6. Tạng giáo sở nhiếp (Phân định
kinh này thuộc về tạng nào, giáo nào)
Phàm nghiên cứu kinh điển, trước hết phải
biết kinh này thuộc tạng nào, được nói trong
thời nào, phán định thuộc giáo nào? Biết rơ các
điều ấy sẽ giúp ích cho việc lư giải toàn bộ
bản kinh. Về sự phán định một đời
thánh giáo, ư kiến các nhà khác nhau. Nói tóm tắt là: tam tạng,
nhị tạng, ngũ thời, nhị giáo và tứ giáo,
ngũ giáo. Hễ giải thích kinh, trước hết cần
phải phán định rơ ràng: Kinh này trong Tam Tạng thuộc
về Kinh Tạng. Trong nhị tạng thuộc Bồ Tát Tạng.
Trong ngũ thời thuộc thời Phương Đẳng,
trong nhị giáo thuộc Đốn Giáo, trong tứ giáo và
ngũ giáo thuộc Viên Giáo.
6.1. Tam tạng
Sách Đại Thừa Nghĩa Chương giải thích chữ
Tạng (藏) như sau: “Bao hàm, chứa đựng sâu xa th́ gọi là Tạng”.
Kinh điển bao hàm, chứa đựng, hàm súc văn
nghĩa nên gọi là Tạng.
Một là Kinh Tạng, tiếng Phạn là Tu-đa-la (Sūtra), Hán dịch là
Khế Kinh. Hai là Luật Tạng, tiếng Phạn là Tỳ-nại-da
(Vinaya), Hán dịch là Điều Phục. Ba là Luận Tạng,
tiếng Phạn là A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma), Hán dịch
là Đối Trị.
Trong ba tạng Kinh, Luật, Luận, kinh này thuộc về
Kinh tạng.
6.2. Nhị tạng
Trí Độ Luận chép: “Tuy
cùng là một môn giải thoát mà có tự lợi, lợi
người sai khác, thế nên có chúng Tiểu Thừa và Đại
Thừa sai khác. Do v́ có hai hạng người nên đối
với lời Phật dạy, liền đem văn tự,
ngữ ngôn chia thành hai thứ”, tức là Thanh Văn Tạng
và Bồ Tát Tạng. Thánh giáo tuy nhiều, chẳng ngoài hai
loại này (Duyên Giác tính gộp vào Thanh Văn, nên chỉ có
hai tạng).
Sớ giải của ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn
viết:
“Ngài Long Thọ nói: Sau khi Phật
diệt độ, Ca Diếp, A Nan ở thành Vương Xá
kết tập pháp tạng thành Thanh Văn Tạng. Văn Thù, A Nan nơi núi Thiết
Vy kết tập Ma Ha Diễn (Đại Thừa) thành Bồ Tát Tạng.
Luận Địa Tŕ
cũng nói: Phật v́ Thanh Văn, Bồ Tát hành đạo
thoát khổ nói Tu-đa-la. Người kết tập kinh
chia thành hai tạng. Kinh nói về hạnh của Thanh
Văn làm th́ là Thanh Văn Tạng. Kinh nói về hạnh Bồ
Tát là Bồ Tát Tạng”.
Kinh này rộng diễn Đại Thừa, tŕnh bày tường
tận về tín nguyện văng sanh, nhân quả thù thắng,
cơi Phật Tịnh Độ, y báo, chánh báo trang nghiêm, nguyện
hải vô biên của Phật Di Đà, đạo phổ độ
khắp các chúng sanh nên thuộc về Bồ Tát Tạng.
6.3. Ngũ thời
Thiên Thai đại sư dựa vào kinh Niết Bàn, chia
cả đời giáo hóa của Như Lai thành năm thời:
a. Một là trong hai mươi mốt ngày đầu
tiên, nói kinh Hoa Nghiêm; là thời Hoa Nghiêm.
b. Thứ hai, trong mười hai năm kế tiếp,
nơi vườn Lộc Dă v.v... giảng bốn kinh A Hàm của
Tiểu Thừa là thời A Hàm.
c. Thứ ba, trong tám năm kế tiếp, nói các kinh Duy
Ma, Đại Tập, Lăng Nghiêm v.v... và kinh này, chỉ trích
Thiên Giáo, bài trừ Tiểu Giáo, khen ngợi Đại Thừa,
cổ vơ Viên Giáo. Nói rộng (Phương) bốn giáo: Tạng,
Thông, Biệt, Viên; b́nh đẳng (Đẳng) độ khắp
các căn cơ, nên gọi là thời Phương Đẳng.
d. Thứ tư, lại trong hai mươi hai năm kế
đó, nói các kinh Đại Bát Nhă, gọi là thời Bát Nhă.
e. Thứ năm, trong tám năm sau cùng, nói kinh Pháp Hoa, một
ngày một đêm nói kinh Niết Bàn, cửu giới, tam thừa
đều được thọ kư, chẳng luận Đại
hay Tiểu đều được thành Phật. Thời
này gọi là thời Pháp Hoa - Niết Bàn.
Ta nói kinh này thuộc thời Phương Đẳng thứ
ba. Hơn nữa, kinh này được đức Thế
Tôn nhiều phen tuyên thuyết nên chẳng thể hạn cuộc
trong một thời nào.
6.4. Phán giáo
6.4.1. Tứ
giáo và ngũ giáo
Các sư xưa nay phán định giáo tướng nói
chung có mười hai nhà, nhưng nổi tiếng nhất
là thuyết Tứ Giáo của ngài Thiên Thai lập ra và
Ngũ Giáo của tông Hiền Thủ.
Tứ Giáo theo Thiên Thai là Tạng, Thông, Biệt, Viên:
a. Một là Tạng Giáo, cũng gọi là Tiểu Thừa
Giáo.
b. Hai là Thông Giáo, tức là trong Đại Thừa nói thông cả
ba thừa, độ chung ba căn.
c. Ba là Biệt Giáo, chỉ cho giáo pháp được nói
trong kinh Đại Thừa chẳng thông với Tiểu thừa.
d. Bốn là Viên Giáo, tức là pháp giới tự tại
viên măn đầy đủ: một là hết thảy, hết
thảy là một, vô ngại pháp môn v.v...
Tông Hiền Thủ phán giáo như sau: “Thánh giáo muôn phần sai khác, nhưng chính yếu chỉ
có năm loại: Tiểu Thừa Giáo, Đại Thừa Thỉ
Giáo, Chung Giáo, Đốn Giáo, Viên Giáo”.
* Tiểu Thừa Giáo: Chỉ nói về Nhân Không, dù
có nói đôi chút về Pháp Không cũng chẳng nói thật
rơ ràng, do chưa tột cùng nguồn pháp.
* Đại Thừa Thỉ Giáo: Chưa dạy
nghĩa lư “tất cả chúng sanh đều có Phật
tánh”, chẳng hứa khả định tánh xiển-đề
sẽ thành Phật, chưa bàn đến điểm cùng tột
của Đại thừa; nên gọi là Thỉ (始: bắt đầu).
* Chung Giáo: Do Trung Đạo diệu hữu, định
tánh xiển-đề đều sẽ thành Phật mới
là nói đến chỗ cùng tột của Đại thừa;
nên gọi là Chung (終: cuối cùng).
* Đốn Giáo: Chỉ nói chân tánh; một niệm chẳng
sanh th́ gọi là Phật. Chẳng nương theo địa
vị để nói theo thứ lớp, nên gọi là Đốn
(頓: nhanh chóng). Như kinh Tư Ích dạy: “Đắc thuyết pháp chánh tánh
giả, bất tùng nhất địa sanh ư nhất
địa” (Đắc thuyết pháp chánh tánh là chẳng từ
một địa vị này sanh lên một địa vị
khác). Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Sơ
Địa tức Bát Địa, năi chí vô sở hữu hà
thứ đệ” (Sơ Địa
chính là Bát Địa, cho đến không có ǵ là thứ lớp cả).
* Viên Giáo: Gộp chung cả bốn loại trên,
viên măn đầy đủ, giảng về vô tận pháp
giới, tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại,
tương tức, tương nhập, lưới Đế
Thích trùng trùng[1],
chủ bạn giao tham[2]
vô tận, vô tận. Một địa vị chính là hết
thảy địa vị, hết thảy địa vị
chính là một địa vị. V́ vậy, Thập Tín Măn
Tâm chính là gồm trọn hết thảy địa vị,
viên thành chánh giác.
6.4.2 Nhị giáo
Trên đây, tuy cách phán giáo khác nhau, nhưng ư kiến của
các nhà chẳng ngoài hai giáo Tiệm và Đốn. Hai tông Thiên
Thai, Hiền Thủ cũng đều dùng Tiệm, Đốn
để chia thành Tứ Giáo, Ngũ Giáo.
Ngũ Giáo Chương chép: “Hoặc
chia làm hai, tức là Tiệm và Đốn. Do trong hai giáo Thỉ,
Chung, tất cả giải hạnh đều ở ngôn
thuyết, địa vị có thứ lớp, nhân quả
nương dựa nhau, từ nhỏ nhiệm đến phức
tạp nên gọi chung là Tiệm (漸: dần dần). Ngôn thuyết
đốn tuyệt, lư tánh đốn hiển, giải hạnh
đốn thành, một niệm chẳng sanh chính là Phật
v.v... th́ gọi là Đốn (頓)”.
Sư Huệ Viễn đời Tùy của Trung Hoa (tức
ngài Tịnh Ảnh) phán định kinh này như sau:
“Nay kinh này, trong hai tạng
thuộc về Bồ Tát Tạng, là pháp môn Đốn Giáo dành
cho người căn cơ chín muồi. V́ sao biết là Đốn? Kinh này chính v́ người
trong hàng phàm phu nhàm sợ sanh tử, cầu Chánh Định,
dạy họ phát tâm sanh về Tịnh Độ, chẳng từ
Tiểu thành Đại, cho nên biết là Đốn”.
Sư Đại Hựu đời Minh phán định kinh
Tiểu Bổn như sau: “Về
phương diện Tiệm Đốn, kinh này thuộc Đốn
Giáo”. Các sư Trung Hoa đa phần phán định hai
kinh Tiểu Bổn, Đại Bổn theo thuyết này. V́ vậy,
trong hai giáo Đốn, Tiệm, kinh này thuộc Đốn giáo.
Trên đây là dựa theo Đốn, Tiệm để phán
định.
Nếu theo thuyết Ngũ Giáo: Tiểu, Thỉ, Chung,
Viên, Đốn của ngài Hiền Thủ để phán định
giáo tướng của kinh này th́ các bậc đại
đức Tịnh Tông Trung Hoa và ngoại quốc xưa nay
tuy nhân duyên chẳng giống nhau, nhưng ư kiến chỉ
sai khác đôi chút. Theo họ, thật ra kinh này không những
chỉ thuộc về Viên Đốn giáo, mà c̣n là đốn nhất
trong các kinh Đốn Giáo, viên nhất trong các kinh Viên Giáo.
Trong cuốn Khởi Tín Luận, cư sĩ Bành Nhị
Lâm (Tế Thanh) nhận định kinh này như sau: “Kinh Vô Lượng Thọ là viên
giáo xứng tánh của Như Lai”. Thầy Thích Đạo Ẩn
người Nhật trong tác phẩm Vô Lượng Thọ
Kinh B́nh Giải phán ngay rằng: “Bổn
nguyện Nhất Thừa đốn cực, đốn tốc,
viên dung viên măn”.
Đa số các vị đại đức người Nhật
cũng nghĩ như vậy. Sách Đại Kinh Thích viết: “Thiên Thai, Chân Ngôn tuy mang tiếng
là Đốn Giáo, nhưng cần phải đoạn Hoặc rồi
mới chứng Lư nên c̣n là Tiệm Giáo. Giảng rơ phàm phu chưa đoạn Hoặc, vượt
thẳng khỏi tam giới th́ chỉ riêng có giáo pháp này; nên
giáo pháp này là đốn nhất trong Đốn giáo”.
Ngài Nhật Khê lại bảo: “Các giáo pháp của thánh đạo về Lư th́ viên dung,
nhưng về mặt lợi ích c̣n cách ngại, thiên lệch;
bởi khó t́m được căn cơ Đốn Giáo. V́ vậy, về giáo pháp th́ viên
dung, nhưng xét trên căn cơ lại thành Tiệm. Bảo
Tịnh Độ là viên đốn là v́ lợi ích nhanh chóng viên
măn”.
Nghĩa là: Các thánh giáo khác tuy đủ lư viên dung,
nhưng căn cơ chúng sanh thô thiển, chẳng thể
rơ hiểu ư chỉ, không cách chi lănh hội, khởi hạnh
để hưởng được lợi ích của
pháp. V́ vậy pháp tuy là viên đốn, nhưng do căn
cơ hành nhân cạn cợt nên đốn pháp thành tiệm,
viên pháp thành thiên lệch. C̣n Tịnh Độ chẳng giống
vậy, ai cũng hành được, đều được
hưởng cái lợi chân thật, chẳng nhọc đoạn
Hoặc mà vượt thẳng khỏi tam giới nên quả
thật là giáo pháp viên măn, đốn nhất trong Đốn
Giáo.
Thêm nữa, sách Viên Trung Sao chép: “Pháp môn viên đốn trước hết cũng cần
phải khai ngộ, viên giải, rồi kế đó mới
tu hành viên măn, phá Tam Hoặc mới chứng nổi viên quả
để đạt đến Bất Thoái. Nay pháp này chỉ nói hai báo y, chánh
của cơi kia để khai giải sanh ḷng tin, bảy ngày
tŕ danh, nhất tâm bất loạn, dùng đấy để
làm phương cách tu hành. Lúc
lâm chung liền được văng sanh, được bất
thoái chuyển. V́ thế, thấy được rằng
kinh này là đề-hồ vô thượng trong đời ác
ngũ trược”.
Đủ thấy, ư của Viên Trung Sao cũng gần giống
với ư kiến của các bậc đại đức
người Nhật vừa dẫn trong phần trên. Hơn
nữa, gọi kinh này là “vô thượng đề-hồ”,
tự nhiên kinh này phải là giáo pháp khế lư, khế
cơ, viên đốn tới cùng cực vậy. V́ vậy,
bộ Ngốc Sao của Nhật viết:
“Vả lại, Đốn Giáo
có nhị giáo, nhị siêu.
Nhị giáo th́:
- Một là Thật Giáo là
đạo khó hành, tức là các giáo pháp Phật Tâm, Chân Ngôn,
Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v...
- Hai là Tịnh Độ bổn
nguyện là đạo dễ hành, như Đại Thừa Vô
Lượng Thọ v.v... Về nhị siêu th́, một là thụ
siêu (siêu theo chiều dọc), hai
là hoành siêu (siêu theo
chiều ngang)”.
Sách B́nh Giải giảng rằng: “Do tự lực tu đoạn[3]
nên gọi là thụ siêu. Tịnh độ bổn nguyện
là pháp thật sự do tha lực siêu việt thành Phật
nên gọi là hoành siêu.... Trong các đốn pháp của hoành
siêu, Tŕ Danh là đốn nhất trong các pháp đốn”.
Các vị đại đức trên đây đều
tuân theo thuyết của Thiện Đạo đại sư,
phán định kinh này là giáo pháp đốn cực, đốn
tốc, viên dung viên măn. Chẳng hạn như sách B́nh Giải
xưng tụng kinh này là “chuyên
bậc nhất trong các chuyên, đốn bậc nhất
trong các đốn, chân bậc nhất trong các chân, viên bậc
nhất trong các viên”, là “giáo
pháp dứt bặt đối đăi bất nhị, là đạo
Nhất Thừa chân như”.
Sách Di Đà Yếu Giải nhận định:
“Một đời giáo hóa của
Phật Thích Ca chỉ có kinh Hoa Nghiêm giảng về nhất
sanh viên măn (một đời tu được trọn
vẹn thành Phật), mà cái nhân
của nhất sanh viên măn ấy là mười đại
nguyện vương dẫn dắt về An Dưỡng nằm
trong phẩm cuối cùng là Phổ Hiền Hạnh Nguyện, đem việc ấy
khuyến khích Hoa Nghiêm hải chúng.
Than ôi! Phàm phu đạt ngay
lên địa vị Bổ Xứ là một điều
đề xướng, đàm luận lạ lắm, cao lắm,
chẳng thể suy lường nổi. Chỗ phát khởi
của kinh Hoa Nghiêm nằm ngay
trong kinh này mà thiên hạ xưa nay ít kẻ tin, lắm kẻ
ngờ. Càng viết lắm nghĩa càng mờ mịt, tôi chỉ
c̣n cách mổ tim vẩy máu [để giăi bày] mà thôi”.
Sách Yếu Giải c̣n viết:
“V́ vậy, đời
tương lai kinh pháp diệt hết, riêng lưu lại
kinh này tồn tại trong đời một trăm năm
để rộng độ hàm thức. Thuốc A Già Đà
trị chung muôn bịnh, dứt bặt đối đăi một
cách viên dung chẳng thể nghĩ bàn. Áo tạng Hoa Nghiêm, bí tủy Pháp Hoa, tâm yếu của
hết thảy chư Phật, kim chỉ nam cho muôn hạnh
Bồ Tát đều chẳng ra ngoài kinh này. Muốn khen ngợi,
tŕnh bày đầy đủ th́ dẫu cả kiếp
cũng chẳng thể nói hết được”.
Kinh Pháp Hoa được tông Thiên Thai tôn sùng là thuần
viên, không kinh nào mầu nhiệm bằng. Kinh Hoa Nghiêm
được tông Hiền Thủ coi là Biệt Giáo Nhất
Thừa, sự sự vô ngại, là giáo pháp hoàn toàn viên măn.
Nay đại sư Ngẫu Ích chỉ rơ: Cái thuần viên của
tông Thiên Thai, cái toàn viên của Hiền Thủ, bí tủy và
áo tạng của những tông ấy đều chẳng ra
ngoài kinh này, đủ thấy kinh này đúng là toàn viên.
Hơn nữa, điểm cốt tủy của kinh
Pháp Hoa là thuần viên nên nói rằng: Kinh này thật là viên nhất
trong các pháp viên măn. Đây thật là dị khẩu đồng
thanh với lời phán giáo của các vị đại
đức Nhật, thật đúng như lời thường
nói trong nhà Thiền: “Thở
cùng một lỗ mũi” vậy.
Cận đại, bậc đại đức trong Tịnh
tông là đại sư Ấn Quang khen ngợi sách Yếu Giải
như sau:
“Lư sự đều đạt
đến chỗ tuyệt diệu, kể từ khi Phật
thuyết kinh này đến nay, [Yếu Giải] là bản
chú giải bậc nhất, khéo léo nhất, xác thực nhất.
Ví dù cổ Phật xuất thế chú giải lại kinh
này cũng chẳng thể
hay hơn được nữa”. Đủ thấy lời
phán giải về kinh này của sách Yếu Giải giống
như là do đích thân đức Phật phán định vậy.
Ngoài ra, sách Sớ Sao viết:
“Căn cứ theo năm phần
phán giáo của Hiền Thủ, tức là Tiểu, Thỉ,
Chung, Đốn, Viên, nay kinh này thuộc về Đốn giáo mà
cũng kiêm thuộc cả hai giáo trước và sau (tức là Chung
và Viên). Viên Giáo nhiếp trọn
kinh này, kinh này nhiếp một phần Viên Giáo”.
Lại viết:
“Tứ pháp giới là:
Một là sự pháp giới,
hai là lư pháp giới, ba là sự lư vô ngại pháp giới. Ba
giới này các giáo pháp khác cũng có. Bốn là sự sự
vô ngại pháp giới, chỉ một ḿnh kinh Hoa Nghiêm là có
nên gọi là Biệt Giáo Nhất Thừa… Đối với
cái toàn viên của kinh Hoa Nghiêm, kinh này (kinh A Di Đà) được ít phần. Viên
Giáo nhiếp trọn kinh này, kinh này nhiếp được
một phần Viên Giáo”.
Do Liên Tŕ đại sư đă phán định kinh Tiểu
Bổn là phần viên, Ngài bèn nêu lên mười điều
về sự sự vô ngại pháp giới của hai kinh Tiểu
Bổn, Đại Bổn để chứng minh rằng kinh A
Di Đà có ít phần thuộc về Viên Giáo.
Rơ ràng Liên Tŕ đại sư cũng phán định
kinh A Di Đà là giáo pháp viên đốn, đấy là điểm
tương đồng giữa các đại đức
Trung Hoa, Nhật Bản. Điểm khác biệt là: Hoặc có vị
đề cao kinh này là giáo pháp viên măn nhất trong các pháp Viên
giáo, hoặc khiêm nhường cho rằng nó chỉ có
đôi phần thuộc Viên giáo. Đấy là do cơ duyên khác
biệt nên thiện xảo chẳng đồng, chứ bổn
hoài của các ngài Liên Tŕ, Thiện Đạo, Ngẫu Ích với
các đại đức Nhật Bản nào có khác nhau mảy
may!
Chẳng qua, lúc trước tác bộ Sớ Sao, đúng
là lúc Cuồng Thiền sôi nổi nên đại sư Liên
Tŕ chẳng thể không dùng phương tiện thiện xảo
quyền nghi để d́u dắt các căn cơ; cho nên mới
phương tiện mà nói như thế. Thật đúng
như lời cư sĩ Trầm Thiện Đăng bảo:
“Ấy là bậc đại
quyền Bồ Tát thuận theo căn cơ của
đương sự để tùy bệnh cho thuốc nhằm
thích ứng với thời tiết nhân duyên mà thôi”.
Trong bộ Sớ Sao, Liên Tŕ đại sư dẫn
đủ các đoạn kinh luận về sự sự vô
ngại pháp giới của Tịnh tông thật là ngụ ư
sâu xa đủ chứng tỏ nỗi khổ tâm của
Ngài. V́ sự sự vô ngại chỉ là điều kinh Hoa
Nghiêm chuyên có, ta thấy được rằng: Đại
sư rộng dẫn các chứng cớ từ kinh [Vô Lượng
Thọ] để chứng minh kinh này thật sự nói về
sự sự vô ngại pháp giới th́ Ngài cũng đă chứng
minh kinh này thuộc về Viên Giáo thật chẳng c̣n ngờ
vực ǵ nữa. Nay tôi cũng noi bước đại
sư, chuyên luận về huyền nghĩa “sự sự
vô ngại pháp giới” của kinh này.
Tông Hoa Nghiêm lập ra mười huyền môn để
chỉ bày pháp giới vô ngại. Gọi là “huyền môn” v́
nếu thông đạt những môn này th́ có thể nhập
được biển Viên Giáo huyền diệu của Hoa
Nghiêm nên gọi là “huyền môn”. Nay tôi sẽ dựa theo
thứ tự của Thập Huyền nói trong sách Thám Huyền
Kư, dẫn chứng kinh văn để chỉ rơ kinh này thật
sự đủ cả Thập Huyền. Qua đó, xác chứng
kinh này thật sự thuộc về Viên Giáo, thật sự
là kinh Hoa Nghiêm bản trung, nhằm chứng minh các thuyết
được nêu ở phần trước là lời chân
thật, chứ chẳng phải do hành nhân Tịnh Tông dối
trá tự tôn tự đại vậy.
1. Đồng thời
cụ túc tương ưng môn
Giáo lư Hoa Nghiêm lấy duyên khởi làm chủ. Toàn bộ
hết thảy các thứ trong pháp giới gộp thành một
đại duyên khởi. Một pháp thành hết thảy
pháp, hết thảy pháp khởi một pháp, cùng một lúc
đầy đủ, viên dung hiển hiện, nên bảo là
“cụ túc tương ưng”.
Phẩm Diệu Nghiêm của kinh Hoa Nghiêm chép: “Nhất thiết pháp môn vô tận
hải, đồng hội nhất pháp đạo tràng
trung” (Biển hết thảy pháp môn vô tận cùng tụ
hội trong đạo tràng của một pháp). Đại Sớ
giảng: “Như một giọt
nước biển có đủ vị của cả
trăm sông”. Đó là huyền nghĩa của môn này.
Trong kinh Vô Lượng Thọ đây hiển thị
đầy đủ huyền môn “đồng thời cụ
túc tương ưng” như trong phẩm Chí Tâm Tinh Tấn,
tỳ-kheo Pháp Tạng “ư bỉ nhị
thập nhất câu-chi Phật độ, công đức
trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất
Phật sát. Sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ”
(đối với các sự trang
nghiêm công đức của hai mươi mốt câu-chi cơi
Phật đó, hiểu rơ thông đạt như một cơi
Phật. Cơi nước Phật được Ngài nhiếp
thủ c̣n vượt xa hơn những cơi Phật nói trên).
Kinh này nói tới hai mươi mốt câu-chi cơi Phật
nhằm biểu thị vô lượng cơi Phật. Tỳ-kheo
Pháp Tạng nhiếp vô lượng cơi Phật làm thành một
Cực Lạc Tịnh Độ chính là nghĩa “hết thảy các pháp cùng thời,
cùng chỗ” của kinh Hoa Nghiêm, do một đại
duyên khởi mà tồn tại “cụ túc tương
ưng”. Đây là tổng môn của Thập Huyền, thật
ra cũng là tổng tướng của kinh này. Kinh Vô Lượng
Thọ đây cũng do cùng một đại duyên khởi
mà xuất hiện vậy!
Hơn nữa,
trong phẩm Tuyền Tŕ Công Đức (công đức của
ao suối) chép: “Kỳ thủy
nhất nhất tùy chúng sanh ư”
(Nước [nơi ao suối]
đó mỗi việc đều tùy thuận ư của chúng
sanh). Chúng sanh muốn nước lạnh, nóng, chảy
nhanh, chậm, cạn, sâu, mỗi điều chẳng giống
nhau, nhưng cùng một ḍng nước ấy có thể cùng
một lúc đáp ứng ư muốn của từng chúng sanh một.
Nước là một pháp, ư muốn của chúng sanh là nhiều
pháp, mà cũng một ḍng nước đồng thời
đáp ứng ư muốn của các chúng sanh. Đấy đúng
là huyền môn “đồng thời cụ túc tương
ưng” vậy.
Huống hồ nước ấy lại c̣n có thể
đồng thời “ba
dương vô lượng vi diệu âm thanh, hoặc văn
Phật pháp Tăng thanh (năi chí) cam lộ quán đảnh thọ
vị thanh. Đắc văn như thị chủng chủng
thanh dĩ, kỳ tâm thanh tịnh, vô chư phân biệt,
chánh trực b́nh đẳng, thành thục thiện căn.
Tùy kỳ sở văn, dữ pháp tương ứng. Kỳ
nguyện văn giả, triếp độc văn chi, sở
bất dục văn, liễu vô sở văn, vĩnh bất
thoái ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
tâm” (sóng vỗ vô lượng âm
thanh vi diệu, hoặc nghe tiếng Phật, Pháp, Tăng,
cho đến tiếng cam lộ quán đảnh nhận
lănh địa vị. Được nghe các tiếng như vậy
rồi, tâm họ thanh tịnh, không có các phân biệt, chánh
trực, b́nh đẳng, thành thục căn lành. Điều họ
được nghe đều tương ứng với
pháp. Ai muốn nghe, riêng kẻ ấy
liền được nghe; kẻ không muốn nghe, trọn không
phải nghe. Trọn chẳng lui sụt tâm Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác). Chỉ cùng một ḍng nước mà
có thể cùng một lúc, cùng một chỗ thỏa măn ước
muốn của hết thảy người nghe: Ai nấy
được nghe pháp ḿnh mong nghe, mà điều họ
được nghe lại tương ứng với pháp. Đủ
thấy toàn thể tổng môn của Thập Huyền
nơi kinh Hoa Nghiêm đă được hiển thị
trong kinh này vậy.
2. Quảng hiệp
tự tại vô ngại môn
Đại Sớ giảng: “Như
nơi cái gương đường kính một thước
mà thấy cảnh cả mười dặm”.
Gương ví cho cái hẹp (hiệp), cảnh mười dặm
ví cho cái rộng (quảng).
Phẩm Phát Đại Thệ Nguyện của kinh Vô Lượng
Thọ chép: “Sở
cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như
kính, triệt chiếu thập phương vô lượng
vô số bất khả tư nghị chư Phật thế
giới” (Sống trong cơi Phật rộng
răi nghiêm tịnh, sáng rực như gương, chiếu tột
cùng mười phương vô lượng vô số chẳng
thể nghĩ bàn thế giới chư Phật).
Dùng lực dụng của một cơi soi tỏ khắp
mười phương là Quảng (rộng). Tướng
của một cơi chẳng hoại là Hiệp (hẹp). Cái rộng
răi của lực dụng vô hạn và cái hạn hẹp của
một pháp chẳng trở ngại nhau, mỗi thứ đều tự tại nên
gọi là “quảng hiệp tự tại vô ngại”.
Lại nữa:
“Dục
kiến chư Phật tịnh quốc trang nghiêm, tất
ư bảo thụ gian kiến, do như minh kính, đổ
kỳ diện tượng”
(Muốn
thấy sự trang nghiêm của các cơi Phật thanh tịnh
thảy đều thấy từ nơi cây báu, ví như
gương sáng thấy rơ khuôn mặt). Cũng giống
như trên, câu này cũng minh thị “quảng hiệp tự
tại vô ngại môn”.
3. Nhất
đa tương dung bất đồng môn
Đại Sớ viết: “Như
ngàn ngọn đèn trong một căn nhà, ánh sáng xen lẫn
nhau”. Trong một có nhiều, trong nhiều có một,
đó là “tương dung” (chứa đựng lẫn nhau),
nhưng tướng của một và nhiều vẫn chẳng
mất nên là “bất đồng”.
Phẩm Lô Xá Na Phật của kinh Hoa Nghiêm dạy: “Dĩ nhất
Phật quốc măn thập phương, thập
phương nhập nhất diệc vô dư. Thế giới
bổn tướng diệc bất hoại. Vô tỷ công
đức cố ưng nhĩ” (Dùng một cơi Phật choán đầy mười
phương. Mười phương bỏ vào một cơi
cũng chẳng thừa ra. Tướng trạng vốn có
của từng thế giới cũng chẳng bị
hư hoại. Công đức không ǵ so sánh nổi cũng giống
như vậy).
Một cơi đầy chật cả mười
phương, mười phương vào trong một cơi là
nghĩa “tương dung”. Tướng vốn có của từng
thế giới chẳng bị hư hoại là nghĩa “bất
đồng”.
Trong kinh Vô Lượng Thọ đây, lời nguyện
“hương báu xông khắp” của Phật Di Đà như sau: “Quốc độ sở hữu
nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo
hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập
phương thế giới” (Tất cả hết
thảy vạn vật trong cơi nước đều dùng vô
lượng hương báu hợp thành. Hương ấy
xông khắp mười phương thế giới).
Bất cứ một vật ǵ trong muôn vật ở cơi
Ngài cũng đều dùng vô lượng hương báu hợp
thành. Dùng vô lượng hương báu gộp thành một vật,
biểu thị hết thảy pháp vào trong một pháp, biểu
thị “một và nhiều chứa đựng lẫn nhau”
(nhất đa tương dung). Tướng của mỗi
một vật lại cùng tồn tại bên cạnh tướng
của các thứ hương, biểu thị ư nghĩa “hai
tướng chẳng đồng”. Hương ấy lại
tỏa khắp mười phương thế giới c̣n
minh thị rằng “một pháp trọn có mặt trong tất
cả pháp”, đấy lại là hiển thị diệu lư
“nhất đa tương dung bất đồng” vậy.
4.
Phần trên giải thích về “tương dung”, phần
này nói về “tương tức”.
Phẩm Thập Trụ của kinh Hoa Nghiêm, bản dịch
đời Tấn, chép: “Nhất
tức thị đa, đa tức thị nhất” (Một tức là nhiều,
nhiều tức là một). Ví như nước với
sóng, nước ví cho một, sóng ví cho nhiều. Sóng tức
là nước, nước tức là sóng, cái này tức là cái
kia (tương tức), mà mỗi thứ tự tại, nên
nói là “tương tức tự tại”. Lại nữa, Đại
Sớ viết: “Như vàng và
màu sắc của vàng, hai thứ chẳng rời nhau”.
Trong phẩm Pháp Tạng Nhân Địa của kinh Vô Lượng
Thọ đây có chép: “Thế Tôn
năng diễn nhất âm thanh, hữu t́nh các các tùy loại
giải, hựu năng hiện nhất diệu sắc
thân, phổ sử chúng sanh tùy loại kiến” (Thế Tôn có thể diễn ra một âm thanh.
Mỗi một hữu t́nh tùy theo loài của ḿnh mà hiểu.
Ngài lại có thể hiện ra một sắc thân mầu
nhiệm khiến cho khắp các chúng sanh tùy theo chủng loại
của chúng mà thấy [sai khác]).
Câu này cũng chỉ rơ: Hết thảy âm hàm chứa
trong một âm, hết thảy thân trong một thân, hết
thảy tức là một, một tức là hết thảy,
nhiều tức là một, một tức là nhiều.
Như sóng với nước, một nước nhiều
sóng là nghĩa “tương tức tự tại”.
Lại như phẩm Ca Thán Phật Đức (Khen Ngợi
phẩm đức của Phật) trong kinh đây có chép: “Kỳ sở
tán hoa, tức ư không trung, hợp vi nhất hoa. Hoa giai
hướng hạ, đoan viên châu táp, hóa thành
hoa cái” (Hoa được
rải lên ấy liền ở trong không trung hợp thành một
hoa. Hoa ấy đều hướng xuống, tṛn trịa
đầy đặn, hóa thành một lọng hoa). Nhiều
hoa thành một hoa, nên “nhiều tức là một”. Trong một
hoa hàm chứa nhiều hoa, nên “một tức là nhiều”.
Như vậy, kinh này đă hiển thị huyền môn thứ
tư.
5. Ẩn mật
hiển liễu câu thành môn
Đại Sớ viết: “Như
một mảnh trăng trong vắt trên không, tối và sáng
cùng có”. Ư nói: Trong ẩn có hiển, trong hiển có ẩn.
Phẩm Lễ Phật Hiện Quang trong kinh này chép: “A Di Đà Phật tức ư
chưởng trung phóng vô lượng quang, phổ chiếu
nhất thiết chư Phật thế giới, thời
chư Phật quốc giai tất minh hiện, như xử
nhất tầm” (A Di Đà Phật liền từ bàn tay phóng ra vô lượng
quang, chiếu khắp hết thảy thế giới
chư Phật. Khi đó, các cơi nước Phật thảy
đều hiện rơ như ở
trong khoảng một tầm).
Lại chép: “Năi chí Nê
Lê, khê, cốc, u minh chi xứ, tất đại khai tịch,
giai đồng nhất sắc. Do như kiếp thủy di
măn thế giới, kỳ trung vạn vật, trầm một
bất hiện, hoảng dưỡng hạo hăn, duy kiến
đại thủy, bỉ Phật quang minh diệc phục
như thị. Thanh Văn, Bồ Tát, tất giai ẩn tế,
duy kiến Phật quang, minh diệu hiển hách” (Cho đến Nê Lê (địa ngục), khe,
hang, chỗ tối tăm đều sáng bừng lên, đều
cùng một màu. Ví như kiếp thủy đầy ngập
thế giới, mọi vật trong ấy đều ch́m lấp
chẳng hiện, mênh mông, bát ngát
(“Hăn” (汗) là dáng vẻ rộng lớn
không ngằn mé. Trong bài phú của Quách Phác thuộc bộ
Văn Tuyển có từ “hăn hăn”), chỉ thấy nước lớn. Quang minh của
đức Phật ấy cũng như thế, hết thảy
quang minh của Thanh Văn, Bồ Tát đều bị trùm
lấp, chỉ thấy Phật quang sáng ḷa rực rỡ).
Đoạn này biểu thị hết thảy pháp chính là một
pháp trong Phật quang, một pháp (Phật quang) hiển thị
hết thảy pháp (vạn vật trong cơi này, quang minh của
hiền thánh) đều ẩn. Đó là tướng của huyền
môn thứ năm “ẩn hiển câu thành”.
6. Vi tế
tương dung an lập môn
Đại Sớ viết:
“Như b́nh lưu ly đựng nhiều hạt cải”.
Các môn nói trên đều minh thị ư nghĩa: rộng hẹp
vô ngại, một, nhiều dung chứa lẫn nhau; c̣n môn
thứ sáu này, lại chỉ rơ vô luận trong vật ǵ nhỏ
nhặt đến đâu cũng có thể dung chứa hết
thảy các pháp. Trong một sợi lông, một hạt bụi,
có vô biên sát hải[4],
hết thảy các pháp đồng thời cùng hiện ra
như trong tấm gương hiện bóng muôn h́nh tượng.
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: “Nhất trần trung hữu trần
số sát, nhất nhất sát hữu nan tư Phật.
Ư nhất mao đoan cực vi trung, xuất hiện tam
thế trang nghiêm sát” (Trong một hạt
bụi có cơi nước nhiều như số hạt bụi.
Trong mỗi một cơi có chẳng thể nghĩ nổi
đức Phật. Trong đầu một sợi lông nhỏ
bé nhất, xuất hiện cơi trang nghiêm ba đời) chính
là nói đến ư nghĩa này.
Nay trong phẩm Tích Công Lũy Đức của kinh Vô
Lượng Thọ đây có nói: Pháp Tạng tỳ-kheo trong
lúc tu nhân, “thân khẩu
thường xuất vô lượng diệu hương, do
như Chiên Đàn, Ưu Bát La Hoa, kỳ hương phổ
huân vô lượng thế giới…Thủ trung thường
xuất vô tận chi bảo, trang nghiêm chi cụ, nhất
thiết sở nhu tối thượng chi vật, phổ lợi
hữu t́nh” (Thân, miệng
thường tỏa ra vô lượng diệu hương
ví như Chiên Đàn, hoa Ưu Bát La. Hương ấy
thơm ngát khắp mười phương vô lượng
thế giới.... Trong tay thường tuôn ra vô tận các
thứ báu, vật trang nghiêm, hết thảy các vật cần
dùng tốt đẹp nhất để lợi lạc khắp
các hữu t́nh).
Phẩm Bảo Liên Phật Quang (hoa sen báu và quang minh của
Phật) lại chép: “Nhất nhất
hoa trung xuất tam thập lục bách thiên ức quang. Nhất
nhất quang trung, xuất tam thập lục bách thiên ức
Phật” (Trong mỗi một
hoa hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức ánh sáng. Trong
mỗi một ánh sáng hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn
ức Phật).
“Trong mỗi một ánh sáng” là một tia sáng trong số
ba mươi sáu trăm ngàn ức ánh sáng phóng ra từ hoa
sen, biểu thị ư nghĩa chí cực vi tế. Trong ánh
sáng lại hàm chứa ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật,
biểu thị trong cái nhỏ nhiệm nhất lại chứa
đựng hết thảy các pháp.
7. Nhân Đà La vơng pháp giới môn
Môn “vi tế tương dung” nói trên chỉ minh họa
các tướng tương nhập, tương tức mới
có một tầng, chưa minh thị được
nghĩa lư “trùng trùng vô tận, tương tức
tương nhập”, nên phải mượn cái lưới
của Nhân Đà La (Indra) làm thí dụ để minh họa
nghĩa này.
Lưới Nhân Đà La là cái lưới châu treo ở thiên
cung của Đế Thích. Cái lưới ấy có ngh́n hạt
châu chiếu rọi lẫn nhau. Trong mỗi hạt châu hiện
h́nh bóng của hết thảy các hạt châu, đấy là
tầng thứ nhất: Mỗi hạt châu ảnh hiện.
Nhưng hết thảy các hạt châu được hiện
bóng trong một hạt châu, mỗi hạt ấy lại hiện
bóng của chín trăm chín mươi chín hạt châu kia. Đó
là sự ảnh hiện ở tầng thứ hai. Các hạt
châu trùng trùng ảnh hiện như thế ấy chẳng
có cùng tận, dùng để thí dụ các pháp tương tức,
tương nhập, trùng trùng vô tận. Sách Đại Sớ
viết: “Như dùng hai tấm
gương đặt đối nhau, chiếu rọi, hiện
bóng lẫn nhau”.
Phẩm Bảo Liên Phật Quang (hoa sen báu và quang minh của
Phật) trong kinh đây chép:
“Chúng bảo liên hoa châu măn thế
giới… nhất nhất hoa trung xuất tam thập lục
bách thiên ức quang. Nhất nhất quang trung, xuất tam thập
lục bách thiên ức Phật… Nhất nhất chư Phật,
hựu phóng bách thiên quang minh, phổ vị thập
phương thuyết vi diệu pháp. Như thị chư
Phật, các các an lập vô lượng chúng sanh ư Phật
chánh đạo” (Các hoa sen báu
đầy ắp khắp cả thế giới... Trong mỗi
một hoa hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức ánh
sáng. Trong mỗi một ánh sáng, xuất hiện ba
mươi sáu trăm ngàn ức Phật... Mỗi một vị
Phật lại phóng trăm ngàn quang minh, v́ khắp mười
phương thuyết pháp vi diệu. Các đức Phật
như thế mỗi vị đều an lập vô lượng
chúng sanh nơi chánh đạo của Phật).
Ở trên, trong phần nói về huyền môn thứ sáu,
đă chỉ ra “trong mỗi một
ánh sáng xuất hiện ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật”
là vi tế tương dung môn, đấy là một tầng
tương tức tương nhập.
Xét kỹ đoạn trước và phần sau của
đoạn kinh ấy, ta thấy rơ được diệu
nghĩa “trùng trùng vô tận tương tức tương
nhập”:
Trong một cơi nước của A Di Đà Phật có vô số
hoa sen báu. Mỗi một hoa lại phóng ra số quang minh khó
thể tính biết được. Trong mỗi một quang
minh lại có số lượng Phật khó thể tính biết
được. Mỗi một đức Phật lại
phóng quang thuyết pháp, an lập vô lượng chúng sanh
nơi chánh đạo của Phật. Như vậy, trong
cơi Cực Lạc có vô số sen. Sen phóng quang. Quang hiện
Phật. Phật hiện cơi nước. Trong cơi nước
lại có vô số hoa sen, sen lại phóng quang, hiện Phật.
Mỗi một hoa sen ví như một hạt châu nơi
lưới Đế Thích, hoa sen như thế khắp đầy
cả cơi Phật, đủ thấy kinh này thật sự
hiển thị huyền môn “Nhân Đà La vơng trùng trùng vô tận,
sự sự vô ngại” của Hoa Nghiêm.
8. Thác sự hiển pháp sanh giải
môn
Do trùng trùng vô tận như trên nên vi trần nào, pháp nào
cũng đều là sự sự vô ngại pháp giới. V́
vậy, có thể tùy ư lấy một hạt bụi, một
sự để hiển lộ toàn thể pháp giới
như Đại Sớ viết: “Tượng
đứng giơ tay, mắt nh́n đều là đạo”.
Phẩm Bồ
Đề Đạo Tràng trong kinh đây chép:
“Hựu kỳ đạo tràng, hữu Bồ
Đề thụ… phục do kiến bỉ thọ cố,
hoạch tam chủng Nhẫn: Nhất Âm Hưởng Nhẫn,
nhị Nhu Thuận Nhẫn, tam giả Vô Sanh Pháp Nhẫn. Phật
cáo A Nan: - Như thị Phật sát, hoa quả thụ mộc,
dữ chư chúng sanh nhi tác Phật sự” (Lại nữa, đạo
tràng ấy có cây Bồ Đề.... Lại do trông thấy cây ấy
mà được ba thứ Nhẫn: Một là Âm Hưởng
Nhẫn, hai là Nhu Thuận Nhẫn, ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Phật bảo A Nan: - Cơi Phật như vậy, hoa quả,
cây cối đều v́ chúng sanh mà làm Phật sự).
Một phen nh́n cây ấy chứng được Vô Sanh
th́ đúng là huyền chỉ “thác sự hiển pháp sanh giải”.
Hoa quả, cây cối đều làm Phật sự cũng
có cùng ư nghĩa như vậy.
9. Thập thế cách pháp dị
thành môn
Môn này biểu thị sự kéo dài hay rút ngắn vô ngại.
Tám môn trước biểu thị tướng viên dung theo
chiều ngang (không gian), c̣n môn này biểu thị theo chiều
dọc (thời gian).
“Thập thế” là đời quá khứ, vị lai, hiện
tại, mỗi đời lại có quá khứ, vị lai,
hiện tại nên thành chín thế. Chín thế nhập vào
nhau thành một Tổng Thế. Tổng Thế hợp với
chín Thế trên thành Thập Thế.
Thập Thế này là pháp khác biệt về thời gian,
nhưng đồng thời hiển hiện trọn vẹn,
nên gọi là “cách pháp dị thành” (các pháp sai khác nhưng thành
tựu cùng một lúc nên gọi là “dị thành”).
Phẩm Sơ Phát Tâm Công Đức trong kinh Hoa Nghiêm, bản
dịch đời Tấn, chép: “Tri vô
lượng kiếp thị nhất niệm, tri nhất niệm
tức vô lượng kiếp” (Biết vô lượng kiếp là một niệm, biết
một niệm tức là vô lượng kiếp).
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện lại chép: “Tận nhất
thiết kiếp vi nhất niệm” (Trọn hết thảy kiếp là một niệm), “ngă ư nhất niệm kiến
tam thế” (ta trong một niệm
thấy ba đời) đều là nghĩa kéo dài, rút gọn
trong cùng một lúc, tam thế nhất như (ba đời
giống hệt như nhau). V́ vậy, Đại Sớ viết:
“Như giấc mộng một
đêm kéo dài cả trăm năm”.
Trong kinh Vô Lượng Thọ đây cũng có nhiều
đoạn hiển thị môn này, như trong phẩm Đại
Giáo Duyên Khởi chép: “Năng
ư niệm khoảnh, trụ vô lượng ức kiếp”
(Có thể trong khoảng một niệm,
trụ vô lượng ức kiếp). Phẩm Đức Tuân
Phổ Hiền chép: “Ư nhất
niệm khoảnh, biến du nhất thiết Phật độ”
(Trong khoảng một niệm qua
trọn khắp hết thảy cơi Phật). Phẩm Ca Thán
Phật Đức cũng chép: “Ư nhất
thực khoảnh, phục văng thập phương vô biên tịnh
sát” (Trong khoảng một bữa
ăn, lại đi qua mười phương vô biên cơi tịnh),
những câu như vậy đều hiển thị huyền
môn thứ chín này.
10. Chủ bạn viên minh cụ
đức môn
Vạn pháp ngang dọc thành một đại duyên khởi,
các pháp thấu tột lẫn nhau, nên hễ nêu lên một
pháp th́ hết thảy các pháp khác thành bạn để làm
duyên khởi, cũng tức là lấy một pháp làm chủ
th́ hết thảy những pháp khác đều là bạn
để tương ứng với pháp ấy. Lấy pháp
khác làm chủ th́ các pháp kia thành bạn để ứng với
pháp này. V́ vậy một pháp viên măn công đức của hết
thảy pháp. Đấy gọi là “viên măn cụ đức”
(đầy đủ các đức viên măn). Đại Sớ
viết: “Như sao Bắc Đẩu
ngự ở đâu, các tinh tú đều chầu về”.
Nay kinh này lấy “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng
chuyên niệm” làm Tông, dùng nguyện “mười niệm ắt
văng sanh” làm gốc của đại nguyện, chuyên trọng
tŕ danh niệm Phật th́ là “đầy đủ vạn
đức”.
Một câu danh hiệu Phật này viên măn đầy
đủ công đức của hết thảy pháp. Toàn thể
đều là nghĩa lư của Hoa Nghiêm huyền môn “viên minh
cụ đức”.
Phẩm Tam Bối Văng Sanh (ba bậc văng sanh) của kinh
này chép:
“Năi
chí hoạch đắc nhất niệm tịnh tâm, phát nhất
niệm tâm, niệm ư bỉ Phật. Thử nhân lâm mạng
chung thời, như tại mộng trung, kiến A Di Đà
Phật. Định sanh bỉ quốc, đắc bất
thoái chuyển vô thượng Bồ Đề” (Cho đến đạt được một
niệm tịnh tâm, phát một niệm tâm, niệm đức
Phật kia. Người ấy đến lúc lâm chung như
ở trong mộng thấy A Di Đà Phật, quyết định
sanh cơi kia, được bất thoái chuyển nơi vô
thượng Bồ Đề).
Câu này chỉ rơ tịnh tâm niệm Phật một tiếng,
công đức vô lượng chẳng thể nghĩ bàn.
Hơn nữa, trong các đại nguyện có nguyện:
“Nghe tên được phước”. Thập phương
chúng sanh do nghe tên Phật “thọ
chung chi hậu, sanh tôn quư gia, chư căn vô khuyết,
thường tu thù thắng phạm hạnh” (sau khi hết tuổi thọ, sanh trong nhà tôn
quư, các căn chẳng khuyết, thường tu phạm hạnh
thù thắng).
Lại có nguyện “nghe tên đắc Nhẫn”, Bồ
Tát phương khác do nghe tên Phật, ngay khi ấy đạt
được một, hai hoặc ba thứ Nhẫn, chứng
bất thoái chuyển, đủ chứng minh rằng diệu
đức của danh hiệu A Di Đà Phật khó thể
nghĩ lường nổi. Như sách A Tự Quán của
Đông Mật viết: “Từ chữ
A sanh ra hết thảy đà-ra-ni, từ hết thảy
đà-ra-ni sanh ra hết thảy Phật”. Chữ A là vua,
hết thảy đà-ra-ni và hết thảy chư Phật
là bạn. Trong một chữ, chủ bạn công đức
vô lượng vô biên th́ chính là huyền ư “viên minh cụ
đức” vậy.
Hơn nữa, trong cơi nước ấy, sắc, thanh,
hương, vị, xúc mỗi thứ đều viên minh cụ
đức. V́ vậy, hiện quang, thấy cây, nghe tiếng,
ngửi hương, không điều ǵ là chẳng tăng
trưởng thiện căn.
“Nhược hữu chúng sanh,
kiến ngă quang minh, chiếu xúc kỳ thân, mạc bất
an lạc, từ tâm tác thiện… Ba dương vô lượng
vi diệu âm thanh… Đắc văn như thị chủng
chủng thanh dĩ, kỳ tâm thanh tịnh, vô chư phân biệt,
chánh trực b́nh đẳng, thành thục thiện căn…
Lưu bố vạn chủng ôn nhă đức hương,
kỳ hữu văn giả, trần lao cấu tập tự
nhiên bất khởi. Phong xúc kỳ thân, an ḥa điều
thích, do như tỳ-kheo đắc Diệt Tận Định”
(Nếu có chúng sanh thấy quang
minh của ta chiếu chạm đến thân không ai chẳng
an lạc, từ tâm làm lành… Sóng vỗ vô lượng âm thanh
vi diệu... Được nghe các thứ âm thanh như vậy
rồi, tâm họ thanh tịnh, không có các phân biệt, chánh
trực b́nh đẳng, thành thục thiện căn….Tỏa
khắp nơi muôn thứ hương ôn nhă muôn đức,
có ai ngửi thấy, trần lao cấu tập tự nhiên
chẳng khởi. Gió chạm vào thân, an ḥa, vừa thích, khoan
khoái, như là tỳ-kheo đắc Diệt Tận Định).
Lại c̣n:
“Nhược hữu chúng sanh đổ
Bồ Đề thụ, văn thanh, khứu hương,
thưởng kỳ quả vị, xúc kỳ quang ảnh, niệm
thụ công đức, giai đắc lục căn thanh triệt,
vô chư năo hoạn, trụ Bất Thoái Chuyển, chí thành
Phật đạo” (Nếu có chúng
sanh thấy cây Bồ Đề, nghe tiếng, ngửi
hương, nếm vị của trái, chạm phải ánh
sáng, h́nh bóng, nghĩ đến công đức của cây,
sáu căn đều được thanh tịnh, không có các
năo hoạn, trụ Bất Thoái Chuyển cho đến khi
thành Phật đạo).
Trong nguyện “hương báu xông khắp” lại nói: “Kỳ
hương phổ huân thập phương thế giới,
chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh” (Hương ấy xông khắp mười
phương thế giới, chúng sanh ngửi thấy đều
tu hạnh Phật). Đủ thấy, một hạt bụi,
một sợi lông, không thứ ǵ chẳng viên minh cụ
đức.
Sách Hoa Nghiêm Huyền Đàm giải thích các pháp là sự sự
vô ngại, là do duy tâm sở hiện. Nguồn gốc của
các pháp chẳng phải là có chủng loại riêng, chỉ
là pháp sai biệt duyên khởi của Như Lai Tạng Tâm của
chính ḿnh. V́ vậy, chúng ắt phải có cái lư có thể dung
ḥa được nhau.
Sách Hoa Nghiêm Kim Sư Tử Chương viết: “Hoặc ẩn, hoặc hiển,
hoặc một, hoặc nhiều, đều không có tự
tánh. Do tâm xoay chuyển nên nói Sự, nói Lư, có thành, có lập
th́ gọi là duy tâm hồi chuyển thiện thành môn”. Duy
tâm thiện thành môn chính là chủ bạn viên minh cụ
đức môn.
Phẩm Tích Công Lũy Đức trong kinh này đây có thuật
tỳ-kheo Pháp Tạng “trụ
Chân Thật Huệ, dũng mănh, tinh tấn, một bề
chuyên chí trang nghiêm cơi nước mầu nhiệm” nên biết
được rằng y báo, chánh báo thanh tịnh trang nghiêm
của cơi Cực Lạc đều do Chân Thật Huệ
hiện ra. Như Văng Sanh Luận cho rằng ba thứ trang
nghiêm vào trong một pháp cú, một pháp cú là thanh tịnh cú,
thanh tịnh cú là “chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân” th́ biết
được rằng trang nghiêm cơi nhiệm mầu chính là
thanh tịnh Pháp Thân, không hai, không khác.
Phẩm Thọ Lạc Vô Cực của kinh đây chép:
“Nhất đán khai đạt
minh triệt, tự nhiên trung tự nhiên tướng, tự
nhiên chi hữu căn bản, tự nhiên quang sắc tham hồi,
chuyển biến tối thắng, Uất Đan thành thất
bảo, hoành lăm thành vạn vật” (Một phen tâm khai ngộ, liễu đạt,
minh bạch, thấu triệt tướng tự nhiên của
tự nhiên, trong tự nhiên tự có căn bản, tự
nhiên quang sắc nhập lẫn vào nhau, chuyển biến tối
thắng, Uất Đan thành thất bảo, trong hư không tự
nhiên thành vạn vật)[5].
Kinh nói “nhất
đán khai đạt minh triệt” th́ cái
được khai minh đó chính là tự tâm của ngay
đương sự. “Thất bảo” và “vạn vật”
chỉ cho cơi Phật. Do một tâm của chính ḿnh mà hiện
ra cơi nước mầu nhiệm, do tâm xoay vần thành ra thế
giới. Thế nên, sự sự vô ngại, viên minh cụ
đức. V́ vậy, kinh dạy: “Khai hóa hiển thị Chân Thật Tế”.
Chân Thật Tế là bổn tế Chân Như Thật
Tướng. V́ thế, điều được hiển
thị ở đây là: Ngay
nơi tướng chính là Đạo, ngay nơi Sự chính là
Chân. Không thứ ǵ chẳng phải là Chân Như, Thật
Tướng. Cũng có nghĩa là không một thứ ǵ chẳng
phải là tự tâm. V́ thế, siêu t́nh, ly kiến, đầy
đủ trọn vẹn Thập Huyền.
Sự thù thắng độc đáo của kinh Hoa Nghiêm
chỉ cốt ở Thập Huyền mà kinh Vô Lượng
Thọ này cũng có đủ, đủ chứng minh rằng
kinh này chẳng khác ǵ kinh Hoa Nghiêm. Cuối kinh Hoa Nghiêm dùng
mười đại nguyện vương để dẫn
dắt quy về Cực Lạc. Kinh này đây hoàn toàn hiển
thị Tịnh tông, dẫn dắt phàm thánh cùng quy Cực Lạc,
nên gọi kinh này là kinh Hoa Nghiêm bản trung th́ thật là có
căn cứ vậy.
Lại theo như sách Yếu Giải phán định
kinh Tiểu Bổn: “Hoa Nghiêm áo
tạng, bí tủy Pháp Hoa, tâm yếu của hết thảy
chư Phật, kim chỉ nam của muôn Bồ Tát hạnh
đều chẳng ngoài kinh này” th́ Cực Lạc chẳng
rời Hoa Tạng thế giới, Di Đà chính là Tỳ Lô Giá
Na. V́ vậy, phán định kinh này thuộc Viên Giáo ai dám bảo
là chẳng đúng.
Nhưng cách phán giáo này cũng chỉ là tướng sai
biệt của b́nh đẳng. Nếu là người
căn cơ viên măn th́ pháp nào cũng đều là viên, “pháp này b́nh đẳng, chẳng
có cao, thấp”. Đấy là tướng b́nh đẳng
trong sai biệt.
[1] Lưới Đế
Thích (đế vơng): Lưới của Đế Thích mỗi
mắt lưới là một hạt ngọc, mỗi hạt
ngọc phản chiếu, soi rọi hiện bóng trong những
hạt ngọc kia, trùng trùng vô tận.
[2] Chủ bạn
giao tham: Pháp này là chủ th́ các pháp kia là bạn, lấy pháp
khác làm chủ, th́ pháp này cùng các pháp c̣n lại là bạn.
[3] Tu đoạn: Đoạn trừ phiền
năo vô minh bằng cách tu tập.
[4] Sát hải: Sát là nói tắt của sát
độ (ksetra), tức một cơi Phật. Một cơi Phật
nhỏ nhất là một tam thiên đại thiên thế giới.
Do các cơi Phật nhiều như biển, nên kinh thường
dùng chữ “sát hải” để h́nh dung.
[5] Ư nghĩa câu này rất
sâu xa, sẽ được tác giả tự giải thích
chi tiết trong phần bốn của bản Chú Giải
này.