Phật Học Vấn
Đáp Loại Biên
Quyển Trung
佛學問答類編
Phần 8
Lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam giải đáp
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo
Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội,
Đài Loan, 2007)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
* Hỏi:
Trong chương thứ ba mươi sáu của Phật
Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh có câu “sanh trung quốc nan”. Đó là
nói đến nước Trung Thiên Trúc, hay là nói đến
Trung Hoa? Nếu là nói về Trung Hoa th́ lại do nhân duyên nào
mà khiến thành ra như vậy? (Đồ
Trinh Quang hỏi)
Đáp: Đối
với chuyện này, phần nhiều cổ đức
đă chú giải [“trung quốc”]
là nói đến nơi đô hội trong một nước,
tức là chỗ được gọi là “trung tâm phồn
hoa” trong hiện tại, khác với chốn biên địa,
thô lậu. Chốn thô lậu sẽ có văn hóa thấp
kém, trí huệ của con người bế tắc, nghe
điều tốt lành [thông thường] c̣n khó, huống là
đạo giải thoát ư?
* Hỏi:
Trong Phật pháp chia thành các pháp môn thuộc mười tông.
Sự phân chia các pháp theo tông phái ấy là do thuở đức
Phật tại thế đă chế định, hay là do các
vị tổ sư đời sau tự chia, nhằm [ứng
hợp với chuyện] nên dùng pháp nào để độ
chúng sanh đó chăng? Mong hăy chỉ dạy! (Bảo Tâm hỏi)
Đáp: Mười
tông chính là do học nhân Trung Hoa phân định. Bởi lẽ,
Phật pháp mênh mang như khói lan tỏa trên mặt biển,
bạc đầu nghiên cứu vẫn chẳng thể [thấu
hiểu] cùng tận! Do vậy, bèn chọn lấy một loại
để chuyên môn tu tập. Đấy là nói đại
lược [nguyên nhân v́ sao] phân chia [thành từng tông]. Nếu
có thể khế nhập sâu xa một tông, hạnh giải
tương ứng, chẳng dấy lên Ngă Chấp và Pháp Chấp,
có thể thông suốt một pháp th́ trăm pháp đều
thông suốt vậy!
* Hỏi:
Chú tâm của chú Lăng Nghiêm là câu nào? (Lưu Nhân Phước hỏi)
Đáp: Trong
kinh cũng đă nói rơ. Kinh dạy: “Thị đảnh quang tụ, tất đát đa
bát đát ra (Sitātapatrā), bí mật già
đà, vi diệu chương cú”
(Đoạn kinh văn vi diệu, lời kệ bí mật “tất đát đa bát đát ra”,
là khối quang minh phát ra từ đỉnh đầu này).
Kế đó, lại nói: “Nhân thử
chú tâm, đắc thành Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác”
(Do chú tâm này mà được thành Vô Thượng Chánh Biến
Tri Giác), [có tất cả] mười đoạn tán thán
như vậy. Ông tra duyệt [kinh Lăng Nghiêm] để
đối chiếu, sẽ tự biết.
* Hỏi:
Trung Quán và Trung Đạo có phải là một hay không? Trong
đạo Trung Quán, có phải là có thể coi như là “chiếu liễu phân biệt”
hay không? (Ngô Nhậm Huy hỏi)
Đáp: Trung
Đạo chính là Trung Đế. Trung Đế là nói tới
Sự, Lư. Trung Quán là nói tới phép Quán của người
hành tŕ. Một đằng là động từ, một
đằng là tĩnh từ[1],
rơ ràng là hai, nhưng Quán điều ǵ? Quán Đế ấy.
Dùng ǵ để hiểu rơ Đế ấy? Mượn
phép Quán để chiếu. “Chiếu
liễu phân biệt” chính là vấn đề công phu, hoàn
toàn chẳng phải là hễ quán sẽ liễu (了, thấu triệt) ngay! Kẻ nông cạn sẽ
không thể [vừa quán bèn liễu ngộ], người căn
cơ sâu dầy th́ có thể.
* Hỏi:
Trong học kỳ trước, tại trường học,
tôi đă từng hỏi thầy Hứa Tổ Thành: “Như
thế nào mới là đệ tử Phật thật sự?”
Thầy Hứa bảo: “Ắt
phải tham dự lễ quy y thật sự th́ mới có thể
coi là đệ tử Phật thật sự. Nếu không, chỉ có thể coi
là tùy duyên đệ tử”. Quy y là nương tựa.
Chúng ta nương vào Phật pháp trong kinh Phật, chiếu
theo những ǵ Phật pháp đă dạy để hành, chẳng
lẽ như thế mà vẫn chẳng thể coi là đệ
tử thật sự của đức Phật ư? Thầy
Hứa là bậc Thái Sơn, Bắc Đẩu trong Phật
học; có thể là trong lời dạy của thầy ấy
có khá nhiều câu khai thị, nhưng đệ tử thật
sự chẳng thể liễu giải. Cúi xin thầy hăy giải
thích rơ ràng cho đứa học tṛ ngu muội này! (Trần Chánh Mân hỏi)
Đáp: “Quy y” là bỏ đường
mê, nương về lẽ chánh yếu, nương theo
giáo pháp để hành. Hai chữ ấy được giải
thích như thế đó. Tiếp nhận pháp ấy, th́ gọi
là “sư thừa” (師承), tức là tôn Tam Bảo làm thầy của
ta, ắt có nghi thức, có chứng thư (điệp quy
y) v.v… cho nên gọi là “đệ tử chánh thức”.
Như vào học một trường nào đó, ắt phải
dự thi, ghi danh v.v… th́ mới có học bạ. Nếu chẳng
trải qua những thủ tục ấy, tuy vẫn vào lớp
học, chỉ gọi là “học sinh dự thính”. Đó là
chỗ khác biệt. Hơn nữa, đối với hai chữ
“thật sự”, cũng có
những cách giải nói khác nhau. Có kẻ hành tŕ thật sự
và kẻ trọn đủ nghi thức! Người thật
sự tu nhưng không quy y th́ gọi là “tư thục đệ tử”. Kẻ chỉ trọn
đủ h́nh thức, nhưng chẳng tu, hữu danh vô thực,
sẽ chẳng đạt được lợi ích.
* Hỏi:
V́ sao “pháp sư” chỉ
chuyên dùng cho tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, c̣n tại gia cư
sĩ chẳng thể dùng? Chẳng lẽ một thầy
lang, chẳng phải là sinh viên đă tốt nghiệp từ
viện y học, nhưng có thể chữa bệnh, sẽ
chẳng thể gọi là “thầy thuốc” hay sao? Một
người có thể thực hiện tốt đẹp
công tác giáo dục tuy chẳng phải là sinh viên tốt nghiệp
từ trường sư phạm, sẽ chẳng thể gọi
là giáo viên ư? Cùng một lẽ ấy, v́ sao một vị
cư sĩ tinh thông Phật lư, hành Bồ Tát đạo, chẳng
thể gọi là pháp sư? (Trần
Chánh Mân hỏi)
Đáp:
Danh hiệu “pháp sư” thật
ra hoàn toàn chẳng nghiêm ngặt. Kinh Pháp Hoa liệt kê
năm loại pháp sư, Biện Trung Biên Luận kể ra
mười loại pháp sư. Phàm những ai có thể thọ
tŕ, đọc tụng, đều có thể gọi là “pháp sư”, chẳng hạn
định là xuất gia hay tại gia. Nhưng do phong tục
ở một thời nào đó, do thói quen tại một vùng
nào đó, mà h́nh thành những từ ngữ chuyên dụng,
cũng chẳng ngại thuận theo thói tục để
vạch ra giới tuyến. Hễ nghe [từ ngữ ấy],
sẽ biết rơ ràng, chẳng lẫn lộn. Tự khiêm,
đề cao người khác chính là mỹ đức
(đức hạnh tốt đẹp).
* Hỏi:
Phân biệt “quán vô niệm”, “khán thoại đầu” và “ly tướng niệm Phật”
như thế nào? (Khiết Viên
hỏi)
Đáp: Hai
loại trước là “tâm vô Phật”, loại sau là tâm hữu
Phật.
* Hỏi:
“Vô trụ sanh tâm”,“Chân Không Diệu Hữu”, và
Chỉ Quán có phân biệt hay không? (Khiết Viên hỏi)
Đáp: “Vô trụ sanh tâm” là chẳng
để cho vọng niệm có chỗ phan duyên, cũng chẳng
nhờ vào phương tiện khiến cho nó có chỗ trụ.
Tuy là như thế, vẫn cần phải giác chiếu hiện
tiền, không làm mà làm, hành rộng răi Lục Độ. V́
thế, nói là “sanh tâm”. Chân Không
Diệu Hữu là nói tới sự dung hợp giữa Không
và Hữu. Nói Chân Không chính là Diệu Hữu, ví như Tâm
Kinh đă nói: “Không chính là Sắc”.
Chỉ Quán là một cách tu. Chỉ (止) là dứt vọng tâm duyên lự. Quán (觀) là quán Thật Tướng của chân tâm.
* Hỏi:
Kim Cang Vương Bảo Kiếm và Bát Nhă Huệ có
tương đồng hay không? Nếu bất đồng,
chữ Kiếm (劍) ấy có ư nghĩa
như thế nào? (Ngô Nhậm Huy
hỏi)
Đáp:
Bát Nhă là nói về thể đức của tánh. Kim Cang
Vương Bảo Kiếm là từ ngữ tỷ dụ.
Kim Cang Kiếm vừa cứng chắc, vừa sắc bén. Do
sắc bén, có thể chặt đứt hết thảy; do
cứng chắc, sẽ không bị hết thảy làm hư
hoại. Tánh Bát Nhă cũng giống như vậy.
* Hỏi:
Câu “sở vị Phật pháp giả,
phi Phật pháp dă, thị danh Phật pháp” (cái được
gọi là “Phật pháp” chẳng phải là Phật pháp, th́ gọi
là Phật pháp) xuất phát từ kinh điển nào? (Ngô Nhậm Huy hỏi)
Đáp:
Xuất phát từ kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật.
* Hỏi:
Gần đây, nhật báo có đăng tải bức
điện gởi cho các tăng sĩ người Hoa nhập
ngũ, trong ấy có câu: “Do bảo
vệ sanh mạng mà phải giết chóc, La Hán lấy chuyện
đó làm phận sự. Do bảo vệ đạo mà hàng
ma, bậc Bồ Tát v́ đó mà vung kim cang xử”. Chuyện
ấy xuất phát từ kinh điển nào? (Ngô Nhậm Huy hỏi)
Đáp: Trong các ư nghĩa của La Hán, có một ư
nghĩa là “sát tặc” (殺賊, giết giặc). Cần phải biết,
ư nghĩa ấy nhằm tỷ dụ chuyện đoạn
hết phiền năo, chẳng phải là vung đao giết
người. Vi Đà Bồ Tát vũ trang hộ pháp, vũ
khí do Ngài cầm được gọi là “hàng ma xử” (降魔杵, chày hàng phục ma). Trong chùa, phần nhiều
thờ Ngài. Tác giả [của bức điện tín ấy]
đă nối kết những điều đó để
viết thành câu, chẳng cần phải t́m ṭi [xuất xứ
của những câu nói ấy] từ các kinh điển.
* Hỏi:
V́ sao người xuất gia trong Phật giáo có các danh hiệu
như ḥa thượng, pháp sư, sư phụ, kinh sám
sư (tử) v.v… V́ sao có những danh hiệu ấy? Có phân
biệt cao thấp hay không? Xin hăy giải đáp tường
tận, ḥng được nghe lẽ đúng đắn! (Đào Dân Trị hỏi)
Đáp:
Người xuất gia đều gọi là “pháp sư”. Hai chữ Ḥa
Thượng [có ư nghĩa] tôn trọng nhất, thế tục
lại ngược ngạo tưởng lầm đó là
danh từ thông thường [để gọi người
xuất gia][2]. “Sư phụ” thật ra từ
ngữ xưng hô của thế tục [đối với
người xuất gia]. “Kinh
sám sư” là nói tới người chuyên làm Phật sự
(cúng kiếng, tụng niệm, bái sám) cho người khác.
Trong Phật môn, những người này đều có danh
phận, học nhân ai nấy đều biết, chớ
nên lẫn lộn! Người thế tục không hiểu
Phật pháp, tùy tiện họ gọi như thế nào, ai
tranh luận với họ?
* Hỏi:
Xin chỉ giáo về tham, sân, si, và ba ngôi chân lư Giới,
Định, Huệ. (Nhậm
Quư hỏi)
Đáp: Tham
là đối với tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
tâm sanh tham mến. Sân là gặp chuyện chẳng như ư, bèn
nổi nóng đùng đùng. Si là chẳng thể liễu giải
chân lư chánh đạo. Kẻ như vậy là kẻ hôn mê. Kẻ
hôn mê sẽ xử sự sai lầm, nhất định sẽ
chuốc lấy ác quả, chịu khổ vô cùng. Giới là
giới luật của Phật pháp, cấm ngặt tạo
ác. Mức độ thấp nhất là cần phải kiêng
giết, trộm, tà dâm. Định là trong tâm luyện tập
an tĩnh, chẳng cần xung động đối với
hết thảy mọi sự, phải giống như
nước lặng. Chuyện này cần phải vận dụng
một phen công phu th́ mới có thể đạt được.
Huệ là hiểu rơ sự lư, chẳng có mảy may sai lầm.
Chuyện này cần phải nghe Phật pháp cho nhiều, cầu
tâm tĩnh cho nhiều th́ mới có thể đạt
được. Tham, sân, si là ba thứ bệnh; Giới,
Định, Huệ là ba loại thuốc tốt lành để
trị bệnh tham, sân, si.
* Hỏi:
Nếu đối trước Phật sám hối, tuy khó mà
dễ. Khó ở chỗ phải thấy được
tướng tốt lành th́ tội mới trừ diệt. Tướng
tốt lành là ǵ? (Lư Ứng Nam hỏi)
Đáp: Cư
sĩ đọc loại phương pháp sám hối nào,
đọc loại chú giải nào, kẻ hèn này chẳng biết,
khó trả lời phù hợp! Nếu dựa theo [câu hỏi]
“hảo tướng là ǵ”,
tôi sẽ lược thuật đại khái. Phàm là hết
thảy các tướng thù thắng nơi thân Phật,
như bạch hào, chữ 卍 (Vạn), quang minh sắc vàng ṛng v.v…, các thứ vật
trang nghiêm như tràng, phan, lọng báu, kinh, tượng, pháp
khí v.v… những vật để cư trụ như chùa,
miếu, phù đồ (tháp thờ Phật), cây báu, hoa quư
v.v… quyến thuộc của Phật như Bồ Tát, La
Hán, tăng-già, hộ pháp v.v… đều là các hảo tướng.
Hoặc là thấy trong Định, hoặc là hiện ra
trong giấc mộng, đều là tướng cảm ứng
diệt tội.
* Hỏi:
Tŕ kinh A Di Đà, mỗi ngày đọc một biến, chỉ
có thể đọc, chẳng thể tụng (xướng
niệm) th́ có được hay không? Trong phẩm Phổ
Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện, có câu “ưng đương đế thọ, thọ
dĩ năng độc, độc dĩ năng tụng,
tụng dĩ năng tŕ” (hăy nên lănh nhận chắc thật,
đă nhận rồi bèn có thể đọc, đọc rồi
có thể tụng, tụng rồi có thể hành tŕ). “Độc, tụng, thọ, tŕ”
trong đoạn kinh văn ấy là nói đến điều
ǵ? (Trịnh Triều Tín hỏi)
Đáp:
Chẳng thể xướng niệm, hoàn toàn chẳng sao cả!
Chỉ cần có ḷng thành, đó là điều kiện thiết
yếu nhất! “Thọ” (受) là tin tưởng, tiếp nhận. “Độc” (讀, đọc) là đối trước mắt
mà niệm, “tụng” (誦) là đọc thuộc ḷng (ở chỗ
này, mặt chữ phân biệt là như thế. “Học tụng” chính là đọc).
Tŕ (持) là phụng hành nghĩa lư trong ấy. Ở
đây, nhằm nói: Người học đối trước
kinh Phật, hăy nên làm như thế.
* Hỏi:
Niệm thầm là ǵ? (Có phải là nói đến môi mấp
máy mà thôi hay không?) Thế nào là Kim Cang niệm? (Đồ Trinh Quang hỏi)
Đáp:
Môi mấp máy, phát ra tiếng rất khẽ chính là Kim Cang niệm.
Chẳng cần biết là môi động hay không, hễ chẳng
phát ra tiếng th́ đều là “niệm thầm”.
* Hỏi:
Chữ “duyên” (緣) nên giải thích như thế nào? (Hoàng Tuấn Kiệt hỏi)
Đáp: “Duyên” là chuyện nào đó gặp
cơ hội phụ trợ hay phá hoại. “Phụ trợ” là giúp cho nó thành công; “phá” là phá hoại chuyện ấy,
khiến cho nó chẳng thành. Như ông muốn vượt
sông, chợt có một chiếc thuyền đưa tới,
đó chính là trợ duyên. Nếu ông muốn uống trà, chén
trà chợt rơi xuống đất. Đấy chính là phá
duyên.
* Hỏi:
Thân thọ y báo là ǵ? (Thạch Hà
Hương, Từ Lệ Phân hỏi)
Đáp: “Thân” là thân h́nh do Tứ Đại
giả hợp. Cái thân ấy trong khoảng từ sống
đến chết có một đoạn thời gian [tồn
tại, khoảng thời gian ấy] gọi là “thọ mạng”, tức là “thân thọ” (身壽). Có thân, ắt
sẽ có chỗ để nương gá, cùng với ăn
uống, vật dụng, đều phải nương vào
những thứ ấy để sống, nên gọi là Y (依, nương vào). Muôn pháp do nhân duyên sanh. Pháp
được sanh bởi [nhân duyên] gọi là Quả.
Trước đó, ắt tạo nghiệp, gọi là “nhân”; về sau mới kết
thành quả, gọi là “báo” (報).
* Hỏi:
Sở Duyên Duyên (所緣緣) là ǵ? (Trong Phật Học Thường Thức Khóa
Bổn, đă coi “hy vọng chủng tử” như Sở
Duyên Duyên, xin hỏi “hy vọng” là nói đến điều
ǵ?) (Thạch Hà Hương, Từ
Lệ Phân hỏi)
Đáp: Chữ
Duyên thứ nhất là động từ, chữ Duyên tiếp
theo là danh từ. Chữ Duyên sau cùng [trong từ ngữ “sở duyên duyên”] nhằm nói
đến một duyên trong bốn thứ duyên. Chữ Duyên
trước đó nên hiểu là “phan
duyên” (攀緣, nắm
níu). Ư ở chỗ nào, bèn phan duyên nơi đó. V́ thế, gọi
là Sở Duyên Duyên.
* Hỏi:
Nếu đă hiểu Nhất Thiết Trí và Đạo Chủng
Trí, có thể coi như là đă thông hiểu Nhất Thiết
Chủng Trí. Có phải là như thế hay không? (Lư Trị Trung hỏi)
Đáp: Đối
với các trí, chẳng thể nói là hiểu hay không hiểu!
Chỉ có thể nói là chứng hay không. Sau khi đă tu chứng
Nhất Thiết Trí và Đạo Chủng Trí, Nhất Thiết
Chủng Trí cũng cần phải do tu chứng mà có.
Người học tuy đă chứng đắc Nhất
Thiết Trí và Đạo Chủng Trí, cần phải “đầu sào trăm trượng,
tiến thêm một bước nữa!”
* Hỏi:
Thầy có thể nêu thí dụ giảng rơ về Sở Tri Chướng
hay không? (Lư Trị Trung hỏi)
Đáp:
Ví như một chậu canh nóng hừng hực, trên đó sẽ
tỏa hơi. Người đă trưởng thành, biết
đó là hơi nóng, biết nó nóng bỏng. Đứa trẻ
ba tuổi, cũng thấy hơi nóng ấy, dám đưa
tay sờ thử, [do nó] không biết canh nóng hổi. Thấy
hơi nóng bèn biết vật ấy nóng hổi, ai nấy
đều biết. Kẻ ngược ngạo chẳng biết,
chính là trí bị chướng ngại vậy!
* Hỏi:
Thời gian chia thành tam tế[3]
rất hợp lư, cớ sao không gian chia thành mười
phương? “Sâm la vạn
tượng” là ǵ? (Lư Trị
B́nh hỏi)
Đáp:
Đông, Tây, Nam, Bắc là bốn phương hướng,
bốn góc Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc lại
là bốn phương hướng nữa; trên đầu
và phía dưới con người, lại có hai phương
hướng, hợp thành mười phương. Trong
mười phương, có chỗ rỗng không, nên gọi
là “không gian”. Chỗ ta
đang đứng đây, vẫn có mười
phương. Suy ra các chỗ trong mười phương,
mỗi nơi đều có mười phương của
nó. V́ thế nói là “không gian thập
phương”. Trong không gian, có mặt trời, mặt
trăng, núi, sông, cỏ cây, chim, thú, hết thảy mọi
vật, đều có các hiện tượng la liệt, tầng
tầng lớp lớp kín chặt, chẳng thể nói trọn
hết được. V́ thế, gọi khái quát là “sâm la vạn tượng” (森羅萬象).
* Hỏi:
Xin thầy lại giảng rơ mối quan hệ giữa
duyên và tướng là như thế nào? (Du Tường Châu hỏi)
Đáp: “Duyên” là một thứ cơ hội
nào đó xảy đến, thúc đẩy chuyện ấy
thành hay bại. Chuyện này thuộc về phương diện
sự lư. Tướng (相) là hiện tượng
của một sự vật nào đó, biểu hiện thành
h́nh thái, thuộc về phương diện trạng huống.
* Hỏi:
Mối quan hệ giữa pháp và tánh là như thế nào? (Du Tường Châu hỏi)
Đáp: “Pháp” (法) là danh từ chung chỉ vạn sự, vạn
lư, nhưng mỗi sự lư có tự thể của sự
lư ấy. Tự thể ấy được gọi là “pháp”. Mỗi tự thể có
trạng thái của nó. Trạng thái ấy cũng gọi là
“pháp”. Do Sự Lư phức tạp
như vậy, trạng thái của tự thể lại sai
khác muôn vàn, nói ra rất phức tạp. Do vậy, dùng một
chữ (Pháp) để biểu thị chung. Tánh (性) là bản thể vốn có của vạn
vật. Chữ Tánh ấy chính là miễn cưỡng nói tỷ
dụ. Giống như vật chất [h́nh thành] từ
nguyên tố, mà nguyên tử, điện tử, trung tử
(neutron) cũng thế. Thật ra, trung tử vẫn c̣n có
thể chia nhỏ, đến mức đó th́ cũng chẳng
có cách nào để tỷ dụ được nữa,
nhưng có thể nói là vạn vật đều có, chỉ
có những thứ không có h́nh tướng, không có âm thanh, nhiều
người không biết th́ ắt phải nói rơ.
* Hỏi:
Luân hồi trong lục đạo, có phải là địa
ngục, ngạ quỷ, Sắc Giới và Vô Sắc Giới
thuộc thiên giới đều là hóa sanh hay không? Hay là sanh
như thế nào? Xin hăy dạy cho! (Lâm Kim hỏi)
Đáp:
Cơi trời và địa ngục đều là hóa sanh, ngạ
quỷ th́ có tứ sanh.
* Hỏi:
Khoa học gia hiện thời hướng đến mặt
trăng trong không gian [để nghiên cứu], mặt
trăng ấy có phải là mặt trăng ở lưng chừng
núi Tu Di như kinh Phật đă nói hay không? (Cố Phượng Anh hỏi)
Đáp: Trong
vũ trụ, không phải là chỉ có một mặt
trăng[4].
Đức Phật nói [mặt trăng] ở lưng chừng
núi Tu Di chính là mặt trăng xoay quanh địa cầu mà
mắt con người có thể thấy được. Mặt
trăng mà giới khoa học thăm ḍ trong không gian cũng
là mặt trăng trong một đơn vị thế giới
như kinh Phật đă nói; bởi lẽ, mặt trăng ấy
ở gần địa cầu, có thể trông thấy. V́ vậy,
có thể thăm ḍ.
* Hỏi:
Giả sử là mặt trăng ở lưng chừng núi Tu
Di, chẳng phải là Tứ Vương Thiên[5]
cũng ở lưng chừng núi Tu Di ư? Có thể đến
nơi đó hay không? (Cố
Phượng Anh hỏi)
Đáp: Dựa
theo cách nói về sự an lập của thế giới, Tứ
Vương Thiên vốn ở ngang lưng núi Tu Di. Do bốn
phía núi ấy, mỗi phía đều có một cơi trời,
nên gọi là Tứ Thiên. Chư thiên trời Đao Lợi bắt
đầu sống trên đỉnh núi Tu Di, các cơi trời
khác vượt cao hơn.
* Hỏi:
Chương Viên Giác Bồ Tát trong kinh Viên Giác có nói: “Nhược chư chúng sanh tu
ư Thiền Na, tiên thủ sổ môn, tâm trung liễu tri
sanh trụ diệt niệm, phân tễ đầu số”
(Nếu các chúng sanh tu Thiền Na, trước hết chọn
lấy mấy môn, trong tâm hiểu rơ các loại niệm
sanh, trụ, diệt khác biệt). Xin hăy dạy tường
tận bốn chữ “phân tễ
đầu số” và nêu thí dụ. (Triệu Triết hỏi)
Đáp:
Câu “phân tễ đầu số”
hoàn toàn chẳng phải là Phật lư, mà là từ ngữ
thông dụng vào một thời, tại một nơi. “Phân tễ” (分劑) có ư nghĩa giống như “phân biệt”.
“Đầu số” (頭數) là đầu mối. Nói gộp lại, sẽ
có nghĩa là “nhiều loại đầu mối”.
Nói thêm, trong
hai thư trước và sau, cư sĩ hỏi tất cả
sáu điều; ở đây, tôi chỉ đáp hai điều,
bốn câu hỏi kia thuộc về vấn đề giải
thích kinh văn, cũng như vấn đề so sánh giữa
các phiên bản khác nhau, xin dung thứ chẳng đáp. V́
để giải thích kinh văn, cần phải xem mạch
lạc trước và sau đoạn kinh ấy để
quyết định, chẳng thể cắt xén
chương đoạn để hiểu nghĩa. Về
sau, nếu ông nghiên cứu kinh điển, hăy nên xem nhiều
bản chú giải. Hễ thấy có chỗ mâu thuẫn, sẽ
nêu câu hỏi th́ hay hơn. Để so sánh phiên bản, cần
phải chọn một bản hoàn chỉnh để làm
chuẩn. Kẻ hèn này trong tay thiếu thốn [tài liệu],
chẳng dám nêu ư kiến đoán định, mong hăy lượng
thứ.
* Hỏi:
Trong lục đạo luân hồi, có thiên đạo, nhân
đạo, A Tu La đạo, súc sanh đạo, ngạ quỷ
đạo, địa ngục đạo, chẳng giống
như phú quư đạo, bần tiện đạo, thai sanh
đạo, noăn sanh đạo, thấp sanh đạo, hóa
sanh đạo. V́ sao danh xưng của sáu thứ luân hồi
trong lục đạo này chẳng giống nhau? Đối
chiếu giữa đôi bên, có khác biệt hay chăng? (Vương Tác Cát hỏi)
Đáp:
Nói từ cơi trời cho đến địa ngục, xuất
phát từ kinh Phật, sáu đường bất đồng,
có thể thấy phân minh. Cao sang, giàu có, nghèo nàn, hèn mọn
đều là nhân đạo, [nói kiểu đó] chính là “trên
đầu chồng thêm đầu”. Thai, noăn, thấp, hóa th́
chỉ một đường súc sanh đă đều có đủ,
[nếu bảo là “bốn đường”, tức là] hỗn
loạn, chẳng rơ ràng. Phật giáo truyền vào Trung Hoa,
người trí học theo, những kẻ hư vọng và
ngoại đạo bèn trộm cắp, mô phỏng, do bọn
họ vốn chẳng có học lư, không thể nào chẳng
tạo ra kinh điển hư ngụy, bèn lôi Đông, kéo
Tây, thay đầu, đổi mặt, lường gạt
kẻ ngu, ḥng thỏa ḷng riêng tư!
* Hỏi:
Tứ đại bộ châu đều ở trong Diêm Phù
Đề, tức địa cầu của chúng ta, và
cũng có quả địa cầu khác ư? (Đới Thiêm Đinh hỏi)
Đáp:
Diêm Phù Đề (Jambudvīpa) là tên của một đại
bộ châu, tức là tinh cầu mà chúng ta đang sống. Bốn
tinh cầu như thế được gọi là bốn
đại châu. Châu mà chúng ta đang sống ở phía Nam núi
Tu Di, ba châu kia ở Đông, Tây, Bắc, có tên gọi là
Đông Thắng Thần Châu (Pūrvavideha), Tây Ngưu Hạ Châu (Aparagodānīya) và Bắc Câu Lô Châu (Uttarakuru).
* Hỏi:
Xin giải thích về đại sĩ và khai sĩ? (Đới Thiêm Đinh hỏi)
Đáp: Đấy
đều là những danh từ xưng hô tôn kính, chẳng
trọng yếu cho lắm. Khai Sĩ nghĩa là bậc
đă khai ngộ, lại c̣n có thể khơi gợi, hướng
dẫn người khác. Đại Sĩ là bậc có thể
làm chuyện to lớn tự lợi, lợi tha, rơ ràng chẳng
phải là hành giả Tiểu Thừa tự lợi vậy.
* Hỏi:
Bách giới thiên như là [mỗi pháp giới] trong mười
pháp giới lại có mười giới, chẳng biết
là mười giới nào? (Trịnh
Chí Tây hỏi)
Đáp: Mười
giới là Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn (tứ
thánh), trời, người, Tu La, súc sanh, ngạ quỷ,
địa ngục, đấy là lục phàm. Muôn pháp ở
nơi tâm, giới do tâm hiện. Trong mỗi giới đều
có mười giới ấy, hợp thành một trăm, cho
nên gọi là “bách giới”.
* Hỏi:
“Khai ngộ” là ǵ? Có phải
là vốn chẳng biết, một ngày nào đó bỗng dưng
quán thông? Từ thời Dân Quốc đến nay, có vị
nào khai ngộ hay không? (Vương
Huyễn Như hỏi)
Đáp: Khai
ngộ có tục và đạo sai khác! “Đạo” là nói theo tâm tánh, chẳng thuộc về
thế tục, trước chẳng hiểu, về sau hiểu.
Nếu hỏi thời Dân Quốc có ai khai ngộ hay không,
[xin hỏi chuyện ấy] đối với cư sĩ
có quan hệ ǵ hay chăng?
* Hỏi:
Giáo kỳ Phật giáo năm màu, chia thành năm dải màu nằm
ngang và năm dải dọc. Xin hỏi về nguồn gốc
lịch sử của lá cờ ấy, và ư nghĩa của
năm màu! (Vương Chí Thành hỏi)
Đáp: Giáo
kỳ được chọn lựa và thông qua trong cuộc
họp mặt hữu nghị giữa các tín đồ Phật
giáo thế giới cử hành tại Tích Lan (Sri Lanka) vào
năm 1950[6]. Năm
màu có nghĩa là [màu sắc] của năm loại quang minh
do đức Phật phóng ra nhằm độ chúng sanh trong
năm đường. Khi đức Phật mới thành
đạo, trước hết, Ngài phóng ra bốn thứ
trí quang xanh, vàng, đỏ, trắng. Sau đó, lại phóng
ra quang minh màu cam tổng hợp [các màu trên đây]. Cờ Phật
giáo mang ư nghĩa này, có ư nghĩa theo chiều dọc và chiều
ngang đều trọn khắp mười phương.
* Hỏi: Hướng về đức Phật đảnh
lễ, nam nữ có khác biệt hay không? Tôi thấy động
tác của các tín chúng tợ hồ chẳng hoàn toàn giống
hệt như nhau. Động tác tiêu chuẩn là như thế
nào? (Xin hăy chỉ dạy, phân tích động tác) (Vương Chí Thành hỏi)
Đáp: Đảnh
lễ và chắp tay có đến mười hai loại. Quỳ
cũng có trường quỳ và hồ quỳ[7], lạy
th́ có h́nh thức hai bàn tay đều giơ lên, có khi th́ chắp
tay đặt trước ngực, có trường hợp
tứ chi duỗi thẳng, toàn thân gieo xuống đất
v.v… Nhưng cách thức lật ngửa bàn tay để tiếp
túc (ôm chân đức Phật), và năm
vóc gieo xuống đất (ngũ thể đầu địa)
là phổ biến nhất, chẳng phân nam nữ đều
hành được. Nhưng cách thức phổ biến nhất
là đứng lên và quỳ xuống, cũng cần có
người đích thân chỉ điểm th́ mới có thể
làm đúng theo nghi thức được. Nếu đúng
nghi thức, đại chúng sẽ không một ai chẳng
giống nhau. Ông thấy [mọi người lễ bái] chẳng
giống nhau là v́ chưa đúng nghi thức vậy.
* Hỏi:
Trong Từ Bi Đạo Tràng Lương Hoàng Bảo Sám, quyển
bốn (trang bảy mươi bảy), hai câu “tứ đẳng lục độ”
và “tứ biện lục đạo”
có ư nghĩa ǵ? (Vương Chí
Thành hỏi)
Đáp:
Tứ Đẳng có nhiều loại khác nhau, như “từ
bi hỷ xả, từ bi hỷ hộ, tự ngữ Pháp
Thân”, c̣n có những thứ khác nữa, đều gọi là
Tứ Đẳng. Phổ biến nhất th́ là “từ, bi,
hỷ, xả”. Lục Độ là bố thí, tŕ giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhă. Tứ
Biện là “pháp, nghĩa, từ, nhạo thuyết”, tức
Tứ Vô Ngại Trí. Lục Thông là Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Thần
Túc, Tha Tâm, Túc Mạng, Lậu Tận. Ở đây, bất
quá nêu ra hai mươi loại danh xưng, c̣n ư nghĩa
như thế nào, do phạm vi của cột báo này, chẳng
thể chú giải cho ông được. Dẫu có chú thích
đi nữa, kẻ sơ học cũng chẳng liễu
giải! Nếu người mới học muốn nghiên cứu
giáo, ắt phải từ cạn tiến đến sâu, có
thứ tự. Nếu Đông hỏi một câu, Tây hỏi
một câu, lộn xộn rối ren, đến già vẫn
chẳng thành!
* Hỏi:
[Đối với danh hiệu] U Minh giáo chủ Địa
Tạng Vương Bồ Tát, hai chữ U Minh giải thích
như thế nào? (Ôn A Nguyệt
hỏi)
Đáp: U
Minh (幽冥) là tối tăm, chẳng sáng sủa. Quang
minh là danh xưng chung của cơi dương trần, U Minh
là danh xưng chung của cơi âm. Do vậy, hai đường
ngạ quỷ và địa ngục đều gọi chung
là U Minh. Độ chúng sanh trong địa ngục khó
hơn trong những đường khác, nhưng “địa ngục chẳng trống,
thề chẳng thành Phật”. Nguyện của Địa
Tạng Bồ Tát [là như vậy đó], cho nên [chúng sanh
trong] địa ngục tôn ngài Địa Tạng là giáo chủ.
* Hỏi:
“Ngôn ngữ đạo đoạn,
tâm hành xứ diệt” có ư nghĩa ǵ? (Nguyệt cư sĩ hỏi)
Đáp:
Đấy là nói đến chân lư rốt ráo nơi Thật
Tướng của các pháp, ngôn ngữ chẳng thể diễn
đạt được, mà suy nghĩ cũng chẳng thấu
đạt được, đồng nghĩa với “ngôn vong, lự tuyệt” (quên
lời, dứt nghĩ). “Ngôn ngữ”
(言語) là sự giải thích, biện định
bằng miệng, “đạo
đoạn” (道斷) nghĩa
là ở nơi ấy, đường nẻo đều bị
cắt đứt. “Tâm hành” (心行) là dấy lên ư niệm suy nghĩ. “Xứ diệt” (處滅): Chỗ này cũng đoạn diệt, chẳng
thông!
* Hỏi:
Báo chí trích dẫn kinh điển như sau: “Có nhân, có duyên, thế gian nhóm. Có nhân, có duyên, nhóm thế
gian. Có nhân, có duyên, thế gian diệt. Có nhân, có duyên, diệt
thế gian”. [Đoạn ấy] ở trong kinh điển
nào, và lư luận như thế nào? (Tăng Khải Nguyên hỏi)
Đáp: Sách
vở thế gian và hết thảy các ngôn ngữ danh tướng
nhiều như cát sông Hằng khó thể nghĩ lường,
làm sao có thể biết hết cho được? Bốn
câu như ông đă hỏi là do thấy nghe từ chỗ
nào? Đăng trên báo nào? Có thể hỏi thăm nơi họ.
Nếu xuất phát từ sách vở chánh thức, sẽ có
thể t́m ṭi, tham khảo, xem có thể đáp được
hay không, sau đấy mới quyết định. Nay
đă chẳng biết xuất xứ, tuy có thể dựa
theo văn tự để suy đoán ư nghĩa, nhưng
cũng chẳng tiện mạo muội chuốc lấy
chuyện lỡ lời!
* Hỏi: Tam giới là ở chỗ nào? Có thuộc
về chỗ loài người chúng ta sống hay không? Pháp giới
lại ở chỗ nào? V́ sao gọi là pháp giới? Là chỗ
các vị tiên ở hay chăng? Hay là tam giới và pháp giới,
danh xưng bất đồng, nhưng thật sự là
cùng một chỗ? (Lâm Tú Diễm
hỏi)
Đáp: Tam giới
là Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới.
Chúng ta sống trong Dục Giới. Vượt lên cao
hơn khỏi sáu tầng trời [thuộc Dục Giới],
sẽ có tên gọi là Sắc Giới. Từ Sắc Giới
tiến lên cao hơn mười tám tầng, gọi là Vô Sắc
Giới. Đây là nói đại khái. [Tam giới] đều
chẳng ĺa uế độ sanh tử. Hết thảy Sự,
hết thảy Lư, hết thảy vật, gọi chung là “pháp”. Giới (界) là
phạm vi của một lănh vực. Nói gộp chung lại
th́ là “pháp giới”. Ấy là v́ có giới bèn có pháp, có pháp bèn
là giới. Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, [Duyên Giác] là bốn
thánh giới; trời, người, Tu La, súc sanh, quỷ,
địa ngục là [sáu] phàm giới. Mười giới ấy
đều gọi là “pháp giới”.
Ba giới như đă nói trong phần đầu (Dục
Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới) gọi là “tam pháp giới”. Mười
giới như đă nêu ở đây gọi là “thập pháp giới”.
* Hỏi:
“Bạch hào uyển chuyển
ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải”
có nghĩa là ǵ? (Chí Tây hỏi)
Đáp:
Giữa hai lông mày của tượng Phật, có một sợi
bạch hào, cuộn tṛn thành một viên châu, thế tục
gọi là “Phật đảnh
châu”. Nó to bằng năm quả núi Tu Di. Tṛng mắt của
đức Phật có sắc xanh pha ánh đỏ, to rộng
như bốn biển. Báo Thân của Phật ṿi vọi, có
thể tưởng ra sẽ biết.
* Hỏi:
Trong quyển Đạt Ma Tổ, phần “công án sáu chữ” có nói: “Nam
tự Nam phương hỏa nhất gia, Mô tự Bắc
phương thủy trung sa, A tự Đông phương
Giáp Ất mộc, Di tự Tây phương ngọc liên hoa,
Phật tự nguyên lai tự phóng hà” (Chữ Nam thuộc
về phương Nam, là chỗ của Hỏa. Chữ Mô
thuộc về phương Bắc là cát ở trong nước.
Chữ A là phương Đông thuộc về Giáp Ất Mộc[8].
Chữ Di thuộc phương Tây là hoa sen ngọc. Chữ
Phật vốn là tự phóng [quang minh rạng rỡ]
như ráng mây), chẳng biết nói đến ư nghĩa ǵ? (Chí Tây hỏi)
Đáp: Kẻ hèn
này hiểu biết ít ỏi, đối với những lời
lẽ kiểu ấy, chưa thấy trong kinh truyện, chẳng
tiện miễn cưỡng giải thích!
* Hỏi: Bồ
Tát Giới Bổn có câu “bất
khởi đọa lạc, bất tịnh hữu tác”,
xin hăy giải thích! (Khưu Trù
hỏi)
Đáp: Kẻ
chưa học, chưa thọ giới, làm ác, hay làm lành, phần
nhiều là trong tâm chẳng định hướng thường
hằng. Những điều thiện hoặc ác đă làm
trong hiện tại đều là do cảnh mà dẫn khởi,
biểu hiện ra ngoài, gọi là “hữu tác”. Người có học [Phật pháp],
có giới, do trong tâm có học, có giới, tuy chẳng biểu
hiện ra ngoài, nhưng ư niệm dứt ác luôn tồn tại,
chẳng mất đi. Điều đó được gọi
là “vô tác thiện”. Nếu phạm
trọng tội, sẽ là chuyện khác, chẳng bàn đến.
Nếu phạm giới nhẹ, th́ gọi là “thất ư”, [nghĩa là]
đánh mất Bồ Đề tâm. Hành vi chẳng thanh tịnh
ấy đă biểu lộ ra ngoài, nên gọi là “bất tịnh hữu tác”.
Nhưng ư niệm ngừa ác vô tác vẫn chẳng tiêu mất,
tuy đáng bị đọa lạc, hễ lập tức
sám hối, [vô tác thiện] vẫn có thể từ đọa
lạc mà dấy lên trở lại. Nếu chẳng sám hối,
tức là chẳng cầu dấy lên [cái tâm Bồ Đề],
sẽ đọa trong tam đồ.
* Hỏi: Phía
trước kinh Kim Cang [có bài kệ]: “Vân hà phạm? Vân hà đắc trường thọ?”
“Vân hà phạm” nói đến ư nghĩa ǵ? (Trịnh Triều Tín hỏi)
Đáp: “Vân hà đắc trường thọ”
(Làm thế nào để được sống lâu) chính là
câu mở đầu của bài kệ ấy. Âm thanh của
bài kệ ấy thanh tịnh, vi diệu, khác với những
âm thanh xướng lên trong thế tục, nên ca ngợi là “phạm âm” (梵音, âm thanh thanh tịnh).
Lệ làm thơ thời cổ, phần nhiều chẳng
đặt tựa đề khác, chỉ lấy ngay mấy
chữ trong câu đầu tiên để thay cho tựa đề.
Hơn ba trăm bài thơ trong kinh Thi đều là như vậy.
Chuyện ông đă hỏi chính những chữ thay thế
cho tựa đề bài kệ vậy.
* Hỏi: Trong quá
khứ, Đài Loan hay nói là “thực
thái” (食菜 , ăn rau), nay th́ phổ biến nói là “tố thực” (素食, ăn chay), hai câu ấy có ǵ sai khác? Giải nói ư
nghĩa chữ “tố thực”
như thế nào? (Quách Minh
Đường hỏi)
Đáp: “Tố thực” là danh từ
chung ở các nơi. “Thực
thái” là danh từ chuyên dùng tại một địa
phương. Dựa theo mặt chữ để giải
thích, “tố thực” nghiêm
ngặt hơn, “thực thái”
rộng răi hơn đôi chút. V́ “thái”
cũng có những món chẳng thanh sạch, như hành, hẹ,
tỏi, kiệu, hành tây đều có mùi hôi. V́ thế, chúng
được gọi là “huân
thái” (葷菜, rau có mùi hôi), người “tố thực” sẽ chẳng dùng! Điều cốt
yếu của “tố thực”
là chẳng giết động vật, xẻ thịt chúng,
khiến cho chúng bị chảy máu, ly tán quyến thuộc, đoạn
tuyệt sanh mạng của chúng. Đấy chính là đạo
lư như thế nào? Lương tâm như thế nào? Luận
theo nhân quả của nhà Phật, hễ giết mạng kẻ
khác, sẽ phải đền mạng. V́ thế, kiêng giết,
ăn chay!
* Hỏi: Khi
đức Phật nói kinh Pháp Hoa, có Đại
Phạm Thiên Vương và vô lượng Phạm Thiên chúng
đến chỗ đức Phật, dùng hương, hoa
v.v… cúng dường đức Phật, thỉnh đức
Phật thuyết pháp. Đại Phạm Thiên Vương
và Thiên Đế trong Tam Thập Tam Thiên của tam giới có
chỗ nào khác biệt? Có phải là một vị Thiên Đế
hay không? (Lữ Lư Do hỏi)
Đáp:
Tam giới là Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc
Giới. Dục Giới thấp nhất, gồm sáu tầng
trời. Tầng thứ hai [trong Dục Giới] là Tam Thập
Tam Thiên. Ba mươi ba cơi trời ấy xếp thành hàng ngang,
chẳng phải là ba mươi ba tầng [theo chiều dọc];
đấy chính là nơi Ngọc Hoàng ngự như thế
tục đă nói. Lên cao hơn nữa là mười tám tầng
trời thuộc Sắc Giới, chư thiên trong cơi ấy
không có dục vọng nam nữ, ăn uống, Thiền
Định thanh tịnh, nên gọi là Phạm Thiên. Các tầng
Phạm Thiên đều có Thiên Đế; v́ thế, gọi
là Phạm Vương. Đấy là chỗ khác biệt.
* Hỏi:
Ư nghĩa của Long Hoa tam hội là như thế nào? Rất
mong cụ sẽ dạy cặn kẽ! (Hà Ngọc Trinh hỏi)
Đáp: Sau
này, Di Lặc Bồ Tát sẽ thành đạo dưới cội
Long Hoa, ba lượt mở pháp hội. Điều này
được chép trong các kinh như Tăng Nhất A Hàm
v.v… Nhưng hiện thời, có những lũ ngoại
đạo ăn trộm danh từ, chẳng hiểu
nghĩa lư trong kinh, bề ngoài lấy ngài Di Lặc làm chiêu
bài, nội dung [những “giáo nghĩa” của họ] đều
là lôi Đông, kéo Tây, gom góp tạp nham thành một đống,
đặt ra những lời lẽ như “Thích Ca thoái vị, Di Lặc chưởng quản
thiên bàn, nay đang nhằm thời Long Hoa Tam Hội” v.v…
dối ḿnh, lừa người, tạo nghiệp báng pháp, chớ
nên không biện định [rơ ràng]!
* Hỏi:
Những con số do đức Phật đă nói dường
như là huyền hư, có phải là một loại từ
ngữ mang tính cách suy đoán hay không? [Chẳng hạn]
như nói “năm trăm năm,
ắt có bậc vương giả dấy lên”! Hoặc
như nói “kể từ khi tuổi
thọ là năm trăm năm, trong thời gian ấy, sẽ
coi năm mươi năm là một ngày”, “trong mỗi hoa, tỏa ra ba ngàn
sáu trăm ức quang minh, xuất hiện ba ngàn sáu trăm ức
Phật”, “trong một chén
nước, có tám vạn bốn ngàn trùng”, “từ đây qua khỏi mười
vạn ức quốc độ, có thế giới tên là Cực
Lạc” v.v… Đó có phải là con số chánh xác hay không?
Xin hăy dạy rơ cho tôi. (Kim Á
Đạc hỏi)
Đáp: [Nếu
ông nói những con số đă nêu là] “nói ước lược”
th́ được. Như nói “đời
người trăm năm”, thật ra, có người thọ
bảy tám mươi tuổi, cũng có người sống
hơn trăm tuổi mới mất. Chẳng thể nói là
“huyền hư”! Ông nghi những con số to lớn
ấy là huyền hư ư? Khoa học gia tính tuổi của
địa cầu, như các học giả thuộc đại
học Đa Luân Đa (Toronto) của Gia Nă Đại
đă đo lường, ước tính tuổi địa
cầu tối thiểu là từ ba mươi lăm vạn
vạn năm trở lên! Các nhà khoa học lại đo
lường tuổi của mặt trời, cho tới nay,
[mặt trời] đă có lịch sử sáu mươi ức
năm. Học giả Thụy Sĩ là Hách Tư Lặc Thị
phát hiện hóa thạch của nhân loại, phỏng
đoán người ấy thuộc sống trong khoảng ba
ngàn vạn năm trước. Người đời không
coi những điều đó là huyền hư, cớ sao lại
riêng nghi đức Phật ăn nói huyền hư?
* Hỏi:
Trong Phật Học Vấn Đáp có nói “trời có Địa Cư và Không Cư khác biệt,
Sắc Giới thuộc Không Cư”. Nếu Sắc Giới
là Không Cư, như vậy th́ Vô Sắc Giới ắt phải
ở trên mặt đất. “Không” là vũ trụ, Địa
là địa cầu. Hai điều ấy có phải là ngữ
ư điên đảo hay không? Xin hăy chỉ dạy. (Kim Á Đạc hỏi)
Đáp: Trong
tam giới th́ Dục Giới ở phía dưới, Sắc
Giới ở phía trên Dục Giới, Vô Sắc Giới ở
phía trên Sắc Giới. Chỉ luận định trong phạm
vi của một đại thiên thế giới này, địa
cầu ở phía dưới [các tầng trời] thuộc
Dục Giới, lên cao hơn chính là không gian. Tầng thứ
hai trong Dục Giới là Địa Cư, [những tầng
trời] cao hơn tầng trời ấy đều là Không
Cư. Vô Sắc Giới cao nhất trong tam giới, há có lẽ
nào “ắt phải là Địa Cư” ư?
* Hỏi:
Trong lễ nghi nhà Phật có “vấn
tấn” (xá), có ư nghĩa ǵ? Có phải là chắp mười
ngón tay lễ? Lại có người giơ một tay để
lễ, có được hay không? (Kim Á Đạc hỏi)
Đáp: Nói
“vấn tấn” (問訊) tức là chắp mười ngón tay lại
để lễ. Giơ một tay để lễ là v́ tay
kia cầm đồ vật, bất tiện.
* Hỏi:
Bạn của kẻ hèn là người học Phật, một
hôm hỏi ngu tôi: “Pháp Thân, Báo
Thân, Ứng Thân có ǵ phân biệt?” Tuy ngu tôi chẳng hoàn
toàn hiểu rơ, vẫn miễn cưỡng đáp: “Pháp Thân là tánh thân chân thật của
Phật, Báo Thân là quả thân công đức viên măn, Ứng
Thân là hiện thân thị hiện trong thế giới Sa Bà.
Chẳng hạn như Chánh Pháp Minh Như Lai là Pháp Thân của
Quán Thế Âm Bồ Tát, Tây Phương Cực Lạc thế
giới Quán Âm Bồ Tát là Báo Thân, thân thị hiện ở
nơi đây là Ứng Thân” (kinh Pháp Hoa có nói ba mươi
hai Ứng Thân). Ông ta vẫn chẳng nắm được
cương lănh chánh yếu, kẻ hèn này không có cách nào để
trả lời nông cạn, rơ ràng hơn. Hết sức khẩn
cầu cụ hăy ban cho tôi một phương pháp
đơn giản, rơ ràng, thích hợp [để giải
thích]. (Bạch Bác Nhân)
Đáp: Lời
giải thích của cư sĩ đă khá đúng lư, quư hữu
vẫn chẳng thông suốt. Hăy xét xem điểm nghi vấn
ở chỗ nào, ắt cần phải nói rơ th́ lời
đáp mới khế cơ. Nếu không, sẽ thành hỏi
đằng Đông mà đáp đằng Tây. Có phải là
nghi ư nghĩa “một thân chính
là ba thân, ba thân chính là một thân” đấy chăng? Kẻ
hèn suy đoán bừa, nếu đúng là như vậy, nay tôi
sẽ lập thí dụ: Vầng thái dương trên bầu
trời, ví như Pháp Thân. Thể của mặt trời
tṛn trặn, có những sự trang nghiêm như sáng rực,
hơi nóng v.v… ví như Báo Thân. Nó in bóng xuống ngàn sông vạn
rạch, [mỗi nơi] đều có một vầng mặt
trời. Tỷ dụ này chỉ Ứng Hóa Thân. Lại lập
ra một chuyện [để tỷ dụ]: Bản tánh của
chúng ta là Pháp Thân. H́nh thể của bọn ta là Báo Thân. Hôm
nay, chúng ta mặc âu phục, ngày mai mặc quần áo Tàu, gặp
hoàn cảnh nào bèn diễn tuồng theo hoàn cảnh đó, mặc
đồ đẹp hay xấu. Đó là Ứng Hóa Thân. Những
điều đă nêu trên đây đều là “tuy một mà ba, tuy ba mà một”.
* Hỏi: Tham, sân, si là căn bản phiền năo, người
học Phật đều biết. V́ sao lại gọi
chúng là Tam Độc? “Độc”
ở đây có nghĩa là ǵ? (Hồng
Hoàn hỏi)
Đáp: Đấy
là thí dụ. [Ví như] độc vật, độc dược
có thể sát hại thân mạng của con người. Ba sự
tham, sân, si cũng giống như độc vật, độc
dược, có thể sát hại huệ mạng của con
người. Chất độc ấy lại càng sâu đậm
hơn nữa!
* Hỏi: Lại
nữa, khủy tay phải của tượng A Di Đà Phật
luôn hướng vào trong, mà chẳng hướng ra ngoài, đạo
lư là như thế nào? (Lư Liên Giai
hỏi)
Đáp: Khủy
tay hướng vào trong th́ bàn tay mới có thể hướng
ra ngoài. Bàn tay hướng ra ngoài duỗi thẳng, biểu
thị ư nghĩa tiếp dẫn. Hễ tạo tượng
Phật, Bồ Tát, đều tuân theo quy ước đă lập
sẵn. V́ thế, nh́n vào cách thức, liền biết
đó là vị Phật nào, hay Bồ Tát nào, nhưng h́nh thái
trong ấy cũng có nhiều loại khác nhau. Tượng
Phật Di Đà đứng phần nhiều là tướng
Tiếp Dẫn; v́ thế, lật ngửa bàn tay phải
để biểu thị. Nếu là tượng ngồi, ắt
tay sẽ được tạc theo cách thức khác.
* Hỏi:
Hôm trước có đồng tu nói: “Cơi tam thiên đại thiên thế giới thuộc
khu vực giáo hóa của Phật Thích Ca được gọi
là thế giới Sa Bà”, đệ tử vẫn c̣n ngờ
vực, chẳng hiểu. Kính xin thầy ấn chứng! (Trịnh Thắng Dương hỏi)
Đáp: Thế
giới có đơn vị, tiểu, trung, đại sai
khác. Mỗi loại đều có danh xưng riêng, dùng làm phù
hiệu cho dễ nói năng. Một tam thiên đại thiên
là một Phật độ (cơi Phật), nó có tên gọi
riêng. Mỗi đại thiên đều có danh xưng riêng.
Sa Bà là tên gọi chung của một đại thiên, điều
này có ǵ đáng ngờ? Như Gia Nghĩa, Cao Hùng, Cơ Long,
B́nh Đông v.v… là tên hạn cuộc [trong một địa
phương], giống như Nam Thiệm Bộ Châu [là tên
riêng của một tinh cầu] trong bốn tinh cầu [thuộc
thế giới Sa Bà]. Nói tổng quát, [các nơi như Gia
Nghĩa, Cao Hùng v.v…] sẽ đều thuộc vào tỉnh
Đài Loan vậy.
* Hỏi:
Mười tám vị tôn giả được thờ trong
Tam Bảo Điện, hay trong Đại Sĩ Điện?
Có vị trí nhất định hay không? (Kỷ Uyên Quư hỏi)
Đáp:
Đại điện thờ Phật, [có thể] cùng thờ
mười tám vị tôn giả trong Phật điện,
nhưng cần phải xếp dọc theo hai bên vách trái và
phải, mỗi bên chín vị. [Ông nói] “điện chưa thờ Phật”, chỉ thờ
Đại Sĩ; chắc vị Đại Sĩ ấy là
Quán Âm. Ngài Quán Âm vốn là cổ Phật, thờ mười
tám vị tôn giả trong điện thờ Đại
Sĩ cũng chẳng phải là không được, [nhưng
bày tượng các Ngài] cũng chia thành trái phải. Nếu
trong chùa có cả hai thứ Phật Điện và Đại
Sĩ Điện, nên thờ [các vị La Hán] trong Phật Điện
th́ hơn. Chùa chiền các nơi đều là như vậy.
* Hỏi:
Người đời thường nói đến Ngũ
Công Bồ Tát, nhưng trong hộ tịch của Phật, Bồ
Tát, hoàn toàn chẳng thấy ghi chép. Xin hăy chỉ dạy lai
lịch sơ lược của Ngũ Công Bồ Tát? (Kỷ Uyên Quư hỏi)
Đáp: Kẻ
hèn này đọc kinh Phật quá ít, chưa thấy danh hiệu
của Ngũ Công Bồ Tát[9].
Đă không biết tên, hộ tịch của các vị ấy
càng khó tra cứu! Xin hăy hướng về người
thường nói đến Ngũ Công Bồ Tát để [hỏi
cho] biết đó là một vị hay năm vị? Rốt
cuộc tên là ǵ th́ mới dễ tra cứu. Nếu là những
vị được thờ phụng ở nơi đó
như Cao Vương Gia, Tiết Vương Gia v.v… th́ đó
là thần, chẳng phải là Bồ Tát. Hăy nên hỏi ḍ các
bậc phụ lăo nơi ấy, chẳng thể t́m kiếm
trong kinh Phật!
* Hỏi:
Hội phóng sanh dài hạn Vô Lượng Thọ ở núi
Sư Đầu đă ấn hành quyển Khổ Hải
Cam Tuyền (suối ngọt trong biển khổ), trong ấy
có chú thích về chữ A trong [danh hiệu] A Di Đà Phật.
Chiếu theo cách đọc trong tiếng Phạn th́ phải
là A, biểu thị “vô lượng
quang, vô lượng thọ”. Nếu đọc sai thành Ơ
th́ đă đánh mất ư nghĩa gốc. Tự nhiên là niệm
thánh hiệu Phật, phải nên lấy âm tiếng Phạn
làm chuẩn. Chỉ có điều tôi là kẻ sơ học,
vấn đề tầng tầng, kính xin cụ dạy cho
cách phát âm đúng! (Lư Học Thi
hỏi)
Đáp:
Cứ muốn t́m âm tiếng Phạn, cần phải học
Phạn văn, lại cần phải được khẩu
truyền[10].
Người dạy đọc th́ cũng là mỗi người
đọc một giọng, chỉ dựa theo âm đă
được dạy để đọc là được
rồi. Thật ra, khó thể cầu [âm đọc] chuẩn
xác được. Chẳng cần dẫn ngữ hệ
[tiếng Hán] ở nội địa, các nơi [phát âm] khác
nhau, cứ lấy ngay Đài Loan để luận định,
có thể suy ra để biết đại khái. Đài Bắc,
Đài Nam, Đài Trung, cách phát âm tại mỗi nơi đều
sai khác. Đấy không chỉ là biến đổi theo từng
địa phương, mà xưa nay cũng có nhiều chuyển
biến; nhưng chữ A là gốc của hết thảy
các âm Phạn. Do cách phát âm mà chia thành [các âm] môi, lưỡi,
răng hàm, răng nanh, họng. Chữ A phát âm từ họng,
đối với các thanh b́nh, thượng, khứ, nhập[11],
chọn lấy b́nh thanh sẽ là ổn thỏa nhất.
* Hỏi:
Trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh có hai chữ Ha (訶) và Kích (裓), cũng xin chú giải, cảm tạ khôn ngằn!
(Lư Học Thi hỏi)
Đáp:
Âm thanh chẳng ngại dựa theo cách phát âm đă
được truyền dạy để đọc, mong
ông hăy đọc kỹ nghĩa lư trong câu trả lời nơi
đoạn trên, ắt sẽ hiểu rơ: Âm thanh của một
chữ được chia theo giọng điệu của
từng địa phương và xưa nay [sai khác], rất
khó chấp trước ai là đúng! Có thể dựa vào ghi
chú [cách đọc của chữ ấy] trong sách tự vựng,
[sao cho] khi phát âm chẳng trái nghịch cách đọc đă
ghi chú [trong sách] là được rồi. Trong Vận
Thư (韻書)[12],
chữ Ha (訶) thuộc bộ Ca (歌), đọc giống như chữ Hà (何). Trong Vận Thư, Kích (裓) thuộc bộ Chức (職), đọc cùng âm với chữ Cách (革)[13].
Đó là cách đọc phổ biến nhất!
* Hỏi:
Nguồn gốc của danh xưng Thái Cô (蔡姑) do đâu mà có? Phương ngôn, tục ngữ
như thế có phải là nói về người tu hành
để tóc hay không? Thái Cô (người tu hành để tóc)
đều có thần thông, pháp thuật, v́ cớ sao chẳng
xuống tóc? (Lưu Chánh B́nh hỏi)
Đáp:
Thái Cô (蔡姑) có phải là Thái Cô (菜姑) bị viết lầm hay không? Nếu là
Thái Cô (菜姑), tôi biết đại lược ư
nghĩa. Nếu là Thái Cô (蔡姑), tôi chẳng biết [chữ ấy xuất phát
từ] sách vở nào? Thái (菜) có nghĩa là “ăn rau, chẳng ăn thịt”.
Cô (姑) là tiếng gọi chung nữ nhân. Gộp
lại, [Thái Cô] chính là “nữ tu sĩ tại gia ăn chay”.
Chuyện “thần thông, pháp thuật” và “để tóc”, hay “cạo
tóc” vốn là hai chuyện [tách biệt], chớ nên lẫn lộn.
Nhưng không có Định, chẳng có Huệ, chắc chắn
là chẳng có thần thông. Nếu tự xưng là có thần
thông, ắt là kẻ vô tri, nói lời tà vạy mê hoặc mọi
người!
* Hỏi:
Đạo tràng Quán Âm có phải là nói tới một tông hay
không? Liên Tông (Tịnh Độ Tông) và Liên Xă dùng tín, niệm
(Nam-mô A Di Đà Phật) và Phật đường có ǵ bất
đồng? Liên Tông, Liên Xă, Phật Đường thờ
phụng Quán Âm Bồ Tát có hợp lư hay không? (Lưu Chánh B́nh hỏi)
Đáp: Phật
giáo có các tông cũng là do người đời sau phân định,
v́ Tam Tạng mênh mông, khó thể nghiên cứu trọn khắp.
Chỉ lấy một loại để chuyên tu tập, sẽ
dễ tu, dễ nhập, chẳng phải là ưa chuộng
[bày vẽ kiểu cọ] khác biệt. Trong các kinh Đại
Thừa, phần lớn có sự tích của đức Quán
Âm, xưa nay đều phổ biến thờ phụng Ngài,
chưa nghe nói [có chuyện] lập tông riêng khác. Liên xă tín
nguyện niệm Phật chính là đạo tràng Tịnh
Độ Tông. Đối với chỗ chẳng hiểu “pháp mật” (sự mật nhiệm
trong pháp môn) của Tịnh Tông, chẳng có sư thừa, tuy
thờ Phật, niệm kinh, niệm Phật, do chỉ tu
phước báo, nên chỉ có thể gọi là Phật
Đường. Liên Xă nên thờ Tây Phương Tam Thánh, c̣n
Phật đường có thể tùy ư thờ phụng bất
cứ vị Phật và Bồ Tát nào trong Phật giáo.
* Trong kinh Địa
Tạng, có các chữ Phược, Miệt (襪),
Miệt (韈), Nga (誐), Đế (渧), Tật, Uông (尫), Cam (泔), Tỳ (毘). Tra tự điển, không có những chữ này,
chẳng biết nên đọc như thế nào?
Đáp: Chân ngôn của
Mật Tông là chữ Phạn, âm Phạn, có những âm nhị
hợp, tam hợp, tứ hợp[14]
v.v… Dùng tiếng Hán để phiên âm, không chỉ là chẳng
có những chữ ấy, mà cũng không có những âm ấy.
Người phiên dịch thuở ấy phần nhiều là
tạm thời tạo chữ, chỉ chú trọng khẩu
truyền [cách đọc những chữ ấy], chẳng
thể tùy tiện đọc theo âm địa
phương. Đối với những chữ như ông đă
nêu, trong tự điển Khang Hy có chép, có lẽ trong loại
tự điển học sinh th́ không có. Những chữ
như Đế, Uông, Cam, Tỳ v.v… là chữ sử dụng
trong văn từ thuộc Hiển giáo, cứ chiếu theo
âm vốn có của chúng mà đọc, cũng chẳng có ǵ
là không được! Những chữ khác có lẽ là chú ngữ,
ắt phải được người đă nghiên cứu
Mật Tông truyền dạy cách đọc.
* Hỏi: Xin hỏi
hai chữ Bồ Đề nên giải thích như thế
nào? Chữ Bồ (菩) có nghĩa là ǵ? Chữ Đề (提) lại
có nghĩa là ǵ? “Bồ Đề
thụ” là cây ǵ? “Bồ
Đề tâm” là tâm ǵ? V́ tôi chỉ có thể hiểu ư
nghĩa của hai chữ Bồ Đề, nhưng không có
cách nào diễn nói được. Kính xin Ngài giải đáp
tường tận trên báo Bồ Đề Thụ. (Đặng Tự Đức hỏi)
Đáp: Tiếng
Phạn là Bồ Đề (Bodhi), dịch sang tiếng Hán
là Giác. Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật v.v… mỗi
địa vị đều có sự giác ngộ riêng. “Giác” là giác pháp tánh, chứng
trí huệ, [những điều ấy] đều là [giác].
Bồ Đề Thụ là một loại cây có thân mộc,
cao lớn, vốn có tên là Tất Bát La (Pippala); do đức
Phật từng ngồi dưới cội cây ấy mà
thành đạo, nên đổi tên thành Bồ Đề Thụ.
Bởi lẽ, Phật là bậc Đại Giác Thế Tôn, cho
nên mượn điều ấy để ca ngợi đức
Phật. Nếu có người phát tâm học Phật, [cái
tâm ấy] liền gọi là “Bồ
Đề tâm”. Hoặc người phát tâm độ kẻ
khác, cũng gọi là Bồ Đề tâm do thượng cầu
hạ hóa. Nói chung là “phá mê, khải
ngộ” (phá trừ mê hoặc, khơi gợi giác ngộ).
V́ thế gọi là Bồ Đề tâm.
* Hỏi: Xin hỏi
ư nghĩa của tứ sanh, tam hữu, Tam Hiền, Thập
Địa, Đẳng Giác. (Vương
Thanh Hán hỏi)
Đáp: Tứ
Sanh (四生) là bốn loại sanh mạng noăn, thai, thấp, hóa.
Tam Hữu (三有) là chúng sanh sanh tử trong tam giới. Tam Hiền Thập
Thánh là nói đến địa vị tu tập của hàng
Bồ Tát. Các địa vị thuộc Địa Tiền
là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
gọi là Hiền. Đăng Địa (từ Sơ Địa
trở lên) cũng có mười địa vị, cảnh
giới cũng cao, là hàng đại Bồ Tát, nên gọi là
Thánh.
* Hỏi: “Làm công đức quy hướng
cho cha mẹ là được rồi”, phương pháp
quy hướng cha mẹ là như thế nào? (Soái Tiên Kiệt hỏi)
Đáp: Phàm làm chuyện ǵ, ắt
trước hết phải khởi tâm. Vạn pháp do tâm tạo,
hết thảy đều bị tâm chi phối. Đối
với công đức đă làm, ắt phải có tâm niệm.
“Hồi hướng” chính là tâm nguyện. Ví như muốn
tặng một vật cho ai đó, niệm niệm chẳng
quên, rốt cuộc làm được th́ mới là sung
sướng. Đối với công đức trong nhà Phật,
nếu muốn thí [công đức đă làm] cho người
khác, th́ đối trước Phật thưa tŕnh, hoặc
thiêu văn sớ để tâu, chỉ cần tâm chí thành, sẽ
đều sanh hiệu quả.
* Hỏi: Như
Lai Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật có phải
chính là Phật Tổ Mâu Ni Phật[15]
hay không? (Soái Tiên Kiệt hỏi)
Đáp: Như Lai
Phật chính là tên gọi chung đối với Pháp Thân của
mười phương ba đời chư Phật. Thích
Ca Mâu Ni Phật là vị Phật trong thế giới này, chính
là vị chủ tôn của Phật giáo. A Di Đà Phật là
vị Phật thuộc Tây Phương Cực Lạc thế
giới, cũng là vị chủ tôn của thế giới ấy.
Xét theo thân tướng, đây là hai vị Phật; nhưng
xét theo tánh, vốn chẳng có hai.
* Hỏi: Thông
thường, Đại Hùng Bảo Điện thờ phụng
tượng của ba vị Như Lai Phật. Bất quá
tượng chính giữa hơi cao hơn, rốt cuộc
có phải là ba vị có sai biệt hay không? Tam Bảo lại
là như thế nào? (Soái Tiên Kiệt
hỏi)
Đáp: Có khi
tượng nhất loạt cao như nhau, có khi chính giữa
cao, hai bên thấp hơn. Nếu toàn là Phật th́ phải
nhất loạt cao bằng nhau. Nếu là một vị Phật,
hai vị Bồ Tát th́ Phật cao, Bồ Tát thấp hơn
cũng được. Nhưng [làm như vậy sẽ]
nh́n không đẹp mắt, vẫn là cao thấp bằng
nhau, sẽ trang nghiêm, tôn kính hơn.
* Hỏi: Đối
với h́nh dạng đại khái của Tứ Thiên
Vương, tôi đă biết sơ sài một hai phần,
nhưng Bát Đại Kim Cang trong Phật giáo có lai lịch
và h́nh tượng ra sao? Có sách nào để tham khảo? Tên
húy và quyền hạn của mỗi vị lại là như
thế nào? (Soái Tiên Kiệt hỏi)
Đáp: Đại
Diệu, Kim Cang, Đại Cam Lộ, Quân Đồ Lợi,
Diễm Man, Xí Thạnh[16], kinh
Phật Đảnh có ghi chép tường tận. Nói đại
lược, tám vị Kim Cang chính là do tám vị Bồ Tát
hóa hiện, đều có danh hiệu, chỉ có điều
h́nh trạng phần nhiều dựa theo kinh văn để
tưởng tượng, mỗi nơi đắp tượng
cũng chẳng hoàn toàn giống nhau. Ở chỗ này, khó có
thể một quy định mẫu mực được,
nhận biết ư nghĩa là được rồi!
* Hỏi: Ở
Trung Hoa, Di Lặc Phật là Bố Đại Ḥa Thượng
do có những truyền thuyết về sự hành đạo
của Ngài. Có phải là Ngài c̣n có lai lịch khác hay không? (Soái Tiên Kiệt hỏi)
Đáp: Di Lặc
chính là vị Phật sẽ hạ sanh trong tương lai,
các kinh phần nhiều đều ghi chép. Chuyên giảng về
Ngài th́ có Di Lặc lục bộ kinh[17],
đều nói về ngài Di Lặc. Đấy là hạnh
nghiệp của ngài Di Lặc. C̣n ngài Bố Đại Ḥa
Thượng, ai nấy đều nói là hóa thân của Ngài,
có Long Hoa Sám Pháp, kèm thêm có Bố Đại Ḥa Thượng
Truyện, tôi biết như vậy mà thôi!
* Hỏi: Có dịp
để tôi chuyên chú, chí thành đến thăm cư
sĩ, ḥng lănh giáo để được lợi ích về
mặt giáo pháp hay không? (Soái Tiên
Kiệt hỏi)
Đáp: Kẻ hèn
này công việc bận bịu, thân quay ṃng ṃng như ngọn
đuốc, đi th́ chẳng đến nơi nào nhất
định, ở th́ chẳng có lúc nhất định.
Phàm là người đến thăm đều chẳng thể
gặp được. Muôn phần xin đừng nhọc
công viếng thăm kẻo tôi mắc tội!
* Hỏi: Từ
trong kinh, chúng ta thường có thể thấy hai chữ “đầu nhiên”. Rất hiển
nhiên, hai chữ ấy là dịch ư, chẳng phải là phiên
âm. Phần tử trí thức học Phật rất
đông, kẻ chẳng phải là phần tử trí thức
cũng chẳng ít. Nói theo phía sinh viên đại học, tuyệt
đại đa số cũng cảm thấy ngơ ngác
đối với hai chữ “đầu
nhiên” ấy! Trừ phi anh ta (cô ta) đă từng nghe giải
thích về Phật học. Xin hỏi, phiên dịch vào thuở
đầu, v́ sao lại dùng chữ nhiên (然)
mà không dùng chữ nhiên (燃)? Tôi nghĩ t́nh h́nh mọi người cứ tụng
ào ào như thế, mà chẳng hiểu rơ ư nghĩa thật
sự rất nhiều. Xin hỏi từ nay trở đi,
có thể thử sửa đổi ấn loát [những chữ
giống như vậy cho đúng] hay không? (Thí Chấn Huy hỏi)
Đáp:
Trong trường đại học hiện thời, lập
ra nhiều phân khoa. Những ǵ thuộc loại văn tự
sẽ thuộc về [lănh vực chuyên môn] của khoa
văn học. Những người nghiên cứu văn học
sâu xa, tự nhiên chẳng sanh nghi! “Nhiên” (然) chính là chữ gốc của từ ngữ “nhiên thiêu” (燃燒). Đổi
thành chữ Nhiên (燃) là do cách viết theo lối
thông tục của người đời sau. Bốn chấm
(灬) ở phía dưới chữ Nhiên chính là bộ
Hỏa (火); v́ thế, chữ Nhiên
được xếp vào bộ Hỏa [trong tự điển].
Mạnh Tử nói: “Nhược
hỏa chi thỉ nhiên” (若火之始然, như lửa mới bắt đầu
cháy). Quản Tử nói: “Chưng
gian dung chưng, nhiên giả xử hạ” (蒸閒容蒸,然者處下, để chưng hấp
th́ phải xếp sao cho có kẽ hở để có thể
bỏ thêm vật muốn chưng vào, cái ǵ đă nấu nướng rồi hăy đặt ở phía dưới
để hơi nóng có thể bốc lên)[18]. Đấy
chính là chữ chánh thức dùng trong sách cổ, có ǵ đáng
ngờ? Những chữ thuộc loại này rất nhiều!
[Chẳng hạn như] “ngũ
tạng lục phủ” trong Nội Kinh, “tạng phủ” (臟腑) vốn
là chữ xuất hiện về sau, chữ dùng trong sách vở
vẫn viết là “tạng phủ”
(藏府). Trong mười ba kinh của Nho gia, phần nhiều
dùng chánh tự, như câu“lập
như trai” (đứng cung kính như khi trai giới
trước khi cúng tế), chữ Trai (齋) vẫn
viết là Tề (齊). Sách Luận Ngữ chép “bất
diệc duyệt hồ” (cũng chẳng vui sao), chữ
Duyệt (悅) được viết là Thuyết (說).
Mao Thi có câu: “Ô hô! Tiền
vương bất vong” (於戲前王不忘, chao ôi! Các đời vua trước khiến ta
than thở không quên)[19],
chữ “ô hô” (嗚呼) được viết thành “ư hư” (於戲). Sách Châu Lễ chép: “Xuân
nhập học xá thái hợp vũ” (mùa Xuân, sĩ tử
vào trường học dùng rau có mùi thơm để tỏ
ḷng lễ kính tiên sư, tập luyện lui tới nhịp
nhàng khớp với tiếng nhạc tế lễ)[20], chữ
“thái” (菜,
rau) viết thành Thái (采). Tả Truyện có câu: “Hôn
cấu nhân á” (昏媾姻亞, cưới hỏi, kết thành thông gia), chữ
Hôn (婚) viết thành Hôn (昏). Ngay như
trong quốc ca hiện thời: “Túc
dạ phi giải” (夙夜匪懈, ngày đêm chẳng lười nhác), chữ Phi (非) viết
thành Phỉ (匪), [những trường hợp giống như vậy]
chẳng thể kể xiết! Phiên dịch kinh bèn chọn
sử dụng chánh tự, chẳng dùng cách viết thông tục.
Hai ngàn năm qua, vốn chẳng có ai càm ràm! Nếu đổi
[chánh tự] thành tục tự (chữ viết theo lối
thông tục), vậy th́ những lời văn linh thiêng
trong Tam Tạng và Văn Khố Toàn Thư sẽ mắc phải
khuyết điểm rối ren, mất đi diện mạo
chân thật của nó.
* Hỏi: Thích Ca
Mâu Ni Phật đản sanh cách nay đă gần ba ngàn
năm. Đối với Thích Ca Mâu Ni Phật, kinh điển
có rất nhiều cách xưng hô khác nhau. Như Phật Tổ,
ư nói đức Phật là thỉ tổ. “Phật Thế Tôn” ư nói đức Phật là bậc
khai sơn chí tôn v.v… nhưng Phật giáo chú trọng nhất
là nhân quả, luân hồi, báo ứng, v́ sao có súc sanh đạo,
địa ngục đạo v.v… Xin hỏi trong các kinh,
chúng ta đều thấy Phật, Bồ Tát đều là
sanh ra sau khi đức Phật đă xuất gia, thành đạo,
nhất là vị làm chủ mười tám địa ngục
tức Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài đản
sanh và thành Phật c̣n là gần hai ngàn năm sau thời
đức Phật đản sanh. Xin hỏi: Trước
khi làm chủ tể, tức là trước đời Hán,
đời Châu ở Trung Hoa, dựa theo lịch sử ghi
chép và các loại tài liệu khảo cổ, có thể biết
là vẫn có súc sanh và những sanh mạng hữu t́nh khác tồn
tại. Những chúng sanh vào thuở trước có phải
là đă có từ thời ấy, hoặc là t́nh h́nh như vậy
cũng là do sau thời đức Phật [giáng thế, họ]
mới tham dự luân hồi hay không? Hay là trước Phật
cũng có? Chủ tể lại là ai? (Thí Chấn Huy hỏi)
Đáp: Điều
này chia thành hai đoạn.
1. Người
làm chuyện lớn xưa nay đều có nhiều vị,
chẳng riêng ḿnh đức Phật; há có ǵ đáng để
lấy làm lạ? Như nguyên thủ của nước nào
đó, quân chủ th́ gọi là hoàng (皇), là đế (帝),
hay vương (王), dân chủ th́ gọi là Tổng Thống. Vị
nguyên thủ ấy ắt có danh tánh riêng, hoặc là có biệt
hiệu, hoặc là có cách xưng hô đặc biệt liên
quan đến người ấy. Gộp lại những
điều đă nêu trên đây để xét, sẽ có nguyên
thủ (元首), quân (君), hoàng, đế, vương, tổng thống. Tên
riêng (như Nghiêu và Thuấn), biệt hiệu (như thánh
nhân, thiên tử, chí tôn), các cách xưng hô đặc biệt
(quyến thuộc, thân hữu, địch nhân) v.v… phức
tạp khó thể nêu [trọn hết]. Tuy nhiều như thế,
khi gọi, ắt phải phân biệt theo từng sự,
nơi nào, lúc nào, người nào cho thích hợp, chẳng thể
gọi lung tung được! Danh hiệu Phật tuy nhiều,
vẫn là như vậy. [Những danh hiệu] được
chép trong kinh điển, mỗi danh hiệu đều biểu
thị [nghĩa lư] riêng biệt, chẳng hề lẫn lộn,
[phải dụng công] nghiên cứu kinh th́ mới biết. Nhưng
lời hỏi [của ông cho thấy] đối với hai
từ Phật Tổ và Phật Thế Tôn đều hiểu
sai! Trong kinh không có cách xưng hô “Phật
Tổ”! “Phật Thế Tôn”
là hai danh hiệu, Phật là giác, [danh hiệu ấy] nói
đến địa vị chứng quả của Ngài. Thế
Tôn (世尊) là bậc tôn quư nhất trong thế gian, nhằm ca
ngợi địa vị cao quư của Ngài.
2) Phật có ba
thân: Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân. “Ứng”
là Pháp Thân cảm ứng một chỗ nào, bèn ứng hóa
thân h́nh đến đó để độ chúng sanh. Đức
Thích Ca từ hai ngàn năm trước như chúng ta đă
biết, chính là giả thân ứng hóa. Theo như kinh điển
ghi chép, Ngài đă đến ứng thế nơi đây
hơn tám ngàn lần. Pháp Thân thành Phật là chuyện [xảy
ra] từ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp
trước. Chuyện của ngài Địa Tạng
như ông đă nói hoàn toàn chẳng phù hợp kinh! Đức
Địa Tạng đản sanh hoàn toàn chẳng phải
là chuyện thuộc hai ngàn năm trước, mà Ngài
cũng chưa thành Phật. Chúng sanh
trong lục đạo và Phật từ vô thỉ đến
nay, [ai nấy] đều vốn có bản tánh [linh minh
giác tri], chẳng qua là đă giác hay chưa giác, cho nên có Phật
và chúng sanh sai khác. Những vị đă thành Phật và những
người luân chuyển trong lục đạo là do nghiệp
của chính họ tạo ra, hoàn toàn chẳng có ai làm chủ
tể của họ. Vạn pháp duy tâm! Kinh Phật nếu
không có ai giảng giải, cứ tự xem, sẽ có nhiều
nỗi hiểu lầm!
* Hỏi: Xin hỏi,
vào năm mười chín tuổi, trước khi Phật
Thích Ca xuất gia, Ngài đă kết hôn với phu nhân Cù Di. Dựa
theo kinh điển ghi chép, bà ta là ngọc nữ. Xin hỏi
“ngọc nữ” có phải
là từ ngữ tôn xưng “thạch
nữ”[21] hay không? V́ kinh
điển chép Phật Thích Ca từng có ba phu nhân, hai bà phu
nhân kia là Da Thâu Đà La (Yasodhara) và Ma Dă, mỗi vị kết
hôn dưới t́nh huống nào? Kết hôn trước hay sau,
giờ, tháng, năm, tuổi tác có ghi chép xuất xứ hay
không? (Thí Chấn Huy hỏi)
Đáp:
Kinh điển có ghi chép ba vị phu nhân của đức
Thế Tôn. Nói “ngọc nữ”
chẳng qua là mỹ danh mà thôi! Chẳng bàn tới cái nhân
đời trước, chỉ luận chuyện trong đời
này: Vương tử trong một nước vâng lệnh
vua cha kết hôn, đấy chính là lễ nghi thông thường
trong một nước, chẳng có t́nh huống nào khác! C̣n
như nói đến chuyện năm, tháng kết hôn, không
chỉ là [chuyện xảy ra đă] lâu năm, khó thể khảo
cứu, [mà c̣n v́] lịch pháp xưa nay, trong ngoài nước
khác nhau, cũng chẳng dễ tra duyệt, đối chiếu
chuẩn xác được!
*
Hỏi: Bốn đại bộ châu trong tứ thiên hạ
có phải là ở cùng trong một thái dương hệ hay
không? Hay là mỗi châu có một thái dương hệ riêng?
Căn cứ trên h́nh chụp địa cầu (nơi chúng
ta đang sống) từ mặt trăng của ba phi hành
gia người Mỹ, chẳng trông thấy các quả
địa cầu của các châu Đông, Tây, Bắc! Xin hăy
khai thị. (Đới Thiêm
Đinh hỏi)
Đáp:
Số lượng tứ đại châu không chỉ là một
nhóm, mà là nhiều đến vi trần số bất khả
thuyết. Có bốn đại bộ châu ở ngoài thái
dương hệ, mỗi cái có danh xưng riêng. Nay những
điều ông hỏi, có lẽ chuyên nói về Sa Bà. Một
đơn vị trong Sa Bà là bốn châu, nằm trong thái
dương hệ, những [châu cầu khác] chẳng nằm
trong ấy. Ông lại hỏi: “Phi hành gia nước Mỹ
ở trên mặt trăng, chẳng trông thấy quả địa
cầu của các châu Đông, Tây, Bắc”. Câu này chỉ có
thể hiểu ư chắc là muốn hỏi: “Các phi hành gia Mỹ
ở trên mặt trăng, có thể thấy ba châu khác hay không?”
Mặt trăng là vệ tinh của địa cầu, [nếu
như] chúng ta ở trên địa cầu mà có thể thấy
ba châu kia, th́ may ra trên mặt trăng cũng trông thấy ba
châu kia. Trên địa cầu đă là không thấy, th́ trên mặt
trăng cũng chẳng thể thấy được! [Bởi
lẽ], mặt trăng chẳng cao hơn địa cầu,
lại chẳng phải là cơi trời.
*
Hỏi: Quả địa cầu nơi chúng ta đang sống
được gọi là thế giới Sa Bà th́ các châu
Đông, Tây, Bắc sẽ gọi là thế giới nào? (Đới Thiêm Đinh hỏi)
Đáp:
Thế giới Sa Bà chính là tên gọi chung của một tam
thiên đại thiên thế giới. Một đại châu
chỉ là một phần tư trong số các đại
châu của một đơn vị thế giới! Dùng thí
dụ để nói, đại thiên thế giới như
một con trâu, một đại châu như một sợi lông
trên thân trâu. Một con trâu gọi là “toàn ngưu” (toàn bộ con trâu), một sợi lông
trâu là một cái lông. Cái lông ấy xuất phát từ thân
trâu, đương nhiên gọi là “ngưu mao” (lông trâu).
*
Hỏi: Chuyển Luân Thánh Vương phải đợi
đến khi nào để xuất hiện trong thế
gian? Hiện nay là thời Mạt Pháp, cứ mỗi trăm
năm giảm một tuổi, có phải là đến lúc
nào đó, [Chuyển Luân Thánh Vương] sẽ xuất hiện
trong khoảng tăng kiếp? Các luân vương Thiết,
Đồng, Ngân, Kim đồng thời xuất hiện,
hay là xuất hiện trong thế gian theo thứ tự
trước sau? (Đới
Thiêm Đinh hỏi)
Đáp: Theo Câu Xá Luận, đại ư là nói: Tối
thiểu là đến khi thọ lượng của con
người trong châu này là tám vạn năm, mới có Chuyển
Luân Thánh Vương sanh ra. Khi chưa đủ tám vạn
tuổi, các điều ác của hữu t́nh dần dần
mạnh hơn, [do vậy, họ] chẳng phải là căn
khí của bậc đại nhân, phước báo đang giảm.
[V́ thế], chẳng có Chuyển Luân Vương xuất hiện
trong cơi đời.
*
Hỏi: Đức Phật Dược Sư phát ra mười
hai đại nguyện độ sanh, kinh văn đă chép
rơ ràng. Quán Thế Âm Bồ Tát phát ra mười hai đại
nguyện, nhưng kinh văn chẳng chép rơ. “Quán Âm đại sĩ tất hiệu
Viên Thông, thập nhị đại nguyện thệ hoằng
thâm” (Quán Âm đại sĩ hiệu là Viên Thông, mười
hai đại nguyện thệ rộng sâu). Kính xin lăo cư
sĩ chỉ dạy nội dung mười hai đại
nguyện của Quán Âm đại sĩ! (Đới Thiêm Đinh hỏi)
Đáp: Mười hai
đại nguyện ấy, đa số mọi người
chẳng biết. Kẻ hèn này đọc kinh rất ít,
chưa thấy [các nguyện ấy được] chép
trong kinh điển nào, cảm thấy mờ mịt! Do vậy,
đâm ra nghi ngờ bài tán ấy. Mười mấy năm
qua, người hỏi [về vấn đề này] không chỉ
là mười mấy người, tôi đều cự tuyệt
chẳng đáp, v́ chẳng biết xuất xứ. Dựa
theo phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, [trong phần kệ
đáp cho] bài kệ thưa hỏi của Vô Tận Ư Bồ
Tát, câu “niệm bỉ Quán Âm lực”
(do sức niệm Quán Âm) [được ghi trong] mười
hai bài kệ nói về sự giảm trừ các nỗi khổ.
Bài kệ thứ nhất là “thôi
lạc đại hỏa khanh, niệm bỉ Quán Âm lực,
hỏa khanh biến thành tŕ” (đẩy rớt hầm lửa
lớn, do sức niệm Quán Âm, hầm lửa biến
thành ao). Bài kệ thứ mười hai là “vân lôi cổ xiết điển, giáng bạc chú
đại vũ, niệm bỉ Quán Âm lực, ứng thời
đắc tiêu tán” (mây sấm rền, chớp xẹt,
mưa đá, tuôn mưa lớn, do sức niệm Quán Âm,
ngay lập tức tiêu tan), vừa đúng con số mười
hai. Chẳng biết có phải là vị đại đức
soạn bài tán ấy đă nói về chuyện ấy hay
chăng. Tôi thanh minh lần nữa, chuyện vừa nêu trên
đây cũng là tự hư vọng suy lường, chẳng
phải nói “đúng là như thế”.
*
Hỏi: Dưới đại địa chúng ta đang sống
có phong luân, không luân, thủy luân, kim luân. Chẳng biết là
theo thứ tự, luân nào là đầu tiên? (Đới Thiêm Đinh hỏi)
Đáp:
Dưới cùng là không luân, trên đó là thủy luân, cao nhất
là kim luân, tức là các thứ kim loại hỗn hợp
thành chất rắn vậy.
*
Hỏi: Đức Phật giáng sanh trong nhân gian, v́ chúng sanh
trong Diêm Phù Đề mà hóa độ chúng sanh. Ba châu khác, trừ
Bắc Câu Lô Châu có phước báo lớn nhất, chúng sanh
trong hai châu kia chẳng khổ năo như trong Diêm Phù Đề
ư? (Đới Thiêm Đinh hỏi)
Đáp:
Trong thế giới Sa Bà, có đến mấy ngàn vạn tứ
đại châu, Phật độ chúng sanh chẳng hạn
cuộc trong một Diêm Phù Đề này! Lại nữa, câu
hỏi này có điều hiểu lầm, cũng xin nói rơ. Bắc
Câu Lô Châu chẳng nghe Phật pháp, chính là một trong tám nạn,
chẳng được giải thoát, sao nói là “phước”
cho được? Hai châu kia cũng thuộc Dục Giới,
đều cùng có tám khổ. Chỉ là v́ t́nh thức dấy
lên khác nhau, cho nên cảm vời sai khác đó thôi!
*
Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát trăm ngàn vạn kiếp
hóa độ cơi Diêm Phù Đề, tức là giáo hóa bọn
chúng sanh chúng ta trong cơi Diêm Phù Đề ư? (Đới Thiêm Đinh hỏi)
Đáp:
Kinh Pháp Hoa nói: “Dạo chơi
trong thế giới Sa Bà”. Đă đến Sa Bà, há chỉ
hạn cuộc trong một châu Diêm Phù?
*
Hỏi: Đối với chữ 卐, theo ghi chép trong phần chữ Vạn
của Phật Học Đại Từ Điển, nó
chính là tướng tốt lành được biểu lộ
trên ngực đức Phật, tức là tướng Cát
Tường Hải Vân. Nhưng tôi thấy chữ 卐 nơi ngực đức Phật
trong chùa miếu, và các tạp chí, sách vở Phật giáo, hoặc
là xoay theo chiều bên phải, hoặc xoay theo chiều bên
trái (卍) chẳng nhất
trí. Tướng chữ 卍 là thụy tướng của đức
Phật, mọi thiện tín trông thấy tướng ấy,
liền sanh tâm tôn kính. Có thể nói là một tiêu chí (標誌, logo) của Phật giáo, tợ hồ
chẳng nên coi xoay theo chiều phải hay trái đều
được, đến nỗi phá hoại thụy
tướng. Có phải là xoay theo chiều bên trái là có ư
nghĩa nào khác, hay là do hiểu lầm? (Ngô Cơ Miên hỏi)
Đáp: 卍 chỉ là tướng, chẳng phải là
chữ! Các vị thầy dịch kinh người Hoa bắt
đầu gọi nó là chữ Vạn. Cách đọc và sự
giải thích tướng ấy được chép trong bộ
từ điển của ông Đinh (Đinh Phước Bảo).
Kể từ đời Đường cho đến triều
Thanh, tướng ấy đều là 卍, hoàn toàn chẳng có dị nghị.
Chỉ có Nhật Bản là chuyên tạo h́nh tướng chữ
này thành “卐”. Từ đấy, mới bắt đầu
có sự thay đổi và tạo tác [h́nh tượng] khác
biệt, tranh luận mới dấy lên. Chỉ có điều,
đây là tướng tốt lành trước ngực đức
Phật, rốt cuộc h́nh dạng như thế nào,
người đời sau chưa từng đích thân trông
thấy, chẳng dám vũ đoán! Xét ra người Nhật
học Phật là do cầu pháp từ Trung Hoa truyền sang
nước ấy. [So sánh] tượng Phật và kinh
văn [giữa hai nước], sẽ phát hiện có nhiều
chỗ khác nhau. Rốt cuộc, giữa Trung Hoa và Nhật Bản
ai đúng, kẻ hèn này vô học, chẳng thể đoán
định!
* Hỏi: Nếu chữ Vạn xoay theo chiều
bên phải (卍)[22]
là sai lầm, tôi tính xin quư san kiến nghị tổng hội
Phật giáo thông báo các chi hội Phật giáo để họ
báo lại các chùa miếu, các nhà xuất bản sách vở
Phật giáo, các chỗ khắc tạc tượng Phật
v.v… nhất loạt chú ư: Nếu có kẻ nào sai lầm, hăy
nên sửa cho đúng, ḥng chỉ có một tướng 卐 tôn nghiêm! (Ngô Cơ Miên hỏi)
Đáp: Tạc tượng vốn có kinh
điển, gọi là [kinh] Tạo Tượng Độ
Lượng. Đối với việc chạm khắc,
đắp tạc tượng trong chùa miếu lớn
xưa kia, đều thỉnh bậc đại đức
về Phật học trông chừng chuyện tạo tác.
Trong phạm vi nước Trung Hoa, về đại thể
là tương đồng, chẳng dám tùy tiện, cũng
chẳng có tranh luận. Đại khái, chuyện này thống
nhất, ắt phải được những vị thạc
học, lăo túc nhiều cách cầu chứng, cùng nhau quyết
định, thật sự chẳng phải do một hai
người đề xướng riêng lẻ, th́ mới
có thể khến cho mọi người thuận theo vậy!
* Hỏi: Tỳ-kheo thọ giới đốt
dấu thọ giới trên đỉnh đầu, và đệ
tử Phật đốt ngón tay cúng Phật, có phải là
chuyện đă được răn dạy khi đức
Phật c̣n tại thế? Chép trong giới luật, kinh luận
nào? Hay là do đệ tử về sau đặt ra? Do vị
hiền đức nào đặt ra? Bắt đầu vào
thời nào? (Ngô Cơ Miên hỏi)
Đáp: Thiêu thân cúng Phật, kinh có chép chuyện
ấy. Như tại Trung Hoa, có người cắt thịt
đùi dâng vua, cắt thịt ḿnh để chế thuốc
dâng lên cha mẹ, đôi khi có chuyện ấy, hoàn toàn chẳng
có văn bản rơ ràng ép buộc ai nấy đều phải
làm như vậy! Những người đốt ngón tay,
chặt ngón tay trong hiện thời, cũng là do họ tự
động làm, thật sự chẳng có giới luật sắc
truyền, mà là chuyện tự do cá nhân. Đối với
chuyện đốt hương trên đầu hay trên cánh
tay, tại hạ là hàng bạch y, chưa từng đọc
tụng giới luật tỳ-kheo, chẳng biết nguyên
nhân, chẳng thể vâng mạng trả lời được!
* Hỏi: Tràng hạt gồm một trăm
lẻ tám viên, trừ hạt mẫu châu ra, lại c̣n thêm
vào ba hạt “gián châu”[23]
khác chất liệu, khác màu. Nhưng Nhật Bản chế
tạo loại tràng hạt thượng hạng bèn thêm vào
năm hạt [gián châu], chưa biết mỗi loại biểu
thị ư nghĩa nào? Có kinh điển hay nghi quỹ nào
để làm căn cứ hay chăng? Xen thêm gián châu thuộc
chất liệu khác so với những hạt chánh yếu,
hăy nên [dùng hạt] hơi lớn hay nhỏ hơn [những
hạt chánh yếu] th́ mới hợp pháp tắc? (Ngô Cơ Miên hỏi)
Đáp:
Quy định về chuỗi tràng hạt căn cứ theo
kinh điển. Thông thường, số lượng các hạt
là từ mười tám cho đến một trăm lẻ
tám hạt. C̣n có những con số khác nữa, đều
có ư nghĩa riêng. Có thể tham khảo bộ Phật Học
Vấn Đáp của tại hạ, đă có nói rơ cặn kẽ!
Đối với những hạt thêm vào ngoài số hạt
chánh yếu, chẳng qua là chia [chuỗi tràng hạt] thành mấy
phần, ḥng dễ nhớ số, chẳng thể đếm
lẫn vào trong số hạt chánh yếu được.
Nhưng những hạt thêm vào, không ǵ là chẳng thêm vào hạt
to hơn để tạo sự khác biệt. Những chuỗi
do người Nhật chế tạo th́ mới thêm vào những
hạt nhỏ hơn.
*
Hỏi: Thế nào là Tứ Quả La Hán? Xin thầy chỉ
dạy cặn kẽ! (Chiêm Kim
Chi hỏi)
Đáp:
Phàm phu ở trong tam giới, có đủ Kiến Hoặc
và Tư Hoặc. Nếu hành giả đoạn hết Kiến
Hoặc trong tam giới, bèn chứng nhập ḍng thánh, gọi
là Tu Đà Hoàn. Đấy là Sơ Quả. Lại đoạn
hết sáu phẩm Tư Hoặc trong Dục Giới, th́ gọi
là Tư Đà Hàm. Đấy là Nhị Quả. Lại
đoạn hết ba phẩm Tư Hoặc trong Dục Giới
c̣n lại th́ gọi là A Na Hàm. Đấy là Tam Quả. Lại
đoạn hết các Tư Hoặc thuộc hai giới
trên (Sắc Giới và Vô Sắc Giới) th́ gọi là A La
Hán, đấy là Tứ Quả. Đó là nói đại
lược. Nói cặn kẽ, sợ chẳng dễ liễu
giải! Ấy là v́ trước hết ắt phải biết
danh xưng Nhị Hoặc, kế đó là biết số
lượng các Kiến Tư Hoặc ứng hợp với
tam giới, lại biết số lượng trên dưới
qua lại của người tu, sau đấy mới hiểu
rơ đại khái.
*
Hỏi: Tôi c̣n chưa hiểu rơ ư nghĩa của [danh
xưng] Bồ Tát Ma Ha Tát, xin dạy tường tận! (Chiêm Kim Chi hỏi)
Đáp:
Bồ Tát (Boddhisattva) là danh từ tiếng Phạn, dịch
sang tiếng Hán là Giác Hữu T́nh. Ma Ha Tát (Mahasattva) cũng
là âm Phạn, dịch sang tiếng Hán là Đại Bồ
Tát. Nói gộp lại, sẽ là vị đại Bồ Tát
trong các vị Bồ Tát. V́ cấp bậc, phẩm vị chứng
đắc của Bồ Tát quá nhiều, tổng cộng
hơn bốn mươi mốt địa vị, đầu
tiên là địa vị Thập Trụ, tiến hơn nữa
là Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, cuối
cùng là Thập Địa. Ba mươi địa vị
đầu là Hiền, mười địa vị sau là
Thánh. Thánh mới được gọi là Đại.
*
Hỏi: Nếu tâm trái giác hiệp trần (bối giác hiệp
trần) th́ chính là chúng sanh. Nếu tâm trái trần hiệp
giác th́ chính là Phật. Khẩn khoản xin hăy chỉ dạy
về hai loại trên đây! (cư
sĩ Đạt Hoằng hỏi)
Đáp:
Trước hết, tôi thanh minh, lời giải thích phúc
đáp của tôi chỉ cốt sao dễ hiểu, chẳng
thể học theo mặt chữ để luận định
ư nghĩa được! “Bối”
(背) là tương phản, cũng có nghĩa là ly khai. “Hiệp” (合) là
khế hợp với nó, có ư nghĩa tương đồng.
“Giác” (覺) là
đại triệt đại ngộ, trí huệ sáng suốt.
“Trần” (塵) là
tục sự trong thế gian, ngũ dục, lục trần,
các thứ phiền năo. Giảng giải về “tâm” (心) quá nhiều, chỉ
có thể nói đơn giản là “ư niệm”. Nói gộp lại,
nếu khởi tâm động niệm ĺa khỏi giác ngộ,
khế hợp dục trần thế tục, sẽ là chúng
sanh trong lục đạo, là sanh tử phàm phu. Nếu khởi
tâm động niệm ĺa khỏi dục trần thế sự,
khế hợp giác ngộ, khiến cho trí huệ sáng suốt,
sẽ là cái nhân thành Phật, lâu ngày sẽ tự có thể
thành Phật.
*
Hỏi: Sau lưng tượng thần hộ pháp có một
ṿng tṛn, là do ư nghĩa ǵ? (Tiên
Thuần Hiền hỏi)
Đáp:
Tạo h́nh một ṿng tṛn nhằm biểu thị quang minh của
Ngài.
*
Hỏi: Tra t́m trong bộ Từ Nguyên của Thương Vụ
Ấn Thư Quán, thấy chữ 陰 ghi âm đọc
là Ỷ Cấm Thiết (倚禁切)[24],
âm đọc như chữ Ấm (蔭),
thuộc vần Thấm (沁), có nghĩa là “ẩn giấu”. Sách Lễ Kư
chép: “Cốt nhục tễ
ư hạ, ấm vi dă thượng” (xương cốt
chôn vùi dưới đất, vùi lấp ngoài đồng); lại
có Ngũ Ấm là danh từ Phật giáo, tức Ngũ Uẩn.
Điều thứ hai, Tâm Kinh có câu: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật
Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”
chính là câu ắt phải đọc tụng trong khóa tụng
hằng ngày. Điều thứ ba, tra cứu thuật ngữ
Ngũ Uẩn trong bộ Thực Dụng Phật Học Từ
Điển của Hương Cảng, [thấy ghi như
sau]: “(Thuật ngữ) Tiếng
Phạn là Tắc Kiện Đà, dịch theo lối cổ
là Ấm, c̣n dịch là Chúng. Dịch theo lối mới là Uẩn.
Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức”.
Chữ Ấm đọc b́nh thanh (tức Âm) hay đọc
theo giọng khứ thanh (tức Ấm)? Nếu đọc
theo giọng khứ thanh, đôi câu đối tôi tính viết
dưới đây sẽ thành sai âm vận! “Quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai, đảo giá từ
hàng độ chúng khổ. Hiện tiền Quán Thế Âm Bồ
Tát, hành thâm Bát Nhă không Ngũ Ấm” (Quá khứ, Chánh Pháp
Minh Như Lai, thả chiếc bè từ, độ các khổ.
Hiện tại, Quán Thế Âm Bồ Tát, hành sâu Bát Nhă, rỗng
năm uẩn). (Hùng Thanh Tuấn
hỏi)
Đáp: Đối với chữ Ngũ
Ấm trong kinh Phật, xét theo lối cựu dịch, có hai
cách nói: Một là “che lấp”, hai là “tích tụ”. Tức là: Một
là đọc theo giọng b́nh thanh, hai là đọc theo giọng
khứ thanh. Theo lối tân dịch là Uẩn (蘊), chỉ có nghĩa
“tích tụ”, chẳng có nghĩa “che lấp”, do chữ Ấm
trong tiếng Phạn phải là Bát La Bà Đà, chẳng phải
là Tắc Kiện Đà (Skandha). [Điều này] vẫn c̣n
đang tranh luận. Lối tân dịch cũng chấp nhận
cách hiểu là Âm Dương. Do đa số đọc [chữ
này] theo giọng b́nh thanh, biết là c̣n có cách đọc khác
mà thôi. Chữ này thuộc loại dịch nghĩa, nhưng
đối với cách hiểu lại có những tranh luận
cho rằng [cổ nhân] đă hiểu lầm tiếng Phạn.
Nếu chẳng thông hiểu sâu xa tiếng Phạn, sẽ
chẳng dám đoán định Tắc Kiện Đà và Bát
La Bà Đà, chữ nào là Tích Tụ, chữ nào là Che Lấp.
Vậy th́ đối với chữ Ấm (陰) đọc
giọng b́nh thanh hay khứ thanh cũng nên tồn nghi, hăy thuận
theo cách đọc của đa số. Nhưng đối
với câu đối do ông đă làm, đọc [chữ Ấm]
theo giọng b́nh thanh (tức Âm) hoàn toàn chẳng có ǵ là không
được!
*
Hỏi: Có người nói Quan Vân Trường thời Tam Quốc
chính là Già Lam tôn giả trong hiện thời, c̣n có kẻ bảo
ông ta là Già Lam Bồ Tát. Ông ta suốt đời giết
người quá nhiều, làm sao có thể là tôn giả hay Bồ
Tát cho được? Ai là người đầu tiên biết
ông ta là Già Lam tôn giả, hoặc Già Lam Bồ Tát? (độc giả ở Đài
Trung hỏi)
Đáp:
V́ nước giết địch, do hộ pháp mà hàng ma, chẳng
giống chuyện giết người thông thường! Giết
địch là trung; hàng ma là nhân. Đại trung, đại
nhân, hộ quốc, hộ pháp, há chẳng
phải là Bồ Tát ư? C̣n như chuyện được
gọi là Già Lam là v́ ông ta quy y với Trí Giả đại
sư, sách Phật Tổ Thống Kỷ chép chuyện này. Mấy
năm trước, sách Phật Học Vấn Đáp
đă sớm có ghi chép về chuyện này, mong hăy tra duyệt.
*
Hỏi: Sau mỗi tượng Di Lặc Bồ Tát, có một
tượng Quán Âm Bồ Tát là do nguyên nhân nào? Di Lặc Bồ
Tát cầm túi vải để làm ǵ? (độc giả ở Đài Trung hỏi)
Đáp:
Sau lưng Di Lặc Bồ Tát có Quán Âm Bồ Tát là chuyện
ngẫu nhiên trong một chùa, trọn chẳng phải là nhất
loạt đều là như thế, không thể dựa vào
đâu để trả lời được! Tạc
tượng [ngài Di Lặc] trong cơi này vốn dựa theo
h́nh tướng của Bố Đại ḥa thượng vào
đời Lương thời Ngũ Đại. Khi Ngài sắp
nhập Niết Bàn, từng có nói kệ như sau: “Di Lặc, chân Di Lặc, phân thân
thiên vạn ức”. Ai nấy đều nói Ngài là hóa thân
của đức Di Lặc. Hễ tạc tượng Di Lặc,
đều phỏng theo h́nh tướng của Bố Đại
ḥa thượng.
*
Hỏi: Nghe nói vào tháng Chín năm Dân Quốc 58 (1969), quư xă
phát hành tạp chí Bồ Đề Thụ, ngoài b́a có h́nh Bồ
Tát cưỡi voi. Điều này rất bất hợp lư!
Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, chẳng
dám cưỡi lên thân động vật th́ mới đúng!
V́ sao lại phải in loại tượng đó? (độc giả ở Đài
Trung hỏi)
Đáp: Kinh Pháp Hoa có nói “thân
tác khuông sàng” (thân làm giường chơng)[25]
để cúng dường. Đức Thế Tôn cũng
dùng tóc để trát đất bùn nơi mặt đất
[cho bằng phẳng], cúng dường bằng cách “tiếp túc” (hai bàn tay ngửa
lên ôm chân Phật), ư nghĩa ở chỗ này, chẳng phải
là ở chỗ kia! Voi dâng thân để ngồi, cưỡi,
ḥng cúng dường Bồ Tát, tự có đầy đủ
công đức, chẳng phải là Bồ Tát tự buông
lung, bắt nó nhọc nhằn. Ví như con hiếu cơng vác
cha mẹ, há có nên nói là cha mẹ chẳng hợp lư ư? Hơn
nữa, Pháp Thân vô tướng, hiển thị độ
chúng sanh, đều có ư nghĩa bí mật. Nếu chấp
tướng, hiểu theo cách nh́n thông tục, sai mất rồi!
*
Hỏi: “Bạch liên tọa
thượng Di Đà Phật, tử trúc lâm trung Quán Thế
Âm” (Phật Di Đà ngồi trên hoa sen trắng, Quán Thế
Âm trong rừng trúc tía) nên hiểu như thế nào? (độc giả ở Đài
Trung hỏi)
Đáp:
Đây là một cặp câu đối trong thế tục,
hiểu theo nghĩa văn tự của thế tục là
được rồi, chẳng cần phải cố ư
chèo kéo, thêm thắt, không có cách nào dẫn chứng kinh điển
cả!
*
Hỏi: Lục Tổ là Huệ Năng (惠能), hay là Huệ Năng (慧能)? (độc giả ở Đài
Trung hỏi)
Đáp: Theo truyện kư ghi chép, Ngài là thượng Huệ
(慧) hạ Năng (能).
*
Hỏi: Nơi trang tám trăm sáu mươi chín của quyển
thứ ba, tập năm mươi mốt trong bộ Đại
Tạng Kinh do các vị đại sư đương thời
của Phật giáo như Chương Gia, Ấn Thuận,
Đạo An, Bạch Thánh v.v… biên soạn (Trung Hoa Phật
Giáo Đại Tạng Kinh Ủy Viên Hội xuất bản),
phần Sử Truyện Bộ thứ ba, tức là trong quyển
một của Đại Đường Tây Vực Kư, có
nói: “Thế giới Sách Ha (cựu
dịch là thế giới Sa Bà, c̣n dịch là thế giới
Sa Ha, đều là sai), trong các sách như Thích Ca
Phương Chí v.v… cũng có bàn tới)”. V́ sao hiện
thời trong các ấn bản Phật giáo, hoặc khi Phật
tử trích dẫn để diễn giải, đều bỏ
chữ “thế giới Sách Ha”
mà nói là “thế giới Sa Bà”.
Đấy chẳng phải là đem sai lầm truyền thừa
sai lầm ư?
Lại
như cùng trang ấy có viết: “Núi
Tô Mê Lô (tiếng Hán dịch là núi Diệu Cao), cựu dịch
là Tu Di Lâu đều là sai”. “Già
Hà (cựu dịch là Hằng Hà, c̣n dịch là Hằng Già
đều là sai)” v.v… vậy th́ cũng là đem sai ngoa
truyền thừa sai ngoa. Kinh [Nho gia] dạy: “Âm ngoa tắc nghĩa thất, ngữ
mậu tắc lư quai, cố viết tất dă chánh danh hồ”
(Âm đọc sai lầm sẽ mất ư nghĩa, nói sai lầm
sẽ trái nghịch lư. V́ thế, ắt phải gọi sự
việc cho đúng tên). (Thí Chấn
Huy hỏi)
Đáp:
Đọc sách của tiền nhân, ắt phải t́m nơi
sách cổ để làm căn cứ th́ mới có căn cứ
để chứng thực ḥng tin tưởng. Nhưng sách
vở cổ đă lâu đời, tàn khuyết, mất trang
là điều chẳng thể tránh khỏi. V́ thế, đọc
đến, thường có những chỗ khó thể [lư giải]
suông sẻ được! Hễ nghi, hoặc là hăy ra sức
khảo chứng, nghị luận, chẳng có ǵ là không
được! Nếu thấy bản khác [chép khác biệt],
bèn sửa đổi [bản ḿnh đang có], sẽ là bất
hợp lư quá mức! Bởi lẽ, sách xưa dẫu chẳng
hoàn bị, vẫn là bản chân thật, bất quá là bị
khuyết lạc mà thôi. Nếu [tùy tiện] sửa đổi,
rơ ràng là chẳng c̣n chân thật nữa! Rốt cuộc ai
đúng, ai sai, há có thể căn cứ trên một bản
để vũ đoán ư? Đối với chuyện
này, cổ nhân có hai cách: Hoặc là đợi khi có đủ
tài liệu, hoặc là mặc cho người đọc quyết
định. Huống chi kinh Phật [nguyên văn bằng]
tiếng Phạn, ắt phải là trước hết thông
hiểu tiếng Phạn. Đă thông hiểu [tiếng Phạn]
rồi, đối với các ngữ hệ của Trung Hoa,
xưa nay, Nam, Bắc, đều có nhiều chuyển biến,
sự phiên âm qua các đời chẳng tránh khỏi biến
cải. Nếu dùng âm đọc hiện thời để
sửa đổi lối cổ, người đời
sau lại sửa đổi cách đọc hiện thời.
Cứ như thế mà suy, sẽ đến lúc chẳng có
ǵ là đúng cả, thật sự trở thành “đấu tranh kiên cố”,
đạo hoàn toàn bị ẩn mất. Theo ư kiến vụng
về của kẻ hèn này cho rằng: Âm đọc nên thuận
theo lối cổ, cầu t́m ư nghĩa nơi sự thật,
chớ nên thay đổi cách viết và đọc thời
cổ. Người có học thật sự, sẽ chẳng
ngại dùng theo lối tân dịch!
*
Hỏi: Chữ Tạng trong Như Lai Tạng
có phải là “tại triền
Như Lai Tạng” hay không? (A Lại Da Thức) (Lư Dục Phi hỏi)
Đáp:
[Nếu nói “tại triền
Như Lai Tạng” là A Lại Da Thức th́] đúng
như ông đă nói; nhưng đối với Như Lai Tạng,
nếu bỏ chữ Như Lai đi, chuyên nói về chữ
Tạng, những điều ông đă nói sẽ chẳng phải
là như vậy.
*
Hỏi: Quả cao tột của chư Phật là Bồ
Đề Niết Bàn, có phải là do tư tưởng sáng
tạo hay không? Lấy tư tưởng làm nhân, có thể
chứng quả Bồ Đề hay không? (Lư Dục Phi hỏi)
Đáp:
Công phu trong nhà Phật cố nhiên chẳng ĺa tư tưởng,
nhưng sau khi đă “tư”
(suy nghĩ), ắt phải tu th́ mới có thể chứng
đắc. Cậy vào vọng tưởng suông [mà mong chứng
đắc], chẳng có lẽ ấy!
*
Hỏi: Phân biệt đơn giản Tư Hoặc và
Tư Huệ như thế nào? (Lư
Dục Phi hỏi)
Đáp:
Tư Hoặc là tên gọi chung của tám mươi mốt
phẩm vô minh. Tư Huệ là một trong Tam Huệ Văn
Tư Tu. Hoặc (惑) là mê hoặc, điên đảo. Huệ chính là Bát
Nhă. Hai đằng trái ngược nhau rất lớn.
*
Hỏi: Xin hỏi Diêm Phù Đề và thế giới Sa Bà
là như nhau hay khác nhau? (tổ
thứ tư trong khóa học Đại Chuyên Giảng Ṭa hỏi)
Đáp:
“Thế giới Sa Bà” chính là
tên gọi chung của tam thiên đại thiên thế giới
này. Diêm Phù Đề chính là một châu thuộc về một
đơn vị thế giới trong đại thiên thế
giới Sa Bà.
*
Hỏi: Rồng thuộc về đường nào? (tổ thứ tư trong khóa học
Đại Chuyên Giảng Ṭa hỏi)
Đáp:
Rồng thuộc về súc sanh.
*
Hỏi: Đối với núi Tu Di trong kinh Phật, trong số
các tinh cầu mà giới thiên văn có thể trông thấy
trong hiện thời, có thể thấy núi Tu Di hay không? (Liêu Thông Mẫn hỏi)
Đáp:
Sợ rằng chẳng trông thấy. Mặt trăng là vệ
tinh của địa cầu, ở ngay trước mắt.
Núi Hỷ Mă Lạp Nhă ở ngay tại châu Á, nhưng tại
Đài Loan ngẩng đầu ḍm không thấy, c̣n nói ǵ
đến chuyện khác!
*
Hỏi: Xin hỏi đại lược về tiểu sử
của A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, và Dược
Sư Phật? (Tạ Minh Châu hỏi)
Đáp:
Phàm là những vị Phật, Bồ Tát, thành tựu đều
vượt quá ba đại A-tăng-kỳ kiếp, trừ
[hành trạng của] A Di Đà Phật được nói
đại lược đầu mối trong kinh Vô Lượng
Thọ ra, những vị khác đều chẳng được
đề cập. Hăy nên biết: Trong Tam Tạng kinh Phật,
danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát há chỉ là mấy
vạn! Nếu đối với mỗi vị đều
chép lịch sử, sẽ không có chỗ nào để chứa
nổi lượng sách [dùng để biên chép]. Hơn nữa,
dẫu biết lịch sử của các Ngài, có ích ǵ cho việc
tu tập hay chăng? Người học Phật cầu
đạo, hăy nên nắm lấy chỗ trọng yếu, chẳng
cần phải hỏi những điều không liên quan!
*
Hỏi: Khi trước, thầy giảng kinh Hoa Nghiêm, có ba
điều tôi nghe không hiểu, xin thầy giải thích. Một
là Đồng Chân Trụ, hai là Pháp Vương Tử Trụ,
ba là Quán Đảnh Trụ! (Tạ
Minh Châu hỏi)
Đáp:
Đồng (童, trẻ thơ) hiển thị ư nghĩa vô cấu,
Chân (真) nhằm ư nghĩa vạch rơ “chẳng hư ngụy”,
tức là địa vị ấy cũng ĺa khỏi sự
nhiễm đắm thế gian. Pháp Vương Tử
nghĩa là địa vị ấy cũng ngộ giải
pháp của đấng Pháp Vương, có hy vọng thừa
kế trong tương lai. Đă viên măn địa vị
Quán Đảnh th́ chính là Phật tử thật sự, có
thể hành Phật sự, giống như vương tử
trong cơi đời nhận chức, tiếp nhận lễ
quán đảnh vậy.
*
Hỏi: Giấc mộng Nam Kha (南柯)[26] là
ǵ? (Tạ Minh Châu hỏi)
Đáp:
Đấy chính là chuyện tiểu thuyết, cũng có thể
cảnh tỉnh con người khỏi mê. Nói đại
lược th́ là một người nằm mộng thấy
[chính ḿnh] đến nước Ḥe An, được quốc
vương gả con gái cho, lại được phong làm
thái thú quận Nam Kha, hiển quư tột bậc. Về sau,
do giao chiến với địch bị thất bại,
công chúa bị chết, mất sạch quyền chức. Tỉnh
giấc, thấy thân ḿnh đang nằm tựa vào cành ḥe mà
ngủ, dưới đó có một ổ kiến, mới
hiểu ra nước Ḥe An chính là [ổ kiến] ấy!
*
Hỏi: Tên gọi của địa vị Vô Học bao hàm
ư nghĩa ǵ? (Tạ Minh Châu hỏi)
Đáp:
Vô Học đồng nghĩa với danh từ “đă tốt
nghiệp từ một trường nào đó” trong hiện
thời. Đă tốt nghiệp, tự nhiên là đạt
được một học vị, ư nghĩa là như thế
đó. Tiểu Thừa chứng đắc Tứ Quả La
Hán, tức là địa vị Vô Học của Tiểu Thừa.
Đại Thừa th́ đạt đến địa vị
Phật Đà cũng gọi là Vô Học.
*
Hỏi: Trong Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật
Viên Thông Chương có câu “đô
nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế,
nhập Tam Ma Đề, tư vi đệ nhất” (nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập
Tam Ma Đề, đấy là bậc nhất). Tam Ma Đề
là ǵ? (Lại Khoan Châu hỏi)
Đáp:
Tam Ma Đề (Samadhi) là tiếng Phạn, dịch nghĩa
sang tiếng Hán thành Chánh Định hoặc Đẳng
Tŕ. Chế ngự tâm một chỗ, chẳng nắm níu bên
ngoài, đó là tướng Định. Ĺa các tán loạn, lao
chao, nên gọi là Đẳng Tŕ.
*
Hỏi: Từ Lục Dục Thiên cho đến Đệ
Tam Thiên, tuy thọ lạc, nhưng lạc chẳng thể
lâu dài, rốt cuộc sẽ bại hoại. Từ Tứ
Thiền Thiên trở lên, tuy khổ và lạc cùng mất, khó
tránh khỏi Hành Ấm chuyển dời, chưa ĺa sanh tử.
Khi phước báo trời đă hết, vẫn phải
đọa xuống. “Hành Ấm
chuyển dời” và “bại
hoại” là ǵ? (Lại Khoan
Châu hỏi)
Đáp:
Ngũ Uẩn c̣n gọi là Ngũ Ấm, tức là năm
món Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. “Hành” (行) có nghĩa là ba
nghiệp tạo tác, tâm niệm chuyển dời, luôn động,
chẳng ngừng. Món ấm ấy (Hành) tạo tác hữu
vi, lại chuyển dời, chẳng tuần hoàn, luân hồi
trong lục phàm.
*
Hỏi: Xưa kia, do ông Cổn trị thủy không xong, vua
[Thuấn] ra lệnh xử tử ông Cổn ở Vũ
Sơn thuộc vùng Đông Nam tỉnh Sơn Đông. Sau khi
chết, thần thức của ông Cổn biến thành con
ba ba có ba chân ḅ xuống vực Vũ Uyên dưới chân
núi. “Thần thức” là
như thế nào? V́ sao ngay lập tức hóa thành súc sanh, chẳng
thọ thân Trung Ấm, hay là tuân theo từng giai đoạn
của tứ sanh (thai, noăn, thấp, hóa)? (Lại Khoan Châu hỏi)
Đáp:
Kẻ đại thiện hay đại ác đều không
có thân Trung Ấm! Người văng sanh Cực Lạc sẽ
chẳng trải qua thân Trung Ấm, [kẻ đọa vào]
Ngũ Vô Gián địa ngục cũng không trải qua thân
Trung Ấm. Ông Cổn hóa thành con ba ba có ba chân, có trải qua
giai đoạn Trung Ấm hay không, chẳng thể biết
được! Bởi lẽ, trước khi Phật pháp
truyền đến Trung Hoa, các sử gia chẳng biết
cảnh giới ấy. Sách vở cũng chẳng ghi chép thời
gian [kể từ khi ông Cổn chết cho đến khi hóa
thành ba ba] dài ngắn bao lâu, chẳng thể quyết
đoán ông ta không trải qua giai đoạn Trung Ấm
được! Nói đến “tứ sanh” th́ cũng là ngôn
từ trong nhà Phật, các sử gia chẳng hiểu rơ chuyện
này; v́ thế, chẳng ghi chép tường tận. Tuy sách
chép là “hóa vi” (hóa thành), nhưng đấy cũng là cách nói theo kiểu gọt
giũa trong văn chương.
*
Hỏi: Trong Khuyến Tu Niệm Phật Pháp Môn có một
câu: “Niệm Phật tam-muội
c̣n gọi là Nhất Hạnh tam-muội”, có nghĩa là ǵ? Xin thầy khai thị. (Lại Khoan Châu hỏi)
Đáp:
Tam-muội c̣n gọi là Chánh Định. Nhất Hạnh là
tâm chuyên chú nơi một việc để tu Chánh Định,
tức là dựa theo một pháp để tu hành công phu
định lực. Cách này cũng chia thành hai loại Sự
và Lư. Lư là tâm quán, Sự là chuyên niệm Phật.
*
Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật có người nói là Thích Ca
Văn Phật, phân biệt như thế nào? (Lư Trí Viễn hỏi)
Đáp:
“Văn” là âm đọc sai của
chữ Mâu Ni (Muni). Thuở ấy, có cách phiên dịch như
vậy. Về sau, chẳng thông dụng, chẳng cần đa
sự phân biệt!
*
Hỏi: Tượng Quán Thế Âm Bồ Tát thoạt nh́n là
nữ nhân. V́ sao lại lưu truyền như thế? (Lư Trí Viễn hỏi)
Đáp:
Quán Âm Bồ Tát phổ độ chúng sanh, v́ khế cơ
nên tùy loại hóa thân. Trong phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa, có
chép ba mươi hai loại ứng thân, hoặc nam, hoặc
nữ, hoặc già, hoặc trẻ, hoặc văn, hoặc
vơ, hoặc tăng, hoặc tục, hoàn toàn chẳng nhất
định. Tượng như ông đă thấy có lẽ là
Ngài hóa thân nữ nhân.
*
Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm cành dương liễu,
lại cầm b́nh, là do ư nghĩa ǵ? (Lư Trí Viễn hỏi)
Đáp: Trong b́nh đựng pháp thủy cam lộ,
cành dương thấm nước để vẩy.
Nước nhuần thấm, lợi ích chúng sanh. Đại
ư là như thế.
*
Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát đứng trên đầu rồng,
giải thích như thế nào? (Lư
Trí Viễn hỏi)
Đáp:
Trong phần trước, tôi đă nhắc tới ba
mươi hai hóa thân, bất quá dựa theo những điều
thường biết để nói. Thật ra là trăm ngàn
khó lường. [Bồ Tát đứng trên] đầu rồng
cũng là một hóa thân vậy.
*
Hỏi: Trong phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn của
kinh Diệu Pháp Liên Hoa, có nhắc tới một vị Vô Tận
Ư Bồ Tát thưa hỏi đức Thế Tôn về nhân
duyên của Quán Thế Âm Bồ Tát. Vô Tận Ư Bồ Tát sống
vào thời nào? Có phải là hóa thân hiện đến hay
không? (độc giả ở
Hoa Liên hỏi)
Đáp:
Quán Thế Âm và Vô Tận Ư đều là Pháp Thân đại
sĩ. C̣n như trong hội Pháp Hoa, các Ngài hiện thân thuyết
pháp, là Báo Thân hay Hóa Thân, kinh chẳng nói tách bạch, chẳng
thể tùy tiện nói này nói nọ được! Chỉ
biết bậc Pháp Thân đại sĩ thị hiện thân
tướng, cùng một lúc [có thể hiện thân] số
đến vô lượng. Con số vô lượng ấy
là do chuyên v́ từng chúng sanh mà hiện, nhưng
căn cơ của chúng sanh khác nhau, cho nên thân đă hiện
ra trong một thời, đương nhiên là có tướng
Báo Thân, mà cũng có tướng Hóa Thân, tợ hồ chẳng
thể chuyên nói là một loại nào được!
*
Hỏi: Mồng Một tháng Giêng là thánh đản của
Di Lặc Bồ Tát, [ngày ấy] có phải là [nhằm lúc]
sau khi Phật Thích Ca giáng sanh, hay là thuộc nhiều kiếp
trước? (độc giả
ở Hoa Liên hỏi)
Đáp:
Phật Thích Ca và ngài Di Lặc từ nhiều kiếp
trước, vào thời Để Sa Phật, đă tu hành
cùng thời. Nay đồng thời thị hiện tại Ấn
Độ trong thế giới Sa Bà, Phật Thích Ca đă sớm
thành Phật, nên hiện thân Phật. Ngài Di Lặc vẫn
hiện thân Bồ Tát. Trước hết, Ngài sẽ thị
hiện diệt độ để đợi nối ngôi
Phật Thích Ca.
*
Hỏi: Vi Đà Bồ Tát là người thuộc triều
đại nào? Thành Bồ Tát như thế nào? (độc giả ở Hoa Liên hỏi)
Đáp:
Vị được cơi đời gọi là Vi Đà Bồ
Tát chính là một vị trong tám vị thiên tướng của
Nam Thiên Vương, Ngài chính là Vi Thiên Tướng Quân. Sách
Pháp Uyển Châu Lâm chép: “Vị
trời tên là Vi Côn, có túc nguyện (nguyện từ đời
trước) ủng hộ sự giáo hóa của đức
Phật trong ba châu Đông, Tây, Nam”. Ngài đă chẳng phải
là người Hoa trên địa cầu, làm sao thể bàn luận
Ngài là người thuộc triều đại nào!
*
Hỏi: Những người thuộc giới Phật giáo
tại Trung Hoa đều nói Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết
pháp bốn mươi chín năm. Gần đây, trên tờ
nguyệt san của Huệ Cự Xă, cư sĩ Cố Pháp
Nghiêm có dịch bài viết Sự Khải Thị Của
Đức Phật trích từ sách vở nhà Phật bằng
tiếng Anh. Trong ấy có nói: “Đức
Phật xuất gia lúc hai mươi chín tuổi, ba
mươi lăm tuổi chứng đạo, thuyết
pháp bốn mươi lăm năm”. Trong hai thuyết ấy,
thuyết nào là đúng? Hay là chẳng nên có cách suy nghĩ
phân biệt như thế? Chỉ tùy thuận nói theo cho xong!
Xin hăy chỉ dạy. (Tiên Thuần
Hiền hỏi)
Đáp:
Chuyện này thuộc loại năm tháng lâu xa, lắm
người truyền tụng, sao chép, chẳng thể nhất
trí, có lẽ là chuyện không thể tránh khỏi. Rốt cuộc
là như thế nào? Sợ rằng chưa có đủ tài
liệu. Hai mươi chín tuổi xuất gia, ba
mươi lăm tuổi chứng đạo, là do các kinh
Tăng Nhất A Hàm, Trung A Hàm, Đại Niết Bàn, Bổn
Hạnh Tập Kinh, đều nói như thế. Mười
chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo,
là do Tu Hành Bổn Khởi Kinh, Thụy Ứng Bổn Khởi
Kinh, Lục Độ Tập Kinh v.v… đều chủ
trương [như vậy]. Không chỉ là như vậy,
đối với [niên đại] đức Thích Tôn xuất
sanh, diệt độ cũng bất nhất, cách niên đại
hiện thời bao xa, cũng có nhiều điều tranh luận.
Những chuyện như vậy chẳng phải là nên phân
biệt hay không, mà là có muốn phân biệt cũng chẳng
được! Trộm nghĩ: Lũ chúng ta đă chẳng
phải là học Phật theo kiểu khảo cứu, lại
chẳng phải là chuyên gia từng trải, thông thạo,
tuy muốn hiểu vấn đề này, sợ rằng chẳng
thể làm được! Chẳng thà quăng những
điều này ra sau óc, [dốc sức] cầu liễu
đại sự.
*
Hỏi: Thường nghe người ta nói “trên trời có mười tám vị La Hán”, xin cụ
nói rơ nguồn cội của mười tám vị La Hán? (Dư Thiện hỏi)
Đáp:
Sách Pháp Trụ Kư chép mười sáu vị La Hán, tuân theo sắc
lệnh của Phật trụ thế, tế độ
chúng sanh. Do nhiều danh hiệu, chẳng tiện ghi rơ từng
vị. Sách Thập Lục La Hán Nhân Quả Thức Kiến
Tụng gồm một quyển, cũng chép về chuyện
ấy, nhưng hai sách chép danh hiệu các Ngài hơi khác. C̣n
mười tám vị La Hán là do người đời Tống
thêm vào; bởi lẽ, thuở ấy, [người
đương thời] không hiểu tiếng Phạn, chép
trùng lặp hai danh hiệu, nên thành mười tám vị. Về
sau, nhà chùa tạc tượng, có khi tạc mười sáu
vị, lại thêm ngài Di Lặc và Lương Vũ Đế
vào, tức là đă sai lầm càng sai lầm hơn nữa!
*
Hỏi: Có người nói “chẳng thể dùng dưa hấu
và thạch lựu cúng Phật”, có đúng hay không? Nếu là
thật, là do nguyên nhân nào? (Dư
Thiện hỏi)
Đáp:
Chưa hề nghe nói. Do chẳng biết, nên chẳng thể
đáp!
*
Hỏi: Hiểu trí huệ trong Phật giáo như thế
nào? (Dư Thiện hỏi)
Đáp:
Hiểu rành rẽ muôn pháp, chẳng mê, có thể ngộ Tam
Đế viên dung, gọi là Huệ. Việc khó có thể
[thực hiện] mà có thể, chuyện khó làm mà có thể
làm, tinh tấn chẳng lui sụt, ắt chứng thánh quả,
th́ gọi là Trí. Tuy nói như vậy, hàng sơ học vẫn
chẳng biết được! Nay lập phương tiện,
nói từ chỗ nông cạn. Tin sâu nhân quả, đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, chính là
Huệ. Tự thanh tịnh ư ḿnh, hiểu rơ sanh tử, tín
nguyện niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc. Đấy
chính là trí.
*
Hỏi: Trong các tự viện thông
thường, Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi ở chính giữa
[đại điện], tức Đại Hùng Bảo
Điện. Quán Âm Bồ Tát thờ trong Viên Thông Bảo
Điện. Núi Nga Mi bên Đại Lục là đạo tràng
của Phổ Hiền Bồ Tát, có phải là tự viện
trên núi Nga Mi thờ Phổ Hiền Bồ Tát ngồi chính giữa?
Nếu đúng như vậy, th́ gọi là Bảo Điện
ǵ? Địa Tạng Bồ Tát ngồi chính giữa th́ gọi
là Bảo Điện ǵ? Văn Thù Bồ Tát ngồi chính giữa
th́ gọi là Bảo Điện ǵ? (Dư Thiện hỏi)
Đáp:
Tên của điện thờ do người thông sáng
nghĩ ra, hoàn toàn chẳng có thể lệ nhất định.
Chỉ cầu sao danh và thực phù hợp th́ là hợp lẽ.
Ai dựng chùa, tạc tượng, người đó sẽ
đặt tên. Hai người ông và tôi chẳng cần phải
rỗi hơi lo chuyện bao đồng!
*
Hỏi: Phật giáo có Nam Truyền và Bắc Truyền, phân
biệt như thế nào? (Dư
Tiện hỏi)
Đáp:
Phật giáo truyền sang phương Đông, từ phía Nam
Ấn Độ truyền kinh điển Tiểu Thừa
sang các nơi như Tích Lan, Tiêm La (Xiêm La), Miến Điện
v.v… gọi là Nam Truyền Phật Giáo. Từ phương Bắc
của Ấn Độ, truyền kinh điển Đại
Thừa đến các nơi như Tây Tạng, Trung Hoa v.v…
gọi là Bắc Truyền Phật Giáo.
*
Hỏi: Số năm trong Phật lịch có phải là tính
từ lúc Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh hay không? (Dư Thiện hỏi)
Đáp:
Đúng như ông đă nghe.
*
Hỏi: “Huưnh thoát căn trần,
linh quang độc diệu”. Xin hỏi chữ Huưnh giải
thích như thế nào? (Lưu Từ
Hoa hỏi)
Đáp:
Huưnh (迥) có nghĩa là “xa xôi”, nhưng chữ nào có nghĩa của
chữ ấy. Phải đọc liên tục thành câu, lại
xét theo lối đọc cả câu, châm chước dụng
ư để nói; bởi lẽ, chữ chết cứng, câu văn
sống động. Ở đây là nói như thế, đổi
sang chỗ khác, sẽ cần phải thay đổi sang
cách diễn tả khác.
*
Hỏi: Vào hai mươi năm trước, tệ nhân từ
một sạp bán quần áo cũ bên đường, thấy
hai hạt khoáng chất h́nh bầu dục, màu hồng nhạt,
dường như to bằng hạt đậu phộng.
Trên b́nh [đựng hai hạt ấy], đề ba chữ “xá-lợi tử”. Thuở ấy,
tôi c̣n chưa tin Phật, nên chẳng biết “xá-lợi tử” là vật ǵ?
Hỏi chủ nhân th́ họ cũng không biết lai lịch
và công dụng. Do hiếu kỳ mà giá lại rẻ, bèn mua về
cất. Từ sau khi tin Phật, từng đến chiêm
ngưỡng khá nhiều xá-lợi tử, nhưng thể
chất của chúng đều khá nhỏ, c̣n xá-lợi tử
do tôi cất giữ to hơn một xăng-ti-mét! Giám định
chân ngụy như thế nào, xin hăy chỉ dạy! (Có thể
gởi đến Ngài nhờ giám định giùm hay không)? (Lâu Vĩnh Dự hỏi)
Đáp: Xá-lợi như tại hạ được
thấy, ngoại trừ những viên đă được
thờ phụng trong tự viện từ trước, đều
là cổ vật. Lúc ấy, c̣n chưa có chuyện cậy
vào khoa học để làm giả; hễ trông thấy bèn lạy,
không có tâm phân biệt. Những xá lợi được thấy
hiện thời cũng là thu được sau khi hỏa
táng thầy hoặc bạn, càng chẳng từng dấy lên
quan niệm phân định, mà thấy cũng chẳng nhiều.
Theo như sách vở ghi chép, [xá-lợi] kiên cố, bất
hoại, ai chịu [đem xá-lợi] làm thí nghiệm. Đối
với chuyện lớn, nhỏ, màu sắc, sự sáng nhuận
chẳng giống nhau, chẳng thể căn cứ vào đó
để biện định chân, ngụy. Tôi biết
như thế mà thôi, hoàn toàn chẳng có nhăn lực giám định,
phân biệt. Mong hăy khéo ǵn giữ, thưa hỏi người
hiểu biết khác.
*
Hỏi: Nghe nói có một bài chú Xá Lợi có thể khiến
cho số lượng xá-lợi tử tăng thêm. Xin hăy chỉ
dạy cách tŕ bài chú ấy như thế nào? (Lâu Vĩnh Dự hỏi)
Đáp:
Mật pháp và chú chủng loại quá nhiều, hoàn toàn chẳng
phải hễ là kẻ học Mật đều biết
các chú! Quả thật tôi chưa từng học pháp môn ấy,
hoàn toàn chẳng phải là mượn cớ thoái thác, do tiếc
nuối mà chẳng chịu thí pháp!
*
Hỏi: T́m kiếm trong tự điển, chữ Kiếp (刦) có
nghĩa là cưỡng đoạt lấy, chiếm giữ,
thường viết là Kiếp (劫). Kiếp (劫)
là chữ Kiếp (刦) được viết theo lối thông tục. Kiếp
(刼), kiếp (刦), kiếp (劫), kiếp (刧) hoàn toàn như nhau. [Hiểu theo nghĩa thông thường],
Kiếp (劫) là cưỡng lấy, chiếm đoạt, ỷ
thế ức hiếp; tai ách gọi là Kiếp (劫).
Kinh Phật nói một giai đoạn thời gian bao gồm
một [giai đoạn] thành, một [giai đoạn] hoại
th́ gọi là một Kiếp (劫). Tôi đọc
kinh khá nhiều, thấy đều viết là Kiếp (劫),
như A-tăng-kỳ kiếp (阿僧祇劫)… Xin hỏi: Đấy có phải là do nhà Phật chẳng
muốn thấy có các nỗi khổ chiến tranh, nên nhất
loạt dùng chữ Kiếp (劫) có chữ Lực
(力) bên cạnh. Đệ tử Phật môn trong các bài
phát biểu đăng trên các ấn phẩm Phật giáo, có
người dùng chữ Kiếp (刦), có người
dùng chữ Kiếp (劫), hoặc Kiếp (刼), có phải là
chẳng hợp lư hay chăng? (Hùng
Thanh Tuấn hỏi)
Đáp:
Tiếng Phạn là Kiếp-ba (Kalpa), [dịch sang nghĩa]
tiếng Hán là Thời Phần, chỉ là dịch âm, chẳng
dịch ư nghĩa. Trong sách tiếng Hoa, bất luận kinh
luận hay những các tác phẩm thuộc nhiều thể
loại khác nhau, khi dùng chữ này, cũng là sử dụng
theo âm đọc. Tuy có những chữ Kiếp khác nhau,
nhưng đó là vấn đề phiên bản, hoàn toàn chẳng
có ư nghĩa chi khác!
*
Hỏi: Bồ Tát thượng cầu, hạ hóa, mong cầu
viên thành Phật quả rốt ráo. Quả ấy trọn
đủ ba đức:
-
Một là viên măn Nhất Thiết Chủng Trí, bèn gọi là
Bát Nhă.
-
Hai là vượt thoát tam chướng, trọn
đủ hết thảy công đức, gọi là Pháp Thân
(Tam Chướng trong ấy là nói đến ba loại
chướng nào?)
-
Ba là diệt sạch hết thảy các khổ, thoát ĺa hai
thứ sanh tử Phần Đoạn và Biến
Dịch, gọi là Giải Thoát (Phần Đoạn và Biến
Dịch có nghĩa là ǵ). (Hứa
Lệ Hoa hỏi)
Đáp:
Tam Chướng chính là khởi Hoặc, tạo nghiệp,
thọ khổ. “Chướng”
là chướng ngại sự tiến triển nơi thánh
đạo, và tổn hại thiện tâm, khiến cho nó chẳng
phát sanh. Khởi Hoặc chính là phiền năo tham, sân, si. Tạo
Nghiệp là tạo bảy chi tội như giết, trộm,
tà dâm v.v… Thọ Khổ chính là báo thân đọa trong tam
đồ. C̣n như Phần Đoạn Sanh Tử th́ chính
là phàm phu luân hồi trong lục đạo, chết trong
đường này, sanh trong đường kia. Trong mỗi
đường, có thời hạn tồn tại trong
đường ấy khác biệt. Ngay trong một đường,
cũng là thiên sai vạn biệt, hưởng thụ chẳng
giống nhau. V́ thế gọi là Phần Đoạn. Người
hóa thân văng sanh Tịnh Độ và bậc đại tu hành
đoạn Hoặc, hai hạng người ấy chưa
chứng Phật quả, đều cần phải mong tiến
cao hơn, đoạn bao nhiêu phẩm Hoặc, quả vị
sẽ tự nhiên tăng cao hơn, cảnh giới chẳng
giống như trước, nên gọi là Biến Dịch.
La Hán chia thành bốn quả, Bồ Tát có bốn mươi
mốt tầng cấp. Vượt khỏi cấp này, dự
vào cấp kia, giống như “chết
đây, sanh kia”, thật sự chẳng giống như
thọ mạng dài ngắn của phàm phu, thay đổi
thân h́nh trong lục đạo.
*
Hỏi: “Buông xuống toàn thể
thân, tâm, thế giới để làm phương tiện
siêu phương đặc đạt”. Xin hỏi bốn
chữ “siêu phương đặc
đạt” giải thích như thế nào? (Lư Nhất Quang hỏi)
Đáp:
Trong câu hỏi, ông chưa nêu rơ [câu nói ấy] xuất phát từ
kinh điển nào, mà cũng chưa thấy những câu
văn trước và sau đó, sợ sẽ trả lời
trái nghĩa, chỉ dựa theo mặt chữ để giải
thích mà thôi. “Siêu phương”
(超方) là vượt khỏi các phương pháp, chẳng
bị hạn cuộc trong một khuôn khổ nào! “Đặc đạt” (特達) có nghĩa gốc là “khuê
chương đặc đạt”, [nghĩa là] khi dùng lễ
mời ai, sai sứ giả đặc biệt cầm ngọc
khuê chương[27]
đến chuyển đạt lời mời, chẳng cần
phải thêm những thứ ngọc khác. Về sau, [chữ
“đặc đạt”] diễn
biến thành ư nghĩa nói đến “người xuất
chúng”, rồi lại trở thành ư nghĩa “đặc biệt
nhận được lời ca ngợi nồng nhiệt”.
Suy nghĩ kỹ càng câu trên đây, dường như là [có
ư nói] “ắt cần phải buông xuống hết thảy
th́ mới có thể nhanh chóng vượt thoát, đạt
đến quả tột cùng”.
*
Hỏi: Có kẻ nói xá-lợi là do Tinh, Khí, Thần ngưng
kết thành, chẳng biết đích xác hay không? (Ngô An Minh hỏi)
Đáp:
Cổ nhân nói như vậy, kẻ hèn này học vấn nông
cạn, chẳng hơn cổ nhân, cũng không có cách giải
thích mới mẻ nào!
*
Hỏi: Xá-lợi có h́nh dạng như một viên đá nhỏ,
gồm nhiều hạt, có mấy chục hạt chẳng
giống nhau, nhưng chẳng biết ẩn tại chỗ
nào trong thân thể, làm sao có thể an nhiên, chẳng bệnh
tật ǵ? (Ngô An Minh hỏi)
Đáp:
Trước kia chẳng có, nay lại có. Trời đổ
mưa lớn, mưa từ mây ra. Khi trời quang đăng
không mây, mưa cất chứa ở chỗ nào?
*
Hỏi: Tượng Chuẩn Đề Bồ Tát và tượng
Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Âm Bồ Tát rất giống nhau, chẳng
biết phân biệt theo cách nào? (Ngô
An Minh hỏi)
Đáp:
Thiền Tông coi Chuẩn Đề Bồ Tát là một [hóa
thân] của Quán Âm. Đông Mật nói Chuẩn Đề là một
trong sáu vị Quán Âm[28],
thuộc về Liên Hoa Bộ. Đài Tông (tông Thiên Thai) gọi
Ngài là Phật Mẫu. Nói chung, Thánh Quán Âm ở Tây
Phương Cực Lạc là tổng thể, hoặc hóa
thành sáu vị, hoặc hóa thành hai mươi ba vị, mà Chuẩn
Đề là một trong số đó. Theo như cổ
đức giải thích, tượng ngàn mắt ngàn tay th́
là Thiên Thủ Quán Âm; tượng có ba mắt, mười
tám tay th́ gọi là Chuẩn Đề Quán Âm.
*
Hỏi: Quán Âm Bồ Tát hóa thân tuy nhiều, các h́nh tượng
được thờ phụng chủ yếu là nữ. Nếu
nữ nhân lập tông, nam nhân tham gia, là chuyện b́nh thường.
Trước nay cũng chưa hề nói có Quán Âm Tông, danh từ
Liên Tông do đâu mà có? (Lưu
Chánh B́nh hỏi)
Đáp:
Các tượng Quán Âm vẽ hoặc đắp có [h́nh
tướng] nam, có [h́nh tướng] nữ, tùy thuộc ư
nguyện của người tin tưởng mà thờ phụng,
hoàn toàn chẳng có thuyết “lấy tượng nữ làm
chủ”. Nói đến chuyện lập tông th́ đều
là do các vị tổ sư đời trước toàn là những
bậc hữu chứng lập ra, ắt phải
nương vào kinh điển, mở đạo tràng hoằng
pháp, độ chúng sanh rất nhiều, được Phật
giáo công nhận th́ mới có thể xưng [là tông], hoàn toàn
chẳng phải do chính ḿnh ham muốn, tùy tiện nói này nói
nọ được! Bậc lập tông là tổ sư,
trên là tiếp nối đức Phật, có truyền thừa,
há có phải là hạng bộp chộp? Lại kính cẩn
thanh minh, nếu hỏi về chuyện ngoại đạo,
tôi sẽ tránh né chẳng bàn tới. Nếu chỉ liên quan
đến Phật giáo, th́ như luật nghi đă định,
chúng xuất gia chẳng được phép kết hôn, c̣n
chúng tại gia th́ thuận theo tự nhiên.
*
Hỏi: Phật giáo truyền đến Trung Hoa vào thời
nào? Do ai truyền đến? Cho đến hiện thời
đă được bao nhiêu năm? (độc giả ở Đài Trung hỏi)
Đáp:
Phật giáo chẳng phải là truyền sang, mà là dưới
triều đại Minh Đế của nhà Đông Hán, [nhà
vua] đă sai người cầu [tăng sĩ Thiên Trúc qua
Trung Hoa] truyền pháp. Theo sử truyện, các vị đến
trước hết, một là tôn giả Ca Diếp Ma Đằng,
hai là tôn giả Trúc Pháp Lan, đến nay khoảng chừng
hai ngàn năm.
*
Hỏi: Trước cửa tự viện đặt
sư tử bằng đá, biểu thị điều ǵ? (độc giả ở Đài
Trung hỏi)
Đáp:
Chẳng riêng ǵ cửa tự viện có sư tử đá,
mà trước các cung điện và cửa nhà các thân sĩ
tại Trung Hoa cũng đều có vật ấy, cớ
sao lại cứ riêng hỏi về tự viện?
*
Hỏi: Chuỗi tràng hạt có hai mươi chín hạt, hoặc
một trăm lẻ tám hạt, biểu thị điều
ǵ? (độc giả ở
Đài Trung hỏi)
Đáp:
Phổ biến nhất là con số một trăm lẻ
tám hạt và mười tám hạt. Từ hai mươi hạt
trở lên, chỉ nghe nói có hai loại là hai mươi mốt
hạt và hai mươi bảy hạt. Hai mươi chín hạt
tôi chưa từng thấy, mà cũng chưa từng nghe, chẳng
thể vâng mạng trả lời được! Đối
với tràng hạt gồm một trăm lẻ tám hạt,
ư tôi cho rằng [con số ấy biểu thị] “đoạn
trừ một trăm lẻ tám phiền năo, chuyển thành
một trăm lẻ tám Bồ Đề”.
*
Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật nói: “Thiên
thượng thiên hạ, duy ngă độc tôn” giải
thích như thế nào? (độc
giả ở Đài Trung hỏi)
Đáp: “Thiên thượng”
là nói tới các tầng trời thuộc về Dục Giới,
Sắc Giới, Không Giới (Vô Sắc Giới), “thiên hạ” là nói tới cơi
người và địa ngục. “Ngă” là từ ngữ do Phật Thích Ca tự
xưng (đây chỉ là nói thô thiển. [Từ ngữ này]
c̣n bao hàm những nghĩa khác, kẻ sơ học chẳng
hiểu, nên chẳng tiện nói sâu). “Độc tôn” nghĩa là thầy của mọi
chúng sanh trong thế gian, chẳng ai có thể vượt trỗi
đức Phật.
*
Hỏi: Chuỗi hạt niệm Phật gồm một
trăm lẻ tám viên, rốt cuộc là ư nghĩa như thế
nào? (Trác Trung Chấn hỏi)
Đáp:
Số hạt trong xâu chuỗi có nhiều loại. Một
trăm lẻ tám hạt nghĩa là “đoạn một
trăm lẻ tám phiền năo, chuyển thành một trăm
lẻ tám món Bồ Đề”. Câu hỏi loại này trong mục
vấn đáp trước đây đă được
đăng tải nhiều lần. Nếu muốn biết
tường tận, xin hăy tra duyệt, sẽ biết!
*
Hỏi: Bốn chữ Lâm Tế Chánh Tông có phải là danh
xưng của một bộ phận trong Thiền Tông hay
không? (Trác Trung Chấn hỏi)
Đáp:
Thiền Tông từ Đạt Ma Tổ Sư, trải qua
năm đời, truyền đến ngài Hoằng Nhẫn.
Dưới tổ Hoằng Nhẫn là hai vị đệ tử,
tức là Thần Tú và Huệ Năng. Tổ Thần Tú là Bắc
Tông; tổ Huệ Năng là Nam Tông. Về sau, Bắc Tông chỉ
có một, Nam Tông có năm nhà (năm chi phái), hoặc bảy
nhà sai khác. Trong năm nhà, một là tông Quy Ngưỡng, hai
là tông Lâm Tế… Tổ của tông Lâm Tế là đại
sư Nghĩa Huyền. Danh xưng Lâm Tế do đấy
là có, thuộc về Thiền Tông Nam Phái. Do ông không hỏi ba
tông kia, nên tôi lược đi không nói!
*
Hỏi: “Tứ vạn lục
thiên nhật (tạp ngữ)
là một loại trong các duyên nhật của Phật, Bồ
Tát v.v…. Trong ngày hôm ấy, kẻ đến tham bái chùa miếu
và tham bái tứ vạn lục thiên nhật có cùng một
công đức. Nhưng đa số vẫn chuộng duyên
nhật của Quán Âm Bồ Tát, tức là ngày mồng Mười
tháng Bảy âm lịch!” (trích từ Phật Học Từ
Điển, trang năm trăm năm mươi bảy). Theo
như tôi được nghe, duyên nhật xuất gia của
Quán Âm Bồ Tát là ngày Mười Chín tháng Chín âm lịch. Chẳng
biết ngày mồng Mười tháng Bảy có phải là
ngày thành đạo hay không? Có phải ngày Mười Chín
tháng Sáu là ngày thánh đản [của Quán Thế Âm Bồ
Tát] hay không? Có phải ngày Mười Chín tháng Hai là ngày Ngài
trăm tuổi (nhập Niết Bàn) hay không? Ba vạn sáu
ngàn ngày, cộng thêm một vạn ngày nữa[29],
có phải là giống như Địa Tạng Vương
Bồ Tát cứu độ chúng sanh trong đường
địa ngục hay không? (Cao
Tân Phát hỏi)
Đáp:
Những ngày có liên quan đến Phật và Bồ Tát
được sách vở ghi chép là ngày thánh đản, xuất
gia, thành đạo, duyên nhật v.v… liệt kê rành rẽ
thành bốn sự. Mỗi chuyện đều có tánh chất
riêng biệt, chớ nên lẫn lộn. “Duyên nhật” là ngày để chúng sanh trong thế
giới Sa Bà kết duyên với Phật, Bồ Tát. Chuyện
ấy cũng chẳng thấy được ghi chép trong
kinh. Khởi đầu từ thiền sư Ngũ Tổ
Giới, đă phân định ba mươi ngày [trong một
tháng âm lịch] để lạy ba mươi vị Phật,
Bồ Tát, nhằm kết duyên cùng Phật, Bồ Tát. Đấy
chính là ngày tốt lành, gặp chuyện thù thắng, khuyên
chúng sanh hằng ngày kính Phật, sẽ được cát tường.
Lại cần nên biết: Hễ sách chép là ngày nào, tháng nào
đó, phát sanh chuyện chi đó, chẳng thể chỉ dựa
theo lịch Trung Hoa để phán định cho phù hợp.
Bởi lẽ, lịch pháp các nước xưa nay sai khác
muôn ngàn, lại c̣n luôn luôn biến đổi, không có cách nào
khiến cho chúng phù hợp [khít khao với nhau] được.
Chỉ là dựa vào lịch đương thời của
nước ḿnh, ghép thêm các danh hiệu, quyền biến
định ra một ngày để làm kỷ niệm. Đối
với chuyện này, vẫn phải nên kiền thành, cung
kính, chẳng chú trọng khảo cứu xác thực.
*
Hỏi: Đối với các danh xưng như tự, miếu,
am, sát, tinh xá, động, các, quán (vốn thuộc Đạo
giáo), cung, điện v.v… phân biệt bằng cách nào? Họ
dựa vào đâu để đặt tên? (Lưu Chánh B́nh hỏi)
Đáp:
Những vật kiến trúc phần lớn dựa vào những
nơi chốn công hoặc tư của Trung Hoa để mượn
dùng [các danh xưng ấy]. Như sáu thứ cung (宮),
điện (殿), tự (寺), miếu (廟), các (閣), quán (觀), đều là tên gọi chung của công thự. Chỗ
ở của bậc đế vương gọi là Cung, chỗ
để bàn chánh sự gọi là Điện, chỗ cúng tế
tổ tiên và thần thánh gọi là Miếu. Như Chiêu
Dương Cung, Hàm Nguyên Điện, Tông Miếu, Thái Miếu
chẳng hạn! Tên gọi của các công sở, phủ thự
của quan lại mỗi mỗi khác biệt, gọi là Tự,
Quán, Các…. như Hồng Lô Tự, Bạch Hổ Quán,
Đông Quán, Văn Uyên Các v.v… Am (庵) và xá (舍) đều
có nghĩa là căn pḥng nhỏ. Động (洞) là
một khu vực vây kín trong rừng núi. Đối với
chỗ ở của tư nhân, phần nhiều dùng danh
xưng này. Sát (剎) chỉ là nói tới nơi chốn, chẳng phải
là tên gọi nhất định. Về sau, diễn biến
thành chữ Tự chuyên dùng trong nhà Phật, Quán dành cho Đạo
giáo, những danh từ khác đều dùng lẫn lộn.
*
Hỏi: Phật miếu của Tam Giáo Nhất Tông (Thích,
Đạo, Nho (Lư giáo, chẳng phải là Nho giáo)). Chiếu
theo lệ thường, chỉ có thể gọi là Nho học,
gộp chung với hai giáo Thích và Đạo có thích đáng
hay không? Xét theo đại lễ và nhân luân, đối với
hai giáo Thích và Đạo, [việc gộp chung] như vậy
có ảnh hưởng hay không?) Do ai sáng lập trước
hết? Khởi đầu từ thời nào? Có liên quan
đến Bạch Liên Xă do Huệ Viễn đại
sư đời Tấn thành lập tại Lư Sơn hay
không? Ngoài ra, tôi c̣n thấy ghi chép: Vào cuối đời
Minh, đầu đời Thanh, có kẻ sáng lập Tam Giáo
Nhất Tông, có phải động cơ (motivation) là “phục Hán, diệt Thanh” hay
không? Về sau, h́nh thành các tầng cấp tam giáo, cửu
lưu sai khác trong tư tưởng xă hội, có phải là
do căn cứ vào điều này hay không? (Lưu Chánh B́nh hỏi)
Đáp:
Giáo ắt phải có kinh điển, ắt phải có giáo
nghĩa chuyên biệt. Mỗi giáo tuân theo giáo nghĩa của
chính ḿnh, thuần là một giáo của họ. Giáo này kính
giáo kia, giáo kia kính giáo này. Đôi bên kính trọng lẫn nhau,
đó là coi trọng lễ vậy. Tuân theo nghĩa lư trong
kinh của giáo ḿnh, chẳng báng bổ kẻ khác. Đôi bên
giữ lễ, chẳng tu đạo khác. Đấy là
người dân trong nước vâng giữ pháp tắc, chẳng
xâm phạm lẫn nhau. Tự do tin theo tôn giáo, đó là
người có đạo vậy. Trái nghịch nguyên tắc
ấy, mặc t́nh ḥa trộn, chẳng tránh khỏi nháo
nhào, khiến cho tai mắt mê muội! Nhào nặn loạn xạ,
chẳng ṛng rặt, nếu hỏi là có thích đáng hay
không, hễ bàn đến, sẽ trở thành chuyện thị
phi! Kính khuyên ngài trước hết hăy cầu lập vững
cái gốc cho chính ḿnh, tạm thời dẹp sạch những
chuyện khác. Tổ sư Huệ Viễn là bậc thánh hiền
đă chứng quả, há làm chuyện xằng bậy ấy?
Đừng kéo bừa Ngài dính dáng vào chuyện này! Những
điều khác đều chẳng phải là đúng, chẳng
đáng để nghiên cứu!
*
Hỏi: Định nghĩa của Tam Giáo Nhất Tông là ở
chỗ nào? Chữ Nhất Tông chỉ điều ǵ? (Lưu Chánh B́nh hỏi)
Đáp:
Tôi chưa hề đọc sách của tông ấy. Kẻ chẳng
biết, sẽ chẳng dám nói bừa! Kẻ vọng ngôn, ắt
có vọng tâm. Kẻ có vọng tâm điên đảo tạo
nghiệp, tức là có nghiệp hệ khổ. Tam giới
mênh mông, tam đồ đáng sợ. Dẫu họ có sách vở,
tôi cũng chẳng muốn xem!
*
Hỏi: Tông chỉ của hai giáo Thích và Đạo chẳng
tương đồng, sống trong cùng một chùa có xung
đột hay không? Có phải là người b́nh phàm có thể
tín ngưỡng tư tưởng của hai tôn giáo trên
đây hay không? Tăng ni sống trong chùa, đạo nhân sống
trong Quán, rành rành là tách rời, có thể hay không? (Lưu Chánh B́nh hỏi)
Đáp:
Xét kỹ giọng điệu của Ngài, dường
như là có câu hỏi về những chuyện này, là v́ tâm
chẳng nghĩ là đúng. Nếu không, cần ǵ phải mất
công thưa hỏi? Trạng huống này, đối với
bậc đại quyền Bồ Tát, [có thể] ḥa hợp,
nhưng chẳng thuận theo th́ chưa hề chẳng phải
là không được! Nếu không, gần son th́ đỏ,
gần mực th́ đen, nhuốm xanh, nhuốm vàng, rốt
cuộc là ai có thể hóa độ, ai là người
được hóa độ, hoặc hóa độ lẫn
nhau, đều chẳng phải là bản chất.
*
Hỏi: Cách đặt tên Bát Quái Thiền Tự (Bát Quái là
Đạo, Thiền là Phật) có thích đáng hay không? Bát
Quái Thiền Tự xưng là miếu của Tam Giáo Nhất
Tông th́ có được hay không? (Lưu
Chánh B́nh hỏi)
Đáp:
Danh chẳng chánh, ắt lời lẽ chẳng thuận, sự
sẽ chẳng thành. Khổng Tử dạy như thế
đó. Nếu là một kẻ b́nh phàm, chuộng thờ phụng
nhiều thần, đừng làm các điều ác, vâng làm
các điều thiện, chỉ cầu phước báo, vẫn
tốt hơn nhiều so với kẻ nhàn cư bất thiện.
Nếu là người đă chánh thức xuất gia, giới
luật của các giáo phân minh, cần ǵ phải chơ miệng
vào chuyện của kẻ khác?
*
Hỏi: Chùa miếu có thể treo cao Bát Quái hay không? Bên trong chùa,
treo biển cảnh cáo “có chó dữ, cấm người không
phận sự bước vào”. Đạo tràng có thể thuộc
về tư nhân hay không? Hay là thuộc quyền sở hữu
riêng của một tài đoàn[30]? (Lưu Chánh B́nh hỏi)
Đáp:
Đấy là vấn đề pháp luật, tôi già cả,
tích cực chuẩn bị cho ngày Ba Mươi tháng Chạp,
chẳng rảnh rang để đọc Lục Pháp Toàn
Thư[31]. Đối với
vấn đề tài sản, càng không có hứng thú, v́ nghèo
kiết xác, chẳng có mảnh đất cắm dùi, làm sao
quan tâm đến chuyện quyền lợi cho được?
Chuyện này ông hăy nên trưng cầu bậc chuyên gia phúc
đáp, để tránh phải miễn cưỡng “không biết
mà làm ra vẻ hiểu biết”, nói năng chẳng đâu
vào đâu, c̣n tạo thành khẩu nghiệp.
*
Hỏi: Ngày hôm nay là thánh đản Dược Sư
Như Lai, tôi cung kính tụng Tiêu Tai Diên Thọ Dược
Sư Kinh, nẩy sanh những điều nghi vấn
như sau: “Nhất thời, Bạc
Già Phạm du hóa chư quốc, chí Quảng Nghiêm thành, trụ
Nhạc Âm thụ hạ, dữ đại bật-sô chúng,
bát thiên nhân câu” (Khi ấy, đức Thế Tôn du hóa các
nước, đến thành Quảng Nghiêm, ở dưới
gốc cây Nhạc Âm, cùng với các vị đại tỳ-kheo,
tám ngàn người nhóm họp). Đối với chữ Bạc
Già Phạm (薄伽梵), tôi biết chính là chữ Bà Già Bà (婆伽婆, Bhagavān), dịch thành Thế Tôn, v́ sao Phật
Học Từ Điển ghi là Bạc Ca Phạm (薄迦梵). Chữ 樂 có âm đọc là Lạc (洛, lụ) hay là Ngạo
(傲, ào)? Đại Bật Sô (大苾蒭) chính
là Đại Tỳ Kheo, có phải âm đọc là Tất
Sô (必蒭, b́ chú) hay không? (Hùng
Thanh Tuấn hỏi)
Đáp:
Từ âm tiếng Phạn phiên âm sang tiếng Hán, chẳng phải
là do một người dịch, mà cũng chẳng phải
là dịch cùng một chỗ, cùng một thời. Phiên âm
sang tiếng Hán do người (phiên dịch), nơi chốn,
thời điểm khác nhau, đều có sự biến
hóa, cho nên phiên dịch khác nhau, do có mối quan hệ với
sự phát âm khác nhau. Tôi dùng một thí dụ gần nhất
để chứng tỏ: Chữ Khách (客),
người đất Lỗ (Sơn Đông) đọc là
Khắc (克, kēi), người phương
Nam đọc thành âm Khóa (課, kè), người
xứ Yên Tân[32] đọc
là Thiết (切, qiē). Đối với tên của nước
Đức (Deutschland) ở châu Âu, âm gần nhất là Đặc Dĩ Tŕ Lam Đế
(特以持藍諦, dè yǐ chí lán d́), Trung Hoa phiên âm thành Đức Ư
Chí (德意志, dé ý zh́), Nhật Bản phiên âm thành Độc Dật
(独逸, Doitsu), những trường hợp
như vậy khó thể kể xiết! Bà Già Bà và Bà Già Phạm
âm khác nhau, nhưng sự việc chẳng khác nhau. Tỳ-kheo
và Tất Sô cũng thế. Chữ 樂 trong “Nhạc Âm thụ” tuy không có âm tiếng Phạn,
nhưng hiểu là Hoan Lạc hay Âm Nhạc đều hợp
lư, kẻ hèn này chẳng dám chấp nhất.
*
Hỏi: “Đệ cửu
đại nguyện, nguyện ngă lai thế, đắc Bồ
Đề thời, linh chư hữu t́nh, xuất ma quyến
vơng, giải thoát nhất thiết ngoại đạo triền
phược…” (Đại nguyện thứ chín, nguyện
tôi trong đời sau, khi đắc quả Bồ Đề,
sẽ khiến cho các hữu t́nh, thoát khỏi lưới rập
ma, giải thoát hết thảy sự trói buộc của
ngoại đạo), chữ “罥” trong ấy
có âm đọc như thế nào? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)
Đáp:
Chữ “罥” có các
âm đọc Khuyển (畎), Quyến
(絹) v.v… ư
nghĩa như nhau, nên hiểu [chữ ấy có] nghĩa là
buộc hay vướng mắc.
*
Hỏi: “Đệ tam đại
nguyện, nguyện ngă lai thế,
đắc Bồ Đề thời… mạc linh chúng sanh, hữu
sở chi thiểu” (Đại nguyện thứ ba, nguyện
tôi trong đời sau, khi đắc quả Bồ Đề…
chẳng để cho chúng sanh có chỗ thiếu thốn).
Dường như chữ Chi (之) là chữ
Phạp (乏) phải
không? (Hùng Thanh Tuấn
hỏi)
Đáp:
Đây là vấn đề văn bản. Kẻ hèn này ở
nơi đất khách, chẳng có một bản hoàn thiện,
chẳng thể so sánh, suy xét được, không thể nào
quyết định!
*
Hỏi: “Phục thứ, Mạn
Thù Thất Lợi! Nhược hữu tứ chúng bật
sô, bật sô ni, ô ba sách ca, ô ba tư ca, cập dư tịnh
tín thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, hữu
năng thọ tŕ bát phần trai giới, hoặc kinh nhất
niên, hoặc phục tam nguyệt, thọ tŕ học xứ…
sấu luyến, càn tiêu, hoàng nhiệt đẳng bệnh…”
(Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Nếu có tứ chúng
tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu bà tắc, ưu bà di, và các
thiện nam tử, thiện nữ nhân có ḷng tin trong sạch
khác, có thể thọ tŕ tám phần trai giới, hoặc suốt
một năm, hoặc là ba tháng, thọ tŕ học xứ… gầy
ṃn, tay chân co quắp, khô khát[33], bệnh
hoàng, bệnh nhiệt v.v…), chữ “癴” đọc như thế
nào? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)
Đáp:
Chữ Luyến (癴) giống
như chữ Luyến (攣), đọc
như chữ Luyến (戀), b́nh
thanh.
*
Hỏi: “Phục thứ, Mạn
Thù Thất Lợi, nhược chư hữu t́nh, xan tham, tật
đố, tự tán, hủy tha… vĩnh đoạn ma quyến,
phá vô minh xác…” (Lại này, Văn Thù Sư Lợi! Nếu
các hữu t́nh, keo kiệt, tham lam, ganh ghét, khen ḿnh, chê
người… vĩnh viễn đoạn dứt bẫy rập
của ma, xé toang cái vỏ vô minh). Chữ Quyến (罥) trong ấy có đồng
âm với [chữ Quyến trong] phần trước đó
hay không? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)
Đáp: Cùng một chữ, đồng âm, đồng
nghĩa [với chữ Quyến] trong câu hỏi thứ hai.
*
Hỏi: “Nhĩ thời, Mạn
Thù Thất Lợi đồng tử bạch Phật ngôn: -
Thế Tôn! Ngă đương thệ ư Tượng Pháp
chuyển thời, dĩ chủng chủng phương tiện,
linh chư tịnh tín, thiện nam tử, thiện nữ
nhân đẳng, đắc văn Thế Tôn Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, năi chí thụy
trung, diệc dĩ Phật danh, giác ngộ kỳ nhĩ…
tùy sở nhạo cầu” (Khi ấy, đồng tử
Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng:
- Thưa đức Thế Tôn! Con thề sẽ vào thời
Tượng Pháp chuyển, dùng các thứ phương tiện
khiến cho các hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân có
ḷng tin trong sạch đều được nghe danh hiệu
của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, cho đến trong khi ngủ, cũng dùng danh
hiệu ấy giác ngộ bên tai họ… thuận theo ḷng ưa
thích, mong cầu của họ). Chữ “樂”
trong ấy đọc âm là Lạc hay Ngạo? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)
Đáp:
Ở chỗ này, có ư nghĩa “ham thích”, giống như câu “nhân giả nhạo sơn, trí giả
nhạo thủy” (người nhân thích núi, kẻ trí thích
nước) trong Luận Ngữ. Kẻ hèn này là người
phương Bắc, đọc chữ này gần giống
như âm Diệu.
*
Hỏi: “Tức nhập Định
dĩ, ư nhục kế trung, xuất đại quang
minh, quang trung diễn thuyết đại đà-la-ni: - Nam
mô bạt già phạt đế, bệ sát xă, cũ rô bệ
lưu ly, bát lạt bà, hát ra xà dă… tam một yết đế
sa ha” (Đă nhập Định rồi, từ trong nhục
kế, tỏa ra quang minh lớn, trong quang minh diễn nói đại
đà la ni: “Nam mô bạt già phạt đế, bệ sát xă,
cũ rô bệ lưu ly, bát lạt bà, hát ra xà dă… tam một
yết đế sa ha”). Chữ “窶”[34] đọc
là Cự (巨) hay là Lũ (婁)? Dường như trong câu “chung lũ thả bần” (終窶且貧, đă sống ở chỗ sơ sài, thô kệch, lại
c̣n nghèo nàn), đọc theo cách thứ hai phải không? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)
Đáp:
Chân ngôn là tiếng Phạn. Muốn học tập, ắt
phải được Kim Cang Thượng Sư đích thân
truyền dạy cách đọc rồi tụng theo âm đă
được truyền dạy, chớ khởi tâm phân biệt.
Đấy là quy củ trong Mật pháp. Nhưng vị
Thượng Sư ắt phải tinh thông tiếng Phạn,
mà tiếng Phạn th́ cũng mỗi người đọc
một kiểu, hoàn toàn chẳng nhất trí, do thời gian,
nơi chốn sai khác mà ra. Nay tôi nêu một trường hợp
để làm chứng, các vị Thượng Sư Mông Cổ
và Tây Tạng truyền dạy chú Lục Tự Đại
Minh là chú phổ biến nhất[35],
nhưng cách phát âm đều không giống nhau.
*
Hỏi: “Nhĩ thời, chúng
trung hữu nhất Bồ Tát Ma Ha Tát, danh viết Giải
Thoát, tức tùng ṭa khởi… nhiên bỉ tự thân, ngọa
ư bổn xứ, kiến Diệm Ma sứ… năi chí tứ
thập cửu nhật, quang minh bất tuyệt, tạo
ngũ sắc thái phan, trường tứ thập cửu kiệt
thủ...” (Khi ấy, trong hàng đại chúng có một vị
Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Giải Thoát liền từ chỗ ngồi
đứng dậy… nhưng bản thân người đó,
nằm ở chỗ ḿnh, thấy sứ giả của vua
Diễm La… cho đến bốn mươi chín ngày, quang
minh chẳng dứt, tạo phan lụa năm màu, dài bốn
mươi chín sải tay), chữ 琰 trong ấy có phải
đọc thành âm Viêm (炎), thượng thanh. Chữ “搩” đọc như
Kiệt (桀) hay không? (Hùng Thanh Tuấn
hỏi)
Đáp:
Diệm Ma (琰魔) tức là Diêm La (閻羅). Diệm
đọc theo giọng thượng thanh, c̣n Diêm đọc
b́nh thanh, đủ chứng tỏ phát âm không giống hệt
như nhau. Chữ Kiệt (搩)[36]
[được từ điển chú âm] là Tri Hách thiết
(tức Trách), âm đọc gần giống như chữ
Chất, nhập thanh.
*
Hỏi: Cung Tỳ La đại tướng, Phạt Chiết
La đại tướng, Mê Xí La đại tướng,
An Để La đại tướng, Át Nhĩ La đại
tướng, chữ Át (頞, è) trong ấy,
[căn cứ theo câu] “cử tật
thủ xúc ngạch nhi tương cáo viết” (lắc
đầu nhăn trán mà bảo rằng) có phải là đọc
như chữ Ngạch (額, é). Căng Già
Sa tức là Hằng Hà, chữ Căng (殑)
có phải là đọc như chữ Cầm (琴, qín),
khứ thanh hay không? (Hùng Thanh Tuấn
hỏi)
Đáp:
[Dấu giọng của mỗi] chữ được chia
thành bốn thanh, tuy mỗi thanh đọc một khác, nhưng
chữ Át và chữ Căng đều là phiên âm, nên cứ dựa
theo âm gốc của nó để đọc, chẳng cần
phải luận định bốn dấu giọng.
*
Hỏi: Xét theo cách nói [trong kinh Phật], địa cầu
là Nam Thiệm Bộ Châu trong bốn đại tinh cầu;
nhưng xét theo cách nói của các nhà thiên văn học, trong
thái dương hệ có chín đại hành tinh, mỗi tinh
cầu trong ấy đều lớn hơn địa cầu,
như vậy th́ bốn đại tinh cầu như đă
nói [trong kinh Phật] há chẳng có vấn đề ư? (Hứa cư sĩ hỏi)
Đáp:
Trong hư không, tinh cầu vô lượng, Phật học
giả định một phạm vi tổ chức, chẳng
giống như tổ chức giả định của các
nhà khoa học. Phật học dựa theo sự tổ chức
của tinh cầu trong tận cùng hư không, chẳng coi mặt
trời là trung tâm. Cách nói của các nhà khoa học là chỉ
nói theo phạm vi lấy mặt trời làm trung tâm, nên gọi
là “thái dương hệ”. Quả
địa cầu của chúng ta được gọi là
Nam Thiệm Bộ Châu bất quá là một đơn vị
thế giới trong tam thiên đại thiên, là một phần
tư trong ấy, có thể Hỏa Tinh thuộc về tổ
chức của một đơn vị khác, hoàn toàn chẳng
phải là nói theo [phạm vi của] thái dương hệ,
“biến” (徧) là
trọn khắp hư không.
*
Hỏi: Trong Tứ Thập Biểu, nơi trang thứ hai có
câu “giác chi thời không”, “giác” là nói đến thời
gian và không gian vô tận như trong phần trước, hay
là c̣n có ư nghĩa nào khác? (Hứa
cư sĩ hỏi)
Đáp:
Ư nói thời gian và không gian đều vô hạn lượng.
Cuối biểu đồ ấy đă có thuyết minh, hoàn
toàn chẳng có ư nào khác.
*
Hỏi: Đối với phạm vi của tam thiên đại
thiên thế giới, căn cứ theo Thường Thức
Khóa Bổn và Tứ Thập Biểu ghi chép, đại thiên
thế giới chỉ bao quát Tứ Thiền Thiên trong Sắc
Giới. Như vậy th́ Tứ Không Thiên của Vô Sắc
Giới chẳng thuộc trong đại thiên thế giới
ư? (Hứa cư sĩ hỏi)
Đáp:
Chẳng nói tới là v́ nó (Vô Sắc Giới) không có tướng;
thật ra, đă được bao gồm trong ấy. Mỗi
khi nói “thế gian”, đều là nói đến tam giới, há
[Vô Sắc Giới] chẳng bao gồm trong ấy. Trong sự
an lập tướng thế gian ấy, do Không Thiên (Tứ
Không Thiên thuộc Vô Sắc Giới) không có tướng
để nói, tam tai lại chẳng lan đến tầng
trời ấy, cho nên lược đi [không nói].
*
Hỏi: Y bát của đức Phật có phải là một,
hay là hai? Nếu là một, y bát do Ngũ Tổ truyền cho
Lục Tổ và y bát do tôn giả Đại Ca Diếp đang
nhập Định [ǵn giữ] tại núi Kê Túc có phải cùng
là y bát của đức Phật hay không? (Dịch Cao Trụ hỏi)
Đáp:
Y bát của đức Phật chẳng thể là một. Nếu
bắt buộc phải dùng một, sau khi trao cho ngài Ca Diếp,
há có phải là từ đó, đức Phật chẳng đắp
y, chẳng dùng cơm ư? Ngài Ca Diếp chờ đợi
[Phật Di Lặc giáng thế] ở núi Kê Túc và tổ Đạt
Ma sang phương Đông là hai pháp sự lớn, ắt
đều phải có [phương tiện] để ấn
chứng. Chỉ có y bát đều là do đức Phật truyền
lại, nhưng không bắt buộc phải là cùng một bộ.
Giống như chánh phủ ban phát ấn tín cho quan chức,
cũng là mỗi vị quan lănh một cái ấn, nhưng
đều xuất phát từ chánh phủ, chẳng phải
là ngụy tạo.
*
Hỏi: Theo như sách Danh Sơn Du Phỏng Kư của ông Cao
Hạc Niên ghi chép, núi Kê Túc ở Đại Lư, tỉnh Vân
Nam, vào thời cổ thuộc cương giới của
Thiên Trúc, là chỗ tôn giả Ca Diếp nhập Định.
Nhưng Đại Đường Tây Vực Kư lại nói
núi Kê Túc thuộc về nước Ma Kiệt Đà tại
Trung Ấn Độ, rốt cuộc núi Kê Túc nơi tôn giả
nhập Định là ở chỗ nào? (Chung Quân Lương hỏi)
Đáp:
Tên núi, tên đất vốn do con người đặt
ra. Trùng tên rất nhiều, từ xưa đến nay những
tên gọi trùng lặp, không chỉ là một chỗ Kê Túc. Núi
Kê Túc nơi tôn giả nhập Định rốt cuộc ở
Vân Nam hay tại Ấn Độ, ắt cần phải khảo
chứng nhiều cách th́ mới dám chủ trương. Kẻ
hèn này trong tay sách vở ít ỏi, chẳng dám nói bừa!
*
Hỏi: Tam Quy là ǵ? Cảnh giới như thế nào th́ Tam
Quy mới chẳng phải là h́nh thức, giống như hư
ngụy? Nói đơn giản, như thế nào mới là
Tam Quy chân thật? (Trịnh Kim
Cân hỏi)
Đáp:
Quy (皈) chính là
hai chữ Quy Y nói giản lược. Ư nghĩa là giống
như từ mê muội [rong ruổi] bên ngoài, quay trở lại
cố hương, nương cậy cha mẹ. Lời đáp
bất quá là thí dụ như thế, ḥng dễ liễu giải
mà thôi! Thật ra, đấy chính là thủ tục quy nhập
Phật môn. Phàm là người học Phật, ắt cần
phải có thầy, thầy chính là Phật. Thầy ắt dạy
đạo, “đạo” chính
là pháp của Phật, tức là lư trong kinh Phật. Người
nào sẽ đại diện Phật để truyền pháp?
Chính là hàng tỳ-kheo xuất gia, được gọi là Tăng.
Tam Quy chính là quy y Phật, Pháp, Tăng. Thành tâm tín ngưỡng,
y giáo phụng hành, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển,
chính là “chân quy y”. Nếu không,
sẽ là hư ngụy.
*
Hỏi: Pháp Lục Ba La Mật là ǵ? Xin hăy giải đáp
tường tận? (Trịnh
Kim Cân hỏi)
Đáp:
Lục Ba La Mật chính là sáu loại pháp môn để tự
độ và độ người khác. Một là Bố Thí,
hai là Tŕ Giới, ba là Nhẫn Nhục, bốn là Tinh Tấn,
năm là Thiền Định, sáu là Bát Nhă. Để có thể
hiểu những chuyện này, ắt cần phải đọc
duyệt kinh bổn, hoặc đích thân nghe giảng giải,
hoặc đơn giản, hoặc tường tận, ấn
định thời gian để cầu t́m. Nếu viết
ra, cột báo này sẽ chẳng thể làm được
chuyện ấy. Dẫu chỉ viết ra một phần vạn,
dung lượng của cột báo này cũng chẳng thể
dung nạp. Nếu phát tâm cầu hiểu Phật lư, cần
phải có bộ từ điển Phật học, kính thưa
với ông như vậy.
*
Hỏi: Đại Thừa là ǵ? Xét theo tinh thần bố
thí, Đại Thừa và Tiểu Thừa có ǵ khác biệt?
Như thế nào mới được coi là Đại Thừa?
(Trịnh Kim Cân hỏi)
Đáp:
Đây là mượn chuyện làm tỷ dụ để nói.
“Thừa” (乘) là nói tới xe hay thuyền
chở vật. Xe thuyền nhỏ chở cá nhân, xe thuyền
lớn chở nhiều người. Đấy là nói Phật
pháp có nhiều môn, có pháp chỉ để tự độ,
đó là Tiểu Thừa. Có pháp độ kèm thêm đại
chúng, đấy là Đại Thừa. Tu pháp tự độ
chỉ có thể chứng quả A La Hán; tu pháp Đại
Thừa mới có thể thành Phật. Nếu nói tới sự
bố thí giữa hai đằng, bố thí đại
lược chia thành ba loại (Tài, Pháp, Vô Úy), Tiểu Thừa
phần nhiều không thể thực hiện được,
nhưng Đại Thừa sẽ thực hiện vô hạn
lượng.
*
Hỏi: Bồ Đề tâm là ǵ? Xin hăy giải đáp minh bạch
và tường tận. (Trịnh
Kim Cân hỏi)
Đáp:
Bồ Đề tâm chính là phát tâm học theo Bồ Tát. Trong
việc làm của hàng Bồ Tát, trước hết là phải
học Phật pháp, chính ḿnh giác ngộ hết thảy
đạo lư, tức là dựa theo những điều đă
học, đă biết để phổ độ chúng sanh.
Điều này cần phải dựa vào Lục Ba La Mật
để làm, đại từ, đại bi, đại công
vô tư, chẳng nề hà bất cứ sự hy sinh nào, đấy
mới là Phật tử thật sự. Nếu chẳng như
thế, hoặc là có đầu mà không có cuối, hoặc
thoái chuyển đôi chút, dẫu có điều thiện nhỏ
nhoi, cũng là ma nghiệp!
*
Hỏi: Tỳ-kheo là ǵ? Sa-môn là ǵ? Ḥa thượng là ǵ? Pháp
sư là ǵ? Luật sư là ǵ? Bồ Tát là ǵ? Xin giải thích
định nghĩa của những danh từ trên đây! (Trịnh Kim Cân hỏi)
Đáp:
Cũng nên giải đáp đại lược những
danh từ ấy, chẳng thể nói tường tận những
chuyện ấy được. Nam tử xuất gia, sau
khi đă thọ hai trăm năm mươi đại giới,
gọi là Tỳ-kheo. Hành giả dứt diệt tham, sân, si,
siêng tu Giới, Định, Huệ, gọi là Sa-môn. Vị tỳ-kheo
có đủ Giới, Định, Huệ và lục ḥa hợp
(lục ḥa kính) th́ gọi là Ḥa Thượng. Bậc Sa-môn tụng
kinh, giảng kinh, nghiên cứu kinh giáo th́ gọi là Pháp Sư.
Vị pháp sư chuyên nghiên cứu giới luật, cũng
gọi là Luật Sư. Bất luận xuất gia hay tại
gia, chỉ dựa theo Lư và Sự [đă nêu] trong lời đáp
thứ tư để hành, sẽ là Bồ Tát.
*
Hỏi: Như thế nào th́ sẽ được gọi là
“đệ tử chánh pháp”? Như thế nào th́ mới có thể
chẳng rơi vào cảnh giới ngoại đạo? Cảnh
giới tri kiến của đệ tử chánh pháp là như
thế nào? (Trịnh Kim Cân hỏi)
Đáp:
Đối với lời huấn thị trong kinh Phật và
giới luật thọ được mấy phần, chẳng
dám có chút trái nghịch nào, sẽ là đệ tử chánh pháp.
Tuy là làm như thế, nhưng chẳng thể siêng hành Văn,
Tư, Tu, sợ rằng trí huệ chẳng mở mang, gặp
chuyện bèn nghi hoặc, chẳng thể quyết đoán,
sợ rằng sẽ bị tà thuyết chuyển dời, sẽ
rớt vào ngoại đạo. Đó gọi là “đối
với Phật pháp chẳng chân thật nhận biết,
tri kiến sẽ tự nhiên bất chánh”. Cảnh giới
hôn trầm, tán loạn như vậy, sẽ đọa
trong lục trần, tiền đồ (tương lai) chẳng
thể nào nói được! Người học Phật
đối với Thiền, Tịnh, Luật, Mật, hăy
chuyên tŕ một thứ, niệm niệm nối tiếp, giữ
vững, chẳng biến đổi, tự nhiên sẽ có cảnh
giới tốt lành.
*
Hỏi: Pháp sư Từ Hàng nói: “Lấy
tâm Phật làm tâm của chính ḿnh, lấy chí của thầy
làm chí của chính ḿnh”. Ư nghĩa ở chỗ nào? (Trịnh Kim Cân hỏi)
Đáp:
Đối với hai câu của pháp sư Từ Hàng, câu thứ
hai bọn chúng ta không có cách nào nói ǵ được, v́ chẳng
biết chí của pháp sư Từ Hàng. Do chẳng biết,
nên chẳng dám suy lường xằng bậy. Nói đến
tâm Phật, nói chung là lấy chuyện phổ độ chúng
sanh làm tâm. Tôi chỉ biết như vậy, chỉ có thể
nói những ǵ chính ḿnh đă biết!
*
Hỏi: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn
v.v… mười danh từ trên đây biểu thị cảnh
giới nào? Có thể khai thị về ư nghĩa hay không? (Trịnh Kim Cân hỏi)
Đáp:
Mười danh hiệu ấy nhằm xưng dương
đức trí của Phật. Các thứ đức trí
đều do tự đạt, lợi tha. Trước hết,
hăy tra duyệt [các phẩm] chú giải kinh, hoặc kiểm
trong Phật Học Từ Điển. Đă biết tường
tận ư nghĩa th́ mới có thể hiểu cảnh giới
của những danh hiệu ấy. Câu hỏi như thế
này thuộc về loại danh số; nếu chọn một
hai danh hiệu để hỏi, chẳng phải là không thể
tŕnh bày. Chép trọn hết cả mười, sẽ quá
rườm rà, phạm vi của cột báo này không thể đăng
tải được!
*
Hỏi: Nhân quả quan là ǵ? Nhân duyên ḥa hợp luận là như
thế nào? (Trịnh Kim Cân hỏi)
Đáp:
Hết thảy các hành động, hết thảy thiện
ác, đều có động cơ nhỏ nhặt gây nên, điều
đó được gọi là “nhân”.
Nếu nhân gặp được duyên phận trợ lực,
sẽ có một loại hiện tướng (tướng
biến hiện ra), điều đó gọi là “quả”. Đấy chính là cái
thường được gọi là “nguyên nhân” và “kết
quả”. Nói thông thường, tức là hễ có tạo
tác, sẽ có báo ứng, tơ hào chẳng sai, nhưng người
ta không biết đó thôi! Nếu có thể nghiên cứu lư ấy,
biết quả, sợ nhân, đấy chính là “nhân quả quan”. Câu hỏi kế
tiếp thuộc về học lư, hay là tên một quyển
sách, tôi không hiểu rơ lắm, cho nên chẳng tiện bộp
chộp trả lời được.
*
Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát do v́ lẽ nào mà có danh hiệu
ấy? Danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát hiểu như
thế nào? (Trịnh Kim Cân hỏi)
*
Đáp: Quán là tịch chiếu, Thế là thế gian, Âm là âm
thanh. Nói gộp lại, sẽ là “quán sát hết thảy âm
thanh trong thế gian”. Lại do sự cứu độ khế
cơ, khế lư, tức là như thường nói “tầm thanh cứu khổ” (xét
t́m âm thanh để cứu khổ). Do nhân duyên ấy, Bồ
Tát có danh hiệu là Quán Thế Âm. Nếu muốn biết
tường tận, hăy nên đọc phẩm Phổ Môn
trong kinh Pháp Hoa. Tiếp đó, Địa là ví như đại
địa, Tạng có nghĩa là chứa đựng hết
thảy. Nói gộp lại, đấy chính là từ bi và
đức trí của Bồ Tát như đại địa
an nhiên bất động. Vạn vật đều do
đất cất giữ, không ǵ chẳng bao trùm, không ǵ chẳng
chứa đựng. Đó là nhân duyên khiến ngài Địa
Tạng có danh hiệu ấy. Nếu muốn hiểu tường
tận, cần phải xem đọc Địa Tạng Bổn
Nguyện Kinh.
*
Hỏi: Bài Quán Âm Tán chép trong sách Khóa Tụng như sau: “Quán Âm đại sĩ, tất
hiệu viên thông, thập nhị đại nguyện thệ
hoằng thâm, khổ hải độ mê tân, cứu khổ
tầm thanh, vô sát bất hiện thân” (Quán Âm đại
sĩ, hiệu là Viên Thông, mười hai đại nguyện
thệ rộng sâu, biển khổ Ngài ban bờ cứu
độ, nghe tiếng sẽ t́m cứu độ ngay, cơi
nước không đâu chẳng hiện thân). Nguyên văn của
mười hai đại nguyện được chép trong
kinh nào? (Người tên X… ở
Nam Đầu hỏi)
Đáp:
Đối với câu hỏi của ông X… từ nhiều năm
qua đă có nhiều người tra duyệt trong kinh, đều
chưa t́m được căn cứ. Mười hai nguyện
là do Phật Dược Sư phát ra, ai nấy đều
biết. Trong các kinh điển dạy về Quán Âm, đều
không thấy nói tới. Nếu ắt muốn quyết
định là có hay không, cần phải có người phát
tâm, tra duyệt trọn khắp toàn bộ Đại Tạng
th́ mới có thể thốt lời quyết định. Nhưng
đă từng có bậc đại đức, nghi [bài tán ấy]
bị sai chữ, bảo: Trong Thiên Thủ Đại Bi Chú
Kinh có một bài kệ theo lối bảy chữ, gồm
mười nguyện; lại có bài kệ theo lối năm
chữ gồm sáu nguyện. “Mười
hai đại nguyện” trong bài Quán Âm Tán có lẽ là mười
sáu đại nguyện bị chép sai! Tôi nói: Chữ Lục
(六) bị
mất chữ Bát (八) ở
dưới sẽ thành Nhị (二), chưa
chắc đă không phải là do năm tháng lâu ngày, văn bản
tàn khuyết! Chữ Lục bị viết mất nét thành
Nhị, các vị đại đức công nhận [chuyện
này] có thể xảy ra. C̣n nói: Đă từng thấy có văn
bản, chữ Lục bị khuyết nét, thành chữ Nhị.
Điều này dùng để tham khảo vậy. Lại nữa,
trong kinh ấy, bài kệ chép ngay sau phần
văn trường hàng, lại có bốn nguyện, hợp
với mười sáu nguyện trước đó thành hai mươi
nguyện. Nếu tra các chỗ khác không có căn cứ, “nhị thập nguyện” bị
viết sai thành “thập nhị
nguyện” cũng rất có thể! Chuyện này có thể
dùng làm [tài liệu] thứ hai để tham khảo. Học
nhân do công việc bận rộn, chẳng có phước
tra cứu Đại Tạng. Mong tôn giả hăy mời người
khác tra duyệt toàn bộ Đại Tạng, sau đấy
sẽ quyết định th́ hay hơn!
* Bốn câu hỏi của cư
sĩ Liêu Thanh Hoa ở Đài Đông
1)
Hỏi: Sách Tâm Kinh Yếu Thích (do pháp sư Bân Tông biên soạn)
giải thích câu “Xá Lợi Tử!
Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”
trong Tâm Kinh có nói như thế này: “Xá Lợi Tử là đương cơ của kinh
này. Do vậy, trước khi thuyết pháp, Quán Tự Tại
Bồ Tát liền gọi ngài Xá Lợi Phất một tiếng
để nhắc nhở Ngài hăy chú ư”. Chiếu theo kiểu
nói ấy, một bộ Tâm Kinh chẳng phải do đức
Phật nói, mà là do Bồ Tát nói!
Đáp:
Theo như cư sĩ Châu Chỉ Am đă khảo sát, Tâm
Kinh gồm có chín bản dịch tiếng Hán. Bắc Kinh
Trung Ương Khắc Kinh Viện đă ấn hành bảy
bản, hai bản kia chắc là đă thất lạc. Các bản
dịch tường tận hay đại lược khác
nhau, bản lưu thông hiện thời là bản dịch của
pháp sư Huyền Trang vào đời Đường. Khảo
sát bản dịch của Pháp Nguyệt Tam Tạng vào đời
Đường, đầu kinh có câu “như thị ngă văn, nhất
thời Phật tại Vương Xá đại thành… mông
Phật thính hứa, Phật sở hộ niệm” (Tôi
nghe như thế này: Một thời đức Phật ngự
tại đại thành Vương Xá… được Phật
cho phép, được Phật hộ niệm). Lại có
đoạn “văn Phật sở
thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng
hành” (nghe lời đức Phật nói, ai nấy đều
hết sức hoan hỷ, tin nhận, vâng hành). Đối với
phần kết thúc trong các bản khác, phần nhiều có
nói: “Phật tùng Định khởi,
tán thán: - Thiện tai! Như thị, như thị” (Đức
Phật xuất Định, khen ngợi: ‘Lành thay! Đúng
như thế đó, đúng như vậy đấy”) v.v…
Bản dịch của ngài Huyền Trang là bản trích yếu,
đă lược bỏ phần Tự và phần Lưu Thông.
2)
Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật có khi được gọi là
Thích Ca Văn Phật; chẳng biết
ư nghĩa của Văn Phật là như thế nào?
Đáp:
Bốn chữ Thích Ca Mâu Ni chính là tiếng Hoa phiên âm tiếng
Phạn. Phiên dịch xưa nay có nhiều chỗ khác nhau, tức
là tại một vùng, âm thanh xưa nay cũng có biến
đổi khác đi, đó là chuyện thông thường. Như
hai chữ Nam Mô, âm thời cổ đại khái đọc
như Na Ma (那摩, na muó),
người hiện thời đọc là Nan Ngô (難吾, nán wú). Chữ Văn (文) trong Văn Phật (文佛) chính là biến âm của
hai chữ Mâu Ni. Có bộ sách Phật Nhĩ Nhă từng chú
giải như thế.
3)
Hỏi: Nơi đức Thế Tôn xuất sanh là nước
Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatsu) ở Ấn Độ, nhưng
có sách ghi là nước Ca Tỳ La, thiếu mất chữ
Vệ, như vậy th́ có đúng pháp hay không?
Đáp:
Xin nghiền ngẫm kỹ câu giải đáp thứ hai, sẽ
tự biết ư nghĩa ấy. Cũng là do người phiên
dịch khác nhau, [nên trở thành] nhiều hơn hay ít hơn
một chữ. Như Hằng Hà chính là nói giản lược
của Hằng Già Hà. Căng Già Hà là biến âm của Hằng
Già.
4) Hỏi:
Tứ thánh giới tính từ tầng thấp nhất, sẽ
là Thanh Văn, Duyên Giác, Nhị Thừa, Phật, nhưng
Duyên Giác lại gọi là Bích Chi Phật. Đă là Phật,
v́ sao ở dưới Bồ Tát?
Đáp:
Bích Chi Ca (Pratyeka) cũng là tiếng Phạn, dịch sang tiếng
Hán là Độc Giác, hoặc Duyên Giác. Xét theo ư nghĩa của
chữ Giác, tiếng Phạn là Phật Đà (Buddha). Phàm là
bậc phá mê, chứng giác, đều gọi theo tiếng
Phạn là Phật. Chỉ có điều, giác có nhiều loại
bất đồng, có Bổn Giác, Thỉ Giác, Tùy Phần
Giác, Cứu Cánh Giác v.v… Giác lại c̣n chia thành Tạng, Thông,
Biệt, Viên. Như Phật Thích Ca chính là Cứu Cánh Giác, Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, những nghĩa khác
bất đồng, chớ nên hiểu lầm!
* Một câu hỏi của cư
sĩ Vô Sở Đắc ở Hương Cảng
Hỏi:
Tôi đọc báo Bồ Đề Thụ số ra tháng Sáu, trong
số báo hai trăm bảy mươi mốt, nửa sau của
trang hai mươi sáu, ḍng thứ nhất tính từ bên phải
qua đă viết: “Do thử, ngă
môn đại thể khả dĩ liệu giải Long Thọ
sở phá xích kỳ hướng dĩ cập kỳ sở
yết trư đích…” (Do vậy, về đại thể,
chúng ta có thể hiểu rơ ư hướng và mục tiêu trong
việc đả phá, bài xích của ngài Long Thọ), hai chữ
“kỳ hướng” (蘄向) trong ấy phát xuất từ
điển tích nào? Hăy nên giải thích như thế nào?
Đáp:
Đối với đoạn văn do ông đă hỏi, xét
ra thuộc loại bài viết gởi tới; vốn có thể
dựa theo mặt chữ để giải thích, nhưng sợ
trong ấy c̣n chứa đựng ư nghĩa sâu xa. Tôi đă
từng sai người đến thăm, thỉnh giáo [tác
giả], nghe nói vị ấy gần đây đă sang Nhật
Bản, chỉ đành đợi đến khi ông ta về
nước, sẽ đem thư của ông giao lại, xin
chính tác giả giải đáp th́ mới chẳng bị lầm
lẫn!
* Phụ lục: Trả lời
giản lược những câu hỏi của cư sĩ
Vô Sở Đắc
(tác giả Lam Cát Phú)
1) Bài văn
vụng về của tôi được đăng trên báo Bồ
Đề Thụ vào tháng Sáu, đối với câu “do thử, ngă môn đại thể
khả dĩ liệu giải Long Thọ sở phá xích (chi) kỳ
hướng…”, trước chữ “kỳ hướng” (蘄向) hăy nên
có một chữ Chi (之), nhưng
bản in vào tháng Sáu đă bỏ sót.
2)
Chữ “kỳ hướng”
thuộc loại từ ngữ phổ thông, hoàn toàn chẳng
phải là danh từ Phật học.
3)
Chữ “kỳ hướng”
có ư nghĩa gần giống như “ư hướng” (意向), “kỳ” (蘄) là “cầu” (xem Kinh Tịch Toản Hỗ quyển bốn).
4)
Chữ “kỳ hướng”
(蘄向) có ư nghĩa
hoàn toàn tương đồng với “kỳ hướng” (祈嚮, hướng
đến, dẫn đến, mong mỏi). Chữ Kỳ (祈) viết theo lối cổ
có khi viết thành Tiệm (嶄). Chữ
Kỳ (祈) cũng
có nghĩa là “cầu” (xem Quảng
Nhă, phần Thích Hỗ, quyển ba).
Do
đó, hai chữ (蘄 và 祈) thật sự là một.
Âm, nghĩa của Hướng (嚮) và Hướng (向) hoàn toàn giống nhau, cũng
là những chữ quen thuộc của người thông thạo.
Từ ngữ Kỳ Hướng (祈嚮) có thể thấy trong sách
Trang Tử, chương Thiên Địa: “Nhi kim dă, dĩ thiên hạ hoặc, dư tuy hữu kỳ
hướng, bất khả đắc dă” (Như trong hiện
thời, do thiên hạ lầm lạc, dẫu tôi có mong mỏi,
cũng chẳng thể thực hiện được).
5)
“Kỳ hướng” (蘄向) tuy là từ ngữ thông
dụng của người hiện thời, nhưng khi nào,
do người nào bắt đầu đổi chữ Kỳ
Hướng (祈嚮) thành Kỳ
Hướng (蘄向) th́ tôi
không biết.
* Một câu hỏi của cư
sĩ Lâm Bá Tu ở Đào Viên
Hỏi:
Đời người có tám nỗi khổ, giải thích “Ngũ Ấm xí thịnh khổ”
như thế nào?
Đáp:
Ngũ Ấm chính là Sắc Ấm (thuộc về Sắc
pháp) và Thọ, Tưởng, Hành, Thức là các tâm pháp. Nói gộp
lại sẽ là năm thứ; năm thứ ấy tụ
tập thành giả thân. Hai pháp thân và tâm của chúng sanh chẳng
hứng chịu ba thứ khổ là Khổ, Hoại, Hành. “Xí thịnh” (熾盛) có nghĩa là hưng
vượng, như lửa lớn cháy rừng rực, chẳng
thể dập tắt! Chữ Thịnh (盛) cũng có thể đọc
thành b́nh thanh (tức Th́nh), có nghĩa là “chứa đựng,
tiếp nhận”. Ư nói Ngũ Ấm như đồ chứa,
những thứ chứa đựng bên trong nó chỉ là khổ
năo!
* Một
câu hỏi của cư sĩ Vương Thục Phân ở
Đài Bắc
Hỏi:
Đệ tử là Phật giáo đồ kiền thành, buổi
tối hôm qua, tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm Phương
Tiện, đối với đoạn Thập Như Thị
mờ mịt không hiểu. Dám xin thầy từ bi chỉ dạy.
Lại như cái gọi là “nhất
niệm tam thiên luận” của tông Thiên Đài có phải
là có liên quan với Thập Như Thị hay không?
Đáp:
Người tin tưởng, thân cận kinh Phật cũng
có các loại khác nhau. Phổ biến nhất là có ba loại,
tức Tụng, Duyệt và Giải. Tụng niệm trong công
khóa hằng ngày gọi là Tụng (誦), tĩnh tọa thầm đọc
th́ gọi là Duyệt (閱). Hai loại
ấy chỉ cần ḷng thành là được rồi, chẳng
cần mong hiểu. Nếu suy nghĩ, thấu hiểu lư,
mong t́m hiểu sâu hơn th́ gọi là Giải (解). Điều này cần
phải nghe người khác giảng giải, hoặc tự
xem các bản chú giải của cổ đức, vẫn cần
phải chuẩn bị sẵn từ điển Phật học,
bởi danh tướng trong các bản chú giải hết sức
phức tạp. Nay tôi miễn cưỡng giải đáp lời
hỏi của bà. Nếu nói cặn kẽ, sẽ thành một
bài văn lớn, đâm ra sợ rằng càng đáp, càng khó
hiểu hơn! Dẫu có hiểu rơ, bất quá cũng chỉ
là một sợi lông của chín con trâu, những chỗ khác
vẫn là chẳng biết, chẳng nghe y như cũ, tuy có
trí mà chẳng thể hiểu được! Nay tôi đáp
như sau:
Thập
Như c̣n gọi là Thập Như Thị, tức là trong vạn
pháp, mỗi pháp đều có mười thứ Như là Tánh,
Tướng, Thể, Lực, Tác, Nhân, Duyên, Quả, Báo, Bổn
Mạt Cứu Cánh. Bà lại hỏi “nhất niệm tam thiên”, có nghĩa là trong mười
pháp giới, mỗi pháp giới đều có đủ
mười giới, [nên mười nhân với mười]
gọi là “bách giới”. Trong
một trăm giới ấy, mỗi giới đều có
mười Như, nên gọi là Thiên Như (một ngàn Như).
Đối với Thiên Như, lại nhân với chúng sanh thế
gian, quốc độ thế gian và ngũ ấm thế
gian [cho nên ba nhân với một ngàn] thành ba ngàn. Tôi lại đặc
biệt thanh minh, đối với những câu thắc mắc,
sẽ đều trả lời trên báo, chẳng trả lời
thư cho riêng ai!
* Ba câu hỏi của pháp sư
Hoằng Ngạn ở Đài Trung
1)
Hỏi: Phật có Ngũ Nhăn, ngoài ra c̣n có mắt ǵ nữa?
Đáp:
Thánh, phàm trong mười pháp giới, số lượng
nhiều như cát sông Hằng khó thể sánh ví, mỗi loại
đều có mắt riêng. Cố nhiên là thị giác bất
đồng! Nói tới Ngũ Nhăn th́ bất quá là quy nạp
Thể và Dụng của chúng mà thôi. Năng lực của
Ngũ Nhăn cũng là mỗi loại khác biệt, Nhục Nhăn
chẳng bằng Thiên Nhăn, Huệ Nhăn chẳng bằng Pháp
Nhăn, mỗi loại đều chẳng sánh bằng Phật
Nhăn, nhưng đức Phật thông suốt Ngũ Nhăn. Nếu
luận định theo năm loại ấy, đức Phật
đă trọn đủ. Nếu nói theo mười pháp giới,
đức Phật sẽ trọn đủ hằng sa loại
mắt, khó thể sánh ví được!
2)
Hỏi: Kinh dạy: “Kiêu mạn
chấp trước giả, bất tác thị vi pháp” (Kẻ
kiêu mạn, chấp tướng, chẳng thể coi là pháp).
Chấp tướng có phải là mỗi kẻ học Phật
đều sẽ chấp tướng, hay là tại gia và xuất
gia có phân biệt?
Đáp:
Nếu hỏi về kinh văn, cần phải nói rơ là kinh
nào. Hăy nên biết người phúc đáp chẳng đọc
kinh nhiều. Đối với những kinh đă đọc,
cũng khó thể ghi nhớ chẳng quên! Lại cần phải
nêu bày những đoạn kinh văn trước câu kinh thắc
mắc ấy, v́ một câu hay nửa câu chẳng phải là
toàn bộ ư nghĩa, chẳng dám đáp xằng! Nay tôi chỉ
dựa vào chữ “chấp
tướng” để đáp, bất luận xuất
gia hay tại gia, người hữu đắc hữu chứng
sẽ có thể chẳng chấp tướng; kẻ học
lực chẳng đủ, tuy biết chấp tướng
là lầm lỗi, nhưng vẫn y như cũ chấp
tướng, chẳng giác!
3) Hoa Liên Phật
Giáo Liên Xă có lăo cư sĩ Trương Minh Như là một
vị Phật tử kiền thành, muốn đến
dưới ṭa của ngài nghe pháp ngữ, v́ tệ tự là
đạo tràng của nữ chúng, chẳng tiện tiếp
đăi. Tôi vừa mới đến Đài Trung, chẳng rành
đường sá và ít quen biết ai, cũng không rảnh
rang để hằng ngày dẫn cụ đến nghe. Quư
xá có pḥng trống để ở mấy hôm hay không? Tại
gia cư sĩ chẳng phải là quải đơn, sẽ
làm công đức.
Đáp: Theo
như tôi nghe, Phật Giáo Liên Xă gần đây đang bận
tu bổ, thi công c̣n chưa xong, tạm thời chẳng giảng
kinh. V́ thế, không có pḥng trống để cho ở tạm.
Sau khi lạc thành, mỗi tuần chỉ giảng một lần,
những lúc khác chẳng tránh khỏi ngồi không, thật
chẳng hợp lư cho lắm! Kính cẩn thưa tŕnh chuyện
này.
* Một câu hỏi của cư sĩ
Vương Thể Nhân ở Đài Nam
Hỏi:
Lăng Nghiêm Kinh Trực Giải, quyển một, trang bốn
mươi lăm viết: “Cái
tâm tánh giác tri phân biệt chẳng ở trong, chẳng ở
ngoài, chẳng ở trung gian”. Kinh Đại Bát Niết
Bàn, quyển một, phẩm Tự thứ nhất, nơi
trang thứ bảy chép: “Đầu
là điện đường, tâm vương ở trong ấy”.
Đă nói tâm tánh chẳng ở trong, ngoài, hay trung gian, sao lại
nói “ở trên đầu”.
Xem ra ư nghĩa trong hai bộ kinh trên đây tợ hồ chẳng
nhất trí, khẩn khoản mong cầu cụ giải
thích, gởi thư chỉ dạy!
Đáp:
Hễ nghiên cứu kinh, ắt [phải là] chẳng bỏ
qua một chữ nào! Chỗ nói đến tâm trong hai kinh có
ư nghĩa khác nhau. Kinh Niết Bàn nói về chỗ ở của
tâm vương, c̣n kinh Lăng Nghiêm chỉ nói tâm mà thôi! Các
kinh nói đến tâm, phần nhiều [diễn tả] là “to
lớn không có ǵ ra ngoài được”, như nói: Hư không
tuy lớn, chẳng ra ngoài tâm. Hoặc sánh ví biển cả
như tâm, một bọt nước trong biển cả ví
như hư không. Lại như một áng mây bềnh bồng
trong hư không, tự nhiên là hư không to lớn, mây nhỏ
nhoi. Dùng hư không để sánh ví cái tâm, dùng áng mây để
sánh ví hư không. Hai thí dụ vừa nêu chính là ư nghĩa “tâm chẳng ở trong hay ngoài”
của kinh Lăng Nghiêm. Bát thức tâm vương trong Duy
Thức, đứng đầu là năm thức (tức nhăn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân). V́ thế nói “tâm vương ở nơi đầu”, đấy
chính là ư nghĩa “vua ở trong điện đường”
của kinh Niết Bàn. Trong phương diện hành văn,
có cách nói theo tổng tướng, có cách nói theo biệt
tướng. Hăy gộp lại để suy nghĩ th́ sẽ
thông suốt! Tôi gởi lại bưu phiếu, chẳng trả
lời thư!
* Một câu hỏi của đại
đức Kỳ Nguyệt tại thành phố Cao Hùng
Hỏi:
Thuật ngữ “ly tứ cú,
khiển bách phi” (ĺa bốn câu, dứt trăm điều
chẳng phải), “tứ cú”
là như thế nào, “bách phi”
lại là ǵ?
Đáp:
“Tứ cú” có đến mấy
loại như tứ cú kệ, tứ cú báo, tứ cú thôi kiểm,
tứ cú phân biệt v.v… Dùng “tứ
cú” (bốn câu) để phân biệt là phổ biến
nhất. Nói đơn giản, sẽ là: Một là có, chẳng
phải là không; hai là không, chẳng phải là có; ba là cũng
có cũng không; bốn là chẳng phải có, chẳng phải
không! “Bách phi”: Bách (một trăm)
là nói tới trăm thứ pháp môn, như sắc pháp, tâm pháp,
tâm sở pháp, bất tương ứng pháp, vô vi pháp v.v…
đều chẳng có thực thể. Những điều
vừa nói trên đây, chính là nghĩa “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”.
Như nói Niết Bàn vốn khó thể diễn tả; v́ thế,
dùng hai câu ấy, biểu thị “chẳng
thể nghĩ bàn”. Tuy nói đại lược, có lẽ
chẳng thể hiểu, [bởi lẽ], người mới
học chẳng hiểu rơ giáo tướng, làm sao có thể
trước hết là đàm luận huyền lư cho
được. Hăy nên biết: Học tập th́ cần phải
từ cạn đến sâu!
* Một câu hỏi của cư
sĩ Tŕnh Đạo Tu ở Vân Lâm
Hỏi:
“Đôn Hoàng xuất thổ”
có nghĩa là ǵ?
Đáp:
Đôn Hoàng (燉煌) chính là
tên một huyện ở tỉnh Cam Túc. Nơi ấy, có núi
Minh Sa, trên núi có Thiên Phật Động, và vô số hang đá
cất giữ tượng Phật, kinh Phật v.v… Nơi ấy
được phát hiện vào những năm cuối đời
Thanh, và phần nhiều đă bị người Tây Dương
lấy trộm. Thư hỏi chỉ nói đến chuyện
“xuất thổ” (出土, ra khỏi đất),
chẳng biết là muốn nói đến vật ǵ! Nếu
là kinh tượng th́ chính là nói đến chuyện này (chuyện
phát hiện ra hang Đôn Hoàng); nếu là nói đến chuyện
khác th́ phải luận định cách khác.
* Năm câu hỏi của cư
sĩ Ngô Kiến Thành ở thành phố Đào Viên
1)
Hỏi: Thường thấy sáu chữ “nam vô A Di Đà Phật”, chẳng biết v́ sao phương
Nam chẳng có A Di Đà Phật? Chữ “nam vô” (南無) có ư nghĩa
ǵ?
Đáp:
Chữ “Nam-vô” đời
Đường đọc thành âm Na-ma (nà muó, tức là phải
đọc thành Nam Mô), nay đă chuyển thành Nan Ngô (nán wú)!
Chẳng thể nói hai chữ ấy có nghĩa là “phương
Nam không có [thứ ǵ đó]”! Đây là tiếng Phạn chưa
dịch nghĩa. Khi niệm, hăy nên đọc là Na Ma, có nghĩa
là “quy y” v.v… Nếu ông muốn
học Phật, mà chẳng gặp người thông sáng chỉ
điểm; trước hết, cần phải đọc
những tập sách nhỏ rơ ràng, dễ hiểu, chớ nên
tự ḿnh suy đoán loạn xạ!
2)
Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát là nữ nhân ư? Ngài có phải
là con gái của vua Diệu Trang hay không?
Đáp:
Quán Thế Âm là cổ Phật hóa thân, Phật tự nhiên là
nam tử. Nhưng v́ hóa thân độ chúng sanh, có khi hóa thân
thành phụ nữ. Chuyện vua Diệu Trang chính là tục
truyền. Học Phật th́ cần phải đọc sách
Phật, chớ nên nghe theo những lời đồn đăi!
3)
Hỏi: Muốn cho gia đ́nh cát tường, b́nh an, hăy nên
niệm danh hiệu vị Phật nào th́ tốt hơn?
Đáp:
Niệm A Di Đà Phật là tốt nhất. Xưa nay là như
vậy, các nơi đều như thế, cũng nên xem
kinh sách càng hay!
4)
Hỏi: Di Lặc Bồ Tát là vị Bồ Tát như thế
nào? V́ sao hiện thời do Ngài chưởng quản thiên bàn?
Đáp:
Đấy là vị Bồ Tát đang ở cơi trời Đâu
Suất, tương lai sẽ đến nhân gian làm Phật,
hoàn toàn chẳng chưởng quản thiên bàn như lời
đồn thổi! Đó là lời lẽ của bọn bàng
môn ngoại đạo vô tri!
5)
Hỏi: Nến thắp hai bên Phật đường nên dùng
nến trắng hay nến đỏ? Rất nhiều người
thắp nến trắng, chẳng biết có đúng hay không?
Đáp:
Nến thắp trong Phật đường đỏ hay
trắng đều có thể, miễn sao thuận tiện,
hoàn toàn chẳng có tánh chất cố định cứng ngắc.
Bắt buộc phải dùng nến trắng chính là phù hiệu
của bọn bàng môn ngoại đạo. Ông đọc sách
không nhiều, tà, chánh chẳng phân biệt được!
Hăy nên hướng về nhà chùa quy y, để sau này
thường đến thỉnh giáo, mới chẳng đến
nỗi lầm lẫn bước vào đường tà, hối
hận suốt đời!
* Một câu hỏi của cư
sĩ Trần Đốc Kính ở Chương Hóa
Hỏi:
Mỗi lần văn bối lễ Đại Bi Sám, tới câu
“nhất tâm đại vị,
Thiện Tra Phạm Ma Cù Bà Già thiên tử… Đồng Mục
thiên nữ…”, rốt cuộc chẳng hiểu vị trời
và vị thiên nữ ấy thuộc cơi trời nào? V́ sao phải
thay họ lễ bái Tam Bảo? Nhân duyên như thế nào? Tôi
chưa từng thấy [sách vở nào nói rơ], từng tra Phật
Học Từ Điển hoàn toàn chẳng có tên hai vị ấy,
lại tra cứu chẳng thấy có bản chú thích nào. Xét
thấy trưởng giả là bậc thâm nhập Tam Tạng,
thấy nghe tinh ṛng, rộng răi, nên mới chẳng nề hà
mạo muội quấy nhiễu. Xin hăy giải trừ nỗi
nghi, tôi cảm kích lắm thay!
Đáp:
Sự hiểu biết của tại hạ chỉ là do ghi
nhớ, hỏi han, hết sức nông cạn, thô lậu. Ĺa
khỏi kinh bổn, sẽ không có ǵ để nương
theo! Đối với thắc mắc của ông, từ điển
chẳng chép, [thế nhưng] Tam Tạng mênh mông, kẻ học
cạn làm sao có thể nhớ rơ được! Nhưng
chuyện này thuộc về cách tu lễ sám, chẳng thuộc
về nghiên cứu giáo điển, chỉ có thể y giáo
phụng hành, giữ tâm chí thành. Nếu dấy lên phân biệt,
sức cảm ứng sẽ bị giảm. Thử hỏi
tám mươi tám vị Phật trong sách khóa tụng, mỗi
vị ở cơi nào? Ngàn vị Phật, vạn vị Phật,
v́ sao chỉ tụng mấy vị đó? Ngài Vi Đà rốt
cuộc thuộc tầng trời nào? Nếu cứ mong biết
trọn hết, sẽ phiền toái khôn xiết! Hơn nữa,
phiên âm tiếng Phạn sang Hán, cùng một tên mà có nhiều
cách [phiên âm khác nhau]. Như các danh xưng Hằng Hà và Kỳ
Viên[37] đều
là đa âm (có nhiều cách phiên âm khác nhau), mọi người
đều biết những tên gọi ấy. Thiện Tra
Phạm Ma Cù Bà Già[38] v.v… có lẽ
cũng là như thế. Lại nữa, ai nấy đều
có cửu tổ (tổ tiên chín đời), cửu tộc
(chín mối quan hệ họ hàng)[39], có thể
biết tên họ của từng người một hay chăng?
Kính khuyên, khi nghiên cứu giáo th́ cần phải khảo cứu,
nhưng khi tu pháp th́ chỉ nhất tâm thành kính là được
rồi!
Phật Học Vấn
Đáp Loại Biên
Quyển Trung hết
[1]
Tĩnh từ và động từ ở đây không phải
là adjective và verb theo cách hiểu thông thường, mà có
nghĩa là tĩnh tương phản với động.
Do Quán là có sự vận dụng tác dụng Chiếu của
cái tâm, nên nó là động, c̣n Đế là đối tượng
được quán chiếu bởi người Quán, nên là
thụ động, tức tĩnh.
[2] Người
Hoa không học Phật (nhất là người Quảng
Đông) có thói quen gọi người cạo đầu mặc
y phục xuất gia là ḥa thượng; do vậy họ hay
gọi những chú tiểu c̣n bé tí là “tiểu ḥa thượng”.
[3] Tam Tế
(三際)
chính là cách nói khác của tam thế (三世), tức là quá khứ,
hiện tại và vị lai.
[4] Chỉ nói
riêng trong Thái Dương Hệ, các hành tinh có “mặt
trăng” (tức vệ tinh) rất nhiều. Chẳng hạn
Thổ Tinh (Saturn) có đến sáu mươi hai vệ tinh,
Hỏa Tinh (Mars) có hai vệ tinh là Deimos và Phobos, Mộc Tinh
(Jupiter) có sáu mươi bảy vệ tinh, lớn nhất
là vệ tinh Io, Europa, Ganymede, Callisto v.v…
[5] Cơi
trời này ở ngay trên đầu chúng ta. Do có bốn vị
thiên vương cai quản nên gọi là Tứ Vương
Thiên (Cāturmahārājikakāyika,
cơi trời có bốn vị vua).
[6] Cờ
Phật giáo được thiết kế từ năm
1885 bởi một ủy ban gồm các vị tôn túc và cư
sĩ hữu danh thời ấy tại Tích Lan do trưởng
lăo Hikkaduwe Sri Sugamanla làm chủ tịch, thành viên là các vị:
Trưởng lăo Migettuwatte Gunananda, cư sĩ Don Carolis
Hewavitharana, cư sĩ Andiris Perera Dharmagunawardhana, cư
sĩ Charles De Silva, cư sĩ Peter Abrew, cư sĩ William
Fernando v.v… Lá cờ này được treo đầu tiên tại
Tích Lan vào ngày 28 tháng Tư năm 1885, nhằm đúng dịp
lễ Vesak cử hành tại tinh xá Dipaduttamarama. Thoạt
đầu lá cờ khá dài, đại tá Henry Stell Olcott, một
kư giả Hoa Kỳ, sáng lập viên của hội Thông Thiên
Học (Theosophical Society), đă đề nghị rút ngắn
lá cờ này theo kích thước chung của các lá cờ quốc
gia. Sau đó, vào năm 1889, ông Olcott và trưởng lăo
Anagarika Dharmapala đă giới thiệu lá cờ này cho vua
Minh Trị (Meiji) của Nhật và đem vào Miến Điện.
Do sự giới thiệu và lăng-xê của ông Olcott, khá
nhiều người đă tưởng lầm ông Olcott là
người chế ra lá cờ ấy. Năm 1952, Thế Giới
Phật Giáo Đồ Liên Nghị Hội (World Fellowship of
Buddhists) đă tán thành chọn lá cờ này là cờ quốc
tế của Phật giáo. Nhưng tại Miến Điện,
màu cam được thay bằng màu hồng, tại Nepal
thay màu cam bằng màu tím mận, Tây Tạng thay màu cam bằng
màu nâu đỏ. Tịnh Độ Chân Tông của Nhật
cũng thay màu cam bằng màu hồng. Ở Nhật c̣n
lưu hành một loại cờ riêng, gọi là ngũ sắc
mạc (Goshikimaku), có h́nh dáng giống hệt như cờ
Phật giáo quốc tế, nhưng vạch đầu tiên
là xanh dương bị thay bằng màu xanh lá cây, màu cam thay
bằng màu xanh dương đậm (gần như
đen) và treo dọc. Sáng Giá Học Hội (Soka Gakkai, một
chi phái của Nhật Liên Tông) lại giảm bớt, chỉ
c̣n ba màu là xanh dương, vàng và đỏ.
[7] Hồ
quỵ (胡跪)
thường đọc trại thành “hồ quỳ” có
nghĩa đen là “cách quỳ của người Hồ”, tức
là cách hành lễ của những sắc dân ở phía Tây
Trung Hoa. Cách quỳ là đầu gối trái đặt sát
đất, bàn chân đặt vuông góc với mặt đất,
đầu gối phải dựng lên, ḷng bàn chân phải
đạp thẳng xuống đất. Cách quỳ này biểu
thị ư nghĩa hết sức cung kính, sẵn sàng nhổm
dậy để thực hiện ngay mệnh lệnh
được giao phó. Trường quỳ là quỳ thẳng
lưng, đùi đặt thẳng góc với mặt đất.
Về sau, hồ quỳ thường được hiểu
là quỳ sao cho mông đặt trên hai gót chân, hai bắp chân
ép sát đất.
[8]
Đây là cách nói phối hợp Thiên Can với Ngũ Hành, tức
là Giáp Ất Mộc, Bính Đinh Hỏa, Mậu Kỷ Thổ,
Canh Tân Kim, Nhâm Quư Thủy. Rơ ràng là cách diễn tả xằng
bậy thánh hiệu đức từ phụ Di Đà để
biện minh cho các khẩu quyết luyện đan, thổ
nạp của họ.
[9] Danh
xưng Ngũ Công Bồ Tát chỉ tồn tại trong Đạo
giáo. Do dân gian Trung Hoa sùng bái Tế Điên ḥa thượng
(thường gọi là Tế Công Hoạt Phật), các miếu
thờ Đạo giáo cũng thờ Ngài. Họ đề
ra hai thuyết phổ biến nhất về Ngũ Công Bồ
Tát:
1. Ngũ Công Bồ Tát là năm lần hóa thân giáng
thế chữa bệnh cứu đời của ngài Tế
Công: Thái Tổ Chí Công Phật Tổ, Nhị Tổ Lăng Công
Phật Tổ, Tam Tổ Khang Công Phật Tổ, Tứ Tổ
Hóa Công Phật Tổ, và Ngũ Tổ Bảo Công Phật Tổ.
Thuyết này khá mơ hồ v́ ngọc phả trong các miếu
đền của họ không thể chỉ rơ pháp danh thật
sự của các vị này, chỉ nói mơ hồ là người
đời Đông Tấn, hoặc đời Tùy.
2. Ngũ Công Bồ Tát chính là các vị tổ
sư bên Thiền hoặc La Hán. Theo đó, Ngũ Công Bồ
Tát chính là Giáng Long La Hán (tức là ngài Tế Công, có tục
danh là Lư Tu Duyên, mặt trắng), Thanh Diện Tế Công (tổ
Đạt Ma), Hắc Diện Tế Công (Phục Hổ La
Hán), Kim Diện Tế Công (Bố Đại ḥa thượng),
Hồng Diện Tế Công (Lư Phủ Tiên Tổ, nhưng chẳng
nêu rơ vị này thật sự là ai).
Ngoài ra, từ truyền thống thờ Quan Công,
tín ngưỡng dân gian Trung Hoa đă đặt ra Ngũ
Công Vương Phật, tức là Quan Công ngồi ở giữa,
bên trái là Quan B́nh bưng hộp ấn, Châu Xương vác
thanh long đao đứng bên phải, sau lưng Quan B́nh là
Trương Tiên cầm cung (ông này là một vị tiên
thường phù trợ sản phụ và trẻ sơ sinh),
sau lưng Châu Xương là Vương Thiên Quân (tức
Thiên Lôi) cầm thiết giản.
[10] Ư
nói: Tận tai nghe người ta dạy cho cách đọc,
không thể dựa vào ghi chú trong sách để phát âm.
[11]
Đây là bốn dấu giọng căn bản của tiếng
Phổ Thông hiện thời, cách giải thích khá phức tạp.
Tạm so sánh thô thiển với âm thanh trong tiếng Việt
như thế này: B́nh thanh là không dấu, thượng thanh
là dấu huyền hoặc dấu hỏi (nhẹ hơn tiếng
Việt rất nhiều), khứ thanh gần như dấu
hỏi (hoặc dấu ngă), nhập thanh gần như dấu
sắc. Tuy vậy, c̣n có âm dương b́nh và âm b́nh, các phân
định rất phiền toái.
[12] Vận
Thư là một thể loại tự điển thời
cổ, ghi chú ư nghĩa, cách đọc. Mỗi từ ngữ
được xếp theo cách đọc và âm vận thay v́
số nét hoặc bộ thủ. Các chữ được
xếp thành nhóm theo âm đọc và dấu giọng, những
chữ trong mỗi nhóm như vậy có cách đọc và
thanh điệu liên quan đến chữ đứng đầu
nhóm đó (thường gọi là Vận Mục). Những
bộ Vận Thư nổi tiếng nhất là Thiết Vận,
Đường Vận, Quảng Vận, Tập Vận, Vận
Phủ Quần Ngọc, Hồng Vũ Chánh Vận, Bội
Văn Thi Vận... Khi viết văn, làm thơ, từ, phú,
người ta thường dựa theo các âm đọc
trong cùng một Vận Mục để gieo vần.
[13] Theo
giọng Quan Thoại, Ha (hē) và
Hà đều đọc là Hé, Kích và Cách đều đọc
là Gé.
[14] “Nhị hợp” là hai chữ
phải đọc thành một, chẳng hạn như trong
câu “sa bà ha” (svaha), chữ Sa
Bà là phiên âm của Sva, nên phải đọc dính lại. “Tam hợp” là ba chữ phải
đọc dính lại, “tứ
hợp” là bốn chữ phải đọc dính lại.
[15]
Người hỏi dùng danh từ như vậy, không phải
là lỗi typo.
[16] Trong
nguyên bản chỉ thấy kể tên sáu vị, không biết
là do cụ Lư kể thiếu hay người biên tập vô ư
ghi thiếu.
[17] Di Lặc
lục bộ kinh: Sáu bộ kinh chuyên nói về Di Lặc Bồ
Tát, tức là Quán Di Lặc Thượng Sanh Kinh (do ngài
Thư Cừ Kinh Thanh dịch), Di Lặc Hạ Sanh Kinh (do
ngài Cưu Ma La Thập dịch), Di Lặc Lai Thời Kinh (mất
tên người dịch), Quán Di Lặc Bồ Tát Hạ Sanh
Kinh (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch), Di Lặc Hạ Sanh Thành
Phật Kinh (do ngài Nghĩa Tịnh dịch) và Di Lặc
Đại Thành Phật Kinh (do ngài Cưu Ma La Thập dịch).
[18] Chúng
tôi dịch câu này theo cách diễn giải trong bộ Quản
Tử Kim Chú Kim Dịch do Lư Miễn biên soạn, Quốc Lập
Biên Dịch Quán Trung Hoa Tùng Thư Biên Thẩm Ủy Viên Hội
hiệu đính.
[19] Chúng
tôi dịch câu này theo cách diễn giải sách Đại Học
của trang nhà Đài Loan Hải Ngoại Vơng. Mao Thi là phần
kinh Thi do Mao Hanh người nước Lỗ sưu tập
vào đời Đông Hán. Thoạt đầu, kinh Thi gồm
có bốn phần lớn, tức Tề Thi, Lỗ Thi, Hàn
Thi và Mao Thi, nhưng ba phần trước đă thất
truyền. Bản kinh Thi lưu hành hiện thời chỉ
có phần Mao Thi.
[20] Chúng
tôi dịch câu này theo cách diễn giải của sách Châu Lễ
Chú Sớ (tập hợp các lời chú giải sách Châu Lễ
của Triệu Bá Hùng, Trịnh Huyền, Giả Công Nhan, Lư
Học Cần v.v…)
[21] Ở
đây, ông Thí Chấn Huy đă lầm lẫn. “Thạch nữ” (石女) là
người đàn bà không có khả năng sinh nở, c̣n ngọc
nữ (玉女) là
tiếng để ca ngợi người con gái đẹp
đẽ, có phẩm hạnh cao quư.
[22] Ở
đây, ông Ngô Cơ Miên cũng tự lẫn lộn. Trong
câu trước, ông ta đă cho chữ 卍 là xoay theo chiều bên trái, ở
đây ông lại gọi nó là xoay theo chiều phải!
[23] “Mẫu châu” (母珠) là hạt
to nhất trong xâu tràng hạt, hai đầu của sợi
chỉ sẽ được luồn qua hạt này, kết
thành tua. “Gián châu” (間珠) là
các hạt nhỏ hơn, hoặc to hơn, thường bằng
chất liệu khác, thường có tác dụng chia chuỗi
tràng hạt thành ba đoạn (hoặc năm đoạn)
nhỏ.
[24] Đây
là cách chú thích âm đọc theo lối phiên thiết, ghép chữ
đầu chữ trước với âm vận của chữ
sau. “Ỷ cấm thiết”
nghĩa là âm vận đầu là Ỷ, ḥa với âm “ấm” của chữ Cấm, sẽ ghép thành Ấm.
[25] “Khuông sàng” (匡牀) có nghĩa là một loại giường
hẹp dài, dùng để ngồi thoải mái, hay ngả
lưng trong chốc lát, làm bằng tre, mây, hoặc dây thừng
bện lại.
[26] Nam
Kha có nghĩa là cành cây mọc ở hướng Nam.
[27]Khuê
chương (圭璋) vốn
là hai thứ ngọc quư, thường dùng làm lễ vật,
ḥng biểu thị phẩm đức tốt đẹp.
[28] Lục
Quán Âm trong Đông Mật là:
1. Thánh Quán Âm cứu độ ngạ quỷ
đạo.
2. Thiên Thủ Quán Âm cứu độ chúng sanh
trong địa ngục đạo.
3. Mă Đầu Quán Âm (v́ trên nhục kế có h́nh
đầu ngựa) cứu độ chúng sanh trong súc sanh
đạo. Mật Tông Tây Tạng đặc biệt sùng
bái vị này, và thường tạo tượng Ngài dưới
h́nh dạng phẫn nộ, tóc tai tua tủa, có cánh, nhe
răng, trừng mắt, viên quang như lửa cháy rừng
rực.
4. Thập Nhất Diện Quán Âm (Quán Âm mười
một mặt), cứu độ chúng sanh trong A Tu La đạo.
5. Chuẩn Đề Quán Âm, cứu độ
chúng sanh trong nhân gian.
6. Như Ư Quán Âm, cứu độ chúng sanh trong
thiên đạo.
Tông Thiên Thai (ở đây, cụ Lư lại gọi
là Đài Tông), lập ra sáu vị Quán Âm cứu độ lục
đạo chúng sanh như sau:
1. Đại Bi Quán Âm cứu độ địa
ngục đạo.
2. Đại Từ Quán Âm cứu độ ngạ
quỷ đạo.
3. Sư Tử Vô Úy Quán Âm cứu độ súc sanh
đạo.
4. Đại Quang Phổ Chiếu Quán Âm cứu
độ A Tu La đạo.
5. Thiên Nhân Trượng Phu Quán Âm (tức Chuẩn
Đề Bồ Tát) cứu độ nhân gian.
6. Đại Phạm Thâm Viễn Quán Âm cứu
độ thiên đạo.
[29] Do từ
ngữ “tứ vạn lục
thiên nhật” có nghĩa đen là “bốn vạn sáu ngàn
ngày”, thế mà cổ nhân thường nói đời người
là ba vạn sáu ngàn ngày (tức là một trăm năm nhân với
ba trăm sáu mươi ngày trong Âm Lịch), nên ông Cao Tân Phát
đă diễn giải từ ngữ ấy như thế. Cụ
Lư không trả lời thắc mắc này!
[30] “Tài đoàn” (財團) là từ ngữ để gọi
một đoàn thể tư nhân có đăng kư về mặt
pháp lư, có toàn quyền sử dụng các quỹ chi tiêu dưới
sự giám sát của một ban cố vấn.
[31] Lục Pháp
Toàn Thư là tổng tập các luật lệ được
áp dụng tại Trung Hoa Dân Quốc. Gọi là Lục Pháp
v́ nó bao gồm sáu lănh vực hiến pháp, tức là dân pháp
(civil law), h́nh pháp, dân sự tố tụng pháp, h́nh sự tố
tụng pháp và hành chánh pháp (bao gồm hành chánh tố tụng
pháp).
[32] Yên
Tân chính là thành phố Thiên Tân, do vùng này thuộc lănh thổ
nước Yên thời Chiến Quốc, nên gọi là Yên
Tân. Cũng như tỉnh Sơn Đông là đất cũ
của nước Tề và Lỗ, nên thường gọi
là đất Tề Lỗ hoặc đất Lỗ.
[33] Theo cách giải thích hiện thời, chẳng
hạn như trong bài Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Chú Thích của cư
sĩ Đặng Lai Tống, “càn
tiêu” (乾肖)
nghĩa là tiêu khát, chính là tên gọi khác của bệnh tiểu
đường. “Hoàng” (黃) là bệnh xơ gan, bụng nổi báng.
C̣n “nhiệt” (熱) là bệnh
truyền nhiễm gây sốt cao.
[34] Theo
tự điển Khang Hy, chữ “窶” có hai cách đọc.
1. “唐韻其矩切,集韻郡羽切” (Đường Vận, Kỳ Củ
thiết, Tập Vận Quận Vũ thiết, “sách
Đường Vận phiên âm là Kỳ+ Củ (tức Củ).
Sách Tập Vận phiên âm là Quận + Vũ, tức Cũ).
2. “集韻郞侯切,正韻盧侯切” (Tập Vận Lang hầu thiết,
Chánh Vận Lư Hầu thiết, “Sách Tập Vận phiên
âm là Lang - Hầu (tức Lâu), sách Chánh Vận phiên âm là
Lư+Hầu, tức Lâu). Người Việt thường
đọc chữ này thành Lũ.
Mạt nhân trộm
nghĩ rằng khi đọc chú, phải đọc thành âm
Củ, hoặc Cũ theo cách đọc thứ nhất, v́
câu này là lời quy kính đức Phật Dược Sư
trong nguyên văn bài chú như sau: “Namo bhagavate
bhaiṣajyaguru, vaiḍūryaprabha rājāya,
tathāgatāya arahate samyak sambuddhāya tadyathā: Oṃ
bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā”.
Chữ “窶嚕” chính là phiên âm của chữ Guru trong câu
chú trên đây, cho nên phải đọc thành Cũ Rô cho gần
với âm tiếng Phạn.
[35] Chú Lục
Tự Đại Minh chính là bài chú: “Oṃ maṇi padme hūṃ”, nhưng có những vị lạt-ma Tây Tạng đọc
biến âm thành “Om, mani beme hum”, người Mông Cổ
th́ đọc thành “Um, maani bad mei khum”. Người Măn
Châu đọc thành “am, mani bami xu”.
[36] Từ
điển Khang Hy ghi cách đọc chữ này là Cừ Liệt
thiết, hoặc Cự Liệt thiết, nên chúng tôi vẫn
giữ âm đọc là Kiệt.
[37] Kỳ Viên
(Jetavana) c̣n được phiên âm là Kỳ Uyển, Kỳ
Hoàn, Chỉ Hoàn, Thệ Đa Lâm, hoặc đôi khi dịch
nghĩa là Thắng Lâm, Khổ Hạnh Lâm v.v… Hằng Hà c̣n
phiên âm là Căng Già Hà.
[38] Sở
dĩ sám pháp nhắc đến tên các vị này là v́ họ
đă hiện diện trong pháp hội khi đức Phật
giảng kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Vô Ngại Đại Bi Tâm
Đà La Ni. Theo kinh chép, khi đức Phật giảng kinh ấy,
ngoài hải chúng Bồ Tát (như Phổ Hiền, Tổng
Tŕ Vương, Dược Vương, Dược Thượng,
Quán Thế Âm, Kim Cang Tạng…), các vị La Hán do ngài Ma Ha Ca
Diếp làm thượng thủ, c̣n có vô lượng chư
thiên từ trời Phạm Ma (tức trời Đại Phạm)
do Thiện Tra Phạm Ma thiên vương làm thượng thủ.
Vô lượng chư thiên từ Dục Giới câu hội
do ngài Cù Bà Già Thiên Tử làm thượng thủ… Lại có
vô lượng thiên nữ từ Dục Giới nhóm họp
do ngài Đồng Mục thiên nữ làm thượng thủ.
Đại Bi Sám Pháp ngoài lễ vị Phật hiện tại
là Thích Ca Mâu Ni Phật ra, c̣n lễ thầy của Quán Thế
Âm trong quá khứ là đức Quán Thế Âm Như Lai, Thiên
Quang Vương Tĩnh Trụ Phật, A Di Đà Phật, Cổ
Phật Chánh Pháp Minh v.v… cũng như các vị thượng
thủ hiện diện trong pháp hội ấy.
[39] Cửu
tộc (九族): Theo cách giải thích thông
thường, cửu tộc là cách xét họ hàng của
người phạm tội để tru di. Cửu tộc
bao gồm bốn họ thuộc về bên nội, ba họ
bên ngoại, hai họ bên vợ. Bốn họ bên nội
bao gồm họ của chính ḿnh (tức cha mẹ, anh chị
em, con cái, chú, bác, cô, thím, con nuôi, cháu chắt nội của
đương sự), con cái của các cô (chị em gái của
cha), con cái của chị em ruột của đương
sự (các cháu gọi ḿnh bằng cậu và con cái chúng nó),
con cái của con gái (tức cháu ngoại). Ba họ bên ngoại
là họ bên ông ngoại, họ bên bà ngoại, và họ của
các cậu (tức là gia đ́nh, con cháu họ). Đối với
hai họ bên vợ th́ chỉ có bố mẹ vợ bị
liên lụy.