Phật Học
Vấn Đáp Loại Biên
Quyển Trung
佛學問答類編
Phần 2
Lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam giải
đáp
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo
Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội, Đài
Loan, 2007)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
* Hỏi:
Nghe nói [khi lâm chung] bị bệnh th́ vẫn có chướng
ngại, đúng không? (Chu Ấu)
Đáp:
Nhiều kiếp tạo nghiệp, nghiệp chủng cất
giữ đă lâu trong thức điền. Khi xả báo, chúng
tranh nhau dấy lên hiện hành, chẳng ai tránh khỏi!
Nhưng có thể trong sát-na xả báo mà chánh niệm phân
minh, Phật mạnh, chướng yếu, [dẫu bị bệnh]
vẫn chẳng chướng ngại văng sanh! Do vậy, tôi
cảm thấy chuyện trợ niệm lúc lâm chung đúng
là chẳng thể xem thường được!
*
Hỏi: V́ sao công phu tốt đẹp như vậy mà chẳng
được sống lâu, cao thọ? (Chu Ấu)
Đáp:
Tứ Đại chẳng thật, Ngũ Trược
đều là khổ, cái đăy da thối này có ǵ đáng
để lưu luyến? Nếu chấp vào thọ tướng,
chướng ngại càng tăng! Đối với học
nhân tu Tịnh, [để biện định] công phu tốt
hay xấu, phải lấy chuyện văng sanh hay không làm chuẩn,
chẳng phải do xét theo tuổi thọ trong cơi tục dài
hay ngắn!
* Hỏi:
Giáo pháp của chúng tôi có dạy: “Trước
khi có trời đất, trước đó đă có Tây
Phương Tam Bảo A Di Đà Phật, Quán Thế Âm,
Đại Thế Chí hai vị Bồ Tát”. Nếu xét theo
sách Thiên Văn Học Nhập Môn có nói: Địa cầu
và các hành tinh, vệ tinh, tuệ tinh (sao chổi) vào khoảng
ba ngàn triệu năm trước chính là các mảnh vỡ
tách ra từ mặt trời do va chạm với các hằng
tinh dưới tác dụng của lực hấp dẫn. Phải
mất thời gian mấy triệu năm [các mảnh vỡ
ấy] mới nguội. Nói theo phương diện vật
chất, trước hết phải là có nước, sau
đó có thực vật, rồi có động vật. Chẳng
biết chư Phật, Bồ Tát đản sanh như thế
nào? Chẳng biết có thể tách rời địa cầu
hay không? Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật sanh năm 622
trước Công Nguyên (tức năm thứ ba mươi
đời Châu Tương Vương), Khổng Tử sanh
vào năm 551 trước Công Nguyên, tức năm thứ hai
mươi mốt đời Châu Linh Vương, Quan Phu Tử
(Quan Công) sanh vào năm Diên Hy thứ năm đời vua
Hoàn Đế nhà Đông Hán, tức là năm 122 Công Nguyên. Nếu
nói theo khoa học, nhất định là phải có vật
chất trước. Nếu nói theo phương diện
tinh thần, người có đạo đức sau khi chết,
sẽ có thể thành thần. Như vậy th́ chư Phật,
Bồ Tát cũng là người trên địa cầu tu
hành thành công. Phật Tổ Tây Phương Tam Bảo đản
sanh ở nơi đâu tôi không biết, xét theo thời ấy
th́ chẳng thể nào có chỗ để đặt chân
trong hư không như vậy! Ngàn phần xin dạy cho! (Hà Trạch Thành hỏi)
Đáp:
“Chưa có trời đất,
trước hết đă có Tây Phương Tam Bảo A Di
Đà Phật”, tôi chưa hề nghe trong kinh giáo có nói như
vậy, chỉ nói: “Pháp tánh
đă có từ vô thỉ, thân ứng hóa của Phật tùy
thời mà hiện”. Các hành tinh, vệ tinh v.v… như những
nhà khoa học đă nói chính là “hằng
sa thế giới” được nói trong kinh Phật. Những
thế giới ấy đều là vô thường, thành, trụ,
hoại, không, tụ tán không ngừng. Các duyên ḥa hợp bèn
thành, duyên tán bèn không, như bọt trên mặt nước,
sanh đây, diệt kia, hoàn toàn chẳng đồng thời!
Pháp tánh rộng lớn không ngằn hạn, bao trùm hư
không. Ứng hóa th́ đợi cho đến khi thế giới
h́nh thành bèn giáng sanh trong ấy. Pháp tánh vô thỉ, vô chung, chẳng
nói đến thọ mạng; c̣n sự ứng hóa và tinh cầu
th́ đều là có sanh diệt. Theo cách tính của thế
gian th́ [thế giới này đă tồn tại] mấy triệu
ức, nhưng theo cách tính trong Phạn điển[1] sẽ
là bao nhiêu kiếp. Sự ứng hóa và các tinh cầu có mối
quan hệ sanh diệt với nhau. Ứng hóa th́ có tướng,
nương vào tinh cầu để trụ; pháp tánh vô
tướng, chẳng nương vào tinh cầu mà có.
* Hỏi:
“Chúng sanh” được nói
trong Phật giáo chính là hết thảy những ǵ có sanh mạng
tồn tại, ngay cả quỷ thần cũng đều
là [chúng sanh]. Kinh Kim Cang nói: “Nhược
noăn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc,
hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tướng,
phi vô tướng chi loại” (Như các loài sanh bằng
trứng, sanh bằng thai, sanh nơi ẩm ướt, hóa
sanh, có h́nh sắc, không có h́nh sắc, có tâm tưởng,
không có tâm tưởng, chẳng phải là có tướng,
chẳng phải không có tướng). Nếu xét theo lịch
sử th́ sáu mươi vạn năm trước, người
vượn Bắc Kinh, người vượn ở Trảo
Oa (Java), Nam Dương (Indonesia) v.v… nhân số rất ít,
đời đời truyền thừa, số người
tăng lên, chẳng biết linh hồn sanh sôi như thế
nào? Mong hăy dạy cho! (Hà Trạch
Thành hỏi)
Đáp:
“Linh hồn” chính là pháp tánh
sau khi đă mê, hư huyễn tạo thành vọng thức.
Thức bèn có thai, noăn, thấp, hóa, hư vọng hiện ra
h́nh tướng giả dối. Pháp tánh chẳng có thời
gian, chẳng có không gian. Đọc kỹ lời đáp cho
câu hỏi trước sẽ biết. Nếu ngộ lời
đáp cho câu trước, th́ nay tôi dùng biển cả để
tỷ dụ. Tánh ướt ví như pháp tánh, vọng thức
ví như nước, thai, noăn, thấp, hóa, ví như nổi
sóng. Xin hỏi Thái B́nh Dương nổi gió, sóng cuồn cuộn
muôn vàn h́nh trạng, xô vào bờ, tung lên tận trời,
mười ngày chẳng dứt, nước từ đâu
ra? Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương
v.v… cũng giống như thế, mỗi biển đều
cuộn sóng, nước từ đâu ra?
* Hỏi:
Kinh Di Đà nói Tây Phương Cực Lạc thế giới:
Chúng sanh trong cơi ấy chẳng có các nỗi khổ, chỉ
hưởng những điều vui, nên gọi là Cực Lạc.
Có bảy tầng lan can, bảy tầng lưới mành, bảy
tầng hàng cây, đều bằng bốn thứ báu, có ao bảy
báu, nước tám công đức đầy ắp trong
đó, đáy ao thuần dùng cát vàng để trải đất,
đường đi, thềm bậc bốn phía đều
do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Trên đó có lầu
gác, cũng do các chất như vậy hợp thành. Hoa sen
trong ao to như bánh xe, cũng có hào quang các màu. Xét theo đó,
thuở ấy, khoa học chưa phát triển, khá nhiều
chất báu phải vận chuyển từ nơi nào đến
đó để xây dựng? Nếu như lên cao một vạn
mét tách khỏi địa cầu th́ trong hư không cũng
chẳng có không khí để hô hấp, lại c̣n lạnh
buốt quá mức dị thường, làm sao có thể ở
cho được? Nếu xét theo lời đức Phật
dạy: “Các pháp do nhân duyên sanh,
các pháp do nhân duyên diệt, vạnh hạnh vô thường
là pháp sanh diệt. Sanh diệt đă diệt, tịch diệt
là vui”. Nếu xét theo khoa học và thiên văn, tất cả
các tinh cầu trong hư không cũng là từ vô lượng
vô biên vi trần hợp thành, bất luận là mặt trời,
hành tinh, hay địa cầu, cũng sẽ có ngày diệt
mất, cũng là chẳng thể thường trụ. Ngàn
muôn phần mong mỏi cụ chỉ bảo điều
nghi vấn này! (Hà Trạch Thành
hỏi)
Đáp:
Câu hỏi này gồm ba đoạn:
1) Nghi hoặc
các chất báu trong cơi Cực Lạc: Khi khoa học chưa
phát triển, các chất báu vận chuyển từ nơi
nào đến đó? Trước hết, xin dùng khoa học
để đáp. Tại Trung Hoa, Vạn Lư Trường
Thành, cung A Pḥng[2] lâu
đài rộng đến ba trăm dặm, dẫn chín nhánh
sông đổ ra biển[3], các
sông đào nơi chín tỉnh, đều là những công
tŕnh to tát nhất trên thế giới, đến nay chẳng
có ǵ ḥng sánh bằng được. Thuở ấy chưa
có khoa học, làm cách nào để vận chuyển vật
liệu xây dựng? Lại nữa, trong thế giới này,
cũng có các thứ báu, Lam Điền[4] nhiều
ngọc, cát sông Trường Giang có lẫn vàng, hải
đảo có san hô, ven biển c̣n có châu ngọc. Thời cổ
chẳng có khoa học, [những thứ ấy] đều
do đâu mà có? Nay có khoa học, chúng tăng thêm bao nhiêu? Nếu
tin vào Phật pháp, hăy nên biết chuyện thần thông:
Đức Phật phóng quang hiện ra cơi Phật, nhấn
ngón chân mà [đại địa] biến thành sắc vàng[5]. Nếu
chấp chết cứng nơi khoa học, ắt kinh Phật
phần nhiều biến thành vọng ngữ!
2) Hai là
nghi trời cao rét buốt, chẳng thể cư trụ.
Đấy lại là do chẳng hiểu khoa học vậy!
Vũ trụ mênh mông, thật sự chẳng có cao, thấp,
bốn phương. Để nói năng thuận tiện,
bèn dựa theo địa cầu để nói: Gần mặt
trời th́ ấm, xa mặt trời th́ lạnh, chẳng phải
là không khí tự có nóng hay lạnh. Cứ nh́n vào vùng xích
đạo và hai địa cực của địa cầu
sẽ biết. Hơn nữa, trong vũ trụ chẳng phải
chỉ có một mặt trời, các nhà thiên văn đă
phát hiện khá nhiều mặt trời mới. Cách xa mặt
trời th́ lạnh, rất gần mặt trời th́ nóng vậy!
3) Ba, “tịch diệt là vui” chính là
nói “chuyển thức thành trí”.
Tận diệt các khổ, sanh tử đă giải quyết
xong, pháp tánh thường trụ, lẽ nào chẳng vui?
Tướng đều là hư vọng, vạn vật huyễn
biến, lư chẳng thường trụ, có ǵ đáng nghi?
Hơn nữa, xin hăy rủ ḷng xem xét, khoa học cứ mỗi
trăm năm bèn thay đổi, Phật pháp dẫu kiếp
số nhiều như cát bụi vẫn là như vậy.
Người nghiên cứu [Phật pháp] chẳng ngại
[dùng khoa học để] đối chiếu, nhưng chớ
nên mù quáng tin tưởng để rồi nẩy sanh ư niệm
so đo cao thấp!
*
Hỏi: Tại Hương Cảng, lăo cư sĩ Sầm
Học Lữ vào tháng Mười năm Quư Tỵ, tức
năm 1953, đă viết bài Bệnh Dị Kư, ghi lại
t́nh trạng đă chết rồi sống lại. Ở
đây, tôi trích lục một đoạn gọi là Cảnh
Giới Trong Mộng, xin cụ hăy rộng
ḷng xem xét. Bài viết này khá giống bài Kỷ Mộng (ghi lại
giấc mộng) của ông Viên Trung Đạo[6],
có người cho đó là một loại huyễn giác trong
khi bị bệnh, cũng có người nghĩ đó là cảnh
giới đích xác chân thật, xin hăy chỉ dạy! (Chung Quân Lương hỏi)
Đáp: “Phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng” chính là huyễn cảnh. “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy
thức” chính là huyễn giác. Nếu bảo là huyễn,
th́ tâm và cảnh không ǵ chẳng phải là huyễn. Không
chính là Sắc, biết Không chính là Diệu Hữu, toàn thể
vọng chính là chân. Biết “các Hữu” vốn là Không; nếu
bảo là chân th́ hết thảy không ǵ chẳng chân! Đối
với tướng đă hiện của Sầm cư
sĩ, bảo là huyễn th́ sẽ là “biết Lư, nhưng mê
muội nơi Sự”. Bảo là thật th́ sẽ là “biết
Sự mà coi nhẹ Lư”. Nhưng Lư do Sự mà có, Sự do Lư
mà là chân. Lư và Sự hợp nhất bèn là Thật. Lư và Sự
tách rời th́ là Quyền. Ắt phải hiểu lẽ này
th́ tranh biện Huyễn và Chân sẽ chấm dứt.
Hơn nữa, Sầm cư sĩ mộng huyễn: “Ánh sáng năm sắc chói ngời,
cây báu, lầu vàng”. Thường nhân huyễn mộng,
hôn trầm, điên đảo, đối với các tướng
ác đáng sợ [trong giấc mộng ấy] đều luận
định là huyễn; nhưng thường nhân cũng có
thể biến ra cảnh giới để tự huyễn,
đó có phải cũng là bị huyễn hoặc bởi cảnh
giới biến huyễn của cụ Sầm ư?
*
Hỏi: Đứa con ba mươi chín tuổi của
đệ tử bị bệnh mất tại Đài Loan;
khi ấy, đệ tử c̣n đang ở Hương Cảng,
từng gởi thư sang chùa Vân Môn xin ḥa thượng
Hư Vân siêu độ. Ngài gởi thư trả lời, có
những câu như: “Ngay hôm nhận
được lời căn dặn, bèn v́ lệnh lang niệm
Phật hồi hướng ba ngày, chắc là đă
nương theo Phật quang tiếp dẫn, mau sanh về Tịnh
Độ”. Đệ tử từng đem thư ấy
hỏi ư một vị tri thức bên Thiền Tông, vị ấy
bảo Ngài nói kiểu ấy nhằm “dỗ trẻ nít nín khóc”. Đệ tử đối
với chuyện này vẫn nghi hoặc, xin hăy chỉ dạy.
(Chung Quân Lương hỏi)
Đáp:
Lương Hoàng Sám có thể siêu độ thân rắn trong
giếng, nước tam-muội có thể giải trừ
oán thù xưa giữa Tiều Thố và Viên Áng. Ngài Hư Vân
là bậc cao tăng, sức niệm Phật chẳng giống
kẻ tầm thường, phàm tục, há lẽ nào chẳng
cảm ứng? Phật pháp khó nghĩ tưởng, chẳng
thật, chẳng hư. Nếu nói theo liễu nghĩa th́
chỉ có Nhất Thừa, do độ chúng sanh trong chín pháp
giới bèn quyền hiện cơi Phật. Nhất Thừa th́
“ngôn ngữ dứt bặt, tâm
hạnh xứ diệt”. Có hai thừa hay ba thừa đều
là “dỗ trẻ nín khóc”. Vậy
th́ nắm tay, hoặc giơ thẳng ngón tay, có ǵ chẳng
phải là “dỗ trẻ nín
khóc”? Đă nín khóc rồi th́ có ǵ là chân thật?
*
Hỏi: Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh.
Có phải là chúng sanh thai, noăn, thấp, hóa đều có Phật
Tánh hay không? Nhưng các loài tiểu trùng như ruồi, muỗi,
kiến v.v… cũng đều có Phật Tánh, cũng đều
có thể thành Phật ư? (Lại
Khoan Châu hỏi)
Đáp:
Đă nói là “hết thảy
chúng sanh” th́ đă bao gồm trọn hết tứ sanh, lục
đạo. Bất luận là có thân h́nh lớn hay bé, đều
là nương theo tánh mà sanh. Thân tướng tuy có lớn
hay nhỏ, tánh đều bao trùm tận hư không. Tánh
được gọi là Phật là do có thể giác. Giác từ
nơi nghe và tu, tu viên măn bèn thành Phật. Chỉ có điều:
Ruồi, muỗi, súc sanh thuộc về một trong tám nạn[7], dẫu
sẵn có tánh thành Phật, nhưng thiếu duyên nghe pháp, cho
nên rất khó thể thành Phật ngay trong thân ấy!
*
Hỏi: Ông Vương Dương Minh khi lâm chung có nói: “Tâm này quang minh”. Tống Nho
cũng có kẻ biết trước lúc mất, nói cười
ngồi qua đời. Xét ra, nhà Nho đời Tống,
đời Minh, đối với Phật pháp th́ ngấm ngầm
vâng giữ, bề ngoài cự tuyệt; nếu nói theo Phật
giáo, há chẳng phải là họ báng Phật, báng Pháp ư?
Nhưng khi lâm chung, hiện tướng lành ấy, lại
chẳng khác các bậc cao tăng đại đức;
chuyện này nên giải thích như thế nào? (Chung Quân Lương hỏi)
Đáp:
Ngấm ngầm vâng giữ chính là tâm chân thành mong cầu, bề
ngoài cự tuyệt là lời lẽ vờ vĩnh. Chân thành
mong cầu là chân thật, giả vờ là hư giả.
Nhưng do cái tâm chân thật, cố nhiên tự đạt
được lợi ích; lời lẽ hư giả, chẳng
khỏi khiến cho người khác lầm lạc. Tu huệ
chẳng tu phước, hoặc tu phước chẳng tu
huệ, mỗi loại đều được quả
báo tương ứng. C̣n chuyện thân đời sau (tức
là họ sẽ sanh trong đường nào) th́ nhục nhăn
[của lũ phàm phu chúng ta] chẳng thấy được!
*
Hỏi: Chúng ta niệm Phật, trong tương lai sẽ
thành Phật, nhưng kẻ nam háo sắc, trong ư tưởng
luôn nghĩ đến mỹ nữ, đời sau ắt
đọa làm thân nữ. Vậy th́ dâm nữ, do niệm niệm
đều nghĩ đến nam nhân, đâm ra đời
sau sẽ được chuyển từ nữ thành thân nam
vậy! Cớ sao người nữ may mắn mà người
nam lại bất hạnh như thế? (Châu Huệ Đức hỏi)
Đáp:
Đối với điều luận định này, trong
An Sĩ Toàn Thư cũng có đặt ra câu hỏi, nay tôi
giới thiệu đại ư như sau để tham khảo.
Đó chính là nói: Thân nam là siêu, thân nữ là đọa; chẳng
dâm th́ có thể siêu, háo dâm ắt đọa. Kẻ nam háo nữ
sắc là ác, thân sau do cái nhân ác mà đọa làm người
nữ. Kẻ nữ ham mê nam sắc cũng là ác, thân sau
cũng đọa. Hễ đọa th́ chẳng có lẽ
nào được làm thân nam!
*
Hỏi: Năm ngoái, từ báo chí, bỉ nhân thấy một
chuyện chẳng thể nghĩ bàn, liên quan đến chuyện
một người sau khi đă tử vong, linh hồn
nương gá thân thể người khác. Đó là chuyện
tại Kim Môn có một phụ nữ, sau khi đă chết,
vong linh chẳng mất đi, vật vờ phiêu du trong làng
Mạch Liêu, huyện Vân Lâm, gá vào thân thể một người
nữ. Người bị dựa thân, sau cơn bệnh, bỗng
dưng hoàn toàn quên sạch thân thế và những chuyện
đă từng trải của chính ḿnh, tự xưng là
người X… ở Kim Môn, động tác và giọng nói của
người ấy cũng bỗng dưng biến hóa, rơ
ràng là giống hệt như người vùng Kim Môn. Trong
t́nh h́nh như vậy, dùng quan điểm Phật giáo và Phật
lư để xét, người sau khi đă chết, có phải
là linh hồn có thể dựa vào thân người khác hay
chăng? Xin hăy phán định, giải thích như thế
nào? (Diệp Đặc Hoa hỏi)
Đáp:
Cái hồn lang thang dựa vào thân người mới mất,
tục gọi là “tá thi hoàn hồn”
(借屍還魂, mượn
xác sống lại), trong dă sử, bút kư đă ghi chép rất
nhiều. Đă thấy chép trong sách vở, lại thấy
trong sự thực, chẳng phải là hư vọng! Hăy
nên tin là đúng. Kinh Dịch nói: “Du
hồn vi biến” (Cái hồn bềnh bồng biến
hóa), không thể nói là “chẳng thể nghĩ bàn”.
*
Hỏi: Đệ tử thường nghi ngờ thuyết
“quân tử viễn bào trù” (bậc
quân tử lánh xa bếp núc) của Nho gia, há có lẽ nào chẳng
thấy, chẳng nghe, bèn có thể ăn thịt [những
con vật bị giết] được ư? (Liêu Ngọc Kiều hỏi)
Đáp:
Đây chính là trước hết nhằm cầu cái tâm “thắng tàn, khử sát” (trừ
khử hung tàn, giết chóc). Ư nghĩa “tam tịnh nhục” trong nhà Phật khá giống ư
này, có ǵ đáng nghi?
*
Hỏi: Sau khi thắng giặc Nhật, giải ngũ về
Đà Thành[8], tôi có
đến tham bái Quán Âm Điện. Từ phía sau đại
điện vừa mới xoay ḿnh đi ra, khoảng mười
mấy trượng mới đến Quán Âm Điện,
đột nhiên thấy có một cái “tôi” khác đă đến
đó trước đó, đứng dưới chân thánh
tượng. Thoạt đầu, tôi cảm thấy hết
sức lạ lùng; sau đó, nhớ ra người ta có ba
thân, đấy chắc là một trong ba thân! Lại nữa,
vào mùa Hạ năm Dân Quốc 45 (1956), tôi cùng mấy người
bạn đến chơi chùa Đông Phổ Đà thuộc
Tân Giới huyện Cửu Long (Hương Cảng), trong số
đó, có người bạn nói: “Chính giữa điện
thờ có một vị Phật mập mạp, rốt cuộc
là tượng A Di Đà Phật hay tượng Di Lặc
Phật?” Tôi đáp: “Người nước ta thường
coi vị tay cầm túi vải là Di Lặc Phật, khi đến
đó sẽ thấy”. Ngay trong lúc tôi bước vào từ
phía Tây của điện thờ, khi ấy, trong tâm rỗng
rang dị thường, chẳng nghĩ ngợi ǵ cả,
lại chợt thấy một cái “tôi” từ xa xa đă
đến trước tượng Phật. Lần này,
trong những người cùng đi có ông Thái tuổi hăy c̣n
trẻ, hết sức kinh ngạc kêu lên: “V́ sao đằng
trước lại có một ông Triệu khác!” Tôi giả vờ
như không nghe. Trong số các bạn, c̣n có ông họ Đặng
cũng trông thấy, đều lấy làm lạ. Lại nữa,
mấy năm gần đây, tôi bất ngờ đến
tham bái Địa Tạng Vương, mỗi lần ắt
đều là như vậy. Do trong báo chí gần đây nhất
có đăng tải sở ngộ của một vị
đại đức nọ giống hệt như sở
ngộ của tôi, học tṛ ông ấy giải thích là thầy
ḿnh có thể thấy được bản lai diện mục.
Tôi chẳng phải là kẻ mẫn tiệp, do thường
gặp chuyện ấy, nên đặc biệt ghi lại
để xin chỉ dạy! (Triệu
Siêu hỏi)
Đáp:
Ba câu hỏi một, hai, ba, thuộc về cùng một chuyện,
nên có thể gộp lại để đáp. Tam thân là Pháp,
Báo, Ứng. Pháp Thân vô tướng, chẳng có thân để
có thể thấy được! Báo Thân là thân hiện ra
sau khi đă chứng quả, là tướng trang nghiêm tự
tha thọ dụng. Ứng Thân cũng do Pháp Thân phân ra, chuyên
v́ độ sanh mà thị hiện. Danh xưng tuy có ba,
nhưng thật ra đều là do Pháp Thân khởi tác dụng.
Ngoài ra, nếu có thần thông th́ cũng có thể phân hóa một
thân thành nhiều thân. Nói đến một thân hay nhiều
thân, đại lược là như vậy. Chuẩn theo những
điều trên đây để luận định, những
điều cư sĩ nhiều lần trông thấy chẳng
dính dáng ǵ đến ba thân Pháp, Báo, Ứng! Nếu xét theo một
khía cạnh, đấy chính là Phật, Bồ Tát khuyên dụ.
Nếu xét theo một phương diện khác để luận
định, th́ chuyện đó chẳng cần phải suy
xét. Kinh dạy: “Phàm những ǵ
có tướng đều là hư vọng”. Huống chi
những điều ông đă trông thấy toàn là huyễn vọng,
há c̣n chấp trước măi! C̣n như ông X… nói là “bản lai diện mục”,
càng là chuyện chẳng ăn nhập ǵ với nhau,
đúng là hư luận! Cuối cùng, tôi trịnh trọng
thưa mấy lời: Hăy nên gạt bỏ chuyện ấy
khỏi tâm! Nếu chuyện ấy vẫn cứ thường
hiện, chắc chắn sẽ sanh ra chướng ngại!
* Hỏi:
Có người hỏi: “Các ông dạy người khác niệm
Phật, mỗi ngày phải có công khóa cố định, và
cũng có tán niệm. Điều ấy có nghĩa là ǵ? Có lợi
ích ǵ?” Đáp: “Phật như cha mẹ, chúng sanh như con
đỏ. Con có nỗi buồn rầu, sẽ khóc lóc, cha mẹ
vừa nghe tiếng khóc, từ tâm chẳng nỡ, bèn ôm lấy,
gạt lệ. Không chỉ là như thế, thậm chí c̣n
dùng lá vàng để dỗ cho nín khóc[9],
khiến cho con cái hoan hỷ, trong tương lai có chỗ
nương về”. Họ lại hỏi: “Vậy th́ hằng
ngày niệm Phật, sẽ giống như hằng ngày khóc
quấy cha mẹ. Như vậy th́ bậc làm cha mẹ chẳng
chán ghét, khiến cho con phải câm tiếng [khóc mếu] ư?”
Đến nước đó, tôi chẳng thể đáp
được nữa! (Triều
Tân Ban hỏi)
Đáp:
Ba cơi như nhà lửa, chúng sanh ở trong ấy, chính là ở
trong chỗ nguy nan, kêu gào cầu cứu, cha mẹ há chẳng
lo lắng? Nếu con chưa thoát hiểm, kêu gào suốt
trăm năm, cha mẹ chỉ có lo âu, há lẽ nào chán ghét?
Nếu chán ghét, tức là đă vứt bỏ con cái. Cha mẹ
trong cơi đời há có ai nỡ ḷng như thế ư?
*
Hỏi: Bậc cao tăng đời Lương giảng
kinh đến chỗ huyền diệu, có thể khiến
cho đá cứng gật đầu, lại c̣n khiến cho
hoa trời rơi tán loạn trên mặt đất, thật
sự có chuyện ấy hay sao? Hay là nói theo kiểu ca tụng?
Đá cũng là vật vô t́nh, làm sao có thể gật đầu?
Xin hăy dạy cho! (Triều Tân
Ban hỏi)
Đáp:
Há chẳng nghe “chúng sanh đều
có Phật tánh, vạn vật đều có pháp tánh”
ư? Hữu t́nh và vô t́nh không chỉ là có thể nghe, mà cũng
có thể nói. Ngũ Trần thuyết pháp, đá nghe giảng
gật đầu, [chính là] “duy
tâm sở tạo”, có chi lạ lùng? Nếu chẳng cảm
thông, làm sao đạt “đồng
viên Chủng Trí” cho được?
*
Hỏi: Tiến sĩ Tưởng Mộng Lân là bậc
đại cư sĩ tinh thông cả Phật lẫn Nho có
nói: “Kinh điển Tiểu Thừa
là do sau khi đức Phật đă diệt độ,
đoàn thể trưởng lăo kết tập. Câu đầu
tiên bèn ghi là ‘như thị ngă văn’, [ư nói] đều là ‘đích
thân nghe đức Phật nói như thế’, chẳng sai lầm.
C̣n như kinh điển Đại Thừa là sau khi đức
Phật đă diệt độ năm trăm năm, các vị
đệ tử được đức Phật đích
thân dạy dỗ đă nhập Niết Bàn rồi mới
phát triển, không kinh nào do các đệ tử được
đức Phật đích thân giáo hóa [thuật lại], mà
hoặc là mượn danh nghĩa cổ nhân để
người hiện thời diễn nói, hoàn toàn chẳng phải
là ‘như thị ngă văn’ thật sự”! Khảo cứu
kiểu đó có đúng hay không? (Lại
Đống Lương hỏi).
Đáp:
Thấy là nhân, hay thấy là trí[10],
từ xưa đă là như vậy. Vấn đề này chỉ
là tranh luận giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa,
giữa Có và Không. Dẫu là do đệ tử truyền lại,
phát triển thành Đại Thừa, th́ người truyền
thừa ấy ắt cũng có sư thừa, thầy
đương nhiên là có thầy của thầy. Nói “ngă văn” th́ vẫn là nói truy
ngược lại đến người đích truyền
trong hàng đệ tử được đức Phật
đích thân dạy dỗ, sao lại lầm tưởng “ngă” chính là người hiện
thời tự xưng!
*
Hỏi: La Hầu La rốt cuộc là sanh trước khi
thái tử [Tất Đạt Đa] xuất gia, hay là đức
Phật đă xuất gia rồi [La Hầu La] mới
được sanh ra? (Lại
Đống Lương hỏi).
Đáp:
Chuyện xưa xa vời, thường có tranh luận. Hăy
nên căn cứ theo chánh kinh, đó gọi là “y pháp, bất y nhân”. Nếu
hai kinh nói sai khác, hăy tạm thời giữ cả hai thuyết.
Đối với những điều thiếu sót chứng
cứ, tồn nghi, hăy nên nói năng dè dặt để khỏi
trở thành luông tuồng, lầm lẫn! Ắt phải
đợi đến khi có văn bản chứng cứ
rành rẽ th́ mới có thể quyết đoán. Nếu
không, dẫu có thể nói, nhưng do thiếu chứng cớ,
[người khác] chẳng tin! Khổng Tử là bậc
đại thánh, đối với việc trị học[11] mà
c̣n như thế, chúng ta là những kẻ nghe ít, biết
kém, chớ nên biết một mà bỏ sót hai vậy!
* Hỏi:
Căn cứ theo lư “hết thảy
duy tâm tạo”, dường như là địa ngục ở
ngay trong tâm mỗi chúng sanh làm ác, khi nghiệp báo chín muồi,
ắt sẽ từ tự tánh hiện ra địa ngục.
Lại nữa, dường như kinh Địa Tạng
có nói: “Phật bảo Địa
Tạng Bồ Tát: Nếu có những chúng sanh làm ác sắp
đọa địa ngục, khi đến trước cửa
ngục, mà nếu nhớ được một danh hiệu
Phật, hoặc danh hiệu Bồ Tát, hoặc một bài kệ,
hoặc một câu, sẽ liền ứng hiện thân tướng,
địa ngục tan nát, khiến cho chúng sanh được
hưởng niềm vui Niết Bàn” (câu chữ kinh
văn trong đoạn trên đây tôi nhớ không rơ ràng cho lắm.
Nếu có sai lầm, xin hăy dung thứ). Xin hăy khai thị:
Địa ngục ở trong cái tâm của chúng sanh làm ác
ư? Hay là có địa ngục cố định tồn
tại? (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp:
Đừng hiểu lầm “tâm lượng” là tâm tạng
(trái tim). Tâm tạng chỉ ở trong ṿng gang tấc mà thôi.
Cái tâm được nói trong kinh rộng lớn không ngằn
hạn, không chỉ là Thái Dương Hệ được
bao gồm trong tâm, mà hệ đại Ngân Hà cũng chẳng
vượt ra ngoài. Hiểu rơ điều này, chớ nên
tưởng tâm ở trong thân. Chẳng cần hỏi địa
ngục xa hay gần, nói chung, đều chẳng ra ngoài cái
tâm! Tâm, Phật, chúng sanh ba thứ chẳng sai biệt; sâm
la vạn tượng đều do tâm tạo thành. Thiện
tâm hiện thiện cảnh, ác tâm hiện ác cảnh. Tâm tịnh
hiện cơi tịnh, tâm nhơ uế hiện cơi nhơ uế.
Tự làm, tự chịu, Sự Lư chẳng sai sót! Như tự
ngồi trong lửa, tự thiêu thân ḿnh! Tự gieo ḿnh xuống
biển, thân tự chết đuối vậy!
*
Hỏi: Xét theo thứ tự của mười pháp giới,
A Tu La ở sau nhân pháp giới, nhưng A Tu La có thần
thông, có thể chiến đấu với Đế Thích.
Người b́nh phàm sau khi đă chết, muốn sanh lên trời
vẫn chưa thể được! [Như vậy th́]
dường như loài người vẫn tu tŕ không tốt
đẹp bằng A Tu La. V́ sao xếp loài người ở
trước A Tu La? (Tiên Thuần
Hiền hỏi)
Đáp:
A Tu La th́ trong trời, người, súc sanh, quỷ đều
có. [A Tu La thuộc về] thiên đạo, có y báo giống
như chư thiên, [c̣n A Tu La thuộc] những loài khác đều
[có y báo] tùy theo từng loài, làm sao có thể trội hơn
loài người cho được? Nay dùng Tu La thuộc
thiên đạo để bàn luận th́ họ có chánh báo xấu
ác, luôn dấy ḷng sân khuể. Do xấu ác, nên chuốc lấy
quả báo bất kính, do sân khuể bèn gieo nhân đọa lạc.
Đánh nhau với chư thiên, chính là nỗi đau khổ
ngay trong đời này. Chiến tranh hung tàn, nguy ngập, có
ǵ đáng hâm mộ ư?
*
Hỏi: Tiên sinh Lương Thật Thu từng nói: “Do họ (người tu hành tại
gia và xuất gia) tham Thiền, tu Giáo, phước huệ
song tu, tôi không hoài nghi họ có thể chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn
ngay trong đời này, kiếp này. Nhưng sau khi đă ĺa
khỏi đời này, kiếp này, sẽ có thể văng sanh
Tịnh Độ hay không, tôi rất hoài nghi. Tịnh Độ
giống như những cơi thiên đường khác do con
người miêu tả, chưa chắc đă tồn tại!
Nếu nó tồn tại, chỉ là ở trong tâm chúng ta”.
Lời lẽ này được những kẻ theo học
[với ông Lương] tán đồng, “Tịnh Độ tồn tại trong tâm” v́ “vạn pháp do tâm tạo”. Cơi Tịnh
Độ Tây Phương Cực Lạc thế giới có
thật sự tồn tại hay không? Cảnh ấy tồn
tại, nhưng là giả tướng, chẳng phải là
thật thể. Có người nói Tây Phương Cực Lạc
thế giới là thật sự có, điều ấy do
chính đức Phật nói, há Phật thốt lời gạt
người ư? Nói kiểu ấy là do đối với
người tin tưởng bèn nói như vậy, chứ
đối với kẻ không tin, đương nhiên chẳng
cần nhiều lời! Nhưng v́ sao mà thấy là thật
sự có? Nếu là thật sự có, tức là “tồn tại trong tâm” như
kẻ theo học với ông Lương đă luận định
lắm nỗi sai lầm! Khẩn khoản mong cụ khai thị!
(Thái Vinh Hoa hỏi)
Đáp:
Lương tiên sinh hoài nghi sự tồn tại của Tịnh
Độ, [cho rằng] “nếu
tồn tại th́ ở trong tâm”. Hàng học giả nghiên
cứu, khi chẳng nắm được điều trọng
yếu, có hoài nghi cũng chẳng sao!
Nói là “ở trong tâm”, đủ
thấy là đang nghiên cứu, chưa đạt được
kết quả! Mà em tôi[12]
nói “vạn pháp do tâm tạo”,
tức là đă thừa nhận sự tồn tại. Lời
lẽ này các bậc hiền triết xưa nay đều
cùng nói, chẳng thể thay đổi. Nhưng lại
đưa ra vấn đề “giả
tướng” và “thật
thể”, tức là đối với lư Thật Tướng,
chưa hiểu biết triệt để, cũng như
đối với lư Tịnh Độ cũng hăy c̣n có
ngăn ngại. V́ thế, chẳng dám dùng lời lẽ khẳng
định! Nay tôi giải thích như sau: Tông chỉ của
Thật Tướng là “vô
tướng, vô bất tướng”, tức là ư nghĩa
như Tâm Kinh đă nói: “Không
chính là Sắc, Sắc chính là Không”. C̣n như Tịnh
Độ tồn tại hay không, có thể nương vào
kinh điển để giải quyết. Tây Phương
Tịnh Độ có bốn tướng, tức là Đồng
Cư, Phương Tiện, Thật Báo và Tịch Quang. Cơi
sau cùng (Tịch Quang) là Thật Thể, ba cơi trước (Đồng
Cư, Phương Tiện, Thật Báo) là Diệu Tướng.
Bốn cơi thật sự là một, chỉ là do [mức độ]
tu chứng [sai biệt] mà hiện ra [cảnh giới] sâu
hay cạn khác nhau. Lại nữa, nói “tồn tại trong tâm” cũng chẳng sai, chỉ
có điều tâm ở nơi đâu, tâm là vật ǵ, lượng
của nó lớn hay nhỏ, chỉ sợ Lương tiên
sinh và học tṛ của ông ta đều chẳng biết. Nếu
trước hết, hăy đọc kinh Lăng Nghiêm một
lượt, mới chẳng đến nỗi hiểu lầm
từ ngữ “tồn tại
trong tâm”.
*
Hỏi: Phẩm Nghi Vấn của Đàn Kinh có những
câu: “Người mê niệm Phật
cầu sanh về cơi đó, người ngộ tự tịnh
tâm ḿnh”, “sứ quân chỉ
hành Thập Thiện, cần ǵ phải nguyện văng sanh”, “kẻ phàm ngu chẳng hiểu tự
tánh, chẳng biết Tịnh Độ ở trong thân, nguyện
Đông, nguyện Tây. Người ngộ th́ ở nơi
đâu cũng đều là như nhau”. Những lời
lẽ trên đây dường như mâu thuẫn với chuyện
“Tín, Nguyện, Hạnh, phát nguyện văng sanh của Tịnh
Tông”. Tuy nói “Thiền và Tịnh
bất đồng”, nhưng chỉ hành Thập Thiện
th́ chỉ đạt được phước báo trong
thiên đạo, c̣n phát nguyện văng sanh có thể vượt
thoát luân hồi. Phát nguyện sanh Tây há có thể là chuyện
của kẻ ngu mê ư? Chưa hiểu rơ các nghĩa ấy,
xin hăy giải quyết mối nghi ngờ! (Lư Liên Giai hỏi)
Đáp:
Kinh văn nhà Phật vốn chia thành liễu nghĩa và bất
liễu nghĩa. Ngữ lục của tổ sư càng có
nhiều cách nói chân thật và nói phương tiện
như vậy. Ắt phải làm như vậy, đều
là do thời tiết, căn khí các thứ bất đồng,
cho nên cách nói chợt là Đông, chợt là Tây! Ví như bệnh
có ngàn loại, thuốc cũng có ngàn toa. [Đối với
bệnh chứng], hư th́ bổ, thật th́ tả, nhiệt
th́ thanh, hàn bèn ôn. Thuốc chẳng có tốt hay xấu, phù
hợp căn bệnh th́ là thuốc tốt. Đối với
người nên “bổ”, chẳng ngại chê trách thuốc
dành để “tả”. Đối với người nên
“thanh”, chẳng ngại chê bai thuốc “ôn”. Như Đạt
Ma tổ sư bảo: “Kẻ
học theo ta liền vào địa ngục, kẻ báng ta
bèn thăng thiên đường”. Thử hỏi, nếu
báng bổ tổ sư, sẽ thăng lên thiên đường
ư? Hiểu rơ lẽ này, mấy câu trong Đàn Kinh chính là
những lời lẽ v́ người (tức là v́ căn
cơ của kẻ vấn pháp), v́ thời tiết [mà nói như
thế]. Nói “đọc kinh cầu
viên giải” chính là v́ lẽ này!
*
Hỏi: Bỉ nhân là cư sĩ, do chẳng thuận tiện
ăn chay, nên hằng ngày thường ăn thịt, cá, chẳng
biết sau khi chết đi, sẽ có kết oán nhân quả
hay không? Nếu có kết oán nhân quả, mỗi ngày mua chút
thịt lợn bán ngoài chợ, chẳng biết linh tánh [của
con lợn ấy] ở nơi chân hay đùi, hoặc là ở
nơi đầu, hoặc là ở nơi thịt được
xẻ, hoặc là ở nơi gan, hoặc là ở nơi phổi?
Nhưng sắc thân của tôi trong tương lai chắc chắn
sẽ mục nát, chẳng biết là [khi đó, c̣n có thân thể
nào đă từng] ăn con vật ấy hay không, chẳng
biết là có mắc nhân quả kết oán hay không? Xin hăy giải
trừ nỗi nghi lự. (Diệp
Đặc Hoa hỏi)
Đáp:
Phật v́ kẻ sơ cơ mới học, chưa phát tâm
từ bi, khó trừ thói quen ăn thịt, cho nên lập ra
phương tiện, cho phép họ ăn tam tịnh nhục.
Tức là [thịt của những con vật] không nghe, không
thấy chúng bị giết, chẳng v́ ta mà giết [th́
được phép ăn]. Đợi đến khi hạnh
và giải đă tiến bộ, sẽ tự đoạn
tuyệt chẳng ăn nữa! Con vật bị xẻ
thành từng mảnh nhỏ, thần thức đă sớm
rời khỏi, nhưng nỗi oán hận do bị giết
đă ghim sâu vào ư niệm của nó, cái nghiệp nhân quả
giết hại tánh mạng đă thành lập! Oan oan
tương báo, thiếu nợ, đền nợ, chưa hề
sai sót! Kẻ đồ tể là người trực tiếp
giết, người ăn là kẻ gián tiếp giết. Kẻ
đồ tể và người ăn có lúc lần lượt
là chủ động và bị động, nhân duyên phức
tạp, mỗi người phải chịu trách nhiệm.
Cổ nhân có câu: “Ăn chay một
ngày, chuyện sát sanh trong thiên hạ chẳng có phần của
ta”. Lời lẽ đơn giản, ư vị thâm trường!
Hăy từ câu ấy mà giải quyết nỗi nghi!
* Hỏi:
Nho gia nói “trí trung ḥa tắc
thiên địa vạn vật dục” (đạt tới
trung và ḥa th́ thiên địa và vạn vật sanh thành)[13],
Phật giáo nói “do một niệm vô minh, sanh khởi núi,
sông, đại địa”. Đều là duyên khởi của
thế giới, nhưng Nho gia coi trung ḥa là khuôn mẫu tu
dưỡng tột bậc, Phật giáo coi vô minh là căn bản
của phiền năo, hai thuyết nói như thế nào th́ mới
có thể viên dung, vô ngại? (Chung
Quân Lương hỏi)
Đáp:
“Vô minh sanh khởi núi, sông,
đại địa” của nhà Phật chính là nói: Do chẳng
giữ lấy chân tánh mà vọng tướng (tướng
hư vọng) huyễn hiện. “Trung
và Ḥa có thể giữ yên trời đất, sanh thành vạn
vật” chính là nói đến chuyện tiết chế
t́nh thức đúng mức, bao dung vạn vật. Nhà Phật
nói như vậy th́ giống như là nói từ khi đang
khỏe mạnh cho đến lúc phát bệnh. Nho gia nói kiểu
ấy, giống như thầy thuốc chẩn bệnh nói
đến chuyện điều dưỡng. Hai thuyết ấy
do sự bất đồng, thời bất đồng, chẳng
cần phải gượng ép kết hợp. Nói chung, lời
lẽ của hết thảy các vị thánh nhân có Thật,
có Quyền, do thời tiết, do căn cơ, nhằm nói với
một người nào đó trong một đời nào
đó, vẫn chẳng thể viên dung trọn khắp.
Như nhà Phật nói “con chó có Phật
tánh” hay “con chó chẳng có Phật
tánh”, nhà Nho nói “văn tư
hành chi” (nghe rồi hành theo), “như
chi hà văn tư hành chi” (nghe như thế nào bèn hành
theo như thế đó) v.v… Huống chi đối với
cái học sai khác, thời sai khác, mà cứ ắt mong sao chỗ
nào cũng đều dung hợp, tất nhiên là khó thể
làm được. Muốn dung hợp Nho và Phật, chỉ
chọn lấy những điểm đại cương
là được rồi!
*
Hỏi: Kinh có ghi “vạn pháp
quy nhất tâm” là như thế nào? Mặt khác lại nói
“ly pháp (vật) vô tâm”, xin hăy
giải trừ nghi vấn! (Châu
Di Quân hỏi)
Đáp:
“Vạn pháp duy tâm” có
nghĩa là “vạn pháp đều
do tâm hiện”. Như vậy th́ pháp chính là tâm, tâm chính là
pháp, tâm và pháp tuy hai mà một. “Ly
pháp vô tâm” nghĩa là: Có thể ngộ các pháp đều
là không, cho nên tâm cũng chẳng thể được!
*
Hỏi: Tu Quán trong các tông của Phật giáo, mỗi nhà mỗi
vẻ, thật là phức tạp. Tuy mục tiêu của các
tông là nhất trí, nhưng chỉ có cách tu của Thiền
Tông là giống như pháp ngộ đạo giải thoát
trong thời đức Phật (tĩnh tọa là pháp của
Thiền Tông). Suy xét như vậy, có phải là cách tu của
Thiền Tông là kế thừa trực tiếp, lư tưởng
nhất hay không? Nhưng tại Đài Loan, Tịnh Độ
Tông chiếm đại đa số, có phải là biểu
thị cách tu này thích hợp nhất hay chăng? Xin hăy giải
tỏa nỗi nghi vấn, khiến cho những tín đồ
chưa thuộc về bất cứ tông phái nào sẽ hiểu
rơ, cũng như giới thiệu pháp tu này. (Châu Di Quân hỏi)
Đáp:
Tám vạn bốn ngàn pháp môn, quy nạp thành Thiền, Tịnh,
Mật, Luật, Giáo, đều là kế thừa trực
tiếp, là lư tưởng nhất. Do đức Phật lập
ra, đó là “trực hệ”.
Ĺa Phật để nói, chính là ma đạo. [Nói đến]
“lư tưởng” th́ chẳng
có tiêu chuẩn, v́ đối với Giáp là lư tưởng,
chưa chắc đă là lư tưởng đối với Ất.
Là lư tưởng đối với những người như
Bính, Đinh, Nhâm, Quư v.v… cũng giống như thế!
Đức Phật nói nhiều môn nhằm ứng khắp
các căn cơ. Khế hợp căn cơ của ai th́ sẽ
là vị thuốc tốt lành đối với người
đó, chẳng thể đoán trước [pháp nào] thích hợp
nhất. Nếu Ngài muốn học Phật, ắt phải
cầu tri thức khai thị. Nếu không, trước hết,
hăy xem những sách nhập môn sơ khởi, đă có đôi
chút nhận thức rồi, sẽ biết chọn lựa
pháp môn nào để tu!
*
Hỏi: “Giác hạnh viên măn” chỉ
là nói đến chuyện độ hết những chúng
sanh căn cơ đă chín muồi trong một thời kỳ,
đó chỉ là sự hiểu biết được kiến
lập dựa trên những dấu vết nơi mặt Sự.
Xin hăy xem khi đức Thế Tôn nhập diệt, hăy c̣n có
nhiều chúng sanh trong các nước khác chưa nghe Phật
pháp đó thôi! Nếu gộp Bổn và Tích lại để
nói, thật ra, đức Phật chưa từng trụ Niết
Bàn, v́ chúng sanh vĩnh viễn chẳng thể cùng tận! (Thái Vinh Hoa hỏi)
Đáp:
Chúng sanh sanh sanh diệt diệt, liên miên bất tận,
nhưng chia thành từng thời kỳ, mỗi thời sai
biệt. V́ thế, quá khứ, hiện tại, vị lai, vạn
vật cũng chẳng nhất trí, hoàn toàn chẳng phải
là sanh th́ cùng sanh, diệt bèn cùng diệt. Như cây kết
quả, trọn chẳng giống nhau, có cây kết quả
một năm cả bốn mùa. Có cây kết quả mỗi
năm một lần, hoặc mấy năm một lần.
Ngay trong mỗi thời điểm kết quả, quả
bèn có lớn, nhỏ, tốt, xấu chẳng đều!
Trời th́ xoay vần Xuân, Hạ, Thu, Đông, nắng, gió,
mưa, sương, đại công vô tư, b́nh đẳng
thí khắp. Do vậy, quả trổ suốt bốn mùa và quả
trổ mỗi năm bèn được thành thục. Quả
mấy năm mới trổ cũng cậy vào sự sanh
thành, tưới tắm ấy. Từ Xuân tới Đông,
công sanh thành dưỡng dục của trời trong một
giai đoạn đă viên măn, chỉ là xoay vần liên miên chẳng
ngớt, giáp ṿng lại trở về khởi đầu.
Người được thành tựu trong thời đức
Phật giống như quả trổ suốt bốn mùa hoặc
mỗi năm. Người chưa được thành tựu
trong thuở ấy, ví như quả mấy năm mới
trổ. Kẻ chưa nghe Phật pháp ví như cây mới nẩy
mầm. Phật nhập Niết Bàn, ví như tiết
Đông. Phật chẳng trụ Niết Bàn ví như [bốn
mùa trong trời đất] vận hành liên miên chẳng ngớt.
Suy ngẫm kỹ lưỡng tỷ dụ này, nỗi nghi
sẽ được giải quyết!
* Hỏi:
Đă nói đức Thế Tôn nhập diệt (tức Niết
Bàn), lại nói “thật ra,
chưa từng trụ Niết Bàn”, có phải là lời
lẽ mâu thuẫn hay không? (Thái
Vinh Hoa hỏi)
Đáp: “Phật
nhập diệt”, nghĩa là thanh tịnh, tịch diệt,
chính là một hóa thân tạm diệt, vẫn lại có thể
ứng cơ thị hiện, bất quá là chỗ ứng hiện
có tám phương khác nhau. Tuy hóa thân đă diệt nơi
đất Giáp, lại hiện hóa thân nơi đất Ất.
Nh́n từ một góc độ, dường như có trụ
Niết Bàn; nh́n theo toàn thể, quả thật chẳng trụ
Niết Bàn!
* Hỏi:
Nếu nói “chỉ là nói đến việc độ hết
chúng sanh căn cơ chín muồi trong một thời kỳ”,
th́ “một thời kỳ” ấy có phải là nói thành Phật
trong mỗi thời kỳ riêng biệt, nói chung là chưa
thành Phật! V́ cho đến nay, chúng sanh chưa độ
hết, tức là giác tha chưa thể viên măn, cho nên
chưa thể thành Phật! V́ thế, nh́n chung, chỉ
được coi là Bồ Tát, nhưng trong mỗi thời
kỳ khác nhau th́ mới có thể gọi là Phật! Cho
đến nay, chúng sanh chưa độ hết, từ
đầu đến cuối, tôi vẫn chưa ngộ [v́
sao] Phật có thể giác hạnh viên măn? Kinh Phật Di Giáo
có nói: “Kẻ đáng được
độ đều đă độ hết, đối với
kẻ chưa được độ th́ đă tạo
nhân duyên đắc độ”. Dùng câu này để chú giải
“giác hạnh viên măn” của
đức Phật há chẳng phải là càng ổn thỏa,
thích đáng hơn ư? (Thái
Vinh Hoa hỏi)
Đáp:
Đem lời dạy trong kinh Phật Di Giáo tham chiếu với
lời đáp thứ nhất th́ câu hỏi này sẽ không
c̣n có ư nghĩa chi nữa. Giác hạnh viên măn, Lư như thế,
Sự như thế.
* Hỏi:
Kinh luận ghi chép, đất bằng phẳng bất
động, mặt trời nhiễu quanh sườn núi Tu
Di, bốn đại châu ngày đêm tương phản.
Nương theo lư luận này, hai nước Trung Hoa và Mỹ
cùng thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, ngày đêm phải giống
nhau, nhưng sự thật là tương phản. Hăy nên hiểu
thông suốt như thế nào? (Hàn
Thúc Ḥa hỏi)
Đáp:
A) Nói quán triệt th́ đức Phật nói khế hợp
các căn cơ, có khi là lời chân thật, có khi là lời tùy
thuận. “Lời tùy thuận”
tức là nói theo những điều đă quen nhận biết
của từng loài chúng sanh. Một là “đất bất động, mặt trời xoay
quanh núi [Tu Di]” v.v… tợ hồ nói là đại địa
bằng phẳng! Hai là như kinh Lăng Nghiêm lại có câu:
“Quán cơi Diêm Phù như quán quả
Am Ma La trong ḷng bàn tay”, tức là nói quả đất
h́nh cầu. Hơn nữa, vô tận thế giới, mỗi
thế giới đều có mười phương. Mỗi
thế giới đă có trên dưới th́ hoàn toàn chẳng
phải là một mực bằng phẳng. Bất luận
là vuông hay tṛn, mỗi cơi đều có sáu phía. Chẳng đối
diện mặt trời th́ là đêm, đối diện mặt
trời th́ là ngày. Trung Hoa và nước Mỹ tuy thuộc cùng
một châu (châu Nam Diêm Phù Đề), nhưng do có đối
diện hay không đối diện mặt trời, mà tự
nhiên có ngày và đêm khác nhau. Nói theo thuyết trước [tức
thuyết đại địa bất động, mặt
trời xoay quanh núi Tu Di] khó thể phù hợp [kiến thức]
hiện thời; nói theo kiểu sau sẽ thông suốt.
B) Chẳng
quán triệt ư nghĩa: “Hết
thảy chỉ do tâm tạo”,
“phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, “trong mộng rành rành phô sáu nẻo,
giác rồi ba cơi rỗng toang hoang”. Xét những lời
trên đây, hết thảy sắc tướng đều
do nghiệp thức của chúng sanh biến hiện, vốn
chẳng phải là chân thật. Cùng là một sự mà Giáp, Ất,
Bính, Đinh, mỗi người thấy mỗi khác. Như
trời, người, rồng, quỷ thấy nước
khác nhau. Đối với cùng một lư mà kiến giải
cũng khác. Như đối với cha mẹ đă già, con
cái ở Trung Hoa coi chuyện kính trọng, phụng dưỡng
là hiếu thảo, nhưng các dân tộc chưa khai hóa ở
Phi Châu cho rằng: Giết cha mẹ đi để họ
khỏi khổ sở v́ tuổi già chính là hiếu thuận!
Châu tỏa ánh sáng chẳng có màu, nhưng người ta thấy
nhiều màu. Cứ coi [màu sắc ḿnh trông thấy] là màu sắc
thật sự, sẽ trở thành Pháp Chấp.
C) Nêu thí
dụ về lời lẽ tùy thuận: Đức Phật
chia [căn cơ của chúng sanh] thành năm thừa để
thuyết pháp. Đối với phàm phu bèn nói Có, đối
với Nhị Thừa bèn nói Không, đối với hàng
Đại Thừa nói “chẳng phải Có, chẳng phải
Không, Sắc và Không bất nhị”. Các nhà khoa học biết
địa cầu tự xoay quanh nó một ṿng là một
ngày một đêm, hoàn toàn chẳng phải là mặt trời
mọc lên ở phương Đông, lặn mất ở
phương Tây, nhưng đối với buổi sáng, họ
vẫn nói là “mặt trời mọc ở phương
Đông”, đối với buổi chiều cũng nói là “mặt
trời lặn ở phương Tây”. Nếu mỗi câu
đều nói sự thật, chẳng tùy thuận, hễ mở
miệng ra sẽ dấy lên tranh luận, chẳng thể dẫn
dụ, d́u dắt người khác được!
* Hỏi:
Phật và chúng sanh là một Thể. Một Thể là nói
đến điều ǵ? Một Thể phân giải như
thế nào? (Thái Vinh Hoa hỏi)
Đáp:
Thể là Bổn, Bổn chính là tâm. Giác là Phật, mê là chúng
sanh, đều do cái tâm này. Giác và mê tuy khác, tâm chẳng biến
đổi. Cái tâm ấy chẳng v́ khi mê mà cấu (nhơ uế,
phiền năo) giảm, không do khi giác mà tịnh được
tăng. Điều đó gọi là “một Thể”. Kinh nói: “Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba chẳng sai biệt”, ư nghĩa chính là như thế
đó.
*
Hỏi: Phật giáo một mực nhắc tới danh từ
“vô thỉ”, nhưng tuy có
danh từ Vô Thỉ, chẳng biết dùng vật ǵ để
lập thành tướng trạng của vô thỉ? (Đông Cầm hỏi)
Đáp:
Một bầu hư không ở trên đầu, xin hỏi
cư sĩ cho biết nó khởi đầu từ lúc nào. Hiện
thời, nhồi trái banh [cho nẩy lên, rơi xuống], lại
xin chỉ ra, đâu là điểm khởi đầu của
nó? Quan sát hai điều ấy, [sẽ thấy] chúng đều
là tướng vô thỉ.
*
Hỏi: Cơ Đốc giáo chủ trương trời
đất là do Thượng Đế sáng tạo, nhưng
Phật giáo nói là “đă có từ vô thỉ”. Do vậy, phải
giải thích rơ ràng [quan điểm của] Phật giáo về
sự khởi đầu của trời đất như
thế nào? Hai chữ Vô Thỉ được giải thích
như thế nào? (Đông Cầm
hỏi)
Đáp:
Đối với chuyện Cơ Đốc giáo nói trời
đất được sáng tạo như thế nào, do
cung kính lẫn nhau, nên tránh né, chẳng bàn tới. Nhưng
Phật giáo hoàn toàn chẳng nói: “Trời ở trên đầu
ta, đất dưới chân ta đă có từ vô thỉ”.
Chỉ nói hết thảy những ǵ có tướng, sẽ
thành, trụ, hoại, không, tuần hoàn không ngơi! Nói Vô Thỉ
chính là nói tới Chân Như bản tánh.
*
Hỏi: Giả sử là sau khi đă có trời đất
th́ thứ ǵ được tạo lập trước hết?
(Đông Cầm hỏi)
Đáp:
Xét theo Sự, chẳng phải là nhất loạt như
nhau. Lư có muôn mối, có khi phát khởi trước, phát khởi
sau, mà cũng có khi đồng thời phát khởi. Nếu
cứ ắt phải luôn chia thành trước sau, th́ Sự
và Lư đều chẳng thật. Phật học gọi
điều đó là Pháp Chấp. Triết học Trung Hoa có
nói: “Một sanh ra hai, hai sanh ra
ba, ba sanh ra vạn vật”. Xin hăy suy nghĩ, một và
hai th́ đương nhiên là có trước hay sau. Nói là
“hai”, bèn có hai cái một, xin hỏi cái “một” nào có trước,
cái “một” nào có sau? Lại dùng vật để làm tỷ
dụ, con người có hai mắt, tay, chân, thử hỏi:
Sau khi đă kết thành thai, mắt trái hay là mắt phải
có trước? Tay và chân đều có mười ngón, lại
hỏi ngón nào có trước?
*
Hỏi: Kể từ sau khi có chư Phật và chúng sanh, vị
Phật nào là thỉ tổ tu thành Phật trước hết?
Và chúng sanh nào đầu thai trước hết? (Đông Cầm hỏi)
Đáp: “Kể từ sau khi có chư Phật
và chúng sanh” th́ vị Phật kể từ khi ấy chính
là vị đă tu thành Phật trước hết, và chúng
sanh kể từ khi ấy cũng là chúng sanh đầu thai
trước hết. Đối với danh hiệu Phật,
xin hăy tra duyệt bộ kinh Vạn Phật Danh (trong tay tại
hạ hiện thời không có kinh này). Nếu kinh không chép
th́ tại hạ là người đang sống vào năm
Dân Quốc 54 (1965), tự nhiên sẽ chẳng biết chuyện
thuộc về trần điểm kiếp trước!
* Hỏi:
Có phải là trong số chư Phật, Bồ Tát của Phật
giáo, chẳng có một vị nào thành Phật đầu
tiên trước giáo chủ của Nhất Quán Đạo
(Áp Đản Giáo)? Nếu chẳng phải là như vậy,
sao các thầy truyền đạo của Nhất Quán Đạo
nói đức Phật là giáo chủ của Phật giáo mà c̣n
phải tôn giáo chủ của họ làm thầy? Đạo
lư là như thế nào? (Đông
Cầm hỏi)
Đáp: Sự
tích và kinh điển của Phật giáo rạng ngời
trên thế giới, chói lọi xưa nay. Lịch sử
trong nước và ngoại quốc đều ghi chép rất
tường tận. Há có phải là nói suông, chẳng có bằng
chứng, mù quáng bịa chuyện! Giáo chủ của Áp
Đản Giáo[14]
là ai, có kinh điển ǵ? Các quốc gia văn minh trên địa
cầu đều có lịch sử, sao chẳng thấy nhắc
tới hắn một chữ? Nếu cứ mặc t́nh thuận
miệng nói xằng, sẽ có thể lừa phỉnh những
bà cụ vùng quê! Hợm hĩnh, tự phụ, khoe khoang tự
đại[15], thật
ra là tiếng rên rỉ phơi bày sự vô minh của họ
đó thôi!
* Hỏi:
Thế giới Cực Lạc có ba mươi sáu vạn ức
mười một vạn chín ngàn năm trăm vị
đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật. Điều
đó có phải là “một vị là chân Phật, c̣n những
vị kia đều là hóa Phật” hay không? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp:
Đấy là pháp phương tiện nơi sự tu tŕ, chẳng
phải là cái học thuộc về sách vở khảo cứu.
Hễ dính đến phân biệt, loạn tâm liền dấy
lên, sẽ đánh mất tông chỉ vốn có, trở thành
hư luận. Ông đă có nghi vấn như thế, tôi chẳng
thể nào không nói. Thuyết ấy gồm có hai nghĩa:
1) Một,
trong mười phương đều có hằng sa cơi Phật,
Tây Phương cũng thế. Pháp này (tức là nói “có
hơn ba mươi sáu vạn ức vị Phật đồng
danh” như trên) chỉ nói Tây Phương, chẳng khẳng
định đấy chính là cơi Cực Lạc trong kinh Tiểu
Bổn. Xét ra, kinh Tiểu Bổn nói trong ba phương Nam,
Bắc và phương trên đều có Phật hiệu là
Diệm Kiên, phương Tây lại có Vô Lượng Thọ
Phật, tức là cùng tên, nhưng mỗi vị là một vị
Phật riêng ngự trong các cơi khác nhau.
2) Hai, ba
kinh Tịnh Độ nói rất nhiều về hóa Phật
vô số, như trong bài kệ Tán Phật đă xưng tụng:
“Quang trung hóa Phật vô số ức”.
Ba mươi sáu vạn ức vẫn là một số nhỏ
ít, nếu hiểu là nói theo kinh Tiểu Bổn th́ cũng chẳng
phải là không được! Lại nữa, hữu tướng
là Báo Thân và Hóa Thân, Pháp Thân vô tướng, ba thân có cùng một
Thể, có ǵ chẳng phải là thật?
* Hỏi:
Nếu thật sự có nhiều A Di Đà Phật như vậy,
chẳng biết các Ngài có phải là cùng nhân, cùng quả,
cùng phát ra bốn mươi tám nguyện rồi tu thành công
hay không? Nếu chẳng phải là như vậy, làm sao có
thể đồng hiệu cho được! (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Dựa
theo kinh Tiểu Bổn để nói, một vị Phật
hóa ra nhiều thân, tuy nhiều vẫn là một; [xét theo] nhân
quả và nguyện lực, há có thể nói là hai? Nếu là ở
trong các cơi khác, tuy chưa thấy kinh văn nói về nhân và
quả, có thể là chưa chắc các Ngài đă [có nhân, quả,
nguyện lực] hoàn toàn đồng nhất. Chẳng thể
cho là danh hiệu đồng nhất th́ mọi sự bèn giống
hệt! Những vị có cùng tên trong lịch sử xưa
nay chẳng thể kể xiết! Rơ rệt là ông Mạnh Tử
người đất Trâu là nam, bà Ngô Mạnh Tử là nữ[16],
viên thái giám Mạnh Tử chẳng phải là nam, chẳng
phải là nữ. Tên giống nhau mà sự có giống nhau
hay chăng?
* Hỏi:
Nếu là như vậy, trời chẳng có hai mặt trời,
dân chẳng có hai vua. Vậy th́ vị nào do tỳ-kheo Pháp Tạng
tu thành đấng giáo chủ ở Tây Phương? Hay là mỗi
vị đều là giáo chủ? (Lại
Đống Lương hỏi)
Đáp: Vị
Phật trong thế giới Cực Lạc là do ngài Pháp Tạng
tu thành, những vị Phật khác chẳng phải! Những
vị ở trong các cơi khác sẽ là giáo chủ trong cơi ấy.
Trong Cực Lạc, bất luận là Pháp Thân, Báo Thân hay Hóa
Thân, [đều là] một Thể, đều là chủ,
như ngọc tỷ[17] của
đế vương xưa kia đóng dấu vạn trang
chiếu chỉ, người nào nhận được,
cũng đều tuân theo phụng hành. Cố nhiên là do một
cái ấn mà ban hành vạn tờ chiếu, mà cũng là vạn
tờ chiếu chỉ đều do một cái ấn in vào.
* Hỏi:
Có người hỏi: Người trong thế gian này niệm
Phật, nơi ao bảy báu trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới liền sanh một đóa hoa sen, đích xác
là có sự thật này hay chăng? Tôi đáp: “Đích xác là
do đức Phật nói, chẳng sai”. Nhưng người
ấy muốn tôi nêu ra chứng cớ bằng những chuyện
có thể cảm nhận được trong hiện tại,
tôi không biết giải đáp như thế nào? (Đồng Thụy Châu hỏi)
Đáp:
Không có cách nào để chứng minh cho người đó,
v́ chuyện này chẳng phải là Hiện Lượng, mà
thuộc về Thánh Giáo Lượng, phàm phu chẳng thể
hiểu được! Sách chép chuyện núi đồng sụp
ở phía Đông, chuông ngân tại Lạc Dương ở
phía Tây, khóc trúc bèn nẩy gị măng, nghĩ đến cá chợt
suối phun ra[18],
không ǵ chẳng phải là những tướng do cảm ứng
đạo giao hiện ra. Nếu coi những điều
ghi chép trong sách cổ là chẳng thật, xuất phát từ
sự bịa đặt, th́ chuyện [các nhà khoa học]
phát hiện: Hễ mặt trời có vết đen, luồng
sóng điện trên địa cầu liền nẩy sanh biến
hóa, máy trắc nghiệm tâm lư vừa mới phát minh có thể
phán định lời người ta nói là thật hay giả,
cũng không ǵ chẳng phải là một cảm, một ứng
đó thôi! Đọc sách nhiều, thấy sự việc rộng
răi, tự nhiên sẽ chẳng nghĩ lạc đà là ngựa
bị phù lưng!
*
Hỏi: Trong kinh, tôi thường thấy câu “từ vô thỉ tới nay”, mỗi
chuyện của chúng ta đều có khởi đầu, v́
sao là vô thỉ? (Lâm Diệu
Đường hỏi)
Đáp:
Khởi đầu của mỗi sự thuộc về một
phần nào đó của pháp hữu vi và hiện tướng
(tướng hiện ra) trong một giai đoạn nào
đó, chẳng phải là theo chiều ngang bèn trọn khắp,
theo chiều dọc bèn tột cùng, chẳng phải là khởi
thỉ của không gian và thời gian. Kinh Phật nói đến
“vô thỉ” phần nhiều
là nói đến chân tánh vô vi, chẳng giống bất cứ
chuyện nào thuộc về hữu vi. Muốn t́m khởi
đầu của một bộ phận và một giai
đoạn th́ cũng chẳng thể được!
*
Hỏi: Đầu năo, ư, tâm, ba thứ ấy chẳng dễ
tách bạch. Phàm là người niệm Phật trong mười
hai thời, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác (tức
là “tư vô tà” (思無邪, chẳng
nghĩ đến điều tà vạy) của Nho gia), giống
như một trang giấy trắng chẳng có mảy may ô
nhiễm. Như vậy là đầu óc chẳng nghĩ
đến sự việc, hoặc là ư niệm thanh tịnh,
hay là tác dụng của cái tâm bất động? (Châu Tinh Nguyên hỏi)
Đáp:
Phật nói “tâm ư”, đó chính
là nói đến tinh linh hư thể vô h́nh; đầu năo
là một bộ máy vật chất, hai đằng khác nhau,
chẳng có cách nào nhiếp hợp. Nếu nói “chẳng dễ tách ĺa” th́ hết
sức chẳng phải là như thế! Như máy móc và
điện lực rơ ràng là hai chuyện, [nhưng] chẳng
có điện lực, máy móc làm sao hoạt động? “Tư vô tà” chính là lời tán
thán tông chỉ của kinh Thi gồm ba trăm bài thơ, chẳng
phải là nói đến tâm. Hai câu “chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác” trong
công phu nhà Thiền là nói đến chuyện tĩnh lự
vô niệm. Cả hai điều này đều thuộc loại
vô thưởng vô phạt [đối với công phu niệm
Phật], chẳng có liên quan chi hết! Lại nữa, quư
cư sĩ học Phật, hăy nên bắt tay vào việc xem
sách Phật. Nếu không, sai lầm bằng hào ly, lầm lạc
ngàn dặm!
* Hỏi:
Bạn tôi là ông X… hỏi: Sanh tử luân hồi là chuyện
xa xôi, mờ mịt, có ǵ để chứng tỏ hay không?
(Vương Chí Hiền hỏi)
Đáp:
Chuyện chưa thể đích thân thấy nghe rất nhiều,
không chỉ là chuyện thuộc về luân hồi. Tri thức
của mỗi cá nhân hữu hạn; do sức ḿnh chẳng
thể đạt đến, bèn bảo là chẳng có, th́
chẳng khác con trùng mùa Hạ chẳng tin có tuyết, kẻ
mù chẳng tin có tinh tú! Có điều ǵ không biết th́ hoặc
từ học lư mà t́m ṭi, hoặc t́m chứng cớ trong
kinh sử để tin tưởng, hoặc vâng theo lời
dạy của thánh nhân bèn chẳng nghi ngờ. Học lư
nói: “Năng lực bất diệt”,
thần thức chính là năng lực. Bất diệt bèn có
chỗ nương gởi, bỏ chỗ này, ắt
nương vào chỗ kia. Đó là một chứng cớ.
Kinh sử th́ như kinh Dịch nói: “Du hồn vi biến” (Cái hồn bềnh bồng
biến hóa). Phần Truyện [của kinh Dịch] có câu: “Quỷ do cầu thực” (Quỷ
c̣n cầu cái ăn). Sử th́ [những chuyện] như
Bành Sanh làm heo, Như Ư làm chó[19]
v.v… chẳng thể kể trọn! Đó là chứng cớ
thứ hai. Thánh ngôn th́ như Khổng Tử nói đến
“trời”, nói đến “quỷ thần”, rất nhiều
điều như thế. Đó là chứng cớ thứ
ba. Sách thế gian c̣n là như vậy, kinh Phật càng ghi
chép rơ ràng, minh bạch hơn! Nếu mạt sát hết thảy,
cứ ắt phải cầu đích thân mắt thấy tai
nghe, thử hỏi: Ông bạn X… ấy hai mươi
năm trước c̣n mang thân tướng của một
đứa bé con, nhưng tôi chưa thấy cho nên khó tin
được, hăy xin ông ta lấy thân tướng đứa
bé con ra làm chứng. Hoặc là ông bạn X… ấy đêm từng
nằm mộng, cũng xin hăy ĺa khỏi ba điều trên
đây (học lư, kinh sử và lời lẽ của thánh nhân)
để nêu ra chứng cớ!
*
Hỏi: Tôi vừa đọc quư tạp chí số một
trăm năm mươi, có đăng tải câu hỏi
trong phần Phật Học Vấn Đáp về chuyện
nuôi chim. Lời đáp là không thể nuôi v.v… Bỉ nhân cũng
muốn làm nghề ấy, nhưng cho đến nay, vẫn
chẳng dám vội vàng thực hiện. Nay tôi có một vài
ư kiến quê kệch như sau: Nếu bảo là chim bị
nhốt trong lồng, đánh mất tự do, nhưng nó
sanh ra ở đấy, chết ở đấy, dường
như cũng chẳng tổn hại cho lắm. Nếu là
chim do bắt được từ bẫy rập ngoài thiên
nhiên th́ chẳng luận định giống như vậy
được! C̣n như [các loài động vật]
được thả trong vườn phóng sanh hoặc ao
phóng sanh, (v́ sao không thả chúng vào các nơi trời cao biển
rộng), có phải là cũng có tội ngang ngửa hay
chăng? Giải thích như thế có thích đáng hay không? (Trịnh Mạc Thúy Quỳnh hỏi)
Đáp:
Những con vật được nuôi trong vườn phóng
sanh phần nhiều là đang chờ người cắt mổ,
nấu nướng. Do cái tâm cứu sống, bèn chuộc lấy
cho chúng được sống. So với chuyện v́
mưu lợi mà giam cầm chúng nó, làm sao có thể đánh
đồng tánh chất cho được? Hơn nữa,
[thiết lập] vườn hay ao phóng sanh, là v́ không có chỗ
có nước gần đó, hoặc là do mực nước
nông cạn, chẳng tiện đem thả các loài cá, sợ
chúng lại bị bắt nữa, thật sự là v́ bất
đắc dĩ mà tạm làm như vậy, chẳng phải
là cố ư giam cầm chúng. Những loài gà, vịt, lợn,
dê v.v… đều thuộc loại gia súc, thử nghĩ xem:
Nếu thả chúng th́ phải thả ở chỗ nào? Chỉ
có nhốt tại đó, chờ cho chúng nó hết tuổi thọ.
Chim có thể bay cao, trốn xa, cho nên trong vườn phóng
sanh, chưa hề thấy nhốt chim. Phàm đối với
mọi việc, phải cầu nơi lư, lư cầu nơi
tâm, chân tướng rạng ngời, chẳng phải là có
thể tranh biện suông ngoài miệng!
*
Hỏi: Có thể thành Phật đạo quả hay không? Một
mai học Phật, dốc hết sức lực cả
đời, bỏ danh lợi, phú quư, dẫu tu thành công th́
có lợi ích ǵ? (Vương Chí
Hiền hỏi)
Đáp:
Thích Ca, Di Đà, hằng sa chư Phật, chẳng tu mà thành
là do trời sanh ư? Hay là tu chẳng thành? Người
trước đă thành, lẽ đâu người sau chẳng thành? Nếu hỏi đến chỗ
lợi ích th́ nhân là “phá mê, khai ngộ”, quả là “ĺa khổ,
được vui”. Ngộ th́ ngôn hạnh, cử chỉ có
chuẩn mực. Mê th́ sống say, chết mộng, điên
đảo, lầm loạn. Lạc là thường, lạc,
ngă, tịnh, thần thông tự tại, khổ th́ sanh, lăo,
bệnh, tử, lục đạo luân hồi. Hễ nói
[chi tiết] sẽ là chẳng có ngằn hạn, tôi tin là cần
phải đọc nhiều sách để sau khi đă khai
phát trí huệ th́ mới thấu hiểu được!
*
Hỏi: Tệ nhân cho rằng các thuyết “nhân quả báo ứng”,
“nghiệp lực lôi kéo” và “tam thế” trong Phật giáo nếu
xét về phía những kẻ thế tục như chúng ta mà
nói th́ đúng là có hại to lớn hơn là có ích! V́ sao
đời trước làm ác, đă chịu khổ trong
địa ngục, cớ ǵ đời này vẫn phải
chịu những quả báo đă “định
sẵn” như nghèo khổ, chiến tranh, oán cừu, mất
mát trong luyến ái v.v…? Do vậy, những chuyện ấy
đúng là khiến cho những kẻ nỗ lực làm lành
mà vẫn chẳng thể thay đổi ách vận,
sanh ḷng thoái chuyển, hối hận. Lại c̣n xen lẫn
tiêu chuẩn “tạo một phần
thiện nhân, được một phần thiện quả”,
khiến cho kẻ b́nh phàm thường nghĩ “làm người
lành, chẳng nhất định đều có quả báo tốt”.
Gây rối quan niệm đúng sai, chúng ta cũng thường
thấy có những trường hợp, như cuộc
đại thảm sát ở Nam Kinh[20],
hoặc “Dương Châu thập
nhật”[21]. Chẳng
lẽ những người bị giết đều là kẻ
làm ác (trong số ấy có rất nhiều trẻ con). Chúng
ta cũng lại thường thấy người nào
đó chỉ làm chuyện thiện lương, bỗng gặp
tai họa ngang trái v.v… khiến cho kẻ khác ngơ ngác! (Thái Tổ Thiên hỏi)
Đáp:
Câu hỏi lần này có bốn tầng ư nghĩa, xin tách ra
để đáp.
1) Tiên
sinh tự thừa nhận là người ngoài đời,
đương nhiên là có lắm nỗi hiểu lầm. Những
thuyết “nhân quả báo ứng”, “nghiệp lực dẫn dắt”, “ba đời” chính là các hiện
tượng nhân duyên tụ tán nhất định của vạn
hữu trong vũ trụ, chẳng phải là bất luận
do kẻ nào tạo ra, lại càng chẳng phải do Phật
tạo ra. Bất quá, kẻ khác chẳng nói tường tận,
c̣n Phật giáo quan sát rơ ràng mà thôi. Nếu có ai cho là tai hại,
hay hữu ích, nói khách sáo sẽ là “người nhân thấy là nhân, người trí thấy
là trí”, mỗi người [nhận thấy] khác nhau. Nói
lời chân thật, sẽ đều là mê hoặc, lầm
loạn, nhận thức chẳng rơ ràng, buông lời
điên đảo đó thôi, chẳng dính dáng ǵ đến
Phật!
2) Tiên
sinh nói tới những quả báo phải chịu trong đời
này, đối với chuyện “mất mát trong luyến ái”
là nói tới sự tan vỡ trong t́nh vợ chồng? Hay là
sự thất t́nh trong tà dâm? Ư nghĩa lời hỏi chẳng
rơ ràng, nên tôi loại ra, chẳng bàn tới. Xin nói về những
điều khác. Nay tôi hỏi ngược lại, Xuân ấm,
Hạ nóng, Thu mát, Đông lạnh, ai nấy đều biết.
Theo nông lịch (âm lịch), tháng Tư, Năm, Sáu là Hạ,
tháng Mười, Mười Một, Mười Hai là
Đông. Tới tháng Bảy mùa Thu, trời phải nên mát mẻ,
v́ sao vẫn nóng nực? Tới tháng Giêng mùa Xuân, trời lẽ
ra phải ấm áp, cớ sao vẫn lạnh? Hai giờ chiều
ban ngày là lúc nóng nhất, v́ sao chẳng phải là buổi
sáng? Ban đêm, lúc hai giờ đêm lạnh nhất, v́ sao chẳng
phải là trước giờ Tư? Nếu tiên sinh chẳng thể
giải thích, tôi lại đặt ra một câu hỏi khác:
Kẻ bị pháp luật phạt tù vài năm, do hối cải
được phóng thích, v́ sao vẫn bị tước
đoạt quyền công dân mấy năm? Há chẳng phải
là khiến cho người đă hối cải sanh ḷng oán hận
ư? Hiểu rơ điều này, sẽ biết điều
những điều kia!
3) Theo
phong tục Trung Hoa, hiếu đứng đầu các
điều thiện. Nếu đứa con có hiếu trộm
cắp, pháp luật có thể v́ kẻ ấy có hiếu mà
chẳng xử tội trộm cắp hay sao? Thiện quy về
thiện báo, ác quy về ác báo, chuyện nào quy về chuyện
nấy, mới gọi là chẳng rối loạn, có tiêu chuẩn.
4) Cần
phải quán khắp hạnh trong ba đời và sức lôi
kéo của nghiệp lực. Hạnh có chân, ngụy, sức
có mạnh, yếu, t́nh thế hết sức phức tạp,
nhưng chẳng sai sót mảy may. Nếu nói với tiên
sinh, [ắt là nói suốt] mười ngày khó hết
được. Nay dùng lời của bậc thánh nhân trong
thế gian để giải đáp. Kinh Thư có các giáo huấn
“tích thiện, tích ác, dư
khánh, dư ương”, xin hăy nghiềm ngẫm kỹ
hai chữ Tích (tích lũy) và Dư (thừa sót). Lại tham
cứu lư nóng lạnh trong bốn mùa, chắc là có thể ngộ
được!
* Hỏi:
Lại nữa, có phải là Phật giáo chưởng quản
toàn thế giới hay không? Nếu là như vậy, vậy
th́ có phải là ở nước Nga, tại Nhật Bản,
hoặc những nước khác, có những kẻ cừu
hận chúng ta. Nếu là như vậy, một ngày nào
đó, nhất định sẽ phát sanh chiến tranh. Nếu
binh sĩ của họ giết đồng bào của chúng
ta (giả sử là có oán cừu với những binh sĩ
đó), có phải là cứ trơ mắt nh́n, mặc cho họ
giết chóc, hay là sẽ cứu vớt? Như vậy há chẳng
phải là khiến cho người ta có quan niệm “vô tổ
quốc, vô đồng bào” đó chăng? (Thái Tổ Thiên hỏi)
Đáp:
Ông nói rơ “cừu nhân” là
người nước khác đến giết đồng
bào ta, hai câu này vẫn c̣n có thể đọc và hiểu
được. Kế đó, chợt nói “mặc t́nh cho họ
giết, hay là cứu vớt”. Tiếp đó, nói: “Như thế
th́ há chẳng phải khiến cho người ta có quan niệm
vô tổ quốc, vô đồng bào”, có phải là tiên sinh nói
“để mặc cho họ giết, sẽ khiến cho
người ta có quan niệm vô tổ quốc, vô đồng
bào”? Hay là nói “tiến ra cứu giúp tức là có quan niệm
vô tổ quốc, vô đồng bào” vậy? Lời lẽ lẫn
lộn, chẳng tách bạch, tôi chẳng thể đáp bừa
được! Nhưng vừa mở đầu câu hỏi
này bèn chất vấn “Phật
giáo có phải là chưởng quản toàn thế giới
hay không?” Không ǵ chẳng phải là tiên sinh cho rằng kẻ
sát nhân, kẻ mắt thấy sát nhân, hoặc là kẻ cứu
người đều là do Phật thao túng ư? Nếu
đúng là ư ấy, chẳng khác nào [lư luận] vùng núi trong
sao Diêm Vương (Pluto) phát sanh lũ lụt là do những
kẻ ôm ḷng oán hận ở Đài Trung nhảy mũi gây
nên, chưa khỏi là lời lẽ quá mức hoạt kê vậy!
* Hỏi:
Phật giáo nói quyến thuộc tụ hội, bạn bèn
chơi với nhau của mỗi người, đều
là do báo ân hay báo cừu. Vậy th́ do Tướng Mạng Học,
chúng ta sẽ biết cá nhân ḿnh cùng với cha mẹ, hoặc
anh em trai, hoặc chị em gái trong gia đ́nh, đă định
sẵn là báo đền oán cừu. Há chẳng phải là đáng
buồn ư? Há chẳng phải là trái nghịch đạo
hiếu đễ của Nho gia ư? V́ thế, tôi cho rằng
các thuyết “nhân quả báo ứng,
nghiệp lực dắt dẫn, ba đời” thật sự
gây hại cho người khác chẳng cạn! V́ sao chẳng
ở trong địa ngục chịu khổ trọn hết
là đă xong xuôi? Nếu chỉ có một đời này, chẳng
có đời quá khứ, chẳng có đời vị lai, mọi
người chỉ giữ đạo và lời dạy của
tiên vương, gieo một hạt đậu bèn được
một hạt đậu, trồng một gốc dưa
bèn được một gốc dưa, chẳng có mảy
may lừa dối, há chẳng phải là rất tốt
ư? V́ thế, tôi hối hận sâu xa là đă biết một
chút Phật học (cũng có thể là tôi học không đủ,
nhưng đă chẳng dám tiến thêm bước nữa). (Thái Tổ Thiên hỏi)
Đáp:
Câu hỏi này cũng chia thành từng đoạn để
trả lời.
1) Tiên
sinh đă nói “quyến thuộc đều là ân, cừu” chính
là chủ trương của Phật giáo, lại nói do
tướng mạng mà biết. Rốt cuộc là trong hai
đằng, ai chịu trách nhiệm nói năng? Lại nói “do là báo cừu, há chẳng phải
là đáng buồn ư?” Trước đó đă nói ân và
cừu, nay v́ sao lại gạt bỏ chữ Ân? Biết
trước là oán cừu, cố nhiên là đáng buồn; biết
trước là báo ân, há chẳng đáng vui ư? Hai chữ “định sẵn” không biết
là nói đằng nào định sẵn? Hay là lại đổ
thừa đức Phật đă định sẵn vậy?
Ông bỗng dưng nói: “Trái nghịch
đạo hiếu đễ của Nho gia”, đức Phật dạy
người ta giết cha, giết anh ư? Nếu chẳng
có chuyện đó th́ là trái nghịch chuyện ǵ thế?
2) Nhắc
lại “nhân quả báo ứng,
nghiệp lực dắt dẫn, ba đời thật sự
hại người chẳng cạn”, tiên sinh đă dẫn
thuyết của Nho gia, tự nhiên là tinh thông sách Nho. Thử
hỏi: “Tác thiện giáng chi
bách tường, tác bất thiện giáng chi bách ương”
(Làm lành, trăm điều lành giáng xuống; làm điều
bất thiện, trăm nỗi tai ương giáng xuống),
có nói mâu thuẫn với nhân quả hay chăng? “Tự tác nghiệt, bất khả
hoán” (Tự làm bậy, chẳng thể trốn lánh) có phải
là nói trái nghịch với “nghiệp
dẫn dắt” hay không? “Cầu
đảo nơi núi Ni” mà sanh ra Khổng Tử. “Du hồn vi biến” (Cái hồn
bềnh bồng biến hóa), “công
tử Bành Sanh biến thành lợn” có nói trái nghịch với
ba đời hay không? Ở đây, bất quá tôi nêu đại
lược một phần [trong sách Nho] đó thôi!
3) Tiên
sinh chỉ thích có một đời, chẳng cần đến
quá khứ, vị lai, chỉ là ưa thích suông, chẳng phù
hợp sự thật. Hai mươi bốn bộ sử của
Nho gia đă ghi chép đời trước, đời sau
nhiều lắm. Khoa học hiện thời lại nói
năng lực bất diệt! Tiên sinh tin Nho, cho là Phật
trái nghịch Nho, lại tự nguyện thọ tội
trong địa ngục là xong! Thử hỏi: Đă chẳng
tin vào tương lai, lấy ai đọa địa ngục?
Há chẳng phải là ăn nói tự mâu thuẫn?
4) “Giữ đạo của tiên
vương và lời tiên vương nói như vậy”, “gieo một hạt đậu
được một đậu”, “gieo một gốc dưa được một gốc
dưa, chẳng sai sót mảy may”, xin hỏi các tỷ dụ gieo đậu,
trồng dưa là do vị tiên vương nào đă nói, xin
hăy tra cứu cặn kẽ để bảo ban cho rơ ràng!
5) “Hối hận sâu xa v́ đă biết
Phật học”, “tôi đă
không thể tiến thêm bước nữa”. Chuyện
này giống như uống nước, nghe nói trong nước
có trùng, ăn rau nghe nói có thuốc trừ sâu, bỗng sanh
ḷng hối hận, liền nghĩ sau này chẳng nghe nói tới
đạo vệ sinh nữa!
* Hỏi:
Lần trước tệ nhân thưa hỏi mấy điều,
v́ sao trong mục Phật Học Vấn Đáp lại
đăng tên cha tôi là Thái Sùng Kỳ vậy? Có phải là
hoài nghi chữ viết của tệ nhân chăng? Hay là do tệ
nhân tuổi c̣n trẻ, chẳng đáng dự vào chuyện
thưa hỏi? (Thái Tổ Thiên
hỏi)
Đáp:
Điều này lại càng kỳ lạ! Tại hạ và
tiên sinh chưa từng gặp gỡ! Tiên sinh là người
như thế nào, tôi c̣n chưa biết rơ tên họ, làm sao
có thể biết đại danh của lệnh tôn? Tại
hạ đă chẳng lắm chuyện điều tra, mà quả
thật cũng chẳng có thần thông, thay đổi tên gọi,
chắc chắn chẳng phải là do Phật làm! Vẫn
xin ông hăy tự tra, xin đừng trách móc [chúng tôi] lầm lẫn!
*
Hỏi: Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh có bốn câu: “Không chẳng khác Sắc, Sắc
chẳng khác Không, Không chính là Sắc, Sắc chính là Không”. Không
và Sắc rơ ràng là hai chuyện, sao lại nói là “chẳng
khác”. Nghĩ kỹ hai chữ “chẳng khác” có thể là mang
ư nghĩa tương tự th́ c̣n có thể nghĩ đại
khái như thế. Kế đó lại nói “chính là”, tức là lời lẽ khẳng định,
khó thể liễu giải. Hy vọng cụ có thể dùng phương
pháp khoa học để nói rơ. (Học
giả X... ở Mỹ hỏi)
Đáp:
Sự có lớp lang, Lư đúng như thật. Đó là khoa học.
Đối với văn tự trong kinh Phật, c̣n chia
thành khoa phán, lư luận phân tích chi ly mọi lẽ, bản
thân Phật pháp đă mang tánh chất khoa học. Chẳng cần
phải gọt chân cho vừa giày, khiên cưỡng thêm thắt,
đâm ra là “lấy
rương, trả châu”. Nay tôi sẽ tách ra thành bốn
điều để đáp.
1) Một,
“Sắc chẳng khác Không”: Mắt
có thể thấy sắc thể, cái nhỏ nhất là
như hạt bụi trên lông con thỏ (Thố Mao Trần,
Śaśa-raja),
cũng là do các vi trần hợp thành. Nếu từ trên,
dưới, bốn phía và trung gian, tách ra thành bảy phần,
[th́ một phần ấy] được gọi là Thủy
Trần (Ap-raja), ư nói là có thể lẫn vào trong nước.
Lại chia [hạt bụi đó] thành bảy phần, th́ gọi
là Kim Trần (Loha-raja), ư nói có thể lọt
vào trong các thứ bằng kim loại. Lại chia thành bảy
phần, gọi là Cực Vi (Aṇu), c̣n gọi
là Lân Hư, Hư (虛)
là rỗng không. Lại chia thành bảy phần gọi là Cực
Vi Chi Vi (Paramāṇu),
vừa chẳng thấy được, vừa không thể
chia nhỏ hơn nữa. Chia đến tột cùng th́ thành
Không.
Sắc đă là tích tụ, nên vốn chẳng có thật thể.
V́ thế nói là “Sắc chẳng
khác Không”.
2) Hai là “Không chẳng khác Sắc”: Cực
Vi Chi Vi rỗng không, chẳng thể thấy, nên có thể
gọi là Không, nhưng Cực Vi Chi Vi có tướng Không nếu
dấy động tụ tập, lại có thể từ Cực
Vi lần lượt hợp thành Kim Trần, Thủy Trần,
Thố Mao Trần, đấy chính là Không có thể huyễn
biến tướng, nên nói là “Không
chẳng khác Sắc”. Tổng kết, khi xét soi Sắc bèn
thấy được Không, chẳng cần phải là lúc chia
chẻ [mới thấy được]. Ngược lại,
khi xét soi Không bèn thấy Sắc, chẳng cần phải là
tích tụ [mới nhận biết]. Đó là giải thích
theo Tục Đế.
3) Ba, “Sắc chính là Không”: Tánh vốn
là Không, do vô minh mà khởi lên ba tế tướng. Một
là do động bèn thành Nghiệp Tướng, hai là Năng
Kiến Tướng, ba là Cảnh Giới Tướng. Giác
tánh là Không, cảnh tướng là Sắc, nhưng cảnh
sắc thật sự là tánh Không vọng huyễn. V́ thế,
“Sắc chính là Không”.
4) Bốn,
“Không chính là Sắc”: Chân
Như tùy duyên bất biến, có thể thuận theo vô minh,
dấy lên vọng pháp (pháp hư vọng) trong chín pháp giới.
Lại như gương sáng có thể hiện muôn h́nh
tượng, nhưng vạn pháp chẳng phải là do từ
bên ngoài mà có, do Chân Không mà có Diệu Hữu. V́ thế nói “Không chính là Sắc”. Tổng kết,
đây là dùng Chân Đế để giải thích.
Tức
là bốn câu ấy chuyên dùng để chú giải hai pháp sắc
và tâm trong Ngũ Uẩn. Người giải thích những
câu này thật nhiều, bất quá là theo một cách mà thôi!
*
Hỏi: Chữ Ngă trong câu đầu tiên của các bộ
kinh sách nhà Phật, tức câu “như
thị ngă văn”, nhằm chỉ tôn giả A Nan.
Nhưng lấy kinh Hoa Nghiêm để nói, kinh ấy chính là
do trong ṿng sáu mươi ngày sau khi đức Phật thành
đạo, Ngài bèn đối trước hàng Pháp Thân đại
sĩ giảng giải. Lúc đó, ngài A Nan c̣n chưa xuất
gia, huống hồ là đă dự vào địa vị Pháp Thân ư? Chữ Ngă trong kinh ấy
có phải vẫn là nói đến tôn giả A Nan, hay là nói
đến một vị nào khác? Xin hăy khai thị. (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp:
Ngài A Nan lúc mới làm thị giả của đức Phật,
đă có mấy điều thỉnh cầu. Trong ấy, có
một điều là đối với những kinh đức
Phật đă nói trước đó, xin hăy thuật lại
[cho tôn giả được nghe]. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm
tuy nói trước khi ngài A Nan xuất gia, nhưng do có nhân
duyên [thỉnh cầu trùng tuyên] ấy, vẫn có thể bảo
là “như thị ngă văn”.
Chuyện này trong kinh có chép, nhưng nhất thời tôi quên
mất là phát xuất từ chỗ nào.
*
Hỏi: Nghe nói Thiện Đạo đại sư rớt
xuống vách đá mà chết. Nếu đúng là như vậy,
Ngài có thể sanh về Tây Phương hay không? (Lư Định Siêu hỏi)
Đáp:
Đấy chính là đại sư thị hiện tướng
khác biệt. Kẻ chẳng hiểu giáo nghĩa, sẽ chẳng
biết nguyên do. Đại sư đă chẳng phải là
chết ngang trái giống như phàm phu, cần ǵ phải
đa nghi!
*
Hỏi: Có một người b́nh thời niệm Phật,
niệm đạt đến mức chánh niệm, trước
kia đă từng phát nguyện văng sanh. Nhưng có một lần,
khi ông ta đến ngă tư đường, người
đă đông, xe cộ lại nhiều, chợt trong một
sát-na căng thẳng, rất đáng tiếc, đă đánh
mất chánh niệm trong một sát-na ấy. Nếu chẳng
may, ông ta chết trong lúc ấy, xin hỏi là người ấy
có thể văng sanh hay không? (Thái
Lân Định hỏi)
Đáp:
Khi gặp nguy hiểm, lúc tột cùng căng thẳng,
người công phu giỏi càng đề khởi chánh niệm,
dẫu gặp chuyện bất hạnh vẫn có thể
văng sanh. Thật ra, người công phu tiến bộ, tội
sẽ diệt, nên chẳng dễ ǵ gặp tai họa ngang
trái! Đối với chuyện ông vừa hỏi, chánh niệm
đă mất, nếu vẫn chưa xả thọ th́ có lẽ
c̣n có cách. Nếu xả thọ khi ấy, chẳng có hy vọng
văng sanh!
*
Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật lên cơi trời Đao Lợi
để thuyết pháp cho mẹ, có mang theo một ngàn hai
trăm năm mươi vị đại đệ tử
hay không? (Trương Tán Độ
hỏi)
Đáp:
Tra duyệt kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, chẳng
thấy chép chuyện này. Chẳng biết dịch ư như
thế nào; v́ thế, khiến cho người ta sanh nghi. Các
vị giảng giải phần nhiều chẳng nói tới
chuyện này, là v́ chẳng đa sự [bỏ công biện
bác những chuyện không quan trọng] ở ngoài chánh
văn. Xét theo kinh Tăng Nhất A Hàm ghi chép lời Đế
Thích nói: “Chư Phật đều
thăng lên trời Đao Lợi v́ mẹ thuyết pháp,
Như Lai cũng nên v́ thánh mẫu thuyết pháp”. Do vậy,
đức Như Lai và một ngàn vị tỳ-kheo ở
nước An Đạt La, bên thành Khúc Nữ, thăng lên
trời Đao Lợi, v́ mẹ thuyết pháp ḥng báo ân sanh
thành. Kinh A Hàm tuy có chép như vậy, nhưng nói là một
ngàn vị tỳ-kheo. Có phải những vị đó chính
là một ngàn hai trăm năm mươi vị thuộc
nhóm Tam Ca Diếp[22]
hay không? Số lượng tuy hơi khác, nhưng những
điều tương tự như vậy có thể dùng
để tham khảo.
* Hỏi:
Khi thảo luận về sự tồn tại của bản
tánh, thầy từng nêu thí dụ “như xe chạy bằng xăng”, lại nêu một
sự để chứng minh: “Như
người khi chết, thân xác tuy vẫn c̣n, nhưng chẳng
c̣n có hành vi của người sống” nhằm minh xác
có bản tánh tồn tại. Tuy vậy, học tṛ cho rằng:
Người đă chết, ắt là có cơ năng của
bộ phận nào đó trên thân thể bị tổn hoại,
như xe găy trục ắt cũng chẳng thể chạy
được, chưa chắc đă là v́ không có xăng mà
chẳng thể chạy! V́ thế, hoàn toàn chẳng thể
tuyệt đối chứng minh sự tồn tại của
bản tánh. Hay là trước hết ắt cũng phải
miễn cưỡng tin chuyện này ư? (Dương Côn Sanh hỏi)
Đáp:
Thí dụ bất quá nêu ra đại lược phảng phất,
chẳng thể nào hoàn toàn phù hợp khít khao được.
Chỉ là thấy khói bèn biết là lửa, thấy
sương bèn biết băng mà thôi. Trước đây,
tôi đă nêu tỷ dụ xăng thúc đẩy xe chạy,
lời lẽ đơn giản, ư trọn đủ. Nếu
nói tỉ mỉ th́ thật sự chẳng phải là do
xăng có thể đẩy xe chạy, mà là do hơi
xăng vận hành. Nếu một bộ phận nào trên xe bị
hỏng hóc, hơi xăng sẽ chẳng thể phát sanh
[tác dụng thúc đẩy xe chạy]. Nếu bộ phận
trọng yếu nào đó trên thân người bị hư
hoại, hơi ấm và thần thức cũng chẳng thể
nương gá [xác thân ấy]. Nhưng xe đă hư, cố
nhiên là xe bất động. Máy móc của xe hoàn chỉnh
(không hỏng hóc ǵ) mà chẳng có hơi xăng thúc đẩy,
làm sao chuyển động được! Ví như các chi
thể của người ta tuy toàn vẹn, nhưng chẳng
có thần thức và hơi ấm, cũng chẳng thể
sống sót. Sự việc phải nh́n theo toàn bộ, chớ
nên chấp trước một bề!
* Hỏi:
Thầy nói: “Nghiên cứu Phật
học th́ trước hết cần phải tăng cường
tín tâm, sau đấy mới có thể hiểu. Nếu mong
hiểu trước rồi sau đó mới tin th́ sẽ
vĩnh viễn chẳng có [ḷng tin]. Khi đă có Tín, do công phu
nơi Giải, sẽ khai Nhất Thiết Trí, Đạo
Chủng Trí, Nhất Thiết Chủng Trí”. Cố nhiên
câu này chẳng sai, nhưng học tṛ nghĩ: Trước
khi hiểu một loại học vấn nào, mà cứ ép ḷng
tin tưởng, sẽ chẳng có cách nào dùng thái độ
khách quan để nghiên cứu nó, dễ bị hăm trong khuôn
khổ “phục tùng quyền uy”! Do vậy, đối với
Phật học, hăy nên trước hết là dùng thái độ
khách quan để cầu liễu giải, sau đó mới
tin. Nếu không, ḷng tin sẽ chẳng có ư nghĩa chi cả!
Xin thầy hăy dạy bảo những điều [thắc
mắc] trên đây! (Hoàng Tuấn
Kiệt hỏi)
Đáp:
Tín có tinh, thô, Giải có sâu, cạn. Trước hết
đă tin, đó chính là Thô Tín, kế đó là Giải, tức
khởi sự nghiên cứu. Phàm đối với hết
thảy sự vật, nếu chẳng có mảy may tin
tưởng, làm sao nghiên cứu cho được? Đă chịu
nghiên cứu, ắt phải có mấy phần tín tâm. Lấy
chuyện học vấn để tỷ dụ, thấy
bút bèn tin là có thể dùng bút để viết chữ, bèn bắt
đầu cầm bút tập luyện [viết chữ]. Thấy
chữ cái bèn tin là có thể biền âm[23],
bèn bắt đầu luyện tập đọc. Thoạt
trông thấy bút, hoặc trông thấy chữ cái, tin là có thể
viết, có thể tách âm, tức là tin vào Sự, chẳng phải
là tin vào Lư. V́ thế, nói là Thô Tín. Người mới học
Phật, tin Phật lư tinh tường, sâu xa, là chuyện chẳng
dối gạt người khác mà thôi, chẳng phải là phục
tùng quyền uy. “Phục tùng”
[trong học Phật] chính là phụng tŕ, chính là chuyện
sau khi đă hiểu sâu, ḷng tin tinh tường!
*
Hỏi: Con người dùng tư tưởng tạo ra vạn
vật, nhưng tư tưởng của con người
là tự có hay sao? Nói cách khác, có phải là con người tự
có Phật Tánh hay không? Hay là nó được tạo ra? Hay
là do một phương pháp nào khác mà có? (Du Tường Châu hỏi)
Đáp:
Tư tưởng và Phật Tánh thuần là hai sự kiện.
Tư tưởng chính là vọng niệm, chẳng phải
là do nhân duyên sanh, cũng chẳng phải là tự nhiên mà có,
chắc chắn là chẳng chân thật, nó dường
như là có, mà thật ra là không. Phật Tánh th́ pháp vốn
là như thế (pháp nhĩ như thị), cũng chẳng
phải do nhân duyên sanh, chẳng phải là tự nhiên có,
chân không bất không, dường như chẳng có, mà thật
sự là có.
*
Hỏi: Trong kinh Tam Thế Nhân Quả có nói: “Kim sanh thổ huyết vị hà nhân, tiền thế
ngật nhục khứ niệm kinh” (Đời này hộc
máu do nhân nào? Đời trước ăn thịt rồi
niệm kinh). Nếu là như vậy, người ăn thịt
đều chẳng thể niệm kinh ư? Nếu không [cứ
ăn thịt và niệm kinh], đời sau ắt sẽ mắc
quả báo thổ huyết ư? (Ngô
Minh An hỏi)
Đáp: Tụng
kinh ắt phải thành kính th́ mới có công đức. Kẻ
ăn thịt chẳng thanh khiết, chẳng từ bi, ắt
là chẳng thành kính, công đức ít ỏi. Nhưng toàn thể
tấm ḷng vẫn là hướng thiện, chẳng thể
hoàn toàn vứt bỏ. Nếu do tập khí mà chẳng thể
ăn chay, hăy nên ăn ba thứ tịnh nhục, đấy
cũng là phương tiện, sẽ sanh ra công đức.
Nhưng Tam Thế Nhân Quả Kinh là sách ngụy tạo, hoàn
toàn chẳng phải là kinh Phật, chớ nên tín phụng!
* Hỏi:
Trong Phật Thuyết Thọ Sanh Kinh có nói: Chúng sanh trong cơi
Nam Diêm Phù Đề, khi sắp chuyển sanh (đầu
thai), đều mượn từ minh ty chẳng ít tiền Thọ Sanh,
đời này ắt cần phải đền trả. Nếu
không, sẽ đọa nhập tam đồ, có đúng hay
không? Nếu chuyện ấy là thật, cách đền trả
là như thế nào, học nhân không biết, xin hăy khai thị!
(Ngô Minh An hỏi)
Đáp:
Thọ Sanh Kinh cũng là sách ngụy tạo, càng chẳng
đáng tin! Chuyện mượn tiền minh ty nói trong ấy
chẳng có mảy may đạo lư nào! Đó đều là
hành vi của những kẻ hiếu sự mượn chuyện
này để gạt gẫm tiền bạc! Nếu quư
cư sĩ muốn niệm kinh, hăy niệm A Di Đà Kinh và
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, lại niệm
nhiều thánh hiệu A Di Đà Phật, sau này sẽ có thể
sanh về thế giới Cực Lạc.
*
Hỏi: Có người nói: “Người
đời phần nhiều tán tâm niệm
Phật”, nhưng cũng may là tán tâm niệm Phật. Nếu
không, đi cũng là Di Đà, ngồi cũng là Di Đà, ngủ
cũng là Di Đà; đấy chẳng phải là gần
như kẻ bị thần kinh thác loạn ư? Thử
coi kẻ nhớ con thành cuồng trong cơi đời chính là
do một ḷng nghĩ đến con mà ra! Niệm Phật
đến nỗi bị ma dựa, lư này cũng giống
như thế! Há chẳng phải là do chủng tử trong
tám thức điền dấy động, chẳng thể
giằn ép đó ư? Không chừng thuyết ấy là do Ba
Tuần nói đó chăng? (Lư
Liên Giai hỏi)
Đáp:
Kẻ chẳng học Phật, hoặc không phải là Phật
giáo đồ, bèn có cách suy nghĩ như thế ấy, vốn
chẳng có ǵ là lạ! Nếu là người thuộc Phật
giáo mà thốt lời ấy, chính là tà kiến, đúng là ma
Ba Tuần nói vậy! Dùng Tu Đức để luận
định, chỉ có Giới, Định, Huệ là tột
cùng, do Định mà đạt. Ắt phải ngưng dứt
vọng niệm tán loạn th́ mới có thể đắc
Định. Chỉ th́ ắt phải nương vào Quán. Chỉ
là Tịch, Quán là Chiếu, Tịch Chiếu cùng dung hội,
bèn đắc Chánh Định. Đi, đứng, ngồi,
nằm, niệm luôn chuyên nhất; đó là Chỉ. Buộc
tâm nơi thánh hiệu Di Đà là Quán. Như nước
trong lặng bèn có thể chiếu, như đuốc chẳng
có gió bèn có thể soi sáng. Kẻ được gọi là “thần
kinh thác loạn” chẳng liên quan ǵ đến chuyện này!
“Thác” (錯) là trong đường rẽ lại
có nhiều đường rẽ, “loạn” (亂) là lăng
xăng, chẳng có thứ tự. Băng và tro khác nhau,
Định và loạn khác biệt vời vợi! Ông lại
dùng chuyện “nhớ con thành cuồng” để sánh ví Chỉ
Quán. Kẻ nhớ con trong ḷng trầm uất, lâu ngày tự
thành bệnh. Chỉ Quán là trong ḷng điềm tĩnh, lâu
ngày được khinh an. Những điều này đều
do kẻ chẳng thấu đạt sự lư thốt lời
tùy tiện! Kinh Thư có câu: “Duy
tinh, duy nhất, doăn chấp quyết trung” (Chỉ có
chuyên ṛng, chuyên nhất cái tâm th́ mới có thể nắm
được trung đạo). Kinh dạy: “Chế tâm nhất xứ, vô sự
bất biện” (Tâm chế ngự vào một chỗ,
không chuyện ǵ chẳng làm được). Tôi cũng nêu
một tỷ dụ, dùng gương tập trung [ánh mặt
trời] vào một chỗ th́ mới có thể lấy lửa.
Phải nh́n chăm chú th́ mới có thể xỏ kim. Tập
trung ánh sáng hoặc ánh mắt chính là Định, chẳng
phải là cuồng loạn. C̣n như kẻ bị ma dựa,
chính là v́ công phu chẳng thuần, tán loạn mà ra, nhất
định chẳng phải là do điềm tĩnh, an
định vậy.
*
Hỏi: Có người bạn hỏi: “Số lượng
sinh vật trên địa cầu tăng theo thời gian. Lấy
nhân loại để luận định, như dân số
nước ta trước kia nói là bốn ức bảy
ngàn năm trăm vạn, nay th́ nói đă lên tới hơn
sáu ức, há có phải các thần thức từ hơn bốn
ức có thể tăng lên sáu ức ư? Nếu nói họ
từ phương khác đến, phương khác cách xa diệu
vợi, ngay cả cái tên Nam Thiệm Bộ Châu cũng chưa
từng nghe nói tới, làm sao có thể bị lôi kéo [những
kẻ ấy đầu thai] đến nơi đây? Nếu
Tam Bảo ở những phương khác hưng thịnh,
họ sẽ biết Sa Bà khổ sở, sẽ chẳng có
tâm mong sanh vào [Sa Bà]! Dẫu là luân hồi trong lục đạo,
họ cũng nên ở trong vùng phụ cận [của cơi
ḿnh đang thọ sanh trước đó], là nơi có hoàn cảnh
vốn đă quen thuộc gần gũi, sao lại chẳng
ngại phiền phức để đến nơi xa xôi
là thế giới Sa Bà vậy thay? Nói gộp chung, cái
được gọi là ‘thần thức’ đă có thể
tăng từ bốn ức lên sáu ức, tức là chẳng
phải là cái tánh ‘tuy bị ô nhiễm từ vô thỉ tới
nay, nhưng bất sanh, bất diệt, chẳng tăng, chẳng
giảm’. V́ thế, biết là cái thuyết thức tánh
đúng là hư vọng!” Tôi đáp: “Thần thức luân hồi
ẩn nhiệm, sâu thẳm khó biết, như sóng trong biển
cả, lúc nhiều, lúc ít. Khi sóng nhiều, nước
chưa hề tăng; khi sóng ít, nước chưa hề
giảm! Chân Tế như nước, chẳng giảm, chẳng
tăng; chuyện trong cơi tục như sóng, muôn vàn biến
hóa. Suy nghĩ kỹ, sẽ có thể hiểu rơ lư này”.
Người bạn nói: “Ông dùng cái Lư trừu tượng
để phủ nhận cái Sự cụ thể, đúng
là khó thể khiến cho người khác vui vẻ tin phục.
Lư nếu là chân lư, ắt chẳng trở ngại Sự!”
Ông ta hỏi: “Xin dùng chuyện gia tăng nhân số để
thuyết minh cái Lư gia tăng có được hay chăng?”
Tôi nín lặng, chẳng đáp được, hăy nên làm
như thế nào? (Lư Liên Giai hỏi)
Đáp:
Câu hỏi này, quy nạp lại sẽ chia thành ba điểm.
Một là nỗi nghi về sự tăng giảm. Hai là nghi
về sự xa gần. Ba là nghi về tỷ dụ. Trước
hết nói về tỷ dụ. Nêu ra tỷ dụ nhằm dễ
hiểu, đỡ rườm lời lư luận. Tỷ dụ
nhằm [khiến cho người nghe] sẽ ngộ. Nếu
tỷ dụ là trừu tượng, chẳng phải là sự
thật, như kinh Thi có câu: “Như
thiết, như tha, như trác, như ma” (Như gọt,
như cắt, như giũa, như mài), chẳng phải
là khi có thể dụng công thiết tha, bèn gọi chuyện
ấy là “đạo học” ư? V́ thế, câu hỏi này
mang tánh chất nghiên cứu. Trong Nho học, ba ngàn vị
đệ tử c̣n chưa nghe hiểu thấu suốt Tánh
Học của Khổng Tử. Trong Phật học, càng là “ngôn ngữ dứt bặt”. Trừ
tỷ dụ ra, hễ mở miệng bèn trật. Tại hạ
đáp câu hỏi này, cũng chỉ có cách sử dụng tỷ
dụ:
1) Một,
đối với nỗi nghi tăng giảm. Nói đến
tánh th́ trước hết, hăy nên hiểu tánh ở chỗ
nào. Tánh như hư không, không ǵ to lớn mà có thể vượt
thoát ra ngoài tánh được. Đă là không thể thoát ra
ngoài, tự nhiên là chẳng tăng, chẳng giảm. Xin hỏi:
Trên địa cầu, dựng một căn nhà th́ có không
khí trong một nhà. Dựng trăm ngàn căn, sẽ có không
khí trong trăm ngàn căn. Nếu xây cất cho đến mức
trọn khắp toàn cầu, cũng là nhà nhà đều có
không khí. Thử nghĩ xem không khí có tăng giảm hay
chăng?
2) Hai là
đối với điều nghi về xa gần. Trước
hết, cần phải hiểu về lực hấp dẫn[24].
Trong Thái Dương Hệ, các tinh cầu đủ mọi
kích thước, tuy có xa gần, nhưng giữa chúng có lực
hấp dẫn liên kết. Mặt trăng gần quả
đất, hễ trăng tṛn th́ biển nổi sóng. Mặt
trời cách xa trái đất, nhưng hễ trên mặt trời
có vết đen th́ sóng điện trên địa cầu
cũng nẩy sanh biến hóa. Địa cầu cách xa mặt
trời, cần ǵ phải quản chuyện ở chốn
xa xôi? Đấy là mối quan hệ về lực hấp
dẫn, chẳng bị hạn định bởi xa hay gần!
3) Ba,
đối với mối nghi về thí dụ. Thí dụ vốn
là trừu tượng. Thí dụ của ông xét theo Lư và Sự
đều vô ngại. Tánh ắt cụ thể, nhưng chẳng
phải là chân thật. Thử xem những
điều Mạnh Tử, Tuân Tử, Cáo Tử,
Dương Tử đă nói, không ǵ chẳng phải là thí dụ.
Tạm thời chẳng nói đến điều chất
vấn ấy (điều chất vấn của người
bạn ông), hăy nói đến chuyện hổ thẹn, tột
cùng là vật ǵ? Ông Vương Dương Minh chỉ lấy
chuyện đỏ mặt để h́nh dung [sự hổ
thẹn], nhưng đỏ là đỏ, hổ thẹn là
hổ thẹn, rốt cuộc chẳng phải là cùng
một chuyện! Nếu cứ đ̣i phải là cụ thể,
trừ phi là tự chứng [th́ mới có thể tự nhận
biết rơ ràng].
*
Hỏi: Nếu chẳng đắc thiên đạo, vẫn
khó thoát khỏi nỗi khổ luân hồi. Nói như vậy,
có thể thấy là cơi trời đă thoát luân hồi, sao lại
xếp [cơi trời] vào trong sáu nẻo luân hồi? Xin hăy dạy
cho! (Vương Tác Cát hỏi)
Đáp:
Do ông hỏi về Phật pháp, nên tôi chỉ căn cứ
theo kinh Phật để thưa tŕnh. Theo kinh Phật, trong
lục phàm, chư thiên vẫn đang luân hồi! Kinh điển
Đại, Tiểu Thừa đều nói như vậy.
Ngoại đạo chẳng hiểu nghĩa này, giải
nói lầm lạc. Chuyện này chính là “ăn trộm áo nhà
vua, khoác mặc xộc xệch”, dối ḿnh, lừa người,
chẳng có mảy may ư nghĩa ǵ!
*
Hỏi: Thầy phản đối chuyện dịch kinh
văn [từ Văn Ngôn] sang văn Bạch Thoại, học
tṛ rất cảm phục! Nhưng trong tâm học tṛ có nghi
vấn: Chúng ta đă chẳng thể dịch kinh văn
thành Bạch Thoại, đương nhiên là chẳng thể
dịch sang tiếng Anh. Như vậy th́ trước mắt,
làm thế nào để hoằng dương Phật giáo tại
các nước Tây phương?
(Giản Tông Tu hỏi)
Đáp:
Đây là hiểu lầm! Đối với sự nghiệp
dịch kinh, lấy các vị cổ đức dịch kinh
[từ tiếng Phạn] sang tiếng Hán để luận
định: Một là văn lư Phạn và Hán đều tinh
thông; hai là đă thông suốt trọn khắp ư chỉ của
Tam Tạng, chẳng v́ thiên mà hại viên; ba là [các vị cổ
đức dịch kinh đều là] người tu chân thật,
đă đắc, đă chứng, tâm khế hợp đạo,
dùng từ ngữ chẳng khiến cho ư nghĩa bị sai lạc.
Nếu [hội đủ các phẩm đức] như thế
th́ dịch [kinh Phật] sang Văn Ngôn, hay dịch sang
văn Bạch Thoại, dịch sang tiếng Anh, dịch
sang tiếng Nhật, không ǵ là chẳng được! Tiếc
là cơ duyên của chúng sanh Âu Mỹ chưa chín muồi, lại
chẳng có những vị hiền giả như La Thập,
Thật Xoa [Nan Đà], Huyền Trang v.v… ứng thế để
làm sự nghiệp này!
*
Hỏi: Cha tôi thân thể chẳng khỏe, đi hỏi thầy
đồng về t́nh trạng an nguy. Thầy đồng
nói cha tôi có vong hồn và âm hỏa quấy nhiễu, chẳng
biết v́ sao gặp phải ma quái như vậy? (Trần Tín Tam hỏi)
Đáp:
Thầy đồng hiện thời chẳng như thầy
đồng thuở xưa, toàn là bọn giang hồ lường
gạt kiếm cơm, lời lẽ há đáng tin tưởng
ư? Cư sĩ đă tin Phật pháp, lại ôm ḷng hiếu
thảo, không ǵ bằng một mặt t́m kiếm thầy
thuốc giỏi, trước hết là tận hết sức
người, một mặt là niệm Phật, tụng
kinh, cầu Phật gia bị. Nói “niệm Phật, tụng kinh” chính là nói tinh thành tự
thực hiện, chẳng phải là đánh trống, khua chập
chơa, thổi sáo, gảy đàn, rùm beng bề ngoài! Ngoài ra, hoặc
là phóng sanh, hoặc là in kinh, lượng sức để
làm. Phật lực, công đức, y thuật, chuyên tâm
đều trọn hết, chắc là sẽ có cảm ứng.
*
Hỏi: Trần Tĩnh Cô, Tô Phu Nhân và Nhất Phẩm Phu
Nhân có phải là thần minh chân chánh hay không? (Trần Tín Tam hỏi)
Đáp:
Chẳng thấy kinh truyện, chẳng thấy có vị thần
nào [được nói tên như thế], sao đáng để
luận định cho được?
* Hỏi:
Dựa theo lời nói th́ ba vị thần minh ấy cũng
có thỉnh Ngọc Hoàng Đại Đế giáng chỉ
đến tuần tra nhà cửa tôi, có biện pháp nào hay
chăng? (Trần Tín Tam hỏi)
Đáp:
Thiên hạ rộng lớn, Ngọc Hoàng tôn quư, cớ sao lại
đến tuần tra một ḿnh quư phủ? Đúng là chuyện
kỳ quái! “Dựa theo lời
nói” là dựa theo lời nói của ai? Chắc là lời
lẽ của bọn đồng cốt nhảm nhí mượn
chuyện ấy để lừa tiền! Chẳng có chuyện
ǵ mà lại bới ra chuyện rắc rối, chẳng có
tà mà cầu tà, là lỗi của ai vậy? Biện pháp chỉ
ở nơi chính ḿnh mà thôi!
* Hỏi:
Cha mẹ tôi mê muội Đạo giáo quá lố, tạ chỉ[25],
cải vận, bù đắp vận mạng, giết lợn
cúng ông trời, làm cả đống chuyện hồ đồ,
trọn chẳng có hiệu quả ǵ. V́ thế, tôi đă
nhiều lần can gián, nhưng chẳng lọt tai, mong hăy
giải quyết cho tôi! (Trần
Tín Tam hỏi)
Đáp:
Chỉ có chính cư sĩ trước hết hăy hiểu rơ
tà và chánh, sau đó dùng lời lẽ mềm mỏng chỉ
điểm, khiến cho song thân cải tà, quy chánh. Trước
hết, hăy lánh xa bọn đồng cốt quái đản.
Trong tâm chẳng có quỷ, quỷ cũng chẳng đến.
Trong tâm có quỷ, quỷ bèn dựa thân, gia đ́nh rất tốt
đẹp cũng biến thành ổ quỷ!
* Hỏi:
Anh tôi ngă bệnh, bệnh t́nh hết sức nghiêm trọng,
uống thuốc vô hiệu, cũng đi hỏi Thánh Mẫu,
Đại Đế, họ bảo rơ là có một nữ
vong hồn lẩn quẩn bên thân anh tôi, muốn kết hôn
với anh; sau đấy, [vong hồn ấy] tiếp nhận
sự cúng bái. Thế nhưng một vong hồn hoàn toàn chẳng
quen biết, chẳng biết v́ sao lại tới nhiễu
loạn anh tôi? (Trần Tín Tam hỏi)
Đáp:
Dường như cư sĩ cũng tin vào chuyện yêu vọng
ấy! Cả nhà là như thế, chẳng trách những lời
lẽ yêu mị đă in vào tâm, quỷ ảnh đầy cửa.
Đại khái là những lời lẽ quỷ ma ấy
cũng do bọn đồng cốt quàng xiên bịa đặt!
Nay tôi bảo rơ, chẳng có vong hồn nào nhiễu loạn
quư phủ. Cái gây nhiễu loạn chính là tự tâm nhiễu
loạn. Nếu chịu hạ quyết tâm, coi Trần
Tĩnh Cô, Tô Phu Nhân, Nhất Phẩm Phu Nhân, Thánh Mẫu,
Đại Đế đều giống như lũ đồng
cốt quàng xiên, nhất loạt đuổi sạch khỏi
cửa, hết thảy sẽ b́nh an!
*
Hỏi: Các kinh Phật đều là do các vị đệ
tử Phật kết tập, ghi chép tạo thành. Nhưng
thời gian kết tập lần thứ hai, lần thứ
ba đă cách lúc đức Phật diệt độ quá xa,
thế th́ người kết tập hoàn toàn chưa
đích thân nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, làm sao có
thể ghi chép, thuật lại cho được? (Vương Huyễn Minh hỏi)
Đáp:
Cái học của cổ nhân đều có sư thừa,
đệ tử có người được truyền lần
thứ hai, truyền lần thứ ba, cho nên có khảo cứu
và tư thục[26].
Lưu truyền cổ thư, đại để là
như vậy. Thử dùng kinh sách của nước ta
để tỷ dụ, sẽ suy ra chẳng khó khăn ǵ!
Châu Công nghĩ tưởng tam vương[27],
Khổng Tử truyền thuật lời dạy của
Nghiêu, Thuấn. Châu Công và tam vương, Khổng Tử và
Nghiêu Thuấn đều cách biệt rất xa, v́ sao có thể
cùng nghĩ tưởng và truyền thuật được?
Đó là một lẽ. Cuộc chiến giữa Hoàng Đế
và Xi Vưu[28], khuôn
phép thời Tam Đại, đều cách đời Hán
hơn một ngàn năm, một chuyện được
chép trong Sử Kư Tư Mă Thiên, một chuyện là do chính miệng
Phục Sanh[29] kể
lại. Dùng chuyện này để suy ra lẽ kia, há c̣n ngờ
ư?
*
Hỏi: Kinh nói: “Từ vô thỉ
đến nay…” dường như là v́ số kiếp xa
xôi nhiều như cát sông Hằng, chẳng có cách nào để
h́nh dung, bèn dùng chữ “vô thỉ”
để thay thế. Nếu bạn bè thuộc tôn giáo khác
cật vấn trước tất cả kiếp số sẽ
lại là diện mạo như thế nào? V́ thế, chữ
“vô thỉ” thật sự là
khó thể diễn tả viên măn. Văn bối đă suy nghĩ
trăm lượt, vẫn chẳng hiểu được!
(Vương Huyễn Như hỏi)
Đáp:
“Vô thỉ” là không có khởi
đầu, chính là từ ngữ chân thật, là từ ngữ
khoa học. Hễ nói “có khởi đầu”, tức là từ
ngữ thuộc một giai đoạn, chính là từ ngữ
nói phương tiện. Cư sĩ “suy nghĩ trăm lượt chẳng hiểu”,
nghĩ ngàn lượt chắc sẽ hiểu! Kẻ theo
tôn giáo khác chất vấn th́ cũng có khi dễ đáp,
cũng có lúc khó đáp! Người trí có cái nh́n giống
nhau, triết học và khoa học đều có thể dùng
để giải thích. [Gặp phải trường hợp]
người nghe có kiến giải chấp trước mà
trích dẫn kinh điển, chỉ càng tăng thêm mê hoặc
cho họ! Đến nông nỗi ấy, chẳng ngại
bàn định bằng phương tiện: Đă biết “vô thỉ” th́ hăy lại nên biết
có “vô chung”. Đối với
hai thứ ấy, có thể hiểu được một
thứ, sẽ thông hiểu trọn hết. Trong toán học
có con số “bất tận”
(số vô cực, ∞), xin hỏi “bất tận” là kết thúc ư? Lại nói theo
phương tiện, khởi đầu th́ tướng là
không, lại truy cầu trước cái Không ấy, bèn
đáp là tướng biến hoại. Lại truy đến
trước khi hoại th́ sẽ đáp là tướng
ngưng trụ. Lại truy đến trước khi có
tướng ngưng trụ, th́ lời đáp là tướng
sanh thành. Lại truy đến trước khi có tướng
sanh thành, bèn đáp là tướng không. Đó là cách giải
thích nông cạn về vô thỉ vô chung. Biết chuyện
này, sẽ có thể ngộ Vô Sanh.
*
Hỏi: Vị Phật đầu tiên trước tất cả
kiếp số là vị nào? (Vương
Huyễn Như hỏi)
Đáp:
Đối với từ ngữ “trước
kiếp số”, tại hạ phải nói là “từ ngày
hôm nay trở đi”, nếu biết ngày hôm nay là ngày nào
[trong ḍng thời gian vô tận] th́ mới có thể nói chắc
“kiếp số” là thời nào! Nếu xét theo cách tính toán, ắt
phải có vị trí nhất định th́ mới dễ
nói là trước hay sau, [đă có trước hay sau nhất
định th́] đối với đầu mối to lớn
này, không ǵ là chẳng thể trả lời! Nếu chẳng
hỏi như thế, chỉ đành nói là: Trước khi
có kiếp số, vẫn là có kiếp số. Như thế
th́ kiếp số này đến kiếp số kia, suy măi cho
đến vô thỉ, c̣n chẳng biết là thời nào, làm
sao có thể nói tới vị Phật đầu tiên cho
được!
* Hỏi:
Quán Thế Âm Bồ Tát thuộc địa vị Hậu Bổ
Phật trong cơi Cực Lạc. Nếu một mai, Ngài dự
vào địa vị Phật, A Di Đà Phật sẽ
đi về đâu? Vô Lượng Thọ và Vô Lượng
Quang chẳng phải là không thể thành lập ư? (Vương Huyễn Như hỏi)
Đáp:
Do v́ như vậy, chẳng trụ Niết Bàn, tùy loại
hóa thân trong hằng sa thế giới, rộng độ chúng
sanh, chợt hiện, chợt ẩn, từ xứ Giáp tới
xứ Ất, từ châu này sang châu kia, hoàn toàn chẳng phải
là sanh tử, chớ nên hiểu lầm!
* Hỏi:
Để chứng quả La Hán, c̣n phải trải qua bảy
lần sanh tử trong cơi trời và nhân gian; các vị
như Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Tu
Bồ Đề v.v… chỉ trong ṿng mấy chục năm
làm sao có thể chứng quả La Hán? (Tŕ Huệ Sâm hỏi)
Đáp:
Lời hỏi của cư sĩ sâu xa, thiết tha như
thế, ắt đă biết
thời gian để thành Phật lâu xa, phải mất tới
ba A-tăng-kỳ kiếp. Thử nghĩ Thích Ca Thế Tôn ở
trong cơi Sa Bà này chỉ hơn tám mươi năm mà thôi, quả
thật là đă thành Phật, cớ sao chẳng trải qua
ba A-tăng-kỳ kiếp? Chắc là ông có thể tự
đáp. Đă có thể biết đấng Thích Tôn do duyên cớ
nào mà chẳng trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, như
vậy th́ đối với hai vị Mục Kiền Liên
và Xá Lợi Phất, [v́ sao] chẳng trải qua bảy phen
qua lại trong đường trời người, suy ra sẽ
biết, cần ǵ phải mất công hỏi han chi nữa?
*
Hỏi: Để tham gia pháp hội và nghe kinh, có thể nói
dối cha mẹ được không? (v́ gia cảnh chẳng
cho phép học Phật) (Trịnh
Chí Tây hỏi)
Đáp:
Nếu chưa chánh thức thọ giới, sẽ có thể
tự thông đạt quyền biến. Nếu đă thật
sự thọ, v́ duyên cớ nghe kinh mà nói dối để
lừa cha mẹ, tức là thân làm lành, chẳng phải là tạo
ác. Có thể đối trước Phật, chí thành cầu
đảo sám hối, xả một giới ấy, vẫn
nghiêm túc giữ ǵn các giới khác. Dẫu xả một giới
vọng ngữ ấy, tuy là xả, cũng chớ nên gặp
chuyện bèn tùy tiện lừa dối. Do cầu pháp mà xả,
chính là ư thiện; nhưng v́ chuyện khác mà nói dối th́ vẫn
là ác!
*
Hỏi: “Bách giới thiên
như” nghĩa là trong mỗi một giới có mười
giới, nhưng như trong Phật pháp giới [chẳng hạn],
há có các giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh
v.v… ư? Xin hăy giải trừ nỗi nghi! (Trịnh Chí Tây hỏi)
Đáp:
Pháp giới nếu nói riêng biệt sẽ là hằng sa khó
lường. Nói tổng quát th́ chỉ có một. “Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ
chẳng sai biệt”, “mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”.
Quán như thế, nếu nói tách biệt th́ là mười
pháp giới, nói tổng quát th́ chỉ là một! Nhưng tuy
nói là một, Phật tự là Phật, phàm tự là phàm. Lư
như thế cực kỳ vi diệu, chỉ nói đại
khái; hễ nói tường tận, sẽ là vạn lời
chẳng trọn! Lại nói đến chuyện này (chuyện
được nêu ra trong câu hỏi), đối với cơi
đại thiên Sa Bà này, thế giới chẳng phải là
pháp giới của Thích Ca Thế Tôn ư? Cơi đại
thiên Sa Bà này có lục đạo hay không? Phải nên biết:
Hễ có niệm bèn có giới; chẳng có niệm th́ không
có giới.
*
Hỏi: Tại gia nữ cư sĩ sau khi văng sanh có thể
tới cơi Cực Lạc hay không? Nếu được tới
đó, sẽ chuyển sanh thành thân nam tử, sanh về Tịnh
Độ ư? Có căn cứ ǵ hay không? (Tăng Khải Nguyên hỏi)
Đáp:
Nói “văng sanh” tức là sanh vào
Cực Lạc. Người học Phật cần phải
hiểu rơ Phật lư, Phật lư được chép đầy
đủ trong kinh Phật. Kinh A Di Đà nói rành rành “thiện nam tử, thiện nữ
nhân chấp tŕ danh hiệu, nhất tâm bất loạn,
đều được văng sanh Cực Lạc”. Hoàn
toàn chẳng nói: Nam sanh Cực Lạc, nữ chẳng sanh Cực
Lạc! Kính xin giới thiệu cho ông mấy tập sách nhỏ
như sau: Học Phật Thiển Thuyết, Phật Pháp
Đạo Luận, Kỹ Lộ Chỉ Quy, Sơ Cơ Tịnh
Nghiệp Chỉ Nam. Đọc kỹ mỗi sách đôi ba
lượt, sẽ có thể biết đại lược
đường nẻo, chẳng đến nỗi hiểu
sai lầm!
*
Hỏi: Cổ đức nói: “Chỉ
trừ sạch phàm t́nh, chứ không có thánh giải nào khác”,
cảnh giới này và quan niệm Đoạn Kiến “người đă chết giống
như đèn tắt” có ǵ khác nhau? (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp:
Đứng đầu trong phàm t́nh là ư niệm ghét,
thương, phân biệt. Đoạn Kiến vẫn là vọng
niệm phân biệt. Vọng niệm chính là phàm t́nh. Cổ
đức nói “trừ sạch
phàm t́nh”, c̣n Đoạn Kiến như cư sĩ đă
nói lại là phát khởi phàm t́nh, há chẳng phải là bất
đồng như băng và tro ư?
*
Hỏi: Đối với duyên cớ do đọc kinh Phật
mà có cảm ứng, có người bảo đấy là sự
linh nghiệm của Phật, như những điều
được nói trong các sách chép chuyện cảm ứng,
có người bảo: Khi niệm kinh, do ức chế quá lố,
hoặc mong hàng phục vọng niệm, hoặc mong mỏi
quá lố, tự nhiên sẽ dẫn khởi sức mạnh
trái nghịch có tác dụng chống lại [sự đè nén
ấy]; đấy chính là một hiện tượng sinh
lư. Nếu nói theo cách sau, Phật giáo há có nên giới thiệu
Quán Thế Âm Cảm Ứng Lục, biên soạn, ấn hành
Niệm Phật Kiến Văn Kư, khiến cho người
niệm Phật nẩy sanh vọng niệm? Nếu chiếu
theo cách nói trước, lời giải thích trong bộ
Lăng Nghiêm Kinh Đại Nghĩa Kim Thích do tiên sinh Nam Hoài
Cẩn biên soạn há chẳng phải là sai lầm ư? Giữa
hai đằng, ai sai, ai đúng? (Hác
Truyền Sâm hỏi)
Đáp:
Hai thuyết trước và sau đều có Lư, gộp chung
lại để xem th́ đúng, chấp trước một
thuyết bèn sai! Ví như đối với một vật,
cần phải xét đến bảy phía: Bên ngoài là sáu
phương, bên trong là trung tâm. Biết một mà chẳng biết
hai, biết ngoài mà chẳng biết trong, th́ gọi là cái thấy
lệch lạc, chẳng phải là chân tướng. Người
học Phật y pháp, bất y nhân. Kinh chép “ngũ nhăn, lục thông”, đă là có “thông”, sao lại
chẳng linh? Đó là điều khiến cho thuyết
trước không có ǵ đáng nghi vậy! Kinh nói “hết thảy chỉ do tâm tạo”,
biết điều này th́ có chuyện ǵ chẳng phải là
tác dụng của tâm? Nếu chẳng hàng phục vọng
niệm, há có cảm ứng? Đây chính là điều khiến
cho thuyết sau chẳng thể phủ
nhận được! Cổ đức có tỷ dụ,
tâm như nước, Phật như trăng, trăng vốn
in bóng nơi nước. Nếu nước đục ngầu,
xao động, trăng chẳng thể hiện. Nếu
nước trong lặng, trăng hiện rơ ràng. Nhưng
đối với hai thuyết này, cần phải là người
tinh thông Phật lư th́ mới nói năng đúng lư. Nếu
không, sẽ là tựa hồ đúng, mà thật ra sai bét! Sai
chỉ hào ly, lầm lạc ngàn dặm!
* Hỏi: Đệ tử do ít tṛ chuyện
cùng người khác, chỉ có suy nghĩ trong ḷng, nhưng
sau khi tai bị điếc, trong ư niệm mới có tướng
của âm thanh, cảm thấy nhiều khi ở trong đầu,
đă ngủ rồi mà vẫn mộng mị hồ đồ
không ngớt. Lại c̣n vào lúc tỉnh giấc buổi sáng,
[nhận thấy] những điều c̣n sót lại trong mộng
và ư niệm rất rơ rệt ở trong đầu. V́ thế,
các nhà y học chủ trương năo chủ quản tri
giác, suy tư. Gần đây, đệ tử cảm thấy
ư niệm thật ra là tác dụng của năo, mà năo cũng là
bản thể ư của ư niệm, há c̣n có bản tánh ư?
[Nhà Phật có nói] “do tánh mê là niệm,
lại nói mê và ngộ tuy khác, nhưng Thể của chúng chẳng
hai. Ư niệm chính là bản tánh, ư niệm là tác dụng của
bản tánh sau khi đă mê”, do lập ra các kiểu nói
như vậy, đến nỗi [người nghe] nẩy
sanh nghi ngờ. Xin hăy chỉ điểm cho kẻ mê. (Hồng Triều Nguyên hỏi)
Đáp:
Bản tánh tịch tĩnh quang minh, do một niệm bất
giác mà có vô minh, nên gọi là mê. Mê th́ vọng niệm chẳng
ngừng. Những ǵ giới y khoa đă biết chính là sinh
lư, c̣n cái học về tâm tánh chẳng phải là chuyện
họ hiểu biết được! Niệm bắt nguồn
từ vọng, vọng bắt nguồn từ mê, mê bắt
nguồn từ vô minh, vô minh bắt nguồn từ bất
giác, bất giác vốn thuộc về giác tánh. Cách nói “niệm
là tác dụng của bản tánh” trong lời hỏi tuy
chưa thông đạt, nhưng xét theo những điều
vừa giải thích trên đây th́ ư nghĩa cũng chẳng
xa!
*
Hỏi: Gần đây, các nhà y học nói: “Nguyên tử có khả
năng phân giải và dung hợp, vạn vật có lư
tương sanh, tương khắc”. Dựa theo thuyết
đó, thuyết “vạn pháp do
duyên sanh” của nhà Phật rất rơ rệt. Đầu
năo đúng là duyên sanh, ư niệm cũng là duyên sanh, không ǵ chẳng
phải là huyễn hóa, chẳng đáng để bận
tâm! Đoạn ư niệm th́ rành rẽ, rơ ràng là “không ǵ chẳng
phải là một niệm bất sanh”, toàn thể hiện
ra ư? Nhưng nếu chỉ là như thế th́ chẳng
khỏi là quá cứng ngắc, chẳng thể vận dụng
[linh hoạt], v́ Dụng chính là động niệm, động
niệm chính là huyễn. Người ta chẳng thể suốt
đời luôn tĩnh lặng, chẳng thể vĩnh viễn
là một niệm chẳng sanh, muốn thường giữ
măi chẳng mất, đúng là chẳng thể nào được!
Đúng không? (Hồng Triều
Nguyên hỏi)
Đáp:
Luận điệu này vừa minh bạch, vừa chẳng
minh bạch. Hăy nên biết Sự và Lư có chân và huyễn. Chân
chỉ là một tánh, huyễn là vô lượng các pháp. Các
pháp do nhân duyên huyễn sanh, tánh chẳng phải là nhân duyên.
Tánh vốn tịch, bất biến, các pháp ứng mà tùy
duyên. Tịch mà bất biến, tức là “một niệm bất
sanh”. Bất sanh bèn bất diệt; cho nên nói là “chân thường”.
Ứng mà tùy duyên, tức là chẳng khởi niệm mà tùy
duyên, chẳng nghe hai câu “bất
biến tùy duyên” và “tùy duyên bất
biến” đó ư? Đă là tùy duyên th́ làm sao cứng ngắc
cho được? Những điều nghi ngờ của
cư sĩ phần nhiều là chuyện chẳng thể có
được, đều thuộc về cảnh giới
phàm phu. Nếu đạt đến cảnh giới thánh
nhân, chẳng có ǵ là có thể hay không thể! Tâm chiếu mà
tịch, tịch mà chiếu, suốt ngày bất biến mà
là suốt ngày tùy duyên, suốt ngày tùy duyên mà suốt ngày bất
biến!
*
Hỏi: Khoa học gia hiện thời sắp đặt
chân lên mặt trăng, họ tin tưởng sẽ hoàn
thành [chuyện đó] trước năm 1970. Họ không ngừng
thăm ḍ, chụp ảnh nguyệt cầu, phát hiện
nơi nơi đều là nham thạch của núi lửa,
chẳng thấy cỏ, cây, sinh vật. Đối với
tinh cầu, họ từng dùng phi thuyền Venus số 4
để tiến hành thăm ḍ Kim Tinh, phát hiện nhiệt
độ trên Kim Tinh cao hơn hai trăm độ (chẳng
biết là hai trăm hay bốn trăm v́ tôi đă quên mất),
và nói nhiệt độ cao như vậy th́ sinh vật chẳng
thể sống sót! Lỡ mai sau họ lên đó, chứng thực
chẳng có sinh vật, vậy th́ đối với những
tinh cầu khác, tôi nghĩ cũng chẳng phải là ngoại
lệ. Do đức Phật nói
“quốc độ vô tận”, sợ rằng cũng chẳng
thông! Không ǵ chẳng phải là [trong toàn thể vũ trụ]
chỉ có địa cầu [là có sự sống]. Nếu đă
là như vậy, làm sao có Tịnh Độ cho được?
Cho nên chuyên niệm Tịnh Độ xét theo Sự, quả
thật là quá sức mờ mịt! Trong lời tựa cho
cuốn Di Đà Kinh Bạch Thoại Giải Thích do cư
sĩ Hoàng Trí Hải diễn thuật có viết: “Ôi! Đạo vốn vô ngôn,
nhưng chẳng nói th́ không hiển lộ được.
Kinh này là do đức Phật ta bất đắc dĩ
nói ra”. Coi ư nghĩa thật sự của Tịnh Độ
là một thứ pháp môn phương tiện nhằm giác ngộ,
ẩn kín trong ấy, chứ không có sự thật để
niệm th́ cũng rơ rệt vậy. Tôi nghĩ ắt là
đức Phật quyền biến chỉ ra một cảnh,
nhằm khiến cho người đời nay buộc ḷng
nơi đó, tâm chẳng tán loạn, ḥng chứng bản
tánh như như. Đại đức nghĩ như thế
nào? (Hồng Triều Nguyên hỏi)
Đáp:
Lập luận này sai lầm to lớn! Phật pháp tuy có Quyền
và Thật; nhằm dễ dàng diễn nói, nên nói phân tích (tức
là nói Quyền và Thật rạch ṛi). Vận dụng th́ thiện
xảo, có lập, có phế, có khai, có hiển; thật ra, vạn
pháp như một, há có Quyền hay Thật? Nhưng
nghĩa Như của pháp, Lư sâu tột cùng, [nếu chỉ
diễn giải bằng] dăm ba lời, sẽ chẳng
thể hiểu rơ! Nay tôi xin thưa tŕnh nông cạn nhất
ḥng trừ khử sự chấp trước lệch lạc!
Kinh nói tới thế giới th́ có ba loại: Một là hữu
t́nh thế gian, tức là thân tướng của phàm phu; hai
là khí thế gian, tức là núi, sông, đại địa,
thực vật, khoáng vật; ba là chánh giác thế gian, tức
là Phật Tánh và Phật độ. Mặt trăng là khí thế
gian. Cực Lạc là chánh giác thế gian. Mặt trăng
qua ngàn vạn lần thăm ḍ, chỉ thấy được
một nửa, vẫn c̣n mơ hồ, mờ mịt! Dùng
[những điều hiểu biết sơ khởi ấy]
để suy đoán [t́nh h́nh của] các ngôi sao trong Ngân Hà,
chẳng khỏi là vơ đoán! Dẫu nói là đă thăm ḍ
toàn bộ các tinh cầu thuộc cùng một tinh vân, thấy
chúng chẳng khác ǵ nhau, chúng vẫn là khí thế gian! Chẳng
thể dựa vào đó để bàn luận chánh giác Cực
Lạc được! Có thể tuân theo lời tôi đă nói
hay không? Thưa rằng, cũng có thể, mà cũng không thể.
Đối với kẻ chẳng hiểu tâm pháp th́ có thể
nói như vậy. Đối với người đă hiểu
rơ tâm pháp, vẫn dùng nghĩa Như của các pháp để
đáp.
*
Hỏi: Do thân thể là huyễn hóa, cần phải cậy
vào dinh dưỡng để duy tŕ sự sống. Ăn thịt
có thể duy tŕ cơ thể, ăn chay cũng có thể duy
tŕ, nhưng nông dân ở vùng quê đều ăn những thứ
rau trồng trọt trong ruộng vườn và những thứ
thịt. Nếu chỉ ăn mấy loại thực phẩm
trong vườn, sợ là chẳng đủ chất dinh
dưỡng cần thiết. V́ thế, hy vọng những
Phật giáo đồ tiên tiến hăy sưu tập tài liệu,
biên soạn một quyển sách dạy nấu món chay. Nếu
một món có tới mấy tên gọi, hăy đều nên ghi
rơ, v́ phần lớn người ta sợ ăn chay là do
nghĩ [thực phẩm chay] chẳng có đủ chất
dinh dưỡng. Tôi thể chất yếu đuối, muốn
ăn chay, nhưng người nhà không chấp thuận! (Hồng Triều Nguyên hỏi)
Đáp:
Ăn thịt là tập khí nhiều đời; thật ra,
dinh dưỡng chẳng bằng đồ chay. Sách Nội
Kinh[30] của
Trung Y (y học Trung Hoa) có nói: “Dân
sống ở ven sông biển ở phương Đông
ăn cá, khiến cho người ta bị nhiệt, sinh bệnh
ghẻ chốc”. Người phương Tây ăn nhiều
chất béo, sanh bệnh bên trong [nội tạng]. Ở
phương Tây, để đề pḥng chứng xơ cứng
động mạch, phải kiêng ăn mỡ động vật.
Đối với chuyện ăn chay trong nhà Phật, các vị
cao tăng xưa nay nhiều vị thọ từ tám
mươi cho tới hơn trăm tuổi; đă thế,
sáu căn chẳng suy. Tại lưu vực Hoàng Hà ở
Trung Hoa, dân ở vùng quê, mỗi năm trong ba ngày lễ tết
mới ăn thịt một lần, đều thọ
hơn kẻ ăn thịt sống ở thành thị, lại
c̣n khỏe mạnh, ít bệnh. Sự thật đều
có, chẳng phải là lư tưởng suông! C̣n như những
sách nghiên cứu chất vitamin chứa trong thực vật,
và những sách dạy nấu món chay trong những năm qua
đă được xuất bản thật nhiều! Nếu
họ chẳng tin th́ làm sao được nữa? Hơn nữa,
ở Âu Tây, những người nói đến cách sống
lành mạnh có lập hội ăn chay. Trong những người
chẳng phải là Phật tử ở Trung Hoa, cũng có
nhiều tổ chức giống như vậy. Những
điều vừa nêu trên đây đều là nói theo
phương diện dưỡng sinh. Nếu nói theo lẽ
từ bi, nếu như chẳng thể đè nén thói ham muốn
ăn uống được, th́ ba hay năm loại tịnh
nhục[31] có thể
giải trừ nỗi tham ăn vậy!
* Hỏi:
Có người nói: Hết thảy kinh điển đều
do đức Phật nói ra, sao lại phải đối
trước đức Phật niệm kinh? Đă là do
đức Phật nói, cớ sao hằng ngày lại tụng
kinh cho Phật nghe vậy?
Đáp:
Chuyện này có hai nghĩa:
1) Một
là người học tự tu, Phật là Bổn Sư,
đệ tử ở trước Phật dụng công, chí
thành, cung kính, bèn dễ thành tựu.
2) Hai,
kinh Phật chính là quá khứ vô ương số chư Phật
đều nói những kinh ấy, hoàn toàn chẳng phải
là lời lẽ của một đức Phật. Kinh là Pháp
Bảo, quư báu nhất trong các của báu. Đối trước
Phật cúng dường trăm thứ báu, diệu vị,
hương, đèn, hoa, nước, tràng phan, chuỗi hoa, lọng,
đều là những vật thế tục, ắt phải
dùng kinh pháp để cúng dường th́ mới là trọn
vẹn các thứ quư báu!
*
Hỏi: Trong khi thái tử Tất Đạt Đa giáng sanh,
mặt đất bỗng hiện ra bảy đóa hoa sen. Ngài
một tay chỉ trời, một tay chỉ đất,
chân bước trên hoa sen, nói: “Thiên
thượng, thiên hạ, duy ngă độc tôn”. Có người
hỏi: V́ sao vừa sanh ra liền có thể đi và biết
nói? “Thiên thượng, thiên hạ,
duy ngă độc tôn” nghĩa là ǵ? (Cố Phượng Anh hỏi)
Đáp:
Sanh ra liền biết nói, sử sách ghi chép nhiều lắm,
huống hồ đức Thế Tôn thị hiện giáng
sanh, biểu thị điềm lạ. “Duy ngă độc tôn” là xét theo sự biểu thị.
Ngài là bậc Đạo Sư của ba đời, chẳng
phải là tôn quư hay sao? Xét theo đạo, [Ngă trong câu nói ấy
chính là] ngă tánh chân thật. [Nói như vậy] nhằm dạy
chúng sanh nhận biết bản tánh, chân thường, bất
biến, có thể sanh ra vạn pháp, những thứ khác
đều là hư vọng, chỉ có điều này (Chân
Ngă) là độc tôn.
*
Hỏi: Bài kệ tụng trong phẩm Phổ Môn có câu: “Chú trớ chư độc
dược, sở dục hại thân giả, niệm bỉ
Quán Âm lực, hoàn trước ư bổn nhân” (Nguyền
rủa, các thuốc độc, những mong toan hại
thân, do sức niệm Quán Âm, trở ngược kẻ làm
hại). Cách làm như thế có phải là thương tổn
ḷng Từ hay chăng? Đối phương dùng thuốc
độc gây hại, tuy chúng ta niệm thánh hiệu
được [Bồ Tát] cứu giúp, nhưng thuốc
độc ấy hại ngược lại đối
phương; như thế th́ chẳng phải là quá sức
đánh mất tông chỉ từ bi hay không? (Bổn Như hỏi)
Đáp:
Ông Tô Đông Pha đời Tống từng có nỗi hoài
nghi này, bèn tự tiện sửa kinh, đă bị cổ
đức quở trách. Ấy là v́ ư nghĩa chủ yếu
trong câu “hoàn trước ư bổn
nhân” hoàn toàn chẳng phải là người bị nguyền
rủa, hạ độc bèn báo thù [kẻ gây hại],
cũng chẳng phải là do Quán Âm gieo hại xuống thân
người [làm ác] đó, mà là như kinh Tứ Thập Nhị
Chương có dạy: “Tử
dĩ lễ tùng nhân, kỳ nhân bất nạp, lễ quy tử
hồ? Đối viết: Quy hỹ” (Ông đem lễ vật
tặng cho người ta, người ấy chẳng nhận,
lễ vật có trở lại nơi ông hay không? Thưa: Trở
lại ạ!) Có cùng ư nghĩa này!
*
Hỏi: Giáo sư Trương Trừng Cơ[32]
viết tác phẩm “Phật pháp là ǵ”, trong sách ấy có câu: “Tịnh Độ liễu
nghĩa trong Phật pháp có thể là phương Tây, mà
cũng có thể ở phương Đông, mà cũng có thể
ở ngay trong thế giới này”. Trong kinh Duy Ma Cật
có nói: “Tâm tịnh ắt cơi
nước tịnh. Ông có thể tự tịnh cái tâm th́
cơi này chính là Tịnh Độ”. Điều này có mâu thuẫn
với nơi chốn được nói trong kinh A Di Đà
hay không? (Trần Đại
Hùng hỏi)
Đáp:
Hai chữ Tịnh Độ dùng để chỉ chung các cơi
Phật thanh tịnh. Tịnh Độ được nói
trong các kinh, mỗi cơi có tánh chất khác nhau. Nếu gượng
quy nạp lại, sẽ đến mười thứ. Nói
là phương Tây hay phương Đông, hoặc nói theo
kinh Duy Ma, hoặc kinh Di Đà, bèn có những cơi khác nhau, ư
nghĩa đều chẳng tương đồng. Hiện
ra cái nhân khác nhau, Tướng và Dụng cũng đều
khác biệt. Đă là Tướng và Dụng khác biệt, chẳng
có ǵ đáng gọi là xung đột! Nếu mong hiểu rơ
ư nghĩa này, do Tam Tạng mênh mông, khi [bản thân ông] c̣n đang
học hành trong nhà trường, chẳng dễ ǵ có thời
gian [nghiên cứu Tam Tạng cặn kẽ]. Có thể là
trước hết, hăy chọn bộ Tây Phương Hợp
Luận của ông Viên Trung Lang để xem một lượt,
tuy chẳng thể thông tỏ triệt để, cũng
đủ để thấy được phần nào, ngơ
hầu chẳng nghi Đông, ngờ Tây, mờ mịt, chẳng
có đầu mối!
*
Hỏi: Ranh giới giữa con người và súc sanh có tiêu
chuẩn nhất định hay không? Nếu trong những
tinh cầu khác có động vật có trí huệ cao hơn
con người th́ chúng thuộc đường nào trong sáu
đường? (Trần Đại
Hùng hỏi)
Đáp:
Dùng h́nh thể để luận, đầu trên, chân dưới,
chính giữa là chân tay, đi thẳng, tay chuyên nắm, chân
chuyên đi, da sáng sủa, mặc quần áo, thân sống
trong nhà cửa trên đất liền. Dùng sự để
luận th́ có luân thường, có tổ chức, có sự
nghiệp, văn hóa, lễ, nhạc, chánh trị, h́nh phạt,
nắm quyền khắc chế tự nhiên trong trời
đất, chi phối vạn vật. Người như
thế th́ là người [đúng nghĩa]; chẳng giống
như vậy th́ gọi là súc vật. Giới hạn rơ
ràng, tiêu chuẩn nhất định. Thân có thai, noăn, thấp,
hóa, tâm chia thành hữu tưởng, hoặc vô tưởng,
cảnh th́ hoặc là đất, nước, lửa, gió,
hư không, chịu đựng khổ, vui, ưu, hỷ, xả.
Xét đến chánh báo và y báo theo mặt Sự, lục đạo
quy thành từng loại hiển nhiên. Chúng sanh trí huệ
như nhau, nhưng phát triển theo mỗi phương diện
khác biệt. [Chia thành] lục đạo là chia theo
phương diện chánh báo và y báo, chẳng dùng trí huệ
làm chuẩn!
*
Hỏi: Địa Tạng Bồ Tát đă đoạn
căn bản vô minh hay chưa? “Địa
ngục chẳng trống, thề chẳng thành Phật”.
Sau khi đă thành Phật, đến độ chúng sanh trong
địa ngục chẳng phải là nhanh chóng hơn
ư? (Giản Tông Tu hỏi)
Đáp:
Vị Bồ Tát này là Đẳng Giác, Pháp Thân giải thoát,
chẳng khác ǵ Phật, có toàn thể đức của Phật,
[chỉ là] chẳng ở địa vị Phật mà thôi.
Cũng giống như Quán Âm Bồ Tát, tâm đại bi tha
thiết, chẳng vào cơi Tịnh Độ thanh tịnh,
chuyên vào các pháp giới để độ chúng sanh.
*
Hỏi: Nếu có kẻ nói: Cơ Đốc giáo và Phật
giáo đều có hệ thống độc lập riêng, chẳng
thể gượng ép đem Thiên Đường nói trong
Cơ Đốc giáo so sánh với chư thiên của Phật
giáo được. Hăy nên trả lời ra sao? (Giản Tông Tu hỏi)
Đáp:
Phật nói tới “giới” th́ có Thể, Tướng, Dụng,
có thành, trụ, hoại, không, nói chẳng sót tất cả
[những ǵ tồn tại] trong không gian, chẳng sót những
ǵ đă hiện trong thời gian. Giáo nghĩa của Cơ
Đốc giáo tuy có hệ thống độc lập,
nhưng Thiên Đường như họ đă nói chẳng
thể vượt ngoài thời gian và không gian. Nhằm tỏ
ư tôn trọng lẫn nhau, chẳng bàn đến chuyện
hơn kém là được rồi, nhưng nếu nhất
quyết đem Thiên Đường của Cơ Đốc
giáo đặt ra ngoài không gian và thời gian, dường
như là Lư lẫn Sự đều chẳng thể nói
suông sẻ được! Nếu như Cơ Đốc
giáo tự nói họ ở ngoài không gian và thời gian th́
điều đó chẳng dính dáng ǵ đến cơi trời
được nói trong kinh Phật cả!
*
Hỏi: Một vị Phật giáo hóa một cơi Phật, tại
sao Phật Thích Ca chỉ thuyết pháp trên địa cầu
và thuyết pháp cho thiểu số chư thiên? Một cơi Phật
có rất nhiều “địa
cầu” và chư thiên, chẳng lẽ khi đức Phật
giáng sanh trên quả địa cầu này, th́ cũng đồng
thời giáng sanh giống hệt như vậy trên các quả
địa cầu khác? (Giản
Tông Tu hỏi)
Đáp:
Phật có ba thân, Pháp Thân duy nhất, tận khắp các
hư không, hóa thân vô lượng trọn khắp pháp giới.
Trên một quả địa cầu, c̣n không phải là chỉ
có một ngàn vị Thích Ca; đối với đại
thiên thế giới, ai bảo là không có Phật?
*
Hỏi: Nhiều chỗ trong kinh tạng nhấn mạnh “thỉnh Phật trụ thế,
chẳng nhập Niết Bàn”, như A Di Đà Phật
khi làm pháp tạng tỳ-kheo đă phát ra bốn mươi
tám đại nguyện, có nói: “Chẳng
được măn nguyện, thề chẳng thành Phật”.
Vậy th́ Phật là giác, chính là đoạn Hoặc phá
chướng, rốt cuộc đạt đến quả
vị nơi cảnh giới Trung Đạo cùng tột, mong
cầu tự độ, độ người khác, giác hạnh
viên măn. [Để thực hiện những điều ấy],
nếu chẳng phải là Phật, sẽ không được!
Nếu bảo là “chẳng nhập
Niết Bàn th́ mới có thể trụ thế nhiếp hóa
quần sanh”, vậy th́ Phật quả há chẳng phải
là bi nguyện tịch diệt, là cảnh tuyệt diệu
vô vi biến hóa ư? Nếu vậy th́ “vô trụ Niết Bàn” lại nói như thế nào?
(Du Tường Châu hỏi)
Đáp:
Một danh từ được chia ra thành chánh nghĩa và
biệt nghĩa! Hai chữ ấy (Niết Bàn) có rất nhiều
cách dịch, nghĩa được người ta biết
đến phổ biến là Diệt. Chánh nghĩa của
Diệt là giải thoát, diệt độ
v.v… ư nói vĩnh viễn diệt mất đại hoạn
(hoạn nạn to lớn), chứng quả viên măn. Nhưng
khi mạng chung, thần thức rời khỏi [thân thể],
cũng mượn danh từ này để nói là Diệt.
Trong kinh, [hễ khi nào nói] “thỉnh
Phật chẳng nhập Niết Bàn” nghĩa là [thỉnh
cầu] đức Phật lưu thân mạng để tiếp
tục trụ thế, chẳng phải là xin đức Phật
đừng chứng quả. Hiểu nghĩa này, sẽ biết
những nghĩa khác.
*
Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm có nói: “Nhược tŕ Quán Thế Âm Bồ
Tát danh hiệu giả, thiết nhập đại hỏa,
hỏa bất năng thiêu” (Nếu ai tŕ danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ Tát, dẫu vào trong lửa lớn, lửa
chẳng thể thiêu), đối với nạn lụt lớn
cũng như vậy, là do sức oai thần của Bồ
Tát. Giả sử Bồ Tát có oai lực to lớn như vậy,
cần ǵ đội cứu hỏa làm chi nữa? V́ giáo
đồ nhà Phật có thể tùy tiện tiêu trừ hỏa
tai (thủy tai) mà? Xin hăy chỉ dạy ư nghĩa trong kinh
điển là như thế nào? (Châu
Di Quân hỏi)
Đáp:
Các đầu mối trong thế gian cố nhiên là có thiên mạng
và c̣n có nhân sự. Thiên mạng và nhân sự ứng hợp
lẫn nhau làm duyên, hoặc là một điều sẽ
vượt trội hơn [điều kia]. Niệm danh hiệu
Quán Âm là nghe theo thiên mạng, lập đội cứu hỏa
là trọn hết nhân sự. Nếu như tụng niệm
thánh hiệu Quán Âm mà chẳng thể thành tâm, sẽ chẳng
có cảm ứng, ắt phải cậy vào đội cứu
hỏa để trọn hết sức người. Có lúc
đội cứu hỏa cũng nẩy sanh chướng
duyên, mất đi hiệu năng, càng lại phải cậy
vào chân tâm sám hối, cầu nguyện, khẩn cầu Quán
Âm. Người đọc sách chớ v́ văn mà hại
nghĩa. Khổng Tử từng nói: “Chết sống có mạng”, nếu đă là như vậy, cần ǵ mở bệnh
viện? Ngài lại nói: “Phú quư
tại trời”, [vậy th́] hăy nên ngồi trong nhà chẳng
làm ǵ, trời sẽ mưa tiền xuống ư? Nếu
nói gần hơn nữa, nói theo Sự, các tiệm thuốc
đều có thuốc đặc hiệu (thuốc có công dụng
chữa bệnh đặc biệt), cần ǵ phải lập
nhà quàn nữa ư?
*
Hỏi: Đức Phật xuất gia thành Phật quả,
hoàn toàn chẳng bái bảy vị Nhiên Đăng Cổ Phật
để được thọ kư, Phật pháp là do đức
Phật tự ngộ, phát minh ra (thuở ấy, chỉ có
một phần là ngoại đạo đổi sang tu Phật).
Ngoại đạo trong hiện thời (Nhất Quán Đạo)
có thuyết “lạy bảy vị
Nhiên Đăng Cổ Phật”, bảo đó là những
vị Phật có trước đức Phật. Đấy
há chẳng phải là báng bổ đấng giáo chủ của
Phật giáo ư? Nếu như bảy vị Nhiên
Đăng Cổ Phật chẳng phải là ngoại lệ,
tức là [các Ngài đều là] những vị do chúng sanh tu
thành Phật, địa vị giáo chủ của đức
Phật bèn có vấn đề ư? Xin hăy giải nghi, ư
nghĩa thật sự của bảy vị Nhiên
Đăng Cổ Phật là như thế nào? (Châu Di Quân hỏi)
Đáp:
Các kinh ghi chép: Quá khứ là thời Trang Nghiêm Kiếp, hiện
tại là thời Hiền Kiếp, Phật Thích Ca là vị
Phật thứ tư trong Hiền Kiếp. Truy ngược
lên bảy vị Phật trước Ngài th́ [những vị
ấy] đă thuộc vào Trang Nghiêm Kiếp. Khi ấy, có
Nhiên Đăng Phật, vào thuở đó, đức Phật
Thích Ca từng được [Nhiên Đăng Phật] thọ
kư. Hơn nữa, trong các kinh có ghi chép sự tích khác nhau về
bảy đức Phật. Chuyện này được chép
trong kinh văn, chẳng phải là bảy vị Nhiên
Đăng Phật[33]
như bọn ngoại đạo đă nói. Lời bọn
chúng nói giống như một tỷ dụ trong kinh Bách Dụ:
Ăn trộm áo vua, lôi Đông kéo Tây, điên đảo, lầm
loạn[34], chẳng
đáng một trận cười, chẳng đáng bàn tới!
Hơn nữa, phàm là Phật th́ đều là chúng sanh tu
thành, hoàn toàn chẳng có đạo lư “bẩm sanh đă là Phật!”
Giáp tu, Giáp thành, Ất tu, Ất thành, chẳng tu chẳng
thành!
* Hỏi:
Hương Cảng Thánh Thư Công Hội (hội kinh thánh
Hongkong) có xuất bản một cuốn sách về so sánh
tôn giáo do tiên sinh Anh Nhă Các (James W. Inglis) viết, người
dịch là tiên sinh Hàn Nhữ Lâm, nơi trang một trăm
hai mươi bốn có đoạn: “Năm đức Phật tám mươi tuổi… có một
người thợ rèn, mời Phật đến dùng
cơm, trong bữa cơm ấy có thịt lợn rừng.
Do vậy, đức Phật ngă bệnh”. Lại c̣n nói,
trong lần ấy, sau khi ngă bệnh, đức Thế Tôn
bèn chết. Đối với cách nói đức Phật do
ăn thịt lợn rừng, ngă bệnh rồi chết, rốt
cuộc là có chuyện ấy hay không? Hay là ngoại đạo
ác ư bỗng dưng đặt chuyện? (Thượng Minh Công hỏi)
Đáp: Sự
tích đức Phật nhập Niết Bàn được
chép trong kinh Đại Niết Bàn, rạng rỡ trong cơi
đời, nhưng chưa thấy chép [chuyện đó]. Do
vậy, đó là lời bịa đặt, dẫu sách Âu Tây
có ghi lời lẽ quê kệch ấy, cũng chẳng qua là
những chuyện dă sử, hoang đường của
Trung Hoa, hoặc chuyện ngụ ngôn Y Sách (Aesop)[35] của
phương Tây dùng làm chuyện phiếm trong khi trà dư tửu
hậu mà thôi! Há đáng để coi là sách vở nghiêm túc?
Nếu ông tin vào lời đó, vậy th́ kinh Niết Bàn chẳng
đáng tin tưởng ư? Hương Cảng Thánh
Thư Hội do đạo Gia Tô lập ra, có cách nh́n thù
địch đối với Phật giáo, có ư tưởng
hủy nhục, hạ thấp, cho nên mới có chuyện ấy.
Nhưng chắc cũng chẳng phải là họ tự bịa
đặt, có lẽ là do trong tâm có thiên kiến, nên mới
chọn lấy chuyện hạng bét dành cho trẻ nít để
làm công cụ công kích người khác vậy!
* Hỏi:
Vào đời Thanh, sau khi tín đồ Cơ Đốc giáo
là Hồng Tú Toàn khởi sự, lập ra Thái B́nh Thiên Quốc,
đă tiêu diệt thi, thư, kinh luận, những mong hủy
diệt nền văn hóa Trung Hoa, chuẩn bị cho việc
thay thế bằng văn hóa Cơ Đốc. Hai vị
tướng Trung Hoa là Tăng và Hồ chính mắt thấy
họ Hồng đă lộ mặt thật bèn đứng lên
diệt Thái B́nh Thiên Quốc, đó có phải là sự thật
hay không? (Thượng Minh Công hỏi)
Đáp:
Đó là chuyện [cách đây] đă gần một trăm
năm. Sự tích và vật dụng thời ấy đến
nay hăy c̣n. [Các bộ từ điển] Từ Nguyên và Từ
Hải đều ghi chép. Sách giáo khoa trong nhà trường
cũng phần nhiều ghi chép chuyện này. Trong những
sách do ông Hồ và ông Tăng đă viết, càng [ghi chép sự
kiện] tường tận hơn, có thể tra từ
đó sẽ biết.
* Hỏi:
“Nhân duyên” có phải là tự
nhiên hay không? (Thượng Minh
Công hỏi)
Đáp:
Tôi chưa hiểu ư cư sĩ trong câu hỏi này. Nếu ư
ông hỏi là hết thảy các pháp là do nhân duyên tự nhiên
hợp thành, chẳng phải do thần là đấng sáng tạo,
th́ nói “nhân duyên tự nhiên” sẽ
thông suốt.
*
Hỏi: Vị cư sĩ X… lầm lạc tin Nhất Quán
Đạo là Phật giáo, và đă từng lập lời thề
độc: “Nếu tôi trái phản Nhất Quán Đạo,
nguyện sẽ bị sét đánh chết tươi”. Về
sau, được Phật giáo đồ giải thích, bèn
kiền thành niệm Phật, lễ Phật, tụng kinh, vẫn
[lo ngại] có thể gặp phải ách vận ấy hay
không? Lại nữa, người chỉ quy y, chứ không
thể niệm Phật, lễ Phật, tụng kinh lại
là như thế nào? (Ngô Minh An hỏi)
Đáp:
Khi người ấy thề thốt, người giám sát lời
thề là ai? Kẻ chuyên trông coi việc sét đánh lại
là kẻ nào? Nay tôi nêu ra một chuyện để hỏi
ngược lại. Trẻ nhỏ khóc nhè ban đêm trong chốn
làng quê, mẹ nó gạt rằng: “Tối
đến mà khóc th́ khỉ sẽ xuất hiện”. Trẻ
sợ, nín bặt. Điều này giống hệt như vậy
đó. Nay ông X… bỏ ngụy hướng về chân, cải
tà quy chánh, vẫn c̣n lo ngại về lời thề như
trẻ nít đùa bỡn, gần giống như kẻ thoạt
đầu phát thệ gia nhập bọn trộm cướp,
về sau, sửa đổi tánh nết, đi học, bản
thân đă làm quan lớn mà vẫn sợ lời thề thuở
làm kẻ trộm cắp ư? Chuyện đă làm thuở
xưa mới là hành vi trộm cướp. Nay đă quy Tam Bảo,
giống như mong sẽ làm quan lớn vậy!
*
Hỏi: Chiếu theo Lư “Sắc
chính là Không, Không chính là Sắc”, khí thế gian và linh hồn
giới phải nên là chẳng hai, do đều cùng từ
các duyên ḥa hợp mà sanh ra. Chúng sanh do nhờ vào Chân Như bản
tánh mà sanh, nếu có thể đoạn hết vô minh, viên
trí tịch chiếu, sẽ có thể thành Phật. Lư này hết
sức rơ rệt. Chỉ nói Tây Phương Tịnh Độ
là do A Di Đà Phật tạo thành, đúng là khiến cho
người ta tốn công t́m hiểu [mà vẫn ngơ ngác].
V́ Phật cũng là người, nếu Ngài có thể sáng tạo
vũ trụ, sẽ sanh ra hai thứ mâu thuẫn: Một, Tịnh
Độ là do Phật đă tạo, ắt phải là do từ
Phật mà có khởi đầu. Hễ có khởi đầu,
ắt có kết thúc. Há chẳng phải là mâu thuẫn với
thuyết vũ trụ vô thỉ vô chung ư? Hai là nói theo lư
“hết thảy chỉ do tâm tạo”,
vậy th́ Thượng Đế sao chẳng thể
thường nương vào cái tâm ấy để tạo?
Tạo lung tung như vậy, sẽ xuất hiện đa
nguyên, trật tự ắt rối loạn, c̣n thành thế
giới nữa ư? Kính mong hăy dùng “các pháp do duyên sanh” và “hết
thảy chỉ do tâm tạo” để phân tích? (Kim Á Đạc hỏi)
Đáp:
“Sắc chính là từ Không khởi”,
cho đến “chúng sanh
nương vào Chân Như bản tánh mà sanh”: Đối với
những điều được nói trong đoạn này,
Phật pháp chẳng nói như vậy. Bởi lẽ, Sắc
là do duyên sanh, Chân Như bản tánh là vô sanh. Do trọng tâm của
lời hỏi thuộc trong đoạn sau, nên điều
này có thể lược đi [không đáp]!
[Đối
với những điều sau đó], tôi đáp như sau:
1) Một,
đối với câu hỏi “Tịnh
Độ do đức Phật tạo ra”, kiến lập
Tịnh Độ là để chuyên độ chúng sanh. Do căn
khí của chúng sanh có sai khác, nên lời dạy có Quyền và
Thật. Bậc thượng bèn ngộ Thật, trung và hạ
căn tin Quyền. Sau khi đă tin Quyền, hễ ngộ
bèn tiến nhập Thật, quyết chẳng phải là “chỉ
biết nói Quyền, chẳng biết đến Thật”.
Thật là ǵ? Tịch Quang Tịnh Độ. Đấy
chính là pháp vô vi, vô tướng, vô thỉ, vô chung, Pháp Thân khế
hợp, chẳng phải là tạo tác. Quyền là ǵ? Ba cơi
Thật Báo, Phương Tiện, Đồng Cư. Đấy
chính là pháp hữu vi, hữu tướng, có khởi đầu,
có kết thúc, Báo Thân khế hợp, là pháp tạo tác. Chúng
sanh trong nhiều kiếp mê hoặc đă sâu, hễ nói ra, họ
sẽ rất khó hiểu rơ. V́ thế, trước hết
là khai Quyền để hiển Thật.
2) Giải
đáp cho vấn đề thứ hai “hết thảy chỉ do tâm tạo”. Hết thảy
do tâm tạo chính là pháp hữu vi, hữu tướng,
cũng do duyên sanh, thuần là sanh diệt. Thượng
Đế có thể tạo, bọn ta cũng tạo, tức
là núi, sông, đại địa trước mắt trong uế
độ, và sâm la vạn tượng sanh diệt. Nhưng
dẫu nói là tâm tạo, tâm sai biệt muôn vàn. Người
tâm tịnh bèn tạo tịnh, người tâm uế bèn tạo
uế. Đối với hai chữ tịnh và uế, trong
kinh có tiêu chuẩn chắc chắn, chẳng phải là
chuyên v́ nước trong mà bảo là tịnh, do phân thối
mà bảo là uế. Thượng Đế và ta đều
là phàm phu, tâm có vô minh, cho nên những ǵ tạo tác đều
là uế ác, bất tịnh. Phật là bậc ba đức
viên măn, là bậc thánh của các thánh, tâm tịnh như mặt
trời, cho nên những ǵ Ngài đă tạo đều tịnh!
*
Hỏi: Kính nghe lời răn dạy, may mắn biết Phật
pháp giải quyết triệt để hai vấn đề
lớn là nhân sanh và vũ trụ, nhưng con người do
đâu mà có, vũ trụ h́nh thành như thế nào? Xét theo
Lư th́ nói “duyên sanh”, Sự th́
phức tạp. Đối với quá tŕnh trọng yếu
này, tôi hết sức mong liễu giải. Nghe nói có bộ
Hoa Nghiêm Nguyên Nhân Luận bảo “con người từ trời
Quang Âm giáng xuống”. Nếu đúng là như vậy th́ càng
mong được nghe tường tận về chuyện
này. Các nhà khoa học bảo con người do tiến hóa mà
có. Quá tŕnh là từ tế bào đơn, tế bào phức,
sinh vật, rồi đến động vật, động
vật bú sữa, khỉ vượn, vượn người,
cuối cùng là [vượn người] tiến hóa thành
người. Cơ Đốc giáo bảo [con người]
là do Thượng Đế tạo ra. Đối với lư
duyên sanh trong Phật giáo, tôi nghĩ chẳng phải là hai
điều vừa nói trên đây! Nói cho tới cùng, con
người h́nh thành như thế nào? Đối với quá
tŕnh sanh tồn của con người (chẳng phải là
tŕnh tự sinh lư mang thai), người đầu tiên trên
địa cầu được h́nh thành như thế
nào? (Thính chúng X… hỏi)
Đáp:
Nói tới khởi đầu của nhân loại, vẫn lấy
duyên sanh làm chánh. Khoa học nói đến sự tiến
hóa, v́ sao không thể nói đến nhiều yếu tố?
Nếu nói đến nhiều yếu tố, tức là
chưa hề trái nghịch nguyên tắc “duyên sanh”, cho nên phải
chấp vào một sự tiến hóa, phớt lờ nhiều
sự biến đổi. V́ thế, có giả thuyết lầm
lạc “loài người từ loài vượn mà ra”. [Nếu
nói] Thượng Đế tạo tác, cũng như là nói
“tự nhiên mà có”, chính là lời lẽ do chẳng biết
như thế nào [nên đành nói đại như vậy cho
xong chuyện], cũng giống như là chẳng nói! Những
điều ông hỏi chú trọng nơi kiếp nào bắt
đầu có con người. Đă chẳng nói tới sinh
lư, lại chẳng nói tới vô thỉ, th́ như kinh Hoa
Nghiêm nói [con người thoạt đầu] từ trời
Quang Âm giáng hạ, sẽ là chánh đáng. Nếu hỏi cặn
kẽ về chuyện từ trời Quang Âm giáng xuống,
th́ vẫn là nói đến duyên sanh, nhưng đối với
vô thỉ và sinh lư, lại chẳng thể không nhắc
đến!
* Hỏi:
Quá tŕnh h́nh thành con người và vũ trụ là vấn
đề tranh luận từ xưa tới nay. Do Khổng
Tử chẳng nói, giới học thuật chỉ đành
căn cứ theo thuyết của giới khoa học. Phật
học là cái học có trí huệ cao nhất, ắt phải
nói rơ tỉ mỉ, nhưng [kinh Phật] chỉ nhắc tới
lư duyên sanh, khiến cho người ta chẳng dễ thấu
hiểu. Nếu có kẻ phát tâm, có thể đem vấn
đề này viết thành sách để tuyên dương,
công đức to hơn núi Tu Di, Phật nhật tăng huy,
lợi ích rất sâu! (Thính chúng
X… hỏi)
Đáp:
Kinh Bát Nhă của nhà Phật giảng về Chân Không, Chân
Như vô vi chẳng lập một pháp. Tông Duy Thức giảng
về Diệu Hữu, duyên sanh khởi tướng, vạn
pháp duy thức. Hai môn học này có cùng một Thể, một
Tướng. Nếu có thể dung thông, sẽ hiểu rơ bí
mật của vũ trụ và nhân sanh. C̣n như nói tới
“duyên sanh”, hoàn toàn chẳng phải là lời lẽ mơ hồ,
các kinh đều chứa đựng ư nghĩa này, và
cũng có Duyên Sanh Luận là sách chuyên môn [giảng giải vấn
đề này], nhưng sợ rằng người sơ
cơ mới học Phật, đọc [sách ấy] sẽ
chẳng hiểu! Ắt là phải đă có thường thức
Phật học; sau khi đă có sự nhận thức kha
khá, lại bắt tay vào nghiên cứu th́ mới chẳng thấy
khó khăn!
*
Hỏi: Gần đây, có một tạp chí dịch thuật
Phật giáo, trong ấy có những lời lẽ như: “A Di Đà Như Lai chính là do Phật
Thích Ca trong năm mươi năm thuyết giáo đă giả
thiết, miêu tả một tư thái”. Nh́n vào lời
văn, suy ra ư nghĩa: Phủ định sự tồn tại
thật sự của A Di Đà Như Lai. Trong tờ tạp
chí ấy, có lời giới thiệu ca ngợi [bài viết
ấy] của các vị đại đức chuyên về
kinh giáo, khiến cho mạt học kinh hăi dị thường!
Xin hăy giải thích, để mọi người vững
vàng tín tâm. (Hậu học hỏi)
Đáp:
Nguyên tác của những bài như vậy phần nhiều
là chủ trương lầm lạc của các học giả
Nhật Bản, chẳng phải là do đệ tử Tam Bảo
tuân phụng thánh ngôn viết ra! Dịch giả chắc là
chiếu theo nguyên văn. Hiện thời, cái thói cứ dịch
ra rồi bảo người khác viết lời giới
thiệu đă trở thành trào lưu; nhưng một bản
dịch dài thọng, người viết lời giới thiệu
chưa chắc đă xem hết! V́ thù tạc mà viết lời
giới thiệu rồi thôi. Nguyên tác giả của bài viết
ấy vốn có tâm báng pháp, nhưng người viết lời
giới thiệu chẳng để ư tới!
*
Hỏi: Hồn và linh có ǵ khác biệt? (Hồ Mỹ Nguyệt hỏi)
Đáp:
Trong Phật giáo, hồn (魂)
được gọi là “thức
thần” (識神), do bản
tánh sau khi đă mê biến ra. Linh (靈) là tác dụng
do hồn phát khởi. Nay tôi nêu một thí dụ để
giảng rơ: Như một tiếng chuông, cái chuông chính là Thể
của chuông, tiếng chuông là do cái chuông phát khởi tác dụng.
*
Hỏi: Cơ Đốc giáo nói: Trời, đất,
người, vật đều do Gia Tô (Jesus) sáng tạo, [vậy
th́] giáo chủ của Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni Phật có
phải là do Gia Tô sáng tạo hay không? (Hồ Mỹ Nguyệt hỏi)
Đáp:
Câu hỏi này quá nực cười! Thích Ca Mâu Ni Phật
giáng thế, xét theo sự khảo cứu thời cổ là
cách nay gần ba ngàn năm, theo thuyết mới cũng
hơn hai ngàn năm trăm năm. Gia Tô giáng sanh cách nay
chưa đến hai ngàn năm! Nếu theo thuyết cũ
th́ Gia Tô sau Phật đến một ngàn năm, theo thuyết
mới th́ Gia Tô sau Phật năm
trăm năm. Nếu nói “Gia Tô tạo ra Thích Ca”, cũng giống
như nói: “Trước hết đẻ ra chắt, sau
đấy, do đứa chắt sanh bèn sanh ra ông cố!”
Nói mớ trong mộng ư? Hay đúng là lời nói khi say xỉn?
Chuyện hoạt kê lớn nhất trong thiên hạ!
*
Hỏi: Nếu nói theo cách nói của Phật giáo, người
và vật do ai sáng tạo? Phật giáo coi trọng nhân duyên
quán, nhân duyên ḥa hợp là do ai sáng lập? (Hồ Mỹ Nguyệt hỏi)
Đáp:
Đối với vấn đề này, quư cư sĩ học
Phật chưa lâu, tuy tôi có nói, sợ rằng trong nhất
thời cũng chẳng hiểu! Quyết chẳng thể
nói “ai là người sáng tạo?”, “nhân duyên ḥa hợp là do
ai sáng lập?” Nay chỉ trả lời câu hỏi về khởi
đầu của loài người là được rồi.
Thế giới vô tận, t́nh h́nh khác nhau, nhưng nói theo thế
giới Sa Bà này, có bộ Hoa Nghiêm Nguyên Nhân Luận giảng
rất tường tận. Hễ có cơ hội, hăy cậy
người khác giảng giải th́ sẽ biết, chứ
trong cột báo này chẳng có cách nào nói đầy đủ
được!
*
Hỏi: Trong tam giới, vị Phật đầu tiên giải
thoát như thế nào? Trước khi vị Phật đầu
tiên xuất thế, ai dạy vị ấy pháp giải
thoát? Nếu do tự lực mà có thể được giải
thoát, th́ chúng sanh sớm muộn ǵ sẽ được giải
thoát, chư Phật cần ǵ phải thuyết pháp? (Hầu Thu Đông hỏi)
Đáp:
Tánh tịnh vốn giác, do nhiễm mà mê, nhiễm và tịnh
đều có sức mạnh, lần lượt tiêu trừ
và tăng trưởng lẫn nhau[36].
Có thể khởi giác bèn nghĩ đến tu tập, do
nghĩ đến tu tập bèn tu tŕ. Do giác bèn nghĩ tới
tu, do nghĩ tới tu bèn càng thêm giác. Ngày ngày, năm năm,
đời đời kiếp kiếp, tiếp nối chẳng
dứt, giác đến rốt ráo, sẽ thành Phật.
Người ấy tuy chưa được Phật dạy
dỗ, nhưng đối với mỗi sự, mỗi
người, đều coi là thầy, tu học trong trần
sa kiếp, phá Trần Sa Hoặc, ai có thể làm như thế
th́ người ấy có thể thành Phật. Sau khi đă
thành Phật, lại đem kinh nghiệm tự chứng của
chính ḿnh nói với đại chúng, bèn gọi là Kinh. Người
đời sau nương theo đó để tu, dễ dàng
hơn người trước. Đấy là nói đại
lược đối với điều nghi vấn ông
đă nêu ra. Nếu ngồi chờ trong nhà, [cứ nghĩ]
sớm muộn ǵ cũng sẽ giải thoát, chẳng tu mà
chứng, quyết chẳng có lẽ ấy!
* Hỏi:
Thế gian có quỷ, nhưng trong thời đại khoa học
hiện thời càng cảm thấy trong thế gian chẳng
có quỷ. Rốt cuộc là có quỷ hay không? Nếu có, sao
chưa hề thấy? (Châu Mẫn
Hùng hỏi)
Đáp:
Có phải là thời đại khoa học hay không, tạm
thời chẳng hỏi tới, chỉ hỏi khoa học
phát triển hay không? Kinh điển của thánh nhân, truyện
của hiền nhân Trung Hoa đều chép rơ có quỷ thần.
Các tôn giáo trên toàn cầu đều nói có quỷ thần. Hội
khoa học Nhật Bản đặc biệt tin có Phật.
Hội khoa học Âu Mỹ chủ yếu nói “có Gia Tô”. Muôn
loại học thuyết đều chủ trương là
có, riêng ḿnh khoa học nói là không. Đấy là một bằng
chứng sắt đanh chứng tỏ khoa học chưa
phát triển. Đă thế, chẳng phải là toàn thể
các khoa học gia đều nói là không! Nếu nói “do chưa
thấy quỷ” bèn chẳng thừa nhận là có, đấy
là v́ thấy biết ít ỏi. Từ xưa tới nay,
đă có rất nhiều người trông thấy quỷ thần.
Nếu vẫn chất vấn, xin hăy hỏi người đă
từng thấy [quỷ thần] giới thiệu cho biết!
Thử hỏi Châu đồng học đă từng nằm
mộng hay chưa? Nếu nói là có th́ xin cũng giới thiệu
cho tôi xem [những cảnh ông đă từng mộng thấy]!
* Hỏi:
Đối với người sau khi đă chứng từ
quả vị A La Hán trở lên, vô lượng vô biên đại
thiên thế giới, kể cả khí thế gian và hữu
t́nh thế gian đều thuộc trong thế giới Cực
Lạc, có đúng hay không? (Lại
Ngân Ba hỏi)
Đáp:
Thế giới Cực Lạc là chuyên nói về cơi Tịnh
Độ của Phật Di Đà, ắt là phải phát tâm
Đại Thừa Bồ Đề th́ mới được
văng sanh. A La Hán là quả tột bậc trong Tiểu Thừa,
vẫn hoàn toàn chẳng tương ứng với cơi Cực
Lạc! Trong đoạn giữa, ông nói vô lượng đại
thiên thuộc về Cực Lạc, ư nghĩa của lời
nói chẳng rơ ràng, khó thể đáp bừa được!
*
Hỏi: Lời Phật nói có phải là hoàn toàn đúng hay
không? Có thể nào nói sai hay chăng? (Lại Ngân Ba hỏi)
Đáp:
Phật là bậc thật ngữ, chân ngữ, như ngữ,
chẳng vọng ngữ, chẳng nói lời dối gạt.
Phật là bậc đại giác, chánh giác. Vọng ngữ
là ăn nói hồ đồ. Há có bậc đại giác nào
thốt lời hồ đồ? Ông đừng giữ ư niệm
ấy! Do nghi hoặc sẽ chuốc lấy lỗi lầm!
*
Hỏi: Ma quấy nhiễu ta và ta tự quấy nhiễu
là như nhau, đúng không? (Lại
Ngân Ba hỏi)
Đáp:
Ma chia thành nội và ngoại, đều do tự tâm cảm
vời. Đă là do tự tâm cảm vời th́ bảo là “tự nhiễu”, muôn ngàn phần
chánh xác!
*
Hỏi: Căn cứ câu “phàm những
ǵ có tướng đều hư vọng”, những
điều ta nghĩ, ta làm trước mắt, thậm chí
niệm kinh, tọa thiền v.v… đều là hư vọng.
Đúng hay không? Nếu là đúng, ta đọc kinh, học
Phật chẳng phải là hư vọng ư? (Lại Ngân Ba hỏi)
Đáp:
Phàm phu bất giác, khởi Hoặc tạo nghiệp, đó
là t́nh trạng bệnh tật; niệm kinh, tọa Thiền
chính là uống thuốc. Dùng thuốc để trừ bệnh,
bệnh có thể lành, bệnh là hư vọng. Nếu bệnh
chẳng c̣n mà vẫn uống thuốc, thuốc chính là bệnh,
thuốc lại là hư vọng. Nếu đạt đến
“bệnh lẫn thuốc cùng mất”, sẽ là chân thật.
Nay vẫn c̣n đang bệnh th́ phải uống thuốc!
*
Hỏi: Nếu Quán Âm Bồ Tát và Thích Ca Mâu Ni Phật có thể
thường thị hiện, trực tiếp cứu độ,
giáo hóa chúng sanh, chúng sanh chẳng phải là càng dễ
được cứu vớt, hóa độ hơn ư? V́
sao phải khiến cho chúng sanh chẳng trông thấy Phật,
thường ch́m trong biển khổ, suy lường, ngờ
vực? (Lại Ngân Ba hỏi)
Đáp:
Phật và Bồ Tát đều hóa thân rất nhiều,
như do lá rụng, hoa bay đều có thể ngộ đạo.
Những chiếc lá rụng, những cánh hoa bay ấy đều
là do Phật hóa thân, nhưng do chính ḿnh căn khí lợi hay
độn mà ngộ hay không? Xưa kia, đức Thích Tôn ở
tại nước Xá Vệ, rành rành là thân Phật hiện
trong cơi đời, vậy mà người trong thành Xá Vệ,
chỉ có một phần ba là tin tưởng, c̣n nói chi
được nữa? Thân Phật, Bồ Tát, chẳng cơi
nào, không lúc nào chẳng hiển hiện, chỉ là do chúng
sanh hữu duyên hay vô duyên mà thôi!
*
Hỏi: Có những kẻ nói Phật giáo chia thành thời kỳ
Hồng Dương, thời kỳ Thanh Dương, thời
kỳ Bạch Dương, chẳng biết ư nghĩa là ǵ?
Xuất phát từ loại kinh điển nào? Chẳng biết
hiện thời thuộc thời kỳ Dương nào? (Lư Thanh Lâm hỏi)
Đáp:
Hồng Dương, Bạch Dương, Thanh Dương
v.v… chính cống là tàn dư ác nghiệt của bọn Bạch
Liên Giáo. Bọn chúng trải các đời đều làm phản,
mượn danh thần thánh để lừa phỉnh dân
ngu, luôn bị quốc gia tiễu trừ. Có cuốn sách Ám Lộ
Minh Đăng (đèn sáng trong đường tối)
đă chép rất tường tận. Xin tặng một cuốn
sách ḥng thấy được sự ngụy trang của
chúng. Bọn chúng là lũ thất học vô thuật, đi
lầm vào đường mê, giả mạo Phật giáo,
đều là đợi bổ vào địa ngục!
*
Hỏi: Họ không chỉ nói hiện thời là Tam Kỳ Mạt
Kiếp, mà c̣n nói Ngũ Giáo Hợp Nhất, thánh nhân trong
ngũ giáo như thế này, thế nọ, chẳng biết
[những điều ấy] xuất phát từ kinh điển
nào? (Lư Thanh Lâm hỏi)
Đáp:
Xét theo ngũ giáo như họ nói, chính là Nho, Thích, Đạo,
Gia Tô và Hồi. Năm giáo ấy, mỗi giáo đều có
giáo nghĩa riêng, có kinh điển riêng. Mỗi giáo đă có
giáo nghĩa riêng cho nên chẳng thể hợp nhất. Mỗi
giáo đều có kinh điển riêng, cho nên tùy thuộc quyền
tự do của người tin theo giáo nào. Đôi bên công
khai, mỗi giáo đều chẳng mạo nhận, mà trong
kinh của cả năm giáo cũng đều chẳng có
những lời lẽ yêu dị Bạch, Hồng, Thanh
Dương chi cả!
*
Hỏi: Bọn họ nói hiện thời Phật Thích Ca
đă thoái vị, Phật Di Lặc kế vị. Xin hỏi
Phật Di Lặc là nhân vật như thế nào? Hăy nên xem
kinh điển nào để liễu giải Phật Di Lặc?
(Lư Thanh Lâm hỏi)
Đáp:
Chuyện này rơ ràng là bọn họ chẳng biết ǵ về
Phật giáo! Cho nên mới bạo gan bịa đặt lời
nói quái quỉ ấy, chẳng sợ tội báng pháp. Những
giáo ấy chính là Bạch Dương Giáo, Hồng
Dương Giáo, Thanh Dương Giáo, đều là bị
pháp luật và quốc gia cấm chỉ!
Cho nên, chúng nó Đông lôi, Tây kéo, đă mạo nhận là Phật
giáo, trong tương lai, sẽ lựa gió mà bẻ bánh lái,
Nho, Đạo, Hồi, Gia Tô v.v… đều có thể dùng
làm chiêu bài cho chúng nó. Phật Di Lặc đích xác là
được chép trong các kinh Phật, nhưng chẳng
có mảy may liên quan ǵ đến Bạch, Hồng, Thanh
Dương! Hăy nên lánh xa bọn chúng ḥng khỏi nhiễm tà
khí!
*
Hỏi: Bất tài từ bé vâng theo sự giáo huấn trong
gia đ́nh, theo đạo Nho, học y, nhưng đều
chưa đạt đến cảnh giới trung chánh. Lúc
bảy, tám tuổi, thưa với cha muốn bỏ cơi tục
xuất gia, chẳng được thỏa ư. Mười
mấy năm sau, tự đọc kinh điển của
Thích và Đạo, nhưng đều chưa nắm
được tông chỉ, hiểu những điều thô
thiển bên ngoài. Sau khi đă tốt nghiệp trường
trung học Khổng Giáo ở Bắc B́nh (Bắc Kinh), liền
chuyển sang học khoa Cao Đẳng Sư Phạm. Trong
thời gian ấy, tự tu tĩnh tọa, cũng chưa đạt
được lợi ích thật sự. Sau khi đến Đài
Loan, bèn theo học tại viện y học Quốc Pḥng,
thường vào mỗi kỳ nghỉ Hè và Đông đều
đến chùa Thập Phổ ở vùng phụ cận để
nghe pháp, kết duyên với pháp sư Thánh Lưu. Sau đấy,
do pháp sư Bạch Thánh bị bệnh, mời bất tài
chẩn trị để chữa bệnh
sạn thận (viên sỏi nhỏ đă theo đường
tiểu thoát ra). Sau khi Sư đă lành bệnh, bèn kết
duyên, quy y với Ngài, được tặng rất nhiều
kinh điển, nên mới đạt được chánh
tri, chánh kiến. Năm Dân Quốc 47 (1958), ở bệnh viện
Tam Tổng, lại kết duyên với pháp sư Luật
Hàng (do Sư bị bệnh), được khai thị rất
nhiều, được lợi ích rất nhiều. (Mă Ngọc Lâm hỏi)
Đáp: Sau khi tôi đă xem kỹ càng câu hỏi
này, chỉ thấy tường thuật những chuyện
[người hỏi] đă từng trải qua, hoàn toàn chẳng
nêu
ra nghi vấn. Đă chẳng có nghi vấn, lẽ ra chẳng
cần phải đáp. Chỉ có điều trong ấy có
hai câu có thể bàn bạc cùng ông. Tức là “do được tặng rất nhiều kinh điển,
nên mới đạt được chánh tri, chánh kiến”.
Hăy nên biết: Có nhiều kinh điển chỉ là chứa
sách! Đọc rồi có thể hiểu, chỉ là cầu
đạo. Giải có cạn hay sâu, biết có rộng và hẹp.
Nghe một ngộ cả ngàn, vừa tiếp xúc bèn thông hiểu
cặn kẽ th́ mới gọi là Đạt. Đó là ư nghĩa
nông cạn của chữ Đạt! Ngộ Phật tri kiến,
nhập Phật tri kiến, th́ mới đạt được
chánh tri, chánh kiến. Cũng đừng nên dễ dăi nói
đến chữ Chánh ấy!
*
Hỏi: Năm ngoái, tôi đọc kinh Kim Cang, vẫn chẳng
thấu hiểu. Cho đến khi tới Phật đường
ở vùng lân cận, thấy họ thờ phụng Ngũ
Giáo Hợp Nhất Tiêu Xương Minh Phu Tử[37].
Chiếu theo chánh tri chánh kiến Phật giáo, biết họ
là ngoại đạo chẳng c̣n ngờ nữa. Kế
đó, xem kinh điển của họ, đa phần là tự
soạn, chẳng ĺa Lăo Mẫu trên cơi trời, chín
mươi hai nguyên linh! Tuy chẳng phải là Áp Đản
Giáo, nhưng những kinh điển do họ trích dẫn
phần nhiều giống như thế. Do bất tài đă
có kinh nghiệm học Phật, thấy những chuyện
đó, tự biết là ḿnh đă hỏi đạo nhằm
kẻ mù! V́ thế, bất đắc dĩ, chỉ có quay
lại cầu nơi chính ḿnh. Tháng Ba năm ngoái, trong khi
tĩnh tọa, tự nghĩ: Như bất tài do có ḷng
thành tin Phật; lẽ ra, Phật sớm nên hiển thị
một số cảnh giới. Tôi nhớ lăo pháp sư Ấn
Quang từng nói: “Xuất gia ba
năm mà nếu chẳng cảm ứng thấy Phật,
tôi liền đọa địa ngục”[38].
Tuy bất tài chưa từng làm tăng, nhưng nói theo sự
thành tâm hướng Phật, cũng phải nên cho bất
tài thấy những cảnh giới ấy th́ mới
đúng chứ! Nghĩ xong bèn tĩnh tọa, chưa đầy
một phút, bèn thấy một vị là họ hàng bên vợ
đến trước mặt (rơ ràng như trong TV). Lúc ấy
khoảng chừng bốn giờ rưỡi sáng. Ba giờ
chiều hôm ấy, quả nhiên người ấy thật
sự đến thảo xá ở Đài Bắc. Lần thứ
hai là vào lúc sáng sớm tập Thái Cực Quyền, bỗng
cảm thấy có người muốn kiếm tôi (tức là
người bạn học tên Giả Khánh Bích). Ngay khi
đó, bèn đến bệnh viện hỏi thăm ông ta.
Ông ta nói: “Hôm qua là ngày Chủ Nhật, có người kiếm
một vị làm bác sĩ trong nhà trường, chẳng biết
ông có thời gian để làm thêm hay không?” Ngay khi đó, ông
ta kiếm địa chỉ và số điện thoại
của tôi nhưng đều chẳng thấy; do vậy, sốt
ruột, “chẳng ngờ sáng nay ông tới hỏi tôi”… Hai
chuyện trên đây bất quá là cảm ứng do học Phật,
nhưng bất tài nghĩ rằng: Chắc cũng là Phật,
Bồ Tát ắt biết, ắt thấy, cố ư hiển thị
cho tôi. Đối với chuyện này, xin lăo cư sĩ hăy
khai thị cho kẻ bất tài, mong thay! (Mă Ngọc Lâm hỏi)
Đáp:
Đối với câu hỏi này, có thể chọn ra bốn
chỗ để đáp:
1)
“Phật nên ban cho cảnh giới”,
chẳng biết ông mong cầu những cảnh giới
như thế nào? Chân là thanh tịnh, tịch diệt; vọng
là hết thảy tướng trạng. Hai điều ấy
đều do tâm cảm. Chẳng có cảm, bèn không có ứng.
2)
“Tổ Ấn Quang từng nói,
xuất gia ba năm, nếu chẳng có cảm ứng thấy
Phật, ta liền đọa địa ngục”, ông chẳng
nói rơ nghe được từ chỗ nào? Thấy từ chỗ
nào? Nếu Văn Sao chép như vậy th́ phải xét theo
nghĩa những câu văn trước và sau câu ấy. Nếu
chỉ cắt lấy câu ấy, chẳng đặt trong ngữ
cảnh, ắt sẽ hiểu lầm! Như đọc Luận
Ngữ thấy câu “cư
thượng bất khoan, vi lễ bất kính”[39],
chẳng đọc những câu tiếp liền trước
và sau câu đó, [sẽ nói Khổng Tử] dạy người
ta làm ác ư?
3)
Hai chuyện về người thân bên vợ và ông bạn
Giả Khánh Bích, chẳng qua là tâm con người giao cảm,
[đều là chuyện] mộng, huyễn, bọt, bóng!
Phật
Học Vấn Đáp Loại Biên
phần 14 hết
[1] Phạn điển: Các kinh điển
cổ của Bà La Môn, như kinh Vedas chẳng hạn.
[2] A Pḥng (阿房) là cung điện do Tần Thủy
Hoàng xây dựng sau khi diệt sáu nước, thống
nhất Trung Nguyên. Cung điện này nằm trên sông Vị
thuộc kinh đô Hàm Dương. Đây là một cung
điện tráng lệ, to rộng, xa xỉ bậc nhất
thời đó, phải mất gần ba năm mới xây
xong, huy động đến hơn bảy mươi vạn
công nhân. Nhưng theo các nhà nghiên cứu, cho đến khi
Tần Thủy Hoàng chết, cung điện ấy vẫn
chưa thật sự xây xong hoàn toàn. Cung A Pḥng có diện
tích rộng hơn tám mươi ngàn mét vuông, nhưng khi
Hạng Vũ diệt nhà Tần, đă đốt cháy cung
điện này.
[3] Chín nhánh sông ở đây chính là chín chi
lưu của Hoàng Hà.
[4] Lam Điền (藍田) là một huyện thuộc tỉnh Thiểm Tây,
nổi tiếng về ngọc vào thời cổ.
[5] Đây là một câu chuyện trong kinh Duy
Ma Cật. Do đại chúng thấy cơi Sa Bà nhơ uế,
dấy tâm nghi lúc tu nhân, Phật Thích Ca Mâu Ni chẳng
vận tâm thanh tịnh. Đức Phật dạy “cơi
nước nhơ uế là do tâm đại chúng bất
tịnh”. Liền đó, Ngài hiển thị thần
lực, nhấn ngón chân xuống đất, đại
chúng thấy toàn thể đại địa đều
bằng vàng.
[6] Viên Trung Đạo (1570-1623), tự là
Tiểu Tu, là văn hào đời Minh, quê ở huyện
Công An, tỉnh Hồ Bắc. Ông là em của hai văn gia
trứ danh Viên Tông Đạo và Viên Hoằng Đạo. Do
ba anh em đều nức tiếng văn chương, nên
họ có mỹ hiệu là Công An Tam Viên (ba ông Viên ở
huyện Công An). Ông Viên Trung Đạo làm quan đến
chức Lang Trung bộ Lại. Ba anh em ông sáng lập
một trường phái văn học nổi tiếng
thời ấy, mệnh danh là Công An Phái.
[7] Tám nạn (bát nạn) là tám hoàn cảnh
sống gây chướng ngại khiến chúng sanh khó
thể tu tập Bồ Đề, gồm địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cơi trời Trường Thọ
(tức Vô Tưởng Thiên), Bắc Câu Lô Châu (quá sung
sướng không nghĩ tới tu tập), kẻ bị
đui, điếc, câm, ngọng, kẻ Thế Trí Biện
Thông và sanh ra trước Phật hay sau Phật (tức là
sanh ra trước khi Phật giáng thế, hoặc sanh sau
khi Phật pháp đă diệt).
[8] Đà Thành (佗城) là một trấn thuộc huyện Long Xuyên, thành
phố Hà Nguyên, tỉnh Quảng Đông. Ở đây, vào
thời Tần, Triệu Đà đă xây dựng cổ thành
tại đây để làm tổng hành dinh cai trị
miền Lănh Nam và Giao Châu thuở ấy.
[9] Đây là một tỷ dụ trong kinh
Niết Bàn, chư Phật nhằm hóa độ chúng sanh bèn
dùng mọi phương tiện dẫn dụ. Ví như
trẻ khóc quấy, để dỗ cho trẻ nín khóc, bèn
lấy chiếc lá đă vàng úa, bảo là vàng thật,
trẻ tưởng thật, vui thích chơi với
chiếc lá, nín khóc.
[10] Đây là câu thành ngữ “nhân giả kiến nhân, trí giả kiến trí”
(người nhân thấy là nhân, người trí thấy là
trí), ư nói: Tùy theo mỗi người mà có kiến giải
khác nhau.
[11] “Trị học”
(治學) là một thành ngữ có nghĩa là theo đuổi
sự nghiệp nghiên cứu học vấn với thái
độ hết sức nghiêm túc, cẩn trọng.
[12] Đây là cụ Lư gọi người
hỏi một cách thân mật.
[13] Đây là một câu trong sách Trung Dung,
nguyên văn: “Hỷ nộ ai
lạc chi vị phát, vị chi Trung; phát nhi giai trung
tiết, vị chi Ḥa. Trung dă giả, thiên hạ chi
đại bổn dă. Ḥa dă giả, thiên hạ chi
đạt đạo dă. Trí trung Trung Ḥa, thiên địa
vị yên, vạn vật dục yên” (Mừng, giận, buồn, vui chưa phát ra
th́ gọi là Trung. Đă phát rồi mà có thể khắc
chế đúng mức bèn gọi là Ḥa. Trung là cái gốc to
lớn của trời đất. Ḥa là phương cách
để đạt đến đạo trong thiên
hạ. Đă đạt đến Trung và Ḥa th́ trời
đất đúng mực, vạn vật sanh thành đúng
lẽ). Chúng tôi dịch câu này theo cách giải thích của
trang nhà Đại Phương Quảng.
[14] Nhất Quán Đạo chính là một
trong các phái tà giáo phát sinh từ Bạch Liên Giáo, c̣n có
những tên gọi như Nhất Quán Hưng Thiên
Đại Đạo, Khổng Mạnh Thánh Đạo,
Nhất Thánh Đạo, Nhất Môn Đạo v.v... Trong
niên hiệu Thành Hóa (1465-1487) đời Minh, La Tư Phù
đă dựa trên giáo nghĩa của Bạch Liên để
canh cải, sáng lập La Giáo, chủ trương tín
đồ tại gia tu hành, tuyên truyền ai cũng có
thể giác ngộ bằng cách làm lành, không cần phải
niệm Phật, tọa Thiền v.v… Đến niên
hiệu Thuận Trị nhà Thanh, Hoàng Đức Huy lại
tôn La Tư Phù làm tổ sư, vay mượn giáo nghĩa
của La Tư Phù, pha trộn lung tung những tư
tưởng của Nho giáo và Phật giáo và những điều
mê tín trong dân gian, diễn giải theo kiểu tu tiên,
luyện đan, lập ra Thanh Liên Giáo. Đến cuối
đời Thanh, vào năm 1886, Lưu Thanh Hư là một
trong những người theo Thanh Liên Giáo lại canh
cải, đặt ra một đạo mới, lấy tên
là Nhất Quán Đạo, tôn thờ Minh Minh Lăo Mẫu làm
vị thần cao nhất, tự xưng ḿnh là Thiền Tông
Chánh Truyền. Hắn tuyên bố Lục Tổ đă
truyền bá sai lệch Phật pháp, rối loạn mối
đạo Thiền, chỉ có tại gia đệ tử
mới giữ được mối đạo chánh
truyền, và Nhất Quán Đạo mới là Thiền Tông
chân chánh. Do ở Đài Loan, Nhất Quán Đạo
đề xướng ăn chay, đặc biệt là
ăn trứng vịt, nên dân gian bèn gọi là Áp Đản
Giáo (đạo trứng vịt). V́ giáo chủ Nhất Quán
Đạo là Minh Minh Lăo Mẫu, mà danh xưng này chỉ
xuất hiện từ thời La Tư Phù, nên cụ Lư
mới nói “chẳng biết
giáo chủ của Áp Đản Giáo là ai”.
[15] Nguyên văn “Dạ
Lang kiến Hán sứ”. Vào đời Hán, nước
Dạ Lang (郎夜) ở vùng Quảng Tây và một phần
lớn tỉnh Quư Châu hiện thời, giáp quận Ba
Thục và hồ Động Đ́nh. Đây là một
nước hùng mạnh nhất ngoài đất Hán, nên vua
Dạ Lang rất tự phụ. Đời Hán Vũ
Đế, Đường Mông vâng chỉ sang sứ Dạ
Lang, dụ Dạ Lang Vương quy phục, biến
Dạ Lang thành quận huyện của nhà Hán, Dạ Lang
Vương ngạo nghễ hỏi: “Hán có to bằng ta hay
không?” Điều này va chạm tính cách tự tôn của người
Hán rất nặng, do vậy, đối với
người Hán, thành ngữ “Dạ
Lang kiến Hán sứ” được sử dụng với
ư nghĩa “kiêu căng, hợm hĩnh, coi trời bằng vung!”
[16] Mạnh Tử đất Trâu chính là
Mạnh Kha (372-289 trước Công Nguyên) là người
kế thừa Khổng Tử, trung hưng Nho giáo. Do ông quê
ở huyện Trâu nước Lỗ, nên đôi khi c̣n
gọi là Trâu Mạnh Tử. Ông theo học với Tử
Tư (cháu của Khổng Tử), lănh hội Nho giáo
vượt trỗi các vị tiên hiền trong số
Thất Thập Nhị Hiền (bảy mươi hai vị
cao đồ của Khổng Tử), nên được tôn
xưng là Á Thánh. Những ngôn luận của ông
được chép thành bộ sách Mạnh Tử và sách này
được xếp vào Tứ Thư của Trung Hoa.
Ngô Mạnh Tử là vợ của Lỗ Chiêu Công
(Cơ Trù). Thời Chiến Quốc, vợ quư tộc
thường được gọi tên theo nơi sanh
trưởng, chứ ít khi nhắc đến tên thật.
Bà Ngô Mạnh Tử vốn họ Cơ, sanh trưởng
ở đất Ngô, nên thường được gọi
là Ngô Cơ. Thuở ấy, phong tục nước Lỗ
cấm những người cùng họ lấy nhau, nhưng
Cơ Trù muốn lấy Ngô Cơ bèn đổi tên Ngô Cơ
thành Ngô Mạnh Tử. Trong Luận Ngữ, thiên Thuật
Nhi, có chép lời Khổng Tử chê trách chuyện này: “Ngô văn quân tử bất
đảng, quân tử diệc đảng hồ? Quân
thủ ư Ngô vị đồng tánh, vị chi Ngô Mạnh
Tử, quân nhi tri lễ, thục bất tri lễ” (ta
nghe nói quân tử chẳng kéo bè kết đảng, quân
tử mà cũng kéo bè kết đảng ư? Nhà vua
lấy bà Ngô, nhưng bà ta là người cùng họ, bèn
đặt tên là Ngô Mạnh Tử. Vua mà biết lễ th́
c̣n ai mà không biết lễ nữa). Viên thái giám Mạnh
Tử được nhắc đến trong bài thơ
Hạng Bá thuộc chương Nhĩ Nhă của kinh Thi: “Tự nhân Mạnh Tử, vị
tác thử thi” (thái giám Mạnh Tử, soạn bài thơ
này).
[17] Ngọc tỷ (玉璽): Cái ấn của hoàng đế.
[18] Đây là hai tấm gương hiếu
thảo trong Nhị Thập Tứ Hiếu:
MạnhTông (?-271), tự là Cung Vũ, sống vào
đời Tam Quốc, từng giữ chức Tư Không
trong chính quyền Đông Ngô. Theo Nhị Thập Tứ
Hiếu, trời nhằm mùa Đông, mẹ ông ta bị bệnh,
thèm ăn canh măng. Mạnh Tông không biết làm sao, bèn ôm
gốc trúc khóc rống. Ḷng hiếu cảm trời
đất, một gị măng bèn trồi lên. Ông lấy
về nấu canh dâng mẹ, ăn xong, bệnh mẹ
liền lành.
Khương Thi đời Đông Hán, người
xứ Quảng Hán, tỉnh Tứ Xuyên. Mẹ thích uống
nước sông Trường Giang và ăn cá, vợ
chồng thường phải lặn lội ra sông bắt
cá cho mẹ ăn tuy nhà cách sông đến sáu mươi
dặm, tuy vất vả, họ không hề than văn. Về
sau, chợt ngay bên cạnh nhà sanh ra con suối có vị
nước giống hệt như nước sông
Trường Giang; mỗi ngày từ dưới suối,
hai con cá chép nhảy lên để vợ chồng làm chả
cá cho mẹ ăn.
[19] Sử Kư Tư Mă Thiên, phần Lă Thái
Hậu truyện có ghi: “Tam
nguyệt trung, Lă Hậu phất, hoàn quá chức
đạo, kiến vật như thương khuyển,
cứ Cao Hậu dịch, hốt phất phục kiến.
Bốc chi, vân Triệu vương Như Ư vị túy. Cao
Hậu toại bệnh dịch thương” (Tháng Ba, Lă
Hậu làm lễ trừ tà xong, trở về, qua vùng
Chỉ Đạo, thấy một vật giống như
con chó xanh ngồi chồm chỗm bên nách, chợt chẳng
thấy nữa. Xem bói, thầy bói nói là hồn Triệu
vương Như Ư quấy phá. Cao Hậu bèn bị
bệnh ở nách rồi chết). Lă Thái Hậu (214-180
trước Công Nguyên) tên thật là Lă (Lữ) Trĩ, là vợ
của Hán Cao Tổ (Lưu Bang) nên c̣n gọi là Cao Hậu.
Tuy không được học hành nhiều, khi Lưu Bang
lên làm vua, bà thể hiện tài năng cai trị, mưu
mẹo quỷ quyệt, hiến kế giúp Hán Cao Tổ diệt
Hàn Tín và các chư hầu, dần dần nắm quyền
chi phối toàn thể triều đ́nh. Sau khi Lưu Bang
chết, bà tận lực thao túng chính quyền nhà Hán,
giết hại các công thần, tận dụng họ hàng
của chính ḿnh để làm vây cánh, khiến cho nhà Hán
gần như trở thành chính quyền của riêng Lă
Hậu, vua Hán thuở đó (Hán Huệ Đế) chỉ
c̣n là con rối trong tay bà. Triệu Vương Lưu
Như Ư là con của Thích Cơ (sủng thiếp của
Lưu Bang). Do say mê nhan sắc của Thích Cơ, Lưu Bang
phong cho Lưu Như Ư làm Triệu vương, toan
tước ngôi Thái Tử của Lưu Doanh (con trai Lă
Hậu) để lập Như Ư làm thái tử. May nhờ
Trương Lương hiến kế, dùng các vị hiền
nhân khuyên giải, Lưu Bang mới bỏ ư định ấy.
V́ thế, khi Lưu Bang chết, Lă Hậu đă trả thù
Thích Cơ tàn nhẫn, chặt hết chân tay, rạch nát
mặt, chọc tai, khoét mắt, quăng vào nhà xí cho
sống lê la trong ấy, gọi là “nhân trệ” (con heo người). Đến khi
Thích Cơ chết, bà lại c̣n sai người ném vào chum
dấm đặc cho tan xác. Như Ư nhờ được
Lưu Doanh (Hán Huệ Đế) che chở, nên Lă Hậu
chưa thể hại được. Lă Hậu bèn t́m cách
dụ Hán Huệ Đế rời cung, giết chết
Như Ư.
[20] Đại thảm sát Nam Kinh là cuộc
tàn sát và hăm hiếp tập thể với quy mô lớn do
quân Nhật gây ra tại Nam Kinh. Cuộc tàn sát này xảy ra
suốt sáu tuần lễ kể từ ngày Mười Ba
tháng Mười Hai năm 1937, số người bị
giết ước tính từ bốn chục ngàn
người trở lên, và có thể lên tới ba trăm ngàn
người. Do các tài liệu đă được sở
t́nh báo Nhật tiêu hủy trước khi quân Nhật thua
trận trong Thế Chiến thứ hai, các sử gia
vẫn chưa thể biết đích xác con số nạn
nhân. Kể từ tháng Tám năm 1937, sau cuộc chiến
tranh đẫm máu ở Thượng Hải, với
tổn thất nặng nề cho đôi bên, quân đội
Nhật quyết định chuyển quân đoàn
Mười sang tấn công Nam Kinh (thủ đô của Trung
Hoa Dân Quốc thời đó). Thiên Hoàng Chiêu Ḥa (Showa Hirohito)
thời ấy đă phê chuẩn cho quân đội Nhật
ngừng tôn trọng quy định nhân đạo
đối với tù nhân chiến tranh. Thống chế
Tưởng Giới Thạch phải thiên đô chính
quyền Trung Hoa Dân Quốc về Trùng Khánh, giao quyền
chỉ huy Nam Kinh cho tướng Đường Sanh Trí. Nam
Kinh nhanh chóng thất thủ trong ṿng bốn tháng sau đó,
và để dập tan sự kháng cự, cũng như
khuyến khích quân Nhật thêm hăng máu, các tướng
lănh Nhật cho phép quân đội tự do tàn sát, hăm
hiếp, cướp bóc. Thậm chí có những tṛ thi đua
giữa hai sĩ quan Nhật xem ai có thể giết
được một trăm người trong ṿng một
ngày chỉ bằng một lưỡi gươm!
[21] “Dương
Châu thập nhật” là cuộc đại tàn sát kéo dài
suốt mười ngày tại Dương Châu sau khi quân
Thanh hạ được thành Dương Châu vào ngày Hai Mươi
tháng Năm năm 1645, tức năm Thuận Trị
thứ hai nhà Thanh, dưới sự chỉ huy của
Dự Thân Vương Đa Đạc (Dodo). Dương
Châu khi đó là một địa điểm pḥng thủ
kiên cường của chính quyền nhà Nam Minh chống
lại quân Thanh dưới sự chỉ huy của Sử
Khả Pháp. Quân Thanh đă dùng cả trọng pháo của Âu
Tây để tấn công. Sau khi hạ được thành,
quân Thanh bắt được Sử Khả Pháp và lăng
tŕ thảm khốc. Bộ tướng của Sử
Khả Pháp là Lưu Khải Cơ vẫn kiên cường
thống lănh tàn quân và quân nghĩa dũng chống cự
quân Thanh trên từng con phố, từng ngơ hẻm trong
tuyệt vọng. Đa Đạc cho rằng tàn sát như
thế vừa nâng cao sĩ khí quân Thanh, vừa trừng
phạt quân dân thành Dương Châu, đồng thời
răn đe mọi ư muốn kháng cự của quân Minh
tại vùng Giang Nam.
[22] Tam Ca Diếp là ba vị đại
đệ tử của Phật, vốn là ba anh em ruột,
trước kia theo đạo thờ lửa, về sau
được đức Phật hóa độ,
đều dẫn đồ chúng về làm đệ
tử Phật, tức là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già
Da Ca Diếp, và Nan Đề Ca Diếp.
[23] Biền âm (拼音, Pīnyīn, c̣n đọc là bính âm hoặc phanh âm) là cách ghi âm đọc chữ Hán theo
giọng Quan Thoại bằng cách sử dụng mẫu
tự La Tinh và bốn dấu chỉ thanh điệu
(thừa kế từ cách Chú Âm Phù Hiệu). Hệ thống
này được phát triển từ các nỗ lực
sử dụng ghi âm đọc Quan Thoại trước
đó, đặc biệt là cách ghi âm theo kiểu Sin Wenz (Tân
Văn) do học viện Sô Viết Đông Phương
ở Leningrad sáng chế (nhược điểm của
Sin Wenz là không có phù hiệu ghi thanh điệu). Sau khi
Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa thành lập, chánh quyền Hoa
Lục đă đề ra dự án La Mă hóa tiếng Hán,
hoặc tối thiểu là có một công cụ để
dạy dân chúng học chữ Hán dễ hơn. Một trong
những nhân vật lănh đạo chủ chốt của
dự án này là Châu Hữu Quang (một nhà kinh tế đang
làm việc tại Nữu Ước, hồi hương
để làm giáo sư kinh tế tại Thượng
Hải). Đề xuất Pīnyīn của ông Châu được
chính quyền Hoa Lục chấp thuận vào năm 1958, sau
đó, các nước như Đài Loan và Singapore cũng
lần lượt áp dụng. Cho đến nay, Pīnyīn
được coi là cách phiên âm tiêu chuẩn trong các từ điển
tiếng Hán.
[24] Lực hấp dẫn (Hấp lực,
vạn hữu dẫn lực, universal gravitation): Theo Vật
Lư, giữa mọi vật có lực hấp dẫn chính là
lực hút giữa các vật với nhau. Lực ấy có
độ lớn tỷ lệ thuận với khối
lượng của chúng và tỷ lệ nghịch với
b́nh phương khoảng cách giữa chúng (F= (Gm1m2)/r2,
trong đó, m1 và m2 là khối
lượng của hai vật tương tác, r là khoảng
cách giữa chúng, G là hằng số hấp dẫn, tức
là 6,6732x10-11 m3/kg.s2. Một thí
dụ rơ rệt nhất là lực hấp dẫn tạo
thành hiện tượng thủy triều trên địa
cầu.
[25] Tạ chỉ (谢纸): Đây là một cổ lễ. Do thời cổ,
người đến viếng đám tang thường
mang theo giấy tiền, vàng bạc để phúng
điếu; khi chôn cất xong xuôi, trưởng tử
hoặc trưởng tôn (cháu đích tôn) phải đến
nhà từng người phúng điếu để cám ơn,
nên gọi là “tạ chỉ”.
Thoạt đầu điều này chỉ có ư nghĩa
biểu lộ ḷng biết ơn. Về sau, bọn
đạo sĩ đồng cốt đă bịa
đặt ra nhiều nghi thức rườm rà, cúng bái,
yểm bùa ḥng xả xui cho những người đến
viếng. Một h́nh thức nhẹ nhàng hơn của niềm
mê tín này là khi đến viếng đám tang, tang gia
người Hoa luôn để sẵn những phong bao màu
đỏ, bên trong để một đồng tiền
buộc chỉ đỏ, hoặc một vật ǵ màu
đỏ như kẹo bọc giấy đỏ chẳng
hạn. Ai đến phúng điếu, tang gia đều
biếu người ta một phong bao đỏ để
xả xui cho người ấy!
[26] Tư thục đệ tử là
người học theo một vị thầy qua học
từ trước tác hoặc giáo huấn của thầy
để lại, do kính mến, bèn tự coi ḿnh là
đệ tử của vị thầy ấy. Chẳng
hạn như tổ Ngẫu Ích là tư thục đệ
tử của tổ Liên Tŕ.
[27] “Tam vương” là ba vị vua khai sáng
các triều đại của Trung Hoa, được coi là
bậc thánh quân, tức những vị vua gương
mẫu, hiền đức, hết ḷng v́ nước v́ dân.
Đó là vua Đại Vũ nhà Hạ, vua Thương Thang
nhà Thương và Châu Văn Vương nhà Châu.
[28] Xi Vưu là thủ lănh của bộ
lạc Cửu Lê, là thỉ tổ của tộc Miêu. Hoàng
Đế (Công Tôn Hiên Viên) là thủ lănh của Hán tộc.
Cuộc chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu chính là
cuộc chiến tranh xâm lăng của người Hán
nhằm chiếm vùng đất màu mỡ thuộc về
Miêu tộc. Sau bại trận trong cuộc chiến Trác Lộc,
Xi Vưu bị giết, tộc Cửu Lê bị Hán tộc
dồn lên vùng núi cao, hiểm trở; trở thành dân tộc
thiểu số tạiTrung Hoa, hoặc bị đồng hóa
với Hán tộc. Tộc Cửu Lê sống ở lưu
vực Trường Giang và Hán Thủy; do họ có chín
bộ lạc, nên cổ sử gọi là Cửu Lê. Xi
Vưu là đại tù trưởng của chín bộ
tộc, Hoàng Đế cũng là tù trưởng, v́ cổ
sử gọi ông ta là Cộng Chủ, tức là tù
trưởng của liên minh các bộ lạc. Theo các nhà nghiên
cứu, nhằm đề cao Hán tộc, cổ sử Trung
Hoa đă mô tả Xi Vưu hết sức tệ hại.
[29] Phục Sanh (không rơ năm sanh và năm
mất), tên là Thắng, tự là Tử Tiện,
người xứ Tế Nam (có thuyết nói là Trâu B́nh), là
một nhà kinh học (chuyên nghiên cứu kinh điển Nho
gia) đời Tây Hán. Trước đó, ông từng giữ
chức Kinh Học Bác Sĩ dưới thời Tần
Thủy Hoàng, chuyên môn nghiên cứu Thượng Thư.
Bộ Kim Văn Thượng Thư hiện đang lưu
hành chính là công tŕnh nghiên cứu của ông. Khi Tần
Thủy Hoàng đốt sách chôn học tṛ năm 213
trước Công Nguyên, Phục Sanh đă đem giấu
Thượng Thư vào trong vách đất. Đến khi
nhà Hán thành lập, ông đă lấy ra và truyền
đạt, nhưng đă bị thất lạc mất
mười thiên. Do nguyên văn Thượng Thư viết
bằng chữ Tiểu Triện (là loại chữ thông
dụng đời Tần), khi Phục Sanh lưu truyền
Thượng Thư lại sử dụng chữ Lệ
của thời Hán nên gọi là Kim Văn Thượng
Thư. Do Thượng Thư ghi chép những điển
chế, chiếu chỉ, mệnh lệnh thời Tam
Đại, nên cụ Lư Bỉnh Nam nói “khuôn phép thời Tam
Đại do chính miệng Phục Sanh thuật lại”.
[30] Tác phẩm này có tên gọi đầy
đủ là Hoàng Đế Nội Kinh, được coi
là tác phẩm lư luận về Đông Y sớm nhất. Theo
truyền thuyết, tác phẩm này ghi chép lại cuộc
thảo luận về y học giữa Hoàng Đế và
Kỳ Bá, Lôi Công, Bá Cao, Thiếu Sư, Quỷ Du Khu,
Thiếu Du v.v… (ngoại trừ Hoàng Đế, những
người sau đều là những nhà danh y). Theo nghiên
cứu, tác phẩm này chỉ có thể ra đời vào
thời Chiến Quốc, thậm chí, có người cho là
Nội Kinh không thể xuất hiện trước
thời Tây Hán. Sách được chia thành hai phần là
Tố Vấn (bao gồm những nguyên
tắc lư luận căn bản của Trung Y và các
phương pháp chẩn trị) và Linh Thư (chú trọng
thảo luận chi tiết về phương pháp châm
cứu)
[31] Ngũ tịnh nhục: Năm
loại thịt được phép ăn, tức là
thịt do chẳng chính mắt thấy con vật bị
giết, chẳng nghe con vật v́ ta mà bị giết,
chẳng hoài nghi v́ ta mà con vật ấy bị giết,
thịt của chim thú tự chết, thịt do những
con vật khác ăn bỏ sót lại.
[32] Trương
Trừng Cơ (1920-1988) là nhà học giả Phật
giáo chuyên nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng. Ông tinh
thông tiếng Anh, tiếng Phạn và tiếng Tây Tạng, là
một trong những vị cư sĩ tích cực
truyền bá Phật giáo sang Mỹ. Năm 1935, khi mới
mười lăm tuổi, ông quyết chí bỏ học,
bế quan tại Lư Sơn để chuyên theo
đuổi Phật học. Năm sau, ông tự sang Tây
Tạng học Mật Tông. Do cha ông là ủy viên của Mông Tạng Ủy Viên Hội,
nên đă sắp xếp ông tới chùa Tuyết Sơn núi
Cống Cát, tôn lạt-ma Cống Cát (Bo Gangkar Rinpoche) làm
thầy, học tập Phật giáo Tây Tạng theo tông phái
Kargyupa. Năm 1947, nhận lời mời của ông Đàm
Vân Sơn, hiệu trưởng trường Ấn
Độ Quốc Tế Đại Học, ông sang Ấn
Độ dạy học. Trong năm 1950, ông quen biết
cư sĩ Trầm Gia Trinh tại Ấn Độ và nhanh
chóng trở thành bạn bè thân thiết. Năm 1951, ông cùng
vợ di cư sang Mỹ, dạy học tại viện
Nghiên Cứu Xă Hội ở Nữu Ước. Trong
thời gian đó, ông hết sức sốt sắng cùng
cư sĩ Trầm Gia Trinh sáng lập hội Phật giáo
Mỹ Quốc và tham gia công tŕnh kiến tạo Trang Nghiêm
Tự rất lớn tại Nữu Ước.
[33] Do tà giáo Nhất Quán, Bạch Liên v.v… nghe
lơm bơm có bảy vị Phật (thất Phật quá khứ),
và đức Phật Thích Ca từng được Nhiên
Đăng Phật thọ kư, chúng chẳng hiểu như
thế nào, bèn nói bừa là “bảy vị Nhiên Đăng
Phật”.
[34] Do áo nhà vua cầu kỳ phức
tạp, dân đen không biết mặc như thế nào, nên
kẻ trộm áo bèn buộc chồng, vắt chéo, xộc
xệch, lôi thôi!
[35] Aesop (Aisōpos, 620-564 trước Công Nguyên) xuất thân là nô
lệ từ tại thành phố Mesembira (có thuyết nói là
thành phố Lydia, Phrygia hoặc Sardis), xứ Thrace của
cổ Hy Lạp, được coi là tác giả của
nhiều câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng. Câu
chuyện nổi tiếng nhất là cái lưỡi, khi chủ
nhân hỏi “bộ phận nào ngon nhất trên con cừu”,
ông trả lời là cái lưỡi, và khi được
hỏi phần nào dở nhất, ông cũng trả lời
là cái lưỡi. Ông giải thích là cái lưỡi có
thể nói lời hay tiếng đẹp, ca ngợi
những điều đức hạnh, mà cái lưỡi
cũng thốt lên những điều độc ác, châm
chọc, ly gián, miệt thị v.v…
[36] Câu này hơi khó hiểu nên mạt nhân
mạn phép vẽ rắn thêm chân như sau: “Nhiễm và tịnh lần lượt tiêu trừ và
tăng trưởng lẫn nhau” có nghĩa là trừ
được một phần nhiễm, sẽ tăng
trưởng một phần tịnh. Tăng trưởng
một phần nhiễm, tịnh sẽ giảm thiểu
một phần.
[37] Tiêu Xương Minh (tên thật là Tiêu
Thỉ, tự là Xương Minh, 1895-1943), quê ở Tứ
Xuyên, là người sáng lập Thiên Đức Thánh Giáo,
chủ trương Ngũ Giáo Hợp Nhất (tức là
dung hợp những giáo lư của Nho, Thích, Đạo, Gia Tô
và Hồi Giáo), không thờ thần tượng, chỉ
thờ một tấm vải vàng tượng trưng cho
sự thiên khải của Thượng Đế. Tuy nói là
dung hợp ngũ giáo, cách tu tập do ông ta đề xướng
chủ yếu là tập luyện Tiên Thiên Khí Công, tu luyện
Tinh Khí Thần của Đạo gia, cũng như tập
luyện cách loại bùa chú huyền bí, ma quái để
trị bệnh hoặc ếm đối ḥng dễ lôi kéo
tín đồ. Sau khi Tiêu Xương Minh mất, những
đệ tử thân cận đă tuyên truyền ông văng sanh Phật
quốc Chúng Hương Diệu, được “thiên phong”
là Nhất Khí Tông Chủ, đạo hiệu là Vô H́nh Cổ
Phật. Các đạo đường của Thiên
Đức Giáo bèn thay tấm vải vàng bằng h́nh
tượng ông. Từ tà phái này, lại nẩy sanh một
chi phái là Thiên Đế Giáo, cũng vận dụng một
loại Khí Công mệnh danh là Tiên Thiên Chưởng Quang
để chữa bệnh. Họ cho rằng Đức
Giáo là tôn giáo cổ nhất, bắt nguồn từ Phục
Hy, được hưng khởi bởi Hoàng Đế, và
h́nh thành quy chế, chuẩn mực dưới thời
Nghiêu Thuấn. Các giáo chủ Nho, Thích, Đạo, Gia Tô,
Hồi chỉ diễn giải một khía cạnh của
Đức Giáo mà thôi. Tất cả kinh sách được
lưu truyền trong tà giáo này đều là trước tác
của Tiêu Xương Minh, mạo danh Phật giáo, như
Phật Thuyết Minh Đạo Kinh, Phật Thuyết
Đại Đồng Kinh, Thanh Phong Cổ Phật Chân Kinh
v.v…
[38] Đây là một câu nói do ông Mă Ngọc
Lâm bịa ra, tra trong khắp ba bộ Văn Sao (Chánh Biên, Tục
Biên và Tam Biên), tổ Ấn Quang chưa bao giờ nói như
vậy! Trong Ấn Quang Vĩnh Tư Lục, cũng không hề
thấy các đệ tử thân cận Tổ có nói Tổ đă
từng dạy như vậy!
[39] Đây là một câu trích trong thiên Bát
Dật của Luận Ngữ: “Cư
thượng bất khoan, vi lễ bất kính, lâm tang
bất ai, ngô hà dĩ quán chi tai” (Kẻ ở địa
vị cao mà thiếu khoan dung, chẳng nghiêm túc tuân thủ
lễ, lo đám tang mà chẳng tỏ vẻ buồn
rầu, ta làm sao nh́n kẻ đó vừa mắt cho
được?)