46. Cần Tu Kiên Tŕ (勤 修 堅 持:
Siêng tu
giữ vững)
Trong phẩm này, đức Thế Tôn phó chúc đại
chúng thủ hộ kinh này, rồi lại dạy nên cứu
giúp chúng sanh; kế đó dạy hạnh phải
tương ứng với tín giải để cầu sanh
Tịnh Độ.
Chánh kinh:
佛 告 彌 勒:諸 佛 如 來 無 上 之 法,十 力 無 畏,無 礙 無 著,甚 深 之 法,及 波 羅 密 等 菩 薩 之 法,非 易 可 遇。能 說 法人,亦 難 開 示。堅 固 深 信,時 亦 難 遭。我 今 如 理 宣 說 如 是 廣 大 微 妙 法 門,一 切 諸 佛 之 所 稱 讚。付 囑 汝 等,作 大 守護。
Phật cáo Di Lặc: - Chư Phật
Như Lai vô thượng chi pháp, thập lực vô úy, vô ngại,
vô trước, thậm thâm chi pháp, cập Ba La Mật đẳng
Bồ Tát chi pháp, phi dị khả ngộ. Năng thuyết
pháp nhân, diệc nan khai thị. Kiên cố thâm tín, thời diệc
nan tao. Ngă kim như lư tuyên thuyết như thị quảng
đại vi diệu pháp môn, nhất thiết chư Phật
chi sở xưng tán, phó chúc nhữ đẳng, tác đại
thủ hộ.
Phật bảo
Di Lặc: - Pháp vô thượng của chư Phật
Như Lai như thập lực vô úy, pháp vô ngại vô trước
thậm thâm và các pháp của Bồ Tát như Ba La Mật
v.v… chẳng thể dễ gặp. Người có khả
năng thuyết pháp cũng khó khai thị. Tin sâu kiên cố
thời cũng khó gặp gỡ. Ta nay đúng như lư tuyên
nói pháp môn vi diệu, rộng lớn, được hết
thảy chư Phật khen ngợi, phó chúc cho các ông thực
hiện sự thủ hộ lớn lao.
Giải:
Đoạn đầu trong phẩm này là lời phó chúc hộ
tŕ kinh này. “Vô thượng chi
pháp” là như Văng Sanh Luận Chú đă viết: “Vô thượng là đạo này
cùng lư, tận tánh, không c̣n ǵ cao hơn nữa”. “Vô thượng
pháp” là Niết Bàn. Trí Độ Luận nói: “V́ thế biết là không có pháp nào hơn được
Niết Bàn”.
“Thập lực” là mười lực
dụng mà đức Như Lai vốn có:
1. Một là giác thị xứ phi xứ trí lực. Xứ
(處) ở đây nghĩa là đạo lư. Trí lực
biết được đạo lư và phi đạo lư của
chúng sanh mà cũng có nghĩa
là trí biết hết thảy nhân duyên, quả báo của
chúng sanh. Tạo nghiệp vui được báo vui, nhân quả
phù hợp với nhau th́ gọi là “thị xứ”. Tạo
nghiệp ác lại cầu quả vui th́ nhân quả trái nghịch
nhau nên là “phi xứ”, như
ta thường nói “vô hữu thị
xứ” (chẳng có lẽ ấy).
2. Hai là nghiệp trí lực: Trí lực biết nhân quả,
nghiệp báo trong ba đời của hết thảy chúng
sanh, trí lực biết là thiện hay bất thiện, hữu
lậu hay vô lậu v.v…
3. Ba là định trí lực: Trí lực biết các Thiền
Định, giải thoát tam-muội.
4. Bốn là căn trí lực: Biết các căn tánh của
chúng sanh là thượng hay hạ, giáo hóa tùy theo căn
cơ.
5. Năm là dục trí lực: Trí lực biết hết
thảy các thứ tri giải (hiểu biết) của chúng
sanh, biết các điều ưa thích của những chúng
sanh khác, mỗi người đều sai khác.
6. Sáu là giới trí lực: Trí lực biết các giới,
đối với hết thảy cảnh giới sai khác của
chúng sanh trong thế gian đều biết đúng như thật
cả.
7. Bảy là chí xứ trí lực: Trí lực biết
tướng trạng của chỗ đạt đến
của hết thảy đạo, biết tu theo giáo pháp
nào, đạo phẩm nào sẽ được địa
vị nào. Chẳng hạn như tu Ngũ Giới, Thập
Thiện sẽ đạt đến nhân thiên, tu pháp Bát
Chánh Đạo vô lậu sẽ đạt đến Niết
Bàn.
8. Tám là túc mạng trí lực: Biết từ một
đời cho đến trăm ngàn vạn đời của
chúng sanh: tên, họ, thọ yểu, khổ, vui v.v…
9. Chín là thiên nhăn trí lực: Trí lực thấy chúng sanh
thọ sanh xả báo, sống sống, chết chết, từ
nẻo nào sanh ra, sẽ sanh vào đường nào và các nghiệp
duyên thiện ác, hoặc khổ, hoặc vui một cách vô
chướng ngại.
10. Mười là lậu tận trí lực: Trí lực
vĩnh viễn đoạn dứt chẳng sanh khởi các
vọng hoặc, tập khí, biết được một
cách chân thật, chẳng c̣n thọ thân hậu hữu.
“Vô úy” chính là Tứ
Vô Úy, hay c̣n gọi là Tứ Vô Sở Úy. Do hóa độ
người khác tâm chẳng kinh khiếp nên gọi là “vô úy”. Ở đây chữ “vô úy” chỉ Tứ Vô Úy của
đức Phật (đă giải thích tường tận
trong phẩm mười bảy).
“Vô ngại” là thông đạt
tự tại, thâm nhập lẫn nhau, cả hai dung thông
thành một thể như ánh đèn chiếu chập bóng vào
nhau, đó là tướng vô ngại. Sách Văng Sanh Luận Chú
nói: “Vô ngại nghĩa là biết
sanh tử chính là Niết Bàn, b́nh đẳng nhập vào
tướng vô ngại bất nhị như thế”.
Tông Hoa Nghiêm lập ra bốn pháp giới. Theo sách Đại
Minh Pháp Số, bốn pháp giới là:
1. Một là Sự pháp giới tức là các pháp như
chúng sanh, sắc, tâm… mỗi pháp sai biệt, mỗi pháp
đều khu biệt nên gọi là Sự pháp giới.
2. Lư pháp giới tức là các pháp: chúng sanh, sắc, tâm
v.v… tuy có sai biệt, nhưng đồng một thể tánh
nên gọi là Lư pháp giới.
3. Ba là lư sự vô ngại pháp giới tức là Lư do Sự
mà hiển, Sự nhờ Lư được thành. Lư-Sự
dung hội lẫn nhau nên gọi là Lư Sự vô ngại pháp
giới.
4. Bốn là Sự Sự vô ngại pháp giới tức
là hết thảy sự tuy có phần hạn riêng biệt,
nhưng xét về tánh th́ chúng viên dung, một chính là nhiều,
nhiều chính là một, lớn nhỏ chứa đựng
lẫn nhau, trùng trùng vô tận nên gọi là sự sự vô
ngại pháp giới hay vô chướng ngại pháp giới.
Nay những điều được kinh này tuyên thuyết
chính là pháp rất sâu: Lư Sự vô ngại pháp giới và Sự
Sự vô ngại pháp giới của Như Lai.
“Vô trước” là không có ư niệm
chấp trước như kinh Kim Cang dạy: “Vô hữu định pháp danh A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, diệc vô hữu
định pháp Như Lai khả thuyết. Hà dĩ cố?
Như Lai sở thuyết pháp, giai bất khả thủ, bất
khả thuyết, phi pháp, phi phi pháp” (Không có pháp nhất
định nào gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, cũng chẳng có pháp nhất định để
Như Lai có thể nói được. V́ cớ sao? Pháp của
đức Như Lai đă nói đều chẳng lấy
được, chẳng nói được, chẳng phải
là pháp, chẳng phải là phi pháp).
Sách Phá Không Luận giảng:
“Vô thượng Bồ Đề
siêu t́nh ly kiến, chính là bờ kia rốt ráo. Chẳng những
không ǵ chẳng phải là pháp tướng mà cũng chẳng
có pháp tướng nào để đạt được
nên bảo là ‘vô hữu định pháp danh A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề’. Điều được chứng đă siêu t́nh ly kiến
mà điều được nói cũng là siêu t́nh ly kiến
nên bảo là ‘diệc vô hữu định pháp Như Lai khả
thuyết’. V́ sao vậy? Bờ kia Thật Tướng tuy
là ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh cùng diệt, chẳng
thể lấy hay nói được, nhưng Như Lai dùng
bốn Tất Đàn làm nhân duyên nên cũng có thể nói
được. Nhưng pháp được nói ra đó chỉ
là tùy thuận Tứ Tất Đàn, nên mỗi một câu, một
lời ấy không ǵ là chẳng siêu t́nh ly kiến, ĺa tứ
quá, tuyệt bách phi, cũng
đều chẳng thể lấy được, chẳng
thể nói được, chẳng phải pháp, chẳng phải
là phi pháp”.
Chữ “vô trước” dùng
trong kinh đây có ư nghĩa giống như chữ “vô trước” trong đoạn
kinh Kim Cang vừa dẫn, khác nào hoa sen chẳng dính nước,
như nhật, nguyệt chẳng trụ trên không. Có “vô trước” th́ mới nở
được đóa sen nhiệm mầu vạn đức
trọn đủ. “Bất trụ”
(chẳng trụ) vào hư không th́ mặt trời, mặt
trăng mới có thể vận hành chẳng nghỉ, quang
minh chiếu khắp.
“Phi dị khả ngộ” (Chẳng thể
dễ gặp) ư nói: Các pháp trên đây của Như Lai đều
là khó được gặp gỡ. Nếu có ai được
nghe th́ đều là do đời trước từng tu
hành Phật đạo, chẳng phải là phàm nhân nên bảo
là “phi dị khả ngộ”.
Dẫu có người khéo thuyết pháp th́ đối với
pháp môn siêu t́nh ly kiến, thậm thâm bất khả tư
nghị này cũng khó thể dùng ngôn ngữ, văn tự
để hiển thị được như kinh đây
có câu: “Phi thị ngữ ngôn
phân biệt nhi sở năng tri” (Chẳng thể dùng
ngôn ngữ, phân biệt để biết được nổi).
V́ thế Phật dạy: “Năng
thuyết pháp nhân, diệc nan khai thị” (Người có
thể thuyết pháp cũng khó khai thị).
Nếu ai có thể sanh ḷng tin sâu xa nơi pháp hết thảy
thế gian khó tin này th́ đó là do thiện căn đă gieo
trong nhiều đời trước tới nay cùng phát
động. Đây quả là một dịp hy hữu khó gặp
trong vạn kiếp, ngàn đời nên bảo là “kiên cố thâm tín, thời diệc
nan tao” (tin sâu kiên cố, thời cũng khó gặp).
Từ chữ “ngă kim như
lư tuyên thuyết” (ta nay đúng như lư tuyên nói) đến
“tác đại thủ hộ” (thực
hiện sự thủ hộ lớn lao) chính là lời phó
chúc. “Như lư” là phù hợp
với lư. “Quảng đại
vi diệu”: Pháp môn này trọn đủ vạn đức,
độ khắp các căn cơ nên bảo là “quảng đại”; do v́ niệm
Phật nên thiện căn, phước đức chóng
được bằng với chư Phật, thần diệu
khó nghĩ lường nên bảo là “vi diệu”. Câu “nhất
thiết chư Phật chi sở xưng tán” (được
hết thảy chư Phật khen ngợi) có hai ư nghĩa:
1. Một là như trong phẩm hai mươi ba của
kinh này có nói mười phương vô lượng chư
Phật mỗi vị đều khen ngợi công đức
chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật.
2. Hai là như kinh A Di Đà dạy: “Bỉ chư Phật đẳng diệc xưng tán
ngă bất khả tư nghị công đức, nhi tác thị
ngôn: Thích Ca Mâu Ni Phật, năng vi thậm nan hy hữu chi
sự, năng ư Sa Bà quốc độ, ngũ trược
ác thế… vị chư chúng sanh, thuyết thị nhất
thiết thế gian nan tín chi pháp” (Các đức Phật
ấy cũng khen ngợi công đức chẳng thể
nghĩ bàn của ta, mà nói như sau: Thích Ca Mâu Ni Phật làm
được chuyện rất khó hy hữu, có thể ở
nơi cơi Sa Bà trong đời ác ngũ trược… v́ các
chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó tin nổi này).
Mười phương chư Phật đều khen đấng
Thích Tôn diễn nói kinh này.
Vả lại, kinh Di Đà nguyên có tên là Bất Khả
Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm Kinh nên biết rằng kinh pháp như vậy
thật sự được mười phương
chư Phật khen ngợi, hộ niệm. Bởi thế,
đức Thích Tôn phó chúc cho các vị như Di Lặc thực
hiện sự đại thủ hộ. “Đại” (大) là siêu việt muôn loài, là v́ pháp
môn này đệ nhất hy hữu nên gọi là “đại”. Thủ hộ
kinh này nên gọi là Đại. Giữ ǵn c̣n hơn giữ
ǵn đầu, mắt, siêu việt thường t́nh nên gọi
là Đại.
Bản Đường dịch c̣n chép: “Nhữ A Dật Đa! Ngă dĩ thử pháp môn cập
chư Phật pháp, chúc lũy ư nhữ. Nhữ
đương tu hành… Ngă kim vi đại chúc lũy,
đương linh thị pháp cửu trụ bất diệt”
(Ông A Dật Đa! Ta
đem pháp môn này và các Phật pháp giao phó cho ông. Ông nên tu hành…
Ta nay thực hiện sự phó chúc lớn lao để pháp
này sẽ được tồn tại lâu dài chẳng diệt).
Thế Tôn trân trọng giao phó cho các vị như Di Lặc
đại sĩ ǵn giữ cẩn trọng. Trong pháp hội
Vô Lượng Thọ, Từ Thị đại sĩ vâng
lănh lời Phật ủy thác nên trong tương lai khi Ngài
hạ sanh ắt sẽ hoằng truyền kinh này.
Chánh kinh:
為 諸 有 情 長 夜 利 益,莫 令 眾 生 淪 墮 五 趣,備 受 危 苦。應 勤 修 行,隨 順 我 教。當 孝 於 佛,常 念 師 恩。當 令 是 法 久 住 不 滅。當 堅 持 之,無 得 毀 失。無 得 為 妄,增 減 經 法。
Vị chư hữu t́nh trường dạ
lợi ích, mạc linh chúng sanh luân đọa ngũ thú, bị
thọ nguy khổ. Ưng cần tu hành, tùy thuận ngă giáo.
Đương hiếu ư Phật, thường niệm
sư ân. Đương linh thị pháp cửu trụ bất
diệt. Đương kiên tŕ chi, vô đắc hủy thất.
Vô đắc vi vọng, tăng giảm kinh pháp.
Làm lợi ích cho các hữu t́nh trong đêm dài, chẳng
để cho chúng sanh ch́m đắm trong năm đường,
chịu đựng trọn đủ khổ ách. Phải siêng tu hành tùy thuận lời dạy
của ta, nên hiếu với Phật, thường nghĩ
ân thầy, khiến cho pháp này tồn tại dài lâu chẳng
diệt, hăy nên ǵn giữ vững, không được hủy
mất, không được làm quấy, tăng giảm kinh
pháp.
Giải:
Thế Tôn ân cần trân trọng phó chúc như thế v́
trong đời Mạt Pháp chỉ có pháp này mới có thể
ban cho chúng sanh cái lợi chân thật. Bởi thế, Phật
dặn ḍ các vị đại sĩ thủ hộ phải
làm đèn sáng cho hết thảy chúng sanh trong biển sanh tử,
dẫn dắt chúng sanh vượt qua biển khổ nên bảo
là “trường dạ lợi
ích” (tạo lợi ích trong đêm dài). Nhờ vào diệu
pháp này nên các loài chúng sanh chóng ĺa được sanh tử,
chẳng đọa vào năm đường, khỏi chịu
các khổ. V́ thế, Phật phó chúc các vị như Di Lặc
phải hộ tŕ kinh này.
Từ câu “ưng cần tu
hành” (phải siêng tu hành) trở đi, kinh nêu lên hai
điều lợi ích rốt ráo: tự giác và giác tha, chỉ
nên tùy thuận lời Phật dạy, giữ ǵn vững
vàng kinh pháp, siêng năng tu tập ḥng báo đền ơn Phật.
Cả ba câu: “Tùy thuận
ngă giáo, đương hiếu ư Phật, thường
niệm sư ân” (Tùy thuận lời ta dạy, nên hiếu
với Phật, thường nghĩ ân thầy) đều
nói lên ư tôn sư, trọng đạo, phụng hành đúng
theo lời dạy; cực lực răn dạy hành nhân chẳng
nên ích kỷ, trái nghịch bổn sư, ĺa kinh, phản
đạo.
Nên biết rằng trong cái đạo lợi ích khắp
tất cả th́ trước hết là “đương linh thị pháp cửu trụ bất
diệt” (khiến cho pháp này được tồn tại
lâu chẳng diệt). Để pháp được tồn tại
lâu dài th́ phải “đương
kiên tŕ chi, vô đắc hủy thất, vô đắc vi vọng,
tăng giảm kinh pháp” (hăy nên ǵn giữ vững, không
được hủy hoại, đánh mất, không
được làm quấy tăng giảm kinh pháp); ấy
là v́: Nói ra ngoài kinh một chữ th́ có khác ǵ ma nói?
Chánh kinh:
常 念 不 絕,則 得 道 捷。我 法 如 是,作 如 是 說。如 來 所 行,亦 應 隨 行。種 修 福 善,求 生 淨 剎。
Thường
niệm bất tuyệt, tắc đắc đạo tiệp.
Ngă pháp như thị, tác như thị thuyết. Như Lai
sở hành, diệc ưng tùy hành. Chủng tu
phước thiện, cầu sanh tịnh sát.
Thường niệm
chẳng dứt th́ đắc đạo nhanh chóng. Pháp ta
như thế, nói ra như thế, cũng nên hành theo hạnh
Như Lai hành, vun bồi phước thiện, cầu sanh
cơi tịnh.
Giải:
“Thường niệm bất tuyệt, tắc
đắc đạo tiệp”. Tám câu trên đây chính là lời tổng kết
của cả bản kinh này, là cương yếu tu hành của
Tịnh
tông. Toàn bộ phần trường hàng do đức Thế
Tôn nói ra trong pháp hội này đến đây là hết. V́ thế,
tám câu trên chính là những lời nói tối hậu trong Tịnh
tông, là lời kết thúc của toàn bộ kinh này. Tám câu ấy
nêu trọn cả Lư lẫn Sự, chỉ rơ chánh hạnh và
trợ hạnh, giăi bày trọn vẹn bí tạng của
Như Lai.
Trước hết là “thường
niệm bất tuyệt” (thường niệm chẳng
dứt). Thứ nhất, “thường
niệm” là luôn niệm kinh này, như trong phẩm Chánh
Nhân Văng Sanh, ngay nơi câu đầu tiên đă dạy: “Văn thử kinh điển, thọ
tŕ độc tụng, thư tả cúng dường, trú dạ
tương tục, cầu sanh bỉ sát” (Nghe kinh điển
này thọ tŕ, đọc tụng, biên chép, cúng dường,
ngày đêm liên tục cầu sanh cơi ấy). Đấy chính là ư
nghĩa thật sự của câu “thường niệm bất tuyệt” trong đoạn
này.
Phẩm Phi Thị Tiểu Thừa có câu: “Ư thử kinh trung, sanh đạo
sư tưởng” (Đối với kinh này tưởng
như đạo sư), phẩm Thọ Kư Bồ Đề
cũng chép: “Do ư thử pháp
bất thính văn cố, hữu nhất ức Bồ Tát
thoái chuyển A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Nhược hữu chúng sanh ư thử kinh điển,
thư tả, cúng dường, thọ tŕ, độc tụng,
ư tu du khoảnh, vị tha diễn thuyết… bỉ nhân
lâm chung giả sử tam thiên đại thiên thế giới,
măn trung đại hỏa, diệc năng siêu quá, sanh bỉ
quốc độ” (Do
chẳng được nghe pháp này, có một ức Bồ
Tát thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Nếu có chúng sanh biên chép, cúng dường, thọ tŕ,
đọc tụng kinh điển này, trong khoảnh khắc
v́ người khác diễn nói… lúc người ấy lâm
chung dẫu cả tam thiên đại thiên thế giới
tràn ngập đại hỏa vẫn vượt qua
được, sanh về cơi nước kia).
Thế Tôn bi tâm vô lượng, nhiếp trọn hết
không sót nên luôn luôn khuyên tŕ niệm kinh này. Đức Thế Tôn
cực lực khuyên nên tŕ niệm kinh này v́ kinh này dạy vô
thượng đại pháp Nhất Thừa nguyện hải,
sáu chữ hồng danh. Hành nhân chỉ cần phát Bồ Đề
tâm, một bề chuyên niệm th́ ắt được
văng sanh, muôn người tu muôn người được
văng sanh. Bởi đó, hành nhân thọ tŕ kinh này ắt phải
nên phụng hành đúng theo lời dạy, theo đúng lời
Phật dạy, thật sự v́ sanh tử phát Bồ Đề
tâm, tin sâu, nguyện thiết, tŕ danh hiệu Phật.
Do đó, nói một cách rốt ráo th́ “thường niệm bất tuyệt” chính là niệm
một câu danh hiệu này! “Bất
tuyệt” là tịnh niệm tiếp nối. Hành nhân nếu
thật sự phát tâm chân thật, niệm Phật chuyên
ṛng, chỉ giữ mỗi câu Phật hiệu này cho luôn liên
tục trong mọi niệm th́ nhất định “như nhiễm hương nhân,
thân hữu hương khí” (như người nhiễm
hương, thân có mùi hương). Lúc lâm chung, Phật đến
tiếp dẫn, từ bi gia hựu khiến tâm chẳng loạn,
quyết được văng sanh, chứng lên Bất Thoái, sanh
trọn vẹn cả bốn cơi Tịnh Độ, rốt ráo
Niết Bàn.
V́ thế, Phật từ bi khai thị: “Thường niệm bất tuyệt, tắc đắc
đạo tiệp” (Thường niệm chẳng dứt
th́ đắc đạo nhanh chóng). “Tiệp” (捷) là nhanh chóng, mau lẹ, chẳng
hạn như “tiệp kính”
(捷 徑) là con đường đi tắt cho nhanh. Ở
đây, ư nói: Một pháp Tŕ Danh là đường tắt tu
hành, tŕ danh ṛng chắc th́ đắc đạo rất
nhanh chóng. Đó là do pháp Tŕ Danh đây lấy tâm này làm Phật,
tâm này là Phật, lấy Quả Giác làm nhân để phát tâm
nên đắc đạo nhanh chóng. Ấy chỉ v́ pháp Tŕ
Danh Niệm Phật đây phát xuất từ chính bổn
nguyện lớn lao của Phật Di Đà nên thực hiện
thật dễ dàng, thành tựu rất dễ dàng. Bởi thế,
nó được gọi là pháp dễ hành, được
xưng tụng là con đường tắt nhất trong
các con đường tắt.
Hai câu “ngă pháp như thị,
tác như thị thuyết” (pháp ta như thế, nói ra
như thế) chính là “Phật ngữ phạm lôi chấn,
thuyết pháp sư tử hống” (tiếng Phật cao
quư như tiếng sấm rền, thuyết pháp như
sư tử rống), thật là kim cang vương bảo
kiếm chém tan hết thảy t́nh chấp và Kiến Hoặc,
hiển lộ toàn vẹn bản tâm của Như Lai.
Phật dùng Phật tâm ấn để ấn chứng
kinh này nên bảo là “ngă pháp
như thị, tác như thị thuyết”. Nói trắng
ra, hai câu này để ấn chứng câu “thường niệm bất tuyệt, tắc đắc
đạo tiệp” (thường niệm chẳng dứt
th́ đắc đạo nhanh chóng) ở trên. Chữ “ngă”
chính là đức Thích Ca tự xưng, có nghĩa là pháp của
ta như thế đó, cho nên ta bèn nói đúng như thế
đó. Nói ra điều ǵ? Chính là nói “thường niệm
bất tuyệt, tắc đắc đạo tiệp”.
Bốn câu này phải đọc một mạch th́ mới
lănh hội nổi ư nghĩa. Có lănh hội nổi những
câu ấy th́ mới biết là một pháp Tịnh Độ dứt
tuyệt đối đăi một cách viên dung.
Lại cũng như Lục Tổ của Thiền Tông
đă ấn chứng cho người khác như sau: “Như thị, như thị, nhữ
như thị, ngă diệc như thị” (Như thế
đó, như thế đó, ông như thế đó, ta
cũng như thế đó). Ư nghĩa chữ “như thị” của Lục
Tổ giống hệt với ư nghĩa chữ “như thị” trong đoạn
kinh này.
Trong hai câu “ngă pháp như thị,
tác như thị thuyết” th́ câu trước nghĩa là
pháp của ta là Như, c̣n câu sau nghĩa là điều
được ta nói ra cũng là Như. Cả hai câu diễn
tả ư: Lời ta nói ra chính là pháp của ta. Pháp của ta
là Như cho nên lời của ta nói ra phải là Như
Như. “Như” là Chân
Như, mà cũng chính là Chân Tâm, Thật Tướng, tức
là Chân Thật Tế được giảng trong kinh này.
Cái Thể của bản kinh này chính là Chân Như, Thật
Tướng, Chân Thật Tế nên Phật nói: “Ngă pháp như thị”. “Tác như
thị thuyết” (Nói ra như thế) chính là “khai hóa hiển thị Chân Thật
Tế” như trong kinh này
đă nói. Bởi thế, chúng ta biết được
rằng “ngă pháp” (pháp của
ta) chính là Chân Thật Tế,
những điều được diễn nói ở
đây chính là nhằm để khai thị Chân Thật Tế,
cho nên bảo là “tác như thị
thuyết” (nói ra như thế).
Rơ ràng là mỗi một chữ trong kinh đều từ
Như Lai tánh hải đại quang minh tạng tự nhiên
biến hiện ra, mỗi một chữ đều thật
sự chứa đựng vô biên diệu lư, mỗi một
chữ đều được tánh đức và tu đức
của Phật Di Đà trang nghiêm, mỗi mỗi chữ đều
nhằm khai thị Phật tri kiến cho bọn ta. Lời
chỉ dạy từ mẫn “thường
niệm bất tuyệt, tắc đắc đạo tiệp”
(thường niệm chẳng dứt th́ đắc
đạo nhanh chóng) chính là do đức Như Lai xứng
hợp theo tánh mà thốt ra, là những lời được
tâm ấn của Phật in dấu, đều là lời
đúng lư do đấng Đại Từ Bi Phụ dạy ra.
V́ thế, ta phải nên chí thành tin nhận, trong hết thảy
thời, hết thảy chốn thường niệm A Di
Đà Phật.
Phẩm này trước hết chỉ rơ pháp vô thượng
của Như Lai chẳng dễ được gặp. Tiếp
đó, dạy rơ Tịnh tông là pháp khó tin; dẫu kẻ có khả
năng thuyết pháp có thể thuyết giảng nổi các
pháp khác, nhưng đối với diệu pháp Nhất Thừa
nguyện hải, sáu chữ hồng danh siêu t́nh ly kiến
này cũng khó ḷng khai diễn khiến cho chúng sanh phát khởi
ḷng tin nổi! Bởi thế, trong kinh A Di Đà, mười
phương Như Lai khen ngợi đức Thích Tôn ở
trong cơi Sa Bà, trong đời ác ngũ trược “vị chư chúng sanh thuyết
thị nhất thiết thế gian nan tín chi pháp” (v́ các
chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó tin này). Mười
phương Như Lai đều bảo là khó nói, quả thật
đă tỏ rơ ư nghĩa “diệc
nan khai thị” (cũng khó khai thị).
Nếu đối với pháp khó gặp gỡ, khó chỉ
dạy này, tuy đă được gặp, được
nghe, mà chẳng sanh ḷng tin sâu th́ dẫu nghe có ích ǵ, trọn
vẫn là phụ bạc! C̣n may mắn mà tin tưởng sâu
xa vào kinh này th́ thật là một dịp hy hữu, khó gặp
trong cả vạn kiếp ngàn đời; cho nên phải
siêng tu hành, thường niệm chẳng dứt. Chỉ cần
có thể tín nguyện tŕ danh ắt sẽ nhanh chóng đắc
đạo!
Từ chữ “Như Lai sở
hạnh” (hạnh của Như Lai) trở đi là nói về
Chánh Hạnh và Trợ Hạnh.
Nguyện thứ tám trong mười đại nguyện
vương của ngài Phổ Hiền là “thường tùy Phật học” (thường học
theo Phật). V́ thế, Bồ Tát phải học hành theo hạnh
Như Lai đă hành; mà sở hạnh của đấng
đạo sư Di Đà cơi Cực Lạc là “tiện nhất kỳ tâm, tuyển trạch sở dục,
kết đắc đại nguyện” (liền nhất
tâm chọn lựa những điều ưa thích, kết
thành đại nguyện), “trụ
Chân Thật Huệ, dũng mănh tinh tấn, nhất hướng
chuyên chí, trang nghiêm diệu độ” (trụ trong Chân Thật
Huệ, dũng mănh tinh tấn, một bề chuyên chí, trang
nghiêm cơi nước nhiệm mầu); sở hạnh của
đấng Thích Tôn là “dục
chửng quần manh, huệ dĩ chân thật chi lợi” (muốn
cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chân thật). Sở
hạnh của mười phương Như Lai cũng
cùng v́ sự chân thật ấy nên các ngài đồng thanh
khen ngợi “công đức chẳng
thể nghĩ bàn của Phật Vô Lượng Thọ”
ḥng khuyên chúng sanh hăy văng sanh Cực Lạc. Nay bọn ta học
theo những điều Phật đă hành th́ trước hết
phải tuân theo lời Phật dạy, phát Bồ Đề
tâm, một bề chuyên niệm.
Sách Di Đà Yếu Giải viết: “Phật lấy đại nguyện làm cái nhân nhiều
thiện căn cho chúng sanh, dùng đại hạnh để
làm cái duyên nhiều phước đức cho chúng sanh khiến
cho tín nguyện tŕ danh, niệm niệm thành tựu công
đức như thế, mà đều là đă thành, chứ chẳng phải là
hiện tại, chẳng phải là tương lai”. Nghĩa là: Phật dùng đại
nguyện để tạo nên cái nhân “nhiều thiện căn” cho chúng sanh, dùng đại
hạnh để tạo cái duyên “nhiều phước đức” cho chúng sanh. V́ thế
có thể làm cho người tín nguyện tŕ danh trong mỗi
niệm đều được thành tựu công đức
đại nguyện đại hạnh của Phật.
Công đức như thế đă thành tựu từ lâu xa,
chứ chẳng phải chỉ là mới thành tựu trong
hiện tại hay là trong tương lai mới thành. Ấy
là v́ Quả Giác của Phật đă viên thành từ lâu rồi.
Nay ta niệm Phật là đem cái Quả Giác của Phật
biến thành cái tâm tu nhân của ta, cho nên cái tâm trong lúc tu
nhân của ta liền ngang bằng với Quả Giác. Do “niệm Phật th́ thiện
căn, phước đức nhân duyên giống như Phật”
nên bảo là “công đức
như vậy đều đă thành tựu”.
Như Lai chính là vua của các điều thiện, là bậc
đức hạnh tôn quư nhất cho nên chúng ta phải bắt
chước hành theo. Nhưng đức Như Lai điều
thiện nào cũng tu, vạn đức trang nghiêm nên bọn
chúng ta phải hành theo các đức khác của Như Lai,
khéo biết căn cơ ḿnh để thuận theo duyên mà
tu tập. Chánh Hạnh, Trợ hạnh hỗ trợ lẫn
nhau th́ chóng được viên măn.
“Chủng tu phước thiện”
(Vun
bồi phước thiện) là trồng phước, gieo
thiện. Kinh đây đă rộng khuyên bỏ ác làm lành, Quán
kinh khuyên tu ba phước. Kinh dạy: “Dục sanh bỉ quốc giả, đương tu
tam phước, nhất giả hiếu dưỡng phụ
mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất
sát, tu Thập Thiện Nghiệp. Nhị giả thọ tŕ
Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi. Tam giả
phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng
Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Như thị
tam sự, danh vi Tịnh nghiệp” (Kẻ muốn sanh về
cơi ấy th́ phải tu ba phước: Một là hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu mười thiện nghiệp.
Hai là thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng
phạm oai nghi. Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả,
đọc tụng Đại Thừa, khuyến khích hành giả.
Ba sự như thế gọi là Tịnh nghiệp).
Phước thứ nhất kiêm đủ Thập Thiện.
Quán kinh đă dạy muốn văng sanh Tịnh Độ phải
tu ba phước. Do đó ta biết được rằng
người tu Tịnh nghiệp chẳng thể xem thường
việc vun bồi phước thiện.
“Cầu sanh tịnh sát” (Cầu sanh về
cơi tịnh) chính là chỗ quy kết chung của tất cả
giáo pháp trong Đại Tạng. Kinh Hoa Nghiêm gồm thâu trọn
vẹn các giáo mà mười đại nguyện
vương trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện lại
dẫn dắt về Cực Lạc. Nay kinh này chính là kinh
Hoa Nghiêm trung bổn. Cuối kinh đây, Phật khuyên khắp
hữu t́nh cầu sanh cơi tịnh, đồng quy Cực Lạc.
Điều khuyên lơn ấy chính là bổn nguyện của Phật
Di Đà, là bản tâm của đấng Thích Tôn và mười
phương tam thế Như Lai.
Đức Thế Tôn khai hóa hiển thị Chân Thật
Tế, thật ra chỉ v́ muốn cho chúng sanh cùng
được nhập Di Đà nhất thừa nguyện hải,
được hưởng cái lợi lớn chân thật cứu
cánh.
Trong Tín, Nguyện, Hạnh th́ Nguyện là mấu chốt;
vượt khỏi biển sanh tử hay không hoàn toàn cậy
vào nguyện vương. Có nhiều môn phương tiện
như Thiền, Mật, Giáo Quán; tám vạn bốn ngàn môn,
tu môn nào cũng được, nhưng quy về gốc thời
chẳng hai. Trong các phương tiện th́ chỉ có pháp
văng sanh là phương tiện rốt ráo; tu hành pháp khác mà muốn
được ngay trong hiện đời siêu thoát khỏi
tam giới th́ thật là đạo rất khó hành. Chỉ
có mỗi một cách “cầu
sanh cơi Tịnh” mới thật là dễ hành. Chánh hạnh tu hành của Tịnh
tông cốt yếu là Tŕ Danh, nhưng tu tập các môn khác và
phát nguyện cầu sanh th́ cũng được đức
Di Đà nhiếp thọ vượt ngang ra khỏi ba cơi. V́
thế, ở đây Phật nói “cầu
sanh tịnh sát” để tổng kết toàn bộ những
lời dạy trước đây.