Phật Học Vấn Đáp Loại Biên

佛學問答類編

Phần 12

Lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam giải đáp

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội, Đài Loan, 2007)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

      * Hỏi: Giải thích “ưng quán pháp giới tánh” như thế nào? (Lư Trí Viễn hỏi)

     

Đáp: “Ưng” () là hăy nên, “quán” () là quán sát, “pháp” () là nói về hết thảy mọi sự, hết thảy mọi lư, hết thảy mọi vật, chính là đại danh từ chỉ hết thảy muôn mối. “Giới” () là giới hạn. Gộp hai chữ “pháp giới” lại để nói th́ có nghĩa là mọi sự, mọi lư, mọi vật v.v.. mỗi thứ đều có phạm vi, giới hạn. “Tánh” () là cội nguồn của một sự, một vật, một lư nào đó. Năm chữ ấy đă nói đại khái, nhưng năm chữ ấy chỉ là ư nghĩa trong một câu trước [của bài kệ], hăy nên xem câu kế tiếp. Chỉ dùng năm chữ ấy hợp thành một câu để giảng th́ nghĩa lư cũng chẳng thông suốt cho lắm, ắt phải giảng cùng với câu kế tiếp th́ mới nói găy gọn được. Câu kế tiếp là “nhất thiết duy tâm tạo”. Nói gộp cả hai câu th́ là: Hăy nên quán sát các pháp, xét đến cội nguồn của chúng, bèn biết chúng toàn là do tâm niệm tạo thành.

 

* Hỏi: Đức Phật độ Quỷ Tử Mẫu[1] nhằm trừ hại cho các trẻ nhỏ, sao không độ Ma Vương ḥng trừ hại cho vô lượng vô biên người tu hành? (Lư Trí Viễn hỏi)

 

Đáp: Chẳng phải là đức Phật không độ, nhưng Ma Vương ch́m đắm trong sự hưởng thụ, lúc tỉnh, lúc mê, chẳng có sức tự vượt thoát. Nhân gian th́ khổ nhiều, yên ổn ít, dễ sanh tâm chán ĺa, cơ duyên tu đạo đông nhiều, cho nên nói “thân người khó được”. Lại nghĩ đến Bắc Câu Lô Châu, cơm, áo hết thảy đều tự nhiên hiện ra, [sự hưởng thụ] c̣n chưa bằng được một phần trăm Ma Vương, thế mà họ c̣n chẳng tin Phật pháp, trầm mê trong biển dục, đáng sợ thay!

 

* Hỏi: Trong Phật pháp có nói “chẳng có thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai” và “chẳng có không gian theo chiều ngang trọn khắp mười phương”. Đối với điều này, đệ tử giải ngộ là Chân Như bản tánh của chúng ta vốn sẵn thanh tịnh, chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc, bao trùm trọn khắp hư không, lấy đâu ra mười phương và ba đời? Đó đều là do một niệm bất giác, bèn từ chân khởi vọng, hiển hiện thành vạn pháp, đó là trần cảnh hư vọng và nhân pháp giới, cho đến Kế Danh Tự Tướng trong sáu thô tướng, nên mới giả định danh từ “mười phương, ba đời”. Hết thảy trần cảnh và giả danh đều chẳng phải là những thứ sẵn có trong bản tánh. Nếu hoàn toàn tiêu trừ tất cả các tinh cầu trong hư không và các hiện tượng, không có mặt trời, mặt trăng vận hành, th́ chỉ là một cảnh trống rỗng tối tăm (giống như không có ánh sáng), chẳng có bờ mé. Không chỉ là chẳng có danh từ “mười phương, ba đời” phát xuất từ giả định, mà sợ rằng ư niệm “mười phương, ba đời” cũng chẳng thể từ đâu mà dấy lên được! Đúng hay không? Xin hăy chỉ dạy! (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

      Đáp: Điều này lại chẳng đúng! Ba đời mười phương có lúc nói là Có, có lúc bảo là Không, có thể thấy điều này ở bất cứ chỗ nào trong kinh, đều là nói khế cơ. Nói chân thật mà có quyền biến, nói quyền biến mà có chân thật, là Thật, là Quyền, chẳng phải là Quyền, chẳng phải là Thật, nói sống động [đủ mọi lẽ như thế], đều là Thánh Lượng. Quư cư sĩ cứ hở ra liền nhắc tới Chân Như, tuy chẳng phải là không đúng, nhưng chẳng tránh khỏi là phường cố chấp, vốn đang thông suốt lại trở thành tắc nghẽn! Hăy thử xem Tam Tạng mênh mông, ngàn kinh vạn luận, có ǵ có thể ĺa khỏi Chân Như? Nếu chỉ dùng một nghĩa Chân Như để nói th́ bốn mươi chín năm [thuyết pháp], hơn ba trăm hội [giảng kinh], A Nan đa văn, há chẳng phải đều là những thứ thừa thăi ư?

 

      * Hỏi: Tôi tuy trữ rất nhiều sách Phật, nhưng gần một năm qua, lại cũng chẳng có hứng thú muốn xem đọc (xét ra, chỉ ngẫu nhiên cầm lên một hai cuốn để tùy tiện xem đọc mà thôi). (Phan Kim Thủy hỏi)   

 

Đáp: Người học Phật thoạt đầu siêng năng, về sau biếng nhác, đó là căn bệnh thông thường. Chuyện này được gọi là “thoái chuyển”. Nguyên nhân chẳng phải chỉ có một, nhưng đều gọi là “ma chướng”. Hăy nên khởi tâm cảnh giác, phấn chấn tinh thần, một mực tiến lên. Nếu chẳng thể nghiên cứu kinh điển sâu xa th́ muôn phần chớ nên thiếu sót công khóa thường ngày. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Đời này chẳng được giải thoát, đời sau sẽ mờ mịt [chẳng biết đọa lạc vào đâu]!

     

      * Hỏi: Tôi gia nhập đoàn thể nhà Phật đă gần bốn năm, nhưng gần đây rất ít khi đến Phật đường niệm kinh, cảm thấy Phật đường là nơi rất đáng ngại (có lúc trong ḷng rất muốn đến Phật đường, nhưng chẳng thể dấy lên dũng khí đến đó). (Phan Kim Thủy hỏi)

 

      Đáp: Đạo tu hành ở nơi tự tâm, ngoài việc chẳng tham gia Phật đường ra th́ cũng chẳng có trở ngại ǵ. Dẫu ở nhà, mỗi ngày theo đúng thời khóa niệm Phật, chuyên tu Tịnh Độ, cầu sanh Tây Phương, có ǵ là chẳng được, có ǵ là khó hành? Các sách Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục hoặc Tinh Hoa Lục, lời lẽ hết sức gần gũi, dễ hiểu, nhưng ư nghĩa sâu dầy, người nào đọc cũng hiểu, rất hữu ích cho tương lai của người ấy. Nếu chẳng có bậc minh sư cổ vũ, khích lệ, các sách ấy chính là thiện tri thức vậy.

 

      * Hỏi: Trong Tam Quy Y, điều thứ ba là “tự quy Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy vô ngại” có ư nghĩa như thế nào? (Ẩn danh cư sĩ hỏi)

 

      Đáp: Phàm là chuyện đề xướng, hoặc là chuyện phải lo liệu, ắt phải có nhiều người. Đă là nhiều người th́ không thể ai nấy tự quyết định, ắt cần phải có một người lănh đạo th́ mới chẳng hỗn loạn. Nhà Phật độ người, thuyết pháp, giảng kinh, hết thảy Phật sự, cho đến những việc sắp xếp nội bộ, trăm mối cần quản lư, nếu không có một người cầm đầu, xử lư, việc làm sao có thể thành tựu cho được? Nhưng chúng sanh ư kiến phức tạp, làm sao có thể khiến cho ai nấy đều tâm phục? Chẳng phục, sẽ nẩy sanh chướng ngại. Sanh chướng ngại th́ việc chung bị tổn hại. Tăng có nghĩa là Chúng, hăy nên có sáu điều ḥa hợp, nguyện sao ai nấy đều vâng giữ Lục Ḥa, chẳng khiến cho người lănh đạo chật vật, gặp chướng ngại, [ngă ḷng] buông lơi việc công!

 

      * Hỏi: Chẳng biết như thế nào mà sau khi tôi gia nhập đoàn thể nhà Phật, đâm ra phiền năo đều tăng? (Phan Kim Thủy hỏi)

 

      Đáp: Trạng huống và t́nh h́nh xử lư trong các đoàn thể nhà Phật khác nhau. Có đạo tràng chân chánh, chuyên v́ tu hành, cũng có đoàn thể chuyên làm chuyện náo nhiệt, chẳng đạt được lợi ích mảy may! Lại c̣n kẻ chẳng hiểu Phật pháp, mượn danh [đoàn thể Phật giáo để] cầu lợi. Thậm chí có kẻ suốt ngày tụ họp, chuyên nói họ Trương giỏi, họ Lư dở, tạo tác thị phi, dẫn khởi đấu tranh. Hiểu rơ mọi lẽ, sẽ giống như kết giao bằng hữu, cần phải chọn lựa, thân hiền, xa nịnh. Những đoàn thể được thành lập, tuy có danh xưng là Phật giáo, nhưng do con người chủ tŕ, há có thể là đoàn thể nào cũng tốt đẹp ư? Đó chính là “[nơi nào] là đạo th́ vào, nơi chẳng phải là đạo bèn tránh”, [hiểu như vậy] sẽ tự nhiên giảm thiểu phiền năo. Nếu hoàn toàn chẳng muốn tham gia, cũng chẳng trở ngại ǵ. Đóng cửa, tự tu, há chẳng thanh tịnh ư?

 

      * Hỏi: Bậc thánh đă chứng Sơ Quả có thần thông hay không? Lại c̣n Nhị Quả và Tam Quả đạo hạnh như thế nào? Những điều ấy lại phát xuất từ kinh điển nào? (Trương Khoát Nhiên hỏi)

 

      Đáp: Bậc đă chứng Sơ Quả th́ thần thông có phát khởi hay không, trọn chẳng nhất định! Dẫu có phát th́ cũng chẳng qua là một phần của Ngũ Thông, chắc chắn chẳng có Lậu Tận Thông! Những vị chứng quả có các thứ học, các thứ tu; có đến một trăm  hai mươi phẩm Hoặc (phiền năo), lại c̣n phải chia Tứ Thánh Đế thành mười sáu hành tướng để phán đoán. Nếu chẳng tu thêm Tứ Gia Hạnh, [bậc đă chứng Sơ Quả] sẽ qua lại bảy phen trong nhân gian hay trên cơi trời. Đối với lời hỏi của quư cư sĩ, kẻ hèn này chẳng thể trả lời bằng vài câu được! Chẳng xem kinh, sẽ chẳng thể hiểu rơ ràng. Nếu chỉ mong biết đại khái th́ trước hết hăy nên đọc bản chú giải kinh Tứ Thập Nhị Chương của Ngẫu Ích đại sư.

 

* Hỏi: Đă phá Sắc Ấm liền vượt thoát Kiếp Trược, có phải là đă dự vào ḍng thánh? Đây là luận định ước theo người hành theo pháp, chẳng xen tạp tư tưởng ngoại đạo ư? (Trương Khoát Nhiên hỏi)

 

Đáp: Luận định này xuất phát từ sách vở nào? Kẻ hèn này đọc kinh đă ít, lại c̣n chóng quên, dường như trước nay chưa hề nghe đến [chuyện này]. Do chẳng biết, nên không có cách nào tŕnh bày nghĩa này! Phật pháp chẳng phải là hư luận, kinh điển trong pháp thế gian cũng có huấn dụ “nghi nhi vô chất” (nghi ngờ mà chẳng hỏi), xin người hỏi hăy lượng thứ!

 

* Hỏi: Ngoại cảnh thanh sắc hết sức bắng nhắng, chộn rộn. Học Phật th́ thoạt đầu là do miễn cưỡng mà xa ĺa, dần dần trở thành tự nhiên. Do tự nhiên mà trở thành khinh an, tự tại, chuyển biến những nhiễm cấu trong thân tâm thành ngày càng thanh tịnh hơn. Nh́n ngược lại người đời thích thú rong ruổi trong chốn ô uế, cội nguồn mê hay ngộ vốn thuộc về đó. Nhập đạo có nhiều đường, hễ khế cơ th́ tốt đẹp. Tôi nghĩ bậc trưởng giả cũng nên xét soi căn tánh của con người để thí giáo, pháp nào cũng đều thành tựu, trọn chẳng nên cứ phải cưỡng ép, câu nệ “cậy vào tŕ danh th́ mới dự vào ḍng thánh”! (Trương Khoát Nhiên hỏi)

 

Đáp: Quư cư sĩ hiểu lầm quá mức! Kẻ hèn này là một gă tại gia bạch y, trọn chẳng phải là bậc pháp sư dựng cao pháp tràng, đại khai đạo tràng, chuyên môn hoằng pháp. Sở học b́nh sinh chỉ là thật thà niệm Phật, ngay như đối với pháp này cũng là hiểu biết nửa vời (chẳng phải là nói khiêm tốn), những pháp khác đều mù mờ! Chưa đủ Thập Lực của Phật, há dám tiếm phận tự xưng là quan sát căn tánh của người khác, khế cơ thí giáo (ban bố giáo pháp phù hợp căn cơ)? Kinh hoảng muôn phần, tội lỗi vô lượng! C̣n như Ngài nói “chẳng cần phải cưỡng ép, câu nệ cậy vào tŕ danh th́ mới dự vào ḍng thánh”. Đối với lời cật vấn, quở trách ấy, kẻ hèn này trừ một pháp này ra, trọn chẳng biết ǵ khác! Phàm những ai hỏi tới, chỉ có khuyên họ như thế. C̣n như bảo “cậy vào tŕ danh th́ mới nhập ḍng thánh”, tôi chưa hề thốt ra lời ấy. Xét theo ư nghĩa văn tự của chữ “mới nhập” th́ có nghĩa là trừ pháp ấy ra, những pháp khác đều chẳng thể. Nếu thốt ra lời ấy, tức là hủy báng hết thảy Phật pháp đều chẳng có hiệu quả ǵ. C̣n như bậc thượng căn lợi khí, thông Tông, thông Giáo, Tánh, Tướng, Mật, Luật, nghe một, ngộ cả ngàn, kẻ hèn này gặp gỡ c̣n chẳng dám mở miệng, há c̣n dám khuyên họ tŕ danh ư?

 

* Hỏi: Thường nghe nói nhân tố trọng yếu của Bồ Đề là Bi và Trí. Lại nghe nói: Ngưng nghỉ tức là Bồ Đề. Nếu có thể dừng nghỉ vọng tâm, cố nhiên có thể khế hợp Trí, nhưng dường như chẳng có Bi. V́ thế, người học đạo sau khi đă ngưng nghỉ [vọng tâm], có phải là hăy nên phát riêng một đại nguyện rộng độ hữu t́nh hay chăng? (Vương Chí Hiền hỏi)

 

      Đáp: Đă ngưng nghỉ rồi lại phát đại nguyện, đó chính là hàng Thanh Văn, Duyên Giác Tiểu Thừa hồi Tiểu hướng Đại. Người học Đại Thừa ngưng dứt [vọng tâm] và phát nguyện đồng thời, chẳng chia ra trước và sau.

 

      * Hỏi: Đức Phật nói Kinh và Luật Tạng nhiều ngần ấy, nhưng tôi cho rằng đức Phật nói điều trọng yếu nhất là từ bi, đó cũng chính là Ái; nhưng những pháp do Ngài đă nói như Tứ Thánh Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Ngũ Uẩn đều không, Duy Thức, Pháp Tướng, không ǵ chẳng nhằm làm cho con người tiêu trừ dục niệm tự ngă, khiến cho chính ḿnh hoàn toàn tịnh hóa, chẳng c̣n chút tâm “tư ngă” nào. Nhất là như đức Phật đă nói “tôi nguyện đem hết thảy những ǵ của tôi có dâng hiến cho toàn thể nhân loại. Giả sử tôi có thể hóa thân ngàn vạn, tôi sẽ khiến cho ngàn vạn người nương vào tôi mà sống, măi cho đến khi họ được cứu mới thôi”. Cũng như kinh Kim Cang đă nói: “Hăy nên không trụ vào đâu mà sanh tâm, hăy nên không trụ vào đâu để hành bố thí”. Trên đây là những điều kiến giải của tôi đối với Phật pháp, chẳng biết có chánh xác hay không? (Trần Văn Phước hỏi)

 

      Đáp: Từ bi như ông đă nói chính là nguyên tắc của Phật học, nhưng hết thảy Sự, Lư, hoặc Thể, hoặc Dụng, đều có các điều mục hết sức tỉ mỉ. V́ thế, đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, nhóm hội hơn ba trăm lượt. Kế nữa, kinh có đến ba tạng, há chỉ nói về từ bi mà thôi; ư nghĩa sâu xa, uyên áo, hết sức khó nói. Hễ thấu hiểu một pháp, bèn có thể giải thoát, chẳng phải là chỉ nêu ra danh từ mà ḥng thấu hiểu nghĩa của nó. C̣n như ông nói tới Duy Thức, Pháp Tướng, Tứ Thánh Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, “hăy nên không trụ vào đâu” trong kinh Kim Cang v.v… đều là các pháp môn tu tŕ. Do mỗi pháp có Dụng khác biệt, nên chẳng có cách nào trả lời luông tuồng được!

 

      * Hỏi: Khi trước, tôi đến Cao Hùng, phải ngồi xe du lịch theo tuyến đường đến Đài Đông. Do v́ xe du lịch ba tháng trước đă có lần bị tai nạn, trên đường đi chết ba mươi mấy người. V́ thế, trước khi sắp lên xe, tôi có ư niệm: Niệm Nam-mô A Di Đà Phật, tất cả các câu niệm Nam-mô A Di Đà Phật của tôi, cầu A Di Đà Phật làm chủ, hồi hướng cho những người đă chết văng sanh thế giới Cực Lạc. Đang trong lúc tôi thầm niệm, bỗng nghe tiếng xe nổ máy, đối với âm thanh ấy, tôi bỗng ngộ ra âm thanh ấy ở trong thân tôi, tỉnh ngộ hồi tưởng âm thanh ấy là tôi, tôi là âm thanh ấy. Đó là chánh giác, hay là vọng tưởng? Xin Lư cư sĩ hăy chỉ dạy. (Trần Thục Dung hỏi)

 

      Đáp: Quư cư sĩ niệm Phật trên xe, hồi hướng cho họ, có ḷng bi mẫn, có đại công đức, ư niệm “âm thanh và ta đồng nhất” sau đó chẳng qua là một thứ cảm tưởng mà thôi, nhưng cư sĩ nghi [cảm tưởng ấy] là chánh giác th́ tức là hiểu lầm. Chánh giác th́ mức độ thấp nhất là giải thoát. Trước hết, cũng cần phải biết Tứ Thánh Đế là chân lư, lại biết Ngă, Biên, Tham, Sân v.v.. mười Thập Sử là vọng hoặc nơi kiến giải và tư tưởng. Trước là biết, sau là tu, tu là nhân, chứng là quả. Sau khi đă đắc quả, mới gọi là Chánh Giác.

 

      * Hỏi: Hai chúng nam nữ tại gia, sau khi đă chết, thân thể có thể đem hỏa táng, bỏ tro xuống biển, nhằm nuôi những loài thủy tộc hay không? Có hợp pháp hay chăng? (Phùng Ngô Hiệp B́nh hỏi)

 

      Đáp: Phàm phu chấp trước thân tướng, coi thân là ngă, thân xác sau khi đă mất có thể có dính dáng đến thần thức. Người học Phật đă hiểu biết, biết thân là huyễn, chẳng phải là ngă, sau khi đă mất, tâm chẳng ràng buộc với thân, thân chẳng liên quan ǵ đến tâm. Theo nguyện lực khi c̣n sống, muốn xử trí [thi thể] như thế nào, không có ǵ là chẳng được! Huống hồ phát tâm bố thí thủy tộc, tiền nhân cũng có lệ ấy. Bố thí th́ chẳng phân biệt là tại gia hay xuất gia!

 

      * Hỏi: Sau khi xác thân đă thiêu hóa, đem nghiền thành bột, lại trộn thêm bột ḿ vào đó, để tiện nuôi các động vật như lợn, gà, vịt v.v… Xét ra là để đền bồi sát nghiệp đời trước, có hợp pháp hay không? (Phùng Ngô Hiệp B́nh hỏi)

 

      Đáp: Trong câu hỏi trước, [bà nói] đă chịu bố thí thủy tộc. Phàm là đối với loài thú chạy, chim bay, hăy nên nhất loạt b́nh đẳng, nhưng chuyện lo liệu cái thân sau khi chết, ắt phải được con cháu chịu làm theo th́ mới có thể thực hiện được. Lúc c̣n sống do bà đă phát tâm, đă mất th́ do họ làm chủ, chuyện có thể thành tựu hay không, hoàn toàn cậy vào nhân duyên.

 

      * Hỏi: Đức Phật nói Địa Tạng Vương Bồ Tát Bổn Nguyện Lực Công Đức Kinh là nói trên cung trời Đao Lợi, mạt học cho rằng ngay cả nhục thân ứng hóa của đức Thế Tôn cũng bay lên trên trời. Nếu không, cớ sao trong nhân gian có thời kỳ do v́ không thấy đức Phật bèn tạo nhiều diệu tướng để lễ bái, cúng dường? (Ngô Minh An hỏi)

     

Đáp: Tôi từng nghe nói có kinh cũng nói giống như thế. Thần thông có sáu loại. Đây chính là Thần Túc Thông. Bậc A La Hán đă [có thể] phi hành tự tại, nên [chuyện này] đối với Phật càng chẳng phải là chuyện hiếm hoi, lạ lùng ǵ!

 

      * Hỏi: Trong số báo Bồ Đề Thụ hai trăm hai mươi bảy, đại đức trả lời câu hỏi thứ chín của cư sĩ Nhan Vân Hồng “…tâm chẳng giữ ḷng thành, chẳng đáng gọi là lễ…” Chẳng biết là khi giữ ḷng thành, tâm trụ vào đâu? Lại phải như thế nào th́ mới có đạt đến cảnh giới vâng giữ ḷng thành? (Ngô Minh An hỏi)

 

      Đáp: Trong pháp thế gian, Khổng Tử cũng từng dùng điều này để dạy người, Ngài có nói một câu như sau: “Tế như tại, tế thần như thần tại” (Cúng tế như người được ta cúng tế đang hiện diện, cúng tế thần như thần đang hiện diện tại đó). Tín đồ nhà Phật lễ Phật, bất luận là đối với tượng bằng gỗ khắc hay tượng đất đắp, tranh vẽ, hay tượng đúc bằng đồng, đối với những tượng ấy đều tưởng như đức Phật thật. Lễ Phật, tâm bèn đặt nơi Phật, chuyên nhất hướng về, trọn chẳng có mảy may ư niệm khác, đó gọi là chuyên thành. “Thành” là chẳng ngụy, chẳng tạp, chuyên ṛng, duy nhất. Hễ chân thành sẽ cảm thông, cố nhiên người lễ bái được lợi ích. Chẳng chân thành tức là khinh mạn, người lễ mắc lỗi. Mấu chốt là như thế, há chẳng thận trọng ư?

 

      * Hỏi: Lại trong số báo Bồ Đề Thụ ấy, trong câu trả lời thứ nhất cho cư sĩ La Đông Hải, đại đức có nói: “…nhưng đừng nên hướng về người khác khoe khoang. Theo đúng lư, hăy nên dụng công như thường lệ”. Nếu do một thứ nhân duyên xảo hợp nào đó (như kẻ đó chẳng tin Phật, hoặc nửa tin, nửa ngờ, hoặc là buông bỏ giữa chừng v.v…), v́ muốn khiến cho đối phương càng thêm tinh tấn, sanh tín tâm, bèn thuận tiện nói ra, th́ cũng bị coi là khoe khoang đó chăng? (Ngô Minh An hỏi)

 

      Đáp: V́ lợi lạc người khác, chẳng ngại đúng mực nói ra, nhưng cần phải là thật sự có chuyện ấy, chớ nên mang tâm lừa gạt nói dối. Chuyện ǵ cũng có hai mặt, chẳng phải là công liền là lỗi, Phật pháp cũng có nhiều phương tiện, cũng cho phép người trí v́ lợi ích chúng sanh mà hành quyền biến vậy!

 

      * Hỏi: Hai anh em Bá Di và Thúc Tề[2] nhường ngôi cho nhau, cuối cùng ai lên ngôi? (Tạ Minh Châu hỏi) 

 

      Đáp: Hai người ấy chẳng có ai lên ngôi cả!

 

      * Hỏi: Yết-ma A Xà Lê là ǵ? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)

 

      Đáp: Đó chính là tiếng Phạn [dịch âm], [chữ Yết Ma (Karma)] dịch sang tiếng Hán rất phức tạp, nên vẫn giữ nguyên âm đọc, chẳng dịch. Đại ư là trong nghi thức truyền giới, hoặc là trong nghi thức sám hối, hết thảy sự nghiệp, hết thảy pháp quy, hoặc ngôn thuyết, hoặc văn sớ v.v… đều được bao gồm trong ấy, nên nói là “phức tạp”. A Xà Lê (Ācārya) cũng là tiếng Phạn, hàm ư là một vị cao tăng hữu đạo, hữu học, có thể dạy Phật pháp. Nếu có tư cách làm thầy, đúng pháp truyền giới cho người khác, hoặc dạy bảo kinh điển, chỉ dạy oai nghi v.v… th́ đều có thể gọi là A Xà Lê. Gộp hai danh từ ấy lại để nói, Yết Ma A Xà Lê chính là vị thầy trong Tam Sư[3] [có trách nhiệm] đọc bài văn Yết Ma của đàn thọ giới. Người chưa từng thọ giới, sợ rằng có nghe cũng chẳng hiểu rơ cho lắm.

 

      * Hỏi: Mật nhân (cái nhân bí mật) của Như Lai là ǵ? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)

 

      Đáp: Tam Tạng mười hai bộ giáo, tám vạn bốn ngàn đà-la-ni, không ǵ chẳng phải là mật nhân của Như Lai, nhưng không có nơi chốn để có thể t́m kiếm được. Người chưa học chẳng nghe, chẳng thấy, kẻ có học mà không hiểu cũng chẳng biết. Có hiểu mà chẳng tham cứu th́ cũng chẳng biết. Tuy tham cứu mà chẳng ngộ vẫn chẳng biết. Đă ngộ mà chưa chứng, vẫn không biết! Dường như quư cư sĩ chưa học, c̣n tại hạ đă học nhưng chẳng hiểu, nay bàn tới chuyện này có lẽ là quá sớm!

 

      * Hỏi: Mật nhân của Như Lai là như thế nào, ắt là Phật và Phật sẽ biết! (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)

 

      Đáp: Đă biết mật nhân của Như Lai th́ tức là Phật. Chính ḿnh phải thành Phật th́ mới biết mật nhân của Như Lai. Ông Giáp thành Phật liền tự biết mật nhân của Như Lai. Ông Ất đă thành Phật, tự biết mật nhân của Như Lai. Chẳng thành Phật, sẽ chẳng biết mật nhân của Như Lai. Ông Giáp thành Phật đă biết, ông Ất thành Phật đă biết. Chẳng thành Phật sẽ chẳng biết mật nhân của Như Lai. Vị Phật tên Giáp đă biết, vị Phật tên Ất đă biết, đó gọi là “Phật và Phật bèn biết”, có ǵ lạ lùng đâu?

     

* Hỏi: Đệ tử biết hết thảy các pháp đều là vô thường, vô ngă, không, tịch diệt, nhưng gần đây đối với hết thảy sự vật, đều muốn truy t́m đến tận nguồn cội, xét rơ nguyên do của chúng, đó có phải là thần kinh có vấn đề hay không? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)

 

      Đáp: Hết thảy mọi sự, hết thảy mọi lư, rộng mênh mông như cát bụi, biết c̣n chẳng dễ, huống hồ truy đến tận nguồn cội! Tuy đó chẳng phải là bệnh thái thần kinh, mà là mê hoặc, vọng tưởng, nhưng trọn chẳng phải là không thể biết, chỉ là học và chẳng học mà thôi. Bậc thánh nhân bẩm sinh đă biết, hiền nhân phải học mới biết, người bậc trung do bị khốn khó mà biết, kẻ bậc hạ tuy bị khốn khó mà chẳng biết, người hạ hạ chẳng học, chẳng nhận biết sự khốn khó, mặc t́nh điên đảo, tán loạn. Tôi đă nói rơ, quư cư sĩ hăy tự xét căn khí của chính ḿnh, trống ḷng cầu học, một mực chẳng lui sụt, trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, tự nhiên đoạn sạch Trần Sa th́ mới có thể đại giác biết toàn bộ. Xét theo lời hỏi, “biết hết thảy các pháp là vô thường, vô ngă” v.v… bất quá là biết phiến diện, trọn chẳng biết c̣n có “hữu thường”, “hữu ngă”! Nếu nay đă biết, th́ chỉ biết được một phần bảy, sao lại tự xưng là biết? Ắt phải lênh đênh trên biển, mới biết là nước nhiều. Ắt phải học rồi mới biết cái học của chính ḿnh chẳng đủ! Trong cái nh́n phàm phu của tại hạ, quư cư sĩ c̣n chưa nhập môn Phật pháp, c̣n đang ở nơi ngơ rẽ, chưa phân biệt được đâu là Đông, đâu là Tây!

     

      * Hỏi: Bồ Tát thị hiện và thừa nguyện tái lai phân biệt như thế nào? (Chung Quân Lương hỏi)

 

      Đáp: Khi thị hiện, hoặc là nhập thai, hoặc là do hóa thân, hóa vật, chẳng phải là một. Thừa nguyện tái lai chỉ là v́ lợi ích chúng sanh mà vào thai, đó là một điều khác biệt. Thị hiện là tùy duyên, tùy thời, ẩn hiện đột ngột, trọn chẳng có hạn chế. Thừa nguyện tái lai, ắt phải trải qua một khoảng thời gian, có tướng sanh diệt. Đó là điểm khác biệt thứ hai.

 

      * Hỏi: Nếu coi xem kinh như một thứ nghiên cứu triết học, coi tin Phật thuộc về vấn đề tôn giáo, có hiểu nhưng chẳng hành th́ có thể liễu giải Phật pháp chánh xác hay chăng? (Chung Quân Lương hỏi)

 

      Đáp: Phật pháp ắt phải do tin tưởng mà có thể nhập. Đă nhập rồi bèn có thể tu, hành và giải tương ứng th́ mới đạt được sự hiểu biết thật sự. Nếu chỉ coi là nghiên cứu triết học, có giải mà chẳng hành, e rằng giải cũng chẳng sâu. Đàm luận việc dụng binh trên giấy, chẳng có mảy may kinh nghiệm ǵ, lẽ nào chánh xác cho được!

 

      * Hỏi: Trong bài Tuyết Lư Thị Học Ngữ Lục đăng trên Từ Quang Bán Nguyệt San số ra ngày Rằm tháng Tư có đoạn “tự thắng ḿnh là bậc thượng”, phần cuối có ghi: “…Tôi thường khuyên người khác có thể hành thiện nghiệp, nhưng đừng nên trị thiện nghiệp”. Hành và trị khác nhau như thế nào? (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

      Đáp: Hành và Trị là do người ghi chép đă chọn lựa từ ngữ, chứ khi nói, tôi chỉ dùng văn Bạch Thoại. Đại ư là mỗi cá nhân hăy tự lượng sức của chính ḿnh để làm lành, chẳng cần phải kết thành đoàn thể, thiết lập cơ cấu từ thiện mà thôi. Đây chính là do thời thế mà lập bày, là phương tiện nhất thời, chẳng phải nói theo kiểu trăm năm bất biến. Người khéo nghe hăy nên suy ngẫm ư vị.

 

      * Hỏi: Có một cư sĩ từng thọ phương tiện Bồ Tát giới tại chùa Linh Sơn, đến nay cũng ăn chay, nhưng hoàn toàn chẳng biết giới văn, mà cũng chẳng có Bồ Tát giới bổn. Đệ tử có thể tặng cho người ấy một quyển Bồ Tát giới bổn hay không? (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

      Đáp: Người ấy đă thọ giới, phải nên có giới bổn. Ông ta đă không có, biếu tặng là đúng rồi!

 

      * Hỏi: Núi, sông, đại địa v.v… thế giới toàn là do mê vọng hiện ra, lại là cộng nghiệp. V́ thế, một người thành Phật, huyễn hữu thế giới trong tâm người ấy liền tiêu diệt, nhưng núi, sông, đại địa vẫn nghiễm nhiên tồn tại. Nếu hữu t́nh trên cả thế giới đều thành Phật, có phải là thế giới hoàn toàn tiêu diệt hay không? (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

      Đáp: Đối với Hiện Lượng trước mắt, chúng ta c̣n chưa hiểu rơ. Hai chữ “nếu như” có ư nghĩa gần với giả thiết, cớ ǵ lại phải bày sẵn hư luận, thốt lời vọng ngữ to lớn? Chỉ xin ông hăy suy nghĩ cặn kẽ một chuyện, Tây Phương Cực Lạc chính là cơi nước của Phật Di Đà. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm có đất, ao, lầu, đài, rừng cây, hoa… Thường Tịch Quang th́ chẳng có, xin hăy nghiên cứu lư trong kinh, chẳng cần phải đặt ra câu hỏi!

 

      * Hỏi: Có một vị cư sĩ nói “gần đây, tôi vẫn dấy lên rất nhiều phiền năo, v́ sao Phật, Bồ Tát chẳng gia bị tôi, khiến cho phiền năo hoàn toàn tiêu diệt?” Đệ tử đáp: “Cần phải biết vạn pháp do tâm tạo, phiền năo phải do chính ḿnh tiêu diệt. Phật, Bồ Tát chẳng thể tiêu diệt giùm ông. Chỉ cần ông chân tâm tin Phật, buông xuống hết thảy, phá tan Ngă Chấp, phiền năo sẽ tự nhiên tiêu diệt”. Dường như bà ta chẳng đồng ư, xin hỏi có cách trả lời nào khác hay chăng? (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

      Đáp: Lời đáp của đại đức rất hợp chánh lư. Bà ta chẳng tin tưởng là do nghiệp chướng của chính bà ta nặng nề. Hơn nữa, tâm chúng sanh vốn vô thường, nên hôm nay nghĩ Đông, ngày mai lại chuyển sang Tây, làm sao có thể tính sẵn lời lẽ theo khuôn khổ cứng ngắc ḥng đối ứng cái tâm thiên biến vạn hóa! Nói chẳng hợp căn cơ th́ nửa câu đă nhiều. Do vậy, Phật pháp trọng khế cơ, khế lư. Cần phải biết là thầy thuốc chẳng thấy bệnh nhân, chẳng thể kê toa. Đối với vị cư sĩ ấy, tôi hoàn toàn chẳng biết ǵ về bà ta, ông bảo tôi nói ǵ đây?

 

      * Hỏi: Màu sắc th́ dùng màu vàng và đỏ trong khi hỷ khánh hoặc dịp cát tường. Hai màu đen và trắng dùng cho tang chế, nhưng có người nói chẳng phải vậy! Như áo của cô dâu [thường là màu trắng], hoặc là áo hải thanh của chúng ta dù là gặp dịp hỷ khánh, hoặc cúng lễ, toàn dùng một màu. Điều này khiến tôi mờ mịt, xin hăy khai thị! (Bồ Ngụy Truyền hỏi)

     

      Đáp: Lời hỏi này nhắm vào sự diễn biến trong phong tục tập quán xưa nay, chỉ là mỗi thời coi trọng [màu sắc] khác nhau. Như thời vua Nghiêu coi trọng màu trắng, thời vua Thuấn chuộng màu đỏ, thời vua Vũ chuộng màu đen. Triều đại nhà Thương lại chuộng màu trắng, triều đại nhà Châu lại chuộng màu đỏ, triều đại nhà Tần lại chuộng màu đen. Triều đại nhà Thanh lại chuyên chuộng màu vàng. Những màu được ưa chuộng mỗi thời đều được coi là cát khánh. Cho đến thời cận đại, hễ có chuyện cát khánh bèn chuộng màu đỏ, tang chế đều mặc màu trắng. Hiện thời, trong lễ kết hôn, cô dâu mặc màu trắng, chính là chịu ảnh hưởng của ngoại quốc, chẳng phải là lễ tiết Trung Hoa quy định sử dụng màu trắng. Hải thanh dùng màu đen là tuân thủ quy chế dành cho người xuất gia, chẳng liên quan ǵ đến cát, hung. Lời hỏi của Ngài chẳng dính líu ǵ đến Phật học, tôi phương tiện trả lời một lần. Sau này nếu rủ ḷng hỏi tới, xin hăy hạn chế trong lănh vực Phật học.

 

      * Hỏi: Người sau khi đă chết, [người thân] cúng thất, chẳng mời thầy đến tụng kinh, mà mở băng tụng kinh th́ có được hay không? (Tạ Minh Châu hỏi)

 

      Đáp: Chim vẹt miệng có, tâm không. Băng thâu âm xướng tụng có tiếng, nhưng thiếu nguyện, sức lực nhỏ nhoi, chẳng thể nói là chẳng có tác dụng ǵ! Nh́n sắc núi, nghe tiếng nước chảy, hoa rụng, lá rơi, đều là vô t́nh, mà c̣n khởi tác dụng. Hữu cảm, sẽ tự được thông suốt vậy!

 

      * Hỏi: Cầu tiêu tai, miễn nạn th́ tụng kinh Kim Cang, chúc thọ th́ tụng Thủy Sám, [làm như thế] có thích đáng hay không? Có phải là mỗi bản kinh Phật đều có tác dụng tiêu tai, cầu phước hay không? (Tạ Minh Châu hỏi)

 

      Đáp: Hễ có tâm phân biệt th́ có sự cảm ứng phân biệt theo từng pháp. Chẳng có tâm phân biệt, hễ nêu lên một kinh, đều là một Thể mà có muôn vàn tác dụng, không ǵ chẳng cảm ứng. Có người hỏi ḥa thượng Đại Châu: “Tŕ kinh Bát Nhă công đức nhiều nhất, Sư có tin hay chăng?” Sư đáp: “Chẳng tin. Linh nghiệm là do dụng tâm của người tŕ kinh; v́ thế, thần thông có thể cảm vật”. Đủ thấy tụng kinh cầu nguyện là do ḷng thành của người ấy, chẳng do bất cứ kinh nào!

 

      * Hỏi: Con người sau khi đă chết, hỏa thiêu, đem tro đặt trong nhà thờ cốt, đến đó lễ bái th́ có linh nghiệm hay chăng? Có phải là đă trở thành vật vô tri? Có phải là nhằm biểu lộ ư nghĩ cung kính ḥng kỷ niệm đó thôi? (Tạ Minh Châu hỏi)

 

      Đáp: Khổng Tử nói: “Tế như tại, tế thần như thần tại” (cúng tế như đối tượng ta đang tế lễ hiện diện, tế thần giống như thần đang hiện diện). Lại nói: “Tế tắc đắc phước” (cúng tế được phước). Văn Vương tế miếu, tế xong liền nghe tiếng thở dài. Cư sĩ nghi ngờ “có linh hay không”, coi đó là vật vô tri giác, tức là đă mâu thuẫn với kinh Phật, lại c̣n trái nghịch kinh điển của thánh nhân, truyện kư của hiền nhân trong cơi đời. Cứ theo lệ đó mà suy rộng ra, Phật thờ trong chùa miếu, há chẳng phải là bằng gỗ khắc, đất đắp, đồng đúc, tranh vẽ trên giấy, nếu coi nhất loạt giống như những vật kỷ niệm, há chẳng phải là theo phái Duy Vật Luận ư? Ông cố t́nh cật vấn, hay là thật sự có nỗi nghi ấy? Cả hai lẽ đều chẳng phải là lập trường của Phật giáo, hăy nên tự kiểm thảo, đừng đi vào lối rẽ!

 

      * Hỏi: Tỷ dụ như có người tám giờ sáng hôm nay tắt hơi, đến bốn giờ chiều mai hỏa táng, có phải là thần thức đă ĺa khỏi xác hay chăng? (Tạ Minh Châu hỏi)

 

      Đáp: Chẳng nhất định! Thần thức ĺa xác có nhanh hay chậm khác nhau. Hễ nhanh th́ trong một cái khảy ngón tay, nếu chậm bèn có hai ba ngày khác biệt. Khoa học có khái niệm “thời gian đợi cho người ta chết hẳn”, cổ tục có lệ “chờ ba ngày rồi mới đại liệm”.

 

      * Hỏi: Gần đây, tôi rất nóng nảy, căng thẳng, sợ sệt, phiền muộn, tâm chẳng tĩnh được, chẳng có cách nào niệm A Di Đà Phật. T́nh h́nh này là do nghiệp báo, quả báo ác, hay là do bệnh tật nơi thân? Có phải là bị bệnh thần kinh hay không? Chỉ có khi nghe thầy giảng kinh th́ tâm t́nh tôi mới khá thoải mái, nhưng chỉ có thể giữ được [sự thoải mái ấy] trong khoảng hơn một ngày, sau đấy lại mắc phải những tật như vừa kể trên đây, hết sức khổ năo! Chẳng biết phải làm như thế nào th́ mới nên? (Tạ Minh Châu hỏi)

 

      Đáp: Đă tự biết là sai, càng phải nên khống chế, nhưng khống chế cố nhiên chẳng phải là dễ dàng. Ông nói thích nghe kinh th́ ở Đài Trung, mỗi tuần có bốn chỗ giảng kinh, nếu có thời gian, hăy nên nhất loạt tham gia, hăy thử xem như thế nào!

 

      * Hỏi: Khi đệ tử nghiên cứu, xem đọc kinh điển, dường như khi hiểu, khi không. Nói là “dường như hiểu” thật ra cũng là tự ḿnh nghĩ là đă hiểu, rốt cuộc có hiểu hay không th́ chính ḿnh trọn chẳng có năng lực [phán định]. Như đối với câu “do mê vọng nên có hư không, nương vào hư không mà lập thế giới”, đệ tử hiểu nó có nghĩa là: Chân Như bản tánh vốn sẵn thanh tịnh, chợt có một niệm bất giác, muốn từ trên cái Minh lại chồng thêm một cái Minh nữa, nên biến thành căn bản vô minh. Đă có vô minh, lại tiếp tục dấy động [ư niệm] cầu được thấy, nhưng chẳng có cảnh để có thể thấy. Trừng mắt nh́n, do mỏi mắt nên trong hư không mờ mịt bèn hiện ra cảnh giới Tứ Đại hư vọng. Lại do Tứ Đại tùy duyên mà thành lập khí thế gian, do Kiến Phần mà lập ra hữu t́nh thế gian. Liễu giải như trên đây có đúng hay chăng? Xin thầy hăy chứng minh! (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

      Đáp: Đại khái là như vậy, nhưng câu nói “Tứ Đại tùy duyên bèn thành lập khí thế gian, do Kiến Phần mà tạo lập hữu t́nh thế gian” phạm phải khuyết điểm. Muốn hiểu tường tận, hăy nên nghiên cứu [giáo nghĩa] Tam Tế, Lục Thô, sẽ tự noi theo khuôn phép đúng đắn.

 

      * Hỏi: Những người đệ tử được tiếp xúc chẳng phải là kẻ hạ ngu, mà cũng chẳng phải là bậc thượng trí, đa số là hạng tiêm nhiễm tập khí Âu Tây, tợ hồ hiểu mà chẳng hiểu. Tôi mong khuyên họ tin Phật, nhưng nếu hoàn toàn dựa theo những ǵ kinh Phật đă dạy để nói với họ, họ chẳng tin tưởng. Nếu nói phương tiện khế cơ th́ đệ tử chẳng đủ trí huệ, sợ phạm giới luật. Xin thầy khai thị một nguyên tắc về pháp phương tiện để thuận tiện tuân theo! (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

      Đáp: Tâm cư sĩ tốt lành thay, nhưng điều cư sĩ mong cầu chẳng thỏa đáng. Khuyên người khác học Phật giống như bác sĩ trị bệnh, ắt trước hết phải chẩn trị rơ ràng căn bệnh, sau đấy mới cân nhắc bốc thuốc. Thuốc phù hợp bệnh, chưa chắc đă chữa lành ngay, nhưng chẳng gây hại. Đối với hạng người như ông đă nói, chấp trước quá sâu, họ đă sẵn có thành kiến “khoa học là vạn năng, Phật pháp là mê tín”. Nếu trực tiếp dùng Phật pháp để giảng giải, nói sâu th́ họ chẳng hiểu, nói cạn chắc chắn sẽ bị họ cười cợt, chế nhạo. Cư sĩ hăy nên đối với những ǵ họ đă biết, mà chính ḿnh cũng biết, thuận theo sự chấp trước của họ để phá trừ [những thành kiến của họ], hoặc thuận theo họ để nhiếp thủ th́ mới có chỗ tương ứng. Phật pháp chú trọng phương tiện, phương tiện là thuận theo quyền biến: Chợt nói “chó có Phật tánh”, chợt nói “chó chẳng có Phật tánh”, đều là “chỉ lá rụng mà bảo là vàng ṛng”, nói “trúc biếc là Bát Nhă”, há có ǵ là phạm giới? Nếu yêu cầu kẻ hèn này soạn sẵn một toa thuốc để chuẩn bị nhằm đợi cho kẻ ấy bị bệnh sẽ cho uống th́ chính là một gă thầy thuốc lỗ măng. Hơn nữa, bệnh thiên biến vạn hóa, càng chẳng thể khư khư tuân theo một toa thuốc được!

 

      * Hỏi: Để thành đạo quả, lại nói phải đoạn Hoặc. Lại nói “phải chế phục Hoặc; nhưng rồi lại nói “chế phục Hoặc” th́ chẳng triệt để. Xin hăy dạy phương pháp đoạn Hoặc và chế phục Hoặc? (Ẩn Danh Thị hỏi)

 

      Đáp: Trước hết phải biết danh số của Hoặc (phiền năo), và nhận biết chúng triệt để, th́ khi chúng nó dấy lên sẽ nhận biết. Đă nhận biết, sẽ có thể khống chế, khiến cho chúng nó chẳng dấy lên. Đó gọi là Chế Phục. Cố nhiên chế phục th́ chẳng triệt để. Hăy nên biết vạn pháp sanh từ nhân duyên, cái có thể chế phục chính là đoạn duyên. Duyên chẳng có, nhân sẽ chẳng sanh. Do vô duyên lâu ngày, chế phục sẽ trở thành đoạn. Đoạn ngay lập tức là Đốn; tuy tốt lành, nhưng ít người có thể làm được. Có thể chế phục th́ là Tiệm, tuy kém hơn, nhưng gắng sức th́ vẫn có thể làm được. Thế nhưng chuyện này chẳng phải là chuyện của kẻ sơ học. Dẫu nói rất cạn, vẫn sợ chẳng thể liễu giải, ắt cần phải thông hiểu đôi chút về đường lối trong Phật học th́ mới có thể nói đến chuyện này. Kính biếu ông hai tập sách nhỏ, mong hăy đọc trước.

 

      * Hỏi: Học Phật có bắt buộc phải ăn chay hay không? V́ sao trưởng lăo Tế Điên ăn thịt, uống rượu, Quan Công cũng uống rượu ăn thịt? Có người nói Đại Thừa Phật pháp chẳng chấp tướng, chẳng chấp tướng có nghĩa là ǵ? (Ẩn Danh Thị hỏi)

 

      Đáp: Chuyện ăn chay rất khó nói. Người mới học chẳng sát sanh, chẳng ăn thịt là tốt nhất. Nếu chẳng thể thôi ăn thịt, có thể mua ngoài chợ, ăn thịt của những con vật đă bị giết sẵn, hoặc mua cá đă chết, hoặc mua thịt đóng hộp, đủ để no bụng mà thôi! Các loại thịt ấy chẳng do ta giết, chẳng thấy, chẳng nghe, hoặc tự chết, nên Phật pháp gọi chung [những thứ thịt ấy] là “tịnh nhục”, [ăn như thế] cũng có công đức. Lâu ngày sẽ dần dần học ăn chay. Từ ăn chay ít hôm, dần dần tăng lên nhiều; khi cơ duyên đến, sẽ tự có thể ăn chay trường. Quan Công dùng rượu thịt là chuyện lúc c̣n sống, chưa học Phật. Tế Công là bậc La Hán chứng quả có thần thông, chẳng phá giới; chuyện Ngài ăn thịt uống rượu thuộc về huyễn thuật. Nếu hỏi đến Đại Thừa th́ tạm thời khó nói, v́ bọn ta c̣n chưa nhập thừa, làm sao nói là Đại Thừa hay Tiểu Thừa cho được! Nếu hiểu rơ Phật lư, sau khi đă giác ngộ Thể là không, Tướng là có, liễu giải các tướng đều là hư vọng th́ mới chẳng chấp trước giả hữu đang hiện tiền. Đó gọi là “chẳng chấp tướng”.

 

      * Hỏi: Phật giáo nói đến quan niệm “hết thảy b́nh đẳng”, hễ phát tâm vô thượng liền có tư cách thành Phật. Nhưng trong kinh Phật đâu đâu cũng chê trách nữ nhân, thường nói nữ nhân chướng nặng chẳng thể thành Phật, ắt trước hết phải chuyển thành thân nam th́ mới được. Nam nhân nếu chẳng có tín, giải, hành, chứng, làm sao có tư cách thành Phật cho được? Đó có phải là bất b́nh đẳng hay chăng? (Châu Huệ Đức hỏi)

 

      Đáp: Phát vô thượng tâm là cái nhân để thành Phật, nhưng ắt phải là tinh tấn chẳng lui sụt th́ mới được thành tựu. Hễ thoái chuyển, phần nhiều là do có chướng ngại. Chướng vốn tự sanh, tự chướng, tự thoái chuyển, làm sao có thể thành Phật cho được? Chúng sanh không ai chẳng có chướng, nhưng có nặng hay nhẹ sai khác. Nam nữ mỗi giới có tập tánh [khác biệt], do t́nh thức mà h́nh thành ranh giới rạch ṛi. Điều dễ nhận thấy là nữ nhân t́nh thức dễ xúc động, nên khó thể tiêu diệt [các chướng ngại phiền năo], nam tử khó rung động, nên dễ tiêu trừ. Điều này có mối quan hệ to lớn đối với chuyện chướng nặng hay nhẹ, nhưng cũng là nói theo đa số, chẳng phải là không có ngoại lệ. Như thiên nữ trong kinh Tịnh Danh, long nữ trong kinh Pháp Hoa, và các bà Nguyệt Thượng, Am Đề[4] v.v… trong những kinh khác, há chẳng phải là đều thành tựu ư? Kinh Tịnh Danh nói: “Hoa này chẳng phân biệt, do nhân giả tự sanh ư tưởng phân biệt”[5]. Hăy nên biết đức Phật chẳng phải là bất b́nh đẳng, mà là do t́nh thức tự sanh chướng ngại! Lại nữa, tư cách thành Phật th́ nam hay nữ đều có, nghĩa là đều có tâm tánh, đó là Bổn Giác. Tín, giải, hành, chứng chính là Tu Đức. Ĺa bỏ các Tu Đức ấy th́ tư cách rốt cuộc chỉ là tư cách [suông] mà thôi!

 

      * Hỏi: Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, không ǵ chẳng v́ độ chúng sanh. Trong hội Pháp Hoa, ngài Xá Lợi Phất cầu thỉnh ba lượt, Phật hai lượt ngăn cản tôn giả là v́ lư do nào? (Châu Huệ Đức hỏi)

 

      Đáp: Đức Phật thuyết pháp, thiện xảo thật nhiều. Trong thuở ấy, nếu ngài Xá Lợi Phất biết, ắt sẽ thỉnh cầu ba lượt. Nếu chẳng biết, ắt vẫn thỉnh cầu ba lượt. Kẻ hèn này đă chẳng biết Phật, lại chẳng biết ngài Xá Lợi Phất, bà đă hỏi lầm người về lư do ấy, muốn biết rành rẽ nẻo lên núi lại đi hỏi kẻ chèo thuyền!

 

      * Hỏi: “Chưa thể tự độ, đă muốn độ người khác trước”. Đại Thừa thường nói như thế, cũng là ḷng đại bi. Thế nhưng có đại bi th́ ắt phải có đại trí, nhưng trước hết ắt phải hỏi chính ḿnh thật sự có tư cách ấy hay không? Nếu chẳng thể tinh tấn thiết thực dụng công, chuyên làm chuyện độ sanh, sẽ chẳng tránh khỏi rong ruổi bên ngoài! (Châu Huệ Đức hỏi)

 

      Đáp: Đoạn đầu, bà đă nói rất đúng. Đă chẳng có trí huệ, lại chẳng có thật tu, chính ḿnh c̣n chẳng độ được, làm sao có thể độ người khác? Có Bi th́ chính là có Trí, chẳng qua là bi trí vẹn toàn, hay có bi và trí nhiều ít. Trí ít sẽ chẳng biết thiện xảo, nên chẳng dễ khế hợp kẻ khác. Nếu là bi nhiều, hăy nên cầu trí, nhưng trí huệ trọn chẳng phải là nói suông mà ḥng đạt được. Trong lúc tâm lư mâu thuẫn, chẳng trở ngại khen ngợi Phật, khuyên tu, đó chính là hành Bồ Tát đạo. “Độ” là đưa đến bờ kia, “khuyến” là khuyên họ hăy ngồi thuyền!

 

      * Hỏi: Cổ đức nói: “Nếu Bồ Tát phát tâm liền độ sanh th́ chẳng có lẽ ấy”. Giải thích lời ấy như thế nào? Rốt cuộc là khởi đầu từ chỗ nào? (Châu Huệ Đức hỏi)

 

      Đáp: Ví như thấy có người ngă xuống biển, chính ḿnh chẳng biết bơi, bèn nhảy xuống biển cứu người ấy, cùng bị chết đuối, nên nói là “chẳng có lẽ ấy”. Hễ học Bồ Tát th́ ai mà chẳng phát Tứ Hoằng Thệ Nguyện? Câu đầu tiên là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, câu kết thúc là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Đă nghe như thế th́ hăy nên hành như thế. Nhưng cũng chẳng phải là đợi đến lúc chứng quả rồi mới hành hạnh độ chúng sanh. Chỉ là biết được một phần bèn thí cho người khác một phần, biết mười phần bèn thí cho người khác mười phần. Tùy duyên tùy phần, sẽ là rất tốt đẹp!

 

      * Hỏi: Làm thế nào để khiến cho kẻ tin tưởng Nhất Quán Đạo có thể chánh thức chân thành tin tưởng Tam Bảo, quy nhập Phật môn, trở thành đệ tử Phật, ḥng liễu thoát sanh tử, tự lợi, lợi tha? (Ông Thủy Trụ hỏi).

 

      Đáp: Tâm của ngài tốt lành, chẳng ngại xem xét. Đây cũng là vấn đề cơ duyên. Những kẻ ấy đă có thiện căn, gặp được thiện duyên, sẽ có thể chuyển biến. Nếu chẳng có thiện căn, hăy nên tạo chủng tử cho họ trong hiện tại. Tuy họ chấp trước Giới Thủ Kiến, nhưng ngài đă phát Bồ Đề tâm. Cố nhiên nếu thành công th́ rất tốt đẹp, nhưng chẳng thành th́ cũng chẳng thất bại. Chẳng tinh tấn, chẳng phát bi tâm, sẽ là hủ bại. Nhưng hai chữ “như hà” (như thế nào) chẳng cần phải hỏi nhiều, [bởi lẽ] chẳng có chuyện ǵ nhất định, các pháp phải xét theo sự thiện xảo.

 

      * Hỏi: Hậu học buổi sáng tụng kinh Kim Cang, buổi tối tụng kinh Di Đà, [dự tính] đổi thời gian tụng niệm thành xem kinh hoặc đọc tạp chí Phật giáo, nghiên cứu Phật lư. Niệm tụng và xem kinh đằng nào tốt hơn? (Trần Tánh Khiết hỏi)

 

      Đáp: Tụng niệm sáng tối là tu tŕ, là pháp cúng dường, chớ nên phế trừ. Xem kinh và nghiên cứu giáo lư là công phu tư duy, hai đằng chớ nên khuyết một. Nếu thời gian chẳng đủ, tu tŕ ắt phải có thời điểm cố định, c̣n tư duy th́ có thể dành thời gian rảnh rỗi để thực hiện.

 

      * Hỏi: Trong đoạn cuối cùng trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, đức Phật nói kinh ấy xong, long vương Ta Kiệt La và các đại chúng “nhất thiết thế gian” thiên, nhân, A Tu La v.v… đều hoan hỷ to lớn, tin nhận, vâng làm. Chữ “nhất thiết thế gian” nói đến mấy thế gian? (Trần Tánh Khiết hỏi)

 

      Đáp: Hai chữ “thế gian” bao gồm khí thế gian, hữu t́nh thế gian, và giác thế gian sai khác. “Khí” () là nói núi, sông, đại địa, và một ngọn cỏ, một cái cây, một hạt cát, một hạt bụi đều là [khí thế gian]. Hữu t́nh là nói đến lục đạo chúng sanh, thai, noăn, thấp, hóa, đều là [hữu t́nh]. Giác là nói Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đều là [giác hữu t́nh]. Hai chữ “nhất thiết” có Tổng và Biệt. Biệt là nói tới số lượng khí, hữu t́nh, giác thế gian trong một đạo tràng nào đó. Tổng là nói tới số lượng khí, hữu t́nh, giác thế gian trong một đại thiên. Nói rộng ra th́ tận hư không khắp pháp giới cũng được gộp trong ấy, nhưng cần phải xét là kinh văn thuộc về kinh nào, khoa nào th́ mới có thể biết đại lược là nói về điều nào (Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn cũng gọi là hữu t́nh).

 

      * Hỏi: Con người từ đâu đến? Chết sẽ đi về đâu? (Tạ Minh Châu hỏi)

 

      Đáp: Từ vô minh, vọng tưởng mà có, chết rồi sẽ luân hồi trong lục đạo. Vô minh giống như ngủ mê, lục đạo là mộng huyễn, có thể nói là do nằm mộng mà có, lại đi vào trong mộng. Lại hăy nên biết: Nay đang nằm mộng, hoàn toàn chẳng tỉnh, có thể nói là “chẳng đến, chẳng đi”, mà cũng chẳng có hiện tại, cũng chẳng có khởi đầu, cũng chẳng có kết thúc, chỉ là một giấc mộng chẳng tỉnh đó thôi!

 

       * Hỏi: “Cảnh giới Niết Bàn dài lâu như trời và đất”, câu ấy có phạm sai lầm hay chăng? Có phải là trời đất sẽ có ngày bị hủy hoại? Cảnh giới Niết Bàn có phải là nói bất sanh, bất diệt hay không? (Tạ Minh Châu hỏi)

      Đáp: Câu “cảnh giới Niết Bàn dài lâu như trời và đất” sai lầm quá to, há có phải là sai sót đôi chút ư? Muôn pháp đều trải qua các giai đoạn thành, trụ, hoại, không; trời và đất cũng chẳng phải là ngoại lệ. Niết Bàn là viên tịch. Đă chẳng sanh, há có diệt?

 

      * Hỏi: “Nghịch thực tằng như tào lư mỹ, qua tế hà thắng thái canh điềm, bổng lộc chỉ kham cung lễ nghi, cử gia thực phí cận bàn hoàn, bách quỹ đài hồi thất tiết vật, măn sương trang khỏa muội tâm tiền. Xuy trượng đồ lưu thùy bất phạ, khuyến nhĩ đài đầu khán thượng thiên” (ăn ngỗng khác ǵ sâu đục mận? Cúng dưa há ngọt kém canh rau? Bổng lộc chỉ vừa lo đủ lễ, cả nhà ăn uống chỉ vừa mâm, vàng bạc khuân về, đồ hối lộ! Đầy rương của cải, dạ không lành. Đánh, đập, lưu đày ai chẳng sợ. Khuyên ngươi ngẩng mặt ngắm trời xanh)[6], đoạn kinh văn Đào Viên Minh Thánh Kinh[7] ấy nói lên ư nghĩa ǵ? Chú giải về sự liêm khiết, nghĩa khí là chuyện như thế nào? (Cao Tân Phát hỏi)

 

      Đáp: Ông đă hỏi về lời dạy trong các quẻ xăm, tuy thuộc về cách lập giáo của thần đạo, nhưng dẫn chứng kinh điển, cổ kính, thanh nhă tuyệt vời! Do ông hỏi về ư nghĩa, nên tôi chẳng chú thích văn tự, [bởi lẽ] dẫu có giảng giải văn tự, cũng chẳng thể trọn hết ư nghĩa. Bởi văn tự chỉ nói đến một phương diện, ư nghĩa được bao hàm trong ấy thiên sai vạn biệt. Cần phải xét khi xin xăm để bói toán có tâm sự như thế nào rồi mới thuận theo lời xăm để suy đoán. Tôi vốn chẳng có loại học vấn này, lại chẳng biết ông bói toán để cầu chuyện ǵ. Dẫu biết cầu điều ǵ, nhưng tự xét th́ thấy ḿnh cũng chẳng hiểu rơ ư thần!

 

      * Hỏi: Độc giả toàn là hạng hiểu biết Phật học nông cạn ngoài da, xin cụ hăy nên dùng lối Văn Ngôn đơn giản, dễ hiểu, hoặc dùng văn Bạch Thoại để giải thích. Nếu dẫn chứng kinh điển, xin hăy châm chước ban thêm lời chú thích có nên chăng? (Cao Chiêm hỏi)

 

      Đáp: Lần này tôi chẳng dẫn chứng kinh điển. Sách Mạnh Tử tuy là kinh điển, nhưng hai câu ấy trọn chẳng phải là khó hiểu, nên chưa thể tuân mạng viết thêm lời chú giải. Lời đáp “diệu tánh vốn là không” giống như văn Bạch Thoại, nhưng tôi chẳng dám sửa đổi thuật ngữ.

 

      * Hỏi: Xin cụ đối với mỗi điều đều nêu ra một chuyện để làm thí dụ, ngơ hầu [lời đáp] được rơ ràng hơn, có nên hay chăng? (Cao Chiêm hỏi)

 

      Đáp: Đối với lời dạy “hăy nêu thí dụ” của ông, đúng lư th́ phải tuân theo. Đối với lư quá sâu, tôi sẽ dẫn chứng thí dụ. C̣n đối với những lư mà gắng gượng vẫn có thể hiểu th́ không cần [phải dẫn chứng].

 

      * Hỏi: Tại Đài Trung có những tổ chức cư sĩ nào? Trong các tổ chức, có thầy dạy về lễ tiết trong Phật môn, cách niệm kinh, xướng tán, sử dụng pháp khí v.v… cho người mới học hay không? Có cơ sở công cộng để người từ phương xa đến học tập, nghe kinh có nơi nghỉ chân (sẽ tự lo liệu tiền ăn) hay không? (Cao Chiêm hỏi)

 

      Đáp: Ở Đài Trung tuy có tổ chức của cư sĩ, nhưng chỉ là trường sở để nghe kinh. Trong các đoàn thể cư sĩ, trọn chẳng có cơ sở để khách ở lâu dài được. Nếu nói đến chuyện nghi thức, lễ tiết, niệm kinh, xướng tán, cách đánh pháp khí đúng nhịp v.v… th́ hàng tại gia vạn phần chẳng bằng hàng xuất gia, do sai khác về mức độ thuần thục.

 

      * Hỏi: Chỗ nào ở Đài Loan có thể dành cho người chưa xuất gia [tạm trú tại đó] tu hành, họ chỉ cần trả một chút tiền ăn và tiền ở? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Tôi bận bịu, phần nhiều chẳng ra ngoài, tuy nghe nói chùa ở miền thôn quê nơi vùng núi có cách thức ấy, nhưng chưa từng đích thân thấy, nên chẳng dám nói bừa! Ngài từng sống tại Đài Bắc, tự nhiên là tin tức nhanh nhạy, nếu muốn chọn chỗ để tu hành, sao không đích thân hỏi thăm khắp đảo? Tuy kiếm được chỗ, cũng cần phải là đôi bên ḥa hợp. Nếu không, nhân duyên chẳng thuận, tu hành cũng nẩy sanh chướng ngại.

 

* Hỏi: Ông có nghĩ sẽ kiếm một chữ cụ thể hơn để thay thế hai chữ Không và Vô, v́ tôi cảm thấy chẳng dễ ǵ liễu giải hai chữ ấy? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

     

      Đáp: “Không” là chân tướng của muôn pháp, là điều phải nên giác bậc nhất. Nếu chẳng thể ngộ Không, trước hết phải từ Hữu mà thực hiện. Làm thiện được phước, niệm Phật khai Huệ. Có nhân bèn có quả, tương lai tự nhiên rất tốt đẹp. Ngài bảo tại hạ t́m một chữ thay thế, tức là đă vạn phần lầm lạc, muôn phần lầm tưởng. Tự tiện thay đổi Phật lư, sẽ có phần trong tam đồ! Trên đây, tôi đă từng đề xuất “hăy thực hiện từ Hữu”, Hữu cũng do đức Phật nói. Kinh dạy “Không chẳng khác Sắc”, nên tôi mới dám dâng lên [ngài ư kiến ấy].

 

      * Hỏi: V́ sao người niệm Phật lâu ngày cứ khăng khăng thượng phẩm thượng sanh. Như tôi biết: Đối với người học Phật, thế giới An Lạc chẳng phải là mục đích. Nếu không, th́ là thiên đường hay địa ngục! (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Câu hỏi này ư nghĩa chẳng rơ rệt, nên đoạn sau chẳng trả lời! Nếu cứ muốn liễu giải, cần phải sửa chữ từ ngữ, câu văn, sao cho [ư nghĩa được thể hiện] rơ rệt, sau đấy tôi mới đáp lời được. Mong mỏi thượng phẩm thượng sanh là do phải chọn lấy pháp bậc thượng. Quả đắc thượng phẩm chính là lập tức hoa nở thấy Phật.

 

      * Hỏi: Đức Phật chẳng cho phép Bồ Tát, La Hán bộc lộ thân phận trong đời Mạt Pháp là v́ lư do nào? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Phật và Bồ Tát luôn hiện thân, nhưng tướng trạng bất nhất, nên phàm phu chẳng thấy. Chẳng thể trông thấy là do không có duyên thù thắng. Lại nữa, kẻ chẳng hiểu Phật lư th́ [tuy] có chạm mặt gặp gỡ, cũng chẳng biết!

 

      * Hỏi: V́ sao đức Phật được gọi là bậc ḥa thượng hữu đức mà c̣n dung chứa “sư tử trùng” (trùng ăn bám trong thân sư tử), chẳng chủ trương trừ bỏ những con sư tử trùng hút máu ấy? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Phật pháp đại từ, đại bi, b́nh đẳng độ chúng sanh. Sư tử trùng cũng là chúng sanh, chỉ nên bi mẫn cảm hóa. Khi thời cơ và nhân duyên chín muồi, sư tử trùng cũng thành Bồ Đề.

 

      * Hỏi: Đức Phật dạy tám vạn bốn ngàn pháp môn, Thiền Tông truyền riêng ngoài giáo, [do đó] có phải là tám vạn bốn ngàn lẻ một pháp môn hay không? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

       Đáp: Ba mối Giới, Định, Huệ là tổng cương lănh của Phật giáo. Thiền chính là Định. Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều chẳng ĺa Định. Nói “truyền riêng” là nói tới cách tu đặc biệt, chứ không có nghĩa là ở ngoài tâm lại có một đạo riêng!

 

      * Hỏi: Ông có thể cho tôi biết con mắt thứ ba mọc ở chỗ nào? Nó thật sự khó mở! (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

     

      Đáp: Danh xưng của mắt rất nhiều, ngài muốn hỏi loại mắt nào? Hết thảy động vật đều có mắt. Trong loài thực vật, hoa lan có Phượng Nhăn[8], cây cối th́ có Liễu Nhăn[9]. Nước trong loài khoáng vật cũng có Tuyền Nhăn[10]. Trong thơ văn có Tự Nhăn[11], trong âm nhạc có Bản Nhăn[12], tim Tỷ Can có Thất Nhăn[13], đức Phật có Ngũ Nhăn, rốt cuộc là ngài hỏi về loại mắt nào? Ngài chỉ rơ, tôi sẽ đáp!

     

* Hỏi: Cổ đại đức nói: “Dùng Phật để cầu Phật, vĩnh viễn chẳng thấy Phật”, niệm Phật chẳng phải là dùng Phật để cầu Phật ư? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Cổ đức dùng lời lẽ ấy để nói với người học Thiền bản lănh sâu xa, chứ kẻ sơ cơ học Phật [nghe lời ấy sẽ] hoàn toàn mờ mịt! Lại c̣n chẳng thể nói với hạng người chẳng Thiền, chẳng Tịnh, sợ họ nẩy sanh hiểu lầm, dẫn khởi tà kiến, càng chuốc lấy lầm lạc. Nay ngài đưa ra câu hỏi này, cũng là đang ở ngă ba, chẳng nhận biết ǵ, tại hạ chỉ đành ngậm miệng chẳng bàn luận th́ mọi người sẽ thanh tịnh. Xin hỏi công phu của ngài, sở học đối với các pháp Thiền, Tịnh, Mật, Luật v.v… thuộc loại nào. Sau khi đă được ngài nêu rơ, sẽ lại hỏi cũng chẳng muộn!

 

      * Hỏi: Thiền là tham cứu “người niệm Phật là ai?”, Tịnh Độ Tông có phải là “ai đang niệm Phật”? Hai đằng đều như nhau đó chăng? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều chẳng ĺa tâm, đó gọi là “vạn pháp quy nhất”, không  hai, không ba, nhưng trong quá tŕnh tu tập bèn có nhiều phương tiện. Các phương tiện đều là thật ngữ, ắt cần phải y giáo phụng hành. Để có thể ngộ th́ Thiền bèn có phương tiện của Thiền, Tịnh có phương tiện của Tịnh. Học sao cho đạt được tâm đắc th́ mới có thể viên dung vô ngại. Kẻ sơ học chớ nên lầm lạc tự cậy ḿnh thông minh!

 

      * Hỏi: Có một vị ḥa thượng bốn mươi mấy tuổi bảo tôi: Trước kia, ông ta thấy núi là núi, thấy nước là nước, sau đó, thấy núi chẳng phải là núi, thấy nước chẳng phải là nước, nay lại thấy núi là núi, thấy nước là nước, có phải là ông ta nói xạo hay không? Theo như tôi biết, đối với Thiền Tông, tốt nhất là đừng như vẹt học nói! (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Chuyện đúng, sai, hay, dở của người khác, tại hạ trước nay chẳng bàn tới. Ba lượt “thấy núi, thấy nước” như đă nêu chính là câu nói đă trở thành khuôn sáo trong ngữ lục, là cảnh giới sau khi đă khai ngộ. Nếu vị ấy thật sự là như thế, lại nói với một kẻ sơ học để làm ǵ cơ chứ?

 

      * Hỏi: Tôi từng đảnh lễ một vị đại pháp sư, vị ấy ngồi xem báo ở đó, chẳng ngẩng đầu lên, mắt chẳng thèm ngó. Trong tâm tôi rất bực (chưa thể hiện ra), những vị ḥa thượng khác nói tôi nổi nóng là có tội. Ông nghĩ như thế nào? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Đối với câu hỏi này, tôi có điểm nghi hoặc: “Trong tâm rất bực, nhưng chưa thể hiện ra”. Nếu là trong tâm vị ḥa thượng bực tức, ông làm sao biết được? Nếu là chính ông nổi nóng, tự nhiên là tội lỗi, v́ sân là một trong Tam Độc, là món thứ hai trong Tư Hoặc. Cổ nhân giáo huấn: “Một niệm sân tâm dấy, tám vạn chướng môn khai”. Nếu trách vị ḥa thượng ấy chẳng đáp lễ, tức là chính ḿnh chẳng hiểu lư: Ông ta chẳng đáp lễ, tức là đă tiếp nhận sự cung kính của ông, nên ông đă gieo phước điền. Nếu ông ta đáp lễ, tức là có qua, có lại, ḥn đất ném đi, ḥn ch́ ném lại, trọn chẳng có công đức!

 

      * Hỏi: Tôi càng tu càng phiền năo, bộp chộp, hoảng hốt, sợ hăi, bất an, thậm chí nửa đêm sợ quỷ, so với những kẻ b́nh phàm ô nhiễm lung tung th́ chuyện ǵ cũng chẳng có, các ḥa thượng nói tôi nghiệp chướng sâu nặng, oán quỷ sợ tôi tu hành sẽ trốn thoát, chẳng thể báo thù. Họ c̣n nêu ra rất nhiều trường hợp, nhưng tôi chẳng tin, học Phật tu hành là trốn khỏi cơi đời ư? Ḥa thượng Thần Quang dùng đao chặt cánh tay để cầu an tâm, đủ thấy là Ngài khủng hoảng, bất an đến mức độ nào! Xin hỏi đó là loại oán quỷ nào đang báo thù vậy? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Đó là do chưa được hun đúc bởi thầy và bạn, nên chẳng đạt được pháp hỷ. Nếu gặp người sáng suốt giáo huấn, tâm chính ḿnh rỗng rang, học Phật có tâm đắc, hưởng lợi ích nơi pháp, tâm địa sáng ngời như mặt trời, ma chướng tự tiêu. Trong đoạn sau, ông nói đến chuyện Nhị Tổ chặt tay, rành rành là hoàn toàn chẳng giống như ông. V́ ông chưa nhập môn, chẳng thể nói tới đạo lư sâu xa. Kính khuyên từ nay trở đi, hăy giữ tấm ḷng rỗng rang, mau cầu minh sư, trước hết phải nhận biết rơ ràng đường nẻo trong Phật môn rồi mới đổ công dốc sức th́ sẽ chẳng nẩy sanh sai lầm nữa!

 

      * Hỏi: Tôi đă thỉnh giáo một vị đại đức trong Thiền Tông, nói: “Khi tôi tĩnh tọa (không thầy mà tự học), thân bỗng dưng rung lắc, đó là bệnh ǵ?” Vị ấy bảo đừng quan tâm đến. Một vị khác bảo hăy nên kềm chế cái tâm, tôi không hiểu! Tôi tự cảm thấy dường như trái tim nở hoa, bác sĩ lại bảo chẳng có bệnh ǵ, nhưng đă rất lâu rồi tôi chẳng dám tĩnh tọa. (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Chưa được minh sư [chỉ dạy] mà đă dám tự tiện tĩnh tọa, đó là coi nhẹ Thiền quá sức! Chưa chuốc phải ma chướng to lớn đă là chuyện muôn phần may mắn! Có người nói chẳng quan tâm đến, hoặc kiềm chế tâm trạng, bác sĩ nói chẳng có bệnh ǵ, đều là căn cứ theo chứng bệnh mà cho thuốc, nhưng ông vẫn là kẻ ở ngoài pháp môn; v́ thế, những hảo ư ấy đều chẳng dùng được, cũng là uổng phí!

 

      * Hỏi: Làm thế nào th́ mới có thể coi là phát Bồ Đề tâm? Thiện Tài Bồ Tát du hành, mỗi lần đến một nơi, ắt đều nói “tôi đă phát Bồ Đề tâm, nhưng chẳng biết hành xứ và tu xứ của Bồ Tát”. Thiện Tài đồng tử đă phát Bồ Đề tâm có phải là giống như chúng ta phát tâm thọ Tam Quy Y hay không? Nếu quả thật như vậy th́ cái tâm ấy phải là vọng tâm. Nếu chẳng phải, hễ ĺa vọng tâm th́ phải là vô tâm. Nếu là vô tâm th́ hết thảy tự tại, c̣n phát tâm chi nữa để tự trói buộc chính ḿnh? Do Thiện Tài Bồ Tát đi khắp nơi thưa hỏi, đủ thấy Bồ Đề tâm do Ngài đă phát c̣n cách xa vô tâm rất nhiều! Ông có thể giải thích đôi chút hay chăng? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Thiện Tài là bậc Đẳng Giác Bồ Tát, ông ngang nhiên dám phê b́nh cảnh giới của thánh nhân, đều là do chẳng hiểu Phật lư mà nên nỗi, rất khó giảng giải cho ông! Kính khuyên ông từ nay trở đi, không ǵ bằng nghiêm túc tu tŕ Ngũ Giới, nghiên cứu tinh tường Lục Độ, thâu nhiếp sáu căn, nhất tâm niệm Phật. Hành đôi ba năm, tâm t́nh ổn trọng rồi lại xem kinh luận, kính cẩn hỏi, kính cẩn nghe, Văn Tư Tu đầy đủ th́ mới có hy vọng chứng đạo!

 

      * Hỏi: Pháp môn Niệm Phật phải có tâm cầu văng sanh thiết tha. Thời gian tôi niệm Phật cũng chẳng ít, nhưng cái tâm cầu sanh làm cách nào cũng chẳng thể dấy lên tha thiết được! Tôi luôn cảm thấy được gặp Phật khi sống vẫn tốt hơn lúc đă chết. Nhằm hiểu rơ vấn đề này, tôi thường bàn bạc cùng bạn bè, người ta nói tâm niệm Phật chẳng thiết tha, bất kính sẽ có tội. Tôi cũng đă thử qua, nhưng tâm thiết tha chẳng phải là khích động đến nỗi nước mắt, nước mũi ṛng ṛng, đó là chuyện phiền bực, khó chịu. Tán tâm niệm Phật thật sự mắc tội ư? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Ba pháp Văn Tư Tu mỗi pháp đều có chỗ trọng yếu: Văn th́ phải nghe nhiều, nghe rộng, Tư th́ phải sâu xa, thiết tha, Tu th́ phải chuyên nhất. Có thể nói là ông vẫn chưa biết lối vào của hai chữ Văn và Tư, đến nỗi đối với Tu cũng chưa thể quyết định là pháp nào. Rối tung không đầu mối như vậy, phí uổng thời gian, tôi cảm thấy thật đáng tiếc! Nếu thật sự chịu niệm Phật, đó là đường tắt, hăy nên đè nén thói kiêu căng, ngă mạn, buông Ngă Chấp và Pháp Chấp xuống. Lắng ḷng nghiên cứu bộ Giảng Nghĩa sách Di Đà Yếu Giải của tổ sư Ngẫu Ích do pháp sư Viên Anh biên soạn, bộ Triệt Ngộ Thiền Sư Ngữ Lục, Ấn Quang Đại Sư Tinh Hoa Lục v.v… mỗi ngày hai khóa sáng tối, niệm Phật mấy ngàn tiếng, nhiều hay ít do chính ḿnh tự định. Chỉ cầu đạt hiệu quả nhất tâm bất loạn, đừng ôm vọng tưởng thấy Phật. Bởi lẽ, hiện thời phiền năo trùng trùng, che lấp chân tánh, Phật ở ngay trước mắt cũng chẳng thể thấy, tâm bộp chộp lầm lạc mong thấy Phật, đâm ra vô ích! Nếu chẳng đạt đến cảnh nhất tâm bất loạn, không chỉ là khi c̣n sống chẳng thể thấy Phật, mà sau khi đă chết, cũng chẳng thể gặp Phật. Mong ông hăy tin tưởng!

 

      * Hỏi: Bạn bè khuyên tôi hăy rộng ḷng bao dung người khác, tôi nghĩ La Hán c̣n bị gọi là “tự liễu hán” (kẻ chỉ lo giải thoát cho riêng ḿnh), phàm phu há rộng lượng được ư? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Qua điều vừa hỏi này, có thể suy ra t́nh huống của ông! Nhẫn là một trong Lục Độ, vạn sự đều do Nhẫn mà thành tựu. Kinh Thư chép: “Tất hữu nhẫn, kỳ năi hữu tế” (ắt phải có nhẫn th́ mới hoàn thành mọi sự)[14]. Ư nói: Tu dưỡng chân tánh th́ phải có thể nhẫn. Khăng khăng chẳng tiếp nhận, tức là lời nói trung tín cũng chẳng chịu nghe! Lại c̣n vơ bừa La Hán vào để phê phán lung tung các Ngài là phường tự liễu hán! La Hán là bậc thánh nhân đoạn Hoặc, tham lẫn sân đều chẳng có, há có vị nào c̣n chẳng thể thành tựu Nhẫn ư?

 

      * Hỏi: Tôi cũng thường khuyên người khác tin Phật, cũng có người thật sự tin tưởng, đó là truyền giáo hay là kiểu con nít học đ̣i vậy? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

     

      Đáp: Ông khuyên người khác học Phật, vốn là công đức, nhưng dạy người khác học cách nào, chẳng phải là chuyện đơn giản! Tôi kính tặng một lời, ngôn giáo vẫn cần phải có thân giáo!

 

      * Hỏi: Kiến tánh trong Thiền Tông là thành Phật hay thành La Hán? Thành La Hán th́ ắt là thành Phật trong Tiểu Thừa, nhưng trước khi Di Lặc Bồ Tát thành Phật, chẳng thấy [kinh điển] ghi chép ai sẽ thành Phật cả! (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Đây là chuyện thuộc về phương diện giáo lư và tu tŕ. Tánh là ǵ, Phật là ǵ, Thiền là ǵ, đều có kinh luận cả một đống lớn. Nếu tâm tánh chẳng b́nh lặng, khổ sở cầu t́m tám năm, mười năm, dẫu có tri thức giảng giải, người nghe vẫn như điếc đặc chẳng nghe!

 

      * Hỏi: Có người nói khi Lục Tổ làm bài kệ “Bồ Đề bổn phi thụ…” (Bồ Đề chẳng phải cây…), Ngài vẫn chưa hoàn toàn khai ngộ; đến khi Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang cho Ngài nghe, mới kể như đă hoàn toàn khai ngộ. [Nếu vậy th́] Đốn Giáo cũng có chuyện đă ngộ rồi lại ngộ nữa hay sao? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Bất luận là Đốn Ngộ hay Tiệm Ngộ, đều chẳng phải là một lần. Tiểu ngộ có bao nhiêu loại, đại ngộ cũng có bấy nhiêu loại. Thất Địa Bồ Tát c̣n có Trần Sa Hoặc, Đẳng Giác c̣n có nguyên phẩm vô minh (sanh tướng vô minh). Do đó, thành Phật cần phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp. Văn Tư Tu được gọi là Tam Huệ, tu mà chẳng khai Huệ sẽ rất khó tiến bộ!

 

      * Hỏi: Có người nữ hỏi tôi: “Cầu Phật, bái sám có thật sự linh ứng hay chăng?” Tôi trả lời: “Phật, Bồ Tát thấy bà đang gặp ác mộng, liền trước hết đánh thức bà, hay là giúp bà tiếp tục nằm mộng?” [Trả lời như vậy] có đúng hay không? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)

 

      Đáp: Chúng ta giáo lư chưa thấu triệt, Thiền cũng chẳng hiểu, vạn phần chớ học đ̣i tổ sư trả lời phù hợp căn cơ. Nói lầm một chữ chuyển ngữ, phải đọa tam đồ, sao lại khổ sở mạo nhận là bậc thông gia?

 

      * Hỏi: Đệ tử học cạn, kém tài, kể từ khi học Phật đến nay đă trải mấy năm chẳng hiểu chút ǵ, chẳng đạt được ǵ. Tam Độc, Tam Hoặc, Tứ Chùy đều chưa thể đoạn hết, thật sự cảm thấy hổ thẹn tột cùng. Đó là do căn khí nông cạn, mỏng manh, hay là có liên quan đến nhân quả? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)

 

      Đáp: Muốn đoạn hết ba chuyện như ông đă hỏi, cố nhiên là có liên quan đến căn khí và nhân quả. Điều quan trọng nhất trong hiện thời là hiểu biết sâu hay cạn, hành tŕ siêng năng hay biếng nhác mà thôi!

 

      * Hỏi: Trước kia, đệ tử từng thưa hỏi “rốt cuộc con chó có Phật Tánh hay không”, đại sư hỏi ngược lại: “Xin hăy hạ ngay một lời chuyển ngữ, rốt cuộc con chó là có hay không có?” Theo như ngu kiến của đệ tử, trả lời Có hay Không đều rớt vào hai thứ kiến chấp Thường và Đoạn. Hơn nữa, Thiền là ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt. Do vậy, câu hỏi ấy có phải là chẳng thể trả lời đó chăng? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)

 

      Đáp: Câu hỏi của quư cư sĩ trong lần trước, đa phần thuộc về Thoại Đầu của Thiền gia, nên tôi hỏi ngược lại một câu chính là đă trả lời. Tôi lại khuyên: Nếu học theo công phu nhà Thiền, ắt phải cầu minh sư. Thật ra, điều quan trọng trong Thiền là ở chỗ dụng công nơi tâm, chẳng phải là nói suông ngoài miệng! Kính dâng một lời, thông Tông bèn nói về Tông, thông Giáo bèn nói về Giáo. Tuy [Tông và Giáo] có liên quan, nhưng đường lối khác nhau, chẳng thể lôi Đông kéo Tây. Lời hỏi hiện thời càng khiến cho ông lạc chệch lối! Ngàn lời vạn lẽ, cầu học ắt phải có minh sư, ắt phải có thứ tự. Chẳng noi theo đó để tiến, phần nhiều sẽ lạc vào lối rẽ.

 

      * Hỏi: Tam kỳ có phải là ba đại A-tăng-kỳ kiếp hay không? Một kỳ là bao nhiêu năm? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)

 

      Đáp: Theo Hoa Nghiêm Tổng Mục Quán Nhiếp, ngàn vạn là một ức, mười ức là một triệu, mười triệu là một kinh, mười kinh là một cai. Cứ tăng gấp mười lên như vậy sẽ thành một con số mới. Tăng gấp bội lên như vậy cho đến một trăm hai mươi lần sẽ là một con số to có tên là bất khả tư… Lại gọi là A-tăng-kỳ. Phật Học Từ Điển ghi cách tính như sau: Vạn vạn là một ức, vạn ức là một triệu. Một A-tăng-kỳ là vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn triệu (tám chữ vạn). Thật sự muốn hiểu biết th́ trong tay phải có một bộ từ điển.

 

      * Hỏi: Đại sư đă từng nói “trống ḷng cầu học, một mực bất thoái, trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, tự nhiên đoạn hết Trần Sa, mới có thể đại giác toàn tri”. Trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, hay hai A-tăng-kỳ kiếp, hoặc một A-tăng-kỳ kiếp, có phải là tự giác, tự ngộ đó chăng? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)

 

      Đáp: Kinh giáo nói như vậy, kẻ hèn này vâng theo đó để thưa tŕnh. Đă nói là “trống ḷng cầu học” th́ chẳng phải là tự ngộ. Dẫu chẳng cầu thầy, từ tự ḿnh khởi tu cho đến khi thành Phật mới thôi, có năm mươi hai tầng cấp. Tu ắt phải có chứng, chứng th́ ắt phải có cảnh. Cảnh là kinh nghiệm, sự từng trải, chia ra làm hai nẻo tà và chánh. Đấy vẫn là cầu, trọn chẳng phải là phó mặc cho Hoặc, nghiệp, khổ một mực lưu chuyển. Chuyển trọn cả ba A-tăng-kỳ kiếp bèn là Phật. Chẳng tu, chẳng cầu th́ lưu chuyển đến trần điểm kiếp (số kiếp nhiều như số vi trần), vẫn là thỉnh thoảng được làm người, ở măi trong tam đồ mà thôi!

 

      * Hỏi: Thiền có phải là vượt trỗi cảnh giới “cùng một cội nguồn với trời đất, cùng một Thể với vạn vật” hay không? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)

 

      Đáp: Đấy là những lời lẽ chẳng chấp bờ mé. Đă chẳng thể hiểu, lại chẳng thể làm, nói đến những điều khác để làm ǵ? Cuối câu hỏi của ông, viết sáu chữ Nam-mô A Di Đà Phật, đủ thấy quư cư sĩ chưa từng học Thiền, lại chẳng từng tập Thiền. Cần phải biết sáu chữ ấy chính là bí quyết trong Tịnh Độ Tông. Nếu quư cư sĩ chịu học Tịnh, có lẽ c̣n có thể đạt được thọ dụng đời này.

     

      * Hỏi: Giáo Thọ A Xà Lê là ǵ? Đắc Giới Ḥa Thượng là ǵ? Khẩn cầu hăy dạy cho. (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)

 

      Đáp: Quư cư sĩ trước hết nên chánh thức quy Tam Bảo, tiếp đó lại thọ giới. Sau khi đă thọ giới, lănh giới điệp, sẽ tự nhiên biết rơ hết thảy. Tôi gởi kèm theo hai tập sách nông cạn, mong hăy đọc, mạo muội [thưa tŕnh cùng ông như thế đó].

 

* Hỏi: “Phàm hữu ngôn thuyết, đô phi thật nghĩa” (hễ có ngôn thuyết, đều chẳng phải là thật nghĩa). Thật Nghĩa và Chân Thật Nghĩa có ư nghĩa giống nhau hay không? Tra trong Phật Học Từ Điển, Chân Thật Nghĩa là thuật ngữ, chia thành bốn loại Chân Thật Nghĩa, nhưng trong điều mục nói về Thật Nghĩa chỉ giải thích là “nghĩa lư chân thật”, thuộc phần tạp ngữ. Lại nữa, Thật Nghĩa và Thật Tướng có ư nghĩa giống nhau hay không? Hai chữ Nghĩa và Tướng có ư nghĩa giống nhau hay không? (Hoàng Tuyền Sanh hỏi)

 

      Đáp: Thật Nghĩa chính là Chân Thật Nghĩa nói gọn. Đă có bốn thứ, lại chia thành Quyền Thật và Chân Thật. Ba loại đầu có thể dùng ngôn ngữ để diễn tả, nên thuộc về Quyền Thật, loại cuối cùng là lư Trung Đạo của Phật “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt” th́ mới là nghĩa chân thật. Lại nữa, phải hiểu Nghĩa và Tướng khác nhau, Nghĩa là nghĩa lư, c̣n Tướng là sắc tướng.

 

* Hỏi: “Phàm hữu ngôn thuyết, đô phi thật nghĩa” là nói ngôn thuyết chẳng phải là thật nghĩa, hay là ngụ ư “những ǵ được nói đều chẳng phải là thật nghĩa”? Lại nữa, nên hiểu chữ “phàm hữu” là “tất cả”, hay là “tất cả những ǵ có”, bởi lẽ “phàm” có nghĩa là “tất cả”, lại thêm vào một chữ Hữu nữa là “tất cả những ǵ vốn có”. Nguyên một câu ấy có thể dịch là “tất cả những nghĩa được nói bởi ngôn thuyết đều chẳng phải là thật nghĩa”, nhưng cũng có thể hiểu cả câu ấy là “những ǵ đă nói đều chẳng phải thật nghĩa”, chứ không phải là “ngôn thuyết chẳng phải là thật nghĩa!” (Hoàng Tuyền Sanh hỏi)

     

      Đáp: Chân Thật và Quyền Thật đă nói rơ trong điều trước. Muôn tướng đều do nhân duyên ḥa hợp mà sanh. Đă chẳng phải là vốn sẵn có, nên nói “phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”. “Đều chẳng phải là thật nghĩa” là nói theo hết thảy các pháp tướng, chẳng riêng ǵ ngôn ngữ! “Phàm hữu” và “sở hữu” nếu xét theo lối hành văn, chỉ mong sao trôi chảy, hoặc là muốn biến hóa, miễn sao từ ngữ thông đạt th́ không có ǵ là chẳng được. Nếu xét nghiêm ngặt theo Phật học, phàm hữu và sở hữu có phân biệt, v́ tâm pháp có Năng và Sở. Chữ Năng chỉ niệm lực, thuộc về nội tại, c̣n Sở chỉ các tướng được hiện ở bên ngoài. “Phàm hữu” là nói bao quát cả trong lẫn ngoài. Sở hữu th́ chỉ nói đến tướng bên ngoài, cũng là một thứ giả định trong học thuật nhằm nói cho thuận tiện mà thôi!

 

      * Hỏi: Tôi có bạn học rất phát tâm, chuyên tâm tu Phật, hoặc lập xă đoàn (các đoàn thể mang tính cách xă hội), nhưng chẳng hiểu cách phân chia thời gian đối với khóa nghiệp như thế nào? Thường thấy có các học trưởng (người thuộc lớp đàn anh trong nhà trường) v́ lo toan công tác đoàn thể mà lỡ làng công khóa, chẳng biết có đúng hay không? (Trần Thanh Sảng hỏi)

 

      Đáp: Hai chữ “khóa nghiệp” trong lời hỏi và hai chữ “công khóa” sau đó, chẳng biết nhằm nói về điều ǵ, nên chẳng tiện đáp bừa! Trong đoạn hỏi về khóa nghiệp lại thêm hai chữ “bạn học” vào trước, ở giữa lại thêm chữ “học trưởng”, tự nhiên là hỏi về chuyện của những người bạn học. Đối với chữ “chẳng biết”, nếu có ư nói “học Phật nhưng chẳng biết cách tu” th́ hăy nên dùng cách tu [trong pháp môn ấy] để hỏi đáp. Nếu là nói về những môn phải học trong nhà trường, do học Phật hoặc do lo công việc trong đoàn thể mà lỡ làng việc học th́ hết sức chớ nên. Hiện thời, ông vẫn c̣n là học sinh, nếu v́ lẽ đó mà lỡ làng việc học, tức là chẳng biết bổn phận, đă khiến cho cha mẹ phải lo lắng, lại c̣n phụ công thầy dạy dỗ, lại c̣n khiến cho tương lai của chính ḿnh bị lỡ làng, quả thật đă khiến cho Phật giáo càng thêm bị báng bổ. V́ thế, nói là “hết sức chớ nên!” Học Phật, lo công tác đoàn thể, hăy nên làm trong lúc rảnh rỗi ngoài giờ học, bớt vui chơi vô ích, hăy làm theo cách này để dễ có thời gian lo liệu chuyện kia!

 

      * Hỏi: Lúc sắp lên đường, thầy dặn: “Ít xem những sách vở ngoài các loại Quốc Học, Phật học, và sách giáo khoa, kẻo đến nỗi đi lung tung ngoài trường, sợ ảnh hưởng đến đạo tâm”. Nhưng trong thực tế, nếu phạm vi sống chỉ giới hạn trong một góc, sẽ chẳng dễ ǵ cư xử ḥa hợp cùng các bạn học khác, chẳng biết mối tệ ấy ở chỗ nào? (Trần Thanh Sảng hỏi)

 

      Đáp: Nói Quốc Học tức là nói đến sách vở thuộc về nền văn hóa của nước nhà, nói Phật học là nói tới những sách nhằm làm sáng tỏ thiên tánh, đều thuộc loại đức dục. C̣n như các sách chuyên môn về khoa học, mỹ thuật, các thứ kỹ năng, đều chú trọng yên đời lợi người, nên gọi là sách giáo khoa. Hai chữ “ngoài ra” nhằm chỉ những tà thuyết trái nghịch đức dục, có hại cho việc “yên đời, lợi người”. Các loại sách ấy phần nhiều ẩn chứa những chuyện kỳ quái, lời lẽ xiểm ngụy, lệch lạc, xu nịnh, kích thích tà tâm, vô ích cho sự yên ổn chung. Đọc những thứ đó sẽ nẩy sanh những tâm ấy, ngôn ngữ và hành vi sẽ vướng mắc vào những chuyện đó. Do người thanh niên chí hướng chưa lập, cho nên tôi khuyên “ít xem những thứ đó”. “Đi lung tung” là đến những chỗ có hoàn cảnh ác trược, gần son th́ đỏ, gần mực th́ đen. Thường nói là “đối với chỗ vô đạo, hăy mau rời chân đi”. “Ḥa hợp” chính là chơi với người lành, bậc chân chánh, xa ĺa ác tri thức, chẳng cần phải ḥa đồng cùng họ. Chỉ học theo cách ḥa hợp, giữ lễ, chẳng học theo thói hùa bầy, tiêm nhiễm thói xấu!

 

      * Hỏi: Các bạn học Phật chẳng phải đều là con em nhà giàu có, nhưng đă có tâm học Phật, chẳng tránh khỏi ảnh hưởng đến sự nghiệp, như thế th́ sẽ chẳng thể chuyên tâm học Phật hoặc theo đuổi sự nghiệp, há chẳng phải là Phật pháp thiếu viên dung ư? Các bạn học nặng ḷng dường ấy, có đúng hay không? (Trần Thanh Sảng hỏi)

 

      Đáp: Nói như vậy tức là đă hiểu lầm, học Phật trọn chẳng phải là dành riêng cho kẻ tôn quư, có ưu thế, mà thuần túy là lợi ích đều khắp. Môn phong của tổ Bách Trượng là một ngày chẳng làm, ngày ấy không ăn cơm. Người xuất gia c̣n như thế, chúng ta là hàng tại gia, há có được phép chẳng động chân nhắc tay, ngồi hưởng thành quả ư? Học Phật là hiểu lư, tu tánh, dưỡng thành nhân cách, chuyên v́ đại chúng mưu cầu phước lợi, nay lại ngược ngạo coi là chẳng thể dung thông với xă hội, lầm lẫn lắm thay!

 

      * Hỏi: Nhưng quan trọng nhất chẳng ǵ bằng “nhập thế và học Phật”, làm thế nào để thành tựu sự nghiệp thế gian và xuất thế gian viên dung vô ngại? Đó là một vấn đề lớn, xin thầy hăy từ bi khai thị! (Trần Thanh Sảng hỏi)

 

Đáp: Người học Phật chia thành hai loại xuất gia và tại gia. Người xuất gia không chỉ chẳng nhiễm hết thảy chuyện thế tục, mà ngay cả đối với quyến thuộc và tài sản của chính ḿnh thảy đều buông bỏ, thân rỗng rang gia nhập Tăng đoàn, ngoài học, trong tu, ḥng dưỡng thành đức năng, nghiêm ngặt vâng giữ tỳ-kheo đại giới, chuyên dốc sức thượng hoằng hạ hóa, làm đèn sáng trong đường tối, làm thuyền từ trong biển khổ, như giáo sư trong trường học chẳng lo toan nghề nghiệp khác, tập trung tâm lực đào tạo nhân tài. Thử hỏi các vị thầy tốt đẹp trong nhà trường, thường chăm chú khéo hướng dẫn học sinh, chẳng làm những chuyện như nhậu nhẹt, cờ bạc, khiêu vũ, tán gái v.v… có trở ngại sự viên dung hay không? Tại gia học Phật, giống như học sinh trong nhà trường, tuy không mang trách nhiệm dạy bảo, cũng có ư nghĩa khuôn khổ, mẫu mực, “bốn điều chớ phi lễ”[15] há chẳng tuân theo? Nếu như học thức tăng cao, sâu hơn, sẽ tự có thể quyền xảo phương tiện. Huống chi Đàn Kinh có nói: “Phật pháp trong thế gian, chẳng ĺa thế gian giác”. Viên dung là đôi đằng đều vô ngại vậy!

 

* Hỏi: Đối với tam hạnh của thiện xảo phương tiện trong Thập Độ (cầu Bồ Đề, khéo hiểu có và không, chẳng xả thọ), tôi vẫn chưa hiểu rơ ư. Xin lại chỉ dạy! (Trịnh Triều Tín hỏi)

 

Đáp: Phương là phương pháp, Tiện là thích hợp. Thiện xảo là không chỉ có một phương pháp. Xét soi căn cơ của chúng sanh để nói chân thật, hoặc giả lập, tạm thời phế bỏ, ngơ hầu [người nghe] sẽ lănh hội, nhập chân thật. Trong tam hạnh, điều thứ nhất là tiến hướng về quả, dễ biết. Đối với điều thứ hai và điều thứ ba, pháp [tùy theo căn cơ mà] nói là có hay không, xả các thứ mà chẳng xả, độ mà chẳng độ, đều là quyền xảo có nhiều lẽ. Đừng chấp trước!

 

* Hỏi: Trong Thập Độ, ư nghĩa của Bát Nhă và Trí khó thể phân biệt, xin hăy chỉ dạy! (Trịnh Triều Tín hỏi)

 

Đáp: Bát Nhă (Prajñā) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán thường có mấy phần khó khăn, lại chẳng trọn vẹn. V́ thế, các vị dịch kinh [thường] dịch [chữ ấy] là Huệ, ư nói là trí huệ tối thượng, sáng suốt nhất trong hết thảy các huệ. Huệ là quán cảnh, soi xét, chọn lựa, thấu đạt lư Không vô vi. Trí (Jñāna) là tiếng Hán, cũng do tiếng Phạn dịch thành, mang ư nghĩa thấu đạt sự tướng hữu vi, đối với cảnh bèn quyết đoán chẳng nghi.

 

* Hỏi: Có người nói “y văn giải nghĩa, tam thế Phật oan”, tôi chẳng biết ư chỉ ấy, xin hăy nói tường tận! (Trịnh Triều Tín hỏi)

 

Đáp: Phật học uyên áo, nhưng ngôn thuyết, trước thuật, danh tướng, thuật ngữ, phần nhiều chú trọng cách nói đơn giản. Hơn nữa, [các danh từ thuật ngữ] từ Phạn dịch sang Hán, nghĩa lư chưa trọn hết, [nếu kẻ sơ học] chẳng có sư thừa, chẳng có nhiều phương cách tham khảo, chỉ căn cứ theo mặt chữ để hiểu kinh văn, nương theo văn để hiểu nghĩa, sẽ thường đánh mất ư nghĩa chân thật, nên nói là “oan Phật”. Nêu vài thí dụ, như chữ Nam-mô mà có kẻ hiểu là “ở phương Nam không có [điều ấy]”, hiểu Ba La Mật là phượng lê[16], “Sắc tức thị Không” được giải thích là ham hố nữ sắc th́ con người lẫn tiền tài đều trở thành rỗng tuếch! Người thông thạo Phật học đôi chút đều biết cách giải thích thông tục ấy là sai lầm, gây hại chẳng cạn! Rốt cuộc c̣n có một bộ từ điển đồ sộ giải thích Thật Tướng như sau: “Bề ngoài chân thật”! Toàn là dựa theo văn tự để rồi suy đoán ư nghĩa xằng bậy vậy!

 

* Hỏi: V́ nghe kinh, nghe đạo mà phải lừa gạt quyến thuộc (quả thật là bất đắc dĩ). Về sau, bị họ khám phá, đến nỗi nổi giận, nói lời ác độc, tạo ác nghiệp. Tôi trộm nghĩ nghe kinh là tự lợi mà đến nỗi hại họ, trái nghịch Bồ Tát đạo, nhưng v́ cầu Phật pháp nên phải chẳng đặng đừng mà làm như thế, v́ Phật pháp khó nghe. Do vậy, tôi do dự chẳng quyết, có phương tiện nào ḥng tốt đẹp đôi bề hay chăng? (Trịnh Triều Tín hỏi)

 

Đáp: Minh tâm kiến tánh, khiến cho người lẫn đời yên ổn, trang nghiêm Tịnh Độ, liễu thoát tam đồ, Phật pháp quư báu nhất, há nên gặp gỡ mà chẳng đạt được? Nhưng gia quyến do chẳng biết nên phản đối. Đấy đều là do biểu hiện yếu kém của tín đồ nhà Phật gây ra, khiến cho chúng sanh chẳng có tâm tín ngưỡng. Ông hăy nên dùng phương tiện thiện xảo, khuyến hóa gia đ́nh, khiến cho họ được lợi ích do nghe pháp. Đó cũng là đạo Bồ Đề.

 

* Hỏi: Trong bộ Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập gồm bốn quyển, có một chỗ nói “niệm thiên”, trong ấy xiển minh quả báo thù thắng trên cơi trời. Chúng ta học Phật có chí xuất ly lục đạo, có cần phải trải qua các cơi trời ấy, cầu sanh lên cơi trời để đắc đạo quả ư? Phước báo trong cơi trời người chẳng phải là khi đă hết báo bèn trở thành rỗng không, há có nên học đạo nơi đó? Phước báo nhân thiên càng chẳng phải là điều chúng ta nên mong cầu, đúng không? Nếu là như vậy, mục đích của sách ấy là ǵ? (Tôn Chiêu Minh hỏi)

 

Đáp: Thiên là một trong các tiểu quả. Không chỉ là an lạc hơn tam đồ, mà cũng c̣n thù thắng hơn loài người trăm lần. V́ thế, các giáo (chẳng phải là Phật giáo) chỉ biết [cầu mong được] sanh lên trời, nhưng ngoài tam giới lại có Tịnh Độ của chư Phật. Bọn họ không chỉ chẳng biết, mà cũng chẳng tin. Dẫu có tin th́ do họ căn khí nông cạn, trí huệ ít ỏi, lại c̣n chẳng thể bỏ ngũ dục, lục trần, bất đắc dĩ bèn phương tiện nói đến cơi trời! Quư cư sĩ học Phật đă hai năm, liền có thể nghĩ đến chuyện vượt thoát tam giới, đây chắc chắn là đă có huệ căn từ trước, nguyện hăy khéo tu hành!

 

* Hỏi: Gần đây, pháp sư X… viết bộ Hàn Sơn Tập, nói [những biểu hiện của ngài] Hàn Sơn là bệnh thái tinh thần… nên kẻ bất tài này nghĩ có phải là ông ta gần như đă chửi Phật mắng Tổ quá lố đó chăng? Thử nghĩ Thiên Thai Tam Thánh[17] là những bậc được người trong giới Phật giáo kính ngưỡng ngần ấy! Nếu nói do ngài Hàn Sơn chẳng phải là ḥa thượng nên có thể chửi bới, chẳng đáng bàn tới, th́ thử hỏi khi đức Phật xuất gia chính là tự độ, tự ngộ, cũng là trọn chẳng đáng [bàn tới ư]? Lại như Lục Tổ đại sư gặp Ngũ Tổ mà đắc pháp, khi ấy, Ngài vẫn chưa xuống tóc, măi cho đến sau khi nói “chẳng phải là tràng động hay gió động, mà là do tâm động”, lúc phải truyền pháp, thuyết giảng Phật pháp, th́ mới bắt đầu xuống tóc. V́ thế, là Phật tử th́ phải có chánh tri chánh kiến, chớ nên hùa theo kiến giải thế tục. Người thông thường hùa theo th́ chẳng sao, nhưng bản thân [vị pháp sư ấy] là đại biểu cho Phật Pháp Tăng Tam Bảo, cớ sao lại đề ra thuyết mới kỳ dị ḥng sáng lập cuộc cách mạng tôn giáo đó ư? Há chẳng phải là đúng như đức Phật đă nói về hiện tượng trong thời đại Mạt Pháp, đáng buồn thay! Xin hăy khai thị! (Mă Ngọc Lâm hỏi)

 

Đáp: Kẻ hèn này chưa hề đọc bộ Hàn Sơn Tập của vị pháp sư ấy, do đó, nhất loạt chẳng dám nói [sách ấy] là chánh hay tà. Nếu là thuộc loại sách thơ văn như Hàn Sơn Thi Tập th́ đă từng đọc. Tuy [Hàn Sơn Thi Tập] là thi ca, nhưng bao hàm thiền ư. Nếu là sách Phật, hăy nên coi như kệ tụng. Nếu là sách thế gian, hăy nên coi như văn chương. Kệ tụng th́ chẳng bàn tới, chứ văn chương th́ có “người nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí” sai khác. Chúng ta là kẻ mới học, hăy nên nương theo Thánh Ngôn Lượng, trước hết hăy cầu tự giải thoát, đợi đến sau khi pháp nhăn đă mở, sẽ lại uốn nắn kẻ khác. Người học rộng kiến thức sâu xa sẽ có kiến địa khác biệt!

 

* Hỏi: Mấy năm gần đây, tại thành phố Đài Bắc, tôi nhiều lần phát hiện các cư sĩ mang thân phận tại gia cớ sao lại có thể làm Phật sự cúng thất cho người ta? Văn bối đọc Ấn Quang Văn Sao tập ba, từng thấy tổ Ấn Quang nói: “Làm bất cứ Phật sự nào, ắt cần phải thỉnh người xuất gia thanh tịnh”. Ngay cả người xuất gia c̣n cần phải thanh tịnh! Thân phận cư sĩ có vợ, con cái, cháu chắt, hưởng thụ ngũ dục, làm sao có thể làm Phật sự cho được? Trong Bồ Tát giới bổn, đức Phật đă dạy phải hướng về Tăng phường để thỉnh Tăng làm thầy chủ tŕ pháp sự. Đối với các vị tăng chủ tŕ pháp sự th́ phải mời vị khách tăng làm chủ trước, mời chúng tăng thường trụ sau, theo thứ tự nhận lời thỉnh. Văn bối trọn chẳng t́m được kinh nào nói người tại gia có thể làm Phật sự. Do vậy, ôm ḷng nghi! Tôi nghĩ thanh tịnh trang nghiêm mới khế hợp với pháp, chớ nên bị những Phật tử giả mạo do tham tiền của mà làm bừa đến nỗi hỗn loạn, chẳng c̣n trong sáng. Không chỉ là đáng tiếc, mà c̣n có tội lỗi. Nhằm giải trừ tâm nghi, khẩn cầu thầy hăy chỉ điểm nơi đường mê! (Ngô Vĩ Tùng hỏi)

 

Đáp: Phật pháp vốn v́ dạy người ta tu học mà có các thứ pháp môn. Khế cơ độ chúng th́ nhỏ là tiểu quả nhân thiên, lớn th́ xuất thế thành Phật, làm Tổ, phổ độ chúng sanh ĺa khổ được vui. Chúng sanh vô duyên, bỏ lỡ cơ hội, khi mạng chung tự nhiên đọa lạc, nên mới có pháp môn độ vong để bổ cứu. Pháp ấy cũng do bậc cao tăng có giới, có hạnh thực hiện th́ mới hợp pháp, đạt được cảm ứng. Bậc cư sĩ chân chánh giữ giới, tu tập chuyên ṛng, ở chỗ không có bậc xuất gia bèn v́ hàng thân hữu mà đôi khi hành phương tiện th́ chẳng phải là không được, nhưng tuyệt đối chẳng được phép nhận mảy may tài vật ǵ. Hễ nhận lấy, sẽ là trộm pháp, bán buôn pháp, tội lỗi khó thể nói được! Phàm những kẻ như vậy cũng chẳng phải là cư sĩ chân chánh, mà là hạng người lêu bêu chẳng có nghề nghiệp, thường được gọi là bọn buôn thần bán thánh vậy!

 

* Hỏi: Văn bối nghĩ “kinh khế Phật sự” là Phật sự thanh tịnh trang nghiêm, đó cũng là chức trách của người xuất gia, lại là tư lương dưỡng thân của tăng chúng. Làm cư sĩ th́ phải cúng dường tăng chúng, há nên nửa đường cướp đoạt tư lương của họ? Bọn họ đều được hưởng sự giáo dục ở mức độ cao, há có phải là v́ chẳng biết [mà làm như thế] ! Hay là v́ văn bối trí nông cạn, hiểu biết mỏng manh, do thấy biết ít ỏi nên lắm lời trách móc, đúng là suy nghĩ trăm lượt chẳng ra vậy! (Ngô Vĩ Tùng hỏi)

 

Đáp: Chức trách của tăng chúng xuất gia cũng chẳng phải là chuyên làm kinh sám, [chẳng phải là] ắt phải dùng chuyện ấy để có tư lương nuôi thân! Chớ nên làm chuyện đó để nhận của cúng dường. Phước điền ứng cúng, luật nghi là như thế. C̣n ngẫu nhiên v́ người khác độ vong, chính là phương tiện từ bi, chẳng nhằm tham cầu lợi dưỡng, chớ nên hiểu lầm! Ông lại nói đến những kẻ tại gia làm kinh sám, nhận được sự giáo dục bậc cao, nửa chừng cướp đoạt tư lương của tăng. Tôi cảm thấy lời lẽ ấy có chút phần điên đảo! Xin hăy suy nghĩ kỹ, đă cướp đoạt lương thực của tăng, làm sao c̣n là hạng có giáo dục cho được!

 

* Hỏi: Đối với chuyện bảo mọi người: “A Di Đà Phật, trăm chuyện tôi chẳng quản tới”, văn bối nghĩ: Tin Phật là trăm sự đều quản, ắt phải cảnh tỉnh người khác, chẳng quản người ta có tiếp nhận hay không, tâm của chính ḿnh chẳng chấp. Chẳng quản họ dùng ư ác, ư hung dữ, hoặc chẳng đếm xỉa lư lẽ, hành xử man rợ; chính ḿnh chẳng nổi nóng mà ăn miếng trả miếng. Tối đa là vái lạy, cười, từ tạ rời đi. Như thế th́ mới hợp với Phật pháp vậy! (Ngô Vĩ Tùng hỏi)

 

      Đáp: Chữ Quan () trong lời hỏi chắc là chữ Quản () bị viết nhầm. Quư cư sĩ tấm ḷng rất tốt, tiếc là vẫn chưa thâm nhập Phật pháp, tôi đặc biệt tặng vài loại sách nông cạn, xin hăy đọc. Nay trước hết, bàn đến vấn đề Phật có quan tâm mọi chuyện hay không? Đức Phật đến thế gian chuyên v́ độ lục đạo chúng sanh đang chịu khổ. Có một chúng sanh chưa đắc độ, Phật vẫn thừa nguyện tái lai. Chúng sanh vô tận, Phật nguyện vô cùng. Chúng sanh có tám vạn bốn ngàn phiền năo, Phật ban bố tám vạn bốn ngàn pháp môn. C̣n có người nói Phật chẳng quan tâm tới mọi sự th́ đúng là suốt ngày ăn cơm, mà chẳng biết gạo do đâu mà có!

 

      * Hỏi: Có phải là người b́nh phàm do có phước mà học tập, tu đạo hay chăng? (Tôn Thánh Đường hỏi)

 

      Đáp: Thánh hiền thế gian và xuất thế gian đều do phàm phu tu thành. Tục ngữ có câu: “Trọn chẳng tự nhiên có Phật Thích Ca hay Phật Di Đà”. Lại nói “ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, chẳng tu chẳng đắc”. Tu và chẳng tu là do chính ḿnh có nguyện hay không? Chẳng do có phước hay vô phước! Chịu tu th́ chính là phước. Chẳng chịu tu th́ chính là vô phước, nhưng cổ đức lại nói: “Họa phước không có cửa, chỉ do con người chuốc lấy!” Có thể thấy là có phước hay vô phước cũng do chính ḿnh tự cầu!

 

      * Hỏi: Chúng thánh, tiên, Phật thuở trước học đạo trong núi thẳm, có thứ ǵ để ăn hay không? Lại nữa, thần thánh thuở xưa tĩnh tọa mười hai năm, sau khi thành đạo có từng đứng lên lần nào hay chăng? (Tôn Thánh Đường hỏi)

     

      Đáp: Cỏ cây trong núi, chẳng thiếu ǵ vật để ăn, nhưng trong Định chẳng ăn, xuất Định sẽ có thể ăn. Kinh Phổ Diệu có chép [Phật Thích Ca khi tu khổ hạnh] mỗi ngày ăn một hạt mè, hoặc một hạt lúa mạch. Kinh Nhân Quả có chép chuyện [cô gái chăn ḅ] dâng cháo sữa. C̣n như chuyện tĩnh tọa có đứng lên hay không th́ cũng là trong Định bèn bất động. Kinh chép: “Bất khởi kinh hành” (chẳng đứng lên đi kinh hành), “thân bất đ́nh ngọa” (thân chẳng ngừng [nhập Định] để nằm xuống), “Xuân Hạ Thu Đông, nguy nhiên đoan tọa” (Xuân, Hạ, Thu, Đông, cứ nghiễm nhiên ngồi ngay ngắn) v.v…

      Đối với hai câu hỏi thứ hai và thứ tư, chưa chỉ ra xuất xứ từ kinh nào, văn tự lại đáng nghi, nên chẳng tiện đáp bừa!

 

      * Hỏi: V́ sao người chứng đạo cần phải có người ấn chứng là “như thị” th́ mới được? [Chẳng hạn như] Lục Tổ ấn chứng Vĩnh Gia đại sư! (Giản Phong Nham hỏi)

 

      Đáp: Người tu tŕ công phu của chính ḿnh như thế nào chẳng dám tự tin, ắt phải cầu bậc tri thức hữu đắc hữu chứng giám định là có được hay không, phương tiện khai thị, nhờ vào đó mà ngộ nhập, chẳng đến nỗi đi vào ngơ rẽ, uổng phí công lao. Nhưng kẻ sơ học, mong ngóng thánh đạo mà chưa thấy, chẳng đáng nói tới chuyện này! Cũng nên cầu minh sư chỉ điểm đường chánh trước đă!

 

      * Hỏi: Vào năm Dân Quốc 56 (1967), có một đêm tệ nhân mộng thấy một ṭa cổ miếu, có rất nhiều ḥa thượng đến đi, chợt có một vị ni sư dẫn tôi vào ngắm thánh tượng đức Phật. Cuối cùng đến một ṭa cung điện lộng lẫy, trang nghiêm, chợt có người nói là Vô Cực Lăo Mẫu[18], xin hỏi đó là điềm báo trước ǵ vậy? (Cung Tín Nho hỏi)

 

      Đáp: Nói chung cảnh trong mộng phần nhiều là vọng niệm trong quá khứ in bóng [trong tâm thức]. Do vọng niệm chẳng phải là một, nên h́nh ảnh phức tạp, đến nỗi khi do ư thức khởi hiện h́nh tượng, phần lớn đều xen tạp, chẳng có thứ tự. Tôi nghĩ quư cư sĩ là người thích đạo, nhưng sợ là chưa thể chuyên nhất. Trước kia, ắt đă từng có dịp vào cổ miếu, mắt thấy tăng ni, chắc là lại tin ưa ngoại đạo, đă nghe nói và hâm mộ Vô Cực Lăo Mẫu. V́ thế, đến nay gặp duyên, [những cảnh ấy] bèn hiện ra trong giấc mộng. Cảnh đều chẳng thật, cũng chẳng phải là điềm báo trước chi cả!

 

      * Hỏi: Tây Phương Cực Lạc thế giới có phân biệt đạo quả hay chăng? [Cực Lạc] cách xa Linh Sơn của Thích Ca Mâu Ni Phật và Đông Phương Tịnh Độ của Phật Dược Sư cỡ nào? Người b́nh phàm đa số biết Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo chủ Phật giáo; v́ lẽ nào A Di Đà Phật là Tây Phương Giáo Chủ? (Cung Tín Nho hỏi)

 

      Đáp: Câu hỏi này gồm ba phần.

1) Một là hỏi về đạo quả. Ông nói tới đạo quả, nhưng chẳng nói rơ về chuyện ǵ. Nếu chỉ dựa theo văn tự để suy đoán ư nghĩa để giải đáp th́: Đạo là tác dụng nơi mặt Sự của chánh lư, nương theo đó để giáo hóa. “Quả” là thành tích cụ thể đạt được do tu đạo, tức là sự thành tựu chứng đắc. Thế giới Cực Lạc không chỉ là Phật, Bồ Tát đều cùng thuyết pháp, mà ngay cả tướng ngũ trần, không ǵ chẳng diễn pháp. [Thế giới ấy] là một đại đạo tràng, lẽ nào chẳng có đạo! Người sanh về đó đều bất thoái, phần nhiều là bậc Bổ Xứ. Ai nấy đều chứng đắc, há chẳng có quả?

      2) Hai là hỏi về khoảng cách xa gần. [Đối với các đơn vị đo lường như] thước, trượng, cung, can, xưa nay, trong ngoài nước trọn chẳng nhất trí, [nên có nói tới khoảng cách th́] cũng là nói phương tiện. Người thấu đạt lư th́ vạn dặm sẽ là gang tấc; đối với kẻ mê lư, gang tấc cũng là vạn dặm.

      3) Ba là câu hỏi về Tây Phương giáo chủ. Hư không vô tận, thế giới vô tận, mỗi thế giới có một vị Phật làm giáo chủ. Muôn phương có vạn Phật làm giáo chủ. Thế giới mà chúng ta đang sống đây có tên là Sa Bà, Thích Ca Thế Tôn làm chủ. Cách đây mười vạn ức thế giới, có cơi nước tên là Cực Lạc, do Di Đà Thế Tôn làm chủ, giống như lănh tụ một quốc gia, hoặc chủ nhân một gia đ́nh vậy!

 

      * Hỏi: Tôi thấy đạo Gia Tô và Tịnh Độ có rất nhiều chỗ tương tự. Trừ một điểm là Thượng Đế sáng tạo trời đất chẳng phù hợp Phật pháp ra, những điều khác như văng sanh nước trời, tín chủ kiền thành cảm nhận thánh linh tương ứng v.v… gần giống như cơi cực tịnh, đặc biệt là [giáo nghĩa của] Tịnh Độ Chân Tông[19]. Nói “Thượng Đế sáng tạo trời đất” là phân chia tri thức của nhân loại thành bất khả tri và khả tri, trực tiếp gọi gộp chung những điều vô thỉ bất khả tri thành một đấng sáng tạo. Tuy [cách nói này] chẳng phù hợp Phật pháp, nhưng xét theo thế gian, có bao nhiêu người có thể thật sự biết? Thuyết Thượng Đế của đạo Gia Tô nhằm mong cho con người hướng thiện, có bao giờ chẳng thể xem như một pháp môn phương tiện! (Khưu Nhă Xương hỏi)

     

Đáp: Một môn Tịnh Độ trong Phật pháp luận theo Sự th́ dường như dễ hiểu, có thể nói là “ai nấy đều biết”, nhưng bàn theo Lư th́ bậc Địa Thượng Bồ Tát cũng chưa thể hiểu tường tận! Thường nói là “chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu suốt cùng tận”. Thật ra, Tịnh Độ là cảnh giới đoạn sạch Hoặc (phiền năo) của đức Phật, há có thể luận định giống như chư thiên trong tam giới đầy dẫy các Hoặc, chẳng liễu sanh tử ư? Trong thư, quư cư sĩ viết: Từng thờ tượng Phật và các tập tranh thờ Phật, lại đọc truyện kư về Phật v.v… Những điều ấy bất quá là mấy thứ ấn tượng, chẳng thể [nhờ vào đó để] hiểu rơ Phật lư được, chẳng tránh khỏi nẩy sanh lắm nỗi hiểu lầm! Nay tôi biếu ông mấy tập sách nhỏ, mong hăy đọc mấy lượt, đừng nghĩ là chúng thiển cận rồi coi thường, ắt sẽ có chỗ tiến nhập.

 

      * Hỏi: Ở Mỹ, nếu muốn ăn chay, chỉ sợ khó tránh khỏi sữa ḅ, rất nhiều người coi sữa ḅ là đồ mặn. Tôi nghĩ ăn chay là v́ kiêng giết, như vậy th́ uống sữa vẫn có thể coi là ăn chay! Tôi t́m được một quyển sách dạy nấu đồ chay, [trong ấy có những món] cũng có khi dùng sữa. Pháp sư Thích Tinh Vân viết cuốn Giáo Tổ Truyện cũng nhắc đến chuyện hóa duyên tô lạc, nhà Phật thích dùng thành ngữ “đề-hồ quán đảnh” v.v… khiến cho tôi khẳng định một kết luận: Sữa ḅ và những thứ giống như vậy, chẳng cần do sát sanh mà có th́ đều là đồ chay, chẳng biết lăo cư sĩ có nghĩ là đúng hay không? (Khưu Nhă Xương hỏi)

     

Đáp: Tŕ trai và ăn chay là hai chuyện; bất quá hai chuyện ấy có mối quan hệ liên đới mà thôi! Tŕ trai là nghiêm tịnh tam nghiệp, ắt phải kèm theo ăn chay. Ăn chay là chẳng ăn đồ hôi tanh. Đó là chỗ khác biệt nhỏ nhặt. “Tanh” là nói động vật, “hôi” chỉ thực vật có mùi nồng gắt. Chẳng ăn động vật là do ư nghĩa từ bi chẳng giết, nhưng c̣n có nhiều nghĩa, tạm lược qua, chẳng bàn đến. Sữa ḅ chẳng do giết chóc mà có, nên giới luật chẳng ngăn cấm!

 

      * Hỏi: Đây là một vấn đề rất thiết thực, phải xin lăo cư sĩ chỉ dạy. Tôi nhận thấy cái tâm hướng về đạo của chính ḿnh kể từ khi phát tâm đến nay (đọc xong bộ Giáo Tổ Truyện bèn phát tâm) rốt cuộc là có hiện tượng giảm sút. Tuy nỗ lực đọc sách, trừ việc tăng thêm kiến thức Phật học ra, trọn chẳng có mảy may hữu ích nào! Ḷng cảm động tràn trề và tâm từ bi rộng mở thuở đầu giống như có một loại cảm ứng cùng rung động ngày càng tiêu giảm; lại c̣n đối với sự hành tŕ thường ngày, chẳng có ư vị được Phật học hun đúc mảy may! Đặc biệt là trong phương diện t́nh dục nam nữ, cũng chẳng thể khống chế chút nào! Tôi nghĩ t́nh h́nh ấy chắc là do nguyên nhân tôi chỉ đọc sách, chẳng tu tŕ, lại chưa thọ giới, giữ giới. Xin lăo cư sĩ từ bi chỉ điểm đường lối đáng nên hành theo! (Khưu Nhă Xương hỏi)

 

      Đáp: Chẳng hiểu Phật lư, chẳng thể giác ngộ, phần nhiều là do ngỡ sai là đúng, coi giả là thật. Đó gọi là mê hoặc, điên đảo, chẳng có thuở thoát khổ. Sanh ra th́ chẳng biết là do đới nghiệp mà sanh, nay chẳng biết sanh trong cơi này nhằm đền trả báo khổ, chẳng biết chết đi phần nhiều đọa trong tam đồ. Dẫu có thể hiểu, vẫn phải nương vào sự tu tập [mới ḥng thoát khổ]. Nếu không, sẽ là đếm của báu, kể chuyện ăn, vẫn nghèo, vẫn đói! Đă khởi sự tu tập th́ phải có thể nhẫn nại, có chí thường hằng, ḥng ngăn ngừa thoái chuyển. Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ là năm cội rễ của địa ngục, có thể dẫn dụ, mê hoặc chúng sanh đọa lạc mạnh nhất! Nếu chẳng có định lực, khó tránh khỏi như cá mắc lưỡi câu!

 

      * Hỏi: Tinh thần Phật giáo ở chỗ nào? Như thế nào th́ mới có thể coi là Phật giáo đồ chân chánh? (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

      Đáp: Hành cẩn trọng Tứ Hoằng Thệ Nguyện th́ chính là Phật giáo đồ chân chánh. Nếu chẳng làm được, chỉ có thể “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tự thanh tịnh ư ḿnh” th́ chính là hành đạo. Tự thanh tịnh ư ḿnh chính là trừ vọng niệm, giữ chánh niệm. “Giữ chánh niệm” chính là các pháp Tịnh, Thiền, Mật, Luật v.v… hăy chọn bất cứ một pháp nào để tin nhận, dốc sức hành tŕ. Nếu có thể như vậy, sẽ là tín đồ chân chánh của nhà Phật. Lại có thể tự hành, hóa tha, th́ sẽ là Đại Thừa Phật tử.

 

      * Hỏi: Tŕ danh thánh hiệu Quán Thế Âm có những lợi ích ǵ? Cảnh giới thật sự vĩ đại ở chỗ nào? Có thể giải đáp, khai thị để tiện cầu nguyện, xưng danh hay không? Có cầu ắt ứng, đúng không? (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

      Đáp: Chuyện này chẳng phải một đôi lời mà ḥng nói rơ được! Nếu nói ra sẽ là nêu một điều, bỏ sót vạn điều, hoặc là rườm rà nhưng thiếu thích đáng, đâm ra chuốc lấy tội lỗi! Huống chi quư cư sĩ hăy c̣n là kẻ sơ học, chưa chắc tôi có thể nói khế cơ. Đă mong cầu ích lợi, hăy nên phát tâm chí thành, thỉnh một bộ Phổ Môn Phẩm, kính cẩn tụng niệm, thật sự tin tưởng, th́ sẽ là đường lối chánh đáng vậy!

 

      * Hỏi: Học tṛ mong dùng thân phận một nhà kinh doanh xí nghiệp để thành tựu trong đời này, hoằng truyền, tuyên dương đại pháp, mai sau có danh lợi, đối với phú quư, hoặc lấy, hoặc bỏ, hoặc tranh, hoặc nhường, cảm thấy rất do dự. Như ngài Duy Ma Cật, thị hiện phú quư. Như Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện xả phú quư. Học tṛ chẳng thể tự xét nhân duyên trong đời này, lại do căn tánh ngu muội; nếu bỏ phú quư, tâm sanh ư tưởng hối hận, trái nghịch tấm ḷng ban đầu. Nếu giữ lấy phú quư, mà nếu chẳng có túc nhân, ắt sẽ do t́nh thế mà tranh chấp với kẻ khác, đâm ra kết ác duyên, như thế nào th́ mới nên? (Khưu Bạch Hải hỏi)

 

      Đáp: Người tại gia sinh sống, hoàn toàn cậy vào kỹ năng làm việc, cống hiến cho xă hội, hăy nên kiếm một nghề có sự đền bồi chánh đáng, đấy chính là kiếm ăn bằng chính sức ḿnh, không tổn hại đến đức liêm khiết. Nhưng cuộc sống bất quá nhằm trưởng dưỡng thân mạng mà thôi; nếu sơ sót huệ mạng, chính là uổng phí một đời này. Do đó, có lời răn: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ” (Sáng nghe đạo, tối chết cũng được). Ngoài việc kiếm sống, c̣n cần phải cầu đạo. Hai điều ấy đều chẳng thể ĺa, đó là chánh đáng, đúng mức. Cầu đạo mà chẳng có nguồn nuôi dưỡng sanh mạng, sẽ chẳng thể cầu đạo. Khuyên ông đối với kỹ năng làm việc, ắt phải thực hiện mười phần viên măn, đó là chuyện có thể cầu. C̣n như phú quư th́ chính là phước báo, chỉ có thể thuận theo nhân quả, chớ nên cưỡng cầu! [Của cải, tiền bạc đưa] đến vốn chẳng nhường, [chúng mất] đi cũng chẳng phải tranh. Hăy nên biết cái ǵ ồ ạt đưa đến th́ cũng sẽ ồ ạt mất đi. Kết quả là khi hết mạng, chẳng mang theo được, tội nghiệt buộc chặt theo ta. Hăy suy nghĩ cặn kẽ, nếu có duyên gặp mặt sẽ tṛ chuyện [nhiều hơn].

 

      * Hỏi: Trong mười ma nghiệp, điều thứ tám là “nhạo học thế luận, xảo thuật văn tự… hoặc dĩ diệu nghĩa thọ phi kỳ nhân, viễn ly Bồ Đề, trước ư tà đạo” (thích học lư luận thế gian, khéo viết văn tự… hoặc trao diệu nghĩa lầm người, xa ĺa Bồ Đề, vướng vào tà đạo), đối với điều này, tôi có hai điều nghi: Một là kẻ thích nghiên cứu văn học, có phải là chuộng học thế luận hay không? Hai là trao truyền diệu nghĩa chẳng đúng người, “diệu nghĩa” là nói đến điều ǵ? Hăy nên trao cho loại người nào th́ mới chánh xác? Xin hăy chỉ dạy! (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

      Đáp: “Thế luận” là những lời lẽ về công danh, lợi lộc trong thế tục, hoặc là những văn chương phong nguyệt nhảm nhí, đều chẳng có ích ǵ cho huệ mạng. “Diệu nghĩa” th́ pháp thế gian và xuất thế gian đều có, nhưng ở đây là chuyên nói về pháp xuất thế. “Chẳng đúng người” là chẳng phải kẻ chuyên chở đạo, hoặc là phường tà kiến hiểu biết sai lầm. Truyền [diệu nghĩa] cho họ chính là khinh miệt Thánh Lượng vậy!

 

      * Hỏi: Có đồng tu hỏi: Công phu tu hành của Hư Vân đại sư đă rất tốt đẹp, cớ sao lúc mạng chung vẫn có tướng trạng đau bệnh? Đệ tử liên tưởng Huyền Trang đại sư khi mạng chung cũng hiện tướng thống khổ, nên đáp rằng: “Dựa theo sinh lư trong thế gian để suy đoán, đó có phải là v́ giả thân Ngũ Uẩn bị vùi dập quá nhiều nên h́nh thành [bệnh khổ] như vậy, cũng chưa biết chừng!” Đáp kiểu ấy có đúng hay không? Có phải là báng pháp hay chăng? (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

      Đáp: Lời đáp của ông cũng có chỗ đúng, chẳng phải là hoàn toàn sai, nhưng có các thứ sự lư tiêu nghiệp và hiện tướng, các kinh đều có chép. Hăy đọc nhiều sẽ tự biết.

 

* Hỏi: Trong tâm chẳng khởi một niệm, giác tánh linh minh bất muội, hiểu rơ ràng trần cảnh, chẳng phan duyên, khi ấy, có thể gọi là “tịch chiếu song dung” (Tịch và Chiếu cùng viên dung) hay không? (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

Đáp: Ông nói có chỗ tương tự, nhưng chỉ là nói theo cá nhân mà thôi! Ví như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Tệ nhân chưa thể chẳng khởi một niệm, nên chẳng biết cảnh giới vô niệm, vẫn chưa thể ấn chứng lời của cư sĩ, v́ [chính ḿnh] chưa đoạn Hoặc. Nhưng tôi có một lời: Xin hăy xét kỹ, nếu quư cư sĩ có thể dùng Bát Nhă để chiếu soi sâu xa, ắt sẽ chẳng phải hướng về một cái thùng sơn đen kịt mà cầu ấn chứng!

 

* Hỏi: Có người bạn nói: “Con chết, cha mẹ chớ nên nhỏ nước mắt vào thi thể. Nếu không, đứa con ấy chẳng thể chuyển thế, hoặc tăng thêm tội cho nó” v.v… Có thể tin tưởng [những lời ấy] hay chăng? Nếu có chuyện đó th́ nên bổ cứu ra sao? (Lư Tâm Thành hỏi)

 

Đáp: Đấy là phong tục địa phương, tệ nhân chẳng biết. Nhưng chuyện như vậy chẳng thuộc về thiện hay ác, nên cũng chẳng ảnh hưởng đến công phu tu tŕ, dường như chẳng cần phải bàn luận! Nếu chẳng chướng ngại Phật pháp th́ cứ thuận theo phong tục mà kiêng dè, xét theo đạo phương tiện, trọn chẳng phải là không được!

 

* Hỏi: Sách Liễu Phàm Tứ Huấn, nơi trang một trăm bốn mươi, có viết: “Hoặc vi bạch kỳ vu nhi phân kỳ báng, vụ sử chi thành lập nhi hậu dĩ” (hoặc v́ [kẻ khác] bị vu hăm mà phân giải nỗi hiềm báng, khiến cho kẻ ấy được thành tựu mới thôi)[20], hậu học chẳng hiểu câu này cho lắm. Nếu là Phật giáo đồ thành thật, lại là người ăn chay, có thể gánh vác nỗi khổ của người khác ḥng độ chúng sanh, chẳng đoái hoài sanh mạng, nhưng giả như phải bênh vực nỗi sỉ nhục cho kẻ chẳng biết nhục, phân giải những lời lẽ xấu xa của kẻ bại hoại, tuy là đối với danh dự cá nhân bèn chẳng màng, [nhưng bênh vực, bào chữa cho những kẻ ấy] há chẳng phải là bại hoại danh dự Phật giáo, ô nhiễm đạo tràng thanh tịnh? Xin hăy chỉ dạy làm như thế nào th́ mới viên măn? (Lê Tố Hoa hỏi)

 

Đáp: “Phân báng” (phân giải nỗi báng bổ) là nói chính ḿnh bị vu báng. Có thể phân giải nỗi oan bị hiềm báng của kẻ khác là giải quyết mối nguy nhất thời cho người ta. Phàm chuyện ǵ lâu ngày ắt sẽ tự sáng tỏ, nỗi nguy của người kia đă được giải, hai bên chẳng bị tổn thương. Phật giáo chính là đạo tràng tuyên dương giáo nghĩa, đối với hành vi của cá nhân, hăy thông báo rơ rệt là cá nhân ấy phải chịu trách nhiệm, có phương cách xử lư khéo léo, chẳng gây hại đến toàn thể.

 

* Hỏi: “Một tấc quang âm, một tấc vàng, tấc vàng khó chuộc tấc quang âm”. Đi học, đi làm, thậm chí kể từ lúc mới nghe Phật pháp cho đến nay tôi đều tiếc quang âm, v́ liễu sanh tử mà nóng ḷng, nhưng gần đây tôi cảm thấy học Phật phải có tâm thường hằng. V́ thế, dần dần chẳng hạn chế thời gian, nhưng cũng chẳng bỏ phí thời gian, tự cảm thấy là như vậy, có đúng hay không? (Lê Tố Hoa hỏi)

 

      Đáp: Vạn sự đều do ḷng thường hằng mà thành, há có chuyện liễu sanh tử mà chẳng có hằng tâm, lại mong do may mắn mà thành công ư? Đối với chuyện tiếc nuối thời gian, đối với chuyện thế gian, hăy c̣n có [những gương] “tấc Vũ, phân Đào”[21], học rồi bèn tập luyện, người học Phật sao có thể lười nhác? Bài kệ hoàng hôn có mấy câu như: “Thị nhật dĩ quá, mạng diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc” (ngày hôm nay đă qua, mạng cũng giảm theo dần, giống như cá thiếu nước, há có sướng vui chi), câu nào cũng có thể dùng để răn nhắc. Tinh tấn là bằng khoán để thành công. Giải đăi là nguyên nhân chủ yếu khiến bị đọa lạc. Quư cư sĩ tiếc nuối thời gian rất hợp với lời răn của Phật.

 

      * Hỏi: Trong kinh Địa Tạng có nói tụng kinh hồi hướng cho quyến thuộc, sẽ được ba phần công đức, chính ḿnh được bảy phần, nhưng trong mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, chẳng nói hồi hướng cho người khác hoặc chúng sanh, có phải là càng được công đức nhiều hơn ư? Đối với chuyện mười phần chỉ được bảy phần, hăy nên giải thích ra sao? (Lê Chiêu Minh hỏi)

 

      Đáp: Mười nguyện Phổ Hiền từng nói đối với công đức đă làm, nếu hồi hướng cho người khác hoặc chúng sanh, th́ đâm ra chính ḿnh lại đạt được nhiều hơn so với tự làm, tự hưởng. Kinh Địa Tạng nói tụng kinh hồi hướng cho quyến thuộc, nhưng quyến thuộc chỉ được hưởng ba phần, c̣n bản thân người tụng kinh được bảy phần cũng là nói người tụng được nhiều, trọn chẳng khác ǵ phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện đă nói, sao lại dấy ḷng nghi? Chắc là xem kinh mà chưa suy nghĩ sâu xa, mong hăy lắng ḷng đọc tụng.

 

      * Hỏi: [Tôi có các câu hỏi sau đây]:

1) Một, từ ngữ “Bồ Tát” trong kinh Bảo Tích có phải là nói tới người đă thật sự đạt đến địa vị Bồ Tát hay không?

2) Hai, nếu có chúng sanh đọa trong ác đạo, như súc sanh đạo, có phải là thọ mạng năm kiếp? Nhưng có trường hợp vừa vào liền thoát ra, điều này phải nên nói như thế nào? Ví như mẹ của Địa Tạng Bồ Tát vậy! (Tôn Chiêu Minh hỏi)

 

      Đáp: Tại hạ đọc lời hỏi này chẳng hiểu rơ. Kính khuyên ông: Xem kinh mà mong thấu hiểu th́ trước hết là đọc ít, sau là xem nhiều, trước là cạn, sau là sâu. Nếu chẳng có thứ lớp, rất khó đạt được lợi ích. Như đối với kinh Di Đà và kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đều có sách chú giải bằng văn Bạch Thoại của ông Hoàng Khánh Lan, hăy nên đọc trước. Đă có chỗ nhập môn đôi chút rồi mới xem nhiều lư luận th́ cũng chẳng muộn, nhưng niệm Phật vẫn phải chiếu theo lệ thường chẳng gián đoạn.

Phật Học Vấn Đáp Loại Biên

Quyển Thượng hết

     

 



[1] Quỷ Tử Mẫu (Hārītī, Ha Đế Lợi Mẫu) là một ngạ quỷ có thần thông rất to, có mấy trăm đứa con. Để nuôi dưỡng chúng, bà ta thường bắt cóc trẻ nít về cho chúng ăn. Đức Phật bèn bắt đứa con sủng ái nhất của bà ta giấu trong b́nh bát. Bà ta t́m khắp tam thiên đại thiên không thấy, sốt ruột đến van nài đức Phật cứu giúp, nhân đó, đức Phật bảo: “Bà có mấy trăm đứa con, chỉ mất một đứa con mà đă lo lắng đến thế, lẽ nào những người làm cha mẹ khác chẳng đau đớn khi bị mất con”. Rồi đức Phật cho biết con bà đang ở trong b́nh bát, kế đó, thuyết pháp hóa độ khiến cho bà ta phát nguyện bảo hộ trẻ thơ. Đức Phật sẽ sắc truyền tăng chúng hằng ngày thí thực cho bà ta và con cái được no đủ. Do đó, Quỷ Tử Mẫu trở thành một vị thần hộ pháp trong Phật giáo. Bà c̣n trở thành vị thần bảo hộ các thai phụ và trẻ thơ. Do trong kinh Pháp Hoa, Quỷ Tử Mẫu phát nguyện bảo vệ người hành tŕ kinh Pháp Hoa, nên tại Nhật Bản, trong các tự viện thuộc tông Thiên Đài (Thiên Thai Tông Nhật Bản) và chùa miếu của những vị Tăng thọ tŕ kinh Pháp Hoa thường thờ tượng Quỷ Tử Mẫu.

[2] Bá Di và Thúc Tề đều là con của Á Vi (đời vua thứ bảy nước Cô Trúc). Á Vi muốn truyền ngôi cho Thúc Tề, nhưng điều này trái với quy định truyền ngôi cho trưởng, nên Thúc Tề chẳng muốn làm vua, Bá Di cũng chẳng muốn làm trái ư cha, nên hai người cùng bỏ nước trốn đi, để cho Á Bằng là người em thứ hai làm vua. Khi Châu Vũ Vương cất quân dẹp Trụ, hai anh em Bá Di và Thúc Tề nắm dây cương vua ngăn cản, nhưng Vũ Vương chẳng nghe. Khi Vũ Vương đă diệt Trụ, lập ra nhà Châu, hai anh em quyết định bỏ trốn vào núi Thủ Dương ăn rau dại, vỏ cây, về sau chết đói. Cô Trúc (孤竹) là một nước chư hầu thời cổ, được phong đất vào thời vua Trụ. Cô Trúc giáp ranh nước Yên, nằm gần Bột Hải (ước tính vị trí nằm giữa các thành phố Đường Sơn, Triều Dương, Hưng Thành Trấn hiện thời). Các vua xứ Cô Trúc họ Tử, tức là một chi họ (thị tộc Mặc Thai) của tông thất nhà Thương. Dân chúng thoạt đầu sống du mục, về sau sống bằng cày cấy và chăn nuôi. Đến năm 644 trước Công Nguyên, khi quân Sơn Nhung (山戎) tấn công nước Yên, vua Yên cầu cứu nước Tề. Tề Hoàn Công dẫn quân sang cứu, liên quân Tề - Yên đại phá Sơn Nhung, thừa dịp diệt luôn Cô Trúc, và sát nhập lănh thổ Sơn Nhung vào nước Yên. Sử sách không chép rơ về Sơn Nhung, chỉ biết họ là một sắc dân du mục thuộc thị tộc Vô Chung thiện chiến ở phía Bắc nước Yên (chủ yếu là tỉnh Liêu Ninh), không rơ là dân tộc nào, có người cho rằng hậu duệ của họ là bộ tộc Đông Hồ của Mông Cổ hiện thời.

[3] Trong đàn truyền Cụ Túc Giới, phải có Tam Sư Thất Chứng. Tam Sư là ba vị thầy giữ vai tṛ trọng yếu trong việc trao truyền giới gồm Giới Ḥa Thượng (Đắc Giới Ḥa Thượng, Đàn Đầu Ḥa Thượng) là vị trao truyền giới pháp, Yết Ma Sư (Yết Ma A Xà Lê) có nhiệm vụ đọc các bài văn biểu bạch, hướng dẫn giới tử, và Giáo Thọ Sư có trách nhiệm dạy các giới tử oai nghi và tác pháp. Thất Sư là bảy vị tăng (ni) đóng vai tṛ chứng minh cho buổi lễ.

[4] Nguyệt Thượng là con một vị trưởng giả, nổi tiếng xinh đẹp, nên các nơi đều cầu hôn. Cô tuyên bố bảy ngày sau sẽ mở hội chọn chồng. Đến ngày đó, khi mọi người tụ tập đông đủ, cô bay lên hư không, nói kệ khuyến hóa, mọi người nghe xong đều ngưng dứt ḷng dục. Cô lại cùng ngài Xá Lợi Phất, Văn Thù Bồ Tát v.v… biện luận thâm nghĩa Đại Thừa. Sau đó, hiện thần biến, chuyển thân nữ thành nam, xuất gia thành Phật. Sự kiện này được chép thành Phật Thuyết Nguyệt Thượng Nữ Kinh (Candrottarā-dārikā-pariprcchā).

Am Đề (gọi đủ là Am Đề Giá) là con gái của trưởng giả Bà Tư Nhị Già. Khi trưởng giả Bà Tư Nhị Già thỉnh Phật và tăng chúng đến thọ trai, cô Am Đề và chồng đến dự, nhân đó bèn cùng đức Phật, tôn giả Xá Lợi Phất và Văn Thù Bồ Tát biện luận thâm nghĩa Đại Thừa. Nội dung cuộc bàn thảo ấy được chép thành Trưởng Giả Nữ Am Đề Giá Sư Tử Hống Liễu Nghĩa Kinh.

[5] Theo kinh Duy Ma Cật, trong thất của ngài Duy Ma Cật có một vị thiên nữ, do thấy chư thiên và mọi người nghe thuyết pháp, cô ta bèn hiện thân, rảy hoa trời cúng dường đại chúng. Những đóa hoa chạm vào thân các Bồ Tát đều rơi xuống, nhưng chạm vào thân các vị đại đệ tử Thanh Văn đều dính chắc, chẳng rơi. Tất cả các vị đại đệ tử Phật đều dùng trọn hết thần lực mà vẫn gỡ không được. Thiên nữ hỏi ngài Xá Lợi Phất: “Tại sao ông gỡ hoa?” Đáp: “Cài hoa này chẳng đúng pháp, nên tôi gỡ bỏ”. Thiên nữ bảo: “Đừng nói hoa này chẳng đúng pháp. Hoa này vốn chẳng phân biệt, tự ông khởi lên phân biệt. Người xuất gia theo Phật mà có tư tưởng phân biệt th́ chẳng đúng pháp”.

[6] Do bị hạn chế bởi vần điệu, nên lời dịch có chỗ không rơ ràng, xin diễn nôm như sau (dựa theo lời chú giải của Minh Thánh Kinh): Đoạn văn này nhằm khuyên người làm quan phải giữ phẩm hạnh và đức liêm khiết. Quan lại lương bổng đơn bạc, kẻ ăn thịt ngỗng (ư nói ăn uống xa xỉ) khác nào con sâu đục khoét quả mận, cảm thấy ngọt ngào, nhưng bản chất vẫn là loài sâu bọ! Vào thời cổ, cổ nhân thanh bạch, đến mùa dưa chín, bèn hái dưa dâng cúng tổ tiên. Cỗ bàn cúng bái tổ tiên đơn sơ, chỉ có canh rau, nhưng tấm ḷng thành thơm thảo. Câu thơ này xuất phát từ một câu trong Luận Ngữ “tuy sơ thực, thái canh, qua tế, tất tế như dă” (dẫu cúng bái bằng cỗ chay, canh rau, cúng bằng dưa, vẫn là cúng tế chí thành chẳng khác ǵ cỗ bàn thịnh soạn). Người làm quan lương bổng đơn bạc chỉ vừa đủ chi tiêu cho những lễ nghi tối thiểu, tiền tiêu xài cho cả gia đ́nh chỉ vừa đủ cơm ăn mỗi ngày, nếu làm quan mà mang về của cải đựng trong trăm cái tráp th́ đó toàn là vật có được do đă đánh mất khí tiết (nhận của đút, ăn hối lộ). Tiền bạc chứa đầy trong rương là tiền bạc có được do tấm ḷng tăm tối. Đến khi tội lỗi bị phát hiện, sẽ bị xử phạt, có ai mà chẳng sợ. Để giữ vững khí tiết hăy nên luôn nghĩ tới trời xanh nh́n thấu ḷng người.

[7] Đào Viên Minh Thánh Kinh c̣n gọi là Quan Thánh Đế Quân Minh Thánh Chân Kinh là thiện thư lưu hành chủ yếu tại Đài Loan trong thời Đài Loan là thuộc địa của Nhật. Tác phẩm này xuất hiện vào khoảng năm 1912 tại Đài Loan, được coi là lời dạy của chính Quan Công trong đàn cầu cơ. Do nội dung khuyến thiện tích cực, tác phẩm này được lưu hành rất rộng và nhanh chóng được truyền sang Đại Lục cũng như các cộng đồng người Hoa ở hải ngoại.

[8] Phượng Nhăn có tên khoa học là Eichhornia Crassipes, c̣n gọi là Thủy Phù Liên, Thạch Liên, hoặc Phụng Nhăn Lan, mọc nơi ẩm ướt như ven sông, bờ ao, sông ng̣i, tức là một loài thực vật giống như lục b́nh.

[9] Liễu Nhăn là cách nói bóng bẩy trong thơ ca, sánh ví những lá liễu non mới nẩy khi vừa chớm tiết Xuân trông giống như những con mắt nhỏ và dài.

[10] Tuyền Nhăn là chỗ nguồn nước của một con suối.

[11] Tự Nhăn là những chữ tinh yếu, mấu chốt, tuyệt diệu trong một bài văn hoặc thơ, khiến cho ư chính của bài thơ văn ấy được nổi bật.

[12] Bản Nhăn là thuật ngữ chỉ trong phách nhịp, tiết tấu trong âm nhạc. Thoạt đầu, để kư âm, người ta gọi những phách mạnh, thường dùng trống lớn để điểm nhịp là Bản, c̣n những phách nhẹ th́ gọi là Nhăn. Sau này, bất cứ văn bản ghi cách đánh nhạc khí đều được gọi chung là Bản Nhăn.

[13] Theo truyền thuyết, tim Tỷ Can có bảy lỗ nên gọi là Thất Nhăn. Tỷ Can họ Tử, sinh ở Mạt Ấp (nay thuộc Vệ Huy tỉnh Hà Nam), là chú của Trụ Vương (Đế Tân), giữ vai tṛ Thiếu Sư (Thừa Tướng). Sách Luận Ngữ gọi Vi Tử Khải, Cơ Tử và Tỷ Can là “Ân tam hiền nhân” (ba vị hiền nhân đời Ân). Ông là người thông minh, nhân từ, học rộng. Năm hai mươi tuổi, được vua cha là Đế Ất giao cho ngôi Thừa Tướng, pḥ tá nhà Ân bốn mươi mấy năm, chủ trương giảm nhẹ thuế khóa, phát triển nông nghiệp, đúc tiền. Do tính t́nh bộc trực, ráo riết can vua Trụ đừng đắm say tửu sắc, nên bị vua Trụ sát hại. Khi Tỷ Can bị giết, hai bà vợ của ông ta đang mang thai cũng bị truy nă: Bà Hoàng Thị bị bắt trước, đă bị vua Trụ tàn nhẫn hạ lệnh móc đứa con trong bụng ra đem đốt bên cạnh bà mẹ đang ngắc ngoải chờ chết. Bà kia là Quán Quỳ Thị được binh sĩ thương t́nh che giấu, trốn khỏi kinh đô Triều Ca, ẩn náu tại Trường Lâm (Hà Nam). Đứa con sanh ra được đặt tên là Kiên, về sau trở thành thủy tổ họ Lâm tại Hà Nam.

[14] Câu này trích từ sách Thượng Thư (kinh Thư), Thành Vương bảo Quân Trần: “Tất hữu nhẫn, kỳ hữu năi tế, hữu dung, đức năi đại”, các nhà chú giải nói câu này có nghĩa là ắt phải có ḷng nhẫn nại th́ mới có thể hoàn thành sự việc, có ḷng bao dung th́ đạo đức mới cao cả.

[15] “Bốn điều chớ phi lễ” (phi lễ tứ vật) là lời Khổng Tử dạy Nhan Uyên về cách khắc kỷ, giữ lễ được ghi trong chương Nhan Uyên sách Luận Ngữ: “Tử viết: Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên…. Nhan Uyên viết: Thỉnh vấn kỳ mục? Tử viết: Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (Khổng Tử: “Chế ngự dẹp yên những ư nghĩ xằng bậy trong tâm, tuân thủ lễ, đó chính là Nhân. Một ngày dẹp yên ư nghĩ xằng bậy, vâng giữ lễ, thiên hạ đều trở thành nhân [trong ngày hôm ấy]… Nhan Uyên thưa: “Xin hỏi [để thực hiện điều ấy] th́ phải làm những ǵ?” Khổng Tử đáp: “Chuyện phi lễ đừng nh́n, chuyện phi lễ đừng nghe, chuyện phi lễ đừng nói tới, chuyện phi lễ đừng làm”).

[16] Phượng lê (鳳梨) là danh từ mà giới học thuật Đài Loan thường dùng để gọi quả dứa (thơm, khóm). Dân gian c̣n gọi dứa là Vương Lê, Phan Lê, hoặc Hoàng Lê, nhưng phổ biến nhất là Ba La. Do quả mít cũng được gọi là Ba La Mật, nên nhiều người sơ ư tưởng chữ Ba La Mật trong kinh là nói về quả mít hay nói tới một loại thơm nào đó.

[17] Thiên Thai Tam Thánh là ba vị thánh nhân thị hiện tại núi Thiên Thai, tức ḥa thượng Phong Can, Hàn Sơn và Thập Đắc.

[18] Vô Cực Lăo Mẫu c̣n gọi là Vô Sanh Lăo Mẫu, Vô Cực Thiên Mẫu, hoặc Vô Cực Thánh Tổ, được coi là vị thần sáng tạo nguyên thủy sanh ra toàn thể vũ trụ. Quan niệm này được tin tưởng bởi nhiều tà giáo xuất hiện thời Minh - Thanh như La Giáo, Kê Túc Sơn Đại Thừa Giáo, Trai Giáo, Văn Hương Giáo, Thánh Nhất Giáo, Nhất Quán Đạo v.v… Danh xưng này do La Tư Phù (giáo tổ La Giáo) chế ra, nhằm đề cao đạo của ông ta cao hơn các phái Đạo giáo trước đó kể cả Phật giáo, v́ Vô Sanh Lăo Mẫu đă sanh ra tất cả thần, thánh, tiên, Phật trong vũ trụ. Họ La đă vay mượn khái niệm chúa Cứu Thế và cũng vay mượn chuyện Lucifer chống Thiên Chúa để đặt chuyện như sau: Lăo Mẫu biến hóa ra trời đất, nhưng chưa có con người, bèn lấy ra một “hột” chân tánh, thổi một hơi chân khí, hóa thành chín mươi sáu ức chân linh cho xuống trần làm người. Do các chân linh không thèm chào hỏi thiên thần Cù Tánh Đởm, nên ông ta sanh ḷng giận dữ, bỏ Lăo Mẫu dắt theo năm con ma xuống trần, mê hoặc con người, chẳng muốn quay về thiên giới. Để cứu độ các chân linh trở về ngồi ṭa sen, Lăo Mẫu đă sai Phật Nhiên Đăng, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc lần lượt giáng thế nhằm hướng dẫn chúng sanh trở lại đạo, quy hoàn đại ngă v.v… và lập ra ba hội Long Hoa. V́ vậy, hằng năm phải kỷ niệm ba hội Long Hoa (Tiên Thiên Long Hoa là Rằm tháng Ba, Trung Thiên Long Hoa là Rằm tháng Năm, và Hậu Thiên Long Hoa là Rằm tháng Chín).

[19] Tịnh Độ Chân Tông (Jōdo Shinshū), thường được Âu Tây biết đến với danh xưng Shin Buddhism, là một tông phái tại Nhật Bản do Thân Loan (Shinran) sáng lập. Theo thống kê, tín đồ giáo phái này chiếm đến hai mươi phần trăm dân Nhật. Thân Loan (1183-1263) sống vào cuối thời B́nh An (Heian), đầu thời Kiếm Thương (Kamakura). Khi lên chín tuổi, ông được gia đ́nh gởi lên núi Tỉ Duệ (Hiei) để xuất gia theo phái Thiên Đài (Thiên Thai Tông Nhật Bản). Theo truyện kư, Thân Loan đă thiền định một trăm ngày, và được Thánh Đức Thái Tử (Shotoku, người được coi là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát tại Nhật) xuất hiện trong mộng để chỉ dạy. Thân Loan rời Tỉ Duệ để theo học với ngài Pháp Nhiên (Honen, giáo tổ Tịnh Độ Tông Nhật). Do đụng chạm với các tông phái vốn có, cả Pháp Nhiên lẫn Thân Loan đều bị lưu đày. Trong thời gian lưu đày, ông lấy bà Eshini và có bảy người con. Người con cả là sau này lại lập ra một tông phái riêng, về sau bị các tín đồ Chân Tông coi là dị giáo. Sau khi Pháp Nhiên mất, Thân Loan đă tŕnh bày tư tưởng của ḿnh qua tác phẩm Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo Hạnh Chứng Văn Loại (Kenjōdo Shinjitsu Kyōgyōshō Monrui), thường được gọi tắt là Giáo Hạnh Tín Chứng (Kyōgyōshinshō). Về sau, Tịnh Độ Chân Tông được cải tổ và hoàn chỉnh hóa, hệ thống hóa bởi Liên Như (Rennyo). Điểm đặc biệt của Tịnh Độ Chân Tông là nhấn mạnh niềm tin vào tha lực và nguyện thứ mười tám. Đối với họ, niệm Phật (nembutsu) là h́nh thức để cảm tạ A Di Đà Phật và chỉ cần do niềm tin mạnh mẽ, họ sẽ được văng sanh. Đối với họ, ngay cả việc niệm Phật cũng là dư thừa nếu niềm tin vào Phật đủ mạnh mẽ, vững chắc!

[20] Chúng tôi dịch câu này theo cách giải thích của ông Chung Mậu Sâm (tục danh của pháp sư Định Hoằng) trong bài Liễu Phàm Tứ Huấn Nghiên Tập Báo Cáo.

[21] “Tấc Vũ, phân Đào” (Vũ thốn, Đào phân) là thành ngữ chỉ sự tiếc nuối thời gian. Vũ là vua Đại Vũ. Theo thiên Nguyên Đạo Huấn trong sách Hoài Nam Tử: “Cố thánh nhân bất quư xích chi bích, nhi trọng thốn chi dương, thời nan đắc chi nhi dị thất dă” (v́ thế, thánh nhân chẳng quư một thước ngọc, mà coi trọng một tấc thời gian. V́ thời gian khó được dễ mất). Câu nói ấy nhằm ca ngợi vua Đại Vũ sốt sắng chăm lo trị thủy, chẳng hề để lỡ một giây phút nào. Thậm chí trong khi trị thủy, tuy đi qua nhà ba lần, vua Vũ chẳng vào thăm vợ con v́ sợ lỡ việc. Đào là Đào Khản, đại tướng nước Tấn, luôn khuyên người khác phải quư trọng từng phân thời gian.