28. Đại Sĩ thần quang (大 士 神 光)
Phẩm này nói về thần thông, quang minh của các bậc
Đại Sĩ cơi Cực Lạc. Trong các thánh chúng, đặc
biệt nêu rơ Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ
Tát là cao tột bậc nhất. Oai thần, quang minh, công
đức lợi sanh của hai vị đều vượt
xa các bậc thánh khác.
Chánh kinh:
佛 告 阿 難:彼 佛 國 中 諸 菩 薩 眾,悉 皆 洞 視 徹 聽 八 方 上 下、去 來 現 在 之 事。諸 天 人 民,以 及 蜎 飛 蠕 動 之 類,心 意 善 惡,口 所 欲 言,何 時 度 脫,得 道 往 生,皆 豫 知 之。
Phật cáo A
- Bỉ Phật quốc trung chư Bồ Tát chúng, tất giai đỗng
thị, triệt thính bát phương, thượng hạ,
khứ lai hiện tại chi sự. Chư thiên nhân dân,
dĩ cập quyên phi nhuyễn động chi loại, tâm ư
thiện ác, khẩu sở dục ngôn, hà thời độ
thoát, đắc đạo văng sanh, giai dự tri chi.
Phật bảo
A
- Các vị
Bồ Tát trong cơi Phật ấy thảy đều nh́n suốt,
nghe thấu các việc trong tám phương, trên, dưới,
trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Tâm ư thiện ác của
chư thiên nhân dân và các loài ngọ nguậy, ḅ trườn,
miệng [họ] muốn nói ǵ, khi nào [họ] sẽ
được độ thoát đắc đạo, văng
sanh [th́ các vị Bồ Tát ấy] đều biết
trước cả.
Giải:
“Đỗng thị” (nh́n thông suốt)
là Thiên Nhăn Thông. “Triệt thính” (nghe
thấu suốt) là Thiên Nhĩ Thông. “Tâm ư thiện ác, khẩu sở
dục ngôn” (Tâm ư thiện
ác, miệng muốn nói ǵ) đều biết được
cả là Tha Tâm Thông. Biết hết việc trong quá khứ
là Túc Mạng Thông; biết việc trong hiện tại, vị
lai cũng thuộc về Thiên Nhăn Thông. Do thần thông này có
thể biết hết, hiểu rơ các việc chết
đây sanh kia trong lục đạo một cách vô ngại.
Như vậy, đoạn kinh này nói đến các thần
thông của Bồ Tát cơi ấy.
Chánh kinh:
又 彼 佛 剎 諸 聲 聞 眾,身 光 一 尋,菩 薩 光 明,照 百 由 旬。有 二 菩 薩,最 尊 第 一,威 神 光 明,普 照 三 千 大 千 世 界。阿 難 白 佛:彼 二 菩 薩,其 號 云 何?佛 言:一 名 觀 世 音,一 名 大 勢 至。
Hựu bỉ
Phật sát chư Thanh Văn chúng, thân
quang nhất tầm, Bồ Tát quang minh chiếu bách do-tuần.
Hữu nhị Bồ Tát, tối
tôn đệ nhất, oai thần quang minh, phổ chiếu
tam thiên đại thiên thế giới.
A
Phật ngôn: - Nhất danh Quán
Thế Âm, nhất danh Đại Thế Chí.
Các hàng Thanh
Văn trong cơi Phật ấy thân quang chiếu xa một tầm.
Quang minh của Bồ Tát chiếu trăm do-tuần. Có hai vị
Bồ Tát tôn quư bậc nhất, oai thần, quang minh chiếu
khắp tam thiên đại thiên thế giới.
A
Phật dạy:
- Một vị tên là Quán Thế Âm, vị kia tên Đại Thế
Chí”.
Giải:
Thánh chúng có đảnh quang và thân quang; quang minh tỏa
ra từ nơi thân th́ gọi là “thân
quang”.
“Tầm” (尋) là đơn vị
đo chiều dài, tám thước là một “tầm”. Đàm
Loan đại sư lại bảo: “Người thôn quê chẳng cần biết dài, ngắn,
rộng, hẹp thế nào, cứ gọi khoảng cách giữa
hai cánh tay giang thẳng ra là một Tầm”.
Thân quang của Thanh Văn chỉ chiếu xa tám thước
(thước cổ Trung Hoa, chừng 0.33 cm), thân quang Bồ
Tát chiếu xa mấy ngàn dặm[1].
Oai thần, quang minh của hết thảy các Bồ Tát
trong cơi Cực Lạc đều thù thắng, nhưng riêng
có hai vị thượng thủ là cao quư bậc nhất
trong hết thảy mọi người. Một vị tên
là Quán Thế Âm, một vị tên là Đại Thế Chí. Quang
minh, oai thần của hai Ngài chiếu trọn tam thiên đại
thiên thế giới.
“Quán Thế Âm Bồ Tát” c̣n được
gọi là Quán Tự Tại. Hiểu đại khái, vị
Bồ Tát ấy xem thấy người đời xưng
niệm danh hiệu của Ngài th́ rủ ḷng từ bi cứu
độ, nên hiệu là Quán Thế Âm. Quán khắp pháp giới,
tùy theo cơ duyên từng người mà tự tại dẹp
khổ, ban vui, nên hiệu là Quán Tự Tại.
Hiểu cao hơn th́ như sách Tâm Kinh Lược Sớ
của ngài Pháp Tạng giảng: “Quán
xét thông đạt cảnh Sự Lư vô ngại nên đặt
tên như vậy (Quán Tự Tại). Lại do Ngài tùy theo cơ duyên mà đến cứu, tự
tại chẳng bỏ sót nên có tên như vậy (Quán Thế
Âm). Cách giải thích thứ nhất
là nói về Trí, cách giải thích thứ hai là nói về Bi”.
Vị đại Bồ Tát này cùng với Đại Thế
Chí Bồ Tát đứng hầu hai bên Phật Di Đà, giúp Phật
giáo hóa, thường gọi là Tây Phương Tam Thánh.
Hiển Giáo coi Đại Sĩ là đệ tử của
A Di Đà Phật, Mật Giáo coi Ngài là hóa thân của A Di Đà Phật.
Lại nữa, Quán Âm Đại Sĩ vốn chính là Chánh
Pháp Minh Như Lai như kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Đại Bi
Tâm Vô Ngại Đà Ra Ni dạy: “Quán
Thế Âm Bồ Tát bất khả tư nghị oai thần
chi lực, dĩ ư quá khứ vô lượng kiếp
trung, dĩ tác Phật cánh, hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai,
đại bi nguyện lực, vị dục phát khởi nhất
thiết Bồ Tát, an lạc thành thục chư chúng sanh cố,
hiện tác Bồ Tát” (Quán
Thế Âm Bồ Tát, sức oai thần chẳng thể
nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về quá khứ,
đă từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai.
Do đại bi nguyện lực, v́ muốn phát khởi hết
thảy Bồ Tát, v́ để an lạc thành thục các
chúng sanh, nên hiện làm Bồ Tát).
Kinh Quán Âm Tam Muội cũng nói: “Quán Âm tại ngă tiền tác Phật, danh Chánh Pháp Minh
Như Lai, ngă vi khổ hạnh đệ tử” (Quán Âm thành Phật trước
ta, tên là Chánh Pháp Minh Như Lai, ta là đệ tử khổ
hạnh của Ngài). “Ta” ở đây là Thích Ca Như Lai.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng nói: Quán Thế Âm Bồ
Tát trong vô lượng kiếp trước ở nơi
đức cổ Phật Quán Âm Như Lai thọ pháp Như
Huyễn Văn Huân Văn Tu Kim Cang tam-muội. Từ
Văn, Tư, Tu nhập tam-ma-địa, xoay trở lại
nghe chính nơi tự tánh, đắc Vô Thượng Đạo.
Quán kinh bảo trong viên quang trên đảnh của Đại
Sĩ có “hữu ngũ bách hóa
Phật như Thích Ca Mâu Ni, nhất nhất hóa Phật, hữu
ngũ bách hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên dĩ vi
thị giả” (Năm
trăm hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni Phật, mỗi một
vị hóa Phật có năm trăm hóa Bồ Tát. Vô lượng
chư thiên làm thị giả) và “mi gian hào tướng, bị thất bảo sắc,
lưu xuất bát vạn tứ thiên chủng quang minh, nhất
nhất quang minh hữu vô lượng vô số bách thiên hóa
Phật. Nhất nhất hóa Phật, vô số hóa Bồ Tát
dĩ vi thị giả” (tướng
bạch hào giữa hai mày trọn đủ màu thất bảo,
tỏa ra tám vạn bốn ngàn thứ quang minh. Mỗi một
quang minh có vô lượng vô số trăm ngàn hóa Phật. Mỗi
một hóa Phật có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả).
“Đại Thế Chí Bồ
Tát”: Bồ Tát đại trí, đại thế lực có
thể đến hết thảy chỗ nên hiệu là Đại
Thế Chí. Theo kinh Lăng Nghiêm, Đại Sĩ “dĩ niệm Phật tâm, nhập
Vô Sanh Nhẫn... bất giả phương tiện, tự
đắc tâm khai.... Kim ư thử giới, nhiếp niệm
Phật nhân, quy ư Tịnh Độ” (dùng tâm niệm Phật nhập
Vô Sanh Nhẫn… chẳng nhọc phương tiện tự
được tâm khai… Nay ở trong cơi này (Sa Bà) nhiếp
người niệm Phật quy về Tịnh Độ).
Ngài cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát là hai vị hiếp
sĩ[2]
của Phật Di Đà.
Quán kinh nói: “Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất
thiết, linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực.
Thị cố, hiệu thử Bồ Tát vi Đại Thế
Chí” (Dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp hết thảy
khiến họ ĺa tam đồ, đắc vô thượng
lực. V́ vậy, vị Bồ Tát ấy hiệu là Đại
Thế Chí).
Kinh Bi Hoa nói: “Do nhữ nguyện
thủ đại thiên thế giới cố, kim tự nhữ
Đại Thế Chí” (Do
ông nguyện giữ lấy tam thiên đại thiên thế
giới nên nay ta đặt tên ông là Đại Thế Chí).
Kinh Tư Ích cũng nói: “Ngă đầu
túc chi xứ, chấn động tam thiên đại thiên thế
giới cập ma cung điện. Cố danh Đại Thế
Chí” (Nơi ta (Đại Thế
Chí Bồ Tát) đặt chân xuống liền chấn động
tam thiên đại thiên thế giới và cung điện ma
nên có tên là Đại Thế Chí).
Quán kinh lại bảo: “Thử Bồ Tát hành thời,
thập phương thế giới nhất thiết chấn
động, đương địa động thời,
hữu ngũ bách ức bảo hoa, nhất nhất bảo
hoa, trang nghiêm cao hiển, như Cực Lạc thế giới”
(Vị Bồ Tát ấy lúc
đi mười phương thế giới hết thảy
chấn động. Ngay trong lúc cơi đất rung động
có năm trăm ức hoa báu, mỗi một hoa báu trang
nghiêm, cao, rạng như Cực Lạc thế giới).
V́ thế, Đại Nhật Kinh Sớ, quyển năm,
chép: “Giống như quốc
vương, đại thần trong đời oai thế tự
tại nên Ngài tên là Đại Thế Chí. Vị thánh giả ấy
(Đại Thế Chí Bồ Tát) đă
đạt được địa vị đại bi tự
tại đến như thế nên có tên như vậy”.
Quán kinh c̣n bảo: “Ư nhục kế thượng
hữu nhất bảo b́nh, thịnh chư quang minh, phổ
hiện Phật sự. Dư chư thân tướng,
như Quán Thế Âm, đẳng vô hữu dị” (Trên nhục
kế của Đại Sĩ có một cái b́nh báu, chứa
đầy các quang minh, hiện khắp các Phật sự.
Các thân tướng khác đều giống hệt như
Quán Thế Âm không chút sai khác).
Chánh kinh:
此 二 菩 薩,於 娑 婆 界,修 菩 薩 行,往 生 彼 國。常 在 阿 彌 陀 佛 左 右。欲 至 十 方 無 量 佛 所,隨 心 則 到。現 居 此 界,作 大 利 樂。世 間 善 男 子、善 女 人,若 有 急 難 恐 怖,但 自 歸 命 觀 世 音 菩 薩,無 不 得 解 脫 者。
Thử nhị
Bồ Tát, ư Sa Bà giới, tu Bồ Tát hạnh, văng sanh bỉ
quốc, thường tại A Di Đà Phật tả hữu.
Dục chí thập
phương vô lượng Phật sở, tùy tâm tắc
đáo. Hiện cư thử giới, tác đại lợi
lạc. Thế gian thiện nam tử, thiện nữ nhân,
nhược hữu cấp nạn khủng bố, đản
tự quy mạng Quán Thế Âm Bồ Tát, vô bất đắc
giải thoát giả.
Hai vị Bồ
Tát ấy ở trong thế giới Sa Bà tu Bồ Tát hạnh
văng sanh về cơi kia, thường ở hai bên A Di Đà Phật;
muốn đến vô lượng chỗ đức Phật
trong mười phương th́ cứ nghĩ tới liền
đến nơi. Hai Ngài hiện sống trong cơi này làm
đại lợi lạc. Thiện nam tử, thiện nữ
nhân trong đời nếu ai gặp nạn gấp hay sợ
hăi th́ chỉ cần tự quy mạng Quán Thế Âm Bồ
Tát th́ không ai là chẳng được giải thoát.
Giải:
Hai vị Bồ Tát ấy đều đă từng
ở trong Sa Bà thế giới tu Bồ Tát hạnh,
được văng sanh về cơi kia, làm gương cho
mười phương nhân dân, phổ nguyện chúng sanh cầu
sanh Tịnh Độ. Trong câu “hiện
cư thử giới” (hiện sống
trong cơi này), “thử giới”
chính là thế giới Sa Bà. Hai vị Bồ Tát làm như vậy
v́ các Ngài có nhân duyên sâu đậm với chúng sanh cơi này. “Tác đại lợi lạc”
(làm đại
lợi lạc) là nhiếp thủ chẳng bỏ người
niệm Phật, khiến cho họ ĺa tam đồ, đắc
vô thượng lực, cùng sanh Cực Lạc.
Quán Thế Âm Bồ Tát được cơi đời
xưng tụng là vị Quán Thế Âm Bồ Tát Cứu Khổ
Cứu Nạn. Phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa có nói: Chúng sanh
khổ năo “nhất tâm xưng
danh, Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời quán kỳ âm
thanh, giai đắc giải thoát” (nhất tâm xưng danh th́ Quán Thế Âm ngay lập tức
liền xem xét âm thanh ấy, đều giải thoát cho cả).
Kinh c̣n nói: “Thị Bồ Tát Ma
Ha Tát, ư bố úy cấp nạn chi trung, năng thí vô úy,
thị cố thử Sa Bà thế giới giai hiệu chi vi
Thí Vô Úy giả” (Vị Bồ
Tát Ma Ha Tát này hay ban sự vô úy cho kẻ đang trong sợ
hăi, nạn gấp nên thế giới Sa Bà này gọi Ngài là
đấng Thí Vô Úy). V́ vậy, “nhược hữu cấp nạn
khủng bố” (nếu có nạn gấp, sợ
hăi) chỉ cần chí thành quy hướng Đại Sĩ, thiết
tha chân thành tŕ danh Ngài th́ đều được giải
thoát.