháp giới hạnh.
(疏)言 一 行 者,一 法 界 行。
(Sớ:
Nói “nhất hạnh” là nói tới “nhất pháp giới hạnh”).
“Nhất pháp giới hạnh”
chính là Nhất Chân pháp giới.
(Sớ)
Diệc vô nhất cố.
(疏)亦 無 一 故。
(Sớ:
Mà cũng không có một).
Điều
này rất khẩn yếu. Đây là ư nghĩa trong kinh Bát Nhă,
quư vị vẫn c̣n có quan niệm Nhất th́ đă trật
rồi! Quư vị trọn chẳng nhập Nhất pháp giới,
“nhất” trong Nhất pháp giới
cũng không có, rỗng không đến tột cùng! Chúng ta
không có cách nào nhập, thật thà niệm Phật là
được rồi. Đến thế giới Cực Lạc
th́ sẽ nhập, thấy A Di Đà Phật chính là nhập.
Đấy chính là biện pháp tốt đẹp.
(Sớ)
Cố bỉ kinh vân: “Pháp giới nhất tướng, hệ
duyên pháp giới”, tức thị thử trung quyết định
giải nghĩa.
(疏)故 彼 經 云,法 界 一 相,繫 緣 法 界。即 是 此 中決 定 解 義。
(Sớ:
V́ thế, kinh ấy (tức kinh Bát Nhă) nói “pháp giới
nhất tướng, hệ duyên pháp giới” chính là
nghĩa “quyết định giải” ở đây).
“Pháp giới nhất tướng”:
“Pháp giới nhất tướng” được nói ở đây chính là
mười pháp giới và Nhất Chân pháp giới, cũng
là như chúng ta thường nói pháp thế gian và xuất thế
gian cùng một tướng. “Một
tướng” ấy là tướng
ǵ? Không tướng, bất khả đắc tướng.
“Hệ duyên pháp giới” là
pháp tu của bậc Pháp Thân đại sĩ. Đấy mới
là quyết định thắng giải chân chánh. Mà cũng có
nghĩa là “hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian trọn chẳng thể được”. Tuy trọn chẳng
thể được, các Ngài có làm hay không? Làm! V́ sao phải
làm? Do lợi ích hết thảy chúng sanh mà làm. Tuy lợi ích
hết thảy chúng sanh, nhưng nói thật ra là “làm nơi
không làm”. Làm mà không làm, không làm mà làm, làm và không làm đồng
thời. Chúng ta rất khó thấu hiểu điều này, các
Ngài có “làm”, nên chẳng rớt vào Không. Các Ngài có “không làm” nhưng chẳng trụ
vào Có. Hai đằng Không và Có đều chẳng trụ.
Đấy là tác dụng tự tại của chư Phật,
Bồ Tát, thật sự đắc đại tự tại.
Chẳng
giống như phàm phu chúng ta, chúng ta tách rời “làm” và “không
làm” thành hai chuyện, không có cách nào để gom thành một
chuyện. Đối với các vị Pháp Thân đại
sĩ, [hai thứ ấy] là một chuyện. Làm điều
ǵ? Lên sân khấu biểu diễn, diễn cho thật giống.
Diễn điều ǵ? Làm mẫu cho chúng sanh, nêu
gương! Nói “không làm” là sao? Những ǵ các Ngài biểu diễn
tuyệt đối chẳng phải là do ư tưởng của
chính các Ngài. Giống như diễn viên lên sân khấu biểu
diễn, dựa theo kịch bản để diễn. Kịch
bản bảo họ làm động tác ǵ, họ liền
làm động tác ấy; bảo họ nói ǵ, họ bèn nói nấy.
Không có một động tác, một câu nói nào là do ư tưởng
của chính ḿnh. V́ thế, họ “không làm”, nhưng biểu
diễn thật giống, nên họ “có làm”. “Làm” và “không làm”
là một, chẳng phải hai. Chư Phật,
Bồ Tát thị hiện trong mười pháp giới là biểu
diễn, chẳng thật, là giả đấy! Ư nghĩa
này rất sâu! Phần tiếp theo:
(Sớ)
Hựu hiển chư Phật đẳng vô nhị cố.
(疏)又 顯 諸 佛 等 無 二 故。
(Sớ:
Lại tỏ rơ chư Phật b́nh đẳng vô nhị
vậy).
Chư Phật
b́nh đẳng vô nhị. “
Tứ Thập Hoa Nghiêm KinhPhổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm
Cát Tường Vân Tỳ Kheo
Chương
Phần 2 hết
[1] Trong tiếng Quan Thoại, nếu một
chữ có nhiều âm, tùy theo âm đọc khác nhau mà có ư
nghĩa khác nhau th́ được gọi là Phá Âm Tự. Chữ
Giải có hai cách đọc khác nhau nên gọi là Phá Âm Tự.
[2] Gọi là đại ṭa nhằm phân biệt
với tiểu ṭa. Giảng đại ṭa là giảng cho
công chúng, trong khi giảng tiểu ṭa nhằm tập giảng,
giảng cho đồng học hay các đạo hữu quen
biết để họ giúp ư kiến nhận xét nhằm
giảng hay hơn.
[3] Năng là chủ thể tác động,
Sở là đối tượng được cảm nhận,
được nhận biết, bị tác động. Chẳng
hạn như khi ta nh́n một bông hoa, Nhăn Thức nhận
biết bông hoa ấy th́ Nhăn Thức là Năng (do Nhăn Thức
là một trong tám thức nên c̣n gọi là Tâm Vương), cái
thấy của Nhăn Thức được gọi là
Năng Kiến, c̣n bông hoa là đối tượng nhận
biết của Nhăn Thức nên gọi là Sở, hay Sở Kiến
(cái bị thấy).