31. Chân thật công đức (真
實 功 德)
Phẩm này tiếp nối phẩm trước, tiếp
tục nói về những diệu đức tự lợi,
lợi tha của bậc Bồ Tát cơi Cực Lạc. Phẩm
này gồm ba phân đoạn chính:
1. Dùng thí dụ để làm sáng
tỏ ư nghĩa.
2. Tŕnh bày công đức của
Thật Tướng.
3. Được Phật tán thán.
Chánh kinh:
其 智 宏 深,譬 如 巨 海;菩 提 高 廣,喻 若 須 彌;自 身 威 光,超 於 日 月;其 心 潔 白,猶 如 雪 山;忍 辱 如 地,一 切 平 等;清 淨 如 水,洗 諸 塵 垢;熾 盛 如 火,燒 煩 惱 薪;不 著 如 風,無 諸 障 礙。法 音 雷 震,覺 未 覺 故;雨 甘 露 法,潤 眾 生 故;曠 若 虛 空,大 慈 等 故;如 淨 蓮 華,離 染 污 故;如 尼 拘 樹,覆 蔭 大 故;如 金 剛 杵,破 邪 執 故;如 鐵 圍 山, 眾 魔 外 道 不 能 動 故。
Kỳ trí hoằng thâm, thí
như cự hải. Bồ Đề cao quảng, dụ
nhược Tu Di. Tự thân oai quang, siêu ư nhật nguyệt.
Kỳ tâm khiết bạch, do như Tuyết Sơn. Nhẫn
nhục như địa, nhất thiết b́nh đẳng.
Thanh tịnh như thủy, tẩy chư trần cấu.
Xí thịnh như hỏa, thiêu phiền năo tân. Bất
trước như phong, vô chư chướng ngại. Pháp
âm lôi chấn, giác vị giác cố. Vũ cam lộ pháp, nhuận
chúng sanh cố. Khoáng nhược hư không, đại từ
đẳng cố. Như tịnh liên hoa, ly nhiễm ô cố.
Như Ni-câu thụ, phú ấm đại cố. Như kim
cang xử, phá tà chấp cố. Như Thiết Vi sơn,
chúng ma ngoại đạo bất năng động cố
.
Trí họ sâu rộng
ví như biển cả. Bồ Đề cao rộng ví như Tu
Di. Oai quang nơi thân ḿnh vượt xa mặt trời, mặt
trăng. Tâm họ khiết bạch ví như núi Tuyết. Nhẫn
nhục như đất, hết thảy b́nh đẳng.
Thanh tịnh như nước, rửa các trần cấu.
Hừng hực như lửa, thiêu củi phiền năo. Chẳng
vướng mắc như gió: không chướng, không ngại.
Pháp âm sấm rền, giác ngộ kẻ chưa giác. Mưa
pháp cam lồ để nhuần thấm chúng sanh. Rộng
dường hư không v́ đại từ b́nh đẳng.
Như hoa sen sạch v́ ĺa nhiễm ô. Như cây Ni Câu v́ tỏa
bóng mát lớn lao. Như kim cang xử v́ phá tà chấp.
Như núi Thiết Vy v́ chúng ma ngoại đạo chẳng
thể lay động nổi.
Giải:
Đây chính là phân đoạn thứ nhất: Dùng các thí dụ
để minh thị hạnh đức tự lợi, lợi
tha của hàng Bồ Tát cơi Cực Lạc.
Trước hết lấy biển cả để ví
trí huệ Bồ Tát rộng sâu. Hoằng (宏) tlà lớn lao
như kinh Hoa Nghiêm nói: “Đương
nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ
như hải” (Xin nguyện
chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển).
Tiếp đó dùng núi Tu Di để ví với quả Bồ
Đề cao tột chót vót của Bồ Tát. Núi Tu Di chính là
trung tâm của một thế giới. Tu Di (Sumeru) dịch
sang tiếng Hán là núi Diệu Cao. Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa giảng:
“Hán dịch là Diệu Cao
sơn. Do bốn thứ báu hợp thành nên gọi là Diệu.
Cao hơn các ngọn núi khác nên gọi là Cao. Hoặc c̣n dịch
là Diệu Quang Sơn v́ bốn
thứ báu màu sắc, quang minh khác nhau chiếu ngời thế
giới”.
Tu Di c̣n được dịch là An Minh Sơn, Minh
đă hàm ư “diệu quang”, lại
c̣n kiêm cả nghĩa thanh tịnh, vô cấu. An là định,
là bất động. V́ thế, bản Tống dịch
ghi: “Kiên cố bất động
như Tu Di sơn”.
Nay kinh dùng núi Tu Di để ví v́:
- Núi Tu Di do bốn báu hợp thành, ngụ ư: Bồ Đề
của Bồ Tát do vạn đức trang nghiêm.
- Núi Tu Di cao nhất trong các ngọn núi. Cũng vậy,
không có ǵ cao hơn Bồ Đề được cả.
- Núi tỏa quang minh nhiệm mầu. Cũng thế, huệ
quang thường chiếu thế gian.
- Núi an tịnh, sáng ngời. An tịnh biểu thị
diệu định, như như bất động. Sáng
ngời nhằm ví Bồ Đề khiết tịnh như chất
báu vô cấu.
“Oai quang” là ánh sáng oai đức,
đây chính là ánh sáng trí huệ. Bản Ngụy dịch ghi
là: “Huệ quang minh tịnh,
siêu du nhật nguyệt” (Huệ
quang sáng sạch vượt xa mặt trời, mặt
trăng). Hội Sớ giảng: “Siêu du nhật nguyệt’ là ư nói: Mặt trời, mặt
trăng c̣n có lúc tṛn, khuyết, chứ huệ quang chẳng
vậy. Mặt trời, mặt trăng có lúc hiện ra, có
khi biến mất; huệ quang thường sáng tỏ. Mặt
trời, mặt trăng chẳng
soi được nội tâm, huệ quang soi thấu. Mặt
trời, mặt trăng chẳng trọn khắp, huệ
quang trọn khắp”. Bởi vậy, kinh mới nói: “Tự thân oai quang, siêu ư nhật
nguyệt” (Oai quang nơi tự
thân vượt xa mặt trời, mặt trăng).
“Tuyết Sơn” (núi Tuyết)
chính là Đại Tuyết Sơn (
Ngài Cảnh Hưng bảo: “Định
thanh tịnh, đức viên măn như núi Tuyết”. Sách Hội
Sớ cũng bảo: “Đem giới
đức ví với Tuyết Sơn v́ giới đức
thanh tịnh như Đại Tuyết sơn thường trắng
sạch, chiếu soi chúng sanh khiến họ được
thanh lương”. Tịnh Ảnh Sớ lại giảng:
“[Lấy] Tuyết Sơn để
hiển thị Định thanh tịnh. Các đức
đều tịnh nên gọi là b́nh đẳng thanh tịnh,
nhất như”.
Tâm Bồ Tát vốn tịnh nên tâm họ trắng sạch
như núi Tuyết. Tâm họ nhất như nên giống
như núi Tuyết bất động. Tâm họ b́nh đẳng
nên cả ba thứ (thanh tịnh, b́nh đẳng, nhất
như) không sai biệt, chỉ một màu trắng tinh thuần.
“Nhẫn nhục như
địa” (Nhẫn nhục như đất) là dùng cơi
đất để ví ḷng nhẫn nhục b́nh đẳng.
B́nh đẳng chính là ĺa các phân biệt. Văng Sanh Luận Chú
giảng về tâm nghiệp vô phân biệt như sau: “Như đất mang chở, nặng
nhẹ không khác”. Đại địa nâng đỡ vạn
vật, dù vật nặng hay nhẹ vẫn mang đỡ
như nhau, chẳng hề chọn lựa, chẳng hề
phân biệt. Do vậy, kinh dùng cơi đất để ví
cho đức nhẫn nhục của Bồ Tát, xa ĺa hết
thảy phân biệt ta - người, ân - oán, trái - thuận.
“Thanh tịnh như thủy”
(Thanh
tịnh như nước): Bồ Tát thanh tịnh giống
hệt như nước sạch, rửa sạch các thứ
trần lao cấu nhiễm nên kinh mới nói: “Tẩy chư trần cấu” (Rửa
các trần cấu).
“Xí thịnh
như hỏa, thiêu phiền năo tân” (Hừng hực
như lửa, thiêu củi phiền năo): Trí huệ ví như
lửa, phiền năo ví như củi. Trí huệ của Bồ
Tát sắc bén, mạnh mẽ, hừng hực như lửa;
trừ diệt phiền năo như lửa đốt củi.
“Bất trước như
phong” (Chẳng vướng mắc như gió): Tánh của gió
là lưu chuyển, chẳng trụ vào đâu cả, cũng
không chấp trước. Do Bồ Tát không chấp trước
nên đi trong các thế giới một cách tự tại vô
ngại như gió thổi trên không.
“Pháp âm lôi chấn” (Pháp âm sấm rền):
Kinh nói: “Phật ngữ phạm
lôi chấn”. Tiếng sấm rền vang xa, rúng động
thế gian nên được ví với pháp âm có khả
năng giác ngộ quần mê. “Giác
vị giác” (giác ngộ kẻ chưa giác) là khiến cho
phàm phu chưa giác ngộ được tỉnh giác.
“Vũ cam lộ pháp” (Mưa pháp cam lộ):
Dùng cam lộ ví cho giáo pháp của đức Phật. Cam lộ
có thể làm cho con người cải tử hoàn sanh. Giáo
pháp của đức Phật khiến ta vĩnh viễn dứt
khỏi sanh tử, đắc đại Niết Bàn; v́ vậy
gọi là pháp cam lộ. “Vũ”
(雨) giống như trời tuôn mưa nhuần
thấm cả ba căn, nên kinh mới nói: “Nhuận chúng sanh” (Nhuần thấm chúng sanh). Kinh
Pháp Hoa có câu: “Ngă vi Thế Tôn,
vô năng cập giả, an ổn chúng sanh, cố hiện
thế gian. Vị đại chúng thuyết cam lộ tịnh
pháp. Kỳ pháp nhất vị, giải thoát Niết Bàn” (Ta làm Thế Tôn, không ai có thể
bằng nổi. V́ an ổn chúng sanh nên hiện trong đời.
V́ đại chúng nói tịnh pháp cam lộ. Pháp ấy một
vị giải thoát Niết Bàn).
Phật Địa Luận cũng ghi: “[So] với các pháp thế gian tà kiến, kém cỏi của
các ngoại đạo, giáo pháp của Như Lai là chân thật
nhất, thù thắng, thanh tịnh giống như đề-hồ,
cũng giống như cam lộ, khiến cho [chúng sanh] đắc Niết Bàn”.
Những lời kinh, luận vừa được dẫn
trên đă tỏ rơ ư “vũ cam lộ
pháp, nhuận chúng sanh cố” (mưa pháp cam lộ v́ nhuần
thấm chúng sanh).
“Khoáng nhược hư
không, đại từ đẳng cố” (Rộng như
hư không v́ đại từ b́nh đẳng): Dùng hư
không để sánh ví ḷng đại từ b́nh đẳng của
Bồ Tát. Như hư không quả thật là bao la không bờ
mé nên bảo là “khoáng” (曠: rộng răi).
Dùng hư không để ví tâm Từ mênh mông. Hư không chẳng
vướng mắc như bản Ngụy dịch ghi: “Khoáng như hư không, ư nhất
thiết hữu, vô hữu trước cố” (Ví như
hư không, đối với hết thảy cơi chẳng có
chấp trước). Sách Hành Sự Sao Tư Tŕ Kư viết:
“Không chấp trước ǵ v́
ĺa trần nhiễm”. Do vậy, kinh dùng ngay tánh chất
không vướng mắc của hư không để biểu
thị tánh b́nh đẳng của tâm Từ.
“Như tịnh liên hoa” (Như hoa sen sạch):
Hoa sen mọc lên từ bùn nhơ, nhưng chẳng bị
nhiễm bẩn. [Dùng h́nh ảnh] hoa sen mọc trong bùn để
biểu thị ư chẳng bỏ chúng sanh. Hoa sen vượt
lên mặt nước rồi mới nở hoa, ví như Bồ
Tát ly cấu thanh tịnh nên kinh bảo: “Ly nhiễm ô cố” (V́ ĺa nhiễm ô).
“Như Ni Câu thụ” (Như cây Ni Câu): Ni Câu (Nigrodha)
là tiếng Phạn, là tên một loài cây. Trung Hoa không có loại
cây này, thường dịch là Vô Tiết Thụ (cây không có đốt),
Tung Quảng thụ (cây to rộng).
Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa, quyển mười lăm giảng:
“Cây này thẳng thớm, không có
mấu đốt, tṛn trịa đáng yêu, mọc lên cao
đến hơn ba trượng
mới trổ cành lá. Hạt của nó bé xíu như hạt
cây liễu. Trung Hoa không có loại
cây này”.
Kinh Tội
Phước Báo Ứng lại bảo: “Ni Câu Đà thụ, cao nhị thập lư, chi bố
phân viên, phú lục thập lư. Kỳ thụ thượng tử
sổ vạn hộc” (Cây Ni Câu Đà cao hai mươi dặm, cành mọc phân bố
đều đặn xoay tṛn [quanh thân cây], bóng rợp đến
sáu mươi dặm. Cây này có hạt nhiều đến
vài muôn hộc). Kinh A Duy Việt Trí Già bảo: “Năng ấm ngũ bách xa” (Cây Ni Câu có thể tỏa bóng che rợp năm
trăm cỗ xe). V́ vậy, kinh mới bảo “phú ấm đại cố” (v́
tỏa bóng mát lớn lao). Dùng h́nh ảnh này để ví Bồ
Tát rộng làm bóng mát che chở hết thảy chúng sanh.
“Như kim cang xử”: Kim cang xử,
tiếng Phạn là Phạt Triết La (Vajra); nguyên là một
thứ binh khí của Ấn Độ. Mật tông dùng nó làm pháp
khí để biểu thị trí huệ kiên cố, bén nhạy.
Đại Nhật Kinh Sớ, quyển một chép: “Phạt-triết-la là kim cang trí ấn
của Như Lai”. Sách c̣n viết: “Ví như Đế Thích tay cầm kim cang phá quân Tu La, nay
các vị Chấp Kim Cang cũng giống như vậy”.
Sách Nhân Vương Kinh Tụng Niệm Nghi Quỹ, quyển
thượng cũng bảo: “Thủ
tŕ kim cang xử giả, biểu khởi chánh trí, do như
kim cang” (
Sách Chư Bộ Yếu Mục c̣n nói: “Chẳng cầm kim cang xử niệm tụng th́
không cách chi thành tựu. ‘Kim cang xử’ nghĩa là Bồ Đề
tâm, phá hoại cả hai thái cực Đoạn và Thường,
khế hợp Trung Đạo. Chính giữa kim cang xử là
mười sáu ṭa Bồ Tát
tượng trưng cho mười sáu thứ Không hợp
thành Trung Đạo. Mỗi đầu xử đều có năm
nhánh, biểu thị Ngũ Trí của Phật, đồng
thời biểu thị mười Ba La Mật phá tan mười
thứ phiền năo, thành tựu mười thứ Chân
Như, chứng ngay lên Thập
Địa”. Như vậy, kim cang xử là biểu tượng
của Kim Cang Chánh Trí, đẩy lui ma quân, đoạn phiền
năo, đắc thành tựu. Đấy chính là ư nghĩa “phá tà chấp” được
nói trong kinh đây. Ở đây, kinh dùng kim cang xử để
ví diệu trí Kim Cang Bát Nhă của các Bồ Tát phá trừ hết
thảy t́nh chấp bất chánh.
“Như Thiết Vy sơn” (như núi Thiết
Vy): Một tiểu thế giới lấy núi Tu Di làm trung
tâm, phía ngoài có tám núi, tám biển. Dăy núi ngoài cùng hết
được gọi là núi Thiết Vy (Cakravāda), hay c̣n gọi
là Kim Cang Vy sơn. Do sắt có tánh chất kiên cố nên gọi
là kim cang. Kim cang phá hoại hết thảy, nhưng không thứ
nào phá tan nổi nó. V́ vậy, kim cang được dùng
để ví đức tánh bất hoại, “chúng ma ngoại đạo” đều không phá hoại
được.
Về chữ “chúng ma”
xin xem lại lời giải thích chữ “phiền năo” trong phẩm mười một.
“Ngoại đạo” là những
đạo được thành lập không xuất phát từ
lời Phật dạy. Do thực hành những điều
không thuộc về chân lư tối cực nên đều gọi
là ngoại đạo.
Sách Tư Tŕ Kư nói: “Gọi
là ngoại đạo v́ chẳng nhận lấy sự giáo
hóa của Phật, riêng hành tà pháp”.
Bản sớ giải kinh Tịnh Danh của ngài Thiên
Thai ghi: “Hiểu sai lầm ra
ngoài giáo pháp th́ gọi là ngoại đạo”.
Sách Viên Giác Kinh Tập Chú c̣n nói: “Tâm hạnh không đúng với Lư nên gọi là ngoại
đạo”.
Sách Câu Xá Huyền Nghĩa lại bảo: “Học sai trái với Chân Lư, rong
ruổi theo vọng t́nh của ḿnh, chẳng biết xoay về
giác ngộ bề trong th́ gọi là ngoại đạo”.
Kinh Đại Trang Nghiêm Pháp Môn cũng nói: “Văn Thù Sư Lợi vấn Kim Sắc Nữ, thùy
thị ngoại đạo. Nữ ngôn: - Ư tha tà thuyết,
tùy thuận nhẫn thọ, thị danh ngoại đạo”
(Văn Thù Sư Lợi hỏi
Kim Sắc Nữ: ‘Ai là ngoại đạo?’ Cô ta bảo: -
Tùy thuận, nhẫn thọ tà thuyết của kẻ khác
th́ gọi là ngoại đạo).
Các kinh nói chẳng đồng nhất về số
lượng các ngoại đạo. Kinh Đại Nhật liệt
kê ba mươi thứ, kinh Niết Bàn lại bảo có chín
mươi lăm thứ. Kinh Hoa Nghiêm và Đại Trí Độ Luận
cùng bảo có chín mươi sáu thứ. Đấy là v́ kinh và luận
trên dùng quan điểm Đại Thừa bài xích Tiểu Thừa,
tức là: Trong chín mươi sáu thứ được có kể
cả Thanh Văn đạo. Bách Luận ghi: “Thuận theo đạo Thanh
Văn th́ đều là tà”. Thanh Văn tuy thuộc trong
chánh giáo của Như Lai, nhưng là quyền pháp nên cũng
bị tính gộp vào chín mươi lăm thứ ngoại
đạo thành ra có đến chín mươi sáu thứ.
Dùng kim cang xử để sánh ví trí huệ Bồ Tát kiên cố,
hết thảy ma tà, ngoại đạo chẳng thể
lay động nổi.
Chánh kinh:
其 心 正 直,善 巧 決 定;論 法 無 厭,求 法 不 倦;戒 若 琉 璃,內 外 明 潔;其 所 言 說,令 眾 悅 服。擊 法 鼓,建 法 幢,曜 慧 日,破 痴 闇。淳 淨 溫 和,寂 定 明 察。為 大 導 師,調 伏 自 他。引 導 羣 生,捨 諸 愛 著。永 離 三
垢,遊
戲
神
通。
Kỳ tâm chánh trực, thiện
xảo quyết định. Luận pháp vô yếm, cầu
pháp bất quyện. Giới nhược lưu ly, nội
ngoại minh khiết. Kỳ sở ngôn thuyết, linh chúng
duyệt phục. Kích pháp cổ, kiến pháp tràng, diệu
huệ nhật, phá si ám. Thuần tịnh ôn ḥa, tịch
định minh sát; vi đại đạo sư, điều
phục tự tha, dẫn đạo quần sanh, xả
chư ái trước. Vĩnh ly tam cấu, du hư thần
thông.
Tâm họ chánh
trực, thiện xảo quyết định, luận pháp
chẳng chán, cầu pháp chẳng nhọc. Giới tợ
lưu ly, trong ngoài sáng sạch. Lời lẽ nói ra khiến
mọi người vui vẻ, tin phục. Đánh trống pháp,
dựng pháp tràng, chói rực mặt trời trí huệ, phá
si ám. Thuần tịnh ôn ḥa, tịch định, minh sát; làm
đại đạo sư, điều phục cả ḿnh
lẫn người, dẫn dắt quần sanh bỏ các ái
trước. Vĩnh viễn ĺa khỏi ba cấu, du hư thần
thông.
Giải:
Phần trên, kinh đă dẫn các thí dụ để làm
sáng tỏ ư nghĩa. Phần này, kinh giảng rơ công đức
chân thật của các vị Bồ Tát cơi ấy. Đó là đức
tự giác, giác tha, hoằng pháp lợi sanh.
“Chánh trực”: Chánh (正) là chẳng tà,
Trực (直) là chẳng cong vạy. Kinh Tịnh
Danh dạy: “Trực tâm thị
đạo tràng” (Trực
tâm là đạo tràng).
Sách Văng Sanh Luận Chú ghi: “Chánh
trực là ngay thẳng. Do chánh trực nên sanh tâm thương
xót hết thảy chúng sanh”. Phẩm Phương Tiện
kinh Pháp Hoa cũng có câu: “Ư chư Bồ Tát trung, chánh
trực xả phương tiện, đản thuyết vô
thượng đạo” (Ở giữa các vị Bồ
Tát, chánh trực xả phương tiện, chỉ nói
đạo vô thượng). Sách Pháp Hoa Văn Cú giảng câu
trên như sau: “Ngũ thừa
c̣n cong quẹo nên chưa phải là Trực. Thông giáo, Biệt
giáo c̣n thiên lệch nên chẳng phải là Chánh. Nay bỏ cả
sự lệch lạc lẫn cong quẹo ấy, chỉ nói một đạo Nhất
Thừa chánh trực”.
Có nhiều cách hiểu “ngũ
thừa”, nhưng chữ “ngũ
thừa” được dùng trong sách Văn Cú có nghĩa
là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa
và Bồ Tát thừa.
Thông giáo, Biệt giáo là thiên lệch, cả năm thừa
Nhân, Thiên v.v… đều cong vẹo; cho nên nhất đạo
chánh trực chính là Nhất Thừa của Viên giáo.
V́ vậy, câu “kỳ tâm
chánh trực” (tâm họ chánh trực) hàm ư tâm các Bồ
Tát đă xa ĺa các giáo pháp lệch lạc, cong vạy, chỉ
thuần là Nhất Thừa viên pháp, như cỗ xe to lớn,
ngay ngắn, được trâu trắng kéo chạy vùn vụt
như gió.
Phật Địa Luận giảng chữ “thiện xảo” như sau: “Xứng thuận cơ nghi nên gọi là thiện xảo”.
Sách [Pháp Hoa] Văn Cú cũng bảo: “Hiển lộ thiện quyền phương tiện,
tỏ rơ phương tiện tinh vi”. Câu trên nói đến
đức giác tha, khéo quán căn cơ để dạy
pháp thích hợp, hành quyền phương tiện. Câu dưới
nói về tự giác: Khéo nhập quán hạnh đến mức
tinh vi. Tự giác như vậy nên mới có thể dùng
phương tiện giác ngộ người khác, tùy cơ ứng
duyên, nên kinh khen là “thiện xảo”.
Kinh Hoa Nghiêm có nói đến mười trí thiện xảo:
Trí thiện xảo hiểu rơ Phật pháp rất sâu, trí thiện
xảo xuất sanh Phật pháp rộng lớn, trí thiện
xảo tuyên nói các thứ Phật pháp, trí thiện xảo chứng
nhập Phật pháp b́nh đẳng, trí thiện xảo hiểu
rơ Phật pháp sai biệt, trí thiện xảo ngộ giải
Phật pháp không sai biệt, trí thiện xảo trang nghiêm Phật
pháp, trí thiện xảo một phương tiện nhập
Phật pháp, trí thiện xảo vô lượng phương
tiện nhập Phật pháp, trí thiện xảo vô biên Phật
pháp chẳng sai biệt.
Ta thấy rằng mười trí thiện xảo đều
vốn do đă thâm nhập quán hạnh một cách tinh vi, thấu
triệt tột cùng nguồn tâm, từ Căn Bản Trí hiện
thành Sai Biệt Trí nên có thể hiểu thấu các trí thiện
xảo: xuất sanh, ngôn thuyết, chứng nhập v.v…
“Quyết định” có nghĩa là việc
đă nhất định, không thay đổi nữa. Sách
Thắng Man Bảo Quật nói: “Quyết
định là tín”. Như vậy th́ “thiện xảo” là tùy cơ ứng duyên, “quyết định” là chân thật
bất biến. “Thiện xảo
quyết định” nghĩa là tùy duyên thiện xảo
nhưng thảy đều chân thật.
“Luận pháp vô yếm, cầu
pháp bất quyện” (Luận pháp chẳng
chán, cầu pháp chẳng nhọc): Câu trên nói về giác tha,
câu dưới nói đến tự giác.
Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Chuyên thích cầu pháp, tâm không chán đủ là
phương tiện tự lợi… Thường muốn rộng
nói, chí không mệt mỏi chính là lợi tha”.
Sách Hội Sớ lại bảo: “Bồ Tát cầu pháp là để lợi người,
đắc được pháp nào ắt giảng cho người
khác. V́ hết thảy chúng sanh [thuyết pháp] trải vô
lượng kiếp chẳng hề chán mỏi”.
“Giới nhược lưu ly”
(Giới tợ lưu ly): Giới
là giới luật, tức là môn đầu tiên trong ba vô lậu
học: Giới, Định, Huệ. Phụng tŕ giới luật
trong sạch, thanh khiết để tự trang nghiêm. Tŕ giới
khiết tịnh khác nào ngọc lưu ly. Kinh Phạm Vơng
nói: “Giới như minh nhật
nguyệt, diệc như anh lạc châu” (Giới như nhật, nguyệt
sáng, cũng như hạt châu trong chuỗi ngọc).
V́ vậy, kinh mới nói: “Giới
nhược lưu ly”.
“Nội ngoại minh khiết” (Trong ngoài sáng sạch): “Nội” là tâm ư, ư nghiệp thanh tịnh; khởi
tâm, động niệm thảy đều ĺa khỏi cấu
nhiễm. “Ngoại” là oai nghi đầy đủ, đó là
đức thể hiện ra bên ngoài. Trong, ngoài đều
thanh khiết nên nói ra điều ǵ cũng khiến cho
người nghe ḷng vui thích, kính phục thật sự. Do
đó, kinh nói: “Kỳ sở
ngôn thuyết, linh chúng duyệt phục” (Lời lẽ nói ra khiến mọi người
vui vẻ, tin phục).
Sách Hội Sớ giảng câu “kích pháp cổ, kiến pháp tràng, diệu
huệ nhật, phá si ám” (đánh trống
pháp, dựng pháp tràng, chói rực mặt trời trí huệ)
như sau: “Pháp âm vang dội
khác nào tiếng trống. Oai đức dẹp tà khác nào thắng
tràng[1].
Huệ nhật chiếu mê khác nào mặt trời sáng ngời”.
Ư nói: “Pháp cổ” (Trống pháp) là ví pháp âm của
Bồ Tát vang xa cảnh tỉnh mọi người.
Dùng “pháp tràng” để
ví oai đức của Bồ Tát dẹp tan tà ác như Gia
Tường Sớ viết: “Kiến
lập là dáng vẻ chiến thắng ví như thuyết
pháp hàng ma đắc thắng vậy”. Đem “huệ nhật” (mặt trời trí huệ) ví cho trí huệ
Bồ Tát chiếu phá si ám, lay tỉnh quần mê.
Tịnh Ảnh Sớ lại dùng ba huệ Văn, Tu,
Tư để giảng ba ví dụ này. Sớ viết: “Kích pháp cổ là Văn Huệ
pháp. Do tiếng trống vang xa nên nói là ‘kích pháp cổ’
(đánh trống pháp). ‘Kiến pháp tràng’ (dựng pháp tràng)
là Tư Huệ pháp. Thành lập nghĩa là ‘kiến’ (建: tạo dựng), nghĩa lư được tỏ
bày ra được gọi là Tràng (幢)” (Ư nói: Dựng
bày pháp nghĩa, rồi chỉ bày rơ ràng cho chúng sanh, th́ gọi
là ‘kiến pháp tràng’). “Diệu
huệ nhật’ (chiếu rực mặt trời trí huệ)
là trừ si ám. Đó chính là Tu Huệ pháp khai hóa chúng sanh”.
Si ám chính là Vô Minh Ám Hoặc (phiền năo). Kinh Hoa Nghiêm,
quyển hai nói: “Như Lai trí huệ
vô biên duyên, nhất thiết thế gian mạc năng trắc,
vĩnh diệt chúng sanh si ám tâm’ (Trí huệ của Như Lai là vô biên duyên, hết thảy
thế gian chẳng thể thấu đạt nổi. [Trí
huệ ấy] diệt trừ vĩnh viễn tâm si ám của
chúng sanh). Đó chính là ư nghĩa
của câu “phá si ám” trong kinh
này vậy.
“Thuần tịnh ôn ḥa”: “Thuần” (淳) là thuần nhất,
tốt đẹp. “Tịnh” (浄) là thanh khiết.
“Thuần tịnh” là nội
tâm trong lặng, ĺa cấu. Ôn (温) là tốt đẹp,
an ḥa. Ḥa (和) là b́nh ḥa. Như vậy, chữ
“ôn ḥa” diễn tả dáng vẻ,
phong cách ôn nhu, ḥa dịu, đẹp đẽ.
“Tịch định minh
sát”: Tịch định chính là Thật Tế lư thể, minh
sát (明 察) là công dụng
chiếu soi của trí huệ. Sách Tông Kính Lục viết: “Lấy nhất tâm làm tông, chiếu
vạn pháp như tấm gương”. Tịch định
có tánh chất như tấm gương, có công năng chiếu
soi như gương rành rành phân minh, chẳng bỏ sót mảy
may nên bảo là “minh sát”. “Tịch
định minh sát” chính là tịch mà thường chiếu
vậy.
Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ “đạo sư” trong câu “vi đại đạo sư” (làm đại
đạo sư) như sau: “Dùng
trí huệ để khai hóa người khác th́ gọi là
đại đạo sư”. Sách Hội Sớ bảo: “V́ kẻ lạc đường
mà chỉ ra con đường đúng nên gọi là đạo
sư”. Làm được như bậc đại sĩ
Phổ Hiền, mười đại nguyện
vương dẫn dắt về Cực Lạc, thật là
pháp tối cực viên đốn phổ lợi chúng sanh
trong cửu giới nên được gọi là đại
đạo sư.
“Điều phục
tự tha” (Điều phục
cả ḿnh lẫn người): Điều (調) là điều
ḥa, điều thuận, chế ngự cái tâm ḿnh; Phục
(伏) là hàng phục, chế phục, hàng phục
những tâm sai trái. Kinh Kim Cang chép: “Đương vân hà
trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?” (Nên trụ như thế
nào, nên hàng phục cái tâm như thế nào?) Ư của lời
hỏi ấy là hỏi về cách điều phục.
Nếu giảng rộng ra th́ khai hiển bổn tâm
chính là “điều”; hàng phục
tâm sai trái chính là “phục”. Hễ
làm bậc đại đạo sư th́ ắt phải
điều phục được tâm ḿnh lẫn tâm người
khác, tự thân nhập đạo th́ cũng khiến cho khắp
các chúng sanh nhập đạo; tự tâm đại giác th́
cũng khiến cho khắp các chúng sanh nhập giác đạo.
V́ thế, tiếp đó, kinh chép: “Dẫn đạo quần sanh, xả
chư ái trước” (Dẫn dắt
quần sanh, xả các ái trước). “Trước” (著) là chấp trước, nhiễm
trước. “Ái” (愛) là tham ái, hỷ
ái, ân ái. Cổ đức bảo: “Ái chẳng nặng, chẳng đọa Sa Bà”.
Chúng sanh nhiễm chấp khó xả, nhưng diệu đức
của Bồ Tát có thể khiến họ vĩnh viễn
ĺa được nhiễm chấp nên kinh bảo: “Vĩnh ly tam cấu” (Vĩnh
viễn ĺa khỏi ba cấu - ba cấu là tham, sân, si).
Bồ Tát lại có thể khiến cho chúng sanh du hư trong
thần thông. “Du” (遊) là thông suốt
như nước chảy, “hư” (戲) là an vui, nhàn hạ. Như vậy, “du hư” nghĩa là tùy ư sử dụng
thần thông một cách tự tại vô ngại nên mới
nói là “du hư thần thông”.
Ư của toàn bộ đoạn kinh này là:
- Bồ Tát nhất tâm chánh trực, an trụ trong pháp Nhất
Thừa, lại có đầy đủ phương tiện
thiện xảo, siêng gắng cầu pháp, lại c̣n giảng
rộng cho khắp mọi người không biết chán
nhàm. Bồ Tát giới đức thanh tịnh nên nói năng
ǵ cũng khiến cho người nghe vui ḷng, tin phục. Đấy
chính là đánh trống pháp, giương cao tràng pháp, phóng ánh
sáng trí huệ lớn lao, phổ biến rộng răi diệu
pháp, phá trừ vô minh si ám của chúng sanh.
- Bồ Tát nội tâm thuần tịnh; dáng vẻ, phong
cách ôn ḥa, không chỉ nội tâm thanh tịnh mà c̣n thể hiện
ra ngoài, trong ngoài như một. Bồ Tát “tịch định minh sát”, Định lẫn Huệ
đều quân b́nh, tịch chiếu đồng thời. V́
thế, các Ngài làm đại đạo sư cho chúng sanh, tự
giác, giác tha, khiến khắp chúng sanh thảy đều trừ
ác sanh thiện, thuận theo Phật pháp, hàng phục tâm sai
quấy, xả các chấp trước ái kiến, vĩnh
viễn dứt ba độc, khai hiển bản tánh, an trụ
thần thông tự tại vô ngại.
Chánh kinh:
因 緣 願 力,出 生 善 根。摧 伏 一 切 魔 軍,尊 重 奉 事 諸 佛。為 世 明 燈,最 勝 福 田,殊 勝 吉 祥, 堪 受 供 養。赫 奕 歡 喜,雄 猛 無 畏。身 色 相 好,功 德 辯 才,具 足 莊 嚴,無 與 等 者。
Nhân duyên
nguyện lực, xuất sanh thiện căn, tồi phục
nhất thiết ma quân, tôn trọng phụng sự chư
Phật. Vi thế
minh đăng, tối thắng phước điền,
thù thắng cát tường, kham thọ cúng dường.
Hách dịch hoan hỷ, hùng mănh vô úy . Thân sắc tướng
hảo, công đức biện tài, cụ túc trang nghiêm, vô dữ
đẳng giả.
Nhân duyên nguyện
lực xuất sanh thiện căn, dẹp tan hết thảy
ma quân, tôn trọng, thừa sự chư Phật. Làm đèn
sáng soi thế gian, [làm] phước điền tối thắng,
cát tường thù thắng, đáng được cúng
dường. Rạng rỡ, hoan hỷ, hùng mănh, vô úy. Thân sắc,
tướng hảo, công đức biện tài đầy
đủ không ai bằng nổi.
Giải:
Đoạn kinh này giảng rộng về công đức
chân thật của Bồ Tát.
Chữ “nhân duyên”
được bản Ngụy dịch ghi là “nhân lực, duyên lực”.
Ngài Tịnh Ảnh giảng: “Nhân
lực, duyên lực là môn thứ nhất để dựa
vào đó mà khởi tu. Hết thảy hạnh lành đă tu
trong quá khứ sanh ra điều lành trong hiện tại th́
gọi là ‘nhân lực’. Gần
thiện tri thức, lắng nghe chánh pháp là duyên lực”.
Ngài Vọng Tây bảo: “Căn
lành từ những đời trước gọi là nhân lực.
Thân cận thiện tri thức là duyên lực. Do nhân duyên ḥa hợp nên có thể
khởi hạnh”.
Hai thuyết trên tương đồng, nhưng sách Hội
Sớ lại giảng hơi khác. Sách viết: “Nhân lực là Bồ Đề tâm,
đây chính là cái nhân gốc của Phật đạo, xuyên
suốt thập phương tam thế khiến cho chúng ma
kinh hăi lớn lao. Duyên lực là rộng cầu tri thức,
những điều lành của đại chúng. Duyên này có
đại oai lực chuyển
phàm nhập thánh”.
Xét về văn tự, thuyết này khác với hai thuyết
trên, nhưng thật chẳng mâu thuẫn nhau! Ngài Tịnh Ảnh
lấy điều lành từ quá khứ làm cái nhân cho hiện
tại; sách Hội Sớ coi cái tâm Bồ Đề hiện tại
là cái nhân để thành Phật. Thật ra, nếu chẳng
có hạnh lành trong nhiều kiếp quá khứ th́ chẳng
thể phát khởi nổi cái tâm Bồ Đề trong hiện
tại. Nếu chẳng thể phát khởi nổi tâm Bồ
Đề th́ không có cái nhân thành Phật!
Như vậy, hai thuyết trên chỉ bổ sung lẫn
nhau; nhưng trong hai thuyết trên, thuyết của sách Hội
Sớ gần với ư chỉ kinh này hơn v́ phát Bồ Đề
tâm, một bề chuyên niệm chính là tông chỉ của
kinh này.
Tịnh Ảnh Sớ giảng “nguyện lực” như sau: “Nguyện để khởi hạnh th́ gọi là nguyện
lực”. Ngài Vọng Tây bảo: “Cầu Bồ Đề Tâm là nguyện lực”. Sách Hội
Sớ lại bảo: “Nguyện
lực là Tứ Hoằng Thệ Nguyện để nghiêm tịnh
cơi nước Phật, thành tựu chúng sanh”.
Tổng hợp cả ba thuyết trên th́ dùng Tứ Hoằng
Thệ Nguyện để trang nghiêm cơi nước, thành tựu
chúng sanh, mong cầu tâm Bồ Đề ḿnh sẵn có, tất cả
đều là từ nguyện khởi hạnh nên gọi là
nguyện lực. Có nguyện mà không hạnh th́ chỉ là
nguyện suông nên chẳng có công lực.
Nhân duyên ḥa hợp như vậy, lại đầy
đủ nguyện lực nên tự nhiên “xuất sanh thiện căn”. Ngài La Thập giảng
chữ “thiện căn”
như sau: “Tâm lành kiên cố sâu
chẳng thể nhổ trốc được nên gọi
là Căn”. Tỳ Bà Sa Luận cũng bảo: “Thiện căn là chẳng tham,
chẳng sân, chẳng si. Hết thảy thiện pháp đều
từ ba điều ấy mà sanh”. V́ vậy, điều
lành sanh ra diệu quả, lại c̣n sanh ra các điều
thiện khác nên gọi là “thiện
căn”.
Sách Di Đà Yếu Giải nói: “Bồ
Đề chánh đạo gọi là thiện căn, tức là
cái nhân gần”. Bồ Đề chánh đạo chính là phát Bồ
Đề tâm, một dạ chuyên niệm. Đấy chính là cái nhân
gần để thành tựu Bồ Đề.
Nhân (因) có nghĩa là hạt giống, ư
nói: Phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm là hạt
giống để thành tựu quả Bồ Đề nên gọi
là “thiện căn”. Kinh Đại
Bi cũng dạy: “Nhất
xưng Phật danh, dĩ thị thiện căn, nhập
Niết Bàn giới, bất khả tư nghị” (Một phen xưng danh hiệu Phật,
dùng thiện căn ấy để nhập Niết Bàn giới
chẳng thể cùng tận). Ta thấy rơ thiện
căn chính là cái nhân gần. Từ nhân được quả,
quả có đầy đủ chủng tử nên lại trở
thành cái nhân thù thắng. Cứ xoay vần như thế nên
thiện căn vô tận. Do đó, Bồ Tát có đầy
đủ những diệu đức như sẽ
được nói sau đây:
- “Tồi phục nhất thiết
ma quân” (Dẹp tan hết
thảy ma quân): “Tồi phục”
là phá trừ và hàng phục. Xin xem lại lời giải
thích về chữ “Ma” ở
phần trước. Trí Độ Luận lại bảo: “Đoạt huệ mạng, phá hoại
gốc lành đạo pháp công đức nên gọi là Ma”.
Loại quỷ thần này có đại thần lực, có
khả năng gây chướng nạn cho người tu
pháp xuất thế. Quân lính của ma được gọi
chung là ma quân.
- “Tôn trọng, phụng sự
chư Phật”: Trong phẩm bốn mươi mốt của
kinh này có nói kẻ văng sanh về biên địa “ư liên hoa trung, bất đắc
xuất hiện” (ở
trong hoa sen chẳng được xuất hiện), “ư ngũ bách tuế trung, bất
kiến Tam Bảo, bất đắc cúng dường phụng
sự chư Phật” (trong
năm trăm năm, chẳng thấy Tam Bảo, chẳng
được cúng dường, phụng sự chư Phật).
V́ vậy, chẳng thể do chút thiện căn, phước
đức, nhân duyên mà được thấy Phật và phụng
sự chư Phật. Nay các vị Bồ Tát được
phụng sự chư Phật chính là do có nhiều thiện
căn, phước đức, nhân duyên.
“Vi thế minh đăng” (Làm đèn sáng
soi thế gian): Trí huệ của Bồ Tát được
ví như đèn sáng, chiếu tan sự tăm tối của
chúng sanh, khiến cho chúng sanh khai giải chánh đạo. Tịnh
Ảnh Sớ giảng: “Tự
đủ trí huệ, lại làm cho chúng sanh giải ngộ,
nên gọi là ‘thế gian minh”. Do tự đủ trí huệ
nên như đèn sáng. Ánh đèn tỏa sáng hiện rơ các sắc
ví như trí huệ khiến cho chúng sanh khai phát tín giải.
Do vậy, kinh bảo: “Vi thế
minh đăng” (Làm đèn
sáng soi thế gian).
Sách Hội Sớ lại giảng: “Soi tỏ thế gian mê ám nên bảo là đèn soi sáng
thế gian”. Ư nói: Bồ Tát chiếu tan sự si ám và hôn
mê của thế gian nên giống như đèn sáng vậy.
“Phước điền”: Điền (田) là mảnh ruộng,
hàm nghĩa sanh trưởng. Tạo phước nơi bậc
đức hạnh đầy đủ th́ sẽ
được phước báo. Gieo phước th́
được quả phước, do đó, gọi là gieo
trồng phước điền. Bậc đáng nên cúng dường
được gọi là “phước điền”. Sách Thám
Huyền Kư nói: “Sanh phước
cho ta nên gọi là phước điền”. Theo kinh
Ưu Bà Tắc Giới, có ba thứ phước điền:
1. Báo ân phước điền tức là cha mẹ,
sư trưởng.
2. Công đức phước điền là Phật,
Pháp, Tăng Tam Bảo.
3. Bần cùng phước điền là những hạng
người bần cùng, khốn khổ.
Cúng dường ba hạng trên đều có thể sanh
phước nên gọi là phước điền.
Chữ “tối thắng
phước điền” (phước điền tối
thắng) trong kinh này hàm ư:
Trong các thứ phước điền, các Bồ Tát là thù
thắng nhất. Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Có thể phát sanh điều lành
cho chúng sanh nên gọi là phước điền tối thắng”.
Do có thể khiến cho chúng sanh xuất sanh thiện căn
nên gọi là phước điền tối thắng, v́ từ
thiện căn lại sanh ra vô lượng các quả
phước và nhân lành.
Hai câu “vi thế minh
đăng, tối thắng phước điền” (làm
đèn sáng soi thế gian, làm phước điền tối
thắng) nên đọc liền một mạch với hai
câu “thù thắng cát tường,
kham thọ cúng dường” (cát tường thù thắng,
đáng được cúng dường) ở phần sau
th́ dễ thấy trọn ư nghĩa.
“Cát tường thù thắng” chính là ư nghĩa
sâu xa trong thánh hiệu của Văn Thù đại sĩ.
Văn Thù tức là Văn Thù Sư Lợi. Chữ Văn
Thù (Manju) có thể dịch là Thắng, Diệu, Đệ Nhất;
chữ Sư Lợi (Shri) có thể dịch là Đức, Cát
Tường v.v… Kinh Đại Nhật gọi ngài Văn Thù là
Diệu Cát Tường.
Văn Thù biểu trưng Căn Bản Trí. Ngài là thầy
của bảy đức Phật nên Văn Thù tốt lành
nhất. Nay các hàng Bồ Tát cơi Cực Lạc có đầy
đủ trí đức của Văn Thù đại sĩ,
thấy tự tánh rơ ràng nên họ là phước điền
tối thắng, nhận lănh nổi sự cúng dường
của hết thảy trời người. Trong từ ngữ
“hách dịch”, hách (赫) là sáng, dịch (奕) đông nhiều.
Đối với chữ “hùng mănh”,
phẩm Thọ Kư kinh Pháp Hoa cũng có câu: “Đại hùng mănh Thế Tôn”. Thế Tôn đoạn
sạch hết thảy phiền năo, đại hùng chẳng
khiếp nhược, dũng mănh, tinh tấn nên được
gọi là “hùng mănh”. Tịnh Ảnh
Sớ giảng: “Trong thế
gian, Phật là hùng mănh nhất”.
“Vô úy” là đức
tánh ở giữa đại chúng thuyết pháp không hề
hăi sợ, kinh khiếp. Sách Đại Thừa Nghĩa
Chương lại bảo: “Tâm
giáo hóa chẳng khiếp nên gọi là vô úy”. Đối với
việc hóa độ chúng sanh chẳng hề có tâm khiếp
hèn nên bảo là vô úy.
“Tướng hảo” là ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi tùy h́nh hảo.
Như vậy, chữ “hách
dịch” diễn tả oai quang của Bồ Tát chói ngời,
chữ “hoan hỷ” diễn
tả nội tâm tự tại, h́nh dung vui vẻ, an ḥa. Chữ
“hùng mănh vô úy” diễn tả
thật đức của Bồ Tát: dũng mănh, tinh tấn,
thuyết pháp vô úy; đồng thời mô tả phong thái, oai
thần khôn sánh: đại hùng chẳng khiếp nhược.
Chữ “tướng hảo” chuyên
chỉ thân sắc.
Tiếp đó, kinh nói: “Công
đức biện tài” ngụ ư: Bồ Tát có đầy
đủ các công đức khác và có đủ các thứ biện
tài vô ngại. Chữ “cụ
túc trang nghiêm” (đầy đủ trang nghiêm) chính là câu
tổng tán nhằm kết lại những lời khen ngợi
ở phần trên: Như Lai dùng phước đức, trí
huệ trang nghiêm thân ḿnh. Các hàng Bồ Tát này có đầy
đủ phước trí trang nghiêm, vượt xa hết
thảy thế gian. Đoạn kinh này cực lực tán
dương công đức chân thật của Bồ Tát, thật
là hy hữu.
Chánh kinh:
常 為 諸 佛 所 共 稱 讚。究 竟 菩 薩 諸 波 羅 密,而 常 安 住 不 生 不 滅 諸 三 摩 地。行 徧 道 場,遠 二 乘 境。阿 難,我 今 略 說 彼 極 樂 界,所 生 菩 薩,真 實 功 德,悉 皆 如 是。若 廣 說 者,百 千 萬 劫 不 能 窮 盡。
Thường
vị chư Phật sở cộng xưng tán, cứu cánh
Bồ Tát chư Ba La Mật, nhi thường an trụ bất
sanh bất diệt chư tam-ma-địa, hạnh biến
đạo tràng, viễn nhị thừa cảnh. A
Thường
được chư Phật cùng khen ngợi, rốt ráo
các Bồ Tát Ba La Mật, nhưng thường an trụ
trong các tam-ma-địa bất sanh bất diệt. Hạnh
khắp đạo tràng, xa ĺa cảnh Nhị Thừa. A
Giải:
Đây là ư chính thứ ba: Chư Phật cùng khen ngợi
để chứng minh, chư Phật đồng thanh ca ngợi
tỏ rơ đại sĩ đức hạnh rất sâu.
Chữ “bất sanh bất
diệt” trong câu “cứu
cánh Bồ Tát chư Ba La Mật, nhi thường an trụ
bất sanh bất diệt chư tam-ma-địa” (rốt ráo các Bồ Tát Ba La Mật nhưng
thường an trụ trong các tam-ma-địa bất sanh bất
diệt) nên hiểu như kinh Đại Niết Bàn đă dạy:
“Niết ngôn bất sanh, Bàn ngôn
bất diệt. Bất sanh bất diệt, danh Đại
Niết Bàn” (Niết là bất
sanh, Bàn là bất diệt. Bất sanh bất diệt th́ gọi
là Đại Niết Bàn). Kinh Duy Ma cũng dạy: “Pháp bổn bất sanh, kim tắc
vô diệt” (Pháp vốn chẳng
sanh, nên nay chẳng diệt).
Tiểu Thừa dựa vào lư Hữu Dư Niết Bàn
để quán bất sanh bất diệt nên nghiêng về
Thiên Không. Đại Thừa từ Không nhập Giả nên ngay
từ sự tướng hữu vi mà hiển thị lẽ
bất sanh bất diệt; ngay nơi tướng chính là
đạo, ngay nơi sự chính là chân. V́ vậy nên có thể
suốt ngày độ sanh mà suốt ngày chẳng độ,
suốt ngày tiếp xúc vạn duyên mà nhất tâm không tịch,
lại có thể thực hành rốt ráo cả sáu độ:
bố thí, nhẫn nhục… mà vẫn an trụ trong các tam-muội
bất sanh bất diệt, chẳng đánh mất định
ư.
“Hạnh biến đạo
tràng” (hạnh khắp
đạo tràng) là đối với những chánh hạnh
đạo tràng không chút khuyết thiếu.
“Viễn Nhị Thừa cảnh”
(xa ĺa cảnh Nhị Thừa) là chỉ
nương theo một pháp Nhất Thừa, rốt ráo đạt
tới bờ kia. Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận cũng
bảo: “Nếu đắm
trong [cảnh giới của] địa vị Thanh Văn
và địa vị Bích Chi Phật th́ gọi là Bồ Tát chết,
là mất hết thảy lợi. Dù đọa vào địa
ngục cũng chẳng sợ hăi đến thế. Nếu
sa vào địa vị Nhị Thừa th́ là điều sợ
hăi lớn”. V́ vậy, Bồ Tát “viễn Nhị Thừa cảnh”.
Từ chữ “A
[1] Tràng (幢) là một
loại cờ hiệu, có h́nh ống dài, chung quanh có kết
tua, thường được treo lên cao để báo hiệu,
loại dẹp gọi là phan (幡). Ở Ấn
Độ thời cổ, khi đánh trận chiến thắng
vua chúa hay cho dựng tràng màu sắc rực rỡ, trên treo
các thứ bảo vật gọi là “thắng tràng”.