16. Đường Xá Lâu Quán ( : N, viện, lầu, quán)

 Phẩm này gồm hai điểm chính: Một là chỗ cư ngụ của Phật và Bồ Tát; hai là Bồ Tát tùy ư tu tập, từ nhân đắc quả, tự do hành đạo, đều đại hoan hỷ.

Chánh kinh:

舍,樓 楯,亦 成。復 絡,明 比。諸 眾,所 殿,亦 是。

Hựu Vô Lượng Thọ Phật giảng đường, tinh xá, lâu quán, lan thuẫn, diệc giai thất bảo tự nhiên hóa thành. Phục hữu bạch châu, ma-ni dĩ vi giao lạc, minh diệu vô tỷ. Chư Bồ Tát chúng, sở cư cung điện, diệc phục như thị.

Lại nữa, giảng đường, tinh xá, lầu, quán, lan can của Vô Lượng Thọ Phật cũng đều bằng bảy báu tự nhiên hóa thành. Lại có bạch châu, ma-ni dùng để giăng xen, sáng đẹp khôn sánh. Cung điện của các chúng Bồ Tát ở cũng giống như vậy.

Giải:

“Giảng đường” ( ) là ṭa nhà dùng để thuyết pháp giảng kinh. “Tinh xá” ( ) là tên gọi khác của chùa viện. Sách Tân Dịch Hoa Nghiêm Kinh Âm Nghĩa nói: “Tinh xá không có nghĩa là nhà cửa đẹp đẽ tinh xảo, mà là chỗ ở của bậc hành giả tu luyện siêng năng, ṛng rặt th́ gọi là tinh xá”. “Lâu, quán” tức là lầu, đài; quán () là cái đài, cái đ́nh, nhà mát. “Lan thuẫn” là lan can, thế tục thường gọi là “san lan” ( ). Thứ đặt thẳng đứng gọi là Lan (), thứ nằm ngang gọi là Thuẫn ().

Các điện, gác trong cơi Cực Lạc đều từ tâm thanh tịnh của Phật Di Đà biến hiện nên đều do các báu hợp thành, chẳng xây cất từ gỗ, đá, chẳng cần thợ thuyền, ứng hiện theo căn cơ nên bảo là diệc giai thất bảo tự nhiên hóa thành” (cũng đều do bảy báu tự nhiên hóa thành).

“Bạch châu” ( ) tức là một thứ ngọc trai. Ngọc trai trắng sạch là quư, nên bạch châu là thứ thượng phẩm trong các loại châu. Về “ma-ni” xin xem lời giải ở phần trước. “Giao lạc” ( ) là treo vắt chéo qua nhau như mành lưới. Bản Hán dịch ghi: “Phục dĩ bạch châu, minh nguyệt châu, ma-ni châu vi giao lạc, phú cái kỳ thượng” (Lại dùng bạch châu, minh nguyệt châu, ma-ni châu giăng xen, che phủ phía trên). Mành lưới kết bằng ma-ni, diệu châu ấy che phủ trên các lầu, quán, lan can bằng bảy báu thật là sáng đẹp.

Văng Sanh Luận lại bảo: “Nơi cung, điện, lầu, quán, thấy mười phương vô ngại. Các loại cây có ánh sáng, màu sắc khác nhau, lan can báu vây kín khắp chung quanh”. Hơn nữa, Phật đă phát ra lời nguyện thứ mười bốn “chiếu tột cùng mười phương” như sau: “Sở cư Phật sát quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương” (Cơi Phật tôi ở rộng răi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, soi tỏ mười phương).

Những lời kinh như vậy cùng miêu tả cung điện, lầu, quán cơi Cực Lạc đều như gương sáng soi bóng mười phương. V́ vậy, ngài Đàm Loan bảo: “Cung điện lầu gác như gương soi bóng mười phương; cây báu, lan can báu phản chiếu lẫn nhau”. Rơ ràng, sự trong sáng, nhiệm mầu nơi cơi Cực Lạc chẳng có ǵ sánh nổi nên kinh mới bảo: “Minh diệu vô tỷ” (Sáng đẹp khôn sánh). Ngay cả cung điện của Bồ Tát ở cũng có diệu dụng như thế; điều này hiển thị sâu xa Chân Như b́nh đẳng, như như nhất vị vậy.

Chánh kinh:

經、誦 者,有 經、聽 者,有 者,思 者,有 者,經 行、思 者。

Trung hữu tại địa giảng kinh, tụng kinh giả, hữu tại địa thọ kinh, thính kinh giả. Hữu tại địa kinh hành giả, tư đạo cập tọa thiền giả. Hữu tại hư không giảng, tụng, thọ thính giả, kinh hành, tư đạo, cập tọa Thiền giả.

Trong ấy, có kẻ ở trên mặt đất tụng kinh, giảng kinh; có kẻ ở trên mặt đất lănh nhận kinh, nghe kinh; có kẻ đi kinh hành, suy nghĩ đạo lư và tọa Thiền trên mặt đất; có người ở trên hư không giảng, tụng, thọ lănh, nghe kinh, đi kinh hành, suy nghĩ đạo lư và tọa Thiền.

Giải:

Đoạn kinh ở phần trên tả cảnh, đoạn này tường thuật người sống trong những cảnh ấy. Những người văng sanh tùy theo phẩm vị, tùy theo ư thích mà tu tập tự tại, hoặc ở trên hư không hoặc ngự trên mặt đất, ai nấy tùy ư giảng tụng, nghe nhận [chánh pháp], tọa Thiền, kinh hành.

Xưa dịch chữ “kinh hành” “hành đạo”, nghĩa là đi ṿng quanh hay chỉ đi qua, đi lại theo đường thẳng trong một khu vực nhất định nào đó. Dùng cách này để đối trị chứng buồn ngủ hoặc để dưỡng thân, trị bịnh. Sách Huyền Tán nói: “Đi qua, đi lại để tiêu cơm hay tụng kinh giống như đi qua, đi lại trên một tấm vải trải thẳng ra nên bảo là kinh hành”. Phẩm Tự kinh Pháp Hoa cũng chép: “Vị tằng thùy miên, kinh hành lâm trung” (Chưa từng ngủ nghỉ, kinh hành trong rừng).

“Tư đạo” là suy nghĩ về đạo, suy lường cảnh ḿnh đang tiếp xúc cho đến khi hiểu thấu suốt th́ gọi là “tư duy”. Trong Quán kinh, Vy Đề Hy phu nhân thỉnh rằng: “Ngă kim nhạo sanh Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật sở, duy nguyện Thế Tôn giáo ngă tư duy, giáo ngă Chánh Thọ” (Con nay thích sanh về Cực Lạc thế giới là chỗ của đức Phật A Di Đà, kính xin đức Thế Tôn dạy con tư duy, dạy con Chánh Thọ). Thiện Đạo đại sư giảng: “Nói ‘giáo ngă tư duy’ là nói đến phương tiện trước khi nhập định: suy tưởng, nghĩ nhớ y báo, chánh báo, bốn thứ trang nghiêm của đức Phật ấy”.

“Tọa Thiền” tức là tịnh tọa để tu Thiền. Thiền là tiếng Phạn, nói đủ là Thiền Na (Dhyana), dịch là Tĩnh Lự, Tư Duy Tu v.v... Bảo là “tĩnh lự” v́ thể tánh của Thiền Na là tịch tĩnh, mà cũng do v́ dụng công suy nghĩ kỹ càng nên bảo là “tĩnh lự”. Tĩnh là Định, Lự là Huệ. Diệu thể của Định lẫn Huệ đều b́nh đẳng nên bảo là Thiền Na, như Câu Xá Luận, quyển hai mươi tám đă giảng: “Do nghĩa nào mà gọi là Tĩnh Lự? Do tịch tĩnh nên có thể nghĩ tưởng cặn kẽ. Nghĩ tưởng cặn kẽ nghĩa là hiểu biết thật sự như hay nói: Tâm tại định th́ có thể biết rơ một cách đúng như thật”.

Tư Duy Tu là nói về nhân. Nhất tâm tư duy, suy xét, tu tập; đấy là nhân. Do vậy đắc Định nên bảo là “Tư Duy Tu” (những điều nói về Thiền trên đây đều là nói về Thiền Định Độ trong Lục Độ).

Chánh kinh:

洹,或 含,或 含、阿 漢。未 者,則 致。各 道、說 道、行 道,莫 喜。

Hoặc đắc Tu Đà Hoàn, hoặc đắc Tư Đà Hàm, hoặc đắc A Na Hàm, A La Hán. Vị đắc A Duy Việt Trí giả, tắc đắc A Duy Việt Trí . Các tự niệm đạo, thuyết đạo, hành đạo, mạc bất hoan hỷ.

Hoặc đắc Tu Đà Hoàn, hoặc đắc Tư Đà Hàm, hoặc đắc A Na Hàm, A La Hán. Người chưa đắc A Duy Việt Trí th́ sẽ đắc A Duy Việt Trí. Ai nấy đều tự niệm đạo, thuyết đạo, hành đạo, không ai chẳng hoan hỷ.

Giải:

Đoạn này nói rơ người trong cơi ấy ai tu tập cách nào cũng đều đắc quả từ Tu Đà Hoàn cho đến A La Hán. Đấy là những quả vị khác nhau trong Thanh Văn thừa.

Một là Tu Đà Hoàn (Srotāpanna) quả, dịch là Nhập Lưu, Dự Lưu hoặc Nghịch Lưu, c̣n gọi là Sơ Quả. Nhập Lưu và Dự Lưu cùng một nghĩa: Từ phàm phu bắt đầu dự vào ḍng pháp thánh đạo. Gọi là Nghịch Lưu v́ khi đă nhập vào thánh vị th́ ngược ḍng lũ sanh tử. Những cách dịch như trên tuy về mặt văn tự tựa hồ có khác, nhưng ư nghĩa của chúng đều tương đồng. Đoạn được Kiến Hoặc trong tam giới th́ đắc quả này.

Hai là Tư Đà Hàm (Sakrdāgāmin) quả, dịch là Nhất Lai, c̣n gọi là Nhị Quả. Nhất Lai là đoạn được sáu phẩm đầu trong các thứ Tư Hoặc thuộc chín địa vị trong Dục giới, nhưng vẫn c̣n ba phẩm Tư Hoặc sau, nên vẫn phải thọ sanh một lần nữa trong cơi trời Dục Giới. Do đó, gọi là Nhất Lai, nghĩa là phải trở lại một lượt nữa.

Ba là A Na Hàm (Anāgāmin) quả, cựu dịch Bất Lai, tân dịch là Bất Hoàn. Bậc này đă đoạn sạch ba phẩm c̣n sót lại sau cùng của Tư Hoặc trong Dục giới, chẳng trở vào trong Dục giới nữa. Sau đó, nếu có thọ sanh th́ sanh trong Sắc giới hoặc Vô Sắc giới.

Bốn là A La Hán (Arhat), dịch là Sát Tặc, Ứng Cúng, Bất Sanh. Đây là quả vị cao nhất trong Thanh Văn thừa, đă đoạn sạch hết thảy Kiến Tư Hoặc, ngay cả những Kiến Tư Hoặc thuộc cơi trời Phi Tưởng Xứ. Do đoạn sạch hết thảy Kiến Tư Hoặc nên gọi là Sát Tặc. Đă chứng quả vị cao nhất của Tiểu Thừa, xứng đáng thọ lănh sự cúng dường của trời lẫn người nên bảo là Ứng Cúng. Trong một đời sống đă hết sạch các quả báo, nhập Hữu Dư Niết Bàn, chẳng sanh vào tam giới nữa nên bảo là Bất Sanh.

Trên đây là những vị đă đắc tứ quả Thanh Văn, đều đă đoạn hết thảy các Hoặc; nhưng thật ra người văng sanh cơi Cực Lạc đều đă phát Bồ Đề tâm, đều là Nhất Phật Thừa nên dẫu có bảo họ là Thanh Văn th́ cũng chỉ là phán định theo mức độ đoạn Hoặc, thuận theo cách nói thông tục mà thôi.

A Duy Việt Trí (Avaivartika) c̣n được phiên âm là A Bệ Bạt Trí, nghĩa là chẳng thoái chuyển nơi Phật đạo. Bản chú giải kinh Tiểu Phẩm Bát Nhă của Ngài Từ Ân có nói: A Bệ Bạt Trí: A là không, Bệ-bạt-trí là thoái chuyển. V́ vậy, kinh Đại Phẩm Bát Nhă chép: ‘Bất thoái chuyển giả, danh A Bệ Bạt Trí’ (Do chẳng thoái chuyển nên gọi là A Bệ Bạt Trí)”. Bồ Tát phải tu hành trọn cả một đại A-tăng-kỳ kiếp mới chứng nổi địa vị này; nhưng pháp môn Tịnh Độ thật khác xa lắm. Kinh Tiểu Bổn dạy: “Cực Lạc quốc độ, chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí” (Chúng sanh sanh về cơi nước Cực Lạc đều là bực Bất Thoái Chuyển). Kinh này bảo: Vị đắc A Duy Việt Trí giả, tắc đắc A Duy Việt Trí” (Kẻ chưa đắc A Duy Việt Trí sẽ đắc A Duy Việt Trí) th́ thật là tương đồng.

Sách A Di Đà Yếu Giải c̣n nói:

“A Bệ Bạt Trí, Hán dịch là Bất Thoái.

1. Một là Vị Bất Thoái: Nhập vào ḍng thánh, chẳng đọa vào địa vị phàm phu.

2. Hai là Hạnh Bất Thoái: Luôn độ sanh chẳng đọa vào địa vị Nhị Thừa.

3. Ba là Niệm Bất Thoái: Tâm tâm lưu nhập biển Tát Bà Nhă”.

          Biển Tát Bà Nhă (Sarvajña) dịch là biển Nhất Thiết Chủng Trí, tức là Như Lai Quả Hải. Phải đạt bậc Sơ Địa trong Biệt giáo hay phải đạt bậc Sơ Trụ trong Viên giáo, phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân mới có thể cùng ĺa cả nhị biên, quy hướng trọn vẹn về Trung Đạo, trong niệm niệm lưu nhập biển Tát Bà Nhă. Rơ ràng, Niệm Bất Thoái khó chứng đến mức ấy, nhưng trong diệu pháp Tịnh Độ :

“Ngũ Nghịch, Thập Ác mười niệm thành tựu mang nghiệp đi văng sanh, ở vào hạ hạ phẩm cũng đều đắc ba thứ Bất Thoái”.

V́ vậy, Linh Phong đại sư ca tụng: “Trong cơi Phật mười phương không đâu có danh tướng ấy, không đâu có địa vị như vậy, không đâu có pháp môn như vậy. Nếu chẳng phải là tâm tánh đă đạt đến cùng cực, do sức hỗ trợ kỳ diệu của tŕ danh, do Di Đà đại nguyện th́ làm sao đạt được như vậy!”

Cuối cùng, những người văng sanh do tùy ư tu hành nên thọ dụng các pháp lạc Đại Thừa, đều cùng tự tại đắc quả nên “mạc bất hoan hỷ” (không ai chẳng hoan hỷ).