PHẦN GIẢI THÍCH Ư NGHĨA KINH
Trong phần
trên đă tŕnh bày về cương tông của kinh và ư
nghĩa tổng quát của tựa
đề kinh, tiếp theo, chúng ta chính thức bước
vào phần kinh văn, chia phẩm, phân tích theo từng câu nhằm
xiển dương ư nghĩa kinh, kính cẩn dùng cái tâm hạn
hẹp để phô bày đại lược sự mầu
nhiệm vô tận của Tịnh Tông. Ở đây tôi tuân
theo lệ từ trước đến nay, chia toàn bộ
bản kinh ra thành ba phần: Tự Phần, Chánh Tông Phần
và Lưu Thông Phần. Ngẫu Ích đại sư nói: “Tự như đầu, ngũ
quan đầy đủ. Chánh Tông như thân, phủ tạng
chẳng thiếu, Lưu Thông như chân tay, vận hành không
trệ ngại”. Theo ư đại sư, “Tự như đầu” tức là Tự Phần
của kinh giống như người có đầu, từ
ngũ quan (lông mày, mắt, tai, mũi, miệng) có thể biết
được phần nào con người ấy thiện
hay ác, trí hay ngu. Nh́n vào Tự Phần của một bộ
kinh, liền có thể biết toàn bộ bản kinh ấy
là Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Thiên Giáo hay Viên
Giáo. V́ thế trong Tự Phần ắt phải có những
đoạn kinh văn ư nghĩa sâu xa. Nay y theo ư chỉ của
đại sư, phân định kinh này như sau:
1. Từ phẩm 1
đến phẩm 3 là Tự Phần.
2. Từ phẩm 4
đến phẩm 42 là Chánh Tông Phần.
3. Từ phẩm 43
đến phẩm 48 là Lưu Thông Phần.
Ba phần này cũng
chính là cách phán định của hai vị Tịnh Ảnh
và Gia Tường đối với bản Ngụy dịch
của kinh này.
B. TỰ PHẦN:
Tự Phần lại chia làm hai: Một là Thông Tự,
hai là Biệt Tự.
Thông Tự c̣n gọi là Chứng Tín Tự, các kinh đều
có. Các ngài Thiên Thai, Gia Tường dựa theo sáu thứ
thành tựu trong Pháp Hoa Luận để luận định
Chứng Tín Tự.
Sáu thứ thành tựu là như Tông Mật đại
sư nói: “Một là Tín, hai là
Văn, ba là Thời, bốn là Chủ, năm là Xứ, sáu
là Chúng”. Sáu duyên chẳng đủ, giáo pháp chẳng thể
hưng khởi được nên phải đủ cả
sáu; do đó, bảo là “thành tựu”. Dùng sáu điều ấy
để chứng thực kinh văn, xác quyết đây là
lời Phật dạy chân thật đáng tin, v́ thế gọi
là “chứng tín”. Hai phẩm đầu tiên của kinh này thuộc
về Thông Tự Phần.
Biệt Tự c̣n gọi là Phát Khởi Tự, tức
là đầu mối phát khởi toàn kinh v́ pháp chẳng thể
tự khởi lên một ḿnh. Phát khởi phải có duyên do.
Duyên do phát khởi của các kinh khác nhau nên lại gọi
là Biệt Tự.
Chẳng hạn như kinh Tiểu Bổn A Di Đà chẳng
hỏi tự nói (vô vấn tự thuyết), kinh này do Thế
Tôn phóng quang hiện tướng tốt lành, A Nan thưa hỏi
mà nói. Mỗi kinh chẳng giống nhau nên gọi là Biệt
Tự. Phẩm thứ ba của kinh này thuộc về phần
Biệt Tự.
B.1 THÔNG TỰ
1. Pháp Hội Thánh Chúng (法 會 聖 眾)
Chánh kinh:
如 是 我 聞。一 時 佛 在 王 舍 城 耆 闍 崛 山 中,與 大 比 丘眾 萬 二 千 人 俱。一 切 大 聖,神 通 已 達。其 名 曰:尊 者 憍 陳如、尊 者 舍 利 弗、尊 者 大 目 犍 連、尊 者 迦 葉、尊 者 阿 難等,而 為 上 首。又 有 普 賢 菩 薩、文 殊 師 利 菩 薩、彌 勒 菩薩,及 賢 劫 中 一 切 菩 薩,皆 來 集 會。
Như thị ngă văn, nhất thời Phật tại
Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dữ
đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu. Nhất
thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt. Kỳ
danh viết: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá
Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Kiền Liên,
tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan đẳng, nhi vi
thượng thủ. Hựu hữu Phổ Hiền Bồ
Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, cập
Hiền kiếp trung nhất thiết Bồ Tát, giai lai tập hội.
Tôi nghe như thế này: Một
thời, đức Phật ở tại thành Vương
Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, với các đại tỳ-kheo
chúng một vạn hai ngàn người câu hội. Hết thảy
các vị đại thánh đă đạt thần thông, tên
các Ngài là: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi
Phất, tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca
Diếp, tôn giả A
Giải:
“Như thị ngă văn”: Các kinh đều
dùng bốn chữ này để đặt ở đầu
kinh là do di giáo của đức Thế Tôn.
Khi Thế Tôn sắp bát Niết Bàn, A Nan buồn rầu
chẳng ḱm nổi, ngài A Nê Lâu Đà (A Na Luật) khuyên Ngài rằng:
“Đau buồn ích chi, trước
hết phải nên hướng về Phật thưa hỏi
bốn việc: Việc thứ nhất, là đầu hết
thảy các kinh nên đặt chữ nào?” Phật liền
đáp rằng: “Nên để
như thị ngă văn, Phật tại chốn mỗ, thời
mỗ...” (tức là sáu thành tựu vừa nói ở trên).
Ở đây, chữ “Ngă”
(我) chỉ A Nan.
“Như thị ngă văn” ngụ ư pháp
môn như thế ấy chính do A Nan tôi được nghe từ
đấng Thích Tôn. Câu này phá được nỗi nghi ngờ
của người đương thời v́ lúc A Nan kết
tập kinh điển, đại chúng khởi lên ba điều
nghi: Một là nghi Phật sống lại, hai là nghi A Nan
thành Phật, ba là nghi Phật ở phương khác đến.
V́ vậy, khi A Nan nói: “Như thị
ngă văn”, các mối nghi liền được giải
quyết hết.
Nếu nghi rằng: Phật thành đạo đă hai
mươi năm A Nan mới xuất gia, lại đến
mười năm sau đó, A Nan mới vâng mạng làm thị
giả; như vậy, với những kinh Phật dạy
trong ba mươi năm trước đó sao A Nan lại
đều bảo là “tôi nghe”? Có ba cách giải thích: Triển
chuyển văn, Phật trùng thuyết, A Nan tự thông.
- Triển chuyển văn: Kinh Báo Ân nói những
kinh nào A Nan không được nghe trước đó th́
nghe từ các tỳ-kheo khác hoặc nghe chư thiên nói.
- Phật trùng thuyết: Kinh Báo Ân nói A Nan tuân lệnh
Phật làm thị giả bèn xin ba điều, điều
thứ ba là những kinh chưa được nghe xin Phật
giảng lại. Phật chấp nhận.
- A
a. “Như thị” là Tín
Thành Tựu, là điều đầu tiên trong sáu thứ
thành tựu.
Trí Độ Luận nói: “Biển
cả Phật pháp, tin th́ vào được”. Kinh Hoa
Nghiêm lại dạy: “Tín vi thủ, như nhân hữu thủ,
chí trân bảo xứ, tùy ư thái thủ. Nhược nhân vô thủ,
không vô sở hoạch” (Tín làm tay,
như người có tay đến chốn trân bảo, tùy
ư nhặt lấy. Người nếu không tay không được thứ
ǵ). Rơ ràng, Tín là cửa đầu tiên để nhập
pháp, bỏ Tín th́ không cách nào nhập được. Tín là
điều quan trọng nhất để lănh hội nên có
câu: “Tài nhập Tín môn, tiện
chứng Tổ vị” (Vừa vào cửa Tín liền lên
địa vị Tổ).
Chữ “như thị”
c̣n chỉ cái Thể của điều được
nghe, tức là Lư Thể của Thật Tướng. Xưa
nay chẳng biến đổi nên nói là “Như”. Đúng như
Lư mà nói nên bảo là Thị.
Với bản kinh này, Ngẫu Ích đại sư bảo:
“Nương theo lư Thật
Tướng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ quyết
định chẳng sai, nên bảo là Thị” .
Do diệu lư Thật Tướng chỉ là tự tánh của
một niệm tâm (tâm trong một niệm) hiện tiền
chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đi, chẳng
đến, trạm nhiên, thường trụ, nên nói là
Như. Nương tâm tánh ấy, niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ th́ năng niệm (chủ thể niệm)
là tâm Thật Tướng, sở niệm (điều được
niệm) là vị Phật của Thật Tướng, cái
được sanh là cơi Thật Tướng, đều do
Thật Tướng Chánh Ấn in vào. V́ vậy, đại
sư nói: “Quyết định
chẳng sai là Thị”.
b. “Ngă văn” là Văn
Thành Tựu. Lúc A Nan kết tập pháp tạng, tự nói: “Như thị pháp môn, ngă tùng Phật
văn” (Pháp môn như thế tôi nghe từ đức Phật).
Ngă là tự ngă, Văn là đích thân nghe, đem điều ấy
bảo với đại chúng th́ thật đủ để
chứng tín.
Thánh nhân vô ngă sao A Nan lại tự xưng là Ngă? V́ chẳng
hoại giả danh vậy! Thật Tướng vô tướng
nên chẳng giống như phàm phu có Ngă. Thật Tướng
chẳng phải là bất tướng nên chẳng giống
Vô Ngă của Tiểu Thừa. A
Lại nữa, như Quán Kinh Sớ nói: “Không Ngă th́ không ai nghe, không ai nghe th́ sự giáo hóa tuyệt.
V́ để truyền dạy, hóa độ chẳng tuyệt,
giả danh nói Ngă”. “Văn” (聞: nghe) là căn
tai phát sanh Nhĩ thức. Ở đây chẳng bảo là
tai nghe mà lại nói là “ngă
văn” là do chữ Ngă bao trùm các căn. Dùng cái tổng thể
thay thế cho cái riêng biệt, dùng Ngă thế cho tai nên nói Ngă
Văn.
“Như Thị” biểu thị
tín nguyện, “ngă văn” biểu
thị sư thừa: Điều tôi được nghe
đều từ kim khẩu đức Thế Tôn nói ra,
truyền thừa có đầu mối, quyết định
chẳng phải do người khác nói, hoặc tôi tự bịa
ra, dùng đây để chứng tín.
c. “Nhất thời” (một
thời) là Thời Thành Tựu. Thời chẳng phải là
thật pháp, dài, ngắn tùy tâm, kéo dài hay thu gọn cùng một
lúc, ba A-tăng-kỳ trong một niệm như Sớ Sao
giảng:
“Hoặc kẻ nói đắc
đà-ra-ni: Trong khoảng một sát-na, trong một chữ,
nói hết thảy pháp môn. Hoặc kẻ nghe do đắc
nhĩ căn thanh tịnh: trong một sát-na, lúc nghe một
chữ, đối với hết thảy những thứ
khác đều không chướng ngại. Hoặc kẻ nói
trong chốc lát, người nghe [cảm thấy] lâu dài. Hoặc
kẻ nói lâu lắc, người nghe thành chốc lát. Hoặc
kẻ nói dùng thần lực kéo dài hay thâu ngắn tùy nghi,
căn khí của kẻ nghe lợ hay độn chẳng phải
chỉ một loại.
Cổ đức bảo
thánh, phàm trong tam thừa thấy Báo Thân, Hóa Thân của Phật,
tuổi thọ dài hay ngắn, thành
Phật lâu hay mau đều chẳng giống nhau. Nay chỉ
lấy khoảng thời gian Phật cùng đệ tử,
thầy tṛ cơ cảm tương ngộ, nói, nghe xong xuôi
th́ gọi là Một Thời”.
Hơn nữa, Phật Địa Luận dạy: “Nói nghe xong xuôi gọi chung là Một
Thời”.
Bởi vậy, trong kinh chẳng nói là năm đó, tháng
đó, chỉ căn cứ lúc thầy, tṛ căn cơ
tương ứng ḥa hợp, nói, nghe hoàn tất th́ gọi
là “nhất thời”. Hơn
nữa, trong kinh chẳng nêu năm tháng v́ lịch pháp mỗi
nơi chẳng giống nhau.
Thêm nữa, cách phân chia thời gian trên thế giới
chẳng giống nhau: Một ngày đêm trên trời Tứ
Thiên bằng với năm mươi năm dưới trần.
Vả lại, khoa học hiện đại đă chứng
minh rằng: Thời gian mặt trời đi trọn một
ṿng quanh trung tâm hệ Ngân Hà (tức là một năm Thái Dương)
tương đương với thời gian hai vạn vạn
năm trên địa cầu. Tốc độ chuyển
động của vật thể càng gần với vận
tốc ánh sáng th́ thời gian cũng tùy theo vận tốc
chuyển động của vật thể mà biến đổi
chẳng có số lượng nhất định. V́ thế,
trong kinh chỉ nói “nhất thời”
là hết sức thực tế vậy.
d. “Phật” là Chủ
Thành Tựu. Phật là tông chủ của hết thảy
chúng sanh nên gọi là Chủ. Hơn nữa, trong sáu thành tựu,
Chủ Thành Tựu đóng vai tṛ trọng yếu nhất. Phật, tiếng Phạn là Phật
Đà, nay chỉ nói Phật là nói gọn. Phật Đà dịch
sang tiếng Hán là Giác Giả (bậc giác ngộ). Tự
giác, giác tha, giác hạnh viên dung.
Tự giác là khác với phàm phu bất giác.
Giác tha là khác với Nhị Thừa chỉ giác ngộ
riêng ḿnh.
Giác măn là khác với Bồ Tát c̣n đang tu nhân. Ba giác
cùng viên măn, là bậc tôn quư nhất trong thánh chúng nên xưng
là Phật.
Lại c̣n dịch là Trí Giả, Trí chính là ư nghĩa của
chữ Giác. Trí không ǵ chẳng biết nên nói: “Đắc Nhất
Thiết Chủng Trí”, đó là nghĩa của chữ “giác
măn”. Trong kinh này, chữ Phật ở đây chỉ cho
đấng đại ân từ phụ Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
e. “Tại
Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung” (tại thành Vương Xá, trong núi
Kỳ Xà Quật) là Xứ Thành Tựu.
Về thành Vương Xá (Rāja-grha), từ xưa cho rằng có
hai thành: Một là Thượng Mao Thành (hoặc là Thượng
Đệ thành, cựu thành), hai là Hàn Lâm Thành (tân thành), hai thuyết
bất nhất. Nay dựa theo Trí Độ Luận:
“Sau khi Phật niết-bàn,
vua A Xà Thế do thấy nhân dân giảm ít, bèn bỏ đại
thành Vương Xá, dựng tiểu thành ở gần
đó”.
Sách B́nh Giải giảng: “Thành
Vương Xá vốn là thành cũ Thượng Đệ. Lại
dựng thành nhỏ là thành Hàn Lâm. Đấy là thành do vua A Xà Thế
đắp sau khi Phật diệt độ, Phật nào có
trụ nơi thành mới? Rơ
ràng chỗ Phật từng ở là thành Thượng Đệ”.
Lời này chứng minh rằng Phật nói kinh này tại
cựu thành. Sách Từ Ân Truyện chép: “Cựu thành Vương Xá ở nước Ma Yết
Đà, xưa kia nhiều vị quân vương sống trong ấy.
Nơi thành ấy lại có mọc nhiều cỏ tranh
thơm (hương mao)
đẹp đẽ nên gọi tên như vậy”.
Lại nữa, sách Vọng Tây Sớ của Nhật viết:
“Nếu theo ư tông gia, ta nên gọi
[thành Vương Xá] là Thượng Mao” (Tông gia: chỉ
Ngài Thiện Đạo đại sư), ư nói: Thành
Vương Xá nói trong kinh đó chính là cựu thành Thượng
Mao. Thuyết này đáng tin nên tôi chẳng nêu các thuyết
khác.
Pháp Hoa Luận viết: “Như
thành Vương Xá vượt xa hết thảy các thành
khác, ngụ ư pháp môn này là tối thắng”. Xứ Ngũ
Thiên Trúc có mười sáu thành lớn, thành Vương Xá lớn
nhất, cho nên Phật trụ ở thành này nói kinh là để
hiển thị sự tối thắng của kinh này.
Lại nữa, sách Đại Bảo Tích Kinh Luận ghi: “Hỏi: V́ sao pháp này chỉ nói ở
thành Vương Xá mà không nói ở các thành quách khác?
Đáp: Do bởi pháp môn này là trụ
xứ của đấng Pháp Vương. Ví như thành
Vương Xá là chỗ cư ngụ của vua nên gọi
là Vương Xá. Pháp môn này cũng giống như thế,
là chỗ cư ngụ của đấng Pháp Vương.
Để biểu thị nghĩa này nên nói là trụ thành
Vương Xá”.
Núi Kỳ Xà Quật (Griddhkuta) là một trong năm ḥn núi ngoài
thành Vương Xá. Tịnh Ảnh Sớ viết:
“Núi Kỳ Xà, Hán dịch là
núi Linh Thứu. Núi này có nhiều bậc linh tiên cư trụ
nên gọi là Linh. Cũng do có chim Thứu sống trong núi này
nên gọi là Thứu” và: “Đảnh
núi này h́nh giống đầu chim Thứu nên cũng gọi
là Thứu Đầu sơn”.
Sách Tây Vực Kư nói về núi này như sau: “Mặt Nam của phía Bắc núi
đột nhiên cao vót lên như chim Thứu đậu,
cũng giống như cái đài cao. Sắc núi biếc in
lên không trung đậm nhạt rơ nét. Như Lai ngự trong
đời năm mươi năm thường ở núi này
thuyết nhiều diệu pháp”.
Trí Độ Luận giảng:
“Núi Kỳ Xà Quật hơn
hết trong năm ngọn núi v́:
* Tinh xá trong núi này gần
thành nhưng khó lên được. V́ gần thành nên đi
khất thực không vất vả; do
khó lên nên hạng người tạp nhạp chẳng tới.
V́ vậy, phần nhiều ngự ở núi này chẳng trụ
nơi chỗ khác.
* Núi Kỳ Xà Quật này là
chốn phước đức xa xưa, là chỗ thánh nhân
thích ở. Phật là chúa các thánh nên hay ngự ở đây.
* Núi Kỳ Xà là trụ xứ
của tam thế chư Phật.
* Trong núi này thanh tịnh, là
nơi có phước đức, vắng vẻ, thanh tịnh,
là hành xứ của hết thảy chư Phật, là
nơi được thập phương Bồ Tát cung
kính, khen ngợi, tám bộ đại lực chúng thần
thủ hộ cung kính, cúng dường. Các kinh Đại thừa
phần nhiều được nói tại núi này.
* Trong núi, mười
phương vô lượng đại lực Bồ Tát vô
lượng trí huệ, phước đức thường
đến gặp Thích Ca Mâu Ni Phật, lễ bái, cung kính
nghe pháp. Các kinh Đại thừa phần nhiều giảng tại
núi này”.
Sách Pháp Hoa Luận viết: “Núi
Kỳ Xà Quật trỗi hơn các núi khác, Phật thường
ngự ở đây thuyết pháp nhằm hiển thị
pháp này là tối thắng”. V́ lẽ đó, kinh này
được nói tại núi này.
f. “Dữ đại
tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu” (Với các đại tỳ-kheo
chúng một vạn hai người câu hội): Phẩm này
chỉ nêu tỳ-kheo chúng và Bồ Tát chúng. Cuối phẩm
thứ ba sẽ nêu đủ các ba chúng đệ tử và
các thiên chúng:
“Hựu hữu tỳ-kheo-ni
ngũ bách nhân, thanh tín sĩ thất thiên nhân, thanh tín nữ
ngũ bách nhân, Dục Giới thiên, Sắc Giới thiên,
chư thiên Phạm chúng, tất cộng đại hội”
(Lại có tỳ-kheo-ni năm
trăm người, thanh tín sĩ bảy ngàn người,
thanh tín nữ năm trăm người. Dục Giới
thiên, Sắc Giới thiên, chư thiên Phạm chúng cùng nhóm
trong đại hội).
Cuối kinh cũng chép: “Chư Bồ Tát, Thanh Văn,
thiên long bát bộ, nhất thiết đại chúng, văn
Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ
phụng hành” (Chư Bồ
Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ, hết thảy đại
chúng, nghe lời Phật dạy đều hoan hỉ lớn,
tin nhận, vâng làm) cho thấy lúc Phật thuyết kinh,
trong hội có các đại Bồ Tát, Thanh Văn, tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, cho đến
chư thiên Phạm chúng, thiên long bát bộ đều đến
nghe pháp. Đây chính là Chúng Thành Tựu trong sáu thứ thành tựu.
Trong hội có Bồ Tát, Thanh Văn, các hạng trời,
người và tứ chúng đệ tử cơi này: một vạn
hai ngàn người cùng nghe, chẳng phải chỉ ḿnh A
Nan được nghe, điều ấy đủ để
chứng tín vậy.
Câu “dữ chư đại
tỳ-kheo” (với các đại tỳ-kheo) biểu thị
Phật cùng đại chúng cùng ở trong hội.
“Tỳ-kheo” (Bhiksu) là tiếng Phạn,
danh từ này có đến ba nghĩa nên chẳng phiên dịch.
Ba nghĩa là:
- Khất Sĩ: Tức là khất thực, khất
pháp. Khất thực là đă xuất gia rồi th́ xin ăn
để nuôi thân, chẳng làm ăn, không tích chứa, bỏ
hết vạn duyên, một dạ thanh tu, nên nói: Xin ăn
để nuôi thân. Khất pháp là t́m thầy hỏi đạo,
nằm sương dăi gió, t́m cầu diệu pháp mong thành
thánh quả, nên bảo: Khất pháp để dưỡng
tâm.
- Phá Ác: Chánh huệ quán sát phá phiền năo ác, trừ
hết Kiến Tư Hoặc, siêu xuất tam giới.
- Bố Ma (làm ma sợ hăi): Như kinh Niết Bàn
nói: “Ma tánh cấu tệ, kỵ tha
thắng kỷ, kiến bỉ thắng kỷ, cố hoài
khủng bố. Hựu cụ kỳ nhân đa hóa chúng sanh
đồng xuất sanh tử, không kỳ cảnh giới,
cố sanh khủng bố” (Tánh ma cấu tệ
(theo Trung Hoa Đại Tự Điển, chữ Cấu (垢) có tám nghĩa,
một nghĩa trong ấy là Ác), kỵ người hơn
ḿnh. Thấy ai hơn ḿnh ḷng sanh kinh hăi. Lại sợ
người ấy giáo hóa nhiều chúng sanh cùng thoát khỏi
sanh tử khiến cho cảnh giới ma trống rỗng
nên sanh ḷng sợ hăi).
Nếu người xuất gia thọ giới, Yết
Ma[1]
thành tựu th́ được không hành Dạ Xoa và thiên hành
Dạ Xoa lan truyền nhau khen ngợi. Tiếng đồn
truyền lên đến tầng trời thứ sáu của Dục
Giới, ma nghe thấy sanh tâm hoảng sợ.
“Đại” tiếng Phạn
là Ma-ha, có ba nghĩa là đại, đa, thắng.
* Đại là như A Di Đà Sớ Sao giảng: “Thiên vương, đại nhân
cùng kính ngưỡng, do đức chẳng nhỏ nên gọi
là Đại”. Tịnh Ảnh Sớ chép: “Đức cao quư mênh mông hơn hẳn những kẻ cận
học khác nên gọi là Đại”.
* Đa là nội điển, ngoại tịch[2]
không sách vở nào chẳng thông suốt rộng răi, chẳng
phải là kẻ hiểu biết ít ỏi, nên gọi là Đa.
* Thắng là vượt hơn những kẻ học
khác, vượt lên trên cả chín mươi sáu thứ ngoại
đạo.
Ngoài ra, Phật Địa Luận c̣n nêu ba nghĩa khác: Một
là lợi căn tột bực, là chủng tánh Ba La Mật
Đa. Hai là đắc quả vị Vô Học. Ba là đắc
tiểu quả rồi, tiến lên đại Bồ Đề.
Do ba nghĩa trên đây nên gọi là Đại.
Ngài Gia Tường lại bảo: “Đại có ba nghĩa: Một là sanh sự hiểu biết
lớn lao, hai là phá ác lớn, ba là chứng đại quả”.
Do những điều trên, ta thấy đại tỳ-kheo
là bậc tỳ-kheo đức cao trọng vọng, từ
Tiểu Thừa hướng đến Đại Thừa, là
bậc tôn túc trong các tỳ-kheo.
“Vạn nhị thiên nhân câu” (một vạn
hai ngàn người câu hội) là nói về số lượng
các vị tỳ-kheo. Bộ Hội Sớ của Nhật viết:
“Các kinh thường nêu một
ngàn hai trăm năm mươi người. Kinh này và kinh
Pháp Hoa lại nói một vạn hai ngàn người. Đó là do
bổn hoài xuất thế, là pháp hội thù thắng cả
một đời, nên thập phương đại đức
đều như mây nhóm đến”.
Thuyết trên rất đúng, hội chúng đông đảo
biểu thị Thế Tôn thuyết pháp thù thắng. Chữ
“câu” (俱) lại có
nghĩa là cùng nhóm đến.
Câu “Nhất thiết
đại thánh, thần thông dĩ đạt” (Hết thảy đại thánh thần
thông đă đạt)
khen ngợi đức của các đại tỳ-kheo. “Nhất thiết” là tiếng
để bao gồm tất cả sự vật, “nhất thiết” c̣n có
nghĩa là khắp cả. “nhất
thiết đại thánh” là lời khen ngợi. Gia Tường
Sớ giảng: “Tâm dạo
nơi Không lư; ẩn, hiển khó lường nên gọi là
thánh nhân”.
Hội Sớ viết: “Từ
Sơ Quả trở lên đều gọi là Thánh. Đă cùng tột
quả Đại A La Hán th́ gọi là Đại Thánh. Cũng có thể
hiểu là ngoài hiện làm Thanh Văn, trong ẩn giấu hạnh
Bồ Tát nên gọi là Đại Thánh”.
Tịnh Ảnh Sớ viết: “Đại có hai nghĩa: Một là địa vị cao
lớn, hai là đức thù thắng, nên gọi là Đại.
Hiểu biết đúng đắn gọi là Thánh”.
Từ những điều trên, ta thấy: Nếu từ
đức mà nói th́ khế hợp Không lư, hiểu đúng
chánh đạo gọi là Thánh. Hoặc từ địa vị
mà nói th́ từ Sơ Quả trở lên gọi là Thánh,
nhưng phải hồi Tiểu hướng Đại, hành Bồ
Tát đạo, hướng thẳng đến Phật quả
(mới gọi là tột cùng quả Đại A La Hán), hoặc
là bậc đại quyền thị hiện th́ mới gọi
là Thánh.
Ngài Tịnh Ảnh lại nói: “Thần thông” đă đạt: Khen ngợi đức
của họ thù thắng. Việc làm thần dị nên gọi
là Thần. Không bị úng trệ
là Thông, tức là Thân Thông (Thần Túc Thông), Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm và Lậu
Tận. V́ vậy, Thần nghĩa là chẳng lường
được, Thông nghĩa là vô ngại”.
Về chữ “đạt” (達), ngài Gia Tường
giảng: “Đạt là chứng,
chính là chứng sáu thông, tam minh.”
Đương thời, ngài A Nan tuy chưa đắc Lậu
Tận, nhưng do là đương cơ nên cũng kể
trong số các vị này. Ngài Tịnh Ảnh lại giải
thích rằng:
“A
“Kỳ danh viết:
Tôn giả Kiều Trần Như” (Tên các Ngài là: tôn giả Kiều Trần
Như): Tôn Giả, tiếng Phạn là A Lê Gia (Arya), dịch
là Thánh Giả, Tôn Giả, tức là bậc trí đức
đầy đủ đáng tôn trọng, cũng là tiếng
tôn xưng bậc A La Hán. Ngài Tịnh Ảnh nói: “Có đức đáng tôn trọng
nên gọi là Tôn Giả”. Sách Hội Sớ giảng: “Tôn là tôn quư, có đức đáng
quư nên gọi là Tôn Giả”.
Kiều Trần Như (Kaundinya): Tên gọi
đủ trong tiếng Phạn là A Nhă Kiều Trần
Như (Ajnata Kaundinya). A Nhă là tên, Kiều
Trần Như là họ, dịch sang tiếng Hán là Liễu
Bổn Tế, Tri Bổn Tế hoặc là Dĩ Tri (đă
biết), Vô Tri (Vô Tri không có nghĩa là chẳng biết ǵ,
mà có nghĩa là biết được cái Không). Ngài Tịnh
Ảnh bảo: “A là không, Nhă là
trí. Chứng Vô Thành Trí nên gọi là Vô Trí. Vô là bản tánh của
hết thảy các pháp nên gọi là Bổn Tế. Hiểu
biết rơ ràng bổn tế ấy nên gọi là Liễu Bổn
Tế”. Lúc đức Thế Tôn chuyển pháp luân lần
thứ nhất độ năm tỳ-kheo, ngài Kiều Trần
Như ngộ đạo đầu tiên.
Sách Pháp Hoa Văn Cú chép: “Ngài
là đệ tử thứ nhất trong giáo pháp của Phật
Thích Ca”.
Trong phẩm Đệ Tử của kinh Tăng Nhất A
Hàm, Phật gọi Ngài là “ngă Thanh
Văn trung đệ nhất tỳ-kheo, khoan, nhân, bác thức,
thiện năng khuyến hóa, tương dưỡng thánh
chúng, bất thất oai nghi” (Tỳ-kheo bậc nhất
trong hàng Thanh Văn của ta: khoan dung, nhân từ, hiểu rộng,
có khả năng khuyến hóa khéo léo, dạy dỗ thánh
chúng, chẳng mất oai nghi). Kinh này trước hết nêu
tôn danh của Ngài nhằm biểu thị: Người có thể nghe nhận kinh pháp này đều
là đệ tử bậc nhất. Phẩm “Phi Thị
Tiểu Thừa” (Chẳng phải là Tiểu Thừa) của
kinh này chép:
“Đắc văn A Di Đà Phật
danh hiệu, năng sanh nhất niệm hỷ ái chi tâm, quy
y, chiêm lễ, như thuyết tu hành… đương tri thử
nhân, phi thị Tiểu Thừa, ư ngă pháp trung, đắc
danh đệ nhất đệ tử” (Được nghe danh hiệu A Di Đà Phật rồi
có thể trong một niệm sanh ḷng hoan hỷ, yêu thích, quy
y, chiêm lễ, đúng lời dạy tu hành… nên biết
người ấy chẳng phải là Tiểu Thừa,
đáng gọi là đệ tử bậc nhất trong pháp của
ta).
“Tôn giả Xá Lợi Phất”: Chữ Xá Lợi
(Śāri) trong tiếng Phạn là chim Thu Lộ, Phất
(Putra) là con. Do vậy, tên Ngài dịch là Thu Tử. Tên Ngài
đặt theo mẹ, mẹ Ngài thân h́nh đoan chánh, mắt
trong như mắt chim Thu Lộ nên đặt tên Ngài là Thu Tử,
nghĩa là con của bà Thu Lộ. Ngài c̣n có tên là Châu Tử,
cũng là do mắt mẹ Ngài trong như ngọc. Ngài c̣n
được gọi là Thân Tử v́ mẹ Ngài thân h́nh
đoan chánh.
Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất
trong các Thanh Văn đệ tử Phật. Lúc c̣n trong thai,
Ngài đă khiến cho mẹ nói năng hùng hồn hơn cả
ông cậu Câu Hy La (Kosthila: Vị này về sau cũng chứng
A La Hán). Tám tuổi đă lên ṭa giảng, mười sáu tuổi
đi các nước nghị luận vô song, trong ṿng bảy
ngày hiểu trọn Phật pháp.
Kinh này nói đến pháp hết thảy thế gian khó
tin được, chỉ có bậc đại trí mới
có thể tin tưởng sâu xa chẳng nghi ngờ. V́ vậy,
tên Ngài được kể ở đầu kinh ngay sau
ngài Kiều Trần Như.
“Tôn giả Mục Kiền
Liên” chính là ngài Ma Ha Mục Kiền Liên (Mahāmaudgalyāyana) trong kinh A Di Đà.
Ma Ha (Mahā) nghĩa là lớn, Mục Kiền
Liên (Maudgalyāyana) là họ, dịch
là Tán Tụng hay Thái Thúc, hoặc Lai Phục Căn. Ḍng họ
này nhiều người xuất gia nên trước tên của
tôn giả thêm chữ Đại thành Đại Thái Thúc (Đại Mục
Kiền Liên) để phân biệt. Tên Ngài là Câu Luật Đà
(Kolita). Cha Ngài làm Tướng Quốc, cầu con từ thần
cây Câu Luật Đà sanh được Ngài nên đặt tên
như thế. Trong các đệ tử Phật, Ngài thần
thông đệ nhất.
Trí Độ Luận viết: “Như
Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất, Mục
Kiền Liên thần túc đệ nhất”, “Xá Lợi Phất là đệ tử
bên phải Phật, Mục Kiện Liên là đệ tử
bên trái”.
Tôn giả thần thông rất rộng, chẳng hạn
như đem toàn bộ người họ Thích trong một
thành bay lên trời Phạm thiên; ngoại đạo dời
núi, Ngài chế ngự khiến núi chẳng lay động;
hàng phục rồng độc v.v... Những sự như
vậy khó ḷng thuật đủ.
“Tôn giả Ca Diếp”: Ca Diếp (Kāśyapa)
là
họ, Hán dịch là Quy hoặc Ẩm Quang. Ngài tên Tất
Ba La (Pippali), cũng là tên một loài cây. Do cha mẹ cầu
đảo nơi thần cây ấy sanh ra Ngài nên lấy tên
cây đặt tên. Tôn giả là con nhà trưởng giả
đại phú, bỏ cả gia tài lớn lao, tu đại
hạnh đầu-đà, được mọi người
biết đến nên gọi là Đại Ca Diếp (Mahākāśyapa)
để
phân biệt với ba vị Ca Diếp đồng thời:
Thập Lực Ca Diếp, Đồng Tử Ca Diếp, Đồng
Nữ Ca Diếp.
Ca Diếp c̣n dịch là Quy. Sách Pháp Hoa Văn Cú viết:
“Đời xưa học đạo,
rùa thiêng đội bản đồ của tiên ứng hiện.
Tên ḍng họ được đặt theo đức nên gọi
là họ Quy”.
Ca Diếp c̣n dịch là Ẩm Quang v́ thời Tỳ Bà
Thi Phật, Ngài làm thợ luyện kim cùng một cô gái nghèo
dùng vàng ṛng trang hoàng tượng Phật. Từ đấy
trở đi, trong chín mươi mốt kiếp, thân
như vàng ṛng, quang sắc chói ḷa che lấp các sắc khác
nên gọi là Ẩm Quang (Ẩm nghĩa là nuốt mất,
ánh sáng của Ngài “nuốt” mất các sắc khác).
Tôn giả hành đầu-đà bậc nhất. Đầu
Đà (Dhuta) là tiếng Phạn, Hán dịch là Đẩu Thấu hoặc
Đào Thải v́ mười hai hạnh ấy đào thải
trần lao phiền năo.
Mười hai hạnh là: Ở chốn A-lan-nhă (chốn
vắng lặng), thường hành khất thực; khất
thực theo thứ tự; ngày chỉ ăn một bữa;
ăn có chừng mực; sau giờ Ngọ chẳng uống
các thứ tương[3];
mặc y phấn tảo; chỉ có ba y; ngồi nơi mồ
mả; ngủ dưới gốc cây; ngồi nơi đất
trống; chỉ ngồi không nằm. Dùng các khổ hạnh
ấy để tảo trừ trần lụy, lắng
trong thân tâm.
Ca Diếp tuổi già chẳng bỏ hạnh đầu-đà.
Phật thương Ngài suy yếu khuyên hăy thôi nghỉ, Ca
Diếp vẫn giữ hạnh đầu-đà như
cũ, Phật khen ngợi nồng nhiệt rằng: “Hữu đầu-đà hạnh,
ngă pháp cửu tồn” (Có hạnh đầu-đà, pháp của
ta tồn tại lâu dài). Do vậy bảo Ngài hành đầu
đà bậc nhất.
Nói sơ lược, Đại Ca Diếp là Sơ Tổ
truyền tâm ấn Phật của Thiền Tông. Quyển thứ
ba kinh Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết
Nghi chép:
“Phạm
vương chí Linh Sơn, dĩ kim sắc Bát La hoa hiến
Phật, xả thân vi ṭa, thỉnh Phật vị chúng sanh
thuyết pháp. Thế Tôn đăng ṭa, niêm hoa thị chúng,
nhân thiên bách vạn, tất giai vơng thố. Độc hữu
Kim Sắc Đầu Đà phá nhan vi tiếu. Thế Tôn vân:
- Ngô hữu chánh pháp nhăn tàng, Niết Bàn diệu tâm, Thật
Tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, phó chúc Ma Ha Ca
Diếp” (Phạm
vương đến Linh Sơn đem hoa kim sắc Ưu
Bát La cúng Phật, dâng thân làm ṭa, thỉnh Phật v́ chúng sanh
thuyết pháp. Thế Tôn lên ṭa, giơ cành hoa cho chúng xem.
Trăm vạn trời người thảy đều
ngơ ngẩn, chỉ có Kim Sắc Đầu Đà hé miệng
mỉm cười, Thế Tôn nói: - Ta có chánh pháp nhăn tạng
Niết Bàn diệu tâm, Thật Tướng vô tướng
vi diệu pháp môn, phó chúc Ma Ha Ca Diếp).
Đây chính là công án “Thế Tôn niêm hoa” được truyền
tụng trong cơi đời.
Đức Thế Tôn truyền tâm ấn cho Ca Diếp
làm Sơ Tổ Thiền tông. Ca Diếp lại truyền cho
A Nan làm Nhị Tổ. Nay nêu tên ngài Đại Ca Diếp ở
đầu kinh chính là để biểu thị thâm ư Thiền,
Tịnh bất nhị.
“Tôn giả A Nan đẳng”: Bản Đường,
Tống dịch là A Nan Đà (Ānanda), gọi tắt
là A Nan, Hán dịch là Khánh Hỷ, Hoan Hỷ, c̣n dịch là Vô
Nhiễm. Ngài là con của Bạch Phạn Vương (Śuklodana), em họ của
Phật, sanh trong ngày Phật thành đạo. Tịnh Phạn
Vương (Śuddhodana) nghe tin Thái Tử
thành Phật, lại nghe trong cung sanh con trai càng thêm hoan hỷ,
bèn phán: “Hôm nay đại cát, là ngày hoan hỷ”, bảo với
sứ giả: “Đứa trẻ ấy nên đặt tên là A
Nan”.
Hơn nữa, tôn giả đoan chánh thanh tịnh
như tấm gương trong vắt. Trông thấy h́nh dạng
Ngài, nghe tiếng Ngài, xem uy nghi của Ngài, không ai chẳng
hoan hỷ, nên đặt tên như vậy.
Ngoài ra, tôn giả theo Phật vào long cung, thiên cung, tâm
không ham đắm. Phật đă năm mươi lăm
tuổi, A Nan mới xuất gia, hầu Phật hai
mươi lăm năm, pháp Phật tuyên thuyết Ngài
đều nhớ giữ, chẳng quên một chữ. Kinh
Niết Bàn gọi A Nan là bậc Đa Văn. Ngài Ca Diếp
cũng khen rằng: “Phật
pháp đại hải thủy, lưu nhập A
Chữ “đẳng” (等: vân vân...), bản
Ngụy dịch kể tên ba mươi mốt vị, c̣n hội
bản (bản hội tập) chỉ nêu trên năm vị
thượng thủ nên viết là “A
“Vi thượng thủ” (Làm Thượng
Thủ): Hiện tại gọi vị Thủ Tọa là
Thượng Thủ. Địa vị cao hơn hết trong
đại chúng gọi là Thượng Thủ. Số lượng
các vị Thượng Thủ trong các kinh chẳng đồng,
chẳng hạn như trong kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật
Nhiếp Thọ, trong số một ngàn hai trăm năm
mươi vị đại bật-sô (tỳ-kheo), nêu tên bốn
vị Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,
A Nê Luật Đà là Thượng Thủ. Kinh này th́ năm vị
như Kiều Trần Như v.v... làm Thượng Thủ.
Họ là Thượng Thủ trong các đại tôn giả “nhất thiết đại
thánh, thần thông dĩ đạt” (hết thảy
đại thánh thần thông đă đạt).
Xét ra, câu “nhất thiết
đại thánh thần thông dĩ đạt” vốn là
câu khen ngợi đức hạnh của Bồ Tát như
kinh Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ chép: “Dữ đại tỳ-kheo chúng tứ vạn
nhị thiên câu, Bồ Tát bát vạn tứ thiên, nhất thiết
đại thánh, thần thông dĩ đạt” (Cùng với đại chúng bốn vạn hai
ngàn đại tỳ-kheo, tám vạn bốn ngàn Bồ Tát, hết
thảy đại thánh thần thông đă đạt).
Kinh đây dùng lời khen ngợi Bồ Tát để ca
tụng Thanh Văn là ngụ ư các vị thánh chúng thường
theo hầu Phật vốn là Pháp Thân Đại Sĩ, ẩn Bổn
thùy Tích[4],
hoặc là thánh chúng phương khác giúp Phật hoằng hóa
đóng vai tṛ những người gây ảnh hưởng.
Câu “nhất thiết đại
thánh” (hết thảy đại thánh) chỉ Bổn
Địa của họ: Vốn là bậc Bồ Đề rốt
ráo. “Thần thông dĩ đạt”
(thần thông đă đạt) là Quyền Tích (thị hiện
phương tiện quyền biến): Dùng du hư thần
thông đến cơi này. Do vậy, biết được rằng
các hàng Thanh Văn vừa được nêu trên đều
là bậc đại quyền thị hiện hỗ trợ
đức Thế Tôn ta khai hiển pháp môn Tịnh Độ.
Xét chung, năm vị thánh nói trên:
- Liễu Bổn Tế biết rơ Bổn Tế lâu xa
nên được nêu tên đầu tiên.
- Thân Tử trí huệ bậc nhất biểu thị Phật
trí, trí chẳng nghĩ bàn, trí chẳng thể nói, trí Đại
thừa rộng lớn, trí không ǵ bằng, không chi sánh, tối
thượng thắng trí, sâu rộng không bờ bến của
Phật Di Đà.
- Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, hiển
thị thệ nguyện du hư thần thông.
- Đại Ẩm Quang hiển thị quang minh thù thắng
của Phật Di Đà không ǵ chẳng chiếu tỏ, là tôn
quư nhất trong các quang minh, là vua của các đức Phật.
- Khánh Hỷ biểu thị nghe tên hoan hỷ đều
được độ thoát.
Hơn nữa, Ca Diếp là Sơ Tổ của Tông môn
(Thiền Tông), A Nan là Nhị Tổ, A Nhă Kiều Trần
Như biểu thị bổn tế của đương
nhân, Xá Lợi Phất biểu thị trí huệ vốn sẵn
có của chúng sanh; Mục Kiền Liên chính là thần thông
chúng sanh sẵn có; Ẩm Quang là linh quang độc diệu,
thoát khỏi căn trần; Hoan Hỷ biểu thị sự
vui sướng b́nh sinh, tâm tâm tiếp nối.
V́ vậy, một bộ Đại kinh đúng là phó pháp truyền
tâm; một câu danh hiệu phơi bày trực tiếp Như
Lai diện mục. Lănh hội được điều
này mới đáng xưng là “hổ
mọc thêm sừng”. Chỉ cần hăm hở mà niệm
sẽ là vô thượng thâm thiền. Chẳng nệ định
tŕ, tán niệm[5],
quyết định chẳng phí uổng công lao.
Kinh này trước nêu Thanh Văn, sau kể Bồ Tát,
thật đúng như cuốn mười hai của Phật
Địa Luận đă viết: “Trước
nói Thanh Văn, sau nêu Bồ Tát. Chúng Thanh Văn gần
gũi Thế Tôn v́ được Phật đích thân giáo
hóa. Hơn nữa, các Thanh
Văn thường theo đức Phật nên h́nh tướng
giống với đức Phật”. V́ vậy, phần
nhiều các kinh thường nêu Thanh Văn rồi mới
nói đến Bồ Tát.
“Hựu hữu Phổ Hiền
Bồ Tát” (Lại có Phổ Hiền Bồ Tát): Bồ
Tát là chữ Phạn nói tắt, nói đủ là “Ma-ha Bồ-Đề
Chất-đế-tát-đỏa” (Maha Boddhisattva). Ma-ha dịch
là Đại, “Bồ Đề” là Đạo, “Chất-đế” là
Tâm, “Tát-đỏa” dịch là chúng sanh hoặc hữu t́nh. Gộp
lại là “đại đạo tâm chúng sanh”, nói gọn là Bồ
Đề Tát Đỏa, nghĩa là Giác Hữu T́nh.
Chứng ngộ giống như Phật là Giác. Chưa hết
vô minh nên gọi là Hữu T́nh. Giác lại có nghĩa là Phật
đạo ḿnh đang mong cầu, Hữu T́nh là chúng sanh ḿnh
đang hóa độ. Việc lợi sanh gấp rút, rộng
độ chúng sanh cùng chứng Đại Giác nên gọi là Giác
Hữu T́nh. Hai chữ Bồ Tát là cách nói giản lược
nhất.
V́ sao là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh? V́ đủ cả bốn
điều lớn lao. Tịnh Ảnh Sớ giảng bốn
điều lớn lao là: “Một
là nguyện đại, v́ cầu đại Bồ Đề.
Hai là hạnh đại, v́ thành tựu hai lợi (lợi
ḿnh, lợi người). Ba là
thời đại, v́ trải qua ba vô số kiếp. Bốn
là đức đại, v́ đầy đủ các công
đức Nhất Thừa”.
Bồ Tát cũng bao gồm lục đại của
kinh Pháp Hoa: tín đại pháp, giải đại nghĩa,
phát đại tâm, hướng đến đại quả,
tu đại hạnh, chứng đại đạo. Do
đầy đủ các thứ “đại” nói trên nên gọi
là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh.
Phổ Hiền (Samantabhadra) c̣n gọi là Biến Cát.
Thanh Lương Sớ nói Phổ Hiền có ba loại: Một
là Vị Tiền (phát tâm Phổ Hiền), hai là Vị Trung
(Đẳng Giác Bồ Tát), ba là Vị Hậu Phổ Hiền
(đắc quả nhưng chẳng xả nhân hạnh, tức
là đă thành Phật nhưng chẳng bỏ hạnh khi c̣n
tu nhân).
Thanh Lương Sớ giải thích chữ Phổ Hiền
như sau: “Quả không ǵ chẳng
cùng tận là Phổ, chẳng xả nhân địa là Hiền”.
Đấy chính là Vị Hậu Phổ Hiền do Như Lai hóa
hiện.
C̣n như sách Hội Sớ giảng: “Thể trọn khắp pháp giới là Phổ, địa
vị gần với bậc cực thánh là Hiền” th́
đấy là Vị Trung Phổ Hiền, là Đẳng Giác Bồ
Tát.
Sách Hội Sớ lại nói: “Có
thể dẫn dắt, chế ngự hết thảy, phát
mười đại nguyện vương, nguyện văng
sanh Tây phương, đặc biệt khen ngợi, giúp
đỡ đức Di Đà nên trong kinh này Ngài là thượng
thủ”.
Lại như sách Thám Huyền Kư viết: “Đức bao trùm pháp giới là Phổ,
thánh thiện, nhu ḥa đến cùng cực là Hiền”.
Quyển một của Đại Nhật Kinh Sớ ghi: “Phổ Hiền Bồ Tát: Phổ
là khắp hết thảy các chỗ, Hiền nghĩa là sự
lành mầu nhiệm nhất; tức là nguyện hạnh do
tâm Bồ Đề khởi lên và thân, miệng, ư thảy đều
b́nh đẳng, trọn khắp hết thảy các chỗ
đều thuần nhất diệu thiện, đầy
đủ các đức. V́ vậy, lấy đó làm tên”.
Phổ Hiền, Văn Thù là hai vị hiếp sĩ[6],
hầu hai bên Phật Thích Ca, là Thượng Thủ trong hội
của đức Thích Ca. Trong hội Hoa Nghiêm, họ
cũng là Thượng Thủ.
Phổ Hiền Bồ Tát c̣n là trưởng tử của
hết thảy chư Phật. Tứ Thập Hoa Nghiêm Tứ
Thập Tụng (bài kệ tụng trong quyển bốn
mươi của bộ Hoa Nghiêm bản dịch bốn
mươi quyển đời Đường) ghi: “Nhất thiết Như Lai hữu
trưởng tử, bỉ danh hiệu viết Phổ Hiền
Tôn” (Hết thảy Như Lai có trưởng tử, danh
hiệu của Ngài là Phổ Hiền) cho thấy Phổ Hiền chính là từ Pháp Thân của
Như Lai xuất hiện, hóa thành vị Đẳng Giác Đại
Sĩ khen ngợi Thích Tôn, xướng diễn thánh giáo.
Trong Mật giáo, Phổ Hiền chính là Kim Cang Tát Đỏa
(Vajrasattva), Sơ Tổ của Mật giáo. Kim Cang Tát Đỏa
chính là Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát (Vajrapāni). Kinh Thánh Vô Động
Tôn Đại Oai Nộ Vương Bí Mật Đà Ra Ni chép: “Thử Kim
Cang Thủ thị Pháp Thân đại sĩ, thị cố
danh Phổ Hiền” (Ông Kim Cang Thủ
đây là Pháp Thân Đại Sĩ; v́ vậy, tên là Phổ Hiền).
Sách Ngũ Bí Tát Quyết của ngài Kim Cang Trí cũng
ghi: “Kim Cang Tát Đỏa chính là tên
khác của Phổ Hiền Đại Bồ Tát, Ngài cũng
được gọi là con trưởng của hết thảy
Như Lai, cũng gọi là Đại A Xà Lê”.
Phẩm thứ hai Đức Tuân Phổ Hiền của
kinh này cũng có câu: “Vị giáo
Bồ Tát, tác A Xà Lê” (V́ dạy Bồ Tát, làm A Xà Lê). Nay
trong kinh này, Phổ Hiền Đại Sĩ được kể
tên là bậc Thượng Thủ cao nhất, chính là để
hiển thị: Mật, Tịnh bất nhị. V́ vậy,
tiên sư là Hạ lăo cư sĩ nói: “Tịnh Độ chính là hiển thuyết của Mật
giáo (Tổ sư Liên Hoa Sanh Đại Sĩ (Padmasambhava) của
Hồng giáo Mật tông Tây Tạng chính là hóa thân của A Di
Đà Phật. V́ vậy, Hồng giáo tôn sùng A Di Đà Phật, sốt
sắng khuyên sanh về Cực Lạc hơn các tông phái
khác. Trong bản giải thích kinh này, tạm chẳng bàn luận
về chi tiết yếu chỉ Mật, Tịnh bất nhị).
“Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát” (Mañjuśrī) cũng gọi là Mạn Thù Thất Lợi,
Hán dịch là Diệu Thủ, cũng dịch là Diệu Cát
Tường, c̣n dịch là Diệu Đức, là thầy của
chư Phật. Kinh Phóng Bát chép:
“Kim ngă đắc Phật, giai
thị Văn Thù Sư Lợi chi ân dă. Quá khứ vô
ương số chư Phật giai thị Văn Thù Sư
Lợi đệ tử. Đương lai giả diệc
thị kỳ oai thần lực sở trí. Thí như thế
gian tiểu nhi hữu phụ mẫu, Văn Thù giả, Phật
đạo trung phụ mẫu dă” (Nay tôi được thành Phật đều do ơn của
Văn Thù Sư Lợi. Quá khứ vô ương số
chư Phật đều là đệ tử của Văn
Thù Sư Lợi. Các vị tương lai cũng cậy sức
oai thần của Ngài. Ví như trẻ nít trong cơi đời
có cha mẹ, Văn Thù là cha mẹ trong Phật đạo vậy).
Kinh Tâm Địa Quán nói: “Tam thế
giác mẫu Diệu Cát Tường” (Mẹ giác ngộ của ba đời là Diệu
Cát Tường).
Sách Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường giảng chữ
Diệu Đức như sau: “Văn
Thù, cơi này dịch là Diệu Đức, do thấy rơ ràng Phật
tánh, đức không ǵ chẳng viên măn, quả không ǵ chẳng
cùng tột, nên xưng là Diệu Đức”.
Hội Sớ chép: “Trọn
đủ ba đức bí tạng, thần hóa (sự giáo
hóa biến hiện) chẳng thể nghĩ bàn, nên gọi
là Diệu Đức”. Viên Trung Sao giảng danh hiệu
Diệu Đức như sau: “Chứng
ba đức vi diệu giống như Phật nên cũng gọi
là Diệu Cát Tường... Ba thứ Hoặc, Nghiệp, Khổ
nếu c̣n có chút phần th́ chẳng gọi là Cát Tường.
Địa vị đạt đến rốt ráo, ba đức
hiển lộ trọn vẹn, nên lại có hiệu là Diệu
Cát Tường”.
Trong chúng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là bậc
trí huệ bậc nhất. Ngài vốn là Long Chủng Tôn
Vương Như Lai, hiện tại Ngài ở cơi Thường
Hỷ phương Bắc thành Phật, hiệu là Bảo
Tích Như Lai. Đời vị lai, Ngài sẽ thành Phật hiệu
là Phổ Kiến Như Lai. Như vậy, Đại Sĩ
Văn Thù thành Phật trong ba đời quá khứ, hiện
tại, vị lai. Nay Ngài thị hiện trong hội này làm
bậc đại trí độc tôn, biểu thị pháp môn
này chỉ có người đại trí mới có thể tín
nhập nổi.
Hơn nữa, Diệu Đức là thấy rành rẽ Phật
tánh nên kinh văn đặt Ngài làm Thượng Thủ tiếp
ngay theo Phổ Hiền chính nhằm để biểu thị
ư chỉ Thiền, Tịnh bất nhị.
“Di Lặc Bồ
Tát, cập Hiền kiếp trung nhất thiết Bồ Tát,
giai lai tập hội” (Di Lặc Bồ Tát và hết thảy Bồ
Tát trong Hiền kiếp đều đến nhóm hội):
Di Lặc (Maitreya), Hán dịch là Từ Thị, là họ của
Bồ Tát, tên Ngài là A Dật Đa (Ajita), Hán dịch Vô Năng
Thắng; nói đầy đủ là Từ Vô Năng Thắng.
Sách Di Đà Sớ Sao giảng:
“Do khi Ngài c̣n trong thai, mẹ
liền có tâm Từ, nên lấy đó làm họ. Lại trong
đời quá khứ, gặp Đại Từ Như Lai, nguyện
cùng mang hiệu này liền đắc Từ Tâm tam-muội.
Lại nữa, xưa kia Ngài làm Bà-la-môn, hiệu là Nhất Thiết Trí,
trong tám ngàn năm tu tập hạnh Từ. Trong thời
đức Phất Sa Phật, lại cùng với Thích Ca
Như Lai phát tâm Bồ Đề thường tu tập Từ
Định.
Kinh Tư Ích lại chép: ‘Chúng sanh kiến
giả, tức đắc Từ Tâm tam-muội’ (Chúng sanh trông thấy Ngài liền đắc Từ
Tâm tam-muội). Kinh Bi Hoa lại chép: ‘Phát nguyện
ư đao binh kiếp trung, ủng hộ chúng sanh’ (Phát nguyện trong kiếp đao binh, ủng hộ
chúng sanh) nên Ngài từ bi giáng sanh trong cơi đời,
thương xót đến muôn kiếp sau, ḷng Từ đến
cùng tột, vượt xa phàm tiểu nên không ai hơn
được Ngài (Vô Năng Thắng)”.
Đại Sĩ ở địa vị Bổ Xứ, hiện
đang ở Đâu Suất nội viện, bốn ngàn năm
sau (bốn ngàn năm của trời Đâu Suất
tương đương với năm mươi bảy
ức sáu trăm vạn năm ở địa cầu) sẽ
hạ sanh trong cơi này thành Phật, phước đức
thù thắng, ba hội Long Hoa độ sanh vô lượng.
Kinh này lấy ba vị Đại Sĩ trên đây làm
Thượng Thủ của chúng Bồ Tát là v́ ba vị Đại
Sĩ có duyên sâu xa với Tịnh Độ, thật khéo ảnh
hưởng hải hội đại chúng cùng quy hướng
Tịnh Độ. Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện,
Phổ Hiền Bồ Tát ở trong rừng Thệ Đa phát mười
đại nguyện vương, rồi nói:
“Thị nhân lâm mạng chung thời,
tối hậu sát-na, nhất thiết chư căn tất
giai tán hoại, nhất thiết thân thuộc tất giai viễn
ly, nhất thiết oai thế tất giai thoái thất, phụ
tướng, đại thần, cung điện nội ngoại,
tượng mă xa thặng, trân bảo phục tạng,
như thị nhất thiết vô phục tương tùy,
duy thử nguyện vương bất tương xả
ly, ư nhất thiết thời dẫn đạo kỳ
tiền, nhất sát-na trung tức đắc văng sanh Cực
Lạc thế giới. Đáo dĩ, tức kiến A Di
Đà Phật”
(Kẻ ấy
lúc lâm chung, trong sát-na cuối cùng, hết thảy các căn
đều tán hoại, hết thảy thân thuộc đều
xa ĺa, hết thảy oai thế đều thoái thất. Phụ
tướng, đại thần, cung điện, trong,
ngoài, voi, ngựa, xe cộ, kho tàng quư báu, hết thảy các
thứ như vậy đều chẳng theo ḿnh nữa, chỉ
có nguyện vương này chẳng rời bỏ, trong hết
thảy thời nó dẫn đường trước mặt,
trong một sát-na liền được văng sanh Cực Lạc
thế giới. Đến nơi rồi, liền thấy A Di
Đà Phật).
Ngài lại nói kệ rằng:
“Nguyện ngă lâm dục mạng
chung thời, tận trừ nhất thiết chư chướng
ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức
đắc văng sanh An Lạc sát. Ngă kư văng sanh bỉ quốc
dĩ, hiện tiện thành tựu thử đại nguyện,
nhất thiết viên măn tận vô dư, lợi lạc nhất
thiết chúng sanh giới” (Nguyện tôi vào
lúc mạng sắp dứt, trừ sạch hết thảy
các chướng ngại. Tận mặt thấy Phật A
Di Đà, liền được văng sanh cơi An Lạc. Tôi đă
văng sanh cơi ấy rồi, hiện tiền thành tựu đại
nguyện này, viên măn hết thảy chẳng c̣n sót, lợi
lạc hết thảy chúng sanh giới).
Lại nữa, trong kinh Văn Thù Phát Nguyện có câu: “Nguyện ngă mạng chung thời,
diệt trừ chư chướng ngại, diện kiến
A Di Đà, văng sanh An Lạc sát, sanh bỉ Phật quốc
dĩ, thành măn chư đại nguyện, A Di Đà Như
Lai, hiện tiền thọ ngă kư” (Nguyện tôi lúc mạng chung, diệt trừ các chướng
ngại, gặp mặt A Di Đà, văng sanh cơi An Lạc. Sanh cơi
Phật ấy rồi, thành măn các đại nguyện, A Di
Đà Như Lai hiện tiền thọ kư cho).
Hai vị Đại Sĩ phát nguyện cầu sanh Cực
Lạc thù thắng như thế ấy nhằm khuyên nhủ
hết thảy Bồ Tát hăy đều tin kính đại
trí của Văn Thù, nhập đại hạnh của Phổ
Hiền, dẫn dắt khắp các chúng sanh cùng về Cực
Lạc. V́ vậy, kinh này nêu các Ngài làm Thượng Thủ.
Tiếp đó, kinh nêu tên Bồ Tát Di Lặc.
Kinh Đại Bảo Tích, pháp hội Phát Thắng Chí Nhạo
Hội, có chép: “Nhược
hữu chúng sanh phát thập chủng tâm, tùy nhất nhất
tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, thị nhân mạng chung
đương đắc văng sanh bỉ Phật thế giới.
Thế Tôn! Hà đẳng danh vi phát thập chủng tâm, do
thị tâm cố, đương đắc văng sanh bỉ
Phật thế giới?” (Nếu có chúng
sanh phát mười tâm, đối với mỗi mỗi tâm
chuyên niệm hướng về A Di Đà Phật, người
ấy mạng chung sẽ được văng sanh thế giới
của đức Phật ấy. Bạch Thế Tôn! Những
ǵ gọi là phát mười thứ tâm, do những tâm ấy
sẽ được văng sanh thế giới của đức
Phật ấy?), đủ thấy Di Lặc Đại Sĩ
phụ trợ đức Thích Ca hoằng truyền diệu
pháp Tịnh Độ.
Hơn nữa, trong phẩm thứ ba mươi hai ở
phần sau kinh này, ngài Di Lặc là đương cơ.
Trong phẩm bốn mươi sáu, Phật phó chúc Đại
Sĩ Di Lặc như sau: “Ngă kim
như lư tuyên thuyết như thị quảng đại vi
diệu pháp môn, nhất thiết chư Phật chi sở
xưng tán, phó chúc nhữ đẳng tác đại thủ
hộ… đương linh thị pháp, cửu trụ bất
diệt” (Ta nay theo đúng
lư tuyên thuyết pháp môn rộng lớn vi diệu được
hết thảy chư Phật khen ngợi như thế
này, giao phó các ông thực hiện sự thủ hộ rộng
lớn… để pháp này được tồn tại lâu
dài chẳng diệt).
Ngài Di Lặc tuân lănh lời Phật phó chúc, hoằng tŕ
kinh này. V́ vậy Đại Sĩ chẳng chỉ trong hội
Long Hoa đời tương lai quyết nói kinh này mà c̣n suốt
tột cùng đời vị lai cũng sẽ thường
nói kinh này chẳng dứt.
“Hiền Kiếp”: Trụ kiếp
hiện tại tên là Hiền Kiếp. Trong đại kiếp
này có một ngàn đức Phật xuất thế, v́ vậy
tên là Hiền kiếp. Quyển năm kinh Bi Hoa chép: “Thử Phật thế giới
đương danh Sa Bà… Thời hữu đại kiếp,
danh viết Hiền Thiện… Thị đại kiếp
trung, hữu thiên Thế Tôn, thành tựu đại bi, xuất
hiện ư thế” (Thế giới
Phật này sẽ có tên là Sa Bà… Khi ấy có đại kiếp
tên là Hiền Thiện, trong đại kiếp ấy, có một
ngàn vị Thế Tôn thành tựu đại bi, xuất hiện
trong cơi đời).
Theo sách Phật Tổ Thống Kư, trong kiếp này, đức
Phật thứ nhất tên Câu Lưu Tôn Phật (Krakkucchanda), kế đến là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật (Konāgamana), vị thứ
ba là Ca Diếp Phật, vị thứ tư là đức
Thích Ca Mâu Ni Phật hiện tại. Sau đấy có Di Lặc
Phật v.v… chín trăm chín mươi sáu vị Phật nối
tiếp nhau xuất thế. Nay trong hội này, Di Lặc Bồ
Tát và chín trăm chín mươi lăm vị Đại Sĩ
khác sẽ thành Phật trong Hiền Kiếp đều
đến nhóm hội, nghe Phật thuyết pháp.
V́ vậy, ta biết rằng hết thảy các đức
Phật vị lai trong Hiền Kiếp đều sẽ
tuyên thuyết kinh này (nói thêm: Trong Hiền kiếp có tất
cả một ngàn lẻ năm vị Phật, một ngàn lẻ
một vị từ Di Lặc trở đi đều
chưa thành Phật, chẳng thường thấy đề
cập đến, nên chẳng chép chi tiết).
Trong phẩm thứ nhất, dùng Tín, Văn, Thời, Chủ, Xứ,
Chúng, sáu thứ thành tựu để chứng tín kinh này. Giống
như kinh Pháp Hoa, chúng đại tỳ-kheo trong kinh này là một
vạn hai ngàn vị trỗi vượt hẳn các kinh khác.
Hơn nữa, giống như kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền
Bồ Tát là vị Thượng Thủ đầu tiên của
kinh này. Rơ ràng, kinh này tương đồng hai kinh Viên Giáo
vừa nói trên.
[1]
Yết Ma (羯 磨: Karman) có nhiều
nghĩa, ở đây chỉ các sự kiện liên quan tới
sự thọ giới, sám hối, kết giới, tức
là những hành vi trong đàn thọ giới nhằm diệt
ác sanh thiện. Nếu nói chi tiết th́ Yết Ma bao gồm
bốn yếu tố Pháp (tác pháp), Sự (tất cả những
sự tướng liên quan đến hành vi Yết Ma,
như khải thỉnh, bạch, khảo giới, tuyên giới
v.v…), Nhân (người truyền trao giới và người
nhận giới), Giới (nơi chốn tiến hành Yết
Ma).
[2] Nội điển ngoại tịch: Nội
điển là kinh sách trong Phật môn, ngoại tịch là những
sách vở thế gian.
[3] Tương (漿): Ở đây chỉ cho các
thứ nước được chế biến từ thực
phẩm như nước trái cây ép, súp...
[4] Bổn: Quả địa thật sự,
Tích là những hạnh, những quả vị biến hiện.
Chẳng hạn, Quán Thế Âm Bồ Tát là cổ Phật
(Chánh Pháp Minh Như Lai, đây là Bổn), nhưng thị hiện
thân Bồ Tát (đây là Tích) nhằm giúp A Di Đà Phật và
Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh.
[5] Định tŕ: Tŕ niệm với Định
tâm, niệm tại đâu chú tâm vào đó không xen tạp, tán
loạn. Tán niệm: Niệm Phật mà tâm tán loạn,
chưa thể định được!
[6] Hiếp Sĩ (脅 士): Hiếp là cái hông. Hiểu
theo nghĩa hẹp, “hiếp sĩ” chỉ cho vị Bồ
Tát đứng hầu hai bên Phật, như Quán Âm, Thế
Chí là hiếp sĩ của Phật Di Đà. Hiểu theo
nghĩa rộng, Hiếp Sĩ là trưởng tử, đệ
tử thân cận, trợ thủ đắc lực nhất
của một vị Phật.