Tứ Thập Hoa
Nghiêm Kinh
Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm
Cát Tường Vân Tỳ
Kheo Chương
四十華嚴經
普賢行品
吉詳雲比丘章
Phần 4
Chủ giảng: Lăo pháp sư
Thích Tịnh Không
Địa điểm: Cảnh
Mỹ Hoa Tạng Đồ Thư Quán, Đài Loan, năm
1993
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ
Trang
Tập thứ bảy
(
Xin
mở quyển kinh, trang thứ mười ba, ḍng thứ
nhất, đọc từ câu cuối cùng:
(Sớ) Tam, công cao, dị
tựu, dĩ tưởng vật cố.
(疏)三 功 高
易 就,以 獎 物 故。
(Sớ: Ba là v́ thành công cao, dễ
thành tựu, nhằm tưởng thưởng chúng sanh vậy)
Hôm
qua, chúng tôi giảng đến đoạn này, do đă hết
giờ, nên chưa giảng xong đoạn này. Ư nghĩa của
đoạn kinh văn này hết sức phong phú, hết sức
viên măn. Ở đây, đại sư Thanh Lương thay
cho chúng ta nêu ra một nghi vấn, tức là: Pháp môn vô lượng
vô biên, v́ sao khi Thiện Tài đồng tử tham học, vị
thiện tri thức thứ nhất liền dạy Ngài pháp
môn Niệm Phật? Ở đây, nhất định là có dụng
ư, tuyệt đối chẳng phải là đột nhiên đề
ra [pháp môn Niệm Phật]. Do vậy, đại sư nói
ra mười điều. Hai điều đầu đă
giảng rồi, hôm nay bắt đầu giảng từ
điều thứ ba. Điều thứ ba là “công cao, dị tựu”, “công” (功) là thành công. Thành công đặc
biệt cao, so với bất cứ pháp môn nào cũng đều
thù thắng hơn. Qua các kinh luận, chúng ta thường
thấy đoạn Hoặc chứng Chân là công phu, có công phu
đoạn Kiến Tư phiền năo, sẽ chứng
được quả A La Hán. Thù thắng hơn nữa là
chứng đắc quả Bích Chi Phật, bởi ngay cả
tập khí của Kiến Tư phiền năo cũng đều
đă đoạn hết. Nếu có thể đoạn
được Trần Sa phiền năo, phá một phần vô
minh, sẽ chứng được quả vị Bồ Tát.
Tùy theo công phu đoạn chứng[1]
sâu hay cạn mà Bồ Tát có năm mươi mốt địa
vị khác nhau, nhưng đều chẳng sánh bằng pháp
môn Niệm Phật.
Pháp
môn niệm Phật “dị tựu”,
“dị” (易) là dễ dàng, “tựu” (就) là thành tựu, [“dị
tựu” là] rất dễ dàng thành tựu. V́ sao thành tựu
rất dễ dàng? Chẳng cần đoạn Kiến
Tư phiền năo, rất dễ dàng! Đoạn Kiến
Tư phiền năo quá ư là khó! Đừng nói là đoạn
sạch Kiến Tư phiền năo, những lời đức
Phật dạy trong kinh đều là dùng phương pháp
quy nạp, như Kiến phiền năo là những sai lầm
về mặt kiến giải, đức Phật nói có tám
mươi tám phẩm. Nói theo cách bây giờ, Phẩm là chủng
loại. Sai lầm về mặt kiến giải có thể
chia thành tám mươi tám thứ. Tám mươi tám thứ ấy
đều là quy nạp, trong mỗi loại, chẳng biết
có bao nhiêu. C̣n Tư Hoặc là suy nghĩ sai lầm, tư
tưởng của quư vị có sai lầm, tổng cộng
gồm tám mươi mốt loại lớn. Đây là chín
địa trong tam giới, quư vị phải đoạn sạch
những thứ ấy th́ mới liễu sanh tử, thoát
tam giới, vượt thoát lục đạo luân hồi. Trong
nhiều phẩm loại như thế, nói thật ra, một
phẩm chúng ta cũng chẳng thể đoạn
được. Đây là nói sự thật, quư vị không
tin th́ cứ tự ḿnh thử xem, quư vị sẽ thấy chính
ḿnh có bản lănh đoạn trừ được hay
không? Bất luận tu học pháp môn nào, quư vị tŕ giới
cũng vậy, nghiên cứu giáo lư cũng vậy, tham Thiền
cũng vậy, tŕ chú cũng vậy, quư vị xem chính ḿnh
có bản lănh để đoạn trừ hay chăng? Khó lắm
đấy!
Trong pháp môn Tịnh Độ
th́ chẳng cần đoạn, chỉ cần quư vị niệm
cho tương ứng là được rồi.
Tương ứng với pháp nào vậy? Phương pháp
đơn giản nhất là tâm và miệng tương ứng,
miệng niệm A Di Đà Phật, trong tâm thật sự có
A Di Đà Phật, chứ không phải là miệng niệm
Di Đà, tâm khởi vọng tưởng th́ không được
rồi! Đây là nói về sự cảm ứng đơn
giản nhất, rơ ràng dễ thấy nhất, công phu
như vậy, chắc chắn quư vị sẽ văng sanh. Sanh
về Tây Phương, kinh Vô Lượng Thọ đă nói rất
khéo: “Viên chứng tam Bất
Thoái” (Chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái). Trong
bốn mươi tám nguyện có cho chúng ta biết: “Giai thị A Duy Việt Trí Bồ
Tát” (Đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát). A Duy Việt Trí Bồ Tát là
địa vị nào? Từ Thất Địa trong Viên Giáo
trở lên. Đây đúng là “công
cao, dị tựu” (thành công cao, dễ thành tựu). Không
một pháp môn nào khác có thể sánh bằng được,
đấy là sự thật. V́ sao pháp môn này đặc biệt
đến thế? Điều này th́ mọi người
chúng ta đều hiểu, do oai thần bổn nguyện của
A Di Đà Phật gia tŕ. Điều này đă được
nói trong phần trước. Điều thứ hai là: “Y Phật lực, năng thành thắng
hạnh” (Nương vào Phật lực, nên có thể
thành tựu hạnh thù thắng). Nương vào Phật lực
chứ không cậy vào chính ḿnh, chính ḿnh không có năng lực
ấy, nương theo Phật lực. Không chỉ là một
ḿnh A Di Đà Phật đến gia tŕ, ngày hôm qua tôi đă
nói với quư vị rồi: Được mười
phương ba đời hết thảy chư Phật
Như Lai đều gia tŕ, thật phi thường!
A
Di Đà Phật dùng phương pháp này để tiếp dẫn
hết thảy chúng sanh trong pháp giới; hết thảy
chư Phật Như Lai cũng dùng phương pháp này
để tiếp dẫn hết thảy chúng sanh, tức
là tùy theo thiện căn, phước đức của quư
vị như kinh A Di Đà đă dạy: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước
đức, nhân duyên đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng
thể dùng chút thiện căn, phước đức, nhân
duyên để được sanh về cơi ấy). Thiện
căn là ǵ? Tin tưởng. Quư vị gặp pháp môn này, nghe
kinh điển này, quư vị có thể tin tưởng,
đấy chính là thiện căn của quư vị. Tin
được, hiểu được, hiểu biết
đấy! Chẳng hiểu vẫn tin th́ cũng là thiện
căn! Quan trọng nhất là người ấy tin tưởng,
chịu phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, có thể
thật thà niệm Phật. Đấy là phước đức,
ai có phước đức nhất? Người phát nguyện
cầu sanh Tịnh Độ, người thật thà niệm
Phật là người có phước báo hạng nhất
trong thế gian. Quư vị phải hiểu người văng
sanh là đi làm Phật, làm một vị chân Phật, chẳng
phải là giả Phật. Theo giáo pháp Hoa Nghiêm, họ là bậc
Bồ Tát từ Thất Địa trở lên, là đại
thánh nhân đấy!
Nếu
nói tới thọ dụng th́ thế giới Tây
Phương dùng vàng ṛng làm đất, vàng ṛng lót đất,
lót đường. Trong thế gian hiện thời của
chúng ta, thất bảo được mọi người
coi trọng vô cùng, c̣n thất bảo trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới là vật liệu để xây dựng
nhà cửa, là vật liệu kiến trúc, chẳng hiếm
hoi, lạ lùng chi hết! Nơi chốn tốt đẹp,
thù thắng như thế, lại đến dễ dàng
như vậy, v́ sao quư vị không chịu đi? Trong thế
gian này có ǵ tốt đẹp để quư vị lưu luyến
đâu nhỉ? Lưu luyến thế gian này là ngu si! Thế
gian này vô thường, thân thể hết sức yếu ớt;
hai ngày hôm nay khí hậu bất thường, bao nhiêu người
bị cảm cúm, yếu ớt quá! Tới Tây Phương
Cực Lạc thế giới, quư vị đạt
được thân thể kim cang bất hoại, thể chất
chẳng phải là xương thịt, mà thể chất bằng
“tử ma chân kim” (vàng ṛng sắc
tía, giồi mài tươi đẹp), dung mạo vĩnh viễn
chẳng suy già. Đúng là trường sanh bất lăo, vô
lượng thọ đấy! Chúng ta nhất định
phải hiểu điều này, ai cũng đều có thể
đến được nơi ấy, vấn đề
là quư vị chịu tu hành hay không? Thật sự là “vạn người tu, vạn
người đến”. Bốn chữ “công cao, dị tựu” nếu đọc kỹ Tịnh
Độ Tam Kinh sẽ lănh hội được. Nếu
chẳng hiểu kinh giáo Tịnh Độ, sẽ chẳng
dễ ǵ hiểu được câu này.
“Dĩ tưởng vật cố”, “tưởng”
(獎) là
tưởng lệ (tưởng thưởng, khích lệ),
“vật” (物) là ǵ? Chẳng phải chỉ
nói về người, v́ nếu chỉ nói về người
th́ phạm vi quá nhỏ, [v́ “người” chỉ là] nhân pháp
giới trong mười pháp giới. Nói tới “vật” th́ sao? Chúng sanh trong
mười pháp giới đều bao gồm trong ấy,
không có một ai chẳng được độ. V́ thế,
kinh Hoa Nghiêm nói rất nhiều Bồ Tát, mỗi vị
đều phát nguyện văng sanh. Nếu quư vị hỏi v́
sao họ phát nguyện văng sanh ư? Quư vị đọc
đoạn kinh văn này sẽ hiểu! Tỳ-kheo Cát
Tường Vân là người đại diện, là người
đề xướng. Đây là điều thứ ba, lư do
thứ ba.
(Sớ) Tứ, quán thông thâm thiển, năng biến
nhiếp cố.
(疏)四 觀 通 深 淺,能
遍 攝 故。
(Sớ: Bốn là quán bao gồm
cả sâu lẫn cạn, do có thể nhiếp khắp)
Chữ Quán này là cương lănh
tu học trong Phật pháp Đại Thừa, Phật pháp
Đại Thừa đều là tu Quán. Nếu nói theo cách hiện
thời, chữ Quán này là quan niệm, trong giới học
thuật thường nói tới “nhân sinh quan, vũ trụ
quan”. Nếu nhân sinh quan của quư vị sai lầm, vũ
trụ quan của quư vị lệch lạc, hăy sửa
đổi quan niệm ấy cho đúng, đấy gọi
là “tu Quán”. Do vậy, vô
lượng vô biên pháp môn của Phật pháp Đại Thừa,
nói chung đều là tu Quán! Không cần biết quư vị
dùng phương pháp nào, đều là sửa đổi kiến
giải, tư tưởng, ngôn hạnh cho đúng. Quan trọng
nhất là quan niệm; sửa đổi quan niệm sai lầm
của quư vị cho đúng. Tuy chúng ta sai lầm có sâu hay cạn,
nhưng một câu Phật hiệu của pháp môn Niệm Phật
có thể xuyên suốt. Ví như nhân pháp giới là quán cạn,
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát quán sâu, một câu Phật hiệu
này có thể thông khắp, sâu hay cạn đều được
bao gồm trong ấy, tuyệt diệu! Những pháp môn khác
th́ hễ cạn sẽ không thể dùng cho sâu được,
hễ sâu th́ chẳng áp dụng cho cạn được,
pháp môn này có thể bao gồm trọn khắp chúng sanh trong
chín pháp giới. Đây là chỗ thù thắng của pháp môn
này. Lư do thứ tư chính là tổng cương lănh tu hành
trong tất cả các pháp môn đều chẳng bằng
pháp môn Niệm Phật. Trong phần trước, chúng tôi
đă nói về pháp Niệm Phật rồi, quư vị chỉ
quán Phật, quư vị thường tưởng Phật là
đă bao gồm vô lượng vô biên công đức của
hết thảy chư Phật, trong phần trước tôi
đă nói rất cặn kẽ. Lư do thứ năm là:
(Sớ)
Tiêu diệt trọng chướng, vi thắng
duyên cố.
(疏)消 滅 重 障,為
勝 緣 故。
(Sớ) V́ tiêu diệt chướng
nặng, làm duyên thù thắng.
Từ vô thủy kiếp đến
nay, hết thảy chúng sanh tạo tác tội nghiệp vô
lượng vô biên. Trong kinh đức Phật đă nói, nói
thật ra, những tội nghiệp ấy không có h́nh
tướng. Đức Phật nói: Giả sử những
tội nghiệp đă tạo tác mà có h́nh tướng, dẫu
h́nh tướng nhỏ như vi trần, những tội
nghiệp do chúng ta đă tạo trong vô lượng kiếp
đến nay tích lũy lại, hư không hiện tại
đều chẳng thể dung nạp được! Chúng
tôi nói lời này có phải là dọa dẫm hay chăng? Có
thật hay không? Thật đấy! Bởi lẽ, tội
nghiệp tạo tác chẳng phải là nói những tội
nghiệp quư vị tạo tác nơi lời lẽ, động
tác, mà là do khởi tâm động niệm. Ngôn ngữ, động
tác có lúc ngưng nghỉ, khi ngủ chẳng tạo nghiệp,
nhưng trong khi ngủ, quư vị vẫn nằm mộng,
trong mộng vẫn tạo nghiệp. Lúc ngủ cũng
không ngừng tạo nghiệp, quư vị nói sao đây? Kinh
Địa Tạng nói khởi tâm động niệm “không ǵ chẳng phải là tội”.
Do vậy, tội nghiệp chất chứa vô cùng!
Phương
pháp nào tiêu trừ được những thứ tội
nghiệp ấy? Người chưa học Phật không biết,
họ c̣n chưa giác ngộ, chẳng biết sự nghiêm
trọng của vấn đề này! Học Phật rồi,
biết vấn đề này nghiêm trọng, cho nên hằng
ngày mong tiêu nghiệp chướng. Tiêu bằng cách nào? Bái
sám, bái sám có thể tiêu nghiệp chướng, đọc
kinh, lạy Phật, tŕ giới, niệm chú, rất nhiều
phương pháp đều nhằm tiêu nghiệp chướng,
có tiêu được hay không? Tiêu không được! V́ thế,
mọi người chớ nên mê tín. Trước hết, quư
vị phải hiểu nghiệp chướng là ǵ? Quư vị
phải hiểu rơ ràng: Nghiệp chướng là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước; nói chung, chẳng
ngoài ba loại lớn ấy. Nếu quư vị bái sám mà thật
sự vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
không c̣n nữa th́ sẽ tiêu nghiệp chướng, rất
hữu hiệu. Chỉ sợ trong khi quư vị bái sám, càng lạy
vọng tưởng càng nhiều, không chỉ nghiệp
chướng không tiêu trừ mà càng tu nghiệp chướng
càng nhiều, có hiện tượng như thế đấy!
Do đây, biết được rằng: Những
phương pháp ấy vô hiệu đối với quư vị
th́ giống như bây giờ quư vị đang bị bệnh
nặng, người ta cho quư vị uống thuốc, uống
thuốc rồi bệnh chẳng nhẹ bớt, ngược
lại nghiêm trọng hơn, t́nh h́nh giống như vậy
đó.
Chúng sanh trong thời đại
hiện tại này, so với người đời trước
bệnh nặng hơn rất nhiều, đấy là thực
tại. Hai mươi mấy năm trước kia, có một
lần tôi gặp pháp sư Hội Tánh tại miền
Cùng một lư do ấy, nay muốn
tiêu nghiệp chướng, chỉ có niệm Phật. Trong khoảng
đầu niên hiệu Càn Long vào đời Thanh trước
kia, trong bản chú giải Quán Vô Lượng Thọ Kinh, đại
sư Từ Vân Quán Đảnh đă có nói: Hết thảy
những người nghiệp chướng sâu nặng
[đến nỗi] tất cả những kinh pháp, sám pháp
do đức Như Lai đă nói đều không có cách nào
tiêu trừ được, th́ tối hậu vẫn c̣n một
câu A Di Đà Phật có thể tiêu trừ được.
Câu này chẳng dễ dàng nói ra! Nếu chẳng phải là bậc
tái lai, sẽ chẳng thể nói được. V́ thế,
trong Phật đường này, mọi người mỗi
ngày niệm A Di Đà Phật tiêu nghiệp chướng,
tiêu diệt trọng chướng. Trong tâm quư vị rất
an tịnh, rất thanh tịnh, một câu A Di Đà Phật
từ miệng phát ra, lọt vào tai, trong tâm không có tạp
niệm, không có vọng tưởng, không phân biệt, không
chấp trước, nghiệp chướng của quư vị
tiêu trừ! Quư vị có thể thường giữ ǵn
được [như thế] trong một tháng, hai tháng, ba
tháng, th́ công đức phi thường. Nếu quư vị tiếp
tục giữ ǵn được trong khoảng thời gian
hai ba năm, quư vị sẽ tương thông với A Di
Đà Phật.
Đấy là lư do v́ sao người
ta niệm Phật hai ba năm bèn có thể tự tại
văng sanh, đứng mất, ngồi mất, chẳng phải
là thọ mạng đă hết rồi ư? Tôi chẳng
đồng ư với cách nói ấy. Rất nhiều người
hỏi tôi, tôi nói: “Đâu có chuyện khéo trùng hợp như
thế!” Quư vị đọc Văng Sanh Truyện, người
ta niệm ba năm đều văng sanh. Đâu có chuyện
khéo phù hợp như thế! Rốt cuộc đây là chuyện
ǵ vậy? Họ nắm chắc điều kiện văng
sanh, muốn đi liền đi. So sánh hai thế giới
th́ nơi kia tốt đẹp quá, không cần thế giới
này nữa, tôi phải ra đi cho mau. Vẫn c̣n thọ mạng
cho tới sau này, nhưng họ không cần đến, họ
muốn đi sớm hơn một chút, cần ǵ phải
lưu luyến chốn này! Cần ǵ vẫn phải chịu
tội nơi đây? Đạo lư như vậy đó! Do vậy
người ta niệm hai ba năm bèn ra đi, tuyệt
đối chẳng thể nói “họ đă hết tuổi
thọ”. Hết tuổi thọ chỉ là một hai người
th́ c̣n được, chứ lẽ đâu nhiều người
niệm ba năm đều đi? Nói như vậy chẳng
lọt tai! Là v́ họ chẳng cần đến thọ mạng
của chính họ nữa, nói như vậy th́ mới hợp
lư, họ đă tiêu trừ nghiệp chướng rồi!
“Vi
thắng duyên” (Làm duyên thù thắng): “Thắng duyên” ở đây chính là nhân duyên văng sanh
thành Phật thù thắng nhất. Sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới là thành Phật. Đấy là
lư do thứ năm.
(Sớ)
Lục, song kiêm nhân pháp, dị gia hộ
cố.
(疏)六 雙 兼 人 法,易
加 護 故。
(Sớ) Sáu là v́ kiêm cả
người và pháp, dễ gia hộ vậy).
Ư
nghĩa này cũng sâu! “Dị
gia hộ”: “Dị” (易) là dễ dàng, dễ dàng
được chư Phật Như Lai gia tŕ, hộ niệm.
V́ sao vậy? Là v́ người và pháp dung hợp thành một
Thể. Chúng ta niệm Phật th́ chúng ta là Người
(Nhân), một câu A Di Đà Phật được niệm bởi
chúng ta chính là Pháp. Một niệm tương ứng một
niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm
niệm Phật, chúng ta và Phật dung hợp thành một Thể.
Đấy là cảm ứng đặc biệt dễ dàng,
chẳng giống như những pháp môn khác, pháp môn này và A
Di Đà Phật trực tiếp dung hợp thành một Thể.
Cần biết rằng: A Di Đà Phật là hết thảy
chư Phật Như Lai. Do vậy, đặc biệt dễ
dàng được chư Phật hộ niệm, gia tŕ,
không có pháp môn nào nhanh chóng hơn! Hôm qua, tôi đă nêu ra mấy
thí dụ để nói rơ với quư vị. Ngay như chúng
tôi giảng kinh ở bên ngoài, giảng kinh trong đạo
tràng này được chư Phật hộ niệm, gia
tŕ, cũng là do đạo tràng Tịnh Tông đặc biệt
thù thắng, giảng pháp môn Tịnh Độ lại càng
thù thắng hơn nữa. Kinh Hoa Nghiêm là kinh điển Tịnh
Độ, điều này đă được cổ nhân
nói rất rơ ràng, [Kinh Hoa Nghiêm là] đại bổn của A
Di Đà Kinh, trung bổn là Vô Lượng Thọ Kinh, tiểu
bổn là A Di Đà Kinh, đại bổn là Hoa Nghiêm kinh.
Năm mươi ba lần tham học từ đầu
đến cuối đều hướng dẫn về Cực
Lạc. Đấy chính là lư do thứ sáu.
(Sớ)
Thất, thập địa Bồ Tát
giai niệm Phật cố.
(疏)七 十 地 菩 薩 皆
念 佛 故。
(Sớ) Bảy, v́ thập
địa Bồ Tát đều niệm Phật.
Ở
đây, kinh Hoa Nghiêm đă trao cho chúng ta một chứng minh.
Tất cả các vị Bồ Tát tu hành chứng quả, trong
vô lượng pháp môn, bất luận quư vị dùng pháp môn
nào để tu tập, tu đến cuối cùng đều
về thế giới Hoa Tạng là tu thành công. Điều
này cũng cho thấy Kiến Tư phiền năo đoạn
xong, đoạn hết Trần Sa phiền năo, vô minh
cũng phá được mấy phẩm, đến lúc ấy,
quư vị sẽ đến nơi đâu? Kiến Tư phiền
năo đoạn rồi, sẽ thoát ĺa lục đạo, Trần
Sa, vô minh phá xong, sẽ thoát ĺa mười pháp giới. Sau
khi thoát ĺa mười pháp giới, quư vị sẽ trụ
trong Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới chính là
thế giới Hoa Tạng, là đạo tràng của Tỳ
Lô Giá Na Phật. Tiếp tục tu hành trong đạo tràng ấy,
phá vọng tưởng tối hậu, tức vọng
tưởng khó đoạn nhất. Phân biệt, chấp
trước đoạn sạch rồi, chấp trước
là lục đạo, phân biệt là mười pháp giới.
Phân biệt, chấp trước không c̣n nữa th́ lục
đạo, mười pháp giới không c̣n nữa; cái c̣n
sót lại là vọng niệm, tức là những vọng niệm
vi tế. Đấy chính là chỗ sai biệt của bốn
mươi mốt địa vị Bồ Tát trong thế
giới Hoa Tạng. V́ sao có tới bốn mươi mốt
đẳng cấp? Vọng niệm vi tế mọi người
đoạn được nhiều hay ít khác nhau. Đoạn
ít th́ phẩm vị thấp, đoạn nhiều th́ phẩm
vị cao.
Trong ấy, chia ra Thập Trụ
(tỳ-kheo Cát Tường Vân là Sơ Trụ), Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, ba mươi địa vị.
Phá ba mươi phẩm vô minh là Đăng Địa (chứng
nhập Sơ Địa). Thập Địa là từ
Sơ Địa cho đến Đẳng Giác Bồ Tát gồm
mười một địa vị. Nói Thập Địa
là dùng con số mười với ngụ ư viên măn, chứ
trên thực tế, có tới mười một địa
vị Bồ Tát. Từ Sơ Địa đến Thập
Địa kể thêm Đẳng Giác, mười một
địa vị Bồ Tát ấy là đạt đến
giai đoạn cuối cùng, họ tu pháp môn nào? Niệm Phật!
V́ thế, pháp môn Niệm Phật là pháp tu của Thập
Địa Bồ Tát. Trước khi chứng Thập Địa,
họ tu những pháp môn khác nhau, mỗi người tu một
pháp, đến khi Đăng Địa, mọi người
đều giống nhau, đều niệm Phật, đều
niệm A Di Đà Phật, đều cầu sanh Tịnh
Độ.
Quư vị hăy nghĩ xem, hiện
tại chúng ta bắt đầu bằng niệm Phật,
niệm A Di Đà Phật. Quư vị lại suy nghĩ nhé! Những
người học Mật, tham Thiền, bọn họ phải
đăng địa rồi mới niệm A Di Đà Phật,
c̣n chúng ta nay đă niệm A Di Đà Phật, chúng ta đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới thành Phật
rồi, bọn họ vẫn ch́m nổi, xoay vần trong lục
đạo, chẳng biết đến đời nào, kiếp
nào mới thoát ra, làm sao sánh bằng được? Nếu
chúng ta hiểu rơ chân tướng sự thật này, quư vị
sẽ chết sạch ḷng mong ngóng, khiêm hư sát đất
tin tưởng pháp môn này, chắc chắn không bị dao
động, quư vị cũng có thể buông xuống vạn
duyên. V́ sao vậy? Không buông xuống được, sẽ
không thể văng sanh! Thứ ǵ cũng đều buông xuống
hết. Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê,
ngũ dục, lục trần, danh văn, lợi dưỡng,
chẳng tiêm nhiễm mảy may nào! Phải biết rằng:
Những thứ ấy nếu dùng ngôn ngữ hiện thời
để tỷ dụ th́ chúng chẳng phải là virus, là bệnh
ung thư độc địa nhất hay sao? Tham, sân, si, mạn!
Đấy là virus. Ngũ dục, lục trần, danh
văn, lợi dưỡng hại chết người. Quư
vị mắc phải bệnh ngặt ấy, quư vị vẫn
chẳng biết. Dùng phương pháp nào để trị
căn bệnh ấy? Niệm Phật, thật thà niệm
Phật, thứ ǵ cũng buông xuống hết, trong tâm không
c̣n chấp trước, không c̣n mong tưởng nữa!
Nếu có năng lực để
tu phước th́ trong những món phước báo, phước
báo nào là chân thật nhất? Đem pháp môn thù thắng này giới
thiệu với đại chúng, phước báo ấy là
chân thật. Hiện thời rất thuận tiện! In
kinh tặng cho người khác, làm băng thâu âm, làm băng
thâu h́nh, CD. Thậm chí hiện thời cho phát sóng trên TV. Đấy
đều là tu phước báo chân chánh, đem pháp môn thù thắng
này giới thiệu cho nó được phổ biến.
Kinh thường gọi điều này là “phước bất đường quyên” (phước
báo chẳng luống uổng). Công đức, phước
báo ấy có thể mang theo được; bất luận quư
vị thành Phật hay chưa, chắc chắn quư vị có
phước báo. V́ sao không chịu tu phước? Nói thật
ra, quư vị không chịu tu phước là v́ không hiểu thấu
triệt những lời đức Phật đă giảng,
vẫn nửa tin nửa ngờ. Đức Phật dạy
không sai, nhưng nay chúng ta vẫn không làm được, vẫn
cứ nửa tin nửa ngờ. Ai thật sự tin tưởng
sẽ làm được, người ấy hiểu rơ làm
như thế nào là chánh xác, làm như thế nào là thỏa
đáng.
(Sớ)
Bát, Tam Bảo cát tường, kinh sơ
thuyết cố.
(疏)八 三 寶吉 祥 經
初 說 故。
(Sớ) Tám, do Tam Bảo là tốt
lành, nên được kinh nói tới đầu tiên.
Trong
hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian, tốt
lành nhất là Tam Bảo. V́ thế, ba vị đầu
trong năm mươi ba vị thiện tri thức tượng
trưng cho Tam Bảo. Cát Tường Vân đại diện
cho Phật Bảo, dạy chúng ta niệm Phật. Đến
phần sau, vị Nhị Trụ Bồ Tát là tỳ-kheo Hải
Vân thuyết pháp, tức là Pháp Bảo; vị Tam Trụ Bồ
Tát là [tỳ-kheo] Diệu Trụ nương vào Tăng,
tượng trưng cho Tăng Bảo. Do vậy, vừa mở
đầu cho năm mươi ba lần tham học th́ ba vị
này đại diện Phật, Pháp, Tăng, nhưng trong Phật
Bảo, lại dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, dạy
chúng ta tu Ban Châu tam-muội, nhất tâm niệm A Di Đà Phật.
Tam Bảo tốt lành nhất, v́ thế, vô lượng vô
biên pháp môn, đặt Tam Bảo lên đầu. Chuyện
này, nói thật ra, nếu đại sư Thanh Lương
không chỉ cho chúng ta, chúng ta thường đọc theo kiểu
“nuốt trộng quả táo”, sẽ chẳng nhận thấy.
Ngài chỉ điểm cho chúng ta, lắng ḷng đọc kỹ,
sẽ thấy chẳng sai: Ba vị ấy quả thật
đại diện cho Phật, Pháp, Tăng. Trong vô lượng
vô biên pháp môn, Tam Bảo đặt tại vị trí thứ
nhất. V́ thế, bất luận pháp môn nào, Hiển giáo, Mật
giáo, Tông môn, Giáo Hạ, hễ quư vị bước vào Phật
môn, muốn học Phật, môn học thứ nhất chính là
Tam Quy Y, tức quy y Phật, Pháp, Tăng. Do vậy, Tam Quy Y
không có tông phái, không có Hiển, Mật! Có thể nói là tất
cả Phật pháp Đại Thừa, Tiểu Thừa, Hiển
Tông, Mật Tông, đều có cùng chung một khoa mục, một
khoa mục bắt buộc phải tu là Tam Bảo.
(Sớ)
Cửu, tức tâm tức Phật, dị
nhất cảnh cố.
(疏)九 即 心 即 佛,易
一 境 故。
(Sớ) Chín là do ngay cái tâm này
chính là Phật, do dễ đạt được một
cảnh.
Đây là nói về phương
tiện tu hành. Tâm là Phật. Cái tâm để niệm là chân
tâm, là Phật tâm, đức Phật được niệm
là tự tánh Di Đà. Cái tâm niệm Phật và đức Phật
được niệm không hai. Đây chính là “nhất cảnh”. Nhất cảnh
ấy chính là Nhất Chân pháp giới, chính là Bất Nhị
pháp môn. Bất Nhị pháp môn là Nhất Chân pháp giới, quư
vị rất dễ đạt được, rất dễ
thành tựu, chẳng giống những pháp môn khác rất
khó! Rất khó khế nhập! Người niệm Phật
rất dễ khế nhập. Vậy th́ trong hiện thời,
những vị đồng tu niệm Phật rất nhiều,
v́ sao vẫn y như cũ chẳng thể khế nhập
được? Đấy là v́ quư vị niệm không
đúng pháp. Cũng có thể nói, chúng tôi nói từ chỗ gần
gũi, dễ thấy, th́ là do tâm và miệng của quư vị
không tương ứng, cho nên quư vị chẳng thể nhập
cảnh giới này. Nếu tâm và miệng tương ứng,
để khế nhập cảnh giới này, bậc lợi
căn th́ dăm ba tháng, c̣n người căn tánh rất chậm
lụt th́ dăm ba năm sẽ thành công. Quư vị xem Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, đọc Văng Sanh Truyện,
hoặc nh́n vào những người niệm Phật văng
sanh trong thời gần đây, sẽ hiểu rơ chuyện
này.
Trong mấy năm gần
đây nhất, ta có thấy những người niệm
Phật thật sự văng sanh. Chúng tôi ở tại Nam
Dương, cư sĩ Lư Mộc Nguyên kể với tôi,
thông thường gần như là [những người ấy]
niệm nửa năm. [Trong số những người ấy,
có một vị] nửa năm trước chẳng biết
“Phật” là ǵ? Khi khuyên ông ta
niệm Phật, ông ta thật thà niệm, niệm
được nửa năm, ông ta bèn văng sanh, tướng
lành thù thắng chẳng thể nghĩ bàn! Ông Lư Mộc
Nguyên đưa cho tôi xem xá-lợi thu được sau khi
hỏa thiêu. Khi trông thấy, tôi thật sự bị cảm
động. Xá-lợi của ông ta là thật, không phải
giả. Khi rớt xuống mặt đất lót đá
Đại Lư, vang ra tiếng giống như bằng kim loại,
rất êm tai. Đó thật sự là xá-lợi. Do đây biết
rằng: Thời gian niệm Phật không lâu, vấn đề
là ông ta thật sự buông xuống được. Điều
này hết sức trọng yếu! Nếu có tơ hào ư niệm
tham luyến thế gian, sẽ bị chướng ngại.
Đấy chính là nghiệp chướng, trọng chướng,
chúng ta phải biết cách tiêu trừ nó. “Tiêu trừ” là buông xuống. Để buông xuống,
quư vị phải thấy thấu suốt, thấy thấu
suốt sẽ buông xuống được. Buông xuống
không được là v́ chưa thấy thấu suốt. Thấy
thấu suốt giúp cho buông xuống, buông xuống giúp cho thấy
thấu suốt. Quư vị càng buông xuống được,
quư vị càng thấy thông suốt, quư vị càng thấy sâu
rộng hơn.
Đến lúc ấy, pháp thế
gian lẫn xuất thế gian không có ǵ khiến cho quư vị
tham ái, không ǵ khiến cho quư vị chấp trước, thứ
ǵ quư vị cũng đều buông xuống. Thưa với
quư vị, hết thảy đều buông xuống, quư vị
sẽ đạt được hết thảy, quư vị
đạt được đại viên măn, quư vị
đạt được đại tự tại. Quư vị
không chịu buông xuống, những ǵ quư vị đạt
được chỉ là tí tẹo. Một chút tẹo ấy
là Tu Đức của quư vị. Thứ ǵ quư vị
cũng buông xuống hết; v́ sao nói “hết thảy sẽ
đều đạt được”? Cái quư vị đạt
được là Tánh Đức, là vô lượng trí huệ,
vô lượng đức năng, vô lượng phước
báo trong tự tánh thảy đều hiện tiền. Những
thứ ấy chẳng phải do tu mà có, mà là sẵn có trong
tự tánh của quư vị. Những phước báo sẵn
có trong tự tánh chính là ǵ vậy? Kinh Hoa Nghiêm gọi nó là thế
giới Hoa Tạng. Nếu quư vị đọc kinh văn
của kinh Hoa Nghiêm th́ từ quyển thứ nhất cho đến
nửa phần đầu quyển mười hai của bộ
Bát Thập Hoa Nghiêm đều là nói về y báo và chánh báo
trang nghiêm trong thế giới Hoa Tạng. Phần kinh
văn tổng cộng là mười một quyển rưỡi,
quư vị hăy đọc đi.
Nói đơn giản, cảnh
giới Tây Phương Cực Lạc thế giới
được nói trong Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh, Di Đà Kinh là Tánh Đức,
chẳng phải là do tu mà có, nó là tự tánh, do Tánh Đức
hiển hiện. V́ thế, quư vị đạt được
đại viên măn, quư vị sẽ đạt được
đại tự tại. Khi ấy, không gian hoạt động,
lănh vực sinh sống của quư vị sẽ là tận
hư không, trọn pháp giới, chứ không phải là một
khu vực bé bỏng. Đấy chính là điều thứ
chín.
(Sớ)
Thập, vi biểu Sơ Trụ duyên Phật
phát tâm, nhạo cúng dường cố.
(疏)十 為 表
初 住 緣 佛 發 心,樂 供 養
故。
(Sớ) Mười, v́ nhằm
biểu thị Sơ Trụ do duyên theo Phật mà phát tâm,
ưa thích cúng dường.
Điều thứ mười
dựa theo sự biểu thị pháp để nói, nhằm
chứng tỏ Sơ Trụ Bồ Tát “duyên Phật phát tâm”. Câu nói chỉ có bốn chữ
này rất trọng yếu. Phát tâm thù thắng khôn sánh, họ
duyên nơi A Di Đà Phật mà phát tâm, đây cũng là
như nay chúng ta nói: Vị ấy học Phật rất may
mắn, vừa bắt đầu liền tiếp xúc A Di
Đà Phật, tiếp xúc Vô Lượng Thọ Kinh, chiếu
theo kinh điển ấy để phát nguyện tu hành,
thâm nhập một môn. Đấy gọi là “duyên Phật phát tâm”. Ưa thích cúng dường: Chữ
Nhạo (樂) này có
nghĩa là vui thích, vui vẻ cúng dường. Cúng dường
những ǵ? Cúng dường bằng cách vâng theo lời dạy
tu hành. Chẳng phải cúng dường chi khác, [mà là] vâng
theo lời dạy tu hành để cúng dường. Trong
mười đại nguyện vương của Phổ
Hiền Bồ Tát, có nói đến cúng dường, tức
Pháp Cúng Dường. Tài Cúng Dường dù có thù thắng, vẫn
chẳng hơn được Pháp Cúng Dường. Thế
nhưng, người có trí huệ đă đem Pháp Cúng Dường
và Tài Cúng Dường kết hợp thành một. Ba thứ
cúng dường Tài, Pháp, Vô Úy đều viên măn trong cùng một
lúc.
Những đồng tu hiện
tiền chúng ta đại khái đều là tu như vậy.
Quư vị bỏ tiền in kinh, một cuốn kinh phải
dùng tiền bạc để in, món tiền ấy là Tài,
nhưng in ra cuốn kinh ấy là Pháp, có phải là Tài Cúng
Dường lẫn Pháp Cúng Dường đều có hay chăng?
Hết thảy chúng sanh đọc bản kinh ấy, chiếu
theo phương pháp ấy để tu hành, tâm khai ư giải,
xa ĺa hết thảy sợ hăi, cho nên Vô Úy Cúng Dường
cũng nằm trong ấy. Một hành động đạt
được cả ba điều, đó là chân thật nhất.
Ngoại trừ bỏ tiền ra, ngoài in kinh ra, hiện thời
làm băng thâu h́nh, làm CD, hiệu quả tương đồng.
Nhất là trong thời bây giờ ,có rất nhiều người
không muốn xem sách, trông thấy một đống văn
tự nhiều chừng đó họ đâm ra chán ngán, mệt
mỏi, họ thích nghe hơn. Hiện thời, so ra con
người ưa nghe nhiều hơn người thích
đọc. Thích nghe th́ đem băng thâu âm cúng dường
họ, làm băng thâu âm cũng cần tiền, Tài Bố
Thí đấy. Nhưng nội dung trong ấy là Phật
pháp, Pháp Bố Thí đấy. Do vậy, cũng là ba thứ
bố thí cùng được viên măn trong một hành động.
V́ thế, qua kinh điển,
đức Phật dạy chúng ta, phàm phu chưa kiến
tánh rất khổ năo, trong tự tánh quả thật là trí
huệ và đức năng đều viên măn, nhưng
phước đức ấy chẳng thể hiện tiền.
Ví như điều ǵ? Quư vị có tài sản ức vạn,
tiền tài gởi trong ngân hàng, bỏ trong két bảo hiểm,
trên thân không có một đồng, bụng đói đi xin ăn.
Quư vị nói có đáng thương hay không? Tiền ư? Tiền
trong ngân hàng không rút ra được, t́nh cảnh của lục
đạo phàm phu là như vậy, chứ không phải là chẳng
có! Theo kinh Hoa Nghiêm, trí huệ đức năng của quư
vị và chư Phật Như Lai không khác ǵ nhau. Trong phẩm
Xuất Hiện có nói: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ, đức tướng
của Như Lai, do v́ vọng tưởng, chấp trước,
nên chẳng thể chứng đắc”. Vọng tưởng,
chấp trước chính là két bảo hiểm trong ngân hàng, đóng
kín không lấy ra được; do vậy vẫn phải xin
ăn, vẫn phải đi ăn mày. V́ thế, Phật, Bồ
Tát trông thấy kêu là “đáng thương!” Kẻ đáng
thương xót! Quư vị thật sự không có tiền th́
chẳng kể là đáng thương, có tiền mà phải
xin ăn th́ mới đáng thương, thật sự là kẻ
đáng thương!
Đức Phật dạy chúng
ta hăy trừ khử chướng ngại ấy, khiến
cho công đức phát sanh tiền tài trong tự tánh của
chúng ta đều được hiển hiện. Đức
Phật dạy chúng ta phương cách ấy, nhưng
trước khi chúng ta trừ được chướng
ngại, đức Phật nói phàm phu có phước báo,
phước báo ấy là Tu Đức. Nói cách khác, đấy
không phải là tiền của chính ḿnh, quư vị tạm thời
đi làm công kiếm được mấy đồng tiền.
Quư vị siêng năng làm việc sẽ kiếm nhiều tiền
hơn một chút; nếu lười nhác th́ kiếm tiền
ít đi một tẹo. Do vậy, phước báo trong lục
đạo lớn hay nhỏ đều như làm lụng tạm
thời, chẳng phải là tự tánh, cho nên những món tiền
của ấy sẽ ra sao? Món tiền ấy mất đi, quư
vị kiếm được th́ cũng rất dễ dàng
mất đi. Nhưng nếu là tiền tài, của báu trong
tự tánh thấu lộ ra, sẽ giống như nước
suối chảy ra ngoài cuồn cuộn không ngừng,
vĩnh viễn không chấm dứt, chẳng bị mất
đi. Như thế th́ nếu quư vị nhập được
Nhất Chân pháp giới hay Tây Phương Cực Lạc thế
giới hoặc là thế giới Hoa Tạng, hễ quư vị
đă tiến nhập, quư vị liền đạt
được những của cải trong tự tánh,
vĩnh viễn chẳng bị mất đi, cứ cuồn
cuộn không ngừng trào ra. Tu các pháp môn khác th́ khó khăn,
chứ tu pháp môn Niệm Phật dễ dàng, rất dễ
đạt được. Do vậy, “duyên Phật phát tâm” thù thắng khôn sánh. Tỳ-kheo
Cát Tường Vân tượng trưng cho sự “duyên Phật phát tâm”; ở
đây, Ngài tu Pháp Cúng Dường.
Đức Phật dạy chúng
ta, tức nói với bọn phàm phu chúng ta là những gă phàm
phu đáng thương đang tạm thời làm lụng.
Đức Phật dạy chúng ta: Tài sản của quư vị
chẳng phải là quư vị tự có. Chẳng phải là
quư vị rất thông minh, rất tài năng, kiếm tiền
rất giỏi đâu nhé. Không có chuyện ấy đâu nhé!
Quư vị hăy nghĩ tới những người xung quanh,
người thông minh hơn quư vị nhiều lắm, giỏi
giang hơn quư vị cũng đông lắm, v́ sao họ chẳng
thể kiếm tiền, c̣n quư vị th́ kiếm tiền
được? Mấy hôm trước, ở Tân Gia Ba, tôi gặp
Phó cư sĩ, rất thú vị. Tuy tôi quen biết ông ta hai
ba năm, ông ta cũng đă từng quy y bên đó, nhưng
chúng tôi rất ít chuyện tṛ. Lần này, có dịp ăn
cơm tại đấy mấy lượt, nói mấy câu,
chúng tôi mới biết ông ta là một nhân vật rất
đặc sắc. Ông ta chưa hề đi học, nói cách
khác, tŕnh độ giáo dục rất thấp, ông ta cũng
không hiểu tiếng Anh. Trong xă hội Tân Gia Ba, Anh văn hết
sức trọng yếu! Ông ta không biết Anh ngữ. Ông ta
buôn bán, kể với tôi, khởi nghiệp bằng hai ngàn
đồng, hiện thời, mỗi năm ông ta kiếm tới
một ngàn vạn. Ông ta làm sao? Dựa vào đâu để
làm? Dựa vào sự thành thật, trung hậu, chất phác,
chẳng dối ḿnh, chẳng lừa người, ông ta dựa
vào những điều ấy.
Tiếp xúc với những
đại thương nhân ngoại quốc, họ hết
sức coi trọng ông ta, giao quyền cho ông ta làm đại
lư. Giao cho ông ta, ông ta không làm. Ông ta muốn mời người
khác làm thay cho ông ta. Ông ta nói: Người khác hễ thuê
người là thuê làm kinh lư, làm thợ, c̣n ông ta mời
người làm chủ. Mời như thế nào? Chuyện
ǵ cũng giao hết cho người ấy làm. Anh làm thành
công th́ ông ta kiếm được một ít lợi nhuận;
anh làm thất bại th́ ông ta hoàn toàn thất bại. Ông ta
cái ǵ cũng không có, đây là một người rất kỳ
lạ. Nhưng ông ta toàn gặp những người tốt,
đều là người rất có lương tâm, đều
là người rất thành thật. Chuyện này hiếm có
lắm, duyên tốt đấy!
Tôi bảo ông ta:
- Tiền ông kiếm được
chẳng phải nhờ vào đó đâu nhé!
Ông ta hỏi:
- Sao vậy?
- Đời trước ông tu
Tài Bố Thí, Tài ấy là nhân. Những cách ông làm hiện thời
là duyên. Có nhân, có duyên, cho nên ông mới kiếm tiền thật
dễ dàng, ông kiếm tiền rất tự tại!
Ông ta kể mỗi ngày ông ta không
có chuyện ǵ, chỉ bồi tiếp những vị
thương chủ. Trong kinh Phật gọi họ là “thương chủ”, tức
là những vị đại xí nghiệp gia ngoại quốc,
tiếp đăi họ dùng cơm, tháp tùng họ đi mua sắm,
đi văn cảnh. Ông ta bảo đấy là công việc của
ông ta. Ông ta nói: “Con mỗi ngày làm chuyện ấy, không có
chuyện ǵ khác. Cả ngày không có việc ǵ. Lên xe liền mở
băng nghe niệm Phật, nghe thầy giảng kinh, nghe
kinh, niệm Phật. Ngoại trừ nghe kinh, niệm Phật,
là bồi tiếp những vị thương chủ”. Tất
cả chuyện kinh doanh chẳng nghe, chẳng hỏi tới,
giao cho người khác toàn quyền xử lư cho ông ta, trọn
chẳng hỏi tới, do người ấy làm. Lại
c̣n bảo kẻ ấy: “Nếu ông thành thật, nếu ông
làm ăn thật thà, tương lai của ông sẽ vô
lượng. Những ông chủ đại công ty nh́n trúng
tôi, tôi nh́n trúng ông. Trong tương lai, khi họ nh́n trúng
ông, trực tiếp giao cho ông làm, coi như tâm phúc”. Ông ta chẳng
sợ người khác đoạt quyền đại lư của
ḿnh, ông ta không có ư niệm ấy: “Anh nắm giữ là tốt
nhất, tôi không chuyện ấy. Tôi có ăn, có mặc là
đủ rồi”. Đây chính là do đời trước
tu Tài Bố Thí, rất vui thích Tài Bố Thí, đời này
được dễ dàng như vậy. Rất hiếm có!
V́ thế, đức Phật dạy
chúng ta của cải là quả báo, Tài Bố Thí là nhân duyên.
Thông minh, trí huệ là quả báo, Pháp Bố Thí là nhân. Hiện
thời, chúng ta thường bố thí Phật pháp, in kinh bố
thí, làm băng thâu âm, thâu h́nh để bố thí, sẽ
được quả báo ǵ? Thông minh, trí huệ. Vô Úy Thí sẽ
được mạnh khỏe, sống lâu. Người thế
gian đều muốn có của cải, đều mong
được trí huệ, đều mong mạnh khỏe,
sống lâu, những thứ quư vị mong muốn là quả
báo. Mong muốn quả báo, nhưng chẳng tu nhân, làm sao đạt
được? Quư vị muốn ăn đào, trước
hết phải trồng cây đào th́ quư vị mới có
thâu hoạch. Chúng ta thấy những người phát tài là
do cái nhân trong đời trước. Ông ta kể với
tôi là ông ta kinh doanh kiếm tiền tại Đại Lục.
Những bạn bè giống như ông ta cũng kinh doanh giống
như thế, ai nấy đều thất bại, đều
lỗ vốn, chỉ có ḿnh ông ta là kiếm lời, tuy kinh
doanh cùng một nghề. Do nguyên nhân nào vậy? Nhân khác nhau,
duyên khác nhau, cho nên quả báo khác biệt! Hiện thời,
ông ta đổ rất ít vốn vào Đại Lục,
nhưng kiếm được lời. Ông ta giữ theo lẽ
công, nộp thuế một trăm phần trăm, quyết
chẳng trốn thuế. Ông ta nói: “Con cúng dường quốc
gia, con cúng dường cho địa phương ấy, bố
thí cúng dường”. Nộp thuế một trăm phần
trăm vẫn có lời, chẳng phải là nói “nộp thuế
sẽ không có lời”, vẫn có lời!
V́ thế, nếu quư vị muốn
giải thích hiện tượng này th́ chỉ có Phật
pháp mới giải thích viên măn nhất. Chiếu theo Phật
pháp để tu học, không ǵ chẳng có lợi, thật
sự đạt được đại tự tại,
thật sự là tốt lành nhất. Do vậy, “xả đắc” (có bỏ mới
có được), đây là danh từ trong Phật học.
Xả là nhân, sau đấy quư vị mới có Đắc.
Đắc rồi lại phải xả. Đắc rồi
th́ chẳng thể không nói tới Xả. Đắc rồi
phải Xả, Xả cho đến hết, cái quư vị
đạt được là phước báo, thật sự
là chẳng có cùng tận. Trong quá khứ, đại sư Ấn
Quang qua Văn Sao đă thường khen ngợi ba người
sống vào thời cổ ở Trung Quốc có thể làm
khuôn mẫu cho chúng ta. Người thứ nhất là Khổng
lăo phu tử. Khổng lăo phu tử bố thí. Khổng lăo
phu tử không có tiền, bố thí thứ ǵ? Bố thí pháp,
Ngài tu pháp bố thí, dạy học. V́ thế, quư vị thấy
quả báo là con cháu của Ngài măi cho đến ngày nay, ở
Đài Loan là ông Khổng Đức Thành, tại Đại
Lục là họ Khổng, đều được xă hội
đại chúng tôn kính. Khổng Đức Thành đến
Mỹ, những viên chức thuộc chánh quyền
Vị thứ hai là Tể Tướng
Phạm Trọng Yêm đời Tống. Phạm tiên sinh tu
Tài Bố Thí. Tài lẫn pháp đều có. Thuở nhỏ,
chúng tôi học Quốc Văn, đọc bài Nghĩa Điền
Kư là do Phạm tiên sinh soạn. Quư vị hăy nh́n vào hạnh
nghi cả đời Phạm tiên sinh. Ông xuất thân rất
nghèo, là Tú Tài nghèo xuất thân. Trong nhà không có cơm ăn,
đọc sách phải đến chùa miếu đọc.
Quê ông ta ở Tô Châu, lần sau quư vị đến Tô Châu
văn cảnh có thể đến thăm nhà ông ta, mộ ông
ta cũng ở đó. Tổ Ấn Quang nói [ḍng dơi Phạm
Trọng Yêm] một ngàn năm gia đạo chẳng suy. Thông
thường một ḍng họ truyền được ba
đời đă chẳng dễ dàng rồi. Ḍng họ ông
truyền suốt một ngàn năm chẳng suy, măi cho tới
nay vẫn hưng vượng. V́ nguyên nhân nào? Cụ chịu
bố thí, con cháu bắt chước theo. Phạm tiên sinh
đáng được người khác tôn kính, ông hết sức
nghèo khổ, đến đọc sách tại chùa miếu,
tự ḿnh mỗi ngày nấu một nồi cháo loăng, chia làm
bốn phần, mỗi bữa ăn một phần, sống
gian khổ như thế để học hành.
Trong truyện kư của ông ta, có
chép một câu chuyện. Ông ta từng có lần gặp một
thầy bói, ông ta cũng đi coi bói. Ông ta đi coi bói bèn hỏi
thầy bói: “Thầy coi xem tôi có làm Tể Tướng
được hay không?” Thầy bói nghe câu nói ấy, cười
mỉa: “Ngươi chưa khỏi cuồng vọng quá mức
rồi! V́ sao mong làm Tể Tướng?” Ông ta lập tức
đổi giọng: “Vậy th́ tôi làm thầy lang có
được hay không?” Thầy bói đáp: “Lạ thật!
Sao từ Tể Tướng lại lọt xuống làm thầy
lang vậy?” Thầy bói hỏi: “Ư ngươi là sao?” Ông ta
đáp: “Người trong thế
gian chỉ có Tể Tướng và thầy thuốc có thể
cứu người”. Ông thầy bói nói: “Ngươi sẽ
là một vị Tể Tướng thật sự, không có
ḷng riêng tư, chỉ nhằm cứu đời, cứu
người”. Rất bội phục ông ta. Sau này, quả
nhiên ông ta làm Tể Tướng.
Khi học hành trong chùa miếu,
sống khổ sở như thế, ông ta phát hiện ra một
số vàng được giấu diếm. Trong chùa miếu
ông ta ngẫu nhiên t́m ra, chẳng biết ai đă chôn giấu
vàng, đựng trong cái ṿ, số lượng rất nhiều.
Sau khi ông ta phát hiện, bèn chôn vùi xuống đất,
cũng chẳng nói với ai khác, chẳng động tâm! Đối
với tài vật chẳng động tâm. Măi cho đến
khi ông ta làm Tể Tướng, ngôi miếu ấy đă lâu
ngày không được tu sửa. Trước kia, Phạm
tiên sinh từng học hành ở nơi ấy, rất có
duyên phận với nó, nghĩ tới chuyện sửa miếu
và hóa duyên. Cụ rất khảng khái, cầm bút viết “vàng
ṛng mấy vạn lạng”. Người trong miếu vui mừng
khôn xiết. Tiền ở đâu? Ông ta lại không giao tiền,
mà nói với họ: “Trong miếu các ông, dưới gốc
cây nọ có vàng ṛng, các ông hăy đào lên!” Đào lên, quả
đúng như vậy, đem vàng sửa miếu. Trong lúc
cùng quẫn nhất, trông thấy tiền của nhiều
như thế mà chẳng động tâm! Thật phi thường!
Sau khi làm quan, thâu nhập nhiều rồi, bổng lộc
nhiều rồi, vẫn sống như một chàng Tú Tài
nghèo khổ như xưa. Cuộc sống trong nhà vẫn
đơn giản như thế, vẫn thanh bần như
thế, đem tiền tài ấy nuôi nấng những
người khổ sở, gian nan trong ḍng họ. Ông ta nuôi ăn
hơn ba trăm gia đ́nh, thâu nhập của một
người đem nuôi hơn ba trăm gia đ́nh, sống
cuộc đời b́nh đẳng, hiếm có thay!
Con cháu đều noi
gương, đấy là gia phong của ông ta. Con cháu đều
phi thường! Trong số năm người con của
ông ta, có hai người làm Tể Tướng. Trong ấy,
có một người làm tới chức Ngự Sử
Đại Phu. Nếu nói theo thể chế của chúng ta
hiện thời, th́ hai vị làm hành chánh viện trưởng
(thủ tướng), một vị làm giám sát viện
trưởng (chánh án tối cao pháp viện). Khi ông ta chết,
thời cổ có quan, có quách, có quan tài, nhưng không có quách,
mua không được! Quách là phía ngoài quan tài lại có một
cái quan tài nữa, không có tiền mua! Quư vị nghĩ thử
xem, con cháu làm quan lớn như thế mà tiền đi đâu
cả rồi? Bố thí, cứu tế người nghèo khổ,
mở bệnh viện, dựng trường học, vun
quén cho người đi học, thay quốc gia bồi
dưỡng nhân tài. Cả nhà ông ta làm những chuyện ấy.
Đời đời đều làm như thế, đời
đời nẩy sanh nhân tài, suốt một ngàn năm gia
đạo không suy, do nguyên nhân nào? Xả ḿnh v́ người,
không nghĩ đến bản thân, luôn nghĩ tới xă hội,
luôn nghĩ tới đại chúng khổ sở, hoạn nạn,
[luôn nghĩ] làm thế nào để giúp đỡ người
khác. “Nhạo cúng dường cố”
(V́ vui thích cúng dường). Do vậy, đại sư Ấn
Quang bội phục. Trong số các vị cổ thánh tiên hiền
của Trung Quốc, ngoại trừ Khổng lăo phu tử,
ông ta là vị thứ hai [được Tổ hết sức
khâm phục].
Vị thứ ba được
đại sư Ấn Quang nhắc tới là một vị
trạng nguyên họ Diệp sống vào đời Thanh,
cũng là người siêng năng, tiết kiệm, bố
thí, đời đời trung hậu, măi cho đến hết
những năm cuối đời Thanh, trong ba trăm
năm gia đạo không suy. Đấy là điều tổ
Ấn Quang bội phục nhất. Trong lịch sử Trung
Quốc, ḍng họ lưu truyền lâu dài, Tổ thấy có
ba người đă cho chúng ta thấy được
điều ǵ? Tích đức, tài bố thí, pháp bố thí,
vô úy bố thí. Do vậy, hễ ai xả được th́
sau này sẽ đạt được, được con
cháu hiền huệ, trong gia đ́nh đời đời xuất
hiện nhân tài, mưu cầu hạnh phúc cho quốc gia, cho
xă hội. Ở đây, chữ cuối cùng trong lời chú
giải là “nhạo cúng dường
cố”. Đấy đều là nói theo pháp thế gian,
chúng ta học Phật càng phải nên thực hiện. Giảng
đến chỗ này là đă giới thiệu xong danh
xưng của pháp môn được tu hành bởi tỳ-kheo
Cát Tường Vân. Lại đọc tiếp kinh văn.
(Kinh) Như chư Bồ Tát
Ma Ha Tát vô lượng trí huệ cụ túc viên măn thanh tịnh
hạnh môn, khởi năng liễu tri sở hữu biên tế.
(經) 如 諸 菩 薩 摩 訶
薩 無 量 智 慧 具 足 圓 滿
清 淨行 門,豈 能 了 知 所
有 邊 際。
(Kinh) Như các hạnh môn
thanh tịnh vô lượng trí huệ đầy đủ
viên măn của các Bồ Tát Ma Ha Tát, làm sao có thể biết
rơ tất cả ngằn mé.
Phần kinh văn tiếp theo rất
dài. Đoạn kinh văn này được chia thành ba tiểu
đoạn, chúng ta xem chú giải.
(Sớ)
Như chư Bồ Tát hạ.
(疏)如 諸 菩 薩 下。
(Sớ) Từ “như các Bồ
Tát” trở đi.
Tức là hai câu chúng tôi vừa mới
nhắc tới, từ đấy trở đi.
(Sớ)
Thôi thắng tri đa.
(疏)推 勝 知 多。
(Sớ)
Đề cao người khác cao siêu hơn
ta, biết nhiều hơn ta.
“Thôi”
(推) là
đề cao, “thắng” (勝) là thù thắng. Đề cao
người khác thù thắng hơn ta. Ta chẳng được
như họ, trong vô lượng pháp môn, ta chỉ biết
một pháp, bọn họ biết rất nhiều. V́ thế,
trong năm mươi ba lần tham học của kinh Hoa
Nghiêm, vị thiện tri thức nào cũng đều tự
ḿnh khiêm hư, tôn trọng người khác, khen ngợi
người khác. Đấy là điều chúng ta cần phải
học theo. Kinh văn chia thành ba đoạn. Đoạn thứ
nhất là...
(Sớ)
Tổng tiêu
(疏)總 標。
(Sớ) Nêu chung.
Đoạn kinh văn chúng ta vừa
mới đọc là nói chung, đoạn thứ hai…
(Sớ)
Biệt hiển.
(疏)別 顯。
(Sớ)
Nói riêng biệt.
Đoạn thứ ba là…
(Sớ)
Tổng kết.
(疏)總 結。
Kinh văn chia làm ba đoạn.
(Sớ)
Kim sơ.
(疏)今 初。
(Sớ)
Nay luận về điều thứ nhất.
Lời giải thích tiếp theo
đây thuộc đoạn thứ nhất, chính là đoạn
kinh văn chúng ta vừa mới đọc.
(Sớ)
Phàm chư thôi thắng, tổng hữu
nhị ư.
(疏)凡 諸 推 勝,總
有 二 意。
(Sớ)
Phàm các phần đề cao người khác
cao siêu hơn ta, nói chung có hai ư.
Do đây là lần tham học thứ
nhất trong năm mươi ba lần tham học, cuối
[mỗi lần tham học] đều có một đoạn
kinh văn giống như trong lần tham học thứ nhất
này, nên ở đây luận chung về ư nghĩa. Trong lời
đề cao người khác cao siêu hơn ḿnh, có hai ư
nghĩa.
(Sớ)
Nhất giả thông chỉ chư Bồ
Tát hạnh, vị Bồ Tát thắng hạnh vô lượng
vô biên, ngă duy tri nhất, tức tiêu trung vân nhi chư Bồ
Tát vô lượng trí huệ cụ túc viên măn đẳng.
(疏)一 者 通 指 諸 菩
薩 行。謂 菩 薩 勝 行 無 量
無邊,我 唯 知 一。即 標
中 云 而 諸 菩 薩 無 量 智
慧 具 足 圓 滿 等。
(Sớ)
Một là chỉ chung cho các Bồ Tát hạnh,
nói: “Hạnh thù thắng của Bồ Tát vô lượng vô
biên, tôi chỉ biết một pháp”, tức là như trong lời
tŕnh bày tổng quát đă nói: “Các Bồ Tát vô lượng
trí huệ đầy đủ viên măn” v.v…
Đây là kinh văn, nêu ra những
ư nghĩa trong kinh văn ấy. Phật pháp Đại Thừa
thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn. Trong Tứ Hoằng
Thệ Nguyện có câu: “Pháp môn
vô lượng thệ nguyện học”. Đức Thế
Tôn, chư Phật Như Lai tuyên giảng cho hết thảy
chúng sanh vô lượng vô biên pháp môn, chúng ta biết pháp môn
nhiều như thế, nhưng có thể học được
nhiều như thế hay chăng? V́ thế, pháp được
Ngài tu học, Ngài chứng đắc là một pháp môn trong
vô lượng pháp môn. Một pháp môn được Ngài tu học
là pháp môn Niệm Phật. Tuy không mang danh xưng là pháp môn Niệm
Phật, nhưng trên thực tế là pháp môn Niệm Phật.
Chúng tôi hy vọng các vị đồng tu hăy đặc biệt
chú ư tới điểm này, Ngài gọi pháp môn này là Ức Niệm
Nhất Thiết Chư Phật B́nh Đẳng Cảnh Giới
Vô Ngại Trí Huệ Phổ Kiến Pháp Môn. Dài như thế,
rườm rà như thế đó, chứ nếu
đơn giản th́ chỉ là bốn chữ “Niệm Phật pháp môn”, chính
là pháp môn Niệm Phật. Trong ấy có Năng Niệm (tâm
niệm Phật) và Sở Niệm (đối tượng
được niệm, tức đức Phật
được niệm). Cảnh giới của hết thảy
chư Phật là Sở Niệm, vô ngại trí huệ là
Năng Niệm. Do vậy, nói đơn giản chính là pháp
môn Niệm Phật.
Trong vô lượng pháp môn, Ngài
chỉ tu một pháp môn này, Ngài đắc pháp môn này; do vậy,
nếu so sánh với các Bồ Tát khác th́ làm sao sánh bằng
được? Chúng ta phải học theo thái độ tu
học ấy, ư nghĩa bao hàm trong ấy rất sâu. Nói thật
ra, đều nhằm đối trị căn bệnh của
chúng ta. Phàm phu không một ai chẳng ngạo nghễ, ngă mạn,
không ai chẳng tự phụ ta là đúng, nói chung là nghĩ
“ta phi thường lắm”, coi rẻ người khác.
Đấy là căn bệnh lớn. Quư vị tu hành, quư vị
chẳng thể giác ngộ, nguyên nhân khiến quư vị chẳng
chứng quả là ở chỗ này. Do vậy, nhất định
phải học khiêm hư, phải học nhún ḿnh, người
khác đều ở trên đầu ta, đều cao hơn
ta.
Nhất là trong thời đại
dân chủ tự do mở rộng hiện nay; trong quá khứ,
tôi ở Tân Gia Ba thường chuyện tṛ với pháp
sư Diễn Bồi. Ngài nói hiện tại không có sư
đồ (quan hệ thầy tṛ đúng nghĩa), trong xă hội
không có cha con. Hiện thời, trong một gia đ́nh, ai lớn
nhất? Con cái lớn nhất! Cha mẹ là đầy tớ
của con cái, giống như kẻ hầu của chúng nó,
chăm sóc chúng nó. Chúng nó là chủ cả nhà. Hiện tượng
này trong xă hội quả thật là như thế. Trong Phật
môn cũng giống như vậy, đâu c̣n có sư phụ,
đồ đệ! Đồ đệ lớn nhất,
sư phụ phải chăm sóc đồ đệ, phải
hầu hạ đồ đệ, phải nghe lời nó. Lời
pháp sư Diễn Bồi tuy rất đáng cảm khái,
nhưng vẫn là sự thật. Chúng ta phải hiểu hiện
nay là thời đại nào, quư vị phải thuận theo
thời đại, quư vị hoằng pháp lợi sanh sẽ
rất thuận lợi. Trái nghịch thời đại
này, sẽ bị chướng ngại nghiêm trọng, rất
khó khăn. V́ thế, phải nhận biết thời tiết
nhân duyên là thời đại nào, quyết định chẳng
thể đo lường bằng tiêu chuẩn quá khứ,
dùng quan niệm đạo đức của quá khứ
để nh́n, để đánh giá người hiện thời.
Như vậy là lầm lẫn quá đỗi, quư vị chẳng
biết thời vụ. Người Hoa thường nói: “Kẻ biết thời vụ là
tuấn kiệt”. Quư vị phải hiểu rơ chân tướng
sự thật, quư vị phải thuận theo trào lưu thời
đại. Ở đây, quư vị dùng ḷng chân thành,
phương tiện thiện xảo để khuyên nhủ,
hướng dẫn họ, khiến cho họ cải tà quy
chánh th́ quư vị mới đạt được mục
đích. Tuyệt đối chẳng thể dùng tiêu chuẩn
quá khứ để làm, chắc chắn là bọn họ nhất
định sẽ không thể tiếp nhận, lại c̣n
phản kháng, quư vị sẽ không đạt được
mục đích giáo hóa chúng sanh. Do vậy, ư nghĩa
được bao hàm ở đây là khiêm hạ, tức
khiêm hư và nhún ḿnh, nhất định tôn trọng người
khác, đề cao người khác, bọn họ đều
cao trỗi hơn chính ta. Đây là ư nghĩa thứ nhất.
(Sớ)
Nhị giả, tựu nhất hạnh
trung duy tri thiểu phần, như nhất Niệm Phật
tức hữu đa môn. Ngă đản tri nhất, dư bất
năng tri.
(疏)二 者 就 一 行 中
唯 知 少 分。如 一 念 佛 即
有 多門。我 但 知 一,餘
不 能 知。
(Sớ)
Hai là trong một hạnh chỉ biết
được chút phần, như trong một pháp Niệm
Phật có nhiều môn. Tôi chỉ biết được một,
những pháp khác chẳng thể biết.
Ngài càng tỏ vẻ khiêm hư
th́ qua sự khiêm hư ấy, đă dạy chúng ta một
chân lư. Chân lư ấy ǵ vậy? Thâm nhập một môn. Quư vị
thấy năm mươi ba người ấy, mỗi vị
đều là thâm nhập một môn, thâm nhập một môn
th́ mới có thể chứng quả. Nếu chúng ta học
quá nhiều môn, quá tạp, vô ích! Quư vị phải hiểu
điều này; do vậy, ở đây chúng ta phải thấu
hiểu điều Ngài muốn giảng cho chúng ta: Thâm nhập
một môn.
Niệm Phật ư? Pháp môn Niệm
Phật rất nhiều. Phương pháp Niệm Phật rất
nhiều, Ngài chỉ biết có một, một pháp ấy là
ǵ? Ban Châu tam-muội. Ban Châu tam-muội là chuyên niệm A Di
Đà Phật, nhưng niệm Phật lấy nhiễu Phật
làm chánh, tận hết khả năng không được
ngồi xuống. Khi nào quá mệt th́ ngồi xuống, nghỉ
ngơi một lát, thời gian nghỉ đủ rồi, lại
đứng lên nhiễu Phật, v́ lấy nhiễu Phật
làm chánh. Nói thật ra, phương pháp này đối với
người từ tuổi trung niên trở lên rất tốt,
nhiễu Phật là vận động, giống như tản
bộ, trong Phật pháp chúng ta gọi là “kinh hành”. Đối với người già mà nói,
tản bộ là vận động tốt nhất. Quư vị
thấy: Trong khi thân thể quư vị vận động,
tâm chuyên chú nơi Phật hiệu, không có vọng niệm,
tâm tu cái tâm thanh tịnh. Nhiễu Phật là tu thân, thân thể
vận động, thân và tâm mạnh khỏe, người thế
gian thường gọi đó là đạo dưỡng
thân! Thù thắng bậc nhất! Không có ǵ thù thắng
hơn, đạo dưỡng thân tốt nhất. Ở
đây, Ngài làm mẫu cho chúng ta.
Tiếp đó, đại sư
Thanh Lương nói:
(Sớ)
Như hạ biệt trung nhị thập
nhất môn giai ước niệm Phật.
(疏)如 下 別 中 二 十
一 門 皆 約 念 佛。
(Sớ)
Như trong hai mươi mốt môn riêng biệt
[được kể ra] trong phần sau đều thuộc
về Niệm Phật.
Trong đoạn kinh văn
dưới đây, tuy kể ra hai mươi mốt pháp môn
Niệm Phật, tỳ-kheo Cát Tường Vân chỉ chọn
lấy một loại. Chúng ta đọc tới đoạn
kinh văn này mà vẫn chưa giác ngộ ư? Chúng ta hăy
suy nghĩ, phương pháp này của Ngài tốt đẹp,
rất thích hợp với ta. Do vậy, quư vị thấy
tôi niệm Phật chung với quư vị, quư vị thấy
tôi luôn đi kinh hành, tôi không ngồi xuống. Trừ khi có
chuyện ǵ cần phải lo liệu, tôi đi làm chuyện
khác. Nếu không có chuyện ǵ, khi niệm Phật, tôi nhiễu
Phật, tôi ở một ḿnh trong pḥng cũng nhiễu Phật.
Với phương tiện hiện tại, nay chúng ta dùng
máy Niệm Phật, thuận theo thanh điệu của
máy, tùy theo tốc độ của máy, phương pháp Niệm
Phật của chúng ta có thể nói là cả thế giới
đều thống nhất, đều dùng cách này. Nhưng
hiện thời chúng ta dùng máy niệm Phật, những chữ
trong câu niệm Phật hiệu ấy lờ mờ, không rơ
ràng. Pḥng thâu âm thâu của chúng ta đă xây xong, nghe nói đă
xây xong rồi, máy móc nói chung là hiện thời đă trang bị
đầy đủ rồi. Hy vọng các vị đồng
tu chúng ta có thể mười người, hay tám người,
chẳng cần quá đông, đông quá lại không hay, ít
người vẫn hơn. Mười người hay tám
người niệm Phật hiệu cho ăn khớp,
đến pḥng thâu âm thâu vào một cuốn băng, chúng ta
làm lại máy niệm Phật sao cho từng chữ phân minh,
rơ ràng, rành rẽ. Khi niệm th́ trong ấy gơ thêm một tiếng
dẫn khánh, như thế sẽ hết sức viên măn.
Chúng ta làm máy niệm Phật mới để lưu thông
toàn thế giới. Công đức Pháp Bố Thí ấy vô
lượng! Khuyên người niệm Phật mà! Sửa
chữa những khuyết điểm hiện thời của
máy niệm Phật chúng ta. Do vậy, ư nghĩa ở đây
quả thật là rất sâu xa, dạy chúng ta hăy thâm nhập
một môn.
(Sớ)
Hạ chư thôi thắng, lệ thử
khả tri.
(疏)下 諸 推 勝,例
此 可 知。
(Sớ)
Những phần đề cao người
khác trong các chương sau có thể dựa theo đây để
biết.
Tức là trong năm mươi
hai lần tham học trong phần sau, ư nghĩa của mỗi
đoạn kinh văn đều giống như vậy. Chỉ
cần thấy các đoạn “khiêm
kỷ thôi thắng” (tự khiêm, đề cao người
khác) đều mang cùng một ư nghĩa này th́ chúng ta sẽ
hiểu rơ.
(Sớ)
Nhi ngôn môn giả, tùy kỳ nhất nhất,
nhập Phật cảnh cố.
(疏)而 言 門 者,隨
其 一 一,入 佛 境 故。
(Sớ) Nhưng nói tới môn
th́ tùy theo mỗi môn mà nhập cảnh Phật.
“Môn”
là tỷ dụ cho con đường thông nhau, có thể nối
với nhau. Vô lượng vô biên pháp môn đều có thể
thành Phật, do vậy gọi là pháp môn. Pháp môn vô lượng
vô biên. Tuy mỗi môn nào cũng đều có thể thành Phật,
trên lư luận không có sai biệt, nhưng trên sự thật,
căn tánh chúng sanh có sai biệt. Kinh thường nói căn
tánh của chúng sanh có thượng căn lợi trí, có trung
căn, có hạ căn. Có những pháp môn bậc thượng
căn dễ dàng nhập môn, nhưng bậc trung hạ
không có cách nào chứng nhập. Chẳng giống như pháp
môn Niệm Phật, pháp môn Niệm Phật nói: “Tam căn phổ bị, lợi
độn toàn thâu” (Thích hợp khắp ba căn, gồm
thâu lợi căn lẫn độn căn). Bất cứ
ai học theo phương pháp này, đều có thể nhập
môn, nhập môn này là nhập Phật cảnh giới. Nhập
Phật cảnh giới là như nhà Thiền thường
nói: “Minh tâm kiến tánh”, kinh
Duy Ma Cật gọi là “nhập
Bất Nhị pháp môn”.
(Sớ)
Tùy nhất nhất cảnh, trí du lư cố.
(疏)隨 一 一 境,智
遊 履 故。
(Sớ)
Tùy theo mỗi cảnh mà trí thâm nhập.
Đây là nói rơ “làm thế nào
để nhập?” Trí có thể nhập, trí huệ mở
mang th́ quư vị sẽ khế nhập, quư vị sẽ có
thể qua lại trong cảnh giới Phật. Cảnh giới
của chư Phật là Nhất Chân pháp giới. Do đây
biết rằng: Pháp môn Niệm Phật là pháp môn mở mang
trí huệ, quư vị có thể dùng một câu Phật hiệu
để dẹp yên phiền năo, vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước. Trong mười hai thời
không có hết thảy vọng niệm, chỉ có một câu
Phật hiệu, phẳng lặng, ổn thỏa. Lâu ngày chầy
tháng, phiền năo ấy chẳng đoạn mà tự nhiên
chẳng c̣n, trí huệ tự nhiên hiện tiền. Từ
đâu mà thấy được trí huệ hiện tiền?
Một phương pháp rơ ràng nhất là đọc kinh. Từ
trước đến nay, xem kinh không hiểu, không thấy
được ư nghĩa; nay th́ vừa mở kinh văn ra,
ư nghĩa đều thấy. Trước kia, đọc lời
chú giải kinh Phật không hiểu, chẳng hiểu Ngài giảng
về cái ǵ? Nay th́ vừa đọc lời chú giải, ư
nghĩa đều hiểu rơ cả. Điều này cho thấy
quư vị phiền năo giảm nhẹ, trí huệ tăng
trưởng. Do đọc kinh, quư vị tăng trưởng
trí huệ, trong cuộc sống thường ngày, quư vị
xử thế, đăi người, tiếp vật, đều
là trí huệ, quư vị biết nên làm người như thế
nào, sống ra sao, làm việc ra sao, đăi người
như thế nào, quư vị đều hiểu rơ hết.
Trong cuộc sống, trong công việc, thành tựu vô lượng
vô biên công đức viên măn, tuy tích tụ vô lượng vô
biên công đức, vẫn chẳng chấp tướng, làm
sao người ấy không khế nhập Nhất Chân pháp
giới cho được? Niệm Phật như thế mới
gọi là “một niệm
tương ứng một niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật”, tự nhiên
không miễn cưỡng mảy may nào, chúng ta sẽ thành tựu.
A! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng
đến đây thôi!
Tập thứ tám (
Xin giở quyển kinh trang thứ
hai mươi, bắt đầu từ ḍng thứ tư trở
đi. Tiếp theo đây là một đoạn kinh văn rất
dài, nói tổng cộng hai mươi mốt môn, đều
là pháp môn Niệm Phật. Danh xưng của chúng đều
là dựa theo tác dụng để lập danh hiệu. Trước
hết, chúng ta đọc kinh văn một lượt.
Đại sư Thanh Lương chú giải rất cặn
kẽ. Tôi nghĩ đối với đoạn kinh văn
này, chúng tôi giảng phần chú giải là được rồi.
Kinh phải đọc một lượt. Xin xem kinh
văn:
(Kinh) Sở vị
trí quang phổ chiếu sai biệt cảnh giới niệm
Phật môn.
(經) 所 謂 智 光 普 照
差 別 境 界 念 佛 門。
(Kinh) Như là môn Niệm Phật dùng trí quang chiếu
khắp cảnh giới sai biệt.
Câu này nêu danh xưng của pháp
môn, câu kế tiếp nói tới tác dụng của pháp môn.
(Kinh) Thường
kiến chư Phật chủng chủng quốc độ
cung điện trang nghiêm tất hiện tiền cố.
(經) 常 見 諸 佛 種 種
國 土 宮 殿 莊 嚴 悉 現 前
故。
(Kinh) Do thường thấy các thứ cơi nước,
cung điện của chư Phật đều cùng hiện
tiền.
Đây là môn thứ nhất. Thứ
hai là:
(Kinh) Linh an trụ
chủng chủng tăng thượng ư nhạo niệm Phật
môn.
(經) 令 安 住 種 種 增
上 意 樂 念 佛 門。
(Kinh) Môn niệm Phật khiến cho các thứ ư
thích tăng thượng được an trụ.
Đây là danh xưng của pháp
môn, tác dụng của nó là:
(Kinh) Tùy chư chúng
sanh tâm chi sở nhạo giai linh kiến Phật đắc
thanh tịnh cố.
(經) 隨 諸 眾 生 心 之
所 樂 皆 令 見 佛 得 清 淨
故。
(Kinh) Do tùy ḷng ưa thích của các chúng sanh đều
làm cho họ thấy Phật, được thanh tịnh.
Môn thứ ba:
(Kinh) Linh an trụ
cứu cánh Phật lực niệm Phật môn, linh nhập
Như Lai thập chủng lực trung tùy thuận hành cố.
(經) 令 安 住 究 竟 佛
力 念 佛 門,令 入 如 來 十
種 力中 隨 順 行 故。
(Kinh) Môn Niệm Phật khiến cho an trụ rốt
ráo nơi Phật lực, do nó làm cho [người niệm
Phật] được nhập trong mười loại lực
của Phật, tùy thuận mà hành.
Môn thứ tư:
(Kinh) Linh an trụ
chủng chủng Như Lai cứu cánh chánh pháp Niệm Phật
môn.
(經) 令 安 住 種 種 如
來 究 竟 正 法 念 佛 門。
(Kinh) Môn niệm Phật khiến cho an trụ
trong các thứ chánh pháp rốt ráo.
Nghiệp dụng của môn này
là:
(Kinh) Kiến nhất
thiết Phật diễn thuyết chánh pháp hàm thính văn cố.
(經) 見 一 切 佛 演 說
正 法 咸 聽 聞 故。
(Kinh) Do thấy hết thảy Phật diễn
nói chánh pháp đều nghe.
Môn thứ năm:
(Kinh) Biến chiếu
thập phương vô sai biệt tạng niệm Phật
môn.
(經) 遍 照 十 方 無 差
別 藏 念 佛 門。
(Kinh) Môn niệm Phật chiếu khắp các tạng
không sai biệt trong mười phương.
Tác dụng là:
(Kinh) Phổ kiến nhất thiết chư thế
giới trung đẳng vô sai biệt chư Phật hải
cố.
(經) 普 見 一 切 諸 世
界 中 等 無 差 別 諸 佛 海
故。
(Kinh) Do thấy biển chư Phật b́nh đẳng
không sai biệt trong hết thảy các thế giới.
Môn thứ sáu:
(Kinh) Nhập bất
khả kiến cực vi tế xứ niệm Phật môn.
(經) 入 不 可 見 極 微
細 處 念 佛 門。
(Kinh) Môn niệm Phật nhập vào những chỗ
cực nhỏ nhiệm chẳng thể thấy được.
Nghiệp dụng là:
(Kinh) Triệt kiến nhất thiết vi tế
cảnh trung Như Lai thần biến tự tại sự
cố.
(經) 徹 見 一 切 微 細
境 中 如 來 神 變 自 在 事
故。
(Kinh) Do thấy thấu suốt những chuyện
thần biến tự tại của Như Lai trong hết
thảy cảnh nhỏ nhiệm.
Môn thứ bảy:
(Kinh) Trụ chủng
chủng kiếp niệm Phật môn, ư nhất thiết
kiếp thường kiến chư Phật thi tác Phật
sự, hàm thân cận cố.
(經) 住 種 種 劫 念 佛
門,於 一 切 劫 常 見 諸 佛
施 作佛 事,咸 親 近 故。
(Kinh) Môn niệm Phật trụ trong các loại kiếp,
do trong hết thảy kiếp thường thấy chư
Phật thực hiện các Phật sự, đều thân cận.
Môn thứ tám:
(Kinh) Trụ nhất
thiết thời niệm Phật môn, ư nhất thiết
thời thường đắc kiến Phật, dữ Phật
đồng trụ bất tương ly cố.
(經) 住 一 切 時 念 佛
門,於 一 切 時 常 得 見 佛,與
佛 同 住 不 相 離 故。
(Kinh) Môn Niệm Phật trụ trong hết thảy
thời, do trong hết thảy thời thường
được thấy Phật, ở cùng nơi với Phật
chẳng tách ĺa.
Môn thứ chín:
(Kinh) Trụ nhất
thiết sát niệm Phật môn, nhất thiết sát độ
hàm kiến Phật thân siêu quá thế gian vô đẳng tỷ
cố.
(經) 住 一 切 剎 念 佛
門,一 切 剎 土 咸 見 佛 身
超 過世 間 無 等 比 故。
(Kinh) Môn niệm Phật trụ trong hết thảy
cơi, do trong hết thảy cơi nước đều thấy
thân Phật vượt trỗi thế gian, chẳng thể
sánh bằng.
Môn thứ mười:
(Kinh) Trụ nhất
thiết thế niệm Phật môn, tùy ư tự tâm sở
hữu nhạo dục, phổ kiến tam thế chư
Như Lai cố.
(經) 住 一 切 世 念 佛
門,隨 於 自 心 所 有 樂 欲,普
見 三 世 諸 如 來 故。
(Kinh) Môn niệm Phật trụ trong hết thảy
đời, do tùy theo tất cả những sự ưa muốn
trong tự tâm mà thấy trọn khắp chư Như Lai ba
đời.
Môn thứ mười một:
(Kinh) Trụ nhất
thiết cảnh niệm Phật môn, phổ kiến nhất
thiết chư cảnh giới trung chư Phật
tương tục hàm xuất hưng cố.
(經) 住 一 切 境 念 佛
門,普 見 一 切 諸 境 界 中
諸 佛相 續 咸 出 興 故。
(Kinh) Môn niệm Phật trụ trong hết thảy
cảnh, do thấy trọn khắp trong hết thảy các
cảnh giới, chư Phật đều liên tục xuất
hiện.
Môn thứ mười hai.
(Kinh) Trụ nhất
thiết tánh tịch diệt niệm Phật môn, ư niệm
niệm trung kiến nhất thiết sát nhất thiết
chư Phật thị Niết Bàn cố.
(經) 住 一 切 性 寂 滅
念 佛 門,於 念 念 中 見 一
切 剎一 切 諸 佛 示 涅 槃
故。
(Kinh) Môn Niệm Phật trụ trong hết thảy
tánh tịch diệt, do trong mỗi niệm thấy chư
Phật thị hiện nhập Niết Bàn trong hết thảy
cơi.
Môn thứ mười ba:
(Kinh) Trụ nhất
thiết thời xứ niệm Phật môn, ư nhất nhật
trung kiến nhất thiết Phật tùng kỳ trụ xứ
nhi văng hóa cố.
(經) 住 一 切 時 處 念
佛 門,於 一 日中見 一 切
佛 從 其 住 處 而 往 化 故。
(Kinh) Môn Niệm Phật trụ trong hết thảy
thời và xứ, do trong một ngày thấy hết thảy
Phật từ chỗ các Ngài trụ mà tới giáo hóa.
Môn thứ mười bốn:
(Kinh) Trụ nhất
thiết cảnh quảng đại Niệm Phật môn, kiến
nhất thiết Phật giai kết già phu tọa nhất
nhất Phật thân măn pháp giới cố.
(經) 住 一 切 境 廣 大
念 佛 門,見 一 切 佛 皆 結
跏 趺坐 一 一 佛 身 滿 法
界 故。
(Kinh) Môn Niệm Phật trụ trong hết thảy
cảnh rộng lớn, do thấy hết thảy Phật
đều ngồi xếp bằng, mỗi mỗi vị Phật
thân trọn khắp pháp giới.
Môn thứ mười lăm:
(Kinh) Trụ nhất
thiết pháp vi tế niệm Phật môn, ư nhất mao
khổng kiến bất khả thuyết chư Phật xuất
hưng, hàm chí kỳ sở nhi thừa sự cố.
(經) 住 一 切 法 微 細
念 佛 門,於 一 毛 孔 見 不
可 說諸 佛 出 興,咸 至 其
所 而 承 事 故。
(Kinh) Môn Niệm Phật trụ trong hết thảy
pháp vi tế, do trong một lỗ chân lông thấy bất khả
thuyết chư Phật xuất hiện, đều đến
chỗ các Ngài để hầu hạ.
Môn thứ mười sáu:
(Kinh) Trụ sát na tế
trang nghiêm niệm Phật môn, ư nhất niệm trung kiến
nhất thiết sát giai hữu chư Phật thành Đẳng
Chánh Giác, hiện thần biến cố.
(經) 住 剎 那 際 莊 嚴
念 佛 門,於 一 念 中 見 一
切 剎皆 有 諸 佛 成 等 正
覺 現 神 變 故。
(Kinh) Môn Niệm Phật trụ trong từng sát-na
trang nghiêm, do trong một niệm thấy hết thảy cơi
đều có chư Phật thành Đẳng Chánh Giác, hiện
thần thông biến hóa.
Môn thứ mười bảy:
Trụ nhất thiết pháp niệm
Phật môn, kiến nhất thiết Phật xuất
hưng ư thế dĩ trí huệ quang chuyển pháp luân cố.
(經) 住 一 切 法 念 佛
門,見 一 切 佛 出 興 於 世
以 智慧 光 轉 法 輪 故。
(Môn Niệm Phật trụ trong
hết thảy pháp, do thấy hết thảy Phật xuất
hiện trong cơi đời, dùng ánh sáng trí huệ để
chuyển pháp luân)
Môn thứ mười tám:
(Kinh) Trụ tự
tại tâm niệm Phật môn, tùy kỳ tự tâm sở hữu
dục lạc, nhất thiết Như Lai hiện kỳ ảnh
tượng hàm đắc kiến cố.
(經) 住 自 在 心 念 佛
門,隨 其 自 心 所 有 欲 樂,一
切 如 來 現 其 影 像 咸 得
見 故。
(Kinh) Môn Niệm Phật trụ tâm tự tại,
do tùy theo tất cả những điều ham muốn, vui
thích trong tâm, hết thảy Như Lai hiện h́nh tượng,
[người niệm Phật] đều được thấy.
Môn thứ mười chín:
(Kinh) Trụ nhất
thiết nghiệp niệm Phật môn, năng tùy pháp giới
nhất thiết chúng sanh sở tu hạnh nghiệp vị
hiện kỳ thân linh giác ngộ cố.
(經) 住 一 切 業 念 佛
門,能 隨 法 界 一 切 眾 生
所 修行 業 為 現 其 身 令
覺 悟 故。
(Kinh) Môn Niệm Phật trụ trong hết thảy
nghiệp, do có thể thuận theo hạnh nghiệp của
hết thảy chúng sanh trong pháp giới mà hiện thân để
làm cho họ giác ngộ.
Môn thứ hai
mươi:
(Kinh) Trụ nhất
thiết thần biến niệm Phật môn, kiến nhất
thiết Phật trụ ư quảng đại
hương thủy hải trung tọa liên hoa đài phổ
hiện thần biến măn thập phương cố.
(經) 住 一 切 神 變 念
佛 門,見 一 切 佛 住 於 廣
大 香水 海 中 坐 蓮 華 臺
普 現 神 變 滿 十 方 故。
(Kinh) Môn Niệm Phật trụ trong hết thảy
thần biến, do thấy hết thảy Phật trụ
trên đài hoa sen trong biển nước thơm rộng lớn
hiện khắp các món thần biến trọn khắp mười
phương.
Môn thứ hai mươi mốt:
(Kinh) Trụ đẳng
hư không giới niệm Phật môn, quán sát Như Lai sở
hiện thân vân trang nghiêm pháp giới hư không giới cố.
(經) 住 等 虛 空 界 念
佛 門,觀 察 如 來 所 現 身
雲 莊嚴 法 界 虛 空 界 故。
(Kinh) Môn Niệm Phật trụ [trong cảnh giới
rộng lớn] như hư không, do quán sát những thân nhiều
như mây do Như Lai hiện ra để trang nghiêm pháp giới
hư không giới.
Tổng cộng nói ra hai
mươi mốt thứ. Chúng ta biết pháp môn Niệm Phật
vô lượng vô biên, ở đây chỉ kể ra hai
mươi mốt thứ! Quư vị quan sát kỹ càng th́ thấy
đây vẫn là nói quy nạp, quy nạp từ nghiệp dụng
tương tự, [nên nói gọn thành] hai mươi mốt
loại lớn đó thôi! Nếu đem hai mươi mốt
loại này mở rộng ra th́ thưa quư vị, không chỉ
là hết thảy các pháp môn do đức Thế Tôn đă
nói trong suốt bốn mươi chín năm, mà ngay cả vô
lượng vô biên pháp môn do mười phương thế
giới chư Phật Như Lai đă nói, thảy đều
có thể quy về pháp môn Niệm Phật, không có một
pháp nào chẳng phải là pháp môn Niệm Phật. Quư vị
mới hiểu là pháp môn Niệm Phật chẳng thể
nghĩ bàn. V́ sao lần tham học thứ nhất trong
năm mươi ba lần tham học, tỳ-kheo Cát Tường
Vân đề xướng pháp môn Niệm Phật, nguyên do là
v́ pháp môn Niệm Phật là tổng căn bản của vô
lượng vô biên pháp môn. Đạo lư là đây!
Trong các pháp môn nhiều như vậy,
quư vị thấy đó, tỳ-kheo Cát Tường Vân tu pháp
môn này. Pháp môn của Ngài vẫn chẳng phải là hai
mươi mốt loại này, hai mươi mốt loại
này là nói riêng biệt. Ngài tu một pháp trực tiếp là
pháp Ban Châu tam-muội, trực tiếp niệm A Di Đà Phật.
V́ vậy, trong pháp môn Niệm Phật, nó lại là pháp thù thắng
bậc nhất! Duyên phận chúng ta ngày nay đúng là không cạn
đâu nhé! Học Phật, gặp vận may khá quá, trao ngay
cho quư vị nhận lănh pháp môn này. Quư vị vẫn chẳng
biết chọn lựa, nhưng tỳ-kheo Cát Tường
Vân th́ chọn lựa pháp môn này. Tuy là lơ mơ vớ được
pháp môn này, quư vị vẫn phải hiểu rơ ràng. Sau khi hiểu
rơ rồi, đối với pháp môn tu học hiện tiền
này, hăy khăng khăng một mực, thật sự thực
hiện “thật thà niệm Phật”. Đại Thế Chí
Bồ Tát dạy: “Nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, đấy mới
là “có thể thành tựu viên măn
ngay trong một đời này”. Chúng ta thấy pháp môn Niệm
Phật có nhiều thứ như thế, chẳng
đơn giản đâu nhé! Chúng ta hăy đọc lời chú
giải của ngài Thanh Lương, Ngài chú giải rất
cặn kẽ.
(Sớ)
Sở vị hạ.
(疏)所 謂 下。
(Sớ) Từ chữ “sở
vị” trở đi.
Đây là đoạn kinh văn dài
chúng ta vừa đọc xong, bao gồm hai mươi mốt
môn. Đây là phần nói riêng biệt.
(Sớ)
Hữu nhị thập nhất môn.
(疏)有 二 十 一 門。
(Sớ) Có hai mươi mốt
môn.
Phần trước là nói chung,
phần này là nói riêng từng môn. Trong mỗi môn đều
có hai câu như chúng ta vừa mới đọc xong.
(Sớ)
Các.
(疏)各。
(Sớ)
Mỗi môn.
Tức là mỗi môn trong hai
mươi mốt môn, “các”
là mỗi môn.
(Sớ) Tiên tiêu minh, hậu
thích tướng dụng.
(疏)先 標 明。後 釋
相 用。
(Sớ) Trước hết
nêu rơ [danh xưng], rồi giải thích tướng trạng
và tác dụng.
Câu sau là lời giải thích về
tướng dụng, tức tướng trạng và tác dụng
của nó.
(Sớ)
Tịnh tùng nghiệp dụng dĩ thọ
kỳ danh.
(疏)並 從 業 用 以 受
其 名。
(Sớ) [Các môn này] đều
được đặt tên theo nghiệp dụng [của
từng môn].
Do đâu mà có những danh
xưng này? Đều là từ nghiệp dụng của
chúng mà đặt tên. Nghiệp là tạo tác, tạo dựng,
tu tập, cũng như chúng ta gọi sự tu hành trên mặt
sự tướng là “nghiệp”.
Quư vị chiếu theo phương pháp này để tu hành,
nhất định sẽ khởi tác dụn. Nói nôm na là quư
vị nhất định sẽ có lợi ích, chỗ có lợi
ấy được gọi là “dụng”.
Đấy gọi là “nghiệp
dụng”, đặt danh xưng theo nghiệp dụng.
Câu tiếp theo:
(Sớ)
Chuẩn Tấn kinh trung nhất nhất
giai hữu tam muội chi ngôn, kim lược vô nhĩ.
(疏)準 晉 經 中 一 一
皆 有 三 昧 之 言,今 略 無
耳。
(Sớ) Dựa theo bản dịch
đời Tấn th́ trong mỗi môn đều gọi là
tam-muội, bản dịch hiện thời lược
đi, không có từ ngữ này.
Đây là đại sư Thanh
Lương đem hai bản dịch cũ và mới đối
chiếu, bản dịch kinh cũ là bản Lục Thập
Hoa Nghiêm (bản dịch kinh Hoa Nghiêm gồm sáu mươi
cuốn) được phiên dịch vào đời Tấn,
chúng ta thường gọi là “Tấn
dịch”. “Tấn kinh” tức là Lục Thập Hoa Nghiêm.
Đoạn kinh văn này trong Lục Thập Hoa Nghiêm, [đối
với danh xưng mỗi môn] đều có chữ tam-muội,
thế nhưng trong bản dịch mới là Bát Thập Hoa
Nghiêm, câu này bị tỉnh lược. Do vậy, nếu
quư vị xem bản Lục Thập Hoa Nghiêm, đọc tới
đoạn này, sẽ biết
là nó (chữ “tam-muội”) bị tỉnh lược,
nhưng ư nghĩa vẫn viên măn, ư nghĩa vẫn không hai.
(Sớ)
Cổ đức phân nhị.
(疏)古 德 分 二。
(Sớ) Cổ đức chia
đoạn kinh văn này thành hai phần.
Cổ đại đức thời
trước, quá nửa là sử dụng bản kinh dịch
đời Tấn, như sách Hoa Nghiêm Thám Huyền Kư do quốc
sư Hiền Thủ soạn vào trước thời ngài
Thanh Lương, các vị ấy đem đoạn kinh
văn này chia thành hai đoạn lớn. Ttrong hai
mươi mốt câu, đoạn trước gồm
mười câu, đoạn sau mười câu.
(Sớ)
Tiền thập Niệm Phật thắng
đức viên bị, hậu thập niệm Phật diệu
dụng tự tại.
(疏)前 十 念 佛 勝 德
圓 備。後 十 念 佛 妙 用 自
在。
(Sớ) Mười môn Niệm
Phật trước là “đức thù thắng viên măn trọn
đủ”, mười môn Niệm Phật sau là “diệu dụng
tự tại”.
Chia hai mươi mốt môn
thành hai loại lớn. Chia như vậy rất có ư
nghĩa. Thế nhưng ngài Thanh Lương không sử dụng
cách chia này.
(Sớ)
Kim thích hữu dị, lược vi tam
môn.
(疏)今 釋 有 異。略
為 三 門。
(Sớ)
Cách giải thích hiện thời có khác biệt,
chia đại lược thành ba môn.
Đại sư chia đoạn
này thành ba môn để giải thích.
(Sớ)
Nhất, minh sở niệm sai biệt,
nhị giả hội thích kinh văn, tam dĩ năng niệm
thâu thúc.
(疏)一 明 所 念 差 別。二
者 會 釋 經 文。三 以 能 念
收 束。
(Sớ)
Một là nói rơ đối tượng
được niệm sai khác, hai là giải thích kinh
văn, ba là dùng chủ thể niệm Phật (người
niệm Phật, tâm niệm Phật) để thâu tóm lại.
Trong phần chú giải này, Ngài
lại chia thành ba đoạn lớn, dùng ba đoạn ấy
để giải thích hai mươi mốt môn Niệm Phật.
Chúng ta xem đoạn thứ nhất.
(Sớ)
Kim sơ, vị thập thân, tam thân, vị
quán bất đồng, lược vi thập chủng.
(疏)今 初。謂 十 身
三 身,為 觀 不 同,略 為
十 種。
(Sớ) Nay là phần thứ
nhất, nói tới ba thân hay mười thân là v́ quán khác nhau
nên chia đại lược thành mười thứ.
Kinh Hoa Nghiêm luôn dùng con số Mười
để tượng trưng cho sự viên măn. V́ thế
nói Phật có mười thân. Nhưng thông thường
trong các kinh luận Đại Thừa, đức Thế Tôn
không dạy chúng ta nhiều thân như thế, nói đơn
giản hơn th́ luôn nói tới ba thân. Tôi nghĩ mỗi vị
đồng tu đều nhớ tam thân rồi, nói mười
thân sợ quư vị nói không được. Tam thân là Pháp
Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân, dễ hiểu! Nhưng nói mười
thân th́ cũng chẳng ra ngoài ba thân, chẳng qua là ba thân
được nói cặn kẽ hơn, nói tách ra bèn chia
thành mười thân. Do đây biết rằng: Mười
thân và ba thân, thật sự chẳng hề khác biệt. “Vị quán bất đồng,
lược vi thập chủng” (Là v́ quán khác nhau nên chia
đại lược thành mười thứ).
(Sớ)
Tiền bát tam thân.
(疏)前 八 三 身。
(Sớ)
Tám môn Niệm Phật đầu tiên là tam
thân.
Trong hai mươi mốt môn, nếu
quư vị quán sát kỹ lưỡng, tám môn đầu đều
là Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân, quư vị niệm thân nào?
(Sớ)
Hậu nhị thúc thượng dĩ
thành thập thân.
(疏)後 二 束 上 以 成
十 身。
(Sớ)
Hai môn sau hợp những môn đă nói trước
đó để thành mười thân.
“Hậu
nhị” chính là câu thứ chín và câu thứ mười.
(Sớ)
Vị niệm tam thân Phật tắc vi
tam quán, các phân y chánh.
(疏)謂 念 三 身 佛 則
為 三 觀。各 分 依 正。
(Sớ) Nghĩa là do niệm
tam thân của Phật nên thành ba thứ quán. Trong mỗi phép
quán, đều chia ra y báo và chánh báo.
Có y báo và chánh báo.
(Sớ)
Tiện vi lục môn, tựu báo hóa trung.
(疏)便 為 六 門。就
報 化 中。
(Sớ) Nên thành ra sáu môn, lại
đối với Báo Thân và Hóa Thân.
Báo Phật và Hóa Phật.
(Sớ)
Phân vi nội ngoại, dĩ thành kỳ
bát.
(疏)分 為 內 外,以
成 其 八。
(Sớ) Chia ra trong và ngoài, nên
thành tám.
Tám môn đầu đều chẳng
rời ngoài ba thân.
(Sớ)
Cửu vị tánh tướng vô ngại,
thập vị dung nhiếp trùng trùng.
(疏)九 謂 性 相 無 礙。十
謂 融 攝 重 重。
(Sớ)
Môn thứ chín ngụ ư tánh và tướng vô
ngại, môn thứ mười hàm ư dung nhiếp lẫn nhau
trùng trùng điệp điệp.
Do vậy hai câu này đă bao gồm
cả mười thân được kinh Hoa Nghiêm nói tới.
(Sớ)
Ngôn thập chủng giả.
(疏)言 十 種 者。
(Sớ)
Nói tới mười thứ là.
Ở đây có nhiều thứ
chúng ta phải nên học tập.
(Sớ)
Nhất, nhược tác thị quán, Phật
dĩ pháp vi thân, thanh tịnh như hư không, vô niệm niệm
giả, tắc niệm Chân Như, thị niệm Pháp Thân.
(疏)一 若 作 是 觀,佛
以 法 為 身,清 淨 如 虛 空,無念
念 者。則 念 真 如。是 念
法 身。
(Sớ)
Một là nếu quán như thế này “Phật
lấy pháp làm thân, thanh tịnh như hư không”, vô niệm
mà niệm th́ chính là niệm Chân Như, ấy là niệm
Pháp Thân.
Câu thứ nhất này rất
quan trọng, “nhược tác
thị quán”. Mấu chốt, cốt lơi nằm trong câu
này. “Quán” th́ như trong phần
trước tôi đă nói với quư vị rồi, nó chính là
quan niệm. Chúng ta làm thế nào để xoay chuyển
quan niệm. Nói thật ra, quan niệm của hạng phàm
phu chúng ta đều là sai lầm. Bất luận quư vị
quán sát vũ trụ hay nhân sinh, quư vị quán sát pháp thế
gian hay Phật pháp, đều vướng phải những
sai lầm rất sâu, rất rộng, rất nghiêm trọng!
V́ vậy, chúng ta rất khó thoát khỏi tam giới lục
đạo, đạo lư là ở chỗ này. Ở đây,
Phật, Tổ dạy chúng ta hăy chuyển biến quan niệm
ấy, chuyển thành quan niệm của chư Phật, Bồ
Tát. Cách nh́n của chư Phật, Bồ Tát ra sao? Họ có
cách nh́n chánh xác, một mảy sai lầm cũng chẳng có.
Phàm phu chúng ta coi nhục thể này là thân, đây là thân ta,
chư Phật, Bồ Tát chẳng thấy nhục thể ấy
là thân, họ coi thứ ǵ là thân? Lấy hết thảy các pháp
làm thân, gọi là Pháp Thân. Pháp là ǵ? Tận hư không, trọn
pháp giới đều là pháp. Thế giới Hoa Tạng của
Tỳ Lô Giá Na Phật, thế giới Cực Lạc của
A Di Đà Phật, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới của nội phàm và ngoại phàm đều là
pháp. Các Ngài lấy đó làm thân, đấy là chánh xác, không
sai lầm!
Tôi
sợ quư vị nghe tôi nói theo kiểu này vẫn chưa hiểu,
chúng tôi lại nêu một thí dụ để giảng. Tôi
nghĩ chắc là mỗi vị đồng tu đều có
kinh nghiệm nằm mộng, quư vị đều đă từng
nằm mộng. Khi nằm mộng, quư vị phải hiểu
mộng do đâu là có? Mộng là do tâm chúng ta biến hiện
ra. Tâm có thể biến hiện (năng biến), mộng
là cảnh được biến hiện (sở biến).
Năng và Sở không hai, năng biến và sở biến là
một, không phải hai. Người thông minh biết Ngă là
ǵ? Toàn thể cảnh mộng là Ngă, quan niệm của
người ấy không sai. Toàn thể cảnh mộng do tự
tánh của ta biến ra, ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có
tâm. Nếu có thể thừa nhận toàn thể cảnh mộng
là chính ḿnh th́ xin chúc mừng, quư vị đă chứng
được Pháp Thân thanh tịnh. Nếu trong mộng vẫn
thừa nhận, coi cái thân của chính ḿnh trong mộng là
Ngă, [nhưng thật ra] cái thân ta hoàn toàn chẳng phải là
chính ta, quư vị mê hoặc, điên đảo rồi! Quư vị
là phàm phu, quư vị không hiểu tất cả cảnh giới
đều do tự tánh của quư vị biến hiện
ra. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói: “Duy tâm sở hiện”. Nhất
Chân pháp giới, mười pháp giới, vô lượng vô
biên pháp giới, y báo, chánh báo trang nghiêm “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”.
Do v́ có hai câu này, nên Pháp Tướng Tông coi kinh Hoa Nghiêm là
kinh giáo căn bản của họ. Pháp Tướng Tông có
sáu kinh, mười một luận. Trong sáu kinh có kinh Hoa
Nghiêm là v́ trong kinh Hoa Nghiêm có một câu này.
Mấy ai trong chúng ta biết
được? Làm thế nào để hiểu rằng hết
thảy y báo và chánh báo trang nghiêm là do chính ḿnh biến hiện
ra? Chúng ta ở trong cảnh giới biến hiện, lại
chia thành ta và người, chia thành tốt và xấu, tự
ḿnh kèn cựa chính ḿnh, tự ḿnh làm khó dễ chính ḿnh, làm
những chuyện như vậy đó! Do vậy, chư Phật,
Bồ Tát thấy rất rơ ràng, gọi [chúng ta] là “kẻ đáng thương”.
Quư vị đáng thương như thế nào? Chính ḿnh gây
khó dễ cho chính ḿnh. Trừ tự tánh ra, quả thật
không có một pháp nào hết! Do vậy, Phật và các đại
Bồ Tát, như bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo
được nói ở đây, đều lấy pháp làm
thân, bọn họ phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân. Bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo “lấy pháp làm thân”, chẳng
coi nó là thân th́ gọi đó là Pháp Thân. Pháp thân “thanh tịnh như hư không”,
niệm Phật theo cách niệm Pháp Thân Phật th́ niệm ra
sao? “Vô niệm niệm giả,
tắc niệm Chân Như” (Vô niệm mà niệm th́ chính
là Chân Như). Trong tâm thanh tịnh vô niệm, thưa với
quư vị, vô niệm là không có vọng niệm, chứ chẳng
phải là không có chánh niệm. Không có chánh niệm, sẽ biến
thành cục đá, cục gạch, ḥn ngói, biến thành kẻ
si ngốc không có ư niệm. Không có vọng niệm, nhưng
có chánh niệm. V́ vậy, chánh niệm cũng gọi là vô
niệm. “Không có vọng niệm”, rất khó hiểu!
Chánh niệm là ǵ? Vô niệm là
ǵ? Chúng ta căng mắt nh́n th́ thấy được, mọi
người căng mắt nh́n đều thấy
được, đều thấy rất rơ ràng, minh bạch.
Trong lúc quư vị thấy những sắc tướng ấy,
quư vị không khởi tâm phân biệt, không sanh tâm chấp
trước, quư vị cũng không có vọng tưởng,
chẳng thể nói là quư vị không thấy rơ ràng. Quư vị
thấy rất rơ ràng, nghe rất rơ rệt, chỉ cần
khi ấy không có vọng tưởng, không có phân biệt,
không có chấp trước th́ gọi là chánh niệm. Nếu
quư vị khởi lên một ư niệm, đây là hoa, hoa này
nh́n đẹp quá, kia là cây nến đỏ, vọng niệm
đấy! Đó gọi là vọng niệm. Do vậy, vô niệm
là không có vọng tưởng, không phân biệt, không chấp
trước, mắt thấy rơ ràng, tai nghe rơ rệt, sáu
căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, rơ ràng, rành rẽ,
minh bạch gọi là chánh niệm; nhưng quư vị vừa
khởi tâm động niệm là hỏng, sẽ là vọng
niệm, chẳng phải là chánh niệm.
“Vô
niệm niệm giả” (Vô niệm mà niệm). Niệm ấy
là chánh niệm, vô niệm là không có vọng niệm. Ngay khi ấy,
cái niệm ấy rơ ràng, minh bạch, sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần. Quư vị phải hiểu chư Phật,
Bồ Tát và phàm phu chúng ta khác nhau ở chỗ này. Các Ngài
cũng thấy, chúng ta cũng thấy, các Ngài cũng nghe,
chúng ta cũng nghe, chúng ta ăn cơm, các Ngài cũng ăn
cơm, không khác ǵ hết! Chúng ta sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần liền có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, các Ngài tiếp xúc cảnh giới sáu
trần, không có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước! Do các Ngài không có chấp trước, nên không
có lục đạo. Do không có phân biệt, nên các Ngài không có
mười pháp giới. Do không có vọng tưởng, nên
ngay cả Nhất Chân pháp giới cũng không có. Nhất
Chân pháp giới chỉ là giả danh mà thôi! Kinh Kim Cang dạy:
“Nhất Chân pháp giới chẳng
phải là Nhất Chân, nên gọi là Nhất Chân”. Quư vị
phải hiểu được ư nghĩa này, chẳng phải
là thật sự có Nhất Chân. Nếu thật sự có Nhất
Chân, chẳng phải là lại khởi vọng tưởng,
lại có phân biệt hay sao? Vậy là không có cách ǵ hết! Để
thuận tiện thuyết pháp, nên lập ra tướng giả
danh để quư vị nghe hiểu. Trong Khởi Tín Luận,
Mă Minh Bồ Tát đă bảo: Người biết nghe kinh “ĺa tướng danh tự, ĺa tướng
ngôn thuyết, ĺa tướng tâm duyên”. Chúng ta nghe kinh có cần
phải dùng đến những điều này hay chăng?
Phải dùng! Ĺa như thế nào? Đừng chấp
trước, đừng phân biệt, đừng dấy vọng
tưởng. Như vậy là quư vị thật sự biết
nghe, thật sự nghe lọt tai. Chỉ cần trong khi
nghe kinh, quư vị vẫn c̣n có phân biệt, vẫn c̣n chấp
trước, quư vị nghe chẳng lọt tai đâu! Những
thứ ấy gọi là nghiệp chướng, gây chướng
ngại cho Phật pháp, quư vị chẳng nghe lọt tai
được!
Quư vị có thể ĺa tâm ư thức.
Nói thật ra, ĺa tâm ư thức chính là ĺa tướng ngôn thuyết,
ĺa tướng danh tự, ĺa tướng tâm duyên. Tức là
ĺa tâm ư thức th́ quư vị mới có thể thật sự
nghe tự tánh, trở về với tự tánh. Trong pháp môn
Niệm Phật, phương pháp này gọi là “niệm Pháp Thân Phật”. Quư vị
hăy suy nghĩ, Thiền Tông dùng phương pháp này th́ Thiền
tông chẳng phải là Niệm Phật ư? Chúng ta sử
dụng tiêu chuẩn này th́ nó vốn cũng là pháp môn Niệm
Phật! Chẳng qua là miệng họ chẳng thường
niệm A Di Đà Phật, họ cũng chẳng nghĩ tới
A Di Đà Phật, nhưng đúng là họ niệm Phật,
họ niệm Pháp Thân Phật. C̣n họ có nhập
được được cảnh giới ấy hay
không lại là chuyện khác. Phải xét theo công phu của họ
có thật sự buông xuống vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước hay không. Nếu buông xuống được,
họ sẽ đắc Thiền Định, từ Thiền
Định đại triệt đại ngộ, minh tâm
kiến tánh, đấy chính là niệm Pháp Thân Phật. Tuy
niệm Pháp Thân Phật, quư vị phải hiểu: Trước
đây, tôi đă nói với mọi người, ba địa
vị Tam Hiền trong Viên Giáo đều dùng phương
pháp này để tu. Chúng tôi nói Tông Môn đều dùng
phương pháp này để tu, họ tu đến Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, đợi
đến khi họ đạt đến Sơ Địa,
họ sẽ chuyển biến ư niệm, họ niệm A
Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Thập Địa Bồ Tát
đều niệm Phật”, tức là niệm A Di Đà
Phật, chẳng phải là niệm Pháp Thân Phật. Thưa
cùng quư vị, một câu A Di Đà Phật này toàn bộ hai
mươi mốt pháp môn Niệm Phật đều bao gồm
trong ấy, chẳng sót một môn nào. Niệm một tiếng
A Di Đà Phật thật bất phàm! Tuyệt diệu thay!
Do vậy, nếu quư vị không đọc kinh Hoa Nghiêm, sẽ
chẳng biết pháp môn Niệm Phật rộng lớn, thật
sự chẳng thể sánh tầy! Do vậy, đây là “niệm Chân Như”. Trực
tâm chánh niệm Chân Như, niệm Chân Như là niệm Pháp
Thân. Đây là nói tới niệm Pháp Thân trong mười thứ
thân của Phật, trong ấy, có chánh báo và y báo.
(Sớ)
Nhị Hoa Tạng thế giới hải,
pháp giới vô sai biệt, y chân nhi trụ, bất y quốc
độ, thị niệm tánh độ.
(疏)二 華 藏 世 界 海,法
界 無 差 別,依 真 而 住,不依
國 土,是 念 性 土。
(Sớ) Môn thứ hai, Hoa Tạng
thế giới hải, pháp giới không sai biệt, y theo
Chân Như để trụ, chẳng nương vào quốc
độ, đấy là niệm tánh độ.
Chúng ta cũng phải hiểu
rơ ư nghĩa này. Cũng có nhiều vị đọc kinh luận
hoặc đọc sách do những vị cổ đức
viết, thường thấy nói: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Ở
đây, đại sư dạy chúng ta thế nào là “duy tâm Tịnh Độ”. Duy
tâm Tịnh Độ gọi là Pháp Tánh Độ, chính là Hoa
Tạng thế giới hải. Thế giới Cực Lạc
cũng nằm trong thế giới Hoa Tạng, chẳng tách
rời Hoa Tạng. Thế giới Sa Bà của chúng ta vẫn
nằm trong thế giới Hoa Tạng. Hơn nữa, trong
kinh này, đức Thế Tôn đă bảo chúng ta: Thế giới
Hoa Tạng có hai mươi tầng, giống như một
ṭa cao ốc hai mươi tầng, Sa Bà và Cực Lạc
cùng ở tầng thứ mười ba, quư vị mới biết
Hoa Tạng thật lớn! Quư vị thấy đó, đều
nằm trong tầng thứ mười ba, từ thế giới
Sa Bà đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
là mười vạn ức cơi Phật, Hoa Tạng to lớn
không cách nào diễn tả được, không có cách nào h́nh
dung được. Đức Thế Tôn dạy chúng ta: Tận
hư không, trọn pháp giới, những thế giới giống
như thế giới Hoa Tạng chẳng biết là bao nhiêu.
Vô lượng vô biên! Nhưng quư vị phải hiểu vô
lượng vô biên thế giới hải đều do tự
tánh của quư vị biến hiện ra. Ĺa khỏi tự
tánh, không một pháp nào có thể được, tâm tánh chẳng
thể nghĩ bàn! Do nh́n từ thế giới lớn lao
này, pháp giới nào cũng không sai biệt.
“Y
Chân nhi trụ”: Chân là Chân Như, chân tánh, chư Phật
và Đại Bồ Tát, ở đây chúng ta nói tới Đại
Bồ Tát tức những vị Pháp Thân đại sĩ
trong thế giới Hoa Tạng, các Pháp Thân đại sĩ
thuộc bốn mươi mốt địa vị và
chư Phật Như Lai đều nương vào Chân
Như để trụ. “Bất
y quốc độ” (Chẳng nương vào quốc
độ), quốc độ là biến hóa. Nói cách khác, y
vào Chân Như để trụ, tức là trụ vào Năng
Biến, chẳng trụ vào Sở Biến. Bởi lẽ,
mười phương thế giới là Sở Biến
(cái được biến hiện), bản tánh của Chân
Như là Năng Biến (chủ thể thực hiện
hành vi biến hiện). Do vậy, các Ngài trụ vào Năng
Biến, không trụ vào Sở Biến, nên được
đại tự tại. Hiện thời, chúng ta quá điên
đảo, quên khuấy Năng Biến, luôn trụ trong Sở
Biến. V́ thế, phải khốn khổ, chỗ nào
cũng bị chướng ngại! Các ngài trụ vào
Năng Biến, chẳng trụ nơi Sở Biến, cho
nên đắc bốn thứ vô ngại: Lư vô ngại, Sự
vô ngại, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Đạo
lư là như thế đó! Đây là một loại lớn,
các pháp môn số nhiều tới vô lượng nếu dựa
trên nguyên tắc lớn này sẽ gọi là “niệm pháp tánh độ”. Loại niệm Phật
này gọi là “niệm pháp tánh
độ”. Bởi thế, hai mươi mốt môn bao gồm
hết thảy pháp môn, hết thảy pháp môn đều là
pháp môn Niệm Phật.
(Sớ)
Tam, thập Liên Hoa Tạng vi trần số
tướng, thử đẳng giai thị niệm Báo Thân
tướng.
(疏)三 十 蓮 華 藏 微
塵 數 相,此 等 皆 是 念 報
身相。
(Sớ)
Môn thứ ba là tướng [tốt đẹp]
nhiều như số vi trần trong mười thế giới
Liên Hoa Tạng. Những pháp môn Niệm Phật giống
như thế đều là niệm tướng của Báo Thân.
Nay chúng ta niệm Phật,
thường niệm ba mươi hai tướng, tám
mươi tùy h́nh hảo của Phật. Ba mươi hai
tướng, tám mươi tùy h́nh hảo là do đức
Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trong thế gian này khi đức
Phật tại thế. Người thế gian chúng ta coi
đó là quư tướng, hảo tướng, những sách
xem tướng đều gọi những tướng ấy
là hảo tướng. Thích Ca Mâu Ni Phật có đầy
đủ các tướng như thế; mỗi tướng
không thiếu khuyết ǵ. Liệt Ứng Thân có ba
mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh hảo. Liệt
Ứng Thân thuộc về Ứng Hóa Thân, chưa phải là
cao minh cho lắm. Nếu hiện thân ứng hóa tốt
đẹp, thù thắng, phàm phu chúng ta chẳng thể trông
thấy, chẳng thể tiếp nhận được! Trông
thấy tướng quá sức tốt đẹp ấy, sẽ
kinh hăi bỏ chạy! Chẳng dám thân cận nữa! V́ thế,
nhằm tiếp dẫn chúng sanh, đức Thế Tôn bèn thị
hiện tướng không khác chúng ta cho mấy, chỉ
hơi tốt đẹp hơn một chút th́ chúng ta có thể
tiếp nhận, vẫn muốn thân cận. Do không thể
hiện thân quá tốt đẹp, nên gọi là Liệt Ứng
Thân.
Nhưng kinh điển cho chúng
ta biết về A Di Đà Phật, như trong ba kinh Tịnh
Độ chúng ta đă đọc rất nhiều, đức
Phật bảo chúng ta: Báo Thân Phật có vô lượng
tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, ở
đây gọi là “thập liên
hoa tạng vi trần số tướng”. Chúng ta nói tới
thế giới Hoa Tạng, thế giới Hoa Tạng bao lớn?
Tôi vừa mới nói đấy thôi, thế giới Sa Bà và
thế giới Cực Lạc đều nằm trong tầng
thứ mười ba. Nhặt lấy một vi trần
trong thế giới Hoa Tạng, cứ tính mỗi hạt vi
trần là một tướng hảo, th́ số tướng
hảo bằng số vi trần trong mười thế giới
Hoa Tạng, quư vị hăy tính đi, ai có thể tính ra
được? Chúng ta thường nói “Hằng hà sa số” (số cát trong sông Hằng), số
cát trong sông Hằng quư vị c̣n tính chưa ra, thử tính
coi Hằng hà sa số là bao nhiêu! Số vi trần trong
mười thế giới Hoa Tạng, chúng ta không có cách ǵ
tưởng tượng được. Đấy là nói về
Báo Thân của Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Báo Thân của A Di
Đà Như Lai nơi Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Kinh điển gọi tướng Báo Thân ấy
là Thật Báo Trang Nghiêm Độ, chẳng phải là Phàm
Thánh Đồng Cư Độ. Những tướng của
đức Phật mà quư vị thấy được trong
Phàm Thánh Đồng Cư Độ hay Phương Tiện
Hữu Dư Độ đâu có được trang nghiêm
như thế! Nếu quư vị thấy được thân
tướng của A Di Đà Phật nơi Thật Báo
Trang Nghiêm Độ, sẽ thấy trang nghiêm dường ấy.
Phàm những cách niệm Phật theo loại này, loại niệm
Phật này rất hiển nhiên, Thập Lục Quán Kinh thuộc
loại niệm Phật này, chính là quán tướng hảo
của Phật, quán y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, đều thuộc
loại niệm Báo Thân Tướng, thuộc về loại
này.
(Sớ) Tứ, hữu
vô tận đức, nhất nhất nan tư, niệm Báo
nội đức.
(疏)四 有 無
盡 德,一 一 難 思。念 報
內 德。
(Sớ) Môn thứ bốn là
[niệm đức Phật] có vô tận đức, mỗi
đức đều khó thể nghĩ suy. Đây là niệm
nội đức của Báo Thân.
Chữ
Báo ở đây là Báo Thân. Câu thứ ba trong phần trên là nói
về phép niệm tướng hảo bên ngoài của Báo
Thân, c̣n câu này là niệm nội đức của Báo Thân. Niệm
nội đức, có vô tận trí huệ và đức
năng sẵn có trong bản tánh. Mỗi đức năng
đều chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là niệm
nội đức của Báo Thân. Thưa quư vị, kinh dạy
những điều này đều là những thứ vốn
sẵn có trong tự tánh của chúng ta, phải hiểu ư
nghĩa này. Chứ không phải là nói Tỳ Lô Giá Na Phật,
A Di Đà Phật th́ có, c̣n chúng ta th́ không. Chúng ta giống hệt
như các Ngài, không khác ǵ cả! Đọc xong liền sanh
tâm hổ thẹn, chúng ta đă hoàn toàn chôn vùi trí huệ,
đức năng như thế, để rồi ngày nay
lâm vào cảnh đáng thương, thê thảm như thế
ấy! Nay chúng ta rất may mắn gặp được
Phật pháp, gặp đức Thế Tôn tuyên nói cho chúng ta
pháp môn này. Mục đích là đâu? Không ǵ chẳng nhằm
dạy chúng ta khôi phục tự tánh. Hiểu rơ đạo
lư này, lănh hội dụng ư của Phật, chúng ta mới có
thể thật sự tiếp nhận lời giáo huấn,
có thể viên măn Tánh Đức ngay trong cuộc đời
này. Đấy chính là ư nghĩa đức Phật xuất
hiện, giảng kinh, thuyết pháp cho chúng ta. Tiếp theo
đây, đại sư dẫn một đoạn trong phần
kinh văn đă nói trong phần trước để chứng
minh.
(Sớ) Cố thượng
kinh vân.
(疏)故 上 經 云。
(Sớ) V́ vậy, trong phần
trên, kinh đă chép.
Chữ
“thượng” chỉ phần
trên, trong phần trên kinh đă nói:
(Sớ) Nhất thiết
oai nghi trung, thường niệm Phật công đức,
trú dạ vô tạm đoạn, như thị nghiệp
ưng tác.
(疏)一 切 威
儀 中,常 念 佛 功 德,晝
夜 無 暫 斷,如是 業 應 作。
(Sớ) Trong hết thảy
oai nghi, thường niệm công đức Phật, ngày
đêm không tạm thời gián đoạn, nghiệp như
thế nên làm.
Tạo
nghiệp ấy tốt đẹp, tạo nghiệp ấy
là Tu Đức. Kinh dạy chúng ta trong hết thảy oai
nghi, đi, đứng, nằm, ngồi, hết thảy lúc,
hết thảy chỗ, thường niệm công đức
của Phật đừng gián đoạn. Chúng ta niệm
bằng cách nào? Thuận tiện nhất là một câu Nam Mô
A Di Đà Phật. Trong câu danh hiệu này, trọn đủ
vạn đức, vạn năng, vô tận công đức.
Tỳ-kheo Cát Tường Vân tu Ban Châu tam-muội ngày đêm
không gián đoạn.
(Sớ) Ngũ, quán
Hoa Tạng sát.
(疏)五 觀 華
藏 剎。
(Sớ) Môn thứ năm là
quán cơi Hoa Tạng.
Môn
này dạy chúng ta quán cơi Phật của Tỳ Lô Giá Na Phật.
(Sớ) Vô lượng
bảo nghiêm, lượng châu pháp giới. Thị niệm
Báo độ.
(疏)無 量 寶
嚴,量 周 法 界。是 念 報
土。
(Sớ)
Trang nghiêm bằng vô lượng báu, số
lượng trọn khắp pháp giới. Đây là niệm
cơi nước nơi Báo Thân trụ.
Báo
Độ chính là Thật Báo Trang Nghiêm Độ, [môn niệm
Phật này là] niệm Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Trong
Bát Thập Hoa Nghiêm, mở đầu kinh từ quyển thứ
nhất đến nửa phần đầu quyển thứ
mười hai, kinh văn tổng cộng mười một
quyển rưỡi giảng về chánh báo và y báo trang
nghiêm của thế giới Hoa Tạng, y báo và chánh báo trang
nghiêm của Tỳ Lô Giá Na Phật. Kinh văn rất dài, so
ra cặn kẽ hơn Quán Vô Lượng Thọ Kinh rất
nhiều. So với kinh này, Quán Vô Lượng Thọ Kinh chỉ
nói đại lược, [cơi Hoa Tạng] được
giảng cặn kẽ trong đoạn kinh Hoa Nghiêm ấy.
Đây là [môn Niệm Phật] niệm Thật Báo Trang Nghiêm
Độ.
(Sớ) Lục, hoặc
quán Phật tướng cụ tam thập nhị, nhược
tổng, nhược biệt, nhược nghịch,
nhược thuận, trượng lục thiên xích. Thử
đẳng giai thị niệm Hóa Thân tướng.
(疏)六 或 觀
佛 相 具 三 十 二,若 總 若
別,若 逆 若順,丈 六 千
尺。此 等 皆 是 念 化 身 相。
(Sớ)
Môn thứ sáu là quán tướng Phật
đủ ba mươi hai tướng, dù tổng hay biệt,
dù nghịch hay thuận, thân cao trượng sáu hay cao ngàn
thước. Những pháp giống như thế đều
là niệm tướng nơi Hóa Thân của Phật.
Đây
là quư vị quán ba mươi hai tướng, quán tám
mươi thứ tùy h́nh hảo, thường nghĩ
điều này, thường niệm điều này, hoặc
là tưởng thân vàng trượng sáu của Phật, hoặc
là quư vị có năng lực tưởng thân Phật rất
cao lớn, cao ngàn thước (ngàn thước là một
trăm trượng). Thân to lớn như vậy đều
thuộc loại Hóa Thân. Thân lớn ngàn thước là Hóa Thân
thù thắng, thân trượng sáu là Liệt Ứng Thân. Do
đây, đức Phật tùy loại hóa thân trong mười
phương thế giới, thuận theo tâm chúng sanh, ứng
theo khả năng hiểu biết của họ. Ví như
con người chúng ta trong thế giới này không cao,
người cơi trời cao hơn chúng ta. Dục Giới có
sáu tầng trời, tướng hảo trong mỗi tầng
trên tốt đẹp hơn tầng dưới, thân
người cũng cao hơn. Nếu Phật ở trên cơi
trời thị hiện thân trời để giảng kinh,
thuyết pháp, hóa thân ấy thù thắng hơn hóa thân trong
cơi chúng ta nhiều lắm. Hóa thân cao ngàn thước! Chẳng
giống như thân trượng sáu của chúng ta! Nếu thân
trượng sáu đến chỗ chư thiên, người
cơi trời trông thấy đức Phật rất nhỏ
bé như thế, giống như một đứa bé con, giảng
kinh, thuyết pháp, làm sao họ không coi thường Ngài? Do
vậy, tùy loại hóa thân. C̣n nếu như trong thế giới
này của chúng ta, Phật một phen hiện thân cao ngàn
thước, chúng ta ngửa cổ lên cũng không thấy
Ngài được, chúng ta cũng không có cách nào thân cận
được, cũng sẽ cảm thấy người
này quá kỳ quái, chẳng dám thân cận. Do vậy, đức
Phật thị hiện chẳng khác với chúng ta cho mấy,
cao lớn hơn chúng ta một chút th́ [chúng ta] có thể tiếp
nhận được. Những loại niệm Phật
này đều thuộc niệm Hóa Thân, niệm tướng
nơi thân Ứng Hóa và Hóa Thân.
(Sớ) Thất, thập
lực vô úy, thập bát bất cộng. Thử đẳng
giai thị niệm hóa thân đức.
(疏)七 十 力
無 畏,十 八 不 共。此 等
皆 是 念 化 身德。
(Sớ) Môn thứ bảy là
mười sức vô úy, mười tám món bất cộng.
Những môn Niệm Phật này đều là niệm đức
của Hóa Thân.
Ở
đây chẳng thể giảng tường tận Thập
Lực, Tứ Vô Sở Úy, mười tám pháp Bất Cộng.
Nói cặn kẽ th́ cả hai tiếng đồng hồ
cũng giảng không xong. Trong quá khứ, tôi đă từng
nói, nếu quư vị quên rồi th́ trong Phật Học Từ
Điển có những từ ngữ này, trong sách Giáo Thừa
Pháp Số cũng có, tự ḿnh có thể tham khảo. Thập
Lực là mười thứ năng lực, mười thứ
năng lực hết sức thù thắng, không chỉ là phàm
phu chúng ta không có, Bồ Tát tuy có, nhưng cũng chẳng
viên măn như Phật. Bốn thứ Vô Úy, mười tám
pháp Bất Cộng [của Phật] hoàn toàn khác với Bồ
Tát. Bồ Tát có mười sáu pháp Vô Úy, nhưng năng lực
so ra không được viên măn như Phật. Mười
tám pháp Bất Cộng, Bồ Tát hoàn toàn không có. Đây là
đức năng đặc biệt nơi quả địa
Như Lai. Niệm những điều này là niệm phẩm
đức nơi Hóa Thân. Trong phần trước, niệm
ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ tùy h́nh là
niệm nơi tướng của Hóa Thân, c̣n ở đây
là niệm phẩm đức của Hóa Thân.
(Sớ) Bát, dư
phương Tịnh Độ, thủy, điểu, thụ
lâm, thử đẳng giai thị niệm Hóa Thân y.
(疏)八 餘 方
淨 土,水 鳥 樹 林。此 等
皆 是 念 化 身依。
(Sớ) Môn thứ tám là Tịnh
Độ ở phương khác, nước, chim, rừng
cây. Những pháp Niệm Phật như vậy đều
là niệm y báo của Hóa Thân.
Y báo của Ứng Hóa Thân. “Dư phương Tịnh Độ”
ư nói không phải là Hoa Tạng, không phải là Cực Lạc.
Hết thảy các cơi Phật đều có Tịnh Độ.
Thích Ca Mâu Ni Phật cũng có bốn cơi. Trong thế giới
Sa Bà có Tịnh Độ, cũng có nước, chim, rừng
cây như trong kinh Di Đà hay Vô Lượng Thọ Kinh đă
nói. Nếu chúng ta niệm những thứ ấy th́ đều
là niệm y báo của Hóa Thân.
(Sớ) Cửu tiền
nhị thị tánh.
(疏)九 前 二
是 性。
(Sớ) Loại thứ chín,
hai món đầu là tánh.
Chúng
ta nói đến tám thứ, tám thứ niệm Phật ấy
đều chẳng ngoài Pháp Thân, Báo Thân, Hóa Thân, Chánh Báo, Y
Báo, đều chẳng ngoài những thứ này.
(Sớ) Cửu tiền
nhị thị tánh, hậu lục thị tướng.
(疏)九 前 二
是 性。後 六 是 相。
(Sớ)
Thứ chín, hai món đầu là tánh, sáu món sau
là tướng.
Đây
là nói về tám loại niệm Phật [vừa được
nhắc tới] trong phần trên, loại đầu tiên là
Pháp Thân, tức Pháp Tánh Thân, loại thứ hai là Pháp Tánh
Độ, đều thuộc pháp tánh. “Hậu lục thị tướng”, bất luận
là Thật Báo Độ hay Ứng Hóa Độ đều
là tướng, nội đức cũng là tướng, diện
mạo bên ngoài cũng là tướng, nội đức vẫn
là tướng.
(Sớ) Tướng
ngoại vô tánh, tánh ngoại vô tướng, tánh tướng
giao triệt, chân Phật, chân độ, thị niệm
đệ cửu tánh tướng vô ngại.
(疏)相 外 無 性,性
外 無 相,性 相 交 徹,真
佛 真 土。是 念 第 九 性 相
無 礙。
(Sớ)
Ngoài tướng không có tánh, ngoài tánh không có
tướng, tánh và tướng thấu suốt lẫn
nhau, đức Phật thật, cơi nước thật. Đấy
là loại niệm Phật thứ chín, tánh tướng vô ngại.
Đây
là loại thứ chín. Loại thứ chín và thứ mười
hết sức trọng yếu, có thể phá trừ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng
ta từ vô lượng kiếp đến nay. Do chúng ta
không hiểu rơ đạo lư này, nên mới khởi vọng
tưởng, khởi phân biệt, chấp trước. Nếu
thật sự hiểu được đạo lư này, tâm
quư vị sẽ thanh tịnh, quư vị sẽ chẳng dấy
lên vọng tưởng. Biết ǵ vậy? Ta và người
không hai, lợi tha chính là tự lợi, tổn người
vốn là tổn ḿnh, quư vị đă hiểu rơ rồi! Sau
khi hiểu rơ, quư vị sẽ tự nhiên sanh khởi tâm
đại từ bi, ḷng đồng thể đại bi,
ḷng vô duyên đại từ, quan tâm, yêu thương, che chở
hết thảy chúng sanh vô điều kiện. V́ sao vậy?
Đều là do tự tánh biến hiện, đều là
chính ḿnh! Sao lại là chính ḿnh? Chúng tôi dùng một thân để
làm tỷ dụ. Cánh tay, bắp tay là chính ḿnh, ngón tay
cũng là chính ḿnh, móng tay cũng là chính ḿnh, mồ hôi, lông
cũng là chính ḿnh, tự ḿnh chẳng phải là những thứ
ấy hay sao? Mười pháp giới trang nghiêm cũng giống
như trạng huống ấy, vậy th́ có ǵ chẳng phải
là chính ḿnh ư? Mỗi lỗ chân lông đều là chính
ḿnh! Như vậy rồi quư vị mới hiểu
được lời cổ nhân đă nói: “Sơn hà đại địa đồng hiện
hóa vương thân” (Núi sông, đại địa đều
cùng hiện hóa thân vua). Quư vị thấy thấu suốt,
hiểu rơ rồi, thấy được Pháp Thân, thừa
nhận, khẳng định hết thảy pháp là chính
ḿnh. Do vậy, Pháp Thân chẳng phải là năm thứ,
Pháp Thân không có sanh diệt. Hóa Thân, Ứng Thân có sanh diệt,
Pháp Thân không sanh diệt. Pháp Thân đích thực là chính ḿnh,
là vô lượng thọ thật sự. Bởi vậy,
đạo lư cuối cùng này rất trọng yếu.
(Sớ) Thập,
dĩ tánh dung tướng, tướng tùy tánh dung, linh tiền
cửu môn, hợp vi nhất quỹ.
(疏)十 以 性
融 相,相 隨 性 融,令 前
九 門,合 為 一揆。
(Sớ) Mười là do tánh
chứa đựng tướng, tướng thuận theo
tánh ḥa hợp, khiến cho chín môn trước hợp lại
thành một khối.
Chín
môn trước là một, một là chín. Chính là như trong
kinh, đức Phật đă nói: “Một tức là nhiều, nhiều chính là một. Một
và nhiều không hai”.
(Sớ) Cố đức
đức vô tận, tướng tướng vô cùng, trần
trần sát măn, do như đế vơng.
(疏)故 德 德 無 盡,相
相 無 窮,塵 塵 剎 滿,猶
如帝網。
(Sớ)
V́ thế đức nào cũng vô tận,
tướng nào cũng vô cùng, trong mỗi hạt vi trần
đều có trọn khắp các cơi nước giống
như cái lưới của Thiên Đế.
“Đế vơng” là tỷ dụ,
Đế là Thiên Đế Thích (Sakya Indra), người
Trung Quốc gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế.
Đại khái là những tôn giáo khác gọi ông ta là Thượng
Đế, chữ này chỉ vị chúa cơi trời Đao Lợi,
tức Đế Thích thiên vương. Đức Phật
nói trên tầng trời Đao Lợi, trong Đao Lợi
thiên cung có lưới giăng, lưới giăng vô cùng
trang nghiêm. Mỗi gút thắt và mắt lưới có buộc
một viên bảo châu, tức Ma Ni bảo châu, phóng quang, ánh
sáng chiếu ngời lẫn nhau đẹp không thể tả.
“Do như đế vơng”,
thường lấy cái lưới này làm tỷ dụ. Hiện
thời, hơi ít thấy lưới giăng, ở Đài
Loan chúng tôi chưa hề thấy, c̣n ở Trung Quốc
Đại Lục th́ tôi không để ư, chắc là có,
nhưng có thể trông thấy ở Nhật Bản. Trong rất
nhiều tự viện lớn ở Nhật Bản, trên mỗi
đầu kèo đều có lưới giăng bện bằng
dây đồng để che chở. Tác dụng của
lưới chăng như sau: Do những thứ kiến
trúc ấy đều là tác phẩm nghệ thuật cao
độ, kèo xà chạm trổ, sợ chim đến làm tổ,
phá hoại tác phẩm nghệ thuật. Do vậy, dùng
lưới chăng bện bằng giây đồng để
bảo vệ. Quư vị có thể thấy rất rơ ràng, chỉ
nhằm để ngăn cho chim không bay vào được,
đấy là tác dụng của lưới chăng, mà cũng
là vật để trang nghiêm, nhằm mục đích trang
nghiêm, giống như một món trang sức, không chỉ có
tác dụng bảo vệ mà c̣n có tác dụng trang sức tạo
vẻ mỹ quan.
(Sớ) Thị đệ
thập niệm trùng trùng dung nhiếp, đắc hậu nhị
môn, tiền giai chân thật.
(疏)是 第 十
念 重 重 融 攝。得 後 二 門,前
皆 真 實。
(Sớ)
Do vậy, môn niệm Phật thứ mười
trùng trùng dung nhiếp. Hễ đạt được hai
môn cuối th́ những môn trước đều trở
thành chân thật.
Nếu
quư vị thấu hiểu ư nghĩa của hai môn sau cùng th́
đối với tám môn trước, bất luận quư vị
niệm tánh hay niệm tướng, thảy đều là chân
thật, đều là thật. Nếu chẳng hiểu
được hai môn cuối, những ǵ quư vị niệm
chỉ là ngoài da, chẳng đau, chẳng ngứa, không có cảm
ứng ǵ hết! Quư vị thật sự hiểu
được hai điều này th́ “một niệm tương ứng một niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.
Lư rất quan trọng! Phải thông đạt, hiểu rơ
Lư. Tương ứng ra sao? Sau khi hiểu rơ điều này,
tâm quư vị thanh tịnh, quư vị thấy “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác” trong Vô Lượng Thọ Kinh, quư vị
nhất định đạt được. Chỉ có thể
nói là tŕnh độ “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” có
sâu hay cạn bất đồng, hễ cạn th́ quư vị
nhất định đạt được. Hễ đắc
“thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, quư vị là Pháp Thân
đại sĩ, quư vị chẳng phải là kẻ tầm
thường. V́ vậy, gọi là tương ứng, tức
là tương ứng với pháp tánh, mà cũng là tương
ứng với pháp tướng, tương ứng với
chư Phật, mà cũng tương ứng với chúng
sanh, không có một pháp nào chẳng tương ứng!
(Sớ) Kinh tùy biệt
thuyết, nghĩa tất cai dung.
(疏)經 隨 別
說,義 必 該 融。
(Sớ)
Mỗi kinh [tùy theo căn tánh của đương
cơ] mà nói [từng phương diện] riêng biệt, chứ
ư nghĩa thảy đều chứa đựng trọn vẹn.
Đức
Phật giảng kinh, tùy tiện nói tới một
phương diện nào đó, quư vị phải hiểu ư
nghĩa của kinh ấy viên măn. Nếu quư vị thấu
hiểu được đôi chút th́ quư vị đọc
kinh Phật cũng thế, mà giảng giải kinh Phật
cũng thế, ư nghĩa sẽ viên măn như thường
nói: “Viên nhân thuyết pháp, vô
pháp bất viên” (Người căn tánh viên măn nói pháp th́
không pháp nào chẳng viên măn), đạo lư là đây! Quư vị
nói không viên măn là v́ quư vị chưa đạt được
hai môn cuối này, quư vị chưa đạt được!
Do vậy, chỗ nào quư vị cũng bị chướng
ngại. Không chỉ là gặp chướng ngại nơi
kinh giáo, mà c̣n bị chướng ngại trong tu hành, chướng
ngại trong cuộc sống, chướng ngại trong công
việc, xử sự, đăi người, tiếp vật,
chuyện ǵ cũng bị chướng ngại. Nếu quư
vị hiểu ư nghĩa này, quư vị mới hiểu cái hay
của kinh Hoa Nghiêm. Nếu quư vị thật sự hiểu
rơ, hiểu được mấy phần th́ trong cuộc sống,
quư vị sẽ thọ dụng viên măn. Nay chúng ta gọi
đó là hạnh phúc viên măn, đối xử với người
khác, xử sự đều có thể viên dung. Trong ấy,
không có xung đột, không có va chạm, tâm địa thanh
lương, tự tại, thường sanh trí huệ, quư
vị mới hiểu sự thù thắng của Niệm Phật!
Đây là trước hết, đem mười thứ niệm
Phật nói cả ra. Tiếp theo là:
(Sớ) Đệ nhị,
hội thích kinh văn giả.
(疏)第 二 會
釋 經 文 者。
(Sớ) Phần thứ hai là
giải thích kinh văn.
Đây
là phần giải thích kinh văn. Xin hăy coi lời khai thị
của ngài Thanh Lương:
(Sớ) Kim niệm thập
thân, thị hậu nhị môn.
(疏)今 念 十
身,是 後 二 門。
(Sớ)
Nay niệm mười thân chính là hai môn sau.
Chúng
ta niệm mười thân của Phật, kinh Hoa Nghiêm nói tới
mười thân, niệm mười thân là hai môn cuối.
(Sớ) Cố nhị
thập nhất môn, tiền nhị thập môn các dĩ nhị
môn niệm ư nhất Phật, dĩ thành thập thân vi
thập kiến Phật.
(疏)故 二 十
一 門,前 二 十 門 各 以 二
門 念 於 一佛,以 成 十 身
為 十 見 佛。
(Sớ)
Nên trong hai mươi mốt môn, đối
với hai mươi môn trước đều lấy hai
môn để niệm một Phật, do phối hợp với
mười thân mà thành mười môn thấy Phật.
Hai
mươi mốt môn này do đâu mà có? Do như vậy mà
có! Cứ mỗi hai môn [trong số hai mươi môn đầu]
thuộc về một loại trong mười thân, cứ
mỗi hai môn là một loại. Do vậy, thành ra hai
mươi môn. Môn cuối cùng dung hợp thành môn thứ
mười. Chúng ta tiếp tục coi đoạn chú giải
tiếp theo:
(Sớ) Vị sơ
nhị môn tức thị nguyện Phật, diệc danh nguyện
thân. Luận thích nguyện thân nguyện sanh Đâu Suất.
(疏)謂 初 二 門 即 是
願 佛,亦 名 願 身。論 釋
願 身 願 生 兜 率。
(Sớ)
Nghĩa là: Hai môn đầu chính là Nguyện
Phật, c̣n gọi là Nguyện Thân. Luận giải thích:
“Nguyện thân nguyện sanh lên trời Đâu Suất”.
Hiện
thời, rất nhiều người học Phật mong mỏi
trong tương lai sẽ sanh về trời Đâu Suất,
thân cận Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát trong
đời tương lai sẽ giáng sanh thành Phật, bọn
họ phát nguyện làm đệ tử đức Phật,
giống như một ngàn hai trăm năm mươi lăm
vị đệ tử của đức Thế Tôn thân cận
đức Phật vậy. Phát nguyện ấy rất khó
có, nguyện tâm rất hay, nhưng quư vị phải hiểu
cách tu ra sao. Nếu chẳng hiểu cách tu, chưa chắc
quư vị đă sanh lên trời Đâu Suất được!
Phải hiểu đạo lư này! Nói thật ra, điều
kiện sanh lên trời Đâu Suất so với Tây
Phương Cực Lạc thế giới khó khăn
hơn rất nhiều. Ngài Di Lặc hiện đang là Bồ
Tát, vẫn chưa thành Phật, Ngài bị hạn chế rất
nghiêm trọng, không được viên dung như A Di Đà
Phật. V́ thế, tỳ-kheo Cát Tường Vân niệm A
Di Đà Phật, không niệm Di Lặc Bồ Tát. Câu thứ
nhất chỉ điểm cho chúng ta điều này. Trong
hai môn này, môn thứ nhất tương ứng với câu
thứ nhất trong kinh văn:
(Sớ) Sơ môn cung
điện tức thiên cung đẳng.
(疏)初 門 宮
殿 即 天 宮 等。
(Sớ)
Môn đầu tiên, “cung điện” tức
là cung trời v.v…
Trong
kinh văn, quư vị thấy câu thứ nhất là: “Sở vị trí quang phổ chiếu
sai biệt cảnh giới niệm Phật môn” (Tức
là môn niệm Phật trí quang chiếu khắp cảnh giới
sai biệt). Đây là danh xưng, nghiệp dụng của
pháp môn: “Thường kiến
chư Phật chủng chủng quốc độ, cung
điện trang nghiêm tất hiện tiền cố” (Do
thường thấy các thứ cơi nước, cung điện
trang nghiêm của chư Phật đều hiện tiền).
Cung điện được nói ở đây là cung trời,
nói thật ra, chỉ cho thiên cung trong Đâu Suất nội
viện của Di Lặc Bồ Tát. Khi người ấy
thật sự tu thành, cảnh giới ấy sẽ hiện
tiền.
Qua
Niên Phổ của lăo ḥa thượng Hư Vân, chúng ta thấy
lăo ḥa thượng Hư Vân phát nguyện văng sanh Đâu Suất
nội viện. Ngài tu thành công. Trong Niên Phổ có chép, khi
Ngài nhập định, h́nh tướng của thiên cung
trong nội viện Đâu Suất liền hiện tiền.
Ngài bước vào, cũng trông thấy có mấy người
quen biết đă văng sanh đến nơi ấy. Ngài thấy
Di Lặc Bồ Tát, cũng nghe giảng một thời
kinh, Di Lặc Bồ Tát bảo Ngài quay về: “Ông c̣n có chuyện
chưa làm xong”. Đúng là Ngài (tức Di Lặc Bồ Tát) hiện
tiền, trọn chẳng giả.
(Sớ) Hậu môn ư
nhạo chánh thị nguyện thể.
(疏)後 門
意 樂 正 是 願 體。
(Sớ) Trong môn sau, ư nhạo
chính là Thể của nguyện.
Câu
thứ hai trong phần sau, tức là “linh an trụ chủng chủng tăng thượng
ư nhạo niệm Phật môn” (môn Niệm Phật khiến
cho an trụ các thứ ư nhạo tăng thượng), nghiệp
dụng của nó là “tùy chư
chúng sanh tâm chi sở nhạo, giai linh kiến Phật đắc
thanh tịnh cố” (do tùy theo ḷng ưa thích của các
chúng sanh, đều làm cho họ thấy Phật được
thanh tịnh), [đại sư] giải thích câu này. Đây
là môn kế tiếp, đấy là Thể của nguyện.
(Sớ) Cố Phạn bản trung danh Thượng
Thăng Môn. Lư thực Như Lai nguyện châu pháp giới,
tùy nhạo linh kiến, thị xuất sanh nghĩa. Cố
thập kiến Phật, danh Xuất Sanh Kiến.
(疏)故 梵 本
中 名 上 昇 門。理 實 如 來
願 周 法 界,隨 樂 令 見,是
出 生 義。故 十 見 佛,名
出 生 見。
(Sớ)
Nên trong Phạn bản gọi là Thượng
Thăng Môn. Xét theo thực tế của Lư Thể, nguyện
của Như Lai trọn khắp pháp giới, thuận theo
ḷng ưa thích khiến cho chúng sanh được thấy.
Đây là nghĩa Xuất Sanh. V́ thế, trong mười môn
thấy Phật, môn này được gọi là Xuất
Sanh Kiến.
Đây
là so với Phạn bản, tức nguyên bản của kinh
Hoa Nghiêm, ư nghĩa trong nguyên bản là Thượng Thăng
Môn. Phần sau nhằm giải thích cho chúng ta:
(Sớ) Lư thực
Như Lai nguyện châu pháp giới.
(疏)理 實 如 來 願 周
法 界。
(Sớ)
Xét theo thực tế của Lư Thể, nguyện
của Như Lai trọn khắp pháp giới.
“Lư” là Lư Thể, cũng là Tánh
Thể, “thực” là chân thực;
chúng ta gọi là chân tướng sự thật, Như Lai
là tự tánh. Quư vị thấy hết thảy kinh Đại
Thừa, trong kinh Kim Cang nói rất nhiều. Nếu gọi
là Phật th́ chính là nói theo mặt tướng; nếu gọi
là Như Lai th́ là luận theo mặt tánh. V́ vậy, Như
Lai chính là Tự Tánh Phật. “Nguyện
châu pháp giới” chẳng riêng ǵ bốn mươi tám
nguyện của A Di Đà Phật trọn khắp pháp giới,
mà các nguyện do hết thảy chư Phật, Bồ Tát
đă phát ra cũng đều trọn khắp pháp giới.
V́ sao vậy? Do từ chân tâm phát ra. V́ sao nguyện của
phàm phu chúng ta chẳng thể trọn khắp? Do từ vọng
tâm phát ra, chứ không phải là chân tâm. Phàm phu dùng vọng
tâm, dùng tâm ư thức. Nói cách khác, phàm phu dùng cái tâm nào? Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước; coi đấy
là tâm. Do vậy, quư vị phát nguyện, quư vị phát nguyện
ǵ? Khởi vọng tưởng. Vọng tưởng có lúc
gián đoạn, có lúc liên tục. Lúc gián đoạn th́ nhiều,
lúc liên tục th́ ít; do vậy, nó chẳng khởi tác dụng.
Vừa mới phát ra một nguyện, loay hoay liền quên mất.
Quư vị tụng khóa sáng, đối
trước Phật, Bồ Tát phát nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”. Tụng khóa sáng xong, thấy người này
bèn chán ghét, không độ người ấy, ngay lập tức
không c̣n [nguyện ấy] nữa; cho thấy [rơ ràng là] “miệng đúng, tâm sai”. V́ sao
nguyện do chư Phật, Bồ Tát đă phát bèn trọn
khắp pháp giới? Các Ngài phát nguyện từ chân tánh, các
Ngài chẳng dùng tâm ư thức, không dùng vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, chẳng dùng những thứ
ấy. Các Ngài phát xuất từ tâm thanh tịnh,
đương nhiên khác hẳn. V́ vậy, câu “tùy nhạo linh kiến” này
chính là như kinh Lăng Nghiêm nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng”. Trong
mười phương pháp giới, Phật được
gọi là chư Phật, Bồ Tát; chư Phật, Bồ
Tát không có h́nh tướng nhất định. Pháp giới
vô lượng vô biên, nơi nào có chúng sanh mong thấy Phật,
mong thấy Bồ Tát, Ngài lập tức hiện thân, đáng
nên dùng thân nào để độ được th́ Ngài liền
hiện thân ấy. Ngài trọn chẳng có ư niệm “tôi muốn
hiện thân nào”, không phải vậy, hoàn toàn là vô ư. Nếu
có ư, sẽ biến thành phàm phu, là giả, không thật. Ư ấy
là ǵ? Ư là phàm phu. Phàm phu động một tâm niệm, gọi
là “phàm phu có cảm”, Phật
tự nhiên sẽ ứng, cảm ứng đạo giao. Đạo
lư cảm ứng ấy cũng không dễ hiểu. V́ thế,
cổ đức dùng cái khánh để làm tỷ dụ.
Chúng ta gơ khánh là Cảm. Khánh vừa gơ liền có tiếng
vang, tiếng vang là Ứng. Chúng ta gơ khánh là có tâm, c̣n khánh ứng
là vô tâm. Dùng tỷ dụ này để h́nh dung Phật ứng
với chúng sanh trong mười pháp giới: Không có ư niệm,
không khởi tâm động niệm, tự nhiên, pháp vốn
là như vậy. Đấy là cảm ứng đạo
giao, trọn không khởi tâm động niệm. Do vậy,
đấy là “tùy nhạo linh kiến”,
tức là thuận theo ḷng ưa thích của chúng sanh, thuận
theo khả năng nhận biết trong tâm chúng sanh. Đấy
là ư nghĩa Xuất Sanh.
(Sớ) Cố thập
kiến Phật, danh Xuất Sanh Kiến.
(疏)故 十 見
佛,名 出 生 見。
(Sớ)
V́ thế, trong mười môn thấy Phật,
[môn này được] gọi là Xuất Sanh Kiến.
Bất
cứ một môn nào trong mười môn thấy Phật, hết
thảy chúng sanh đều có phần, phàm phu cũng có phần.
Nay chúng ta tạo tượng Phật, tạo tượng
A Di Đà Phật, chúng ta mỗi ngày trông thấy Ngài, mỗi
ngày cung kính, lễ bái, quán tưởng, in h́nh tượng A
Di Đà Phật vào A Lại Da Thức của chính ḿnh, quán
tượng niệm Phật. Niệm như vậy là niệm
tượng Phật của Ứng Hóa Thân. Đối với
mười thứ thân ấy, phàm phu chúng ta đều có phần.
Do vậy, pháp này gọi là Xuất Sanh Kiến, đấy cũng
chính là y báo, chánh báo trang nghiêm của Phật được
sanh khởi trong tâm ư thức của quư vị, khởi lên ư
niệm ấy. Phần tiếp theo:
(Sớ) Tam tứ nhị
môn tức bản tánh Phật, danh vi trí thân. Phật dĩ
trí huệ vi bản tánh cố.
(疏)三 四 二
門 即 本 性 佛,名 為 智 身。佛
以 智 慧 為 本 性 故。
(Sớ)
Hai môn thứ ba và thứ tư chính là niệm
đức Phật trong bản tánh, gọi là Trí Thân, v́ Phật
lấy trí huệ làm bản tánh.
Đây
là câu thứ ba và câu thứ tư trong kinh văn, cũng có
nghĩa là nói về môn thứ ba và môn thứ tư. Môn trước
là môn thứ ba, niệm Thập Lực Trí, Môn sau là môn thứ
tư, tức niệm Vô Ngại Trí.
(Sớ) Trí tắc
minh liễu vi kiến.
(疏)智 則 明
了 為 見。
(Sớ) Đối với trí
th́ coi hiểu rơ là thấy.
Do
đây biết rằng, Kiến (見) được nói ở đây
chẳng phải là thấy bằng nhục nhăn, mà có
nghĩa là trong tâm quư vị thấu hiểu, hiểu rơ,
thông đạt, chữ Kiến luôn được hiểu
theo nghĩa này. Do vậy, hễ nói tới Kiến th́ tác dụng
của sáu căn đều gọi là Kiến. Như
phương pháp tu hành của Quán Thế Âm Bồ Tát trong
kinh Lăng Nghiêm: “Phản
văn, văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo”
(Xoay cái Nghe để nghe tự tánh, tánh trở thành đạo
vô thượng). Cái Nghe của Ngài tuy dùng Nhĩ Căn làm
đại diện, nhưng sáu căn khởi tác dụng
đều gọi là Văn (nghe), đều gọi là Phản
Văn (xoay trở lại cái Nghe), như vậy mới là ư
nghĩa viên măn. Ở chỗ này, Kiến cũng mang cùng một
ư nghĩa, lấy Nhăn Căn đại diện cho sáu
căn. Từ đoạn khai thị này, chúng ta hiểu Bản
Tánh Phật là Trí Thân. Nói tới mười thứ Phật,
mười thứ thân, th́ chúng ta mới hiểu được
sự trọng yếu của trí huệ Bát Nhă! Không có trí huệ
Bát Nhă, quư vị sẽ chẳng thể thấy tánh. Minh tâm
kiến tánh th́ trí huệ của quư vị được
thành tựu. Thưa cùng quư vị, Trí Thân chính là Báo Thân, Báo
Thân lấy trí huệ làm thân, Bát Nhă trọng yếu lắm!
Trí
huệ do đâu mà có? Trí huệ phát sanh từ Thiền
Định, chẳng phải do nghiên cứu kinh giáo mà có thể
mở mang trí huệ được. Không hề có chuyện
ấy, ngàn vạn phần quư vị đừng lầm lẫn!
Quư vị ngỡ nghiên cứu kinh giáo, tốn công sức mấy
chục năm, quư vị sẽ mở mang trí huệ. Nếu
quư vị dồn công sức nơi kinh giáo, bỏ ra công sức
mấy chục năm, quư vị sẽ đạt
được những ǵ? Đại sư Thanh
Lương nói rất hay, “tăng
trưởng tà kiến”. Những điều đă nói
trong kinh giáo đều biến thành tà tri tà kiến của quư
vị! Quư vị nói xem có phải là oan uổng hay không?
Đại sư Thanh Lương nói như thế này: “Có hiểu mà không hành, sẽ tăng
trưởng tà kiến”. Hành là ǵ vậy? Hành là tu hành, tu
hành điều ǵ? Phải tu sao cho đoạn được
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Tu
đoạn được chúng rồi, cái tâm thanh tịnh
của quư vị mới hiện tiền; tâm thanh tịnh là
Thiền Định. Nhân Định khai Huệ, đấy
mới gọi là “sanh ra trí huệ chân thật”.
Nói
cách khác, chúng ta nghiên cứu kinh giáo, nhưng nếu nghiên cứu
kinh giáo mà chẳng thể đạt được tâm
thanh tịnh, hằng ngày nghiên cứu, cứ phân biệt,
chấp trước, hoàn toàn sai mất rồi! Coi Phật
pháp như pháp thế gian th́ hết thảy kinh giáo, sẽ
không có một bộ kinh giáo nào là Phật pháp cả, hoàn
toàn là pháp thế gian. Nếu quư vị hiểu được
đạo lư này, quư vị sẽ quay ngược lại,
không phân biệt, không chấp trước. Thưa với
quư vị, quư vị sẽ thấy những pháp thế gian
hoàn toàn là Phật pháp, không có một pháp nào chẳng phải
là Phật pháp. Quư vị nói xem tại sao như vậy? Không
nói tới [pháp] thế gian nào khác! Quư vị hằng ngày
đọc báo, báo chí chẳng phải là kinh Hoa Nghiêm ư?
Quư vị biết cách coi, nó sẽ là kinh Hoa Nghiêm. V́ sao vậy?
Quư vị đọc mà không phân biệt, không chấp trước,
không dấy vọng tưởng, đọc mà vẫn
như không đọc, không đọc mà như đọc,
chẳng phải là quư vị đă đắc Định hay
sao? Định là mở mang trí huệ! Đạo lư là như
vậy đó! Do vậy, đức Phật thuyết pháp,
thuyết mà chẳng thuyết, chẳng thuyết mà thuyết;
quư vị là người biết cách nghe, nghe mà như không
nghe, không nghe mà nghe, khai trí huệ đấy!
Một
tiếng rưỡi đồng hồ để làm ǵ ở
đây? Một tiếng rưỡi đồng hồ để
đồng thời thực hiện Tam Học Giới - Định
- Huệ. Giới là đúng như pháp; ngồi tại
nơi đây đúng quy củ, đoan chánh. Định là
tâm thanh tịnh, không có vọng tưởng, không phân biệt,
không chấp trước. Huệ là quư vị nghe giảng
kinh ở đây, từng câu, từng chữ nghe lọt vào
tai, rành rẽ, phân minh, quư vị chẳng hồ đồ,
sanh trí huệ từ nơi ấy. Nghe xong, ngộ nhập,
chẳng phải từ nơi văn tự, chẳng phải
từ lời nói. Hễ chấp tại văn tự, lời
lẽ, chắc chắn là quư vị chẳng thể ngộ
nhập được! Do vậy, Mă Minh Bồ Tát nói thật
hay, quư vị nghe giáo pháp như thế nào? Đọc kinh,
nghe giáo pháp như thế nào? “Ĺa
tướng ngôn thuyết, ĺa tướng danh tự”.
Đừng chấp trước vào thuật ngữ và danh từ;
ĺa tướng tâm duyên như thế nào? Chẳng thể
suy tưởng! Nếu [cứ suy tưởng] “ư nghĩa
ra sao? Hăy nghĩ xem!” là xong rồi! Hễ suy tưởng là
đă rớt vào ư thức rồi! Không cần phải suy
tưởng chi cả, hễ nghe liền hiểu rơ, đấy
là Huệ. Chẳng cần phải suy tưởng nữa,
suy tưởng sẽ chẳng thể hiểu rơ được!
Càng suy nghĩ càng lộn xộn, càng suy tưởng càng lầm,
không suy tưởng sẽ thật sự minh bạch.
Đây
là nói rơ chỗ khác nhau trong phương pháp dụng công giữa
chư Phật, Bồ Tát và chúng ta. Nếu áp dụng
phương pháp như vậy để nghe kinh, cũng dùng
phương pháp như vậy trong cuộc sống, cũng
dùng phương pháp như vậy trong công việc, cũng
dùng phương pháp như vậy trong ứng xử, quư vị
sẽ được đại tự tại. Nếu quư
vị không biết dùng, khi nghe kinh miễn cưỡng áp dụng
một chút th́ rời khỏi Phật đường sẽ
quên sạch, vẫn y hệt như cũ, chẳng thể
thọ dụng được! Nghe kinh tại nơi
đây, học hiểu xong, phải áp dụng vào sinh hoạt,
áp dụng vào công việc thường ngày, quư vị mới
thật sự có trí huệ. Do vậy, trí huệ quan trọng
lắm. Không riêng ǵ Đại Bát Nhă Kinh giảng về trí
huệ, mà hết thảy các kinh đều giảng về
trí huệ. Do vậy, mong rằng quư vị hăy chú tâm thấu
hiểu Bát Nhă rất sâu từ trong kinh giáo, sẽ thấy
thú vị vô cùng. Ư nghĩa câu này vẫn chưa giảng
xong, nhưng nay đă hết thời gian rồi, ngày mai
chúng tôi sẽ giảng tiếp.
Tứ
Thập Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện Phẩm
Cát
Tường Vân Tỳ Kheo Chương,
Phần
4 hết