Lăo Ḥa thượng Tịnh Không thuyết
giảng
Dịch theo bản in của Xă Đoàn Pháp Nhân Tịnh
Tông Học Hội Thị xă Đài Nam, ấn bản tháng 12,
2003
Thay lời tựa
Phần
đầu của quyển sách nhỏ này vốn là ‘Những
bài nói chuyện trong Phật thất ở Dallas’, phần
nh́ là đáp lời thỉnh cầu của Ngộ Khải
pháp sư, lăo ḥa thượng Tịnh Không từ Singapore trực
tiếp dùng mạng internet khai thị cho đồng tu trong
Phật thất Dallas. Hai phần
này được cư sĩ Truyền Tịnh kết hợp
lại, chỉnh lư, và thêm những tựa đề nhỏ
cho từng đoạn. Vài hàng
giải thích và cám ơn.
Phần
thứ ba có tựa đề ‘Truyền Tâm Pháp Yếu’, ghi lại
buổi nói chuyện của lăo ḥa thượng với
lớp đào tạo nhân tài hoằng pháp kỳ 2, tháng 11,
1996 tại Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba, do cư sĩ Nhận
Chân chỉnh lư.
MỤC LỤC
A.
XÂY DỰNG TÂM LƯ TRONG PHẬT THẤT
a.
Sanh tâm ‘Vô trụ’
1. Mục đích của Phật thất
2. Đạo ở trong sanh hoạt
thường ngày
3. Làm thế nào ‘An tâm đoạn
vọng’
4. Vạn pháp là tướng
tương tục của nhân quả
5. Đoạn ác tu thiện trong
đời sống
b. Ảo tướng của duyên
sanh, đương thể tức không
1.
Bố thí vô trụ
2.
Quy hướng Cực Lạc tịnh
độ
3.
Chư pháp đều không, nhân quả
chẳng không
4.
Hễ những ǵ có tướng đều
là hư vọng
5.
[Chánh] pháp c̣n nên xả, huống hồ là phi
pháp
c. Ĺa khỏi bốn tướng, tin
nhân quả
1.
Rộng kết thiện duyên và pháp duyên
2.
Đức Phật vạn đức vạn
năng
3.
Ĺa bốn tướng, hiểu rơ sự lư,
tin nhân quả
d.
Tôn đức Phật A Di Đà làm
thầy
1.
Pháp môn b́nh đẳng
2.
Thân cận thiện tri thức
3.
Đừng lôi kéo tín đồ, đừng hóa
duyên
4.
Pháp môn vô lượng chỉ chọn một
môn
5.
Lối dạy học nghệ thuật hóa
trong Phật giáo
6.
Tôn Phật làm thầy
e.
Vũ trụ nhân sanh chỉ là mộng huyễn bào
ảnh
1.
Thọ tŕ một câu kệ hơn cả
bố thí thất bảo
2.
Hoằng pháp phải địa phương
hóa và hiện đại hóa
3.
Cành cũ lá mới, tùy duyên thuyết pháp
4.
Ăn chay vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm
5.
Vũ trụ nhân sanh chỉ là mộng
huyễn bào ảnh
B. CHẤN QUANG PHÁP VỊ .
a.
Quyết tâm cầu sanh Tịnh độ ..
1.
Cảm niệm ân Phật, ân của hộ
pháp
2.
Nội dung và phương pháp tu hành trong
Phật điển
b. Lăo thật tu hành, tự tại
văng sanh
1.
Những chuyện văng sanh gần đây
2.
Dứt ác tu thiện, chuyên cần giữ ǵn
ba nghiệp
c. Niệm Phật có thể tiêu tai
miễn nạn
1.
Vũ trụ là không gian đa nguyên
2.
Không tri ân nghĩa chiêu cảm tai kiếp
3.
Niệm Phật có thể giúp cho thế
giới ḥa b́nh
d. Lư của chuyện ‘Niệm
Phật thành Phật’
1.
Hư không pháp giới và ḿnh cùng một
thể
2.
Hết thảy các pháp từ tâm tưởng
sanh ra
3.
Tự tại văng sanh độ gia quyến
4.
Y giáo phụng hành có thể tự tại
văng sanh
e.
Giác ngộ - Nh́n thấu – Buông xả
1.
Nh́n thấu mới buông xả
được
2.
Hiểu rơ nhân quả không oán hận và
hối hận
3.
Dứt ác tu thiện làm lợi ích cho chúng
sanh
f. Giữ ǵn công phu
1.
Khắc phục dục vọng giữ ǵn
công phu
2.
Nương nhờ vào chúng (đoàn thể)
xả thế duyên
g. Buông xả tâm muốn khống
chế và tâm muốn chiếm lấy
1.
Dưỡng tâm c̣n quan trọng hơn
dưỡng thân
2.
Năng và Sở đều là không, bất
khả đắc
3.
(đều không thể được, không
chứng được)
4.
Quản [lư] sự [việc] phải giữ
giới luật thanh tịnh
5. Buông xả
khống chế, chiếm lấy, yêu cầu (đ̣i
hỏi)
C.TRUYỀN
TÂM PHÁP YẾU
I. Chân tướng của Đạo. Thập đức:
Nh́n
thấu, Buông xả, Tự Tại, Tùy duyên, Niệm
Phật
II. Lựa
chọn pháp phải: Tinh Đáng, Khế cơ, Khế lư
1. Chân thành
2. Có thể xả,
chịu buông xuống th́ sẽ thoát ra khỏi luân hồi
3. Căn bản
của thành đạo – chân thành, không dối ḿnh, không có
chuyện ǵ
sợ cho người
biết
4. Cực Lạc, Hoa
Tạng, vô lượng trang nghiêm, người người
đều có đầy đủ
5.
Tâm thanh tịnh là chân thành
6.
Tâm b́nh đẳng là chân thành
7.
Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác là Tam
Bảo, là mục tiêu của tam tự quy y.
8.
Trong Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác
tự khởi tâm đại từ bi
1.
Nh́n thấu, Buông xả là then chốt
của sự thành đạo
2.
Buông xuống vô lượng pháp, đi sâu vào
một môn
3.
Nh́n thấu, Buông xả được
đại tự tại
4.
Tùy duyên mà không phan duyên. Phong phạm của Liên Tŕ
đại sư
5.
Niệm Phật phải tương ứng
với thập đức
6.
Hết thảy phải làm từ tâm chân
thật.
Phụ
lục 1: Cứu văn kiếp nạn, hóa giải tai nạn
phải đẩy mạnh bốn thứ giáo dục
Phụ
lục 2: Khai thị tâm yếu của Ấn Quang
đại sư
Lăo Ḥa thượng
Tịnh Không thuyết giảng
A. XÂY DỰNG TÂM LƯ TRONG PHẬT
THẤT
a. Sanh tâm ‘Vô trụ’
1. Mục đích
của Phật thất
Phật thất là phương pháp tu hành [mà hành giả] đặt ra kỳ hạn để cầu chứng, nghĩa là đặt mục tiêu phải thành công, trong bảy ngày này phải đạt được ‘nhất tâm bất loạn’ nói trong kinh A Di Đà. Công phu đến ‘nhất tâm bất loạn’ thường được chia ra ba hạng: thượng, trung, hạ. Công phu mức thượng gọi là ‘Lư nhất tâm bất loạn’ có cùng một cảnh giới với mức ‘Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật’ trong Tông Môn. Kế đó là ‘Sự nhất tâm bất loạn’: đoạn dứt Kiến Tư phiền năo, công phu này tương đương với bậc Tiểu thừa A La Hán. Mức thấp nhất gọi là ‘Công phu thành phiến’ (thành khối). Rất ít người có thể đạt được công phu mức thượng và mức trung, nhưng ‘công phu thành phiến’ đích thật là ai cũng có thể đạt được.
Trong ṿng 24
giờ đồng hồ trong tâm chỉ có A Di Đà Phật,
ngoài ra không khởi lên một vọng niệm ǵ khác, đây
gọi là ‘công phu thành phiến’.
Từ điểm này [chúng ta] có thể biết
kết thất niệm Phật có mục đích thù
thắng như vậy.
Giảng khai thị trong Phật thất
được gọi là ‘xen tạp’, v́ giảng khai
thị làm cho tâm người ta loạn lên và không
đạt được công phu thành phiến. Tại sao chúng ta không những
giảng khai thị trong Phật thất mà c̣n giảng
đến một giờ rưỡi? Nói chung cũng v́ lúc dự
Phật thất vọng tưởng, tạp niệm
[của các bạn] quá nhiều, đạt không được
công phu thành phiến, bất đắc dĩ phải làm
vậy.
2. ‘Đạo’ ở trong sanh
hoạt hằng ngày.
Tại sao công phu niệm
Phật của mọi người không được
đắc lực? Nguyên nhân là
v́ không nh́n thấu, không buông xả, và cũng v́ chưa
hiểu rơ được chân tướng của vũ
trụ nhân sanh. Tất
cả kinh điển Đại thừa như Lăng Nghiêm,
Lăng Già, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa đều đă thảo
luận đến những vấn đề này. Tuy kinh Kim Cang không dài nhưng
nội dung nhất định không kém những kinh luận
Đại thừa khác, mỗi chữ mỗi câu trong kinh
đều hàm chứa vô lượng nghĩa cho nên kinh Kim
Cang trong Phật giáo Trung Quốc đă vượt qua [ranh
giới] giữa các tông phái, không kể tu học pháp môn nào
hầu như không ai không đọc kinh Kim Cang.
Sự
việc mà Phật pháp truy cầu là trí huệ rốt ráo,
trí huệ cứu cánh viên măn.
Chỉ có trí huệ mới có khả năng giải
quyết tất cả vấn đề, [vấn
đề] lớn như sanh tử luân hồi, thành
Phật làm Tổ, [vấn đề] nhỏ như thân tâm
an lạc ngay trong hiện tại.
Tâm thanh tịnh th́ thân sẽ thanh tịnh, trăm
bịnh không sanh; mỗi năm thân thể càng khỏe và
dung mạo trẻ trung thêm.
Trong
Phật pháp không kể Đại Thừa, Tiểu Thừa,
Hiển Giáo, Mật Giáo đều dạy chúng ta
đạt được niềm vui ‘pháp hỷ sung măn’
trong sanh hoạt thường ngày.
[Vậy th́] tại sao đời sống của chúng
ta hiện nay lại khổ năo như vậy? Nguyên nhân là không có trí huệ. [Khi tôi] đọc Lục Tổ
Đàn Kinh rất ngưỡng mộ Huệ Năng
đại sư, lúc gặp Ngũ Tổ Ngài nói: ‘Trong tâm
đệ tử thường sanh trí huệ’, đủ
thấy được Ngài luôn sanh hoạt trong trí huệ;
[ngược lại] chúng ta th́ ‘trong tâm đệ tử
thường sanh phiền năo’, chúng ta luôn sanh hoạt trong
phiền năo!
Làm
thế nào để chuyển phiền năo thành Bồ
Đề?
H́nh dáng
của Bồ Đề tức là niềm vui ‘pháp hỷ sung
măn’, tức là trí huệ viên măn.
Kim Cang Bát Nhă là trí huệ viên măn và rốt ráo
nhất. Cho nên ngay đoạn
đầu trong kinh Kim Cang đức Phật Thích Ca Mâu Ni
liền biểu hiện sự đại tự tại,
đại viên măn trong đời sống, dạy cho chúng ta
thể hội và học theo. Phần
đông các kinh điển đều dùng việc
[đức Phật] phóng hào quang, hiện tướng lành
để mở đầu, nhưng [đoạn mở
đầu] trong kinh Kim Cang đức Phật Thích Ca Mâu Ni
‘đắp y, cầm b́nh bát, đi vào thành Xá Vệ khất
thực’. Đây là để nói rơ
trí huệ cứu cánh viên măn vốn là ở trong sanh
hoạt hằng ngày. Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni đắp y, cầm b́nh bát, ăn
cơm đều là ‘kim cang bát nhă’; từ sáng đến tối,
sanh hoạt, làm việc, tiếp xúc với người và
việc, tất cả đều là trí huệ cứu cánh
viên măn. Trong kinh Hoa Nghiêm,
những Pháp Thân Đại Sĩ trong 53 lần tham vấn
thị hiện làm nam, nữ, già, trẻ, các ngành nghề,
tại gia, xuất gia, đời sống của họ
đều giống sự thị hiện của
đức Phật Thích Ca trong kinh Kim Cang, đều sanh
hoạt trong trí huệ cứu cánh viên măn. Đây là sự thọ dụng chân thật
mà Phật pháp đem lại cho mọi người, không có
ǵ là mê tín.
Trong kinh
Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn nói đến
ba thứ chân thật:
1. ‘Chân thật chi tế’ tức là
bản tánh chân như, tức là mục tiêu của sự
học Phật
2. ‘Trụ chân thật
huệ’ tức là Kim Cang Bát Nhă
3. ‘Ban cho chúng sanh lợi ích
chân thật’ [1]. Tự ḿnh trụ trong trí huệ
chân thật th́ mới có khả năng dạy tất
cả chúng sanh đạt được trí huệ chân
thật. Chúng ta phải làm ra
h́nh tướng tốt cho người ta thấy, làm cho
người ta cảm động, muốn học và
bắt chước, [làm cho họ] cũng có thể
đạt được đời sống viên măn trí
huệ giống như chư Phật, Bồ Tát, đó
tức là ‘huệ dĩ chân thật chi lợi’.
Chư
Phật, Bồ Tát thị hiện ở thế gian làm
gương tốt nhất cho chúng sanh, chúng ta noi theo các Ngài
mà học tập, như vậy gọi là ‘học
Phật’. Cùng một
đạo lư này, làm một đệ tử của
Phật, khi khởi tâm động niệm, ngôn ngữ
tạo tác, hành vi trong đời sống chúng ta đều
phải làm gương tốt cho tất cả mọi
người. Phật pháp không
phải dùng để đàm huyền thuyết diệu mà
phải áp dụng vào sự sanh hoạt thường
ngày. Nguyên nhân chúng ta học
Phật nhưng không đạt được thọ
dụng [lợi ích] của Phật pháp là v́ chúng ta ‘không
buông xả’ và ‘không nh́n thấu’.
Giống như lăo ḥa thượng Hư Vân trong
Thiền Tông cận đại và đại sư Ấn
Quang trong Tịnh Tông, những ǵ họ thị hiện hoàn
toàn phù hợp với nguyên tắc tu học dạy trong kinh
Kim Cang. Sau khi nghe câu ‘nên không trụ vào đâu để sanh cái tâm
ấy’ [2] trong kinh Kim
Cang, Lục Tổ Huệ Năng bèn khai ngộ; thiệt ra
mỗi chữ mỗi câu trong kinh đều quan trọng
như hai câu này.
Chúng ta học Phật
rốt cuộc là để làm ǵ?
Học
cái ǵ?
Đạt
được cái ǵ?
Thường
thường phản tỉnh như vậy th́ mới có
cơ hội giác ngộ, không những phải vượt
hơn Lục Tổ, mà c̣n phải vượt ra khỏi thập
pháp giới. Nếu không
phản tỉnh th́ cứ tiếp tục mê hoặc và
kẹt măi trong sáu nẻo luân hồi. Trong kinh Hoa Nghiêm đức
Phật dạy: ‘Tất cả
chúng sanh đều có trí huệ đức tướng
của Như Lai, nhưng v́ vọng tưởng chấp
trước nên không chứng được’, đây là
một lời nói chỉ rơ nguồn gốc của thập
pháp giới. Khởi vọng
tưởng làm ‘Nhất Chân Pháp Giới’ biến thành
thập pháp giới; có chấp trước th́ tạo thành
lục đạo luân hồi.
V́ vậy phá chấp trước sẽ ra khỏi
lục đạo; đoạn dứt vọng tưởng
sẽ ra khỏi thập pháp giới.
‘Tam Quy Y’ là tổng cương
lĩnh, mục tiêu chung của sự học Phật. ‘Quy’ nghĩa là quay lại, ‘y’
nghĩa là nương vào, ‘Phật’ nghĩa là ‘giác’. Từ trong mê hoặc điên
đảo quay lại nương nhờ vào ‘giác’, từ
đây về sau luôn ‘giác mà không mê’ tức là ‘quy y
Phật’. Pháp nghĩa là chánh
tri chánh kiến (sự hiểu biết, cái nh́n đúng
đắn), từ
tất cả tà tri tà kiến (sự hiểu biết, cái nh́n sai lầm) quay lại
nương vào tri kiến Phật tức là ‘quy y Pháp’. Tăng có nghĩa là thanh tịnh,
sáu căn thanh tịnh một mảy trần chẳng nhiễm. Hiện nay chúng ta thường nói
đến tâm lư, tinh thần, tư tưởng, và kiến
giải ô nhiễm, thậm chí đến sinh lư, hoàn
cảnh ô nhiễm …., chúng ta từ trong tất cả
nhiễm ô quay lại nương vào thanh tịnh. Tâm thanh tịnh th́ thân thanh
tịnh; thân tâm thanh tịnh th́ hoàn cảnh sẽ thanh
tịnh. Đó mới là ‘quy y
Tăng’.
Phật
pháp [dạy chúng ta] tu cái ǵ?
Tu ‘giác, chánh, tịnh’.
Dùng
phương pháp ǵ để tu?
Tám vạn bốn ngàn pháp
môn, vô lượng pháp môn.
‘Pháp’ là
phương pháp, môn là lối vào; vô lượng vô biên
phương pháp đường lối đều tu ‘giác,
chánh, tịnh’. Nếu
phương pháp đường lối [nào đó] không có tu
‘giác, chánh, tịnh’ mà ngược lại là ‘mê, tà,
nhiễm’ th́ đó không phải là Phật pháp. Nếu mỗi ngày chúng ta sinh
hoạt, làm việc, tiếp xúc với người và
sự việc mà không tương ứng, phù hợp với
giác, chánh, tịnh th́ pháp chúng ta học không phải là chánh
pháp.
Kinh Kim Cang nói: ‘[Chánh] pháp c̣n phải xả,
huống hồ là phi pháp’.
Pháp thế gian do nhân duyên sanh, duyên khởi tánh không;
Phật pháp cũng do nhân duyên sanh, cũng là ‘bản thể đều là không,
không thể nào [nắm lấy] được’ [3]. Đây là điều mà đức
Phật dạy chúng ta đừng nên chấp trước
thế pháp và Phật pháp, ‘Ưng vô sở trụ’,
‘trụ’ tức là chấp trước. Nhưng không phải dạy
người ta ‘không nên chấp trước thế pháp,
rồi chấp trước Phật pháp’. Trong kinh nói rất rơ ràng, Phật
pháp cũng không được chấp trước,
cũng phải buông xả. Hôm
nay tại sao chúng ta không thể buông xả? V́ không hiểu rơ chân tướng
sự thật. Đời
sống của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vô cùng tự
tại siêu thoát, nguyên nhân là v́ đối với tất cả
các pháp Ngài có thể làm được ‘nên không trụ vào đâu để sanh cái tâm ấy’. Chúng ta học Phật, học
Bồ Tát th́ phải học cho tâm thanh tịnh, một tí
bụi cũng không nhiễm; khi tiếp xúc với mọi
cảnh giới đều phải có trí huệ viên măn, sanh
hoạt được tự tại là pháp hỷ sung măn,
có thể làm cho người khác hâm mộ. Mỗi ngày đức Thế Tôn
đều biểu diễn như vậy, chưa từng
gián đoạn, nhưng chưa có ai đề cập
đến chuyện này.
Một hôm giữa đám
đông, tôn giả Tu Bồ Đề tán thán đức
Phật Thích Ca Mâu Ni ‘Hiếm có, Thế Tôn’. Pháp giới cứu cánh viên măn
của Thế Tôn đă tu chứng được từ
lũy kiếp (A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ
Đề) vốn là được dùng trong sanh hoạt
thường ngày: mặc áo, ăn cơm; từng ly
từng tí đều là ‘Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác’, và cũng là ‘Trí huệ vô thượng, rốt ráo,
cứu cánh, viên măn’. Điều này
mới thật sự là hiếm có!
Ngài Tu Bồ Đề nói
tiếp: ‘Như Lai thiện
hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư
Bồ Tát’. Bồ Tát là
học tṛ. Đức Phật làm
sao hộ niệm học tṛ?
[Bằng cách] làm [gương mẫu] cho học tṛ
thấy, để học tṛ thể nghiệm, học
tập, thực hiện trong đời sống. Đây là sự hộ niệm và phó
chúc thật sự. Phó chúc có
nghĩa là giao trọng trách, nhắn nhủ. Quư vị hiểu rơ, làm
được rồi, lại phải dạy và làm
gương tốt cho tất cả chúng sanh, hy vọng
mọi người đều giác ngộ, ai cũng
sống một cuộc đời chân thật, mỹ măn,
trí huệ; đây là bổn nguyện của đức
Phật.
Chư Phật, Bồ Tát
ở trong thế gian không nhất định phải
thị hiện làm pháp sư hay cư sĩ trong Phật môn,
mà cũng thường thị hiện làm người trong
tôn giáo khác. Thắng Nhiệt
Bà La Môn và Biến Hành Ngoại đạo trong kinh Hoa Nghiêm
đều là các người lănh đạo tôn giáo. Những nguyên lư và nguyên tắc
dạy dỗ chúng sanh của họ không khác với
những ǵ Phật dạy, nhưng phương pháp không
giống nhau. Họ là chư
Phật, Bồ Tát ứng hóa thị hiện, như trong
kinh có nói: ‘Tùy tâm chúng sanh, mà
ứng hóa theo tri lượng như vậy’. Thật là vĩ đại!
Ngày 1 tháng 2 năm nay,
Cục trưởng Cục Sự Vụ Dân tộc
Thiểu Số ở Queensland, Úc Châu, ông Uri Themal OAM tổ
chức một buổi luận đàn ‘Đa Nguyên Văn Hóa’ ở
Queensland và mời tôi đến nói chuyện. Mục đích của buổi
luận đàn này vô cùng quư báu, theo cái nh́n của Phật
pháp th́ người này là Phật, Bồ Tát. Ông này là người Do Thái,
nhập tịch Úc, theo đạo Do Thái. Mục đích của buổi
họp ‘Đa nguyên văn hoá’ là hy vọng tập hợp tất
cả tôn giáo trên thế giới lại với nhau và
thảo luận làm thế nào để đoàn kết, làm
thế nào để xóa bỏ sự cách biệt giữa
mọi chủng tộc, bối cảnh văn hóa, và tôn giáo
tín ngưỡng khác nhau. V́ ngày
nay chính phủ Úc có chính sách mở rộng, mọi
người từ khắp nơi trên thế giới di dân đến
Úc càng ngày càng nhiều, làm sao có thể sanh hoạt hài ḥa
với nhau, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, để
đạt đến mục đích xă hội phồn vinh,
an định, hưng thạnh, phú cường. Điều này là quan niệm của
Phật, Bồ Tát [trong việc] hoằng pháp lợi sanh.
Hôm đó tôi
họp mặt cùng với những người lănh
đạo của 14 đoàn thể tôn giáo, tôi khen ngợi
họ là những Bồ Tát thật sự, hoàn toàn buông
bỏ thành kiến cá nhân để mưu cầu cho xă
hội an định, hạnh phúc thực sự cho mọi
người. Tôi hy vọng
cuộc đàm luận này có thể mở rộng
đến mọi thành phố, và hy vọng có thể phát
triển đến khắp mọi nơi trên thế
giới. Mục tiêu của
buổi họp là ḥa b́nh thế giới. Tuy nhiên ḥa b́nh không phải chỉ
dùng miệng hô hào là được, nhất định
phải tiêu trừ hết tất cả những mối
hiềm khích lẫn nhau, ư kiến khác nhau; t́m ra điểm
tương đồng giữa quan niệm của mọi
người. Thí dụ trong các
tôn giáo có nói đến ‘Chúa thương yêu người
đời’, nói đến ‘bác ái’, trong Phật pháp nói
đến ‘từ bi’, đây là điểm tương
đồng.
Tất cả mọi tôn
giáo đều có điểm tương đồng, chúng
ta nên tạm thời gạt những điểm dị
biệt qua một bên, phát huy những điểm
tương đồng trước, từ điểm này
xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau. Kinh Phật thường nói
vạn pháp đều từ ‘Tự tánh biến hiện’
ra, không có đạo lư ‘không thể dung ḥa lẫn nhau’. Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘lư sự vô ngại, sự sự vô ngại’,
đây là chân lư. Nếu có trí
huệ, tất cả những sự cách biệt, hiểu
lầm đều có thể hóa giải, thế giới,
nhân sanh đều biến thành tốt đẹp.
3.
Làm thế
nào ‘an tâm đoạn vọng’.
Tôn giả Tu Bồ Đề trong hội
giảng kinh Kim Cang Bát Nhă nh́n thấy sanh hoạt, việc
làm, cách đối người, tiếp vật đều
là ‘Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật’, nghĩa là ‘trí huệ cứu
cánh viên măn’, và cũng là ‘A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam
Bồ Đề’ (A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam Bồ Đề nghĩa là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác). V́ thế Ngài hỏi đức
Phật: ‘Thiện nam tử,
thiện nữ nhân, phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam
Bồ Đề’. ‘Thiện nam
tử, thiện nữ nhân’ ở đây chỉ các bạn
đồng học. Điểm
này vô cùng trân quư – các bạn đồng học phát tâm
rồi, nhưng không thể làm được tự
tại rốt ráo như đức Phật. Nguyên nhân ở tại chỗ nào?
Ngài Tu Bồ Đề vô cùng
khéo léo, thay mặt mọi người nêu ra hai câu hỏi,
hỏi đúng ngay chỗ bí, chỗ gút mắc [của
mọi người], câu hỏi thứ nhất là:
‘Ưng vân hà trụ’ (Nên trụ ở đâu), câu
thứ nh́:
‘Vân
hà hàng phục kỳ tâm’ (Làm sao để khuất phục
tâm này?)
Câu thứ nhất, không
biết phải an trụ tâm ở đâu?
Câu thứ hai, vọng
niệm vọng tưởng quá nhiều, làm sao để
đoạn dứt?
‘Hàng phục kỳ tâm’ tức là ‘khuất phục phiền năo’. Từ điểm này có thể
biết, không biết nên an trụ tâm ở đâu tức là
vọng tưởng, ư niệm quá nhiều, tất cả
đều là phiền năo.
Thị phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn (kiêu mạn, kiêu căng) là ‘vọng tưởng, chấp
trước’ nói trong kinh Hoa Nghiêm.
‘Ưng vân hà trụ’ là
dạy người ta giải quyết [dẹp trừ]
vọng tưởng; ‘vân hà hàng
phục kỳ tâm’ nghĩa là làm sao phá trừ chấp
trước. Nếu hai
vấn đề này được giải quyết th́ có
thể vượt ra khỏi mười pháp giới,
như vậy mới biết ư nghĩa của của câu
hỏi này vô cùng sâu rộng, nghệ thuật hỏi
cũng rất cao minh.
Hai câu hỏi này thực
ra là hai mặt của một vấn đề, đức
Phật trả lời cụ thể rằng Bồ Tát làm
thế nào để khuất phục tâm này. Phật dạy Bồ Tát, tức
là dạy chúng ta. ‘Tất cả mọi loài chúng
sanh…, ta đều khiến cho nhập vào Vô Dư Niết
Bàn để được diệt độ’ [4]
, nếu có thể sanh tâm như vậy tức là tâm
Phật, tức là chân tâm. Chúng
ta phải có tâm niệm giống như chư Phật,
Bồ Tát; Phật dạy chúng ta dùng tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng, tâm đại từ bi để đối
xử với tất cả chúng sanh. Kinh nói: ‘Phật không độ người chẳng có duyên’,
chịu tiếp nhận dạy dỗ tức là có duyên,
không tiếp nhận tức là chẳng có duyên. Trong nhà Phật không bỏ một
người nào cả, chư Phật, Bồ Tát chân thành
từ bi, sẽ không buông bỏ một người nào
cả; vấn đề là chúng ta có chịu y theo lời
dạy mà thực hành hay không?
Khi chúng ta giúp đỡ chúng sanh không chỉ giúp
đỡ họ trong một thời gian ngắn mà phải
giúp họ đạt đến cứu cánh rốt ráo,
tức là ‘đều giúp cho
nhập vào Niết Bàn Vô Dư rồi diệt độ’. Nói một cách khác phải luôn luôn
giúp đỡ chúng sanh chứng được ‘Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác’, câu này là để
dạy chúng ta ‘nhi sanh kỳ tâm’ (để
sanh cái tâm ấy).
‘Sanh tâm’ phải ‘vô
trụ’ mới được, nên đức Phật nói
tiếp: ‘Độ vô lượng
vô số chúng sanh nhiều như vậy nhưng thực
sự không có chúng sanh được diệt độ’ [5].
Tâm của Phật, Bồ Tát thanh tịnh như
thế! Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni mặc áo chỉnh tề, sạch sẽ, không
trước tướng; tŕ bát [khất thực] mỗi
ngày, ăn uống cũng không chấp tướng. Hết thảy lời nói, hành
động, cử chỉ đều để làm
gương cho tất cả chúng sanh, trong tâm trống
rỗng, cho đến mảy trần chẳng nhiễm,
nhất định không có tí phân biệt chấp
trước ǵ cả.
Phật, Bồ Tát giúp đỡ chúng sanh hoàn toàn không
nghĩ rằng ḿnh ban ân huệ cho họ, nên mới
gọi là ‘vô duyên đại từ’. Vô duyên nghĩa là không đặt
điều kiện. Như
vậy mới biết được chỗ cao cả,
vĩ đại của chư Phật, v́ tâm lượng
của các Ngài đă mở rộng, tận hư không
khắp pháp giới đều là một thể. V́ tất cả chúng sanh và ḿnh
đều là một thể cho nên người thực
sự giác ngộ nhất định sẽ từ bi,
thương yêu chăm sóc vô điều kiện cho tất
cả chúng sanh. Nhưng chúng
sanh mê hoặc điên đảo không biết tận hư
không, khắp pháp giới đều là một, cho rằng
người khác không có liên can ǵ với ḿnh, ḿnh tốt
đẹp là được rồi, lo cho người khác
làm ǵ.
Thế Tôn đặc
biệt nhắc nhở chúng ta: ‘Nếu
Bồ Tát có tướng ta, tướng người,
tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tức
không phải là Bồ Tát’.
[Ngài] dùng câu này để dạy chúng ta ĺa bốn
tướng và cũng là ĺa tất cả pháp tướng
thế và xuất thế gian.
‘Ngă tướng’ là chấp trước ‘tôi’, cứ
tưởng thân này là của ḿnh, cứ tưởng cái có
thể tư duy, tưởng tượng là tôi. Thiệt ra đó là ‘tứ
kiến’ (ngă kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ
giả kiến) và đem những thứ này xem là ‘tôi’,
đây là nguyên nhân của tất cả sai lầm. Những ǵ đối lập
với ‘tôi’ đều xưng là ‘người’ (nhân);
tất cả chúng sanh hữu t́nh trong chín pháp giới
đều ở trong phạm vi ‘người’ này. Thế mới biết phạm vi
của ‘tướng người’ vô cùng rộng lớn,
chư Phật, Bồ Tát cũng dùng ‘người’ làm
đại biểu.
Đức Phật nói với chúng ta tất
cả hiện tượng thế gian và xuất thế
gian, y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
(người thế gian dùng danh từ ‘vũ trụ
vạn hữu’) từ đâu đến? H́nh thành ra sao? Diễn biến như thế
nào? Phật nói là do: ‘Chúng duyên ḥa hợp nhi sanh’ (do các
nhân duyên ḥa hợp mà sanh ra), tức là ‘tướng chúng
sanh’. V́ do các nhân duyên ḥa
hợp mà tạo thành, hàm ư thật sự trong đó là ‘không có tự thể’,
‘đương thể giai không, liễu bất khả
đắc’ (bản thể của nó là không, trọn
chẳng thể nắm lấy)--- tướng hữu, thể không, liễu bất
khả đắc (Tướng th́ có, nhưng bản
thể là không, trọn chẳng thể đạt
được). ‘Thế
pháp’ (pháp thế gian) là do
nhiều [nhân] duyên [hợp lại] mà sanh ra, kinh Bát Nhă nói
‘duyên khởi tánh không’; ‘Phật pháp’ cũng là ‘duyên khởi
tánh không’, trong chân tâm bản tánh không có Phật pháp. Lục Tổ nói rất hay: ‘Bổn lai vô nhất vật’ (vốn chẳng có một vật), Phật pháp cũng là một vật,
vốn cũng không có. Thế
mới biết hàm ư của
‘chúng sanh tướng’ sâu xa vô cùng!
‘Thọ giả
tướng’ chỉ thời gian tồn tại dài ngắn
của các hiện tượng.
Kệ cuối cùng trong kinh Kim Cang nói:
‘Nhất
thiết hữu vi pháp
Như
mộng huyễn bào ảnh,
Ưng
tác như thị quán’
(Tất
cả pháp hữu vi
Như
mộng huyễn, bọt, ảnh,
Như sương cũng
như chớp
Nên quán sát
như vậy)
‘Như
mộng, huyễn, bọt, ảnh’ tức là chúng sanh tướng; ‘như sương cũng như
chớp’ tức là thọ giả tướng, thời
gian nó tồn tại [rất ngắn] như giọt
sương, như ánh chớp.
Sương thí dụ cho tướng tương
tục (tướng tiếp nối), người ta trên
thế gian có thể sống được mấy
chục năm, thí dụ ‘như sương’. Điện chớp thí dụ cho
‘tướng chân thật’.
Trong kinh ‘Nhân Vương Bát Nhă’ đức Phật nói ‘một cái khảy ngón tay có 60 sát
na, một sát na có 900 lần sanh diệt’, tức là
‘như chớp’. Hiện
tượng đích thật không tồn tại, từ
‘chúng sanh tướng’ và ‘thọ giả tướng’
liền hiểu rơ được chân tướng sự
thật của vũ trụ nhân sanh, mới hiểu
được ‘bản thể
của nó đều là không, chẳng thể đạt
được’ [6]. Thế nên kết luận là ‘vạn pháp đều là không, nhân
quả chẳng không’ [7].
4. Vạn pháp là tướng tiếp nối
của nhân quả
Nhân
quả cũng ở trong vạn pháp, tại sao nói nhân
quả chẳng không? Nhân
quả là căn nguyên của hiện tượng năng
biến; ‘nhân’ là năng biến (chủ
thể thực hiện động tác biến hiện), ‘quả’ là
sở biến (cái
được biến hiện ra). Tại sao có mười pháp
giới? Có ‘nhân’ của
Phật, th́ sẽ hiện pháp giới Phật; có ‘nhân’
Bồ Tát th́ sẽ hiện pháp giới Bồ Tát. Cùng nghĩa lư này, có ‘nhân’ ngạ
quỷ th́ sẽ hiện ra pháp giới của quỷ; có
‘nhân’ địa ngục th́ sẽ hiện pháp giới
địa ngục. Những
hiện tượng này đều là tự tâm biến
hiện ra. Cũng như
mỗi ngày nằm mộng, toàn là do ư niệm của ḿnh
biến hiện, cũng là tâm ư thức biến hiện
ra. Tâm địa lương
thiện, từ bi th́ mỗi ngày đều nằm mộng
tốt lành; mỗi ngày từ sáng đến tối
đều tham, sân, si, mạn, đố kỵ
chướng ngại th́ mỗi ngày đều có ác
mộng. Y báo, chánh báo trang nghiêm
trong mười pháp giới đều là hiện
tượng do tự tánh tùy theo duyên của nghiệp nhân
biến thành. Từ
điểm này có thể biết: ‘tất cả vũ trụ nhân sanh đều là
tướng tiếp nối của nhân duyên quả báo
biến thành’ mà thôi. Sau khi
nh́n thấy và hiểu rơ như vậy th́ tại sao không
buông xả chứ? Đối
với tất cả người ác và nghịch cảnh,
tự nhiên có thể nh́n thấu, tự nhiên có thể buông
xả. V́ hiểu
được [tất cả] hiện tượng
đều là nghiệp nhân quả báo tiếp nối liên
tục, bản thể của nó đều là không, không
thể nắm giữ lấy được. Lúc đó trí huệ chân thật
hiện ra, tâm đó nhất định phải chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, hết
thảy đều biểu hiện trong sanh hoạt như
lời của Lục Tổ: ‘Nếu
là người tu đạo chân chánh, không nh́n thấy
lỗi lầm của thế gian’, chỉ nh́n thấy
sự sanh diệt từng sát na của tướng nhân
quả tiếp nối.
Nhất
Chân pháp giới (Thật Báo độ) là nơi chư
Phật Như Lai trụ và cũng từ tự tánh
biến hiện ra. Tâm thanh
tịnh, tâm thuần tịnh biến ra cảnh giới
‘Thật Báo Độ’. Tâm thanh
tịnh nhưng không thuần tịnh biến hiện ra
‘Tứ Thánh tịnh độ’.
‘Tứ thánh’ là pháp giới Phật, Bồ Tát, Thanh
Văn, Duyên Giác trong mười pháp giới. Tâm không thanh tịnh th́ biến
thành báo độ của lục đạo, thế mới
biết tâm chúng ta là nhiễm mà không tịnh [v́ chúng ta đang ở trong
lục đạo].
Phân
biệt, chấp trước bốn tướng th́ không
phải là Bồ Tát. Tiêu
chuẩn của Bồ Tát rất nhiều, nếu chúng ta
đă thọ giới Bồ Tát, th́ [hiểu ḿnh] là Bồ
Tát cũng không sai, nhưng [như vậy] chưa đúng
với tiêu chuẩn Bồ Tát của kinh Kim Cang. Tiêu chuẩn Bồ Tát của kinh
Kim Cang cũng tức là tiêu chuẩn của kinh Hoa Nghiêm, 41
vị Pháp Thân Đại Sĩ đều là Bồ Tát đă
vượt ra khỏi mười pháp giới. Thế nên [trong câu] ‘nếu Bồ Tát có ngă
tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ
giả tướng’ thêm vào vài chữ liền rơ ràng, ‘tức không phải Bồ Tát
(trong Nhất Chân pháp giới)’.
Trong mười pháp giới có Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát, Phật.
Phật nói ở đây cũng không bằng Bồ Tát
nói trong kinh Kim Cang (c̣n chưa vượt ra khỏi
mười pháp giới). Tông
Thiên Thai giảng tứ giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên. Tạng Giáo Phật, Thông Giáo
Phật [8]
đều ở trong mười pháp giới, chưa minh
tâm kiến tánh, một phẩm vô minh cũng chưa phá
trừ. Biệt Giáo Phật
vượt khỏi mười pháp giới, bằng
địa vị Nhị Hạnh Bồ Tát của Viên Giáo,
đă phá trừ 12 phẩm trong 41 phẩm vô minh.
Nếu hiểu rơ chân
tướng sự thật th́ có thể nh́n thấu; sau khi
nh́n thấu rồi th́ tự nhiên sẽ buông xả, không
cần người khác khuyên.
Nếu không nh́n thấu, khuyên cách nào cũng chẳng
được. Trong tâm không có
những nỗi niềm âu sầu, nhớ nhung, lo lắng,
mới thật sự thong dong tự tại, mới
đúng là đáng sống.
Đức Phật dạy chúng ta nguyên lư và nguyên tắc
của đời sống: ‘Bồ
Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí’
(Bồ Tát đối với tất cả các pháp không nên
chấp trước, [nên] làm việc bố thí). Phạm vi của bố thí
rất rộng, tức là như người ta
thường nói: ‘lấy được, buông
được’. ‘Ư pháp ưng vô sở trụ’
là thế pháp, Phật pháp cũng ‘vô sở trụ’. ‘Vô trụ’ nghĩa là không chấp
trước. Đối với
thế pháp, Phật pháp đều không phân biệt, không
chấp trước, tức là ‘ưng vô sở
trụ’. Ngày nay chúng ta không
hiểu rơ chân tướng, chuyện ǵ cũng phân biệt,
tính toán, đương nhiên sẽ phải chịu khổ
nạn.
Trong kinh đức
Phật nói rất rơ, kinh Kim Cang không phải nói cho
người tầm thường, mà là để ‘nói cho người căn tánh
đại thừa, tối thượng thừa’ [9]. Chỉ có người căn tánh
đại thừa, tối thượng thừa, căn
tánh viên đốn, ngay một đời này liền
giải quyết rốt ráo vấn đề, không cần
phải tu 3 a tăng kỳ kiếp.
6.
Đoạn ác tu
thiện trong đời sống.
Người [tu theo] Đại thừa phải
giữ ǵn nguyên tắc, đối với tất cả các
pháp đều không phân biệt, chấp trước,
nhưng phải thực hành ‘đoạn
tất cả ác, tu tất cả thiện’ và bắt
đầu từ việc mặc áo, ăn cơm. Không giặt quần áo sạch
sẽ là ‘ác’; tại sao không giặt sạch sẽ? Không xếp quần áo chỉnh
tề là ‘ác’? Tại sao không
xếp chỉnh tề? Không
lau bàn sạch sẽ là ‘ác’; không bày chén đũa ngăn
nắp lúc ăn cơm là ‘ác’.
Ngày nay chúng ta học Phật, đối
với cha mẹ chưa làm hết bổn phận là ác; gia
đ́nh không thể làm gương tốt cho láng giềng
cũng là ác. Làm gương
tốt cho con cái là thiện; h́nh dáng không tốt tức là
ác; Đoạn ác tu thiện
bắt đầu từ những việc này, đó mới
là học Phật thực sự.
Nếu tách rời việc đoạn ác tu thiện ra
khỏi đời sống hằng ngày th́ chẳng có ích
lợi chi cả, người như vậy đúng là ‘không
hiểu rơ chân thiệt nghĩa của Như Lai’.
Một người từ lúc sanh ra
đến lúc ĺa đời, từ sáng đến tối,
từng ly từng tí, hai chữ ‘bố thí’ bao gồm
hết thảy. Ư nghĩa
của ‘hành ư bố thí (làm việc
bố thí)’ rất sâu rộng, làm thế nào biến
đời sống của ḿnh thành kim cang bát nhă, đem công
việc, giao tiếp với người và sự việc
làm giống như Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát không phải
để cúng ở Phật Đường, Phật, Bồ
Tát tức là bản thân ḿnh, như vậy mới là học
Phật, trong Phật pháp người này mới đạt
được sự thọ dụng chân thật.
b. Ảo tướng của duyên sanh, đương
thể tức không
1.
Bố thí vô
trụ.
Ư nghĩa của ‘bố
thí’ là ‘xả’. Thí dụ
người nội trợ từ sáng đến tối
bận việc gia đ́nh, nếu hiểu được
Phật pháp th́ là tu ‘Bố Thí Ba La Mật’.
Loại bố thí này vô
cùng rộng lớn, đừng tưởng là ḿnh chỉ
phục vụ cho vài người trong nhà, tâm lượng
như vậy quá hạn hẹp, nhăn quang quá nhỏ, chỉ
nh́n thấy một chút này mà không biết ảnh
hưởng của nó bao lớn.
Làm những việc trong nhà này đ̣i hỏi thể
lực; khi suy nghĩ nên làm thế nào th́ phải dùng trí
huệ, thân và tâm đều làm việc bố thí. Chăm sóc đời sống cho
cả nhà được thoải mái, đó là hành Bồ Tát
Đạo. Gia đ́nh như
thế là một đạo tràng, người nhà là
đối tượng để bạn độ hóa.
Kinh Hoa Nghiêm nói bố thí gồm
có ‘ngoại tài’ và ‘nội tài’.
Lao lực và trí huệ thuộc về nội tài;
những vật ngoài thân thuộc về ngoại tài. Nội tài và ngoại tài
đều nên xả. Cho nên
mỗi ngày đi làm, làm công việc của ḿnh cho
đến nơi đến chốn là bố thí cho công ty;
công ty phục vụ cho đại chúng là bố thí cho xă
hội. Như vậy mới
biết việc này cũng giống như những làn sóng
trên mặt nước.
Liệng một cục đá xuống nước
tạo thành những làn sóng h́nh tṛn, càng lan rộng càng
lớn. Gia đ́nh cũng
giống vậy, một gia đ́nh hạnh phúc sẽ
ảnh hưởng đến láng giềng, xă hội,
quốc gia, thế giới, Phật dạy chúng ta làm
một gương tốt cho mọi người trong
thế gian này: gia đ́nh chúng ta là gương tốt cho
mọi gia đ́nh, công ty là một công ty tốt nhất,
gương mẫu cho mọi công ty trên thế giới,
thế mới là Phật pháp.
Trong Phật pháp thứ nào cũng hạng nhất cho
nên Phật pháp rất b́nh đẳng.
Pháp môn tu hành của 25
vị Bồ Tát trong 25 Chương Viên Thông của kinh
Lăng Nghiêm đều khác nhau, [nhưng] pháp môn nào cũng
là hạng nhất. Đây là ‘chư pháp như nghĩa’,
[nghĩa là] ‘các pháp b́nh
đẳng, không có cao thấp’ nói trong kinh Kim Cang. Có cao thấp tức không phải
là Phật pháp, có cao thấp tức là ‘nhị pháp’, Phật
pháp là pháp bất nhị (pháp không hai). Nghĩa lư của việc này sâu
rộng vô cùng, trong kinh đức Phật nói đến
việc này rất nhiều, rơ ràng, và minh bạch.
Tu bố thí là tu nhân, nhân
nhất định có quả báo, cho nên ‘một miếng ăn một miếng uống
đều có định sẵn từ trước’. [Vận] ‘Mạng’ từ đâu
đến? Từ nhân đă
tạo ở đời trước, đời này
nhận lấy quả báo. Nhân
quả nhất định tương ứng [lẫn
nhau], -- nhân duyên quả báo tơ hào chẳng sai --
Trồng nhân ǵ th́ sẽ được quả báo
đó. Muốn biết nhân tạo đời trước,
những ǵ ḿnh nhận chịu đời này là nó (nhân
đời trước).
Muốn biết quả đời sau, những ǵ ḿnh
làm đời này là nó (quả đời sau). Đây là chân lư.
‘Thế gian’ là
‘tướng tương tục, tiếp nối của
nhân duyên quả báo’ mà thôi, cho nên trong kinh đức Phật
nói ‘Bồ Tát sợ nhân, chúng
sanh sợ quả’. Bồ
Tát là người giác ngộ, chúng sanh là người mê
hoặc. Người mê không
sợ tạo nghiệp, khi quả báo hiện ra th́ mới
sợ; người giác ngộ không sợ quả báo,
quả báo vừa đến, khó khăn trở ngại
đến th́ tùy thuận theo mà nhận chịu. Khi khởi tâm động
niệm, đối xử với người và tiếp
xúc với mọi vật đều không khởi tâm niệm ác, ư nghĩ ác, được
vậy th́ quả báo nhất định sẽ tốt lành,
viên măn. Niệm niệm
đều v́ lợi ích, phước lợi của tất
cả chúng sanh, không nghĩ đến ḿnh, thân tâm thanh
tịnh, tự tại vui vẻ, như vậy mới là
phước báo chân thật.
‘Bố thí pháp’ là nhân,
thông minh trí huệ là quả báo.
Khoẻ mạnh sống lâu là quả báo của sự
tu bố thí vô uư. Bố thí vô
uư là ǵ? Đó là từ bi, quan tâm,
thương mến tất cả chúng sanh, làm cho tất
cả chúng sanh được thân tâm an ổn, vĩnh
viễn xa ĺa lo buồn, sợ sệt. Trong định luật nhân
quả, tuyệt đối không có việc chịu thiệt
tḥi, bị lường gạt, và cũng không có việc
lợi dụng. Nếu
bạn tưởng là chịu thiệt tḥi và bị
lường gạt, [nhưng thực ra đó] chỉ là
quả báo của những việc ḿnh làm đời
trước. Hiểu rơ
đạo lư và chân tướng sự thật th́ tâm chúng ta
sẽ định, cho dù bị người khác
lường gạt, sỉ nhục, th́ cũng có thể
nh́n thấu và buông xả. V́
hóa giải oan trái gút mắc xong th́ khi gặp nhau sẽ vui
vẻ. Nên giải trừ oán
thù chứ không nên kết, người có thông minh trí huệ
chân thật nhất định sẽ không kết oán thù
với bất cứ người nào, tương lai trên con
đường bồ đề sẽ được
thuận buồm xuôi gió.
Lư do chúng sanh kết oán
thù không ngoài hai nguyên nhân, nguyên nhân thứ nhất là căn
bịnh tập khí (thói quen) của ḿnh,
nh́n không quen th́ chịu không nổi, không nhất
định [việc đó] có liên quan ǵ với ḿnh. Trong [Pháp Bảo] Đàn Kinh, Lục
Tổ Đại sư nói: ‘Nếu
là người tu đạo chân thật th́ sẽ không nh́n
thấy lỗi lầm của thế gian (người khác)’. Lỗi lầm của
người khác không liên can ǵ với ḿnh, nên dùng tâm thanh
tịnh, từ bi đối xử với tất cả
chúng sanh.
Nguyên nhân thứ hai là
‘lợi hại xung đột’ (đụng
chạm quyền lợi), đây là nguyên nhân lớn
nhất làm cho chúng sanh kết oán thù, trong Phật pháp
gọi là ác duyên. Thiệt ra
chẳng có lợi hại, tất cả đều do
vận mạng an bài. Nếu
hiểu được đạo lư này, cũng như
‘Liễu Phàm Tứ Huấn’ có nói: ‘Quân tử vui làm
người quân tử, tiểu nhân làm người tiểu
nhân oan uổng’. Những ǵ
đạt được khi dùng tất cả những
thủ đoạn không chính đáng, không lương
thiện, cũng là vốn sẵn có trong vận mạng,
nhất định không phải dùng thủ đoạn mà
có thể đạt được, nếu không như
vậy th́ sẽ trái ngược với định
luật nhân quả. V́ vậy
nếu hiểu được đạo lư và chân
tướng sự thật này, tâm [chúng ta] sẽ vĩnh
viễn b́nh [an, thanh] tịnh.
Tâm thanh tịnh sẽ sanh trí huệ, kinh Kim Cang nói: ‘Ḷng tin thanh tịnh ắt sanh
thật tướng’.
Phật dạy ‘Ưng vô sở trụ’. ‘Trụ’ là chấp trước;
‘vô sở trụ’ nghĩa là không chấp trước. Chấp trước là căn
bịnh. Vũ trụ, vạn
vật, sanh mạng, lục đạo do đâu mà có? Trong kinh Hoa Nghiêm đức
Phật trả lời cho câu hỏi này, đó là: ‘vọng
tưởng, chấp trước’.
V́ có vọng tưởng nên biến hiện ra
thập pháp giới, v́ có chấp trước nên biến
hiện ra lục đạo luân hồi. V́ vậy nếu phá chấp
trước th́ sẽ vượt ra khỏi lục
đạo; đoạn trừ vọng tưởng th́
sẽ vượt ra khỏi thập pháp giới. Từ xưa đến nay các khoa
học gia, triết học gia trong và ngoài nước
đều muốn t́m kiếm nguồn gốc của
vũ trụ vạn vật, họ có thể t́m đến
bờ mé nhưng t́m không được nguồn gốc
chân thật. V́ họ dùng
đầu óc suy nghĩ, suy nghĩ tức là vọng
tưởng, chấp trước, cả hai đều có
giới hạn, không thể phá tan giới hạn của ư
thức.
Đức Phật dạy
chúng ta khi đoạn vọng tưởng, phân biệt, và
chấp trước th́ giới hạn của tâm ư thức sẽ bị phá tan; sau
khi phá tan mới có thể nh́n thấy bộ mặt
thật của vũ trụ nhân sanh, mới hiểu rơ chân
tướng sự thật.
Cho nên sự tu học trong Phật pháp bất cứ
pháp môn, tông phái nào cũng đều tu ‘thiền
định’. Niệm Phật
đạt được ‘nhất tâm bất loạn’ là
‘thiền định’. Giáo
Hạ tu ‘chỉ quán’ cũng là ‘thiền định’. Tuy danh từ và phương pháp
không giống nhau nhưng tất cả đều tu
‘thiền định’.
‘Giới’ là phương pháp chính xác; y theo phương
pháp chính xác mới có thể nhập ‘định’; sau khi
nhập định th́ sẽ khai ‘trí huệ’; có trí huệ
th́ mới có thể hiểu rơ chân tướng của
vũ trụ nhân sanh.
Chúng ta chuyên cần tu
tập ba thứ bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô uư,
và không trước tướng (chấp tướng),
như vậy rất đúng.
Nếu tu 3 thứ bố thí này mà c̣n trước
tướng th́ quả báo sẽ chỉ là phước báo
trong cơi người và trời, làm vua, thiên vương,
người trời, người trưởng giả giàu
có, không thể thoát ra khỏi tam giới, đương
nhiên cũng không ra khỏi thập pháp giới. Phật dạy chúng ta ‘ưng vô
sở trụ’, không trụ ‘chấp trước’ th́ ra
khỏi lục đạo; không trụ ‘vọng
tưởng’ th́ ra khỏi thập pháp giới. Nhưng không trụ ‘chấp
trước’ (không trước tướng) rất khó làm
được, cần phải dụng công thiết
thực nơi ‘nh́n thấu’, ‘buông xả’, ‘niệm
Phật’.
2.
Quy
hướng Cực Lạc Tịnh Độ.
Trong phẩm thứ 10 ‘Giai Nguyện Tác Phật’ (Đều Nguyện Làm
Phật) của kinh Vô Lượng Thọ, đức
Phật nói nhóm 500 người cùng vua A Xà Thế trong đời
quá khứ đă từng cúng dường 400 ức
Phật. Khi nghe đức
Phật Thích Ca giảng kinh Vô Lượng Thọ xong,
họ sanh tâm hoan hỷ, hy vọng sau này thành Phật
cũng giống như đức Phật A Di Đà, nhưng
không phát khởi ư niệm tín nguyện cầu văng sanh. Thế mới biết khi nghe danh
hiệu của đức Phật A Di Đà rồi sanh tâm hoan
hỷ, cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế
giới, người này trong đời quá khứ tu
tập tích lũy thiện căn nhất định
vượt hơn vua A Xà Thế cúng dường chư
Phật Như Lai, nhất định không chỉ [cúng
dường] 400 ức chư Phật. V́ chúng ta có thể phát tâm cầu
sanh Cực Lạc thế giới nhưng họ chưa
từng phát lên tâm niệm này.
Cho nên trong kinh nói pháp môn Tịnh Độ
đều được tất cả chư Phật
tuyên nói, không phải chỉ có 1 hay 2 đức Phật nói
mà thôi, thiệt là pháp khó tin.
Kinh A Di Đà dạy ‘không
thể dùng ít thiện căn, phước đức, nhân
duyên được sanh nước đó’, thế
mới biết được thiện căn của chúng
ta sâu dày bao nhiêu, vô cùng hiếm có!
Đời này chúng ta gặp được pháp môn
Tịnh Độ và sanh tâm hoan hỷ, tín nguyện cầu văng
sanh, việc này rất đáng vui mừng và hân hạnh.
Đức Phật giáo hóa chúng sanh đích
thật là chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng,
đại từ, đại bi.
Thiện căn của chúng sanh không sâu dày th́ phải
vun bồi từ từ, từng đời từng
đời giúp đỡ họ.
Thiện căn đă thành thục (chín muồi) th́ giúp họ tín nguyện
niệm Phật, văng sanh Tây phương. Nếu chưa thành thục th́ giúp
họ trồng thiện căn của Di Đà Tịnh Độ. Công đức danh hiệu không
thể nghĩ bàn, một phen đă lọt vào tai th́ vĩnh
viễn là hạt giống đạo. Ngày nay họ nghe đến danh
hiệu đức Phật A Di Đà, đọc đến
‘Tịnh Độ Tam kinh’, nh́n thấy h́nh tượng của
đức Phật A Di Đà, trong A Lại Da Thức đă
trồng được hạt giống Tây phương
Cực Lạc thế giới.
Tuy đời này không thể văng sanh, nhưng
đời sau khi gặp được nhân duyên th́ họ
sẽ văng sanh. Chúng ta không
thể khinh rẻ bất cứ người nào, không
thể khinh mạn vô lễ đối với họ.
Việc chư Phật Như Lai giúp
đỡ chúng ta là nói ra chân tướng sự thật,
giảng giải phương pháp phá mê khai ngộ, và kinh
nghiệm tu hành chứng quả của các Ngài để cho
chúng ta tham khảo. Bản thân
chúng ta phải tự ḿnh thực hành, muôn ngàn xin chớ
tưởng rằng ḿnh nương nhờ chư Phật,
Bồ Tát, quư Ngài sẽ pḥ hộ cho ḿnh. Trong kinh Lăng Nghiêm đức
Phật Thích Ca Mâu Ni c̣n không thể pḥ hộ cho A Nan. A Nan lúc đầu vốn là
đang khởi vọng tưởng: ‘Đức Phật Thích
Ca là anh họ của ḿnh, người khác phải tu
khổ nhọc, không tu th́ không thể thành tựu; c̣n ḿnh
th́ không quan hệ ǵ cả, anh họ rất thương
ḿnh, Ngài sẽ truyền dạy Thiền Định và Bát Nhă
cho ḿnh’. Sau khi gặp nạn
mới biết đức Phật không thể giúp ḿnh. Chư Phật, Bồ Tát gia tŕ cho
chúng ta chỉ bằng những lời dạy trong kinh
điển. Chúng ta muốn
Phật gia tŕ th́ chỉ có cách y giáo phụng hành, [và
như vậy] th́ sẽ
được ‘sự pḥ hộ’ của chư Phật.
Đức Phật từ bi khổ nhọc
khuyên chúng ta buông xả vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, nhưng chúng ta buông xả không
nổi. Nguyên nhân là không
hiểu rơ chân tướng sự thật, cứ
tưởng ‘thân’ là thiệt, cứ tưởng ‘cảnh
giới trước mặt’ là thiệt, mà không biết
đây chỉ là quan niệm, cách suy nghĩ, và cái nh́n sai
lầm. Nếu khi đối
xử với người, sự việc, và vật, trong
tâm có mê hoặc, có đụng chạm quyền lợi, có
sân giận, hăy nghĩ đến lời đức
Phật dạy ‘Hễ
những ǵ có tướng đều là hư vọng’ [10]
niệm vài lần, trong tâm sẽ b́nh tịnh trở
lại. Tất cả mọi
hiện tượng đích thật đều là hư
vọng, thực tế không tồn tại.
3.
Chư pháp
đều không, nhân quả chẳng không.
Nửa phần sau của kinh Kim Cang nói: ‘Chư pháp đều không, nhân
quả chẳng không’.
“Chư pháp đều không” nghĩa là tất cả
những pháp thế gian và xuất thế gian đều là
hư vọng, không thật; ‘nhân quả’ cũng là chư
pháp, cũng là hư vọng, nhưng ‘nhân quả bất
không’ (nhân quả chẳng không).
Tại sao Tánh Tông nói ‘nhân
quả chẳng không’? Pháp
Tướng Duy Thức nói: ‘Tướng
là giả có, thức là chân thật’. ‘Thức’ là năng biến (cái có thể
biến), ‘tướng’ là sở biến (cái bị
biến). Sở biến là
giả, năng biến là thật.
Nhân quả tức là duy thức, nhân là năng
biến, quả là sở biến.
Thập pháp giới là hiện tượng
tương tục (tiếp nối) của nghiệp nhân
quả báo. V́ vậy
người giác ngộ sợ nhân, điều này rất
hợp lư. Hiểu rơ nghĩa
lư này, trong thế gian khi gặp bất cứ người
nào có ác ư với ḿnh cũng không màng đến, và
đều vui vẻ tiếp nhận. Tôi tu nhân tịnh, quả báo
nhất định tốt.
Nếu người khác làm hại tôi, tôi liền
khởi tâm động niệm báo phục (trả thù)
người đó. Những
sự trả thù này nhất định càng ngày càng gia
tăng, tàn khốc, tội ác càng tạo càng nặng, sau
cùng hai bên đều đọa địa ngục A Tỳ
(hại ḿnh, hại người).
Không kể người ta dùng thủ đoạn ǵ
để đối xử với ḿnh, ḿnh liền
biết trong thời quá khứ đại khái chắc
cũng đă dùng thủ đoạn như vậy
để đối xử với họ, hôm nay họ
đối với ḿnh như vậy, một trả một,
nợ nần được trả hết, tâm khai ư
giải, như vậy [mọi người đều] vui
vẻ hết! Không có việc
chịu thiệt tḥi và cũng không có việc lợi
dụng. Gút mắc đă
được mở ra, khi ḿnh thành Phật th́ phát
nguyện sẽ độ họ trước nhất .
Trong kinh Kim Cang có một công án (câu chuyện
ngắn) -- chuyện của Ca Lợi vương lóc
thịt trên thân thể. Ca
Lợi là tiếng Phạn, dịch nghĩa ra là ‘tàn
khốc, vô đạo’, ‘vương’ là ông vua, Ca Lợi
vương có nghĩa là ‘ông vua tàn bạo’. [Lúc bấy giờ] có một
người đang tu hành trong núi sâu bị vua Ca Lợi
xử tội lăng tŕ (lóc thịt). Người tu hành này là tiền
thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tuy Ngài bị
xử tội như vậy nhưng không có chút ǵ oán
hận, lại c̣n phát nguyện tương lai khi thành
Phật sẽ độ vua Ca Lợi trước
nhất. Đến lúc đức
Phật Thích Ca thành Phật, người đầu tiên
được độ là tôn giả Kiều Trần
Như, tiền thân của tôn giả chính là vua Ca Lợi,
lời thệ nguyện của đức Phật năm
xưa đă được thực hiện. [Đức Phật] chịu
đựng sự hành hạ tàn bạo như vậy mà
không sanh tâm oán hận, vả lại sau khi thành Phật lại
độ người hại ḿnh trước nhất
để báo đền thâm ân; báo ân ǵ vậy? Sự lăng tŕ vô cùng tàn khốc
nhưng lại giúp Bồ Tát thành tựu viên măn Nhẫn
Nhục Ba La Mật. Bồ Tát
xem xét vấn đề như thế này: ‘Vua Ca Lợi giúp
đỡ tôi thử xem ḷng nhẫn nhục của tôi
đă thành tựu chưa’.
Người khác đều nghĩ việc này là tàn
bạo, thân thể chịu đựng sự đau
khổ đến cùng cực, nhưng Bồ Tát lại
nghĩ rằng vua Ca Lợi có ân đức vô cùng to lớn
đối với ḿnh, giúp ḿnh thành tựu Nhẫn Nhục
Ba La Mật, nên sau khi thành Phật liền độ
người này trước nhất.
Từ điểm này có
thể thấy thị phi, thiện ác không có tiêu chuẩn
nhất định và không có giới hạn, chỉ ở
trong một niệm. Một
niệm cực ác [nhưng] vừa chuyển th́ liền
trở thành cực thiện, như vậy mới nhập
vô pháp môn Đại Thừa Bất Nhị --thiện ác bất
nhị, tà chánh không hai, đúng sai không hai. Đây là trí huệ cao nhất! ‘Tướng’ là hư vọng,
‘thân’ là hư vọng, ‘chặt chém’ cũng là hư vọng,
hư vọng đối với hư vọng nên không có
đau khổ. Phàm phu cứ
cho rằng ‘thân’ là của ḿnh, chấp trước thân
kiến, cho nên chịu một chút đau khổ th́ chịu
không nổi. Nếu không
chấp trước thân là của ḿnh th́ ai chịu đau
khổ? Ai biết đau
khổ?
Cho nên khi ĺa 4
tướng th́ chẳng c̣n đau khổ nữa. V́ có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước mới có khổ thọ
(nhận chịu khổ); Bồ Tát không có thọ (nhận
chịu). Khổ, lạc,
buồn, vui, xả đều buông xả hết,
được như vậy gọi là ‘chánh thọ’, và
cũng gọi là ‘tam muội’, và cũng là sự
hưởng thọ ‘chánh thường’. Tất cả những cảm
thọ của phàm phu gồm có: ‘khổ, lạc, ưu,
hỷ, xả’ (khổ,
sướng, buồn, vui, xả), đức Phật quy
nạp vào năm loại như trên và [hết thảy]
đều không phải là sự hưởng thọ ‘chánh
thường’.
4.
Hễ
những ǵ có tướng đều là hư vọng.
Đức Phật dạy: ‘Hễ những ǵ có tướng
đều là hư vọng’.
Nếu trong đời sống, trong mọi cảnh
giới chúng ta thực chứng được những ǵ
Phật nói đều không sai, chúng ta liền khế
nhập vào cảnh giới.
Cũng v́ chúng ta chẳng thực chứng cho nên không
đạt được lợi ích; sau khi thực
chứng th́ sẽ đạt được lợi ích to
lớn. Phật lại nói: ‘Nếu thấy các tướng
mà không phải tướng, tức là thấy Như Lai’ [11]
. ‘Như Lai’ nghĩa là
‘bản tánh chân như’, và cũng là ‘minh tâm kiến tánh’
trong Thiền Tông. Thực
chứng được ‘Hễ những ǵ có tướng
đều là hư vọng’ tức là minh tâm kiến tánh.
Làm sao
biết được ḿnh có thực chứng hay không? Kinh Kim Cang là tiêu chuẩn, nên trong
Thiền Tông kể từ Ngũ Tổ về sau
đều dùng kinh Kim Cang làm ấn chứng. ‘Ấn chứng’ tức là lấy
làm tiêu chuẩn, mực thước để chứng
minh. Nếu đạt
được cảnh giới giống với lư luận
trong kinh Kim Cang, cảnh giới hoàn toàn phù hợp, tức
là minh tâm kiến tánh, nếu không th́ cảnh giới đó
chẳng phải là cảnh giới của chư Phật,
Bồ Tát.
Phật
thường nói đến sự ‘khai ngộ’, mọi
người nghe xong cảm thấy rất là ‘huyền’ (sâu thẳm, không thể h́nh dung
hết được), h́nh như
rất là hiếm hoi kỳ diệu, thực ra ‘khai ngộ’
là một danh từ vô cùng b́nh thường. Biết được lỗi
lầm của ḿnh tức là ‘khai ngộ’; sửa
đổi sai lầm cho đúng th́ gọi là ‘tu hành’. ‘Tu’ là tu chánh, sửa cho ngay, ‘hành’
là hành vi sai lầm; sửa đổi cách suy nghĩ, cái
nh́n, cách nói, cách làm tức là tu hành.
Tất cả những việc gơ mơ, niệm kinh
mỗi ngày, miệng niệm ‘A Di Đà Phật’ đều là
‘h́nh tướng’, chưa phải là ‘chân tu’ (tu hành chân
chánh). ‘Chân tu’ là phải
sửa đổi tâm hạnh sai lầm của ḿnh. Nếu miệng niệm Di Đà mà
trong tâm vẫn c̣n ‘thị phi nhân ngă’ (tôi đúng người sai) , tham, sân, si, mạn th́ đúng như cổ đức
có câu: ‘hét bể cuống
họng cũng luống công’.
Không thể
nh́n thấu buông xả pháp thế gian rồi nghĩ
Phật pháp rất tốt th́ có thể chấp
trước [Phật pháp].
Phật pháp đích thật rất tốt, cũng
như thuốc hay có thể chữa bịnh, nhưng
nếu uống lầm thuốc, không những không chữa
hết bịnh mà c̣n có thể mất mạng. Phật pháp cũng vậy, tu
học Phật pháp nếu không khế cơ th́ làm tổn
thương đến pháp thân huệ mạng; cho nên
Đại Trí Độ Luận và kinh Hoa Nghiêm đều nói: ‘Nếu không có ai thuyết
giảng Phật pháp, tuy có trí huệ cũng không thể
hiểu nổi’ [12]
.
Người
thông minh trí huệ trong thế gian cũng không thể lư
giải Phật pháp v́ người trong thế gian không ĺa
khỏi ‘tâm ư thức’. Không
rời khỏi ‘tư duy tưởng tượng’ th́ không
thể giải được ư nghĩa chân thực
của đức Phật, v́ tất cả những kinh
Phật nói đều phát xuất từ chân tâm bổn tánh
chớ không dùng suy nghĩ; nếu phải suy nghĩ th́
lạc vào trong ư thức, thế th́ hoàn toàn sai. Cho nên tham Thiền, học Giáo
đều cần phải rời khỏi ‘tâm ư
thức’. ‘Tâm’ là ‘A lại da
thức’; ‘ư’ là ‘Mạt na thức’, ‘thức’ là ‘Ư thức
thứ sáu’. Tác dụng của
thức thứ sáu là phân biệt, tác dụng của
‘Mạt na thức’ là chấp trước, tác dụng
của ‘A lại da thức’ là lưu giữ ấn
tượng.
Làm thế
nào để rời khỏi tâm ư thức? Không chấp trước th́ không
dùng ‘Mạt na thức’, không lưu giữ ấn
tượng th́ không dùng ‘A lại da thức’,
được như thế th́ học Giáo mới
đạt được ‘đại khai viên giải’, tham
Thiền mới được đại triệt
đại ngộ. Tông Môn dạy
người ta rời khỏi tâm ư thức mà ‘tham’, đây
gọi là ‘tham thiền’. Giáo
Hạ nói ‘tham cứu’ chứ không nói ‘nghiên cứu’. Nghiên cứu là dùng tâm ư thức,
dùng phân biệt chấp trước; tất cả
những cảnh mà ḿnh tiếp xúc gọi là ‘lục
trần’; ‘tham cứu’ không dùng phân biệt chấp
trước, dùng chân tâm tự tánh, tất cả những
cảnh mà ḿnh tiếp xúc gọi là ‘tánh cảnh’ chứ
không gọi là ‘lục trần’.
5. [Chánh] pháp c̣n nên xả, huống hồ là phi
pháp
Trong kinh này (Kim Cang) đức
Phật đặc biệt dạy chúng ta: ‘Biết ta thuyết pháp thí dụ như chiếc bè,
[chánh] pháp c̣n phải xả, huống hồ là phi pháp’ [13]. Đức Phật v́ chúng ta thuyết
pháp cũng như ngồi bè qua sông.
‘Bè’ dùng cây trúc kết thành, cũng có khi dùng gỗ làm
thành (mục bài, bè gỗ).
[Nghe đức] Phật giảng kinh thuyết pháp
cũng như ngồi bè qua sông, khi đến bờ bên kia
th́ không cần bè nữa (phải xả bỏ). Kinh A Hàm nhắc đến thí
dụ này rất nhiều lần.
Kinh Kim Cang cũng dùng câu này nhưng ư nghĩa
tượng trưng không giống nhau. Pháp Tiểu Thừa nói sau khi qua
sông không cần bè nữa, không nên chấp trước. Pháp Đại Thừa nói đang lúc
trên bè cũng đừng chấp trước, ư nghĩa c̣n
thâm sâu hơn Tiểu Thừa, tức là hai bên ‘không’ và
‘hữu’ (có) đều không chấp; hai bên ‘có’ và ‘không’
đều đồng thời, thiệt là được
đại tự tại.
Kinh Bát Nhă nói ‘tức
tướng’ và ‘ly tướng’ là đồng thời. ‘Ưng vô sở trụ’ [là] ‘ly
tướng’; ‘nhi hành bố thí’ [là] ‘tức tướng’. Phật học không tách rời
khỏi hành vi sinh hoạt hằng ngày, đời sống
càng thoải mái dễ chịu, công việc làm càng
được tiến triển.
Lúc trước chúng ta sinh sống và làm việc
chỉ là v́ riêng ḿnh, ngày nay chúng ta sinh sống và làm việc
là v́ tất cả chúng sanh, tạo phúc lợi cho xă hội,
làm trang nghiêm pháp giới, v́ tự tánh lưu xuất,
hiện tượng không c̣n như cũ nữa. Nếu v́ ḿnh mà làm việc th́ làm
sơ sài một chút cũng không sao; nếu v́ đại chúng
mà làm việc không tốt th́ có lỗi đối với
họ, cách dụng tâm không giống nhau. Tuy tận tâm tận lực làm
việc nhưng không
trước tướng (chấp trước). ‘Ưng
vô sở trụ’, trong tâm dường như không có
việc đó [xảy ra] thế mới là ‘đại
từ đại bi’, không có bất cứ một
điều kiện nào.
Đời sống và công việc đều v́ tất
cả chúng sanh, đều là không đặt điều
kiện; đây là cương yếu và tinh thần của
Đại Thừa Phật pháp, đích thật khế nhập
cảnh giới ‘lư sự vô
ngại, sự sự vô ngại.’
‘[Chánh]
Pháp c̣n nên xả, huống
hồ là phi pháp’. Chúng ta
muốn [học] Phật pháp, nhưng trong lúc tu học không
nên chấp trước.
Đừng nên vừa nghe ‘pháp c̣n nên xả’ liền
đem bỏ Phật pháp và thế gian pháp hết, thế
th́ hiểu lầm ‘Như Lai chân thật nghĩa’, và c̣n
biến thành tiêu cực, vô trách nhiệm. Phật pháp nhất định
phải học, phải hành, nhưng không được
chấp trước. Phật
pháp như vậy, thế gian pháp cũng như vậy. Thân thể chúng ta c̣n sinh sống
trên thế gian này, mỗi ngày cần phải ăn cơm,
mặc áo, làm việc, xă giao, thứ nào cũng bỏ không
được. Đặc biệt
là Bồ Tát Đại Thừa nếu xả bỏ hết
những công việc này th́ làm sao độ chúng sanh
được? Bồ Tát
độ chúng sanh cần phải tiếp xúc với
đại chúng, cùng tất cả chúng sanh ‘ḥa quang
đồng trần’.
Tu hành phải thật t́nh ráng
sức, h́nh thức là để nhắc nhở ḿnh, quan
trọng nhất là khóa lễ thường lệ sáng và
tối; khóa lễ buổi sáng nhắc nhở ḿnh, khóa
lễ tối là để phản tỉnh, tụng
niệm lễ sáng tối như vậy mới có công
đức chân thật.
Nhất định không phải buổi sáng niệm
kinh chú một lần cho Phật, Bồ Tát nghe, buổi
tối lại niệm thêm một lần cho quư ngài nghe,
nếu không biết ư nghĩa [và mục đích] của hai
buổi lễ này th́ hoàn toàn không thể y giáo phụng
hành. Cũng giống như con
nít trả bài trước mặt cha mẹ vậy, buổi
sáng trả bài xong đến tối lại trả thêm
một lần nữa. Nếu
tụng niệm sáng tối kiểu này th́ có vô lượng
tội lỗi. V́ bạn
thờ phượng tượng Phật, Bồ Tát
bằng nhựa hoặc gỗ, buổi sáng gạt họ
một lần, buổi tối gạt thêm lần nữa,
c̣n tưởng là ḿnh có công đức!
Lúc chúng ta tụng niệm trong
Phật đường (chùa) nh́n thấy tượng
Phật cũng giống như nh́n thấy đức
Phật vậy. Buổi sáng
niệm kinh là để nhắc nhở ḿnh hôm nay phải
làm theo [lời dạy trong kinh].
Buổi tối tụng niệm để phản
tỉnh, kiểm điểm xem hôm nay ḿnh có làm theo lời
dạy của chư Phật, Bồ Tát không? Nếu làm được rồi,
ngày mai phải tiếp tục; nếu chưa làm
được, ngày mai phải làm cho bằng
được. Như vậy
mới gọi là ‘buổi sáng nhắc nhở, buổi
tối phản tỉnh’.
‘Pháp’ và ‘phi pháp’ cùng lúc, không có
trước sau. ‘Vô trụ’ và
‘sanh tâm’ cùng lúc, ‘sanh tâm’ tức là ‘vô trụ’, ‘vô trụ’
tức là ‘sanh tâm’. Sanh tâm
đại bồ đề, tâm làm lợi ích cho tất
cả chúng sanh, tâm ‘hành lục độ vạn
hạnh’. ‘Vô trụ’ là không trước
tướng, vô trụ và ‘sanh tâm’ cùng lúc, chẳng phân ra hai
giai đoạn. Nếu xem là
hai giai đoạn th́ đă sai, đó không phải là lời
Phật nói. Đức Phật nói
pháp có khi nói bên này, chúng ta phải hiểu ư nghĩa của
phía bên kia.
Câu ‘Pháp
c̣n nên xả, huống hồ là phi pháp’ nói rơ không
được chấp trước Phật pháp, huống
chi là tất cả pháp trong thế gian. Mười pháp giới
được sanh ra từ vọng tưởng, lục
đạo luân hồi sanh ra từ chấp trước,
[tất cả đều] có nhân có quả. Hễ những pháp sanh ra từ
nhân quả đều không có tự tánh, bản thể
vốn không, trọn chẳng nắm giữ
được! (giai vô tự
tánh, đương thể tức không, liễu bất
khả đắc!).
c.
Ĺa khỏi bốn tướng, tin nhân
quả
1.
Rộng
kết thiện duyên và pháp duyên
Nghĩa lư trong kinh Kim Cang rất sâu xa,
nếu hiểu sai th́ không những không đạt
được ích lợi, mà có thể c̣n chịu thiệt
hại. Đây cũng là
điểm khó khăn của sự giảng giải kinh
Bát Nhă, thế nên từ xưa đến nay rất ít
người giảng kinh Bát Nhă, nhưng không thể không
giảng. Lúc giảng nhất
định phải giảng rơ ràng, thấu suốt, làm cho
người nghe không đến nỗi hiểu sai, đây
là một nguyên tắc vô cùng quan trọng.
Tứ Nhiếp Pháp là 4
nguyên tắc mà Phật dạy Bồ Tát dùng để
nhiếp thọ (giúp đỡ) chúng sanh. Thứ nhất là ‘bố thí’,
kết pháp duyên và thiện duyên với tất cả chúng
sanh. Đức Phật không
độ người chẳng có duyên; khi chúng sanh gặp
bạn mà vui mừng và chịu nghe lời bạn chỉ
bảo, như vậy gọi là ‘có duyên’. Nếu bạn rất sẵn ḷng
giúp đỡ nhưng họ lại từ chối, như
vậy th́ gọi là duyên chưa đến.
2.
Đức Phật vạn đức vạn năng
Lúc tôi bắt đầu
học Phật, đối với Phật pháp có rất
nhiều thắc mắc, [tôi có] một câu hỏi rất
quan trọng là: ‘Đức Phật có trí huệ và năng
lực viên măn (rốt ráo) hay không?’
Chúng ta thường tán thán đức Phật là
‘vạn đức vạn năng’; câu này chỉ là lời
tán thán hay là sự thật? Chúng
ta có thể đă nghe đến chuyện đức
Phật cũng ‘có việc không thể làm được’,
ư này nói ‘vạn đức vạn năng’ là lời tán thán,
chứ không phải thiệt.
Nếu lời tán thán đó không phù hợp với
sự thật th́ lời này không đáng tin; những
lời không đáng tin th́ thuộc về phạm vi của
vọng ngữ (nói dối).
Đức Phật dạy chúng ta không được
vọng ngữ, đặc biệt là trong kinh Kim Cang có nói:
‘Như Lai là người nói
lời chân thật, lời đúng như vậy,
người không nói lời lừa gạt, không nói lời
khác biệt’. [14] Từ điểm này mà quan sát trong
Phật pháp lời tán thán đức Phật nhất
định phải [phù
hợp với câu]
‘lời nói đi đôi với hành động’, không có khoa
trương phóng đại th́ mới hợp lư.
Giả sử có một
chúng sanh tạo ra tội ngũ nghịch thập ác, lúc lâm
chung nhất định đọa địa ngục A
Tỳ, đối với người tạo tội này
đức Phật có năng lực làm cho người này
tức khắc thành Phật hay không? Nếu đức Phật có
năng lực th́ chúng ta đồng ư và khẳng
định rằng Phật có ‘vạn đức vạn
năng’. Nếu đức
Phật có thể giúp người tạo tội này rời
khỏi ba đường ác và sanh đến ba cơi
thiện, chuyện này không có ǵ đáng kể. Xin hỏi đức Phật có
thể dạy người đó lập tức thành
quả vị Phật cứu cánh viên măn hay không?
Trong các kinh Kim Cang, kinh Vô
Lượng Thọ, và kinh A Di Đà đều có câu trả
lời rơ ràng, đích thật đức Phật có năng
lực này. Nếu như
vậy th́ tại sao những chúng sanh tạo tất cả
nghiệp tội không thể được độ? Điều này không thể trách
Phật mà phải trách chúng sanh không nghe lời, không
chịu tiếp nhận [sự dạy dỗ]. Kinh Lăng Nghiêm nói rất
triệt để (cặn kẽ):
‘Tâm cuồng [loạn]
không dứt, dứt tức bồ đề [nghĩa là Nếu dứt được
tâm cuồng loạn th́ chính là Bồ Đề]. Cuồng tâm là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước; buông xả
tâm cuồng loạn này tức là cứu cánh viên măn Phật. Đức Phật giáo hóa chúng sanh,
nhưng chúng sanh không chịu tin, không chịu buông xả,
cho nên trách nhiệm không ở tại đức Phật mà
ở tại chúng sanh. Đức
Phật đích thật có trí huệ viên măn và năng
lực rốt ráo. Kinh Kim Cang
dạy chúng ta tin Phật, đây không phải là niềm tin
tầm thường. Nửa
phần đầu nói ‘ḷng tin thanh
tịnh, ắt sanh thật tướng’ là từ ‘lư’ mà
nói; nửa phần sau nói: ‘tín
tâm bất nghịch’ (ḷng tin không
chống trái) là từ ‘sự’ mà nói, lư và sự là một
không phải hai. ‘Bất
nghịch’ nghĩa là không làm theo lời dạy của
đức Phật th́ không được. Người ‘tín tâm bất
nghịch’ nhất định sẽ thành tựu. Nguyện thứ 18 trong 48 lời
nguyện [của đức Phật A Di Đà] trong kinh Vô
Lượng Thọ nói: ‘Tất
cả chúng sanh trong thập phương lúc lâm chung một
niệm hay mười niệm đều có thể văng sanh’. Người không văng sanh không
thể vượt thoát khỏi lục đạo luân
hồi. Lục đạo luân
hồi là do một niệm cuối cùng lúc lâm chung quyết
định; lúc lâm chung khởi lên một niệm thiện
th́ sanh đến 3 cơi thiện, khởi lên một niệm
ác th́ sanh đến 3 cơi ác.
Một niệm cuối cùng lúc lâm chung vô cùng quan
trọng. Hằng ngày chúng ta
dụng công niệm Phật là huấn luyện, thật
sự là để dốc sức vào một niệm lúc lâm
chung, hy vọng giữ được chánh niệm phân minh,
tín nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới,
thấy Phật A Di Đà, th́ nhất quyết văng sanh bất
thoái thành Phật.
Phật được
xưng là ‘Nhị Túc Tôn’, ‘túc’ nghĩa là viên măn, ‘tôn’
nghĩa là tôn quư, ‘nhị túc’ là cả hai ‘trí huệ’ và
‘phước đức’ đều viên măn. Đức Phật dạy chúng ta cùng
tu phước và huệ, không thể không tu
phước. Người không
có phước báo sẽ gặp rất nhiều
chướng ngại trên con đường tu tập;
người có phước báo có ít chướng ngại,
cho nên phước và huệ đều quan trọng như
nhau. ‘Nên không trụ vào đâu để sanh tâm ấy’,
trong tâm không có lo âu, băn khoăn (vướng
mắc, lo lắng không dứt được), tất
cả đều buông xả th́ tâm được thanh tịnh; tâm thanh tịnh
sẽ sanh trí huệ, cho nên ‘vô trụ’ là tu huệ, ‘sanh tâm’
là tu phước. ‘Nhi hành
bố thí’, bố thí là tu phước. Hưởng phước là
việc vô cùng nguy hiểm nên trong kinh này đức Phật
dạy Bồ Tát ‘bất thọ phước đức’ (không hưởng phước đức). Quan sát kỹ lưỡng
người hành Bồ Tát đạo tu phước và không
hưởng phước. V́
hưởng phước rất dễ mê hoặc, khi mê
hoặc th́ không thể nào không tạo tội nghiệp,
thế nên phước báo phải chia sẻ cho chúng sanh
hưởng chung.
Đức
Phật v́ tất cả chúng sanh mà thuyết pháp, chẳng
thuyết một pháp nhất định, tất cả pháp
đều là duyên sanh. Lúc
đức Phật Thích Ca Mâu Ni c̣n tại thế giảng
kinh thuyết pháp không chuẩn bị hôm nay phải
giảng pháp nào, ngày mai phải giảng đề mục
ǵ. Nếu có chuẩn bị
th́ mới là định pháp.
Thầy tṛ tụ tập một chỗ, khi không có câu
hỏi hoặc vấn đề ǵ th́ mọi người
tĩnh tọa; lúc có vấn đề, đức Phật
tùy thời giải đáp cho đại chúng, sau này ghi chép
lại thành kinh điển.
Lúc
đức Thế Tôn c̣n tại thế có rất nhiều
học tṛ, trong kinh nói 1250 người là thường tùy
chúng (nhóm học tṛ luôn luôn đi
theo và ở cạnh đức Phật). Nhóm thường tùy đệ
tử này bao gồm luôn những người hộ pháp
tại gia, hết thảy đều là chư Phật,
Bồ Tát ‘đáo giá từ hàng’ (thả
chiếc bè từ) mà đến.
Họ giúp đỡ đức Phật Thích Ca giáo hóa
chúng sanh, đúng như câu nói: ‘Một
vị Phật ra đời, ngàn Phật ủng hộ’. Phật làm một gương
tốt cho chúng ta, đức Phật và chư Phật không
có đố kỵ, không có trở ngại lẫn nhau. Đức Phật Thích Ca thị
hiện thành Phật, những vị cổ Phật cũng
đến thị hiện làm học tṛ của Ngài
(Phật Thích Ca), giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ,
mục đích là như vậy.
Cũng giống như tuồng hát [trên sân
khấu], người nào đóng vai chánh, những
người c̣n lại đóng vai phụ, cùng nhau hợp tác
thành tựu viên măn.
Trước khán đài và sau khán đài khác nhau,
trước khán đài có thể đóng vai phụ, thậm
chí đóng vai gánh nước, kéo cờ, [nhưng] phía sau
khán đài [có thể] là thầy của người đóng
vai chánh. Trên khán đài
thường thấy người học tṛ đóng vai
chánh, chư Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh đúng là ‘du
hí’. Thế nên, những
người đệ tử nổi tiếng nhất
như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đều là
cổ Phật tái lai. Trong
số cư sĩ, trưởng giả Duy Ma là Kim Túc
Như Lai trở lại thị hiện làm đệ
tử tại gia của đức Phật Thích Ca. Chỗ này có thể gợi ư cho
chúng ta, phải từ đây học tập rút tỉa kinh
nghiệm --Phật pháp không những chỉ bao gồm
tứ chúng, tất cả chúng sanh trong tận hư không,
khắp pháp giới đều là một nhà cả. Nếu hiểu được
đều là một nhà, không những trong tứ chúng không
bài xích lẫn nhau, đối với [những
người] thuộc tôn giáo khác cũng không bài xích.
3.
Ĺa bốn tướng, hiểu rơ sự lư, tin nhân quả
Tâm lượng của Phật giáo rất
rộng lớn, đối với tất cả tôn giáo
thậm chí những người có ác ư phỉ báng, phê b́nh,
Phật, Bồ Tát cũng không để ư, cũng đều
dùng ái tâm để quan tâm và giúp đỡ họ. Đối với người
ngoại đạo c̣n như vậy, huống hồ là
đồng tham đạo hữu!
Phật thị hiện dùng thân ḿnh làm tiêu chuẩn
mực thước để chúng ta noi gương theo,
không chỉ dùng lời nói để khuyên chúng ta mà thôi. Kinh Kim Cang nói: ‘Không có tướng ta, không có tướng
người, không có tướng chúng sanh, không có
tướng thọ giả’, không những Phật pháp
Đại thừa, kể cả Tiểu thừa cũng bao
gồm trong đó luôn. Tiểu
thừa Tứ Quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán
đều ly tướng, phá trừ phân biệt, chấp
trước. Không kể công
phu tu hành tốt đến đâu, nếu chưa buông
xả ‘ngă tướng’ th́ không thoát ly ra khỏi luân
hồi. Đây là một vấn
đề vô cùng nghiêm trọng, tuyệt đối không
được xem thường.
Chúng ta đời đời kiếp
kiếp xoay vần trong lục đạo, đời
sống không dễ dàng. Cho dù
tu phước th́ đời sống cũng không dễ
[hơn được bao nhiêu].
Hăy quan sát kỹ lưỡng người trong thế
gian, giàu và nghèo đều khổ.
Người nghèo khổ [th́ đă đành rồi
nhưng] người giàu c̣n khổ hơn nữa. Làm tổng thống, làm vua chúa có
ai không cực nhọc? Trong
đời sống có ai được đại tự
tại! Chư vị nên
lắng ḷng quan sát, tâm sẽ b́nh tĩnh [sáng suốt],
sẽ khai trí huệ, mới thật sự soi thấu
được chân tướng sự thật.
Trong thế pháp tất cả chúng sanh
đều không thể vượt ra ngoài định
luật nhân quả. ‘Một miếng ăn, một
miếng uống đều đă định sẵn’. Chữ ‘định’ này là
định luật nhân quả, đó là sự thật,
nhất định không tí ǵ hư dối. Người đối với
người không nên có oán hận, không nên có xích mích lẫn
nhau. Một niệm sân
hận, tâm niệm trả thù tuy nhỏ bé, phải biết
đời đời kiếp kiếp không bao giờ
chấm dứt [trả thù, báo phục]. Hơn nữa mỗi lần trả
thù sẽ không chỉ trả vừa đủ, cũng
sẽ trả hơn một chút.
Đối phương không phục, oán hận trong tâm,
đời sau gặp lại cũng sẽ báo thù tiếp
tục, cứ như thế không bao giờ dứt. Sau cùng trở thành dữ dội
tàn khốc, hai bên đều đọa địa ngục
A Tỳ. Các trận chiến
tranh trong lịch sử thế giới đều bắt
đầu từ oán hận báo thù lẫn nhau. Hiểu được đạo
lư và sự thật này chúng ta nên phát tâm đại từ
đại bi để hóa giải hết tất cả
những xích mích. Không những
phải sống chung ḥa b́nh với tất cả chúng sanh,
mà c̣n giúp đỡ hợp tác lẫn nhau; thêm một
bước giúp họ phá mê khai ngộ, ĺa khổ
được vui, như vậy mới là Bồ Tát
đạo, Bồ Tát hạnh.
Lúc đạo tràng mới thành lập, chúng
ta nhất định phải giảng kinh Địa Tạng
trước nhất. Có
đất đai rồi, trên miếng đất này
mới xây dựng Phật pháp.
Chữ ‘địa’ trong ‘kinh Địa Tạng’ là ‘tâm
địa’; tạng tức là kho tàng chứa tất cả
công đức của Như Lai, cũng tức là tự
tánh vốn sẵn có đầy đủ vô lượng
trí huệ, đức năng, đó là nghĩa của
chữ ‘Địa Tạng’. Làm sao khai mở trí huệ
đức năng? Kinh Địa
Tạng dạy chúng ta hai chữ ‘hiếu kính’, -- hiếu
thuận cha mẹ, tôn kính sư trưởng. Sự giáo dục từ xưa
đến nay ở Trung quốc chú trọng ‘Tôn sư
trọng đạo’. Kinh
Địa Tạng dạy chúng ta ‘hiếu thân tôn sư’, hàm
nghĩa của điều này vô cùng sâu rộng, bao gồm
toàn bộ Phật pháp. Thí
dụ bài vở học sinh không giỏi, làm cho cha mẹ,
thầy giáo đều bận tâm, đó tức là không
hiếu kính cha mẹ, không tôn kính sư trưởng;
học sinh siêng năng học hỏi, tiếp nhận
sự dạy dỗ của thầy giáo tức là hiếu
kính. Trong gia đ́nh anh em không
ḥa thuận là bất hiếu, chị em dâu bất ḥa là
bất hiếu. Một nhà ḥa
thuận th́ cha mẹ vui mừng, được mọi
người kính trọng, cha mẹ, thầy giáo mới vui
vẻ. V́ vậy khi khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ hành động, nhất
định phải nghĩ đến ân đức của
cha mẹ và lời dạy dỗ của thầy giáo;
học Phật là phải bắt đầu từ chỗ
này, rồi sau đó nâng cao cảnh giới từng tầng
từng tầng đi lên.
‘Sự’ vô lượng vô biên, ‘lư’ vô
lượng vô biên, Phật, Bồ Tát tùy duyên thuyết pháp,
cho nên không có một định pháp có thể nói. Đức Phật lại nói với
chúng ta: ‘Tất cả thánh
hiền đều do vô vi pháp mà có sự sai khác’ [15],
đây là nói rơ Tứ quả Tứ hướng Tiểu
thừa, 51 vị thứ của Bồ Tát Đại thừa
đều xây dựng từ ‘vô vi pháp’. ‘Vô vi pháp’ là chân tâm bổn tánh,
tức là tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng. Lúc trước chúng tôi cứ nghĩ
là tâm của Đại thừa giáo Bồ Tát mới thanh
tịnh và b́nh đẳng.
Nhưng trong kinh Kim Cang, đức Thế Tôn nói
với chúng ta, người chứng được quả
Tiểu thừa Tu Đà Hoàn đă có tâm thanh tịnh b́nh
đẳng. Tuy tâm địa
thanh tịnh b́nh đẳng nhưng tŕnh độ thanh tịnh
b́nh đẳng của mỗi người không giống
nhau. Tiểu thừa Tứ
quả Tứ hướng có tám cấp bực; Đại thừa từ quả
Sơ Tín đến Đẳng Giác gồm có 51 cấp bực
đều là mức độ cao thấp của tâm thanh
tịnh và tâm b́nh đẳng.
Tự ḿnh tạo ra nhân th́ tự ḿnh
phải gánh chịu quả báo; chư Phật, Bồ Tát
cũng không thể thay đổi nghiệp nhân quả
báo. Khi Địa Tạng Bồ
Tát đến cơi địa ngục cứu độ chúng
sanh th́ cũng độ những chúng sanh có duyên đầy
đủ, duyên chín muồi.
Chúng sanh ở địa ngục tràn đầy tâm sân
hận, tâm trả thù rất mạnh, Bồ Tát khuyên họ
buông xả, khuyên họ phát tâm từ bi, họ phải
chịu tiếp nhận, đồng ư th́ mới
được độ, nhưng rất ít chúng sanh ở
địa ngục có thể tiếp nhận. Trong sáu nẻo luân hồi chỉ
có loài người là dễ giác ngộ nhất, dễ
chịu nghe lời khuyên dạy của Phật, Bồ Tát
nhất. Cơi trời vui
nhiều khổ ít, hưởng lạc quen rồi nên
rất khó nghe lời khuyên dạy, đây là ‘phú quư học
đạo nan’ (giàu sang học đạo khó). Ba cơi ác quá khổ, tâm sân giận,
đố kỵ, trả thù quá mạnh nên cũng không
chịu tiếp nhận lời khuyên dạy. Tại sao chư Phật phải
thị hiện thành Phật ở cơi người? Là v́ cơi người khổ đau
nhiều, vui sướng ít, dễ giác ngộ hơn,
dễ nghe theo lời răn dạy của Phật, Bồ
Tát hơn các cơi khác.
Cụ Châu Kính Trụ kể lại nhân duyên
học Phật của ông cho tôi nghe. Trong thời kỳ kháng chiến
[chống Nhật] ông lo việc kiểm soát thuế vụ
của hai tỉnh Tứ Xuyên và Tây Khang. Sau khi kháng chiến thắng
lợi ông đă từng đảm nhiệm chức
Trưởng Ty Tài chánh tỉnh Triết Giang, lúc bấy
giờ thủ đô [được dời về] Trùng
Khánh. Ông nói có một đêm
nọ ông ở Trùng Khánh đánh bài đến 2, 3 giờ
khuya mới về nhà. Lúc
bấy giờ những người làm quan không có xe chuyên
chở nên phải đi bộ về nhà một ḿnh. Trong thời kỳ kháng chiến
đường lộ rất gồ ghề, cách thiệt
xa mới có một ngọn đèn đường, ánh
đèn rất yếu, chỉ sáng cỡ chừng 20 nến
(đơn vị
đo lường ánh sáng, candle), chỉ đủ nh́n
thấy bóng lờ mờ mà thôi.
Trên đường đi ông nh́n thấy bóng của
một người đàn bà đi phía trước ông
cỡ chừng 50 bước.
Lúc ban đầu ông không để ư, cứ tiếp
tục đi trên cùng đường. Đi được khoảng
nửa giờ đồng hồ ông bỗng nhiên giựt
ḿnh suy nghĩ tại sao nửa đêm nửa hôm lại có
người đàn bà đi ngoài đường một ḿnh
như vậy? Ư nghĩ này
vừa khởi lên làm cho ông rởn da gà. Nh́n kỹ lại ông thấy
người đi phía trước chỉ có phân nửa thân
phía trên, không thấy nửa người phía
dưới. Ông sợ quá! Không phải ông bị mờ
mắt, quáng gà. Từ đó trở
về sau ông mới bắt đầu tin Phật pháp. Ông nói nữ quỷ đó có
thể là Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân để
độ ông; nếu ông không nh́n thấy tận mắt,
chứng minh được Phật pháp một tí ǵ cũng
không phải giả th́ ông chẳng đời nào
bước chân vào cửa Phật cả.
Cụ Châu thường dùng những chuyện
thật về nhân quả báo ứng để khuyên
người tin sâu nhân quả, khi khởi tâm động
niệm đều phải cẩn thận đừng
tạo nhân ác. Nhân cần
phải có duyên mới có thể kết thành quả. Cả đời này ḿnh chấm
dứt làm việc ác, chuyên làm việc thiện; cắt
đứt duyên ác rồi, tuy có nhân ác cũng không thể thành
quả ác. Chúng ta hăy tích lũy
công đức càng nhiều, bồi đắp thiện
duyên cho tử tế. Nhân
tốt đời trước cộng với duyên
thiện đời này, dĩ nhiên sẽ thành ra quả báo
thiện.
d.
Tôn đức Phật A Di Đà làm thầy
1.
Pháp môn b́nh
đẳng:
Những
nguyên lư và nguyên tắc mà đức Thế Tôn nói trong các
kinh điển Đại thừa, không có ǵ khác nhau, những
ǵ khác nhau chỉ là phương pháp mà thôi. Nhà Phật thường nói tám
vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, do đó có
thể thấy chư Phật, Bồ Tát không có pháp nhất
định ǵ để nói, c̣n phương hướng và
mục tiêu đều giống nhau hết. Sự khác nhau giữa Tông Môn, Giáo
Hạ, Hiển Giáo, Mật Giáo rất lớn, tuy nhiên
phương hướng đều là ‘Giác, Chánh, Tịnh’,
mục tiêu đều là ‘Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác’, cho nên nói ‘pháp môn b́nh đẳng, không có cao thấp’.
Kinh Kim Cang nói: ‘Hết thảy chư Phật và
các pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ Đề của
chư Phật đều từ kinh này ra’. Do đó có thể thấy tất
cả chư Phật đều y cứ vào nguyên lư và nguyên
tắc trong kinh này mà thành Phật; Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác cũng đạt được từ
kinh này. Bộ kinh này cao
tột cùng, những kinh khác cũng cao tột cùng, v́
mỗi bộ kinh điển đều là chỗ xuất
xứ của chư Phật và Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác của chư Phật.
Nếu đức Phật chỉ nói về một
pháp môn duy nhất th́ chẳng phải ‘không có định
pháp ǵ để nói’.
Đức Phật nói pháp
nhất định y theo nguyên tắc Nhị Đế -- Chân
đế và Tục đế -- và nhất định
phải khế cơ. Khế
cơ và khế lư đều không vượt ra ngoài Nhị
đế. ‘Khế cơ’ là
không trái ngược với Tục đế. ‘Khế lư’ là không trái ngược
với Chân đế. Căn
tánh của chúng sanh sai khác quá nhiều, không thể chỉ
dùng một phương pháp để phổ độ
chúng sanh, cho nên đức Phật nói vô lượng pháp môn,
đây là noi theo Tục đế mà nói. Tuy pháp môn vô lượng nhưng
mục tiêu, phương hướng đều không trái
ngược với Chân đế.
Nếu chúng ta có thể nhận biết điều
này rơ ràng th́ học Phật không khó, vả lại nội
trong một thời gian ngắn sẽ đạt
được lợi ích. Sau
ba tháng, sáu tháng sẽ có hiệu quả rất rơ ràng. Hiệu quả ǵ? Tiêu trừ nghiệp
chướng, tự ḿnh sẽ cảm thấy nghiệp
chướng giảm bớt, trí huệ từ từ khai
mở.
Trong kinh Lăng Nghiêm
đức Phật thí dụ nghiệp chướng như
giặc cướp, chúng nó giựt pháp tài công đức
của ḿnh. Nếu không
nhận ra giặc cướp th́ làm thế nào bắt chúng
được! Cho nên nhất
định phải nhận biết nghiệp chướng
th́ mới tiêu hết nghiệp chướng
được. Nghiệp là
sự nghiệp, đang lúc làm ra th́ gọi là ‘sự’, kết
quả của việc này khi làm xong th́ gọi là
‘nghiệp’. Tạo ra
nghiệp th́ nhất định có chướng
ngại. Trên căn bản
cứu cánh th́ chướng ngại tự tánh của
người, chướng ngại pháp thân, bát nhă, giải
thoát. Đối với sanh
hoạt của con người th́ chướng ngại tâm
thanh tịnh, làm thân tâm không an ổn; chướng ngại
gia đ́nh, làm gia đ́nh này không ḥa hợp; chướng
ngại sự nghiệp làm cho công việc làm không thuận lợi,
những thứ này đều là chướng ngại. Học Phật, bái sám (lạy sám
hối) có thể tiêu trừ nghiệp chướng không? Chỉ cần chúng ta b́nh tĩnh
quan sát, không những không thể tiêu trừ, càng bái sám th́
nghiệp chướng càng nhiều, càng học Phật th́
phiền năo càng nhiều. Tu mù
luyện đui th́ làm sao được!
2.
Thân cận
thiện tri thức:
Trong kinh luận Đại
thừa và Tiểu thừa đức Phật đều
dạy rơ cho chúng ta, điều kiện đầu tiên
của việc học Phật là nhất định
phải theo học một vị thầy tốt (Tùng minh sư thọ giới,
chuyên tín bất phạm).
Nếu muốn thành tựu, không hiểu đạo lư
th́ không làm được.
Trong vài ngàn năm qua ở Trung quốc, sự trao
truyền (truyền thừa) thế pháp và Phật pháp
đều chú trọng ở chữ ‘sư thừa’,
tức là học tập theo một vị thầy. Đúng đạo lư thầy tṛ,
từ xưa đến nay chuyện này rất khó
gặp. Đây không phải duyên
phần trong chỉ một đời này, mà là duyên phần
trong nhiều đời nhiều kiếp. Chúng ta dựa vào kinh nghiệm tu
học của thầy mà nâng cao [tŕnh độ của
ḿnh], đây là việc rất quan trọng trong ‘sư
thừa’. Trong Tông Môn
thường nói ‘Đi trên đảnh của Tỳ Lô’. Tỳ Lô Giá Na Phật là pháp thân
Như Lai. Trong kinh Hoa Nghiêm nói
đến ba thân Như Lai, Tỳ Lô Giá Na là ‘Pháp thân
Phật’, Lô Xá Na Phật là ‘Báo thân Phật’, Thích Ca Mâu Ni
Phật là ‘Ứng thân Phật’, đây là ‘một thể ba
thân’ của Phật. Phật
là thầy giáo của chúng ta, chúng ta nương nhờ vào
ngài, nương theo vai của ngài, nương theo và
đạp trên đảnh (nghĩa là
nương nhờ vào) th́ học sinh mới có
thể vượt qua thầy, người sau vượt
trội hơn người trước, có câu nói: ‘màu
xanh lá cây có từ màu xanh lam mà vượt trội hơn
xanh lam’ [16]. Nếu không noi theo phương
pháp tu hành này mà phải xây dựng lại từ
đầu, đến ngày nào mới có thể thành tựu! Sự giáo học trong thế pháp
và Phật pháp đều có chung đạo lư này.
Người xưa
học Phật không kể tại gia hay xuất gia, lúc vào
cửa Phật phải bắt đầu ‘học giới
5 năm’, đây là cơ sở, nền tảng. Câu này rất đơn giản,
nếu y theo lời văn mà giải nghĩa, rất có
thể sẽ giải thích sai ư tứ, cứ tưởng
rằng chỉ học những thứ như năm giới,
mười giới, Bồ Tát giới, Bát Quan Trai giới,
mà không biết chữ giới ở đây chỉ ‘giáo
giới’ (lời
dạy, khuyên răn) của thầy giáo.
Trong ṿng 5 năm phải tuân theo lời khuyên dạy
của thầy giáo, chứ không phải chỉ giới
điều.
Thời xưa sư
đạo tôn nghiêm, trong xă hội không ai chẳng tôn
trọng người dạy học. Thế pháp c̣n như vậy
huống hồ là Phật pháp.
Cho nên quan trọng nhất là thân cận thiện tri
thức. Ai là thiện tri
thức? Chúng ta xem ngữ
lục của người xưa, quan sát kỹ càng th́
sẽ hiểu ngay. Thiệt ra
thiện tri thức không có tiêu chuẩn nhất
định, điều kiện quan trọng nhất là
người học tṛ phải ngưỡng mộ, kính
phục vị thiện tri thức này nhất, người
như vậy mới đúng là thiện tri thức. Nếu bạn có thể hoàn toàn
phục tùng theo lời nói của người đó 100% th́
đó là thiện tri thức của bạn. Cho dù đức hạnh của
người đó cao đến đâu, học thức
giỏi cách mấy, nếu bạn không phục họ, không
chịu nghe lời, th́ họ không phải là thiện tri
thức của bạn. Cho dù
chư Phật, Bồ Tát tới, nếu bạn không tôn kính
họ, không có tâm niệm phải y giáo phụng hành, Phật,
Bồ Tát cũng không phải là thiện tri thức của
bạn. Người khác nói
cùng một lời nói như vậy, bạn không thể tin
nhận; nếu có một người nói [như vậy] mà
bạn có thể hoan hỷ nghe theo, làm theo, th́ người
này là thầy giáo tốt của bạn.
Có câu nói: ‘thanh xuất
ư lam nhi thắng ư lam’, thầy giáo có thể dùng chánh
pháp dạy dỗ học tṛ, bản thân của thầy
chưa chắc đă làm được, nhưng nếu
học tṛ phục tùng một trăm phần trăm (100%),
học tṛ [có thể] làm được nên học tṛ
[nhiều lúc] vượt trội hơn thầy giáo. Cho dù thầy có giỏi cách
mấy, nếu học tṛ không chịu nghe và làm theo lời
dạy, thế th́ việc dạy học này không có hiệu
quả, học tṛ đi theo ông thầy này cả đời
cũng không thành công. V́ vậy
tiêu chuẩn lựa chọn thầy giáo là ở
điểm này.
Ngữ lục của các
tông phái trong Phật giáo có ghi chép không kể là tại gia hay
xuất gia, khi học tṛ đi tham vấn các vị
đại đức, những vị đại
đức này thường sẽ cho biết duyên phần
của học tṛ ở địa phương nào, đi
đến đâu tham vấn, học hỏi th́
người này sẽ thành tựu.
Người học tṛ nghe theo lời chỉ dẫn
này mà đi tham vấn, quả nhiên sau 3 năm, 5 năm
liền khai ngộ, liền thành tựu. Chúng ta suy nghĩ kỹ càng, không lẽ
người học tṛ không thể khai ngộ ở
đạo tràng của người giới thiệu,
chỉ đường này hay sao?
Người này có năng lực chỉ dẫn người
đến cầu học đi đến đâu, đi
học với người nào th́ sẽ thành tựu, không
lẽ tự ḿnh không có khả năng dạy học? Văn tự Trung Quốc
đơn giản, vắn tắt, người đó đi
tham vấn vị lăo ḥa thượng này chắc chắn
đă nói chuyện rất lâu, có thể đă lưu lại
ở đó rất nhiều ngày, nhưng trong sách chỉ ghi
lại hai ba câu nói, thiệt ra [họ đă nói] chuyện
rất dài, rất lâu, liễu giải rất sâu. Lăo ḥa thượng biết rơ
căn cơ, thói quen của học tṛ, biết trong tâm
học tṛ không mến mộ đạo tràng này và cũng
không phải là [học tṛ] của ḿnh, cho nên giới
thiệu vị đại đức khác phù hợp với
lư tưởng của học tṛ; đi học người
thầy mà học tṛ ngưỡng mộ th́ dễ hoàn toàn
nghe lời và phục tùng, cho nên trong ṿng 3 đến 5
năm th́ có thể thành tựu.
Thiệt ra đạo đức, học vấn, và tu
tŕ của ‘vị chỉ đường’ này không thua
người mà ngài giới thiệu, chỉ là căn tánh và
cơ duyên khác nhau mà thôi.
Thí dụ có người
đến chỗ này để niệm Phật, tuy
niệm nhưng tâm không thể an định v́
người này rất thích Thiền, đối với
Thiền cứ ghi nhớ trong ḷng.
Họ ở đây niệm Phật cũng niệm
không xong, tham thiền cũng tham không đến đâu,
như vậy chỉ làm mất thời giờ của
họ mà thôi. Không bằng
giới thiệu cho họ một vị thầy giỏi,
chuyên tham thiền, có công phu.
Họ đến đó chẳng khởi vọng
tưởng, một ḷng một dạ siêng năng tu tập
th́ rất dễ thành công. Cho
nên mỗi đạo tràng chỉ tu một pháp môn. Từ xưa đến nay, có câu
‘xây đạo tràng, lập pháp tràng (dựng bày pháp nghĩa và chỉ bày rơ ràng cho
chúng sanh)’, giải hành chuyên nhất. Gom những người có cùng ư
chí, đạo hiệp tu tập chung với nhau th́ mọi
người đều dễ thành tựu. Mỗi vị thiện tri thức
trong 53 lần tham vấn trong kinh Hoa Nghiêm tu học theo một
pháp môn [riêng rẽ], họ đón mừng những
người cùng chung ư hướng đến để tu
tập; người nào thích tu pháp môn khác đều
được giới thiệu đến đạo tràng
khác, giới thiệu với các pháp sư khác, giúp tất
cả chúng sanh có thể thành tựu. Cho nên ‘pháp
môn b́nh đẳng, đường nào cũng về
đến đích’ [17]. Nhất định phải
giữ hảo tâm muốn giúp người khác thành tựu,
đừng gây chướng ngại cho họ, không thôi th́
tội lỗi rất nặng.
Đạo tràng thời
xưa rất giống như phân khoa chuyên ngành trong
trường đại học bây giờ, tạo
phương tiện thuận lợi cho đại chúng tham
học. Mỗi đạo
tràng có tông chỉ tu học riêng rẽ, có nơi y cứ vào
kinh luận, có chỗ dùng phương pháp tu tập
đặc biệt. Cùng
một tông phái, những đạo tràng khác nhau đều
có chỗ đại đồng nhưng tiểu dị (điềm khác nhau nhỏ). Thí dụ trong
Niệm Phật Đường [có hai người] niệm
Phật theo những giai điệu và tốc độ
nhanh chậm khác nhau, hai người này sẽ làm cho những
người đồng tu sanh phiền năo, v́ vậy
phải phân ra hai đạo tràng riêng biệt.
Trong kinh Kim Cang,
đức Phật Thích Ca và chư Phật, Bồ Tát làm
gương cho chúng ta. Đệ
tử Phật phải làm gương tốt cho tất cả
chúng sanh, làm người hạng nhất trong mọi hoàn
cảnh [và nơi chốn].
Phải làm cho gia đ́nh trở thành gia đ́nh
gương mẫu trên toàn thế giới. Những người làm ăn buôn
bán phải làm cho công ty của ḿnh thành công ty hạng
nhất trên thế giới, như vậy mới đúng là
đệ tử của Phật.
Trong Phật pháp không có hạng nh́, môn nào cũng là
hạng nhất, mọi thứ đều hạng
nhất, như vậy mới đúng như pháp. Cho nên ‘học Phật’ [đúng
theo nghĩa của chữ này] rất khó, quan trọng
nhất là ‘trí huệ tăng trưởng, thân tâm thanh
tịnh’. Muốn đạt
đến mức thân tâm thanh tịnh không thể không buông
xả, không thể không nh́n thấu (thấy thấu
suốt), phải biết rơ chân tướng của vũ
trụ nhân sanh.
3. Đừng lôi kéo tín đồ,
đừng hóa duyên
Đạo tràng không thể lôi kéo
tín đồ, không thể hóa duyên, nếu làm như vậy
th́ sẽ tạo nghiệp tội, nhất định
sẽ có lỗi lầm. Chúng
ta tin Phật [sẽ lo lắng] và duy tŕ đạo tràng [cho
chúng ta]. ‘Tin Phật’ vô cùng quan
trọng! Điều này là do
thầy Lư dạy tôi. Sau khi tôi
xuất gia, thọ giới xong, đến Đài Trung thăm
thầy, vừa gặp mặt th́ thầy liền dạy
cho tôi hai chữ ‘Tin Phật’.
Sau đó thầy giải thích:
“Ông học Phật đă bao nhiêu năm nay, đă
xuất gia và thọ giới, c̣n đi giảng kinh ở
nhiều nơi, tôi dạy cho ông hai chữ này, ông không
cảm thấy kỳ lạ hay sao?”
‘Tin Phật rất khó!’. Những ǵ đức Phật
dạy chúng ta làm th́ chúng ta phải làm theo lời dạy,
những ǵ đức Phật dạy chúng ta đừng làm
th́ chúng ta nhất định không làm, như vậy mới
gọi là ‘tin Phật’.
Nhất định phải giải đúng nghĩa
chân thật của những lời Phật nói, y theo đó
mà làm, như vậy mói gọi là ‘tin Phật’. Đạo tràng có chư Phật
hộ niệm, long thiên ủng hộ, v́ vậy [chúng ta]
nhất tâm hướng về đạo, ngoài ra không
cần phải lo lắng.
Từ xưa đến nay những người chân
tâm hướng về đạo đều tu tâm thanh
tịnh, chắc thật niệm Phật, cầu sanh
Tịnh độ, giúp các bạn đồng tu phá mê khai
ngộ.
Pháp vận của đức Phật Thích Ca
dài một vạn hai ngàn năm, tất cả đệ
tử từng đời tiếp nối truyền
đến đời sau; trong kinh điển Đại
thừa nói hào quang từ bạch hào [của đức
Phật] có một phần công đức dùng để cúng
dường cho những người xuất gia đời
sau này măi cho đến khi pháp diệt. Chúng ta có thể tin và tiếp
nhận điều này hay không?
4.
Pháp môn vô lượng chỉ chọn một môn
Việc
mà Phật pháp theo đuổi, t́m cầu là trí huệ
cứu cánh viên măn, trí huệ này có sẵn trong tự tánh,
không phải đến từ bên ngoài. Tổng cương lĩnh
của việc tu hành là ‘giác mà không mê, chánh mà không tà,
tịnh mà không nhiễm’. Mê,
tà, nhiễm đều là nghiệp chướng. Kinh Kim Cang dạy chúng ta ‘Ưng vô sở trụ’,
trụ tức là nhiễm, chấp trước, phân
biệt. Đức Phật
dạy chúng ta làm bất cứ việc ǵ cũng phải
tùy duyên, đừng phan duyên.
Phật
pháp là ‘Giác, Chánh, Tịnh’. Tám
vạn bốn ngàn pháp môn đến sau cùng đều
đi vào từ ba cửa này.
Thiền Tông, Tánh Tông vào từ cửa ‘Giác’, cho nên
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh. Giáo Hạ vào từ
cửa ‘Chánh’, như Hiền Thủ, Thiên Thai, Pháp
Tướng, Tam Luận Tông noi theo kinh điển Đại
thừa để sửa đổi tri kiến của
ḿnh, nhập Phật tri kiến, chánh tri chánh kiến. Tịnh Tông và Mật Tông vào
từ cửa ‘Tịnh’, [cả hai đều] đặc
biệt coi trọng tâm thanh tịnh – tâm tịnh th́ cơi
nước tịnh. Lúc
chưa bước vào cửa th́ ba cửa này không giống
nhau, sau khi vào trong th́ ba cửa vốn là một. Tâm địa thanh tịnh làm sao
không giác ngộ được chứ? Người giác ngộ không
thể nào có tri kiến bất chánh. ‘Giác, Chánh, Tịnh’, ba là một, một
là ba. Đạt được
một th́ cả ba đều đạt được,
hiểu như vậy th́ [chúng ta] mới có một
phương hướng rơ ràng cho sự tu học của
ḿnh.
Trong
kinh Kim Cang đức Phật dạy cho chúng ta rất
nhiều thứ, đặc biệt là câu: ‘Người thiện nam, người thiện
nữ y theo [lời dạy]
trong kinh, nhận lấy và làm theo cho dù chỉ bốn
câu kệ, giảng thuyết cho người khác th́
phước đức này c̣n thù thắng hơn những
phước đức kể trước’ [18],
những câu giống câu này [được lập lại]
đến bảy, tám lần, thế mới biết câu này
quan trọng đến mức nào.
Điểm quan trọng nhất là ‘thọ tŕ’, ‘thọ’
là tiếp nhận. Tôi hoàn toàn
tiếp nhận lời dạy của Phật, y theo
lời dạy mà làm, nhất định không làm
ngược lại; ‘tŕ’ là
bảo tŕ, giữ ǵn vĩnh viễn không mất. Phân nửa phần sau nói
đến ‘tín tâm bất nghịch’ (ḷng
tin không chống trái), nhất quyết phải làm theo y như
vậy.
Nhiều
bạn đồng tu hỏi tôi: ‘Đọc kinh nào
tốt?’. [Chúng ta] phải
biết bộ kinh nào cũng tốt cả; nếu thích
bộ kinh nào th́ đọc kinh đó, nhưng phải
nhớ kỹ cả đời chỉ đọc một
bộ kinh th́ mới có thể thành tựu. Nếu nghĩ bộ kinh này
tốt, kinh kia cũng tốt, [kinh nào cũng đọc]
th́ là tham. Phật dạy chúng
ta phải đoạn trừ tâm tham chứ không dạy
tăng trưởng tâm tham.
Học
một bộ kinh là ‘nhất môn thâm nhập’ (đi sâu vào một môn), một ḷng
một dạ theo học một pháp môn mà thôi, như
vậy th́ tâm sẽ định, tâm sẽ thanh tịnh. Phật nói rất nhiều kinh
điển nhưng không dạy chúng ta học hết toàn
bộ, mà trong số kinh này chỉ chọn một bộ
kinh thích hợp với căn tánh của ḿnh. Đi sâu vào một môn mới có
thể thành công. Câu ‘Pháp môn vô
lượng thệ nguyện học’ trong Tứ hoằng
thệ nguyện đứng vào hàng thứ ba. Câu thứ nhất là ‘Chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ’, câu thứ nh́ là ‘Phiền
năo vô lượng thệ nguyện đoạn’, nhất
định phải làm được hai câu đầu
rồi sau đó mới học nhiều pháp môn.
Học một pháp môn là
đoạn dứt phiền năo, nhưng trước đó
phải phát tâm bồ đề, được vậy tri
kiến (sự hiểu biết) mới chánh, tâm
lượng mới lớn.
Tâm lượng của chúng ta phải độ
tận tất cả chúng sanh, không những độ
những người học Phật mà c̣n phải
độ tất cả những tín đồ tôn giáo khác,
tâm lượng như vậy mới b́nh đẳng. Những tín đồ tôn giáo khác
đối với chúng ta có thành kiến, ḿnh đối
với họ không có thành kiến, họ phỉ báng ḿnh,
ḿnh đối với họ chỉ có lễ kính, tán
thán. Phật là ‘tâm bao trùm hư không, lượng gồm thâu các cơi
nhiều như cát’ [19],
tâm lượng nhỏ hẹp là nghiệp chướng sâu
nặng. Chúng ta muốn tiêu
trừ nghiệp chướng th́ bước đầu
tiên phải mở rộng tâm lượng, dùng tâm hoan
hỷ đối đăi với tất cả chúng sanh.
5. Lối
dạy học nghệ thuật hóa trong Phật giáo
H́nh tượng của
Phật, Bồ Tát đều chứa đựng ư nghĩa
thâm sâu, nếu chúng ta xem Phật, Bồ Tát như thần
thánh th́ sai rồi. Kể
cả kiến trúc Phật giáo cũng biểu thị pháp
(tượng trưng pháp), thí dụ nh́n từ phía ngoài th́
đại điện trong chùa có hai tầng, đi vào phía
trong th́ chỉ có một tầng: hai tầng ở phía ngoài
tượng trưng cho nhị đế, một tầng
ở trong tượng trưng nhị đế viên dung
[ḥa đồng với nhau].
[Thông thường theo] kiến trúc chánh quy của các
tự viện vừa vào cửa th́ gặp Điện Thiên
Vương, ở chính giữa điện là tượng
Di Lặc Bồ Tát, tượng này hướng về
cổng chính, có h́nh dáng giống ‘Bố Đại ḥa
thượng’ và tượng trưng cho tâm b́nh đẳng,
tướng vui vẻ. Đệ
tử Phật phải có đủ điều kiện này:
b́nh đẳng đối với tất cả chúng sanh,
cười tươi đón tiếp người,
thường sanh tâm hoan hỷ, pháp hỷ sung măn, như
vậy mới đi vào cửa Phật được. Hai bên có Tứ Đại Thiên
Vương hộ pháp, chữ hộ ở đây không
phải hộ (bảo vệ) người khác, không
phải hộ tự viện, không phải hộ
đạo tràng, mà là hộ tŕ pháp của chính ḿnh.
Một trong bốn
vị thiên vương là ‘Đông Phương Tŕ Quốc Thiên
vương’, vị này tượng trưng cho ‘phụ trách
tận phận (làm tṛn trách nhiệm)’. Chúng ta sinh hoạt trong thế gian
ai cũng có trách nhiệm, bổn phận, ḿnh phải làm
tṛn bổn phận của ḿnh cho thật hoàn hảo. Làm thế nào để làm cho
thật hoàn hảo? Cây đàn
tỳ bà trên tay của Tŕ Quốc Thiên Vương cũng
có ư nghĩa tượng trưng, dây đàn quá căng th́
sẽ đứt, dây quá chùng th́ đàn không kêu, nhất
định phải căng đến mức thích hợp
vừa phải. Ư nghĩa
tượng trưng là ǵ? Trong
đời sống hằng ngày, trong công việc, khi
đối xử với người, với việc
phải làm đến mức vừa phải, không thể
quá lố, không thể quá thấp.
Đây gọi là ‘trung đạo’ trong nhà Phật, hoặc
là ‘trung dung’ trong nhà Nho .
Vị thứ hai là ‘Nam
Phương Tăng Trưởng Thiên Vương’, vị
này tượng trưng cho tiến bộ. Nhà Nho dạy: ‘cẩu nhật tân,
nhật nhật tân’ (càng ngày càng
đổi mới). Phật pháp
dạy ‘tinh tấn’. Cây
kiếm trên tay tượng trưng cho trí huệ, chỉ có
trí huệ mới có thể tiến bộ, không kể trên
đức hạnh, học vấn, sanh hoạt, phẩm
chất đều đ̣i hỏi mỗi ngày phải
tiến bộ thêm.
Vị
kế là ‘Tây Phương Quảng Mục Thiên Vương’,
‘Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương’. Hai vị này dạy chúng ta
phương pháp làm thế nào để làm hai điều
trên được viên măn?
Phải học tập -- nh́n nhiều, nghe nhiều,
quán sát, học hỏi nhiều, khảo sát nhiều. Tay của Quảng Mục Thiên
Vương cầm rồng hoặc rắn, rồng,
rắn tượng trưng cho biến hoá. Nhân t́nh, sự lư trong xă hội
đều rất phức tạp, luôn luôn thay đổi,
chúng ta cần phải quan sát kỹ càng, nắm chắc
cơ hội và không lầm lạc.
Tay của Đa Văn Thiên Vương cầm cây
lọng, cây lọng tượng trưng cho ‘ngăn
ngừa ô nhiễm’. Trong hoàn
cảnh xă hội nhân t́nh phức tạp, trược ác,
chúng ta phải giữ vững được không mê
lầm, không ô nhiễm.
Nếu hiểu được những ư nghĩa này
th́ vừa bước vào cửa chùa liền học
được bài học đầu tiên, lập tức
tự nhắc nhở, tự cảnh tỉnh.
Người đời nay ưa thích
nghệ thuật hoá, mấy ngàn năm trước giáo
học và nghệ thuật trong Phật pháp đă kết
hợp thành một thể. Khi
thăm viếng mỗi ngôi chùa, ngắm nh́n mỗi tôn
tượng của Phật, Bồ Tát, không cần nói ǵ
cả th́ cũng cảm thấy niềm vui pháp hỷ sung
măn, liền đạt được sự lợi ích
của sự giáo dục trong Phật pháp, thật làm cho
người ta khâm phục đến năm vóc sát
đất. Hiện nay
những người chân chánh hiểu được
sự giáo học của nghệ thuật trong Phật giáo
quá ít, hầu hết đều xem tượng Phật
như thần thánh, dập đầu khấn vái, như
vậy là mê tín. Chúng ta nhất
định phải nhận định rơ ràng th́ mới
biết tiếp nhận và tu học như thế nào [cho
chính xác].
6.
Tôn Phật làm thầy.
Học Phật nhất định phải
‘đi sâu vào một môn’ th́ mới có thể thành
tựu. Nếu chúng ta không
thiệt t́nh hết ḷng khâm phục những đại
đức đời nay, không thể 100% y giáo phụng hành
th́ nên t́m người đời xưa. Cho nên tôi giới thiệu với
quư vị một vị thầy giỏi nhất, đó là
đức Phật A Di Đà. Tôi
đă giảng kinh Vô Lượng Thọ hết 9 lần,
đều khuyên mọi người tôn đức Phật
A Di Đà làm thầy. Những ǵ
đức Phật A Di Đà dạy chúng ta đều nằm
trong kinh Vô Lượng Thọ.
Nếu có thể thông suốt, hiểu rơ lời
dạy trong kinh Vô Lượng Thọ, y theo đó mà làm th́
chúng ta đúng là học sinh giỏi của đức
Phật A Di Đà. Đức Phật
Thích Ca tán thán đức Phật A Di Đà là ‘Tôn quư nhất trong các quang minh, là vua trong các vị
Phật’ [20], chúng ta t́m
vị thầy này nhất định sẽ không lầm!
Hồi trước lúc tôi đến Đài Trung
cầu học, thầy Lư vô cùng khiêm tốn, thầy nói
với tôi: ‘Năng lực của tôi chỉ có thể
dạy cho ông 5 năm, năm năm sau tôi không có năng
lực để dạy ông nữa’. Thầy giới thiệu cho tôi
một người thầy, đó là Ấn Quang đại
sư, kêu tôi học theo Ấn Quang đại sư. Ấn Quang đại sư không
c̣n trụ thế, [chúng ta có thể] tu tập theo [Ấn
Quang] ‘Văn Sao’, nhất định sẽ không sai
lầm. Hôm nay tôi giới
thiệu đức Phật A Di Đà cho quư vị, so với
Ấn Quang đại sư c̣n cao minh hơn.
Ngẫu Ích đại sư trong nhà Phật
là một vị tổ Tịnh Độ Tông nổi tiếng
vào cuối đời nhà Minh.
Ngài cũng học theo người xưa, thầy
của Ngài là Liên Tŕ đại sư. Lúc bấy giờ Liên Tŕ
đại sư đă văng sanh, Ngẫu Ích đại sư
bèn chuyên đọc những trước tác (sách vở) của Liên Tŕ đại sư,
học tập theo lời dạy [trong sách] của ngài. Trong ṿng 5 năm không xem sách
của người khác, phải học theo lời dạy
của một người duy nhất th́ mới có thể
thành tựu. Điều này
gọi là đạp lên vai, đi trên đầu của
người xưa (nghĩa là
nương nhờ vào người xưa). Nếu học theo rất
nhiều người, đạp lên như vậy sẽ té
đau.
Trong Tịnh Độ Ngũ kinh, kinh A Di Đà sâu
nhất và khó nhất. Kinh Quán
Vô Lượng Thọ Phật bổ sung và giảng rơ cho
kinh Vô Lượng Thọ, bổ sung về lư luận và
phương pháp. V́ trong kinh Vô
Lượng Thọ chỉ giảng về ‘Ba Bậc văng
sanh’ c̣n Quán Kinh nói đến ‘16 thứ quán’ và nói rơ nhân
quả của Chín phẩm.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật bổ sung ba
điểm này một cách tường tận, rơ ràng. Phải nên đọc kỹ, suy
nghĩ kỹ, phá tan nghi hoặc, sanh ḷng tin để có
thể đạt được ‘tín tâm bất nghịch’ (ḷng tin sâu không chống trái).
Tiểu bổn kinh A Di Đà nói về
phương pháp tu hành, ư nghĩa trong đó thật là vô cùng
vô tận, đừng xem thường kinh này, đây là tinh
hoa của Tịnh Tông. Từ
xưa đến nay mọi người đều lấy
kinh A Di Đà làm khóa tụng [thường ngày], việc này
rất hợp lư. Không
những Tịnh Tông tụng kinh A Di Đà, Thiền Tông cũng
tụng kinh này trong khóa lễ tối, Giáo Hạ không
cần phải nói, v́ vậy nên chúng ta phải coi trọng
kinh này. Nếu không có ḷng tin
đối với kinh A Di Đà, không hiểu rơ sự lư trong
đó, đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ cũng
tốt. Kinh Vô Lượng
Thọ giảng ở mức thấp hơn và rơ
hơn. Xây dựng ḷng tin
từ kinh Vô Lượng Thọ xong rồi thọ tŕ kinh A
Di Đà sẽ không khó nữa.
e. Vũ trụ nhân sanh chỉ là
mộng huyễn bào ảnh
1.
Thọ tŕ một câu kệ hơn cả bố thí thất
bảo
Kết luận cuối
cùng trong kinh Kim Cang vô cùng quan trọng. Những đoạn trong kinh này
càng về sau càng ‘hấp dẫn’, những ư nghĩa quan
trọng đều ở nửa phần sau, đặc
biệt kết luận này không những là kết luận
của kinh Kim Cang, thiệt ra là tổng kết hết
thảy 22 năm giảng kinh Bát Nhă của Thế Tôn. Năm xưa đức Phật
giảng kinh thuyết pháp 49 năm, hội kinh Bát Nhă đă
chiếm hết 22 năm.
Nếu dùng [cách phân đoạn thông thường
của kinh điển] ba phần: Tựa, Chánh tông, Lưu
thông để xem xét một đời giáo hóa của
đức Phật, th́ Bát Nhă là phần Chánh tông của toàn
bộ Phật pháp, là trung tâm của cả đời giáo
hóa của đức Thế Tôn.
Kết luận này không những là tổng kết
của Bát Nhă mà cũng có thể nói là tổng quy kết
hết thảy 49 năm thuyết pháp của đức
Phật, tức là hai câu và một kệ cuối cùng
của kinh này.
Thái tử Lương
Chiêu Minh chia kinh này ra thành 32 đoạn, đây cũng
giống như làm việc phân khoa, phán giáo. Có câu rằng ‘Người nhân thấy điều nhân,
người trí thấy điều trí’ [21], từ xưa đến nay cái nh́n của các
vị đại đức không giống nhau. Cách phân thành 32 đoạn của
thái tử Chiêu Minh là để đọc tụng, tiện
lợi cho việc thảo luận; tạm thời không bàn
thích hợp, thỏa đáng hay không, nhưng phải nói cách
phân đoạn này rất tiện lợi nên sách phân
đoạn theo cách này thường được phổ
biến rất rộng răi.
Đoạn cuối cùng tổng kết toàn quyển
kinh. Đoạn kinh này vừa
mở đầu Thế Tôn gọi ông Tu Bồ Đề. Trong kinh mỗi khi đức
Phật kêu tên một người nào đó, phía sau nhất
định sẽ có lời dạy quan trọng, mục
đích là nhắc đại chúng phải chú ư, đây là
một kiến thức phổ thông.
Đức Phật dạy:
giả sử có người bố thí hết bảy
thứ báu trong vô lượng a tăng kỳ thế
giới. Con số này không thể
tính toán được, a tăng kỳ là một đơn
vị trong thời cổ Ấn Độ, chúng ta ngày nay
gọi nó là con số thiên văn (con
số này quá lớn). Dùng đơn
vị này lại thêm chữ vô lượng nữa. Không những là vô lượng mà
c̣n là bảy báu trong vô lượng a tăng kỳ thế
giới! Chỉ nói đến
bảy thứ báu trên quả địa cầu này thôi th́
đă không thể tính nổi [huống ǵ là vô lượng a
tăng kỳ thế giới!]
Chữ thế giới
nói trong kinh là chỉ khu vực giáo hóa của một
đức Phật, là một đại thiên thế
giới. Gần đây lăo
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đưa ra một cách nh́n
mới, cụ cho rằng những ngân hà như chúng ta
biết hiện nay không phải là một đại thiên
thế giới, mà chỉ là một đơn vị
thế giới. Nếu tính
[ngân hà là một] đơn vị thế giới th́
một đại thiên thế giới lớn vô cùng, không
thể tưởng tượng nổi. Thông thường trong một
tiểu thiên thế giới có một ngàn đơn vị
thế giới, nói một cách khác 1000 hệ ngân hà mới
là một tiểu thiên thế giới. Lại dùng một tiểu thiên
thế giới làm đơn vị, 1000 tiểu thiên
thế giới bằng 1 trung thiên thế giới, 1000 trung
thiên thế giới bằng 1 đại thiên thế
giới. Nếu dùng cách tính này
th́ 1000x1000x1000 bằng 10 ức hệ ngân hà, đây mới
là một đại thiên thế giới.
Phước đức
của việc bố thí hết thảy ‘bảy báu trong vô
lượng a tăng kỳ thế giới’ bao lớn? Thiệt là không thể tính
đếm nổi. Có rất
nhiều bạn đồng tu muốn bố thí tu
phước, cho dù bố thí hết thảy báu vật trên
trái đất này th́ cũng quá ít [so với bảy báu trong
vô lượng a tăng kỳ thế giới]! Đức Phật nói ‘Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân phát
bồ đề tâm’; dựa trên ‘Tam phước’ nói
trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật th́ tiêu chuẩn
của ‘thiện’ là phải thực hiện
được ‘Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm không sát [hại sanh vật], tu thập thiện
nghiệp’, đây là thiện nam tử, thiện nữ
nhân ở cơi nhân, thiên. Từ
cơ sở này cộng thêm ‘Thọ
tŕ tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai
nghi’ tức là thiện nam tử và thiện nữ nhân
[theo tiêu chuẩn] của Tiểu thừa. Thiện nam tử và thiện
nữ nhân nói trong kinh Đại thừa phải thêm bốn
câu: ‘Phát Bồ Đề tâm, tin sâu
nhân quả, đọc tụng Đại thừa, khuyến
tấn hành giả’. Kinh này
là kinh Đại thừa, phải làm đầy đủ 11
điều trong Tam Phước nói trên th́ tức là
‘thiện nam tử, thiện nữ nhân’ nói trong kinh Kim
Cang. [Tóm lại] chữ
thiện nam tử và thiện nữ nhân trong kinh
điển Tiểu thừa và Đại thừa đều có
tiêu chuẩn đàng hoàng chứ không phải nói bừa.
‘Người
thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát Bồ Đề
tâm’ tức là phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam
Bồ Đề và cũng là phát tâm rộng lớn ‘chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ’.
Hiện nay chúng ta học Phật là rất tốt,
rất hiếm có, nhưng phải nhận thức rơ trong
thế gian và xuất thế gian cái ǵ mới là chơn, cái
ǵ là giả. Phải có
đủ khả năng phân biệt tà chánh, thị phi,
thiện ác, lợi hại th́ mới gọi là người
giác ngộ. Chữ ‘ngu si’
thường được dùng trong kinh nghĩa là ‘điên
đảo’, xem đồ giả thành đồ thiệt,
xem điều ác thành điều thiện. Không những không thể phân
biệt những vấn đề lớn, thậm chí
đến những quan hệ, lợi hại nhỏ nhoi
cũng không thể phân biệt, trong kinh dùng danh từ
‘người đáng thương hại’ để mô
tả những người này.
Chúng ta có thiệt t́nh phản tỉnh không, có phải
là người đáng thương này không, có phát tâm Bồ
Đề chân thật không?
Tôi nhớ lúc học
lớp 2, lớp 3 trong trường tiểu học, v́ phá
phách nên bị thầy phạt, bị thầy đánh, c̣n
bị phạt quỳ nữa, đương nhiên cũng
khóc sướt mướt.
Lúc về nhà ba má tra hỏi mới biết ở
trường tôi bị thầy giáo xử phạt. Hôm sau cha tôi đem lễ vật
đến thăm thầy, cám ơn thầy đă dạy
dỗ cho tôi. Tôi nh́n thấy
nên sau này khi bị thầy giáo phạt, khi về nhà không
đời nào chịu nói ra.
Hiện nay sự giáo dục thay đổi rồi,
nếu học tṛ bị thầy giáo trừng phạt, cha
mẹ học sinh sẽ đi thưa cảnh sát, c̣n
muốn thưa ra toà, thế nên ngày nay làm thầy giáo không
ai dám răn dạy học sinh, không c̣n kiếm
được những thầy giáo thật ḷng dạy
học sinh. Ngày nay đạo
lư thầy tṛ không c̣n nữa, đây là sự đau buồn
đáng tiếc của tất cả chúng sanh trong thời
đại này; trẻ em, thiếu niên không được
sự dạy dỗ đàng hoàng th́ không phải là một
chuyện tốt. Những
lời dạy của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc
thời xưa viết bằng lối văn ‘Văn Ngôn’,
người đời nay xem không hiểu; những lời
dạy và kinh điển của Phật, Bồ Tát cũng
xem không hiểu, như vậy phải làm sao? Chúng ta phải phản tỉnh
kỹ càng, phải nên giác ngộ!
Phật dạy: ‘Người thiện nam tử,
thiện nữ nhân, phát tâm Bồ Đề phải nên tŕ kinh
này’, cho dù không thể thọ tŕ hết bộ kinh này, th́
cũng nên ‘thọ tŕ chỉ bốn câu kệ’, quan
trọng ở chữ ‘thọ tŕ’.
‘Thọ tŕ, đọc tụng, diễn thuyết cho
người khác, phước báo đó vô cùng thù
thắng’. Câu kinh này vô cùng quan
trọng và cũng khẳng định nếu có thể
hiểu được và phụng hành, phước báo tu
được sẽ lớn hơn người bố thí
thất bảo khắp vô lượng a tăng kỳ
thế giới. Đích thật là
to lớn hơn, không giả dối tí nào.
‘Thọ’
tức là tiếp thọ; ‘tŕ’ nghĩa là giữ ǵn,
đừng đánh mất. Ư
nghĩa của chữ ‘Thọ’ bao gồm hiểu rơ,
hiểu đúng đắn ư nghĩa của kinh
điển, đồng thời có thể ứng dụng
nghĩa kinh vào đời sống sanh hoạt thường
ngày, nghĩa là sanh hoạt trong ‘Trí Huệ Kim Cang Bát Nhă’,
phước báo này to lớn dường nào! Cho dù phước báo của
người trong thế gian có lớn đến mấy,
họ cũng chỉ sinh sống trong phiền năo, không
thể nào sánh bằng.
Người có phiền năo th́ tương lai vô cùng đen
tối, đầy đủ Trí Huệ Kim Cang Bát Nhă th́
tương lai xáng lạn.
‘Thọ tŕ’ tức là y giáo phụng hành, làm
được hoàn toàn trong đời sống sanh hoạt
thường ngày. Thí dụ
đức Phật Thích Ca biểu diễn ăn cơm,
mặc áo đều là Kim Cang Bát Nhă. Lúc xử thế, đối
người, tiếp vật, từng ly từng tí
đều áp dụng Trí huệ Kim Cang Bát Nhă Ba La
Mật. Được vậy
mới gọi là ‘thọ tŕ Kim Cang Bát Nhă’, sanh sống
một đời sống ‘Kim Cang Bát Nhă’.
‘Diễn thuyết cho
người khác’: diễn và thuyết là hai việc khác nhau,
dụng ư đều là để giáo hóa chúng sanh. Diễn là biểu diễn, làm
gương tốt cho người ta xem, làm cho người
ta ngưỡng mộ, ưa thích và nhờ vậy phát tâm
học Phật pháp. Thuyết
là thuyết minh, giải thích cho người khác. Người ta nh́n thấy
đời sống của bạn hạnh phúc vui vẻ
như vậy, nhất định sẽ lại hỏi
thăm, nhân dịp này bạn giới thiệu Phật pháp
cho họ, làm cho họ cũng có thể phá mê khai ngộ,
ĺa khổ được vui.
Phật pháp là ‘sư đạo’, chỉ nghe nói
việc đi học chứ chưa nghe nói việc
[thầy] đi dạy.
Học là học sinh đi cầu học; nếu
bạn không cầu mà ông thầy đến dạy bạn,
như vậy là sai lầm (không hợp lư). Chúng ta phải làm gương
tốt cho người ta xem, đây tức là ‘duyên’, tức
là giới thiệu, phát triển rộng ra.
2. Hoằng
pháp phải địa phương hóa và hiện
đại hóa
Chư Phật, Bồ Tát
thuyết pháp tùy theo căn cơ, căn cơ của chúng
sanh không giống nhau, sai khác rất lớn, cho nên Phật
mới mở vô lượng pháp môn để phù hợp cho
mỗi loại căn cơ khác nhau. Nếu không biết điểm
này, không những tự ḿnh học Phật đến
nỗi sai lầm, nếu dạy người ta th́ cũng sẽ
dạy sai. Trong suốt 37
năm giảng kinh tôi thường thường nhắc
đến điểm này nhưng nhiều người
cũng không thể hội, không giác ngộ. Kinh Kim Cang nói rất rơ ràng: ‘Phật không có pháp nhất
định nào để nói, Phật không có pháp để
nói’. Phật đều ‘ứng cơ nhi thuyết’ (tùy
theo trường hợp, căn cơ mà thuyết), ‘nói mà
không nói’.
V́ thời xưa và
thời nay khác nhau, đông tây chẳng đồng, nên
Phật pháp cần phải ‘hiện đại hóa’ và
‘địa phương hóa’, được vậy mới
có thể đem lại lợi ích cho đa số chúng sanh
hiện nay. Hơn 2000 năm
trước (năm 67 sau công nguyên), Phật giáo chính
thức truyền đến Trung Quốc, lúc đó Hán Minh
Đế phái sứ giả đến Tây Vực, đón
mời 2 vị cao tăng Ấn Độ: Ma Đằng và Trúc
Pháp Lan đến Trung Quốc.
Hai vị pháp sư này rất có trí huệ, sau khi
đến Trung Quốc họ liền Trung Quốc hóa (thay
đổi để thích hợp với người Trung
Quốc). Họ ăn mặc
và sinh sống theo kiểu dân bản xứ, đây gọi
là sinh hoạt Trung Quốc hoá.
Lúc đó nếu họ vẫn sanh hoạt theo cách
thức và văn hóa Ấn Độ, người Trung Quốc
sẽ không tiếp nhận một cách dễ dàng. Do đó khi họ vừa
đến Trung Quốc liền thay đổi, họ
hiểu được [sự quan trọng của nguyên lư]
‘bổn thổ hoá’ và ‘hiện đại hoá’. Kiến trúc của đạo
tràng được xây dựng bắt chước theo cung
điện vua chúa, người Trung Quốc nh́n thấy
rất ưa thích! Người
Trung Quốc thời xưa rất tôn trọng vua chúa,
đạo tràng Phật giáo được xây giống cung
điện th́ không ai chẳng thích đi vào.
Chúng ta hăy xem
những năm gần đây Phật giáo từ Trung
Quốc được truyền đến Mỹ,
kiến trúc [của đạo tràng] vẫn c̣n dùng kiến
trúc của cung điện Trung Quốc thời xưa làm
cho người Tây phương vừa nh́n thấy liền
tránh né v́ họ nghĩ đây là văn hóa ngoại lai, không
muốn chấp nhận. [Cho
nên] ở Mỹ phải xây đạo tràng giống ṭa
Bạch Cung vậy, người Âu Mỹ nh́n thấy
sẽ vui thích đi vào; tượng Phật phải đúc
giống gương mặt của người Mỹ,
cũng như tượng Phật ở Trung Quốc
giống người Trung Quốc, ở Nhật giống
người Nhật, ở Tây Tạng giống
người Tây Tạng, tượng Phật ở Thái Lan
có cằm nhọn nhọn giống người Thái Lan.
Mấy năm
trước tôi giảng kinh ở Miami, có người
Mỹ đến nghe, tôi nói với họ: ‘Phật giáo
chưa truyền đến Mỹ quốc’. Họ rất ngạc nhiên! Tôi giải thích [bằng câu
hỏi]: ‘Quư vị xem có tượng Phật nào có
gương mặt giống người Mỹ không?’. Chư Phật, Bồ Tát không có
gương mặt nhất định, biến hóa tùy theo
tâm niệm của chúng sanh, chúng sanh chịu dùng thân ǵ
để được độ th́ Bồ Tát sẽ
hiện ra thân đó, như vậy mới có thể phổ
độ chúng sanh. Chúng ta
đến chỗ này nếu chỉ độ người
Trung Quốc hoặc Hoa kiều không th́ chẳng có ư
nghĩa ǵ cả. Xây dựng
đạo tràng ở chỗ nào th́ phải độ hóa
chúng sanh ở nơi đó, thế mới là hoằng pháp
lợi sanh. Cho nên chúng ta xây
dựng đạo tràng ở đây phải dùng kiến
trúc của Mỹ. Chúng ta xây
dựng đạo tràng như vậy nếu không có sự
biểu quyết của hội đồng thành phố
(city hearing), những người hàng xóm chung quanh cũng
sẽ vui vẻ, không phản đối. Chúng ta dùng phương pháp dễ
hiểu rơ ràng, giới thiệu Phật pháp cho người
địa phương th́ họ sẽ hoan hỷ tiếp
nhận.
3. Cành cũ lá mới, tùy duyên
thuyết pháp
Từ xưa đến
nay số người viết chú giải cho kinh Kim Cang không
dưới 500 người, mỗi người viết chú
giải đều không giống nhau. Nếu hết thảy đều
giống nhau th́ làm sao lưu truyền đến
đời sau? Chú giải không
giống nhau tức là dùng cách nói khác nhau. Hết thảy 500 cách chú giải
kinh Kim Cang đều không sai v́ Phật không có định
pháp có thể nói. Cho nên chúng ta
xem chú giải phải biết cách xem, trong chú giải
đời Đường sẽ dùng cách giải thích cần
thiết cho [người] đời Đường. Kinh Phật là toa thuốc,
người đương thời có bịnh ǵ, viết
toa thuốc này có thể chữa lành bịnh cho họ (phá
mê khải ngộ) th́ đó là pháp dược hạng
nhất. Bịnh của
người đời Tống khác người đời
Đường. Phương pháp
chữa cho người đời Đường chữa
không hết bịnh của người đời Tống,
thế nên những đại đức đời
Tống cần phải có một cách nói khác để
chữa bịnh cho người đời Tống. Nếu quư vị hiểu
đạo lư này th́ sẽ biết tật bịnh, tập
khí của chúng sanh trong mỗi thời đại khác nhau
nên phương pháp chữa trị cũng khác nhau. Ngày nay nếu chúng ta đọc
chú giải thời xưa không đạt được
lợi ích là v́ ḿnh không biết đọc; nếu biết
đọc th́ khi đọc chú giải thời xưa
sẽ kiếm được ư nghĩa mới, từ ư
cũ t́m ra ư mới, như vậy gọi là ‘khai ngộ’.
Kinh Kim Cang giống
như một cây cổ thụ, một cây cổ thụ
mấy ngàn năm luôn luôn sống măi, mỗi năm mọc
ra cành mới, năm nào cũng mọc ra hoa mới, trái
mới. Cành lá cũ thuộc
về đời trước, cành lá mới thuộc
về đời hiện nay; nhờ cách giải thích cũ
t́m ra phương pháp mới.
Nếu không hiểu đạo lư này th́ làm sao hiểu
kinh, làm sao có thể giải thích cho người khác. Cho nên thời đại,
địa phương khác nhau sẽ có cách giải thích,
cách nói khác nhau. Đối với
người Trung Quốc tôi có cách nói như vầy,
nhưng đối với người Mỹ th́ tôi có cách
nói khác, đối với người Nhật th́ lại có
cách nói khác nữa. Cùng một
bộ kinh gặp người th́ nói tiếng của
người, gặp quỷ th́ nói tiếng của quỷ,
thế th́ người và quỷ đều đạt
được lợi ích. Những
ǵ dùng để giải thích và nói cho người nghe th́
không độ được quỷ, những ǵ dùng
để giải thích và nói cho quỷ th́ không độ
được người (không thể dùng để
giải thích cho người được).
Thí dụ rơ ràng nhất
là cùng một kinh Kim Cang khi tôi giảng giải cho tín
đồ Cơ Đốc giáo hoàn toàn phù hợp với ‘Tân
Cựu Ước’ của họ; khi tôi giảng giải
cho tín đồ Hồi giáo nhất định phải phù
hợp với kinh Coran của họ. Pháp không có đối nghịch
lẫn nhau, vô cùng hoạt bát uyển chuyển. Ai nghe xong cũng đều vui
vẻ và tiếp nhận, đây là chỗ mà Phật pháp đáng
cho người ta khâm phục.
Phật pháp là pháp viên dung, đối với tất
cả chúng sanh, tất cả chủng tộc, thậm chí
tất cả tôn giáo tín ngưỡng đều không có xung
đột. Nếu có xung
đột là v́ bạn không hiểu rơ Phật pháp. Tu học Phật pháp phải hiểu
rơ lư luận th́ mới đạt được lợi
ích, mới có thể phát triển, đem ích lợi
đến cho tất cả chúng sanh.
4.
Ăn chay
vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm
(bảo vệ sinh thái, bảo vệ tánh đức,
bảo vệ tâm tánh)
Hiện nay nhiều
người thường gặp phải khó khăn trên
phương diện ăn uống.
Khi bạn học Phật, đă ăn chay trường,
nhưng người nhà chưa học Phật. Lúc bạn chưa học Phật
cả nhà đều ḥa thuận nhưng sau khi bạn
học Phật, trong nhà mỗi ngày đều v́ vấn
đề ăn uống mà căi lộn làm cho cả nhà không
vui. Người hàng xóm nh́n
thấy như vậy sẽ khuyên mọi người
đừng học Phật và nói rằng học Phật
sẽ phá hoại hạnh phúc gia đ́nh. [Người ăn chay này do
vậy đă] phá hoại Phật pháp mà cứ tưởng
ḿnh có công đức. Tam
Phước dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ là
cơ sở cho người học Phật; ‘hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư
trưởng’ tức là hiếu thuận, nếu không
thể tùy thuận theo cha mẹ th́ là bất hiếu. Học Phật phải có trí
huệ trong lúc tùy thuận phải giải thích rơ, làm cho
họ thay đổi, cần phải có sức nhẫn
nại lớn lao, cần phải có phương pháp khéo
léo. Nếu vừa mở miệng
liền nói: ‘Quư vị ăn thịt, tương lai
phải trả nợ này’, người ta vừa nghe
liền sanh phản cảm, làm sao có thể nghe theo lời
khuyên được!
Ăn chay đối
với việc vệ sinh đích thực có rất
nhiều lợi ích. Đặc
biệt là hiện nay chất độc trong thịt cá
rất nhiều nên người ta thường mắc
phải nhiều bịnh kỳ quái. [Người xưa có câu:] ‘Bịnh từ miệng vào’;
những tâm niệm tham, sân, si, mạn, vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước đều
là nguồn gốc của bịnh tật. Thức ăn là duyên. Có nghiệp nhân lại cộng
thêm nghiệp duyên th́ sẽ sanh ra bịnh tật (tất
cả bịnh tật là quả báo). Từ đời Lương Vơ
Đế trở về trước, người xuất gia
ở Trung Quốc cũng ăn thịt. Việc ăn chay là do Lương
Vơ Đế đề xướng, ông dùng oai quyền của
ông vua nhiệt tâm khởi xướng chuyện ăn chay
cho nên từ đó những người theo Phật giáo ở
Trung Quốc bắt đầu có thói quen ăn chay. Ăn chay đích thật có
nhiều ích lợi, nhưng chẳng phải không ăn chay
th́ không thể thành Phật.
Lúc trước thầy
Lư ở Đài Trung dạy chúng tôi khi tiếp dẫn
người sơ cơ phải ghi nhớ 2 việc:
việc thứ nhất tuyệt đối không khuyên
người ta ăn chay, thứ hai tuyệt đối
không khuyên người ta thọ giới. V́ khi nghe nói học Phật
phải ăn chay sẽ gây chướng ngại cho rất
nhiều người không dám học Phật, như vậy
sẽ cắt đứt cơ duyên học Phật của
họ mất hết, tội này rất nặng. Thọ giới rồi nếu phá
giới th́ tội tăng thêm một bậc. Nếu không thọ giới th́
sẽ không phạm tội phá giới; nếu thọ
giới xong tự nhiên kết tội nặng hơn. [Phương pháp] đức
Phật dạy chúng ta đều có thứ tự đàng
hoàng, khi cảnh giới nâng cao lên một bậc th́
giới cấm cũng khai mở thêm một chút, giống
như khi học trong trường vậy. Quy tắc, quy củ của
lớp tiểu học rất nhiều, đến trung
học th́ giảm bớt một chút v́ trí huệ [của
học sinh trung học] đă phát triển; đến
đại học th́ hầu như hoàn toàn mở rộng,
hết giới cấm, v́ [học sinh đại học]
đă hiểu chuyện rồi, rất nhiều việc g̣
bó, quản thúc đă được bỏ [v́ không cần
thiết nữa], Phật pháp cũng giống như
vậy. Trong ngũ thừa
Phật pháp: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa,
Duyên giác thừa, Bồ tát thừa, tinh thần của giới
Bồ Tát và giới Tỳ Kheo hoàn toàn khác nhau.
Học Phật phải
hiểu lư, pḥng ngừa không bị bịnh, thân tâm khỏe
mạnh, tự tại vui vẻ. Thân tâm của bạn khỏe
mạnh th́ người nhà sẽ vui thích v́ họ không
cần phải đặc biệt lo lắng cho bạn. Nếu người học
Phật mà cứ bị bịnh hoài, khi người nhà nh́n
thấy bạn nhăn nhó, âu sầu [có thể sẽ] làm
cho người ta sợ không dám học Phật, thế th́
sai lầm quá đỗi.
Không cần phải
đề cập đến lợi ích và nhân quả báo
ứng của việc ăn chay, đây là một chuyện
mà nhiều người bắt đầu học Phật
thường gặp phải khó khăn và chống
đối. Chúng ta có thể
giải thích rơ ràng bằng những lư do [thông thường]
mà họ có thể chấp nhận.
Phần đông người ta đ̣i hỏi việc
ăn uống phải vệ sinh, không ăn những
thức ăn dơ bẩn và hư thối. Không những chúng ta đ̣i hỏi
vệ sinh mà c̣n phải ‘vệ tánh’. Tánh tức là tánh t́nh lương
thiện. Người theo
Hồi giáo (Islam) dạy người ta không ăn những động
vật có tánh t́nh không tốt, sự lựa chọn của
họ kỹ càng hơn phần đông người
khác. Sự ăn uống trong
Phật giáo c̣n cao minh hơn Hồi giáo, đệ tử
Phật phải có tâm từ bi, không ăn thịt tất
cả chúng sanh, v́ vậy việc ăn uống trong
Phật giáo là vệ sinh, vệ tánh, và vệ tâm. Họ có thể hiểu những
lư luận này mà không khởi lên phản cảm. Thói quen của việc ăn uống
trong Phật giáo rất tốt, rất uyển chuyển
hoạt bát, và ‘thông quyền đạt biến’ -- có
thể biến chuyển tùy theo trường hợp mà không
phải chỉ là những giới điều cứng
ngắc.
‘Diễn thuyết cho
người khác’ có một nguyên tắc rất quan
trọng, trong kinh đức Phật đă dạy chúng ta ‘không chấp vào tướng,
như như bất động’ [22],
ư nghĩa này vô cùng sâu rộng.
Trong sinh hoạt thường ngày bất cứ
chuyện ǵ chúng ta đều không chấp tướng. Phần trước trong kinh này
dạy chúng ta ‘ưng vô sở
trụ, nhi sanh kỳ tâm’,
thế pháp và Phật pháp đều không nên chấp
trước, không nên giữ chặt trong tâm. Không chấp vào tướng là ‘tu
đức’, như như bất động là ‘tánh
đức’. Nếu không có công
phu tu tập th́ làm sao kiến tánh được? Chúng ta dùng phương pháp ‘không
chấp vào tướng’ để chứng được
chân tâm ‘như như bất động’. Đây là cương lĩnh tu học
mà đức Phật dạy chúng ta từ lúc sơ phát tâm
măi cho đến khi thành Phật.
5.
Vũ
trụ nhân sanh chỉ là mộng huyễn bọt bóng
Lúc chúng ta khởi tâm động niệm, vọng tưởng, chấp trước đều là trước tướng, thủ (nắm giữ) tướng. Tại sao không nên thủ tướng, không nên chấp tướng? Đoạn cuối kinh này đức Phật dùng bốn câu kệ để giải đáp vấn đề, nói rơ đạo lư tại sao như vậy:
Nhất thiết hữu vi
pháp,
Như mộng huyễn bào
ảnh,
Như lộ diệc như
điển,
Ưng tác như thị quán
(Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn,
bọt, bóng
Như sương cũng
như chớp,
Nên quán sát như vậy)
‘Hữu vi pháp’ là
những pháp ‘có sanh có diệt’.
Tất cả động vật có sanh, lăo, bịnh,
và tử, thực vật có sanh, trụ, dị, và diệt,
khoáng vật có thành, trụ, hoại, và không, tất cả
đều là hữu vi pháp.
Nếu chúng ta b́nh tĩnh quan sát [th́ sẽ thấy]
hầu như những ǵ sáu căn tiếp xúc đều là
pháp hữu vi. Nếu quư
vị học Duy Thức th́ có thể giải thích những
vấn đề này rất dễ dàng. Trong quyển Bách Pháp Minh Môn
Luận của Duy Thức nhập môn, Thiên Thân Bồ Tát quy
nạp tất cả các pháp thành 100 loại. Nói thật ra 100 pháp này bao gồm
tất cả vô lượng vô biên pháp trong thế gian và xuất
thế gian, và lại có thể chia thành 5 loại.
Loại
thứ nhất là ‘Tâm pháp’,
có 8 thứ gọi là tám thức, tám tâm vương.
Loại
thứ nh́ là ‘Tâm sở hữu
pháp’, tức là tác dụng tâm lư, hiện tượng tâm
lư, lại chia thành 51 thứ.
Loại
thứ ba là ‘Sắc pháp’,
tức là vật chất, gồm có 11 thứ. Những ngoại cảnh mà sáu
căn tiếp xúc: những ǵ mắt thấy, những ǵ
tai nghe, thân cảm nhận, lưỡi nếm, mũi
ngửi, tất cả cảnh giới đều dùng
‘sắc’ để tượng trưng.
Loại
thứ tư là ‘Tâm bất
tương ưng hành pháp’, triết học ngày nay
gọi là khái niệm trừu tượng, gồm có 24
thứ. Tổng cộng
những thứ trên thành 94 thứ, đều gọi là
‘pháp hữu vi’.
Loại
thứ năm là ‘Vô vi pháp’,
gồm có 6 thứ. ‘Tất
cả hữu vi pháp’ là chỉ 94 thứ này, bao gồm
tất cả pháp trong thế gian và xuất thế gian. Thế gian là chỉ lục
đạo, xuất thế gian là chỉ Tứ Thánh pháp
giới – Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, và Phật. Lục đạo và thập pháp
giới đều không vượt ra ngoài phạm vi
này. Không những pháp thế
gian giống như mộng huyễn, bọt, bóng, mà pháp
giới của Tứ Thánh cũng như mộng huyễn,
bọt, bóng, thế nên mới dạy chúng ta Thế pháp và
Phật pháp đều không thể trụ, và cũng không
thể thủ (nắm lấy).
Nếu trụ vào Phật pháp, bám víu Phật pháp th́
cũng sai luôn. Thí dụ trong
bài kệ này có 6 chữ: ‘mộng’ là thí dụ chung. Không những đời
người như mộng, trời cũng như mộng,
Phật, Bồ Tát trong thập pháp giới cũng như
mộng. Nếu bạn cho là
thật th́ sai lầm quá đỗi.
Tại sao có sự khác
biệt to lớn giữa y báo, chánh báo trang nghiêm của
thập pháp giới?
Kinh nói: ‘Hết thảy thánh hiền đều v́ pháp vô vi mà
có sự sai khác’. Câu này nói
rơ Phật, Bồ Tát, thập pháp giới, lục
đạo luân hồi từ đâu đến, đến
như thế nào. Lục
đạo luân hồi là v́ ‘pháp hữu vi’ mà có sự sai
khác. Tứ thánh pháp giới
từ Pháp Thân Đại Sĩ, Viên Giáo Sơ Trụ cho
đến Diệu Giác, 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ
đều là v́ ‘pháp vô vi’ mà có sự sai khác. Do đó có thể biết lục
đạo, thập pháp giới là v́ pháp hữu vi mà có
sự sai khác. Pháp hữu vi
tức là ‘nhân duyên quả báo’.
Vạn pháp đều
không, chỉ có nhân quả chẳng không, đây là chân
tướng của vũ trụ nhân sanh.
Tại sao lại nói ‘nhân
quả chẳng không’?
Nhân là năng biến,
thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm là quả báo
sở biến. Hết
thảy sự khởi tâm động niệm đều là
đang tạo nhân, đều là đang tạo tác. Đừng nói đến ngôn ngữ,
động tác, [chỉ cần] động một tâm
niệm cực kỳ nhỏ bé th́ đă có tạo tác
rồi. Đức Phật dùng
‘mộng’ để thí dụ, trong mộng có những
sự việc này, có hiện tượng nọ, nhưng
sự việc và tướng trong mộng đều là
giả. Nếu chúng ta có
thể xem tất cả pháp như mộng, huyễn,
bọt, bóng th́ sẽ không tạo nghiệp, tâm sẽ
định, sẽ thanh tịnh.
Định có thể sanh huệ, ‘ḷng tin thanh tịnh ắt sanh thật tướng’,
tánh đức của tự tánh tự nhiên xuất
hiện, mới đạt được sự thọ
dụng chân thật trong sanh hoạt thường ngày.
‘Huyễn’ ví như hư
không. Hư không như
huyễn, chẳng phải chân thật. Nhà Phật thường nói ‘minh
tâm kiến tánh’, người kiến tánh không có đen
tối. Nếu đă nh́n
thấy toàn là ánh sáng th́ đă kiến tánh; nếu mở
mắt ra mà nh́n thấy đen tối th́ chưa kiến
tánh, tại v́ c̣n kẹt trong vô minh.
Sau khi phá vô minh rồi th́ thiệt là nh́n thấy
‘đại quang minh tạng’.
Tự tánh là quang minh, tự tánh mê mờ th́ biến
thành một màn đen tối, cho nên xưng là ‘vô minh’.
Hư không là cảnh
giới trong mộng. Lúc chúng
ta nằm mộng, trong mộng cũng có hư không, lúc tỉnh
dậy, chẳng thấy hư không, thế nên hư không
chẳng phải thiệt. Khoa
học gia ngày nay rất thông minh, cũng đă thể
hội được rằng hư không là có giới
hạn; ngày xưa cứ tưởng rằng ánh sáng đi
theo đường thẳng, ngày nay biết
được ánh sáng là có cường độ. Có cường độ tức
là có sai biệt, tức là không phải lớn vô hạn,
nghĩa là có giới hạn, có phạm vi. Thế nên đức Phật dùng
‘huyễn’ ví cho hư không.
‘Bọt’ ví cho thế
giới. Thí dụ tinh cầu
rất yếu mềm, cũng giống như bọt
nước, rất dễ vỡ tan. [Khoa học gia] dùng viễn
vọng kính hiện đại để quan sát, mỗi
ngày đều phát hiện thấy tinh cầu mới và
cũng thấy rất nhiều tinh cầu bị huỷ
diệt, thế giới này không phải thật. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác
đức Phật nói ‘quốc
độ mong manh’, [thế th́] có ǵ phải tranh giành,
tính toán, chấp trước nữa? Nếu nh́n thấy và hiểu rơ
chân tướng sự thật th́ tự nhiên sẽ buông
xả. Sau khi buông xả
rồi, cái niềm vui vẻ khinh an (thong dong, thảnh
thơi), tự tại, khoái lạc, cho dù tôi có thể
diễn tả được th́ quư vị cũng không
thể tưởng tượng ra.
Nhất định phải buông xả th́ mới
thể hội (nhận biết) được; nếu
không chịu buông xả th́ vĩnh viễn sẽ không
thể hội được niềm vui sướng chân
thật. [Hết thảy]
sự khổ đều do ḿnh tự tạo ra, buông xả
được th́ sẽ có trí huệ chân thật, th́
mới hiểu rơ ràng chân tướng sự thật.
‘Bóng’ ví như thân
thể. Bóng là giả, không
thật.
‘Mộng, huyễn, bọt, bóng’ mỗi chữ ví
cho một sự vật và đều nói rơ tất cả
hư không, thế giới, thân thể đều là giả
tạo, không có một thứ nào là thiệt. Mỗi ngày v́ cái thân giả này
tạo nghiệp, bạn nói có oan uổng hay không? Tại sao chúng ta lại làm cái
việc ngu xuẩn này! Thí
dụ như trong việc ăn uống, rất nhiều
người thích ăn sinh vật sống. Chỉ v́ ba tấc lưỡi,
thiệt ra sau khi nuốt vô cuống họng rồi th́ không
biết mùi vị chi nữa, nhưng v́ mùi vị của cái
lưỡi này mà tạo ra tội nghiệp nặng nề,
vả lại mỗi ngày đều tạo nghiệp
nặng, tạo măi cho đến hết cuộc đời! Sau khi chết đi, đến
đời nào kiếp nào mới có thể trả
hết? Đây đều là chân
tướng sự thật, người thế gian không
tin, mê hoặc điên đảo.
Học Phật ở mức độ thấp
nhất phải hiểu rơ ràng, thấu suốt những lư
luận, trạng huống của nghiệp nhân, quả
báo. Không những phải rơ
ràng trong đời này, mà c̣n biết quá khứ, vị lai,
chuyện này không phải là thần thông. Nếu tâm có thể đạt được
vài phần thanh tịnh, th́ tự nhiên sẽ minh liễu
(hiểu rơ), không cần phải hỏi người ta. Hỏi người ta rất
đáng sợ v́ đời nay rất ít người nói
thiệt mà gạt người th́ rất nhiều. Nói láo th́ bạn vui vẻ [thích
nghe], nói thiệt th́ bạn nổi giận không thích nghe,
không chịu nghe. V́ vậy cho
nên ai chịu nói thiệt với bạn? Đây là sự bi ai của
người đời nay!
‘Như
sương cũng như chớp’ thí dụ cho thời
gian tồn tại của hiện tượng dài hay
ngắn. ‘Sương’ là
hơi nước đọng lại [vào buổi sáng
sớm] có thời gian tồn tại khá dài, cỡ khoảng
mấy chục phút, sau khi mặt trời mọc th́
sương sẽ tan. Đây là thí
dụ cho sự tương tục, tiếp nối của
các pháp, h́nh dung thời gian tồn tại không lâu dài. Một người từ lúc sanh
ra đến lúc mất đi, sinh sống trên thế
giới này được vài chục năm ngắn
ngủi, thọ mạng ngắn th́ khoảng hai ba chục
năm, dài th́ bảy tám chục năm; [ai có thể
sống đến] trăm tuổi th́ rất hiếm hoi,
đều là những người trong đời quá
khứ và hiện tại đă tạo ra rất nhiều
nghiệp thiện. Chớp
tức là điện chớp, h́nh dung cho tướng sanh
diệt trong từng sát na, rất ngắn. Thí dụ như màn ảnh
chiếu phim, từ lúc bắt đầu cho đến
kết thúc kéo dài 2 giờ đồng hồ đều là
tướng tương tục tiếp nối.
‘Như
chớp’ cũng giống như từng tấm phim trong
cuồn phim. Phần đông
máy chiếu phim hiện nay chớp 24 tấm phim trong
một giây (ống kính mở
ra, chiếu một tấm xong rồi đóng lại,
mở ra chiếu tấm kế tiếp rồi đóng
ống kính lại, …) tốc độ rất nhanh, chúng ta
bị ảo tưởng này gạt và có cảm giác như
[những màn ảnh này] là thiệt [là liên tục]. Đức Phật xem tất cả
thế giới, thập pháp giới chúng sanh đều là
tướng liên tục, của từng chút từng chút
tiếp nối lại, đều không phải thiệt,
thế nên mới nói ‘bản
thể ngay lúc đó tức là không, không thể [giữ
lấy] được’ [23]. Thân thể chúng ta đến
đây nghe kinh, trải qua một giờ rưỡi
đồng hồ không biết đă thay đổi hết
bao nhiêu tấm phim! Hiện nay
không phải là tấm phim lúc ban đầu, tấm ban
đầu đă biến mất tiêu rồi, đó tức
là ‘như chớp’.
Trong kinh Nhân Vương
đức Phật nói với chúng ta một cái khảy ngón
tay có 60 sát na. Thời gian
khảy ngón tay rất ngắn, một phần sáu
mươi của thời gian khảy ngón tay gọi là ‘sát
na’; một sát na có 900 lần sanh diệt, đây là h́nh dung
ảo tượng sanh diệt nhanh như chớp. Chân tướng của những
tướng hiện ra trong thập pháp giới y báo, chánh
báo trang nghiêm đều là ‘tướng sanh diệt từng
sát na’. Nếu khảy ngón tay
thật nhanh, trong một giây có thể khảy 4 lần; 4 x
60 x 900 bằng 216.000. Màn
ảnh trên phim điện ảnh một giây đồng
hồ sanh diệt 24 lần nên chúng ta không cảm giác nó là
giả, huống hồ những hiện tượng
trước mắt chúng ta mỗi giây có đến hai
trăm mười sáu ngàn lần sanh diệt. Đức Phật nói ‘vạn pháp đều là không, không thể [nắm
giữ] được, đúng là như vậy’ [24]. Sau khi hiểu rơ chân tướng
sự thật th́ tự nhiên không tạo nghiệp nữa,
tâm tự nhiên sẽ định trở lại. Tâm định được th́
mới sanh trí huệ chân thực, mới hiểu rơ ràng minh
bạch chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Tuy đức Thế Tôn nói
một sát na có 900 sanh diệt, nhưng v́ thời gian sanh
diệt quá nhanh, nh́n không thấy sự sanh diệt này nên
đức Phật mới nói ‘chẳng sanh, chẳng
diệt’. Thiệt ra có
phải là chẳng sanh, chẳng diệt hay không? Đích thực là có sanh có diệt
đấy; nhưng tốc độ quá nhanh – ‘sanh diệt
đồng thời’, v́ vậy nên dùng ‘điện’
để thí dụ cho việc này.
Vận tốc của
điện cùng vận tốc ánh sáng gần bằng
nhau. Vận tốc ánh sáng là
300 ngàn km một giây, nghĩa là [ánh sáng] đi qua một kí
lô mét cần một phần 300 ngàn của một giây. Từ đây mà suy đoán
[thời gian đi qua] 1 mét, 1 cm, 1 mm, một phần
mười mm, một phần trăm mm, một phần
ngàn mm, một phần vạn mm, [cứ thế mà tính] th́
mới thể hội được việc ‘sanh diệt
từng sát na’ nói trong kinh Phật, mới hiểu
được danh từ ‘không sanh không diệt’ nói trong kinh
Phật, -- nó đích thực có sanh có diệt, nhưng v́
thời gian quá ngắn, chúng ta không thể nào phát hiện
được. Trong kinh
điển Đại thừa đức Phật nói
người có thể quan sát được hiện
tượng này là ‘Bát Địa Bồ Tát’. Định công sâu và tâm thanh tịnh
như Bát Địa Bồ Tát mới có thể nh́n thấy
những ba động vi tế (làn
sóng nhỏ bé) này (hiện
tượng sanh diệt từng sát na). Phật pháp nói y báo, chánh báo trang
nghiêm trong thập pháp giới đều chỉ là hiện
tượng của những làn sóng mà thôi. Tŕnh độ càng lên cao th́ làn sóng
từ tâm của chư Phật, Bồ Tát càng nhỏ bé,
càng đi xuống th́ tần số của những làn sóng
trong tam ác đạo càng lớn.
Không kể tần số lớn hay nhỏ, tất
cả đều là hiện tượng tương
tục của làn sóng với vận tốc một phần
ức vạn của một giây, đây mới là chân
tướng của vũ trụ nhân sinh. Lời nói của đức
Phật câu nào cũng chân thật.
Thế giới này không chân thật, nếu coi tất
cả hiện tượng đều là chân thật th́ là
mê hoặc điên đảo, sai lầm quá đỗi. Hiểu rơ chân tướng mới
chịu buông xả, mới không c̣n để những
thứ này trong tâm; tất cả mọi sự việc
đều tùy duyên chớ không phan duyên, nhất quyết
không làm những chuyện điên rồ này. Nếu cứ tưởng là ḿnh
làm chuyện tốt, nhưng đây vẫn là chuyện không
tốt. Chư Phật, Bồ
Tát làm tất cả sự việc nhưng trong tâm coi
như không có việc ǵ cả, hoàn toàn không khởi tâm, không
động niệm, như vậy mới thiệt là làm
việc thiện. Hễ
những ǵ [lọt vào trong] tương đối
đều không cứu cánh viên măn.
Xa ĺa cả hai bên thiện và ác mới là chân thiện.
B. CHẤN QUANG
PHÁP VỊ
a. Quyết tâm cầu
sanh Tịnh độ
Buổi
sáng 21-12-98
Hôm nay mở đầu
Phật thất ở Dallas, pháp sư Ngộ Khải
gởi fax cho tôi hy vọng trong thời gian Phật thất
này, [tôi có thể] dùng mạng internet mỗi ngày nói
chuyện vài câu với mọi người.
Trong những năm
gần đây không kể cư trú ở đâu chúng ta
đều cảm thấy thế giới càng ngày càng không
an toàn, tai nạn xảy ra khắp nơi, vả lại càng
ngày càng nghiêm trọng. Nhân t́nh
lănh đạm, không biết ân nghĩa, không những tự
hủy diệt mà không hay không biết, lại c̣n tạo ra
những tội hủy diệt Phật pháp, hủy
diệt thế gian. Chúng ta
không nói đến người khác, chỉ nói những
người học Phật trong 4 chúng đệ tử, có
ai không tạo ra những tội này? Ngày xưa người ta tạo
tội nhẹ, ngày nay người ta tạo tội
nặng; khi tạo tội thiệt nặng nhưng tự
ḿnh lại không biết, như vậy là ngu si. Những người ngu si
hằng ngày nghe giảng kinh, hằng ngày đọc kinh,
vẫn không giác ngộ như cũ, đây là v́
‘chướng sâu nghiệp nặng’; nếu không tiêu trừ
nghiệp chướng sâu nặng này th́ tuyệt
đối không thể tránh khỏi đọa lạc vào
tam ác đạo.
1.
Cảm
niệm ân Phật, ân của hộ pháp
Nếu chúng ta muốn
cải thiện đời sống, công phu tu học
được đắc lực, biện pháp duy nhất
là phải nghe [giảng] kinh cho nhiều thiệt
nhiều. Lúc c̣n tại thế
đức Phật Thích Ca giảng kinh trên 300 hội,
thuyết pháp ṛng ră 49 năm, đức Phật Thích Ca
chưa từng hướng dẫn đại chúng niệm
Phật lần nào, hoặc tham thiền một lần nào
cả. Phải nên biết
đức Phật không hướng dẫn chúng ta tu hành là
tại v́ tu hành dễ dàng, giác ngộ khó khăn. Cũng v́ giác ngộ quá khó cho nên
đức Phật khổ tâm mỏi miệng phải
thuyết pháp mỗi ngày, khuyến đạo mỗi
ngày. Chúng sanh ngu si, tuy mỗi
ngày nghe Phật thuyết pháp nhưng vẫn mê mờ
như cũ.
Tuy vậy đức
Phật đại từ đại bi vẫn giảng kinh
mỗi ngày; chúng sanh đọa lạc trong lục
đạo th́ Phật thị hiện trong lục đạo,
vẫn đi theo không nỡ bỏ rơi, đây gọi là
‘trong nhà Phật không xả bỏ bất cứ
người nào’. Chúng sanh
tạo tội nghiệp, phỉ báng và sỉ nhục
Phật, Bồ Tát, thậm chí hăm hại các ngài, nhưng các
ngài không màng đến, vẫn thương xót chúng sanh,
giảng kinh thuyết pháp v́ chúng sanh, đây là ḷng
đại từ đại bi của chư Phật,
Bồ Tát. Đời đời
kiếp kiếp trong vô lượng kiếp qua vẫn không
bỏ rơi chúng sanh, đây là việc không phải một
số người thường có thể làm
được, từ điểm này chúng ta có thể
hiểu được ân đức của Phật là bao
lớn.
Hàn Quán
Trưởng hộ tŕ chúng ta trong suốt 30 năm, xây
dựng nền móng vững chắc cho chánh pháp. Có người nói Hàn Quán
trưởng có công và cũng có lỗi lầm, nhưng theo
tôi nghĩ th́ bà chỉ có công chứ không có lỗi lầm
chi hết. Nếu quư vị
b́nh tĩnh quan sát kỹ càng th́ sẽ biết công
đức của bà vô lượng vô biên. Đây là một vị Bồ Tát tái
lai, thị hiện cho chúng ta xem, người trong thế
gian làm sao biết được?
Trong kinh nói người
ở Tây Phương Cực Lạc thế giới cho dù
hạ hạ phẩm văng sanh đều có ‘thiên nhăn nh́n suốt, thiên nhĩ
nghe thấu, tha tâm đều biết’ [25], năng lực
của sáu căn hầu như bằng với đức
Phật A Di Đà, cho nên chúng ta khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ hành động, chư Phật, Bồ Tát nh́n
thấy rơ rơ ràng ràng. Chúng ta mong cầu văng sanh th́ khi
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ hành động
nhất định phải tương ứng, phù hợp
với lư luận và phương pháp của sự văng sanh,
điểm này vô cùng quan trọng.
Tây phương Cực Lạc thế giới là ‘Chư thượng thiện
nhân câu hội nhất xứ’ (nơi tụ tập của
các người thiện nhất), cho nên chúng ta niệm
Phật th́ cũng phải tu ‘thượng thiện’. Nếu tâm không thiện, ngôn
ngữ không thiện, cho dù một ngày niệm 10 vạn câu
Phật hiệu th́ cũng không văng sanh được. Giống như lời của hai
vị tôn giả Hàn Sơn và Thập Đắc đă nói: ‘Hét
bể cổ họng cũng luống công’ (hai vị này là
hóa thân của Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát).
2.
Nội dung
và phương pháp tu hành trong Phật điển
Chúng ta đă
phát tâm cứu ḿnh th́ cũng phải [phát tâm] cứu
người xung quanh; sự sanh hoạt và tu học
nhất định phải đúng như lư, như pháp, v́
vậy phải hiểu rơ nội dung của kinh
Phật. Nội dung này có
bốn điểm: ‘Giáo, Lư, Hành, Quả’.
Lời
dạy của đức Phật được
người đời sau ghi chép lại thành kinh
điển, những ngôn ngữ, văn tự, lời chép
trong kinh này gọi là ‘Giáo’.
Hàm ư chứa
đựng trong ‘Giáo’ gọi là ‘Lư’, ‘Lư’ này là lư luận
giải thích rơ chân tướng sự thật của vũ
trụ, nhân sinh. Chỉ có
đức Phật mới có thể nói rơ những chân
tướng sự thật này v́ đây là cảnh giới
mà đức Phật [đích] thân chứng
[được], là cảnh giới hiện lượng (đích thật từng trải qua) chứ không phải do suy đoán, vọng
tưởng.
Không
những đức Phật nói rơ ràng đạo lư và sự
thật này, Ngài c̣n dạy chúng ta phương pháp để
khế nhập vào cảnh giới của chư Phật
Như Lai, đây tức là ‘Hành’ (phương pháp thực
hành).
Noi theo lư
luận phương pháp trong kinh điển mà làm,
đạt được sự lợi ích thù thắng,
việc này tức là ‘Quả’.
Chúng ta
hiểu rơ tính chất của kinh điển th́ mới khâm
phục Phật pháp, bái phục đến năm vóc sát
đất.
Đức Phật dạy
chúng ta khi tu học phải kiến lập một khái
niệm căn bản, đó là ‘Tín, Giải, Hành,
Chứng’.
‘Tín’ là tin sâu, không nghi
ngờ những lời giáo huấn của đức
Phật.
‘Giải’ là hiểu rơ,
thấu triệt lư luận trong kinh điển.
‘Hành’ tức là làm theo lư
luận phương pháp này.
‘Chứng’ tức là
đích thân chứng được cảnh giới
giống y như chư Phật Như Lai.
Ngày nay chúng ta c̣n tạo
nghiệp, c̣n vọng tưởng, c̣n nói vọng ngôn
tức là không hiểu thấu lư luận, không biết
được sự lợi hại nên mới tạo ra
những nghiệp tội nặng nề thậm chí hủy
diệt Phật pháp, chướng ngại Phật pháp, làm
cho người ta thoái tâm (sụt lùi).
Phải biết khi
gặp nghịch cảnh Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo
Bồ Tát c̣n có thể thoái tâm; chỉ có Pháp Thân Đại
Sĩ mới không thoái tâm.
Chướng nạn của chúng ta rất nhiều,
bao gồm cả trong lẫn ngoài.
Những việc làm của Hàn Quán Trưởng và
cư sĩ Lư Mộc Nguyên ở Tân Gia Ba đều là hành
vi của đại Bồ Tát, Pháp Thân Đại Sĩ. Hàn Quán Trưởng hộ tŕ chánh
pháp suốt 30 năm vẫn không sụt lùi; luôn luôn không
bị ảnh hưởng bởi những lời phỉ
báng, tin đồn, kiếm chuyện phá rối, đều
như như bất động và xem như không có việc
ǵ xảy ra, điều này vô cùng hiếm có, quư báu! Khi Lư cư sĩ gặp phải
bất cứ chướng nạn ǵ, bất cứ lời
hủy báng ǵ đều không thoái tâm, xây dựng đạo
tràng ở Tân Gia Ba thành một đạo tràng điển
h́nh, gương mẫu.
Nếu không phải là hóa thân của chư Phật,
Bồ Tát, Pháp Thân Đại Sĩ ứng hiện th́ không
thể làm được.
Chúng ta có được nhân duyên thù thắng này
tức là gặp được hộ pháp chân chánh. Cho nên mặc cho người ta
hủy báng, phá hoại, làm ǵ th́ làm, chúng ta đều được
sự hộ tŕ của chư Phật, Bồ Tát.
Ngày nay Tịnh Tông có
thể hoằng truyền khắp thế giới, những
người niệm kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà và
tu học theo lư luận của kinh này theo thống kê
một cách bảo thủ th́ ít lắm cũng
được hơn 20 triệu người. Tịnh Tông có thể đạt
được thành tích như vậy là công đức
của Hàn Quán Trưởng, chúng ta uống nước th́
phải nhớ nguồn, tri ân báo ân (biết ơn
đền ơn). Nếu
thiệt thấy rơ, hiểu thấu th́ mới biết
đây là Bồ Tát thị hiện, cảnh thuận hay
nghịch đều là tăng thượng duyên (trợ
duyên), đều để thành
tựu Phật pháp, thành tựu cho chúng sanh.
Lúc trước thầy
Lư nói với tôi muốn thực sự thành tựu trong
việc hoằng pháp lợi sanh, nhất định
phải [cư] trú lâu dài tại một nơi nhất
định. Hiện nay chúng ta
an tâm lưu tại Tân Gia Ba, toàn bộ nhân lực, tài
lực, vật lực đều tập trung tại
đây mới có thể thành lập được một
đạo tràng gương mẫu, tuyệt đối
không thể phân tán lực lượng, tinh thần. Cho nên chúng ta gặp
được rất nhiều Bồ Tát ở nơi
đó, thiệt đúng là ‘chư
thượng thiện nhân câu hội nhất xứ’
(những người thiện nhất tụ hợp ở
một chỗ). V́ mục
đích khuyếch trương nền giáo dục của
Phật Đà, chúng ta dùng thân phận của người quét
dọn, người làm công để làm việc cho
đức Phật A Di Đà, chư Phật Như Lai. Đừng tưởng là ḿnh đă
làm được việc ǵ cả, tất cả những
thứ này đều là Phật, Bồ Tát an bài, là do chư
Phật, Bồ Tát làm nên đấy, chúng ta chỉ bất
quá chấp hành theo mà thôi. Cho
nên thầy Lư dạy tôi phải ‘tin Phật’, tin Phật
thiệt quá khó. Nhưng chúng ta
phải tin thiệt nghe!
Trong thời đại
nhiều tai nạn này, con đường duy nhất
của chúng ta là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ;
dự Phật thất cũng lấy việc này làm mục
tiêu. Chúc quư vị Phật
thất lần này được thành tựu viên măn.
b. Lăo thật tu hành, tự tại văng sanh
Buổi
sáng 22-12-98.
Quư vị ở đây
kết thất niệm Phật nhất định
phải hiểu rơ ư nghĩa của Phật thất. Trong 7 ngày này chúng ta hy vọng đạt
đến kết quả ǵ, được như vậy
th́ 7 ngày này mới không luống qua.
Chúng
ta sinh sống trong thời đại hiện nay, nếu có
trí huệ th́ nhất định sẽ có cảnh giác cao
độ. Con người
sống trong thế gian bất quá chỉ được
mấy chục năm ngắn ngủi, búng ngón tay th́ đă
trôi qua mất rồi, b́nh tĩnh quan sát mới biết
đó chỉ là một con số không [to tướng],
đây là sự thật.
Sự hạnh phúc quư báu nhất của người
ta trong đời là không tạo ác nghiệp. Nếu có thể không tạo ác
nghiệp, tương lai nhất định sẽ sanh vào
cơi lành, cơi tốt đẹp.
Người
xưa nhắc nhở người tu hành như chúng ta
cần phải có ‘tiền hậu nhăn’. Tiền hậu nhăn nghĩa là
biết quá khứ, nh́n thấy tương lai, không chỉ
tập trung ở hiện tại.
Điểm này vô cùng quan trọng.
Lúc
Hàn Quán trưởng văng sanh đă cho chúng ta rất nhiều
bài học, nhắc nhở chúng
ta ‘tử sanh sự đại’ (việc sanh tử vô cùng
quan trọng). Chúng ta cần
phải có cảnh giác cao độ, đến lúc lâm chung
tự ḿnh phải làm chủ được ḿnh,
được như vậy th́ tiền đồ mới
xáng lạn. Nếu lúc lâm chung
tự ḿnh không làm chủ được, phải chịu
sự sắp xếp của người khác, cho dù có
rất nhiều người lo lắng chăm sóc, nhưng
những ǵ ḿnh cảm xúc chưa chắc sẽ
được toại ư.
Đời sau đi về đâu đều quyết
định ở một niệm cuối cùng. Một niệm cuối cùng là tham,
sân, si th́ sẽ đi vào ác đạo. Chuyện này dễ sợ vô cùng!
Hàn
Quán trưởng có phước báo, từ lúc sanh bịnh
đến lúc văng sanh được ba mươi mấy
vị xuất gia có tâm địa thanh tịnh, suốt ngày
đêm ở bên giường bịnh niệm Phật và
chăm sóc; sau khi văng sanh [họ trợ] niệm suốt 49
ngày đêm không ngừng, ngay cả những vị xuất
gia, đại pháp sư cũng không làm được
việc này. Ngay cả lăo
cư sĩ Lư Bỉnh Nam ở Đài Trung cũng sánh không
bằng, lúc cụ Lư sanh bịnh chỉ là do vài
người học tṛ chăm sóc, không có nhiều
người xuất gia đắp y, có đầy
đủ oai nghi giúp đỡ.
Phước báo này là một nhân duyên hiếm hoi! Đây là quả báo của bà đă
hộ tŕ chánh pháp suốt 30 năm, cho nên bà có thể văng
sanh Tịnh Độ một cách vô cùng thuận lợi --
trợ duyên quá thù thắng, tốt đẹp!
Suy
nghĩ trở lại, tương lai lúc chúng ta văng sanh có
được duyên phận thù thắng như vậy hay
không? Điều này chúng ta cần
phải cảnh giác đến, đây thiệt là một
việc lớn lao nhất trong đời này. Trong
trường hợp và hoàn cảnh hiện tại,
phương pháp [an toàn nhất] là tự ḿnh phải
nhất quyết tu học cho được thành tựu,
không cần nhờ người khác, lúc văng sanh không bị
bịnh khổ, dự biết trước thời giờ
[ra đi], đứng văng sanh, ngồi văng sanh, nằm văng
sanh, tùy ư muốn của ḿnh, đây là sanh tử tự
tại, được vậy chúng ta mới không bỏ
uổng đời này.
Mọi người tham dự Phật thất
niệm Phật phải hiểu rơ, nắm chắc tông
chỉ này, chúng ta đến đây là để huấn
luyện thêm, học tập để tương lai
tự tại văng sanh.
1.
Những
chuyện văng sanh gần đây
Trong quyển Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục và Văng Sanh Truyện có ghi rất
nhiều người tự tại văng sanh, số
người không được ghi chép lại c̣n nhiều
hơn. Gần đây trong
quyển Niệm Phật Luận của lăo pháp sư Đàm
Hư, Ngài nói đă chứng kiến tận mắt hơn
hai mươi mấy người văng sanh, [số
người văng sanh] nghe nói đến c̣n nhiều
hơn. Trong quyển Niệm
Phật Luận, Ngài thuật lại bốn chuyện văng
sanh, trong đó người xuất gia có pháp sư Tu Vô
ở chùa Cực Lạc, Harbin (miền Đông Bắc Trung
Quốc), người tại gia có cư sĩ Trịnh
Thiết Tân và người em của ông, người
thứ tư là Trương cư sĩ ở chùa Trạm
Sơn.
Pháp sư Tu Vô là một
người cực khổ cả đời, không biết
chữ, trong pháp hội truyền giới ở chùa Cực
Lạc, phát tâm giúp đỡ săn sóc cho người
bịnh. Pháp hội truyền
giới c̣n chưa kết thúc, thầy Tu Vô dự biết
trước thời giờ đă đến, niệm
Phật văng sanh. Trước
lúc văng sanh ngài nhắc nhở đại chúng ‘có thể nói
mà không thể làm th́ chẳng phải trí huệ chơn
thật’.
Cư sĩ Trịnh
Tích Tân là một người
làm ăn buôn bán, được dịp nghe lăo pháp sư Đàm
Hư thuyết pháp nên rất vui vẻ, tán thán. Sau này nghỉ buôn bán, học
giảng kinh A Di Đà, ông đi đến nhiều nơi
giảng kinh và khuyên người niệm Phật. Ông không sanh bịnh, ngồi mà văng
sanh. Một hôm sau khi giảng
kinh xong ông nói với đại chúng: ‘Tôi phải đi
đây’, thật là siêu thoát!
Thật là tự tại!
Người em của ông lúc trước cứ cho
rằng ông học Phật quá mê lầm, sau khi nh́n thấy
ông tự tại văng sanh nên tỉnh ngộ và cũng siêng
năng, thật thà niệm Phật. Ba năm sau người em của
ông cũng văng sanh, lúc văng sanh mang bịnh nhẹ.
Gia đ́nh cư sĩ
Trương ở chùa Trạm sơn rất nghèo, chồng
bà làm nghề kéo xe chở khách.
Bà làm công quả trong những pháp hội niệm
Phật ở chùa Trạm Sơn, cả ngày từ sáng
đến tối Phật hiệu không gián đoạn. Bà dự biết trước ngày
giờ văng sanh, hôm đó bà nhắn nhủ chồng chăm
sóc cho con xong rồi an nhiên ngồi trên giường mà văng
sanh. Đây là tấm gương
tốt cho những người học Phật chúng ta, không
cần phải nhờ cậy người khác giúp
đỡ, tự ḿnh thiệt nắm chắc [có thể
tự tại văng sanh].
Ngoài ra cụ Đàm [Hư]
c̣n kể chuyện một học tṛ của lăo pháp sư
Đế Nhàn, ông này là thợ vá nồi và không biết
chữ. [Người này là bạn
chơi thân với lăo pháp sư lúc nhỏ, đến xin
xuất gia v́ đời sống quá cực khổ, muốn
t́m lối thoát. Sau khi cho ông
xuất gia], cụ Đế [Nhàn] dạy ông đến
một ngôi miếu đổ nát ở miền quê gần Ôn
Châu, t́m vài người hộ pháp săn sóc [việc ăn
uống] cho ông. Cụ Đế
chỉ dạy cho ông niệm một câu ‘A Di Đà Phật’,
dạy ông thật thà niệm câu Phật hiệu này,
niệm đến mệt th́ nghỉ, nghỉ ngơi xong
th́ niệm tiếp tục. Ông
niệm trong ṿng 3 đến 4 năm th́ thành công; ông
đứng mà văng sanh, c̣n đứng 3 ngày sau khi văng sanh
[để đợi lăo pháp sư Đế Nhàn đến lo
hậu sự]. Thật là vô
cùng tự tại! Cụ
Đế khen ông: ‘So với những đại pháp sư
giảng kinh thuyết pháp, những vị phương
trượng trụ tŕ, [sự thành tựu của] ông c̣n
vượt hơn họ quá nhiều, quá nhiều!’
2.
Dứt ác tu
thiện, chuyên cần giữ ǵn ba nghiệp
Phẩm vị văng sanh
của những người này không phải ở Trung
phẩm, Hạ phẩm mà là ‘Thượng phẩm văng sanh’
nói trong kinh Vô Lượng Thọ.
Họ có thể làm được là v́ họ đă
buông xả danh văn (tiếng tăm), lợi
dưỡng, ngũ dục lục trần. Ngày nay chúng ta làm không nổi là v́
buông xả không nổi những sự quyến rũ, khó là
ở chỗ này. Phải nên
biết danh tiếng lợi dưỡng, ngũ dục
lục trần đều là giả hết, đă hại
chúng ta đời đời kiếp kiếp kẹt măi
trong lục đạo luân hồi, đọa lạc trong
ác đạo chịu hết bao nhiêu khổ nạn.
Cho nên mới nói
người đời nay ‘ngu si’, không những không
hiểu rơ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, mà
c̣n không có khả năng phân biệt những thứ tà
chánh, thiện ác, lợi hại.
Không biết tự tư tự lợi, danh tiếng
lợi dưỡng, ngũ dục lục trần tai
hại vô cùng; chỉ có buông xuống vạn duyên, nhất
tâm niệm Phật là việc thiện lớn nhất. Đây là lời kinh dạy: ‘Đoạn dứt tất cả
điều ác, tu tất cả đều thiện’,
chúng ta phải hiểu rơ ư nghĩa chân chánh của nó.
Trong đời này
mỗi vị đồng tu có thể đạt
được sự thành tựu thù thắng nhất hay
không? Có thể. Thiện Đạo đại sư
nói: ‘Chín phẩm văng sanh
đều là do gặp duyên khác nhau’. Chúng ta đă gặp
được nhân duyên thù thắng, gặp được
Phật pháp Đại thừa, gặp được Tịnh
Tông, gặp được bản hội tập của
kinh Vô Lượng Thọ, gặp được
đồng tham đạo hữu tốt, nếu trong
đời này không thể thành tựu th́ đó là v́ tập
khí phiền năo của ḿnh quá nặng, cứ mỗi ngày
tạo nghiệp như cũ.
Khi khởi tâm
động niệm đều v́ ḿnh là tạo
nghiệp. Ngôn ngữ gây
tổn hại cho người khác, thị phi nhân ngă
đều là khẩu nghiệp.
Trong kinh Vô Lượng Thọ nói đến tam
nghiệp, đặt khẩu nghiệp ở hàng
đầu: ‘khéo giữ ǵn
khẩu nghiệp, đừng chê bai lỗi của
người khác’ [26]
tức là cảnh giác chúng ta khẩu nghiệp quan trọng
nhất, dễ phạm nhất.
Nh́n thấy chúng sanh có lỗi lầm đều không
thể nói đến; nếu [người ta] không có
lỗi mà ḿnh đặt chuyện, và c̣n hoài nghi
người ta có lỗi th́ tội nghiệp này c̣n nặng
hơn.
Người tu học c̣n
chịu ảnh hưởng của phiền năo tập khí
[tích lũy] từ vô lượng kiếp đến nay nên
thoái chuyển rất dễ dàng, tinh tấn rất khó
khăn. Thế nên những
vị đại đức, tổ sư ngày xưa
đề xướng tu tập chung, kết Phật
thất để cùng nhau niệm Phật, nương vào
đại chúng để tu tập, đó là đạo lư
của việc tu tập chung.
Niệm Phật đường ở Tân Gia
Ba càng ngày càng thù thắng, từ mồng một tháng Giêng
đến 30 tháng Chạp (tháng 12), mỗi ngày niệm
Phật 24 giờ đồng hồ không gián đoạn,
đây là Phật thất [kéo dài] quanh năm. Giảng đường mỗi
ngày giảng kinh 2 giờ, 365 ngày trong năm không gián
đoạn, thiệt đúng là giải và hành đều
quan trọng như nhau, đều cùng nhau tu tập
định và huệ. Lăo ḥa
thượng Tịch Độ ở Ngũ Đài Sơn, lăo ḥa
thượng Nhân Đức ở Cửu Hoa Sơn, lăo ḥa
thượng Mính Sơn ở
chùa Định Huệ, Tiêu Sơn, Trung Quốc, đều tán
thán đạo tràng này là ‘đạo tràng đệ nhất
trên thế giới’.
Mọi người
ở Cư Sĩ Lâm từ trên xuống dưới
đều ḥa thuận, ai cũng thường nở
nụ cười tươi, chúng ta ở đây có thể
nh́n thấy việc ‘thường
sanh tâm hoan hỷ’ nói trong kinh.
Hy vọng mọi người có cơ hội
đến Tân Gia Ba tham học, đem phương pháp tu
học ở đây phổ biến đến khắp
nơi trên thế giới, để mọi nơi
đều có thể xây dựng đạo tràng như
vậy. Chúng ta nỗ lực
hết ḷng tu học, không những tự ḿnh trong
đời này nhất quyết văng sanh, chúng ta c̣n có thể
đem lại sự an định cho xă hội, ḥa b́nh cho
thế giới, đây là công đức chân thật, tự
hành hóa tha nói trong nhà Phật.
Hy vọng mọi người siêng năng tinh tấn
niệm Phật.
c.
Niệm Phật có thể tiêu tai miễn
nạn
Giáo hội Thiên Chúa Giáo có
lời tiên tri nói rằng năm 1999 thế giới sẽ
có tai nạn lớn, khuyên các bạn đồng đạo
nên đọc kinh, phải thật ḷng sám hối, hy
vọng có thể thoát khỏi tai nạn này. Và nói: tai nạn có thể xảy
ra hay không c̣n dựa trên ‘nhân tâm’, nếu nhân tâm có thể
hướng thiện th́ tai nạn có thể hóa giải, có
thể tŕ hoăn về sau. Cách
nói này rất có lư.
Một ngày
trước khi văng sanh lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam dặn
ḍ các vị đồng học: ‘Thế
giới đă loạn rồi, cho dù chư Phật, Bồ
Tát, thần tiên trở lại cũng không cứu
nổi. Chỉ có con
đường sống sót duy nhất là niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ’, cho nên tai nạn càng ngày càng
gần, chúng ta không c̣n nhiều thời gian nữa, phải
nên buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật.
Đạo Thiên Chúa khuyên
người ta cầu lên thiên đường, họ nói
không có Cực Lạc thế giới, chỉ có thiên
đường và địa ngục. Ngay cả người trên cơi
trời cũng không có cách ǵ nh́n thấy toàn bộ t́nh
huống phức tạp trong đại vũ trụ. Chúng ta hiểu rơ đích thật
là có Cực Lạc thế giới, Hoa Tạng thế
giới, cùng quốc độ của chư Phật. Làm thế nào để biết
vậy? Đó là ‘duy tâm sở hiện, duy thức sở biến’,
nếu hiểu được đạo lư này th́ sẽ
tin ngay.
1.
Vũ trụ là không gian đa nguyên
Thật ra y báo, chánh báo
trang nghiêm trong thập pháp giới cũng không có, Phật
pháp nói: ‘Tam tâm bất khả
đắc’, ‘Chư pháp vô sở hữu’; nói có th́
chỉ là tạm có, huyễn có, giả có, trong kinh dùng
chữ ‘diệu hữu’.
Thế nên thiên đường, địa ngục
cũng là diệu hữu; cơi này, cơi nọ cũng là
diệu hữu, Cực Lạc thế giới cũng không
ngoại lệ. Nếu dùng
ngôn ngữ hiện nay của khoa học gia th́ đây
chỉ là không gian duy thứ (duy
có nghĩa là chiều, là phương vị) khác nhau mà
thôi, thí dụ như không gian ba chiều [của loài
người chúng ta], không gian bốn chiều, năm
chiều. Khoa học gia đă
chứng minh có 11 chiều không gian tồn tại, nhưng
trên lư luận th́ không gian có vô số chiều.
Những người
vừa mới hiểu Phật pháp đều khẳng
định có không gian vô số chiều tồn tại. Nếu bạn không thể
đột phá những thời gian, không gian này th́ không
thể hiểu rơ sự thật.
Vô số không gian có duy thứ không giống nhau tức
là vô lượng vô biên thế giới, đức Phật
nói [những thế giới này] đều từ tâm
tưởng sanh. Kinh Hoa Nghiêm
nói: ‘Duy tâm sở hiện, duy
thức sở biến’ tức là từ tâm tưởng
sanh. Vô lượng vô biên chúng
sanh có vô lượng vô biên vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước nên biến đổi
‘Nhất Chân pháp giới’ trở thành vô lượng vô biên
không gian khác nhau, vô lượng vô biên cảnh giới,
đạo lư là như vậy.
Đức
Phật dạy chúng ta có thể đột phá những không
gian này bằng cách ĺa bỏ vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước.
Lục đạo [luân hồi] là do vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước biến
hiện ra; nếu xả bỏ chấp trước,
chỉ c̣n vọng tưởng và phân biệt th́ lục
đạo luân hồi sẽ không c̣n nữa, tức là
Tứ Thánh pháp giới.
Nếu cả phân biệt cũng xả bỏ th́
Tứ Thánh pháp giới (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát,
Phật) cũng không c̣n, tức là không c̣n thập pháp
giới nữa. Không c̣n
thập pháp giới tức là Nhất Chân pháp giới. Do đây có thể biết
thập pháp giới là từ phân biệt, chấp
trước biến hiện ra.
Xa ĺa phân biệt chấp trước th́ thập pháp
giới sẽ không c̣n tồn tại. Việc này cũng giống như
nằm mộng, khi tỉnh dậy những cảnh
giới trong mộng đều không c̣n. Người ta thường nói
đến danh từ ‘tu hành chứng quả’, chứng
quả nghĩa là chứng được Nhất Chân pháp
giới, khế nhập vào Nhất Chân pháp giới. Tây phương Cực Lạc
thế giới thuộc về Nhất Chân pháp giới. Do đó có thể biết nếu
chúng ta c̣n phân biệt, chấp trước th́ nhất
định sẽ không nh́n thấy Nhất Chân pháp giới.
Trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta
thấy Nhất Chân pháp giới vẫn có 41 cấp bực,
đó là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, đến Đẳng Giác Bồ
Tát hết thảy đều là Pháp Thân Đại Sĩ. Những cấp bực này c̣n
tồn tại là v́ vọng tưởng chưa dứt
trừ. Vọng tưởng
tức là vô minh vi tế (vi tế
nghĩa là nhỏ bé). Có câu nói: ‘phá
một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân’, 41
phẩm vô minh tức là 41 phẩm vọng tưởng. Khi đoạn dứt hết 41
phẩm vô minh này, không c̣n vọng tưởng nữa th́
chứng được rốt ráo, đây là Phật
quả Viên Giáo, đây mới là quả vị cứu cánh.
Người
Thiên Chúa Giáo chưa từng nghe những đạo lư này,
thật đáng tiếc.
Phật pháp trong thế gian và xuất thế gian
đều vô cùng thù thắng, đáng tiếc là người
truyền bá quá ít. Hoằng
dương Phật pháp không dễ tại v́ tự
người đó phải khế nhập trước,
nếu ḿnh chưa khế nhập th́ làm sao có thể nói
được [một cách hoàn hảo và đúng
đắn]? Làm sao có thể
hiểu được?
Nếu muốn lư giải, hiểu rơ th́ phải tu
học, có tu học th́ mới khế nhập, sau đó
mới có thể giải thích [tường tận], mới
có thể giúp đỡ người khác.
2. Không tri ân nghĩa chiêu cảm tai
kiếp
Chúa Jesu nói: ‘Ngày nay người trong thế
gian quên ân, phụ nghĩa không biết ân đức’. Chúa Jesu, Thánh Mẫu Maria thiệt thương
yêu người đời, người đời không
những phản bội mà c̣n sỉ nhục, huỷ báng các
Ngài và tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp. Trong thế giới hiện nay
những chuyện này rất phổ biến. Con cái chịu ân đức
dưỡng dục của cha mẹ, không biết báo ân mà
c̣n bỏ rơi cha mẹ.
Chúng tôi đi thăm viện dưỡng lăo của
những người đạo Hồi (Islam), những
người già ở đó đều bị con cái bỏ
rơi, không nhà không cửa.
Ngày nay con cái bỏ rơi cha mẹ, học sinh
phản bội thầy giáo, không biết ân nghĩa, tạo
ra vô lượng vô biên nghiệp tội, v́ vậy nên chiêu
cảm quả báo thế giới hủy diệt.
Cho nên lời tiên tri nói
tai họa này là do chúng ta tự chiêu cảm lấy, không
phải Thượng Đế nổi giận trừng
phạt chúng ta, Thượng Đế rất không muốn nh́n
thấy sự việc này xảy ra, nhưng không thể
tránh khỏi, tạo ra nghiệp tội nhất
định phải nhận lấy tai họa. Cách nói như vậy mới
hợp t́nh hợp lư.
Những năm gần
đây tôi khổ tâm mỏi miệng khuyên mọi
người, nếu ba ngày không khuyên th́ mọi người
quên ráo trọi. Đây đúng như
kinh Địa Tạng nói: ‘Chúng
sanh ở Diêm Phù Đề cang cường khó giáo hóa’, chúng
ta thể hội câu này một cách sâu sắc. Nhưng chư Phật, Bồ Tát
làm gương, làm mô phạm cho chúng ta noi theo, cho dù chúng sanh
có ương ngạnh khó giáo hóa đến đâu th́
cũng không thể bỏ rơi.
Đây đúng như câu nói: ‘Trong
nhà Phật không xả bỏ một ai cả’, đây
mới là đại từ đại bi chân thật.
Kinh Hoa Nghiêm nói với
chúng ta tự ḿnh chân tu th́ có thể ảnh hưởng
đến người khác, làm cho người khác cảm
động khi nh́n thấy tấm gương tu hành của
chúng ta, sanh tâm xấu hổ, tự nhiên sẽ học theo,
được như vậy th́ có thể đem lại
sự an định cho xă hội, ḥa b́nh cho thế
giới. Đức Phật nói
‘tự hành hóa tha’ nghĩa là nhờ vào sự tu hành chân
thật của ḿnh [mới có thể cảm hóa
người khác], tự ḿnh không tu hành chân thật th́ không
có ích lợi ǵ cả. Cho dù
biết nói, nói được tốt đến đâu, khi
tai họa xảy ra th́ cũng không tránh khỏi, vốn
phải sanh tử như thế nào th́ vẫn phải sanh
tử như thế ấy, vẫn không ra khỏi luân
hồi như cũ, và cũng không thể văng sanh.
Chúng ta nhất
định phải dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng, tâm giác ngộ, tâm từ bi, chắc thật
niệm câu Phật hiệu này.
Câu Phật hiệu này nhất định phải
tương ứng với ‘Thanh Tịnh, B́nh Đẳng, Giác’,
và cũng là ‘một niệm
tương ứng một niệm Phật, niệm
niệm tương ứng niệm niệm Phật’;
nếu không tương ứng, không phù hợp, câu Phật
hiệu sẽ chẳng có công đức. Làm thế nào mới
được tương ứng?
Trong đời sống hằng ngày nhất
định phải làm được ‘nh́n thấu, buông
xả, tự tại, tùy duyên’.
Nh́n thấu nghĩa là hiểu rơ chân tướng
sự thật của vũ trụ nhân sanh; buông xả
tức là buông xuống tất cả vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước.
3.
Niệm
Phật có thể giúp cho thế giới ḥa b́nh
Thiền Tông Lục
Tổ Huệ Năng dạy: ‘Nếu
là người tu đạo chân chánh, không nh́n thấy
lỗi lầm của thế gian’, chỉ biết tu
[sửa bản thân] ḿnh, tự ḿnh nỗ lực
đoạn ác tu thiện. Kinh
Vô Lượng Thọ dạy ba nguyên tắc của sự
tu thiện:
Khéo giữ
ǵn khẩu nghiệp, đừng chê bai lỗi của
người khác.
Khéo giữ
ǵn thân nghiệp, chẳng hành động trái ngược
với giới luật
Khéo
giữ ǵn ư nghiệp, phải luôn thanh tịnh không
nhiễm ô [27]
Chúng ta phải luôn luôn ghi
nhớ từng giờ từng phút, phải làm cho bằng
được. Cả bộ
Đại tạng kinh trong nhà Phật và những ǵ đức
Phật đă nói trong 49 năm [tóm lại] tức là ba câu
này. Chúng ta nhất định
phải thực sự làm được th́ mới có
thể cứu ḿnh và cứu chúng sanh.
Khi chúng ta tu [hành chân]
thật th́ tâm sẽ b́nh (phẳng
lặng, yên ổn). Ngày nay khoa
học gia nói về những làn sóng tư tưởng,
tư tưởng của người thế gian rất
phức tạp, đặc biệt những tư
tưởng tà ác đều là những làn sóng lớn,
[cường độ rung động] lên xuống rất
lớn. Những người
niệm Phật chúng ta tu ‘thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác’ nên làn sóng tư tưởng này đều b́nh
phẳng, yên ổn. Niệm
Phật Đường ở Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba
được chư Phật Như Lai gia tŕ, có Phật,
Bồ Tát cùng chúng ta niệm Phật cho nên từ
trường (hoàn
cảnh, môi trường tu học) ở
Niệm Phật Đường vô cùng thù thắng. Từ trường của
Niệm Phật Đường tốt vô cùng, từ
trường này an định, b́nh tịnh; những làn sóng
tư tưởng phát ra từ nơi đây có thể
điều ḥa tư tưởng tà ác trong thế gian. Dùng làn sóng tư tưởng b́nh
yên phẳng lặng của chúng ta để hóa giải
những làn sóng tư tưởng tà ác to lớn của thế
gian th́ những làn sóng này có thể giảm bớt, yếu
đi; đây là nguyên lư hóa giải tà ác, hóa giải tai
họa.
Chúng ta ở
nhà niệm Phật th́ cũng có cống hiến cho xă
hội, thế giới. V́
chúng ta niệm Phật th́ phát ra những làn sóng tư
tưởng thanh tịnh, b́nh đẳng, giác nên có thể
điều ḥa những làn sóng tư tưởng tà ác trong
thế gian. Nếu hiểu rơ
đạo lư này th́ sẽ tin tưởng khi chúng ta tâm b́nh,
khí ḥa niệm Phật cũng có thể giúp đỡ cho
thế giới ḥa b́nh, xă hội an định.
Chân chánh phát tâm niệm
Phật tức là độ ḿnh, độ người;
chân chánh phát tâm niệm Phật tức là cứu văn kiếp
nạn của thế gian, đừng tưởng là chúng
ta không có năng lực này.
Nếu chư vị đồng tu có thể chân chánh
giác ngộ, chân chánh buông xuống hết thảy những
điều thị phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn; làm theo
lời dạy trong Tam Phước, Lục Ḥa, Tam Học,
Lục Độ của đức Thế Tôn th́ có năng
lực an định xă hội, duy tŕ ḥa b́nh thế giới.
Chỉ cần chúng ta tâm
ư chân thành, chư Phật, Bồ Tát ứng hiện khắp
nơi, sẽ cảm ứng đạo giao. Đặc biệt là trong lúc thế
gian có tai nạn to lớn, chúng ta phải giúp đỡ
tất cả chúng sanh khổ nạn. Niệm Phật không chỉ là v́
chính ḿnh, càng phải v́ tất cả chúng sanh. Chúng ta nhất định
phải làm, không làm th́ không có tâm từ bi. Hy vọng chúng ta cùng nhau nỗ
lực, tự độ và độ tha.
d.
Lư của chuyện ‘Niệm Phật thành Phật’
1. Hư không
pháp giới và ḿnh cùng một thể
Từ kinh Hoa Nghiêm chúng ta
nhận được rất nhiều khải thị
(gợi ư) cho sự tu học Phật pháp. Hội kinh Hoa Nghiêm là do
đức Thế Tôn thuyết giảng trong [khi nhập]
định ở Bồ Đề Đạo Tràng [sau khi thị
hiện thành Phật], đại chúng tham dự hội kinh
này đều là Pháp Thân Đại Sĩ. Họ thuộc rất nhiều
chủng tộc, rất nhiều đoàn thể khác nhau
trong khắp hư không pháp giới, số nhiều vô
lượng vô biên. Do đó có
thể biết pháp hội Hoa Nghiêm trên thực tế là
một hội bao gồm tận hư không trọn khắp
pháp giới. Hội Hoa Nghiêm là
như vậy, những hội giảng kinh khác không
phải như vậy sao?
Từ đây suy nghĩ kỹ càng, việc này ám
chỉ cho chúng ta biết tận hư không khắp pháp
giới đều là một thể. Đến lúc thành Phật th́ mới
ư thức đến ‘tất
cả chúng sanh vốn đă thành Phật’, hiểu rơ
triệt để ‘hữu t́nh
và vô t́nh đều viên măn chủng trí’. Nói tóm lại hư không pháp
giới và ḿnh đều là một thể, do đó mới
thực sự sanh tâm từ bi.
Nhà Phật thường
nói: ‘Vô duyên đại từ,
đồng thể đại bi’. Chư Phật Như Lai đă giác
ngộ rồi, các Ngài đă ngộ việc này; phàm phu
vẫn c̣n mê, mê cũng là mê việc này. Nhưng trong chân tướng
sự thật không có mê và ngộ, mê và ngộ là ở
tại người.
Người giác ngộ th́ gọi là Phật, Bồ
Tát, người mê hoặc th́ gọi là phàm phu. Nhưng sự thọ dụng
của mê và ngộ khác nhau, người mê không biết
hư không pháp giới đều là ḿnh, không biết
hết thảy chúng sanh đều là ḿnh cả, cho nên trong
đó [trong mê] sanh khởi vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, tạo nên vô lượng vô
biên nghiệp tội.
2. Hết thảy các pháp từ tâm
tưởng sanh
Nghiệp tội tức
là những hành vi, việc làm trái ngược với chân
tướng sự thật.
Những nghiệp đă tạo sẽ hiện ra
tướng. Tướng làm
sao hiện ra? Đức Phật
nói: ‘Tất cả pháp từ
tâm tưởng sanh’, muôn vàn xin mọi người
đừng coi thường câu này.
Sự việc trong vũ trụ thiên biến vạn
hóa, thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm, đây là
đức Phật quy nạp xong nói cho chúng ta biết, trên
thực tế th́ pháp giới vô lượng vô biên. Vô lượng vô biên pháp giới đều
từ tâm tưởng sanh – trong tâm nghĩ tưởng ǵ
th́ sẽ hiện ra cái đó.
V́ vậy cho nên tưởng Phật th́ sẽ hiện
ra Phật; Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta: ‘Nhớ Phật niệm Phật,
hiện giờ tương lai, nhất định thấy
Phật’, đây nghĩa là tưởng Phật thành
Phật.
Tưởng Phật th́
Phật hiện, tưởng Bồ Tát th́ Bồ Tát
hiện, tưởng ǵ th́ hiện cái đó, việc này là
sự thật. Thí dụ chúng
ta nghĩ tưởng đến một việc xứng
tâm vừa ư th́ sẽ sanh tâm hoan hỷ, niềm vui này
liền hiện lên gương mặt ḿnh; nghĩ
tưởng đến một việc không vừa ư th́
sẽ nhăn nhó mặt mày, nét âu sầu sẽ hiện rơ
trên gương mặt, lập tức liền thay
đổi. Quan sát việc nhỏ
này th́ mới biết lời dạy của đức
Phật vô cùng chính xác.
Thế nên chư Phật
Như Lai khuyên chúng ta tưởng Phật, nhớ Phật,
niệm Phật, buông xuống hết tất cả
những tư tưởng khác.
[Pháp môn] niệm Phật văng sanh bất thoái thành
Phật trong Tịnh Tông được xây dựng trên
cơ sở và lư luận này.
Từ xưa đến nay những người noi
theo phương pháp này tu hành chứng quả rất
nhiều, những người này đều làm
gương tốt cho chúng ta noi theo. Nếu dùng cách nói thông
thường của các tôn giáo, những người này là
những chứng cớ rơ rệt và những tấm
gương cụ thể cho chúng ta. Trong ba thứ chuyển pháp luân
của Phật pháp đây gọi là ‘tác chứng chuyển’
(chuyển pháp luân bằng cách làm chứng), họ hiện
thân thuyết pháp làm chứng minh cho chúng ta, nói rơ đây là
sự thật.
3.
Tự
tại văng sanh độ gia quyến.
Mấy
năm trước chuyện mẹ của ông Tước
Sĩ (Huân tước) Hà Đông văng sanh ở Hương Cảng
đă làm nhiều người cảm động, và đă
củng cố cơ sở cho hội Phật giáo
Hương Cảng. Cả nhà
của cụ đều là tín đồ Thiên Chúa Giáo
thuần thành, chỉ có bà cụ là người tin Phật,
niệm Phật. Tuy vậy
nhưng nhà này vô cùng phóng khoáng (không câu nệ), đích
thật là tự do tín ngưỡng, đối xử ḥa
thuận với nhau, tôn trọng lẫn nhau, đây là
một việc rất đáng quư.
Cho nên không gây trở ngại cho tự do của
người khác mới là tự do thật sự. Gây trở ngại cho người
khác, xâm phạm người khác là không hiểu
được [như thế nào mới là] tự do;
đây là cảm t́nh, là trí huệ.
Cùng một lư lẽ, ngày
nay chúng ta sinh sống trên quả địa cầu này, có
rất nhiều dân tộc khác nhau, văn hóa khác nhau, tư
tưởng khác nhau, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, mọi
người đều không thể ḥa thuận, công kích
hủy báng lẫn nhau, thậm chí dẫn đến
chiến tranh tôn giáo, đây cũng là v́ không hiểu rơ ư
nghĩa chân chánh của tự do.
Nguyên nhân họ không hiểu rốt cuộc cũng là
vấn đề của giáo dục, đặc biệt là
giáo dục luân lư đạo đức.
Gia đ́nh ông tước
sĩ Hà Đông là tấm gương tốt cho chúng ta,
triển rộng ra th́ cũng là tấm gương cho
cả thế giới. Bất
luận chúng ta tín ngưỡng tôn giáo nào th́ nhất
định phải tôn trọng những tôn giáo khác. Trong nhà Phật bất luận tu
học theo môn phái nào, nhất định cũng phải
tôn trọng môn phái khác; như vậy mới hiểu tự
do một cách đúng đắn, mới thiệt có trí
huệ.
Lúc văng sanh cụ bà Hà Đông
nói với con trai và dâu: ‘Cả đời má không đ̣i
hỏi các con việc ǵ hết, bây giờ trước lúc
văng sanh, má yêu cầu các con niệm vài câu Phật hiệu
tiễn đưa má văng sanh’.
Lúc văng sanh, cụ thật sự mở một buổi
họp văng sanh, mời tất cả thân bằng quyến
thuộc đến dự, sau khi cụ dặn ḍ xong xuôi,
cụ văng sanh một cách êm đềm, an lành giữa
tiếng niệm Phật của mọi người. Cả nhà chứng kiến tận
mắt bà cụ niệm Phật văng sanh nên sau này cả nhà
đều niệm Phật hết.
Cách bà cụ này độ chúng sanh rất đặc
biệt, vô cùng cao minh, dùng lời nói th́ không ai nghe nên cụ
biểu diễn cho họ coi, cuối cùng có thể
độ hết cả nhà.
Việc cụ văng sanh là
một sự biểu diễn vô cùng ngoạn mục,
phải có trí huệ sâu rộng mới làm
được. Trên thế
gian này chuyện ǵ cũng có thể gạt, giả mạo,
chỉ có chuyện này không thể nào giả mạo
được. Lúc tôi c̣n
học ở Đài Trung, lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam
thường dùng chuyện này khích lệ chúng tôi, dạy
chúng tôi, Tây phương Cực Lạc thế giới có
thật, người niệm Phật đích thật là có
thể văng sanh.
4. Y giáo phụng hành có thể tự
tại văng sanh
Nửa thế kỷ
trở lại đây tuy chúng ta không thể đích thân nh́n
thấy người ta văng sanh nhưng những chuyện
nghe đến thật không ít.
Tại sao người ta có thể tự tại văng
sanh? Đây là việc mọi
người đều muốn biết. Đặc biệt là những
người đang sinh sống trong thời đại
nhiều tai nhiều họa, tự tại văng sanh
đối với chúng ta vô cùng quan trọng, thiệt là
một việc quan trọng nhất trong đời
người. Thiệt ra
chỉ cần noi theo kinh luận, tu học đúng như
lư như pháp, th́ có thể làm được. Đặc biệt là kinh Vô
Lượng Thọ, cổ đức nói kinh Vô
Lượng Thọ là kinh số một của Tịnh Tông,
v́ kinh Vô Lượng Thọ giới thiệu hoàn cảnh
ở Tây phương Cực Lạc thế giới
đầy đủ nhất, giải thích phương pháp
tu học tường tận nhất, nói quả báo sau khi
văng sanh viên măn nhất. Nếu
chúng ta chân chánh muốn tự tại văng sanh, tu học
từ ba tháng đến sáu tháng th́ có thể thành công. Cho nên pháp môn này rất thù
thắng, được hết thảy chư Phật tán
thán, tuyên dương.
Thiện Đạo
đại sư nói những ǵ đức Phật dạy
th́ chúng ta phải làm được hoàn toàn, những ǵ
đức Phật dạy chúng ta không được làm th́
tuyệt đối đừng làm.
Nếu thiệt có thể hết ḷng làm theo những
lời dạy trong kinh Vô Lượng Thọ, làm hằng
ngày, một ngày cũng không vi phạm, những công
đức này tích lũy trong ba tháng th́ bạn sẽ là
thượng thiện nhân, sẽ nắm chắc sự văng
sanh tự tại. Nếu có thể
làm hết sáu tháng th́ càng chắc chắn hơn. Cứ tiếp tục làm như
vậy, bạn muốn chừng nào văng sanh th́ lúc đó văng
sanh, đứng văng sanh, ngồi văng sanh, tự tại tùy
theo ư muốn. Đây là một
việc [quan trọng] hạng nhất trong đời
người!
Có một số
người văng sanh không được tự tại, lúc
lâm chung c̣n bị bịnh khổ, nguyên nhân là v́ những ǵ
đức Phật dạy họ làm đều không thể
làm hết hoàn toàn; những ǵ đức Phật dạy
họ không được làm th́ vi phạm không ít, đây là
nghiệp chướng.
Nhưng nhờ đời trước hay đời
này cũng c̣n chút thiện căn, lúc lâm chung gặp
được bạn tốt nhắc nhở, trợ
niệm, th́ cũng có thể văng sanh.
Người ta sống
trên đời này mấy chục năm ngắn ngủi,
lúc đến mang hai bàn tay không th́ ra đi cũng mang theo
hai bàn tay trắng. Cổ
đức nói: ‘Muôn thứ không
đem được, chỉ mỗi nghiệp theo thân’ [28]. Tất cả mọi vật trên
thế gian này không có một vật ǵ có thể đem theo,
những ǵ có thể đem theo được chỉ là
những nghiệp mà ḿnh đă tạo ra, việc này rất
đáng sợ! Tôi đọc
đến việc này rởn da gà, có nhiều người
đọc đến nhưng không hề ǵ, như vậy
đúng là nội tâm đă chai đá hết trơn
rồi. Nếu thiệt có tri
giác, đọc đến thiệt rất sợ th́ làm sao
dám tạo nghiệp?
Chư Phật, Bồ Tát
từ bi, có ḷng thương yêu chân thành, chúng ta không biết
thân cận [học hỏi] mà c̣n xa ĺa họ, đi kết
bạn với những bạn xấu trong thế gian,
đó là sai lầm quá đỗi!
Bạn xấu tức là những người tạo
ngũ nghịch thập ác, không chịu nghe lời dạy
của thánh hiền, không y giáo phụng hành. Đây là một sự mất mát to
lớn đối với đời sống tu học của
chúng ta, chúng ta phải nhận thức rơ ràng.
Nhất
định phải hết ḷng nỗ lực tu học,
nắm chắc sanh mạng ngắn ngủi nhưng quư báu
trong đời này, hoàn thành nhân duyên hiếm hoi từ vô
lượng kiếp đến nay.
Niệm Phật thành Phật, đây là một
chuyện lớn, người như vậy mới đáng
gọi là người có chí khí, nếu nói theo nhà Phật th́
thiệt đúng là đại anh hùng, đại
trượng phu. Hy vọng
chúng ta cùng nhau gắng sức, khuyến khích lẫn nhau,
ngay trong hiện đời làm cho xong công việc to lớn
này, không uổng phí cuộc đời.
Giác ngộ
-- Nh́n thấu -- Buông xả
1. Nh́n thấu mới buông
xả được.
Thông thường hai ngày
đầu của Phật thất, tâm [của người
tham dự] c̣n chưa an định, công phu không thể nào
đắc lực. Đến ngày
thứ bảy v́ Phật thất gần kết thúc, trong
tâm lại phóng dật, buông lung trở lại nên cũng
không thể đắc lực.
Do đó niệm Phật trong 7 ngày, thiệt có thể
đắc lực là trong ngày thứ năm và thứ sáu,
đây là một hiện tượng rất b́nh
thường.
Nguyên nhân người
đời nay niệm Phật không bằng người
đời xưa cũng là v́ không thể ‘nh́n thấu, buông
xả’. Chữ nh́n thấu là hiểu
rơ trạng thái sanh hoạt hiện thực; nếu chúng ta
không hiểu rơ, ham mê luyến tiếc thế gian th́
đương nhiên sẽ không buông xuống nổi. Cho nên hơn phân nửa những
người niệm Phật văng sanh là người già
bảy tám chục tuổi, v́ họ nh́n thấy nhiều,
từng trải nhiều, biết hết thảy những
việc trong thế gian đều là hư ảo không
thật, bất luận sinh sống trong cảnh thuận
hoặc nghịch, trải qua một thời gian dài th́
sẽ chán chường, sinh sống cảm thấy chán
ghét, không muốn ở lại thêm nữa, đến lúc này
th́ buông xuống hết, đây là một yếu tố
rất quan trọng. Nếu
cảm thấy thế gian này c̣n rất đẹp
đẽ, vẫn c̣n muốn sống thêm vài năm nữa,
thậm chí muốn sống thêm vài chục năm, vài
trăm năm nữa, họ buông xả, buông xuống
hết không nổi th́ công phu làm sao có thể đắc
lực cho được! Phật pháp nói đến
chuyện giác ngộ tức là giác ngộ việc này.
Chú
thích: Buông xả và nh́n thấu là hai việc bổ
sung và hỗ trợ lẫn nhau, nếu bạn có thể
buông xả một phần th́ bạn sẽ nh́n rơ, nh́n
thấu thêm một phần; nếu có thể nh́n thấu
một phần th́ bạn có thể buông xả thêm một
phần. Nói cách khác, Bồ Tát
từ lúc sơ phát tâm đến lúc thành Phật
đạo đều tức là công phu nh́n thấu, buông xả
bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau.
Trong sáu Ba La Mật, Bát
nhă Ba La Mật là nh́n thấu, năm thứ c̣n lại
đều là buông xả:
Bố thí là buông xả
tâm tham.
Tŕ giới là buông xả
ác niệm.
Nhẫn nhục là buông
xả tâm sân nhuế, đố kỵ
Tinh tấn là buông xả
giải đăi, làm biếng.
Thiền định là
buông xả tán loạn.
Năm
thứ này đều là buông xả, Bát nhă tức là minh
bạch, rơ ràng. Cho nên sáu Ba La
Mật quy nạp lại tức là 4 chữ: ‘nh́n thấu,
buông xả’.
Trích từ “Thái thượng
Cảm ứng thiên’, tập 21, 8/6/1999 Trai đường
Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba)
Trong kinh đức
Phật dạy chúng ta buông xả là buông xả phiền năo,
buông xả dục vọng, chứ không phải buông xả
công việc làm. Ngược
lại c̣n phải nỗ lực hết ḷng làm việc. Nếu cả công việc làm
cũng buông xuống th́ đức Phật không cần
phải giảng kinh thuyết pháp nữa.
2. Hiểu rơ nhân quả không
oán hận và hối hận.
Mọi
người đều biết chuyện đời vô
thường, biết chuyện trong đời không có ǵ
chẳng là nhân duyên quả báo cả, nhưng hiểu không
rơ ràng, không cụ thể. Lúc
trước lăo cư sĩ Ô Dư Khánh đă kể lại
một câu chuyện thật.
Vào thời kháng chiến [chống Nhật] bắt
đầu, cụ ở Thượng Hải quen một
thương gia, ông này làm ăn buôn bán rất thuận
lợi, có một người con trai duy nhất,
người con này rất nghịch ngợm. Một hôm người con đi
học mang theo 10 đồng trong túi, làm rớt tờ
giấy 10 đồng này trên đường lộ, lúc
đó có một người quen đi ngang nh́n thấy nên
lượm lên rồi nói chơi với đứa bé: ‘Em
kêu tôi bằng Bác th́ tôi trả tiền này cho em’. Đứa bé này trả lời:
‘Nếu ông kêu tôi bằng Bác th́ tôi cho ông thêm 10 đồng
nữa’. Nghịch ngợm
đến như vậy!
Một hôm ông
thương gia này ăn mừng sinh nhật và mời
rất nhiều bạn bè đến nhà dự tiệc. Hôm ấy ông đột nhiên nh́n
thấy gương mặt của đứa bé này và vô cùng
kinh ngạc, ngay lúc ấy liền tuyên bố ông sẽ giao
toàn bộ tài sản cho đứa bé. Sau này ông giải thích với
bạn bè rằng toàn bộ tài sản của ông vốn là
của một người Đức; lúc trước
chiến tranh ông làm việc cho người Đức này, khi
người chủ trở về Đức nhờ ông
quản lư dùm công ty. Một
thời gian sau ông chủ này mất ở bên Đức và không
quay trở lại [Thượng Hải] nữa. Hôm ăn sinh nhật ông
đột nhiên nh́n thấy gương mặt của
đứa bé hiện ra giống hệt như gương mặt
của ông chủ người Đức, từ đó ông
mới biết đứa bé này chính là ông chủ lúc
trước (người Đức) trở lại
đầu thai nên ông lập tức trả lại toàn
bộ tài sản. Nhờ
vậy mà quan hệ cha con mới có thể duy tŕ.
Đức Phật nói
những người trong nhà như cha con, chồng vợ,
anh em đều có quan hệ báo ân, báo oán, đ̣i nợ,
hoặc trả nợ nên mới ở chung một nhà. Đứa bé này đến là
để đ̣i nợ, nhân duyên quả báo tơ hào
chẳng sai. Chúng ta hiểu rơ
đạo lư này th́ thử nghĩ nếu chúng ta có lỗi
đối với người, hiếp đáp
người, hăm hại người, nếu người
này đầu thai đến nhà chúng ta th́ trong tương
lai nhất định sẽ làm cho nhà tan cửa nát. Thế nên bất cứ ai trong
thế gian đều nhất định không có việc
bị thiệt tḥi, và cũng không có việc chiếm
tiện nghi, lợi dụng người khác được.
Thi ân cho người, giúp
đỡ người sẽ nhận được báo
đền; hiếp đáp người, dày xéo người,
sĩ nhục người, hăm hại người cũng
sẽ có báo đền.
Nếu sự báo đền này chỉ vừa đúng
[không hơn, không kém] th́ cũng c̣n được; nhưng
sự báo đền luôn luôn quá đáng, biến thành hận
thù oan oan tương báo, đời đời kiếp
kiếp không nhường nhịn lẫn nhau, oán hận
không bao giờ chấm dứt.
Chiến tranh giữa quốc gia này với quốc gia
khác cũng như vậy. Tuy
dân chúng của hai nước không có oán thù ǵ với nhau,
những người có oán thù chỉ là thiểu số,
nhưng nếu họ có quyền lực th́ sẽ liên
lụy đến rất nhiều người phải
chịu tai họa, gây tổn hại đến tài sản
và sanh mạng của nhiều người, tai hại vô
cùng, làm sao có đạo lư không đọa địa
ngục cho được?
Chúng ta hiểu được đạo lư, hiểu
rơ chân tướng sự thật, th́ mới biết không
nên làm việc này.
Thế nên lục
đạo luân hồi chỉ là ân ân oán oán báo đền
lẫn nhau mà thôi, chúng ta hiểu được th́ sẽ
buông xả, biết được thế gian này không vui
chút nào. Chư Phật, Bồ
Tát nh́n thấy được rơ ràng, chỉ cho chúng ta
một con đường quang minh, rộng lớn, đây
tức là Đại thừa Phật pháp, cơi nước chư
Phật ở thập phương.
Trong pháp Đại thừa, [các Ngài] lại nói cho chúng ta
biết một pháp môn đặc biệt, trong số các cơi
nước chư Phật th́ cơi Cực Lạc của
đức Phật A Di Đà là cơi nước thù thắng
tốt đẹp nhất.
Không những đức Thích Ca Mâu Ni Phật giới
thiệu cho chúng ta, trong bản dịch kinh A Di Đà của
đại sư Cưu Ma La Thập nói đến sáu
phương Phật tán thán; bản dịch kinh A Di Đà
của Huyền Trang đại sư nói đến
mười phương Phật tán thán. Kinh Vô Lượng Thọ cũng
nói đến mười phương Phật tán thán. Hết thảy chư Phật
Như Lai đều khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh Độ
Di Đà. Chư Phật, Bồ Tát
không gạt người, chúng ta đừng nên hoài nghi
lời nói của chư Phật, Bồ Tát. Từ xưa đến nay kinh
điển được trao truyền từ đời
này sang đời khác, đích thực là được
phiên dịch từ tiếng Phạn ở Ấn Độ, có
người phiên dịch, có nơi chốn phiên dịch,
chứng thật những kinh điển này có thể tin
được.
Cả
đời xưa và đời nay những người
chiếu theo phương pháp này tu hành được văng
sanh rất nhiều. Chúng ta
quan sát kỹ càng điều kiện của họ, nói chung
so với chúng ta th́ không khác ǵ mấy, không tốt hơn
chúng ta nhiều lắm.
Nhưng quan trọng nhất là họ có ḷng tin
vững chắc, nguyện vọng khẩn thiết, buông
xả hết thảy, chắc thật niệm Phật. Họ đă làm được
điểm này, trên phương diện này chúng ta c̣n
rất kém, chúng ta phải nỗ lực học tập theo
họ.
3. Dứt ác tu thiện làm lợi ích cho chúng
sanh
Đặc
biệt là ở thời đại ngày nay, Thiên Chúa Giáo có
lời dự đoán, năm 1999 là năm thế giới
tận thế, những lời này làm cho người ta
rất lo lắng, kinh sợ.
Lời dự đoán nói nếu con người
tiếp tục tạo ác không ngừng, tai nạn này có
thể trở thành sự thật; nếu có thể
đoạn ác tu thiện, hồi tâm chuyển ư, tai nạn
này có thể hóa giải. Câu nói
này vô cùng linh động, chẳng cứng chắc
(chẳng phải thay đổi không được), và nói
rơ quan hệ vẫn nằm trong tay của con
người. T́nh h́nh có thể
hóa giải nghĩa là tai nạn có thể giảm bớt,
tŕ hoăn đến sau này. Cách
nói như vậy hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp, có thể
biết họ cũng có trí huệ rất cao. Đoạn ác tu thiện là việc
rất nên làm, [chúng ta] làm không phải là v́ muốn tránh tai
nạn; không có tai nạn th́ cũng phải đoạn ác
tu thiện.
Đoạn ác tu thiện
phải bắt đầu từ trong tâm. Tâm của chư Phật, Bồ
Tát là tâm thuần thiện, tâm làm lợi ích cho tất
cả chúng sanh mà không v́ lợi ích cho cá nhân ḿnh. Theo sự quan sát của tôi, Tân Gia
Ba có ít nhất mười vị Bồ Tát, thiệt đúng
với câu: ‘chư
thượng thiện nhân câu hội nhất xứ’. Họ có tâm chân thành, tâm thanh
tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm từ bi, niệm niệm v́
chánh pháp tồn tại lâu dài, v́ lợi ích cho tất cả
chúng sanh, làm nên sự cống hiến to tát. Đời sống của họ
tương ứng với Lục Độ Ba La Mật,
đây là Bồ Tát trụ thế, hóa thân của Bồ
Tát. Tuy vai tṛ của họ
không giống nhau, đúng như kinh điển nói ‘cần
dùng vai tṛ ǵ để độ th́ hiện thân đó,
cần dùng phương pháp ǵ để làm lợi ích cho
chúng sanh th́ họ dùng phương pháp đó’. Tất cả hành động
của họ đều giữ tâm của Bồ Tát, hành
theo Bồ Tát Đạo.
Hy vọng [đồng tu
ở] Dallas cũng tổ chức phái đoàn đến
đó tham học, học hỏi tinh thần và phương
pháp của họ, và cũng hy vọng đạo tràng Dallas
này có thể biến thành trung tâm Tịnh Tông ở Mỹ. Chúng ta truyền bá Tịnh Tông
đến tất cả địa phương có duyên trên
thế giới, đây là lời nói trong nhà Phật: ‘Trong nhà Phật không xả bỏ
một người nào cả’.
Chúng ta cũng phải có hoằng nguyện to lớn
của chư Phật, Bồ Tát, toàn tâm toàn lực giúp
đỡ các vị đồng tu ở mọi nơi. Xin chúc phúc cho chư vị trong
Phật thất được đạo nghiệp
tăng trưởng, tín nguyện thành tựu, Phật thất
kỳ này sẽ thâu thập được hiệu quả
tốt đẹp.
f.
Giữ ǵn công phu
1.
Khắc
phục dục vọng giữ ǵn công phu
Trong quá tŕnh tu học
đa số người học Phật đều gặp
phải một vấn đề, đó là trong tâm có thể
giữ được thanh tịnh lúc niệm Phật trong
Niệm Phật Đường, nhưng vừa trở về
nhà, về chỗ làm việc th́ không thể nào giữ ǵn
công phu được. Nếu
chúng ta hy vọng trong
đời này có thể tu học thành tựu th́ đây
cũng là một vấn đề to lớn, cấp bách,
cần phải giải quyết nhanh chóng.
Không thể giữ ǵn
công phu có hai yếu tố:
Thứ nhất, phiền
năo tập khí từ vô lượng kiếp đến nay
quá nặng, không có năng lực khắc phục;
Thứ nh́, tâm sanh tử
không thiết tha.
Tại sao tâm sanh tử
không thiết tha? Đối
với thế gian này nhận thức chưa rơ ràng, không
biết thế gian này là hư ảo. Kinh Kim Cang dạy ‘Hễ những ǵ có
tướng đều là
hư vọng’ ‘Tất cả các pháp hữu vi
như mộng huyễn, bọt, bóng’. Trong kinh nói chân tướng sự
thật, chúng ta gặp mặt trên mạng lưới
internet càng dễ thể hội điều này. Chúng ta nói chuyện với nhau
mặt đối mặt trên màn ảnh [máy vi tính],
chuyện này cũng là mộng huyễn bọt bóng, và
cũng là một thứ hư vọng, nếu có thể
từ phương diện này mà thể hội th́ sẽ
giác ngộ, sau đó mới biết cho dù chúng ta đối
diện với nhau th́ cũng hư vọng, không chắc
thật.
Những ǵ chắc thật có
hay không? Có, nhưng chúng ta không
nh́n thấy. Lúc nào mới nh́n
thấy? Buông xuống tất
cả những vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, xả bỏ hết đến mức
‘nhất tâm bất loạn’ th́ có thể nh́n thấy sự
thật. Chỉ cần chúng ta
đạt được nhất tâm bất loạn,
cảnh giới chân thật tự nhiên sẽ hiện ra,
đây gọi là ‘Nhất Chân pháp giới’ trong Phật pháp.
Nhưng
cho dù công phu tu học của ḿnh có tốt hơn nữa,
định công sâu hơn, chỉ cần trong tâm c̣n giữ
một cái ‘Nhất Chân pháp giới’ th́ sẽ không thấy
Nhất Chân pháp giới. Công
phu đến mức Tứ Thiền Bát Định vẫn
chưa thấy được Nhất Chân pháp giới v́
tuy đè phục được phiền năo, nhưng
vọng tưởng phân biệt chưa đè phục. Đến mức Định Thứ
Chín, ra khỏi lục đạo luân hồi, ra khỏi tam
giới, sanh đến Tứ Thánh pháp giới: Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát, Phật (Phật trong thập pháp
giới là Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật trong Tông
Thiên Thai) th́ cũng chưa thấy được
tướng chân thật, nguyên nhân là v́ chưa đoạn
dứt vọng tưởng, chấp trước. Cần phải nỗ lực thêm
nữa, dùng định huệ đoạn dứt phân
biệt (Trần Sa phiền năo), phá thêm một phần vô
minh (tức là vọng tưởng) đến mức này
mới ra khỏi thập pháp giới, thấy
được tướng chân thật, mới thực
sự tương ứng với cảnh giới của
quả địa chư Phật Như Lai. Phải mất bao nhiêu công phu
mới đến mức này?
Ngày nay một chút định lực chúng ta cũng
không có!
Thí dụ
[hằng ngày] pḥng ăn ở Cư Sĩ Lâm có gần 20 món
ăn, quá nhiều món ăn để trước mặt
như vậy là một sự cám dỗ, chỉ thử
mỗi món một chút thôi th́ cũng no quá chừng. Người niệm Phật càng
ngày ăn càng mập thêm th́ không phải là một chuyện
tốt, chúng ta phải tự khắc phục ḿnh, trong
nhiều món đồ ăn này chỉ gắp ba bốn món
th́ thôi. Trong việc ăn
uống phải biết chế ngự, ăn cho
điều độ th́ mới có thể giữ thân tâm
khỏe mạnh; không chế ngự nổi th́ thân tâm sẽ
không khỏe mạnh. Nếu
ăn đến mập béo ra th́ thân thể sẽ không
khỏe mạnh; nh́n thấy những món ăn này rất
dễ tăng trưởng tâm tham, lại tạo nên tâm lư
không khang kiện. Tu hành là
phải tu trong những sự việc này.
Cho nên trong tất cả
hoàn cảnh phải biết khắc phục
được vọng tưởng của ḿnh, chế
ngự phân biệt, chấp trước của ḿnh,
hết thảy [những việc này] đều là Phật
pháp. Nếu có thể khắc
phục, chế ngự được ḿnh th́ mới có
thể giữ ǵn được công phu; nếu không
thể khắc phục được ḿnh, th́ không thể
bảo tŕ công phu. Những
đại đức thời xưa biết
được tập tánh của phàm phu rất nặng,
khắc phục ḿnh rất khó, nên mới chủ
trương, đề xướng ‘Y chúng kháo chúng’
(Nương dựa vào, noi theo đám đông), mới
tụ hợp lại tu tập chung với nhau, đốc
thúc, cảnh tỉnh, khích lệ lẫn nhau, dụng ư là
ở chỗ này.
2.
Nương
nhờ vào chúng (đoàn thể) xả thế duyên
Đạo tràng
tu tập chung với nhau cần phải có đầy
đủ nhân duyên, trong đó quan trọng nhất là duyên
phận, là phải nhờ vào người xuất gia
dẫn đầu; người xuất gia càng nhiều,
ḷng tin của những người đồng tu sẽ
càng tăng trưởng. V́
vậy nên người xuất gia phải phát ḷng từ bi,
không nệ khó nhọc, lănh chúng trong Niệm Phật
Đường. Đạo tràng có
càng nhiều người xuất gia càng tốt, đây là
sự thù thắng trang nghiêm chân chánh của đạo
tràng.
Hy vọng huân tập
ở Niệm Phật Đường trong một thời gian
dài có thể bảo tŕ được công phu, bất
kỳ ở nơi chốn nào, trong gia đ́nh, sở làm đều
có thể giữ ǵn tâm thanh tịnh, niệm Phật như
thế mới gọi là đạt được mục
đích.
Ngày nay số
người ở Niệm Phật Đường tại
Cư Sĩ Lâm ngày càng nhiều, xây dựng và đẩy
mạnh phong trào niệm Phật.
Những người đến đó niệm
Phật rất đông, đến măi không ngớt, ngày càng
nhiều. Chúng tôi hy vọng xây
dựng một đạo tràng ‘giải hành tương
ứng’, mỗi ngày giảng kinh không gián đoạn,
niệm Phật không gián đoạn, làm gương cho
đạo tràng ở những nơi khác. Thích hợp nhất cho những
vị đồng tu đă về hưu, họ buông
xuống công việc làm ăn, ở đó trường
kỳ tham gia niệm Phật.
Những người trong gia đ́nh vẫn c̣n đang
đi làm th́ lợi dụng thời gian rảnh rỗi đến
Niệm Phật Đường để niệm
Phật. Thế nên hiện nay
khí phần (không khí hoàn
cảnh tu học) ở Niệm Phật Đường vô cùng
tốt đẹp, vô cùng thù thắng. Và cũng v́ khí phần tốt
đẹp như vậy nên rất nhiều vị
đồng tu vui vẻ đi đến, đến
rồi đều không muốn đi về. Nếu có thể trụ ở
đạo tràng như thế này trong ṿng nửa năm,
một năm, ba năm th́ không thể nào không thành tựu
được.
Trong
‘Tịnh Độ Thánh Hiền Lục’, ‘Văng Sanh Truyện’
chúng ta thấy rất nhiều Bồ Tát văng sanh bất
thoái, thời gian niệm Phật phần nhiều là ba
năm. Do đó có thể
biết trong ṿng 3 năm th́ có thể thành tựu. Nhưng không thể nói họ
niệm Phật hết ba năm th́ thọ mạng
đều hết, mà v́ công phu thành thục nên mới
tự tại văng sanh. Hễ
những người có công phu thành thục nếu không văng
sanh mà c̣n lưu lại trên thế gian này chỉ có một
nguyên nhân duy nhất là để độ chúng sanh. Vẫn c̣n một số chúng sanh
có duyên với họ, họ có thể giúp đỡ cho nên
lưu lại thêm một thời gian nữa. Nếu không có duyên phần
đối với những người ở đó th́
tại sao không đi sớm hơn?
Mỗi ngày chúng ta đều mong mỏi, trông về
Tây phương Cực Lạc thế giới, mỗi ngày
tưởng niệm đức Phật A Di Đà, có thể
gặp Ngài sớm hơn th́ tốt biết mấy, tại
sao cơ duyên đến lại phải kéo thêm vài ngày? Chúng ta muốn đi nhưng
đi không được, nếu có năng lực th́
đă đi sớm mất rồi.
Chúng ta b́nh tĩnh suy nghĩ, quan
sát người trên thế gian này ai cũng khổ. Mọi người cảm
thấy sanh hoạt, việc làm của ḿnh quá khổ,
thật ra những người làm sự nghiệp to
lớn c̣n khổ hơn chúng ta.
Gần đây tôi xem cuồn phim ‘Chiến tranh lạnh
bắt đầu và chấm dứt’, nói về những
người lănh đạo quốc gia trong nửa thế
kỷ vừa qua, mỗi ngày đều phải đề
pḥng không cho tai họa bộc phát, đặc biệt là
những tai nạn do con người gây ra, làm thế nào t́m
mọi cách để tiêu trừ [tai nạn]. Họ bận tâm, lo lắng quá
nhiều, cuộc sống khổ quá đi thôi. Sau khi tôi coi xong mới biết
muốn làm một người lănh đạo quốc gia,
đoàn thể thiệt là không đơn giản chút nào.
Thiệt ra
đời sống của những người lănh
đạo có địa vị cao, những người làm
ăn buôn bán giàu có không sung sướng chi cả. Nếu bạn đă nh́n thấy
rơ ràng, minh bạch th́ mới biết đời sống
của họ c̣n sánh không bằng đời sống
của một người ăn xin. Người đi xin ăn khi nào
bụng đói th́ đi xin ăn, ăn no rồi th́ hết
chuyện, tùy tiện t́m một chỗ để ngủ,
không có bồn chồn lo lắng, [họ] thảnh thơi
tự tại biết bao!
Chuyện đau khổ nhất của con
người là chuyện bận tâm quá nhiều, lo lắng
quá nhiều, vướng bận quá nhiều, ngày tháng
đích thật không thoải mái tí nào. Nếu họ có thể học
Phật th́ thiệt là phước báo to lớn!
Lúc trước tôi có
khuyên đại chúng, gắng sức làm việc kiếm
tiền trong một năm để có đủ tiền
chi tiêu cho đời sống th́ nghỉ không làm việc hai
năm, chuyên tâm hết ḷng niệm Phật; đây là
người có trí huệ, có đại phước báo. Sau hai năm tiền xài hết th́
đi kiếm công việc trở lại. Nếu bạn hỏi t́m công
việc làm không dễ, đến lúc đó có thể t́m
được hay không? Nhất
định sẽ t́m được. Tại sao vậy? Chư Phật, Bồ Tát gia tŕ cho
bạn, bạn nên tin tưởng chư Phật, Bồ
Tát. Ở thế gian này
nhờ vả người ta không được, nhờ
vả Phật, Bồ Tát nhất định có thể
được. Nhưng
bạn phải có ḷng tin hoàn toàn đối với chư
Phật, Bồ Tát, tu học đúng như lư và làm đúng
như lời dạy, làm sao không thành tựu
được cơ chứ!
Đây cũng là một phương pháp bảo tŕ tâm thanh
tịnh.
Nói
tóm lại nguyên tắc quan trọng nhất để
giữ tâm thanh tịnh là:
Thứ
nhất phải có ḷng tin vững chắc muốn rời
khỏi Sa Bà, cầu sanh Tịnh Độ, đây là chân tâm.
Thứ
nh́ tuyệt đối đừng bị thế gian cám
dỗ, phải buông xuống, buông xả hết thảy
pháp thế gian và xuất thế gian. Trong tất cả pháp thế gian
và xuất thế gian chỉ lựa chọn một pháp mà
ḿnh cần, tuyệt đối không chọn quá nhiều, có
câu rằng ‘biết đủ th́ thường vui’. Tâm của bạn sẽ
định, sẽ thanh tịnh; mới có thể bảo
tŕ tâm thanh tịnh trong thời gian dài mà không mất. Điểm này vô cùng quan trọng. Người tu hành thời xưa
có thành tựu đều là nhờ yếu tố này. Có thể khắc phục dục
vọng của ḿnh, khắc phục vọng tưởng
của ḿnh, thiệt có thể làm đến mức nói trong
kinh Kim Cang: ‘Không chấp vào
tướng, như như chẳng động’. Trong đời sống chỉ
lấy những ǵ ḿnh cần dùng là đủ, như
vậy mới không bị cám dỗ, mới giữ
được tâm thanh tịnh.
g. Buông
xả tâm muốn khống chế và tâm muốn chiếm
lấy
1. Dưỡng tâm c̣n quan
trọng hơn dưỡng thân
Người xưa
dạy chúng ta: ‘Buổi sáng phải ăn cho tốt,
buổi trưa phải ăn cho no, buổi tối phải
ăn ít’. Đây là đạo
dưỡng sinh và cũng là một nguyên tắc của
sự hấp thụ dinh dưỡng. Chân chánh biết đạo
dưỡng sinh nói theo nhà Phật th́ phải biết
‘dưỡng tâm’, v́ tâm có thể sanh ra rất nhiều pháp,
tâm là pháp năng sanh, thân là pháp sở sanh, cho nên tâm thanh
tịnh th́ thân sẽ thanh tịnh; thân tâm thanh tịnh th́
hoàn cảnh bên ngoài sẽ thanh tịnh, đây là một
đạo lư nhất định.
Nhưng rất ít người trong thế gian hiểu
được đạo lư này, vẫn ráng sức t́m
cầu để bù đắp dinh dưỡng từ bên
ngoài.
Người tu hành chân
chánh đối với dinh dưỡng cho thân thể không
t́m cầu ở bên ngoài mà hoàn toàn hướng về bên
trong. Trong kinh nói người
trên cơi trời Sắc giới trở lên dùng ‘thiền
duyệt’ làm thức ăn, thiền duyệt là từ
tự tánh lưu xuất, không phải cầu
được từ bên ngoài.
Cho nên đức Phật nói năm thứ ‘tiền
tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ
nghỉ’ đều có thể bỏ được. Năm thứ này được
gọi là ‘ngũ cái’ (năm
thứ che đậy), nó che phủ tâm tánh, trí
huệ, đức năng của chúng ta, làm cho trí huệ,
đức năng của chúng ta không thể hiện
tiền. Năm thứ này là
dục vọng, nếu sanh tâm tham đắm năm thứ
này th́ phiền năo chỉ gia tăng mà không giảm bớt,
làm sao đoạn dứt phiền năo được?
Đức
Phật dạy đệ tử nhất định
đừng phân biệt, chấp trước đối
với thức ăn. Ngày
xưa lúc đức Phật c̣n tại thế đi
khất thực, người ta cho ǵ ăn nấy, vả
lại chỉ cho phép đi khất thực bảy nhà,
nếu bảy nhà này cho không đủ hay không cho th́
phải đi về tu thiền định. Cách làm này là để giúp
người tu khắc phục dục vọng, tâm tham, và
phiền năo; chúng ta phải hiểu đạo lư này.
V́ chúng ta có
thân thể cho nên phải [ăn uống để] hấp
thụ dinh dưỡng, không thể không duy tŕ sự
khoẻ mạnh của thân thể.
Nếu thân thể không khoẻ mạnh, phải
nhờ người khác săn sóc, cư ngụ trong
đạo tràng cũng phải làm nhọc thường trú,
như vậy không tốt.
Nhưng phải hiểu đạo lư khoẻ mạnh
ở tại tâm thanh tịnh.
Đối với ḿnh tuyệt đối phải giữ
tâm cho được thanh tịnh, thanh tịnh vô vi;
đối với người, với sự, với
vật cần phải có tâm đại từ đại
bi, vô sở bất vi (không từ
khước làm bất cứ thứ ǵ), được vậy chúng ta mới có
thể dùng hành động để phục vụ
đại chúng, giúp đỡ đại chúng. Đây đều là lời thánh nhân
thế gian và xuất thế gian dạy chúng ta.
2. Năng và
Sở đều là không, bất khả đắc
(đều không thể được)
Nhưng ái tâm (tâm
thương mến) là nghĩa vụ, nhất định
không được chiếm lấy. Cho dù rất thương mến
con cái và người thân của ḿnh, tâm này của phàm phu
cũng không thể gọi là từ bi, v́ nó có chứa
đựng tâm niệm khống chế, chiếm lấy
ở trong. Mỗi tâm niệm đều muốn
điều khiển, khống chế, chiếm lấy
tất cả người, sự, và vật, như vậy
là sai lầm. Sai ở chỗ
nào? Đức Phật dạy
chúng ta: ‘năng và sở
đều là không, trọn chẳng thể lấy
được, có được’ [29]. Trong 600 quyển kinh Bát Nhă, ba
chữ ‘bất khả đắc’ (không
thể lấy được, có được) đă
lập đi lập lại trên ngàn lần, đó là
muốn cho chúng ta ghi nhớ kỹ càng ‘bất khả
đắc’ là chân tướng sự thật, nếu
cứ tưởng tất cả có năng đắc, có
sở đắc (có cái năng được, có cái
để ḿnh lấy được), đó đều là
ngu si, vô minh.
Nếu
hiểu thấu tất cả pháp đều không thể có
được, năng và sở đều không thể
đạt được th́ bạn sẽ giải
thoát. Dùng danh từ hiện nay
để nói th́ ‘giải thoát’ tức là tâm lư không có ràng
buộc, lo lắng, bận bịu, tâm của bạn
được tự tại, buông xuống hết thảy
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Lư do mọi việc ǵ chúng ta
cũng buông xuống không được chính là v́ ngu si
chưa bị phá trừ, vẫn c̣n cho là ‘có năng
đắc, có sở đắc’, trong tâm c̣n bị ràng
buộc, c̣n lo âu cho nên sinh sống rất khổ sở,
công phu tu học cũng không đắc lực.
Chư Phật Như lai
ứng hóa trong thế gian, tất cả những việc
làm, hành động đều là ‘Phật
sự trong mộng, đạo tràng như bóng trăng
dưới nước’.
Đạo tràng được xây dựng càng lớn, càng
huy hoàng, người giác ngộ đều xem là hoa trong
gương, ánh trăng dưới nước, không có chút
ǵ chấp trước, keo tham, như vậy mới
được đại tự tại, đó mới là
sự hưởng thọ cao độ. Trong sanh hoạt đối
với tất cả người và vật nếu có
những sự thọ dụng, tuyệt đối không
được khống chế, đừng có tâm niệm
chiếm lấy, như vậy mới sống một
đời sống của Phật, Bồ Tát; sự khác biệt
của phàm phu và Phật, Bồ Tát là ở chỗ này. Phàm phu th́ mỗi tâm niệm
đều muốn khống chế, điều khiển
người khác, mỗi tâm niệm đều muốn
chiếm lấy tất cả, cho nên trong tâm cứ lo
được, lo mất, âu lo phiền năo vĩnh viễn
không dứt, sống trong những ngày tháng như vậy
rất khổ sở.
C̣n chư Phật, Bồ
Tát đại từ đại bi nhất định viên
măn hàm nhiếp ‘chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh
giác’. Bất cứ một
điều trong năm chữ này đều chứa
đựng bốn điều kia, như vậy mới là ‘một là tất cả, tất
cả là một’. Nếu
tâm từ bi không thanh tịnh, không b́nh đẳng th́ là
một trong bốn loại ‘ái duyên từ bi’ nói trong
Phật pháp. Đây là từ bi
của phàm phu, vẫn c̣n khống chế, chiếm lấy,
không có bỏ hết tất cả yêu cầu, đ̣i
hỏi, đây không phải là đại từ đại
bi. ‘Ái duyên từ bi’
hướng lên trên là ‘chúng sanh duyên từ bi’, ‘pháp duyên
từ bi’, lên nữa là ‘vô duyên từ bi’, đại từ
đại bi tức là ‘vô duyên từ bi’. Vô duyên tức là không điều
kiện, không yêu cầu đ̣i hỏi, không có chiếm
lấy, không có khống chế, đó là đại từ
đại bi của chư Phật và Pháp Thân Đại
Sĩ. ‘Vô duyên từ bi’ có
đầy đủ chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác. Nếu
chúng ta dùng tâm này để xử sự, đối đăi
với người, tiếp xúc với sự vật,
thế th́ trong lúc xử sự, đối người,
tiếp vật đă chứng quả rồi. Giống như ‘nhập đại
giải thoát môn’ (vào cửa giải thoát to lớn) nói trong
kinh Hoa Nghiêm, thế th́ thành Phật rồi. Chữ đại ở đây
cũng có nghĩa là Đại thừa, cửa giải thoát
nhỏ là A La Hán, bậc thánh của Tiểu Thừa.
Đọc kinh nghe pháp
Chúng ta là phàm phu,
nghiệp chướng, tập khí, phiền năo vô cùng sâu
nặng, rất khó đoạn dứt, chỉ có dùng
phương pháp giác ngộ mới có thể đoạn
dứt. V́ vậy cho nên
đọc kinh, nghe pháp vô cùng quan trọng, một ngày
cũng không thể gián đoạn.
Chúng ta không phải là người có thượng
căn, lợi trí (trí óc lanh
lợi bén nhạy), không thể chỉ lắng nghe, học
tập trong một thời gian ngắn mà có thể khai
ngộ. Người trung và
hạ căn muốn đạt được ích lợi
ngay trong một đời, chỉ có phương pháp duy
nhất là đọc kinh, nghe pháp, huân tu trong thời gian dài
mới có thể khế nhập vào cảnh giới
‘nhập Phật pháp’ nói trong kinh Hoa Nghiêm. Nhập Phật pháp tức là giác
ngộ, đây là đạt được lợi ích chân
thật.
4.
Quản lư
sự việc phải giữ giới luật thanh tịnh
Tôi là một
người phàm, là người căn tánh trung hạ, hôm
nay có được chút đỉnh thành tựu này, có
được chút đỉnh trí huệ này đều là
do đọc kinh, giảng kinh hằng ngày trong suốt
bốn mươi mấy năm qua. Có một số đại
đức cũng giảng kinh nhưng ngoài việc
giảng kinh ra họ c̣n phải quản sự (quản lư
sự việc); quản sự phải lo lắng, bận tâm,
ít nhiều cũng gây ra chướng ngại cho ḿnh. Duyên phần của tôi trong
đời này rất thù thắng, cả đời ‘không
quản lư người, không quản lư sự việc, không
quản lư tiền bạc’, cho nên sự việc trong
thế tục đối với tôi không gây chướng
ngại, mới có được chút đỉnh thành
tựu này, đây cũng là việc tôi hiện thân
thuyết pháp làm gương cho mọi người.
Người như
thế nào có thể quản lư sự việc? Phải có tâm thanh tịnh. Cho nên ngày xưa những vị
quản sự trong chùa chiền, ṭng lâm đều là chư
Phật, Bồ Tát ứng hóa tái lai.
Chúng ta không phải thánh nhân ứng hóa, chúng ta đích
thực là phàm phu. Nếu phàm
phu chánh cống đi làm việc tức là xả kỷ
vị nhân (hy sinh ḿnh
để phục vụ cho người khác) thế th́
cũng đáng được ngưỡng mộ, kính
phục. Tuy hy sinh định
huệ của ḿnh để phục vụ đại
chúng, nhưng nhất định phải giữ giới
cho được thanh tịnh, đây mới là tu
phước báo chân chánh.
[Giữ] giới thanh tịnh tức là chăm sóc
phục vụ cho đại chúng đúng như lư, như
pháp, không có tâm riêng tư, dùng tâm chân thành, lo lắng, chăm
sóc, giúp đỡ hết thảy đại chúng tu học
đàng hoàng.
Hàn Quán Trưởng là
hạng người này, bà không phải là Phật, Bồ
Tát hóa thân đến, bà sáng lập xây dựng đạo
tràng, thành tựu cho đại chúng, có ân đức rất
lớn đối với chúng ta.
Chúng ta báo đáp cho bà được thể hiện
[một cách trọn vẹn] lúc bà lâm chung, chúng ta tiễn
đưa bà văng sanh, đây là báo ân một cách trọn
vẹn, lớn lao. Nhưng
duyên như vầy rất khó được, không phải
người nào cũng có duyên phần tốt như
vậy, cơ hội tốt như vậy. Nếu bà không văng sanh được
th́ đời sau sẽ hưởng phước báo to
lớn, làm quốc vương đại thần,
trưởng giả cự phú.
Nhưng phước báo ở thế gian cho dù làm
đến Đại Phạm Thiên Vương, Ma Hê Thủ La
Thiên Vương th́ vẫn c̣n ở trong ṿng lục
đạo luân hồi, thoát không khỏi tam giới, cho nên
phước báo như vậy chẳng rốt ráo viên măn.
Ngày nay chúng ta hiểu rơ ràng minh bạch th́ chỉ có
văng sanh bất thoái thành Phật mới là chân thực
[rốt ráo, viên măn].
5.
Buông xả
khống chế, chiếm lấy, yêu cầu (đ̣i
hỏi)
Tu học tức là
học làm thế nào sống qua ngày, biết làm thế nào
đối với ḿnh, đối với người. Đối với ḿnh tuyệt
đối phải thanh tịnh, từ bi, chuyên tu chuyên
hoằng; đối với người nhất
định phải chân thành, thanh tịnh, từ bi,
phải làm được vô duyên [từ bi], không có
điều kiện. Nhất
định đừng có tâm niệm khống chế [bắt
buộc người ta luôn luôn phải làm theo ư của ḿnh],
đừng giữ tâm niệm chiếm lấy đối
với tất cả mọi người, mọi sự,
mọi vật, phải buông bỏ hết tất cả yêu
cầu, đ̣i hỏi, đây là trí huệ, đây là công
đức, sánh với phước đức c̣n thù
thắng hơn nhiều. Hy
vọng mọi người đều khích lệ
khuyến tấn lẫn nhau, y giáo phụng hành.
Trong
quá tŕnh chuyển ngữ chắc không tránh khỏi thiếu
sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính
cho.
Xin
thành thật cám ơn.
Một
nhóm Diệu Âm cư sĩ, 4 tháng 9-2004
C.
TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU
Buổi nói chuyện
với lớp đào tạo nhân tài hoằng pháp kỳ 2,
tháng 11, 1996 tại Cư Sĩ
Lâm Tân Gia Ba
I. Chân
tướng của Đạo.
Thập đức:
Nh́n thấu,
Buông xả, Tự Tại, Tùy duyên, Niệm Phật
Pháp thế
gian và xuất thế gian đều coi trọng
‘đạo’; ‘đạo’ rốt cuộc là ǵ? Truyền đạo, hoằng
đạo, bạn hoằng đạo ǵ, nhất
định phải có khái niệm rơ ràng. Chúng ta quy nạp (tổng hợp)
lời giáo huấn của đức Phật, giáo học
của Phật pháp thành hai chục chữ: Chân thành, Thanh tịnh,
B́nh Đẳng, Chánh giác, Từ bi; Nh́n thấu, Buông xả,
Tự tại, Tùy duyên, Niệm Phật. Đương nhiên mỗi
người quy nạp sẽ không hoàn toàn giống nhau, tuy
vậy cũng như người xưa có nói:
‘Người mù sờ voi’, ai cũng đều sờ
được. Bất kể
sờ đến bộ phận nào đều không sai, tuy
chỉ là một bộ phận của toàn thể nhưng
đều có thể tiếp xúc, đạt đến
mục đích. [Ai cũng] có
thể chứng đến viên măn Vô Thượng Bồ
Đề v́ phương hướng và mục tiêu không sai,
đều thuần chánh hết. V́ vậy có rất
nhiều cách nói giống những bộ phái của Ấn
độ thời xưa, các tông phái của Phật giáo
ở Trung quốc, hết thảy đều là Phật
pháp thuần chánh. Phật pháp
thuần chánh nhất định có thể giúp người
ta minh tâm kiến tánh, giúp đỡ người thành
tựu Vô Thượng Bồ Đề nên đều gọi
là chánh pháp. Như trong kinh Kim
Cang đức Phật dạy: ‘Pháp
môn b́nh đẳng, không có cao thấp’. Đây là điều mà chúng ta phải
khẳng định trước hết để sau này
không đến nỗi hoài nghi.
Chúng ta tu học Tịnh Tông,
đặc biệt là người hiện nay, những kinh
luận của đức Thế Tôn nhiều như
biển cả, chúng ta làm sao lựa chọn? Lựa chọn phải tinh
đáng: tinh là tinh hoa, tinh yếu, đáng là thích hợp,
vừa đúng. Hai chữ ‘tinh
đáng’ này không có tiêu chuẩn [nhất định],
thế th́ nguyên lư, nguyên tắc ở chỗ nào? Phải ‘khế cơ’, khế
cơ tức là ‘tinh đáng’.
Căn cơ của người xưa khác
người thời nay, căn cơ của người
Trung Quốc không giống căn cơ của người
ngoại quốc. Nếu
căn cơ giống nhau th́ sự lựa chọn của
mọi người phải giống nhau. Như vậy tại sao ở
Ấn độ th́ gọi là bộ phái, nhưng ở Trung
quốc th́ gọi là tông phái?
Từ điểm này có thể biết mỗi
người lựa chọn khác nhau, chỉ cần thích
hợp với người đó là được.
Trong kinh đức Thế Tôn thường thí
dụ Phật là đại y vương, tất cả các
pháp mà đức Phật đă nói ví như thuốc men,
chúng sanh trong chín pháp giới đều là bịnh nhân, làm
thế nào để lấy, bỏ th́ mới tinh
đáng? Lựa thuốc nào mà
chữa đúng căn bịnh th́ gọi là ‘tinh
đáng’. [Lựa thuốc]
đúng căn bịnh, uống thuốc vào th́ hết
bịnh; nếu thuốc không đúng căn bịnh th́
thuốc này không ‘tinh’, không thích hợp, c̣n có thể làm cho
bịnh trở nặng thêm, hoặc người bịnh
uống thuốc này bị phản ứng, chết luôn,
như vậy th́ thuốc này không ‘đáng’ ǵ cả. Bởi vậy nên quư vị
phải hiểu được hai chữ ‘tinh đáng’,
phải hội đủ ba điều kiện: tùy
thời, tùy người, tùy chỗ, và ‘khế cơ,
khế lư’ th́ mới ‘tinh đáng’.
1.
Chân thành
Sinh sống trong thời
đại ngày nay, chúng ta phải hiểu thật rơ căn
cơ của chúng ta như thế nào, trong Phật pháp sâu
rộng như biển cả làm thế nào lựa chọn
đúng thuốc để đối trị với căn
bịnh, đối trị tập khí của chúng ta, đây
là nguyên tắc chính để lựa chọn; mười
điều này là thuốc hay để chữa trị
tất cả bịnh tật, tập khí của
người thời nay.
Điều thứ nhất là
chân thành. Người thời
nay thường giả dối, hư ngụy. Hai chữ chân thành chính là thuốc
hay cho căn bịnh này! Chúng
ta là người thời nay, tâm chúng ta có chân hay không, có thành
hay không? Không chân, không thành! Chúng ta cũng hư ngụy,
cũng giả dối, cho nên phải lấy thuốc này
chữa trị cho chúng ta trước; chữa cho chúng ta
xong hết rồi th́ chúng ta mới có đủ ḷng tin
để nói thuốc này hay lắm -- Bịnh của
bạn giống y như bịnh của tôi, đại khái
th́ bạn cũng có thể uống thuốc này thử xem
sao. Đây là nền tảng
thấp nhất. Mục
đích chúng ta học Phật là muốn làm Phật; làm
Phật th́ đâu có lư nào làm Phật giả? Phật làm sao giả mạo
được? Cũng
giống như lời dạy của Thiện Đạo
đại sư: ‘Hết
thảy đều phải bắt đầu từ tâm chân
thật!’, trong ‘Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ’ bạn hăy
coi Ngài lập đi lập lại câu này bao nhiêu lần,
những ǵ mà cứ lập đi lập lại nhiều
lần không có dụng ư ǵ khác ngoài [ư muốn nhấn
mạnh] hy vọng khi bạn xem quyển chú giải này
nếu không nhớ ǵ hết nhưng chỉ nhớ câu này
thôi cũng được, đây là câu nói quan trọng
nhất.
Cho dù
người khác giả dối với ta, cho dù tất
cả người trên thế giới này giả dối
với ḿnh, chúng ta vẫn phải chân thành đối
với tất cả mọi người. Tại sao vậy? Tại v́ chúng ta muốn làm
Phật. Tại sao họ
giả dối? Tại v́
họ muốn ở trong lục đạo luân hồi. Hiện nay tôi học Phật, tôi
giác ngộ rồi! Giác ngộ
là từ đây trở về sau tôi không c̣n muốn kẹt
ở trong lục đạo luân hồi nữa, tôi nhất
định phải vượt thoát ra khỏi lục
đạo luân hồi. Lấy
cái ǵ để vượt thoát?
Lấy chân thành. Nếu
bạn không ra sức từ chân thành, th́ bất kể
bạn tu hành ra sao, tu giỏi đến đâu, ngồi
xếp bằng nhập định suốt cả năm
th́ cũng không hay ho chi cả, vẫn kẹt trong lục
đạo luân hồi như cũ; cho dù bạn giảng
kinh lưu loát tài giỏi đến mấy th́ vẫn
ở trong lục đạo luân hồi, điểm này
rất quan trọng! Chúng ta dùng
tâm chân thành đối xử với người,
đừng sợ thiệt tḥi, đừng sợ bị
gạt. Nếu bạn
sống đến một trăm tuổi, chịu
thiệt tḥi hay bị gạt th́ nhiều lắm cũng
chỉ thiệt tḥi, bị gạt một trăm năm mà
thôi. Thời gian một trăm
năm trôi qua rất nhanh!
Chỉ cần thoát ra khỏi lục đạo luân
hồi th́ phước báo này quá lớn, một trăm
năm chịu thiệt tḥi hay bị gạt này rất
đáng giá, xứng đáng vô cùng!
Sau khi
hiểu rơ th́ tại sao bạn c̣n không chịu bị
thiệt tḥi? Tại sao không
chịu bị gạt?
Huống hồ bạn đều biết ‘sanh không
mang đến, chết không mang đi’. Rốt cuộc th́ bạn đă
chịu thiệt tḥi những ǵ?
Bị gạt những ǵ?
Người ta gạt bạn để lấy danh
tiếng, lợi dưỡng của bạn, lúc sanh ra
bạn chẳng đem đến những thứ danh
tiếng lợi dưỡng này, đến lúc bạn
chết th́ cũng đem theo không được. V́ vậy nếu nh́n thấy rơ
ràng th́ đâu có ǵ gọi là chịu thiệt tḥi hay bị
gạt nữa! Chịu
thiệt tḥi hay bị gạt đều là quan niệm sai
lầm, đều không phải là sự thật. Thực sự th́ ai chịu
thiệt tḥi và ai bị gạt?
Những người hư dối thực sự là
đă chịu thiệt tḥi và bị gạt. Không những họ phải đi
vào lục đạo luân hồi mà c̣n phải đọa
tam ác đạo nữa.
Giả sử toàn bộ tài sản trên thế giới
đều là của tôi và đều bị bạn gạt
hết trơn th́ cũng không sao.
Cho dù bạn lấy được ráo trọi th́
bạn vẫn phải đi vào sáu nẻo [luân hồi] và ba
đường ác.
2.
Có thể
xả, chịu buông xuống th́ sẽ thoát ra khỏi luân
hồi
Nếu bạn có thể xả, chịu buông
xuống th́ bạn sẽ thoát ra khỏi luân hồi: một khi
thoát ra khỏi lục đạo luân hồi th́ phạm vi
hoạt động của bạn [sẽ vô cùng to lớn]
sẽ là tận hư không, khắp pháp giới. Bạn muốn thoát khỏi hay
không? Tại sao c̣n chịu
kẹt măi trong ṿng luân hồi?
Luân hồi chỉ có khổ, không có vui sướng ǵ
đâu! Cơi Dục giới có
đầy đủ ba thứ khổ, không cần nói rơ quư
vị cũng đă biết rồi; cơi Sắc giới tuy
không có Khổ khổ, nhưng c̣n Hành khổ và Hoại
khổ [30]. Lên đến cơi Vô Sắc
giới không c̣n thân thể nữa (một số
người gọi là ‘Linh
Giới’), không có thân thể th́ đương nhiên không có
Hoại khổ, nhưng họ c̣n Hành khổ. Cho nên đức Phật nói tam
giới đều khổ cả!
Trong lục đạo đâu có vui sướng ǵ
đâu? Sự vui bất quá
chỉ là lúc bạn tạm ngưng chịu khổ trong
chốc lát, làm cho bạn có cảm giác là có vui. Sự thật để
trước mắt, mỗi ngày người ta ăn ba
bữa, nếu không ăn một bữa th́ sẽ đói và
khổ liền. Từ đó
có thể biết ăn một bữa cũng giống
như bịnh nhân uống thuốc vậy, nếu bạn
không uống thuốc th́ ‘bịnh đói’ sẽ hoành
hành. Trong một ngày ngắn
ngủi th́ đă phải ‘chữa trị’ hết mấy
lần, thế th́ có ǵ là vui đâu?
Bạn vui ở chỗ nào?
Người ta ngu mê như vậy, chân tướng
sự thật để trước mắt mà không
biết, vẫn c̣n mê luyến trong biển khổ!
3. Căn bản của thành
đạo – chân thành, không dối ḿnh, không có chuyện ǵ
sợ cho người biết.
Chúng ta học Phật phải bắt đầu
học từ đâu? Từ
chân thành!
Ấn Quang đại sư dạy: ‘Có một phần thành kính th́
được một phần lợi ích’. Không hẳn chỉ là Phật pháp,
thế pháp cũng vậy, nhất định phải dùng
thành kính để đối đăi với người.
Tu ‘chân thành’ bắt đầu từ đâu?
Bắt đầu từ không tự gạt, không
nói dối.
Ngày nay trên toàn thế giới cho đến pháp
luật cũng đ̣i phải có quyền ẩn tư (riêng
tư), thế mới biết người trên thế gian
không có ư niệm muốn thoát ly luân hồi; không những
không muốn thoát ly lục đạo, ngay cả ư muốn
thoát ly Dục giới cũng không có. Tại sao vậy? Họ có tâm riêng tư! Tâm riêng tư nặng th́ chấp
trước ngũ dục lục trần rất mạnh
mẽ, không có năng lực sanh lên cơi Sắc giới. Tâm của người trên cơi
Sắc giới thanh tịnh hơn chúng ta rất nhiều,
không có dục vọng nhiều như chúng ta. Tại sao bạn tham thiền
không đắc được định? V́ dục vọng quá sâu
đậm, v́ chấp trước quá nặng nề cho nên
họ tu định cũng không thể sanh đến cơi
trời Sơ Thiền.
Thế nên bạn mới biết sự nguy hại
của quyền riêng tư là bao lớn! Đă biết rằng sanh không mang
đến, chết cũng không mang theo th́ có ǵ đâu mà
không thể công khai? C̣n bí
mật ǵ muốn dấu người ta? Những chuyện không thể nói
cho người biết đều không phải là chuyện
tốt. Chuyện tốt th́
sao không thể nói cho người ta biết? Cho nên bạn phải hỏi
học Phật bắt đầu từ đâu? Tu hành bắt đầu tu từ
đâu? Đều bắt
đầu từ đây!
Nếu bạn c̣n chuyện ǵ không thể nói cho
người khác biết th́ bạn có thể thành tựu
trong Phật pháp hay không?
Niệm Phật một ngày niệm mười
vạn tiếng Phật hiệu, th́ hét bể cuống
họng cũng uổng công mà thôi.
Bạn niệm Phật không thể văng sanh, tham
Thiền cũng không đắc được
định, càng không thể nói đến khai ngộ, nghiên
[cứu] Giáo [môn] th́ cũng không thể khai giải, [trên con
đường] tu ‘đạo’ này bạn không có
phần! Bạn chỉ
kết thiện duyên với Phật pháp, trồng một
chút thiện căn mà thôi, phải đợi đến
đời kiếp nào mới có thể thành tựu? Xa lơ xa lắc hà! Đời này không c̣n trông mong ǵ
nữa!
Nếu chúng ta muốn thành tựu ngay trong
đời này th́ phải nhổ tận gốc những
căn bịnh thói quen hư ngụy, giả dối; khi
xử thế, đối người, tiếp vật
phải dùng chân thành, chúng ta phải bắt đầu
từ đây. Trước
hết phải nhớ: đừng sợ chịu thiệt
tḥi, đừng sợ bị gạt. Trên thực tế th́ bạn
nhất định không có chịu thiệt tḥi, không bị
gạt ǵ cả. Nếu trong
tâm không có âu sầu, không có lo lắng, nhớ nhung, th́
bạn sẽ rất khoái lạc, vui vẻ! Thực sự đạt
được đại tự tại (thong dong, thảnh
thơi)! Bạn không có
phiền năo th́ sau đó bạn mới có thể làm được
một người ‘chân chánh, chân thường’; con
người trong thế gian này không chân thường là v́
họ không chân thật, không chân thành tức là không chánh thường.
4. Cực
Lạc, Hoa Tạng, vô lượng trang nghiêm, người
người đều có đầy đủ
Năm chữ Chân thành, Thanh tịnh, B́nh
đẳng, Chánh giác, Từ bi đều thuộc về
tâm, tức là Bồ Đề tâm trong Phật pháp. ‘Chân thành’ là Thể của Bồ
Đề Tâm, bốn thứ sau là Khởi Dụng của
Bồ Đề tâm. Từ
Thể khởi Dụng, Dụng có nghĩa là hưởng
thọ, tác dụng. Ba chữ
‘Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác’ là đề kinh của
kinh Vô Lượng Thọ.
Trong kinh Vô Lượng Thọ đức Phật
dạy chúng ta tổng cương lĩnh (nguyên tắc chính) của sự tu hành, đó
tức là Thanh tịnh, B́nh đẳng, và Giác. Nửa phần đầu của
đề kinh này ‘Vô Lượng Thọ, Trang Nghiêm’ là
quả báo. Thế nên
đề kinh này có đầy đủ nhân và quả. [Hết thảy] vô lượng
chỉ dùng một chữ ‘thọ’ để tượng
trưng, nghĩa là không phải chỉ có vô lượng
thọ mạng mà thôi, c̣n vô lượng trí huệ, vô
lượng đức năng, vô lượng tài nghệ,
…, hết thảy đều vô lượng, có người
nào trong thế gian và xuất thế gian sánh bằng? Trang nghiêm nghĩa là hoàn hảo,
tốt đẹp đến cùng cực.
Nếu nói như vậy th́ quả báo này là
thật hay giả? Là lư
tưởng hay là phóng đại (khoa trương)? Nói cho chư vị biết
hết thảy đều không phải, tánh đức
vốn đă như vậy.
Đây là đức năng trong tự tánh vốn sẵn
có, vốn là như vậy! Tây
Phương Cực Lạc thế giới cũng không
phải dùng công sức của con người tạo thành,
quư vị xem kinh Hoa Nghiêm nên biết Hoa Tạng thế
giới của đức Phật Tỳ Lô Giá Na cũng
không phải là nhân tạo, mà do tánh đức tự nhiên
biến hiện ra. Quư vị
cũng đă xem kinh Vô Lượng Thọ rồi, ư
nghĩa của tám thứ ‘tự nhiên’ nói trong kinh cũng vô
cùng vô tận! Người xưa
có câu: ‘Của báu vốn sẵn có trong nhà’, đó là
vốn có sẵn, không phải đến từ bên
ngoài. Người người
đều có đầy đủ vô lượng trang nghiêm
của Hoa Tạng thế giới, của Cực Lạc
thế giới; chúng ta không thể nói người
người đều có phần, mà phải nói
người người đều đầy
đủ! Nói ‘có phần’ th́
cũng không ổn, không đúng lắm, vốn là đă có
đầy đủ, vốn là như vậy. Hôm nay chúng ta biến thành nghèo
mạt, nghèo khổ đến mức này là tại sao? Là v́ chúng ta không có tâm chân thành! Tất cả đều do tâm
tạo, tâm của chúng ta không c̣n b́nh thường nữa,
đă mê rồi, cho nên đức năng sẵn có đă
biến đổi, thiệt đúng là y báo biến
chuyển theo chánh báo.
Đức Phật dạy chúng ta tu Thanh tịnh, B́nh
đẳng, Giác th́ sẽ khôi phục lại Vô
Lượng Thọ Trang Nghiêm.
Phần lớn người trên thế gian không có
phước báo này, không có cơ hội may mắn này. Phật pháp nói đến ‘duyên’,
[họ] không có duyên! Hiện
nay người ta dùng chữ ‘không có cơ hội’, không
gặp được Phật pháp; gặp được
Phật pháp là có thiện căn to lớn, có đại nhân
duyên! Không gặp
được Phật pháp, không thể hiểu
được chân tướng sự thật; chân
tướng sự thật là vô lượng trang nghiêm, là
Hoa Tạng thế giới, là Cực Lạc thế giới! Nhiều người không biết
dùng phương pháp ǵ để khôi phục lại tự
tánh, đây đúng là những người đáng thương!
5.
Tâm thanh
tịnh là chân thành
Biểu
hiện của tâm chân thành tức là thanh tịnh, tâm thanh
tịnh là chân tâm, là thành tâm.
Trong bút kư của ông Tăng Quốc Phiên có ghi
định nghĩa của chữ ‘thành’ là: ‘Một
niệm không sanh gọi là thành’.
Cách nói này rất hay!
Nếu bạn có một tâm niệm [ǵ đó] th́ đă
không ‘thành’ rồi. Có ‘niệm’
đều là vọng niệm!
Phật pháp chú trọng đến việc tu
Định, Định tức là tâm thanh tịnh, trong tâm
thanh tịnh không có một tạp niệm nào cả. Nhà Nho thời xưa ở Trung
Quốc rất coi trọng công phu tu thân, họ cũng nói
về ‘định’; nhà Phật nói ‘định’ rơ ràng
hơn, cụ thể và minh bạch hơn. Định tức là tâm thanh tịnh,
[chúng ta] phải biết cách tu tâm thanh tịnh. Từ tâm thanh tịnh mà nói
nhất quyết không bị ô nhiễm bởi hết
thảy cảnh duyên; ‘cảnh’ là chỉ hoàn cảnh vật
chất, ‘duyên’ là chỉ hoàn cảnh nhân sự. Cái ǵ gọi là ‘ô nhiễm’? Trong hoàn cảnh này bạn
động tâm, khởi niệm, lúc sáu căn tiếp xúc
với cảnh giới [bên ngoài] trong tâm khởi lên tâm
niệm tham, sân, si, mạn, như vậy th́ tâm của
bạn bị ô nhiễm, không thanh tịnh nữa. Một khi bị ô nhiễm, tâm
của bạn sẽ không thành, không chân nữa; chân tâm, thành
tâm vốn là thanh tịnh. Chúng
ta thường nói đến chân thành, có nhiều
người nói: ‘Tôi thiệt có chân tâm, thiệt là có thành
tâm, tôi muốn mắng chửi th́ mắng chửi, muốn
đánh [ai] th́ đánh liền.’
Họ tưởng như vậy tức là trực
tâm, là chân tâm, thiệt ra th́ đều hiểu sai ư nghĩa
hết. Như thế nào
gọi là chân thành? Thanh
tịnh là chân thành. Bạn
nghĩ coi: tâm bạn có thanh tịnh hay không? C̣n bị cảnh giới bên ngoài
làm ô nhiễm không? Cũng là
nói khi sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên
ngoài, bạn c̣n khởi lên tâm niệm ǵ không? Nếu c̣n động tâm th́ c̣n là
phàm phu, chưa phải là thánh nhân, công phu c̣n thua xa lắm,
phải gắng sức nỗ lực thêm nữa!
6.
Tâm b́nh
đẳng là chân thành
Tâm b́nh
đẳng tức là tâm chân thành.
B́nh đẳng nghĩa là không có phân biệt, có phân
biệt tức là không b́nh đẳng. Có phân biệt tức là có cao
thấp, thế th́ đâu có b́nh đẳng. Nh́n từ h́nh tướng bên ngoài
th́ Phật pháp nói có thập pháp giới: Phật, Bồ
Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, và lục đạo chúng sanh,
chuyện này không b́nh đẳng.
Nhưng đức Phật dạy chúng ta ‘[Chúng] Sanh, Phật b́nh
đẳng’, ư nghĩa này rất thâm sâu. Từ trên Lư mà nói th́
đương nhiên là b́nh đẳng, thập pháp giới
đều từ tự tánh biến hiện ra, tánh
tướng nhất như, tánh tướng không hai. Từ trên Sự mà nói th́ có b́nh
đẳng hay không? Trên Sự
vẫn là b́nh đẳng. Cái
b́nh đẳng trên Sự chỉ có Phật, Bồ Tát nh́n
thấy, phàm phu chúng ta không nh́n thấy. Tại sao phàm phu không nh́n
thấy? Phàm phu chấp
tướng, một khi chấp tướng th́ bạn nh́n
không thấy, phàm phu trên tướng phân biệt, hư
vọng phân biệt! Tại
sao chư Phật, Bồ Tát nh́n thấy? V́ chư Phật, Bồ Tát không
chấp tướng.
Thí dụ
người thế gian chúng ta quư trọng nhất là kim
cương, hột xoàn, chỉ một viên nhỏ xíu đă
rất đắt; thí dụ lấy một viên thủy tinh
và một viên kim cương để chung một chỗ,
có ai nh́n thấy hai viên này b́nh đẳng không? Chỉ có đôi mắt của
những đứa bé sơ sinh là b́nh đẳng. Tại sao chúng nó b́nh đẳng? Chúng nó không có tâm phân biệt, nó
nh́n thấy hai viên đều giống nhau, đều
đẹp hết! Đều là
đồ chơi hết. Tâm
của người lớn th́ có phân biệt: ‘Ôi chao đây
là viên hột xoàn, kia là viên thủy tinh’. Giá trị của nó sẽ không
b́nh đẳng. Từ đó
có thể biết, không b́nh đẳng là do vọng tâm sanh
ra. Bạn quan sát kỹ càng
những đứa trẻ sơ sinh, bạn cho chúng viên
kẹo, chúng nó ăn liền.
Những ‘viên đại tiện’ của chúng nó, nó
cũng ăn, mà c̣n ăn một cách ngon lành. Tại sao chúng nó đều ăn
hết vậy? Chúng nó không có
phân biệt. [Thế mới
biết] không có phân biệt, không có chấp trước là
b́nh đẳng.
Trong nhà
Phật, trong các hạnh Bồ Tát có một phương
pháp gọi là Anh Nhi Hạnh (hạnh trẻ con [sơ sinh]),
hạnh này dạy bạn học theo những đứa
trẻ con! Trẻ con không có
phân biệt, không có chấp trước, ngây thơ hồn
nhiên, bạn hăy quan sát từ những việc nhỏ
nhặt này. Chư Phật,
Bồ Tát không có tâm phân biệt, tuy hiện tượng
thập pháp giới có tồn tại nhưng đối
với các ngài, thập pháp giới đều b́nh
đẳng cả. Đây là
như kinh Hoa Nghiêm nói: ‘trong
sự sai biệt có b́nh đẳng quán, trong b́nh
đẳng có sai biệt quán’;
sai biệt và b́nh đẳng là một, không phải là
hai, đây là nhập vào pháp môn bất nhị (không hai). Khi bạn có thể nhập vào
pháp môn không hai th́ bạn là Pháp Thân Đại Sĩ, là Bồ
Tát trong Nhất Chân pháp giới.
Tuy bạn hiểu được đạo lư này,
nhưng bạn không vào cảnh giới này th́ bạn
vẫn là Bồ Tát trong thập pháp giới, bạn vẫn
chưa vượt thoát khỏi thập pháp giới. Nhập vào Nhất Chân pháp
giới th́ vượt khỏi thập pháp giới, công phu
chân chánh là ở chỗ này, đây là công phu chân thật, tu
hành chân thật!
Khi quư
bạn đọc kinh Hoa Nghiêm đến đoạn
năm mươi ba tham vấn, bạn xem 53 vị
thiện hữu này, từ hành tích của họ th́ không nh́n
ra, h́nh như không khác ǵ người trong thế gian, công phu
[của họ hoàn] toàn dùng trong tâm, giống như trong kinh
có nói: ‘Từ bên ngoài mà nh́n th́
h́nh như không có ǵ, nhưng [họ] đều đang
dụng công trong tâm!’ Trong
tâm dụng công ǵ vậy?
Dụng công phu [tập luyện] thanh tịnh, công phu
b́nh đẳng, đây mới gọi là thiệt tinh
tấn! Từ biểu hiện
bên ngoài bạn nh́n không ra.
Người không có công phu th́ đương nhiên nh́n
không ra, nhưng người có công phu th́ sẽ nh́n ra. Người có công phu cao hơn
họ nh́n thấy rất rơ ràng; người có công phu
bằng họ cũng có thể thấy rơ ràng; những
người không bằng họ th́ nh́n không ra. Trên tầng cao có thể nh́n
thấy phía dưới, [ngược lại] phía
dưới nh́n không thấy trên cao.
Phải
biết tâm b́nh đẳng vô cùng quan trọng, nếu tâm
bạn không thanh tịnh, bị ô nhiễm, th́ nói một
cách khác ba ác đạo nhất định bạn sẽ có
phần; nếu tâm không b́nh đẳng th́ rất khó thoát ly
lục đạo luân hồi.
Trong đề kinh, tại sao đặt thanh tịnh
ở hàng thứ nhất, b́nh đẳng thứ nh́, chánh
giác thứ ba? V́ ô nhiễm [không thanh tịnh] là nghiệp
nhân của tam ác đạo, không b́nh đẳng là
nghiệp nhân của tam thiện đạo; không b́nh
đẳng vẫn có thể ở trong tam thiện
đạo, nghiệp chướng của nó không nặng
lắm. Không giác th́ sao? Không thể ra khỏi thập pháp
giới. Cho nên chánh giác
được đặt ở sau chót. Chánh giác nói ở đây không
phải chánh giác của A La Hán chứng đắc mà là Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là cảnh giới
của Phật, trong kinh điển nói đến cảnh
giới này rất nhiều, bạn phải xem kỹ ư
nghĩa của nó.
7.
Thanh
tịnh, B́nh đẳng, Giác là Tam Bảo, là mục tiêu
của tam tự quy y.
Thanh
tịnh, B́nh đẳng, Giác tức là Tam Bảo; Tam
Bảo là mục tiêu phương hướng của Tam quy
y: Tự quy y Phật, Tự quy y Pháp, Tự quy y
Tăng. Thanh tịnh là Tăng
Bảo, B́nh đẳng là Pháp Bảo, Chánh giác là Phật
Bảo. Lúc vừa vào cửa
Phật, bắt đầu học Phật th́ [quư thầy]
truyền Tam quy, đem phương hướng và mục
tiêu này truyền trao cho chúng ta, chỉ rơ cho chúng ta
biết. Bất luận tu
học pháp môn nào, pháp môn nhiều vô lượng vô biên, quư vị
đừng nh́n trong khuôn khổ hạn hẹp: Tham
Thiền là một pháp môn, Tŕ Chú là pháp môn, Nghiên [cứu] Giáo
[môn] là pháp môn, Niệm Phật là pháp môn, như vậy
rất hạn hẹp. Thế
th́ vô lượng vô biên pháp môn rốt ráo là như thế
nào? Mặc áo là pháp môn, ăn
cơm là pháp môn, vừa dơ tay, vừa ngước
đầu lên đều là pháp môn: hết thảy những
ǵ trong đời sống từ sáng đến chiều, từng
ly từng tí, mỗi lúc khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ tạo tác hết thảy đều là vô
lượng pháp môn đó! Vô
lượng pháp môn đều phải tương ứng
với Giác, Chánh, Tịnh; nói một cách khác vô lượng
pháp môn đều phải tương ứng với Thanh
Tịnh, B́nh Đẳng, Giác.
Nếu chúng ta học Phật, dạy cho người
khác, chỉ dạy về ư nghĩa hạn hẹp này th́ khó
nói tại sao chúng ta đều không thành tựu!
Chuyện này
nói ra cũng không thể trách chúng ta, tự ḿnh không
biết, những vị thầy đời trước
cũng không nói rơ ràng cho chúng ta biết! ‘Người trước không
thiện, không thể trách được!’ Nếu từ từ thể
hội ư nghĩa trong kinh một cách sâu sắc, vô lượng
pháp môn đều bày ra trước mặt chúng ta, vô
lượng pháp môn đang bao quanh chúng ta, từng ly
từng tí lúc khởi tâm động niệm đều là
nó, đây mới đúng là vô lượng pháp môn, đây
gọi là tu học Đại Thừa, đây mới là
người tu hành!
8.
Trong Thanh
tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác tự khởi tâm
đại từ bi
Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác tức là
sự chân thành trong tâm; nói một cách khác tâm chân thành
nhất định phải thanh tịnh, b́nh đẳng,
chánh giác. Từ trong thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác nhất định sanh
khởi tâm đại từ bi; tâm đại từ bi này
sanh khởi lên một cách tự nhiên, ‘pháp nhĩ như
thị’, tự nhiên như vậy!
Đối người, đối sự, đối
vật hết thảy đều như vậy. Nh́n thấy đồ vật không
ngay thẳng, bạn sửa cho ngay lại, đây là từ
bi, không cần phải có người dạy, không cần
người nhắc nhở.
Nh́n thấy cái ghế không ngay ngắn, tự nhiên
sẽ sửa cho ngay lại, đây là từ bi đối
với vật; từ bi đối với sự tức là
làm hết ḷng, làm một cách có trách nhiệm; từ bi
đối với người là chân thành chăm sóc và lo
lắng, hết thảy những thứ này đều phát
ra từ tự tánh, đều là tự nhiên không có chút ǵ
miễn cưỡng.
1. Nh́n thấu,
Buông xả là then chốt của sự thành đạo
Chúng ta đă
nói về năm điều đầu tiên, phía sau c̣n
năm điều nữa; ở đây nên chú ư, năm
điều sau này phải được thực hiện
trong đời sống, nghĩa là sự chân thành, thanh
tịnh, b́nh đẳng, từ bi của bạn bắt
đầu từ đâu?
Từ trong đời sống hằng ngày. Sự biểu hiện trong
đời sống nhất định phải nh́n
thấu; nh́n thấu nghĩa là hiểu rơ ràng minh bạch
chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Trong kinh nói giác ngộ triệt
để, thấu triệt rồi, đó gọi là
‘hành’. Chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác, từ bi [được thể
hiện] trên sự nh́n thấu; sau khi nh́n thấu th́
chẳng thể nào không buông xả được. Tại sao vậy? Điều kế sau đây là tự
tại, được đại tự tại (thong dong, thảnh thơi, thoải mái)! Bạn xem câu đầu trong Tâm
Kinh: ‘Quán Tự Tại Bồ Tát’, chữ ‘quán’ ở đây
là ‘nh́n thấu’, quán là trí huệ, trí huệ chân
thật. Nh́n thấy chân
tướng sự thật của vũ trụ rơ ràng minh
bạch. Buông xả nghĩa là
không nhiễm trước một tí ǵ hết, không nhiễm
trước chẳng có nghĩa là không có sự thọ
dụng. Tất cả
đều có thể thọ dụng, v́ tất cả
đều không nhiễm trước, cho nên sự thọ
dụng này được gọi là ‘chánh thọ’, trong kinh
nói đến ‘tam muội’, ‘tam muội’ là tiếng Phạn
có nghĩa là ‘hưởng thọ chánh thường’. Hưởng thọ chánh
thường khác với sự hưởng thọ của
chúng ta hiện nay ở chỗ nào?
Trên ‘sự’ th́ hoàn toàn giống nhau. Chúng ta mặc áo, Phật, Bồ
Tát cũng mặc áo; chúng ta ăn cơm, quư Ngài [khi thị
hiện] cũng ăn cơm, có ǵ khác nhau? Nhưng bên trong đích thật có
chỗ khác biệt, chúng ta mặc áo, ăn cơm có
chấp trước, các Ngài mặc áo, ăn cơm không có
chấp trước; cho nên các Ngài mặc áo ăn cơm vui
vẻ tự tại, chúng ta mặc áo, ăn cơm rất
khổ, không được xứng tâm vừa ư, có [thêm]
một thứ, thiếu một thứ đều không
được. Đây là do nguyên
nhân ǵ vậy? V́ buông xả,
buông xuống không nổi!
Tại sao buông xả không nổi? V́ không nh́n thấu! Cho nên khi áp dụng trên sanh
hoạt thường ngày nhất định phải nh́n
thấu sự thật, đây không phải là một
chuyện dễ. Nếu
bạn muốn có công phu th́ trong mười điều này
nhất định phải nhận thức rơ ràng then
chốt ở ‘nh́n thấu, buông xả’. V́ nếu bạn nh́n không thấu,
buông xả không nổi, bạn sẽ không đạt
được tâm chân thành; nếu không đạt
được tâm chân thành th́ cũng không đạt
được ‘chánh thọ’.
Cho nên nh́n thấu có thể giúp cho buông xả, buông
xả cũng giúp cho nh́n thấu, hai pháp này bổ sung,
hỗ trợ, củng cố lẫn nhau.
Nh́n thấu
giúp cho buông xả thêm, buông xả giúp cho nh́n thấu thêm,
một mực cho đến quả địa Như Lai,
đến cứu cánh viên măn.
Cho nên bạn sẽ hỏi: Bồ Tát dùng công phu
ǵ? ‘Nh́n thấu buông xả’
đều bao gồm hết.
Chúng ta dùng cách phân đoạn lớn để nói, nh́n
thấu căn bịnh của Kiến Tư phiền năo
xong bạn buông xả nó th́ bạn được nâng lên
một bậc và thành A La Hán. A
La Hán lại phát hiện căn bịnh của Trần Sa
phiền năo, buông xả Trần Sa phiền năo
được th́ nâng lên một bậc thành Bồ Tát. Bồ Tát lại nh́n thấy căn
bịnh của Vô Minh phiền năo, buông xả
được một phẩm Vô Minh th́ được nâng
lên một bậc thành Pháp Thân Đại Sĩ. Thế nên nếu bạn nh́n
thấu một phẩm, buông xả một phẩm th́
bạn sẽ không ngừng đi lên. Thiệt ra những cấp
bực này có hay không có? Không
có! Tại sao đức
Phật lại nói đến những cấp bực
này? Là dựa trên mức
độ phiền năo của bạn mà phân ra.
Công phu
của người tu hành càng thấp th́ phiền năo càng
nặng, [công phu] càng cao th́ phiền năo càng nhẹ. Tại sao phiền năo nhẹ? Đều là do buông xả
đấy! Bồ Tát tu hành có
lợi căn (căn tánh lanh lợi), có độn
căn. Độn căn là ǵ? Hôm nay buông xả một ít, ngày mai
buông xả thêm một ít, đây là tiệm tu – tu từ
từ. Người có lợi
căn th́ hoàn toàn buông xả, lập tức sanh lên trời,
đốn siêu đương nhiên rất nhanh, là sự
việc như thế đó.
Nếu bạn muốn hỏi người nào
độn căn, người nào lợi căn? Lợi căn và độn căn
không phải sanh ra vốn sẵn có, đó là do bạn có
triệt để giác ngộ hay không, triệt để
giác ngộ th́ một thoáng qua đă buông xả hoàn toàn,
đó là lợi căn, thượng căn lợi trí! Do đó phải dám ‘xả’,
xả tức là buông xuống.
2.
Buông
xuống vô lượng pháp, đi sâu vào một môn
Tôi dạy
các bạn đồng tu nguyên tắc giảng kinh, cung
cấp tài liệu tham khảo cho các bạn, các bạn
chỉ cần lấy một phần mười th́
đủ rồi, chín phần c̣n lại phải chịu
buông bỏ, nếu bạn xem câu nào cũng hay, câu nào
cũng không chịu bỏ bớt, như vậy th́
chuyện phiền phức của bạn rất lớn! Cho nên phải mạnh dạn buông
xuống. Ngay cả Phật
pháp cũng phải buông xuống, huống hồ là phi pháp? Phải hiểu nguyên lư này! Trong biển cả Phật pháp,
chúng ta không có biện pháp ǵ nuốt hết trong một
ngụm, nếu muốn thành tựu trong Phật pháp
chỉ có cách múc một giọt nước trong biển
cả mà thôi, [nghĩa là] vô lượng pháp môn chỉ
chọn lấy một pháp môn, vô lượng kinh luận
chỉ chọn lấy một bộ kinh luận mà thôi;
thông [hiểu] một kinh rồi th́ hết thảy kinh
luận đều thông suốt, pháp thế gian và xuất
thế gian cũng thông suốt, nếu bạn hỏi
tại sao đều thông suốt?
Đó là v́ Thanh tịnh, B́nh đẳng, Giác.
Nếu trên
một bộ kinh này bạn không đạt được
Chân thành, Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác, th́ bạn
chẳng thông [suốt], tiêu chuẩn của sự ‘thông’ là
ở đây. V́ vậy mới
biết nếu bạn hiểu sơ sơ rất nhiều
pháp môn mà muốn đạt được Thanh tịnh,
B́nh đẳng th́ rất khó.
Khó vô cùng! Vả lại
những ǵ bạn học được đều
biến thành thế trí biện thông (tri thức
thế gian). Tại sao vậy? Tại v́ bạn có phân biệt, có
vọng tưởng, có chấp trước; mục
đích của Phật pháp là không ngoài việc đoạn
diệt vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Nếu bạn
hiểu được đạo lư này rồi th́ bạn
mới hiểu được ḷng từ bi của giáo
giới của lăo sư (thầy), họ thiệt là
muốn cho chúng ta thành tựu, mà không phải là dạy sai. Nếu thầy dạy bạn cái
ǵ cũng học, cái này cũng tốt, cái kia cũng
tốt, muốn bạn học rộng nghe nhiều,
thế th́ vị thầy này có hai trường hợp:
một là ma, sợ bạn thành tựu, cố ư hại
bạn, làm vậy để bạn không thể thành
tựu ngay trong đời này; c̣n trường hợp thứ
nh́ là vô tri, bản thân của họ cũng không biết,
nên dạy sai cho bạn.
Nếu đích thật là thiện tri thức th́
họ sẽ không dạy bạn như vậy, nếu
bạn chịu tiếp nhận, họ nhất định
sẽ dạy dỗ bạn, sẽ không dạy sai, đó
mới thực sự là thiện tri thức.
Cho nên
đặt ra câu hỏi: Phật pháp truy cầu những
ǵ? Truy cầu Thanh tịnh,
B́nh đẳng, Giác. Bạn
suy nghĩ xem tu học một pháp môn, một bộ kinh th́
dễ đạt được Thanh tịnh, B́nh
đẳng, Giác hoặc là tu rất nhiều pháp môn,
rất nhiều kinh luận dễ đạt
được? Chúng ta
đều có những kinh nghiệm này, các bạn trong ba
tháng ngắn ngủi ở đây, những thể
nghiệm trong ba tháng vừa qua đều nói lên [và
chứng minh] điều này.
Trước kia các bạn học bốn năm trong
Phật Học Viện, môn ǵ trong chương tŕnh học
cũng có, ngũ hoa bát môn, hồi tưởng lại kinh
nghiệm học trong bốn năm so sánh với đi sâu
vào một môn trong ba tháng tại đây th́ sẽ biết
ngay. Trong ba tháng học một
môn có được một chút thành tựu, một chút tâm
đắc hay là trong bốn năm trước học
nhiều môn có tâm đắc, có thọ dụng? So sánh hai thứ th́ liền rơ ràng
minh bạch. Tâm thanh tịnh
sẽ sanh trí huệ đấy!
Kinh Kim Cang nói: ‘Ḷng tin thanh
tịnh, ắt sanh Thật Tướng’. Thật Tướng tức là
Chánh Giác. Tâm thanh tịnh th́
Thật Tướng Bát Nhă sẽ hiện tiền!
Do đó có
thể biết buông xuống (buông xả) là một
phương pháp vô cùng quan trọng.
Chư Phật, Bồ Tát không có bản lănh ǵ khác ngoài
buông xuống; người thế gian buông xuống không
nổi, quư Ngài đều có thể buông xuống hết,
bản lănh của quư Ngài là ở chỗ này. Buông xuống Kiến Tư
phiền năo tức là buông xuống lục đạo luân
hồi; buông xuống tham, sân, si, mạn tức là buông
xuống tam ác đạo.
[Nếu tôi] nói ‘Buông xuống tam ác đạo’, [th́
bạn nói] ‘Được, tôi sẽ buông xuống’. C̣n nói: ‘Buông xuống tham, sân, si’
th́ bạn nhăn nhó mặt mày, cảm thấy rất khó. Bạn không biết tam ác
đạo từ đâu đến sao? Nghiệp nhân của tam ác
đạo tức là tham, sân, si đấy! Trên ‘quả’ chúng ta không có biện
pháp buông xả được, th́ phải buông xả
từ ‘nhân’, ‘nhân’ buông xuống được rồi th́
‘quả’ sẽ không c̣n nữa.
Thế nên buông xuống Kiến Tư phiền năo th́
buông xả được lục đạo, lục
đạo sẽ không c̣n nữa; buông xuống Trần Sa,
Vô Minh th́ thập pháp giới sẽ không c̣n nữa. Chư Phật, Bồ Tát tu
những ǵ? Quư Ngài tu ‘Nh́n
thấu, Buông xả’ đấy!
3.
Nh́n thấu,
Buông xả được đại tự tại
Nh́n thấu
là học vấn, buông xả đ̣i hỏi phải có công
phu, công phu này không phải là vơ công ở chùa Thiếu Lâm,
đây là công phu chân thật.
Nếu có thể nh́n thấu, buông xuống th́
đời sống sanh hoạt của bạn sẽ
được đại tự tại (thong dong, thảnh
thơi). ‘Quán Tự Tại’ –
Quán Thế Âm Bồ Tát được đại tự
tại. Đời sống
được tự tại mới là đời sống
hạnh phúc thật sự, hạnh phúc mà người
thế gian thường nói đến là hữu danh vô
thực, không phải thật.
Người thế gian nói đến viên măn cũng là
có tên, chẳng thật, duy chỉ khế nhập vào
cảnh giới này th́ mới thật, mới có thể
đạt được hạnh phúc chân chánh mỹ măn,
đạt được đại tự tại.
Quư vị
phải biết cảnh giới ‘tự tại’ nói trong ‘Tâm
Kinh’ sâu rộng vô bờ bến, không thể nghĩ bàn! Những thí dụ trong kinh như
ba mươi hai sự ứng hiện của Quán Thế Âm
Bồ Tát, cần ứng thân ǵ để độ thoát th́
Ngài sẽ hiện thân ấy; cần nói pháp ǵ th́ Ngài
thị hiện và nói pháp đó, đây là chỉ nêu ra vài thí
dụ đơn giản để nói rơ sự tự
tại của Ngài. Nói thực
ra Ngài không có một thứ ǵ mà chẳng tự tại! Trong đời sống bất
luận ăn cơm, mặc áo, từng ly từng tí
mọi sự đều tự tại, những ǵ nói trong
kinh chỉ là đại khái mà thôi, không thể nói kỹ,
nói kỹ th́ nói không hết.
Đừng nói một vị Phật nói không hết,
mười phương Như Lai dùng vô lượng
kiếp cũng nói không hết.
Đây là sự thật chứ không phải phóng
đại.
4.
Tùy duyên mà
không phan duyên [31]
Sự
lợi ích của Phật pháp ở chỗ nào? Không ai biết, v́ không có
người nói rơ. Làm một đệ tử
Phật chúng ta có trách nhiệm, có nghĩa vụ nói rơ chân
tướng của Phật pháp cho đại chúng. Chúng ta có được lợi
ích này th́ phải chia sẻ cùng đại chúng, hy vọng
người nào cũng đạt được lợi
ích giống vậy, đây là bổn nguyện của
hết thảy chư Phật, Bồ Tát.
Tại sao có
bổn nguyện này? Là tự
nhiên mà có, là tánh đức lưu xuất! Trong đó không có người
đốc thúc và cũng không có người khuyến khích,
tự tự nhiên nhiên sẽ làm như vậy, cũng
như lời nói trong kinh ‘đại từ bi hiển lộ’,
bất đắc dĩ chỉ có thể nói như vầy:
‘hoàn toàn thuộc tự nhiên’.
Khi xử sự, đối người, tiếp
vật trong đời sống của ḿnh phải tùy duyên
mà không phan duyên, [nhờ vậy] nên họ luôn luôn
được đại tự tại. Trong tùy duyên, hết thảy
sự việc thành tựu tùy theo tâm niệm, giống
như trong kinh nói: ‘Bồ Tát
ở Cực Lạc thế giới, Bồ Tát ở tha
phương thế giới hoặc cúng dường A Di Đà
Phật, hoặc cúng dường mười phương
chư Phật, những vật cúng dường tùy [theo ư
muốn] liền hiện trên tay, tùy niệm liền sanh’. Thiệt ra chỉ cần khế
nhập vào cảnh giới này, trong tất cả sanh
hoạt trên thế gian, mọi việc làm đều là tùy
niệm mà sanh, không cần phải tạo tác một tí ǵ hết,
như vậy th́ làm sao họ không tự tại
được chứ?
Đến khi
nào mới đạt được đại tự
tại? Khi nào bạn nh́n
thấu và buông xuống hết thảy th́ sẽ
đạt được.
Nếu bạn có thể nh́n thấu một phần,
buông xả một phần th́ bạn sẽ đạt
được tự tại một phần. Nếu bạn có thể nh́n
thấu hai phần, buông xả hai phần th́ bạn sẽ
đạt được hai phần; đây là thật
không phải giả. Cho nên
những người tham lam sẽ vĩnh viễn không
đạt được, sẽ vĩnh viễn vọng
tưởng. Hễ
người gây tổn hại cho kẻ khác và lợi cho
ḿnh đều là những người tham lam; nếu
họ không có tâm tham th́ làm sao có thể làm việc lợi
ḿnh hại người cho được! Người có trí huệ chân
thật nhất định sẽ nh́n thấu, buông
xuống, xả thân ḿnh phục vụ cho người. Phục vụ cho người
tức là làm lợi ích cho chúng sanh, lợi ích cho chúng sanh là
chân chánh làm lợi ích cho ḿnh, tự ḿnh sẽ
được đại tự tại! Cho
nên phải tùy duyên mà đừng phan duyên. Tại sao vậy? Vĩnh viễn giữ ǵn tâm chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác của ḿnh. Nếu bạn phan duyên th́ tâm thanh
tịnh của bạn hoàn toàn mất hết. Trong lúc phan duyên bạn có phiền
năo, sanh ra tri kiến, tâm chân thành của bạn bị che
lấp hoàn toàn, không thể hiển lộ ra ngoài; thế
nên tùy duyên mới tốt!
Những
đại đức ngày xưa bất kể là tại gia
hay xuất gia đều làm gương mẫu tốt
nhất cho chúng ta. Đại
đức đầu tiên của Tịnh Tông là Liên Tŕ đại
sư, Ngài là người cuối triều Minh, Sớ Sao
của Ngài hay vô cùng; Ngẫu Ích đại sư tán thán:
‘bác đại tinh thâm’ (rộng lớn, tinh sâu). Lúc c̣n ở Triết Giang,
đại khái là ở gần chùa Vân Thê, Hàng Châu, thời
bấy giờ c̣n chưa xây dựng chùa, Liên Tŕ đại
sư đến một địa phương và rất
thích nơi đó, phong cảnh trên núi rất
đẹp. Ngài dựng
một túp lều và ở đó tu tập một ḿnh. Ngài tu hành rất đúng như
pháp, --như pháp tức là y giáo phụng hành-- Những ǵ trong kinh đức
Phật dạy chúng ta làm, th́ chúng ta làm, những ǵ không cho
chúng ta làm th́ chúng ta không làm.
Liên Tŕ đại sư tu hành rất như pháp,
rất nhiều người tán thán là đức hạnh
cao. Cao ở đâu? Như pháp tức là cao, không
như pháp th́ không cao. Cho nên
người ở vùng phụ cận rất kính trọng
Ngài, nhiều học nhân ở phương xa cũng tôn
kính, ngưỡng mộ nên rất muốn kề cận
Ngài. Từ từ có vài
người tụ đến, họ không có chỗ ở
nên phải dựng thêm vài túp lều tranh nữa. Sau này càng ngày càng nhiều
người đến nên làm cho một số thí chủ
cảm động, nh́n thấy nhiều người
xuất gia như vậy, tu hành tốt như vậy, nên
họ [ra công sức] xây dựng đạo tràng. Việc xây chùa là để an trú
tăng, người xuất gia không cần phải
nhọc công, bận tâm!
Đại khái th́ Liên Tŕ đại sư chỉ
điểm một chút mà thôi: ‘Nếu quư vị muốn xây
th́ xây ở đây được rồi’. Hết thảy những ngôi nhà
pḥng ốc đều do mọi người phát tâm xây
dựng, cho nên đại điện được
gọi là ‘Thần Vận Điện’, không cầu tự nhiên
có.
Cứ như vậy trong ṿng
mấy chục năm đến một trăm năm,
từ từ một ngôi tùng lâm được h́nh thành,
không phải do quy hoạch trước, quy hoạch
trước là phan duyên chứ không phải tùy duyên! Trong tâm bạn mỗi ngày
đều phải suy nghĩ, bận tâm, t́m mọi cách
để hóa duyên, t́m cách để kiếm tiền,
bạn xem tâm như vậy mệt quá phải không? C̣n tự tại ǵ
được nữa! Có an
lạc ǵ đâu! Sự
khổ này từ đâu đến?
Tự ḿnh t́m lấy!
Không có người đem khổ đến cho
bạn, đều là do bạn tự tạo, phải
hiểu rơ đạo lư này. Cho
nên khi nào cần thiết th́ khi đó Phật, Bồ Tát
sẽ đem đến,
tại sao hiện nay không cho bạn một ngôi chùa
lớn? Ngày nay Phật, Bồ
Tát tặng cho bạn một ngôi chùa lớn tức là
hại bạn đấy, tại sao vậy? Làm tăng trưởng ḷng tham,
sân, si, mạn, tăng trưởng phân biệt, chấp
trước của bạn.
Phật, Bồ Tát tuyệt đối không làm
những chuyện này, tuyệt đối không hại chúng
sanh, chỉ có ma mới hại chúng sanh.
Cho nên chư vị
đồng tu tu hành đến một mức nào đó, có
một chút thành tựu th́ ma sẽ đến khuấy
nhiễu. Ma không phải mặt
xanh, nanh nhọn, không có khủng khiếp như vậy,
nếu h́nh dáng dễ sợ th́ bạn đă xa ĺa nó từ
lâu rồi. Lúc Ma xuất hiện trước mặt bạn,
bạn sẽ rất hoan hỷ!
V́ h́nh dáng của Ma xinh đẹp, lại có tiền
tài, có thế lực, nó sẽ làm cho tâm bạn không an, làm
cho bạn mất hết tâm thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác, tăng trưởng ḷng tham, sân, si, mạn của
bạn. Nếu không thể tự
giác, lúc Ma hiện ra th́ bạn sẽ lọt vào tay Ma
đến nỗi ngay cả bạn cũng không biết,
c̣n nói Ma đối với bạn rất tốt, rất lo
lắng, chăm sóc cho bạn, đều là Ma đấy!
Kinh Lăng Nghiêm nói về
cách phân biệt giữa Phật và Ma rất rơ ràng, cho nên
kinh Lăng Nghiêm thực sự là ‘tấm kiếng chiếu
yêu’, nếu bạn có thể hiểu rơ th́ hết thảy
nhân vật mà bạn tiếp xúc, rốt cuộc họ là Ma
hay là Phật, bạn vừa nh́n liền thấy rơ ràng. Phật nhất định giúp
bạn tăng trưởng thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác, đây là Phật, Bồ Tát đến để hộ
tŕ. Nếu [họ giúp bạn]
che mất hết thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, tăng
trưởng tham, sân, si, mạn th́ bạn phải cảnh
giác đi, bạn đă lọt vào tay Ma rồi. Đặc biệt là trong thời
đại này, trong hội giảng kinh Lăng Nghiêm
đức Phật nói: ‘Tà
sư thuyết pháp [nhiều] như cát sông Hằng’. Tà sư là ǵ? Yêu ma quỷ quái rất nhiều, nhiều vô cùng,
không thể nào pḥng ngừa được hết! Huống chi bạn không có trí
huệ, không có định lực, không có phước báo,
th́ bạn làm sao pḥng ngừa cho được? Bạn không có cách chi có thể
pḥng ngừa được hết!
Ngày nay muốn tu
phước, nói thực ra nếu đă không tích lũy
thiện căn phước đức từ nhiều
đời trước th́ bạn đi đâu để tu
phước! Người có
tiền, có thế lực rất nhiều, họ
đều muốn tu phước, kết quả là
tiền tài của họ đều bị chôn vùi
dưới đất, bị trôi ra biển cả, ch́m
xuống đáy biển, không khởi tác dụng chi
hết! Làm sao có thể
gọi là tu phước được? V́ vậy nếu muốn trong
một đời này thiệt có thể văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới th́ mười
điều này vô cùng quan trọng, nếu bạn khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác trái
ngược với mười điều này, bất
luận bạn niệm Phật giỏi cách mấy th́
cũng không thể văng sanh, chỉ kết một chút duyên với
Phật mà thôi. Nếu bạn
niệm Phật có thể tương ứng với
mười điều này, vậy th́ xin chúc mừng cho
bạn, đời này bạn nhất định có thể
văng sanh, bạn xứng đáng là đệ tử Di Đà,
không là phàm phu, trong kinh nói: ‘Đệ tử số một
của Như Lai’ là chỉ bạn đấy, bạn có
thể nhận lấy danh xưng này.
5.
Niệm
Phật phải tương ứng với thập
đức
Điều sau
cùng là ‘Niệm Phật’; Phật ở đâu? Chín điều nói ở phía
trước đều là Phật.
Chân thành là Phật, Thanh tịnh là Phật, B́nh
đẳng là Phật, Chánh giác là Phật, Từ bi là
Phật, Nh́n thấu, Buông xả, Tự tại, Tùy duyên
đều là Phật, sau đó bạn mới biết
mười câu này tức là một câu. Đúng như kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Một tức là nhiều,
nhiều tức là một’.
Sai biệt và b́nh đẳng không hai, tách ĺa ra nói
về [từng điều trong] mười điều là
sai biệt, hợp lại để nói là b́nh đẳng
một thứ, đây gọi là Niệm Phật. Mọi người đều
biết lời cổ đức: ‘Một niệm tương ứng một niệm
Phật, Niệm niệm tương ứng niệm
niệm Phật’.
Tương ứng với cái ǵ? Tức là tương ứng
với Chân thành, Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác,
Từ bi, Nh́n thấu, Buông xả, Tự tại, Tùy
duyên. Trong từng tiếng
Phật hiệu đều đầy đủ
cương lĩnh này, như vậy mới gọi là
Niệm Phật. Nếu
miệng niệm A Di Đà Phật, nhưng trong tâm toàn là tham,
sân, si, mạn th́ không phải là người niệm
Phật, có câu nói: ‘hét bể cuống họng cũng
uổng công’, từng tiếng Phật hiệu đều
phải tương ứng mới được!
Mười
[tánh] đức trên đều viên dung, hàm nhiếp trong
một câu Phật hiệu, như vậy mới gọi là
người niệm Phật, đây mới gọi là tu
Tịnh Độ. Các bạn
đồng học hỏi tôi phải tu như thế
nào? Không có ǵ khác, cả
đời này những ǵ tôi tu phải là mười
điều này, tôi phải tương ứng với
mười điều này. Hôm
nay có duyên với mọi người tôi truyền thọ
mười điều này cho quư vị, trong Tông Môn có
‘Truyền tâm pháp yếu’, th́ đây không có ǵ khác với
việc truyền tâm pháp yếu.
Hy vọng mọi
người đều phát tâm Bồ Đề chân chánh,
nối tiếp Huệ mạng của Phật, hoằng
pháp lợi sanh, đây là đại nguyện. Nếu muốn đại
nguyện trở thành sự thật, muốn thực
hiện đại nguyện, mà không có tâm hạnh này, th́ tâm
nguyện đều là giả, không phải thật. Có
tâm chân thành, từ bi, có nh́n thấu, buông xả, niệm
Phật mới được, nguyện của bạn
mới là chân thực, bạn nhất định có thể
làm được.
Sau cùng, quan
trọng nhất là ‘Một là mười, mười là
một’, bất cứ một điều nào cũng hàm
nhiếp (bao gồm) chín
điều kia, tuyệt đối không thể tách
rời. Do đó điều
nào cũng viên dung, hàm nhiếp [lẫn nhau], sau khi khế
nhập vào th́ thật tự tại! Thật hoan hỷ! Bạn đích thân cảm giác
được, cảm giác được một cách rất
rơ ràng, chư Phật gia tŕ, chư Phật hộ niệm,
Long thiên lo lắng, giúp đỡ; bạn sẽ cảm
thấy rất minh hiển [rơ ràng], thật là tâm
tưởng sự thành. Ngày
nay trong tâm chúng ta nghĩ ǵ cũng đều là vọng
tưởng, không thể thành công; tại sao không thể
thành công? V́ không tương ứng.
Nếu bạn có thể tương ứng th́ tức
là ‘trong nhà Phật có cầu
ắt ứng’. Lúc cầu
mà không thể ứng (cầu không
toại nguyện) th́ có hai nguyên nhân, một là chúng sanh không có
phước, hoặc là hiện nay c̣n chưa cần
tới. Lúc thực sự
cần th́ vừa động niệm liền hiện ra
ngay.
6.
Hết
thảy phải làm từ tâm chân thật
Cho nên
hết thảy đều phải bắt đầu
từ tâm chân thật, đây lời giáo huấn của
Thiện Đạo đại sư.
Thiện Đạo đại sư là đức
Phật A Di Đà hóa sanh. Trên
lịch sử ghi chép A Di Đà Phật hóa thân tái lai có:
Thiện Đạo đại sư, Vĩnh Minh Diên Thọ
đại sư, Phong Can Ḥa Thượng, đây là việc
mọi người đều biết. Di Đà hóa thân đến, những
lời Ngài nói tức là A Di Đà Phật đích thân nói
vậy. Chúng ta muốn trong
một đời này thực sự đạt
được hạnh phúc, thực sự đạt
được gia đ́nh mỹ măn, sự nghiệp thành
công thuận lợi, học mười điều này
mới thực sự đạt được, tách
rời khỏi mười điều này th́ đều là
có danh không thật, đều không chân thật.
Ở Mỹ
chúng tôi đặc biệt lấy mười điều
20 chữ này ghi trên huy hiệu bằng đồng, cúng
dường chư vị đồng tu, các bạn
đều đă nhận được. Hy vọng các bạn thường
thường nh́n thấy, thường thường suy
nghĩ đến, hiểu rơ ư tứ trong đó thật là
vô cùng sâu rộng, không những bất kỳ một
điều nào cũng bao hàm hết chín điều kia,
bất kỳ điều nào cũng hàm chứa hết
thảy vô lượng diệu lư của chư Phật, hàm
chứa hết thảy pháp thế gian và xuất thế
gian, nếu bạn hướng về phía này mà nh́n th́ ư thú
vô cùng sâu xa. Tương lai khi
chúng ta giảng kinh thuyết pháp, khuyến đạo chúng
sanh, mục đích của mỗi lần diễn giảng,
bất luận thời gian nói chuyện dài hay ngắn,
nội dung sâu cạn đều không kể, [bạn
phải đặt câu hỏi] bạn dạy người
ta những ǵ? [Nếu bạn]
dạy một điều trong mười điều này
th́ phương hướng, mục tiêu của bạn
sẽ chính xác. Trong lời
[giảng của bạn] có hàm chứa thực chất! Sẽ không [có trường
hợp] người ta nghe hết nửa ngày rồi
cũng chẳng biết bạn đang nói những ǵ,
bạn thực sự có thể dẫn dắt hết
thảy chúng sanh hướng về Phật đạo. Mỗi chữ mỗi câu trong
mười điều này đều là Phật
đạo, mọi người phải hết ḷng nỗ
lực làm theo. Ở
nước ngoài có rất nhiều địa phương
muốn mời bạn đi giảng kinh, chờ
đợi bạn đi hoằng pháp, nhân duyên vô cùng hy
hữu, hy vọng mọi người đều trân
trọng.
Phụ lục 1:
Cứu văn kiếp nạn, hóa giải tai
nạn phải đẩy mạnh bốn thứ giáo
dục
(Giáo dục gia đ́nh là căn bản
của hết thảy giáo dục)
Chúng
ta đă nói rất nhiều lần, xă hội an
định, thế giới ḥa b́nh, nhân dân hạnh phúc
được xây dựng trên cơ sở của bốn
sự giáo dục, trong đó gốc rễ của giáo
dục là giáo dục gia đ́nh, sau đó đến giáo
dục trong trường học, giáo dục trong xă hội
làm cho nó trưởng thành, cuối cùng tức là giáo dục
tôn giáo.
Phải
biết sự an nguy của xă hội quyết định
ở tại gia đ́nh; sự an nguy của gia đ́nh
quyết định ở trên vợ chồng. Sách ‘Trung
Dung’ nói: ‘Đạo
của người quân tử khởi đầu từ
vợ chồng’ [32] cho nên
vợ chồng có sự kết hợp hoàn hảo th́
sẽ có gia đ́nh hoàn hảo; có gia đ́nh hoàn hảo th́
sẽ có xă hội hoàn hảo; có xă hội hoàn hảo th́ sẽ
có quốc gia hoàn hảo, thế giới hoàn hảo. Nếu như gia đ́nh không
kiện toàn, thậm chí không may vợ chồng phải ly
hôn, con cái của họ tương lai có thể sẽ
biến thành những người có vấn đề trong
xă hội, v́ chúng nó thiếu thốn sự thương yêu
của cha hoặc mẹ, tâm lư dễ sanh ra bất b́nh
thường, nếu không dụng tâm dạy dỗ, không có
thầy giỏi bạn tốt vây quanh huấn dụ, sau
khi trưởng thành rất dễ biến thành những
kẻ gây rối xă hội!
Mục
đích chính của giáo dục tôn giáo là: thăng hoa hoàn
cảnh con người.
Từ sự giúp đỡ từng người
chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, cho
đến chuyển phàm thành thánh, thoát ly sanh tử luân
hồi, thoát ly lục đạo, thập pháp giới. Nhưng các bạn đồng tu
phải biết, gốc rễ của nền giáo dục
tôn giáo cũng vẫn là giáo dục gia đ́nh. Nếu chúng ta coi nhẹ
điểm này th́ không những không độ nổi
người khác, việc tự độ cũng sẽ
không thực hiện được.
Chúng ta
phải có trí huệ chân thật, phải nhận rơ cốt
lơi của vấn đề, xă hội ngày nay động
loạn, giữa người với người không có tâm
thương yêu đùm bọc, không tin tưởng lẫn
nhau, giữa các chủng tộc không tin tưởng nhau,
giữa các tôn giáo cũng không tin tưởng nhau, giữa
các quốc gia cũng không tin tưởng nhau đều là
v́ giáo dục có vấn đề!
Không tin tưởng sẽ nghi ngờ, dần dần
đi đến hiểu lầm, đề pḥng lẫn nhau,
từ từ dẫn đến thi đua pḥng bị quân
sự, một khi hai bên chạy đua gia tăng thiết
bị quân sự th́ càng tăng thêm nghi ngờ lẫn nhau,
cuối cùng th́ chiến tranh bùng nổ một cách vô duyên
cớ! Tương lai
chiến tranh có xảy ra th́ quư vị đều biết
cho dù vơ lực của nước Mỹ có vượt
trội hơn bất kỳ nước nào khác, nhưng
một khi chiến tranh xảy ra th́ không có kẻ thắng
người bại, tất cả đều đi
đến hủy diệt, đây đều là lời
của các khoa học gia nói, chiến tranh hạch nhân là
chiến tranh hủy diệt lẫn nhau, là chiến tranh
không có ai thắng ai bại.
Nhận định: Gần
đây sự xung đột giữa Ấn độ và
Pakistan bộc phát từ tôn giáo tín ngưỡng khác nhau,
kỳ thị, bài xích lẫn nhau, cuối cùng đi
đến thù hận, v́ cả hai bên đều có vơ khí
nguyên tử, một khi chiến tranh bộc phát, chỉ
cần một bên [ngông cuồng, liều mạng] dồn
hết sức lực vào ván bài cuối cùng, th́ chiến
tranh nguyên tử rất có thể xảy ra, thế nên
những nước lân cận vô cùng lo âu, sợ bị liên
lụy. Từ đây có
thể thấy sự quan trọng của việc
đẩy mạnh bốn thứ giáo dục [kể trên] để
có thể tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau, hóa
giải hiểu lầm và thù hận.
Phụ lục 2:
Khai thị tâm yếu của Ấn Quang
đại sư
‘Đôn Luân Tận Phận, Nhàn Tà Tồn Thành,
Tín Nguyện Niệm Phật, Cầu sanh Tịnh
độ’.
Đôn Luân Tận Phận. Đôn nghĩa là thành khẩn ḥa
mục, Luân chỉ nhân luân. Đôn
Luân nghĩa là người với người đối
xử tương thân tương ái lẫn nhau. Đại sư nói với chúng ta:
phải làm tṛn trách nhiệm và nghĩa vụ của con
người. Trách nhiệm và
nghĩa vụ này chính là bổn phận của mọi
người nên làm. Những ǵ
là bổn phận của mọi người phải nên
làm? Tức là luân
thường, và cũng là [quan hệ giữa] vua tôi, cha con,
vợ chồng, anh em, bạn bè.
Nếu có thể hoàn thành trọn vẹn năm
thứ quan hệ này gia đ́nh mới hạnh phúc, xă
hội, quốc gia mới an định.
Quan
hệ vua tôi [ngày nay] nghĩa là quan hệ giữa
người cấp trên và người cấp dưới
hoặc là giữa chủ và nhân công. Phải làm sao? Tức là ‘Vua dùng lễ
đối đăi với bầy tôi, bầy tôi dùng ‘trung
thành’ để đối xử với vua’; người
chủ phải biết tôn trọng và lo lắng cho nhân công,
đối với những việc mà cấp trên giao phó,
nhân viên phải phụ trách trung thành, hết ḷng đi làm,
đây là đạo lư quân thần (giữa người lănh
đạo và người thuộc hạ). Đạo lư cha con là: người làm
cha phải dùng bản thân của ḿnh để làm nguyên
tắc, làm gương tốt cho con cái, nghiêm nghị
dạy dỗ cho con cái thành người tốt,
người thiện, đây mới là từ ái chân
chánh. Làm con phải cảm
được ân đức dạy dỗ, dưỡng
dục của cha mẹ th́ tự nhiên phải hiếu kính
cha mẹ. Đạo lư vợ
chồng là then chốt của hạnh phúc gia đ́nh, ch́a
khóa làm cho xă hội an định.
Vợ chồng ḥa hợp th́ gia đ́nh mới có
hạnh phúc, và mới có đời sau ưu tú, kiện
toàn. Cho nên làm chồng phải
có trách nhiệm với gia đ́nh, có t́nh nghĩa với
vợ, có ân nghĩa đối với cha mẹ, con cái. Làm vợ nhất định
phải ḥa thuận, uyển chuyển, cùng với chồng
dạy con, diễn vai tṛ người vợ hiền, dâu
thảo, mẹ hiền.
Đạo lư anh em: t́nh anh chị em như chân tay, thương
yêu lẫn nhau, lo lắng chăm sóc cho nhau, không làm cho cha
mẹ bận tâm, đây cũng là làm tṛn đạo
hiếu. Đạo lư bạn bè:
giao thiệp với bạn bè phải kết rộng
thiện duyên, t́m cầu tín nghĩa, dùng tâm thành giao
thiệp, được vậy mới có thể duy tŕ t́nh
bạn lâu dài.
Năm
thứ quan hệ kể trên là gốc rễ của luân
thường, năm thứ căn bản này là để
xây dựng hạnh phúc gia đ́nh mỹ măn, là then chốt
cho sự an định xă hội, quốc gia.
Nhàn Tà Tồn Thành: Nhàn nghĩa là ngăn
ngừa, đ́nh chỉ. Tà
nghĩa là tà ác. Nhàn Tà tức
là ngăn ngừa tà ác xâm nhập.
Trong đời sống sanh hoạt hằng ngày
cần phải giữ tâm thanh tịnh, tĩnh tọa
thường suy nghĩ coi ḿnh có lỗi lầm hay không
để pḥng ngừa hết thảy tà nhiễm. Tồn Thành nghĩa là giữ ǵn
tâm tánh trung thành, khi đối xử với người và
xử lư công việc thường giữ tâm cung kính
kiền thành, lâu dần tự nhiên có thể chân thành trong
tâm và biểu hiện ra ngoài, nhân cách và việc làm của
bạn nhất định sẽ được mọi
người tôn sùng và kính yêu.
Tín Nguyện Niệm Phật Cầu Sanh
Tịnh Độ: Thật sự thiết tha tin tưởng
A Di Đà Phật th́ chỉ cần dùng tâm chân thành để
niệm Phật một cách liên tục, nhất định
có thể văng sanh Cực Lạc Thế giới, thân cận
Di Đà, và chư thiện tri thức, cùng làm học tṛ của
đức Phật A Di Đà, vĩnh viễn thoát ly sự
khổ của sanh tử luân hồi.
Giữ tâm tốt, nói lời lành, làm việc
tốt, làm người tốt.
[33]
Tu hành bắt đầu từ sửa
đổi tâm niệm.
Lăo ḥa
thượng Tịnh Không chỉ rơ: phương pháp
sửa đổi vận mạng phải dựa vào sự
chuyển biến -- chuyển ác thành thiện, chuyển mê
thành ngộ, chuyển phàm thành thánh.
Các vị
đồng tu đều biết ‘trồng nhân thiện th́
được quả thiện’, nhưng nếu nghiệp
báo chưa chuyển trở lại th́ rất dễ than trời
trách người, trách Phật, Bồ Tát không linh, trách
thần không phù hộ, ắt phải kiểm thảo nguyên
nhân của nó. Chuyện Du
Tịnh Ư gặp Táo Thần (Táo quân, Thần bếp)
rất đáng để chúng ta nghiên cứu tham
khảo. Làm việc thiện
không phải chỉ làm trên công phu bề ngoài, ngoài ‘khẩu
thiện, thân thiện’ càng quan trọng hơn phải là
‘tâm thiện, ư thiện’.
Những
đại đức thời xưa dạy ‘Tu hành phải
bắt đầu từ căn bản’, căn bản là
tâm, là ư niệm, chỉ cần tâm bạn thiện, ư
niệm thiện th́ không có nghiệp báo nào mà không thể chuyển
đổi được, và cũng không có tai nạn ǵ
không thể hóa giải được. Cũng giống như một cây
cổ thụ, tâm là rễ, ư niệm là gốc, thân là cành,
khẩu là lá, nếu bạn tu sửa trên cành lá mà gốc
rễ đă mục nát th́ không thể nào cứu
được! Phải
sửa đổi gốc rễ, căn bản
trước, cành lá sẽ rất dễ chuyển biến.
A Di Đà
Phật
Trong
quá tŕnh chuyển ngữ chắc không tránh khỏi thiếu
sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính
cho.
Xin
thành thật cám ơn.
Một
nhóm Diệu Âm cư sĩ, 4-tháng 9-2004
[1] Huệ dĩ chúng sanh chân thật chi lợi
[2] ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm
[3] đương thể giai không, liễu bất khả đắc
[4] Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại…., ngă giai linh nhập Vô Dư Niết Bàn nhi diệt độ chi
[5] Như thị diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả
[6] đương thể tức không, liễu bất khả đắc
[7] vạn pháp giai không, nhân quả bất không
[8] Phật ở
đây phải hiểu là Phần Chứng Phật, hoặc
danh văn Phật, chưa phải là cứu cánh Phật,
tức là hiểu theo phương diện đă giác ngộ,
nhưng mới chỉ là phần giác th́ gọi là Phật.
[9] vi phát đại thừa giả thuyết, vi phát tối thượng thừa giả thuyết
[10] Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng
[11] Nhược kiến chư tướng phi tướng, tắc kiến Như Lai
[12] Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải
[13] Tri ngă thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp
[14] Như Lai thị chân ngữ giả, thật
ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống
ngữ giả, bất dị ngữ giả
[15] Nhất thiết hiền thánh, giai dĩ vô vi pháp, nhi hữu sai biệt
[16] thanh xuất
ư lam, nhi thắng ư lam: Lam ở đây là một
chất màu chiết ra từ thực vật, ta gọi là
Chàm (indigo). Lọc màu xanh từ chất Chàm ra sẽ xanh
đậm hơn, dùng để nhuộm áo, nhất là
những sắc dân sơn cước hay dùng loại màu
nhuộm này.
[17] pháp môn b́nh đẳng, thù đồ đồng quy
[18] Thiện nam tử, thiện nữ nhân ư thử kinh trung năi chí thọ tŕ tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, nhi thử phước đức thắng tiền phước đức
[19] tâm bao thái hư, lượng châu sa giới
[20] ‘Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương’
[21] ‘Nhân giả kiến nhân, trí giả kiến trí’, ư nói: Từ nội tâm ảnh hưởng đến kiến giải, quan điểm, cách xử sự
[22] ‘bất thủ ư tướng, như như bất động’
[23] ‘đương thể tức không, liễu bất khả đắc’
[24] ‘vạn pháp giai không liễu bất khả đắc, như thị như thị’
[25] ‘thiên nhăn đổng thị, thiên nhĩ triệt thính, tha tâm biến tri’
[26] ‘thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá’
[27] ‘Thiện
hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá’
Thiện hộ thân nghiệp,
bất thất luật nghi
Thiện
hộ ư nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm
[28] ‘Vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân’
[29] ‘năng sở giai không, liễu bất khả đắc’
[30]
Khổ khổ: do việc khổ xảy đến
nên sanh phiền năo.
Hoại khổ: do pháp vui mất đi mà sanh khổ năo.
Hành khổ: hành nghĩa là
dời chuyển. Do hết thảy đều dời
chuyển, vô thường nên sanh khổ năo
[31] Phan duyên
nghĩa là nương theo cảnh vật bên ngoài mà nghĩ
tưởng, toan tính, và hành động bằng thân và
miệng.
[32] ‘Quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ’
[33] Tồn hảo tâm, thuyết hảo thoại, hành
hảo sự, tác hảo nhân.