48. Văn Kinh Hoạch Ích (聞 經 獲 益 - Nghe kinh
được lợi ích)
Phẩm này nói về việc nghe kinh được lợi
ích, chỉ rơ người nghe kinh được lợi ích
khó thể nghĩ bàn. Sách Vô Lượng Thọ Khởi Tín
Luận viết: “Do nghe kinh mà
được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn như
vậy th́ đều là do sức bổn nguyện của
Vô Lượng Thọ Phật, mà cũng là do oai thần của
đức Bổn Sư gia bị. Hễ có chúng sanh nào nghe
được kinh này th́
cũng sẽ đạt được lợi ích như
thế”.
Chánh kinh:
爾 時 世 尊 說 此 經 法,天 人 世 間 有 萬 二 千 那 由 他 億 眾 生,遠 離 塵 垢,得 法 眼 淨。二 十 億 眾 生,得 阿 那 含 果。六 千 八 百 比 丘,諸 漏 已 盡,心 得 解 脫。
Nhĩ
thời Thế Tôn thuyết thử kinh pháp, thiên nhân thế
gian hữu vạn nhị thiên na-do-tha ức chúng sanh, viễn
ly trần cấu, đắc pháp nhăn tịnh. Nhị thập
ức chúng sanh đắc A Na Hàm quả, lục thiên bát bách
tỳ-kheo, chư lậu dĩ tận, tâm đắc giải
thoát.
Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn nói kinh pháp này, [trong] trời, người
thế gian có một vạn hai ngàn na-do-tha ức chúng sanh xa
ĺa trần cấu, đắc pháp nhăn tịnh; hai mươi
ức chúng sanh đắc quả A Na Hàm, sáu ngàn tám trăm tỳ-kheo
hết sạch các lậu, tâm được giải thoát.
Giải:
Chữ “trần cấu” (塵 垢) chỉ chung các phiền năo. Câu kinh Duy Ma: “Viễn trần ly cấu, đắc pháp nhăn tịnh”
cũng mang cùng ư nghĩa với câu kinh trong đoạn này.
Theo bản sớ giải kinh Duy Ma của ngài Gia Tường
th́ “pháp nhăn tịnh”
được hiểu như sau: “Nói về pháp nhăn tịnh là nói về Pháp Nhăn của
Tiểu Thừa lẫn Pháp Nhăn của Đại Thừa. Pháp
Nhăn của Tiểu Thừa chính là Sơ Quả, thấy
được pháp Tứ Đế nên gọi là Pháp Nhăn. Pháp Nhăn của Đại Thừa
là bậc Sơ Địa chứng đắc pháp Vô Sanh chân thật
nên gọi là Pháp Nhăn”.
Chữ “pháp nhăn” (法 眼) trong kinh Vô Lượng Thọ
đây chỉ cho pháp nhăn tịnh của Tiểu Thừa,
như ngài Cảnh Hưng bảo: “Pháp nhăn tịnh chính là Dự Lưu quả (Sơ Quả)”.
Tịnh Ảnh Sớ cũng viết: “Thấy được bốn Chân Đế th́ gọi
là tịnh pháp nhăn”. A Na Hàm là quả vị thứ ba trong
Tứ Quả Tiểu Thừa.
“Chư lậu dĩ tận,
tâm đắc giải thoát” (Hết sạch các lậu, tâm
được giải thoát) là như kinh Duy Ma nói: “Bát thiên tỳ-kheo bất thọ
chư pháp, lậu tận ư giải” (Tám ngàn tỳ-kheo chẳng
thọ các pháp, lậu tận ư giải). Ngài Tăng Triệu
giảng: “Lậu Tận là cả
chín mươi tám kết lậu đều đă hết sạch,
ư được giải thoát, thành A La Hán”. Ư nói đă
đoạn hết sạch các phiền năo, tâm ư được
giải thoát, chứng quả A La Hán. Như vậy, những
vị đắc pháp nhăn tịnh và hết sạch các Lậu
trong kinh đây đều thuộc về Thanh Văn Thừa.
Như có ai hỏi rằng: Nghe kinh điển Đại
Thừa vô thượng này sao lại được ích lợi
nơi pháp Tiểu Thừa? Tịnh Ảnh Sớ đáp: “Chúng sanh [căn tánh] Tiểu thừa
nghe nói Sa Bà uế ác đáng chán, tâm nhàm chán nên đắc quả
Tiểu Thừa”. Ngài Cảnh Hưng cũng nói: “Chúng sanh do nghe nói cơi này uế ác
đáng chán nên đắc quả Thanh Văn”.
Chánh kinh:
四 十 億 菩 薩,於 無 上 菩 提 住 不 退 轉,以 弘 誓 功 德 而 自 莊 嚴。二 十 五 億 眾 生,得 不 退 忍。四 萬 億 那 由 他 百 千 眾 生,於 無 上 菩 提 未 曾 發 意,今 始 初 發。種 諸 善 根,願 生 極 樂,見 阿 彌 陀 佛,皆 當 往 生 彼 如 來 土,各 於 異 方 次 第 成 佛,同 名 妙 音 如 來。
Tứ thập ức Bồ Tát, ư vô
thượng Bồ Đề trụ bất thoái chuyển,
dĩ hoằng thệ công đức nhi tự
trang nghiêm. Nhị thập ngũ ức chúng sanh, đắc
Bất Thoái Nhẫn. Tứ vạn ức na-do-tha bách thiên chúng sanh, ư vô thượng Bồ
Đề vị tằng phát ư, kim thỉ sơ phát, chủng
chư thiện căn, nguyện sanh Cực Lạc, kiến
A Di Đà Phật, giai đương văng sanh bỉ Như
Lai độ, các ư dị phương thứ đệ
thành Phật, đồng danh Diệu Âm Như Lai.
Bốn mươi ức Bồ Tát trụ chẳng thoái
chuyển nơi vô thượng Bồ Đề, dùng công đức
hoằng thệ để tự trang nghiêm. Hai mươi lăm ức chúng sanh đắc
Bất Thoái Nhẫn. Bốn vạn ức na-do-tha trăm
ngàn chúng sanh chưa từng phát ư vô thượng Bồ Đề,
nay mới bắt đầu phát tâm, trồng các căn lành,
nguyện sanh Cực Lạc thấy A Di Đà Phật, đều
sẽ văng sanh trong cơi đức Phật ấy, đều
sẽ ở các phương khác lần lượt thành Phật,
cùng hiệu là Diệu Âm Như Lai.
Giải:
Đoạn này nói đến những chúng sanh căn tánh Đại
Thừa nghe pháp được lợi ích.
“Bất thoái chuyển” là công đức,
thiện căn ḿnh tu càng thêm tăng tấn, chẳng bị
lui sụt, biến đổi. Bất Thoái Chuyển
cũng có nghĩa là siêng năng tu tập, chẳng hạn
như niệm Phật bất thoái, siêng năng tu tập bất
thoái v.v…
“Bất thoái chuyển” tiếng Phạn
là A-bệ-bạt-trí (Avaivartika). Trong đoạn kinh này, phần
trước đă nói “trụ bất
thoái chuyển”; phần sau ghi “đắc
bất thoái nhẫn”. Những câu này đều trích từ
bản Đường dịch; bản Ngụy dịch chỉ
ghi là “đắc bất thoái
chuyển”.
Ngài Tịnh Ảnh giảng: “Chúng
sanh [căn tánh] Đại Thừa nghe đức Di Đà oai đức
rộng độ, bèn bền ḷng cầu nguyện nên đắc
bất thoái chuyển. Nghe pháp này nhiều điều lợi
ích nên thề muốn cứu
độ, đấy gọi hoằng thệ tự trang
nghiêm”. Ư nói: Nghe danh hiệu Phật, ư nguyện cầu
văng sanh kiên quyết nên đắc bất thoái. Thề muốn
làm lợi cho người khác nên gọi là “dĩ hoằng thệ công đức nhi tự trang
nghiêm” (dùng công đức hoằng thệ để
tự trang nghiêm).
Tuy chữ “trụ bất
thoái” trong bản Đường dịch chứa đựng
ư nghĩa khá sâu, nhưng sơ bộ, ta có thể hiểu
câu ấy theo cách Tịnh Ảnh Sớ vừa giảng trên
đây.
“Đắc bất thoái nhẫn”: Theo Đại Thừa
Nghĩa Chương, quyển chín, chữ “nhẫn” (忍) có nghĩa là “huệ tâm an trụ nơi pháp th́ gọi là Nhẫn”;
quyển mười một lại ghi: “An trụ trong Thật Tướng của pháp là Nhẫn”.
Chẳng hạn như theo Trí Độ Luận, Vô Sanh Pháp Nhẫn
là an trụ vào lư pháp Vô Sanh, chẳng động tâm. Ta thấy
rằng Nhẫn chính là an nhẫn, nghĩa là quyết định
nơi lư, không có ư niệm di động.
Chuẩn theo đó, “bất
thoái nhẫn” chính là tâm niệm an trụ vào lư bất
thoái chẳng hề di động. Đấy là mỗi niệm
đều chẳng thoái chuyển. Nói cách khác, Bất Thoái
Nhẫn là niệm bất thoái trong ba thứ Bất Thoái
Chuyển.
Có ba thứ Bất Thoái:
1. Vị Bất Thoái: Địa vị ḿnh đă tu
được chẳng bị lui sụt.
2. Hạnh Bất Thoái: Chẳng hề thoái thất hạnh
pháp đă tu.
3. Niệm Bất Thoái: Chẳng thoái chuyển chánh niệm.
Sách Quán Kinh Diệu Tông Sao viết: “Nếu phá được Kiến Hoặc và Tư Hoặc
th́ gọi là Vị Bất Thoái, vĩnh viễn siêu thoát khỏi
cái giả hữu của phàm phu. Đoạn trừ được
Trần Sa Hoặc th́ gọi là Hạnh Bất Thoái, vĩnh
viễn chẳng đánh mất Bồ Tát hạnh. Phá
được Vô Minh Hoặc th́ gọi là Niệm Bất
Thoái, chẳng đánh mất chánh niệm Trung Đạo”.
Ở đây, Bất Thoái Nhẫn chính là an trụ trong
lư Thật Tướng, niệm niệm chẳng dời
đổi; do đó, nó phải tương ứng với
Niệm Bất Thoái. Trụ bất thoái chuyển dùng công
đức hoằng thệ để tự trang nghiêm th́
tương đương với Hạnh Bất Thoái. Do
căn cơ các vị Bồ Tát nghe kinh chẳng phải chỉ
có một loại nên nghe pháp xong được lợi ích
cũng phải sai khác.
“Kim thỉ sơ phát” (Nay mới bắt
đầu phát tâm) là phát Bồ Đề tâm. Hai điều
phát tâm và tất cánh tâm (chứng quả Bồ Đề) chẳng
sai biệt, nhưng trong hai tâm trên, phát tâm là khó. V́ thế
trong hết thảy các kinh đều chép kỹ số
người phát Bồ Đề tâm. Những vị Bồ Tát
đă phát đại tâm như thế xong lại thực
hành các điều thiện, nguyện sanh Cực Lạc nên
đều được văng sanh, gặp Phật, lại
sẽ ở trong các phương khác lần lượt
thành Phật, cùng mang một danh hiệu là Diệu Âm Như
Lai.
Chánh kinh:
復 有 十 方 佛 剎,若 現 在 生,及 未 來 生,見 阿 彌 陀 佛 者,各 有 八 萬 俱 胝 那 由 他 人,得 授 記 法 忍,成 無 上 菩 提。彼 諸 有 情,皆 是 阿 彌 陀 佛 宿 願 因 緣,俱 得 往 生 極 樂 世 界。
Phục hữu thập phương Phật
sát, nhược hiện tại sanh, cập vị lai sanh,
kiến A Di Đà Phật giả, các hữu bát vạn
câu-chi na-do-tha nhân, đắc thọ kư Pháp Nhẫn, thành vô
thượng Bồ Đề. Bỉ chư hữu t́nh,
giai thị A Di Đà Phật túc nguyện nhân duyên, câu đắc
văng sanh Cực Lạc thế giới.
Lại trong mười phương cơi Phật, mỗi
cơi có tám vạn câu-chi na-do-tha người hoặc đang
văng sanh, hoặc sẽ văng sanh, gặp A Di Đà Phật
được thọ kư Pháp Nhẫn, thành vô thượng Bồ
Đề. Các hữu t́nh ấy
đều có nhân duyên túc nguyện với A Di Đà Phật,
đều được văng sanh về Cực Lạc thế
giới.
Giải:
Đoạn này nói rơ chúng sanh đủ duyên trong mười
phương đều được thọ kư. Phật
đối trước chúng sanh dự đoán tương
lai họ sẽ thành Phật th́ gọi là “thọ kư”. Có bốn thứ thọ kư:
1. Chưa phát tâm Bồ Đề mà thọ kư.
2. Thọ kư cho kẻ đă phát tâm Bồ Đề.
3. Thọ kư ngầm: Người khác nghe biết
đương sự được thọ kư, nhưng
chính bản thân người ấy lại chẳng biết.
4. Hiện tiền thọ kư.
Hễ được nhận bất cứ một h́nh
thức thọ kư nào trong bốn loại kể trên đều
bảo là “đắc thọ
kư”. Trong câu “đắc thọ
kư Pháp Nhẫn”, chữ “đắc
thọ kư” như trên vừa giảng, “Pháp Nhẫn” chính là ba thứ Nhẫn như đă
nói trong nguyện ba mươi tám của A Di Đà Phật (bản
Ngụy dịch ghi là “đệ
nhất, đệ nhị, đệ tam Pháp Nhẫn”) mà
cũng là Âm Hưởng Nhẫn, Nhu Thuận Nhẫn và Vô
Sanh Pháp Nhẫn. Do có những người được
Phật thọ kư, chứng nhập Vô Sanh, thành vô thượng
chánh giác như vậy nên kinh nói: “Đắc
thọ kư pháp nhẫn, thành vô thượng Bồ Đề”.
Câu “giai thị A Di Đà Phật túc nguyện
nhân duyên” (đều là
có nhân duyên túc nguyện với A Di Đà Phật) được
bản Đường dịch ghi như sau: “Bát vạn ức na-do-tha chúng sanh đắc thọ
kư Pháp Nhẫn, thành vô thượng Bồ Đề. Bỉ
Vô Lượng Thọ Phật tích hành Bồ Tát đạo
thời, thành thục hữu t́nh, tất giai
đương sanh Cực Lạc thế giới” (Tám vạn
ức na-do-tha chúng sanh được thọ kư Pháp Nhẫn,
thành vô thượng Bồ Đề. Họ đều là hữu
t́nh xưa kia đă được Vô Lượng Thọ Phật
thành tựu khi Ngài c̣n đang tu đạo Bồ Tát, thảy
đều sẽ sanh về thế giới Cực Lạc).
Ư nói: Hết thảy pháp từ nhân duyên sanh. Những
chúng sanh ấy trong đời quá khứ từng được
gặp gỡ Phật Di Đà trong khi Ngài đang tu nhân, từng
được Ngài dạy dỗ ân cần, căn lành chín
muồi. Đấy chính là thiện duyên vô thượng thù thắng.
Do bởi nhân duyên từng được Phật dạy dỗ
trong các đời trước, từng nghe pháp tư duy, từng
do tư duy mà phát nguyện nên chánh tư duy, chánh nguyện ấy
in hằn vào tám thức trong tâm điền một cách quyết
định chẳng tiêu. Đấy chính là thiện nhân vô
thượng thù thắng. Nay Phật Di Đà đă viên măn Quả
Giác, công đức viên thành, thành Quả Giác Cứu Cánh. Do cả
nhân lẫn duyên đều chín muồi nên họ được
oai lực của Phật nhiếp thọ, “câu đắc văng sanh Cực Lạc thế giới” (đều
được sanh về Cực Lạc thế giới).
Mà Bồ Tát, Thanh Văn, trời, người trong cơi Cực
Lạc đều nhiều đến vô lượng nên rơ
ràng là lúc c̣n tu nhân, Phật Di Đà đă trong vô lượng kiếp
ở trong biển sanh tử giáo hóa, nhiếp thọ lục
đạo chúng sanh số đến vô lượng. Ngày nay
chúng ta nghe được, tin được diệu pháp
này th́ ắt hẳn trong bao kiếp xưa, Phật Di Đà từng
theo chúng ta vào tận Nê Lê (địa ngục), ở trong
nhà lửa dạy dỗ chúng ta, nhiếp thọ chẳng bỏ,
khuyên lơn tha thiết chẳng ngơi, chẳng nề hà
phải cùng với chúng ta luân chuyển trong sáu nẻo, chỉ
mong chúng ta hồi tâm dẫu chỉ một niệm. Ân đức
của Phật vô cực, oai đức vô cùng, Phật v́
chúng ta vun bồi thiện căn; nay may mắn thay thiện
căn ấy đă nảy nở, tăng trưởng. Chú
giải kinh đến đây, tôi không cầm nổi nước
mắt!
Chánh kinh:
爾 時 三 千 大 千 世 界 六 種 震 動,并 現 種 種 希 有 神 變,放 大 光 明,普 照 十 方。復 有 諸 天,於 虛 空 中,作 妙 音 樂,出 隨 喜 聲。乃 至 色 界 諸 天,悉 皆 得 聞,歎 未 曾 有。無 量 妙 花 紛 紛 而 降。尊 者 阿 難,彌 勒 菩 薩,及 諸 菩 薩、聲 聞、天 龍 八 部,一 切 大 眾,聞 佛 所 說,皆 大 歡 喜,信 受 奉 行。
佛 說 大 乘 無 量 壽 莊 嚴 清 淨 平 等 覺 經
Nhĩ thời tam thiên đại thiên thế
giới lục chủng chấn động, tịnh hiện
chủng chủng hy hữu thần biến, phóng đại
quang minh, phổ chiếu thập phương. Phục hữu
chư thiên, ư hư không trung, tác diệu âm nhạc, xuất
tùy hỷ thanh, năi chí Sắc giới chư thiên, tất giai
đắc văn, thán vị tằng hữu. Vô lượng
diệu hoa phân phân nhi giáng. Tôn giả A Nan, Di Lặc Bồ
Tát, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ,
nhất thiết đại chúng, văn Phật sở thuyết,
giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Phật Thuyết Đại Thừa Vô
Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác Kinh.
Lúc bấy giờ, tam thiên đại thiên thế giới
sáu thứ chấn động và hiện ra các thứ thần
biến hy hữu, phóng đại quang minh. Lại có chư thiên ở trên không trung tấu
các âm nhạc nhiệm mầu, vang ra tiếng tùy hỷ,
đến tận chư thiên Sắc giới đều
được nghe tiếng, khen là chưa từng có. Vô
lượng diệu hoa phơi phới rơi xuống. Tôn
giả A Nan, Di Lặc Bồ Tát và các Bồ Tát, Thanh Văn,
thiên long bát bộ, hết thảy đại chúng nghe lời
Phật dạy đều đại hoan hỷ, tin nhận,
phụng hành.
Phật thuyết
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác kinh chung
Giải:
Đoạn này thuật pháp hội viên măn, lại có những
điềm lành kỳ diệu biến hiện. Trong kinh này,
điềm lành biến hiện được ghi trong Tự
Phần, Chánh Tông Phần và Lưu Thông Phần, thể hiện
sâu xa kinh này sơ thiện, trung thiện, hậu thiện,
vạn đức viên măn.
Trong phẩm Đại Giáo Duyên Khởi của Tự Phần,
đức Thế Tôn phóng quang chói lọi như khối
vàng nung, phóng đại quang minh hiện hơn trăm ngàn
thứ biến hóa. Quang minh, dung nhan Phật ṿi vọi, cơi
báu trang nghiêm từ xưa đến nay chưa hề có. Những
điềm lành như thế thật đáng gọi là
điềm lành kỳ diệu, xưa nay chưa từng có.
Trong phần Chánh Tông, phẩm Lễ Phật Hiện
Quang ghi nhận đại chúng thấy Phật Di Đà như
ṭa núi vàng ṛng, nhô cao khỏi mặt biển. Lại nghe
mười phương ca tụng, ngợi khen A Di Đà Phật.
Từ bàn tay A Di Đà Phật tỏa ra hào quang hiện rơ hết
thảy các cơi Phật. Điềm lành như thế thật là
kỳ diệu.
Cuối cùng trong phần Lưu Thông th́ đại địa
chấn động, lại hiện ra các thứ thần biến
hy hữu, quang minh chiếu khắp, thiên nhạc rộn trời,
hoa trời vần vũ rơi xuống. Kinh bảo “thần biến hy hữu” nên
những điều biến hiện ấy cũng là tốt
lành kỳ diệu.
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao viết: “Trong Tự Phần th́ quang minh,
dung nhan của Phật là điềm lành kỳ diệu. Ở
đây cũng hiện tướng lành ấy th́ biết là
ư Phật muốn thể hiện sự trịnh trọng vậy”.
Gia Tường Sớ bảo việc hiện tướng
lành trong phần lưu thông “thể
hiện cảm điềm lành để chứng thực
lợi ích”. Ngài Tịnh Ảnh cũng bảo: “Như Lai giáo hóa hoàn tất, v́
để tăng tấn chúng sanh nên bèn dùng thần lực
chấn động cơi đất và phóng quang, trỗi nhạc,
mưa hoa”.
Nói chung, những điềm lành ấy đều nhằm
để chứng tín cho chúng sanh, khuyên chúng sanh nên phát sanh
ḷng tin chân thật đối với pháp khó tin được
dạy trong kinh này. Đoạn kinh từ “tôn giả A
Vô Lượng Thọ Kinh Sao giảng “hoan hỷ” là: “Ngài
Pháp Vị nói: ‘Theo Già Da Sơn Đảnh Luận, hoan hỷ
có ba nghĩa: Một là người nói thanh tịnh v́
được tự tại đối với các pháp; hai
là pháp được giảng thanh tịnh v́ Thể của
pháp là như thật, thanh tịnh; ba là nương theo pháp
đă nói sẽ đắc quả thanh tịnh v́ chứng
được cảnh giới
thanh tịnh mầu nhiệm vậy’. Ở đây, đại chúng được nghe Di Đà
bổn nguyện, đội ân đấng Thích Tôn nên tự
được lợi ích lớn lao, không ai là chẳng hoan
hỷ”.
Ư nói:
1. Người nói kinh là đấng Bổn Sư của
chúng ta: “Ta là pháp vương, tự
tại nơi pháp”. Đấy là người nói thanh tịnh.
2. Các thứ công đức đă nói ấy chỉ là một
thanh tịnh cú “chân thật trí huệ vô vi pháp thân”. Ấy
chính là pháp được thuyết là thanh tịnh.
3. Đắc quả thanh tịnh là như Linh Phong đại
sư đă nói: “Toàn thể của
mỗi một thứ trang nghiêm đều là lư tánh”. Tu
tŕ theo đúng lời dạy, vượt ngang ra khỏi ba
cơi, chứng ngay lên Bất Thoái, sanh trọn cả bốn
cơi Tịnh Độ, rốt ráo thành Phật, th́ đấy là
cảnh giới đắc quả thanh tịnh.
Đủ cả ba thứ thanh tịnh, người nghe
được lợi ích vô thượng đều đại
hoan hỷ, tin ưa thọ tŕ nên bảo là “tín thọ, phụng hành” (tin nhận, phụng
hành).
Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận nhận định:
“Kinh này chứa cả toàn thân của
Vô Lượng Thọ Phật, mà cũng chứa trọn
toàn thân của hết thảy chư Phật. Tín nhập
kinh này th́ chính là đầy đủ hết thảy Phật
trí nên bảo rằng: ‘Nghe được kinh này th́ đối
với vô thượng đạo, vĩnh viễn chẳng
thoái chuyển’. Đến khi
kinh đạo diệt hết, do Phật từ gia bị
nên kinh này được riêng lưu lại, khác lạ
hơn các kinh khác, kính xin hậu hiền đều cùng tin
nhận”.
Chú giải Phật Thuyết Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác Kinh hết