Phật Học Vấn
Đáp Loại Biên
佛學問答類編
Phần 11
Lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo
Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội, Đài
Loan, 2007)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
* Hỏi: Chấp tŕ danh hiệu sáu chữ
hồng danh Nam-mô A Di Đà Phật, có cần phải xướng
theo nhịp điệu, hay chỉ niệm [b́nh thường]
là được rồi? (Trần
Tín Cát hỏi)
Đáp: Cất giọng ngân nga
chẳng qua là v́ tùy thuận đại chúng, ngơ hầu [mọi
người đều niệm] cùng một giọng, nhịp
nhàng, chẳng đến nỗi lộn xộn. Nếu tự
ḿnh tŕ danh, nhằm cầu nhất tâm, ḥng cảm ứng
đạo giao, báo tận sẽ sanh về Tây, niệm lớn
tiếng, hay niệm thấp giọng, niệm nhanh, hay niệm
chậm, niệm ra tiếng, hay niệm thầm, tâm dơi theo
quán tưởng, chủ yếu là tự phù hợp với căn
cơ của chính ḿnh. Điều cốt yếu là đạt
được nhất tâm, chứ cất giọng ngân nga đều
chẳng cần thiết!
* Hỏi: Đối với sớ văn
hồi hướng Tây Phương, sau mỗi lượt
công khóa đều phải hồi hướng, có cần phải
đốt sớ văn hồi hướng hay không? (Trần Tín Cát hỏi)
Đáp: Trong chùa miếu làm Phật
sự cho người khác, hoặc là pháp hội đặc
biệt th́ mới đốt sớ văn, nhằm tỏ
rơ tánh chuyên nhất [của Phật sự ấy]. Hai thời
công khóa hằng ngày đều chẳng cần đốt sớ
văn. Đối với hai khóa tụng hằng ngày của
người tại gia, chỉ dựa trên các bài văn Hồi
Hướng do cổ đức đă soạn, chọn lấy
bài nào khế hợp căn cơ của chính ḿnh, thành kính đọc
lên th́ sự đă viên thành, chẳng cần phải đốt
sớ văn!
* Hỏi: Sau khi đă thọ Ngũ Giới,
có phải sẽ gọi là Ưu Bà Tắc? Có cần phải
cạo trọc đầu hay không? Có cần phải ăn
chay hay không? (Trần Tín Cát
hỏi)
Đáp: Chỉ thọ Tam Quy Y th́
cũng gọi là Ưu Bà Tắc. Nếu lại c̣n thọ
giới th́ càng hay, chú trọng nơi thành tâm tuân thủ. Kể
từ xưa, kẻ thế tục tại Trung Quốc đều
giữ nguyên tóc. Nếu xuất gia làm Tăng, theo quy chế,
ắt phải cạo tóc. Nói chung, cư sĩ tại gia chẳng
làm như vậy, v́ mỗi bên có h́nh tướng riêng, chớ
nên lẫn lộn! Người thời nay mô phỏng kiểu
cách nước ngoài, cắt tóc ngắn, hoặc cạo sạch
tóc, chính là thói quen ưa thích nhất thời, trọn chẳng
phải là kẻ không có tóc bèn là tín đồ nhà Phật. Đối
với chuyện ăn chay, không chỉ là vun bồi công
đức, mà c̣n có thể giảm chứng xơ cứng mạch
máu, tránh được các thứ ghẻ độc, thân thể
khỏe mạnh, sống lâu, lợi ích không ǵ lớn bằng!
Nếu v́ tập khí khó thể sửa đổi, trước
hết, hăy học theo cách ăn ba thứ tịnh nhục.
Tiến cao hơn là ăn rau cạnh thịt. Phật pháp có
nhiều phương tiện!
* Hỏi: Sau khi đă thọ Ngũ Giới,
trước hết, chẳng ăn chay trường, mà đầu
tiên là ăn chay từ sáu ngày đến mười ngày, sau
này sẽ ăn chay trường. Làm như vậy có được
hay không? (Trần Tín Cát hỏi)
Đáp: Ăn chay sáu ngày hay mười
ngày, cần phải là “thanh
trai”[1] th́
mới nên. Đối với những ngày khác, xin tham chiếu
câu trả lời thứ năm để làm theo, [làm
như vậy th́] đức Phật cũng cho phép.
* Hỏi: Sau khi đă tin Phật,
trong nhà vẫn c̣n nuôi súc sanh, tôi khuyên cha mẹ đừng
nên nuôi nữa, cũng như khai thị về Phật pháp
cho họ nghe. Thế nhưng cha mẹ vẫn nuôi như cũ,
vậy th́ cần phải làm như thế nào? Hay là chẳng
cần quan tâm đến? (Trần
Tín Cát hỏi).
Đáp: Cha mẹ là chủ nhà, tự
nhiên là [mọi việc trong nhà] do họ làm chủ. Đức
hạnh và ḷng hiếu của chính ḿnh chẳng đủ để
cảm động cha mẹ th́ làm sao họ có thể nghe
theo, tin tưởng lời khuyên? Nếu có chân tâm tin Phật,
ắt sẽ có chân hạnh. Hăy nên phản tỉnh, soi xét bản
thân, hiếu thảo, ḥa thuận để giữ yên gia đ́nh,
lâu ngày chầy tháng, ḷng thành sẽ cảm động tâm người
khác. Dùng thân để khuyên th́ tốt hơn là khuyên bằng
lời lẽ, cha mẹ sẽ tự chuyển biến, mầm
Bồ Đề tươi tốt, hiếu đạo cũng
thành tựu.
* Hỏi: Hàng xóm đều làm
nghề thuộc da, nhưng có rất nhiều da ḅ bị vứt
bỏ chẳng dùng. Tôi nhặt lấy để đun nước
th́ có tội lỗi hay không? (Trần
Tín Cát hỏi).
Đáp: Người ta chưa vứt
bỏ mà ta đă nhặt lấy, nếu chẳng phải là
cưỡng đoạt, th́ cũng là gạt lấy. Vật bỏ
mặc đó th́ ông cũng chớ nên màng tới, v́ đó chẳng phải là vật của
ḿnh. Nếu họ đem cho ta th́ cũng là thiếu t́nh
người, v́ [da ấy] có mùi hôi tanh, mất vệ sinh. Nếu
v́ nhà nghèo mà nhận lấy, lúc đốt, hăy nghĩ thương
xót những con ḅ gặp nạn, niệm Phật hồi
hướng cho chúng th́ sẽ là bỏ ḷng tham, chuyển thành
ḷng Bi.
* Hỏi: Tôi muốn thọ Tam
Quy Y, có thể gởi thư xin thọ, và vâng giữ sáu ngày
trai hay chăng? (Do học tṛ hiện thời có khuyết hăm,
chẳng tiện ra khỏi cửa. Trong sáu ngày trai, tṛ tự
ḿnh đối trước Phật tự thọ quy y, cộng
thêm ngày mồng Một thành bảy ngày ăn chay). (Trần Tín Cát hỏi)
Đáp: Quy y và thọ giới có
khoan dung và nghiêm ngặt khác nhau. Chẳng thể ra khỏi
cửa th́ có thể gởi thư xin quy y. Khi đă nhận
được điệp quy y, ắt nên đối trước
Phật lễ tạ. Thọ giới th́ cần phải do đích
thân giới sư trao truyền. Nếu mắc bệnh, có
thể thỉnh pháp sư đến nhà, phương
tiện truyền trao, hoặc là có cách khác, hăy nên để
pháp sư tự quyết định, kẻ hèn này chẳng
thể thốt lời nghị luận xằng bậy được!
C̣n đối với chuyện sáu ngày trai hay mười ngày
trai, cũng có thể tự thọ trước Phật. Tŕ
giới, tu phước, Phật hoan hỷ!
* Hỏi: Vùng Gia Nghĩa chẳng
biết có tổ chức Niệm Phật Xă, Liên Tông Xă, Cư
Sĩ Lâm, Lâm Chung Trợ Niệm Đoàn, các loại tổ
chức đoàn thể như vậy hay không? Do tôi chẳng
thấy có các tổ chức ấy, trong tâm rất mong tham
gia, hy vọng thầy có thể giới thiệu một
phen, khiến cho đệ tử có cơ hội tham gia. (Trần Tín Cát hỏi)
Đáp: Thân thể đi lại
bất tiện, tĩnh tu tại nhà, so ra hợp lẽ hơn.
Bởi lẽ, niệm Phật mà cảnh thanh tĩnh, dễ
đắc nhất tâm. Nếu có thể gắng gượng
ra ngoài, tại thành phố Gia Nghĩa có hội Phật giáo,
có thể hỏi họ, xin họ giới thiệu.
* Hỏi: Trứng gà không có mầm
sống (không có cồ) th́ ăn chay trường có thể
thường dùng hay không (v́ tôi đă bị giải phẫu
bảy tám lượt, thường lấy thuốc làm bạn,
thân thể rất hư nhược), hay là chẳng thể
dùng? (Trần Tín Cát hỏi)
Đáp: Trứng không có cồ vốn
chẳng có sanh mạng, có thể dùng thay thế dược
phẩm, trọn chẳng phải là không được! Nhưng
đối với các vật dinh dưỡng, cần phải
xét xem thân thể bị thiếu loại nào, có phù hợp
hay không, hăy nên do bác sĩ kiểm định. Nếu bác sĩ
bảo trứng gà không gây hại th́ có thể ăn lâu dài.
Do ăn trứng quá mức, có thể tăng [nguy cơ] mắc
chứng xơ vữa mạch máu; v́ thế, cần phải
[được bác sĩ] kiểm định. Giới luật
nhà Phật được chia thành khai, giá, tŕ, phạm, đối
với trứng không có cồ, có thể mở phương
tiện.
* Hỏi: Công khóa hằng ngày tụng một
quyển kinh Di Đà và một quyển Quán Thế Âm Bồ
Tát Phổ Môn Phẩm, khóa tối cũng giống như vậy,
những lúc khác đều là chấp tŕ danh hiệu, như
vậy th́ có được hay không? (Trần Tín Cát hỏi)
Đáp: Về học th́ nên đa
văn, nhưng hành tŕ hăy nên thuần nhất. Tự tu tại
nhà, công khóa ấy hết sức thích hợp.
* Hỏi: Cha tôi hễ uống rượu
thường gây huyên náo trong Phật đường, khuyên can
nhưng lại chẳng nghe, gặp phải t́nh h́nh ấy
th́ nên làm như thế nào? (Trần
Tín Cát hỏi)
Đáp: Xin xem lời đáp cho câu
hỏi thứ bảy: Hăy cung kính phản tỉnh, chí thành
hiếu thảo, mềm mỏng, nhẹ nhàng can gián. Nếu
cha chẳng nghe, vẫn càng thêm hiếu kính. Nhân duyên chín muồi,
sẽ tự biến đổi. Nhân duyên chưa chín muồi
th́ cũng trọn đạo hiếu và có công đức vậy!
* Hỏi: Hằng ngày quét đất,
rửa sàn, hoặc rửa rau, thường có những chúng
sanh bé nhỏ, do có lúc chẳng thấy, hoặc vô ư, lỡ
làm chết chúng, như vậy th́ có tội lỗi hay không?
Có tính là phá giới sát sanh hay không? (Trần Tín Cát hỏi)
Đáp: Có tâm làm là tội, vô tâm là
lỗi. Giữ ǵn tâm từ bi, cẩn thận nơi những
hành vi nhỏ nhặt, tận hết sức mong tránh khỏi,
giảm thiểu những chuyện vô ư là được. Tội
và lỗi mỗi mỗi đều có nhân quả. Do duyên lực
có mạnh hay yếu, mà quả cũng chia thành nhiều loại
khác nhau. Nếu duyên lực chẳng đầy đủ, các
pháp cũng chẳng thể sanh.
* Hỏi: Phật có ba mươi
hai tướng, tám mươi thứ hảo, nếu ai quán
tướng của Như Lai, người ấy hành tà đạo,
chẳng thể thấy Như Lai. Kinh Duy Ma lại nói “ba mươi hai tướng, tám
mươi thứ hảo có thể làm Phật sự”, v́
sao đoạn này và ư nghĩa trên đây khác nhau? (Vương Tú Xuân hỏi)
Đáp: Điều quan trọng
trong Phật pháp là minh tâm kiến tánh. Tánh đă mê hoặc,
nên trước hết phải đoạn Hoặc. Để
đoạn Hoặc, cần phải có thiện xảo, tức
là dùng thiện để thay ác, dùng tịnh thay uế. Ba mươi
hai tướng, tám mươi thứ hảo, đều là
tướng thanh tịnh trang nghiêm, có thể thay thế uế
tướng ngũ dục, lục trần. “Làm Phật sự” chính là dùng cái nhân thanh tịnh ấy
để thay đổi chủng tử ô uế trong tám thức.
Khi các chủng tử ô uế dần dần đoạn mất,
tướng thanh tịnh cũng thuộc hư vọng, ắt
cũng chẳng giữ lại th́ mới hiển lộ
Chân Như. Nếu chấp vào tướng hảo, sẽ chẳng
đạt được Chân, nên cũng phải coi nó là rỗng
không. Phật và pháp giống như bác sĩ và thuốc men, ứng
với chứng bệnh mà cho thuốc, ôn, thanh, bổ, tả[2],
trọn chẳng nhất định.
* Hỏi: Đọc sách thánh hiền,
làm chuyện thánh hiền, nếu ĺa khỏi những lời
ấy th́ chẳng biết một điều ǵ (chẳng
biết những ǵ nên làm, những ǵ nên dứt), hăy nên cứu
văn điều tệ ấy bằng cách nào? (Du Kỳ hỏi)
Đáp: Cầu học, hành đạo,
phải nắm vững trọng tâm. Trọng tâm chính là nguyên
tắc. Câu “đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều lành, tự thanh
tịnh ư ḿnh” trong nhà Phật chính là trọng tâm. Những
câu như “minh đức, tân
dân, chỉ ư chí thiện, thành ư, chánh tâm, tu thân” của
Nho gia đều là trọng tâm. Những điều ấy
đều nên vâng giữ, chớ nên trái nghịch. Nếu nói
đến những ǵ nên làm, những ǵ nên ngưng dứt
th́ ngàn vạn đầu mối, há có thể nêu ra chi tiết?
Nếu dựa trên nguyên tắc để cân nhắc th́ sẽ
có thể giải quyết hết thảy vấn đề.
* Hỏi: Người đă khuất
lúc c̣n sống đă quy y Tam Bảo, tôi bảo người
ấy phải thường xuyên niệm Phật, nhưng
anh ta là kẻ bận bịu, sáng tối chẳng có công khóa
niệm Phật. Đến khi ngă bệnh, anh ta bảo tôi
hăy niệm Phật tiêu tai cho anh ta, tôi cũng làm. Về sau,
bệnh t́nh chuyển biến tốt hơn, anh ta nói khi nằm
mộng thấy rất nhiều vị Phật ở bên thân.
Sau này, trước lúc anh ta mất một tuần, khi tôi đến
thăm, cũng bảo anh ta phải niệm Phật, nhưng
anh ta có niệm Phật hay không, tôi cũng không biết. Như
vậy th́ có thể văng sanh hay không? Mong thầy chỉ dạy.
(Tâm Phật hỏi)
Đáp: Điềm chứng nghiệm
văng sanh là khi lâm chung, chánh niệm phân minh, tâm chẳng điên
đảo. Nếu có thể như vậy, quyết định
văng sanh. Nói đến người đă khuất ấy,
khi lâm chung, ông và tôi đều chẳng hiện diện nơi
đó, chẳng hiểu rơ trạng huống, há dám nói bừa
là văng sanh hay không! Nhưng ông ta nói trong mộng thấy Phật,
tức là trong thức điền, [chủng tử] Phật
đă khởi hiện hành. Sau đó, tuy chẳng thể liên
tục, cũng chắc chắn là sanh trong đường
lành.
* Hỏi: Người đă mất
sau khi mạng chung, từng được trợ niệm
tám giờ bốn mươi phút, thấy mặt người
đă khuất giống như c̣n sống. Lại kiểm
nghiệm thân thể th́ tay chân rất lạnh, nhưng đầu
và ngực rất ấm. Để qua một đêm, đến
ngày hôm sau, đem cát quang minh[3] đă
được tŕ chú do thầy từ bi ban cho đặt
trên ngực người mất, làm như vậy th́ có thể
thoát ĺa sáu đường hay không? Trong lễ tang và cúng thất,
đều nhất loạt ăn chay, kiêng giết. (Tâm Phật hỏi)
Đáp: Tướng ấy rất
tốt, trợ niệm, cúng bái cũng rất hiểu pháp,
dường như là nhân duyên đầy đủ. Nếu
đúng như đă kể, sẽ là tướng văng sanh.
* Hỏi: Tụng kinh niệm Phật
nhằm bạt độ người mất; ngoài ra, c̣n có
thể làm ǵ để tạo phước cho người
đă khuất hay không? (Tâm
Phật hỏi)
Đáp: “Bạt” (拔) là giúp cho khỏi
đọa lạc, “độ”
(度) là siêu lên cao. “Chẳng
đọa, siêu thăng” là căn bản của phước.
Căn bản giống như chánh báo, gốc phước tự
sanh ra lá phước, hoa phước, kết thành quả phước.
Gốc tuy là một, nhưng lá, hoa, quả vô lượng.
Lá, hoa, quả là những thứ ở ngoài gốc. Cố
nhiên gốc là một tướng, nhưng lá, hoa, quả ngàn
muôn sai khác!
* Hỏi: Các vị pháp sư xuất
gia đều v́ người đă khuất tụng Đại
Thừa Kim Cang Bảo Sám Kinh. Tụng kinh ấy cho người
đă khuất sẽ vượt trỗi các kinh khác, bạt
độ người đă khuất sẽ có vô lượng
công đức, đúng không? Kính mong thầy chỉ dạy!
(Tâm Phật hỏi)
Đáp: Kinh nói “các pháp b́nh đẳng”, một Thể vốn có
thể sanh khởi muôn vàn tác dụng, nhưng do có ngoại
lệ, nên có sai biệt. Trai chủ thành tâm, người tụng
thành tâm, sẽ thật sự có thể cảm ứng, công
năng càng thù thắng hơn. Nếu hời hợt làm cho
xong chuyện, chẳng dốc tâm vào đó, lại c̣n giới
hạnh tu tŕ chẳng trang nghiêm, sợ c̣n chuốc họa,
nói ǵ đến công đức! [Như vậy th́ có công
đức hay không], chẳng do tụng kinh nào vậy!
* Hỏi: Nếu như muốn
khuyên đồng học học Phật, bước đầu
tiên phải nên làm như thế nào? Có đồng học xét
về căn bản là chẳng muốn phát tâm, có kẻ lại
c̣n cố ư hủy báng, có phải là hăy nên buông bỏ ư niệm
khuyên họ học Phật hay chăng? (Lư Nguyệt Trinh hỏi)
Đáp: Khuyên người khác học
Phật, vốn dựa trên những điều ta biết.
Biết nhiều th́ trí rộng, tự nhiên ngôn ngữ hay khéo,
xét theo [căn cơ của] đối phương mà thí pháp
[phù hợp], trọn chẳng nhất định. Khuyên người
khác, họ chẳng tiếp nhận, là do học nghiệp
của ta chẳng đủ, hăy nên phát ḷng hổ thẹn, càng
mạnh mẽ cầu học hơn, để chuẩn bị
cho công tác lần sau, cầu được thuận lợi.
Ngoài ngôn ngữ ra, cần phải có các tập sách nhỏ
[giảng giải Phật pháp], đó gọi là “muốn sự
việc thuận lợi, th́ trước hết phải có
công cụ nhạy bén”. Nếu nói “buông bỏ ư niệm” tức
là tâm Bồ Đề thoái chuyển, hết sức chớ
nên, hết sức chớ nên!
* Hỏi: Phật
Đường trong nhà hoặc tượng Phật trong pḥng
có cần phải đặt bức rèm bằng vải vàng [che
lại] hay không? V́ sao có lúc phải dùng vải vàng che lại?
(Lư Nguyệt Trinh hỏi)
Đáp: Tấm che để ngừa
những thứ chẳng sạch sẽ, hoặc có lúc chuyên
để trang nghiêm. Vốn chẳng câu nệ màu sắc, nhưng
v́ theo mỗi nước, do thói quen ưa thích khác nhau, mà trở
thành sai khác. Nước ta từ xưa đến nay, màu vàng
là của đế vương chuyên dùng, nên được
coi là trang nghiêm nhất, b́nh dân chẳng được dùng.
Màu đỏ được coi là tốt lành, màu đen hoặc
trắng được coi là xui xẻo, tang tóc. [Do quan niệm
ấy] lưu hành đă lâu, trở thành tập quán. V́ thế,
những thứ màn che trong nhà Phật phần nhiều dùng
hai màu đỏ và vàng, nhằm tỏ ḷng kính trọng vậy.
* Hỏi: Khi tŕ chú Đại Bi
th́ có nhất định phải có hương, hoa hay không?
Có cần phải thắp một ngọn đèn nhỏ hay
không? Có cần phải cúng hương, hoa, trái cây liên tục
chẳng gián đoạn hay không? (Lư
Nguyệt Trinh hỏi)
Đáp: Chuyện
này không nhất định. Tùy sức mà có hay không [đều
được], cố nhiên là có th́ càng tốt. Nếu không
có, hăy nên giữ ḷng thành kính, Phật pháp viên dung, đề
cao chân tâm. Đối với việc tŕ chú, do thuộc về
công hạnh, ắt phải tŕ liên tục, chẳng gián
đoạn. Hễ gián đoạn, sẽ là buông lung, giải
đăi, đều là chướng đạo.
* Hỏi:
Trong Địa Tạng Vương Bồ Tát Bổn Nguyện
Kinh có một đoạn nói: “Năi
quá khứ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp na-do-tha bất
khả thuyết kiếp, nhĩ thời hữu Phật, hiệu
Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai… kỳ Phật thọ
mạng lục vạn kiếp” (Trong quá khứ vô lượng
A-tăng-kỳ kiếp na-do-tha bất khả thuyết kiếp,
lúc ấy có Phật hiệu là Nhất Thiết Trí Thành Tựu
Như Lai… đức Phật ấy có thọ mạng là sáu
vạn kiếp). Lại nói: “Phục
ư quá khứ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, hữu
Phật xuất thế, danh Thanh Tịnh Liên Hoa Mục
Như Lai, kỳ Phật thọ mạng tứ thập kiếp”
(lại trong quá khứ vô lượng A-tăng-kỳ kiếp,
có Phật xuất thế, hiệu là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục
Như Lai, vị Phật ấy có thọ mạng bốn mươi
kiếp). Phật đă thành Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, v́ sao thọ mạng cũng có lúc hết? Lại c̣n
thọ mạng có dài ngắn [khác nhau]? (Triệu Chánh Hoa hỏi)
Đáp:
Phật có ba thân:
- Một là Pháp
Thân, tức Chân Như bản thể, không có khởi đầu,
chẳng có kết thúc.
- Hai là Báo Thân, chính
là đại thân có vô lượng tướng hảo, tùy
theo các cơ duyên, có lúc hiện, có lúc ẩn. Khi hiện th́
giả nói là “khởi đầu”, khi ẩn th́ giả nói là
“kết thúc”. Thật ra, khi tu thành bèn nói là “có khởi đầu”;
sau khi đă thành, thật sự chẳng có kết thúc.
- Ba là Ứng Thân,
v́ độ lục đạo, nên thị hiện cái thân
sanh diệt. Chánh báo và y báo của thân ấy, thọ mạng
dài ngắn, đều tương ứng với đường
nào [trong lục đạo] mà Ngài đă ứng hiện, nên
có thể nói là “có khởi đầu, có kết thúc”.
Đối với
chuyện đă hỏi th́ nói chư Phật thọ mạng
bao nhiêu kiếp đều là nói về sự ẩn mất
của Báo Thân, chẳng giống với sự sanh diệt
nơi Ứng Thân!
* Hỏi:
Nay có người đă văng sanh Tây Phương Cực Lạc
liên bang, có thể siêu độ tổ tiên hay không? (Triệu Chánh Hoa hỏi)
Đáp: Văng sanh Cực
Lạc chính là thiện căn làm chánh nhân, phước đức
làm trợ duyên, cảm ứng đạo giao tạo thành. Hễ
thiếu một trong bốn lực trên đây, sẽ chẳng
thể văng sanh. Tuy chẳng văng sanh, đă siêu sanh thiện đạo.
Nếu bốn lực trọn đủ, sau khi văng sanh, thần
thông và trí huệ chẳng b́nh phàm, liền biết tổ tiên
thật sự đang ở trong đường nào, có thể
nương vào thần thông, đến đó cứu độ,
có thể khiến cho họ siêu thăng đường lành.
Nếu tổ tiên phát tâm học Phật th́ mới có hy vọng
siêu thăng luân hồi!
* Hỏi:
Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán Kinh nói: “Thiện nam tử! Ư chư
thế gian, hà giả tối phú? Hà giả tối bần? Bi
mẫu tại đường, danh chi vi phú. Bi mẫu bất
tại, danh chi vi bần. Bi mẫu tại thời, danh vi nhật
trung. Bi mẫu tử thời, danh vi nhật một. Bi mẫu
tại thời, danh vi nguyệt minh. Bi mẫu vong thời,
danh vi ám dạ. Thị cố, nhữ đẳng cần
gia tu tập, hiếu dưỡng phụ mẫu, nhược
nhân cúng Phật, phước đẳng vô dị. Ưng
đương như thị báo phụ mẫu ân” (Này
thiện nam tử! Trong các thế gian, thế nào là giàu nhất?
Thế nào là nghèo nhất? Bi mẫu c̣n sống th́ gọi là
giàu. Bi mẫu đă khuất, th́ gọi là nghèo. Khi bi mẫu
c̣n sống th́ gọi là mặt trời chính ngọ, khi bi mẫu
đă chết, gọi là mặt trời lặn. Khi bi mẫu
c̣n sống, gọi là trăng sáng. Khi bi mẫu mất đi,
gọi là đêm đen. V́ thế, các ông hăy nên thêm siêng năng
tu tập, hiếu dưỡng cha mẹ, sẽ có phước
chẳng khác ǵ người cúng Phật. Hăy nên báo ân cha mẹ
như vậy); v́ sao gọi mẹ là “bi mẫu”? (Hồng
Hoán Mô hỏi)
Đáp:
Ban cho sự vui là Từ, cứu khổ là Bi. So sánh giữa
đôi bên, dẹp khổ trọng yếu hơn. Quán Âm Bồ
Tát tầm thanh cứu khổ, chẳng phải là Ngài không
có ḷng Từ, do chú trọng điều trọng yếu, nên
Ngài có hiệu là Đại Bi. Mẹ quan tâm con cái, giống
như Quán Âm nh́n chúng sanh; v́ thế, gọi là “bi mẫu”, giống như ngài
Quán Âm được xưng tụng là Đại Bi, lư ấy
tương đồng.
* Hỏi:
Trong Phật Thuyết Phụ Mẫu Ân Nan Báo Kinh có nói: “Thế Tôn cáo chư tỳ-kheo: -
Phụ mẫu ư tử, hữu đại tăng ích,
nhũ bộ trưởng dưỡng, tùy thời
tương dục, tứ đại đắc thành. Hữu
kiên phụ phụ, tả kiên phụ mẫu, kinh lịch
thiên niên, cánh sử tiện lợi bối thượng,
nhiên vô hữu oán tâm ư phụ mẫu, thử tử do bất
túc báo phụ mẫu ân” (đức Thế Tôn bảo các
tỳ-kheo: “Cha mẹ có sự đại tăng ích đối
với con cái, bú mớm, nuôi lớn, luôn luôn nuôi nấng, khiến
cho thân Tứ Đại của con được trưởng
thành. Vai phải cơng cha, vai trái cơng mẹ, trải qua ngàn năm,
lại c̣n để cha mẹ tiêu tiểu trên lưng, nhưng
chẳng có ḷng oán hận cha mẹ, đứa con ấy vẫn
chưa đáng gọi là báo ân cha mẹ”). Con người chỉ
có trăm tuổi, làm sao có thể trải qua ngàn năm. Xin
hăy chỉ dạy! (Hồng Hoán
Mô hỏi)
Đáp:
Đây là lời lẽ nhằm diễn tả sự tột
bực, chẳng phải là ắt phải trải qua một
ngàn năm, giống như nói “bách
thân hà thục” (trăm thân làm sao chuộc), “bách xích can đầu” (đầu
sào trăm thước), “thiên lự
nhất đắc” (nghĩ ngợi ngàn lẽ, mới đạt
được một điều), “thiên lư nga mao” (lông ngỗng ngàn dặm), “vạn tánh thống phổ”
(muôn họ đều liệt kê hết), “vạn thọ vô cương” (tuổi thọ muôn
vàn, chẳng có ngằn mé) v.v… Thử nghĩ xem: Thân làm sao có
một trăm cho được? Cũng chẳng có cái sào
nào dài trăm thước! Con số ngàn vạn cũng cùng
một lệ ấy. V́ thế, nên hiểu đó là lời
lẽ nói tới sự tột bực, đừng hiểu
chết cứng nơi mặt văn tự!
* Hỏi:
Kinh Tạp Bảo Tạng dạy: “Nhược nhân ư phụ mẫu sở, tác thiểu
cúng dường, hoạch phước vô lượng. Thiểu
tác bất thuận, tội diệc vô lượng” (nếu
ai cúng dường cha mẹ đôi chút, được phước
vô lượng. Bất thuận đôi chút, tội cũng vô
lượng). Ai mà chẳng cúng dường cha mẹ, nhưng
chưa thấy phước ở chỗ nào! Xin hăy chỉ
dạy. (Hồng Hoán Mô hỏi)
Đáp:
Tuy nói “cúng dường”, c̣n phải xét tới động cơ
(motivation), xét xem sự biểu hiện từ đầu tới
cuối, để định luận là tâm chân thành hay giả
dối! Nếu chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh,
chẳng thể không cúng dường, hoặc do có mong cầu
điều ǵ khác, hoặc là tâm miễn cưỡng, các loại
[cúng dường] như thế, đều chẳng có ḷng
thành, nhưng cũng có phước đức nhỏ nhoi.
Chỉ v́ hết thảy các niệm giả dối, ngạo
mạn xen lẫn, nên phước đức vặt vănh ấy
chẳng có sức khởi lên hiện hành. Do đó, tợ hồ
vô phước. Đó là một lư do. Nếu có t́nh h́nh như
đă nói trên đây, sẽ là “bất
thuận”, tức là cái nhân ác, tội cũng vô lượng.
Người đời hiếu thuận cha mẹ, thiện
ác hỗn tạp, do bù qua sớt lại, mắt kẻ tục
khó thể nhận biết!
* Hỏi:
Trong bộ Tịnh Độ Văn của cư sĩ Long
Thư đời Tống có nói: “Phụng
dưỡng ngọt bùi là ḷng hiếu thế gian. Khuyên cha mẹ
tu Tịnh Độ là ḷng hiếu xuất thế gian. Bởi
lẽ, ḷng hiếu thế gian chỉ có một đời,
nên vẫn là ḷng hiếu nhỏ nhoi. Ḷng hiếu xuất thế
gian chẳng có lúc nào cùng tận, v́ cha mẹ sanh về Tịnh
Độ, phước thọ không chỉ như hằng
hà sa kiếp. Đó là ḷng hiếu không ǵ lớn hơn. Cha mẹ
c̣n sống, mà chẳng thể dùng điều này để
khuyên lơn, khích lệ, ngày sau uổng công đau đớn
suông, uổng công cúng lễ trọng hậu, cũng có ích ǵ
đâu!” Trong hai mươi bốn người con hiếu[4],
chẳng biết có ai từng khuyên [cha mẹ] tu Tịnh
Độ hay không? Xin hăy chỉ dạy! (Hồng Hoán Mô hỏi)
Đáp:
Hai mươi bốn người con hiếu, bắt đầu
từ Ngu Thuấn, kết thúc vào đời Tống, người
trong thời kỳ ấy nghe Phật pháp rất ít, người
có thể nghe pháp môn Tịnh Độ, tu tập Tịnh
Độ, sợ rằng chẳng có ai, như thế th́ làm
sao có thể dùng pháp môn Tịnh Độ để khuyên
cha mẹ? Có thể biết là Phật pháp khó nghe, người
được nghe may mắn lắm. Đă được
may mắn, mà tự ḿnh chẳng tu, cũng chẳng khuyên cha
mẹ, có thể nói là phí uổng cuộc đời này!
* Hỏi: Trong bộ
Trúc Song Nhị Bút[5] của
Liên Tŕ đại sư đời Minh có câu: “Phận làm con đối với
cha mẹ, chăm sóc, phụng dưỡng, hầu hạ
cho cha mẹ được an ổn, đó là hiếu. Lập
thân hành đạo để cha mẹ nở mày nở mặt,
đó là đại hiếu. Dùng pháp môn Niệm Phật
để khuyên, khiến cho cha mẹ sanh về Tịnh
Độ, là đại hiếu trong các thứ đại
hiếu. Tôi đến tuổi già mới nghe Phật pháp,
nhưng xót nỗi gió cây tột bực[6], đau ḷng ngút trời,
dẫu muốn ra sức báo đền th́ đă trễ
tràng. Kính thưa cùng mọi người, cha mẹ c̣n sống,
hăy sớm khuyên họ niệm Phật, cha mẹ đă khuất,
hăy dốc ḷng niệm Phật ba năm. Nếu như chẳng
thể, th́ hành một năm, hoặc trong bốn
mươi chín ngày đều được. Hiếu tử
muốn báo ân cù lao, chớ nên không biết chuyện này!”
Người Trung Hoa khi cha mẹ đă mất, đều
thỉnh pháp sư niệm kinh, đều là đại hiếu
ư? (Hồng Hoán Mô hỏi)
Đáp: Người
ấy hiếu thảo hay bất hiếu, phải xét theo cái
tâm, chẳng thể chỉ nh́n bề ngoài. Ông có thể tham
khảo lời đáp thứ ba, sẽ tự có thể rút
ra kết luận. Lại phải nên biết vạn pháp do
tâm tạo, ắt phải tự ḿnh tin tưởng Phật
pháp, hoặc hiểu rơ tường tận pháp nghĩa, [sau
đó] tự niệm, hoặc thỉnh người khác niệm,
th́ mới có cảm ứng, hiếu đạo mới thành.
Nếu chẳng hiểu nghĩa, đối với Phật
sự, đủ mọi thứ hiểu biết tà vạy,
hoặc tự ḿnh chẳng tin, chỉ có bề ngoài, sẽ
chẳng có cảm ứng, có ǵ để nói là hiếu nữa
ư?
* Hỏi:
Kinh Kim Cang nói: “Hiện tại
tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả
đắc”. Đối với chuyện tâm quá khứ chẳng
thể được, đệ tử thật sự chẳng
hiểu rơ ư nghĩa được bao hàm trong ấy, xin bậc
thượng nhân hăy khai thị! (Trần
Trí Minh hỏi)
Đáp:
Đối với câu hỏi này, người sơ học
chẳng thể hiểu! Dẫu gặp bậc đại đức
biện tài vô ngại, tuy chẳng phải là Ngài không có cách nào
để nói hay tỷ dụ, nhưng vượt cấp để
tiến lên sẽ ngă nhào đó thôi! Ở đây, tôi v́ ông giải
thích nông cạn câu văn, nhưng ông cũng cần phải
lắng ḷng suy nghĩ. “Tâm” là
cái tâm khởi tâm động niệm, chẳng phải là nói
đến quả tim thịt trong lồng ngực. Trước
hết, phải hiểu chữ này nói đến điều
ǵ, ḥng khỏi bị hiểu lầm. Tâm niệm đă qua đi,
tức là đă diệt rồi; đă diệt th́ làm sao có thể
có lại được? Sát-na trong hiện tại chẳng
ngừng, hễ chẳng ngừng sẽ liền tiêu diệt,
chẳng ngừng th́ không có ǵ để được. Vị
lai là c̣n chưa sanh, vô sanh th́ vốn chẳng có vật, chẳng
có vật th́ có ǵ để được nữa? Ta cùng các
pháp đều do tâm sanh. Tâm đă là chẳng được
th́ làm sao có Ngă và Pháp cho được?
* Hỏi:
Hết thảy các nhà tiểu thuyết nói Quán Thế Âm Bồ
Tát là công chúa thứ ba của vua Diệu Trang, có phải là sự
thật hay không? Do tôi đă hỏi khá nhiều vị xuất
gia, nhưng vẫn khó đạt được [câu trả
lời phù hợp] tiêu chuẩn lư tưởng! Thật ra, có
phải là trong lịch sử, Quán Thế Âm Bồ Tát đă
đản sanh trong một quốc gia nào đó, đến
nay đă trải qua bao nhiêu năm? Xin bậc thượng
nhân khai thị cho hàng văn học! (Trần
Trí Minh hỏi)
Đáp: Tra duyệt phẩm thứ
hai mươi bảy của kinh Pháp Hoa là phẩm Diệu
Trang Nghiêm Vương Bổn Sự, [thấy kinh] chỉ nói
nhà vua có hai con trai là Tịnh Tạng và Tịnh Nhăn, trọn
chẳng nói vua có công chúa. Phẩm thứ hai mươi lăm
là Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm diễn nói về
ngài Quán Âm rất tường tận, nhưng chẳng liên
quan ǵ đến Diệu Trang Nghiêm Vương. Hăy nên lấy
kinh làm tiêu chuẩn. Xét theo sách Biên Niên Thông Luận[7], có
chép chuyện Đạo Tuyên luật sư và thiên thần vấn
đáp, thiên thần từng nói về ngài Quán Âm như sau:
Trong nhiều kiếp quá khứ, có công chúa thứ ba của
vua Trang Nghiêm tên là Diệu Thiện, chính là tiền thân của
ngài Quán Âm v.v… Sách Biên Niên chẳng phải là kinh, mà cũng chẳng
phải là luận, chép toàn những chuyện đồn đăi,
chẳng đáng để tin tưởng! Nghiên cứu t́m
ṭi Phật pháp, ắt có quy định, tức là “y pháp, bất y nhân”. Hễ trái
nghịch nguyên tắc ấy th́ là sai!
* Hỏi:
Phẩm Xưng Phật Danh Hiệu trong kinh Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Nguyện có một đoạn như sau: “Hựu ư quá khứ, hữu
Phật xuất thế, hiệu Ca Sa Tràng Như Lai, nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị
Phật danh giả, siêu nhất bách đại kiếp sanh
tử chi tội” (Lại trong quá khứ, có Phật xuất
thế, hiệu Ca Sa Tràng Như Lai, nếu có thiện nam tử,
thiện nữ nhân nghe danh hiệu đức Phật ấy,
sẽ vượt thoát tội trong một trăm đại
kiếp sanh tử). [Tôi thắc mắc như sau]:
1. Chữ “siêu” nên giảng như thế
nào?
2. Có phải là
trong một trăm đại kiếp chẳng sanh, chẳng
tử?
3. Trong một trăm
đại kiếp ấy, thần thức ở trong đường
nào? (Triệu Lệ
Lương hỏi)
Đáp:
Chữ “siêu” ở đây nên
hiểu là “siêu quá” (vượt
thoát). Đối với từ ngữ “sanh tử chi tội” có hai cách hiểu:
1) Một là sanh
trong tầng trời trên cao (chẳng sanh trong các tầng trời
thấp như Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên
v.v..), thọ mạng dài lâu hơn cả trăm đại
kiếp, nên chẳng sanh tử.
2) Hai là chết mà
gọi là “tội”, tức là
chẳng được chết an lành. Người ấy
có thể trải qua nhiều kiếp sanh tử, nhưng không
hứng chịu nỗi khổ chết ngang trái, đột
ngột.
Đă hiểu rơ
các cách giải thích trên đây, th́ câu hỏi về thần
thức chẳng c̣n là vấn đề nữa, nên bất
tất phải rườm lời!
* Hỏi:
Lúc khởi nguyên tối sơ, sanh mạng của chúng ta v́
sao mà có? (Lư Thế Ảnh hỏi)
Đáp:
Chân Như bản tánh không có khởi đầu, chẳng có
kết thúc, pháp vốn là như vậy, chẳng cậy vào
nhân duyên. Nho gia nói đến Tánh, bèn bảo là “thiên mạng”, mở rộng
ra đến tột bực, [cho rằng thiên mạng] tự
nhiên mà có. Phật và Nho nói cùng một ư nghĩa, [chỉ là sử
dụng] từ ngữ khác nhau. Kinh Lăng Nghiêm nói đại
lược: Bổn Giác trong Chân Như, bất giác dấy động,
bèn có vô minh, huyễn vọng sanh ra tứ đại chủng
(Tứ Đại). Bốn loại ấy biến huyễn,
sanh ra các vọng tướng (tướng hư vọng).
Do bất giác, nên dấy lên Kiến Phần, huyễn vọng
sanh ra Tướng Phần. Kiến Phần và Tướng
Phần làm duyên cho nhau, như ống kính vạn hoa, vọng
tướng vô lượng. Con người là một trong các
thứ vọng tướng, thành phần cấu tạo nên
con người chính là Tứ Đại.
* Hỏi:
Cũng có người nói: Tâm này từ vô thỉ đến
nay vô h́nh, vô tướng, chẳng từng sanh, chẳng từng
diệt, nhưng do khởi tâm động niệm, mà đến
nỗi tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo.
Tâm này vô h́nh, vô tướng, v́ sao có động niệm? (Lư Thế Ảnh hỏi)
Đáp:
Trong lời đáp cho câu trước, tôi đă từng nói “bất giác bèn động”, “bất động” là nói Chân
Như, c̣n động th́ gọi là vọng niệm. Tuy là vô
h́nh, vẫn có thể bị động, như lạnh ấm
là vô h́nh, há chúng chẳng động? Nếu bất động,
sẽ luôn là ấm áp, hoặc là thường lạnh lẽo.
Nhưng lạnh ấm đắp đổi, tức là động
vậy! Nếu bất động th́ làm sao có biến đổi
cho được?
* Hỏi:
Gieo cái nhân để đời đời đều biết
tu Phật pháp như thế nào? (Triệu
Chánh Hoa hỏi)
Đáp:
Đối với tám vạn bốn ngàn pháp được
giảng trong kinh văn thiêng liêng của Tam Tạng, chọn
lấy bất cứ một câu nào, hiểu sâu ư nghĩa, chí
thành phụng hành, tức là đă cấy một hạt giống
Kim Cang trong ruộng tám thức, không ngừng huân tập dài
lâu, đời sau hễ gặp duyên, [chủng tử ấy]
ắt sẽ dấy lên hiện hành. Khi duyên khởi lên hiện
hành, có lẽ sẽ có thể tiếp tục tu tập.
* Hỏi:
Tại gia học Phật, nên học từ chỗ nào, và
nghiên cứu, đọc tụng những kinh điển nào?
(Triệu Chánh Hoa hỏi)
Đáp:
Trọng điểm trong câu hỏi này chính là câu “tại gia học Phật”. Hăy
nên biết: Người xuất gia có thầy, có công khóa; người
tại gia trọn chẳng phải là chuyên môn, phần nhiều
ngả theo hướng tạp loạn. Nếu mong tuân theo
quy củ, cũng ắt phải có thầy. Bước đầu
học tập, trước hết phải nên hiểu rơ đại
ư, hăy nên xem những tập sách nhỏ mang tánh chất tuyên
truyền được viết bởi các vị đại
đức từ đời Thanh trở về trước.
Tiếp đó, xem kinh Bát Đại Nhân Giác, kế đó là
xem kinh Tứ Thập Nhị Chương, rồi xem kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo để hiểu đại
lược. Nếu cầu hiểu sâu hơn, các kinh về
Bát Nhă và Duy Thức chính là tinh hoa; nhưng xét đến sự
hành tŕ thật sự th́ trong thời kỳ Mạt Pháp, chỉ
có Tịnh Độ là khế hợp!
* Hỏi:
Tôi thường thấy học đạo sớm, trễ,
trước, sau sai khác. Có kẻ chưa đến tuổi
nhược quan (hai mươi) mà đă biết học Phật.
Có người ba mươi, bốn mươi, cho đến
tuổi cổ hy (bảy mươi) mới biết tu học
Phật đạo. Đó có phải là do cơ duyên khiến
thành ra như vậy, xin thầy khai thị. (Triệu Chánh Hoa hỏi)
Đáp: Đạo
học vấn, người nhập môn sớm, tu sớm, công
phu sâu xa, hoặc kẻ nhập môn trễ, tu trễ, công
phu nông cạn, lư thấy rơ ràng! Tu muộn chẳng bằng
tu sớm, công cạn chẳng bằng công sâu, nhưng kẻ
chẳng tu, không có công phu càng chẳng thể bằng người
tu muộn, công phu nông cạn. Thường nói là “triêu văn đạo, tịch tử
khả hỹ” (sáng nghe đạo, tối chết cũng
đành). Học đạo sớm trễ, có trường
hợp liên quan đến cơ duyên, có trường hợp
liên quan đến chuyện giải đăi, buông lung, chẳng
thể luận định nhất loạt được!
Kẻ chưa đầy hai mươi đă học đạo
phần nhiều do cơ duyên, kẻ ba bốn mươi
tuổi và tuổi cổ hy mới biết tu học, có trường
hợp do chẳng đủ cơ duyên, mà cũng có trường
hợp do giải đăi, buông lung.
* Hỏi: Minh tâm
kiến tánh là ǵ? (Dương
Trí Hạnh hỏi)
Đáp:
Trước hết, nên biết Thể của tâm là ǵ, Thể
của tánh là ǵ. Sau đó mới có thể nói tới “minh” và
“kiến”. Tâm tánh là Lư Thể, “minh kiến” là công hạnh tu
tập. Chẳng hiểu Lư Thể, sẽ không có cách nào để
dụng công tu tập. Người học Phật giống
như đi học, có các chương tŕnh Tiểu Học,
Trung Học, Chuyên Nghiệp, Đại Học khác biệt.
Muốn học nhảy lớp, sợ rằng chẳng thể
được! Trước hết, ông hăy nên xem các sách nhập
môn đơn giản, rồi xem kinh Tứ Thập Nhị
Chương để hiểu đại lược, tiến
cao hơn là nghiên cứu các bộ kinh lớn. Khi ấy, tự
nhiên sẽ dần dần biết minh tâm kiến tánh [là như
thế nào].
* Hỏi:
Cảnh giới chứng đạo là t́nh h́nh như thế
nào? (Dương Trí Hạnh hỏi)
Đáp:
Nếu ông đă nếm các món ăn làm bằng gan rồng,
tủy phượng, hễ nói đến, tự nhiên sẽ
nghĩ tới vị của chúng. Nếu vẫn là chưa
hề nếm môi, dẫu tại hạ nói chua, nói mặn,
chỉ sợ người nghe trọn chẳng liễu giải
mảy may!
* Hỏi:
V́ sao ngài Huệ Năng nói “thấy
cảnh, tâm số[8] khởi”, nhưng
ngài Ngọa Luân lại nói “thấy
cảnh, tâm chẳng khởi”, sai biệt ở chỗ nào?
Kính xin hăy phân tích! (Dương
Trí Hạnh hỏi)
Đáp:
Tâm là ǵ, nay ông c̣n mờ mịt th́ khởi và bất khởi
càng chẳng cần nói đến nữa!
* Hỏi:
Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, có c̣n sanh làm người
trong thế giới này nữa hay không? Nguyên nhân ở chỗ
nào? (Dương Trí Hạnh hỏi)
Đáp: Sau khi đức Phật nhập
Niết Bàn, dùng quả để làm nhân, Pháp Thân bất động,
hóa thân vô lượng, trọn khắp mười
phương, chuyên v́ độ thoát chúng sanh.
* Hỏi:
Tiền niệm bất sanh, hậu niệm bất diệt,
nên hiểu như thế nào? (Dương
Trí Hạnh hỏi)
Đáp:
Khi ông liễu giải “tiền niệm bất sanh”, sẽ
tự có thể liễu giải “hậu niệm bất diệt”.
Niệm của ông do tự tâm sanh ra, nên vẫn phải từ
tự tâm mà tham ngộ.
Nói
thêm: Đối với năm câu hỏi sau cùng, đă có kinh
và ngữ lục [giảng giải], nhưng chẳng phù hợp
sơ cơ, nên xin lượng thứ chẳng đáp. Đối
với danh sách các kinh [ông muốn thỉnh], cũng xin sau
khi đă đọc các kinh nhập môn rồi hăy đọc
các kinh ấy cũng chẳng muộn. Kính tặng ông một
tập sách nhỏ, xin hăy thâu nhận.
* Hỏi:
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật thường nói chúng sanh thời
Mạt Pháp phần nhiều là độn căn, nhưng
nay khoa học phát triển, mới lạ mỗi tháng, mỗi
ngày, không ǵ chẳng phải do các chuyên gia hoặc học giả
có chỉ số IQ rất cao hợp sức t́m ra. Xin hỏi:
Có thể nói những người có bằng Thạc Sĩ,
Tiến Sĩ, cho đến những nhà khoa học sáng tạo,
phát minh là độn căn hay không? (Dương Thanh Mẫn hỏi)
Đáp:
Cổ nhân nói: “H́nh nhi thượng
giả, vị chi đạo. H́nh nhi hạ giả, vị
chi khí” (tạm dịch: Học về bản chất của
vật th́ là Đạo, cái học vấn truy xét nơi h́nh
tướng th́ gọi là Khí). Đạo vốn hư vô, nên
nói: “Dịch vô Thể” (Dịch
chẳng có Thể). Do chẳng có Thể, nên chẳng dễ
biết. Tánh của Phu Tử hợp với thiên đạo,
Tử Cống[9] là người hiền,
c̣n chưa được nghe. “Khí”
vốn có h́nh tượng, nên nói: “Sát hồ thiên địa, hữu vật tắc khả
cùng lư” (Xem xét khắp trời đất, hễ có vật
bèn có thể xét đến tột cùng lư của nó). Ông Ngơa Đặc
(James Watt) sáng chế động cơ chạy bằng hơi
nước, ông Đạo Nhĩ Đăng (John Dalton) sáng
chế vật chất nguyên tử, con người phần
nhiều hiểu biết, nhưng không thấu hiểu rơ ràng.
Một đằng là tham cứu Chân Như Thật Tướng
trong tâm, một đằng là chạy theo Thế Trí Biện
Thông bên ngoài. Lệch về một bên là Pháp Chấp, là Sở
Tri Chướng, chẳng tự giác chiếu, nên gọi là
“độn căn”.
* Hỏi:
Văn học thường tu tập theo sách Nhân Thị Tử
Tĩnh Tọa Pháp[10] của
cư sĩ Tưởng Duy Kiều nhiều năm, đối
với sự tu dưỡng thân tâm và cầu học đều
được lợi ích to tát, nhưng mỗi ngày đều
phải tốn thời gian từ một đến hai giờ,
văn học muốn đổi các pháp Sổ Tức và Tùy Tức
v.v… thành thầm niệm thánh hiệu Di Đà có được
hay không? Nhưng khi hành tŕ đến môn Hoàn Tịnh của
Lục Diệu Pháp Môn trong sách ấy, có phải vẫn là nhất
tâm niệm Phật hay không? Nếu là “niệm Phật thấy
Phật” th́ nên làm như thế nào (trong lúc tĩnh tọa)?
(Dương Thanh Mẫn hỏi)
Đáp:
Phàm phu chẳng có kẻ nào không có niệm. Những điều
họ nghĩ tới chẳng ngoài ngũ dục, lục trần.
Sổ Tức và Tùy Tức đều là các pháp nhằm khắc
chế vọng niệm. Niệm dấy lên trong tâm, niệm
đều có tướng, huyễn ảnh của tướng
lại in vào tâm. Thầm niệm Di Đà, Di Đà sẽ in
vào tâm. Dùng tâm làm Phật, tâm này là Phật. Cổ nhân nói đó
là vi diệu thượng Thiền, há có phải là phí công ư?
Hơn nữa, Pháp Thân vô tướng, niệm đến mức
nhất tâm bất loạn, sẽ là tương ứng với
Phật, có thể nói là “thấy tâm, thấy đạo, thấy
Phật”. Nếu có thể biết dùng tâm để niệm
Phật, sẽ trọn chẳng do h́nh tướng bên ngoài,
đi, đứng, nằm, ngồi, không ǵ chẳng thể!
* Hỏi:
Văn học rất thích đến thăm viếng, lễ bái
chùa miếu. Kinh Phật từng nói lễ Phật, tụng
kinh v.v… hăy nên tay sạch, tâm sạch, ư sạch, nhưng khổ
v́ có những chùa miếu trước cửa chẳng lắp
đặt nước máy để rửa tay sạch sẽ,
[vậy th́] có thể chỉ tịnh tâm, tịnh ư rồi vào
trong đó lễ bái hay không? (Dương
Thanh Mẫn hỏi)
Đáp:
Mọi chuyện đều có thường và biến; do bị
nghẹn chớ nên bỏ ăn! Có nước mà chẳng rửa,
tức là giải đăi, khinh mạn. Không có nước th́
chẳng phải là do chính ḿnh có ư nghĩa chẳng mong sạch
sẽ, mà do t́nh thế xui nên như vậy. Nếu có thể
thật sự tịnh tâm và tịnh ư, tức là đă trọn
đủ chân thành, vẫn thù thắng hơn kẻ chỉ
dùng nước rửa sạch bên ngoài!
* Hỏi:
Có người nói thắp hương, nhất định phải
mở cửa sổ, điều ấy có đáng tin hay không?
(Dương Thanh Mẫn hỏi)
Đáp:
Kẻ hèn này thiển lậu, chưa thấy hoặc nghe
chuyện đó từ kinh hoặc truyện. Trộm nghĩ,
điều này thuộc vấn đề giữ cho không khí
thanh khiết, có thể tùy thuộc ư ḿnh để quyết
định.
* Hỏi:
Đệ tử Phật chánh tín có nên lạy ông trời để
cầu thọ hay không? (Châu Tinh
Nguyên hỏi)
Đáp:
Phật pháp nhất loạt b́nh đẳng, đối với
trời, người, lục đạo, tám bộ, thảy
đều cung kính, trọn chẳng có ǵ là không được!
Nhưng v́ sắc thân mà cầu thọ, lại hướng
về ông trời để cầu, lăo cư sĩ học
rộng nghe nhiều, ắt có sự hiểu biết đúng
đắn. Kẻ hèn này là độn căn, Pháp Chấp rất
sâu, đă chẳng cầu thọ, mà cũng chẳng hướng
về ông trời, nên chẳng suy xét là có nên hay không!
* Hỏi: Trên bài
vị của ông trời ghi là Đệ Nhất Oai Đức
Thành Tựu Chúng Sự Công Đức Thiên[11] đặt
ở phía trên Thích Ca Mâu Ni Phật, bài vị của đức
Bổn Sư lại xếp phía dưới ông trời, có
phải là phạm lỗi khinh nhờn Thích Ca Mâu Ni Phật hay
không? (Châu Tinh Nguyên hỏi)
Đáp: Phật giáo
có hai ḍng lớn là Hiển Giáo và Mật Giáo. Đối với
các pháp trong Mật Tông, nếu chẳng được Kim
Cang Thượng Sư quán đảnh, chẳng được
phép tham gia. Kẻ hèn này học Mật chẳng nhiều, nhưng
biết trong Mật Giáo thờ Kim Cang Thượng Sư phía
trên Phật. Trong Tứ Quy Y của họ, cũng là quy y Kim
Cang Thượng Sư trước hết [rồi mới đến
Tam Bảo], trong Hiển Tông chẳng thấy h́nh thức ấy.
Lăo cư sĩ nói “thiên” được thờ trên Phật,
nếu do thượng sư trong Mật Tông làm như vậy,
hoặc là do căn cứ theo sở học trong tông ấy,
th́ chẳng tiện thốt lời nghị luận bừa
băi. Nếu không do Kim Cang Thượng Sư xếp đặt,
lại chẳng có kinh điển để làm căn cứ
th́ hết sức chớ nên [sắp đặt như vậy]!
* Hỏi: Kinh Kim
Quang Minh có phải do đức Phật nói hay không? Nếu
phải th́ trong năm thời thuyết pháp, kinh ấy được
nói trong thời nào? (Châu Tinh
Nguyên hỏi)
Đáp: Kinh Kim
Quang Minh có ba bản dịch[12], cổ
đức chú giải rất nhiều. Các vị tổ sư
như Huệ Viễn đại sư, Trí Giả đại
sư đều viết chú sớ, chưa nghe nói có ai nghi
kinh ấy là trá ngụy. Nếu có [kẻ bảo kinh ấy
là ngụy kinh] th́ cũng bị cự tuyệt, chẳng chấp
nhận. So sánh giữa học vấn của kẻ hèn này và
hai vị tổ Huệ Viễn và Trí Giả, giống như
lửa đóm sánh cùng thái dương. Tiền hiền c̣n chẳng
thốt lời bàn luận, tôi chẳng dám tùy tiện góp lời,
tạo tác khẩu nghiệp. Mạt học chưa từng
giảng thuật kinh này, nên cũng chẳng tra cứu, tham
khảo xem kinh này thuộc thời nào trong ngũ giáo, chỉ
đành tạm tin theo các bộ chú giải.
* Hỏi: Xin hỏi
các ân trong Tứ Trọng Ân trọng đại như thế
nào? Báo đáp như thế nào? Từ đầu đến
cuối tôi hoàn toàn chẳng hiểu rơ! (Hoàng Mễ Điền hỏi)
Đáp: Tứ Ân
vốn có hai thuyết:
1) Xét theo Tâm Địa
Quán Kinh, [Tứ Ân] là ân cha mẹ, ân chúng sanh, ân quốc vương
(chánh phủ, lănh tụ), và ân Tam Bảo. Cha mẹ có ân sanh
trưởng, dưỡng dục; đó là nguyên do căn bản
để có sắc thân. Chúng sanh có ân giúp đỡ lẫn
nhau, v́ nếu chỉ có một thân này trơ trọi, sẽ
chẳng có sức để tồn tại. Quốc vương
có ân khiến cho ta an cư lạc nghiệp, nắm giữ
lễ nhạc, chánh trị, h́nh phạt, nên xă hội mới
có trật tự. Tam Bảo có ân thành tựu huệ mạng,
phá mê, khải ngộ (khải phát giác ngộ), khiến cho
ta được hưởng sự an lạc bất sanh bất
diệt rốt ráo.
2) Sách Thích Thị
Yếu Lăm lại nói là ân sư trưởng (ngoài ba ân cha mẹ,
ân quốc vương, ân Tam Bảo ra), sư trưởng
có ân truyền đạo, giải trừ mê hoặc, dạy
nghề khiến cho ta có thể đạt đến địa
vị.
Nếu nói phải
báo đáp như thế nào, trong một đôi lời, khó thể
nói trọn, chỉ có thể dùng sự luận sự. Nếu
học nhân hoàn toàn hồi hướng hết thảy các công
đức đă tạo về bốn ân ấy th́ coi như
là báo đáp vậy.
* Hỏi: Kể từ
lúc kẻ hậu sanh này học Phật đến nay, tâm liền
có thể chẳng ĺa Phật, nhưng trong công khóa sáng tối,
tâm cảnh thường khởi vọng niệm, không cách nào
lắng yên các niệm được! Xin thầy hăy chỉ
dạy phương pháp? (Kỷ
Huệ Nhất hỏi)
Đáp: Phàm thuộc
loài hàm thức, chẳng ai không có niệm. Cổ nhân răn
dạy: “Khắc niệm tác
thánh, vơng niệm tác cuồng” (chế ngự được
ư niệm sẽ thành thánh, buông lung ư niệm sẽ thành cuồng).
Công phu chế ngự ư niệm há có thể mong đạt được
trong một thời gian ngắn? Đạt tới vô niệm
trong nhà Phật cũng là một công phu tối cao, nhưng
khó thể đạt tới vô niệm. V́ thế, dùng Phật
niệm thay thế vọng niệm, ngơ hầu đạt tới
nhất tâm bất loạn th́ sẽ thành công. Hiện tại,
chớ nên gấp gáp mong cầu nhất tâm, chỉ cầu Phật
niệm chẳng gián đoạn, luôn giữ cho sự giác
ngộ ấy được liên tục, sẽ là đi đúng
đường.
* Hỏi: Có phải
là giáo nghĩa Phật giáo được phân biệt thành
Thể và Dụng, giải thích như thế nào? Xin thầy
hăy khai thị! (Kỷ Huệ
Nhất hỏi)
Đáp: Tuy Phật
học phân tích thành Thể, Tướng, Dụng, nhưng Phật
pháp là giác hết thảy các pháp, chẳng phải là chỉ
nói về một loại. Hết thảy các pháp đều
có thể chia thành Thể, Tướng, Dụng th́ mới rơ
ràng, chẳng hỗn độn. Nếu hỏi ư nghĩa của
chúng, không ǵ bằng lập ra tỷ dụ. Như cái lư
hương trước tượng Phật, chất đồng
hay thau là Thể của nó. Lư vuông hay tṛn là Tướng
của nó, đựng tro hay đựng vật khác là Dụng
của nó. Một vật là như vậy, mà vạn vật
cũng đều là như vậy.
* Hỏi: Cái được
gọi là chánh báo và y báo nên giải nói như thế nào? (Kỷ Huệ Nhất hỏi)
Đáp: “Chánh báo” chỉ thân h́nh có được
trong lục đạo, y báo chỉ hết thảy các vật
phẩm và các sự việc để thân h́nh có thể nương
cậy vào đó mà sống sót.
* Hỏi: Kể từ khi học
Phật đến nay, hậu sanh tu tŕ pháp môn Tịnh Độ,
khởi tâm động niệm đều là Phật hiệu
(trừ khóa tụng sáng tối ra), chưa hề nghĩ đến
thánh hiệu Quán Âm, có phải là phạm lỗi chấp
trước hay không? (Kỷ Huệ
Nhất hỏi)
Đáp:
Đạo quư nơi chuyên nhất. Nếu có thể động
niệm đều là Phật hiệu, sẽ là cảnh giới
tốt đẹp nhất, chẳng giống sự chấp
trước lầm lạc thông thường. Đạo
Nho nói: “Trạch thiện cố
chấp” (chọn lựa điều thiện để
khăng khăng nắm giữ), nhà Phật nói: “Chấp tŕ danh hiệu”. Chấp
trước kiểu ấy chính là thiện xảo.
* Hỏi:
Vi khuẩn thuộc về pháp tánh hay linh tánh? Nó có Phật Tánh
hay không? (Kỷ Huệ Nhất
hỏi)
Đáp:
Vi khuẩn thuộc loại thực vật, trọn chẳng
phải là hữu t́nh. Cổ nhân giải thích: “[Tánh của] loài hữu t́nh gọi
là Phật Tánh, nơi vật vô t́nh gọi là Pháp Tánh”. Cách
giải thích ấy dễ hiểu. Hậu hiền giải
thích t́nh và vô t́nh đều có Phật Tánh, nên có “ngoan thạch điểm đầu”
(đá cứng gật đầu), lại nói “đồng viên Chủng Trí”
(cùng viên thành Chủng Trí).
* Hỏi:
Tôi v́ hoảng sợ, lo nghĩ, hoài nghi, phẫn nộ v.v…
dẫn đến tinh thần suy sụp, bị mất ngủ
triền miên đă một năm rưỡi, nhưng tôi vẫn
c̣n là một học sinh bậc Cao Trung (Trung Học Đệ
Nhị Cấp), không có cách nào cầu học, tương
lai gần như bị hủy hoại. V́ tâm lư của một
cá nhân kể từ nhỏ đă bắt đầu [có cá tánh
như vậy], nhưng tôi hy vọng cuối cùng là trong năm
nay (năm Dân Quốc 58 - 1969), vào tháng Bảy Dương Lịch
có thể đi học trở lại, nhưng mỗi ngày tôi
vẫn phiền năo, đau khổ v́ bị mất ngủ,
xin hỏi là do báo ứng như thế nào? Nên bổ cứu
như thế nào để sớm có ngày b́nh phục khỏe
mạnh? (và có phải là hiện thời tin Phật giáo là
thích hợp nhất hay không?) (Tề
Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Hết thảy đau khổ cố nhiên có túc nhân (nhân trong đời
quá khứ), nhưng cũng có hiện duyên (duyên trong hiện
tại). Nhân duyên hợp lại th́ mới kết thành quả.
Do túc nhân khó t́m ṭi, nên chẳng cần phải nói tới. Đối
với hiện duyên, hăy nên tự phản tỉnh, quan sát, sẽ
có thể t́m ra nguyên do của căn bệnh. Nếu chưa
bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh chẳng tốt
đẹp dẫn khởi những hành vi tổn hại thân
thể, và bị các tà niệm kích động tâm t́nh, lẽ
nào thất t́nh (bảy mối t́nh cảm, như mừng, giận…)
xằng bậy dấy lên, mất ngủ triền miên? Kế
sách trong hiện thời là chẳng nói đến túc nhân, hăy
nên phản tỉnh xem thân tâm bị mê hoặc [v́ những lẽ
nào], để càng thêm thống thiết sửa đổi,
hối lỗi. Đấy chính là “gh́m cương bên dốc
núi”, sẽ tránh khỏi nguy hiểm. C̣n nói đến chuyện
học Phật, th́ Phật là giác, giác là trừ mê, như mộng
mới tỉnh, tỉnh ngộ những nỗi sai trái trước
kia để bỏ đi, nay phải hướng theo giác
ngộ th́ tương lai sẽ sáng sủa.
* Hỏi:
Nay tôi nên xem những sách vở nào? (thuộc loại tu tâm dưỡng
tánh). Hăy nên tụng kinh nào, chú nào? (Đối với những
điều trên đây, xin cụ hăy chỉ dạy đơn
giản, thích hợp, do có liên quan đến sự mệt
mỏi nơi thân, tâm). (Tề
Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Phật lư sâu xa, uyên áo, bậc trí c̣n khó thấu hiểu, nhưng
pháp môn vô lượng, có cạn, có sâu. Trước hết,
hăy nên xem những tập sách nhỏ chép lời khai thị
của cổ đức, sau đấy mới đọc
kinh Đại Thừa, sẽ chẳng đến nỗi
nuốt không trôi. Tôi cẩn thận chọn ra mấy tập
sách nhỏ để gởi tặng, đọc xong xin lại
gởi thư trao đổi.
* Hỏi:
Rốt cuộc là có Phật hay không? Phật là từ ngữ
chúng ta dùng để tôn xưng đức Thích Ca, hay là lư tưởng
tối cao trong tư tưởng của nhân loại (tức
là một thứ giả định)? Hay là thật sự tồn
tại? V́ thật sự có Phật tồn tại th́ tín ngưỡng
mới có giá trị! (Tề
Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Hiện thời Tam Tạng kinh điển c̣n lưu truyền,
nếu không có Phật, lấy đâu ra kinh? Nhưng Phật
cũng là do con người tu thành, như Khổng Tử trọn
chẳng phải vừa ra khỏi thai bèn được gọi
là bậc Thánh. Đó gọi là “ông
tu, ông đắc, bà tu, bà đắc, không tu chẳng đắc”,
tức là ai tu cũng đều có thể thành. V́ thế, mười
phương ba đời, Phật nhiều đến vô
lượng, thật sự tồn tại, quyết chẳng
phải là giả định.
* Hỏi:
Niệm A Di Đà Phật có được hay không? Hay là niệm
Quán Âm Bồ Tát tốt hơn? Hiện thời, tôi đang
tŕ tụng Bạch Y Đại Sĩ Thần Chú, đă tụng
được một phần ba, xin hỏi yếu lănh
trong tŕ tụng? (Tề Định
Tiệp hỏi)
Đáp:
Chúng sanh đều có Phật Tánh. Tánh ấy bị dục
chướng lấp, biến thành thần thức. Ngoại
đạo gọi thần thức là linh hồn, chính là cái
hồn mê hoặc, điên đảo, nên có quá khứ, hiện
tại, vị lai, các thứ biến hóa. Nhưng sự biến
hóa trong ba đời ấy được gọi là “luân hồi”,
có nghĩa là chẳng ngưng nghỉ. Trong ba đời, mỗi
đời đều có nỗi khổ. Sau khi quư cư sĩ
tụng chú Bạch Y đủ số, có thể đổi
sang niệm Quán Âm Bồ Tát, sẽ trừ được nỗi
khổ trong hiện tại. Tiến hơn bước nữa
là niệm A Di Đà Phật, ḥng trừ nỗi khổ trong
tương lai. Lời lẽ này chính là yếu lănh hành tŕ vậy.
* Hỏi:
Sáng tối nếu tôi ngủ một ḿnh cảm thấy rất
sợ quỷ, sợ người (giữa ban ngày cũng sợ),
sợ rắn chui vào nhà (mùa Hạ) v́ thay đổi hoàn cảnh
để chữa trị (nhà cửa ở lưng núi), có cách
nào đối trị hay không? (Tề
Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Nếu hiểu Phật lư, tâm khai ư giải, vọng hết,
trí sanh, sẽ có tinh thần đại vô úy.
* Hỏi:
Từ bé, tôi đă bị người khác lợi dụng, dối
gạt. Trong kư ức của tôi, dường như từ
nhỏ đă cảm giác hoảng sợ, đa sầu, dễ
xúc cảm, đó là loại báo ứng ǵ? Có cách nào cứu chữa?
Huống chi tôi là nam nhi, mong có thể thích ứng với cuộc
sống trong xă hội! (Tề
Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Đối với vấn đề này, chỉ nên coi lại
mấy câu hỏi trên đây sẽ thấy rơ. Lại càng thêm
tin tưởng sâu xa, nương theo lời đáp cho câu hỏi
thứ tư để làm th́ hết thảy mọi việc
hễ xảy đến sẽ giải quyết được
ngay.
* Hỏi:
Nếu bệnh của tôi là do bị người khác hăm hại
(bùa chú), th́ nên trị như thế nào? (Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Loại tư tưởng ấy thuần là mê tín. Dẫu có
đi nữa, tà chẳng phạm chánh! Trong kinh Pháp Hoa, Quán
Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm có nói: “Chú trớ chư độc dược, sở dục
hại thân giả, niệm bỉ Quán Âm lực, hoàn trước
ư bổn nhân” (dùng bùa chú, nguyền rủa, các thứ
độc dược toan hại thân giả, do sức niệm
Quán Âm của [người bị hại], sẽ quay ngược
lại người làm hại). Chỉ sợ cư sĩ tâm
niệm chẳng thành kính, hễ chân thành, há có lo chi!
* Hỏi:
Phật đă là đại trí, đại bi, đại năng,
v́ sao phải tin lời Phật dạy th́ mới có thể
được giải thoát, được Phật cứu
giúp? Phật đối với chúng sanh b́nh đẳng, v́
sao kẻ chẳng tin bèn chẳng thể được Phật
cứu giúp? Sao chẳng khiến cho kẻ chẳng tin bèn
tin tưởng vậy? (Tề
Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Mặt trời chiếu khắp, nhưng tay tự bịt
mắt nên chẳng thấy. Sấm sét có tiếng, nhưng
tay tự bịt tai, sẽ chẳng nghe. Con cái trốn tránh,
ḷng cha yêu thương thi thố vào đâu? Chẳng phải
là ánh sáng không chiếu, chẳng phải là sấm sét không có
tiếng, chẳng phải là cha không rủ ḷng Từ, mà là đối
phương chẳng tiếp nhận! C̣n như nói kẻ
chẳng tin bèn làm cho tin tưởng, há chẳng nghe câu “đạo cao một thước,
ma cao một trượng” đấy ư? Nghiệp lực
của chúng sanh mạnh mẽ, Phật lực tuy gia bị,
nghiệp lực chẳng tiêu ngay, nên chẳng có phước
tin Phật. Như mặt trời có thể làm tan băng,
nhưng nếu ba đông rét buốt, tuy mặt trời mọc
giữa trời, băng chẳng tan được mấy!
Người học Phật cần phải hiểu rơ lư, đừng
một mực mê tín!
* Hỏi:
Ví như v́ nhất tâm niệm Quán Âm Bồ Tát, bèn có thể
được cảm ứng che chở, hóa ra là chớ nên
làm nhiều điều lành ư? Huống nữa, bốn
chữ Quán Âm Bồ Tát chỉ bất quá là văn tự
trong thế gian chúng ta mà thôi! (Tề
Định Tiệp hỏi)
Đáp: Bệnh của quư cư sĩ
do nơi kiến giải này! Đă niệm chú Bạch Y, lại
nói Bồ Tát bất quá là văn tự thế gian, tâm hạnh
mâu thuẫn, há có kết quả tốt đẹp ư? Chắc
là chưa nghe Phật pháp nói đến chuyện Chánh Trợ
Song Tu. Chánh là khắc chế ư niệm, khiến cho tâm chánh.
Trợ là dùng điều thiện để giúp đỡ.
Phải biết: Chỉ làm lành, chưa chắc đă biết
khắc chế ư niệm. Học theo Phật, Bồ Tát, cần
phải hành thiện hạnh kèm theo. Điều này c̣n gọi
là Phước Huệ Song Tu. Nếu chỉ tu Huệ, tuy
sau này được giải thoát, nhưng phước báo mỏng
tanh. Nếu chỉ tu phước, [sẽ thành] trọc phú,
ngu si, vẫn ở trong luân hồi. Văn tự cố nhiên
nhằm biểu thị tác dụng của tự tánh, nhưng
nếu gặp lúc nguy hiểm, gọi cha, cha sẽ tới
giúp, gọi mẹ, mẹ bèn đến giúp, há chẳng phải
là sức mạnh của văn tự đó sao?
* Hỏi:
Nay tôi có cần phải dùng thuốc hay không? (Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Sự có chánh, trợ, Lư chia ra nhân và duyên. Học Phật là
công phu chánh yếu, là thiện nhân. Thuốc men là công phu phụ
trợ, là duyên tăng thêm. Hai thứ ấy chẳng trở
ngại lẫn nhau, nhưng khi lành bệnh, chớ nên dùng thuốc
nữa, vẫn dùng thuốc, sẽ trở thành bệnh. Sau
khi lành bệnh, vẫn cần phải học Phật, ắt
phải thường xuyên giác chiếu, chẳng giác sẽ
mê!
* Hỏi:
Rốt cuộc, Phật giáo tồn tại trong vũ trụ
bao nhiêu năm? Ngài Tam Tạng sang Ấn Độ thỉnh
kinh, cách thời đức Phật trụ thế bao nhiêu năm?
Lại cách hiện thời bao nhiêu năm? (cư sĩ Tố Hoa hỏi)
Đáp:
Xét theo chiều dọc, vũ trụ chẳng có khởi đầu,
chẳng có kết thúc. Theo chiều ngang là vô lượng,
vô biên. Có hằng sa vị Phật, khó thể nói là bao nhiêu vị,
rốt cuộc ông hỏi là Phật giáo của vị nào? Nếu
nói theo đức Thích Ca Thế Tôn, th́ thế gian lưu
truyền hai thuyết “một ngàn chín trăm năm” và một
“một ngàn năm trăm năm” khác nhau. Lại hỏi đến
Tam Tạng th́ đại khái là nói đến pháp sư Huyền
Trang thời Đường. Nếu tôi suy tính không sai lầm,
th́ trên là pháp sư cách thời đức Thế Tôn khoảng
chừng một ngàn ba trăm năm, dưới là cách thời
hiện tại khoảng một ngàn bốn trăm hoặc
một ngàn năm trăm năm. Đây là ước tính, chưa
tính toán tường tận. Kẻ hèn này rất bận, không
có thời gian để tính toán tỉ mỉ con số năm
tháng đích xác ḥng trả lời câu hỏi này.
* Hỏi: Như
thế nào th́ mới có thể xây cất Niệm Phật
Đường? Cần những vật liệu ǵ? (cư sĩ Tố Hoa hỏi)
Đáp:
Tự ḿnh niệm Phật tại nhà rất tốt, xây cất
Niệm Phật Đường hết sức phiền toái,
chẳng phải là một người có thể lo liệu
được. Chẳng phải là bằng đôi ba câu bèn
có thể nói trọn.
* Hỏi: Phải
đọc những sách vở, kinh điển nào th́ mới
thể hoằng pháp thuận lợi? (cư sĩ Tố Hoa hỏi)
Đáp:
Tinh thông một quyển th́ cũng có thể hoằng pháp. Đọc
vạn quyển mà chẳng thông suốt chút nào, cũng vô dụng!
Chớ nên hiểu lầm chữ “tinh thông” vừa nói. Thật
sự tinh thông một kinh, sẽ hiểu các kinh. Đó đều
là những lời nghe hơi gió đuổi bắt bóng, kính
khuyên ông trước hết hăy nên lập chí tự tu. Khi cơ
duyên đưa tới, lại nghĩ đến chuyện
này th́ cũng chẳng muộn!
* Hỏi:
Cụ nói “do Tam Tạng kinh
điển hiện c̣n lưu truyền, nếu không có Phật,
lấy đâu ra kinh?” Ngu sanh[13]
nghi ngờ câu này! Như Thánh Kinh của Cơ Đốc Giáo
nói vũ trụ do Thượng Đế làm chúa tể, nhưng
điều đó là sai lầm. Thánh Kinh do con người (Gia
Tô tức Jesus) nói ra (ngu sanh chưa từng đọc Thánh
Kinh, chỉ suy lường đó thôi, hóa ra [Thánh Kinh] là do
con người nói ra). Ông ta (tức Gia Tô) nói “có Thượng
Đế”, điều đó chẳng chánh xác. Thật giống
như kinh Phật nói “có Phật” vậy, nhưng Phật Giáo
đề cao Phật vĩ đại hơn Cơ Đốc
Giáo đó thôi, nhưng chưa chắc đă có Phật! Do vậy,
có thể là kinh Phật do một nhân vật vĩ đại
hoặc một tư tưởng gia nói ra. Mục đích
chẳng ngoài cảm hóa nhân loại, đề cao quan niệm
đạo đức của con người, khiến cho xă
hội an định. Nhưng “có Phật hay không”, tợ hồ
giống như “có Thượng Đế hay không” khiến
cho tôi hoài nghi. Do vậy, tuy có Tam Tạng kinh điển do
một vị thánh nhân nói ra, nhưng vị thánh nhân ấy
trọn chưa thành Phật (tức là người đă chết,
chẳng có đời sau, mà cũng chẳng có đời
trước), chỉ bất quá là tinh thần vĩ đại
mà thôi. Chữ “tinh thần” ấy mang ư nghĩa tinh thần
trong câu “tinh thần sung măn” như thường nói (tức
là con người chỉ có một đời! Do vậy, sợ
rằng kinh Phật là lư tưởng do người đời
sau tạo ra. Khi có người nêu câu hỏi này, bèn gắng
hết sức nói Phật giáo tốt đẹp! Không chỉ
trong hiện tại, mà trong quá khứ cũng có người
nói như thế) (Tề Định
Tiệp hỏi)
Đáp:
Phật là người tu hành nhiều kiếp, trong khi sống
cuộc đời cuối cùng, Ngài đă chứng đắc
quả vị. Trọn chẳng phải là lúc c̣n sống chưa
tu thành Phật, chết đi mới thành Phật. Nếu nói
là “chết rồi mới thành Phật”, sẽ là hiểu lầm
to lớn quá đỗi. Giáo chủ của Phật giáo hiện
thời là Thích Ca Mâu Ni. Ngài đă sống tại Ấn Độ
vào hơn hai ngàn trước, kinh được Ngài nói ra
trong thuở ấy, đại chúng đích thân nghe, chứng
minh và ghi chép. Phật và kinh điển được sách
lịch sử trong ngoài nước ghi chép tường tận,
rơ ràng, há phải là bịa đặt! C̣n “tinh thần” như
ông đă nói, chính là tánh thể khởi tác dụng. Tánh chính
là Pháp Thân của Phật, chân thường, bất diệt.
Ông lại nói “tức là con người chỉ có một đời”,
đấy là căn bệnh thiên chấp trong thời đại
ngày nay! Tạm thời chẳng bàn đến tôn giáo của
ngoại quốc, kinh sử của Trung Quốc đều
chẳng chủ trương như vậy.
* Hỏi:
Ngu sanh gặp khó khăn về mặt tín ngưỡng, do
tŕnh độ tín ngưỡng hiện thời, đối
với những ǵ chẳng thấy bèn nói là không có th́ cũng
không được, muốn t́m ṭi xem rốt cuộc là có Phật
hay không? Khoa học phát triển, là kết tinh của sức
người cùng nhau nỗ lực sáng tạo. Do vậy,
khoa học (hiểu theo nghĩa hẹp) như y học v.v…
cũng chẳng thể hoàn toàn đáng tin cậy, như tai
nạn xe cộ là một thí dụ đơn giản. Do vậy,
xin cụ hăy chứng minh cặn kẽ có Phật hay không? (Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Chữ Phật có nghĩa là Chánh Giác nơi tánh. Tánh bị mê
bèn là phàm phu, sanh tử luân hồi chẳng ngừng. Tánh giác
th́ là chư Phật, tánh ấy thường c̣n bất diệt,
có thể đến, có thể đi, tùy ư tự tại, tùy
duyên bèn hiện, vô duyên bèn ẩn. “Hiện” chính là Báo Thân và Hóa Thân; Pháp Thân là Không, chẳng
có tướng. Phật tồn tại khắp nơi, mọi
lúc đều hiện, như ánh trăng trong nước: Nước
sạch bèn phân minh có thể thấy, nước đục
bèn mờ mịt, xám xịt chẳng thấy!
* Hỏi:
Ngu sanh thấy có những thí dụ, như tuy chẳng thấy
ḍng điện, chẳng thể nói là không có điện
(xem trong sách Tri Kỷ Tri Bỉ (biết người, biết
ta)). Trong một sách khác, có nói cây cối trong tiết Đông
chẳng thể đơm hoa, chẳng thể nói là khi tiết
Xuân, nó cũng chẳng thể trổ hoa (sách Học Phật
Thông Luận), nhưng hai thí dụ ấy mỗi cá nhân đều
biết, sức người có thể đạt đến
được. Do vậy, xin hăy khai thị, ngu sanh mong dùng
sự linh cảm do người khác đă đạt được
để khơi gợi, phát khởi tín ngưỡng, nhưng
đôi bên ắt phải hoàn toàn tín nhiệm. Huống chi tâm
bệnh hoài nghi của ngu sanh mười phần to lớn,
nên phương pháp ấy gặp mười phần khó khăn.
(Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Tự ḿnh vọng tưởng, chẳng bằng xem sách. Xem
sách cần phải xét đoán cặn kẽ; sau khi đă xét
đoán cặn kẽ, lại càng phải thêm suy nghĩ. Các
công phu ấy, nếu khuyết một thứ, sẽ học
chẳng thành. Nếu chịu trống ḷng, tin Phật là bậc
thánh, kinh chẳng nói dối, thẳng thừng tiếp nhận,
chẳng nghi, th́ cũng có thể thành tựu. Nếu có
nghe, mà chẳng chánh (suy nghĩ chánh đáng, vận dụng
những điều đă nghe để chánh tâm thành ư), hoặc
tuy có chánh mà chẳng suy nghĩ, hoặc suy nghĩ mà chẳng
tu, hễ có một trong những trường hợp ấy,
sẽ như nước giội lên đá, chẳng thấm
một giọt nào. Đối với những ǵ người
khác đă đạt được, ai có thể vượt
trỗi đức Thế Tôn? Nay đối với Ngài mà ông
c̣n chẳng tín nhiệm, há c̣n có thể nói tới người
nào khác nữa đây!
* Hỏi:
Pháp hỷ và thiền duyệt là giống nhau hay khác nhau? (Lương Trọng Lập hỏi)
Đáp:
Chữ “pháp” chỉ hết
thảy các giáo pháp, chữ Thiền chỉ công phu trong Tông môn.
* Hỏi:
Người tin Phật kiên định, đă đạt đến
cảnh giới “lạnh, ấm
tự biết”, đă tin
tưởng các lư luận (chỉ các sách hoằng dương
Phật pháp), đă ĺa tự ngă để lănh hội, mà vẫn
c̣n có khoảng cách, huống chi ngu sanh cho tới nay tín tâm vẫn
chưa dấy lên. Do vậy, lại nêu ra câu hỏi: Rốt
cuộc là có Phật hay không? Xin cụ từ bi khai thị,
[bởi lẽ], mỗi người trước khi tin tưởng,
ngưỡng mộ, đều có nghi vấn. Những điều
vừa viết trên đây, bất quá là để xin cụ
xem xét mà “đối ứng chứng
bệnh cho thuốc” đó thôi. (Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Pháp Thân Phật vô thỉ vô chung, trọn khắp hư không
pháp giới, Báo Thân Phật và Hóa Thân Phật đều do Pháp
Thân hóa ra. Pháp Thân chẳng có thời gian và không gian, Báo Thân và
Hóa Thân th́ tùy thời, tùy chỗ đều hiện. Để
thấy được các thân ấy, tức là [để
thấy những chuyện] thuộc về sự tướng,
cần phải cậy vào nhân duyên. Nếu mong hiểu biết
th́ phải do lư giải. Hăy nên nghe nhiều, đọc nhiều.
Nếu không có nhân duyên mà thấy sự, chẳng do nghe đọc
mà hiểu lư, sẽ là “t́m cá
trên cây, nấu cát mong thành cơm”. Tôi thưa thật với
ông, Phật sự tôi đă tin, Phật lư tôi đă có phần
hiểu biết, nhưng tôi nói ra, người khác chẳng
hiểu, đó chính “lạnh
nóng tự biết”. Tôi chẳng có năng lực khiến
cho người khác tin tưởng. Người khác khi phước
đă chín muồi, bèn tự nhiên dấy lên ḷng tin, [khi đó],
người ấy tu huệ, sẽ tự có thể đoạn
nghi.
* Hỏi:
Nghe nói người nghiệp chướng sâu nặng sẽ
chẳng có phước tin Phật, vậy th́ chỉ cần
nghiệp tiêu sẽ có thể tin Phật. Làm thế nào để
nghiệp chướng mau tiêu? Có phương pháp nào không, xin
cụ hăy trả lời. Cuối cùng, xin cụ giới thiệu
những sách vở dẫn dắt người không có tín ngưỡng
tôn giáo nhập Phật môn (tin Phật) để tôi sẽ
thỉnh (thư cục nào có bán). (Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Lời này rất đúng. Cổ nhân nói: “Phước chí tâm linh”,
“linh” là có thể cảm thông. Hễ thông bèn có thể nhập,
hễ nhập bèn có sở đắc. Cầu tiêu nghiệp
chướng, không ǵ bằng dấy ḷng tin. Chẳng thể
tin Lư, chỉ cầu tin Sự. Chẳng thể tin Sự,
chỉ cầu tin vào Thánh Ngôn Lượng của Phật.
Kinh nói: “Tín là nguồn đạo,
mẹ công đức, có thể sanh ra hết thảy các thiện
căn”. Đối với những tập sách nhỏ dẫn
khởi ḷng tin th́ như bộ Chánh Tín Lục của Trương
Thương Anh đời Tống, ông có thể t́m kiếm.
Tại hạ không biết bán ở chỗ nào!
* Hỏi:
Vi Đà và Quan Vũ cùng là thần hộ pháp trong Phật môn.
V́ sao các khóa tụng thông dụng chỉ tán Vi Đà, chẳng
tán Quan Vũ? (Trại Mạnh
Thu hỏi)
Đáp:
Điều này thuộc về chuyện niên đại trước
sau, và liên quan đến tập quán. Hơn nữa, Vi Đà
xuất phát từ kinh tiếng Phạn, từ đời Tùy
- Đường trở đi mới có thuyết nói Quan Đế
là hộ pháp[14]. Nếu hiềm là
thiên lệch, hăy nên biết hộ pháp há chỉ có Vi Đà,
mà c̣n có thiên long bát bộ, cả một số lượng
lớn, làm sao có thể tán từng vị cho được?
Muốn cho chu toàn th́ c̣n có bài tán Già Lam Thánh Chúng, “chúng” là bất cứ vị hộ
pháp nào cũng đều được bao gồm trong đó.
* Hỏi:
Có vị tại gia Ưu-bà-tắc chủ tŕ lễ phóng
sanh, và cũng nói Tam Quy, như vậy th́ có đúng pháp hay không?
(Trại Mạnh Thu hỏi)
Đáp:
Đối với chuyện này, người làm như vậy
tại các nơi rất nhiều. Theo Long Thư Tịnh
Độ Văn, Vương cư sĩ mỗi lần đi
qua miếu thờ thần, liền niệm Tam Quy Y. Chuẩn
theo đó, theo thói quen thông tục, tợ hồ có thể hành
phương tiện ấy. Nếu cứ phải chánh thức
thỉnh tỳ-kheo phóng sanh, sợ có lúc chưa chắc gặp
duyên, sẽ trở thành chấp Lư phế Sự.
* Hỏi:
Trong phần thứ tám, tức phần Y Pháp Xuất Sanh của
kinh Kim Cang, có nói “bốn câu kệ”
là nói đến điều ǵ? (Khuông
Chấn Cơ hỏi)
Đáp:
Đối với vấn đề này, tiền nhân có rất
nhiều cách giải thích. Có người nghĩ Kim Cang, Bát
Nhă, Ba La Mật và Kinh là [bốn câu kệ]. Có người cho
rằng “vô ngă tướng”, “nhân tướng”, “chúng sanh tướng”
và “thọ giả tướng” chính là nó. Có người nghĩ
đó là bài kệ “hết thảy
pháp hữu vi…. hăy nên quán như thế”. Có người
nghĩ đó chính là “chẳng
trụ vào Sắc để sanh tâm… để sanh tâm ấy”.
Lại c̣n có người chủ trương những thuyết
khác, chẳng thể nêu đầy đủ. Các thuyết
hoặc là do quán triệt trước thuật của mỗi
người mà được chọn, hoặc do khế cơ
với cách nói của một người mà được
chọn, tuy đều hay khéo, chớ nên chấp trước,
câu nệ. Lại c̣n có người chủ trương, “bốn câu kệ” là chọn bất
cứ bốn câu nào [trong kinh Kim Cang]. Thuyết này được
đa số mọi người đồng ư, có lẽ khá
viên dung. Hăy thuận theo nghĩa lư trong ngữ cảnh của
lời văn mà tuân theo [một thuyết nào đó].
* Hỏi:
Điều cơ bản trong việc học Phật là phải
cầu chuyên nhất. Cần phải là “chẳng trụ vào đâu để sanh tâm”, nếu
có cái tâm “văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”
th́ có thể tu thành Phật đạo hay không? (Khuông Chấn Cơ hỏi)
Đáp:
Trở về nguồn, chẳng có hai đường, nhưng
phương tiện có nhiều môn. Thuyết pháp chẳng
khế cơ, sẽ giống như lời lẽ thừa
thăi. Chúng sanh căn khí khác nhau, đủ mọi lẽ phân
biệt. Nếu chẳng phương tiện khế cơ,
Phật pháp đều trở thành uổng phí. Tám vạn pháp
môn nói Đông, nói Tây, nếu có mâu thuẫn th́ sẽ thành loại
Phật pháp ǵ? Vô trụ sanh tâm chính là quá tŕnh Tu Đức,
chẳng phải là ngay lập tức thành Phật. Cần
phải mất ba A-tăng-kỳ kiếp th́ mới đoạn
sạch Hoặc viên măn. Tâm mong văng sanh, đó chỉ là văng
sanh. Sau khi văng sanh, có thể trở thành bậc Nhất Sanh
Bổ Xứ, Bổ Xứ chính là Phật trong tương
lai. Cứu Cánh Giác chẳng có sai khác, nhưng Tùy Phần Giác
đều có phương tiện. Nếu liễu đạt
giáo lư, tu một pháp là tu chung các pháp. Chẳng hiểu rơ giáo
lư, đôi bên thường trở thành chướng ngại.
* Hỏi:
Chỗ quy túc cuối cùng trong học Phật là chứng Niết
Bàn. Muốn chứng Niết Bàn, ắt phải buông xuống
hết thảy thiện niệm và ác niệm, chẳng lo
nghĩ ǵ, chẳng suy nghĩ ǵ. Nếu phát ra cái nguyện
“nương theo bổn nguyện để trở lại độ
đời”, sẽ bị nguyện ấy lôi kéo, làm sao c̣n có
thể chứng Niết Bàn cho được? (Khuông Chấn Cơ hỏi)
Đáp:
Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đó chính là phương
tiện Thiền Na trong Đàn Kinh. Nương theo nguyện
trở lại độ đời, chính là thánh ngôn trong kinh
điển Tịnh Độ. Tiểu Thừa tự giải
thoát, đắm chấp Niết Bàn chẳng rốt ráo, chỉ
đắc La Hán, chẳng thể thành Phật. Chẳng trụ
trong Niết Bàn, nhiều kiếp độ chúng sanh, hết
sạch Trần Sa Hoặc, th́ mới là Niết Bàn rốt
ráo. Hoặc chưa hết, bèn có cái lôi kéo; chứ Hoặc đă
hết sạch, bèn được tự tại.
* Hỏi:
Đức Phật phó chúc Chánh Pháp Nhăn Tạng cho tôn giả
Ma Ha Ca Diếp. Đó là một loại “chẳng lập văn tự, truyền riêng ngoài
giáo”. Đạt Ma Tổ Sư sang phương Đông đến
Trung Hoa, truyền đến Lục Tổ Huệ Năng,
lập ra một bộ Lục Tổ Đàn Kinh, có phải
là giáo môn ấy đến lúc đó đă bị biến chất,
đánh mất chân nghĩa truyền pháp của đức Phật?
(Khuông Chấn Cơ hỏi)
Đáp:
Chất và pháp hăy nên tách ra để nói. Dường như
“chất” dùng để chỉ sự quay về nguồn, “pháp”
có lẽ dùng để chỉ phương tiện. Chất
chẳng thể biến, pháp có thể tùy duyên. Phương
pháp của Phật, ai có thể hiểu được? Tiền
nhân nói: “Các vị tổ đời
sau, chẳng biết Mă Minh, Long Thọ. Long Thọ chẳng
biết A Nan, A Nan chẳng biết Ca Diếp, Ca Diếp chẳng
biết Phật”. Đă chẳng biết, làm sao có thể
nắm được phương pháp? Điều ấy
chẳng sao cả! Chỉ là khéo hay vụng sai khác đó thôi!
Nếu chẳng cầu trở về nguồn, chẳng biết
trở về nguồn, chẳng học trở về nguồn,
thậm chí kiêng nói chuyện trở về nguồn th́ Phật
pháp bị diệt mất, c̣n nói ǵ tới biến chất
nữa!
* Hỏi:
Bộ Phật Học Vấn Đáp Loại Biên do quư xă bổ
sung và tái bản vào tháng Tư năm Dân Quốc 51 (1962) đến
nay đă hơn bảy năm, có thể lại đem những
vấn đề đă được giải đáp trong
bảy năm xuất bản thành một cuốn bổ
sung để học nhân học Phật có cái tham khảo
hay không? (Khuông Chấn Cơ hỏi)
Đáp:
Hiện thời đang trù tính chuyện này.
* Hỏi:
Người học Phật cảm thấy vấn đề
khó khăn nhất là trong kinh văn, chú ngữ có rất nhiều
chữ chẳng biết cách đọc, như Nam Mô nên đọc
là Na Ma ra, những chữ khác có t́nh h́nh tương tự rất
nhiều. Pháp sư Thánh Ấn chùa Từ Minh từng chế
tác mấy đĩa thâu âm xướng tụng Phật giáo
để người học Phật có thể học tập
tŕ tụng, công đức rất lớn. Tôi đề nghị
quư xă, tự viện hoặc liên xă hăy bàn bạc, lo liệu
thâu âm mấy loại kinh văn chú ngữ thường được
tŕ tụng theo giọng Quốc Ngữ[15] để
giúp người học noi theo âm thanh mà tập luyện tụng
niệm, ḥng tránh khỏi chuyện đọc tụng luông tuồng!
(Khuông Chấn Cơ hỏi)
Đáp:
[Từ ngữ được sử dụng trong] kinh văn
phụ thuộc vào ngữ hệ các nơi xưa nay khác
nhau, khó thể mong [từ ngữ] đồng nhất được.
Quốc Ngữ cũng có vấn đề lớn, chỉ
có cách là người mỗi nơi thuận theo phương
âm của chính ḿnh để niệm, miễn sao âm đọc
được công nhận theo tiếng của vùng ấy là
được rồi. C̣n chú ngữ thuộc về Mật
Tông, ắt phải được khẩu truyền âm đọc
theo tiếng Phạn. Nếu chiếu theo cách đọc giả
thiết [được ghi chú] trong bản in th́ mười
phần sai âm hết bảy tám, nhưng do lưu truyền đă
lâu, đem lầm đáp lỗi, mong hiểu cách đọc
cho đúng vô cùng khó. Như ông nói chữ Nam Mô đọc như
Na Ma chính là cách đọc theo đời Đường,
nhưng chữ Na Ma theo cách phát âm hiện thời cũng chẳng
giống như thời Đường, nay đọc như
hai chữ Năi Một[16]
th́ gần với âm thời Đường hơn.
* Hỏi:
Trong kinh A Di Đà, chữ Nậu trong danh hiệu A Nậu
Lâu Đà, theo tự điển Khang Hy ghi chép th́ có hai cách đọc
tức là Nô Câu Thiết và Nô Hậu Thiết[17],
nên đọc theo âm nào là đúng? (Khuông Chấn Cơ hỏi)
Đáp:
Đối với âm đọc của chữ này, phần
lớn người Trung Quốc đọc theo kiểu Nô Hậu.
Tuy phần nhiều đọc như vậy, nhưng cũng
là đọc thuận theo giọng địa phương,
chưa chắc là đă chuẩn xác. Chữ này vốn là phiên
âm tiếng Phạn, được dịch âm tại đất
Tần (Thiểm Tây) ở phương Bắc, nhằm thời
Diêu Tần cát cứ[18] dưới
triều Đông Tấn. [Từ điển Khang Hy ghi] chữ
Nậu được đọc là Nô Hầu, hay Nô Câu v.v…
là các cách phát âm thời ấy, vùng ấy, rốt cuộc như
thế nào [mới là chánh xác], kẻ hèn này đối với
chuyện ngữ hệ chưa từng nghiên cứu, chẳng
dám đoán xằng, cũng chỉ đành thuận theo đa
số để giữ ḷng thành kính mà niệm vậy.
* Hỏi:
“Do tâm sanh nên các pháp sanh. Do pháp
sanh, nên các thứ tâm sanh”. Đối với hai câu kinh
văn trên đây, có phải là câu trước nói do Kiến
Phần tiếp xúc Tướng Phần, câu sau có phải là
lục căn đối trước sáu trần mà phát sanh
ra thức hay không? (Tiên Thuần
Hiền hỏi)
Đáp:
Có thể nói như vậy.
* Hỏi:
Trong tam giới có mười hai loại dị sanh[19],
nhưng xét ra, kinh Kim Cang có nói “nhược
noăn sanh, nhược thai sanh, năi chí phi hữu tưởng,
phi vô tưởng” (hoặc là sanh bằng trứng, hoặc
là sanh bằng thai, cho đến chẳng phải là có tưởng,
chẳng phải là vô tưởng) th́ chỉ là mười
loại chúng sanh, hai loại kia là ǵ? Lại nữa, “nhược hữu sắc” là
có vật chất,“nhược
vô tưởng” là tinh thần hóa thành đất, gỗ,
vàng, đá, há chẳng phải là giống như “hữu sắc”? Đối với
các loại c̣n lại, tôi cũng không hiểu rơ cho lắm! (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp:
Mười hai loại sanh được nói trong kinh Lăng
Nghiêm. Tên của chúng là noăn sanh, thấp sanh, thai sanh, hóa sanh,
hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng,
phi hữu sắc, phi vô sắc, phi hữu tưởng, phi
vô tưởng. C̣n như câu “như vô tưởng chính là
tinh thần hóa thành đất, gỗ, vàng, đá, há chẳng
phải là tương tự như hữu sắc” chính là
hiểu lầm. V́ chữ “vô
tưởng” chỉ [những thứ không có] tinh thần,
chẳng phải là dùng “vô sắc”
để chỉ tinh thần. [Ghi nhớ như vậy] sẽ
dễ hiểu rơ, chẳng đến nỗi hỗn loạn.
Tinh thần hóa thành đất, gỗ, vàng, đá, cũng chẳng
phải là tương tự. Khi nó là tinh thần, bèn thuộc
loại vô sắc; khi là đất, gỗ, vàng, đá, bèn
thuộc loại hữu sắc. Chỉ dùng t́nh trạng hiện
tiền để đặt tên cho cái đang hiện hữu,
chẳng dùng loại trước hay sau để đặt
tên cho [t́nh trạng] hiện tiền. Danh do tướng mà có;
tướng đă biến đổi th́ danh cũng đổi
theo.
* Hỏi:
Tôi có một người bạn chẳng tin Phật, chẳng
tin bất cứ tôn giáo nào, phục vụ trong giới quân
nhân và chánh trường, ông ta nói: “Tôi có một người
bạn khác tin Phật, sớm tối đều ở trong
nhà thắp hương, lạy lục, cảm thấy hết
sức vô nghĩa!” Đệ tử giải thích: “Phật giáo
chia thành ba phần là Giáo, Lư, Hành. Ông trông thấy những
chuyện như thắp hương, quỳ lạy thuộc
về Giáo, cũng là một loại nghi thức. Khi ông làm lễ
kỷ niệm, cũng hướng về di tượng của
Tổng Lư (Thủ Tướng) khom ḿnh lễ ba lượt
v.v… có cùng một ư nghĩa!” Đệ tử nói theo cách đó
có đúng hay không? Có phạm giới vọng ngữ hay không?
(Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp:
Lời ông nói chẳng giả, vọng ngữ ở chỗ
nào? Nhưng lời ông nói với người ấy cũng
chẳng hợp nghĩa lư cho lắm, v́ đă chẳng thể
phá được sự mê hoặc của người ấy,
lại chẳng thể phá vỡ sự khinh mạn của
kẻ đó.
* Hỏi:
Có hai vị nữ cư sĩ nói: “Vị pháp sư X… nói ‘con
người chết đi bèn đọa địa ngục,
linh hồn thứ nhất bèn chết trong vạc dầu,
linh hồn thứ hai lại lên núi đao chịu khổ, có
thể có mười vạn tám ngàn linh hồn theo nghiệp
thọ khổ như thế’. Xin hỏi t́nh h́nh khi đọa
địa ngục rốt ráo là như thế nào?” Đệ
tử đáp: “Chủng loại địa ngục rất
nhiều, có thể xem chi tiết trong kinh Địa Tạng.
Con người có tám thức, ngoại đạo gọi thức
là ‘linh hồn’. Khi mạng chung, năm thức trước,
thức thứ sáu, thức thứ bảy nối tiếp
nhau mất tác dụng, chỉ c̣n sót lại thức thứ
tám đi theo nghiệp thọ khổ báo. Lần đầu
tiên là vào vạc dầu bèn mê man, chết đi, ngưng một
lát, tự ḿnh sống lại, lại lên núi đao, thọ
khổ báo từng lượt như thế xong mới ngưng”.
Đệ tử đáp như vậy có đúng pháp hay không?
Có phạm giới hay không? (Tiên
Thuần Hiền hỏi)
Đáp:
Trong địa ngục Ngũ Vô Gián, mạng chẳng gián đoạn,
thường liên tục, thọ khổ không gián đoạn,
chịu đủ các khí cụ hành tội. Lời đáp có
căn cứ, nên chẳng thuộc vọng ngữ, sao lại
nói là phạm giới? Hết thảy sự lư, biết th́
nói biết, không biết th́ chớ nên miễn cưỡng
ra vẻ hiểu biết [th́ sẽ chẳng phạm giới
vọng ngữ].
* Hỏi:
Như Ư Luân Bảo Vương Đà La Ni, Tiêu Tai Cát Tường
Thần Chú, Công Đức Bảo Sơn Thần Chú, Phật
Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú, Thánh Vô Lượng
Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Đà La Ni,
Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn, Thiện Thiên Nữ
Chú v.v… xuất phát từ kinh điển nào? Lại c̣n Phá Địa
Ngục Chân Ngôn, Phổ Triệu Thỉnh Chân Ngôn, Giải Oán
Kết Chân Ngôn, Địa Tạng Bồ Tát Diệt Định
Nghiệp Chân Ngôn, Quán Thế Âm Bồ Tát Diệt Chướng
Nghiệp Chân Ngôn, Khai Yết Hầu Chân Ngôn, Tam Muội Da
Giới Chân Ngôn, Cam Lộ Thủy Chân Ngôn, Nhất Tự Thủy
Luân Chú, Nhũ Hải Chân Ngôn v.v… xuất phát từ kinh
điển nào? (Trịnh Thu Ba
hỏi)
Đáp:
Các danh hiệu thần chú như ông vừa kể có chép tường
tận trong Triêu Mộ Khóa Tụng. Các chú ấy lấy từ
phần Bí Mật Bộ trong Đại Tạng Kinh. Nếu
chưa từng học Phật, lại chưa được
thầy dạy, sợ là xem và đọc đều chẳng
thể thông thạo. Nay tôi tặng một tập sách mỏng,
xin hăy xem, tụng cẩn thận, sẽ hiểu đại
lược đường nẻo, th́ mới có chỗ tiến
nhập đôi chút.
* Hỏi:
Thanh Thủy Tổ Sư Cổ Phật là tổ sư đời
nào? Thành Phật vào triều đại nào? Xuất phát từ
kinh điển nào? Xin thầy khai thị? (Trịnh Thu Ba hỏi)
Đáp:
Chẳng biết Thanh Thủy Tổ Sư là người như
thế nào! Đă chẳng phải là Phật giáo, sao có thể
gọi là Phật cho được? Ông có tâm học Phật,
cần phải t́m về đường chánh!
* Hỏi:
Thánh hiền thời cổ nói mặt trăng là Quảng Hàn
Cung, tức chỗ ở của Thường Nga tiên tử[20],
dành cho thần tiên cư ngụ, chỉ có người tu
luyện thành phi tiên mới có thể đến đó, chứ
phàm phu nhục thân chẳng thể trông thấy! (Diệp Ngân Nữ hỏi)
Đáp: Nói Quảng
Hàn Cung và Thường Nga v.v… chính là lời lẽ giả
thiết của bọn văn nhân Trung Quốc, là [cách nói
theo kiểu] ngụ ngôn, lư tưởng, chẳng chép trong
kinh sử, chỉ nhằm để điểm xuyết
cho thơ phú bóng bảy, là lời nói chơi lúc trà dư tửu
hậu mà thôi. Các sách vở mẫu mực, khuôn phép, nghiêm túc
đều chẳng nói đến chuyện ấy. Bậc
thánh hiền thời cổ trọn chẳng nói đến
chuyện ấy, chớ có hiểu lầm!
* Hỏi:
Nay phàm phu nhục thân Hàng Tư Lăng[21]
chánh thức lên nguyệt cầu, từ nguyệt cầu
quay về, tôi rất hoài nghi, chẳng hiểu rơ! (Diệp Ngân Nữ hỏi)
Đáp:
Chủng loại trong thế giới nhiều như trần
sát[22],
chẳng phải chỉ có một. Có thứ thuộc loại
vật chất th́ gọi là Khí Thế Gian, có thứ thuộc
loại Uẩn Xứ th́ gọi là Hữu T́nh Thế Gian. Có
thứ thuộc về tâm tu th́ gọi là Chánh Giác Thế
Gian. Có thứ có h́nh dáng hiển nhiên, có thứ vô h́nh, có loài
hữu h́nh, nhưng mắt thịt b́nh phàm chẳng thể
thấy được. Nguyệt cầu thuộc về hữu
h́nh khí thế gian, mắt thịt của ai cũng trông thấy
được; đă thấy th́ có thể đến đấy,
đó là lẽ đương nhiên. Bất quá là do vấn
đề kỹ thuật, [nên sẽ có những tinh cầu
con người chưa đến được], có ǵ đáng
nghi?
* Hỏi: Nh́n như
vậy th́ chẳng nên ăn chay, tu hành, rèn luyện khổ
sở, v́ nhục thân phàm phu cũng có thể lên cơi trời
được ư? (Diệp
Ngân Nữ hỏi)
Đáp: Nguyệt
cầu chẳng phải là cơi trời, mà thuộc về vật
chất khí thế gian, lên đó [sẽ thấy] là một vùng
hoang vắng, thê lương, chẳng trang nghiêm như địa
cầu, sao lại khổ sở đến đó? Để
đến đó, cũng chẳng cần phải tu luyện!
Chỗ hy vọng sẽ đến được bằng
tu luyện thuộc về cơi biến hóa bởi tâm linh, chẳng
liên can ǵ đến chuyện này!
* Hỏi: Có phải
là chẳng luận tốt, xấu, hễ có tiền, có can đảm,
có kiến thức th́ sẽ có thể lên được cơi
trời hay không? (Diệp Ngân Nữ
hỏi)
Đáp: Cơi trời
chẳng phải là mặt trăng, trong lời đáp trên đây
đă nói rơ ràng! Có tiền, có ḷng can đảm, có kiến
thức, không chỉ lên mặt trăng, mà vô lượng
tinh cầu trong hư không đều có thể đến được,
do chúng đều thuộc về khí thế gian, nhưng [dẫu
đến các tinh cầu vẫn] chẳng thấy cung trời
ở cơi nào. Do hiểu biết th́ có thể đến được,
chứ chỉ có tiền và có ḷng can đảm, làm thế
nào cũng chẳng được!
* Hỏi: Thường
nghe nói thần tiên có thể biết quá khứ, vị lai, có
chuyện ǵ sắp xảy đến, do tâm huyết trào dâng,
nên họ ắt sẽ biết trước. Cớ sao ông Hàng
Tư Lăng là nhục thân phàm phu lại có thể lên nguyệt
cầu trong cơi trời? V́ sao thần tướng hộ vệ
giữ thiên môn chẳng đóng thiên môn, chẳng cho ông ta bước
vào nguyệt cầu th́ mới là đúng chứ! (Diệp Ngân Nữ hỏi)
Đáp: Trong điều
trước tôi đă nói rơ, [nếu đọc kỹ, suy
nghĩ cẩn thận th́] có thể tự hiểu câu hỏi
này. Bà đă lầm lẫn nguyệt cầu là cơi trời, các
sách của thánh hiền Trung Quốc và các ngoại đạo
đều chẳng nói mặt trăng là cơi trời. Đă chẳng
phải là cơi trời, há có thiên môn và thần tướng hộ
vệ? Tư tưởng trên đây đều là huyễn
giác của một ḿnh quư đại đức, hoặc do
chịu ảnh hưởng bởi các thứ tiểu thuyết
thần tiên quái dị!
* Hỏi: Nghe nói
thần tiên trên cơi trời nghĩ đến áo bèn có áo, nghĩ
đến ăn bèn có ăn, nghĩ như thế nào bèn được
như thế đấy. Đúng không? (Diệp Ngân Nữ hỏi)
Đáp: Thần
tiên trên cơi trời có lẽ được như thế,
nhưng vẫn là sanh tử phàm phu, chẳng liên can ǵ đến
đại đạo! Huống chi mặt trăng chẳng
phải là cơi trời, những lời lẽ kiểu này cũng
chẳng cần phải bàn đến nữa!
* Hỏi: Mai sau, ông
Hàng Tư Lăng lên mặt trăng trên cơi trời xây dựng
nhà cửa để ở, thiết lập một thế
giới mới, [vậy th́] trong tương lai, Hàng Tư Lăng
ở trong mặt trăng, cũng là nghĩ ǵ bèn có nấy,
giống hệt như thần tiên ư? (Diệp Ngân Nữ hỏi)
Đáp: Hàng Tư
Lăng là nhục thể phàm phu, nguyệt cầu là thế giới
vật chất, so với người sống trên địa
cầu chẳng sai biệt cho mấy. Bà nghe sách vở nói thần
tiên phi hành tự tại, ẩn hiện tùy ư, ăn, uống,
đi lại, cư trụ chẳng nhờ vào máy móc, chứ
ông Hàng Tư Lăng rời khỏi máy móc sẽ bó tay chịu
chết! Ông ta là vĩ nhân, chẳng phải là thần tiên!
* Hỏi:
Trên cơi trời thật sự có thần tiên hay chăng? Hay
là chẳng có thần tiên? (Diệp
Ngân Nữ hỏi)
Đáp:
Sách vở ghi chép như thế, kinh Phật cũng nói như
vậy, nhưng cần phải hiểu rơ “Trời là ǵ? Thân
h́nh như thế nào sẽ là thần tiên?” th́ mới có thể
giải quyết câu hỏi “có hay không”, chẳng thể tùy
tiện nói này nói nọ! Muốn biết trạng huống
của thần tiên, xin hăy đọc cách sách được
thâu thập trong Đạo Tạng, muốn biết trạng
huống của Phật, Bồ Tát, cần phải nghiên cứu
kinh điển nhà Phật. Nếu chẳng hiểu rơ những
chuyện ấy, cứ nuốt trộng quả táo, th́ nói có
hay nói không, sẽ đều là hư luận!
* Hỏi:
Hay là thần tiên từ bi rời đi để cho ông Hàng
Tư Lăng lên đó sáng lập một thế giới mới
đấy chăng? (Diệp
Ngân Nữ hỏi)
Đáp:
Thử dùng địa cầu này để bàn luận. Có thần
hay không có thần? Xin quư đại đức phán đoán một
phen! Nếu nói là vô thần, tỉnh này (Đài Loan) thờ
phụng thần thánh thật đông, rốt cuộc là thờ
phụng ǵ vậy? Nếu nói là có thần, người Hoa,
người ngoại quốc, các sắc dân vàng, trắng, đỏ,
đen, xám, bậc thánh hiền quân tử, kẻ gian dối,
trộm cắp, tà dâm, lại c̣n có chim bay, thú chạy, loài có
mai, có vảy, côn trùng, chẳng biết thần ẩn nấp
trong chỗ nào?
* Hỏi:
Trong nguyệt cầu, thật sự chẳng có Thường
Nga tiên tử ư? Vậy th́ sách chép vợ của Hậu
Nghệ trốn đến cung trăng, hóa làm Thường
Nga là giả hay thật? Lại c̣n có Ngô Cang đốn cây
quế trong cung trăng đốn măi không xong, quanh năm
suốt tháng chặt măi không ngừng, nay vẫn c̣n đang
chặt, là giả hay thật?(Diệp
Ngân Nữ hỏi)
Đáp:
Trong lời đáp cho câu hỏi thứ nhất, tôi đă nói
rơ, nhưng thật ra, chẳng cần giải đáp, vẫn
có thể suy ra được! Trong Tây Du Kư, Đường
Tăng đi thỉnh kinh, trên đường đi, yêu
tinh rất đông, nay chúng ở chỗ nào? Cớ sao chẳng
hỏi? Nếu nói năm tháng đă lâu, yêu tinh đă chết,
th́ c̣n có Ngũ Hành Sơn, Hoa Quả Sơn, Hỏa Diệm
Sơn, Thông Thiên Hà v.v… rốt cuộc đă bị dời đến
đâu rồi? Đại đức chẳng hỏi, chắc
là đă biết rơ. Nếu thật sự hiểu rơ Tây Du Kư
th́ sẽ hiểu rơ chuyện Thường Nga và Ngô Cang!
* Hỏi:
Hàng Tư Lăng nói nguyệt cầu tối om, chẳng có ánh sáng,
cớ sao trong đêm tối, mặt trăng lại chiếu
sáng ngời như ban ngày? (Diệp
Ngân Nữ hỏi)
Đáp:
Mặt trăng vốn chẳng có ánh sáng; mặt trăng tỏa
ánh sáng do phản chiếu ánh sáng mặt trời. Đó là kiến
thức khoa học thông thường, học tṛ Tiểu Học
trong nước cũng biết chuyện này. Nếu bà đă
chẳng hiểu ánh sáng của các ngôi sao trong Thái Dương
Hệ và sự vận chuyển theo quỹ đạo của
chúng th́ có nói cũng phí lời!
* Hỏi:
Tây Thiên là nơi đức giáo chủ A Di Đà Phật ở,
mai sau, ông Hàng Tư Lăng có thể ngồi phi thuyền đến
Tây Thiên Cực Lạc quốc độ, Tây Thiên giáo chủ
A Di Đà Phật cũng phải nhường cho Hàng Tư
Lăng chiếm lănh ư? V́ ông ta có ḷng can đảm, lại có
tiền, có thể ngồi phi thuyền đi khắp trời
đất, các nơi xa gần và mười phương
đều có thể đến được! (Diệp Ngân Nữ hỏi)
Đáp:
Cơi Phật Di Đà là Chánh Giác Tịnh Độ, xa đến
mười vạn ức cơi, gần th́ chỉ ở ngay trước
mắt, nhưng phàm phu tục tử vẫn chẳng trông
thấy, làm sao có thể đến được? Nói kiểu
này khác ǵ kẻ mù xỏ kim. Đến Cực Lạc chẳng
phải bằng phi thuyền, chẳng phải là cốt nhục
ô uế [đến đó], mà là thần thức, là cái tâm thanh
tịnh. Tôi lại có một lời kính tŕnh: Đừng nên
một mực mê tín tiền tài, can đảm, kiến thức.
Đừng nói là một ḿnh ông Hàng Tư Lăng, ngay cả mười
vạn ông Hàng Tư Lăng dẫu có một đống kim cương
to bằng địa cầu, cũng chẳng thể đặt
chân đến Tây Phương chừng một tấc! Nếu
muốn đến, ắt phải buông xuống hết thảy
những tṛ tiểu xảo, t́m cầu từ tâm tánh th́ mới
có mấy phần tương ứng. Chuyện này chỉ có
thể nói với người trong đạo tràng, chẳng
thể nói với kẻ chẳng hiểu biết. Nói thêm chút
nữa, [giả sử] ông Hàng Tư Lăng đến được
Cực Lạc, lại cần ǵ Phật Di Đà phải nhường
ngôi? Thử nghĩ xem, ông Hàng Tư Lăng hiện đang ở
địa cầu, ông ta cũng chưa lănh đạo địa
cầu. Thu hẹp phạm vi hơn, Hàng Tư Lăng là người
Mỹ, cũng chẳng từng thấy ông ta chiếm lănh
ngôi hoàng đế nước Mỹ!
* Hỏi:
Phật Thích Ca có hóa thân, Ngài có hóa thân thuyết pháp tại
Trung Quốc hay không? Ngài hiện đang ở chỗ nào? (Diệp Ngân Nữ hỏi)
Đáp:
Luôn luôn thuyết pháp, đâu đâu cũng hiện diện,
người có đạo sẽ có thể thấy, nghe, kẻ
chẳng thông hiểu bèn không biết.
* Hỏi:
Trời đất lúc hỗn độn sơ khai, từ
thuở ban sơ, từ đâu mà có nhân loại? (Diệp Ngân Nữ hỏi)
Đáp:
Hỗn độn chưa khai th́ chẳng có trời đất,
hư vọng, điên đảo, bèn có tướng huyễn
giả. Nếu là đệ tử Phật, ắt phải
nghiên cứu Phật pháp, đối với những chuyện
thường t́nh, tà kiến thế tục, bươi móc
những thứ dây cà dây muống ấy th́ có ích ǵ?
* Hỏi:
Ngẫu nhiên có lúc tâm chẳng có phiền năo, tôi cũng tin tưởng
sâu xa là tâm vốn thanh tịnh chẳng có vật ǵ, cũng
biết những vọng niệm do chẳng chú ư mà sanh từ
trong sự thanh tịnh ấy, càng học bèn hiểu rơ thức
thứ sáu và thức thứ bảy đều giúp cho vọng
niệm tiếp tục sanh khởi, chứ chẳng phải
là căn do, và cũng tin tưởng rằng trong sự bất
giác nơi thanh tịnh, thật sự có thức thứ tám
làm cái kho chứa các chủng tử, nhưng chẳng biết
phải nên làm như thế nào th́ mới có thể khiến
cho những chủng tử xấu đă sẵn có ấy sẽ
triệt để chẳng sanh khởi? (Tiêu Chí Dương hỏi)
Đáp:
Chủng tử sanh khởi, bèn gọi là “khởi hiện hành”. Đă có chủng tử, hễ
gặp duyên, bèn khởi hiện hành. Muốn cho nó chẳng
sanh, chỉ đành đoạn trừ. Đó gọi là đoạn
Hoặc. Ắt trước hết phải liễu tri Kiến
Tư Hoặc là chuyện như thế nào? Theo đúng pháp để
tu, hễ công phu đủ mức th́ mới đoạn được.
Kém hơn một bậc là chẳng thể đoạn, bèn
chế ngự nó, cũng có thể khiến cho nó tạm thời
chẳng sanh; cũng cần phải có công phu kha khá th́ mới
có thể khuất phục nó. Những điều này kẻ
mới học đều chưa thể làm được.
Lại sợ tuy nghe, chứ không hiểu, ắt phải đọc
thêm mấy bộ kinh điển, để hiểu đôi
chút lư và danh tướng, dần dần rồi sẽ biết.
Nếu cư sĩ muốn thâm nhập, trước hết,
hăy nên tậu một bộ Phật Học Từ Điển
để làm tài liệu tham khảo trong khi nghiên cứu, học
tập kinh điển. Nếu không, sẽ có nhiều thứ
chẳng thể nào ghi nhớ được!
* Hỏi:
Lại nữa, tôi thấy trong sách có nói Tam Tế, Lục
Thô, cũng đă đoán rằng Tam Tế và Lục Thô từ
vô minh liên tục tạo thành giống như tuyết dồn
lại, nhưng chẳng biết: Nếu tách Tam Tế và Lục
Thô ra để nói th́ định nghĩa của chúng là ǵ? (Tiêu Chí Dương hỏi)
Đáp:
Tam Tế là tướng động cực vi của tâm thể,
chẳng dễ liễu tri. Tế tướng thứ nhất
là động thái của chân tâm, tế tướng thứ
hai là [tâm đă] động th́ bèn có vọng kiến (thấy
biết hư vọng), tế tướng thứ ba là do đă
thấy bèn có vọng tướng được trông thấy.
Thô là nói đối ứng với ba thứ Tế trên đây,
dễ liễu tri hơn. Một là hư vọng phân biệt;
hai là sau khi đă chấp cảnh, bèn liên tục chẳng dứt;
ba là sanh ra ư niệm chấp trước sâu đậm; bốn
là do so đo giả danh, ngôn ngữ v.v.. mà sanh ra phiền
năo; năm là do phiền năo bèn tạo các nghiệp thiện ác;
sáu là do tạo nghiệp bèn cảm thọ khổ quả sanh
tử. Đây bất quá là nói đại lược danh xưng
của sự việc, muốn hiểu cặn kẽ th́ phải
đợi đến mai sau.
* Hỏi:
Đă là pháp nào cũng b́nh đẳng, cớ sao trong mười
nguyện Phổ Hiền lại nói “trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường
là bậc nhất”? (Dương
Đức Vinh hỏi)
Đáp:
Một chữ Pháp có Thông và Biệt. Thông th́ là danh xưng
chung của hết thảy Sự, Lư, tâm, vật. Biệt là
chuyên chỉ chân lư mầu nhiệm trong Tam Tạng kinh điển
của Phật. Chữ Pháp trong Pháp Cúng Dường là nói đến
Biệt, chẳng nói đến Thông, ư nói: Dùng Tam Tạng kinh
điển để cúng dường, sẽ là trên có thể
hoằng dương Phật pháp, dưới có thể hóa độ
chúng sanh, nên [pháp cúng dường] là tối thượng
trong các sự thuộc về bậc thượng.
* Hỏi:
Trong Sử từng có nói “Phật
giáo được Trung Quốc hóa”, th́ Thiền Tông là một
cống hiến to lớn, điều này có thể hiểu
là giá trị tồn tại của văn hóa Trung Quốc vượt
xa giá trị ban đầu của Phật giáo hay không? (Kỷ Tuấn Thần hỏi)
Đáp:
Trong hai mươi bốn bộ chánh sử, chưa từng
thấy có lời lẽ ấy. Người đời sau
thường có thành kiến “ta, người”, chuộng lôi Đông,
kéo Tây, làm nô dịch cho chủ trương ấy. Họ nói
năng như thế nào là chuyện của họ, sự
thật vẫn là sự thật. Kẻ hèn này chẳng liễu
giải thứ ngôn luận ấy cho lắm, nên chẳng thể
nói là có chấp nhận được hay không! V́ sao vậy?
Trung Quốc to lớn, học thuật nhiều, họ nói
“Trung Quốc hóa” tức là nói về điều ǵ? Giới
tuyến lẫn phạm vi đều chẳng rơ ràng! Tinh thần
hoằng pháp của Phật giáo đều dựa trên [các
tiêu chuẩn] phương tiện và khế cơ khi hướng
về một loại chúng sanh nào đó để thuyết
pháp, hết thảy đều tùy thuận họ, nhằm
khiến cho họ dễ tiếp nhận. Nguyên tắc bất
biến, chỉ là tùy duyên mà thôi, há có chuyện “hóa” ǵ?
* Hỏi:
Trong kinh điển có nhiều điều đă được
khoa học kiểm nghiệm, chứng minh, nhưng các kiểm
nghiệm, chứng minh ấy phần nhiều do trí huệ
của những người phương Tây chưa niệm
Phật tạo thành, vậy th́ những người ấy
có phải là đă khai trí huệ của Phật hay không? (Kỷ Tuấn Thần hỏi)
Đáp:
Đức Phật nói vạn pháp, đều nhằm xiển
minh bổn tánh, chẳng phải là chuộng bao quát rộng
răi, gồm thâu trọn khắp, [lan man] chẳng có trọng
tâm. Khoa học chỉ nghiên cứu vạn pháp, tuy nói là tinh
vi, nhưng chẳng thấu đạt tâm tánh. Đó là chỗ
bất đồng trong sự tương đồng giữa
hai phái (tức Phật pháp và khoa học), c̣n phải đợi
đến mai sau mới có thể hội thông. Hiềm rằng
đoạn văn kế tiếp có chỗ hơi tối
nghĩa, nên tôi tự tiện suy đoán ư nghĩa. Niệm Phật
là hành môn trong pháp, c̣n giáo lư là giải môn trong pháp, tu gộp
chung th́ Phật pháp lẫn khoa học đều có thể
thành tựu, tách ra sẽ thành lệch lạc, chẳng viên
măn! Lại nữa, chúng sanh đều có Phật Tánh, Phật
Tánh vốn có trí huệ, biết Phật pháp là Chánh Trí, hiểu
khoa học là Quyền Trí.
* Hỏi:
Phật tức là bậc đă chứng đắc Niết
Bàn, tâm đại bi do đâu phát khởi? (Kỷ Tuấn Thần hỏi)
Đáp:
Câu hỏi này cũng tối nghĩa, nên cũng đành đoán
bừa! Cảnh giới Niết Bàn cố nhiên là vô tác, vô
nguyện, vô tu, vô chứng, đó là Chân Như bất biến.
Nhưng Chân Như trọn đủ vạn pháp, từ bi chính
là tánh, chỉ có tùy duyên, đều là từ bi. Chẳng cần
phải tác ư, chẳng cần phải phan duyên, tự nhiên là
như thế, nên gọi là “vô
duyên từ bi”.
* Hỏi:
Trong số báo một trăm chín mươi lăm của
quư san, cuối báo có đăng Nhị Tổ Điều Tâm
Đồ, thoạt nh́n qua, thấy có một con hổ ngủ
vùi, trên hổ lại thấy Nhị Tổ gục xuống
ngủ vùi, há có thể gọi là “điều
tâm” ư? Văn học suy nghĩ trăm lẽ, vẫn chẳng
hiểu, chẳng lẽ ngủ say tít tḥ ḷ được
gọi là “điều tâm” ư? Nhưng bức vẽ ấy
đă xuất phát từ bức họa nổi tiếng của Thạch Khác[23] đời
Bắc Tống, há có phải là suy đoán xằng bậy!
Sau đó, văn học suy đi nghĩ lại, dường như
liễu giải đôi chút, xin cho phép văn bối nêu ra: “Con hổ
ngủ an ổn, tổ sư làm bạn với nó cũng ngủ
an ổn, đó là điều tâm”. Nếu con chưa liễu
giải chánh xác, vẫn mong thầy chỉ dạy đúng
nghĩa, ḥng giúp cho văn học liễu giải bức vẽ
ấy? (Lâm Lương Trụ
hỏi)
Đáp:
Đồ họa chẳng qua nhằm ngụ ư mà thôi! Có đúng
là do người đă hiểu Phật học vẽ hay không,
chẳng dám khẳng định! Nếu muốn thật sự
cầu điều tâm, chỉ có cách nghiên cứu kinh Phật,
đúng pháp phụng hành. Đối với lẽ thâm áo, nếu
thoạt đầu xem chẳng hiểu, th́ cũng có những
sách sơ cơ nông cạn hơn, đó là đường
lối chánh đáng. Nếu chẳng cầu nơi đó, cứ
ngóng gió bắt bóng, sờ soạng lung tung, sợ sẽ nẩy
sanh ma chướng. Nếu không, cũng tăng trưởng
tà kiến, tại hạ vốn mong căn cứ trên bức
vẽ để giải thích, thêm thắt mấy câu, kế
đó, nghĩ: Chỉ ra lối rẽ, càng tạo thêm lắm
lối rẽ, chỉ có tổn hại, chẳng có ích ǵ! V́
thế, quăng bút chẳng làm!
* Hỏi: Có người
hỏi thiền sư Tây Đường Trí Tạng: “Có thiên
đường, địa ngục hay không?” Sư nói: “Có!”
Lại hỏi: “Có Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo hay không?”
Sư nói: “Có”. Lại hỏi thêm nhiều câu, Sư luôn đáp
là Có. Hỏi: “Ḥa thượng dựa vào đâu để nói
chẳng sai?” Sư nói: “Ông đă từng đến gặp
bậc tôn túc hay chưa?” Đáp: “Tôi từng đến tham
phỏng ḥa thượng Kính Sơn”. Sư hỏi: “Ḥa thượng
Kính Sơn nói ǵ với ông?” Đáp: “Ngài nói hết thảy
đều là Vô”. Sư nói: “Ông có vợ hay không?” Thưa: “Có”.
Sư hỏi: “Ḥa thượng Kính Sơn có vợ hay không?”
Thưa: “Không!” Sư bảo: “Ḥa thượng Kính Sơn nói
không th́ được”. Lại nữa, trong lời tựa
cho bộ U Minh Vấn Đáp Lục[24],
cũng có chép tương tự, đối với hai câu
chuyện ấy, chẳng biết chuyện nào là chánh xác? (Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp: Đó là cơ
phong trong nhà Thiền, trọn chẳng giảng giáo, thuyết
lư, đôi bên tự hỏi, tự tu, chẳng cho phép suy nghĩ,
huống hồ giảng nói! Cư sĩ chưa tu đạo
ấy, làm sao có thể hiểu được! Nay nếu tôi
hướng về cư sĩ nói lung tung, chỉ khiến
cho càng nói càng mê mà thôi! Ông lại hỏi về U Minh Vấn
Đáp Lục, “chẳng biết chuyện nào là chánh xác?” Kính
cẩn thưa rằng: Cả hai đều chánh xác. Kính
khuyên ông từ nay trở đi, trước hết, hăy đọc
những sách nào ông có thể hiểu được, c̣n đàm
huyền thuyết diệu là chuyện của các bậc đại
đức đă học lâu ngày. Vượt cấp, vượt
phận, sẽ trọn chẳng đạt được
mảy may ǵ!
* Hỏi: Nhân loại
vốn có phải là Chân Như hay không? Nếu là đúng, v́
sao lại bị đọa lạc? Có phải là vị Phật
đầu tiên sau khi đọa lạc mới tu thành Phật
ư? Hay là chưa bị đọa lạc đă tu thành Phật?
Nếu đọa lạc rồi mới thành Phật, làm
sao Ngài biết tu rồi mới có thể thành Phật? V́ chẳng
có Phật chỉ dẫn! Trên đây là nói giả sử có Phật,
v́ chúng sanh sau khi bị đọa lạc ở trong ấy
(trong ác đạo), biết tu tập sẽ thành Phật? Điều
này lại liên quan đến vấn đề có Phật hay
không? (Tề Định Tiệp
hỏi)
Đáp: Câu hỏi
của ông chẳng có ư nghĩa, chẳng rơ ràng. Theo đúng
lẽ chẳng đáp, nhưng nhằm tùy thuận, chỉ
đành miễn cưỡng giải thích câu hỏi “v́ sao Chân
Như lại bị đọa lạc?” Chân Như là tên gọi
của bản tánh, chỉ là bị ô nhiễm che lấp, nên
tuy sáng mà tối tăm, giống như vàng c̣n ở trong quặng,
bị bùn đất hoen bẩn, nên vẻ rạng rỡ bị
ẩn. Tuy vẻ rạng rỡ bị ẩn, chất vàng vẫn
là như cũ. Nếu nung luyện thành vàng ṛng, sẽ chẳng
c̣n xen lẫn bùn, cát. Chân Như trải qua tu luyện bèn sạch
hết, cũng chẳng c̣n nhiễm nữa!
* Hỏi: Xin cụ
giới thiệu các tác phẩm thuộc loại Phật pháp
và khoa học (có thể khơi gọi ḷng tin tưởng,
ngưỡng mộ) là loại sách ai nấy đều ưa
thích (được viết sau thời Dân Quốc, cũng
là loại sách khơi gợi ḷng tín ngưỡng, cảnh tỉnh
con người). (Tề Định
Tiệp hỏi)
Đáp:
Nếu muốn học Phật, trước hết cần
phải hiểu rơ ràng đường nẻo, đi thẳng
trên con đường lớn. Vàn muôn phần chớ nên xem
rộng những thứ [sách vở] bao gồm những thuyết
quanh co, khúc khuỷu, tạp loạn, v́ điều nào được
tiếp xúc đầu tiên sẽ là chánh yếu. Hễ căn
cội chẳng vững, cây chẳng thể mọc lớn
được! Nếu tri kiến tà vạy, sai trái, suốt
đời chẳng thành tựu được ǵ! Đó là
lời ngàn vạn phần chân thật, chẳng dối gạt
ông! Nay tôi kính tặng hai tập sách đơn giản, mong ông
t́m hiểu kỹ, sẽ có lợi ích. Hai chữ “khoa học”, há dễ nói ư?
Chẳng được hưởng nền giáo dục bậc
cao, làm sao hiểu khoa học cao sâu? Khoa học có nhiều chủng
loại, rốt cuộc ông muốn nói đến ngành khoa học
nào? Kiểu lư luận nuốt trộng quả táo, đâu phải
là khoa học!
* Hỏi: Ví như
niệm Quán Âm Bồ Tát hoặc niệm A Di Đà Phật sẽ
được cứu th́ thật sự quá thuận tiện
(v́ chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng), trong chuyện
này nhất định là có đạo lư, có phải là do Quán
Âm Bồ Tát bi mẫn chúng sanh? (Tề
Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Hết thảy tội nghiệp đều từ tâm khởi.
Niệm niệm nối tiếp, tăng thêm sức mạnh,
khởi tâm là nhân, nối tiếp là duyên. Nhân duyên ḥa hợp,
liền sanh ra quả. Thay đổi ư niệm nghĩ đến
các điều ác thành niệm Phật và niệm Bồ Tát,
cố nhiên cảm được Tha Lực gia bị, tự
tâm đă đoạn ác duyên. Do vô duyên, [nên quả] chẳng
sanh. Đó chính là điều chí lư, chẳng phải là tiện
nghi!
* Hỏi: Tôi thường
thấy sách nói: Mắc chứng mất ngủ bèn niệm A
Di Đà Phật hoặc niệm Quán Âm Bồ Tát, rốt cuộc
cách nào mới tốt? Khiến cho con người chẳng
thể chuyên tâm, há có phải là khiến cho người ta bị
lầm lẫn? (Câu hỏi này, trong số báo một trăm
chín mươi bảy, số ra vào tháng Tư năm nay, nơi
trang bốn mươi, ngu sanh đă hỏi trong câu hỏi
thứ tư, cụ nói niệm Quán Âm Bồ Tát có thể trừ
nỗi khổ trong hiện tại. Nay có phải là niệm
Quán Âm Bồ Tát sẽ tốt hơn, do duyên cớ nào?). Cụ
nói tiến hơn nữa là niệm A Di Đà Phật, có thể
trừ nỗi khổ trong tương lai, nhưng con người
chẳng có cách nào biết trước cái chết, khi bệnh
bèn niệm Quán Âm Bồ Tát, sợ rằng mai sau chết đi,
do lúc c̣n sống, thời gian niệm A Di Đà Phật quá ít,
rất khó văng sanh Tịnh Độ. Lại c̣n do không có cách
nào biết trước lúc chết, mà con người lại
bị bệnh bất cứ lúc nào, hễ bệnh, bèn niệm
Quán Âm Bồ Tát, nhưng văng sanh Tịnh Độ phải
chuyên niệm A Di Đà Phật, há có phải là rất mâu
thuẫn ư? Chẳng biết có phải là cụ nói “tương
lai” nghĩa là:
- Một là sau khi
bệnh đă lành, bèn niệm A Di Đà Phật.
- Hai là trong tương
lai sẽ chẳng bị luân hồi, có thể văng sanh Tịnh
Độ.
Đó chính là “trừ
nỗi khổ trong tương lai” đấy chăng? (Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Câu trả lời trước kia, thật ra là phương
tiện. V́ người thế gian phần nhiều tham luyến
sắc thân, thích Quán Âm cứu khổ, cứu nạn, ghét
nghe nói đến chuyện mạng chung! V́ thế, người
đáp bèn tùy cơ trả lời, v́ sợ người nghe
sẽ ngă ḷng! Nếu cư sĩ có thể ngộ thân chẳng
phải là ta, nhất tâm sanh Tây. Từ nay, suốt đời
phụng tŕ một câu Di Đà, đạo quư nơi chuyên nhất,
lại c̣n quư ở chỗ khế cơ.
* Hỏi: Chúng
sanh đă là b́nh đẳng, huống hồ chư Phật?
V́ sao lại nói cần phải niệm A Di Đà Phật, mà
chẳng niệm Quán Âm Bồ Tát (hoặc danh hiệu các vị
Phật khác) để mong văng sanh Tịnh Độ? (Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Hết thảy b́nh đẳng là quy về Tánh Thể để
nói, nhưng xét theo Tướng và Dụng, sẽ khác nhau. Muốn
lạnh th́ nên uống nước đá, muốn nóng cần
phải hướng đến lửa, đi ngược đường,
ắt sẽ chẳng thành công. Phật pháp là Giới, Định,
Huệ. Nếu cầu đắc Định, bất cứ
danh hiệu Phật, Bồ Tát nào, không danh hiệu nào chẳng
thể tŕ, không cứ phải [tŕ danh hiệu] Di Đà! Nếu
cầu văng sanh Tịnh Độ của Phật Di Đà, ắt
niệm Di Đà, pháp vốn là như thế, trái nghịch
sẽ chẳng tương ứng. Như sống ở Đài
Trung, muốn qua B́nh Đông, ắt phải mua vé xe về phương
Nam, muốn tới Cơ Long, ắt phải mua vé xe lên phía
Bắc. Theo hướng Nam hay hướng Bắc tuy khác
nhau, nhưng B́nh Đông lẫn Cơ Long đều thuộc
Đài Loan.
* Hỏi:
Tôi thấy trong sách nói niệm A Di Đà Phật là Chánh Hạnh,
hành thiện là Trợ Hạnh. Hành thiện thường là
đạo lư làm người, v́ sao là Trợ Hạnh? Học
Phật mà ngay cả đạo lư làm người c̣n chẳng
hiểu, vậy th́ niệm A Di Đà Phật có thể văng
sanh chỉ là mộng tưởng! Nói cách khác, hạng người
niệm A Di Đà Phật ấy làm sao có thể coi là Chánh Hạnh
cho được? Trong kỳ báo một trăm chín mươi
bảy, nơi trang bốn mươi tám, cụ trả lời
câu hỏi thứ chín: “Chánh”
là khắc chế ư niệm khiến cho tâm chánh đáng; Trợ
là dùng điều thiện để giúp đỡ. Khắc
chế ư niệm khiến cho tâm chánh đáng th́ phải nên
khắc phục tất cả phiền năo nơi bản thân
đúng không? Nhờ vào niệm A Di Đà Phật để
khắc chế ư niệm khiến cho cái tâm chánh đáng, há
chẳng phải là mang tánh chất ỷ lại quá mức!
Niệm Phật cần phải chuyên tâm, thế mà lại cần
phải cậy vào niệm Phật (để khắc chế
ư niệm khiến cho tâm chánh đáng), há chẳng phải là
mâu thuẫn hay sao? (Tề Định
Tiệp hỏi)
Đáp:
Tâm và thân có sự phân biệt rất lớn. Thân là cơ thể
hữu h́nh, tâm là linh minh vô h́nh. Đức Phật nói “vạn pháp chỉ do tâm tạo”,
không chỉ là tư tưởng được sanh ra từ
nó, mà ngay cả hết thảy những thứ hữu tướng,
không ǵ chẳng phải là do tâm niệm tạo nên. Điều
này chẳng phải do kẻ hèn này xằng bậy chủ
trương, mà vốn được nói trong kinh Phật. Trong
lời luận định cao quư của ông, ông cho rằng đạo
lư làm người là khắc phục phiền năo nơi bản
thân, chẳng nghĩ khắc chế ư niệm là đúng. Lại
cho rằng niệm Phật là dựa dẫm. Nay tôi tạm
thời khoan bàn đến Phật, v́ huyền diệu khó nói
rơ. Trong văn hóa Trung Quốc, sách Đại Học cũng
nói: “Dục tu kỳ thân giả,
tiên chánh kỳ tâm” (muốn tu cái thân th́ trước hết
phải khiến cho cái tâm chánh đáng), “tâm chánh, nhi hậu thân tu” (chánh đáng cái tâm rồi
mới tu cái thân). V́ thế, đạo lư làm người,
trước hết là ắt phải lấy chuyện “chánh
đáng cái tâm, khắc phục phiền năo” làm chủ lực,
chú trọng nơi tâm, chứ không phải thân! Lại nữa,
nói đến niệm Phật, trọn chẳng phải chỉ
là cốt sao miệng niệm Phật, mặc cho cái thân làm
chuyện xấu, chớ nên hiểu lầm! Niệm Phật
chuyên tâm th́ “chuyên” là chẳng
nghĩ tới những điều tà vạy khác. Không có những
điều tà vạy khác, đó chính là “tâm chánh”, há có mâu thuẫn? Khởi ác niệm hoặc
vọng niệm tức là tâm bệnh, niệm Phật là thuốc,
có thể trừ tâm bệnh. Có bệnh th́ phải cậy vào
thuốc, đó là lẽ đương nhiên!
* Hỏi:
Bài thứ ba mươi sáu trong bộ Phật Học Thường
Thức Khóa Bổn do đại cư sĩ biên soạn là
bài Nhập Tự Tu Tri (những điều cần biết
khi vào chùa). [Theo đó], sau khi vào cửa chùa, chớ nên đi
thẳng vào chính giữa, tiến thoái đều nên thuận
theo phía tay trái của người ấy, đi theo phía ấy.
Khi cửa chùa chỉ có một cái th́ cố nhiên ra vào nên làm
như vậy, v́ ra vào cùng một cửa. Nếu cửa chùa
có ba cái, để tránh khỏi đông người ùn tắc,
chen chúc, có thể mở rộng ra hay không? [Từ đó, đối
với việc ra vào chùa, tôi nghĩ nên tuân theo quy tắc sau
đây]:
1)
Cửa chánh giữa chớ nên tùy tiện ra vào.
2)
Khi vào chùa nên đi theo cửa bên tay trái của người
đó để vào.
3)
Khi ra khỏi chùa, cũng nên theo cửa bên tay trái của người
đó ḥng theo đường khác để đi. (Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Lập ra tam môn (cửa tam quan), tức là cửa giữa dùng
cho đại điển (các cuộc lễ quan trọng),
hai cửa trái và phải dùng ra vào trong lúc thường ngày.
V́ thế, cửa bên trái và phải c̣n gọi là Tiện Môn
(便門), nghĩa là có thể
sử dụng thuận tiện. Chẳng phải chỉ riêng
chùa miếu làm như thế, mà trước kia các cơ
quan công thự cũng đều lập ra ba cửa. Do đó,
gọi quan nha (dinh thự, công phủ) là Lục Phiến
Môn (六扇門: cửa sáu cánh). Kẻ biết lễ,
giữ ḷng kính, sẽ tự biết tuân thủ [quy định
ấy]. Những chuyện giống như vậy thuộc
về Lễ, chẳng thuộc về pháp luật, mọi người
bằng ḷng vâng giữ th́ giữ, chẳng thể là quy định
mang tánh chất cứng rắn được!
* Hỏi:
Nơi phần sau bộ Phật Môn Thường Dụng Khóa
Tụng Bổn do đại cư sĩ biên soạn, trong
phần thánh đản của chư Phật, Bồ Tát, có
nói ngày mồng Năm tháng Mười là thánh đản của
Đạt Ma Tổ Sư, nhưng theo một số pháp
sư, ngày ấy chẳng phải là thánh đản của
tổ sư, mà là kỵ thần (ngày giỗ), rốt cuộc
ngày nào mới là đúng? Tuy chỉ cần có cơ hội kỷ
niệm để báo ân Tổ là được rồi, nhưng
cũng cần phải xét theo tánh chân thật, để khỏi
nói năng mâu thuẫn, xử sự chẳng thông suốt, nói
nước đôi. V́ thế, dám xin cụ hăy chỉ dạy.
(Tề Định Tiệp hỏi)
Đáp:
Bộ Phật Môn Thường Dụng Khóa Tụng Bổn chẳng
phải do kẻ hèn này biên soạn, người đứng
ra in sai tôi ghi phần thư thiêm[25] mà
thôi, chớ nên hiểu lầm. C̣n như ngày đó là thánh đản
hay kỵ thần của Đạt Ma tổ sư, hai bên đều
khó khảo cứu chánh xác, v́ Tổ là người bên Tây Độ
(Ấn Độ), giáng sanh lẫn viên tịch đều
chẳng ở tại Trung Hoa. Hơn nữa, mỗi nơi,
mỗi thời, lịch pháp trọn chẳng thống nhất,
rất khó biết được sự thật. Lấy
ngay ngày thánh đản của đức Thế Tôn là mồng
Tám tháng Tư để luận, vốn là ngày mồng Tám tháng
Tư theo lịch pháp Ấn Độ, Trung Quốc cử
hành [lễ kỷ niệm] lại tuân theo cách tính ngày tháng đời
Hạ[26]. Nay lại cử hành
theo ngày tháng Tây lịch, lịch Ấn Độ và Tây lịch
chạy nhau một tháng, Tây lịch và Hạ lịch lại
sai khác nhau một tháng.
* Hỏi:
Vạn tượng trong vũ trụ có thành tựu, hủy
diệt, rốt cuộc là do ǵ mà thành? Nếu nói vạn pháp
trong vũ trụ đều do vọng tâm mà có, th́ vọng
tâm lại do đâu mà có? (Lư Tùng
Lân hỏi)
Đáp:
Vấn đề này xưa nay, trong ngoài nước, hết
thảy các vị thánh triết đă từng t́m ṭi, là một
chuyện khó giải quyết nhất, chỉ có bậc tham
cứu, tu tập mới tự chứng, chẳng thể diễn
tả hoặc h́nh dung được. Chỉ có thể nói được
bằng một chữ Tánh mà thôi, chữ ấy chính là nguồn
cội của vọng tâm. Giác chính là tánh, mê chính là vọng
tâm. Nếu lại truy xem tánh do đâu mà có, Nho gia nói: “Thiên mạng chi vị tánh” (mạng
trời được gọi là Tánh), nghĩa là tự nhiên
mà có. Phật nói: “Pháp nhĩ
như thị” (pháp vốn là như thế). V́ thế, gọi
là Chân Như, rỗng rang, chẳng có tự thể, nhưng
trọn đủ toàn vẹn tác dụng và đức năng.
Do đó, nó là Không, nhưng chẳng phải là Không, vốn
là bất sanh, mà cũng chẳng có diệt. Đă vốn chẳng
sanh, nên chẳng từ đâu mà có. Đấy chính là chuyện
sâu xa, kín nhiệm nhất, chẳng phải là hàng sơ học
mà ḥng nghe, biết được.
* Hỏi:
Vạn pháp trong vũ trụ do vọng tâm hiện ra đều
là Không, hư giả, chẳng thật. V́ chúng sanh bị lầm
lẫn bởi vọng, nên làm những chuyện tranh danh đoạt
lợi. V́ cái danh chẳng thật, v́ cái lợi hư ngụy
mà tạo nghiệp thấp kém, xấu ác. Nếu chẳng tạo
ác nghiệp, tội báo sẽ tự chẳng c̣n nữa, từ
đó có thể đạt đến giải thoát, chẳng
bị vây hăm, ràng buộc trong nhà tù to lớn là thế giới
này. Học nhân nói như vậy có đúng hay không? Vẫn
mong cụ uốn nắn cho đúng! (Lư Tùng Lân hỏi)
Đáp:
Những lời ông đă nói cố nhiên là hữu lư, nhưng
sự chẳng đơn giản. Cổ đức nói: “Tùy duyên tiêu nghiệp chướng,
cánh bất tạo tân ương” (tùy duyên tiêu nghiệp
chướng, chẳng tạo ương họa mới). Lời
quư cư sĩ đă nói chỉ là “cánh bất tạo tân ương”. Chẳng tạo
nghiệp mới là điều đáng quư, nhưng vẫn
phải tiêu trừ nghiệp cũ vốn có th́ mới được
giải thoát, nhưng tiêu nghiệp cũ th́ cũng ắt là
chẳng tạo thêm nghiệp mới th́ mới được!
* Hỏi:
Lục Tổ nói: “Bất thị
phong động, dă bất thị phan động, nhi thị
nhân giả tâm động” (chẳng phải là gió động,
cũng chẳng phải là phan động, mà là tâm nhân giả
động). Lư “tâm động”
ấy hết sức mầu nhiệm, nhưng tôi chẳng
ngộ được. Kính xin từ bi chỉ dạy. (Trịnh Chí Tây hỏi)
Đáp:
Vạn pháp chỉ do tâm tạo, ai nấy đều nghe [lư
ấy], nhưng người ngộ quyết chẳng phải
là kẻ sơ cơ. Đối với chuyện thuộc
về tâm, chỉ có công phu đạt mức th́ sẽ tự
ngộ, trọn chẳng có lẽ nào do người khác giải
nói [mà ngộ được]. Kẻ sơ cơ học Phật,
nghe ít, nghiên cứu ít, tâm c̣n chẳng biết, nói chi vạn
pháp duy tâm! Càng khó nói tới tâm sanh, pháp sanh, tâm động,
pháp động, tâm tĩnh, pháp tĩnh, tâm diệt, pháp diệt.
Vấn đề này đợi đến khi cư sĩ đă
học Phật sau mười năm rồi mới lại
hỏi th́ vẫn chẳng muộn.
* Hỏi:
Có lúc ở nơi ruộng, hoặc trên đường, và
những nơi khác ngộ sát khá nhiều sanh mạng. Khi phát
giác bèn v́ chúng nó niệm Phật, niệm chú Văng Sanh, có thể
giúp cho chúng nó văng sanh hay không? (Trịnh
Chí Tây hỏi)
Đáp:
Chuyện này chẳng thể nói nhất định, phải
xem niệm lực như thế nào? Nhưng chúng nó có văng
sanh hay không, tuy chẳng thể biết, nhưng cư sĩ
có thiện niệm ấy, chính ḿnh trước hết đă
vun bồi công đức và tiêu trừ nỗi oán hận của
chúng, và cũng tiêu trừ tội khiên đối với chúng,
vâng làm các điều lành. Hăy nên biết như vậy.
* Hỏi:
Phật nói: “Ngô thị dĩ
thành Phật, nhữ thị vị thành Phật” (ta là Phật
đă thành, các ngươi là Phật chưa thành), gần đây,
hậu học đối với mỗi chúng sanh đều
xem như là Phật, ngay cả đối với cha mẹ,
vợ, con cũng quán như thế. Lâu ngày, cũng cảm
thấy cha mẹ, vợ con cũng là Phật, cũng b́nh
đẳng, chẳng phân chia cao thấp, nhưng Ấn Tổ
(tổ Ấn Quang) từng dạy “đôn luân, tận phận” (giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận), tợ hồ mâu thuẫn,
như thế nào th́ mới nên? (Trịnh
Chí Tây hỏi)
Đáp:
“Đă thành Phật” là chính
ḿnh đă chứng đắc Phật quả, “chưa thành Phật” th́ vẫn
là thân phàm phu, chịu tu chẳng ngừng th́ mới có thể
thành Phật. Biếng nhác chẳng tu, chẳng có hy vọng
thành Phật. Phật và phàm phu, tánh b́nh đẳng, nhưng
thân khác nhau. Thân phàm phu kể từ lúc được sanh
ra, [sẽ lần lượt] có cha mẹ, vợ con. Ở
trong thế tục, bèn luận theo thế tục, mỗi người
đều có bổn phận, nên cần phải giữ vẹn,
trọn hết. Ngay cả Phật cũng phải trên là hiếu
thảo với cha mẹ, dưới giáo hóa đệ tử.
Nếu phân theo thân thanh tịnh, Phật và phàm phu, há có mâu
thuẫn ǵ? Ở đây, tôi nêu một tỷ dụ, công dân
hiện thời đều có tư cách được bầu
làm Tổng Thống, đó là b́nh đẳng, nhưng kẻ
nào vẫn chưa được bầu làm Tổng Thống,
th́ chẳng có quyền tự xưng là Tổng Thống,
ban phát hiệu lệnh. Đó là do vai tṛ và bổn phận
khác nhau! Hiểu lầm sự b́nh đẳng th́ đă gây rối
loạn trật tự công cộng, mà c̣n hại chính ḿnh, chớ
nên không chú tâm thấu hiểu.
* Hỏi:
“Thiên hà ngôn tai? Tứ thời
hành yên, vạn vật sanh yên, thiên hà ngôn tai” (Trời có nói
ǵ đâu? Bốn mùa luân chuyển, vạn vật sanh trưởng,
trời có nói chi đâu!). Phật pháp vô lượng vô biên,
chẳng nói mà nói. Phật pháp trong thế giới Cực Lạc
và thế giới Sa Bà của chúng ta chẳng hai, chỉ có điều
trong cơi trước, chúng sanh được Phật lực
giúp đỡ, nên khéo nghe, có thể “chẳng nghe mà nghe”. V́
vậy, dễ thành Phật quả, có đúng hay không? (Trịnh Chí Tây hỏi)
Đáp: Để
tuyên dương Phật pháp, có khi dùng ngôn thuyết, tức
là [giảng kinh] hơn ba trăm hội vậy. Có khi chẳng
dùng ngôn thuyết, cầm cành hoa, mỉm cười chính là như
vậy. Có khi chẳng nói mà nói, nói mà chẳng nói, hội Lăng
Nghiêm [đức Phật] hỏi về tâm, [ngài A Nan] thưa
bảy chỗ đều chẳng trúng, chính là trường
hợp này. Có khi nhờ vào vật để quán, chẳng nói
mà nói, như sắc núi, tiếng nước, hoa bay, lá rụng,
chính là trường hợp này. Có trường hợp vật
rung động phát ra âm thanh, rành rành diễn thuyết, như
các loài chim, cây cối, ngũ trần v.v… trong cơi Cực Lạc
có thể biểu diễn các pháp, chính là trường hợp
này. Trọn chẳng phải là nhất loạt “chẳng nói
mà nói”, cũng chẳng phải là được thần lực
của Phật giúp đỡ mà học thành công năng lực
“chẳng nghe mà nghe”.
* Hỏi: “Vạn pháp quy nhất”, “Phật Phật đạo
đồng”, nhưng vô tận vô số chư Phật thật
sự là một vị Phật, đúng không? (Lư Thục Quân hỏi)
Đáp:
Nói như thế cũng chẳng phải là không được,
kinh có nói “mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”.
Nếu nói đến Báo Thân và Ứng Thân, sẽ là vạn ức
hằng sa khó trọn hết. Đó là “trong nhiều là một, trong một có nhiều”. Cảnh
giới Phật pháp chẳng thể nói chấp nhất được!
* Hỏi: T́nh cảm
nam nữ đạm bạc đến mức độ nào
th́ mới có thể dùng cách quán chiếu để khuất
phục Hoặc (phiền năo) ấy, trừ khử chuyện
đó. Hai dục vọng ăn uống và nam nữ có liên
quan với nhau hay không? (như tham dục đối với
ăn uống nhạt bớt th́ có phải là dục vọng
nam nữ cũng nhạt bớt hay không?) (Lư Thục Quân hỏi)
Đáp:
Câu hỏi này có hai nghĩa, trước hết giải thích
về chuyện trừ bỏ t́nh cảm nam nữ. Học
Phật chia ra hai chúng xuất gia và tại gia, kẻ tại
gia chẳng cấm kết hôn. Đă thành chồng vợ, há
chẳng có ái t́nh? Nhưng hăy nên phát sanh t́nh cảm trong khuôn
khổ lễ giáo. Giữ trong khuôn khổ lễ giáo th́ cũng
giống như chế ngự Hoặc. Tiếp đó là giải
thích về mối quan hệ giữa hai món dục vọng.
Ăn nhiều thứ cay nồng, huyết nhục, rượu
chè v.v… sẽ kích thích xung động, biến hóa sinh lư, nên
sẽ có nhiều dâm niệm. Ngoài điều ấy ra, chẳng
giữ sao cho “mắt thấy sắc chánh đáng, tai nghe tiếng
chánh đáng” th́ cũng sanh khởi tà niệm.
* Hỏi: Tuy nói pháp
môn Tịnh Độ cậy vào Phật lực và tự lực
để tiến nhập, thật ra là tự lực cũng
chính là Phật lực, v́ hai lực ấy vốn là một.
Cũng tức là “ngoài tâm không
có pháp”, “tâm này chính là Phật”.
Do vậy, nếu trong đời hiện tại mà đạt
được cảnh giới viên măn th́ trong lúc sanh về
thế giới Cực Lạc sẽ ở trong tánh hải,
đúng không? (Lư Thục Quân hỏi)
Đáp:
Có thể nói như vậy.
* Hỏi: Trong thời
gian đi học, làm thế nào để mỗi ngày xem kinh
nửa tiếng đồng hồ? (Lư Thục Quân hỏi)
Đáp:
Các bài tập trong trường cố nhiên nhiều lắm,
các thứ giải trí khác, các hoạt động khác cũng
chẳng hề ít. Giảm bớt những tiết mục
giải trí để tu dưỡng tâm tánh, sẽ chẳng
bị ảnh hưởng việc học, mà cũng chẳng
quá sức mệt nhọc. Tâm an th́ thân thể sẽ thoải
mái, không ǵ tốt lành hơn!
* Hỏi:
Xin hỏi chương thứ hai mươi trong kinh Tứ
Thập Nhị Chương, v́ sao Địa Đại
trong Tứ Đại Chủng (Địa, Thủy, Hỏa,
Phong) có tánh chướng ngại lớn nhất? (Ẩn Danh Thị hỏi)
Đáp:
Ba sự Thủy, Hỏa, Phong do Thể của chúng rỗng
không nên chẳng thể ngăn trở vật, vật đều
có thể xuyên qua. Chỉ có Địa là cứng chắc, nên
có thể ngăn trở và chuyên chở. Mượn h́nh thể
của nó để tỷ dụ các thứ xương, thịt,
da v.v… trong thân thể con người. Xương, thịt,
da trong thân người vốn thuộc về chất rắn,
nên có ư nghĩa tương tự.
* Hỏi:
Xin hỏi trong chương thứ hai mươi ba của
kinh Tứ Thập Nhị Chương, đối với
tam giới (Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới),
v́ sao La Hán lại nghĩ Thiền đạt tới Tứ
Không Thiên là Niết Bàn? (Ẩn
Danh Thị hỏi)
Đáp:
Kẻ hiểu lầm Tứ Không Thiên là Niết Bàn chính là
những vị trời tu Tứ Không Định, chứ không
phải là bậc A La Hán đă đoạn sạch hai Hoặc.
* Hỏi:
Tĩnh tọa chừng nửa tiếng đồng, thân thường
toát mồ hôi, nhưng chẳng biết là có nên lau mồ hôi
hay không? Lại nữa, đối với người mới
học tĩnh tọa, có phải là đều có hiện tượng
ấy hay không? (
Đáp:
Đó là hiện tượng thường có, chẳng đáng
để kinh ngạc. Khi chưa bắt đầu ngồi,
nếu mồ hôi toát ra mà ít th́ nó sẽ tự nhiên mất đi,
nếu toát mồ hôi nhiều, lau đi chẳng sao. Nhưng
nếu đă tĩnh tọa, th́ gạt mồ hôi là được
rồi.
* Hỏi:
Thân thể sanh bệnh, trừ nhất tâm tŕ danh ra th́ tĩnh
tọa có thể điều dưỡng thân tâm hay không? (
Đáp:
Tĩnh tọa đúng pháp tự nhiên trừ bệnh; nhưng
nếu chẳng gặp đúng thầy, hoặc là thầy
thuộc ngoại đạo, đâm ra đổ bệnh nặng.
Theo như tại hạ thấy, [tĩnh tọa sai cách hoặc
tà vạy] phần nhiều bị bệnh thần kinh. Ngoài
ra là năo xung huyết, mắt ḷa, mất ngủ, nhức đầu
v.v… trị liệu đều rất khó khăn, chớ nên
không cẩn thận.
* Hỏi:
Tôi tuổi tác đă cao, chỉ ngồi bán già th́ có được
hay không? Hay là dùng phương pháp nào để tĩnh tọa
th́ sẽ thích hợp hơn? (
Đáp:
Ngồi bán già hay kiết già tùy theo khả năng mỗi người,
dẫu chỉ ngồi xếp chân cũng chẳng phải là
không được! Chuyện này cũng cần phải luyện
tập lâu ngày th́ mới có thể ngồi kiết già. Tuổi
trẻ dễ dàng hơn, tuổi già [mà ngồi kiết già]
chẳng tránh khỏi khó khăn đôi chút.
* Hỏi:
Sau khi cha mẹ đă chết, nếu chuyển sanh về
phương khác, niệm kinh hồi hướng cho họ
th́ vẫn hữu hiệu hay chăng? (
Đáp:
Giả thân tuy hóa, thần thức tuy đă đổi chỗ,
nhưng thức bất diệt, nên hồi hướng vẫn
có lợi ích; nhưng để tạo lợi ích cho người
được hồi hướng, cần phải hiểu
rơ Phật lư, đúng pháp hồi hướng. Nếu nghịch
đạo, sẽ chẳng tương ứng, nhưng cũng
có thể tiêu trừ tội khiên.
* Hỏi:
Đệ tử Ngũ Bảo đốt tiền văng sanh,
có đúng pháp hay chăng? (
Đáp: Trong câu hỏi
có danh xưng “đệ tử Ngũ Bảo”, tại hạ
chưa nghe nói Ngũ Bảo là như thế nào? Lại c̣n
năm điều ông đă hỏi, ông đánh số là một,
bốn, ba, hai, ba, đă chẳng theo thứ tự, lại
c̣n có số bị trùng lặp (nay tôi đă điều chỉnh
giùm), chẳng biết tiên sinh học theo đạo nào? Đọc
sách nào? Hơi khiến cho kẻ khác sanh nghi. Lại thấy
sau các điều đă hỏi, có câu “thân thể sanh bệnh”,
vậy là sau khi học đạo bèn thành bệnh? Hay là v́ có
bệnh mà học đạo? Nếu thuộc điều
trước, hăy gấp nên buông những điều đă học
xuống để cầu vị minh sư khác. Nếu thuộc
về điều sau, cũng nên cầu thầy, chớ nên
đóng cửa chế xe, bệnh càng thêm bệnh! C̣n đối
với tiền văng sanh, chính là do kẻ ngu mê hiểu lầm
chú Văng Sanh[27], hết sức chẳng
phù hợp Phật pháp.
* Hỏi: Do học
tṛ ham xem sách, b́nh thường trừ các văn kiện, tạp
chí liên quan đến nghề nghiệp ra, thường thích
xem những kinh sách hữu ích cho tâm linh, tuy thầy từng
hỏi con nay đang đọc sách nào, rồi sẽ xem sách
nào, nhưng học tṛ luôn cảm thấy khó thể chịu
đựng khát khao về mặt tâm linh, có phải là do đói
nên chẳng chọn lựa thức ăn hay chăng? (Thí Chấn Huy hỏi)
Đáp: Quư cư
sĩ thích đọc, học rộng, chính là đáng quư, khó
có, nhưng Nho gia có năm cách cầu học là bác học,
thẩm vấn, thận tư, minh biện, đốc hành
(học vấn rộng răi, t́m hiểu cặn kẽ đến
tận nguồn cội, suy nghĩ kỹ càng cặn kẽ
xem có ích lợi hoặc hữu dụng cho chính ḿnh hay không,
quyết đoán và nhận định xác đáng để
tiếp nhận hay từ bỏ, tận lực thực hiện
những điều chính ḿnh đă học). Nay chỉ có một
loại, coi nhẹ bốn loại kia, sẽ khó đạt
được học vấn thật sự. Đối với
cách cầu học trong nhà Phật là Văn, Tư, Tu, nay ông
chỉ đa văn, chẳng cầu Tư, khó tránh [tệ
nạn] hiểu lời văn không xét theo ngữ cảnh và
nội dung của toàn bộ tác phẩm, hoặc nẩy
sanh hiểu biết sai lầm. Huống chi chẳng xét tới
ư nghĩa của từ ngữ, chẳng phân định rơ
chương tiết, câu văn, nên tuy học rộng nhưng
tạp. Đă tạp th́ sẽ chẳng thể thâm nhập!
Nghĩa lư trong kinh vi diệu, cốt yếu là tham ngộ.
Chẳng thấu đạt Văn Tự Bát Nhă, có lẽ sẽ
khó thể khế hợp Thật Tướng. Tuy có tài như
vàng ṛng, ngọc quư, nhưng chẳng được un đúc,
nung luyện, mài giũa, đó chính là tự mong bị vùi lấp!
* Hỏi: Ở
chỗ tôi có một vị thiền sư nói pháp môn Niệm
Phật là pháp môn phương tiện, chỉ nhằm an ủi
người già. Cậy vào Tha Lực để đới
nghiệp văng sanh, chẳng có lẽ ấy! Bởi lẽ,
niệm đến mức tự tánh Di Đà phát hiện bèn
được độ th́ rốt ráo vẫn là Tự Lực.
Nhớ có lần dự buổi giảng kinh tại hội
Phật Giáo, thấy một bà cụ già đang lần chuỗi
niệm Phật tại đó, bị vị thiền sư ấy
nạt một tiếng, bà cụ ấy vội vă cất
chuỗi, sợ sệt chẳng dám niệm nữa. Đối
với lời vị ấy nói, đại đức có nghĩ
là đúng hay không? (Trần
Văn Bân hỏi)
Đáp: Thiền
sư dạy Thiền, pháp sư Tịnh Độ dạy
Tịnh, mỗi người có sở học riêng, mỗi người
hoằng đạo của ḿnh, đạo quư ở chỗ
chuyên ṛng, không có ǵ đáng chê trách! Nay nhằm thời Mạt
Pháp, con người căn tánh chậm lụt, kém cỏi, nếu
có thể tu tập chuyên nhất, đă là khó kiếm. Nếu
mong chư pháp b́nh đẳng, pháp môn vô lượng đều
học, viên dung vô ngại, càng khó có được! Hăy nên
biết Thiền, Tịnh, Luật, Mật, đều do đức
Phật nói, đều là tùy duyên, khế cơ, phương
tiện thiện xảo. Nếu nói pháp này là thật, pháp
kia là giả, đấu tranh kiên cố, rất trái nghịch
ư Phật! Nếu hỏi tại hạ “đối với lời
ông ta nói, có nghĩ là đúng hay không”, tại hạ chưa
hiểu rơ đại sự, một mực hồ đồ,
chính ḿnh c̣n chưa biết, sao có thể biết người
khác? Khuyên ông tin Thiền th́ tu Thiền, tin Tịnh bèn tu Tịnh,
đều có thể thành tựu, Phật chẳng nói dối.
Nếu chỉ phân biệt [pháp môn này, pháp môn nọ là cao thấp]
th́ đúng là chẳng có lẽ ấy!
* Hỏi: Xin hỏi
thầy, có người khác giới thiệu cho tôi uống
dược thảo, uống vào chẳng thấy công hiệu,
một năm sau, bèn chỉ có thể thấy gần, chẳng
thể nh́n xa, đó có phải vừa khéo tương phản
với trước kia hay không? Vậy th́ có phải thực
hiện lời hứa nguyện xuất gia làm ni trong thuở
ấy hay không? (Trần Nga hỏi)
Đáp:
Có bệnh th́ uống thuốc, cầu nguyện chẳng ngại
ǵ! Chỉ là hăy nên thực hiện lời nguyện đă
phát, chớ nên miệng có tâm không. C̣n như nói tới chuyện
xuất gia làm ni, đó là đại sự, càng chớ nên tùy
tiện nói lung tung! Người chẳng học Phật, ăn
nói c̣n phải giữ lời, người học Phật há
nên ăn nói bừa băi như trẻ nít đùa bỡn! Vấn
đề chẳng phải là hiện thời, mà là thuở
trước cái tâm có chân thật hay không? Lại c̣n trong gia đ́nh
hiện thời có chướng ngại hay không? Sau khi xuất
gia, có thể khổ tu chẳng biến đổi hay không?
Mọi thứ đều phải do chính ḿnh quyết định,
người khác chẳng tiện buông lời nghị luận
suông!
* Hỏi:
Làm thế nào để tiêu trừ tội nghiệt phá thai?
(Trần Nga hỏi)
Đáp:
Nghiệp đă tạo, chỉ có sám hối, niệm Phật
cho nhiều, hồi hướng cho họ, nhưng cần
phải thành tâm th́ mới có hiệu quả. Nếu chỉ
qua quít cho xong việc, sẽ uổng công!
* Hỏi:
Tai điếc, mắt rất yếu, bệnh bao tử khá
nhẹ, với t́nh trạng thân thể hiện thời, tôi
chẳng biết phải tu theo pháp môn nào? (Trần Nga hỏi)
Đáp: Sở học
của cư sĩ có thể nói là rộng răi, nhưng tôi có
một lời, xin hăy rộng ḷng tha thứ. Dẫu thầy
cao minh, nhưng căn khí của ḿnh như thế nào? Tiến
thoái như thế nào? Tại ḿnh, chẳng do thầy! Theo ư
vụng dại của tôi, sợ Thiền lẫn Mật chẳng
hợp căn cơ của bà, chẳng bằng Tịnh
Độ, thích hợp khắp ba căn, mong hăy soi xét.
* Hỏi:
Hiện thời người xuất gia thường niệm
kinh lấy tiền, từ thời nào bắt đầu có
lệ ấy? (Hứa Kim Thành hỏi)
Đáp:
Trong bài Lạc Dương Già Lam Kư do Dương Huyền
soạn vào đời Hậu Ngụy[28],
có đoạn: “Hai chùa Tần
Thái và Thượng Công tiếp nhận vật cúng dường,
các chùa khác chẳng bằng”. Tăng chúng trong chùa miếu
tiếp nhận người khác cúng dường đă có từ
rất lâu, đại khái là phàm có người dâng cúng, ắt
phải chú nguyện cho họ. Suy ra, v́ người khác tụng
kinh th́ người ta phải cúng dường. Trong kinh đă
chép, bố thí là một trong các Độ, là chuyện dĩ
nhiên tại Thiên Trúc.
* Hỏi:
Trong chùa miếu Phật giáo cho xin xăm, bói quẻ, điều
đó có đúng là do Phật Tổ truyền lại hay không?
(Hứa Kim Thành hỏi)
Đáp:
Xem bói bằng mai rùa hoặc cỏ Thi là phép xưa của
Trung Quốc đă được chép trong sử truyện,
kẻ hèn này biết như vậy. C̣n như chùa miếu
cho xin xăm, tuy Phật, Tổ chẳng truyền dạy,
nhưng trong kinh Chiêm Sát có một loại [chiêm bốc] gần
giống như vậy, có lẽ là do phỏng theo kinh Chiêm Sát
mà biến tướng, hoặc tùy thuận phong tục mà làm
như vậy. Trong hai lẽ, ắt sẽ có một. Có lẽ
chẳng nên chấp trước, truy khảo. Hiện thời
tuy coi chuyện này là mê tín, nhưng cổ đại đức
cũng có vị tin tưởng, xem bói để giải
quyết mối nghi. Chẳng nghi th́ bói làm ǵ? Bói và chẳng
bói, ai có thể cưỡng được? Lại nữa,
đối với kinh Chiêm Sát, người đời sau cũng
có kẻ nghi ngờ, kẻ hèn này học thức rất cạn,
chẳng dám thốt lời!
* Hỏi:
Người Hoa hễ thỉnh người xuất gia tụng
kinh, bái sám, đều phải đốt tiền, thiêu vàng
mă, những thứ ấy có thuộc về Phật giáo hay
không? (Hứa Kim Thành hỏi)
Đáp:
Đốt tiền vàng mă chính là tập tục của Trung
Quốc, chẳng liên quan ǵ đến nhà Phật, chớ nên
gắng gượng gán ghép. Nhưng thỉnh Tăng tụng
kinh, th́ trách nhiệm của vị Tăng là thành tâm tụng
niệm mà thôi, những chuyện khác Tăng chẳng thể
quản nhiều!
* Hỏi:
Đốt tiền giấy, vàng mă th́ người đă khuất
có thật sự hưởng được hay không? (Hứa Kim Thành hỏi)
Đáp:
Chuyện này cổ nhân đă bàn luận rất nhiều,
xin ông hăy tự kiếm sách đọc, để rồi
tin hay không tin, tự ḿnh phán đoán. Lời đáp của kẻ
hèn này cũng là suy đoán, chẳng phải là Hiện Lượng,
huống chi [chính ḿnh] c̣n chưa qua đời, chưa từng
chính mắt thấy! Dẫu có qua đời, chính mắt thấy,
nhưng ông c̣n sống sờ sờ, đợi đến
khi tôi quay lại, báo cho ông biết, ông vẫn chẳng nghe được,
chẳng có ǵ để làm chứng.
* Hỏi:
Tại gia niệm Phật tu Tịnh nghiệp, về mặt
h́nh thức th́ có phải nên hướng về vị Tăng
xuất gia xin quy y? (Vương
Chí Tây hỏi)
Đáp:
Hễ học th́ nên có thầy, cầu đạo th́ càng nên
có sư truyền, tại gia tu Tịnh nghiệp khá đơn
giản, có thầy cố nhiên là tốt đẹp, nhưng
không có thầy cũng được. Nhưng chuyện quy
y tuy nói là h́nh thức, thật sự cũng nên thay đổi
cái tâm. Hễ đă quy y, tâm có chỗ hướng về. Nếu
quy y, ắt cần phải có vị tăng xuất gia [truyền
trao]. Tăng là đoàn thể tăng chúng. Vị ấy đại
diện cho tăng chúng tiếp nhận chúng sanh quy y, chẳng
phải là quyến thuộc riêng của vị ấy. Quy y
Tăng đoàn là v́ có Phật pháp trong ấy, nên ắt phải
quy y Pháp. Quy y Pháp là học Phật, nên ắt phải quy y Phật.
Đó gọi là Tam Quy Y, [người đă thọ Tam Quy Y] được
gọi là Tam Bảo đệ tử. Sau đó mới có tư
cách cầu pháp và tu pháp. Người trọng đạo ắt
có thầy.
* Hỏi:
Tôi thường đọc sách Tịnh Độ thấy có
câu “sanh th́ quyết định
sanh, đi th́ thật sự chẳng đi”, chưa hiểu
nghĩa ấy, xin hăy giải thích nông cạn. (Vương Chí Tây hỏi)
Đáp:
Sợ kẻ sơ cơ khó thể lănh hội, đối
với điều này cần phải biết đôi chút về
tâm pháp th́ mới chẳng hiểu lầm, nên miễn cưỡng
nói như sau: “Tâm sanh th́ vạn
pháp sanh”. Tâm niệm Cực Lạc, th́ tâm sanh về Cực
Lạc, nên nói “quyết định
sanh”. Tâm lượng của chúng sanh to lớn không ǵ ra
ngoài được, theo chiều ngang gồm khắp mười
phương, theo chiều dọc cùng tột ba đời,
vốn chẳng có đến, mà cũng vốn chẳng có đi,
nên nói là “thật sự chẳng
đi”.
* Hỏi:
Đối với các tờ báo và tạp chí Phật giáo sau
khi đọc xong, do chỗ ở chật hẹp, không có cách
nào lưu giữ toàn bộ, phải nên xử lư như thế
nào? Đốt đi có được hay không? (Vương Chí Tây hỏi)
Đáp:
“Nhất ty, nhất lũ,
đương tư lai thời bất dị” (đối
với một sợi tơ, một sợi gai, hăy nên nghĩ
có được chẳng dễ). Không xem th́ đem tặng
cho người khác xem, đó chính là hoằng pháp. Dùng lửa
đốt đi, vô ích cho đại chúng, lại c̣n gây tổn
hại cho vật, nên tôi chẳng tán đồng cách thiêu hủy.
* Hỏi:
Người tu hành đă chết bèn hỏa táng, có người
có xá-lợi, có kẻ chẳng có xá-lợi. Có phải là người
tu hành tốt đẹp bèn có xá-lợi hay không? Hỏa táng
giống như nhau, kết quả khác nhau, v́ sao? (Tâm Liên hỏi)
Đáp:
Sau khi hỏa táng có xá-lợi hay không là do công phu sâu hay cạn,
nhưng tuy tu hành, c̣n có vô lậu học và hữu lậu pháp
sai khác. Vô lậu học là nói đến Giới, Định,
Huệ, công phu sâu, có thể có xá-lợi. Hữu lậu pháp
chỉ tu thiện sự bèn đắc phước báo, nhưng
khuyết thiếu công phu nội tu, sợ rằng chẳng
có xá-lợi.
* Hỏi:
Trên đỉnh đầu ba vị Phật Di Đà, Thích
Ca, Dược Sư đều có một khối màu đỏ,
nên gọi là ǵ? Từ đâu mà có? V́ sao trên đỉnh đầu
ba vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí, Địa Tạng không
có khối đỏ? (Trần Sĩ
Lương hỏi)
Đáp:
Phật có ba mươi hai tướng mà những người
khác chẳng có. Khối màu đỏ như ông đă nói chính
là tướng nhục kế trên đỉnh đầu. Nhưng
đắp tượng, vẽ vời, điêu khắc v.v…
bất quá chỉ biểu thị đại lược ư
nghĩa, cũng có khi không làm thành khối màu đỏ, chỉ
cần trên đỉnh đầu u lên, chẳng bằng phẳng
[nhằm biểu thị nhục kế], đó là chuyện
thường thấy. Bồ Tát c̣n chưa đạt đến
địa vị Phật, phước tướng chưa
toàn vẹn, nên chẳng có nhục kế. Đó là chỗ
sai biệt.
* Hỏi:
Xin chỉ dạy: Từ Sơ Thiền đến Tứ
Thiền có phải là bốn giai đoạn cảm được
do ngồi Thiền hay không? Tôi tĩnh tọa mười mấy
năm, chú tâm vào đỉnh đầu, thoạt đầu
cảm thấy đỉnh đầu ngứa; mấy năm
sau không có cảm giác ngứa, chỉ cảm thấy trên đỉnh
đầu chẳng tan, trong khi tĩnh tọa, cảm thấy
tại đỉnh đầu chẳng có ư niệm ǵ khác, đích
xác là một niệm A Di Đà. Tĩnh tọa xong, niệm A
Di Đà Phật ra tiếng, hồi hướng Tây
Phương. Cho đến nay chẳng có cảm giác tiến
triển, khẩn thiết xin trưởng lăo rủ ḷng dạy
bảo hậu học tu tŕ, theo đuổi chánh pháp. (Trần Sĩ Lương hỏi)
Đáp:
Tứ Thiền là bốn giai đoạn. Cố nhiên tu Thiền
cần phải tọa Thiền, nhưng chuyên ngồi th́ chẳng
phải là Thiền! Thiền là công phu định lực, mỗi
môn Thiền có cách tu Thiền riêng. Nếu không có sư thừa,
sợ sẽ xuất hiện sai lầm. Đối với
chỗ tâm trụ vào, lâu ngày sẽ cảm thấy khác lạ,
chẳng có ǵ là kỳ quái! Tâm chỉ thường trụ một
chỗ, cũng có cách như vậy, nhưng nếu chẳng
hiểu giáo lư, sợ sẽ phát sanh bệnh tật. V́ vậy,
sau khi tĩnh tọa, ông nên tham khảo [các kinh sách dạy về]
Tiểu Chỉ Quán, Đại Chỉ Quán v.v… Nếu niệm
Phật Di Đà đến mức buông xuống vạn duyên,
tạp niệm chẳng khởi, đó chính là tiến bộ.
Nếu mong mỏi những điềm kỳ dị, sẽ
là vọng niệm, hăy nên đọc Ấn Quang Pháp Sư Văn
Sao, sẽ tự có phương hướng.
* Hỏi:
Xưa kia, Phạm Chí tay cầm hoa ngô đồng dâng lên đức
Phật. Đức Phật bảo: “Buông xuống”. Phạm
Chí liền buông hoa từ một bên tay xuống, đức
Phật lại nói: “Hăy buông xuống”, Phạm Chí lại buông
luôn hoa từ tay kia. Đức Phật vẫn nói: “Hăy buông
xuống”. Phạm Chí thưa: “Hoa trong hai tay con đă đều
buông xuống, nay Ngài dạy con buông xuống điều ǵ?”
Đức Phật nói: “Buông cái chính giữa xuống”. Phạm
Chí hoát nhiên đại ngộ, chẳng biết “buông cái chính
giữa xuống” có ư nghĩa ǵ? Xin chỉ dạy! (Ngô Lăo Văn hỏi)
Đáp:
“Chính giữa” cũng là nói phương
tiện. Ông đă tự nói là kẻ sơ học, chỉ đành
tùy thuận đáp lời. “Chính
giữa” ám chỉ cái tâm. Tâm là cái gốc tạo tác vọng
niệm, Ngă Kiến, Thiên Kiến, Tà Kiến, Đoạn Thường
Kiến v.v… tham tâm, sân tâm, si tâm, ngạo mạn tâm v.v… Cái này
diệt, cái kia dấy lên, niệm niệm chẳng ngừng.
Cứ một niệm là một hạt giống sanh tử,
gieo vào ruộng tám thức, dị thục[29]
hiện hành, luân hồi chẳng dứt, rất đáng buồn
đau! Nếu có thể buông xuống những tâm niệm ấy,
đó chính là “khắc chế ư
niệm bèn thành thánh”, tùy duyên tiêu nghiệp cũ, trọn
chẳng tạo họa ương mới; thành Phật, làm
Tổ, không ǵ chẳng phải là như vậy.
* Hỏi:
Kinh Kim Cang nói: Vô Tránh tam-muội là bậc nhất trong loài người.
Do kẻ sơ học chẳng biết ư Phật, kính xin
khai thị? (Ngô Lăo Văn hỏi)
Đáp:
“Tránh” (諍) là cái tâm thị
phi nhân ngă, hoặc ngôn luận năo loạn chúng sanh v.v… Có thể
ngộ lư Không, chẳng khởi cái tâm ấy, th́ gọi là Vô
Tránh. Tam-muội là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán
là Chánh Định. Ư chỉ đại lược là như
vậy, nói cặn kẽ sợ vướng lỗi rườm
rà, thừa thăi.
* Hỏi:
Chúng sanh từ phát tâm cho đến viên thành đạo quả
A La Hán phải trải từ ba đời cho đến sáu
mươi kiếp, Bích Chi Phật th́ từ bốn đời
cho đến một trăm kiếp, thành Phật th́ cần
phải ba A-tăng-kỳ kiếp; cách tính đời và kiếp
trong ấy như thế nào? (Triệu
Chánh Hoa hỏi)
Đáp:
Có đến mấy cách nói, ở đây tôi nêu một cách.
Tính từ lúc con người chỉ thọ mười tuổi,
cứ một trăm năm tăng thêm một tuổi, [tăng
dần như vậy] cho đến khi thọ tám vạn bốn
ngàn tuổi, lại giảm xuống, [cứ mỗi trăm
năm giảm một tuổi], giảm xuống đến
mười tuổi, th́ là một tiểu kiếp. Hai mươi
tiểu kiếp là một trung kiếp. Bốn trung kiếp
là một đại kiếp. A-tăng-kỳ kiếp lại
theo cách tính khác. Mười vạn là một ức, mười
ức là một triệu, mười triệu là một kinh
(京), mười kinh
là một cai (垓), cứ tăng gấp mười
như vậy thành một con số mới, tăng thêm lần
lượt như vậy cho đến một trăm hai mươi
lần th́ thành một con số lớn có tên là A-tăng-kỳ.
* Hỏi:
Hiện thời, đảo này (Đài Loan) rất thịnh
hành thói thiết lập miếu cầu cơ, trong ấy thường
có chuyện Thích Ca Văn Phật, Tây Phương Như
Lai… đến tham dự, giáng bút. Ngu ư cho rằng đó là ngoại
đạo mạo danh Phật giáo nhằm đạt một
mục đích nào đó, kẻ bị họ mê hoặc rất
đông, lại c̣n dần dần lan tràn, ắt gây nên mối
lo chướng ngại cho chánh pháp. Hăy nên mưu tính cách cứu
văn như thế nào? (Triệu
Chánh Hoa hỏi)
Đáp:
Chỉ có học hỏi Phật pháp, nghiên cứu tinh tường
Phật lư, có đủ chánh tri chánh kiến, sẽ tự
biết chỗ sai trái của bọn họ. Nếu chính
ḿnh chẳng giác, làm sao biết kẻ khác là tà hay chánh!
* Hỏi:
Có những trước thuật nào để dạy Phật
học (trừ A Di Đà Kinh Trích Chú Tiếp Mông Nghĩa Uẩn
Hợp San ra), xin hăy rộng ḷng giới thiệu? (Triệu Chánh Hoa hỏi)
Đáp:
Những sách được xuất bản ít ỏi. Nếu
sau này lại được tiếp tục in, tự nhiên sẽ
cúng dường mọi người.
* Hỏi:
Thư cục nào có bán sách Tịnh Độ Thánh Hiền Lục
(kẻ ngu này từng hỏi khắp những chỗ lưu
thông kinh Phật ở nơi này, thậm chí chùa Thiện Đạo
ở Đài Bắc và Thụy Thành Thư Cục ở Đài
Trung đều không có) (Triệu
Chánh Hoa hỏi)
Đáp: Đại
khái là các thư cục chưa ấn hành, chẳng biết
là Hương Cảng có hay không, tôi chẳng biết.
* Hỏi:
Phạm vi giáo hóa của một vị Phật là một đại
thiên thế giới, v́ sao vậy? (Triệu Chánh Hoa hỏi)
Đáp:
Đây cũng là phương tiện cho dễ nói.
* Hỏi:
Trung tâm phục vụ Phật giáo của huyện Chương
Hóa tặng cho tôi một bộ Phật Thuyết Đại
Thừa Kim Cang Kinh Luận (đầu mùa Xuân năm Ất
Sửu đời Quang Tự, tàng bản của Khánh Phương
Thư Cục ở Cao Hùng). Xem kinh văn và ngữ khí, dường
như chẳng phải là kinh, mà cũng chẳng phải là
luận, nhưng câu thứ nhất mở đầu kinh là
“như thị ngă văn” th́
phải thuộc về kinh. Xin hỏi là trong kinh điển
Phật giáo có loại kinh luận này hay không? (Lâm Đồng Cứ hỏi)
Đáp:
Đây là luận của kinh, trọn chẳng phải là
kinh, nhưng luận ấy do người nào soạn, nội
dung như thế nào, kẻ hèn này học ít, thô lậu, chưa
thấy, mong ông hăy tự tra duyệt trong mục lục của
Đại Tạng.
* Hỏi:
Đại Tạng Kinh và Tam Tạng Kinh có giống nhau hay
không? (Hoàng Giai Chi hỏi)
Đáp:
Cùng là một chuyện, tên gọi khác nhau.
* Hỏi:
Từ khi được phiên dịch đến nay, Trung Quốc
có bao nhiêu bản kinh Phật? (Hoàng
Giai Chi hỏi)
Đáp:
So với kinh Phật [vốn có] tại Thiên Trúc th́ số
kinh đă được dịch tại phương Đông,
Trung Quốc đứng đầu. Đến nay hiện
c̣n Tam Tạng mênh mông đều bằng tiếng Hán, là do
Trung Hoa dịch. Chỉ có vấn đề số tập và
đóng thành bộ mỗi nơi mỗi khác, chẳng có cách
nào để nói xác định nhất loạt được.
* Hỏi:
Nếu có đầu mối để xem hết tất cả
các kinh Phật (từ quyển thứ nhất đến
quyển cuối cùng) th́ phải t́m ở chỗ nào? Có thể
mượn từ chỗ nào? (Hoàng
Giai Chi hỏi)
Đáp:
Hiện thời, thuật ấn loát phát triển. Lấy
ngay Đài Loan để nói, [Đại Tạng Kinh] đă được
in mấy lượt. Phàm là các chùa miếu lớn đều
có tàng trữ. Nếu đến chùa mượn bất tiện,
có thể t́m xem ở các thư viện.
* Hỏi:
Đại Tạng Kinh được giữ tại chùa Đông
Sơn ở B́nh Đông có phải là tất cả kinh Phật?
(Hoàng Giai Chi hỏi)
Đáp:
Gọi là Đại Tạng Kinh th́ [đương nhiên] là
kinh Phật. Tuy mỗi chùa có tàng bản khác nhau, nhưng
kinh chẳng biến đổi. Chỉ là bản đang được
lưu giữ hoàn chỉnh hay tàn khuyết khác nhau. Một vấn
đề khác là chuyện bảo quản; v́ thế, chẳng
biết [bản ở chùa Đông Sơn] có bao gồm tất
cả [các bản kinh trong Đại Tạng Kinh] hay không!
* Hỏi:
Do trong Phật giáo chia thành mười đại tông phái, mười
đại tông phái ấy có những điểm đặc
sắc nào? (Hoàng Giai Chi hỏi)
Đáp: Đại
đức đă phát tâm duyệt Đại Tạng, nên xin
hăy bắt đầu thực hiện. Sau khi duyệt xong toàn
bộ Đại Tạng, kẻ hèn này mới có thể vâng
lời giải đáp thích hợp. Nếu hiềm thời
gian lâu dài, chẳng thể kiên nhẫn, trước hết,
hăy xem bộ Duyệt Tạng Tri Tân, điểm đặc
sắc của mười tông sẽ hiện ngay trước
mắt.
* Hỏi:
Mười đại tông phái tu luyện có những điểm
bất đồng nào? (Hoàng
Giai Chi hỏi)
Đáp:
Trước hết phải biết mỗi tông có điểm
đặc sắc nào th́ sẽ tự có thể biết sự
tu luyện của họ có những điều khác biệt
nào. Chẳng biết điều trước, khó thể nói
điều sau.
* Hỏi:
Họ lấy kinh điển nào làm chủ? Có phải là lấy
tất cả các kinh Phật làm chủ, hoặc chỉ lấy
một bộ phận kinh Phật làm chủ? (Hoàng Giai Chi hỏi)
Đáp:
Chữ “họ” chỉ ai? Tôi chưa hiểu rơ tôn ư, nên chẳng
thể tùy tiện đáp bừa được! Nếu là nói
về mười tông th́ mỗi tông đều có thông và
chuyên. Thông là tất cả hết thảy, chuyên th́ có thể
là một bộ phận. Học giáo th́ cần phải biết
trọn hết thảy, nhưng nghiên cứu giáo nghĩa của
một tông th́ phải chuyên tu một bộ phận.
* Hỏi:
Tịnh Thiền song tu và chuyên dốc sức tu Thiền hoặc
dốc sức tu Tịnh Độ có chỗ bất đồng
ra sao? (Hoàng Giai Chi hỏi)
Đáp: Trở về
nguồn chẳng có hai đường, nhưng phương
tiện có nhiều cửa. Hơn nữa, chỉ có pháp Nhất
Thừa, không hai, cũng chẳng ba. Bậc lợi căn bèn
ngộ hết thảy các pháp môn là một, kẻ độn
căn chỉ thấy pháp môn sai khác. Hiểu rơ những lẽ
trên đây, nói Thiền Tịnh là một th́ chúng là một,
nói là khác th́ chúng là khác. “Một” là nói theo Lư, “khác” là luận
theo Sự. Nếu tu mỗi pháp khác biệt th́ phải chuyên
công dốc sức. Nếu ngộ chúng là một, bèn song tu. Người
học ắt phải có tâm đắc đôi chút nơi Văn
Tự Bát Nhă, tự có thể đối với nghĩa mà
phân ra Sự và Lư, đồng và bất đồng, chứ
chẳng thể dùng ngôn ngữ để tỷ dụ được!
* Hỏi:
Loại người nào có thể Thiền Tịnh Song Tu? Loại
người nào chỉ có thể tu Tham Thiền? Loại người
nào chỉ có thể tu Tịnh Độ? (Hoàng Giai Chi hỏi)
Đáp:
Tịnh pháp th́ ba thứ căn khí thượng, trung, hạ
đều có thể tu tập. Thiền pháp th́ e rằng căn
khí trung hạ chẳng có phần! Thiền Tịnh Song Tu chỉ
có căn khí viên đốn thượng thượng mới
chẳng đến nỗi gặp cảnh hai đằng đều
xôi hỏng bỏng không!
* Hỏi:
Phải tu như thế nào th́ mới có thể minh tâm kiến
tánh? Sau khi minh tâm kiến tánh, nếu nỗ lực tu luyện,
t́nh h́nh lại là như thế nào? (Hoàng Giai Chi hỏi)
Đáp:
Thường tu một pháp, tâm thường trong Định.
Trước hết là chế phục tham, sân, si, mạn,
nghi; sau đó đoạn tham, sân, si, mạn, nghi, bèn thấy
tâm tánh. Bởi lẽ, chẳng thấy chân tánh chính là do
tham, sân, si, mạn, nghi che lấp. Thập Sử tức tham,
sân v.v… hợp thành hơn một trăm sáu mươi phẩm,
hoàn toàn đoạn hết [các phẩm ấy], bèn chứng
A La Hán. Nếu tu cao hơn, đoạn Trần Sa và Vô Minh,
sẽ lần lượt tiến theo năm mươi hai
cấp bậc Bồ Tát. Lại tiến hơn nữa là đoạn
Căn Bản Vô Minh, bèn chứng Phật quả.
* Hỏi:
Cụ có thể tặng cho tôi một quyển sách nói về
các thứ ma cảnh khi tọa thiền hay không? (Hoàng Giai Chi hỏi)
Đáp:
Trong tay tại hạ không có loại sách ấy, trọn chẳng
phải là không nỡ cho! Kính khuyên ông cũng chẳng cần
phải t́m hỏi người khác. Ma là phát bệnh, bệnh
th́ cần hiểu rơ thuốc, khéo léo trị liệu, chẳng
thể chấp chặt một phương thuốc để
trị trăm bệnh được! Nếu chưa từng
học y, cứ tự do uống thuốc, sợ rằng bệnh
nhẹ sẽ trở nặng, chẳng thể không cẩn
thận. Thử hỏi đại đức tọa thiền
có thầy hay không? Xin hăy trân trọng!
* Hỏi:
Trong kinh Phật có ghi chữ Khoa Phán, chính là như hiện
tại nói phân chia (Phán) thành chương, tiết, đoạn
(tức là Khoa), đúng không? (Tiên
Thuần Hiền hỏi)
Đáp:
Đại lược là như vậy, nhưng chia [kinh
văn theo kiểu Khoa Phán] vô cùng khó! Ắt phải hiểu
rơ văn lư, rồi cầu t́m ư nghĩa của kinh, lấy
kinh nghĩa làm chánh, văn nghĩa là thứ yếu. Giống
như mạch lạc trong thân thể con người, trọn
khắp một thân, chỗ nào cũng tương thông, tuy mỗi
thứ có tác dụng riêng, nhưng đều quy về một
nguồn. Chương, tiết, đoạn vẫn thuộc
về tướng bên ngoài.
* Hỏi:
Trước kia, thầy đă từng nói: “Kẻ mới học Phật thấy núi là núi, thấy
nước là nước. Khi công phu tiến hơn, thấy
núi chẳng phải là núi, thấy nước chẳng phải
là nước. Cho đến khi công phu lại tiến
hơn nữa, sẽ thấy núi lại là núi, thấy
nước lại là nước”. Hiện thời, đối
với điều này, đệ tử lănh ngộ như
sau: Đối với kẻ sơ học, không có ǵ đáng
nghi, nên chẳng nhắc tới. Công phu tiến hơn th́ do
người ấy đă liễu giải đạo lư phá tướng,
nên thấy núi chẳng phải là núi. Đợi đến
khi công phu lại tiến cao hơn nữa, liễu giải
Tánh và Tướng như một. Do tâm của chúng sanh trong thế
giới Sa Bà bất b́nh đẳng, nên núi, sông được
hiện cũng chẳng b́nh đẳng. V́ thế, thấy
núi lại là núi, đúng không? (Tiên
Thuần Hiền hỏi)
Đáp:
Lời nói ấy, nếu ngẫu nhiên nhắc tới th́ không
sao. Nếu chuyên bám víu vào đó, sẽ là phương tiện
ĺa tịnh. Sợ rằng, chẳng Thiền, chẳng Tịnh,
đằng nào cũng chẳng đạt được.
Huống chi lời lẽ ấy chỉ có thể dùng để
tạm thời thích hợp với căn cơ. Nếu coi
như là lời giảng trong sách giáo khoa, sẽ hoàn toàn biến
thành hư luận! Đối với lời hỏi của cư
sĩ trong câu này, xét từ câu “công
phu tiến hơn” cho đến “liễu giải Tánh và Tướng như một”
tính ra được mấy phần tương tự, những
điều khác đều chẳng liên quan!
* Hỏi:
Nay tôi đường đột viết thư xin hỏi,
v́ bỉ nhân học Phật đă hai mươi mấy năm
qua. Xin thưa tŕnh đại lược cùng đại đức
về công khóa thọ tŕ: Kinh Pháp Hoa, chú Lăng Nghiêm, chú Đại
Bi; trong quá tŕnh ấy, thọ tŕ gần như chẳng gián
đoạn. Xét theo tâm đắc, “phàm lưu” cũng bất quá dụng công nơi Căn,
Trần và tám thức, đại khái là xa gần, cao thấp,
sâu cạn mà thôi, cũng chưa gặp phải nan đề
rất lớn! (Giác Lực
đại đức hỏi)
Đáp:
Lời Ngài rủ ḷng hỏi tới rất phức tạp,
cần phải tách thành đoạn để nói. “Xét theo tâm đắc, phàm lưu
bất quá dụng công nơi Căn, Trần và tám thức…
cũng chưa gặp phải nan đề rất lớn”:
Linh quang riêng chiếu, vượt thoát Căn Trần, đấy
chính là nan đề của Căn, Trần. Chuyển tám thức
thành bốn trí, đấy chính là nan đề của tám thức.
Tiến cao hơn một bước, sẽ cảm thấy
khó hơn một bước; chẳng tiến sẽ chẳng
biết là khó, chớ nên ôm ḷng coi thường!
* Hỏi:
Trong Phật học có một số như Phật Tánh, tự
tánh, chân tâm, thức thứ tám. Danh từ nhà Thiền có “bổn
lai diện mục”. Trong Quốc Học[30] có
“bổn tánh”, chúng có thể là cùng một thứ hay không? (Giác Lực đại đức
hỏi)
Đáp:
[Ông hỏi] “Phật Tánh, tự tánh”… và “bổn tánh” trong Quốc
Học có phải là cùng một thứ hay không? [Xin trả lời]:
Trọn chẳng phải là hai, bất quá [các danh từ ấy
diễn tả các ư nghĩa nội hàm] chi tiết hay đại
lược, ẩn hay hiển mà thôi!
* Hỏi:
Thế tục gọi vật ấy là “linh hồn”. Đức
Phật nói từ vô thỉ đến nay luân hồi trong lục
đạo, chính là ở chỗ này phát sanh nan đề lớn
nhất: Rốt cuộc đối với kẻ phiêu giạt
sanh tử trong năm đường th́ vật ấy có tăng
hay giảm, hay là giữ nguyên số lượng bất động?
(Giác Lực đại đức
hỏi)
Đáp:
[Ông hỏi]“Linh hồn ấy
phiêu giạt trong năm đường th́ vật ấy có
tăng hay giảm, hay là giữ nguyên bản chất bất
động”: Linh hồn chính là thần thức, mỗi
một chúng sanh đều có thần thức. Nếu biết
là một hay là nhiều, th́ mới có thể nói là có tăng
giảm. Thử xem nước trong biển cả, ngày hôm
qua gió to, hoa sóng, bọt biển cuồn cuộn khắp cả
biển. Hôm nay gió nhẹ, sóng cuộn giữa vời, hoặc
chỉ hiện ra ở mấy chỗ, có phải là ngày hôm
qua tăng, hôm nay giảm, hay là giữ nguyên số lượng
bất động? Lại ở quư xứ vào mười năm
trước, từng dựng một căn nhà, trong nhà có gắn
đèn; nay đă dựng mười gian, đều có gắn
đèn, thử nghĩ xem ánh sáng từ mười năm trước
và ánh sáng hiện thời có tăng giảm hay không? Xin hăy
tham cứu sẽ tự biết.
* Hỏi:
Trong khu vực giáo hóa của một đức Phật, mỗi
vị Phật đều có cơi nước riêng, tức là
ba ngàn đại thiên[31] thế
giới. Ở trong cơi nước ấy, phàm thánh cùng ở,
tự tánh chủ nhân ông của những kẻ phiêu giạt
chẳng biết số đến bao nhiêu. Trong bốn tiểu
kiếp Thành, Trụ, Hoại, Không, [các tự tánh ấy] có
tăng giảm hay không, hay là một con số nhất định?
(Giác Lực đại đức)
Đáp:
Nếu nói tới “tự tại
chủ nhân ông” th́ là một mà chẳng phải một, là
nhiều mà chẳng phải nhiều. Nếu nói đến
cái thân Ngũ Uẩn th́ ví như bọt sóng trong biển cả,
chẳng thể biết con số, mà cũng chẳng có số
nhất định.
* Hỏi:
Bỉ nhân thường có tâm mong làm những chuyện hóa độ
lợi chúng sanh trong khả năng, nhưng nhiều năm
qua v́ trong sự học Phật đă hỗn tạp cái học
về quỷ thần, nên chẳng dễ thông suốt. V́ thế
nói là cửa ải khó vượt qua. Khổng phu tử nói:
“Thần chi cách tư, vị
tri sanh nhi yên tri tử” (thần linh giáng xuống,
chưa biết chuyện sống, há biết chuyện chết)[32],
chuyện này chẳng triệt để! (Giác Lực đại đức hỏi)
Đáp:
[Ông nói] “Khổng phu tử nói: Chưa biết chuyện sống,
làm sao biết chuyện chết, chuyện này chẳng triệt
để”, chúng ta dốc sức học Phật, hăy nên t́m
ṭi trong phạm vi nhà Phật. Đối với sở học
của Khổng Tử, chưa từng học tập, há nên
tùy tiện phê b́nh? Hàn Xương Lê (Hàn Dũ) chưa đọc
kinh Phật, đă dâng biểu soạn sớ, khăng khăng
bài Phật, lâu ngày bị kẻ hiểu biết chê cười,
quư đại đức chưa đọc sách Khổng, v́
sao cũng giẫm theo vết xe đổ ấy? Nói theo phương
diện hóa tích[33],
Khổng Tử giáng thế, có phải là ứng thân của
Phật, Bồ Tát hay không, cổ đức trong Phật môn
đă sớm có nhiều nghị luận, chúng ta chớ nên
khinh miệt thánh nhân!
* Hỏi:
Do ở trong thôn của hậu học có rất nhiều người
tưởng lầm tôi có thần thông, liền muốn lợi
dụng Phật giáo đồ chúng tôi. Do tôi mắt thấy
sắc, tai nghe tiếng bèn chấp trước lục trần,
dấy lên vọng tâm, lại chẳng có cách nào khống chế
vọng tâm ấy; v́ vậy, thường khởi hận tâm.
Xin hăy dạy cho biết đó có phải là thần thông hay
không? Người có thần thông đến mức độ
nào th́ mới có thể đối trị vọng niệm? (Trương Tâm Mân hỏi)
Đáp:
Thân trời có thần thông, thân quỷ cũng có tiểu thông.
Đó gọi là “báo đắc thông” (thần thông do quả
báo mà có). Quư đại đức chẳng phải là trời,
mà cũng chẳng phải là quỷ, sẽ chẳng có “báo đắc
thông”. Chẳng cần biết là Thiền Định thế
gian hay Thiền Định xuất thế gian; nếu Định
thành tựu, sẽ đắc thần thông. Đó gọi là
“tu đắc thông”. Quư đại đức đă chẳng
thể khống chế vọng tâm, tức là chẳng có mảy
may Định nào, nên “tu đắc thông” càng khỏi phải
bàn tới! Kính thưa quư đại đức, chuyện
thần thông chớ nên hư luận, chớ nên vọng tưởng,
chớ nên vọng ngữ! Hăy nên lập tức tiêu diệt
ư niệm ấy. Nếu không, dẫu chẳng bị ma dựa,
cũng chuốc lấy tội lỗi!
* Hỏi:
Chúng sanh tạo nghiệp thọ khổ v́ vô minh, nhưng vô
minh vốn nương vào bổn tánh mà tồn tại, nếu
có thể khiến cho bổn tánh cũng đoạn diệt,
sẽ trở thành trạng thái ngoan không, vô minh cũng chẳng
do đâu mà tồn tại được! Tôi tin tưởng
đó là sự giải thoát sanh tử triệt để nhất,
đương nhiên cũng chẳng cần phải thành Phật.
Xin hỏi quan niệm ấy có chánh xác, hoặc phù hợp với
Thiền Tông hay không? (Pḥng Huân
Minh hỏi)
Đáp:
Lời bàn luận này của quư cư sĩ, xét đến
hết mức, chỉ là hư luận! Nếu biện giải
cùng ông, dẫu vạn lời cũng khó nói rơ. Tôi tạm thời
tùy thuận, thay ông vạch ra một kế sách. Cư sĩ
muốn tự diệt tánh, cần phải có phương
pháp thứ tự th́ mới có thể thực hiện được.
Trước hết, biết tánh của lũ phàm phu chúng ta
chính là phiền năo triền cái. Nếu muốn diệt tánh,
trước hết giải trừ phiền năo triền cái
cho hết sạch th́ tánh mới hiển lộ, mới có
thể lấy ra tánh để diệt. Tánh giống như
chủ soái, triền cái như ba quân; chẳng phá ba quân, sẽ
chẳng thể đoạt soái!
* Hỏi:
Năm ngoái, vào đêm trước ngày đến triều bái
chùa X… ở miền Bắc, bỗng mộng thấy trong vùng
núi hoang xuất hiện một ngôi chùa. Trong chùa hiện ra một
tượng Phật nằm, sắc vàng, nằm trên rồng
vàng. Khắp bốn phía là năm vị A La Hán vây quanh chầu
hầu, thủ hộ. Lần thứ hai lại đến
thăm ngôi chùa ấy, ngủ đêm tại chùa đó. Trong đêm,
lại mộng thấy trên đỉnh núi, giữa hư không
phun ra hai cột nước, nổ bùng ra năm luồng sáng
có mười màu, năm sắc chen lẫn rực rỡ, xẹt
ra các đóa hoa pháo bông xinh đẹp, đáng yêu, thù thắng
dị thường, giống như pháo bông được
bắn vào đêm Quốc Khánh Song Thập tại Đài Bắc
vậy. Sau đó, trên nền đất ngôi chùa Phật dưới
chân núi mọc lên một cái cây nhỏ. Cái cây ấy cũng
trổ hoa, bùng nổ thành pháo bông. Lại thấy một
con gián lớn to gấp đôi những con gián thông thường,
lột xác trên tường, có vẻ như được
giải thoát. Sau cùng, thấy hậu sơn nứt sụp, đè
nát ngôi chùa đó. Tôi bèn kinh hoảng chạy ra khỏi ngôi
chùa ấy. Sáng hôm sau thức dậy, nhớ lại địa
h́nh trong giấc mộng hồi đêm th́ chính là địa
h́nh của ngôi chùa đă ngủ đêm, đỉnh núi [trong
giấc mộng] chính là đỉnh núi phía sau ngôi chùa ấy.
Xin hỏi giấc mộng ấy có ư nghĩa ǵ, có thích hợp
để xuất gia tu hành đạt thành tựu hay không?
Hay là giấc mộng ấy do vọng tưởng tạo
thành? (Pḥng Huân Minh hỏi)
Đáp:
Kiếp sống phù du như giấc mộng, mộng sao có
thể thành thật? Mộng chỉ là h́nh bóng phản chiếu
của ư thức. Ư thức có thể dấy lên Hoặc (phiền
năo), tạo nghiệp thiện, ác; v́ thế, mộng là điềm
báo cát, hung. Nhưng ư niệm chia ra thành thiện, ác, vô kư (không
thiện, không ác). Lại c̣n luận định sức mạnh
lớn hay nhỏ. V́ thế, nếu là niệm vô kư và sức
nhỏ th́ mộng cũng trở thành hư huyễn. Xét
theo những điều ông ghi chép, mộng thấy Tam Bảo
đều là thiện căn, phước đức, c̣n ác
cảnh kinh sợ, chẳng thể coi là điều tốt
lành, v́ trong thức điền có chủng tử [biến
huyễn thành những cảnh tượng như vậy]. Đối
với điều kiện xuất gia, hăy nên trong lúc thanh tịnh,
tự ḿnh quan sát, chuyện đại sự như vậy,
c̣n chớ nên nghe theo lời người khác khuyến khích
hay ngăn trở, huống hồ phó thác cho mộng mị!
* Hỏi:
Lôi Âm Vương và “không thầy tự thông suốt” đều
là ngoại đạo[34];
hiện thời, nếu một người đă thông th́
ai có thể ấn chứng? (cư
sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Ông nói “thông” th́ là viên thông các pháp, hay là Ngũ Thông, Lục Thông?
Do chưa hiểu rơ, nên chẳng dám đáp xằng. Người
đắc thần thông, mới biết người khác là
thông; tại hạ chẳng thông một thứ nào, xước
hiệu[35] là Bất Thông, sao dám
nói người khác thông hay chẳng thông! Đấy chẳng
phải là nói khiêm tốn, mà bấm ngón tay tính th́ tôi học
Phật đă hơn năm mươi năm, đối với
chuyện ăn cơm và ngủ nghê c̣n chưa thông nữa là!
* Hỏi:
Tôi cũng có thật nhiều vấn đề, đại
khái là vấn đề trong sự sanh tồn của phàm
phu, mong lăo cư sĩ chỉ dạy thành Phật. (cư sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
So sánh tám vạn bốn ngàn môn Bồ Đề, đă ít lại
càng ít hơn. Ông đă có thể trống ḷng cầu đạo,
những vấn đề như ông đă nói đều chẳng
phải là vấn đề. C̣n như chỉ dạy thành Phật,
há tôi dám [đảm đương]? Nếu ông thật sự
có thể chí tâm niệm Phật, chế phục các Hoặc,
chẳng loạn, đới nghiệp văng sanh th́ cũng chẳng
thẹn cái thân này!
Nói
thêm: Hoàn toàn chưa nhận được một trăm đồng
của ông. Thật ra, bưu phí cũng chẳng cần nhiều
như thế, không nhận được cũng chẳng
sao! Do tại hạ trả lời câu hỏi, chỉ là phát
biểu trong báo Bồ Đề Thụ, chẳng phải là
gởi thư trực tiếp, [nếu không], đă sớm
báo chuyện này!
* Hỏi:
Trong bài giảng thứ tư của bộ Đại Chuyên
Phật Học Thập Tứ Giảng do đại đức
biên soạn có một bài văn viết: “Thiện… là kẻ khác, ác…. thuộc Phật”. Minh
tôi suy nghĩ trăm lượt chẳng hiểu, xin hăy giải
thích. (Diệp Tùng Minh hỏi)
Đáp:
Trong trong biểu đồ thứ tư, trọn chẳng
có bài văn nào. Xét trong biểu đồ thứ ba th́ trong
trang thứ tư có liệt kê “thiện
tiêu cực thuộc kẻ khác”, “ác tiêu cực thuộc về Phật”. Ở đây,
chú trọng hai chữ “tiêu cực”.
“Tiêu cực” có nghĩa là chẳng tận hết tâm lực,
làm qua quít cho xong chuyện. Câu ấy có nghĩa là đối
với những thiện sự tăng tấn đức,
cứu giúp kẻ khó khăn, bèn chẳng tận hết tâm
lực, qua loa cho xong chuyện, [đó là đặc tánh] của
“những kẻ khác”. Từ ngữ “những kẻ khác” chỉ
những kẻ không học Phật. C̣n hết thảy các
chuyện buông lung ḷng dục, toan tính riêng tư v.v… th́ kẻ
thật sự học Phật, quyết chẳng chịu
tranh giành, chữ “Phật” chỉ người học Phật,
chứ không phải là nói về đức Phật.
* Hỏi:
Nếu dùng kim xăm bài chú Văng Sanh bằng mực đen trên
lưng, Minh tôi cho rằng có thể bảo đảm b́nh
an, lại c̣n có ư nghĩa đem thân này hiến dâng lên Phật,
chẳng biết tôn ư của đại đức như
thế nào? Nếu chẳng thích hợp, nhưng đă xăm
rồi, muốn xóa bỏ lại chẳng phải là chuyện
dễ. Cứ giữ như vậy th́ có phạm tội với
Phật hay không? (Diệp Tùng
Minh hỏi)
Đáp:
Đă xăm th́ rất khó xóa đi. Nếu có thể giữ
tịnh giới chẳng sát sanh, trộm cắp th́ chẳng
mắc tội lỗi ǵ!
* Hỏi: [Tôi có các
câu hỏi như sau]
1. Kinh Hoa Nghiêm nói
“Như Lai quang phổ chiếu,
diệt trừ chúng ám minh, thị quang phi hữu chiếu,
diệc phục phi vô chiếu” (quang minh của Như
Lai chiếu khắp, diệt trừ các tối tăm, quang
minh ấy chẳng phải là có chiếu, mà cũng chẳng
phải là không có chiếu). Đệ tử giải ngộ
“chẳng phải là có chiếu,
chẳng phải là không chiếu” như sau: Như Lai quang
chính là Pháp Thân của Chân Như bản tánh Phật, đầy
ắp hư không, như như bất động, vô h́nh, vô
tướng, các thứ quang minh hữu tướng như ánh
sáng mặt trời, ánh sáng đèn v.v… chẳng thể sánh bằng.
Hết thảy vạn pháp đều được bao gồm
trong Như Lai quang vĩnh cửu bất biến. V́ thế,
chẳng nói là hữu chiếu hay vô chiếu. V́ nếu nói là
hữu chiếu th́ chưa hề có thể t́m được
bất cứ h́nh tích nào! Nếu nói là vô chiếu th́ ĺa ngoài
hư không, tồn tại đơn độc, về Sự
lẫn Lư đều nói chẳng suông. V́ thế, nói là “chẳng phải là hữu chiếu,
chẳng phải là vô chiếu”, đúng chăng?
2. “Ư pháp vô sở trước,
vô niệm diệc vô nhiễm, vô trụ, vô xứ sở, bất
hoại ư Pháp Tánh” (chẳng chấp trước các
pháp, vô niệm, cũng vô nhiễm, chẳng trụ, không nơi
chốn, chẳng hư hoại Pháp Tánh). Đệ tử lănh
ngộ đoạn này là: Có thể biết tổng tướng
và biệt tướng của pháp, và liễu ngộ “những
ǵ có tướng đều là hư vọng”. V́ vậy, không
chấp trước có thể phá trừ Biến Kế Chấp
và Y Tha Khởi, bèn đạt được Viên Thành Thật
Tánh. Bản tánh vô nhiễm và vô niệm đầy ắp
hư không. Pháp Tánh chẳng trụ, không có xứ sở và Phật
Tánh vốn cùng thuộc loại Đồng Viên Chủng Trí,
đều là chân không diệu hữu, nên chẳng hoại
pháp tánh, đúng không? Xin hăy chỉ dạy.
3. “Thử trung vô hữu nhị, diệc
phục vô hữu nhất, đại trí thiện kiến
giả, như lư xảo an trụ, vô trung vô hữu nhị,
vô nhị diệc phục vô, tam giới nhất thiết
không, thị tắc chư Phật kiến” (trong ấy
chẳng có hai, mà cũng chẳng có một. Bậc đại
trí khéo thấy, đúng lư khéo ở yên. Trong Vô chẳng có
hai, không hai cũng là vô. Tam giới hết thảy không, chư
Phật thấy như vậy). Đệ tử liễu ngộ
điều này là: Nhất Chân pháp giới chẳng lập một
mảy may, làm sao có một, hai, và tướng hữu vô, nên
tam giới chẳng đáng để bàn tới nữa! Chỉ
có chư Phật là bậc đại trí khéo thấy th́ mới
có thể liễu giải lư này và an trụ trong cảnh giới
ấy. Đúng không? Xin hăy chỉ dạy? (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Trong kinh,
ba bài kệ này nêu nhằm giải thích một sự, chẳng
phải là dấy lên nghị luận suông. Nếu nói đến
chuyện khác, mượn những bài kệ này để làm
chứng th́ cũng chẳng phải là không được.
Nếu chiếu theo lời kệ để giảng giải
ư nghĩa bài kệ, vứt bỏ phần kinh văn trước
đó, sẽ trở thành rỗng tuếch, chẳng dính dáng
vào đâu, trở thành những lời lẽ phù phiếm.
Quư cư sĩ nên kiểm chứng nguyên bản kinh văn để
đối chiếu, sẽ biết ba bài kệ, mỗi bài
nói về một chuyện ǵ, sẽ tin lời tại hạ
nói chẳng sai. Lời cao luận như ông đă nói, tuy
chia thành ba nơi, nhưng nếu đổi chỗ cho nhau,
th́ vẫn là tương tự, cho nên thành ra lời lẽ
mơ hồ, chẳng ăn nhập vào đâu! Sợ rằng
[nếu đem luận điệu ấy nói với kẻ
khác], sẽ mắc phải chuyện tranh căi.
* Hỏi: Tôi vẫn
chưa thể hoàn toàn liễu giải ư nghĩa chân thật
trong câu nói của Văn Thù Bồ Tát: “Cúc hoa nguyên thượng cảnh, hành nhân khứ lộ
trường” (hoa cúc vẫn c̣n nguyên cảnh cũ, hành
nhân thăm thẳm bước đường dài). Xin thầy
hăy khai thị. (Trần Thông Huy
hỏi)
Đáp: Câu hỏi
này chẳng có đầu đuôi, cũng chẳng nêu xuất
xứ, chẳng tiện đáp bừa được. Nghiên
cứu câu văn, đối với thơ văn thông thường,
cũng chẳng thể dựa theo vài câu để luận
định được, ắt phải xem xét văn lư của
phần trước và sau đó th́ mới hiểu ư nghĩa,
huống hồ Phật học ư? Hai câu ông vừa mới
nói rất có thể trích từ ngữ lục nhà Thiền.
Nếu đúng như vậy, càng chẳng cần phải
hiểu! V́ những câu nói trong nhà Thiền phần nhiều
là quan sát căn cơ rồi mới nói phù hợp với căn
cơ [của người hỏi đáp khi ấy], chỉ
cho phép tham cứu, chẳng cho phép giảng giải. Hễ
giảng giải, sẽ biến diệu pháp sống động
thành lời thừa thăi chết cứng. Ông nghiền ngẫm
lời đáp này rồi lại kiếm sách nguyên bản có
câu nói ấy để tham cứu cặn kẽ, may ra sẽ
có ngộ xứ!
* Hỏi: Nơi
lư hương trước bàn Phật trong nhà, mỗi ngày
thắp hương đều c̣n lại chân hương
trong lư. Tôi quen tánh mỗi ngày lau dọn bàn Phật, bèn
nhổ sạch hết chân hương, chỉ để lại
một cây. Như vậy th́ có ảnh hưởng đến
sự b́nh an của gia đ́nh hay không? Hay là đừng nhổ
bỏ chân hương, cứ để chân hương cắm
đầy bát hương rồi mới nhổ bỏ th́ tốt
hơn? (Quách Thiệu Chân hỏi)
Đáp: Học Phật
ắt phải quy y Tam Bảo, Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng.
Pháp chính là kinh điển, tức hết thảy đạo
lư chân thật. Con người hưởng họa, phước,
cát, hung, hoàn toàn do [tạo nghiệp] thiện, ác, vô kư. Đó
là định luật nhân quả. Thiện th́ tuân thủ, ác
th́ sửa đổi, chẳng tuân theo những điều
mê tín khác. Chân hương c̣n sót lại trong lư hương,
nhổ sạch hết, hoặc giữ lại, trọn chẳng
thể nói là thiện hay ác, mà thuần là vô kư, chẳng liên
quan mảy may đến họa phước của bản
thân và gia đ́nh!
* Hỏi: Mười
năm trước, tạo rất nhiều mộ. Gần đây
nhất, thầy Địa Lư xem mộ, nói mộ tạo
không đúng chữ[36],
phải đào lên để tạo chữ lại th́ gia đ́nh
mới có thể b́nh an. Phật giáo có nói điều này là tất
yếu hay không? Ngoài ra, có quan hệ ǵ đến sự b́nh
an trong gia đ́nh hay không? (Quách
Thiệu Chân hỏi)
Đáp: Phần mộ,
Địa Lư chính là phong tục của một làng, một
nước. Giáo nghĩa trong kinh Phật chỉ nói đến
thiện ác, nhân quả. Âm Dương, nhà cửa, đất
đai, Phong Thủy, lưu niên khí vận[37],
cũng thuộc vô kư, có nghĩa là chẳng thiện, chẳng
ác. Tín đồ nhà Phật chẳng tin những thứ ấy,
đối với những ǵ chẳng thuộc vào phạm
vi trái nghịch nhân quả th́ giáo nghĩa trọn chẳng
có văn từ nào để cấm chỉ hoặc khuyên nên
làm, có thể tự do quyết định.
* Hỏi: Kinh Kim
Cang nói: “Nhược phục hữu
nhân, đắc văn thị kinh, bất kinh, bất bố,
đương tri thị nhân, thậm vi hy hữu” (nếu
lại có người, được nghe kinh này mà chẳng
kinh, chẳng sợ, hăy nên biết người ấy rất
là hiếm có). Phẩm Phổ Môn nói: “Thị Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, ư bố úy
cấp nạn chi trung, năng thí vô úy. Thị cố thử
Sa Bà thế giới, giai hiệu chi vi Thí Vô Úy giả” (Vị
Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát này trong khi kinh sợ, bạn
gấp, có thể ban sự không sợ hăi. V́ thế, thế
giới Sa Bà đều gọi ngài là Đấng Ban Bố
Sự Không Sợ Hăi). Trong Hương Cảng Thực Dụng
Phật Học Từ Điển: “Ngoại hộ thiện tri thức khiến cho ta chẳng
thiếu thốn, hoảng sợ, được an ổn
tu đạo, là một trong ba loại thiện tri thức”.
“Khiến cho ta chẳng thiếu thốn, hoảng sợ” như
Phật Học Từ Điển đă nói và “chẳng kinh, chẳng sợ”
của kinh Kim Cang và “thí vô úy”
của phẩm Phổ Môn dường như có ư chỉ khác
biệt, liên quan đến vấn đề “khiến cho ta chẳng thiếu
thốn, kinh sợ”. Xin hăy chỉ dạy tường tận!
(Hùng Thanh Tuấn hỏi)
Đáp:
Úy (畏) thuộc về
phạm vi của Cụ (懼: sợ hăi) trong thất t́nh, tức là một loại
t́nh cảm. Đă có Thể, ắt có danh. Các chữ “bố úy” (怖畏) và “úy cụ” (畏懼) tuy từ ngữ
hơi khác, ư nghĩa chẳng khác biệt; nhưng phát sanh Úy,
ắt phải do có sự, mà Sự th́ thiên sai vạn biệt.
Mỗi sự có một tên, nhưng tên gọi của thứ
t́nh cảm sợ hăi th́ bất biến, vẫn là một.
Trong lời hỏi, ông đă nêu lên ba điều được
ghi trong kinh sách, đều là sự khác biệt, nhưng t́nh
cảm sợ hăi chẳng thể hiểu khác. Do sự sai
khác, nên bất đồng. “Khiến
cho chẳng thiếu thốn, kinh sợ” th́ người
tu trong nhà Phật, ba y một bát, chẳng lo kinh doanh, những
thứ cần dùng cho cuộc sống đều do hộ
pháp cư sĩ cúng dường. Được cúng dường
sẽ an ổn tu tŕ. Khuyết thiếu cúng dường, sẽ
phải lo âu, sợ hăi v́ cuộc sống.
* Hỏi:
Tôn giả Mục Kiền Liên xuống địa ngục cứu
mẹ, phá vỡ cửa địa ngục. Chuyện đó
có phải do Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra hay không? (Lư Trí Viễn hỏi)
Đáp:
Mẹ của tôn giả đọa trong ngạ quỷ đạo.
Tôn giả đến cứu, kinh điển có chép chuyện
này, đúng là chẳng phải truyền tụng hư vọng.
Nói Ngài phá vỡ cửa địa ngục là tiểu thuyết
hư cấu, bịa đặt nhảm nhí, nực cười
đó thôi!
Phật Học Vấn Đáp
Loại Biên
Phần 11 hết
[1] “Thanh trai”
theo nghĩa gốc là dọn ḿnh thanh khiết, chuẩn
bị cho ngày lễ quan trọng. Đế vương và
các quan chức ngày xưa trước các lễ tế
trọng đại thường cử hành “thanh trai”,
tức là không uống rượu, ăn thịt, kiêng
cử sắc dục, không dùng các thứ có huyết
nhục, không nói lời thô lỗ, tâm b́nh, khí ḥa, nghĩ
đến những điều tốt lành. Ở đây,
cụ Lư Bỉnh Nam dùng chữ “thanh
trai” với ư nghĩa khuyên ông Trần Tín Cát trong
những ngày chay phải thật sự kiêng huyết
nhục, rượu chè, trai gái, giữ cho thân tâm thanh
tịnh.
[2] “Ôn, thanh,
bổ, tả” là thuật ngữ dùng trong Trung Y để
chỉ các phương cách chữa bệnh khác nhau. Ôn (溫) là dùng thuốc
hoặc châm cứu khiến cho cơ thể ấm lên nếu
người bệnh bị mắc chứng hàn, Thanh (清) là làm cho bệnh
nhiệt giảm bớt. Bổ (補) là bổ cứu
khi bệnh trạng được coi là hư nhược
(thường gọi là “hư chứng”), Tả (瀉) là giảm bớt
khi cơ thể quá sung măn
về một phương diện nào đó (thường
gọi là “thực chứng”). Riêng đối với châm
cứu, Bổ Tả c̣n là một thuật ngữ chỉ
cách đâm kim, chẳng hạn Bổ là khi đâm kim
xuống huyệt, không vê kim (xoay kim), châm vào khi bệnh nhân
thở ra, và rút kim ra khi bệnh nhân hít vào, châm vào từ
từ, rút ra nhanh, khi rút kim bèn dùng ngón tay bịt chặt
huyệt vừa châm, thời gian lưu kim trong huyệt lâu
hơn và phải dùng kim có chất vàng.
[3] Cát quang minh (quang minh sa) là cát hoặc
đất mịn sạch đă được gia tŕ
bằng thần chú Tỳ Lô Giá Na Phật Đại Quán
Đảnh Quang Chân Ngôn, với ư nguyện nhờ sức
gia tŕ của thần chú mà người đă khuất
được tiêu trừ tội nghiệp, văng sanh Tây
Phương.
[4] Hai mươi bốn người con
hiếu (Nhị Thập Tứ Hiếu) chính là một tác
phẩm ghi lại hai mươi bốn tấm gương
hiếu thảo do Quách Cư Kính biên soạn vào đời
Nguyên. Thật ra, những tấm gương này đă
được nhắc đến trước đó trong
các bộ sách như Nghệ Văn Tụ Loại, Thái B́nh
Quảng Lăm v.v… Quách Cư Kính chỉ biên soạn và hệ
thống lại mà thôi. Hai mươi bốn người
con hiếu thảo là Ngu Thuấn, Lưu Hằng (Hán Văn
Đế), Tăng Sâm, Mẫn Tổn (Mẫn Tử Khiên),
Trọng Do (Tử Lộ), Đổng Vĩnh, Đàm
Tử, Giang Cách, Lục Tích, Đường phu nhân, Ngô Mănh,
Vương Tường, Quách Cự, Dương Hương,
Châu Thọ Xương, Dữu Kiềm Lâu, Lăo Lai Tử,
Thái Thuận, Hoàng Hương, Khương Thi, Vương
Biều, Đinh Lan, Mạnh Tông, Hoàng Đ́nh Kiên. Ngoại
trừ Hoàng Đ́nh Kiên sống vào đời Bắc
Tống, những người c̣n lại chủ yếu
sống trong các thời Đông Hán, Tam Quốc, Tây Tấn là
thời đại Phật giáo chưa được
hoằng dương mạnh mẽ tại Trung Hoa.
[5] Ở đây, ông Hồng Hoán Mô đă nêu
sai tên tác phẩm, đúng ra là Trúc Song Tùy Bút.
[6] Nguyên văn “phong
mộc chi bi”, c̣n nói là “phong
thụ chi bi”, xuất phát từ một câu nói đau xót
của Cao Ngư. Theo Hàn Thi Ngoại Truyện, Khổng
Tử đi đường, thấy Cao Ngư khóc rống
bên vệ đường, bèn dừng xe hỏi thăm duyên
cớ. Cao Ngư trả lời: “Ngô
thất chi tam hỹ: Thiếu nhi học, du chư hầu
dĩ hậu ngô thân, thất chi nhất dă. Cao thượng
ngô chí, nhàn ngô sự quân, thất chi nhị dă. Dữ
hữu hậu nhi trung tuyệt chi, thất chi tam dă. Thụ
dục tĩnh nhi phong bất chỉ, tử dục
dưỡng nhi thân bất đăi dă. Văng nhi bất khả
truy giả, niên dă. Khứ nhi bất khả kiến
giả, thân dă” (Tôi đă đánh mất ba điều.
Thuở nhỏ v́ học hành, đi khắp các nước
chư hầu, chẳng thể phụng dưỡng cha
mẹ, đó là điều mất mát thứ nhất. V́ say
mê lư tưởng, tôi chẳng phụng sự vua, đó là
điều mất mát thứ hai. Với những bạn bè
thân thiết, tôi chẳng thể qua lại, đó là
điều mất mát thứ ba. Cây muốn lặng mà gió chẳng
ngừng, con muốn phụng dưỡng nhưng cha
mẹ chẳng đợi. Năm tháng qua đi chẳng
thể trở lại được, cha mẹ đă
khuất rồi chẳng thể thấy lại). Do đó,
văn học thường dùng từ ngữ “phong mộc chi bi” hoặc “phong thụ chi bi” để
diễn tả nỗi đau xót của người con chẳng
thể phụng dưỡng cha mẹ.
[7] Biên Niên Thông Luận có tên gọi
đầy đủ là Long Hưng Biên Niên Thông Luận, do
Tổ Tú soạn vào niên hiệu Long Hưng thứ hai (1164)
đời Tống, là một loại sách sử truyện
chép theo lối biên niên về các sự kiện quan trọng
trong Phật giáo kể từ năm Vĩnh B́nh thứ
bảy (64) đời Hán Minh Đế cho đến
năm Hiển Đức thứ tư (957) đời
Hậu Châu thời Ngũ Đại.
[8] Tâm Số c̣n gọi là Tâm Sở, tức
các tác dụng tâm lư của tâm.
[9] Tử Cống tên thật là Đoan
Mộc Tứ (520-446 trước Công Nguyên), người
nước Vệ, có tên tự là Tử Cống, là học
tṛ đắc ư nhất của Khổng Tử, đứng
đầu trong hàng Thập Triết. Ông này nổi tiếng
khéo biện luận, hùng biện, lại có tài kinh tế,
từng làm Tướng Quốc hai nước Lỗ và
Vệ, lại giỏi buôn bán, từng kinh doanh giữa hai
nước Tào và Lỗ, nên là người giàu có nhất
trong các học tṛ của Khổng Tử. Khi Khổng
Tử mất, ông thủ tang đến sáu năm, tức
là người cư tang lâu nhất trong các học tṛ. Tài
kinh doanh của ông nổi tiếng đến nỗi sau này
những người kinh doanh thành công thường
được khen là đă kế thừa Đoan Mộc Di
Phong (phong thái truyền lại của ông Đoan Mộc).
Thậm chí có nơi c̣n thờ ông làm Tài Thần.
[10] Nhân Thị Tử là hiệu tự
xưng của ông Tưởng Duy Kiều. Ông Kiều
vốn giữ chức biên tập viên của Thương
Vụ Ấn Thư Quán, đă viết một loạt bài
nói về tĩnh tọa đăng liên tục trên tờ
Nhân Sinh Tạp Chí. Do độc giả yêu cầu, bèn biên
tập thành sách và xuất bản. Sách có nội dung tổng
hợp những quan điểm về Khí Công kết
hợp với tư tưởng Tam Giáo.
[11] Công Đức Thiên (c̣n gọi là Cát
Tường Thiên Nữ, Bảo Tạng Thiên Nữ,
Lakṣmī), đôi khi c̣n được gọi là Ma Ha
Thất Lợi (Mahāśrī), là vợ của thần
Tỳ Thấp Nô (Vishnu). Theo truyền thống Phật giáo,
bà được coi là em gái của Tỳ Sa Môn Thiên
Vương. Thiện Thiên Nữ Chú (danh xưng đầy
đủ là Đại Cát Tường Thiên Nữ Chú) trong phần
Tiểu Thập Chú nơi công khóa sáng của Thiền Môn do
vị thiên nữ này đă nói trong hội Kim Quang Minh. Bà
được coi là một vị phước thân mang
lại may mắn, thịnh vượng, thường
được tạc tượng thành một vị
nữ thần xinh đẹp, có bốn tay. Hai tay cầm
hoa sen, hai tay c̣n lại x̣e ra, tỏa ra ánh sáng màu vàng ṛng. Do
ông Châu Tinh Nguyên chỉ thấy bài vị, không thấy h́nh
tượng, ngỡ vị này là nam nên mới dùng chữ “thiên công” (ông trời)
để gọi vị thiên nữ này.
[12] Kinh Kim Quang Minh (Suvarṇaprabhāsottamarājasūtraṃ) có tên gọi đầy đủ là Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, hoặc Kim Quang Minh Đế Vương Kinh, là một trong Hộ Quốc Tam Kinh của Phật giáo. Hiện thời, trong Đại Tạng c̣n có năm bản khác nhau:
1. Kim Quang Minh Kinh, bốn quyển, do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào đời Bắc Lương.
2. Kim Quang Minh Đế Vương Kinh do ngài Chân Đế dịch vào đời Trần.
3. Kim Quang Cánh Quảng Đại Biện Tài Thủ Đà La Ni Kinh, do ngài Da Xá Quật Đa dịch vào đời Bắc Châu.
4. Hợp Bộ Kim Quang Kinh, do các vị như Bảo Quư v.v… hội tập vào đời Tùy.
5. Kim Quang Tối Thắng Vương Kinh do ngài
Nghĩa Tịch dịch vào đời Đường.
Tuy có năm loại, nhưng bản thứ ba bị
khuyết, và bản Hợp Bộ là hội tập, nên
kể như chỉ có ba bản.
[13] Ngu sanh: Người học tṛ ngu
muội.
[14]
Truyền thống thờ Quan Đế làm thần hộ
pháp bắt nguồn từ tông Thiên
[15] Quốc Ngữ chính là tiếng Quan
Thoại, c̣n gọi là tiếng Phổ Thông. Do
được coi là ngôn ngữ chính thức của toàn
bộ Trung Hoa, nên gọi là Quốc Ngữ. Cụ Lư nói “Quốc
Ngữ cũng có vấn đề” v́ tùy theo địa phương
mà cách phát âm theo tiếng Quốc Ngữ cũng bị biến
đổi theo.
[16] Đây chỉ là những cách nhằm
diễn tả cách đọc chữ Nam Mô cho gần
với âm Nam Mô v́ hiện thời, nếu nh́n vào mặt
chữ, âm Quan Thoại sẽ đọc chữ Nam Mô thành
Nán Wú.
[17] Đây là cách dùng hai chữ ghép lại
để h́nh dung âm đọc, thường gọi là
lối chú âm bằng Phiên Thiết. Chẳng hạn, Nô Câu
Thiết là lấy vận mẫu chữ đầu với
ghép âm vận của chữ sau. Tức là Nô Câu Thiết
sẽ đọc thành Nâu. Nô Hậu Thiết đọc
thành Nậu. Thật ra, để đọc đúng âm theo
lối Phiên Thiết c̣n phải dựa theo luật ḥa âm
thanh trược, thăng giáng mà quy định dấu
rất phức tạp.
[18] Cát cứ (割據) c̣n gọi là Liệt Cứ (裂據), là từ ngữ
chỉ thế lực quân phiệt hoặc cường hào,
dùng vũ lực chiếm cứ một vùng nào đó, tạo
thành t́nh h́nh quốc gia phân liệt, tranh chấp quyền
hành với chánh quyền Trung Ương. Cuối thời Tây
Tấn, do chánh quyền trung ương suy yếu, các tướng
lănh, thổ phỉ thừa cơ nổi lên cát cứ
xưng vương, mà các nhà Tiền Tần, Diêu Tần, Tiền
Yên v.v… đều do những tướng lănh phản loạn
xưng vương lập quốc.
[19] Dị sanh (Bālaprthagjana), c̣n dịch là Phàm Phu, dịch thành
Dị Sanh là theo cách dịch mới sau thời ngài Huyền
Trang. Phàm phu luân hồi trong lục đạo, chịu
đủ mọi thứ quả báo sai biệt, nên gọi
là Dị Sanh.
[20] Thường Nga (嫦娥) c̣n gọi là Hằng Nga (姮娥).
Theo huyền thoại cổ Trung Hoa, Thường Nga là
vợ của Hậu Nghệ (后羿).
Hậu Nghệ là một tay thiện xạ lỗi lạc
thời cổ. Khi có mười mặt trời mọc trên
thế gian khiến cỏ cây cháy xém, vua Nghiêu sai Hậu
Nghệ bắn rớt chín mặt trời. Hậu Nghệ
c̣n bắn chết các con ác thú trong thời ấy như
Tạc Xỉ, Cửu Anh, Đại Phong, Phong Hy, Tu Xà v.v…
Muốn được trường sanh bất tử,
Hậu Nghệ xin Tây Vương Mẫu ban thuốc
bất tử. Thừa lúc chồng đi vắng,
Thường Nga uống trộm thuốc ấy, rồi bay
lên cung trăng trốn. Trên cung trăng, Thường Nga c̣n
có Ngọc Thố (thỏ ngọc) và Ngô Cang làm bạn. Theo
truyền thuyết, thuở xưa có bốn con vật là
khỉ, cáo, rái và thỏ đến chỗ một
người tu đạo nghe giảng. Một năm
nọ, trời hạn hán quá nặng, người tu
đạo không c̣n ǵ để ăn. Thỏ bèn nhảy vào
lửa để biến thành thức ăn cho
người tu đạo. Người tu đạo bèn
hiển lộ nguyên thân là Đế Thích, đem thỏ
để lên cung trăng. C̣n Ngô Cang là tiều phu,
người xứ Tây Hà, mê đạo tiên, nhưng không
chuyên tâm học tập, khiến Thiên Đế phẫn
nộ, đày Ngô Cang lên mặt trăng, sai chặt một
cây quế. Khi nào đốn sạch cây quế th́ mới
được thành tiên. Mỗi ngày Ngô Cang đốn
được nửa cây, lại nghỉ chốc lát, cây
quế lại mọc lên như cũ, nên cứ phải
đốn măi. Bọn đạo sĩ tôn Thường Nga
là Nguyệt Thần với đạo hiệu Nguyệt
Cung Hoàng Hoa Tố Diệu Nguyên Tinh Thánh Hậu Thái Âm Nguyên
Quân hoặc Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Quân Hiếu Đạo
Minh Vương. Mỗi khi cúng sao hạn, họ đề
bài vị cửu diệu, trong ấy có Thái Âm Tinh Quân,
đấy chính là danh hiệu ngắn gọn của
Thường Nga.
[21] Hàng Tư Lăng là một cách phiên âm tên
của Neil Alden Armstrong (1930-2012), phi hành gia Mỹ. Amrstrong là
người đầu tiên đặt chân lên mặt
trăng bằng phi thuyền Apollo 11. Đôi khi tên ông c̣n
được phiên âm là Nham Sĩ Đường, A Mỗ
Tư Tráng hoặc A Mẫu Tư Đặc Lăng tùy theo
giọng đọc của từng vùng, nhưng cách phiên âm
thành Hàng Tư Lăng phổ biến nhất.
[22] Do các cơi nước nhiều như số vi trần,
nên thường gọi chung là “trần sát”. Sát là “sát-độ”
nói gọn, hiểu theo nghĩa hẹp th́ tối thiểu
là một tam thiên đại thiên thế giới.
[23] Thạch Khác (石恪), không rơ năm
sinh và năm mất, tên tự là Tử Truyền, người
phủ Thành Đô, Tứ Xuyên, là nhà danh họa thời
Ngũ Đại, chỉ biết ông mất vào đầu
thời Bắc Tống. Ông tính t́nh hào phóng, thích đùa giỡn,
khéo vẽ nhân vật rất sống động. Ông thường
vẽ các nhân vật với nét bút rất phóng khoáng, đôi
khi hơi kỳ lạ. Bức Nhị Tổ Điều
Tâm Đồ (二祖調心圖) được coi là tác phẩm
tiêu biểu nhất.
[24] Cuốn sách này do ông Lê Chú biên soạn vào
đầu thời Dân Quốc. Ông này từng làm phán quan cơi
âm mấy năm, nên ghi lại quá tŕnh phán án và luận
tội trong âm phủ.
[25] Trong cách in sách theo lối cổ,
trước mỗi tập có một trang đính kèm ghi
chương, mục, kết cấu tiểu đề
của từng phần trong sách để người
đọc tiện tra cứu. Phần đó được
gọi là Thư Thiêm. Đôi khi người viết Thư
Thiêm c̣n ghi rơ nội dung tóm tắt của từng
chương, gần giống như lối viết Khoa
Phán.
[26] Tức là Âm Lịch hiện thời, c̣n
gọi là Hạ Lịch, hoặc Nông Lịch. Gọi là
Hạ Lịch v́ tuân thủ cách lấy tháng Dần làm tháng
Giêng khởi đầu một năm theo quy định
đời Hạ, chứ Hạ lịch hiện thời
đă biến đổi, không ngừng cải tiến,
bổ sung, chẳng phải là lịch pháp được dùng
từ thời cổ, nên phải gọi cho đúng là Âm
Dương Lịch, v́ đă không c̣n thuần túy là Âm
Lịch.
[27] Đây là một h́nh thức mê tín
của dân Trung Hoa, họ thích đốt tiền giấy,
vàng thoi (vàng vó), vàng, bạc, đồ mă, h́nh nhân v.v… cho
người chết. Tiền Văng Sanh là những tờ
giấy có in danh hiệu A Di Đà Phật, và chú Văng Sanh
được xếp thành ṿng tṛn. Có loại Văng Sanh
Tiền cầu kỳ hơn, in đến bảy loại
chú phổ biến trong nhà Phật như chú Đại Bi,
Lăng Nghiêm Tâm Chú, chú Chuẩn Đề, Bạch Y v.v… và
viết nhiều danh hiệu vị Phật. Họ tin là
đốt tiền cũng giống như tụng chú. Do
đó, dẫn đến tập tục đốt
những bản kinh Kim Cang in bằng mực đỏ,
với quan niệm “đốt một bộ, cũng
giống như tụng một bộ kinh cho người
chết”. Tổ Ấn Quang đă quở trách nặng
nề chuyện này. Hiện thời, ngay trong tự
viện tại Hoa Lục, vẫn c̣n thói quen xếp
những tờ tiền Văng Sanh ghép lại như đài hoa
để đốt trong các lễ Mông Sơn hoặc phóng
Diệm Khẩu.
[28] Hậu Ngụy là danh xưng để
gọi chung Bắc Ngụy, Đông Ngụy và Tây Ngụy
nhằm phân biệt với nhà Tào Ngụy (do Tào Phi, con trai
Tào Tháo, sáng lập). Nhà Bắc Ngụy do Thác Bạt Khuê (dân
tộc Tiên Ty) thành lập vào năm 386 sau khi nhà Tiền
Tần bị diệt (thoạt đầu có tên là
Đại), đổi tên thành Ngụy vào năm 398.
Đến đời vua thứ bảy là Hiếu Văn
Đế (Thác Bạt Hoằng) đổi họ Thác
Bạt thành Nguyên, nên sử đôi khi c̣n gọi nhà Bắc
Ngụy là Nguyên Ngụy. Năm 534, nhà Bắc Ngụy
bị tách ra thành Tây Ngụy (dưới sự khống
trị của quyền thần Vũ Văn Thái), và Đông
Ngụy (do quyền thần Cao Hoan đưa Nguyên Thiện
Kiến lên ngôi, nhưng đến năm 550, Cao
Dương, con trai Cao Hoan, đă phế trất vua Đông Ngụy,
và lập ra nhà Cao Tề).
[29] Dị Thục (異熟, Vipāka) là một trong năm loại
quả báo (Dị Thục, Đẳng Lưu, Sĩ Dụng,
Tăng Thượng và Ly Hệ) trong Tướng Tông. Dị
Thục Quả là khổ quả do ác nghiệp chiêu cảm,
hoặc lạc quả do thiện nghiệp chiêu cảm. Do
cái nhân có thiện hoặc ác, nhưng cái quả có tánh chất
vô kư (chẳng thiện, chẳng ác), nên gọi là Dị. Hoặc
là do quả chín muồi chẳng cùng một đời với
cái nhân đă tạo, nên gọi là Dị.
[30] Quốc Học là ngành nghiên cứu các
khía cạnh của văn hóa truyền thống Trung Hoa.
[31] Vị cư sĩ này lầm tưởng
“tam thiên đại thiên” là
ba ngàn đại thiên, chẳng biết đại thiên chính
là một ngàn trung thiên, trung thiên là một ngàn tiểu thiên,
mỗi tiểu thiên là một ngàn đơn vị thế
giới. Do có ba lần chữ thiên được lặp lại
trong danh xưng này, nên gọi là Tam Thiên Đại Thiên
thế giới. V́ không biết điều đó, ông ta
viết: “Mỗi nhất tôn
Phật, các hữu kỳ cảnh, tam cá thiên đích
đại thiên thế giới” (mỗi vị Phật đều
có cơi nước riêng, tức là ba ngàn đại thiên thế
giới ).
[32] Vị cư sĩ có danh xưng rất
kêu là Giác Lực đại đức này đă nhớ
lẫn lộn, râu ông nọ cắm cằm bà kia. Câu
đầu tiên “thần chi cách
tư” vốn là một câu trong kinh Thi, không do Khổng
Tử nói, câu ấy nguyên văn là: “Thần chi cách tư, bất khả độ
tư, thẩn khả tạ tư?” (thần linh giáng
xuống, không thể nào suy lường được, há
có nên phóng túng, khinh mạn ư). Câu thứ hai trích từ
Luận Ngữ, thiên Tiên Tấn: “Quư
Lộ vấn sự quỷ thần, Tử viết: Vị
năng nhân sự, yên năng sự quỷ? Viết:
Cảm vấn tử. Viết: Vị tri sanh, yên tri tử?”
(Quư Lộ hỏi Khổng Tử cách thờ quỷ
thần. Khổng Tử bảo: “Chưa phụng sự con
người cho tốt đẹp, th́ làm sao có thể thờ
quỷ?” Quư Lộ hỏi: “Dám hỏi Ngài chuyện sau khi
đă chết”. Khổng Tử đáp: “Chưa biết
chuyện chết, làm sao biết chuyện sống”). Do ông
ta cắt câu, gán ghép tùy tiện, chứng tỏ thái
độ học tập không nghiêm túc, hoặc chỉ là
nghe hơi nồi chơ, chưa từng thật sự
đọc sách Nho, lại c̣n phê phán lung tung, nên cụ Lư
Bỉnh Nam mới quở trách nặng nề: “Đối
với sở học của Khổng Tử, chưa từng
học tập, há nên tùy tiện phê b́nh?”
[33] Hóa tích: Dấu vết, các hành trạng
đă ứng hóa trên thế gian.
[34] Ông Điền Lũy đă viết sai
câu này. Đúng ra phải là “sau
Oai Âm Vương Phật, nếu không thầy mà tự thông
sẽ là thiên nhiên ngoại đạo”.
[35] Xước hiệu (綽號)
là tên gọi không chánh thức, thường do người
khác gán cho, gần tương đương với Nickname
của Anh, Mỹ. Lại chia thành hai loại:
1) Tên gọi mang tính cách thân mật, yêu mến th́
gọi là Nặc Xưng (暱稱).
2) Biểu thị đùa bỡn, châm chọc th́
gọi là Hỗn Hiệu (渾號),
Hỗn Danh (渾名), hoặc Hoa Danh (花名).
[36] “Mộ không đúng chữ” có nghĩa là
hướng mộ, kích thước, vị trí không phù
hợp với những kiểu cách an táng được
coi là hưng vượng, may mắn theo cách coi hướng
Âm Phần của khoa Địa Lư.
[37] Lưu niên vận khí: Vận khí (vận
số hên xui) hằng năm của một cá nhân.