10. Giai Nguyện Tác Phật (皆 願 作 佛: Đều phát nguyện thành Phật)
Phẩm này chỉ thấy trong hai bản dịch cổ:
Hán dịch và Ngô dịch. Trong phẩm này có hai nghĩa trọng
yếu:
1. Một là những người như vương tử
A Xà Thế nghe kinh hoan hỷ, phát nguyện được
thành Phật như A Di Đà Phật, đức Thích Ca liền
chứng minh cho họ. Điều này cho thấy chúng ta ngày nay
được nghe kinh này th́ cũng sẽ phát khởi
được đại nguyện như vương tử
A Xà Thế.
2. Hai là Phật bảo những vị vương tử
ấy trong vô lượng kiếp đă tu Bồ Tát đạo,
trong kiếp quá khứ từng làm đệ tử Phật
nên nay lại gặp gỡ, ngụ ư: Hết thảy các
pháp chẳng ĺa nhân duyên, nên chúng ta ngày nay được
nghe kinh này, nghe diệu pháp Tịnh tông th́ ắt cũng phải
là trong nhiều kiếp đến nay đă từng
được bậc đạo sư hai cơi giáo hóa tế
độ, nên ngày nay mới hưởng được
nhân duyên thù thắng đến thế này.
Chánh kinh:
佛 說 阿 彌 陀 佛 為 菩 薩 求 得 是 願 時,阿 闍 王 子,與 五 百 大 長 者,聞 之 皆 大 歡 喜,各 持 一 金 華 蓋,俱 到 佛 前 作 禮。以 華 蓋 上 佛 已,卻 坐 一 面 聽 經,心 中 願 言:令 我 等 作 佛 時,皆 如 阿 彌 陀 佛。
Phật
thuyết A Di Đà Phật vi Bồ Tát cầu đắc
thị nguyện thời, A Xà vương tử, dữ
ngũ bách đại trưởng giả, văn chi giai đại
hoan hỷ, các tŕ nhất kim hoa cái, câu đáo Phật tiền
tác lễ, dĩ hoa cái thượng Phật dĩ, khước
tọa nhất diện thính kinh, tâm trung nguyện ngôn: “Linh
ngă đẳng tác Phật thời, giai như A Di Đà Phật”
Lúc đức
Phật nói A Di Đà Phật khi làm Bồ Tát cầu được
thỏa nguyện như thế th́ vương tử A Xà Thế
và năm trăm đại trưởng giả nghe như
vậy đều đại hoan hỷ. Mỗi người
cầm một cái lọng kim hoa cùng đến trước
Phật làm lễ, đem lọng hoa dâng lên Phật xong, ngồi
qua một bên nghe kinh, trong tâm nguyện rằng: “Nguyện
lúc chúng con thành Phật đều được như A
Di Đà Phật”.
Giải:
Vương tử và năm trăm trưởng giả
trong đoạn kinh này thật đúng là tấm
gương cho hết thảy bọn hàm linh trong đời
hiện tại và vị lai.
“Văn chi giai đại
hoan hỷ” (Nghe như vậy đều đại hoan hỷ):
Tất cả niềm vui trong thế gian cũng không sánh bằng
sự hoan hỷ ấy. Ấy là do vui với đại
nguyện siêu thế, hy hữu, viên măn rốt ráo của Phật
Di Đà; vui v́ Phật Di Đà viên chứng Bồ Đề đại
nguyện thành tựu; vui v́ Phật Di Đà chứng được
phương tiện rốt ráo này, dùng diệu pháp Tŕ Danh phổ
độ hết thảy chúng sanh; vui v́ chúng ta và hết thảy
hàm linh trong tương lai đều do pháp này thoát
được sanh tử; vui v́ chúng ta có thể lần
lượt dạy dỗ chúng sanh khiến cho họ
được giải thoát hết cả. Như vậy,
niềm vui ấy chưa từng có trong đời này nên bảo
là “đại hoan hỷ”.
Chữ “cái” (蓋) chỉ lọng
báu để cúng Phật. “Tác lễ”
(làm lễ) là lễ bái. Lễ kính, cúng dường nhằm
thể hiện sự dốc ḷng tin kính. Do vậy, những
câu này diễn tả ư “chí tâm tín
nhạo” (chí tâm tin ưa). Từ chữ “khước tọa nhất diện
thính kinh” (ngồi
qua một bên nghe kinh) trở đi diễn tả ḷng mong cầu
Phật Trí, nghe pháp không nhàm đủ, lại c̣n phát nguyện
thành Phật “giai như A Di
Đà Phật” (đều được như A Di Đà
Phật). Thấy bậc hiền đức mong ḿnh
được bằng, mong đại nguyện, đại
hạnh, đại từ, đại bi, đại trí,
đại lực của ḿnh, hết thảy những
điều như thế đều được như
A Di Đà Phật trụ Chân Thật Huệ, giữ lấy cơi
Phật thanh tịnh, lợi khắp hữu t́nh. Đấy
chính là thật sự phát tâm Bồ Đề. V́ vậy, người
nghe kinh chúng ta cũng đều nên như vậy: Tin
ưa, cung kính, phát tâm vô thượng.
Chánh kinh:
佛 即 知 之,告 諸 比 丘:是 王 子 等,後 當 作 佛。彼 於 前 世 住 菩 薩 道,無 數 劫 來,供 養 四 百 億 佛。迦 葉 佛 時,彼 等 為 我 弟 子,今 供 養 我,復 相 值 也。 時 諸 比 丘 聞 佛 言 者,莫 不 代 之 歡 喜。
Phật tức tri chi, cáo chư tỳ-kheo:
- Thị vương tử
đẳng, hậu đương tác Phật. Bỉ ư
tiền thế trụ Bồ Tát đạo, vô số kiếp
lai cúng dường tứ bách ức Phật. Ca Diếp Phật
thời, bỉ đẳng vi ngă đệ tử, kim cúng
dường ngă, phục tương trị dă.
Thời chư
tỳ-kheo văn Phật ngôn giả, mạc bất đại
chi hoan hỷ.
Phật liền
biết ngay, bảo các tỳ-kheo:
- Các vị
như vương tử đây sau này sẽ thành Phật. Bọn
họ trong đời trước trụ Bồ Tát đạo,
từ vô số kiếp đến nay cúng dường bốn
trăm ức Phật. Thời Ca Diếp Phật, bọn họ
làm đệ tử của ta, nay cúng dường ta lại
gặp gỡ nhau.
Khi ấy, các tỳ-kheo
nghe lời Phật nói không ai chẳng mừng giùm cho bọn
họ.
Giải:
“Phật tức tri chi” nghĩa là Phật
liền hiểu, liền biết ngay. Quán kinh nói: “
Phổ Hiền dùng mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc, Di Đà dùng bốn
mươi tám nguyện tiếp độ chúng sanh. Hết
thảy đều dùng tín, nguyện, hạnh làm tư
lương để lên được bờ kia. V́ vậy
Tỉnh Am đại sư nói: “Điều
cấp bách trước hết trong việc tu hành là lập
nguyện”.
“Cúng dường tứ bách ức
Phật. Ca Diếp Phật thời, bỉ đẳng vi ngă đệ tử, kim cúng dường
ngă, phục tương trị dă” (Cúng dường bốn trăm ức Phật.
Thời Ca Diếp Phật, bọn họ làm đệ tử
ta. Nay cúng dường ta, lại được gặp gỡ):
Thiện căn và nhân duyên chẳng ít. Phẩm Phước
Huệ Thỉ Văn (Phước huệ mới được
nghe) trong kinh này chép: “Nhược
bất văng tích tu phước huệ, ư thử chánh pháp
bất năng văn. Dĩ tằng cúng dường chư Như Lai, tắc năng hoan hỷ tín
thử sự” (Nếu xưa
kia chẳng tu phước huệ c̣n chẳng được
nghe chánh pháp này. Do từng cúng dường các đấng
Như Lai mới có thể hoan hỷ tin nhận việc
này).
Chúng ta nay được gặp gỡ kinh này, lại
c̣n tin nhận nổi ắt là đă có duyên chẳng ít, trong
quá khứ chẳng phải đă từng gieo thiện
căn với một hoặc hai đức Phật, mà thật
đă trồng căn lành nơi vô lượng Phật, nên
mới có thể được như bọn vương
tử A Xà Thế nghe kinh phát nguyện, tŕ sáu chữ đức
hiệu, nhập Nhất Thừa nguyện hải, lần
lượt dạy nhau đồng chứng Di Đà.
Chú Giải Phật Thuyết
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Trang
Nghiêm B́nh Đẳng Giác Kinh - Quyển Hai hết
(Bửu Quang tự đệ
tử Như Ḥa kính dịch xong ngày 03 tháng 03 năm 2002 - Giảo chánh, tăng đính lần
thứ ba ngày 09 tháng 09 năm 2009)