D. LƯU THÔNG PHẦN

Toàn kinh gồm ba phần: Một là Tự Phần, hai là Chánh Tông Phần, phần cuối là Lưu Thông.

Linh Phong đại sư bảo: “Ba phần này gọi là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Tự phần như đầu, ngũ quan cùng tồn tại. Chánh Tông như thân, tạng phủ chẳng thiếu. Lưu Thông như chân tay, vận hành chẳng trở ngại”.

Phần này chính là những lời giảng dạy cuối, nhưng lời giảng cuối vẫn tốt lành, chớ nên nghĩ rằng đây là phần Lưu Thông mà đem ḷng rẻ rúng.

43. Phi Thị Tiểu Thừa ( - Chẳng phải là Tiểu Thừa)

Kinh văn trong phẩm này phần nhiều trích từ bản Đường dịch, những câu như “phi thị Tiểu Thừa” (chẳng phải là Tiểu Thừa) và“đệ nhất đệ tử” (đệ tử bậc nhất) lấy từ bản Tống dịch. Phẩm này là phẩm đầu trong phần Lưu Thông, chỉ khuyên tŕ danh. Đây chính là hội Quyền quy Thật, thâu ngọn trở về gốc.

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao viết: “Phần trên tuy đă nói đến muôn hạnh văng sanh, nhưng xét ra bổn nguyện của Phật là cốt ư muốn chúng sanh một bề chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật”.

Sách Đại Kinh Thích của ngài Hắc Cốc có viết (rút gọn) như sau: “Đến phần Lưu Thông, trước hết là phế bỏ hai môn thuộc các hạnh trợ niệm, chỉ nói đến Niệm Phật Văng Sanh”.

Sách c̣n viết: “Chuẩn theo bổn nguyện nên trong phần Lưu Thông, trước hết là phế các hạnh, chỉ quy về niệm Phật”.

Đủ thấy rằng bổn nguyện của đức Di Đà thật sự là mong mỏi chúng sanh một bề chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật, nên nay trong phần Lưu Thông bèn riêng bày Phật nguyện, độc xướng Tŕ Danh để phổ khuyến lưu thông. Bởi lẽ đó, phần Lưu Thông này được gọi là Hậu Thiện.

Chánh kinh:

氏:汝 薩,善 益。若 有善 子、善 人,得 號,能 心,歸 禮,如 行。當 利。當 德。心 劣,亦 高。成 根,悉 上。當 乘,於 中,得 子。

Phật cáo Từ Thị: - Nhữ quán bỉ chư Bồ Tát Ma Ha Tát, thiện hoạch lợi ích. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, đắc văn A Di Đà Phật danh hiệu, năng sanh nhất niệm hỷ ái chi tâm, quy y chiêm lễ, như thuyết tu hành. Đương tri thử nhân vi đắc đại lợi, đương hoạch như thượng sở thuyết công đức, tâm vô hạ liệt, diệc bất cống cao, thành tựu thiện căn, tất giai tăng thượng. Đương tri thử nhân phi thị Tiểu Thừa, ư ngă pháp trung, đắc danh đệ nhất đệ tử.

Phật bảo Từ Thị:

- Ông xem các Bồ Tát Ma Ha Tát ấy khéo đạt lợi ích. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân được nghe danh hiệu A Di Đà Phật mà có thể sanh tâm vui thích trong một niệm, quy y chiêm lễ, tu hành đúng như lời dạy th́ nên biết là người ấy được đại thiện lợi, sẽ đạt được công đức như trên đă nói, tâm chẳng hèn kém, cũng chẳng ngạo nghễ, thành tựu căn lành thảy đều tăng thượng. Nên biết là người này chẳng phải là Tiểu thừa; ở trong pháp ta, [người ấy] đáng gọi là đệ tử bậc nhất.

Giải:

Câu “nhữ quán bỉ chư Bồ Tát Ma Ha Tát thiện hoạch lợi ích” (ông xem các Bồ Tát Ma Ha Tát ấy khéo đạt lợi ích) chỉ vô biên vô lượng các đại Bồ Tát từ mười phương văng sanh đă nói trong những phẩm trước. Bọn họ được nghe danh hiệu Phật rồi văng sanh nên được đại lợi ích. Như trong đoạn Đại Luận đă trích dẫn ở phần trên có nói: Bồ Tát văng sanh Cực Lạc thấy A Di Đà Phật liền được thân Tất Cánh (thân rốt ráo) và pháp b́nh đẳng với các đại Bồ Tát thuộc Bát Địa hay từ Bát Địa trở lên, nên mới bảo là “thiện hoạch lợi ích” (khéo đạt lợi ích).

Ở đây, kinh nêu rơ mười phương thánh chúng văng sanh được lợi ích để khiến cho chúng sanh tin ưa, phát nguyện.

Tiếp đó, kinh khen ngợi pháp Niệm Phật là bậc nhất để khuyến tín: Nghe danh hiệu Phật năng sanh nhất niệm hỷ ái chi tâm” (có thể sanh tâm vui thích trong một niệm), quy y lễ kính, “như thuyết tu hành” (tu hành đúng như lời dạy) liền được đại lợi, sẽ đạt được hết thảy công đức do việc văng sanh đem lại như trong kinh đă nói.

Ư “nhất niệm” (một niệm) được bản Hán dịch ghi như sau: “Văn Vô Lượng Thọ Phật thanh, từ tâm hoan hỷ, nhất thời dũng dược, tâm ư thanh tịnh” (Nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật, từ tâm hoan hỷ, hoan hỷ hớn hở trong một lúc, tâm ư thanh tịnh). Bản Ngô dịch ghi giống vậy; c̣n bản Tống dịch ghi là: “Đắc văn Vô Lượng Thọ Phật danh hiệu, phát nhất niệm tín tâm” (Được nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật, phát nhất niệm tín tâm). Bản Ngụy dịch th́ ghi: “Đắc văn bỉ Phật danh hiệu, hoan hỷ dũng dược, năi chí nhất niệm” (Được nghe danh hiệu đức Phật ấy, hoan hỷ, hớn hở dẫu chỉ một niệm).

Theo ư tác giả Tuyển Trạch Tập, chữ “nhất niệm” ở đây nghĩa là “nhất niệm thanh tịnh”, mà cũng chính là như trong phẩm Tam Bối Văng Sanh đă nói: “Phát nhất niệm tâm, niệm ư bỉ Phật” (Phát nhất niệm tâm, niệm đức Phật ấy).

Gia Tường Sớ cũng ghi: “Trong nhất niệm liền đầy đủ công đức vô thượng là ư nói: Lợi ích sâu xa. Nhất niệm tin tưởng hết mực, tu hành phát nguyện th́ ắt sanh Tịnh Độ, cuối cùng rồi sẽ đắc Phật quả nên bảo là vô thượng”.

Sách Tuyển Trạch Tập cũng bảo: “V́ niệm Phật là vô thượng, dẫu chỉ nhất niệm đă là đại lợi”.

Bởi thế, kinh dạy: Nếu ai có thể dẫu chỉ trong một niệm, phát khởi ḷng hoan hỷ, tin kính, tŕ danh cầu sanh th́ “đương tri thử nhân vi đắc đại lợi, đương hoạch như thượng sở thuyết công đức” (hăy nên biết rằng người ấy sẽ được đại lợi, sẽ được các công đức như trên đă nói).

“Như thượng sở thuyết công đức” (Những công đức như trên đă nói) chính là công đức như trong kinh đă dạy: Vượt ngang khỏi tam giới, chứng trọn vẹn bốn cơi Tịnh Độ, nhất sanh bổ xứ thành Phật, rốt ráo Tịch Quang.

 Tâm vô hạ liệt” (Tâm không hèn kém) là có thể tin tưởng thiện căn của chính ḿnh. “Diệc bất cống cao” (Cũng chẳng ngạo nghễ) là tin vào Phật trí, ba thứ tâm, Phật và chúng sanh không sai biệt. “Thành tựu thiện căn” (Thành tựu căn lành) là như trong bản khắc trên đá của kinh Tiểu Bổn đời Lục Triều đă chép: “Dĩ xưng danh cố, tức đắc đa thiện căn, phước đức, nhân duyên” (Do v́ xưng danh nên liền được nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên).

“Tất giai tăng thượng” (Thảy đều tăng thượng) là tịnh niệm tiếp nối, tinh tấn không thôi nên các thiện căn thảy đều tăng thêm. Sách A Di Đà Yếu Giải lại bảo: “Đồng Cư Tịnh Độ là do thiện nghiệp tăng thượng cảm thành”. Bởi niệm niệm chính là Phật nên nó trở thành nhân duyên gần để thành Phật. Tịnh niệm tiếp nối là đẳng vô gián duyên (duyên không gián đoạn). Lấy Phật hiệu làm sở duyên cảnh, đó là sở duyên duyên[1]. Nói hai chữ “tăng thượng” đă gồm cả ba duyên trên, có lực dụng lớn.

Chữ “thử nhân” (người này) trong câu “đương tri thử nhân phi thị Tiểu Thừa” (nên biết người này chẳng phải là Tiểu thừa) chỉ người nhất tâm niệm Phật như trên vừa nói. Cơi đời hay chê bai người niệm Phật chỉ biết giải thoát cho riêng ḿnh, thậm chí khinh rẻ pháp môn Niệm Phật th́ thật là chẳng hiểu được ư Phật. Chính từ kim khẩu của đức Thế Tôn đă tuyên bố: “Những người như thế chẳng phải là Tiểu thừa”. Di Đà Nhất Thừa nguyện hải cùng b́nh đẳng ban cho cỗ xe trâu trắng lớn, chỉ là Nhất Thừa, chẳng c̣n hai hay ba thừa; bởi thế mới nói “phi thị Tiểu Thừa” (chẳng phải là Tiểu Thừa).

Đức Phật lại tán dương những người niệm Phật như thế “ư ngă pháp trung, đắc danh đệ nhất đệ tử” (ở trong pháp ta đáng được gọi là đệ tử bậc nhất). V́ cớ sao? V́ pháp môn Niệm Phật thật là bậc nhất, thật khó tin nhất. Đối với “nhất thiết thế gian nan tín chi pháp” (pháp hết thảy thế gian khó tin được nổi này) mà sanh nổi ḷng tin chân thật, phụng hành đúng như lời dạy th́ đáng xưng tụng là bậc nhất vậy.

Chánh kinh:

等,應 習,生 心。於 中,生 想。欲 生,速 退 轉,及 嚴、攝 剎,圓 滿 者,當 進,聽 門。

Thị cố cáo nhữ thiên nhân thế gian A-tu-la đẳng, ưng đương ái nhạo tu tập, sanh hy hữu tâm. Ư thử kinh trung, sanh đạo sư tưởng, dục linh vô lượng chúng sanh, tốc tật an trụ đắc bất thoái chuyển, cập dục kiến bỉ quảng đại trang nghiêm, nhiếp thọ thù thắng Phật sát, viên măn công đức giả, đương khởi tinh tấn, thính thử pháp môn.

V́ thế, ta bảo các ông trời, người, thế gian, A-tu-la v.v… phải nên yêu thích tu tập, sanh tâm hy hữu. Đối với kinh này tưởng như đạo sư. [Ai] muốn khiến cho vô lượng chúng sanh mau chóng an trụ đắc bất thoái chuyển và muốn thấy cơi Phật ấy quảng đại trang nghiêm, nhiếp thọ thù thắng, viên măn công đức th́ hăy nên phát khởi tinh tấn, nghe pháp môn này.

Giải:

Đoạn này, Phật lại khuyên nên tôn trọng, y chỉ, yêu thích tu tập pháp môn đă được giảng dạy trong kinh này.

Ngài Tịnh Ảnh nói: “Từ chữ ‘thị cố’ (v́ thế) trở đi là khuyên học kinh này. Do trong kinh này nói về đức Vô Lượng Thọ, [ai] nghe sẽ được đại lợi. V́ thế, dù đại hỏa tràn ngập cả tam thiên đại thiên thế giới, cũng phải vượt qua đó để nghe nhận kinh này, huống hồ là các nạn nhỏ khác”.

Đó là v́ kinh này là kinh bậc nhất của Tịnh tông, giảng về nhân địa, nguyện hạnh của Phật Di Đà, y báo, chánh báo trang nghiêm của cơi Cực Lạc, chánh nhân văng sanh của ba bậc, nhân quả uế - tịnh của hai cơi, lư sự vô ngại, sự sự vô ngại v.v… không điều ǵ chẳng bao gồm. Bởi thế, “ư thử kinh trung, sanh đạo sư tưởng(phải nên đối với kinh này tưởng như đạo sư), kính vâng theo kinh giáo, phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm.

Đức Thế Tôn lại dạy: Phàm muốn làm cho vô lượng chúng sanh mau chứng bất thoái, và muốn thấy “quảng đại trang nghiêm thù thắng Phật sát” (cơi Phật thù thắng quảng đại trang nghiêm), nguyện học theo Phật cũng như để tự nhiếp thọ cơi Phật, dùng các sự quảng đại thù thắng như thế độ khắp các căn, rộng thâu vạn loại ḥng viên măn công đức th́ phải nên khởi ḷng tinh tấn nghe nhận pháp môn này.

Chánh kinh:

故,不 退 心。設 火,不 悔。何 故?彼 等,皆 門,尊 聞,不 背。多 薩,欲 得,是 法。

Vị cầu pháp cố, bất sanh thoái khuất siểm ngụy chi tâm. Thiết nhập đại hỏa, bất ưng nghi hối. Hà dĩ cố? Bỉ vô lượng ức chư Bồ Tát đẳng, giai tất cầu thử vi diệu pháp môn, tôn trọng thính văn, bất sanh vi bội. Đa hữu Bồ Tát, dục văn thử kinh nhi bất năng đắc; thị cố nhữ đẳng ưng cầu thử pháp.

V́ để cầu pháp này th́ chớ nên sanh ḷng thoái chuyển, cong vạy, siểm ngụy. Dù phải vào trong lửa lớn cũng chẳng nên nghi hối. V́ cớ sao? Vô lượng ức các vị Bồ Tát đều cầu pháp môn vi diệu này, tôn trọng nghe nhận, chẳng sanh ḷng chống trái. Có nhiều vị Bồ Tát muốn nghe kinh này mà chẳng được nghe. V́ thế các ông phải cầu pháp này.

Giải:

Ở đây, Phật lại thiết tha khuyên bảo đại chúng vững tin vào pháp môn Tịnh Độ này và kinh Vô Lượng Thọ. Trước hết, Phật dạy: Vị cầu pháp cố, bất sanh thoái khuất siểm ngụy chi tâm” (V́ để cầu pháp này th́ chẳng nên sanh ḷng thoái chuyển, cong vạy, siểm ngụy). Ấy là v́ trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, có nguyện “pháp môn vô thượng thệ nguyện học”, mà Tịnh tông lại là pháp bậc nhất và Đại kinh đây cũng lại là kinh bậc nhất của Tịnh tông. Lúc c̣n tu nhân, Phật Di Đà đă từng nói: “Giả linh cúng dường hằng sa thánh, bất như kiên dũng cầu Chánh Giác” (Ví dầu cúng dường hằng sa thánh, chẳng bằng kiên cố dũng mănh cầu chánh giác). Muốn cầu Chánh Giác th́ trước hết phải cầu chánh pháp. Do đó, chớ nên tự sanh tâm siểm ngụy. “Thoái” (退) là thoái chuyển, “khuất” () là cong vạy, “siểm ngụy” ( ) là hư vọng.

Chữ “thiết” () hàm nghĩa giả sử, ư nói: V́ để cầu pháp nếu phải đi vào lửa lớn “bất ưng nghi hối” (cũng chẳng nên nghi ngờ, hối hận), phải nên như Phật Di Đà trong lúc tu nhân “túng sử thân chỉ chư khổ trung, như thị nguyện tâm vĩnh bất thoái” (dầu cho thân ở trong các khổ, nguyện tâm như thế vĩnh viễn chẳng lui sụt) th́ mới là ḷng tin sâu chắc, tâm nguyện thiết tha.

“Hà dĩ cố” (v́ cớ sao) là lời đức Phật tự hỏi, tiếp đó, Phật dùng cả hai khía cạnh thuận và nghịch để giảng rơ thêm:

1. Một là như trong phẩm Bồ Tát Văng Sanh đă thuật, vô lượng vô số các vị Bồ Tát trong mười phương thế giới đều cầu pháp môn vi diệu này, tôn trọng lắng nghe, tin nhận, phụng hành, đều sanh về Cực Lạc.

2. Hai là trái lại, “đa hữu Bồ Tát dục văn thử kinh nhi bất năng đắc” (có nhiều vị Bồ Tát muốn nghe kinh này mà chẳng được nghe). Phẩm tiếp ngay sau phẩm này c̣n nói: Có một ức Bồ Tát do chẳng nghe kinh này nên bị thoái chuyển vô thượng Bồ Đề.

Đây là dùng điều tương phản để khuyến dụ vững tin. Cuối phẩm, để tổng kết toàn phẩm, đức Từ Tôn từ bi phó chúc, phủ dụ: “Thị cố nhữ đẳng ưng cầu thử pháp” (V́ thế, các ông phải nên cầu pháp này).


 



[1] Sở duyên cảnh; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên: Sở duyên là những ǵ bị tâm nhận biết, c̣n cái tâm nhận biết những cảnh đó th́ gọi là năng duyên. Sở duyên cảnh chính là những trần cảnh bị tâm nhận biết như sắc, thanh, hương v.v... Sở duyên duyên: Những đối tượng nhận thức của tâm và tâm sở (tác dụng của tâm) nếu làm cho tâm sanh ra kết quả th́ gọi là sở duyên duyên. Luận Câu Xá giảng: “Như nhăn thức và các pháp tương ưng lấy sắc làm sở duyên duyên; cũng như thế nhĩ thức và các pháp tương ưng lấy thanh làm sở duyên duyên…” Hiểu theo nghĩa rộng, sở duyên duyên chính là tất cả pháp. Đẳng vô gián duyên là tác dụng của tâm pháp ở niệm trước mở đường cho niệm sau (theo Huệ Quang tự điển).