Phật Học
Vấn Đáp Loại Biên
佛學問答類編
Phần 12
Lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam giải
đáp
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo
Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội, Đài
Loan, 2007)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
* Hỏi: Giải thích “ưng quán pháp giới tánh”
như thế nào? (Lư Trí
Viễn hỏi)
Đáp: “Ưng”
(應)
là hăy nên, “quán” (觀) là quán sát, “pháp” (法) là nói về hết thảy mọi
sự, hết thảy mọi lư, hết thảy mọi
vật, chính là đại danh từ chỉ hết thảy
muôn mối. “Giới” (界) là giới
hạn. Gộp hai chữ “pháp
giới” lại để nói th́ có nghĩa là mọi
sự, mọi lư, mọi vật v.v.. mỗi thứ
đều có phạm vi, giới hạn. “Tánh” (性) là cội nguồn của một
sự, một vật, một lư nào đó. Năm chữ
ấy đă nói đại khái, nhưng năm chữ
ấy chỉ là ư nghĩa trong một câu trước
[của bài kệ], hăy nên xem câu kế tiếp. Chỉ dùng
năm chữ ấy hợp thành một câu để
giảng th́ nghĩa lư cũng chẳng thông suốt cho
lắm, ắt phải giảng cùng với câu kế
tiếp th́ mới nói găy gọn được. Câu kế
tiếp là “nhất thiết duy
tâm tạo”. Nói gộp cả hai câu th́ là: Hăy nên quán sát các
pháp, xét đến cội nguồn của chúng, bèn biết
chúng toàn là do tâm niệm tạo thành.
* Hỏi: Đức Phật độ Quỷ Tử Mẫu[1] nhằm trừ hại cho các trẻ nhỏ, sao không độ Ma Vương ḥng trừ hại cho vô lượng vô biên người tu hành? (Lư Trí Viễn hỏi)
Đáp: Chẳng phải là đức
Phật không độ, nhưng Ma Vương ch́m
đắm trong sự hưởng thụ, lúc tỉnh, lúc
mê, chẳng có sức tự vượt thoát. Nhân gian th́
khổ nhiều, yên ổn ít, dễ sanh tâm chán ĺa, cơ
duyên tu đạo đông nhiều, cho nên nói “thân người khó được”. Lại
nghĩ đến Bắc Câu Lô Châu, cơm, áo hết
thảy đều tự nhiên hiện ra, [sự
hưởng thụ] c̣n chưa bằng được
một phần trăm Ma Vương, thế mà họ c̣n
chẳng tin Phật pháp, trầm mê trong biển dục,
đáng sợ thay!
* Hỏi: Trong Phật pháp có nói “chẳng
có thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai” và
“chẳng có không gian theo chiều ngang trọn khắp
mười phương”. Đối với điều
này, đệ tử giải ngộ là Chân Như bản
tánh của chúng ta vốn sẵn thanh tịnh, chẳng có
khởi đầu, chẳng có kết thúc, bao trùm trọn
khắp hư không, lấy đâu ra mười
phương và ba đời? Đó đều là do một
niệm bất giác, bèn từ chân khởi vọng, hiển
hiện thành vạn pháp, đó là trần cảnh hư
vọng và nhân pháp giới, cho đến Kế Danh Tự
Tướng trong sáu thô tướng, nên mới giả
định danh từ “mười
phương, ba đời”. Hết thảy trần
cảnh và giả danh đều chẳng phải là
những thứ sẵn có trong bản tánh. Nếu hoàn toàn
tiêu trừ tất cả các tinh cầu trong hư không và các
hiện tượng, không có mặt trời, mặt
trăng vận hành, th́ chỉ là một cảnh trống
rỗng tối tăm (giống như không có ánh sáng),
chẳng có bờ mé. Không chỉ là chẳng có danh từ
“mười phương, ba đời” phát xuất từ
giả định, mà sợ rằng ư niệm “mười
phương, ba đời” cũng chẳng thể từ
đâu mà dấy lên được! Đúng hay không? Xin hăy
chỉ dạy! (Tiên Thuần
Hiền hỏi)
Đáp: Điều này lại
chẳng đúng! Ba đời mười phương có
lúc nói là Có, có lúc bảo là Không, có thể thấy điều
này ở bất cứ chỗ nào trong kinh, đều là nói
khế cơ. Nói chân thật mà có quyền biến, nói quyền
biến mà có chân thật, là Thật, là Quyền, chẳng
phải là Quyền, chẳng phải là Thật, nói sống
động [đủ mọi lẽ như thế],
đều là Thánh Lượng. Quư cư sĩ cứ hở
ra liền nhắc tới Chân Như, tuy chẳng phải là
không đúng, nhưng chẳng tránh khỏi là phường
cố chấp, vốn đang thông suốt lại trở
thành tắc nghẽn! Hăy thử xem Tam Tạng mênh mông, ngàn
kinh vạn luận, có ǵ có thể ĺa khỏi Chân Như?
Nếu chỉ dùng một nghĩa Chân Như để nói
th́ bốn mươi chín năm [thuyết pháp], hơn ba
trăm hội [giảng kinh], A Nan đa văn, há chẳng
phải đều là những thứ thừa thăi ư?
* Hỏi: Tôi tuy trữ rất
nhiều sách Phật, nhưng gần một năm qua,
lại cũng chẳng có hứng thú muốn xem đọc
(xét ra, chỉ ngẫu nhiên cầm lên một hai cuốn
để tùy tiện xem đọc mà thôi). (Phan Kim Thủy hỏi)
Đáp: Người học Phật
thoạt đầu siêng năng, về sau biếng nhác,
đó là căn bệnh thông thường. Chuyện này
được gọi là “thoái chuyển”. Nguyên nhân chẳng
phải chỉ có một, nhưng đều gọi là “ma
chướng”. Hăy nên khởi tâm cảnh giác, phấn
chấn tinh thần, một mực tiến lên. Nếu
chẳng thể nghiên cứu kinh điển sâu xa th́ muôn
phần chớ nên thiếu sót công khóa thường ngày. Thân
người khó được, Phật pháp khó nghe.
Đời này chẳng được giải thoát,
đời sau sẽ mờ mịt [chẳng biết
đọa lạc vào đâu]!
* Hỏi: Tôi gia nhập đoàn
thể nhà Phật đă gần bốn năm, nhưng
gần đây rất ít khi đến Phật
đường niệm kinh, cảm thấy Phật đường
là nơi rất đáng ngại (có lúc trong ḷng rất
muốn đến Phật đường, nhưng
chẳng thể dấy lên dũng khí đến đó). (Phan Kim Thủy hỏi)
Đáp: Đạo tu hành ở
nơi tự tâm, ngoài việc chẳng tham gia Phật
đường ra th́ cũng chẳng có trở ngại ǵ.
Dẫu ở nhà, mỗi ngày theo đúng thời khóa niệm
Phật, chuyên tu Tịnh Độ, cầu sanh Tây
Phương, có ǵ là chẳng được, có ǵ là khó hành?
Các sách Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục hoặc Tinh Hoa
Lục, lời lẽ hết sức gần gũi, dễ
hiểu, nhưng ư nghĩa sâu dầy, người nào
đọc cũng hiểu, rất hữu ích cho
tương lai của người ấy. Nếu chẳng
có bậc minh sư cổ vũ, khích lệ, các sách ấy
chính là thiện tri thức vậy.
* Hỏi: Trong Tam Quy Y,
điều thứ ba là “tự
quy Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại
chúng, hết thảy vô ngại” có ư nghĩa như
thế nào? (Ẩn danh cư
sĩ hỏi)
Đáp: Phàm là chuyện
đề xướng, hoặc là chuyện phải lo
liệu, ắt phải có nhiều người. Đă là
nhiều người th́ không thể ai nấy tự
quyết định, ắt cần phải có một
người lănh đạo th́ mới chẳng hỗn
loạn. Nhà Phật độ người, thuyết pháp,
giảng kinh, hết thảy Phật sự, cho đến
những việc sắp xếp nội bộ, trăm
mối cần quản lư, nếu không có một
người cầm đầu, xử lư, việc làm sao có
thể thành tựu cho được? Nhưng chúng sanh ư
kiến phức tạp, làm sao có thể khiến cho ai
nấy đều tâm phục? Chẳng phục, sẽ nẩy
sanh chướng ngại. Sanh chướng ngại th́
việc chung bị tổn hại. Tăng có nghĩa là
Chúng, hăy nên có sáu điều ḥa hợp, nguyện sao ai
nấy đều vâng giữ Lục Ḥa, chẳng khiến
cho người lănh đạo chật vật, gặp
chướng ngại, [ngă ḷng] buông lơi việc công!
* Hỏi: Chẳng biết
như thế nào mà sau khi tôi gia nhập đoàn thể nhà
Phật, đâm ra phiền năo đều tăng? (Phan Kim Thủy hỏi)
Đáp: Trạng huống và t́nh
h́nh xử lư trong các đoàn thể nhà Phật khác nhau. Có
đạo tràng chân chánh, chuyên v́ tu hành, cũng có đoàn
thể chuyên làm chuyện náo nhiệt, chẳng đạt
được lợi ích mảy may! Lại c̣n kẻ
chẳng hiểu Phật pháp, mượn danh [đoàn thể
Phật giáo để] cầu lợi. Thậm chí có kẻ
suốt ngày tụ họp, chuyên nói họ Trương
giỏi, họ Lư dở, tạo tác thị phi, dẫn
khởi đấu tranh. Hiểu rơ mọi lẽ, sẽ giống
như kết giao bằng hữu, cần phải chọn
lựa, thân hiền, xa nịnh. Những đoàn thể
được thành lập, tuy có danh xưng là Phật giáo,
nhưng do con người chủ tŕ, há có thể là đoàn
thể nào cũng tốt đẹp ư? Đó chính là “[nơi nào] là đạo th́ vào,
nơi chẳng phải là đạo bèn tránh”, [hiểu như
vậy] sẽ tự nhiên giảm thiểu phiền năo.
Nếu hoàn toàn chẳng muốn tham gia, cũng chẳng
trở ngại ǵ. Đóng cửa, tự tu, há chẳng thanh
tịnh ư?
* Hỏi: Bậc thánh đă
chứng Sơ Quả có thần thông hay không? Lại c̣n
Nhị Quả và Tam Quả đạo hạnh như
thế nào? Những điều ấy lại phát xuất
từ kinh điển nào? (Trương
Khoát Nhiên hỏi)
Đáp: Bậc đă chứng
Sơ Quả th́ thần thông có phát khởi hay không, trọn
chẳng nhất định! Dẫu có phát th́ cũng
chẳng qua là một phần của Ngũ Thông, chắc
chắn chẳng có Lậu Tận Thông! Những vị chứng
quả có các thứ học, các thứ tu; có đến
một trăm hai mươi
phẩm Hoặc (phiền năo), lại c̣n phải chia Tứ
Thánh Đế thành mười sáu hành tướng
để phán đoán. Nếu chẳng tu thêm Tứ Gia
Hạnh, [bậc đă chứng Sơ Quả] sẽ qua
lại bảy phen trong nhân gian hay trên cơi trời.
Đối với lời hỏi của quư cư sĩ,
kẻ hèn này chẳng thể trả lời bằng vài câu
được! Chẳng xem kinh, sẽ chẳng thể
hiểu rơ ràng. Nếu chỉ mong biết đại khái th́
trước hết hăy nên đọc bản chú giải kinh
Tứ Thập Nhị Chương của Ngẫu Ích
đại sư.
* Hỏi: Đă phá Sắc Ấm liền
vượt thoát Kiếp Trược, có phải là đă
dự vào ḍng thánh? Đây là luận định ước
theo người hành theo pháp, chẳng xen tạp tư
tưởng ngoại đạo ư? (Trương Khoát Nhiên hỏi)
Đáp: Luận định này xuất
phát từ sách vở nào? Kẻ hèn này đọc kinh đă
ít, lại c̣n chóng quên, dường như trước nay
chưa hề nghe đến [chuyện này]. Do chẳng
biết, nên không có cách nào tŕnh bày nghĩa này! Phật pháp
chẳng phải là hư luận, kinh điển trong pháp
thế gian cũng có huấn dụ “nghi nhi vô chất” (nghi ngờ mà chẳng hỏi),
xin người hỏi hăy lượng thứ!
* Hỏi: Ngoại cảnh thanh sắc
hết sức bắng nhắng, chộn rộn. Học
Phật th́ thoạt đầu là do miễn cưỡng mà
xa ĺa, dần dần trở thành tự nhiên. Do tự nhiên
mà trở thành khinh an, tự tại, chuyển biến
những nhiễm cấu trong thân tâm thành ngày càng thanh
tịnh hơn. Nh́n ngược lại người
đời thích thú rong ruổi trong chốn ô uế, cội
nguồn mê hay ngộ vốn thuộc về đó. Nhập
đạo có nhiều đường, hễ khế cơ
th́ tốt đẹp. Tôi nghĩ bậc trưởng
giả cũng nên xét soi căn tánh của con người để
thí giáo, pháp nào cũng đều thành tựu, trọn
chẳng nên cứ phải cưỡng ép, câu nệ “cậy vào tŕ danh th́ mới
dự vào ḍng thánh”!
(Trương Khoát Nhiên hỏi)
Đáp: Quư cư sĩ hiểu lầm quá
mức! Kẻ hèn này là một gă tại gia bạch y,
trọn chẳng phải là bậc pháp sư dựng cao pháp
tràng, đại khai đạo tràng, chuyên môn hoằng pháp.
Sở học b́nh sinh chỉ là thật thà niệm Phật,
ngay như đối với pháp này cũng là hiểu
biết nửa vời (chẳng phải là nói khiêm tốn),
những pháp khác đều mù mờ! Chưa đủ
Thập Lực của Phật, há dám tiếm phận
tự xưng là quan sát căn tánh của người khác,
khế cơ thí giáo (ban bố giáo pháp phù hợp căn
cơ)? Kinh hoảng muôn phần, tội lỗi vô
lượng! C̣n như Ngài nói “chẳng cần phải
cưỡng ép, câu nệ cậy vào tŕ danh th́ mới dự
vào ḍng thánh”. Đối với lời cật vấn,
quở trách ấy, kẻ hèn này trừ một pháp này ra,
trọn chẳng biết ǵ khác! Phàm những ai hỏi
tới, chỉ có khuyên họ như thế. C̣n như
bảo “cậy vào tŕ danh th́
mới nhập ḍng thánh”, tôi chưa hề thốt ra
lời ấy. Xét theo ư nghĩa văn tự của chữ
“mới nhập” th́ có
nghĩa là trừ pháp ấy ra, những pháp khác đều
chẳng thể. Nếu thốt ra lời ấy, tức là
hủy báng hết thảy Phật pháp đều chẳng
có hiệu quả ǵ. C̣n như bậc thượng căn
lợi khí, thông Tông, thông Giáo, Tánh, Tướng, Mật,
Luật, nghe một, ngộ cả ngàn, kẻ hèn này gặp
gỡ c̣n chẳng dám mở miệng, há c̣n dám khuyên họ
tŕ danh ư?
* Hỏi: Thường nghe nói nhân tố
trọng yếu của Bồ Đề là Bi và Trí. Lại
nghe nói: Ngưng nghỉ tức là Bồ Đề. Nếu
có thể dừng nghỉ vọng tâm, cố nhiên có thể
khế hợp Trí, nhưng dường như chẳng có Bi.
V́ thế, người học đạo sau khi đă
ngưng nghỉ [vọng tâm], có phải là hăy nên phát riêng
một đại nguyện rộng độ hữu t́nh
hay chăng? (Vương Chí
Hiền hỏi)
Đáp: Đă ngưng nghỉ
rồi lại phát đại nguyện, đó chính là hàng
Thanh Văn, Duyên Giác Tiểu Thừa hồi Tiểu
hướng Đại. Người học Đại Thừa
ngưng dứt [vọng tâm] và phát nguyện đồng
thời, chẳng chia ra trước và sau.
* Hỏi: Đức Phật nói
Kinh và Luật Tạng nhiều ngần ấy, nhưng tôi
cho rằng đức Phật nói điều trọng
yếu nhất là từ bi, đó cũng chính là Ái; nhưng
những pháp do Ngài đă nói như Tứ Thánh Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên, Ngũ Uẩn đều không, Duy
Thức, Pháp Tướng, không ǵ chẳng nhằm làm cho con
người tiêu trừ dục niệm tự ngă, khiến
cho chính ḿnh hoàn toàn tịnh hóa, chẳng c̣n chút tâm “tư ngă”
nào. Nhất là như đức Phật đă nói “tôi
nguyện đem hết thảy những ǵ của tôi có dâng
hiến cho toàn thể nhân loại. Giả sử tôi có
thể hóa thân ngàn vạn, tôi sẽ khiến cho ngàn vạn
người nương vào tôi mà sống, măi cho đến
khi họ được cứu mới thôi”. Cũng như
kinh Kim Cang đă nói: “Hăy nên không
trụ vào đâu mà sanh tâm, hăy nên không trụ vào đâu
để hành bố thí”. Trên đây là những
điều kiến giải của tôi đối với
Phật pháp, chẳng biết có chánh xác hay không? (Trần Văn Phước
hỏi)
Đáp: Từ bi như ông đă
nói chính là nguyên tắc của Phật học, nhưng
hết thảy Sự, Lư, hoặc Thể, hoặc Dụng,
đều có các điều mục hết sức tỉ
mỉ. V́ thế, đức Phật thuyết pháp bốn
mươi chín năm, nhóm hội hơn ba trăm
lượt. Kế nữa, kinh có đến ba tạng, há
chỉ nói về từ bi mà thôi; ư nghĩa sâu xa, uyên áo,
hết sức khó nói. Hễ thấu hiểu một pháp, bèn
có thể giải thoát, chẳng phải là chỉ nêu ra danh
từ mà ḥng thấu hiểu nghĩa của nó. C̣n như
ông nói tới Duy Thức, Pháp Tướng, Tứ Thánh
Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, “hăy nên không trụ vào đâu” trong kinh Kim Cang v.v…
đều là các pháp môn tu tŕ. Do mỗi pháp có Dụng khác
biệt, nên chẳng có cách nào trả lời luông tuồng
được!
* Hỏi: Khi trước, tôi
đến Cao Hùng, phải ngồi xe du lịch theo
tuyến đường đến Đài Đông. Do v́ xe
du lịch ba tháng trước đă có lần bị tai
nạn, trên đường đi chết ba mươi
mấy người. V́ thế, trước khi sắp lên
xe, tôi có ư niệm: Niệm Nam-mô A Di Đà Phật, tất
cả các câu niệm Nam-mô A Di Đà Phật của tôi,
cầu A Di Đà Phật làm chủ, hồi hướng cho
những người đă chết văng sanh thế giới
Cực Lạc. Đang trong lúc tôi thầm niệm, bỗng
nghe tiếng xe nổ máy, đối với âm thanh ấy,
tôi bỗng ngộ ra âm thanh ấy ở trong thân tôi,
tỉnh ngộ hồi tưởng âm thanh ấy là tôi, tôi
là âm thanh ấy. Đó là chánh giác, hay là vọng
tưởng? Xin Lư cư sĩ hăy chỉ dạy. (Trần Thục Dung hỏi)
Đáp: Quư cư sĩ niệm
Phật trên xe, hồi hướng cho họ, có ḷng bi
mẫn, có đại công đức, ư niệm “âm thanh và ta
đồng nhất” sau đó chẳng qua là một thứ
cảm tưởng mà thôi, nhưng cư sĩ nghi [cảm
tưởng ấy] là chánh giác th́ tức là hiểu lầm.
Chánh giác th́ mức độ thấp nhất là giải
thoát. Trước hết, cũng cần phải biết
Tứ Thánh Đế là chân lư, lại biết Ngă, Biên, Tham,
Sân v.v.. mười Thập Sử là vọng hoặc nơi
kiến giải và tư tưởng. Trước là biết,
sau là tu, tu là nhân, chứng là quả. Sau khi đă đắc
quả, mới gọi là Chánh Giác.
* Hỏi: Hai chúng nam nữ
tại gia, sau khi đă chết, thân thể có thể đem
hỏa táng, bỏ tro xuống biển, nhằm nuôi
những loài thủy tộc hay không? Có hợp pháp hay
chăng? (Phùng Ngô Hiệp B́nh
hỏi)
Đáp: Phàm phu chấp
trước thân tướng, coi thân là ngă, thân xác sau khi
đă mất có thể có dính dáng đến thần
thức. Người học Phật đă hiểu
biết, biết thân là huyễn, chẳng phải là ngă, sau
khi đă mất, tâm chẳng ràng buộc với thân, thân chẳng
liên quan ǵ đến tâm. Theo nguyện lực khi c̣n
sống, muốn xử trí [thi thể] như thế nào,
không có ǵ là chẳng được! Huống hồ phát tâm
bố thí thủy tộc, tiền nhân cũng có lệ
ấy. Bố thí th́ chẳng phân biệt là tại gia hay
xuất gia!
* Hỏi: Sau khi xác thân đă
thiêu hóa, đem nghiền thành bột, lại trộn thêm
bột ḿ vào đó, để tiện nuôi các động
vật như lợn, gà, vịt v.v… Xét ra là để
đền bồi sát nghiệp đời trước, có
hợp pháp hay không? (Phùng Ngô
Hiệp B́nh hỏi)
Đáp: Trong câu hỏi
trước, [bà nói] đă chịu bố thí thủy
tộc. Phàm là đối với loài thú chạy, chim bay, hăy
nên nhất loạt b́nh đẳng, nhưng chuyện lo liệu
cái thân sau khi chết, ắt phải được con cháu
chịu làm theo th́ mới có thể thực hiện
được. Lúc c̣n sống do bà đă phát tâm, đă
mất th́ do họ làm chủ, chuyện có thể thành
tựu hay không, hoàn toàn cậy vào nhân duyên.
* Hỏi: Đức Phật nói
Địa Tạng Vương Bồ Tát Bổn Nguyện
Lực Công Đức Kinh là nói trên cung trời Đao
Lợi, mạt học cho rằng ngay cả nhục thân
ứng hóa của đức Thế Tôn cũng bay lên trên
trời. Nếu không, cớ sao trong nhân gian có thời
kỳ do v́ không thấy đức Phật bèn tạo
nhiều diệu tướng để lễ bái, cúng
dường? (Ngô Minh An hỏi)
Đáp: Tôi từng nghe nói có kinh cũng
nói giống như thế. Thần thông có sáu loại.
Đây chính là Thần Túc Thông. Bậc A La Hán đă [có
thể] phi hành tự tại, nên [chuyện này] đối
với Phật càng chẳng phải là chuyện hiếm
hoi, lạ lùng ǵ!
* Hỏi: Trong số báo Bồ
Đề Thụ hai trăm hai mươi bảy,
đại đức trả lời câu hỏi thứ chín
của cư sĩ Nhan Vân Hồng “…tâm chẳng giữ ḷng thành, chẳng đáng gọi
là lễ…” Chẳng biết là khi giữ ḷng thành, tâm
trụ vào đâu? Lại phải như thế nào th́
mới có đạt đến cảnh giới vâng giữ
ḷng thành? (Ngô Minh An hỏi)
Đáp: Trong pháp thế gian,
Khổng Tử cũng từng dùng điều này
để dạy người, Ngài có nói một câu như
sau: “Tế như tại,
tế thần như thần tại” (Cúng tế như
người được ta cúng tế đang hiện
diện, cúng tế thần như thần đang hiện diện
tại đó). Tín đồ nhà Phật lễ Phật,
bất luận là đối với tượng bằng
gỗ khắc hay tượng đất đắp, tranh
vẽ, hay tượng đúc bằng đồng,
đối với những tượng ấy đều tưởng
như đức Phật thật. Lễ Phật, tâm bèn
đặt nơi Phật, chuyên nhất hướng
về, trọn chẳng có mảy may ư niệm khác, đó
gọi là chuyên thành. “Thành” là
chẳng ngụy, chẳng tạp, chuyên ṛng, duy nhất.
Hễ chân thành sẽ cảm thông, cố nhiên người
lễ bái được lợi ích. Chẳng chân thành
tức là khinh mạn, người lễ mắc lỗi.
Mấu chốt là như thế, há chẳng thận
trọng ư?
* Hỏi: Lại trong số báo
Bồ Đề Thụ ấy, trong câu trả lời
thứ nhất cho cư sĩ La Đông Hải, đại
đức có nói: “…nhưng
đừng nên hướng về người khác khoe
khoang. Theo đúng lư, hăy nên dụng công như thường
lệ”. Nếu do một thứ nhân duyên xảo hợp
nào đó (như kẻ đó chẳng tin Phật, hoặc
nửa tin, nửa ngờ, hoặc là buông bỏ giữa
chừng v.v…), v́ muốn khiến cho đối
phương càng thêm tinh tấn, sanh tín tâm, bèn thuận
tiện nói ra, th́ cũng bị coi là khoe khoang đó
chăng? (Ngô Minh An hỏi)
Đáp: V́ lợi lạc người
khác, chẳng ngại đúng mực nói ra, nhưng cần
phải là thật sự có chuyện ấy, chớ nên mang
tâm lừa gạt nói dối. Chuyện ǵ cũng có hai
mặt, chẳng phải là công liền là lỗi, Phật
pháp cũng có nhiều phương tiện, cũng cho phép
người trí v́ lợi ích chúng sanh mà hành quyền biến
vậy!
* Hỏi: Hai anh em Bá Di và Thúc
Tề[2]
nhường ngôi cho nhau, cuối cùng ai lên ngôi? (Tạ Minh Châu hỏi)
Đáp: Hai người ấy
chẳng có ai lên ngôi cả!
* Hỏi: Yết-ma A Xà Lê là ǵ? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)
Đáp: Đó chính là tiếng
Phạn [dịch âm], [chữ Yết Ma
(Karma)] dịch sang tiếng Hán rất phức tạp, nên
vẫn giữ nguyên âm đọc, chẳng dịch.
Đại ư là trong nghi thức truyền giới, hoặc
là trong nghi thức sám hối, hết thảy sự
nghiệp, hết thảy pháp quy, hoặc ngôn thuyết,
hoặc văn sớ v.v… đều được bao
gồm trong ấy, nên nói là “phức tạp”. A Xà Lê
(Ācārya) cũng là tiếng Phạn, hàm ư là một
vị cao tăng hữu đạo, hữu học, có
thể dạy Phật pháp. Nếu có tư cách làm thầy,
đúng pháp truyền giới cho người khác, hoặc
dạy bảo kinh điển, chỉ dạy oai nghi v.v… th́
đều có thể gọi là A Xà Lê. Gộp hai danh từ
ấy lại để nói, Yết Ma A Xà Lê chính là vị
thầy trong Tam Sư[3]
[có trách nhiệm] đọc bài văn Yết Ma của
đàn thọ giới. Người chưa từng thọ
giới, sợ rằng có nghe cũng chẳng hiểu rơ cho
lắm.
* Hỏi: Mật nhân (cái nhân bí
mật) của Như Lai là ǵ? (Tŕnh
Sâm Thụ hỏi)
Đáp: Tam Tạng mười
hai bộ giáo, tám vạn bốn ngàn đà-la-ni, không ǵ
chẳng phải là mật nhân của Như Lai, nhưng
không có nơi chốn để có thể t́m kiếm
được. Người chưa học chẳng nghe,
chẳng thấy, kẻ có học mà không hiểu cũng
chẳng biết. Có hiểu mà chẳng tham cứu th́
cũng chẳng biết. Tuy tham cứu mà chẳng ngộ
vẫn chẳng biết. Đă ngộ mà chưa chứng,
vẫn không biết! Dường như quư cư sĩ
chưa học, c̣n tại hạ đă học nhưng
chẳng hiểu, nay bàn tới chuyện này có lẽ là quá
sớm!
* Hỏi: Mật nhân của
Như Lai là như thế nào, ắt là Phật và Phật
sẽ biết! (Tŕnh Sâm Thụ
hỏi)
Đáp: Đă biết mật
nhân của Như Lai th́ tức là Phật. Chính ḿnh phải
thành Phật th́ mới biết mật nhân của Như
Lai. Ông Giáp thành Phật liền tự biết mật nhân
của Như Lai. Ông Ất đă thành Phật, tự
biết mật nhân của Như Lai. Chẳng thành Phật,
sẽ chẳng biết mật nhân của Như Lai. Ông Giáp
thành Phật đă biết, ông Ất thành Phật đă
biết. Chẳng thành Phật sẽ chẳng biết
mật nhân của Như Lai. Vị Phật tên Giáp đă
biết, vị Phật tên Ất đă biết, đó
gọi là “Phật và Phật bèn biết”, có ǵ lạ lùng
đâu?
* Hỏi: Đệ tử biết
hết thảy các pháp đều là vô thường, vô ngă,
không, tịch diệt, nhưng gần đây đối
với hết thảy sự vật, đều muốn
truy t́m đến tận nguồn cội, xét rơ nguyên do
của chúng, đó có phải là thần kinh có vấn
đề hay không? (Tŕnh Sâm
Thụ hỏi)
Đáp: Hết thảy mọi
sự, hết thảy mọi lư, rộng mênh mông như cát
bụi, biết c̣n chẳng dễ, huống hồ truy
đến tận nguồn cội! Tuy đó chẳng
phải là bệnh thái thần kinh, mà là mê hoặc, vọng
tưởng, nhưng trọn chẳng phải là không
thể biết, chỉ là học và chẳng học mà thôi.
Bậc thánh nhân bẩm sinh đă biết, hiền nhân
phải học mới biết, người bậc trung do
bị khốn khó mà biết, kẻ bậc hạ tuy bị
khốn khó mà chẳng biết, người hạ hạ
chẳng học, chẳng nhận biết sự khốn
khó, mặc t́nh điên đảo, tán loạn. Tôi đă nói
rơ, quư cư sĩ hăy tự xét căn khí của chính ḿnh,
trống ḷng cầu học, một mực chẳng lui
sụt, trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, tự nhiên
đoạn sạch Trần Sa th́ mới có thể
đại giác biết toàn bộ. Xét theo lời hỏi, “biết hết thảy các pháp là
vô thường, vô ngă” v.v… bất quá là biết phiến
diện, trọn chẳng biết c̣n có “hữu
thường”, “hữu ngă”! Nếu nay đă biết, th́
chỉ biết được một phần bảy, sao
lại tự xưng là biết? Ắt phải lênh đênh
trên biển, mới biết là nước nhiều. Ắt
phải học rồi mới biết cái học của
chính ḿnh chẳng đủ! Trong cái nh́n phàm phu của
tại hạ, quư cư sĩ c̣n chưa nhập môn Phật
pháp, c̣n đang ở nơi ngơ rẽ, chưa phân biệt
được đâu là Đông, đâu là Tây!
* Hỏi: Bồ Tát thị
hiện và thừa nguyện tái lai phân biệt như
thế nào? (Chung Quân
Lương hỏi)
Đáp: Khi thị hiện,
hoặc là nhập thai, hoặc là do hóa thân, hóa vật,
chẳng phải là một. Thừa nguyện tái lai chỉ
là v́ lợi ích chúng sanh mà vào thai, đó là một điều
khác biệt. Thị hiện là tùy duyên, tùy thời, ẩn
hiện đột ngột, trọn chẳng có hạn
chế. Thừa nguyện tái lai, ắt phải trải qua
một khoảng thời gian, có tướng sanh diệt.
Đó là điểm khác biệt thứ hai.
* Hỏi: Nếu coi xem kinh
như một thứ nghiên cứu triết học, coi tin
Phật thuộc về vấn đề tôn giáo, có hiểu
nhưng chẳng hành th́ có thể liễu giải Phật
pháp chánh xác hay chăng? (Chung
Quân Lương hỏi)
Đáp: Phật pháp ắt
phải do tin tưởng mà có thể nhập. Đă
nhập rồi bèn có thể tu, hành và giải tương
ứng th́ mới đạt được sự hiểu
biết thật sự. Nếu chỉ coi là nghiên cứu triết
học, có giải mà chẳng hành, e rằng giải cũng
chẳng sâu. Đàm luận việc dụng binh trên
giấy, chẳng có mảy may kinh nghiệm ǵ, lẽ nào
chánh xác cho được!
* Hỏi: Trong bài Tuyết Lư
Thị Học Ngữ Lục đăng trên Từ Quang Bán
Nguyệt San số ra ngày Rằm tháng Tư có đoạn “tự thắng ḿnh là bậc
thượng”, phần cuối có ghi: “…Tôi thường khuyên người khác có thể hành
thiện nghiệp, nhưng đừng nên trị thiện
nghiệp”. Hành và trị khác nhau như thế nào? (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Hành và Trị là do
người ghi chép đă chọn lựa từ ngữ,
chứ khi nói, tôi chỉ dùng văn Bạch Thoại.
Đại ư là mỗi cá nhân hăy tự lượng sức
của chính ḿnh để làm lành, chẳng cần phải
kết thành đoàn thể, thiết lập cơ cấu
từ thiện mà thôi. Đây chính là do thời thế mà
lập bày, là phương tiện nhất thời, chẳng
phải nói theo kiểu trăm năm bất biến.
Người khéo nghe hăy nên suy ngẫm ư vị.
* Hỏi: Có một cư sĩ
từng thọ phương tiện Bồ Tát giới
tại chùa Linh Sơn, đến nay cũng ăn chay,
nhưng hoàn toàn chẳng biết giới văn, mà cũng
chẳng có Bồ Tát giới bổn. Đệ tử có
thể tặng cho người ấy một quyển
Bồ Tát giới bổn hay không? (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Người ấy
đă thọ giới, phải nên có giới bổn. Ông ta
đă không có, biếu tặng là đúng rồi!
* Hỏi: Núi, sông, đại
địa v.v… thế giới toàn là do mê vọng hiện
ra, lại là cộng nghiệp. V́ thế, một
người thành Phật, huyễn hữu thế giới
trong tâm người ấy liền tiêu diệt, nhưng núi,
sông, đại địa vẫn nghiễm nhiên tồn
tại. Nếu hữu t́nh trên cả thế giới
đều thành Phật, có phải là thế giới hoàn
toàn tiêu diệt hay không? (Tiên
Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Đối với
Hiện Lượng trước mắt, chúng ta c̣n chưa
hiểu rơ. Hai chữ “nếu như” có ư nghĩa gần
với giả thiết, cớ ǵ lại phải bày sẵn
hư luận, thốt lời vọng ngữ to lớn?
Chỉ xin ông hăy suy nghĩ cặn kẽ một chuyện,
Tây Phương Cực Lạc chính là cơi nước của
Phật Di Đà. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm có đất, ao,
lầu, đài, rừng cây, hoa… Thường Tịch Quang
th́ chẳng có, xin hăy nghiên cứu lư trong kinh, chẳng
cần phải đặt ra câu hỏi!
* Hỏi: Có một vị cư
sĩ nói “gần đây, tôi vẫn dấy lên rất
nhiều phiền năo, v́ sao Phật, Bồ Tát chẳng gia
bị tôi, khiến cho phiền năo hoàn toàn tiêu diệt?” Đệ
tử đáp: “Cần phải biết vạn pháp do tâm
tạo, phiền năo phải do chính ḿnh tiêu diệt.
Phật, Bồ Tát chẳng thể tiêu diệt giùm ông.
Chỉ cần ông chân tâm tin Phật, buông xuống hết
thảy, phá tan Ngă Chấp, phiền năo sẽ tự nhiên
tiêu diệt”. Dường như bà ta chẳng đồng
ư, xin hỏi có cách trả lời nào khác hay chăng? (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Lời đáp của
đại đức rất hợp chánh lư. Bà ta chẳng
tin tưởng là do nghiệp chướng của chính bà ta
nặng nề. Hơn nữa, tâm chúng sanh vốn vô
thường, nên hôm nay nghĩ Đông, ngày mai lại
chuyển sang Tây, làm sao có thể tính sẵn lời lẽ
theo khuôn khổ cứng ngắc ḥng đối ứng cái
tâm thiên biến vạn hóa! Nói chẳng hợp căn cơ
th́ nửa câu đă nhiều. Do vậy, Phật pháp
trọng khế cơ, khế lư. Cần phải biết là
thầy thuốc chẳng thấy bệnh nhân, chẳng
thể kê toa. Đối với vị cư sĩ ấy,
tôi hoàn toàn chẳng biết ǵ về bà ta, ông bảo tôi nói
ǵ đây?
* Hỏi: Màu sắc th́ dùng màu
vàng và đỏ trong khi hỷ khánh hoặc dịp cát
tường. Hai màu đen và trắng dùng cho tang chế,
nhưng có người nói chẳng phải vậy! Như
áo của cô dâu [thường là màu trắng], hoặc là áo
hải thanh của chúng ta dù là gặp dịp hỷ khánh,
hoặc cúng lễ, toàn dùng một màu. Điều này
khiến tôi mờ mịt, xin hăy khai thị! (Bồ Ngụy Truyền hỏi)
Đáp: Lời hỏi này
nhắm vào sự diễn biến trong phong tục tập
quán xưa nay, chỉ là mỗi thời coi trọng [màu
sắc] khác nhau. Như thời vua Nghiêu coi trọng màu
trắng, thời vua Thuấn chuộng màu đỏ,
thời vua Vũ chuộng màu đen. Triều đại
nhà Thương lại chuộng màu trắng, triều
đại nhà Châu lại chuộng màu đỏ, triều
đại nhà Tần lại chuộng màu đen. Triều
đại nhà Thanh lại chuyên chuộng màu vàng. Những
màu được ưa chuộng mỗi thời
đều được coi là cát khánh. Cho đến
thời cận đại, hễ có chuyện cát khánh bèn
chuộng màu đỏ, tang chế đều mặc màu
trắng. Hiện thời, trong lễ kết hôn, cô dâu
mặc màu trắng, chính là chịu ảnh hưởng
của ngoại quốc, chẳng phải là lễ tiết
Trung Hoa quy định sử dụng màu trắng. Hải
thanh dùng màu đen là tuân thủ quy chế dành cho
người xuất gia, chẳng liên quan ǵ đến cát,
hung. Lời hỏi của Ngài chẳng dính líu ǵ đến
Phật học, tôi phương tiện trả lời
một lần. Sau này nếu rủ ḷng hỏi tới, xin
hăy hạn chế trong lănh vực Phật học.
* Hỏi: Người sau khi
đă chết, [người thân] cúng thất, chẳng
mời thầy đến tụng kinh, mà mở băng
tụng kinh th́ có được hay không? (Tạ Minh Châu hỏi)
Đáp: Chim vẹt miệng có,
tâm không. Băng thâu âm xướng tụng có tiếng,
nhưng thiếu nguyện, sức lực nhỏ nhoi,
chẳng thể nói là chẳng có tác dụng ǵ! Nh́n sắc
núi, nghe tiếng nước chảy, hoa rụng, lá rơi,
đều là vô t́nh, mà c̣n khởi tác dụng. Hữu
cảm, sẽ tự được thông suốt vậy!
* Hỏi: Cầu tiêu tai,
miễn nạn th́ tụng kinh Kim Cang, chúc thọ th́
tụng Thủy Sám, [làm như thế] có thích đáng hay
không? Có phải là mỗi bản kinh Phật đều có
tác dụng tiêu tai, cầu phước hay không? (Tạ Minh Châu hỏi)
Đáp: Hễ có tâm phân biệt
th́ có sự cảm ứng phân biệt theo từng pháp.
Chẳng có tâm phân biệt, hễ nêu lên một kinh,
đều là một Thể mà có muôn vàn tác dụng, không ǵ
chẳng cảm ứng. Có người hỏi ḥa
thượng Đại Châu: “Tŕ kinh Bát Nhă công đức
nhiều nhất, Sư có tin hay chăng?” Sư đáp: “Chẳng tin. Linh nghiệm là do
dụng tâm của người tŕ kinh; v́ thế, thần
thông có thể cảm vật”. Đủ thấy
tụng kinh cầu nguyện là do ḷng thành của
người ấy, chẳng do bất cứ kinh nào!
* Hỏi: Con người sau khi
đă chết, hỏa thiêu, đem tro đặt trong nhà
thờ cốt, đến đó lễ bái th́ có linh
nghiệm hay chăng? Có phải là đă trở thành vật
vô tri? Có phải là nhằm biểu lộ ư nghĩ cung kính
ḥng kỷ niệm đó thôi? (Tạ
Minh Châu hỏi)
Đáp: Khổng Tử nói: “Tế như tại, tế
thần như thần tại” (cúng tế như
đối tượng ta đang tế lễ hiện
diện, tế thần giống như thần đang
hiện diện). Lại nói: “Tế
tắc đắc phước” (cúng tế
được phước). Văn Vương tế
miếu, tế xong liền nghe tiếng thở dài. Cư
sĩ nghi ngờ “có linh hay không”, coi đó là vật vô tri
giác, tức là đă mâu thuẫn với kinh Phật, lại
c̣n trái nghịch kinh điển của thánh nhân, truyện
kư của hiền nhân trong cơi đời. Cứ theo lệ
đó mà suy rộng ra, Phật thờ trong chùa miếu, há chẳng
phải là bằng gỗ khắc, đất đắp,
đồng đúc, tranh vẽ trên giấy, nếu coi
nhất loạt giống như những vật kỷ
niệm, há chẳng phải là theo phái Duy Vật Luận
ư? Ông cố t́nh cật vấn, hay là thật sự có
nỗi nghi ấy? Cả hai lẽ đều chẳng
phải là lập trường của Phật giáo, hăy nên
tự kiểm thảo, đừng đi vào lối rẽ!
* Hỏi: Tỷ dụ như có
người tám giờ sáng hôm nay tắt hơi, đến
bốn giờ chiều mai hỏa táng, có phải là thần
thức đă ĺa khỏi xác hay chăng? (Tạ Minh Châu hỏi)
Đáp: Chẳng nhất
định! Thần thức ĺa xác có nhanh hay chậm khác
nhau. Hễ nhanh th́ trong một cái khảy ngón tay, nếu
chậm bèn có hai ba ngày khác biệt. Khoa học có khái
niệm “thời gian đợi cho người ta chết
hẳn”, cổ tục có lệ “chờ
ba ngày rồi mới đại liệm”.
* Hỏi: Gần đây, tôi
rất nóng nảy, căng thẳng, sợ sệt,
phiền muộn, tâm chẳng tĩnh được,
chẳng có cách nào niệm A Di Đà Phật. T́nh h́nh này là do
nghiệp báo, quả báo ác, hay là do bệnh tật nơi
thân? Có phải là bị bệnh thần kinh hay không? Chỉ
có khi nghe thầy giảng kinh th́ tâm t́nh tôi mới khá
thoải mái, nhưng chỉ có thể giữ
được [sự thoải mái ấy] trong khoảng
hơn một ngày, sau đấy lại mắc phải
những tật như vừa kể trên đây, hết
sức khổ năo! Chẳng biết phải làm như
thế nào th́ mới nên? (Tạ
Minh Châu hỏi)
Đáp: Đă tự biết là
sai, càng phải nên khống chế, nhưng khống
chế cố nhiên chẳng phải là dễ dàng. Ông nói thích
nghe kinh th́ ở Đài Trung, mỗi tuần có bốn
chỗ giảng kinh, nếu có thời gian, hăy nên nhất
loạt tham gia, hăy thử xem như thế nào!
* Hỏi: Khi đệ tử
nghiên cứu, xem đọc kinh điển, dường
như khi hiểu, khi không. Nói là “dường như
hiểu” thật ra cũng là tự ḿnh nghĩ là đă
hiểu, rốt cuộc có hiểu hay không th́ chính ḿnh
trọn chẳng có năng lực [phán định]. Như
đối với câu “do mê
vọng nên có hư không, nương vào hư không mà lập
thế giới”, đệ tử hiểu nó có nghĩa
là: Chân Như bản tánh vốn sẵn thanh tịnh,
chợt có một niệm bất giác, muốn từ trên cái
Minh lại chồng thêm một cái Minh nữa, nên biến
thành căn bản vô minh. Đă có vô minh, lại tiếp
tục dấy động [ư niệm] cầu
được thấy, nhưng chẳng có cảnh
để có thể thấy. Trừng mắt nh́n, do mỏi
mắt nên trong hư không mờ mịt bèn hiện ra
cảnh giới Tứ Đại hư vọng. Lại do
Tứ Đại tùy duyên mà thành lập khí thế gian, do
Kiến Phần mà lập ra hữu t́nh thế gian. Liễu
giải như trên đây có đúng hay chăng? Xin thầy
hăy chứng minh! (Tiên Thuần
Hiền hỏi)
Đáp: Đại khái là như
vậy, nhưng câu nói “Tứ
Đại tùy duyên bèn thành lập khí thế gian, do Kiến
Phần mà tạo lập hữu t́nh thế gian” phạm
phải khuyết điểm. Muốn hiểu tường
tận, hăy nên nghiên cứu [giáo nghĩa] Tam Tế, Lục
Thô, sẽ tự noi theo khuôn phép đúng đắn.
* Hỏi:
Những người đệ tử được
tiếp xúc chẳng phải là kẻ hạ ngu, mà cũng
chẳng phải là bậc thượng trí, đa số là
hạng tiêm nhiễm tập khí Âu Tây, tợ hồ hiểu
mà chẳng hiểu. Tôi mong khuyên họ tin Phật, nhưng
nếu hoàn toàn dựa theo những ǵ kinh Phật đă
dạy để nói với họ, họ chẳng tin
tưởng. Nếu nói phương tiện khế cơ
th́ đệ tử chẳng đủ trí huệ, sợ
phạm giới luật. Xin thầy khai thị một
nguyên tắc về pháp phương tiện để
thuận tiện tuân theo! (Tiên
Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Tâm cư sĩ tốt
lành thay, nhưng điều cư sĩ mong cầu
chẳng thỏa đáng. Khuyên người khác học
Phật giống như bác sĩ trị bệnh, ắt
trước hết phải chẩn trị rơ ràng căn
bệnh, sau đấy mới cân nhắc bốc thuốc.
Thuốc phù hợp bệnh, chưa chắc đă chữa
lành ngay, nhưng chẳng gây hại. Đối với
hạng người như ông đă nói, chấp
trước quá sâu, họ đă sẵn có thành kiến “khoa
học là vạn năng, Phật pháp là mê tín”. Nếu trực
tiếp dùng Phật pháp để giảng giải, nói sâu
th́ họ chẳng hiểu, nói cạn chắc chắn
sẽ bị họ cười cợt, chế nhạo.
Cư sĩ hăy nên đối với những ǵ họ
đă biết, mà chính ḿnh cũng biết, thuận theo
sự chấp trước của họ để phá
trừ [những thành kiến của họ], hoặc
thuận theo họ để nhiếp thủ th́ mới có chỗ
tương ứng. Phật pháp chú trọng phương
tiện, phương tiện là thuận theo quyền
biến: Chợt nói “chó có
Phật tánh”, chợt nói “chó
chẳng có Phật tánh”, đều
là “chỉ lá rụng mà bảo
là vàng ṛng”, nói “trúc biếc
là Bát Nhă”, há có ǵ là
phạm giới? Nếu yêu cầu kẻ hèn này soạn
sẵn một toa thuốc để chuẩn bị
nhằm đợi cho kẻ ấy bị bệnh sẽ
cho uống th́ chính là một gă thầy thuốc lỗ măng.
Hơn nữa, bệnh thiên biến vạn hóa, càng chẳng
thể khư khư tuân theo một toa thuốc
được!
* Hỏi: Để thành
đạo quả, lại nói phải đoạn Hoặc.
Lại nói “phải chế phục Hoặc; nhưng rồi
lại nói “chế phục
Hoặc” th́ chẳng triệt để. Xin hăy dạy
phương pháp đoạn Hoặc và chế phục
Hoặc? (Ẩn Danh Thị
hỏi)
Đáp: Trước hết
phải biết danh số của Hoặc (phiền năo), và
nhận biết chúng triệt để, th́ khi chúng nó
dấy lên sẽ nhận biết. Đă nhận biết,
sẽ có thể khống chế, khiến cho chúng nó
chẳng dấy lên. Đó gọi là Chế Phục. Cố
nhiên chế phục th́ chẳng triệt để. Hăy nên
biết vạn pháp sanh từ nhân duyên, cái có thể chế
phục chính là đoạn duyên. Duyên
chẳng có, nhân sẽ chẳng sanh. Do vô duyên lâu ngày, chế
phục sẽ trở thành đoạn. Đoạn ngay
lập tức là Đốn; tuy tốt lành, nhưng ít
người có thể làm được. Có thể chế
phục th́ là Tiệm, tuy kém hơn, nhưng gắng sức
th́ vẫn có thể làm được. Thế nhưng chuyện
này chẳng phải là chuyện của kẻ sơ
học. Dẫu nói rất cạn, vẫn sợ chẳng
thể liễu giải, ắt cần phải thông hiểu
đôi chút về đường lối trong Phật
học th́ mới có thể nói đến chuyện này. Kính
biếu ông hai tập sách nhỏ, mong hăy đọc
trước.
* Hỏi: Học Phật có
bắt buộc phải ăn chay hay không? V́ sao
trưởng lăo Tế Điên ăn thịt, uống
rượu, Quan Công cũng uống rượu ăn
thịt? Có người nói Đại Thừa Phật pháp
chẳng chấp tướng, chẳng chấp
tướng có nghĩa là ǵ? (Ẩn
Danh Thị hỏi)
Đáp: Chuyện ăn chay
rất khó nói. Người mới học chẳng sát sanh,
chẳng ăn thịt là tốt nhất. Nếu chẳng
thể thôi ăn thịt, có thể mua ngoài chợ, ăn
thịt của những con vật đă bị giết
sẵn, hoặc mua cá đă chết, hoặc mua thịt
đóng hộp, đủ để no bụng mà thôi! Các
loại thịt ấy chẳng do ta giết, chẳng
thấy, chẳng nghe, hoặc tự chết, nên Phật
pháp gọi chung [những thứ thịt ấy] là “tịnh nhục”, [ăn
như thế] cũng có công đức. Lâu ngày sẽ
dần dần học ăn chay. Từ ăn chay ít hôm,
dần dần tăng lên nhiều; khi cơ duyên
đến, sẽ tự có thể ăn chay trường.
Quan Công dùng rượu thịt là chuyện lúc c̣n sống,
chưa học Phật. Tế Công là bậc La Hán chứng
quả có thần thông, chẳng phá giới; chuyện Ngài
ăn thịt uống rượu thuộc về huyễn
thuật. Nếu hỏi đến Đại Thừa th́
tạm thời khó nói, v́ bọn ta c̣n chưa nhập
thừa, làm sao nói là Đại Thừa hay Tiểu Thừa
cho được! Nếu hiểu rơ Phật lư, sau khi
đă giác ngộ Thể là không, Tướng là có, liễu
giải các tướng đều là hư vọng th́
mới chẳng chấp trước giả hữu đang
hiện tiền. Đó gọi là “chẳng
chấp tướng”.
* Hỏi: Phật giáo nói
đến quan niệm “hết thảy b́nh đẳng”,
hễ phát tâm vô thượng liền có tư cách thành
Phật. Nhưng trong kinh Phật đâu đâu cũng chê
trách nữ nhân, thường nói nữ nhân chướng
nặng chẳng thể thành Phật, ắt trước
hết phải chuyển thành thân nam th́ mới
được. Nam nhân nếu chẳng có tín, giải, hành,
chứng, làm sao có tư cách thành Phật cho được?
Đó có phải là bất b́nh đẳng hay chăng? (Châu Huệ Đức hỏi)
Đáp: Phát vô thượng tâm là
cái nhân để thành Phật, nhưng ắt phải là tinh
tấn chẳng lui sụt th́ mới được thành
tựu. Hễ thoái chuyển, phần nhiều là do có
chướng ngại. Chướng vốn tự sanh,
tự chướng, tự thoái chuyển, làm sao có thể
thành Phật cho được? Chúng sanh không ai chẳng có
chướng, nhưng có nặng hay nhẹ sai khác. Nam
nữ mỗi giới có tập tánh [khác biệt], do t́nh
thức mà h́nh thành ranh giới rạch ṛi. Điều
dễ nhận thấy là nữ nhân t́nh thức dễ xúc
động, nên khó thể tiêu diệt [các chướng ngại
phiền năo], nam tử khó rung động, nên dễ tiêu
trừ. Điều này có mối quan hệ to lớn
đối với chuyện chướng nặng hay
nhẹ, nhưng cũng là nói theo đa số, chẳng
phải là không có ngoại lệ. Như thiên nữ trong kinh
Tịnh Danh, long nữ trong kinh Pháp Hoa, và các bà Nguyệt
Thượng, Am Đề[4] v.v…
trong những kinh khác, há chẳng phải là đều thành
tựu ư? Kinh Tịnh Danh nói: “Hoa
này chẳng phân biệt, do nhân giả tự sanh ư
tưởng phân biệt”[5]. Hăy nên biết đức
Phật chẳng phải là bất b́nh đẳng, mà là do
t́nh thức tự sanh chướng ngại! Lại
nữa, tư cách thành Phật th́ nam hay nữ đều
có, nghĩa là đều có tâm tánh, đó là Bổn Giác. Tín,
giải, hành, chứng chính là Tu Đức. Ĺa bỏ các Tu
Đức ấy th́ tư cách rốt cuộc chỉ là
tư cách [suông] mà thôi!
* Hỏi: Đức Phật
thuyết pháp bốn mươi chín năm, không ǵ chẳng
v́ độ chúng sanh. Trong hội Pháp Hoa, ngài Xá Lợi
Phất cầu thỉnh ba lượt, Phật hai
lượt ngăn cản tôn giả là v́ lư do nào? (Châu Huệ Đức hỏi)
Đáp: Đức Phật
thuyết pháp, thiện xảo thật nhiều. Trong
thuở ấy, nếu ngài Xá Lợi Phất biết,
ắt sẽ thỉnh cầu ba lượt. Nếu
chẳng biết, ắt vẫn thỉnh cầu ba
lượt. Kẻ hèn này đă chẳng biết Phật,
lại chẳng biết ngài Xá Lợi Phất, bà đă
hỏi lầm người về lư do ấy, muốn
biết rành rẽ nẻo lên núi lại đi hỏi kẻ
chèo thuyền!
* Hỏi: “Chưa thể tự
độ, đă muốn độ người khác
trước”. Đại Thừa thường nói như
thế, cũng là ḷng đại bi. Thế nhưng có
đại bi th́ ắt phải có đại trí, nhưng
trước hết ắt phải hỏi chính ḿnh thật
sự có tư cách ấy hay không? Nếu chẳng thể
tinh tấn thiết thực dụng công, chuyên làm chuyện độ
sanh, sẽ chẳng tránh khỏi rong ruổi bên ngoài! (Châu Huệ Đức hỏi)
Đáp: Đoạn đầu,
bà đă nói rất đúng. Đă chẳng có trí huệ,
lại chẳng có thật tu, chính ḿnh c̣n chẳng
độ được, làm sao có thể độ người
khác? Có Bi th́ chính là có Trí, chẳng qua là bi trí vẹn toàn, hay
có bi và trí nhiều ít. Trí ít sẽ chẳng biết thiện
xảo, nên chẳng dễ khế hợp kẻ khác.
Nếu là bi nhiều, hăy nên cầu trí, nhưng trí huệ trọn
chẳng phải là nói suông mà ḥng đạt
được. Trong lúc tâm lư mâu thuẫn, chẳng trở
ngại khen ngợi Phật, khuyên tu, đó chính là hành
Bồ Tát đạo. “Độ”
là đưa đến bờ kia, “khuyến” là khuyên họ hăy ngồi thuyền!
* Hỏi: Cổ đức nói: “Nếu Bồ Tát phát tâm liền
độ sanh th́ chẳng có lẽ ấy”. Giải thích
lời ấy như thế nào? Rốt cuộc là khởi
đầu từ chỗ nào? (Châu
Huệ Đức hỏi)
Đáp: Ví như thấy có
người ngă xuống biển, chính ḿnh chẳng biết
bơi, bèn nhảy xuống biển cứu người
ấy, cùng bị chết đuối, nên nói là “chẳng có
lẽ ấy”. Hễ học Bồ Tát th́ ai mà chẳng phát
Tứ Hoằng Thệ Nguyện? Câu đầu tiên là “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, câu kết thúc là “pháp
môn vô lượng thệ nguyện học”. Đă nghe
như thế th́ hăy nên hành như thế. Nhưng cũng
chẳng phải là đợi đến lúc chứng
quả rồi mới hành hạnh độ chúng sanh. Chỉ
là biết được một phần bèn thí cho
người khác một phần, biết mười
phần bèn thí cho người khác mười phần. Tùy
duyên tùy phần, sẽ là rất tốt đẹp!
* Hỏi: Làm thế nào
để khiến cho kẻ tin tưởng Nhất Quán
Đạo có thể chánh thức chân thành tin tưởng
Tam Bảo, quy nhập Phật môn, trở thành đệ
tử Phật, ḥng liễu thoát sanh tử, tự lợi,
lợi tha? (Ông Thủy Trụ
hỏi).
Đáp: Tâm của ngài tốt
lành, chẳng ngại xem xét. Đây cũng là vấn
đề cơ duyên. Những kẻ ấy đă có
thiện căn, gặp được thiện duyên, sẽ
có thể chuyển biến. Nếu chẳng có thiện
căn, hăy nên tạo chủng tử cho họ trong hiện
tại. Tuy họ chấp trước Giới Thủ
Kiến, nhưng ngài đă phát Bồ Đề tâm. Cố
nhiên nếu thành công th́ rất tốt đẹp, nhưng
chẳng thành th́ cũng chẳng thất bại. Chẳng
tinh tấn, chẳng phát bi tâm, sẽ là hủ bại.
Nhưng hai chữ “như hà”
(như thế nào) chẳng cần phải hỏi
nhiều, [bởi lẽ] chẳng có chuyện ǵ nhất
định, các pháp phải xét theo sự thiện xảo.
* Hỏi: Hậu học
buổi sáng tụng kinh Kim Cang, buổi tối tụng kinh
Di Đà, [dự tính] đổi thời gian tụng
niệm thành xem kinh hoặc đọc tạp chí Phật
giáo, nghiên cứu Phật lư. Niệm tụng và xem kinh
đằng nào tốt hơn? (Trần
Tánh Khiết hỏi)
Đáp: Tụng niệm sáng
tối là tu tŕ, là pháp cúng dường, chớ nên phế
trừ. Xem kinh và nghiên cứu giáo lư là công phu tư duy, hai
đằng chớ nên khuyết một. Nếu thời gian
chẳng đủ, tu tŕ ắt phải có thời điểm
cố định, c̣n tư duy th́ có thể dành thời gian
rảnh rỗi để thực hiện.
* Hỏi: Trong đoạn
cuối cùng trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, đức
Phật nói kinh ấy xong, long vương Ta Kiệt La và các
đại chúng “nhất
thiết thế gian” thiên, nhân, A Tu La v.v… đều hoan
hỷ to lớn, tin nhận, vâng làm. Chữ “nhất thiết thế gian” nói đến
mấy thế gian? (Trần
Tánh Khiết hỏi)
Đáp: Hai chữ “thế gian” bao gồm khí
thế gian, hữu t́nh thế gian, và giác thế gian sai khác.
“Khí” (器) là nói núi, sông, đại địa, và
một ngọn cỏ, một cái cây, một hạt cát,
một hạt bụi đều là [khí thế gian]. Hữu
t́nh là nói đến lục đạo chúng sanh, thai, noăn,
thấp, hóa, đều là [hữu t́nh]. Giác là nói Phật,
Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đều là [giác hữu t́nh].
Hai chữ “nhất thiết”
có Tổng và Biệt. Biệt là nói tới số
lượng khí, hữu t́nh, giác thế gian trong một
đạo tràng nào đó. Tổng là nói tới số
lượng khí, hữu t́nh, giác thế gian trong một
đại thiên. Nói rộng ra th́ tận hư không khắp
pháp giới cũng được gộp trong ấy,
nhưng cần phải xét là kinh văn thuộc về kinh
nào, khoa nào th́ mới có thể biết đại
lược là nói về điều nào (Bồ Tát, Duyên Giác,
Thanh Văn cũng gọi là hữu t́nh).
* Hỏi: Con người từ
đâu đến? Chết sẽ đi về đâu? (Tạ Minh Châu hỏi)
Đáp: Từ vô minh, vọng
tưởng mà có, chết rồi sẽ luân hồi trong
lục đạo. Vô minh giống như ngủ mê, lục
đạo là mộng huyễn, có thể nói là do nằm
mộng mà có, lại đi vào trong mộng. Lại hăy nên
biết: Nay đang nằm mộng, hoàn toàn chẳng
tỉnh, có thể nói là “chẳng đến, chẳng
đi”, mà cũng chẳng có hiện tại, cũng
chẳng có khởi đầu, cũng chẳng có kết
thúc, chỉ là một giấc mộng chẳng tỉnh
đó thôi!
* Hỏi: “Cảnh giới Niết Bàn dài
lâu như trời và đất”, câu ấy có phạm sai
lầm hay chăng? Có phải là trời đất sẽ
có ngày bị hủy hoại? Cảnh giới Niết Bàn có
phải là nói bất sanh, bất diệt hay không? (Tạ Minh Châu hỏi)
Đáp: Câu “cảnh giới Niết Bàn dài lâu như trời và
đất” sai lầm quá to, há có phải là sai sót đôi
chút ư? Muôn pháp đều trải qua các giai đoạn
thành, trụ, hoại, không; trời và đất cũng
chẳng phải là ngoại lệ. Niết Bàn là viên tịch.
Đă chẳng sanh, há có diệt?
* Hỏi: “Nghịch thực
tằng như tào lư mỹ, qua tế hà thắng thái canh
điềm, bổng lộc chỉ kham cung lễ nghi, cử
gia thực phí cận bàn hoàn, bách quỹ đài hồi thất
tiết vật, măn sương trang khỏa muội tâm tiền.
Xuy trượng đồ lưu thùy bất phạ, khuyến
nhĩ đài đầu khán thượng thiên” (ăn ngỗng
khác ǵ sâu đục mận? Cúng dưa há ngọt kém canh rau?
Bổng lộc chỉ vừa lo đủ lễ, cả
nhà ăn uống chỉ vừa mâm, vàng bạc khuân về,
đồ hối lộ! Đầy rương của cải,
dạ không lành. Đánh, đập, lưu đày ai chẳng
sợ. Khuyên ngươi ngẩng mặt ngắm trời
xanh)[6],
đoạn kinh văn Đào Viên Minh Thánh Kinh[7] ấy
nói lên ư nghĩa ǵ? Chú giải về sự liêm khiết,
nghĩa khí là chuyện như thế nào? (Cao Tân Phát hỏi)
Đáp:
Ông đă hỏi về lời dạy trong các quẻ
xăm, tuy thuộc về cách lập giáo của thần
đạo, nhưng dẫn chứng kinh điển, cổ
kính, thanh nhă tuyệt vời! Do ông hỏi về ư nghĩa,
nên tôi chẳng chú thích văn tự, [bởi lẽ] dẫu
có giảng giải văn tự, cũng chẳng thể trọn
hết ư nghĩa. Bởi văn tự chỉ nói đến
một phương diện, ư nghĩa được bao
hàm trong ấy thiên sai vạn biệt. Cần phải xét khi
xin xăm để bói toán có tâm sự như thế nào rồi
mới thuận theo lời xăm để suy đoán. Tôi
vốn chẳng có loại học vấn này, lại chẳng
biết ông bói toán để cầu chuyện ǵ. Dẫu biết
cầu điều ǵ, nhưng tự xét th́ thấy ḿnh
cũng chẳng hiểu rơ ư thần!
*
Hỏi: Độc giả toàn là hạng hiểu biết Phật
học nông cạn ngoài da, xin cụ hăy nên dùng lối Văn
Ngôn đơn giản, dễ hiểu, hoặc dùng văn Bạch
Thoại để giải thích. Nếu dẫn chứng
kinh điển, xin hăy châm chước ban thêm lời chú
thích có nên chăng? (Cao Chiêm hỏi)
Đáp:
Lần này tôi chẳng dẫn chứng kinh điển. Sách
Mạnh Tử tuy là kinh điển, nhưng hai câu ấy trọn
chẳng phải là khó hiểu, nên chưa thể tuân mạng
viết thêm lời chú giải. Lời đáp “diệu tánh vốn là không” giống
như văn Bạch Thoại, nhưng tôi chẳng dám sửa
đổi thuật ngữ.
*
Hỏi: Xin cụ đối với mỗi điều
đều nêu ra một chuyện để làm thí dụ,
ngơ hầu [lời đáp] được rơ ràng hơn, có
nên hay chăng? (Cao Chiêm hỏi)
Đáp:
Đối với lời dạy “hăy nêu thí dụ” của
ông, đúng lư th́ phải tuân theo. Đối với lư quá
sâu, tôi sẽ dẫn chứng thí dụ. C̣n đối với
những lư mà gắng gượng vẫn có thể hiểu
th́ không cần [phải dẫn chứng].
*
Hỏi: Tại Đài Trung có những tổ chức cư
sĩ nào? Trong các tổ chức, có thầy dạy về lễ
tiết trong Phật môn, cách niệm kinh, xướng tán, sử
dụng pháp khí v.v… cho người mới học hay không? Có
cơ sở công cộng để người từ
phương xa đến học tập, nghe kinh có nơi
nghỉ chân (sẽ tự lo liệu tiền ăn) hay không?
(Cao Chiêm hỏi)
Đáp:
Ở Đài Trung tuy có tổ chức của cư sĩ,
nhưng chỉ là trường sở để nghe kinh.
Trong các đoàn thể cư sĩ, trọn chẳng có
cơ sở để khách ở lâu dài được. Nếu
nói đến chuyện nghi thức, lễ tiết, niệm
kinh, xướng tán, cách đánh pháp khí đúng nhịp v.v…
th́ hàng tại gia vạn phần chẳng bằng hàng xuất
gia, do sai khác về mức độ thuần thục.
*
Hỏi: Chỗ nào ở Đài Loan có thể dành cho người
chưa xuất gia [tạm trú tại đó] tu hành, họ chỉ
cần trả một chút tiền ăn và tiền ở? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Tôi bận bịu, phần nhiều chẳng ra ngoài, tuy nghe
nói chùa ở miền thôn quê nơi vùng núi có cách thức ấy,
nhưng chưa từng đích thân thấy, nên chẳng dám
nói bừa! Ngài từng sống tại Đài Bắc, tự
nhiên là tin tức nhanh nhạy, nếu muốn chọn chỗ
để tu hành, sao không đích thân hỏi thăm khắp
đảo? Tuy kiếm được chỗ, cũng cần
phải là đôi bên ḥa hợp. Nếu không, nhân duyên chẳng
thuận, tu hành cũng nẩy sanh chướng ngại.
* Hỏi: Ông
có nghĩ sẽ kiếm một chữ cụ thể
hơn để thay thế hai chữ Không và Vô, v́ tôi cảm
thấy chẳng dễ ǵ liễu giải hai chữ ấy?
(cư sĩ Điền Lũy
hỏi)
Đáp:
“Không” là chân tướng của muôn pháp, là điều phải
nên giác bậc nhất. Nếu chẳng thể ngộ Không,
trước hết phải từ Hữu mà thực hiện.
Làm thiện được phước, niệm Phật
khai Huệ. Có nhân bèn có quả, tương lai tự nhiên rất
tốt đẹp. Ngài bảo tại hạ t́m một chữ
thay thế, tức là đă vạn phần lầm lạc,
muôn phần lầm tưởng. Tự tiện thay đổi
Phật lư, sẽ có phần trong tam đồ! Trên đây,
tôi đă từng đề xuất “hăy thực hiện từ
Hữu”, Hữu cũng do đức Phật nói. Kinh dạy
“Không chẳng khác Sắc”,
nên tôi mới dám dâng lên [ngài ư kiến ấy].
*
Hỏi: V́ sao người niệm Phật lâu ngày cứ
khăng khăng thượng phẩm thượng sanh.
Như tôi biết: Đối với người học Phật,
thế giới An Lạc chẳng phải là mục
đích. Nếu không, th́ là thiên đường hay địa
ngục! (cư sĩ Điền
Lũy hỏi)
Đáp:
Câu hỏi này ư nghĩa chẳng rơ rệt, nên đoạn
sau chẳng trả lời! Nếu cứ muốn liễu
giải, cần phải sửa chữ từ ngữ, câu
văn, sao cho [ư nghĩa được thể hiện] rơ rệt,
sau đấy tôi mới đáp lời được. Mong
mỏi thượng phẩm thượng sanh là do phải
chọn lấy pháp bậc thượng. Quả đắc
thượng phẩm chính là lập tức hoa nở thấy
Phật.
*
Hỏi: Đức Phật chẳng cho phép Bồ Tát, La Hán
bộc lộ thân phận trong đời Mạt Pháp là v́ lư
do nào? (cư sĩ Điền
Lũy hỏi)
Đáp:
Phật và Bồ Tát luôn hiện thân, nhưng tướng trạng
bất nhất, nên phàm phu chẳng thấy. Chẳng thể
trông thấy là do không có duyên thù thắng. Lại nữa, kẻ
chẳng hiểu Phật lư th́ [tuy] có chạm mặt gặp
gỡ, cũng chẳng biết!
*
Hỏi: V́ sao đức Phật được gọi là bậc
ḥa thượng hữu đức mà c̣n
dung chứa “sư tử trùng”
(trùng ăn bám trong thân sư tử), chẳng chủ
trương trừ bỏ những con sư tử trùng hút
máu ấy? (cư sĩ Điền
Lũy hỏi)
Đáp:
Phật pháp đại từ, đại bi, b́nh đẳng
độ chúng sanh. Sư tử trùng cũng là chúng sanh, chỉ
nên bi mẫn cảm hóa. Khi thời cơ và nhân duyên chín muồi,
sư tử trùng cũng thành Bồ Đề.
*
Hỏi: Đức Phật dạy tám vạn bốn ngàn
pháp môn, Thiền Tông truyền riêng ngoài giáo, [do đó] có phải
là tám vạn bốn ngàn lẻ một pháp môn hay không? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp: Ba mối
Giới, Định, Huệ là tổng cương lănh của
Phật giáo. Thiền chính là Định. Tám vạn bốn
ngàn pháp môn đều chẳng ĺa Định. Nói “truyền riêng” là nói tới
cách tu đặc biệt, chứ không có nghĩa là ở
ngoài tâm lại có một đạo riêng!
*
Hỏi: Ông có thể cho tôi biết con mắt thứ ba mọc
ở chỗ nào? Nó thật sự khó mở! (cư sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Danh xưng của mắt rất nhiều, ngài muốn hỏi
loại mắt nào? Hết thảy động vật đều
có mắt. Trong loài thực vật, hoa lan có Phượng
Nhăn[8],
cây cối th́ có Liễu Nhăn[9].
Nước trong loài khoáng vật cũng có Tuyền Nhăn[10].
Trong thơ văn có Tự Nhăn[11],
trong âm nhạc có Bản Nhăn[12],
tim Tỷ Can có Thất Nhăn[13],
đức Phật có Ngũ Nhăn, rốt cuộc là ngài hỏi
về loại mắt nào? Ngài chỉ rơ, tôi sẽ đáp!
* Hỏi: Cổ
đại đức nói: “Dùng
Phật để cầu Phật, vĩnh viễn chẳng
thấy Phật”, niệm Phật chẳng phải là
dùng Phật để cầu Phật ư? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Cổ đức dùng lời lẽ ấy để nói với
người học Thiền bản lănh sâu xa, chứ kẻ
sơ cơ học Phật [nghe lời ấy sẽ] hoàn
toàn mờ mịt! Lại c̣n chẳng thể nói với hạng
người chẳng Thiền, chẳng Tịnh, sợ họ
nẩy sanh hiểu lầm, dẫn khởi tà kiến, càng chuốc
lấy lầm lạc. Nay ngài đưa ra câu hỏi này,
cũng là đang ở ngă ba, chẳng nhận biết ǵ, tại
hạ chỉ đành ngậm miệng chẳng bàn luận
th́ mọi người sẽ thanh tịnh. Xin hỏi công
phu của ngài, sở học đối với các pháp Thiền,
Tịnh, Mật, Luật v.v… thuộc loại nào. Sau khi
đă được ngài nêu rơ, sẽ lại hỏi
cũng chẳng muộn!
*
Hỏi: Thiền là tham cứu “người
niệm Phật là ai?”, Tịnh Độ Tông có phải
là “ai đang niệm Phật”?
Hai đằng đều như nhau đó chăng? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều chẳng ĺa tâm,
đó gọi là “vạn pháp quy
nhất”, không hai, không ba, nhưng
trong quá tŕnh tu tập bèn có nhiều phương tiện.
Các phương tiện đều là thật ngữ, ắt
cần phải y giáo phụng hành. Để có thể ngộ
th́ Thiền bèn có phương tiện của Thiền, Tịnh
có phương tiện của Tịnh. Học sao cho đạt
được tâm đắc th́ mới có thể viên dung vô
ngại. Kẻ sơ học chớ nên lầm lạc tự
cậy ḿnh thông minh!
*
Hỏi: Có một vị ḥa thượng bốn mươi
mấy tuổi bảo tôi: Trước kia, ông ta thấy núi
là núi, thấy nước là nước, sau đó, thấy
núi chẳng phải là núi, thấy nước chẳng phải
là nước, nay lại thấy núi là núi, thấy nước
là nước, có phải là ông ta nói xạo hay không? Theo
như tôi biết, đối với Thiền Tông, tốt
nhất là đừng như vẹt học nói! (cư sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Chuyện đúng, sai, hay, dở của người khác, tại
hạ trước nay chẳng bàn tới. Ba lượt “thấy núi, thấy nước”
như đă nêu chính là câu nói đă trở thành khuôn sáo trong
ngữ lục, là cảnh giới sau khi đă khai ngộ. Nếu
vị ấy thật sự là như thế, lại nói với
một kẻ sơ học để làm ǵ cơ chứ?
*
Hỏi: Tôi từng đảnh lễ một vị đại
pháp sư, vị ấy ngồi xem báo ở đó, chẳng
ngẩng đầu lên, mắt chẳng thèm ngó. Trong tâm tôi rất
bực (chưa thể hiện ra), những vị ḥa
thượng khác nói tôi nổi nóng là có tội. Ông nghĩ
như thế nào? (cư sĩ
Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Đối với câu hỏi này, tôi có điểm nghi hoặc:
“Trong tâm rất bực, nhưng chưa thể hiện ra”.
Nếu là trong tâm vị ḥa thượng bực tức, ông
làm sao biết được? Nếu là chính ông nổi nóng,
tự nhiên là tội lỗi, v́ sân là một trong Tam Độc,
là món thứ hai trong Tư Hoặc. Cổ nhân giáo huấn: “Một niệm sân tâm dấy, tám
vạn chướng môn khai”. Nếu trách vị ḥa
thượng ấy chẳng đáp lễ, tức là chính
ḿnh chẳng hiểu lư: Ông ta chẳng đáp lễ, tức
là đă tiếp nhận sự cung kính của ông, nên ông
đă gieo phước điền. Nếu ông ta đáp lễ,
tức là có qua, có lại, ḥn đất ném đi, ḥn ch́ ném
lại, trọn chẳng có công đức!
*
Hỏi: Tôi càng tu càng phiền năo, bộp chộp, hoảng
hốt, sợ hăi, bất an, thậm chí nửa đêm sợ
quỷ, so với những kẻ b́nh phàm ô nhiễm lung tung
th́ chuyện ǵ cũng chẳng có, các ḥa thượng nói tôi
nghiệp chướng sâu nặng, oán quỷ sợ tôi tu
hành sẽ trốn thoát, chẳng thể báo thù. Họ c̣n nêu
ra rất nhiều trường hợp, nhưng tôi chẳng
tin, học Phật tu hành là trốn khỏi cơi đời
ư? Ḥa thượng Thần Quang dùng đao chặt cánh
tay để cầu an tâm, đủ thấy là Ngài khủng
hoảng, bất an đến mức độ nào! Xin hỏi
đó là loại oán quỷ nào đang báo thù vậy? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Đó là do chưa được hun đúc bởi thầy
và bạn, nên chẳng đạt được pháp hỷ.
Nếu gặp người sáng suốt giáo huấn, tâm chính ḿnh rỗng rang, học Phật
có tâm đắc, hưởng lợi ích nơi pháp, tâm địa
sáng ngời như mặt trời, ma chướng tự
tiêu. Trong đoạn sau, ông nói đến chuyện Nhị
Tổ chặt tay, rành rành là hoàn toàn chẳng giống
như ông. V́ ông chưa nhập môn, chẳng thể nói tới
đạo lư sâu xa. Kính khuyên từ nay trở đi, hăy giữ
tấm ḷng rỗng rang, mau cầu minh sư, trước
hết phải nhận biết rơ ràng đường nẻo
trong Phật môn rồi mới đổ công dốc sức
th́ sẽ chẳng nẩy sanh sai lầm nữa!
*
Hỏi: Tôi đă thỉnh giáo một vị đại
đức trong Thiền Tông, nói: “Khi tôi tĩnh tọa (không
thầy mà tự học), thân bỗng dưng rung lắc,
đó là bệnh ǵ?” Vị ấy bảo đừng quan tâm
đến. Một vị khác bảo hăy nên kềm chế
cái tâm, tôi không hiểu! Tôi tự cảm thấy dường
như trái tim nở hoa, bác sĩ lại bảo chẳng có
bệnh ǵ, nhưng đă rất lâu rồi tôi chẳng dám
tĩnh tọa. (cư sĩ
Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Chưa được minh sư [chỉ dạy] mà đă
dám tự tiện tĩnh tọa, đó là coi nhẹ Thiền
quá sức! Chưa chuốc phải ma chướng to lớn
đă là chuyện muôn phần may mắn! Có người nói
chẳng quan tâm đến, hoặc kiềm chế tâm trạng,
bác sĩ nói chẳng có bệnh ǵ, đều là căn cứ
theo chứng bệnh mà cho thuốc, nhưng ông vẫn là kẻ
ở ngoài pháp môn; v́ thế, những hảo ư ấy đều
chẳng dùng được, cũng là uổng phí!
*
Hỏi: Làm thế nào th́ mới có thể coi là phát Bồ
Đề tâm? Thiện Tài Bồ Tát du hành, mỗi lần
đến một nơi, ắt đều nói “tôi đă phát Bồ Đề
tâm, nhưng chẳng biết hành xứ và tu xứ của Bồ
Tát”. Thiện Tài đồng tử đă phát Bồ Đề
tâm có phải là giống như chúng ta phát tâm thọ Tam Quy Y
hay không? Nếu quả thật như vậy th́ cái tâm ấy
phải là vọng tâm. Nếu chẳng phải, hễ ĺa vọng
tâm th́ phải là vô tâm. Nếu là vô tâm th́ hết thảy tự
tại, c̣n phát tâm chi nữa để tự trói buộc
chính ḿnh? Do Thiện Tài Bồ Tát đi khắp nơi
thưa hỏi, đủ thấy Bồ Đề tâm do
Ngài đă phát c̣n cách xa vô tâm rất nhiều! Ông có thể giải
thích đôi chút hay chăng? (cư
sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Thiện Tài là bậc Đẳng Giác Bồ Tát, ông ngang nhiên
dám phê b́nh cảnh giới của thánh nhân, đều là do
chẳng hiểu Phật lư mà nên nỗi, rất khó giảng
giải cho ông! Kính khuyên ông từ nay trở đi, không ǵ bằng
nghiêm túc tu tŕ Ngũ Giới, nghiên cứu tinh tường Lục
Độ, thâu nhiếp sáu căn, nhất tâm niệm Phật.
Hành đôi ba năm, tâm t́nh ổn trọng rồi lại
xem kinh luận, kính cẩn hỏi, kính cẩn nghe, Văn
Tư Tu đầy đủ th́ mới có hy vọng chứng
đạo!
*
Hỏi: Pháp môn Niệm Phật phải có tâm cầu văng sanh
thiết tha. Thời gian tôi niệm Phật cũng chẳng
ít, nhưng cái tâm cầu sanh làm cách nào cũng chẳng thể
dấy lên tha thiết được! Tôi luôn cảm thấy
được gặp Phật khi sống vẫn tốt
hơn lúc đă chết. Nhằm hiểu rơ vấn đề
này, tôi thường bàn bạc cùng bạn bè, người ta
nói tâm niệm Phật chẳng thiết tha, bất kính sẽ
có tội. Tôi cũng đă thử qua, nhưng tâm thiết
tha chẳng phải là khích động đến nỗi
nước mắt, nước mũi ṛng ṛng, đó là chuyện
phiền bực, khó chịu. Tán tâm niệm Phật thật
sự mắc tội ư? (cư
sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Ba pháp Văn Tư Tu mỗi pháp đều có chỗ trọng
yếu: Văn th́ phải nghe nhiều, nghe rộng, Tư
th́ phải sâu xa, thiết tha, Tu th́ phải chuyên nhất. Có
thể nói là ông vẫn chưa biết lối vào của hai
chữ Văn và Tư, đến nỗi đối với
Tu cũng chưa thể quyết định là pháp nào. Rối
tung không đầu mối như vậy, phí uổng thời
gian, tôi cảm thấy thật đáng tiếc! Nếu thật
sự chịu niệm Phật, đó là đường tắt,
hăy nên đè nén thói kiêu căng, ngă mạn, buông Ngă Chấp và
Pháp Chấp xuống. Lắng ḷng nghiên cứu bộ Giảng
Nghĩa sách Di Đà Yếu Giải của tổ sư Ngẫu
Ích do pháp sư Viên Anh biên soạn, bộ Triệt Ngộ
Thiền Sư Ngữ Lục, Ấn Quang Đại Sư
Tinh Hoa Lục v.v… mỗi ngày hai khóa sáng tối, niệm Phật
mấy ngàn tiếng, nhiều hay ít do chính ḿnh tự định.
Chỉ cầu đạt hiệu quả nhất tâm bất
loạn, đừng ôm vọng tưởng thấy Phật.
Bởi lẽ, hiện thời phiền năo trùng trùng, che lấp
chân tánh, Phật ở ngay trước mắt cũng chẳng
thể thấy, tâm bộp chộp lầm lạc mong thấy
Phật, đâm ra vô ích! Nếu chẳng đạt đến
cảnh nhất tâm bất loạn, không chỉ là khi c̣n sống
chẳng thể thấy Phật, mà sau khi đă chết,
cũng chẳng thể gặp Phật. Mong ông hăy tin tưởng!
*
Hỏi: Bạn bè khuyên tôi hăy rộng ḷng bao dung người
khác, tôi nghĩ La Hán c̣n bị gọi là “tự liễu hán” (kẻ chỉ lo giải thoát
cho riêng ḿnh), phàm phu há rộng lượng được
ư? (cư sĩ Điền
Lũy hỏi)
Đáp:
Qua điều vừa hỏi này, có thể suy ra t́nh huống
của ông! Nhẫn là một trong Lục Độ, vạn
sự đều do Nhẫn mà thành tựu. Kinh Thư chép: “Tất hữu nhẫn, kỳ
năi hữu tế” (ắt phải có nhẫn th́ mới
hoàn thành mọi sự)[14].
Ư nói: Tu dưỡng chân tánh th́ phải có thể nhẫn.
Khăng khăng chẳng tiếp nhận, tức là lời
nói trung tín cũng chẳng chịu nghe! Lại c̣n vơ bừa
La Hán vào để phê phán lung tung các Ngài là phường tự
liễu hán! La Hán là bậc thánh nhân đoạn Hoặc, tham
lẫn sân đều chẳng có, há có vị nào c̣n chẳng
thể thành tựu Nhẫn ư?
*
Hỏi: Tôi cũng thường khuyên người khác tin Phật,
cũng có người thật sự tin tưởng, đó
là truyền giáo hay là kiểu con nít học đ̣i vậy? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Ông khuyên người khác học Phật, vốn là công đức,
nhưng dạy người khác học cách nào, chẳng phải
là chuyện đơn giản! Tôi kính tặng một lời,
ngôn giáo vẫn cần phải có thân giáo!
*
Hỏi: Kiến tánh trong Thiền Tông là thành Phật hay thành
La Hán? Thành La Hán th́ ắt là thành Phật trong Tiểu Thừa,
nhưng trước khi Di Lặc Bồ Tát thành Phật, chẳng
thấy [kinh điển] ghi chép ai sẽ thành Phật cả!
(cư sĩ Điền Lũy
hỏi)
Đáp:
Đây là chuyện thuộc về phương diện giáo
lư và tu tŕ. Tánh là ǵ, Phật là ǵ, Thiền là ǵ, đều
có kinh luận cả một đống lớn. Nếu tâm
tánh chẳng b́nh lặng, khổ sở cầu t́m tám
năm, mười năm, dẫu có tri thức giảng giải,
người nghe vẫn như điếc đặc chẳng
nghe!
*
Hỏi: Có người nói khi Lục Tổ làm bài kệ “Bồ Đề bổn phi thụ…”
(Bồ Đề chẳng phải cây…), Ngài vẫn chưa
hoàn toàn khai ngộ; đến khi Ngũ Tổ giảng kinh
Kim Cang cho Ngài nghe, mới kể như đă hoàn toàn khai ngộ.
[Nếu vậy th́] Đốn Giáo cũng có chuyện đă
ngộ rồi lại ngộ nữa hay sao? (cư sĩ Điền Lũy hỏi)
Đáp:
Bất luận là Đốn Ngộ hay Tiệm Ngộ,
đều chẳng phải là một lần. Tiểu ngộ
có bao nhiêu loại, đại ngộ cũng có bấy nhiêu
loại. Thất Địa Bồ Tát c̣n có Trần Sa Hoặc,
Đẳng Giác c̣n có nguyên phẩm vô minh (sanh tướng vô
minh). Do đó, thành Phật cần phải trải qua ba
A-tăng-kỳ kiếp. Văn Tư Tu được gọi
là Tam Huệ, tu mà chẳng khai Huệ sẽ rất khó tiến
bộ!
*
Hỏi: Có người nữ hỏi tôi: “Cầu Phật,
bái sám có thật sự linh ứng hay chăng?” Tôi trả lời:
“Phật, Bồ Tát thấy bà đang gặp ác mộng, liền
trước hết đánh thức bà, hay là giúp bà tiếp tục
nằm mộng?” [Trả lời như vậy] có đúng
hay không? (cư sĩ Điền
Lũy hỏi)
Đáp:
Chúng ta giáo lư chưa thấu triệt, Thiền cũng chẳng
hiểu, vạn phần chớ học đ̣i tổ sư
trả lời phù hợp căn cơ. Nói lầm một chữ
chuyển ngữ, phải đọa tam đồ, sao lại
khổ sở mạo nhận là bậc thông gia?
*
Hỏi: Đệ tử học cạn, kém tài, kể từ
khi học Phật đến nay đă trải mấy
năm chẳng hiểu chút ǵ, chẳng đạt
được ǵ. Tam Độc, Tam Hoặc, Tứ Chùy
đều chưa thể đoạn hết, thật sự
cảm thấy hổ thẹn tột cùng. Đó là do căn
khí nông cạn, mỏng manh, hay là có liên quan đến nhân quả?
(Tŕnh Sâm Thụ hỏi)
Đáp:
Muốn đoạn hết ba chuyện như ông đă hỏi,
cố nhiên là có liên quan đến căn khí và nhân quả.
Điều quan trọng nhất trong hiện
thời là hiểu biết sâu hay cạn, hành tŕ siêng năng
hay biếng nhác mà thôi!
*
Hỏi: Trước kia, đệ tử từng thưa hỏi
“rốt cuộc con chó có Phật Tánh hay không”, đại
sư hỏi ngược lại: “Xin hăy hạ ngay một lời chuyển ngữ, rốt
cuộc con chó là có hay không có?” Theo như ngu kiến của
đệ tử, trả lời Có hay Không đều rớt
vào hai thứ kiến chấp Thường và Đoạn.
Hơn nữa, Thiền là ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh
xứ diệt. Do vậy, câu hỏi ấy có phải là chẳng
thể trả lời đó chăng? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)
Đáp:
Câu hỏi của quư cư sĩ trong lần trước,
đa phần thuộc về Thoại Đầu của
Thiền gia, nên tôi hỏi ngược lại một câu
chính là đă trả lời. Tôi lại khuyên: Nếu học
theo công phu nhà Thiền, ắt phải cầu minh sư. Thật
ra, điều quan trọng trong Thiền là ở chỗ dụng
công nơi tâm, chẳng phải là nói suông ngoài miệng! Kính
dâng một lời, thông Tông bèn nói về Tông, thông Giáo bèn nói
về Giáo. Tuy [Tông và Giáo] có liên quan, nhưng đường
lối khác nhau, chẳng thể lôi Đông kéo Tây. Lời hỏi
hiện thời càng khiến cho ông lạc chệch lối!
Ngàn lời vạn lẽ, cầu học ắt phải có
minh sư, ắt phải có thứ tự. Chẳng noi theo
đó để tiến, phần nhiều sẽ lạc vào
lối rẽ.
*
Hỏi: Tam kỳ có phải là ba đại A-tăng-kỳ
kiếp hay không? Một kỳ là bao nhiêu năm? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)
Đáp:
Theo Hoa Nghiêm Tổng Mục Quán Nhiếp, ngàn vạn là một
ức, mười ức là một triệu, mười
triệu là một kinh, mười kinh là một cai. Cứ
tăng gấp mười lên như vậy sẽ thành một
con số mới. Tăng gấp bội lên như vậy
cho đến một trăm hai mươi lần sẽ là
một con số to có tên là bất khả tư… Lại gọi
là A-tăng-kỳ. Phật Học Từ Điển ghi cách
tính như sau: Vạn vạn là một ức, vạn ức
là một triệu. Một A-tăng-kỳ là vạn vạn
vạn vạn vạn vạn vạn vạn triệu (tám chữ
vạn). Thật sự muốn hiểu biết th́ trong tay
phải có một bộ từ điển.
* Hỏi: Đại sư đă từng nói “trống ḷng cầu học, một
mực bất thoái, trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, tự
nhiên đoạn hết Trần Sa, mới có thể đại
giác toàn tri”. Trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, hay hai
A-tăng-kỳ kiếp, hoặc một A-tăng-kỳ kiếp,
có phải là tự giác, tự ngộ đó chăng? (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)
Đáp:
Kinh giáo nói như vậy, kẻ hèn này vâng theo đó để
thưa tŕnh. Đă nói là “trống ḷng cầu học” th́ chẳng
phải là tự ngộ. Dẫu chẳng cầu thầy, từ
tự ḿnh khởi tu cho đến khi thành Phật mới
thôi, có năm mươi hai tầng cấp. Tu ắt phải
có chứng, chứng th́ ắt phải có cảnh. Cảnh
là kinh nghiệm, sự từng trải, chia ra làm hai nẻo
tà và chánh. Đấy vẫn là cầu, trọn chẳng phải
là phó mặc cho Hoặc, nghiệp, khổ một mực
lưu chuyển. Chuyển trọn cả ba A-tăng-kỳ kiếp bèn là Phật. Chẳng tu, chẳng
cầu th́ lưu chuyển đến trần điểm
kiếp (số kiếp nhiều như số vi trần), vẫn
là thỉnh thoảng được làm người, ở
măi trong tam đồ mà thôi!
*
Hỏi: Thiền có phải là vượt trỗi cảnh
giới “cùng một cội nguồn
với trời đất, cùng một Thể với vạn
vật” hay không? (Tŕnh Sâm Thụ
hỏi)
Đáp:
Đấy là những lời lẽ chẳng chấp bờ
mé. Đă chẳng thể hiểu, lại chẳng thể
làm, nói đến những điều khác để làm ǵ?
Cuối câu hỏi của ông, viết sáu chữ Nam-mô A Di
Đà Phật, đủ thấy quư cư sĩ chưa từng
học Thiền, lại chẳng từng tập Thiền.
Cần phải biết sáu chữ ấy chính là bí quyết
trong Tịnh Độ Tông. Nếu quư cư sĩ chịu học
Tịnh, có lẽ c̣n có thể đạt được thọ
dụng đời này.
*
Hỏi: Giáo Thọ A Xà Lê là ǵ? Đắc Giới Ḥa Thượng
là ǵ? Khẩn cầu hăy dạy cho. (Tŕnh Sâm Thụ hỏi)
Đáp:
Quư cư sĩ trước hết nên chánh thức quy Tam Bảo,
tiếp đó lại thọ giới. Sau khi đă thọ giới,
lănh giới điệp, sẽ tự nhiên biết rơ hết
thảy. Tôi gởi kèm theo hai tập sách nông cạn, mong hăy
đọc, mạo muội [thưa tŕnh cùng ông như thế
đó].
* Hỏi: “Phàm hữu ngôn thuyết, đô
phi thật nghĩa” (hễ có ngôn thuyết, đều
chẳng phải là thật nghĩa). Thật Nghĩa và Chân
Thật Nghĩa có ư nghĩa giống nhau hay không? Tra trong Phật
Học Từ Điển, Chân Thật Nghĩa là thuật
ngữ, chia thành bốn loại Chân Thật Nghĩa,
nhưng trong điều mục nói về Thật Nghĩa
chỉ giải thích là “nghĩa lư chân thật”, thuộc phần
tạp ngữ. Lại nữa, Thật Nghĩa và Thật
Tướng có ư nghĩa giống nhau hay không? Hai chữ
Nghĩa và Tướng có ư nghĩa giống nhau hay không? (Hoàng Tuyền Sanh hỏi)
Đáp:
Thật Nghĩa chính là Chân Thật Nghĩa nói gọn.
Đă có bốn thứ, lại chia thành Quyền Thật và
Chân Thật. Ba loại đầu có thể dùng ngôn ngữ
để diễn tả, nên thuộc về Quyền Thật,
loại cuối cùng là lư Trung Đạo của Phật “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh
xứ diệt” th́ mới là nghĩa chân thật. Lại
nữa, phải hiểu Nghĩa và Tướng khác nhau,
Nghĩa là nghĩa lư, c̣n Tướng là sắc tướng.
* Hỏi: “Phàm hữu ngôn thuyết, đô
phi thật nghĩa” là nói ngôn thuyết chẳng phải
là thật nghĩa, hay là ngụ ư “những ǵ được
nói đều chẳng phải là thật nghĩa”? Lại
nữa, nên hiểu chữ “phàm hữu” là “tất cả”,
hay là “tất cả những ǵ có”, bởi lẽ “phàm” có
nghĩa là “tất cả”, lại thêm vào một chữ Hữu
nữa là “tất cả những ǵ vốn có”. Nguyên một
câu ấy có thể dịch là “tất cả những
nghĩa được nói bởi ngôn thuyết đều
chẳng phải là thật nghĩa”, nhưng cũng có thể
hiểu cả câu ấy là “những ǵ đă nói đều
chẳng phải thật nghĩa”, chứ không phải là
“ngôn thuyết chẳng phải là thật nghĩa!” (Hoàng Tuyền Sanh hỏi)
Đáp:
Chân Thật và Quyền Thật đă nói rơ trong điều
trước. Muôn tướng đều do nhân duyên ḥa hợp
mà sanh. Đă chẳng phải là vốn sẵn có, nên nói “phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng”. “Đều chẳng phải
là thật nghĩa” là nói theo hết thảy các pháp tướng,
chẳng riêng ǵ ngôn ngữ! “Phàm hữu” và “sở hữu” nếu
xét theo lối hành văn, chỉ mong sao trôi chảy, hoặc
là muốn biến hóa, miễn sao từ ngữ thông đạt
th́ không có ǵ là chẳng được. Nếu xét nghiêm ngặt
theo Phật học, phàm hữu và sở hữu có phân biệt,
v́ tâm pháp có Năng và Sở. Chữ Năng chỉ niệm
lực, thuộc về nội tại, c̣n Sở chỉ các
tướng được hiện ở bên ngoài. “Phàm hữu” là nói bao quát cả
trong lẫn ngoài. Sở hữu th́ chỉ nói đến
tướng bên ngoài, cũng là một thứ giả định
trong học thuật nhằm nói cho thuận tiện mà thôi!
*
Hỏi: Tôi có bạn học rất phát tâm, chuyên tâm tu Phật,
hoặc lập xă đoàn (các đoàn thể mang tính cách xă hội),
nhưng chẳng hiểu cách phân chia thời gian đối
với khóa nghiệp như thế nào? Thường thấy
có các học trưởng (người thuộc lớp
đàn anh trong nhà trường) v́ lo toan công tác đoàn thể
mà lỡ làng công khóa, chẳng biết có đúng hay không? (Trần Thanh Sảng hỏi)
Đáp:
Hai chữ “khóa nghiệp” trong lời hỏi và hai chữ
“công khóa” sau đó, chẳng biết nhằm nói về điều
ǵ, nên chẳng tiện đáp bừa! Trong đoạn hỏi
về khóa nghiệp lại thêm hai chữ “bạn học”
vào trước, ở giữa lại thêm chữ “học
trưởng”, tự nhiên là hỏi về chuyện của
những người bạn học. Đối với chữ
“chẳng biết”, nếu có ư nói “học Phật nhưng
chẳng biết cách tu” th́ hăy nên dùng cách tu [trong pháp môn ấy]
để hỏi đáp. Nếu là nói về những môn phải
học trong nhà trường, do học Phật hoặc do lo
công việc trong đoàn thể mà lỡ làng việc học
th́ hết sức chớ nên. Hiện thời, ông vẫn c̣n
là học sinh, nếu v́ lẽ đó mà lỡ làng việc học,
tức là chẳng biết bổn phận, đă khiến
cho cha mẹ phải lo lắng, lại c̣n phụ công thầy
dạy dỗ, lại c̣n khiến cho tương lai của
chính ḿnh bị lỡ làng, quả thật đă khiến cho
Phật giáo càng thêm bị báng bổ. V́ thế, nói là “hết
sức chớ nên!” Học Phật, lo công tác đoàn thể,
hăy nên làm trong lúc rảnh rỗi ngoài giờ học, bớt
vui chơi vô ích, hăy làm theo cách này để dễ có thời
gian lo liệu chuyện kia!
*
Hỏi: Lúc sắp lên đường, thầy dặn: “Ít xem những sách vở ngoài các
loại Quốc Học, Phật học, và sách giáo khoa, kẻo
đến nỗi đi lung tung ngoài trường, sợ ảnh
hưởng đến đạo tâm”. Nhưng trong thực
tế, nếu phạm vi sống chỉ giới hạn
trong một góc, sẽ chẳng dễ ǵ cư xử ḥa hợp
cùng các bạn học khác, chẳng biết mối tệ ấy
ở chỗ nào? (Trần Thanh
Sảng hỏi)
Đáp:
Nói Quốc Học tức là nói đến sách vở thuộc
về nền văn hóa của nước nhà, nói Phật học
là nói tới những sách nhằm làm sáng tỏ thiên tánh,
đều thuộc loại đức dục. C̣n như
các sách chuyên môn về khoa học, mỹ thuật, các thứ
kỹ năng, đều chú trọng yên đời lợi
người, nên gọi là sách giáo khoa. Hai chữ “ngoài ra” nhằm
chỉ những tà thuyết trái nghịch đức dục,
có hại cho việc “yên đời, lợi người”.
Các loại sách ấy phần nhiều ẩn chứa những
chuyện kỳ quái, lời lẽ xiểm ngụy, lệch
lạc, xu nịnh, kích thích tà tâm, vô ích cho sự yên ổn
chung. Đọc những thứ đó sẽ nẩy sanh những
tâm ấy, ngôn ngữ và hành vi sẽ vướng mắc vào
những chuyện đó. Do người thanh niên chí hướng
chưa lập, cho nên tôi khuyên “ít xem những thứ đó”.
“Đi lung tung” là đến những chỗ có hoàn cảnh
ác trược, gần son th́ đỏ, gần mực th́
đen. Thường nói là “đối với chỗ vô
đạo, hăy mau rời chân đi”. “Ḥa hợp” chính là
chơi với người lành, bậc chân chánh, xa ĺa ác tri
thức, chẳng cần phải ḥa đồng cùng họ.
Chỉ học theo cách ḥa hợp, giữ lễ, chẳng học
theo thói hùa bầy, tiêm nhiễm thói xấu!
*
Hỏi: Các bạn học Phật chẳng phải đều
là con em nhà giàu có, nhưng đă có tâm học Phật, chẳng
tránh khỏi ảnh hưởng đến sự nghiệp,
như thế th́ sẽ chẳng thể chuyên tâm học Phật
hoặc theo đuổi sự nghiệp, há chẳng phải
là Phật pháp thiếu viên dung ư? Các bạn học nặng
ḷng dường ấy, có đúng hay không? (Trần Thanh Sảng hỏi)
Đáp:
Nói như vậy tức là đă hiểu lầm, học Phật
trọn chẳng phải là dành riêng cho kẻ tôn quư, có
ưu thế, mà thuần túy là lợi ích đều khắp.
Môn phong của tổ Bách Trượng là một ngày chẳng
làm, ngày ấy không ăn cơm. Người xuất gia c̣n
như thế, chúng ta là hàng tại gia, há có được
phép chẳng động chân nhắc tay, ngồi hưởng
thành quả ư? Học Phật là hiểu lư, tu tánh, dưỡng
thành nhân cách, chuyên v́ đại chúng mưu cầu phước
lợi, nay lại ngược ngạo coi là chẳng thể
dung thông với xă hội, lầm lẫn lắm thay!
*
Hỏi: Nhưng quan trọng nhất chẳng ǵ bằng “nhập
thế và học Phật”, làm thế nào để thành tựu
sự nghiệp thế gian và xuất thế gian viên dung vô
ngại? Đó là một vấn đề lớn, xin thầy
hăy từ bi khai thị! (Trần
Thanh Sảng hỏi)
Đáp: Người
học Phật chia thành hai loại xuất gia và tại gia.
Người xuất gia không chỉ chẳng nhiễm hết
thảy chuyện thế tục, mà ngay cả đối với
quyến thuộc và tài sản của chính ḿnh thảy đều
buông bỏ, thân rỗng rang gia nhập Tăng đoàn, ngoài
học, trong tu, ḥng dưỡng thành đức năng,
nghiêm ngặt vâng giữ tỳ-kheo đại giới,
chuyên dốc sức thượng hoằng hạ hóa, làm
đèn sáng trong đường tối, làm thuyền từ
trong biển khổ, như giáo sư trong trường học
chẳng lo toan nghề nghiệp khác, tập trung tâm lực
đào tạo nhân tài. Thử hỏi các vị thầy tốt
đẹp trong nhà trường, thường chăm chú
khéo hướng dẫn học sinh, chẳng làm những chuyện
như nhậu nhẹt, cờ bạc, khiêu vũ, tán gái v.v…
có trở ngại sự viên dung hay không? Tại gia học
Phật, giống như học sinh trong nhà trường,
tuy không mang trách nhiệm dạy bảo, cũng có ư nghĩa
khuôn khổ, mẫu mực, “bốn
điều chớ phi lễ”[15] há chẳng tuân theo? Nếu
như học thức tăng cao, sâu hơn, sẽ tự có
thể quyền xảo phương tiện. Huống chi
Đàn Kinh có nói: “Phật pháp
trong thế gian, chẳng ĺa thế gian giác”. Viên dung là
đôi đằng đều vô ngại vậy!
* Hỏi:
Đối với tam hạnh của thiện xảo
phương tiện trong Thập Độ (cầu Bồ
Đề, khéo hiểu có và không, chẳng xả thọ),
tôi vẫn chưa hiểu rơ ư. Xin lại chỉ dạy! (Trịnh Triều Tín hỏi)
Đáp:
Phương là phương pháp, Tiện là thích hợp. Thiện
xảo là không chỉ có một phương pháp. Xét soi
căn cơ của chúng sanh để nói chân thật, hoặc
giả lập, tạm thời phế bỏ, ngơ hầu
[người nghe] sẽ lănh hội, nhập chân thật.
Trong tam hạnh, điều thứ nhất là tiến
hướng về quả, dễ biết. Đối với
điều thứ hai và điều thứ ba, pháp [tùy theo
căn cơ mà] nói là có hay không, xả các thứ mà chẳng
xả, độ mà chẳng độ, đều là quyền
xảo có nhiều lẽ. Đừng chấp trước!
* Hỏi: Trong
Thập Độ, ư nghĩa của Bát Nhă và Trí khó thể
phân biệt, xin hăy chỉ dạy! (Trịnh Triều Tín hỏi)
Đáp: Bát Nhă (Prajñā) là tiếng Phạn,
dịch sang tiếng Hán thường có mấy phần khó
khăn, lại chẳng trọn vẹn. V́ thế, các vị
dịch kinh [thường] dịch [chữ ấy] là Huệ,
ư nói là trí huệ tối thượng, sáng suốt nhất
trong hết thảy các huệ. Huệ là quán cảnh, soi
xét, chọn lựa, thấu đạt lư Không vô vi. Trí (Jñāna) là tiếng Hán,
cũng do tiếng Phạn dịch thành, mang ư nghĩa thấu
đạt sự tướng hữu vi, đối với
cảnh bèn quyết đoán chẳng nghi.
* Hỏi: Có
người nói “y văn giải
nghĩa, tam thế Phật oan”, tôi chẳng biết ư chỉ
ấy, xin hăy nói tường tận! (Trịnh Triều Tín hỏi)
Đáp: Phật
học uyên áo, nhưng ngôn thuyết, trước thuật,
danh tướng, thuật ngữ, phần nhiều chú trọng
cách nói đơn giản. Hơn nữa, [các danh từ thuật
ngữ] từ Phạn dịch sang Hán, nghĩa lư chưa trọn
hết, [nếu kẻ sơ học] chẳng có sư thừa,
chẳng có nhiều phương cách tham khảo, chỉ
căn cứ theo mặt chữ để hiểu kinh
văn, nương theo văn để hiểu nghĩa, sẽ
thường đánh mất ư nghĩa chân thật, nên nói là “oan Phật”. Nêu vài thí dụ,
như chữ Nam-mô mà có kẻ hiểu là “ở
phương Nam không có [điều ấy]”, hiểu Ba La Mật
là phượng lê[16], “Sắc tức thị Không”
được giải thích là ham hố nữ sắc th́
con người lẫn tiền tài đều trở thành rỗng
tuếch! Người thông thạo Phật học đôi
chút đều biết cách giải thích thông tục ấy
là sai lầm, gây hại chẳng cạn! Rốt cuộc c̣n
có một bộ từ điển đồ sộ giải
thích Thật Tướng như sau: “Bề ngoài chân thật”! Toàn là dựa theo văn tự
để rồi suy đoán ư nghĩa xằng bậy vậy!
* Hỏi: V́
nghe kinh, nghe đạo mà phải lừa gạt quyến
thuộc (quả thật là bất đắc dĩ). Về
sau, bị họ khám phá, đến nỗi nổi giận,
nói lời ác độc, tạo ác nghiệp. Tôi trộm
nghĩ nghe kinh là tự lợi mà đến nỗi hại
họ, trái nghịch Bồ Tát đạo, nhưng v́ cầu
Phật pháp nên phải chẳng đặng đừng mà
làm như thế, v́ Phật pháp khó nghe. Do vậy, tôi do dự
chẳng quyết, có phương tiện nào ḥng tốt
đẹp đôi bề hay chăng? (Trịnh Triều Tín hỏi)
Đáp: Minh tâm
kiến tánh, khiến cho người lẫn đời yên ổn,
trang nghiêm Tịnh Độ, liễu thoát tam đồ, Phật
pháp quư báu nhất, há nên gặp gỡ mà chẳng đạt
được? Nhưng gia quyến do chẳng biết nên
phản đối. Đấy đều là do biểu hiện
yếu kém của tín đồ nhà Phật gây ra, khiến
cho chúng sanh chẳng có tâm tín ngưỡng. Ông hăy nên dùng
phương tiện thiện xảo, khuyến hóa gia
đ́nh, khiến cho họ được lợi ích do nghe
pháp. Đó cũng là đạo Bồ Đề.
* Hỏi: Trong
bộ Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập gồm bốn
quyển, có một chỗ nói “niệm thiên”, trong ấy xiển
minh quả báo thù thắng trên cơi trời. Chúng ta học Phật
có chí xuất ly lục đạo, có cần phải trải
qua các cơi trời ấy, cầu sanh lên cơi trời để
đắc đạo quả ư? Phước báo trong cơi
trời người chẳng phải là khi đă hết báo
bèn trở thành rỗng không, há có nên học đạo
nơi đó? Phước báo nhân thiên càng chẳng phải
là điều chúng ta nên mong cầu, đúng không? Nếu là
như vậy, mục đích của sách ấy là ǵ? (Tôn Chiêu Minh hỏi)
Đáp: Thiên là
một trong các tiểu quả. Không chỉ là an lạc
hơn tam đồ, mà cũng c̣n thù thắng hơn loài
người trăm lần. V́ thế, các giáo (chẳng phải
là Phật giáo) chỉ biết [cầu mong được]
sanh lên trời, nhưng ngoài tam giới lại có Tịnh
Độ của chư Phật. Bọn họ không chỉ
chẳng biết, mà cũng chẳng tin. Dẫu có tin th́ do họ
căn khí nông cạn, trí huệ ít ỏi, lại c̣n chẳng
thể bỏ ngũ dục, lục trần, bất đắc
dĩ bèn phương tiện nói đến cơi trời! Quư
cư sĩ học Phật đă hai năm, liền có thể
nghĩ đến chuyện vượt thoát tam giới,
đây chắc chắn là đă có huệ căn từ
trước, nguyện hăy khéo tu hành!
* Hỏi: Gần
đây, pháp sư X… viết bộ Hàn Sơn Tập, nói [những
biểu hiện của ngài] Hàn Sơn là bệnh thái tinh thần…
nên kẻ bất tài này nghĩ có phải là ông ta gần
như đă chửi Phật mắng Tổ quá lố đó
chăng? Thử nghĩ Thiên Thai Tam Thánh[17]
là những bậc được người trong giới
Phật giáo kính ngưỡng ngần ấy! Nếu nói do
ngài Hàn Sơn chẳng phải là ḥa thượng nên có thể
chửi bới, chẳng đáng bàn tới, th́ thử hỏi
khi đức Phật xuất gia chính là tự độ, tự
ngộ, cũng là trọn chẳng đáng [bàn tới
ư]? Lại như Lục Tổ đại sư gặp
Ngũ Tổ mà đắc pháp, khi ấy, Ngài vẫn
chưa xuống tóc, măi cho đến sau khi nói “chẳng phải là tràng động
hay gió động, mà là do tâm động”, lúc phải truyền
pháp, thuyết giảng Phật pháp, th́ mới bắt đầu
xuống tóc. V́ thế, là Phật tử th́ phải có chánh
tri chánh kiến, chớ nên hùa theo kiến giải thế tục.
Người thông thường hùa theo th́ chẳng sao,
nhưng bản thân [vị pháp sư ấy] là đại biểu
cho Phật Pháp Tăng Tam Bảo, cớ sao lại đề
ra thuyết mới kỳ dị ḥng sáng lập cuộc cách
mạng tôn giáo đó ư? Há chẳng phải là đúng
như đức Phật đă nói về hiện tượng
trong thời đại Mạt Pháp, đáng buồn thay! Xin
hăy khai thị! (Mă Ngọc Lâm hỏi)
Đáp: Kẻ
hèn này chưa hề đọc bộ Hàn Sơn Tập của
vị pháp sư ấy, do đó, nhất loạt chẳng
dám nói [sách ấy] là chánh hay tà. Nếu là thuộc loại
sách thơ văn như Hàn Sơn Thi Tập th́ đă từng
đọc. Tuy [Hàn Sơn Thi Tập] là thi ca, nhưng bao hàm
thiền ư. Nếu là sách Phật, hăy nên coi như kệ tụng.
Nếu là sách thế gian, hăy nên coi như văn
chương. Kệ tụng th́ chẳng bàn tới, chứ
văn chương th́ có “người
nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí” sai khác.
Chúng ta là kẻ mới học, hăy nên nương theo Thánh
Ngôn Lượng, trước hết hăy cầu tự giải
thoát, đợi đến sau khi pháp nhăn đă mở, sẽ
lại uốn nắn kẻ khác. Người học rộng
kiến thức sâu xa sẽ có kiến địa khác biệt!
* Hỏi: Mấy
năm gần đây, tại thành phố Đài Bắc, tôi
nhiều lần phát hiện các cư sĩ mang thân phận
tại gia cớ sao lại có thể làm Phật sự cúng
thất cho người ta? Văn bối đọc Ấn Quang
Văn Sao tập ba, từng thấy tổ Ấn Quang nói: “Làm bất cứ Phật sự
nào, ắt cần phải thỉnh người xuất gia
thanh tịnh”. Ngay cả người xuất gia c̣n cần
phải thanh tịnh! Thân phận cư sĩ có vợ, con
cái, cháu chắt, hưởng thụ ngũ dục, làm sao có
thể làm Phật sự cho được? Trong Bồ Tát
giới bổn, đức Phật đă dạy phải
hướng về Tăng phường để thỉnh
Tăng làm thầy chủ tŕ pháp sự. Đối với
các vị tăng chủ tŕ pháp sự th́ phải mời vị
khách tăng làm chủ trước, mời chúng tăng
thường trụ sau, theo thứ tự nhận lời
thỉnh. Văn bối trọn chẳng t́m được kinh
nào nói người tại gia có thể làm Phật sự. Do
vậy, ôm ḷng nghi! Tôi nghĩ thanh tịnh trang nghiêm mới
khế hợp với pháp, chớ nên bị những Phật
tử giả mạo do tham tiền của mà làm bừa
đến nỗi hỗn loạn, chẳng c̣n trong sáng.
Không chỉ là đáng tiếc, mà c̣n có tội lỗi. Nhằm
giải trừ tâm nghi, khẩn cầu thầy hăy chỉ
điểm nơi đường mê! (Ngô Vĩ Tùng hỏi)
Đáp: Phật
pháp vốn v́ dạy người ta tu học mà có các thứ
pháp môn. Khế cơ độ chúng th́ nhỏ là tiểu quả
nhân thiên, lớn th́ xuất thế thành Phật, làm Tổ,
phổ độ chúng sanh ĺa khổ được vui.
Chúng sanh vô duyên, bỏ lỡ cơ hội, khi mạng chung
tự nhiên đọa lạc, nên mới có pháp môn độ
vong để bổ cứu. Pháp ấy cũng do bậc cao
tăng có giới, có hạnh thực hiện th́ mới hợp
pháp, đạt được cảm ứng. Bậc
cư sĩ chân chánh giữ giới, tu tập chuyên ṛng, ở
chỗ không có bậc xuất gia bèn v́ hàng thân hữu mà
đôi khi hành phương tiện th́ chẳng phải là
không được, nhưng tuyệt đối chẳng
được phép nhận mảy may tài vật ǵ. Hễ
nhận lấy, sẽ là trộm pháp, bán buôn pháp, tội lỗi
khó thể nói được! Phàm những kẻ như vậy
cũng chẳng phải là cư sĩ chân chánh, mà là hạng
người lêu bêu chẳng có nghề nghiệp, thường
được gọi là bọn buôn thần bán thánh vậy!
* Hỏi: Văn bối
nghĩ “kinh khế Phật sự” là Phật sự thanh tịnh
trang nghiêm, đó cũng là chức trách của người
xuất gia, lại là tư lương dưỡng thân của
tăng chúng. Làm cư sĩ th́ phải cúng dường
tăng chúng, há nên nửa đường cướp đoạt
tư lương của họ? Bọn họ đều
được hưởng sự giáo dục ở mức
độ cao, há có phải là v́ chẳng biết [mà làm
như thế] ! Hay là v́ văn bối trí nông cạn, hiểu biết
mỏng manh, do thấy biết ít ỏi nên lắm lời
trách móc, đúng là suy nghĩ trăm lượt chẳng ra
vậy! (Ngô Vĩ Tùng hỏi)
Đáp: Chức
trách của tăng chúng xuất gia cũng chẳng phải
là chuyên làm kinh sám, [chẳng phải là] ắt phải dùng
chuyện ấy để có tư lương nuôi thân! Chớ
nên làm chuyện đó để nhận của cúng dường.
Phước điền ứng cúng, luật nghi là như thế.
C̣n ngẫu nhiên v́ người khác độ vong, chính là
phương tiện từ bi, chẳng nhằm tham cầu
lợi dưỡng, chớ nên hiểu lầm! Ông lại
nói đến những kẻ tại gia làm kinh sám, nhận
được sự giáo dục bậc cao, nửa chừng
cướp đoạt tư lương của tăng.
Tôi cảm thấy lời lẽ ấy có chút phần
điên đảo! Xin hăy suy nghĩ kỹ, đă cướp
đoạt lương thực của tăng, làm sao c̣n là
hạng có giáo dục cho được!
* Hỏi:
Đối với chuyện bảo mọi người: “A
Di Đà Phật, trăm chuyện tôi chẳng quản tới”,
văn bối nghĩ: Tin Phật là trăm sự đều quản,
ắt phải cảnh tỉnh người khác, chẳng quản
người ta có tiếp nhận hay không, tâm của chính
ḿnh chẳng chấp. Chẳng quản họ dùng ư ác, ư hung
dữ, hoặc chẳng đếm xỉa lư lẽ, hành xử
man rợ; chính ḿnh chẳng nổi nóng mà ăn miếng trả
miếng. Tối đa là vái lạy, cười, từ tạ
rời đi. Như thế th́ mới hợp với Phật
pháp vậy! (Ngô Vĩ Tùng hỏi)
Đáp:
Chữ Quan (官) trong lời hỏi chắc
là chữ Quản (管) bị viết
nhầm. Quư cư sĩ tấm ḷng rất tốt, tiếc
là vẫn chưa thâm nhập Phật pháp, tôi đặc biệt
tặng vài loại sách nông cạn, xin hăy đọc. Nay
trước hết, bàn đến vấn đề Phật
có quan tâm mọi chuyện hay không? Đức Phật đến
thế gian chuyên v́ độ lục đạo chúng sanh
đang chịu khổ. Có một chúng sanh chưa đắc
độ, Phật vẫn thừa nguyện tái lai. Chúng sanh
vô tận, Phật nguyện vô cùng. Chúng sanh có tám vạn bốn
ngàn phiền năo, Phật ban bố tám vạn bốn ngàn pháp
môn. C̣n có người nói Phật chẳng quan tâm tới mọi
sự th́ đúng là suốt ngày ăn cơm, mà chẳng biết
gạo do đâu mà có!
*
Hỏi: Có phải là người b́nh phàm do có phước
mà học tập, tu đạo hay chăng? (Tôn Thánh Đường hỏi)
Đáp:
Thánh hiền thế gian và xuất thế gian đều do
phàm phu tu thành. Tục ngữ có câu: “Trọn chẳng tự nhiên có Phật Thích Ca hay Phật
Di Đà”. Lại nói “ông tu
ông đắc, bà tu bà đắc, chẳng tu chẳng đắc”.
Tu và chẳng tu là do chính ḿnh có nguyện hay không? Chẳng do
có phước hay vô phước! Chịu tu th́ chính là
phước. Chẳng chịu tu th́ chính là vô phước, nhưng
cổ đức lại nói: “Họa
phước không có cửa, chỉ do con người chuốc
lấy!” Có thể thấy là có phước hay vô phước
cũng do chính ḿnh tự cầu!
*
Hỏi: Chúng thánh, tiên, Phật thuở trước học
đạo trong núi thẳm, có thứ ǵ để ăn hay
không? Lại nữa, thần thánh thuở xưa tĩnh tọa
mười hai năm, sau khi thành đạo có từng đứng
lên lần nào hay chăng? (Tôn
Thánh Đường hỏi)
Đáp:
Cỏ cây trong núi, chẳng thiếu ǵ vật để
ăn, nhưng trong Định chẳng ăn, xuất
Định sẽ có thể ăn. Kinh Phổ Diệu có
chép [Phật Thích Ca khi tu khổ hạnh] mỗi ngày ăn một
hạt mè, hoặc một hạt lúa mạch. Kinh Nhân Quả
có chép chuyện [cô gái chăn ḅ] dâng cháo sữa. C̣n như
chuyện tĩnh tọa có đứng lên hay không th́ cũng
là trong Định bèn bất động. Kinh chép: “Bất khởi kinh hành” (chẳng
đứng lên đi kinh hành),
“thân bất đ́nh ngọa” (thân chẳng ngừng [nhập
Định] để nằm xuống), “Xuân Hạ Thu Đông, nguy nhiên đoan tọa”
(Xuân, Hạ, Thu, Đông, cứ nghiễm nhiên ngồi ngay ngắn)
v.v…
Đối
với hai câu hỏi thứ hai và thứ tư, chưa chỉ
ra xuất xứ từ kinh nào, văn tự lại đáng
nghi, nên chẳng tiện đáp bừa!
*
Hỏi: V́ sao người chứng đạo cần phải
có người ấn chứng là “như
thị” th́ mới được? [Chẳng hạn
như] Lục Tổ ấn chứng Vĩnh Gia đại
sư! (Giản Phong Nham hỏi)
Đáp:
Người tu tŕ công phu của chính ḿnh như thế nào chẳng
dám tự tin, ắt phải cầu bậc tri thức hữu
đắc hữu chứng giám định là có được
hay không, phương tiện khai thị, nhờ vào đó mà
ngộ nhập, chẳng đến nỗi đi vào ngơ rẽ,
uổng phí công lao. Nhưng kẻ sơ học, mong ngóng
thánh đạo mà chưa thấy, chẳng đáng nói tới
chuyện này! Cũng nên cầu minh sư chỉ điểm
đường chánh trước đă!
*
Hỏi: Vào năm Dân Quốc 56 (1967), có một đêm tệ
nhân mộng thấy một ṭa cổ miếu, có rất nhiều
ḥa thượng đến đi, chợt có một vị
ni sư dẫn tôi vào ngắm thánh tượng đức
Phật. Cuối cùng đến một ṭa cung điện lộng
lẫy, trang nghiêm, chợt có người nói là Vô Cực Lăo
Mẫu[18], xin hỏi đó là
điềm báo trước ǵ vậy? (Cung Tín Nho hỏi)
Đáp:
Nói chung cảnh trong mộng phần nhiều là vọng niệm
trong quá khứ in bóng [trong tâm thức]. Do vọng niệm chẳng
phải là một, nên h́nh ảnh phức tạp, đến
nỗi khi do ư thức khởi hiện h́nh tượng, phần
lớn đều xen tạp, chẳng có thứ tự. Tôi
nghĩ quư cư sĩ là người thích đạo,
nhưng sợ là chưa thể chuyên nhất. Trước
kia, ắt đă từng có dịp vào cổ miếu, mắt
thấy tăng ni, chắc là lại tin ưa ngoại đạo,
đă nghe nói và hâm mộ Vô Cực Lăo Mẫu. V́ thế,
đến nay gặp duyên, [những cảnh ấy] bèn hiện
ra trong giấc mộng. Cảnh đều chẳng thật,
cũng chẳng phải là điềm báo trước chi cả!
*
Hỏi: Tây Phương Cực Lạc thế giới có
phân biệt đạo quả hay chăng? [Cực Lạc]
cách xa Linh Sơn của Thích Ca Mâu Ni Phật và Đông
Phương Tịnh Độ của Phật Dược
Sư cỡ nào? Người b́nh phàm đa số biết
Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo chủ Phật giáo; v́ lẽ nào A
Di Đà Phật là Tây Phương Giáo Chủ? (Cung Tín Nho hỏi)
Đáp:
Câu hỏi này gồm ba phần.
1) Một là hỏi
về đạo quả. Ông nói tới đạo quả,
nhưng chẳng nói rơ về chuyện ǵ. Nếu chỉ dựa
theo văn tự để suy đoán ư nghĩa để
giải đáp th́: Đạo là tác dụng nơi mặt Sự
của chánh lư, nương theo đó để giáo hóa. “Quả”
là thành tích cụ thể đạt được do tu
đạo, tức là sự thành tựu chứng đắc.
Thế giới Cực Lạc không chỉ là Phật, Bồ
Tát đều cùng thuyết pháp, mà ngay cả tướng
ngũ trần, không ǵ chẳng diễn pháp. [Thế giới
ấy] là một đại đạo tràng, lẽ nào chẳng
có đạo! Người sanh về đó đều bất
thoái, phần nhiều là bậc Bổ Xứ. Ai nấy
đều chứng đắc, há chẳng có quả?
2)
Hai là hỏi về khoảng cách xa gần. [Đối với
các đơn vị đo lường như] thước,
trượng, cung, can, xưa nay, trong ngoài nước trọn
chẳng nhất trí, [nên có nói tới khoảng cách th́]
cũng là nói phương tiện. Người thấu
đạt lư th́ vạn dặm sẽ là gang tấc; đối
với kẻ mê lư, gang tấc cũng là vạn dặm.
3)
Ba là câu hỏi về Tây Phương giáo chủ. Hư không
vô tận, thế giới vô tận, mỗi thế giới
có một vị Phật làm giáo chủ. Muôn phương có vạn
Phật làm giáo chủ. Thế giới mà chúng ta đang sống
đây có tên là Sa Bà, Thích Ca Thế Tôn làm chủ. Cách đây
mười vạn ức thế giới, có cơi nước
tên là Cực Lạc, do Di Đà Thế Tôn làm chủ, giống
như lănh tụ một quốc gia, hoặc chủ nhân một
gia đ́nh vậy!
*
Hỏi: Tôi thấy đạo Gia Tô và Tịnh Độ có
rất nhiều chỗ tương tự. Trừ một
điểm là Thượng Đế sáng tạo trời
đất chẳng phù hợp Phật pháp ra, những
điều khác như văng sanh nước trời, tín chủ
kiền thành cảm nhận thánh linh tương ứng v.v…
gần giống như cơi cực tịnh, đặc biệt
là [giáo nghĩa của] Tịnh Độ Chân Tông[19].
Nói “Thượng Đế sáng tạo trời đất”
là phân chia tri thức của nhân loại thành bất khả
tri và khả tri, trực tiếp gọi gộp chung những
điều vô thỉ bất khả tri thành một đấng
sáng tạo. Tuy [cách nói này] chẳng phù hợp Phật pháp,
nhưng xét theo thế gian, có bao nhiêu người có thể
thật sự biết? Thuyết Thượng Đế của
đạo Gia Tô nhằm mong cho con người hướng
thiện, có bao giờ chẳng thể xem như một pháp
môn phương tiện! (Khưu
Nhă Xương hỏi)
Đáp: Một
môn Tịnh Độ trong Phật pháp luận theo Sự th́
dường như dễ hiểu, có thể nói là “ai nấy
đều biết”, nhưng bàn theo Lư th́ bậc Địa
Thượng Bồ Tát cũng chưa thể hiểu tường
tận! Thường nói là “chỉ
có Phật với Phật mới có thể thấu suốt
cùng tận”. Thật ra, Tịnh Độ là cảnh giới
đoạn sạch Hoặc (phiền năo) của đức
Phật, há có thể luận định giống như
chư thiên trong tam giới đầy dẫy các Hoặc, chẳng
liễu sanh tử ư? Trong thư, quư cư sĩ viết:
Từng thờ tượng Phật và các tập tranh thờ
Phật, lại đọc truyện kư về Phật v.v…
Những điều ấy bất quá là mấy thứ ấn
tượng, chẳng thể [nhờ vào đó để]
hiểu rơ Phật lư được, chẳng tránh khỏi
nẩy sanh lắm nỗi hiểu lầm! Nay tôi biếu ông
mấy tập sách nhỏ, mong hăy đọc mấy lượt,
đừng nghĩ là chúng thiển cận rồi coi thường,
ắt sẽ có chỗ tiến nhập.
*
Hỏi: Ở Mỹ, nếu muốn ăn chay, chỉ sợ
khó tránh khỏi sữa ḅ, rất nhiều người coi sữa
ḅ là đồ mặn. Tôi nghĩ ăn chay là v́ kiêng giết,
như vậy th́ uống sữa vẫn có thể coi là
ăn chay! Tôi t́m được một quyển sách dạy
nấu đồ chay, [trong ấy có những món] cũng có
khi dùng sữa. Pháp sư Thích Tinh Vân viết cuốn Giáo Tổ
Truyện cũng nhắc đến chuyện hóa duyên tô lạc,
nhà Phật thích dùng thành ngữ “đề-hồ
quán đảnh” v.v… khiến cho tôi khẳng định
một kết luận: Sữa ḅ và những thứ giống
như vậy, chẳng cần do sát sanh mà có th́ đều
là đồ chay, chẳng biết lăo cư sĩ có nghĩ
là đúng hay không? (Khưu Nhă Xương hỏi)
Đáp: Tŕ trai
và ăn chay là hai chuyện; bất quá hai chuyện ấy có
mối quan hệ liên đới mà thôi! Tŕ trai là nghiêm tịnh
tam nghiệp, ắt phải kèm theo ăn chay. Ăn chay là chẳng
ăn đồ hôi tanh. Đó là chỗ khác biệt nhỏ
nhặt. “Tanh” là nói động vật, “hôi” chỉ thực
vật có mùi nồng gắt. Chẳng ăn động vật
là do ư nghĩa từ bi chẳng giết, nhưng c̣n có nhiều
nghĩa, tạm lược qua, chẳng bàn đến. Sữa
ḅ chẳng do giết chóc mà có, nên giới luật chẳng
ngăn cấm!
*
Hỏi: Đây là một vấn đề rất thiết
thực, phải xin lăo cư sĩ chỉ dạy. Tôi nhận
thấy cái tâm hướng về đạo của chính
ḿnh kể từ khi phát tâm đến nay (đọc xong bộ
Giáo Tổ Truyện bèn phát tâm) rốt cuộc là có hiện
tượng giảm sút. Tuy nỗ lực đọc sách, trừ
việc tăng thêm kiến thức Phật học ra, trọn
chẳng có mảy may hữu ích nào! Ḷng cảm động
tràn trề và tâm từ bi rộng mở thuở đầu
giống như có một loại cảm ứng cùng rung
động ngày càng tiêu giảm; lại c̣n đối với
sự hành tŕ thường ngày, chẳng có ư vị
được Phật học hun đúc mảy may! Đặc
biệt là trong phương diện t́nh dục nam nữ,
cũng chẳng thể khống chế chút nào! Tôi nghĩ
t́nh h́nh ấy chắc là do nguyên nhân tôi chỉ đọc
sách, chẳng tu tŕ, lại chưa thọ giới, giữ
giới. Xin lăo cư sĩ từ bi chỉ điểm
đường lối đáng nên hành theo! (Khưu Nhă Xương hỏi)
Đáp:
Chẳng hiểu Phật lư, chẳng thể giác ngộ, phần
nhiều là do ngỡ sai là đúng, coi giả là thật.
Đó gọi là mê hoặc, điên đảo, chẳng có
thuở thoát khổ. Sanh ra th́ chẳng biết là do đới
nghiệp mà sanh, nay chẳng biết sanh trong cơi này nhằm
đền trả báo khổ, chẳng biết chết
đi phần nhiều đọa trong tam đồ. Dẫu
có thể hiểu, vẫn phải nương vào sự tu tập
[mới ḥng thoát khổ]. Nếu không, sẽ là đếm của
báu, kể chuyện ăn, vẫn nghèo, vẫn đói!
Đă khởi sự tu tập th́ phải có thể nhẫn
nại, có chí thường hằng, ḥng ngăn ngừa thoái
chuyển. Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghỉ là năm cội rễ của địa ngục,
có thể dẫn dụ, mê hoặc chúng sanh đọa lạc
mạnh nhất! Nếu chẳng có định lực, khó
tránh khỏi như cá mắc lưỡi câu!
*
Hỏi: Tinh thần Phật giáo ở chỗ nào? Như thế
nào th́ mới có thể coi là Phật giáo đồ chân chánh?
(Trịnh Kim Cân hỏi)
Đáp:
Hành cẩn trọng Tứ Hoằng Thệ Nguyện th́
chính là Phật giáo đồ chân chánh. Nếu chẳng làm
được, chỉ có thể “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
lành, tự thanh tịnh ư ḿnh” th́ chính là hành đạo. Tự
thanh tịnh ư ḿnh chính là trừ vọng niệm, giữ
chánh niệm. “Giữ chánh niệm” chính là các pháp Tịnh,
Thiền, Mật, Luật v.v… hăy chọn bất cứ một
pháp nào để tin nhận, dốc sức hành tŕ. Nếu
có thể như vậy, sẽ là tín đồ chân chánh của
nhà Phật. Lại có thể tự hành, hóa tha, th́ sẽ là
Đại Thừa Phật tử.
*
Hỏi: Tŕ danh thánh hiệu Quán Thế Âm có những lợi
ích ǵ? Cảnh giới thật sự vĩ đại ở
chỗ nào? Có thể giải đáp, khai thị để
tiện cầu nguyện, xưng danh hay không? Có cầu ắt
ứng, đúng không? (Trịnh
Kim Cân hỏi)
Đáp:
Chuyện này chẳng phải một đôi lời mà ḥng
nói rơ được! Nếu nói ra sẽ là nêu một điều,
bỏ sót vạn điều, hoặc là rườm rà
nhưng thiếu thích đáng, đâm ra chuốc lấy tội
lỗi! Huống chi quư cư sĩ hăy c̣n là kẻ sơ học,
chưa chắc tôi có thể nói khế cơ. Đă mong cầu
ích lợi, hăy nên phát tâm chí thành, thỉnh một bộ Phổ
Môn Phẩm, kính cẩn tụng niệm, thật sự tin
tưởng, th́ sẽ là đường lối chánh
đáng vậy!
*
Hỏi: Học tṛ mong dùng thân phận một nhà kinh doanh xí
nghiệp để thành tựu trong đời này, hoằng
truyền, tuyên dương đại pháp, mai sau có danh lợi,
đối với phú quư, hoặc lấy, hoặc bỏ, hoặc
tranh, hoặc nhường, cảm thấy rất do dự.
Như ngài Duy Ma Cật, thị hiện phú quư. Như Thích Ca
Mâu Ni Phật thị hiện xả phú quư. Học tṛ chẳng
thể tự xét nhân duyên trong đời này, lại do
căn tánh ngu muội; nếu bỏ phú quư, tâm sanh ư tưởng
hối hận, trái nghịch tấm ḷng ban đầu. Nếu
giữ lấy phú quư, mà nếu chẳng có túc nhân, ắt sẽ
do t́nh thế mà tranh chấp với kẻ khác, đâm ra kết
ác duyên, như thế nào th́ mới nên? (Khưu Bạch Hải hỏi)
Đáp:
Người tại gia sinh sống, hoàn toàn cậy vào kỹ
năng làm việc, cống hiến cho xă hội, hăy nên kiếm
một nghề có sự đền bồi chánh đáng,
đấy chính là kiếm ăn bằng chính sức ḿnh,
không tổn hại đến đức liêm khiết.
Nhưng cuộc sống bất quá nhằm trưởng
dưỡng thân mạng mà thôi; nếu sơ sót huệ mạng,
chính là uổng phí một đời này. Do đó, có lời
răn: “Triêu văn đạo,
tịch tử khả hỹ” (Sáng nghe đạo, tối
chết cũng được). Ngoài việc kiếm sống,
c̣n cần phải cầu đạo. Hai điều ấy
đều chẳng thể ĺa, đó là chánh đáng, đúng
mức. Cầu đạo mà chẳng có nguồn nuôi dưỡng
sanh mạng, sẽ chẳng thể cầu đạo.
Khuyên ông đối với kỹ năng làm việc, ắt
phải thực hiện mười phần viên măn, đó
là chuyện có thể cầu. C̣n như phú quư th́ chính là
phước báo, chỉ có thể thuận theo nhân quả,
chớ nên cưỡng cầu! [Của cải, tiền bạc
đưa] đến vốn chẳng nhường, [chúng mất]
đi cũng chẳng phải tranh. Hăy nên biết cái ǵ ồ
ạt đưa đến th́ cũng sẽ ồ ạt mất
đi. Kết quả là khi hết mạng, chẳng mang theo
được, tội nghiệt buộc chặt theo ta. Hăy
suy nghĩ cặn kẽ, nếu có duyên gặp mặt sẽ
tṛ chuyện [nhiều hơn].
*
Hỏi: Trong mười ma nghiệp, điều thứ tám
là “nhạo học thế luận,
xảo thuật văn tự… hoặc dĩ diệu
nghĩa thọ phi kỳ nhân, viễn ly Bồ Đề,
trước ư tà đạo” (thích học lư luận
thế gian, khéo viết văn tự… hoặc trao diệu
nghĩa lầm người, xa ĺa Bồ Đề, vướng
vào tà đạo), đối với điều này, tôi có
hai điều nghi: Một là kẻ thích nghiên cứu văn
học, có phải là chuộng học thế luận hay
không? Hai là trao truyền diệu nghĩa chẳng đúng
người, “diệu nghĩa”
là nói đến điều ǵ? Hăy nên trao cho loại người
nào th́ mới chánh xác? Xin hăy chỉ dạy! (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp:
“Thế luận” là những
lời lẽ về công danh, lợi lộc trong thế tục,
hoặc là những văn chương phong nguyệt nhảm
nhí, đều chẳng có ích ǵ cho huệ mạng. “Diệu nghĩa” th́ pháp thế
gian và xuất thế gian đều có, nhưng ở đây
là chuyên nói về pháp xuất thế. “Chẳng đúng người” là chẳng phải
kẻ chuyên chở đạo, hoặc là phường tà kiến
hiểu biết sai lầm. Truyền [diệu nghĩa] cho họ
chính là khinh miệt Thánh Lượng vậy!
*
Hỏi: Có đồng tu hỏi: Công phu tu hành của Hư
Vân đại sư đă rất tốt đẹp, cớ
sao lúc mạng chung vẫn có tướng trạng đau bệnh?
Đệ tử liên tưởng Huyền Trang đại
sư khi mạng chung cũng hiện tướng thống
khổ, nên đáp rằng: “Dựa theo sinh lư trong thế
gian để suy đoán, đó có phải là v́ giả thân
Ngũ Uẩn bị vùi dập quá nhiều nên h́nh thành [bệnh
khổ] như vậy, cũng chưa biết chừng!”
Đáp kiểu ấy có đúng hay không? Có phải là báng pháp
hay chăng? (Tiên Thuần Hiền
hỏi)
Đáp:
Lời đáp của ông cũng có chỗ đúng, chẳng
phải là hoàn toàn sai, nhưng có các thứ sự lư tiêu nghiệp
và hiện tướng, các kinh đều có chép. Hăy đọc
nhiều sẽ tự biết.
* Hỏi: Trong
tâm chẳng khởi một niệm, giác tánh linh minh bất
muội, hiểu rơ ràng trần cảnh, chẳng phan duyên,
khi ấy, có thể gọi là “tịch
chiếu song dung” (Tịch và Chiếu cùng viên dung) hay
không? (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Ông nói
có chỗ tương tự, nhưng chỉ là nói theo cá nhân
mà thôi! Ví như người uống nước, lạnh
nóng tự biết. Tệ nhân chưa thể chẳng khởi
một niệm, nên chẳng biết cảnh giới vô niệm,
vẫn chưa thể ấn chứng lời của cư
sĩ, v́ [chính ḿnh] chưa đoạn Hoặc. Nhưng tôi
có một lời: Xin hăy xét kỹ, nếu quư cư sĩ có
thể dùng Bát Nhă để chiếu soi sâu xa, ắt sẽ
chẳng phải hướng về một cái thùng sơn
đen kịt mà cầu ấn chứng!
* Hỏi: Có
người bạn nói: “Con chết, cha mẹ chớ nên nhỏ
nước mắt vào thi thể. Nếu không, đứa
con ấy chẳng thể chuyển thế, hoặc tăng
thêm tội cho nó” v.v… Có thể tin tưởng [những lời
ấy] hay chăng? Nếu có chuyện đó th́ nên bổ cứu
ra sao? (Lư Tâm Thành hỏi)
Đáp: Đấy
là phong tục địa phương, tệ nhân chẳng
biết. Nhưng chuyện như vậy chẳng thuộc
về thiện hay ác, nên cũng chẳng ảnh hưởng
đến công phu tu tŕ, dường như chẳng cần
phải bàn luận! Nếu chẳng chướng ngại
Phật pháp th́ cứ thuận theo phong tục mà kiêng dè, xét
theo đạo phương tiện, trọn chẳng phải
là không được!
* Hỏi: Sách
Liễu Phàm Tứ Huấn, nơi trang một trăm bốn
mươi, có viết: “Hoặc
vi bạch kỳ vu nhi phân kỳ báng, vụ sử chi thành lập
nhi hậu dĩ” (hoặc v́ [kẻ khác] bị vu hăm mà
phân giải nỗi hiềm báng, khiến cho kẻ ấy
được thành tựu mới thôi)[20],
hậu học chẳng hiểu câu này cho lắm. Nếu là
Phật giáo đồ thành thật, lại là người
ăn chay, có thể gánh vác nỗi khổ của người
khác ḥng độ chúng sanh, chẳng đoái hoài sanh mạng,
nhưng giả như phải bênh vực nỗi sỉ nhục
cho kẻ chẳng biết nhục, phân giải những lời
lẽ xấu xa của kẻ bại hoại, tuy là đối
với danh dự cá nhân bèn chẳng màng, [nhưng bênh vực,
bào chữa cho những kẻ ấy] há chẳng phải là
bại hoại danh dự Phật giáo, ô nhiễm đạo
tràng thanh tịnh? Xin hăy chỉ dạy làm như thế nào
th́ mới viên măn? (Lê Tố Hoa
hỏi)
Đáp: “Phân báng” (phân giải nỗi
báng bổ) là nói chính ḿnh bị vu báng. Có thể phân giải
nỗi oan bị hiềm báng của kẻ khác là giải
quyết mối nguy nhất thời cho người ta. Phàm
chuyện ǵ lâu ngày ắt sẽ tự sáng tỏ, nỗi
nguy của người kia đă được giải,
hai bên chẳng bị tổn thương. Phật giáo chính
là đạo tràng tuyên dương giáo nghĩa, đối với
hành vi của cá nhân, hăy thông báo rơ rệt là cá nhân ấy phải
chịu trách nhiệm, có phương cách xử lư khéo léo, chẳng
gây hại đến toàn thể.
* Hỏi: “Một tấc quang âm, một tấc
vàng, tấc vàng khó chuộc tấc quang âm”. Đi học,
đi làm, thậm chí kể từ lúc mới nghe Phật
pháp cho đến nay tôi đều tiếc quang âm, v́ liễu
sanh tử mà nóng ḷng, nhưng gần đây tôi cảm thấy
học Phật phải có tâm thường hằng. V́ thế,
dần dần chẳng hạn chế thời gian, nhưng
cũng chẳng bỏ phí thời gian, tự cảm thấy
là như vậy, có đúng hay không? (Lê Tố Hoa hỏi)
Đáp:
Vạn sự đều do ḷng thường hằng mà
thành, há có chuyện liễu sanh tử mà chẳng có hằng
tâm, lại mong do may mắn mà thành công ư? Đối với
chuyện tiếc nuối thời gian, đối với
chuyện thế gian, hăy c̣n có [những gương] “tấc Vũ, phân Đào”[21], học rồi
bèn tập luyện, người học Phật sao có thể
lười nhác? Bài kệ hoàng hôn có mấy câu như: “Thị nhật dĩ quá, mạng
diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu
hà lạc” (ngày hôm nay đă qua, mạng cũng giảm
theo dần, giống như cá thiếu nước, há có sướng
vui chi), câu nào cũng có thể dùng để răn nhắc.
Tinh tấn là bằng khoán để thành công. Giải
đăi là nguyên nhân chủ yếu khiến bị đọa
lạc. Quư cư sĩ tiếc nuối thời gian rất
hợp với lời răn của Phật.
*
Hỏi: Trong kinh Địa Tạng có nói tụng kinh hồi
hướng cho quyến thuộc, sẽ được ba
phần công đức, chính ḿnh được bảy phần,
nhưng trong mười nguyện của Phổ Hiền Bồ
Tát, chẳng nói hồi hướng cho người khác hoặc
chúng sanh, có phải là càng được công đức nhiều
hơn ư? Đối với chuyện mười phần
chỉ được bảy phần, hăy nên giải thích
ra sao? (Lê Chiêu Minh hỏi)
Đáp:
Mười nguyện Phổ Hiền từng nói đối
với công đức đă làm, nếu hồi hướng
cho người khác hoặc chúng sanh, th́ đâm ra chính ḿnh lại
đạt được nhiều hơn so với tự
làm, tự hưởng. Kinh Địa Tạng nói tụng
kinh hồi hướng cho quyến thuộc, nhưng quyến
thuộc chỉ được hưởng ba phần, c̣n
bản thân người tụng kinh được bảy
phần cũng là nói người tụng được
nhiều, trọn chẳng khác ǵ phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện đă nói, sao lại dấy ḷng nghi? Chắc là xem
kinh mà chưa suy nghĩ sâu xa, mong hăy lắng ḷng đọc
tụng.
*
Hỏi: [Tôi có các câu hỏi sau đây]:
1) Một, từ
ngữ “Bồ Tát” trong kinh Bảo Tích có phải là nói tới
người đă thật sự đạt đến
địa vị Bồ Tát hay không?
2) Hai, nếu
có chúng sanh đọa trong ác đạo, như súc sanh đạo,
có phải là thọ mạng năm kiếp? Nhưng có
trường hợp vừa vào liền thoát ra, điều
này phải nên nói như thế nào? Ví như mẹ của
Địa Tạng Bồ Tát vậy! (Tôn Chiêu Minh hỏi)
Đáp:
Tại hạ đọc lời hỏi này chẳng hiểu
rơ. Kính khuyên ông: Xem kinh mà mong thấu hiểu th́ trước
hết là đọc ít, sau là xem nhiều, trước là cạn,
sau là sâu. Nếu chẳng có thứ lớp, rất khó đạt
được lợi ích. Như đối với kinh Di
Đà và kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đều
có sách chú giải bằng văn Bạch Thoại của ông
Hoàng Khánh Lan, hăy nên đọc trước. Đă có chỗ
nhập môn đôi chút rồi mới xem nhiều lư luận
th́ cũng chẳng muộn, nhưng niệm Phật vẫn
phải chiếu theo lệ thường chẳng gián đoạn.
Phật
Học Vấn Đáp Loại Biên
Quyển
Thượng hết
[1] Quỷ Tử Mẫu (Hārītī, Ha Đế Lợi Mẫu) là một ngạ quỷ có thần thông rất to, có mấy trăm đứa con. Để nuôi dưỡng chúng, bà ta thường bắt cóc trẻ nít về cho chúng ăn. Đức Phật bèn bắt đứa con sủng ái nhất của bà ta giấu trong b́nh bát. Bà ta t́m khắp tam thiên đại thiên không thấy, sốt ruột đến van nài đức Phật cứu giúp, nhân đó, đức Phật bảo: “Bà có mấy trăm đứa con, chỉ mất một đứa con mà đă lo lắng đến thế, lẽ nào những người làm cha mẹ khác chẳng đau đớn khi bị mất con”. Rồi đức Phật cho biết con bà đang ở trong b́nh bát, kế đó, thuyết pháp hóa độ khiến cho bà ta phát nguyện bảo hộ trẻ thơ. Đức Phật sẽ sắc truyền tăng chúng hằng ngày thí thực cho bà ta và con cái được no đủ. Do đó, Quỷ Tử Mẫu trở thành một vị thần hộ pháp trong Phật giáo. Bà c̣n trở thành vị thần bảo hộ các thai phụ và trẻ thơ. Do trong kinh Pháp Hoa, Quỷ Tử Mẫu phát nguyện bảo vệ người hành tŕ kinh Pháp Hoa, nên tại Nhật Bản, trong các tự viện thuộc tông Thiên Đài (Thiên Thai Tông Nhật Bản) và chùa miếu của những vị Tăng thọ tŕ kinh Pháp Hoa thường thờ tượng Quỷ Tử Mẫu.
[2] Bá Di và Thúc Tề đều là con
của Á Vi (đời vua thứ bảy nước Cô
Trúc). Á Vi muốn truyền ngôi cho Thúc Tề, nhưng
điều này trái với quy định truyền ngôi cho
trưởng, nên Thúc Tề chẳng muốn làm vua, Bá Di
cũng chẳng muốn làm trái ư cha, nên hai người cùng
bỏ nước trốn đi, để cho Á Bằng là
người em thứ hai làm vua. Khi Châu
Vũ Vương cất quân dẹp Trụ, hai anh em Bá Di và
Thúc Tề nắm dây cương vua ngăn cản, nhưng
Vũ Vương chẳng nghe. Khi Vũ Vương
đă diệt Trụ, lập ra nhà Châu, hai anh em quyết
định bỏ trốn vào núi Thủ Dương ăn
rau dại, vỏ cây, về sau chết đói. Cô Trúc (孤竹) là một nước chư hầu
thời cổ, được phong đất vào thời
vua Trụ. Cô Trúc giáp ranh nước Yên, nằm gần
Bột Hải (ước tính vị trí nằm giữa các
thành phố Đường Sơn, Triều Dương,
Hưng Thành Trấn hiện thời). Các vua xứ Cô Trúc
họ Tử, tức là một chi họ (thị tộc
Mặc Thai) của tông thất nhà Thương. Dân chúng
thoạt đầu sống du mục, về sau sống
bằng cày cấy và chăn nuôi. Đến năm 644
trước Công Nguyên, khi quân Sơn Nhung (山戎) tấn công nước Yên, vua Yên
cầu cứu nước Tề. Tề Hoàn Công dẫn quân
sang cứu, liên quân Tề - Yên đại phá Sơn Nhung,
thừa dịp diệt luôn Cô Trúc, và sát nhập lănh thổ
Sơn Nhung vào nước Yên. Sử sách không chép rơ về
Sơn Nhung, chỉ biết họ là một sắc dân du
mục thuộc thị tộc Vô Chung thiện chiến
ở phía Bắc nước Yên (chủ yếu là tỉnh
Liêu Ninh), không rơ là dân tộc nào, có người cho rằng
hậu duệ của họ là bộ tộc Đông Hồ
của Mông Cổ hiện thời.
[3] Trong đàn truyền Cụ Túc Giới, phải
có Tam Sư Thất Chứng. Tam Sư là ba vị thầy giữ
vai tṛ trọng yếu trong việc trao truyền giới gồm
Giới Ḥa Thượng (Đắc Giới Ḥa Thượng,
Đàn Đầu Ḥa Thượng) là vị trao truyền giới
pháp, Yết Ma Sư (Yết Ma A Xà Lê) có nhiệm vụ đọc
các bài văn biểu bạch, hướng dẫn giới tử,
và Giáo Thọ Sư có trách nhiệm dạy các giới tử
oai nghi và tác pháp. Thất Sư là bảy vị tăng (ni) đóng
vai tṛ chứng minh cho buổi lễ.
[4] Nguyệt Thượng là con một
vị trưởng giả, nổi tiếng xinh
đẹp, nên các nơi đều cầu hôn. Cô tuyên
bố bảy ngày sau sẽ mở hội chọn chồng.
Đến ngày đó, khi mọi người tụ tập
đông đủ, cô bay lên hư không,
nói kệ khuyến hóa, mọi người nghe xong
đều ngưng dứt ḷng dục. Cô lại cùng ngài Xá
Lợi Phất, Văn Thù Bồ Tát v.v… biện luận thâm
nghĩa Đại Thừa. Sau đó, hiện thần
biến, chuyển thân nữ thành nam, xuất gia thành
Phật. Sự kiện này được chép thành Phật
Thuyết Nguyệt Thượng Nữ Kinh (Candrottarā-dārikā-pariprcchā).
Am Đề (gọi đủ là Am Đề Giá) là
con gái của trưởng giả Bà Tư Nhị Già. Khi
trưởng giả Bà Tư Nhị Già thỉnh Phật và
tăng chúng đến thọ trai, cô Am Đề và
chồng đến dự, nhân đó bèn cùng đức
Phật, tôn giả Xá Lợi Phất và Văn Thù Bồ Tát
biện luận thâm nghĩa Đại Thừa. Nội dung
cuộc bàn thảo ấy được chép thành Trưởng
Giả Nữ Am Đề Giá Sư Tử Hống Liễu
Nghĩa Kinh.
[5] Theo kinh Duy Ma Cật, trong thất
của ngài Duy Ma Cật có một vị thiên nữ, do
thấy chư thiên và mọi người nghe thuyết pháp,
cô ta bèn hiện thân, rảy hoa trời cúng dường
đại chúng. Những đóa hoa chạm vào thân các Bồ
Tát đều rơi xuống, nhưng chạm vào thân các
vị đại đệ tử Thanh Văn đều
dính chắc, chẳng rơi. Tất cả các vị
đại đệ tử Phật đều dùng trọn
hết thần lực mà vẫn gỡ không
được. Thiên nữ hỏi ngài Xá Lợi Phất:
“Tại sao ông gỡ hoa?” Đáp: “Cài hoa này chẳng đúng
pháp, nên tôi gỡ bỏ”. Thiên nữ bảo: “Đừng nói hoa này chẳng
đúng pháp. Hoa này vốn chẳng phân biệt, tự ông
khởi lên phân biệt. Người xuất gia theo Phật
mà có tư tưởng phân biệt th́ chẳng đúng pháp”.
[6] Do bị hạn chế bởi vần
điệu, nên lời dịch có chỗ không rơ ràng, xin
diễn nôm như sau (dựa theo lời chú giải của
Minh Thánh Kinh): Đoạn văn này nhằm khuyên
người làm quan phải giữ phẩm hạnh và
đức liêm khiết. Quan lại lương bổng
đơn bạc, kẻ ăn thịt ngỗng (ư nói ăn
uống xa xỉ) khác nào con sâu đục khoét quả mận,
cảm thấy ngọt ngào, nhưng bản chất vẫn
là loài sâu bọ! Vào thời cổ, cổ nhân thanh bạch,
đến mùa dưa chín, bèn hái dưa dâng cúng tổ tiên.
Cỗ bàn cúng bái tổ tiên đơn sơ, chỉ có canh
rau, nhưng tấm ḷng thành thơm thảo. Câu thơ này
xuất phát từ một câu trong Luận Ngữ “tuy sơ thực, thái canh, qua
tế, tất tế như dă” (dẫu cúng bái bằng
cỗ chay, canh rau, cúng bằng dưa, vẫn là cúng tế
chí thành chẳng khác ǵ cỗ bàn thịnh soạn).
Người làm quan lương bổng đơn bạc
chỉ vừa đủ chi tiêu cho những lễ nghi
tối thiểu, tiền tiêu xài cho cả gia đ́nh chỉ
vừa đủ cơm ăn mỗi ngày, nếu làm quan mà
mang về của cải đựng trong trăm cái tráp th́
đó toàn là vật có được do đă đánh
mất khí tiết (nhận của đút, ăn hối
lộ). Tiền bạc chứa đầy trong rương
là tiền bạc có được do tấm ḷng tăm
tối. Đến khi tội lỗi bị phát hiện,
sẽ bị xử phạt, có ai mà chẳng sợ.
Để giữ vững khí tiết hăy nên luôn nghĩ
tới trời xanh nh́n thấu ḷng người.
[7] Đào Viên Minh Thánh Kinh c̣n gọi là Quan
Thánh Đế Quân Minh Thánh Chân Kinh là thiện thư lưu
hành chủ yếu tại Đài Loan trong thời Đài Loan
là thuộc địa của Nhật. Tác phẩm này
xuất hiện vào khoảng năm 1912 tại Đài Loan,
được coi là lời dạy của chính Quan Công trong
đàn cầu cơ. Do nội dung khuyến thiện tích
cực, tác phẩm này được lưu hành rất
rộng và nhanh chóng được truyền sang Đại
Lục cũng như các cộng đồng người
Hoa ở hải ngoại.
[8] Phượng Nhăn có tên khoa học là
Eichhornia Crassipes, c̣n gọi là Thủy Phù Liên, Thạch Liên, hoặc
Phụng Nhăn Lan, mọc nơi ẩm ướt như ven
sông, bờ ao, sông ng̣i, tức là một loài thực vật
giống như lục b́nh.
[9] Liễu Nhăn là cách nói bóng bẩy trong
thơ ca, sánh ví những lá liễu non mới nẩy khi
vừa chớm tiết Xuân trông giống như những con
mắt nhỏ và dài.
[10] Tuyền Nhăn là chỗ nguồn
nước của một con suối.
[11] Tự Nhăn là những chữ tinh
yếu, mấu chốt, tuyệt diệu trong một bài
văn hoặc thơ, khiến cho ư chính của bài thơ
văn ấy được nổi bật.
[12] Bản Nhăn là thuật ngữ chỉ trong
phách nhịp, tiết tấu trong âm nhạc. Thoạt
đầu, để kư âm, người ta gọi những
phách mạnh, thường dùng trống lớn để
điểm nhịp là Bản, c̣n những phách nhẹ th́
gọi là Nhăn. Sau này, bất cứ văn bản ghi cách
đánh nhạc khí đều được gọi chung là
Bản Nhăn.
[13] Theo truyền thuyết, tim Tỷ Can có
bảy lỗ nên gọi là Thất Nhăn. Tỷ Can họ
Tử, sinh ở Mạt Ấp (nay thuộc Vệ Huy
tỉnh Hà Nam), là chú của Trụ Vương (Đế
Tân), giữ vai tṛ Thiếu Sư (Thừa Tướng). Sách
Luận Ngữ gọi Vi Tử Khải, Cơ Tử và
Tỷ Can là “Ân tam hiền nhân”
(ba vị hiền nhân đời Ân). Ông là người thông
minh, nhân từ, học rộng. Năm hai mươi
tuổi, được vua cha là Đế Ất giao cho
ngôi Thừa Tướng, pḥ tá nhà Ân bốn mươi
mấy năm, chủ trương giảm nhẹ thuế
khóa, phát triển nông nghiệp, đúc tiền. Do tính t́nh
bộc trực, ráo riết can vua Trụ đừng
đắm say tửu sắc, nên bị vua Trụ sát
hại. Khi Tỷ Can bị giết, hai bà vợ của ông
ta đang mang thai cũng bị truy nă: Bà Hoàng Thị bị
bắt trước, đă bị vua Trụ tàn nhẫn
hạ lệnh móc đứa con trong bụng ra đem
đốt bên cạnh bà mẹ đang ngắc ngoải
chờ chết. Bà kia là Quán Quỳ Thị được
binh sĩ thương t́nh che giấu, trốn khỏi kinh
đô Triều Ca, ẩn náu tại Trường Lâm (Hà Nam).
Đứa con sanh ra được đặt tên là Kiên,
về sau trở thành thủy tổ họ Lâm tại Hà Nam.
[14] Câu này trích từ sách Thượng
Thư (kinh Thư), Thành Vương bảo Quân Trần: “Tất hữu nhẫn, kỳ
hữu năi tế, hữu dung, đức năi đại”,
các nhà chú giải nói câu này có nghĩa là ắt phải có ḷng
nhẫn nại th́ mới có thể hoàn thành sự việc,
có ḷng bao dung th́ đạo đức mới cao cả.
[15] “Bốn
điều chớ phi lễ” (phi lễ tứ vật)
là lời Khổng Tử dạy Nhan Uyên về cách khắc
kỷ, giữ lễ được ghi trong chương
Nhan Uyên sách Luận Ngữ: “Tử
viết: Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất
nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên….
Nhan Uyên viết: Thỉnh vấn kỳ mục? Tử
viết: Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi
lễ vật ngôn, phi lễ vật động”
(Khổng Tử: “Chế ngự dẹp yên những ư
nghĩ xằng bậy trong tâm, tuân thủ lễ, đó
chính là Nhân. Một ngày dẹp yên ư nghĩ xằng bậy,
vâng giữ lễ, thiên hạ đều trở thành nhân
[trong ngày hôm ấy]… Nhan Uyên thưa: “Xin hỏi [để
thực hiện điều ấy] th́ phải làm những
ǵ?” Khổng Tử đáp: “Chuyện phi lễ đừng
nh́n, chuyện phi lễ đừng nghe, chuyện phi lễ
đừng nói tới, chuyện phi lễ đừng làm”).
[16] Phượng lê (鳳梨) là danh từ mà giới học thuật
Đài Loan thường dùng để gọi quả
dứa (thơm, khóm). Dân gian c̣n gọi dứa là
Vương Lê, Phan Lê, hoặc Hoàng Lê, nhưng phổ
biến nhất là Ba La. Do quả mít cũng được
gọi là Ba La Mật, nên nhiều người sơ ư
tưởng chữ Ba La Mật trong kinh là nói về quả
mít hay nói tới một loại thơm nào đó.
[17] Thiên Thai Tam Thánh là ba vị thánh nhân
thị hiện tại núi Thiên Thai, tức ḥa thượng
Phong Can, Hàn Sơn và Thập Đắc.
[18] Vô Cực Lăo Mẫu c̣n gọi là Vô Sanh
Lăo Mẫu, Vô Cực Thiên Mẫu, hoặc Vô Cực Thánh
Tổ, được coi là vị thần sáng tạo nguyên
thủy sanh ra toàn thể vũ trụ. Quan niệm này
được tin tưởng bởi nhiều tà giáo
xuất hiện thời Minh - Thanh như La Giáo, Kê Túc Sơn
Đại Thừa Giáo, Trai Giáo, Văn Hương Giáo, Thánh
Nhất Giáo, Nhất Quán Đạo v.v… Danh xưng này do La
Tư Phù (giáo tổ La Giáo) chế ra, nhằm đề cao đạo
của ông ta cao hơn các phái Đạo giáo trước
đó kể cả Phật giáo, v́ Vô Sanh Lăo Mẫu đă
sanh ra tất cả thần, thánh, tiên, Phật trong vũ
trụ. Họ La đă vay mượn khái niệm chúa
Cứu Thế và cũng vay mượn chuyện Lucifer
chống Thiên Chúa để đặt chuyện như sau:
Lăo Mẫu biến hóa ra trời đất, nhưng chưa
có con người, bèn lấy ra một “hột” chân tánh,
thổi một hơi chân khí, hóa thành chín mươi sáu
ức chân linh cho xuống trần làm người. Do các chân
linh không thèm chào hỏi thiên thần Cù Tánh Đởm, nên ông
ta sanh ḷng giận dữ, bỏ Lăo Mẫu dắt theo
năm con ma xuống trần, mê hoặc con người,
chẳng muốn quay về thiên giới. Để cứu
độ các chân linh trở về ngồi ṭa sen, Lăo
Mẫu đă sai Phật Nhiên Đăng, Phật Thích Ca,
Phật Di Lặc lần lượt giáng thế nhằm
hướng dẫn chúng sanh trở lại đạo, quy
hoàn đại ngă v.v… và lập ra ba hội Long Hoa. V́
vậy, hằng năm phải kỷ niệm ba hội Long
Hoa (Tiên Thiên Long Hoa là Rằm tháng Ba, Trung Thiên Long Hoa là
Rằm tháng Năm, và Hậu Thiên Long Hoa là Rằm tháng Chín).
[19] Tịnh Độ Chân Tông (Jōdo Shinshū), thường được Âu Tây biết đến với danh xưng Shin Buddhism, là một tông phái tại Nhật Bản do Thân Loan (Shinran) sáng lập. Theo thống kê, tín đồ giáo phái này chiếm đến hai mươi phần trăm dân Nhật. Thân Loan (1183-1263) sống vào cuối thời B́nh An (Heian), đầu thời Kiếm Thương (Kamakura). Khi lên chín tuổi, ông được gia đ́nh gởi lên núi Tỉ Duệ (Hiei) để xuất gia theo phái Thiên Đài (Thiên Thai Tông Nhật Bản). Theo truyện kư, Thân Loan đă thiền định một trăm ngày, và được Thánh Đức Thái Tử (Shotoku, người được coi là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát tại Nhật) xuất hiện trong mộng để chỉ dạy. Thân Loan rời Tỉ Duệ để theo học với ngài Pháp Nhiên (Honen, giáo tổ Tịnh Độ Tông Nhật). Do đụng chạm với các tông phái vốn có, cả Pháp Nhiên lẫn Thân Loan đều bị lưu đày. Trong thời gian lưu đày, ông lấy bà Eshini và có bảy người con. Người con cả là sau này lại lập ra một tông phái riêng, về sau bị các tín đồ Chân Tông coi là dị giáo. Sau khi Pháp Nhiên mất, Thân Loan đă tŕnh bày tư tưởng của ḿnh qua tác phẩm Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo Hạnh Chứng Văn Loại (Kenjōdo Shinjitsu Kyōgyōshō Monrui), thường được gọi tắt là Giáo Hạnh Tín Chứng (Kyōgyōshinshō). Về sau, Tịnh Độ Chân Tông được cải tổ và hoàn chỉnh hóa, hệ thống hóa bởi Liên Như (Rennyo). Điểm đặc biệt của Tịnh Độ Chân Tông là nhấn mạnh niềm tin vào tha lực và nguyện thứ mười tám. Đối với họ, niệm Phật (nembutsu) là h́nh thức để cảm tạ A Di Đà Phật và chỉ cần do niềm tin mạnh mẽ, họ sẽ được văng sanh. Đối với họ, ngay cả việc niệm Phật cũng là dư thừa nếu niềm tin vào Phật đủ mạnh mẽ, vững chắc!
[20] Chúng tôi dịch câu này theo cách giải
thích của ông Chung Mậu Sâm (tục danh của pháp sư
Định Hoằng) trong bài Liễu Phàm Tứ Huấn
Nghiên Tập Báo Cáo.
[21] “Tấc
Vũ, phân Đào” (Vũ thốn, Đào phân) là thành
ngữ chỉ sự tiếc nuối thời gian. Vũ là
vua Đại Vũ. Theo thiên Nguyên Đạo Huấn trong
sách Hoài Nam Tử: “Cố thánh
nhân bất quư xích chi bích, nhi trọng thốn chi
dương, thời nan đắc chi nhi dị thất dă”
(v́ thế, thánh nhân chẳng quư một
thước ngọc, mà coi trọng một tấc thời
gian. V́ thời gian khó được dễ mất). Câu nói
ấy nhằm ca ngợi vua Đại Vũ sốt
sắng chăm lo trị thủy, chẳng hề
để lỡ một giây phút nào. Thậm chí trong khi
trị thủy, tuy đi qua nhà ba lần, vua Vũ chẳng
vào thăm vợ con v́ sợ lỡ việc. Đào là
Đào Khản, đại tướng nước Tấn,
luôn khuyên người khác phải quư trọng từng phân
thời gian.