2. Thể tánh của kinh
Hết thảy các kinh điển đại thừa
đều dùng Thật Tướng
làm chánh thể. Cổ đức nói: “Các kinh Đại Thừa đều dùng một Thật
Tướng làm ấn”.
Thật Tướng là tướng chân thật cũng
là B́nh Đẳng Nhất Tướng. Thật Tướng vô
tướng nhưng chẳng phải là bất tướng.
Có tướng mà vô tướng nên gọi là Thật Tướng.
Vô tướng là ĺa hết thảy tướng hư vọng
nên vô tướng chính là ly tướng.
Hơn nữa, Thật Tướng chẳng phải là
bất tướng, do nó chẳng phải là ngoan không,
đoạn diệt như lông rùa, sừng thỏ, hết
thảy hư vô! Kinh Kim Cang dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức
kiến Như Lai” (Phàm cái ǵ có tướng đều là
hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải
là tướng th́ thấy Như Lai). Nghĩa là: Ngay nơi
tướng ĺa tướng, ĺa sạch tướng hư
vọng th́ thấy Thật Tướng, nên nói là thấy Như Lai, đấy
là chỉ cho Pháp Thân Như Lai.
Pháp Thân Như Lai ĺa hết thảy tướng, nên nói:
Thật Tướng vô tướng, nhưng không phải
là không có Pháp Thân nên nói: Thật Tướng chẳng phải
là bất tướng. Pháp sanh diệt toàn là hư vọng
nhưng trong cái sanh diệt lại có cái chẳng sanh diệt.
Các pháp sanh diệt là tướng sai biệt, nhưng trong
cái sai biệt có cái chẳng sai biệt. Chẳng sanh chẳng
diệt, chẳng có sai biệt, nên nói Thật Tướng là b́nh đẳng nhất tướng.
Thật Tướng nghĩa lư sâu xa. Nếu hiểu rơ
Thật Tướng th́ ngộ được lư Đại Thừa.
Nay tôi dùng thí dụ cho dễ hiểu: Ví dụ như dùng
vàng chế ra tháp, tượng, b́nh, chén, xuyến, ṿng, các thứ
tướng sai biệt rơ ràng. Nếu đem các vật
đó bỏ vào ḷ nung, chúng lại hóa thành vàng. Các tướng
vốn có đều tiêu diệt hết, nhưng vàng là bản
thể các vật vẫn c̣n như cũ. Đủ thấy
tướng sai biệt của các vật có sanh có diệt,
đều thuộc về hư vọng, nhưng bản thể
các vật là vàng, b́nh đẳng nhất tướng, bất
sanh bất diệt, chẳng tăng, chẳng giảm.
Trên đây, dùng vàng để ví cho Thật Tướng
chân thật b́nh đẳng, các vật bằng vàng ví cho các
tướng sai biệt. Do ví dụ trên, thấy được
rằng: Nếu phá tướng hư vọng sai biệt của
các vật bằng vàng như tháp, tượng, b́nh, chén, xuyến,
ṿng... th́ thấy vàng chân thật b́nh đẳng nơi các vật.
Dùng điều này để ví với sự kiện ĺa tướng hư vọng của
hết thảy pháp th́ thấy Thật Tướng. Do
ĺa tướng hư vọng sai biệt nên nói là vô tướng.
Trong các tướng hư vọng sai biệt có bản thể
chân thật b́nh đẳng nên bảo là chẳng phải bất
tướng. Ngay nơi tướng ĺa tướng, có
tướng mà vô tướng bèn thấy rơ Thật Tướng.
Thật Tướng ĺa ngôn thuyết đúng như ngài
Nam Nhạc Hoài Nhượng nói: “Thuyết
tự nhất vật, tức bất trúng” (Nếu nói
dường như có một vật th́ chẳng trúng), nên chẳng
thể dùng thí dụ thế gian nào chỉ rơ được
Thật Tướng. Trong thí dụ trên đây, nếu ngộ
nhận thật sự có một tướng vàng cụ thể
để đạt được th́ lại vướng
vào tướng, không c̣n là Thật Tướng của vô
tướng nữa! V́ vậy, bảo rằng: “Phàm sở ngôn thuyết, giai vô Thật
Nghĩa” (Hễ có ngôn thuyết đều chẳng phải
là thật nghĩa).
Hơn nữa, kinh Viên Giác dạy: “
Cái giác tâm sau khi huyễn bị diệt vừa
được nói trong kinh cùng với cái sáng suốt hiện
ra khi hết cấu nhơ đều chỉ cho cái Thật
Tướng b́nh đẳng nhất vị được
hiển lộ do ĺa vọng. Mài gương thật ra là mài
bỏ chất nhơ. Tánh gương vốn sáng, chẳng
phải tự bên ngoài mà có. Nhơ hết, sáng hiện, ĺa vọng
tức là chân. Do vậy, bảo: “Bất
dụng cầu Chân, duy tu tức kiến” (Chẳng nhọc
cầu Chân, chỉ cần dứt cái Thấy). Cái Thấy của chúng sanh
đều là cái thấy hư dối. Cái Thấy chân thật
là tri kiến của Phật.
Sách Yếu Giải lại viết: “Tâm tánh của một niệm hiện tiền của
chúng ta chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở
khoảng giữa, chẳng phải quá khứ, chẳng phải
hiện tại, chẳng phải vị lai, chẳng phải
xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tṛn, chẳng
phải hương, chẳng phải vị, chẳng phải
xúc, chẳng phải pháp. T́m
th́ chẳng thể được, nhưng chẳng thể
bảo là Không. Nó tạo đủ bách giới, thiên như[2]
nhưng chẳng thể bảo là Có. Ĺa hết thảy tướng duyên lự, phân biệt,
ngữ ngôn, nhưng chẳng phải ngoài những thứ ấy
riêng có tự tánh (như trong thí dụ ở phần
trên, hết thảy các vật đều chẳng ngoài
vàng). Nói tóm lại, ĺa hết
thảy tướng chính là hết thảy pháp. Do ĺa nên vô
tướng. Cũng do vậy nên chẳng phải là bất
tướng. Do chẳng thể được nên cưỡng
gọi là Thật Tướng”.
Rơ ràng Thật Tướng chính tên cưỡng gọi của
một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta. Tánh của
một niệm nơi tâm được cưỡng gọi
là Tự Tánh. Nhị Tổ t́m tâm chẳng được
nên “đă an tâm rồi”, nhưng chẳng thể bảo là
Không. Tuy Lục Tổ nói: “Hà kỳ
tự tánh năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ tự tánh
hay sanh vạn pháp), cũng
chẳng thể chấp là Có. Ĺa tứ cú, tuyệt bách phi[3],
chẳng thể dùng suy lường, phân biệt để
hiểu nổi. “Linh minh đỗng
triệt, trạm tịch thường hằng” “riêng sáng vằng
vặc”, “rạng ngời hư không”, “linh quang độc
diệu, thoát sạch căn trần”. V́ thế, Liên Tŕ
đại sư khen ngợi rằng: “Lớn thay chân thể! Chẳng thể nghĩ bàn nổi
th́ chỉ có mỗi tự tánh mà thôi!”.
Bản chất của Thật Tánh đă được
bàn thô thiển như trên. C̣n như thể tánh của Đại
kinh v́ sao lại bảo là Thật Tướng? Dưới
đây sẽ bàn. Văng Sanh Luận của Thế Thân Bồ
Tát có đoạn viết:
“Trang nghiêm cơi Phật công
đức thành tựu, trang nghiêm Phật công đức
thành tựu, trang nghiêm Bồ Tát công đức thành tựu.
Nên biết ba thứ thành tựu nguyện tâm trang nghiêm này
có thể nói gọn trong một pháp cú. Một pháp cú là thanh
tịnh cú. Thanh tịnh cú là chân thật trí huệ vô vi Pháp
Thân”.
Luận này thật đă hiển thị Nhất Chân
pháp giới sự lư vô ngại: Ngay nơi tướng chính
là đạo. Các thứ y báo, chánh báo trang nghiêm nơi thế
giới Cực Lạc, mỗi thứ đều là Pháp Thân
vô vi trí huệ chân thật, mỗi thứ chính là Thật
Tướng. Do vậy mới nói kinh này lấy Thật
Tướng làm Thể. Cừ Am đại sư đời
Minh nói: “Rừng quỳnh, ao ngọc
hiển hiện trực tiếp nguồn tâm. Thọ lượng,
quang minh phơi bày trọn vẹn tự tánh”.
U Khê đại sư đă viết trong bộ Viên Trung
Sao như sau: “Rừng quỳnh,
ao ngọc, thọ lượng, quang minh vốn là tướng
của hết thảy pháp. Chúng
đă hiển lộ trực tiếp nguồn tâm, phô bày trọn
vẹn tự tánh th́ lấy tướng nào để đạt
được! Đấy chính là tướng mà vô tướng,
tuy là tướng mà là chánh thể của vô tướng.
Tâm tánh của bọn ta lượng
đồng pháp giới, linh minh đỗng triệt, trạm
tịch thường hằng. Theo bề dọc th́ suốt cả ba đời, theo
bề ngang th́ trọn khắp mười phương”.
Cơi nước Cực Lạc chẳng ở ngoài tâm, tâm ta sẵn
đủ bách giới thiên như. Tâm tịnh th́ cơi Phật
tịnh, cơi tịnh th́ tâm ta tịnh, nào có một pháp ở
ngoài tâm ta. Pháp được kinh này phô diễn là để
hiển thị trực tiếp bổn tâm, phô bày trọn vẹn
tự tánh. Ngay nơi tướng chính là đạo, chẳng
phải là không có Thật Tướng. Sách Di Đà Yếu Giải
viết:
“Thật Tướng không
hai, cũng chẳng phải là bất nhị. V́ vậy dùng
toàn thể làm y báo, chánh báo, làm pháp, làm báo, làm tự, làm tha,
nhẫn đến năng thuyết (người nói), sở
thuyết (pháp được nói), người độ, kẻ
được độ, người tin, pháp được tin, người
phát nguyện, điều được nguyện, người
tŕ, danh hiệu được tŕ, năng sanh (người
văng sanh), sở sanh (cơi để sanh về), người
khen ngợi, pháp được khen ngợi, không chi chẳng được
Thật Tướng chánh ấn in vào”.
Do đoạn văn trên, thấy được rằng
toàn kinh này gói trọn trong một Thật Tướng, nên
nói: Thật Tướng là thể tánh của kinh này vậy.
Lại nữa, phẩm Đức Tuân Phổ Hiền trong
kinh này chép: “Khai hóa hiển thị
Chân Thật Tế”. Phẩm Đại Giáo Duyên Khởi chép:
“Dục chửng
quần manh, huệ dĩ chân thật chi lợi” (Muốn cứu vớt quần
manh, ban cho lợi ích chân thật). Phẩm Tích Công Lũy Đức
chép: “Trụ chân thật
huệ, dũng mănh tinh tấn, nhất hướng chuyên
chí trang nghiêm diệu độ” (Trụ chân thật huệ dũng mănh tinh tấn,
một dạ chuyên chí trang nghiêm cơi nhiệm mầu).
Chân Thật Tế là Chân Như Thật Tướng bổn
tế. Đó chính là điều kinh này khai thị. Cơi nhiệm
mầu Cực Lạc được trí huệ chân thật
trang nghiêm thành tựu. Di Đà Thế Tôn thâu nhiếp cơi mầu
nhiệm ấy, tuyên dương pháp mầu này, muốn ban
cho bọn chúng sanh ta cái lợi chân thật. Ba thứ chân thật
này (Chân Thật Tế, Chân Thật Huệ, và Lợi Ích Chân Thật), một
chính là ba, ba chính là một, là phương tiện rốt
ráo chẳng thể nghĩ bàn. Toàn thể của y báo, chánh báo cơi
Cực Lạc, pháp môn Tịnh Độ đều là Chân Thật
Tế. V́ vậy, ta nói kinh này lấy Thật Tướng
làm thể tánh vậy.
[1] Mài gương:
Thời xưa, dùng đồng làm gương nên phải
mài cho gương sáng bóng mới soi mặt được.
[2] Bách giới thiên
như: Theo tông Thiên Thai, có mười giới: từ ngạ
quỉ, súc sanh, địa ngục... cho đến chư
Phật. Trong mỗi giới lại có đủ mười
giới, nên 10x10=100 giới. Trong mỗi giới lại có
mười môn như thị; như thị tướng,
như thị thể, như thị tánh... (xem kinh Pháp Hoa)
nên thành ra một ngàn như. Tông Thiên Thai dùng chữ “bách giới
thiên như” để chỉ tất cả các pháp.
[3]
Tứ cú: Có, không, vừa có vừa không, chẳng phải có
chẳng phải không.
Bách phi: Bách là con số tượng
trưng cho đông nhiều, chữ Phi chỉ cho các thứ
phủ định phi hữu, phi vô v.v… Nói chung
“tứ cú bách phi” hàm nghĩa hết thảy ngôn từ đều
không phải là thực tại, chỉ là mê chấp của
hết thảy chúng sanh.