Phật Học Vấn Đáp Loại Biên

Quyển Trung

佛學問答類編

Phần 8

Lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam giải đáp

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội,

Đài Loan, 2007)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          * Hỏi: Trong chương thứ ba mươi sáu của Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh có câu “sanh trung quốc nan”. Đó là nói đến nước Trung Thiên Trúc, hay là nói đến Trung Hoa? Nếu là nói về Trung Hoa th́ lại do nhân duyên nào mà khiến thành ra như vậy? (Đồ Trinh Quang hỏi)

 

          Đáp: Đối với chuyện này, phần nhiều cổ đức đă chú giải [“trung quốc”] là nói đến nơi đô hội trong một nước, tức là chỗ được gọi là “trung tâm phồn hoa” trong hiện tại, khác với chốn biên địa, thô lậu. Chốn thô lậu sẽ có văn hóa thấp kém, trí huệ của con người bế tắc, nghe điều tốt lành [thông thường] c̣n khó, huống là đạo giải thoát ư?

 

          * Hỏi: Trong Phật pháp chia thành các pháp môn thuộc mười tông. Sự phân chia các pháp theo tông phái ấy là do thuở đức Phật tại thế đă chế định, hay là do các vị tổ sư đời sau tự chia, nhằm [ứng hợp với chuyện] nên dùng pháp nào để độ chúng sanh đó chăng? Mong hăy chỉ dạy! (Bảo Tâm hỏi)

 

          Đáp: Mười tông chính là do học nhân Trung Hoa phân định. Bởi lẽ, Phật pháp mênh mang như khói lan tỏa trên mặt biển, bạc đầu nghiên cứu vẫn chẳng thể [thấu hiểu] cùng tận! Do vậy, bèn chọn lấy một loại để chuyên môn tu tập. Đấy là nói đại lược [nguyên nhân v́ sao] phân chia [thành từng tông]. Nếu có thể khế nhập sâu xa một tông, hạnh giải tương ứng, chẳng dấy lên Ngă Chấp và Pháp Chấp, có thể thông suốt một pháp th́ trăm pháp đều thông suốt vậy!

 

          * Hỏi: Chú tâm của chú Lăng Nghiêm là câu nào? (Lưu Nhân Phước hỏi)

 

          Đáp: Trong kinh cũng đă nói rơ. Kinh dạy: “Thị đảnh quang tụ, tất đát đa bát đát ra (Sitātapatrā), bí mật già đà, vi diệu chương cú” (Đoạn kinh văn vi diệu, lời kệ bí mật “tất đát đa bát đát ra”, là khối quang minh phát ra từ đỉnh đầu này). Kế đó, lại nói: “Nhân thử chú tâm, đắc thành Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác” (Do chú tâm này mà được thành Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác), [có tất cả] mười đoạn tán thán như vậy. Ông tra duyệt [kinh Lăng Nghiêm] để đối chiếu, sẽ tự biết.

 

          * Hỏi: Trung Quán và Trung Đạo có phải là một hay không? Trong đạo Trung Quán, có phải là có thể coi như là “chiếu liễu phân biệt” hay không? (Ngô Nhậm Huy hỏi)

 

          Đáp: Trung Đạo chính là Trung Đế. Trung Đế là nói tới Sự, Lư. Trung Quán là nói tới phép Quán của người hành tŕ. Một đằng là động từ, một đằng là tĩnh từ[1], rơ ràng là hai, nhưng Quán điều ǵ? Quán Đế ấy. Dùng ǵ để hiểu rơ Đế ấy? Mượn phép Quán để chiếu. “Chiếu liễu phân biệt” chính là vấn đề công phu, hoàn toàn chẳng phải là hễ quán sẽ liễu (, thấu triệt) ngay! Kẻ nông cạn sẽ không thể [vừa quán bèn liễu ngộ], người căn cơ sâu dầy th́ có thể.

 

          * Hỏi: Trong học kỳ trước, tại trường học, tôi đă từng hỏi thầy Hứa Tổ Thành: “Như thế nào mới là đệ tử Phật thật sự?” Thầy Hứa bảo: “Ắt phải tham dự lễ quy y thật sự th́ mới có thể coi là đệ tử Phật thật sự. Nếu không, chỉ có thể coi là tùy duyên đệ tử”. Quy y là nương tựa. Chúng ta nương vào Phật pháp trong kinh Phật, chiếu theo những ǵ Phật pháp đă dạy để hành, chẳng lẽ như thế mà vẫn chẳng thể coi là đệ tử thật sự của đức Phật ư? Thầy Hứa là bậc Thái Sơn, Bắc Đẩu trong Phật học; có thể là trong lời dạy của thầy ấy có khá nhiều câu khai thị, nhưng đệ tử thật sự chẳng thể liễu giải. Cúi xin thầy hăy giải thích rơ ràng cho đứa học tṛ ngu muội này! (Trần Chánh Mân hỏi)

 

          Đáp: “Quy y” là bỏ đường mê, nương về lẽ chánh yếu, nương theo giáo pháp để hành. Hai chữ ấy được giải thích như thế đó. Tiếp nhận pháp ấy, th́ gọi là “sư thừa” (師承), tức là tôn Tam Bảo làm thầy của ta, ắt có nghi thức, có chứng thư (điệp quy y) v.v… cho nên gọi là “đệ tử chánh thức”. Như vào học một trường nào đó, ắt phải dự thi, ghi danh v.v… th́ mới có học bạ. Nếu chẳng trải qua những thủ tục ấy, tuy vẫn vào lớp học, chỉ gọi là “học sinh dự thính”. Đó là chỗ khác biệt. Hơn nữa, đối với hai chữ “thật sự”, cũng có những cách giải nói khác nhau. Có kẻ hành tŕ thật sự và kẻ trọn đủ nghi thức! Người thật sự tu nhưng không quy y th́ gọi là “tư thục đệ tử”. Kẻ chỉ trọn đủ h́nh thức, nhưng chẳng tu, hữu danh vô thực, sẽ chẳng đạt được lợi ích.

 

          * Hỏi: V́ sao “pháp sư” chỉ chuyên dùng cho tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, c̣n tại gia cư sĩ chẳng thể dùng? Chẳng lẽ một thầy lang, chẳng phải là sinh viên đă tốt nghiệp từ viện y học, nhưng có thể chữa bệnh, sẽ chẳng thể gọi là “thầy thuốc” hay sao? Một người có thể thực hiện tốt đẹp công tác giáo dục tuy chẳng phải là sinh viên tốt nghiệp từ trường sư phạm, sẽ chẳng thể gọi là giáo viên ư? Cùng một lẽ ấy, v́ sao một vị cư sĩ tinh thông Phật lư, hành Bồ Tát đạo, chẳng thể gọi là pháp sư? (Trần Chánh Mân hỏi)

 

          Đáp: Danh hiệu “pháp sư” thật ra hoàn toàn chẳng nghiêm ngặt. Kinh Pháp Hoa liệt kê năm loại pháp sư, Biện Trung Biên Luận kể ra mười loại pháp sư. Phàm những ai có thể thọ tŕ, đọc tụng, đều có thể gọi là “pháp sư”, chẳng hạn định là xuất gia hay tại gia. Nhưng do phong tục ở một thời nào đó, do thói quen tại một vùng nào đó, mà h́nh thành những từ ngữ chuyên dụng, cũng chẳng ngại thuận theo thói tục để vạch ra giới tuyến. Hễ nghe [từ ngữ ấy], sẽ biết rơ ràng, chẳng lẫn lộn. Tự khiêm, đề cao người khác chính là mỹ đức (đức hạnh tốt đẹp).

 

          * Hỏi: Phân biệt “quán vô niệm”, “khán thoại đầu” “ly tướng niệm Phật” như thế nào? (Khiết Viên hỏi)

 

          Đáp: Hai loại trước là “tâm vô Phật”, loại sau là tâm hữu Phật.

 

          * Hỏi: “Vô trụ sanh tâm”,“Chân Không Diệu Hữu”, Chỉ Quán có phân biệt hay không? (Khiết Viên hỏi)

 

          Đáp: “Vô trụ sanh tâm” là chẳng để cho vọng niệm có chỗ phan duyên, cũng chẳng nhờ vào phương tiện khiến cho nó có chỗ trụ. Tuy là như thế, vẫn cần phải giác chiếu hiện tiền, không làm mà làm, hành rộng răi Lục Độ. V́ thế, nói là “sanh tâm”. Chân Không Diệu Hữu là nói tới sự dung hợp giữa Không và Hữu. Nói Chân Không chính là Diệu Hữu, ví như Tâm Kinh đă nói: “Không chính là Sắc”. Chỉ Quán là một cách tu. Chỉ () là dứt vọng tâm duyên lự. Quán () là quán Thật Tướng của chân tâm.

         

          * Hỏi: Kim Cang Vương Bảo Kiếm và Bát Nhă Huệ có tương đồng hay không? Nếu bất đồng, chữ Kiếm () ấy có ư nghĩa như thế nào? (Ngô Nhậm Huy hỏi)

 

          Đáp: Bát Nhă là nói về thể đức của tánh. Kim Cang Vương Bảo Kiếm là từ ngữ tỷ dụ. Kim Cang Kiếm vừa cứng chắc, vừa sắc bén. Do sắc bén, có thể chặt đứt hết thảy; do cứng chắc, sẽ không bị hết thảy làm hư hoại. Tánh Bát Nhă cũng giống như vậy.

 

          * Hỏi: Câu “sở vị Phật pháp giả, phi Phật pháp dă, thị danh Phật pháp” (cái được gọi là “Phật pháp” chẳng phải là Phật pháp, th́ gọi là Phật pháp) xuất phát từ kinh điển nào? (Ngô Nhậm Huy hỏi)

         

          Đáp: Xuất phát từ kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật.

 

          * Hỏi: Gần đây, nhật báo có đăng tải bức điện gởi cho các tăng sĩ người Hoa nhập ngũ, trong ấy có câu: “Do bảo vệ sanh mạng mà phải giết chóc, La Hán lấy chuyện đó làm phận sự. Do bảo vệ đạo mà hàng ma, bậc Bồ Tát v́ đó mà vung kim cang xử”. Chuyện ấy xuất phát từ kinh điển nào? (Ngô Nhậm Huy hỏi)

 

          Đáp: Trong các ư nghĩa của La Hán, có một ư nghĩa là “sát tặc” (殺賊, giết giặc). Cần phải biết, ư nghĩa ấy nhằm tỷ dụ chuyện đoạn hết phiền năo, chẳng phải là vung đao giết người. Vi Đà Bồ Tát vũ trang hộ pháp, vũ khí do Ngài cầm được gọi là “hàng ma xử” (降魔杵, chày hàng phục ma). Trong chùa, phần nhiều thờ Ngài. Tác giả [của bức điện tín ấy] đă nối kết những điều đó để viết thành câu, chẳng cần phải t́m ṭi [xuất xứ của những câu nói ấy] từ các kinh điển.

 

          * Hỏi: V́ sao người xuất gia trong Phật giáo có các danh hiệu như ḥa thượng, pháp sư, sư phụ, kinh sám sư (tử) v.v… V́ sao có những danh hiệu ấy? Có phân biệt cao thấp hay không? Xin hăy giải đáp tường tận, ḥng được nghe lẽ đúng đắn! (Đào Dân Trị hỏi)

 

          Đáp: Người xuất gia đều gọi là “pháp sư”. Hai chữ Ḥa Thượng [có ư nghĩa] tôn trọng nhất, thế tục lại ngược ngạo tưởng lầm đó là danh từ thông thường [để gọi người xuất gia][2]. “Sư phụ” thật ra từ ngữ xưng hô của thế tục [đối với người xuất gia]. “Kinh sám sư” là nói tới người chuyên làm Phật sự (cúng kiếng, tụng niệm, bái sám) cho người khác. Trong Phật môn, những người này đều có danh phận, học nhân ai nấy đều biết, chớ nên lẫn lộn! Người thế tục không hiểu Phật pháp, tùy tiện họ gọi như thế nào, ai tranh luận với họ?

 

          * Hỏi: Xin chỉ giáo về tham, sân, si, và ba ngôi chân lư Giới, Định, Huệ. (Nhậm Quư hỏi)

 

          Đáp: Tham là đối với tài, sắc, danh vọng, ăn uống, tâm sanh tham mến. Sân là gặp chuyện chẳng như ư, bèn nổi nóng đùng đùng. Si là chẳng thể liễu giải chân lư chánh đạo. Kẻ như vậy là kẻ hôn mê. Kẻ hôn mê sẽ xử sự sai lầm, nhất định sẽ chuốc lấy ác quả, chịu khổ vô cùng. Giới là giới luật của Phật pháp, cấm ngặt tạo ác. Mức độ thấp nhất là cần phải kiêng giết, trộm, tà dâm. Định là trong tâm luyện tập an tĩnh, chẳng cần xung động đối với hết thảy mọi sự, phải giống như nước lặng. Chuyện này cần phải vận dụng một phen công phu th́ mới có thể đạt được. Huệ là hiểu rơ sự lư, chẳng có mảy may sai lầm. Chuyện này cần phải nghe Phật pháp cho nhiều, cầu tâm tĩnh cho nhiều th́ mới có thể đạt được. Tham, sân, si là ba thứ bệnh; Giới, Định, Huệ là ba loại thuốc tốt lành để trị bệnh tham, sân, si.

 

          * Hỏi: Nếu đối trước Phật sám hối, tuy khó mà dễ. Khó ở chỗ phải thấy được tướng tốt lành th́ tội mới trừ diệt. Tướng tốt lành là ǵ? (Lư Ứng Nam hỏi)

 

          Đáp: Cư sĩ đọc loại phương pháp sám hối nào, đọc loại chú giải nào, kẻ hèn này chẳng biết, khó trả lời phù hợp! Nếu dựa theo [câu hỏi] “hảo tướng là ǵ”, tôi sẽ lược thuật đại khái. Phàm là hết thảy các tướng thù thắng nơi thân Phật, như bạch hào, chữ (Vạn), quang minh sắc vàng ṛng v.v…, các thứ vật trang nghiêm như tràng, phan, lọng báu, kinh, tượng, pháp khí v.v… những vật để cư trụ như chùa, miếu, phù đồ (tháp thờ Phật), cây báu, hoa quư v.v… quyến thuộc của Phật như Bồ Tát, La Hán, tăng-già, hộ pháp v.v… đều là các hảo tướng. Hoặc là thấy trong Định, hoặc là hiện ra trong giấc mộng, đều là tướng cảm ứng diệt tội.

 

          * Hỏi: Tŕ kinh A Di Đà, mỗi ngày đọc một biến, chỉ có thể đọc, chẳng thể tụng (xướng niệm) th́ có được hay không? Trong phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện, có câu “ưng đương đế thọ, thọ dĩ năng độc, độc dĩ năng tụng, tụng dĩ năng tŕ” (hăy nên lănh nhận chắc thật, đă nhận rồi bèn có thể đọc, đọc rồi có thể tụng, tụng rồi có thể hành tŕ). “Độc, tụng, thọ, tŕ” trong đoạn kinh văn ấy là nói đến điều ǵ? (Trịnh Triều Tín hỏi)

 

          Đáp: Chẳng thể xướng niệm, hoàn toàn chẳng sao cả! Chỉ cần có ḷng thành, đó là điều kiện thiết yếu nhất! “Thọ” () là tin tưởng, tiếp nhận. “Độc” (, đọc) là đối trước mắt mà niệm, “tụng” () là đọc thuộc ḷng (ở chỗ này, mặt chữ phân biệt là như thế. “Học tụng” chính là đọc). Tŕ () là phụng hành nghĩa lư trong ấy. Ở đây, nhằm nói: Người học đối trước kinh Phật, hăy nên làm như thế.

 

          * Hỏi: Niệm thầm là ǵ? (Có phải là nói đến môi mấp máy mà thôi hay không?) Thế nào là Kim Cang niệm? (Đồ Trinh Quang hỏi)

 

          Đáp: Môi mấp máy, phát ra tiếng rất khẽ chính là Kim Cang niệm. Chẳng cần biết là môi động hay không, hễ chẳng phát ra tiếng th́ đều là “niệm thầm”.

 

          * Hỏi: Chữ “duyên” () nên giải thích như thế nào? (Hoàng Tuấn Kiệt hỏi)

 

          Đáp: “Duyên” là chuyện nào đó gặp cơ hội phụ trợ hay phá hoại. “Phụ trợ” là giúp cho nó thành công; “phá” là phá hoại chuyện ấy, khiến cho nó chẳng thành. Như ông muốn vượt sông, chợt có một chiếc thuyền đưa tới, đó chính là trợ duyên. Nếu ông muốn uống trà, chén trà chợt rơi xuống đất. Đấy chính là phá duyên.

         

          * Hỏi: Thân thọ y báo là ǵ? (Thạch Hà Hương, Từ Lệ Phân hỏi)

 

          Đáp: “Thân” là thân h́nh do Tứ Đại giả hợp. Cái thân ấy trong khoảng từ sống đến chết có một đoạn thời gian [tồn tại, khoảng thời gian ấy] gọi là “thọ mạng”, tức là “thân thọ” (身壽). Có thân, ắt sẽ có chỗ để nương gá, cùng với ăn uống, vật dụng, đều phải nương vào những thứ ấy để sống, nên gọi là Y (, nương vào). Muôn pháp do nhân duyên sanh. Pháp được sanh bởi [nhân duyên] gọi là Quả. Trước đó, ắt tạo nghiệp, gọi là “nhân”; về sau mới kết thành quả, gọi là “báo” ().

 

          * Hỏi: Sở Duyên Duyên (所緣緣) là ǵ? (Trong Phật Học Thường Thức Khóa Bổn, đă coi “hy vọng chủng tử” như Sở Duyên Duyên, xin hỏi “hy vọng” là nói đến điều ǵ?) (Thạch Hà Hương, Từ Lệ Phân hỏi)

 

          Đáp: Chữ Duyên thứ nhất là động từ, chữ Duyên tiếp theo là danh từ. Chữ Duyên sau cùng [trong từ ngữ “sở duyên duyên”] nhằm nói đến một duyên trong bốn thứ duyên. Chữ Duyên trước đó nên hiểu là “phan duyên” (攀緣, nắm níu). Ư ở chỗ nào, bèn phan duyên nơi đó. V́ thế, gọi là Sở Duyên Duyên.

 

          * Hỏi: Nếu đă hiểu Nhất Thiết Trí và Đạo Chủng Trí, có thể coi như là đă thông hiểu Nhất Thiết Chủng Trí. Có phải là như thế hay không? (Lư Trị Trung hỏi)

 

          Đáp: Đối với các trí, chẳng thể nói là hiểu hay không hiểu! Chỉ có thể nói là chứng hay không. Sau khi đă tu chứng Nhất Thiết Trí và Đạo Chủng Trí, Nhất Thiết Chủng Trí cũng cần phải do tu chứng mà có. Người học tuy đă chứng đắc Nhất Thiết Trí và Đạo Chủng Trí, cần phải “đầu sào trăm trượng, tiến thêm một bước nữa!”

 

          * Hỏi: Thầy có thể nêu thí dụ giảng rơ về Sở Tri Chướng hay không? (Lư Trị Trung hỏi)

 

          Đáp: Ví như một chậu canh nóng hừng hực, trên đó sẽ tỏa hơi. Người đă trưởng thành, biết đó là hơi nóng, biết nó nóng bỏng. Đứa trẻ ba tuổi, cũng thấy hơi nóng ấy, dám đưa tay sờ thử, [do nó] không biết canh nóng hổi. Thấy hơi nóng bèn biết vật ấy nóng hổi, ai nấy đều biết. Kẻ ngược ngạo chẳng biết, chính là trí bị chướng ngại vậy!

 

          * Hỏi: Thời gian chia thành tam tế[3] rất hợp lư, cớ sao không gian chia thành mười phương? “Sâm la vạn tượng” là ǵ? (Lư Trị B́nh hỏi)

 

          Đáp: Đông, Tây, Nam, Bắc là bốn phương hướng, bốn góc Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc lại là bốn phương hướng nữa; trên đầu và phía dưới con người, lại có hai phương hướng, hợp thành mười phương. Trong mười phương, có chỗ rỗng không, nên gọi là “không gian”. Chỗ ta đang đứng đây, vẫn có mười phương. Suy ra các chỗ trong mười phương, mỗi nơi đều có mười phương của nó. V́ thế nói là “không gian thập phương”. Trong không gian, có mặt trời, mặt trăng, núi, sông, cỏ cây, chim, thú, hết thảy mọi vật, đều có các hiện tượng la liệt, tầng tầng lớp lớp kín chặt, chẳng thể nói trọn hết được. V́ thế, gọi khái quát là “sâm la vạn tượng” (森羅萬象).

 

          * Hỏi: Xin thầy lại giảng rơ mối quan hệ giữa duyên và tướng là như thế nào? (Du Tường Châu hỏi)

 

          Đáp: “Duyên” là một thứ cơ hội nào đó xảy đến, thúc đẩy chuyện ấy thành hay bại. Chuyện này thuộc về phương diện sự lư. Tướng () là hiện tượng của một sự vật nào đó, biểu hiện thành h́nh thái, thuộc về phương diện trạng huống.

 

          * Hỏi: Mối quan hệ giữa pháp và tánh là như thế nào? (Du Tường Châu hỏi)

 

          Đáp: “Pháp” () là danh từ chung chỉ vạn sự, vạn lư, nhưng mỗi sự lư có tự thể của sự lư ấy. Tự thể ấy được gọi là “pháp”. Mỗi tự thể có trạng thái của nó. Trạng thái ấy cũng gọi là “pháp”. Do Sự Lư phức tạp như vậy, trạng thái của tự thể lại sai khác muôn vàn, nói ra rất phức tạp. Do vậy, dùng một chữ (Pháp) để biểu thị chung. Tánh () là bản thể vốn có của vạn vật. Chữ Tánh ấy chính là miễn cưỡng nói tỷ dụ. Giống như vật chất [h́nh thành] từ nguyên tố, mà nguyên tử, điện tử, trung tử (neutron) cũng thế. Thật ra, trung tử vẫn c̣n có thể chia nhỏ, đến mức đó th́ cũng chẳng có cách nào để tỷ dụ được nữa, nhưng có thể nói là vạn vật đều có, chỉ có những thứ không có h́nh tướng, không có âm thanh, nhiều người không biết th́ ắt phải nói rơ.

 

          * Hỏi: Luân hồi trong lục đạo, có phải là địa ngục, ngạ quỷ, Sắc Giới và Vô Sắc Giới thuộc thiên giới đều là hóa sanh hay không? Hay là sanh như thế nào? Xin hăy dạy cho! (Lâm Kim hỏi)

 

          Đáp: Cơi trời và địa ngục đều là hóa sanh, ngạ quỷ th́ có tứ sanh.

 

          * Hỏi: Khoa học gia hiện thời hướng đến mặt trăng trong không gian [để nghiên cứu], mặt trăng ấy có phải là mặt trăng ở lưng chừng núi Tu Di như kinh Phật đă nói hay không? (Cố Phượng Anh hỏi)

 

          Đáp: Trong vũ trụ, không phải là chỉ có một mặt trăng[4]. Đức Phật nói [mặt trăng] ở lưng chừng núi Tu Di chính là mặt trăng xoay quanh địa cầu mà mắt con người có thể thấy được. Mặt trăng mà giới khoa học thăm ḍ trong không gian cũng là mặt trăng trong một đơn vị thế giới như kinh Phật đă nói; bởi lẽ, mặt trăng ấy ở gần địa cầu, có thể trông thấy. V́ vậy, có thể thăm ḍ.

 

          * Hỏi: Giả sử là mặt trăng ở lưng chừng núi Tu Di, chẳng phải là Tứ Vương Thiên[5] cũng ở lưng chừng núi Tu Di ư? Có thể đến nơi đó hay không? (Cố Phượng Anh hỏi)

 

          Đáp: Dựa theo cách nói về sự an lập của thế giới, Tứ Vương Thiên vốn ở ngang lưng núi Tu Di. Do bốn phía núi ấy, mỗi phía đều có một cơi trời, nên gọi là Tứ Thiên. Chư thiên trời Đao Lợi bắt đầu sống trên đỉnh núi Tu Di, các cơi trời khác vượt cao hơn.

 

          * Hỏi: Chương Viên Giác Bồ Tát trong kinh Viên Giác có nói: “Nhược chư chúng sanh tu ư Thiền Na, tiên thủ sổ môn, tâm trung liễu tri sanh trụ diệt niệm, phân tễ đầu số” (Nếu các chúng sanh tu Thiền Na, trước hết chọn lấy mấy môn, trong tâm hiểu rơ các loại niệm sanh, trụ, diệt khác biệt). Xin hăy dạy tường tận bốn chữ “phân tễ đầu số” và nêu thí dụ. (Triệu Triết hỏi)

 

          Đáp: Câu “phân tễ đầu số” hoàn toàn chẳng phải là Phật lư, mà là từ ngữ thông dụng vào một thời, tại một nơi. “Phân tễ” (分劑) có ư nghĩa giống như “phân biệt”. “Đầu số” (頭數) là đầu mối. Nói gộp lại, sẽ có nghĩa là “nhiều loại đầu mối”.

          Nói thêm, trong hai thư trước và sau, cư sĩ hỏi tất cả sáu điều; ở đây, tôi chỉ đáp hai điều, bốn câu hỏi kia thuộc về vấn đề giải thích kinh văn, cũng như vấn đề so sánh giữa các phiên bản khác nhau, xin dung thứ chẳng đáp. V́ để giải thích kinh văn, cần phải xem mạch lạc trước và sau đoạn kinh ấy để quyết định, chẳng thể cắt xén chương đoạn để hiểu nghĩa. Về sau, nếu ông nghiên cứu kinh điển, hăy nên xem nhiều bản chú giải. Hễ thấy có chỗ mâu thuẫn, sẽ nêu câu hỏi th́ hay hơn. Để so sánh phiên bản, cần phải chọn một bản hoàn chỉnh để làm chuẩn. Kẻ hèn này trong tay thiếu thốn [tài liệu], chẳng dám nêu ư kiến đoán định, mong hăy lượng thứ.

 

          * Hỏi: Trong lục đạo luân hồi, có thiên đạo, nhân đạo, A Tu La đạo, súc sanh đạo, ngạ quỷ đạo, địa ngục đạo, chẳng giống như phú quư đạo, bần tiện đạo, thai sanh đạo, noăn sanh đạo, thấp sanh đạo, hóa sanh đạo. V́ sao danh xưng của sáu thứ luân hồi trong lục đạo này chẳng giống nhau? Đối chiếu giữa đôi bên, có khác biệt hay chăng? (Vương Tác Cát hỏi)

 

          Đáp: Nói từ cơi trời cho đến địa ngục, xuất phát từ kinh Phật, sáu đường bất đồng, có thể thấy phân minh. Cao sang, giàu có, nghèo nàn, hèn mọn đều là nhân đạo, [nói kiểu đó] chính là “trên đầu chồng thêm đầu”. Thai, noăn, thấp, hóa th́ chỉ một đường súc sanh đă đều có đủ, [nếu bảo là “bốn đường”, tức là] hỗn loạn, chẳng rơ ràng. Phật giáo truyền vào Trung Hoa, người trí học theo, những kẻ hư vọng và ngoại đạo bèn trộm cắp, mô phỏng, do bọn họ vốn chẳng có học lư, không thể nào chẳng tạo ra kinh điển hư ngụy, bèn lôi Đông, kéo Tây, thay đầu, đổi mặt, lường gạt kẻ ngu, ḥng thỏa ḷng riêng tư!

 

          * Hỏi: Tứ đại bộ châu đều ở trong Diêm Phù Đề, tức địa cầu của chúng ta, và cũng có quả địa cầu khác ư? (Đới Thiêm Đinh hỏi)

 

          Đáp: Diêm Phù Đề (Jambudvīpa) là tên của một đại bộ châu, tức là tinh cầu mà chúng ta đang sống. Bốn tinh cầu như thế được gọi là bốn đại châu. Châu mà chúng ta đang sống ở phía Nam núi Tu Di, ba châu kia ở Đông, Tây, Bắc, có tên gọi là Đông Thắng Thần Châu (Pūrvavideha), Tây Ngưu Hạ Châu (Aparagodānīya) và Bắc Câu Lô Châu (Uttarakuru).

 

          * Hỏi: Xin giải thích về đại sĩ và khai sĩ? (Đới Thiêm Đinh hỏi)

         

          Đáp: Đấy đều là những danh từ xưng hô tôn kính, chẳng trọng yếu cho lắm. Khai Sĩ nghĩa là bậc đă khai ngộ, lại c̣n có thể khơi gợi, hướng dẫn người khác. Đại Sĩ là bậc có thể làm chuyện to lớn tự lợi, lợi tha, rơ ràng chẳng phải là hành giả Tiểu Thừa tự lợi vậy.

 

          * Hỏi: Bách giới thiên như là [mỗi pháp giới] trong mười pháp giới lại có mười giới, chẳng biết là mười giới nào? (Trịnh Chí Tây hỏi)

 

          Đáp: Mười giới là Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn (tứ thánh), trời, người, Tu La, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, đấy là lục phàm. Muôn pháp ở nơi tâm, giới do tâm hiện. Trong mỗi giới đều có mười giới ấy, hợp thành một trăm, cho nên gọi là “bách giới”.

 

          * Hỏi: “Khai ngộ” là ǵ? Có phải là vốn chẳng biết, một ngày nào đó bỗng dưng quán thông? Từ thời Dân Quốc đến nay, có vị nào khai ngộ hay không? (Vương Huyễn Như hỏi)

 

          Đáp: Khai ngộ có tục và đạo sai khác! “Đạo” là nói theo tâm tánh, chẳng thuộc về thế tục, trước chẳng hiểu, về sau hiểu. Nếu hỏi thời Dân Quốc có ai khai ngộ hay không, [xin hỏi chuyện ấy] đối với cư sĩ có quan hệ ǵ hay chăng?

 

          * Hỏi: Giáo kỳ Phật giáo năm màu, chia thành năm dải màu nằm ngang và năm dải dọc. Xin hỏi về nguồn gốc lịch sử của lá cờ ấy, và ư nghĩa của năm màu! (Vương Chí Thành hỏi)

 

          Đáp: Giáo kỳ được chọn lựa và thông qua trong cuộc họp mặt hữu nghị giữa các tín đồ Phật giáo thế giới cử hành tại Tích Lan (Sri Lanka) vào năm 1950[6]. Năm màu có nghĩa là [màu sắc] của năm loại quang minh do đức Phật phóng ra nhằm độ chúng sanh trong năm đường. Khi đức Phật mới thành đạo, trước hết, Ngài phóng ra bốn thứ trí quang xanh, vàng, đỏ, trắng. Sau đó, lại phóng ra quang minh màu cam tổng hợp [các màu trên đây]. Cờ Phật giáo mang ư nghĩa này, có ư nghĩa theo chiều dọc và chiều ngang đều trọn khắp mười phương.

 

          * Hỏi: Hướng về đức Phật đảnh lễ, nam nữ có khác biệt hay không? Tôi thấy động tác của các tín chúng tợ hồ chẳng hoàn toàn giống hệt như nhau. Động tác tiêu chuẩn là như thế nào? (Xin hăy chỉ dạy, phân tích động tác) (Vương Chí Thành hỏi)

 

          Đáp: Đảnh lễ và chắp tay có đến mười hai loại. Quỳ cũng có trường quỳ và hồ quỳ[7], lạy th́ có h́nh thức hai bàn tay đều giơ lên, có khi th́ chắp tay đặt trước ngực, có trường hợp tứ chi duỗi thẳng, toàn thân gieo xuống đất v.v… Nhưng cách thức lật ngửa bàn tay để tiếp túc (ôm chân đức Phật), và năm vóc gieo xuống đất (ngũ thể đầu địa) là phổ biến nhất, chẳng phân nam nữ đều hành được. Nhưng cách thức phổ biến nhất là đứng lên và quỳ xuống, cũng cần có người đích thân chỉ điểm th́ mới có thể làm đúng theo nghi thức được. Nếu đúng nghi thức, đại chúng sẽ không một ai chẳng giống nhau. Ông thấy [mọi người lễ bái] chẳng giống nhau là v́ chưa đúng nghi thức vậy.

 

          * Hỏi: Trong Từ Bi Đạo Tràng Lương Hoàng Bảo Sám, quyển bốn (trang bảy mươi bảy), hai câu “tứ đẳng lục độ”“tứ biện lục đạo” có ư nghĩa ǵ? (Vương Chí Thành hỏi)

 

          Đáp: Tứ Đẳng có nhiều loại khác nhau, như “từ bi hỷ xả, từ bi hỷ hộ, tự ngữ Pháp Thân”, c̣n có những thứ khác nữa, đều gọi là Tứ Đẳng. Phổ biến nhất th́ là “từ, bi, hỷ, xả”. Lục Độ là bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhă. Tứ Biện là “pháp, nghĩa, từ, nhạo thuyết”, tức Tứ Vô Ngại Trí. Lục Thông là Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Thần Túc, Tha Tâm, Túc Mạng, Lậu Tận. Ở đây, bất quá nêu ra hai mươi loại danh xưng, c̣n ư nghĩa như thế nào, do phạm vi của cột báo này, chẳng thể chú giải cho ông được. Dẫu có chú thích đi nữa, kẻ sơ học cũng chẳng liễu giải! Nếu người mới học muốn nghiên cứu giáo, ắt phải từ cạn tiến đến sâu, có thứ tự. Nếu Đông hỏi một câu, Tây hỏi một câu, lộn xộn rối ren, đến già vẫn chẳng thành!

 

          * Hỏi: [Đối với danh hiệu] U Minh giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát, hai chữ U Minh giải thích như thế nào? (Ôn A Nguyệt hỏi)

 

          Đáp: U Minh (幽冥) là tối tăm, chẳng sáng sủa. Quang minh là danh xưng chung của cơi dương trần, U Minh là danh xưng chung của cơi âm. Do vậy, hai đường ngạ quỷ và địa ngục đều gọi chung là U Minh. Độ chúng sanh trong địa ngục khó hơn trong những đường khác, nhưng “địa ngục chẳng trống, thề chẳng thành Phật”. Nguyện của Địa Tạng Bồ Tát [là như vậy đó], cho nên [chúng sanh trong] địa ngục tôn ngài Địa Tạng là giáo chủ.

 

          * Hỏi: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” có ư nghĩa ǵ? (Nguyệt cư sĩ hỏi)

 

          Đáp: Đấy là nói đến chân lư rốt ráo nơi Thật Tướng của các pháp, ngôn ngữ chẳng thể diễn đạt được, mà suy nghĩ cũng chẳng thấu đạt được, đồng nghĩa với “ngôn vong, lự tuyệt” (quên lời, dứt nghĩ). “Ngôn ngữ” (言語) là sự giải thích, biện định bằng miệng, “đạo đoạn” (道斷) nghĩa là ở nơi ấy, đường nẻo đều bị cắt đứt. “Tâm hành” (心行) là dấy lên ư niệm suy nghĩ. “Xứ diệt” (處滅): Chỗ này cũng đoạn diệt, chẳng thông!

 

          * Hỏi: Báo chí trích dẫn kinh điển như sau: “Có nhân, có duyên, thế gian nhóm. Có nhân, có duyên, nhóm thế gian. Có nhân, có duyên, thế gian diệt. Có nhân, có duyên, diệt thế gian”. [Đoạn ấy] ở trong kinh điển nào, và lư luận như thế nào? (Tăng Khải Nguyên hỏi)

 

          Đáp: Sách vở thế gian và hết thảy các ngôn ngữ danh tướng nhiều như cát sông Hằng khó thể nghĩ lường, làm sao có thể biết hết cho được? Bốn câu như ông đă hỏi là do thấy nghe từ chỗ nào? Đăng trên báo nào? Có thể hỏi thăm nơi họ. Nếu xuất phát từ sách vở chánh thức, sẽ có thể t́m ṭi, tham khảo, xem có thể đáp được hay không, sau đấy mới quyết định. Nay đă chẳng biết xuất xứ, tuy có thể dựa theo văn tự để suy đoán ư nghĩa, nhưng cũng chẳng tiện mạo muội chuốc lấy chuyện lỡ lời!

 

          * Hỏi: Tam giới là ở chỗ nào? Có thuộc về chỗ loài người chúng ta sống hay không? Pháp giới lại ở chỗ nào? V́ sao gọi là pháp giới? Là chỗ các vị tiên ở hay chăng? Hay là tam giới và pháp giới, danh xưng bất đồng, nhưng thật sự là cùng một chỗ? (Lâm Tú Diễm hỏi)

 

          Đáp: Tam giới là Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới. Chúng ta sống trong Dục Giới. Vượt lên cao hơn khỏi sáu tầng trời [thuộc Dục Giới], sẽ có tên gọi là Sắc Giới. Từ Sắc Giới tiến lên cao hơn mười tám tầng, gọi là Vô Sắc Giới. Đây là nói đại khái. [Tam giới] đều chẳng ĺa uế độ sanh tử. Hết thảy Sự, hết thảy Lư, hết thảy vật, gọi chung là “pháp”. Giới () là phạm vi của một lănh vực. Nói gộp chung lại th́ là “pháp giới”. Ấy là v́ có giới bèn có pháp, có pháp bèn là giới. Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, [Duyên Giác] là bốn thánh giới; trời, người, Tu La, súc sanh, quỷ, địa ngục là [sáu] phàm giới. Mười giới ấy đều gọi là “pháp giới”. Ba giới như đă nói trong phần đầu (Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới) gọi là “tam pháp giới”. Mười giới như đă nêu ở đây gọi là “thập pháp giới”.

 

          * Hỏi: “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải” có nghĩa là ǵ? (Chí Tây hỏi)

 

          Đáp: Giữa hai lông mày của tượng Phật, có một sợi bạch hào, cuộn tṛn thành một viên châu, thế tục gọi là “Phật đảnh châu”. Nó to bằng năm quả núi Tu Di. Tṛng mắt của đức Phật có sắc xanh pha ánh đỏ, to rộng như bốn biển. Báo Thân của Phật ṿi vọi, có thể tưởng ra sẽ biết.

 

          * Hỏi: Trong quyển Đạt Ma Tổ, phần “công án sáu chữ có nói: “Nam tự Nam phương hỏa nhất gia, Mô tự Bắc phương thủy trung sa, A tự Đông phương Giáp Ất mộc, Di tự Tây phương ngọc liên hoa, Phật tự nguyên lai tự phóng hà” (Chữ Nam thuộc về phương Nam, là chỗ của Hỏa. Chữ Mô thuộc về phương Bắc là cát ở trong nước. Chữ A là phương Đông thuộc về Giáp Ất Mộc[8]. Chữ Di thuộc phương Tây là hoa sen ngọc. Chữ Phật vốn là tự phóng [quang minh rạng rỡ] như ráng mây), chẳng biết nói đến ư nghĩa ǵ? (Chí Tây hỏi)

 

          Đáp: Kẻ hèn này hiểu biết ít ỏi, đối với những lời lẽ kiểu ấy, chưa thấy trong kinh truyện, chẳng tiện miễn cưỡng giải thích!

 

          * Hỏi: Bồ Tát Giới Bổn có câu “bất khởi đọa lạc, bất tịnh hữu tác”, xin hăy giải thích! (Khưu Trù hỏi)

 

          Đáp: Kẻ chưa học, chưa thọ giới, làm ác, hay làm lành, phần nhiều là trong tâm chẳng định hướng thường hằng. Những điều thiện hoặc ác đă làm trong hiện tại đều là do cảnh mà dẫn khởi, biểu hiện ra ngoài, gọi là “hữu tác”. Người có học [Phật pháp], có giới, do trong tâm có học, có giới, tuy chẳng biểu hiện ra ngoài, nhưng ư niệm dứt ác luôn tồn tại, chẳng mất đi. Điều đó được gọi là “vô tác thiện”. Nếu phạm trọng tội, sẽ là chuyện khác, chẳng bàn đến. Nếu phạm giới nhẹ, th́ gọi là “thất ư”, [nghĩa là] đánh mất Bồ Đề tâm. Hành vi chẳng thanh tịnh ấy đă biểu lộ ra ngoài, nên gọi là “bất tịnh hữu tác”. Nhưng ư niệm ngừa ác vô tác vẫn chẳng tiêu mất, tuy đáng bị đọa lạc, hễ lập tức sám hối, [vô tác thiện] vẫn có thể từ đọa lạc mà dấy lên trở lại. Nếu chẳng sám hối, tức là chẳng cầu dấy lên [cái tâm Bồ Đề], sẽ đọa trong tam đồ.

 

          * Hỏi: Phía trước kinh Kim Cang [có bài kệ]: “Vân hà phạm? Vân hà đắc trường thọ?” “Vân hà phạm” nói đến ư nghĩa ǵ? (Trịnh Triều Tín hỏi)

 

          Đáp: “Vân hà đắc trường thọ” (Làm thế nào để được sống lâu) chính là câu mở đầu của bài kệ ấy. Âm thanh của bài kệ ấy thanh tịnh, vi diệu, khác với những âm thanh xướng lên trong thế tục, nên ca ngợi là “phạm âm” (梵音, âm thanh thanh tịnh). Lệ làm thơ thời cổ, phần nhiều chẳng đặt tựa đề khác, chỉ lấy ngay mấy chữ trong câu đầu tiên để thay cho tựa đề. Hơn ba trăm bài thơ trong kinh Thi đều là như vậy. Chuyện ông đă hỏi chính những chữ thay thế cho tựa đề bài kệ vậy.

 

          * Hỏi: Trong quá khứ, Đài Loan hay nói là “thực thái” (食菜 , ăn rau), nay th́ phổ biến nói là “tố thực” (素食, ăn chay), hai câu ấy có ǵ sai khác? Giải nói ư nghĩa chữ “tố thực” như thế nào? (Quách Minh Đường hỏi)

 

          Đáp: “Tố thực” là danh từ chung ở các nơi. “Thực thái” là danh từ chuyên dùng tại một địa phương. Dựa theo mặt chữ để giải thích, “tố thực” nghiêm ngặt hơn, “thực thái” rộng răi hơn đôi chút. V́ “thái” cũng có những món chẳng thanh sạch, như hành, hẹ, tỏi, kiệu, hành tây đều có mùi hôi. V́ thế, chúng được gọi là “huân thái” (葷菜, rau có mùi hôi), người “tố thực” sẽ chẳng dùng! Điều cốt yếu của “tố thực” là chẳng giết động vật, xẻ thịt chúng, khiến cho chúng bị chảy máu, ly tán quyến thuộc, đoạn tuyệt sanh mạng của chúng. Đấy chính là đạo lư như thế nào? Lương tâm như thế nào? Luận theo nhân quả của nhà Phật, hễ giết mạng kẻ khác, sẽ phải đền mạng. V́ thế, kiêng giết, ăn chay!

 

          * Hỏi: Khi đức Phật nói kinh Pháp Hoa, có Đại Phạm Thiên Vương và vô lượng Phạm Thiên chúng đến chỗ đức Phật, dùng hương, hoa v.v… cúng dường đức Phật, thỉnh đức Phật thuyết pháp. Đại Phạm Thiên Vương và Thiên Đế trong Tam Thập Tam Thiên của tam giới có chỗ nào khác biệt? Có phải là một vị Thiên Đế hay không? (Lữ Lư Do hỏi)

 

          Đáp: Tam giới là Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới. Dục Giới thấp nhất, gồm sáu tầng trời. Tầng thứ hai [trong Dục Giới] là Tam Thập Tam Thiên. Ba mươi ba cơi trời ấy xếp thành hàng ngang, chẳng phải là ba mươi ba tầng [theo chiều dọc]; đấy chính là nơi Ngọc Hoàng ngự như thế tục đă nói. Lên cao hơn nữa là mười tám tầng trời thuộc Sắc Giới, chư thiên trong cơi ấy không có dục vọng nam nữ, ăn uống, Thiền Định thanh tịnh, nên gọi là Phạm Thiên. Các tầng Phạm Thiên đều có Thiên Đế; v́ thế, gọi là Phạm Vương. Đấy là chỗ khác biệt.

 

          * Hỏi: Ư nghĩa của Long Hoa tam hội là như thế nào? Rất mong cụ sẽ dạy cặn kẽ! (Hà Ngọc Trinh hỏi)

 

          Đáp: Sau này, Di Lặc Bồ Tát sẽ thành đạo dưới cội Long Hoa, ba lượt mở pháp hội. Điều này được chép trong các kinh như Tăng Nhất A Hàm v.v… Nhưng hiện thời, có những lũ ngoại đạo ăn trộm danh từ, chẳng hiểu nghĩa lư trong kinh, bề ngoài lấy ngài Di Lặc làm chiêu bài, nội dung [những “giáo nghĩa” của họ] đều là lôi Đông, kéo Tây, gom góp tạp nham thành một đống, đặt ra những lời lẽ như “Thích Ca thoái vị, Di Lặc chưởng quản thiên bàn, nay đang nhằm thời Long Hoa Tam Hội” v.v… dối ḿnh, lừa người, tạo nghiệp báng pháp, chớ nên không biện định [rơ ràng]!

 

          * Hỏi: Những con số do đức Phật đă nói dường như là huyền hư, có phải là một loại từ ngữ mang tính cách suy đoán hay không? [Chẳng hạn] như nói “năm trăm năm, ắt có bậc vương giả dấy lên”! Hoặc như nói “kể từ khi tuổi thọ là năm trăm năm, trong thời gian ấy, sẽ coi năm mươi năm là một ngày”, “trong mỗi hoa, tỏa ra ba ngàn sáu trăm ức quang minh, xuất hiện ba ngàn sáu trăm ức Phật”, “trong một chén nước, có tám vạn bốn ngàn trùng”, “từ đây qua khỏi mười vạn ức quốc độ, có thế giới tên là Cực Lạc” v.v… Đó có phải là con số chánh xác hay không? Xin hăy dạy rơ cho tôi. (Kim Á Đạc hỏi)

 

          Đáp: [Nếu ông nói những con số đă nêu là] “nói ước lược” th́ được. Như nói “đời người trăm năm”, thật ra, có người thọ bảy tám mươi tuổi, cũng có người sống hơn trăm tuổi mới mất. Chẳng thể nói là “huyền hư”! Ông nghi những con số to lớn ấy là huyền hư ư? Khoa học gia tính tuổi của địa cầu, như các học giả thuộc đại học Đa Luân Đa (Toronto) của Gia Nă Đại đă đo lường, ước tính tuổi địa cầu tối thiểu là từ ba mươi lăm vạn vạn năm trở lên! Các nhà khoa học lại đo lường tuổi của mặt trời, cho tới nay, [mặt trời] đă có lịch sử sáu mươi ức năm. Học giả Thụy Sĩ là Hách Tư Lặc Thị phát hiện hóa thạch của nhân loại, phỏng đoán người ấy thuộc sống trong khoảng ba ngàn vạn năm trước. Người đời không coi những điều đó là huyền hư, cớ sao lại riêng nghi đức Phật ăn nói huyền hư?

 

          * Hỏi: Trong Phật Học Vấn Đáp có nói “trời có Địa Cư và Không Cư khác biệt, Sắc Giới thuộc Không Cư”. Nếu Sắc Giới là Không Cư, như vậy th́ Vô Sắc Giới ắt phải ở trên mặt đất. “Không” là vũ trụ, Địa là địa cầu. Hai điều ấy có phải là ngữ ư điên đảo hay không? Xin hăy chỉ dạy. (Kim Á Đạc hỏi)

 

          Đáp: Trong tam giới th́ Dục Giới ở phía dưới, Sắc Giới ở phía trên Dục Giới, Vô Sắc Giới ở phía trên Sắc Giới. Chỉ luận định trong phạm vi của một đại thiên thế giới này, địa cầu ở phía dưới [các tầng trời] thuộc Dục Giới, lên cao hơn chính là không gian. Tầng thứ hai trong Dục Giới là Địa Cư, [những tầng trời] cao hơn tầng trời ấy đều là Không Cư. Vô Sắc Giới cao nhất trong tam giới, há có lẽ nào “ắt phải là Địa Cư” ư?

 

          * Hỏi: Trong lễ nghi nhà Phật có “vấn tấn” (xá), có ư nghĩa ǵ? Có phải là chắp mười ngón tay lễ? Lại có người giơ một tay để lễ, có được hay không? (Kim Á Đạc hỏi)

 

          Đáp: Nói “vấn tấn” (問訊) tức là chắp mười ngón tay lại để lễ. Giơ một tay để lễ là v́ tay kia cầm đồ vật, bất tiện.

 

          * Hỏi: Bạn của kẻ hèn là người học Phật, một hôm hỏi ngu tôi: “Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân có ǵ phân biệt?” Tuy ngu tôi chẳng hoàn toàn hiểu rơ, vẫn miễn cưỡng đáp: “Pháp Thân là tánh thân chân thật của Phật, Báo Thân là quả thân công đức viên măn, Ứng Thân là hiện thân thị hiện trong thế giới Sa Bà. Chẳng hạn như Chánh Pháp Minh Như Lai là Pháp Thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, Tây Phương Cực Lạc thế giới Quán Âm Bồ Tát là Báo Thân, thân thị hiện ở nơi đây là Ứng Thân” (kinh Pháp Hoa có nói ba mươi hai Ứng Thân). Ông ta vẫn chẳng nắm được cương lănh chánh yếu, kẻ hèn này không có cách nào để trả lời nông cạn, rơ ràng hơn. Hết sức khẩn cầu cụ hăy ban cho tôi một phương pháp đơn giản, rơ ràng, thích hợp [để giải thích]. (Bạch Bác Nhân)

 

          Đáp: Lời giải thích của cư sĩ đă khá đúng lư, quư hữu vẫn chẳng thông suốt. Hăy xét xem điểm nghi vấn ở chỗ nào, ắt cần phải nói rơ th́ lời đáp mới khế cơ. Nếu không, sẽ thành hỏi đằng Đông mà đáp đằng Tây. Có phải là nghi ư nghĩa “một thân chính là ba thân, ba thân chính là một thân” đấy chăng? Kẻ hèn suy đoán bừa, nếu đúng là như vậy, nay tôi sẽ lập thí dụ: Vầng thái dương trên bầu trời, ví như Pháp Thân. Thể của mặt trời tṛn trặn, có những sự trang nghiêm như sáng rực, hơi nóng v.v… ví như Báo Thân. Nó in bóng xuống ngàn sông vạn rạch, [mỗi nơi] đều có một vầng mặt trời. Tỷ dụ này chỉ Ứng Hóa Thân. Lại lập ra một chuyện [để tỷ dụ]: Bản tánh của chúng ta là Pháp Thân. H́nh thể của bọn ta là Báo Thân. Hôm nay, chúng ta mặc âu phục, ngày mai mặc quần áo Tàu, gặp hoàn cảnh nào bèn diễn tuồng theo hoàn cảnh đó, mặc đồ đẹp hay xấu. Đó là Ứng Hóa Thân. Những điều đă nêu trên đây đều là “tuy một mà ba, tuy ba mà một”.

 

          * Hỏi: Tham, sân, si là căn bản phiền năo, người học Phật đều biết. V́ sao lại gọi chúng là Tam Độc? “Độc” ở đây có nghĩa là ǵ? (Hồng Hoàn hỏi)

 

          Đáp: Đấy là thí dụ. [Ví như] độc vật, độc dược có thể sát hại thân mạng của con người. Ba sự tham, sân, si cũng giống như độc vật, độc dược, có thể sát hại huệ mạng của con người. Chất độc ấy lại càng sâu đậm hơn nữa!

 

          * Hỏi: Lại nữa, khủy tay phải của tượng A Di Đà Phật luôn hướng vào trong, mà chẳng hướng ra ngoài, đạo lư là như thế nào? (Lư Liên Giai hỏi)

 

          Đáp: Khủy tay hướng vào trong th́ bàn tay mới có thể hướng ra ngoài. Bàn tay hướng ra ngoài duỗi thẳng, biểu thị ư nghĩa tiếp dẫn. Hễ tạo tượng Phật, Bồ Tát, đều tuân theo quy ước đă lập sẵn. V́ thế, nh́n vào cách thức, liền biết đó là vị Phật nào, hay Bồ Tát nào, nhưng h́nh thái trong ấy cũng có nhiều loại khác nhau. Tượng Phật Di Đà đứng phần nhiều là tướng Tiếp Dẫn; v́ thế, lật ngửa bàn tay phải để biểu thị. Nếu là tượng ngồi, ắt tay sẽ được tạc theo cách thức khác.

 

          * Hỏi: Hôm trước có đồng tu nói: “Cơi tam thiên đại thiên thế giới thuộc khu vực giáo hóa của Phật Thích Ca được gọi là thế giới Sa Bà”, đệ tử vẫn c̣n ngờ vực, chẳng hiểu. Kính xin thầy ấn chứng! (Trịnh Thắng Dương hỏi)

 

          Đáp: Thế giới có đơn vị, tiểu, trung, đại sai khác. Mỗi loại đều có danh xưng riêng, dùng làm phù hiệu cho dễ nói năng. Một tam thiên đại thiên là một Phật độ (cơi Phật), nó có tên gọi riêng. Mỗi đại thiên đều có danh xưng riêng. Sa Bà là tên gọi chung của một đại thiên, điều này có ǵ đáng ngờ? Như Gia Nghĩa, Cao Hùng, Cơ Long, B́nh Đông v.v… là tên hạn cuộc [trong một địa phương], giống như Nam Thiệm Bộ Châu [là tên riêng của một tinh cầu] trong bốn tinh cầu [thuộc thế giới Sa Bà]. Nói tổng quát, [các nơi như Gia Nghĩa, Cao Hùng v.v…] sẽ đều thuộc vào tỉnh Đài Loan vậy.

 

          * Hỏi: Mười tám vị tôn giả được thờ trong Tam Bảo Điện, hay trong Đại Sĩ Điện? Có vị trí nhất định hay không? (Kỷ Uyên Quư hỏi)

 

          Đáp: Đại điện thờ Phật, [có thể] cùng thờ mười tám vị tôn giả trong Phật điện, nhưng cần phải xếp dọc theo hai bên vách trái và phải, mỗi bên chín vị. [Ông nói] “điện chưa thờ Phật”, chỉ thờ Đại Sĩ; chắc vị Đại Sĩ ấy là Quán Âm. Ngài Quán Âm vốn là cổ Phật, thờ mười tám vị tôn giả trong điện thờ Đại Sĩ cũng chẳng phải là không được, [nhưng bày tượng các Ngài] cũng chia thành trái phải. Nếu trong chùa có cả hai thứ Phật Điện và Đại Sĩ Điện, nên thờ [các vị La Hán] trong Phật Điện th́ hơn. Chùa chiền các nơi đều là như vậy.

 

          * Hỏi: Người đời thường nói đến Ngũ Công Bồ Tát, nhưng trong hộ tịch của Phật, Bồ Tát, hoàn toàn chẳng thấy ghi chép. Xin hăy chỉ dạy lai lịch sơ lược của Ngũ Công Bồ Tát? (Kỷ Uyên Quư hỏi)

 

          Đáp: Kẻ hèn này đọc kinh Phật quá ít, chưa thấy danh hiệu của Ngũ Công Bồ Tát[9]. Đă không biết tên, hộ tịch của các vị ấy càng khó tra cứu! Xin hăy hướng về người thường nói đến Ngũ Công Bồ Tát để [hỏi cho] biết đó là một vị hay năm vị? Rốt cuộc tên là ǵ th́ mới dễ tra cứu. Nếu là những vị được thờ phụng ở nơi đó như Cao Vương Gia, Tiết Vương Gia v.v… th́ đó là thần, chẳng phải là Bồ Tát. Hăy nên hỏi ḍ các bậc phụ lăo nơi ấy, chẳng thể t́m kiếm trong kinh Phật!

 

          * Hỏi: Hội phóng sanh dài hạn Vô Lượng Thọ ở núi Sư Đầu đă ấn hành quyển Khổ Hải Cam Tuyền (suối ngọt trong biển khổ), trong ấy có chú thích về chữ A trong [danh hiệu] A Di Đà Phật. Chiếu theo cách đọc trong tiếng Phạn th́ phải là A, biểu thị “vô lượng quang, vô lượng thọ”. Nếu đọc sai thành Ơ th́ đă đánh mất ư nghĩa gốc. Tự nhiên là niệm thánh hiệu Phật, phải nên lấy âm tiếng Phạn làm chuẩn. Chỉ có điều tôi là kẻ sơ học, vấn đề tầng tầng, kính xin cụ dạy cho cách phát âm đúng! (Lư Học Thi hỏi)

 

          Đáp: Cứ muốn t́m âm tiếng Phạn, cần phải học Phạn văn, lại cần phải được khẩu truyền[10]. Người dạy đọc th́ cũng là mỗi người đọc một giọng, chỉ dựa theo âm đă được dạy để đọc là được rồi. Thật ra, khó thể cầu [âm đọc] chuẩn xác được. Chẳng cần dẫn ngữ hệ [tiếng Hán] ở nội địa, các nơi [phát âm] khác nhau, cứ lấy ngay Đài Loan để luận định, có thể suy ra để biết đại khái. Đài Bắc, Đài Nam, Đài Trung, cách phát âm tại mỗi nơi đều sai khác. Đấy không chỉ là biến đổi theo từng địa phương, mà xưa nay cũng có nhiều chuyển biến; nhưng chữ A là gốc của hết thảy các âm Phạn. Do cách phát âm mà chia thành [các âm] môi, lưỡi, răng hàm, răng nanh, họng. Chữ A phát âm từ họng, đối với các thanh b́nh, thượng, khứ, nhập[11], chọn lấy b́nh thanh sẽ là ổn thỏa nhất.

 

          * Hỏi: Trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh có hai chữ Ha () và Kích (), cũng xin chú giải, cảm tạ khôn ngằn! (Lư Học Thi hỏi)

 

          Đáp: Âm thanh chẳng ngại dựa theo cách phát âm đă được truyền dạy để đọc, mong ông hăy đọc kỹ nghĩa lư trong câu trả lời nơi đoạn trên, ắt sẽ hiểu rơ: Âm thanh của một chữ được chia theo giọng điệu của từng địa phương và xưa nay [sai khác], rất khó chấp trước ai là đúng! Có thể dựa vào ghi chú [cách đọc của chữ ấy] trong sách tự vựng, [sao cho] khi phát âm chẳng trái nghịch cách đọc đă ghi chú [trong sách] là được rồi. Trong Vận Thư (韻書)[12], chữ Ha () thuộc bộ Ca (), đọc giống như chữ Hà (). Trong Vận Thư, Kích () thuộc bộ Chức (), đọc cùng âm với chữ Cách ()[13]. Đó là cách đọc phổ biến nhất!

 

          * Hỏi: Nguồn gốc của danh xưng Thái Cô (蔡姑) do đâu mà có? Phương ngôn, tục ngữ như thế có phải là nói về người tu hành để tóc hay không? Thái Cô (người tu hành để tóc) đều có thần thông, pháp thuật, v́ cớ sao chẳng xuống tóc? (Lưu Chánh B́nh hỏi)

 

          Đáp: Thái Cô (蔡姑) có phải là Thái Cô (菜姑) bị viết lầm hay không? Nếu là Thái Cô (菜姑), tôi biết đại lược ư nghĩa. Nếu là Thái Cô (蔡姑), tôi chẳng biết [chữ ấy xuất phát từ] sách vở nào? Thái () có nghĩa là “ăn rau, chẳng ăn thịt”. Cô () là tiếng gọi chung nữ nhân. Gộp lại, [Thái Cô] chính là “nữ tu sĩ tại gia ăn chay”. Chuyện “thần thông, pháp thuật” và “để tóc”, hay “cạo tóc” vốn là hai chuyện [tách biệt], chớ nên lẫn lộn. Nhưng không có Định, chẳng có Huệ, chắc chắn là chẳng có thần thông. Nếu tự xưng là có thần thông, ắt là kẻ vô tri, nói lời tà vạy mê hoặc mọi người!

 

          * Hỏi: Đạo tràng Quán Âm có phải là nói tới một tông hay không? Liên Tông (Tịnh Độ Tông) và Liên Xă dùng tín, niệm (Nam-mô A Di Đà Phật) và Phật đường có ǵ bất đồng? Liên Tông, Liên Xă, Phật Đường thờ phụng Quán Âm Bồ Tát có hợp lư hay không? (Lưu Chánh B́nh hỏi)

 

          Đáp: Phật giáo có các tông cũng là do người đời sau phân định, v́ Tam Tạng mênh mông, khó thể nghiên cứu trọn khắp. Chỉ lấy một loại để chuyên tu tập, sẽ dễ tu, dễ nhập, chẳng phải là ưa chuộng [bày vẽ kiểu cọ] khác biệt. Trong các kinh Đại Thừa, phần lớn có sự tích của đức Quán Âm, xưa nay đều phổ biến thờ phụng Ngài, chưa nghe nói [có chuyện] lập tông riêng khác. Liên xă tín nguyện niệm Phật chính là đạo tràng Tịnh Độ Tông. Đối với chỗ chẳng hiểu “pháp mật” (sự mật nhiệm trong pháp môn) của Tịnh Tông, chẳng có sư thừa, tuy thờ Phật, niệm kinh, niệm Phật, do chỉ tu phước báo, nên chỉ có thể gọi là Phật Đường. Liên Xă nên thờ Tây Phương Tam Thánh, c̣n Phật đường có thể tùy ư thờ phụng bất cứ vị Phật và Bồ Tát nào trong Phật giáo.

 

          * Trong kinh Địa Tạng, có các chữ Phược, Miệt (), Miệt (), Nga (), Đế (), Tật, Uông (), Cam (), Tỳ (). Tra tự điển, không có những chữ này, chẳng biết nên đọc như thế nào?

 

          Đáp: Chân ngôn của Mật Tông là chữ Phạn, âm Phạn, có những âm nhị hợp, tam hợp, tứ hợp[14] v.v… Dùng tiếng Hán để phiên âm, không chỉ là chẳng có những chữ ấy, mà cũng không có những âm ấy. Người phiên dịch thuở ấy phần nhiều là tạm thời tạo chữ, chỉ chú trọng khẩu truyền [cách đọc những chữ ấy], chẳng thể tùy tiện đọc theo âm địa phương. Đối với những chữ như ông đă nêu, trong tự điển Khang Hy có chép, có lẽ trong loại tự điển học sinh th́ không có. Những chữ như Đế, Uông, Cam, Tỳ v.v… là chữ sử dụng trong văn từ thuộc Hiển giáo, cứ chiếu theo âm vốn có của chúng mà đọc, cũng chẳng có ǵ là không được! Những chữ khác có lẽ là chú ngữ, ắt phải được người đă nghiên cứu Mật Tông truyền dạy cách đọc.

 

          * Hỏi: Xin hỏi hai chữ Bồ Đề nên giải thích như thế nào? Chữ Bồ () có nghĩa là ǵ? Chữ Đề () lại có nghĩa là ǵ? “Bồ Đề thụ” là cây ǵ? “Bồ Đề tâm” là tâm ǵ? V́ tôi chỉ có thể hiểu ư nghĩa của hai chữ Bồ Đề, nhưng không có cách nào diễn nói được. Kính xin Ngài giải đáp tường tận trên báo Bồ Đề Thụ. (Đặng Tự Đức hỏi)

 

          Đáp: Tiếng Phạn là Bồ Đề (Bodhi), dịch sang tiếng Hán là Giác. Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật v.v… mỗi địa vị đều có sự giác ngộ riêng. “Giác” là giác pháp tánh, chứng trí huệ, [những điều ấy] đều là [giác]. Bồ Đề Thụ là một loại cây có thân mộc, cao lớn, vốn có tên là Tất Bát La (Pippala); do đức Phật từng ngồi dưới cội cây ấy mà thành đạo, nên đổi tên thành Bồ Đề Thụ. Bởi lẽ, Phật là bậc Đại Giác Thế Tôn, cho nên mượn điều ấy để ca ngợi đức Phật. Nếu có người phát tâm học Phật, [cái tâm ấy] liền gọi là “Bồ Đề tâm”. Hoặc người phát tâm độ kẻ khác, cũng gọi là Bồ Đề tâm do thượng cầu hạ hóa. Nói chung là “phá mê, khải ngộ” (phá trừ mê hoặc, khơi gợi giác ngộ). V́ thế gọi là Bồ Đề tâm.

 

          * Hỏi: Xin hỏi ư nghĩa của tứ sanh, tam hữu, Tam Hiền, Thập Địa, Đẳng Giác. (Vương Thanh Hán hỏi)

 

          Đáp: Tứ Sanh (四生) là bốn loại sanh mạng noăn, thai, thấp, hóa. Tam Hữu (三有) là chúng sanh sanh tử trong tam giới. Tam Hiền Thập Thánh là nói đến địa vị tu tập của hàng Bồ Tát. Các địa vị thuộc Địa Tiền là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, gọi là Hiền. Đăng Địa (từ Sơ Địa trở lên) cũng có mười địa vị, cảnh giới cũng cao, là hàng đại Bồ Tát, nên gọi là Thánh.

 

          * Hỏi: “Làm công đức quy hướng cho cha mẹ là được rồi”, phương pháp quy hướng cha mẹ là như thế nào? (Soái Tiên Kiệt hỏi)

 

           Đáp: Phàm làm chuyện ǵ, ắt trước hết phải khởi tâm. Vạn pháp do tâm tạo, hết thảy đều bị tâm chi phối. Đối với công đức đă làm, ắt phải có tâm niệm. “Hồi hướng” chính là tâm nguyện. Ví như muốn tặng một vật cho ai đó, niệm niệm chẳng quên, rốt cuộc làm được th́ mới là sung sướng. Đối với công đức trong nhà Phật, nếu muốn thí [công đức đă làm] cho người khác, th́ đối trước Phật thưa tŕnh, hoặc thiêu văn sớ để tâu, chỉ cần tâm chí thành, sẽ đều sanh hiệu quả.

 

          * Hỏi: Như Lai Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật có phải chính là Phật Tổ Mâu Ni Phật[15] hay không? (Soái Tiên Kiệt hỏi)

 

          Đáp: Như Lai Phật chính là tên gọi chung đối với Pháp Thân của mười phương ba đời chư Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật trong thế giới này, chính là vị chủ tôn của Phật giáo. A Di Đà Phật là vị Phật thuộc Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng là vị chủ tôn của thế giới ấy. Xét theo thân tướng, đây là hai vị Phật; nhưng xét theo tánh, vốn chẳng có hai.

 

          * Hỏi: Thông thường, Đại Hùng Bảo Điện thờ phụng tượng của ba vị Như Lai Phật. Bất quá tượng chính giữa hơi cao hơn, rốt cuộc có phải là ba vị có sai biệt hay không? Tam Bảo lại là như thế nào? (Soái Tiên Kiệt hỏi)

 

          Đáp: Có khi tượng nhất loạt cao như nhau, có khi chính giữa cao, hai bên thấp hơn. Nếu toàn là Phật th́ phải nhất loạt cao bằng nhau. Nếu là một vị Phật, hai vị Bồ Tát th́ Phật cao, Bồ Tát thấp hơn cũng được. Nhưng [làm như vậy sẽ] nh́n không đẹp mắt, vẫn là cao thấp bằng nhau, sẽ trang nghiêm, tôn kính hơn.

 

          * Hỏi: Đối với h́nh dạng đại khái của Tứ Thiên Vương, tôi đă biết sơ sài một hai phần, nhưng Bát Đại Kim Cang trong Phật giáo có lai lịch và h́nh tượng ra sao? Có sách nào để tham khảo? Tên húy và quyền hạn của mỗi vị lại là như thế nào? (Soái Tiên Kiệt hỏi)

 

          Đáp: Đại Diệu, Kim Cang, Đại Cam Lộ, Quân Đồ Lợi, Diễm Man, Xí Thạnh[16], kinh Phật Đảnh có ghi chép tường tận. Nói đại lược, tám vị Kim Cang chính là do tám vị Bồ Tát hóa hiện, đều có danh hiệu, chỉ có điều h́nh trạng phần nhiều dựa theo kinh văn để tưởng tượng, mỗi nơi đắp tượng cũng chẳng hoàn toàn giống nhau. Ở chỗ này, khó có thể một quy định mẫu mực được, nhận biết ư nghĩa là được rồi!

 

          * Hỏi: Ở Trung Hoa, Di Lặc Phật là Bố Đại Ḥa Thượng do có những truyền thuyết về sự hành đạo của Ngài. Có phải là Ngài c̣n có lai lịch khác hay không? (Soái Tiên Kiệt hỏi)

 

          Đáp: Di Lặc chính là vị Phật sẽ hạ sanh trong tương lai, các kinh phần nhiều đều ghi chép. Chuyên giảng về Ngài th́ có Di Lặc lục bộ kinh[17], đều nói về ngài Di Lặc. Đấy là hạnh nghiệp của ngài Di Lặc. C̣n ngài Bố Đại Ḥa Thượng, ai nấy đều nói là hóa thân của Ngài, có Long Hoa Sám Pháp, kèm thêm có Bố Đại Ḥa Thượng Truyện, tôi biết như vậy mà thôi!

 

          * Hỏi: Có dịp để tôi chuyên chú, chí thành đến thăm cư sĩ, ḥng lănh giáo để được lợi ích về mặt giáo pháp hay không? (Soái Tiên Kiệt hỏi)

 

          Đáp: Kẻ hèn này công việc bận bịu, thân quay ṃng ṃng như ngọn đuốc, đi th́ chẳng đến nơi nào nhất định, ở th́ chẳng có lúc nhất định. Phàm là người đến thăm đều chẳng thể gặp được. Muôn phần xin đừng nhọc công viếng thăm kẻo tôi mắc tội!

 

          * Hỏi: Từ trong kinh, chúng ta thường có thể thấy hai chữ “đầu nhiên”. Rất hiển nhiên, hai chữ ấy là dịch ư, chẳng phải là phiên âm. Phần tử trí thức học Phật rất đông, kẻ chẳng phải là phần tử trí thức cũng chẳng ít. Nói theo phía sinh viên đại học, tuyệt đại đa số cũng cảm thấy ngơ ngác đối với hai chữ “đầu nhiên” ấy! Trừ phi anh ta (cô ta) đă từng nghe giải thích về Phật học. Xin hỏi, phiên dịch vào thuở đầu, v́ sao lại dùng chữ nhiên () mà không dùng chữ nhiên ()? Tôi nghĩ t́nh h́nh mọi người cứ tụng ào ào như thế, mà chẳng hiểu rơ ư nghĩa thật sự rất nhiều. Xin hỏi từ nay trở đi, có thể thử sửa đổi ấn loát [những chữ giống như vậy cho đúng] hay không? (Thí Chấn Huy hỏi)

          Đáp: Trong trường đại học hiện thời, lập ra nhiều phân khoa. Những ǵ thuộc loại văn tự sẽ thuộc về [lănh vực chuyên môn] của khoa văn học. Những người nghiên cứu văn học sâu xa, tự nhiên chẳng sanh nghi! “Nhiên” () chính là chữ gốc của từ ngữ nhiên thiêu” (燃燒). Đổi thành chữ Nhiên () là do cách viết theo lối thông tục của người đời sau. Bốn chấm () ở phía dưới chữ Nhiên chính là bộ Hỏa (); v́ thế, chữ Nhiên được xếp vào bộ Hỏa [trong tự điển]. Mạnh Tử nói: “Nhược hỏa chi thỉ nhiên” (若火之始然, như lửa mới bắt đầu cháy). Quản Tử nói: “Chưng gian dung chưng, nhiên giả xử hạ” (蒸閒容蒸,然者處下, để chưng hấp th́ phải xếp sao cho có kẽ hở để có thể bỏ thêm vật muốn chưng vào, cái ǵ đă nấu nướng rồi hăy đặt ở phía dưới để hơi nóng có thể bốc lên)[18]. Đấy chính là chữ chánh thức dùng trong sách cổ, có ǵ đáng ngờ? Những chữ thuộc loại này rất nhiều! [Chẳng hạn như] “ngũ tạng lục phủ” trong Nội Kinh, “tạng phủ” (臟腑) vốn là chữ xuất hiện về sau, chữ dùng trong sách vở vẫn viết là “tạng phủ” (藏府). Trong mười ba kinh của Nho gia, phần nhiều dùng chánh tự, như câu“lập như trai” (đứng cung kính như khi trai giới trước khi cúng tế), chữ Trai () vẫn viết là Tề (). Sách Luận Ngữ chép “bất diệc duyệt hồ” (cũng chẳng vui sao), chữ Duyệt () được viết là Thuyết (). Mao Thi có câu: “Ô hô! Tiền vương bất vong” (於戲前王不忘, chao ôi! Các đời vua trước khiến ta than thở không quên)[19], chữ “ô hô” (嗚呼) được viết thành “ư hư” (於戲). Sách Châu Lễ chép: “Xuân nhập học xá thái hợp vũ” (mùa Xuân, sĩ tử vào trường học dùng rau có mùi thơm để tỏ ḷng lễ kính tiên sư, tập luyện lui tới nhịp nhàng khớp với tiếng nhạc tế lễ)[20], chữ “thái” (, rau) viết thành Thái (). Tả Truyện có câu: “Hôn cấu nhân á” (昏媾姻亞, cưới hỏi, kết thành thông gia), chữ Hôn () viết thành Hôn (). Ngay như trong quốc ca hiện thời: “Túc dạ phi giải” (夙夜匪懈, ngày đêm chẳng lười nhác), chữ Phi () viết thành Phỉ (), [những trường hợp giống như vậy] chẳng thể kể xiết! Phiên dịch kinh bèn chọn sử dụng chánh tự, chẳng dùng cách viết thông tục. Hai ngàn năm qua, vốn chẳng có ai càm ràm! Nếu đổi [chánh tự] thành tục tự (chữ viết theo lối thông tục), vậy th́ những lời văn linh thiêng trong Tam Tạng và Văn Khố Toàn Thư sẽ mắc phải khuyết điểm rối ren, mất đi diện mạo chân thật của nó.

 

          * Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật đản sanh cách nay đă gần ba ngàn năm. Đối với Thích Ca Mâu Ni Phật, kinh điển có rất nhiều cách xưng hô khác nhau. Như Phật Tổ, ư nói đức Phật là thỉ tổ. “Phật Thế Tôn” ư nói đức Phật là bậc khai sơn chí tôn v.v… nhưng Phật giáo chú trọng nhất là nhân quả, luân hồi, báo ứng, v́ sao có súc sanh đạo, địa ngục đạo v.v… Xin hỏi trong các kinh, chúng ta đều thấy Phật, Bồ Tát đều là sanh ra sau khi đức Phật đă xuất gia, thành đạo, nhất là vị làm chủ mười tám địa ngục tức Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài đản sanh và thành Phật c̣n là gần hai ngàn năm sau thời đức Phật đản sanh. Xin hỏi: Trước khi làm chủ tể, tức là trước đời Hán, đời Châu ở Trung Hoa, dựa theo lịch sử ghi chép và các loại tài liệu khảo cổ, có thể biết là vẫn có súc sanh và những sanh mạng hữu t́nh khác tồn tại. Những chúng sanh vào thuở trước có phải là đă có từ thời ấy, hoặc là t́nh h́nh như vậy cũng là do sau thời đức Phật [giáng thế, họ] mới tham dự luân hồi hay không? Hay là trước Phật cũng có? Chủ tể lại là ai? (Thí Chấn Huy hỏi)

 

          Đáp: Điều này chia thành hai đoạn.

          1. Người làm chuyện lớn xưa nay đều có nhiều vị, chẳng riêng ḿnh đức Phật; há có ǵ đáng để lấy làm lạ? Như nguyên thủ của nước nào đó, quân chủ th́ gọi là hoàng (), là đế (), hay vương (), dân chủ th́ gọi là Tổng Thống. Vị nguyên thủ ấy ắt có danh tánh riêng, hoặc là có biệt hiệu, hoặc là có cách xưng hô đặc biệt liên quan đến người ấy. Gộp lại những điều đă nêu trên đây để xét, sẽ có nguyên thủ (元首), quân (), hoàng, đế, vương, tổng thống. Tên riêng (như Nghiêu và Thuấn), biệt hiệu (như thánh nhân, thiên tử, chí tôn), các cách xưng hô đặc biệt (quyến thuộc, thân hữu, địch nhân) v.v… phức tạp khó thể nêu [trọn hết]. Tuy nhiều như thế, khi gọi, ắt phải phân biệt theo từng sự, nơi nào, lúc nào, người nào cho thích hợp, chẳng thể gọi lung tung được! Danh hiệu Phật tuy nhiều, vẫn là như vậy. [Những danh hiệu] được chép trong kinh điển, mỗi danh hiệu đều biểu thị [nghĩa lư] riêng biệt, chẳng hề lẫn lộn, [phải dụng công] nghiên cứu kinh th́ mới biết. Nhưng lời hỏi [của ông cho thấy] đối với hai từ Phật Tổ và Phật Thế Tôn đều hiểu sai! Trong kinh không có cách xưng hô “Phật Tổ”! “Phật Thế Tôn” là hai danh hiệu, Phật là giác, [danh hiệu ấy] nói đến địa vị chứng quả của Ngài. Thế Tôn (世尊) là bậc tôn quư nhất trong thế gian, nhằm ca ngợi địa vị cao quư của Ngài.

          2) Phật có ba thân: Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân. “Ứng” là Pháp Thân cảm ứng một chỗ nào, bèn ứng hóa thân h́nh đến đó để độ chúng sanh. Đức Thích Ca từ hai ngàn năm trước như chúng ta đă biết, chính là giả thân ứng hóa. Theo như kinh điển ghi chép, Ngài đă đến ứng thế nơi đây hơn tám ngàn lần. Pháp Thân thành Phật là chuyện [xảy ra] từ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp trước. Chuyện của ngài Địa Tạng như ông đă nói hoàn toàn chẳng phù hợp kinh! Đức Địa Tạng đản sanh hoàn toàn chẳng phải là chuyện thuộc hai ngàn năm trước, mà Ngài cũng chưa thành Phật. Chúng sanh trong lục đạo và Phật từ vô thỉ đến nay, [ai nấy] đều vốn có bản tánh [linh minh giác tri], chẳng qua là đă giác hay chưa giác, cho nên có Phật và chúng sanh sai khác. Những vị đă thành Phật và những người luân chuyển trong lục đạo là do nghiệp của chính họ tạo ra, hoàn toàn chẳng có ai làm chủ tể của họ. Vạn pháp duy tâm! Kinh Phật nếu không có ai giảng giải, cứ tự xem, sẽ có nhiều nỗi hiểu lầm!

 

          * Hỏi: Xin hỏi, vào năm mười chín tuổi, trước khi Phật Thích Ca xuất gia, Ngài đă kết hôn với phu nhân Cù Di. Dựa theo kinh điển ghi chép, bà ta là ngọc nữ. Xin hỏi “ngọc nữ” có phải là từ ngữ tôn xưng “thạch nữ”[21] hay không? V́ kinh điển chép Phật Thích Ca từng có ba phu nhân, hai bà phu nhân kia là Da Thâu Đà La (Yasodhara) và Ma Dă, mỗi vị kết hôn dưới t́nh huống nào? Kết hôn trước hay sau, giờ, tháng, năm, tuổi tác có ghi chép xuất xứ hay không? (Thí Chấn Huy hỏi)

 

          Đáp: Kinh điển có ghi chép ba vị phu nhân của đức Thế Tôn. Nói “ngọc nữ” chẳng qua là mỹ danh mà thôi! Chẳng bàn tới cái nhân đời trước, chỉ luận chuyện trong đời này: Vương tử trong một nước vâng lệnh vua cha kết hôn, đấy chính là lễ nghi thông thường trong một nước, chẳng có t́nh huống nào khác! C̣n như nói đến chuyện năm, tháng kết hôn, không chỉ là [chuyện xảy ra đă] lâu năm, khó thể khảo cứu, [mà c̣n v́] lịch pháp xưa nay, trong ngoài nước khác nhau, cũng chẳng dễ tra duyệt, đối chiếu chuẩn xác được!

 

          * Hỏi: Bốn đại bộ châu trong tứ thiên hạ có phải là ở cùng trong một thái dương hệ hay không? Hay là mỗi châu có một thái dương hệ riêng? Căn cứ trên h́nh chụp địa cầu (nơi chúng ta đang sống) từ mặt trăng của ba phi hành gia người Mỹ, chẳng trông thấy các quả địa cầu của các châu Đông, Tây, Bắc! Xin hăy khai thị. (Đới Thiêm Đinh hỏi)

 

          Đáp: Số lượng tứ đại châu không chỉ là một nhóm, mà là nhiều đến vi trần số bất khả thuyết. Có bốn đại bộ châu ở ngoài thái dương hệ, mỗi cái có danh xưng riêng. Nay những điều ông hỏi, có lẽ chuyên nói về Sa Bà. Một đơn vị trong Sa Bà là bốn châu, nằm trong thái dương hệ, những [châu cầu khác] chẳng nằm trong ấy. Ông lại hỏi: “Phi hành gia nước Mỹ ở trên mặt trăng, chẳng trông thấy quả địa cầu của các châu Đông, Tây, Bắc”. Câu này chỉ có thể hiểu ư chắc là muốn hỏi: “Các phi hành gia Mỹ ở trên mặt trăng, có thể thấy ba châu khác hay không?” Mặt trăng là vệ tinh của địa cầu, [nếu như] chúng ta ở trên địa cầu mà có thể thấy ba châu kia, th́ may ra trên mặt trăng cũng trông thấy ba châu kia. Trên địa cầu đă là không thấy, th́ trên mặt trăng cũng chẳng thể thấy được! [Bởi lẽ], mặt trăng chẳng cao hơn địa cầu, lại chẳng phải là cơi trời.

 

          * Hỏi: Quả địa cầu nơi chúng ta đang sống được gọi là thế giới Sa Bà th́ các châu Đông, Tây, Bắc sẽ gọi là thế giới nào? (Đới Thiêm Đinh hỏi)

 

          Đáp: Thế giới Sa Bà chính là tên gọi chung của một tam thiên đại thiên thế giới. Một đại châu chỉ là một phần tư trong số các đại châu của một đơn vị thế giới! Dùng thí dụ để nói, đại thiên thế giới như một con trâu, một đại châu như một sợi lông trên thân trâu. Một con trâu gọi là “toàn ngưu” (toàn bộ con trâu), một sợi lông trâu là một cái lông. Cái lông ấy xuất phát từ thân trâu, đương nhiên gọi là “ngưu mao” (lông trâu).

 

          * Hỏi: Chuyển Luân Thánh Vương phải đợi đến khi nào để xuất hiện trong thế gian? Hiện nay là thời Mạt Pháp, cứ mỗi trăm năm giảm một tuổi, có phải là đến lúc nào đó, [Chuyển Luân Thánh Vương] sẽ xuất hiện trong khoảng tăng kiếp? Các luân vương Thiết, Đồng, Ngân, Kim đồng thời xuất hiện, hay là xuất hiện trong thế gian theo thứ tự trước sau? (Đới Thiêm Đinh hỏi)

 

          Đáp: Theo Câu Xá Luận, đại ư là nói: Tối thiểu là đến khi thọ lượng của con người trong châu này là tám vạn năm, mới có Chuyển Luân Thánh Vương sanh ra. Khi chưa đủ tám vạn tuổi, các điều ác của hữu t́nh dần dần mạnh hơn, [do vậy, họ] chẳng phải là căn khí của bậc đại nhân, phước báo đang giảm. [V́ thế], chẳng có Chuyển Luân Vương xuất hiện trong cơi đời.

 

          * Hỏi: Đức Phật Dược Sư phát ra mười hai đại nguyện độ sanh, kinh văn đă chép rơ ràng. Quán Thế Âm Bồ Tát phát ra mười hai đại nguyện, nhưng kinh văn chẳng chép rơ. “Quán Âm đại sĩ tất hiệu Viên Thông, thập nhị đại nguyện thệ hoằng thâm” (Quán Âm đại sĩ hiệu là Viên Thông, mười hai đại nguyện thệ rộng sâu). Kính xin lăo cư sĩ chỉ dạy nội dung mười hai đại nguyện của Quán Âm đại sĩ! (Đới Thiêm Đinh hỏi)

 

           Đáp: Mười hai đại nguyện ấy, đa số mọi người chẳng biết. Kẻ hèn này đọc kinh rất ít, chưa thấy [các nguyện ấy được] chép trong kinh điển nào, cảm thấy mờ mịt! Do vậy, đâm ra nghi ngờ bài tán ấy. Mười mấy năm qua, người hỏi [về vấn đề này] không chỉ là mười mấy người, tôi đều cự tuyệt chẳng đáp, v́ chẳng biết xuất xứ. Dựa theo phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, [trong phần kệ đáp cho] bài kệ thưa hỏi của Vô Tận Ư Bồ Tát, câu “niệm bỉ Quán Âm lực” (do sức niệm Quán Âm) [được ghi trong] mười hai bài kệ nói về sự giảm trừ các nỗi khổ. Bài kệ thứ nhất là “thôi lạc đại hỏa khanh, niệm bỉ Quán Âm lực, hỏa khanh biến thành tŕ” (đẩy rớt hầm lửa lớn, do sức niệm Quán Âm, hầm lửa biến thành ao). Bài kệ thứ mười hai là “vân lôi cổ xiết điển, giáng bạc chú đại vũ, niệm bỉ Quán Âm lực, ứng thời đắc tiêu tán” (mây sấm rền, chớp xẹt, mưa đá, tuôn mưa lớn, do sức niệm Quán Âm, ngay lập tức tiêu tan), vừa đúng con số mười hai. Chẳng biết có phải là vị đại đức soạn bài tán ấy đă nói về chuyện ấy hay chăng. Tôi thanh minh lần nữa, chuyện vừa nêu trên đây cũng là tự hư vọng suy lường, chẳng phải nói “đúng là như thế”.

 

          * Hỏi: Dưới đại địa chúng ta đang sống có phong luân, không luân, thủy luân, kim luân. Chẳng biết là theo thứ tự, luân nào là đầu tiên? (Đới Thiêm Đinh hỏi)

 

          Đáp: Dưới cùng là không luân, trên đó là thủy luân, cao nhất là kim luân, tức là các thứ kim loại hỗn hợp thành chất rắn vậy.

 

          * Hỏi: Đức Phật giáng sanh trong nhân gian, v́ chúng sanh trong Diêm Phù Đề mà hóa độ chúng sanh. Ba châu khác, trừ Bắc Câu Lô Châu có phước báo lớn nhất, chúng sanh trong hai châu kia chẳng khổ năo như trong Diêm Phù Đề ư? (Đới Thiêm Đinh hỏi)

 

          Đáp: Trong thế giới Sa Bà, có đến mấy ngàn vạn tứ đại châu, Phật độ chúng sanh chẳng hạn cuộc trong một Diêm Phù Đề này! Lại nữa, câu hỏi này có điều hiểu lầm, cũng xin nói rơ. Bắc Câu Lô Châu chẳng nghe Phật pháp, chính là một trong tám nạn, chẳng được giải thoát, sao nói là “phước” cho được? Hai châu kia cũng thuộc Dục Giới, đều cùng có tám khổ. Chỉ là v́ t́nh thức dấy lên khác nhau, cho nên cảm vời sai khác đó thôi!

 

          * Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát trăm ngàn vạn kiếp hóa độ cơi Diêm Phù Đề, tức là giáo hóa bọn chúng sanh chúng ta trong cơi Diêm Phù Đề ư? (Đới Thiêm Đinh hỏi)

 

          Đáp: Kinh Pháp Hoa nói: “Dạo chơi trong thế giới Sa Bà”. Đă đến Sa Bà, há chỉ hạn cuộc trong một châu Diêm Phù?

 

          * Hỏi: Đối với chữ , theo ghi chép trong phần chữ Vạn của Phật Học Đại Từ Điển, nó chính là tướng tốt lành được biểu lộ trên ngực đức Phật, tức là tướng Cát Tường Hải Vân. Nhưng tôi thấy chữ nơi ngực đức Phật trong chùa miếu, và các tạp chí, sách vở Phật giáo, hoặc là xoay theo chiều bên phải, hoặc xoay theo chiều bên trái () chẳng nhất trí. Tướng chữ là thụy tướng của đức Phật, mọi thiện tín trông thấy tướng ấy, liền sanh tâm tôn kính. Có thể nói là một tiêu chí (標誌, logo) của Phật giáo, tợ hồ chẳng nên coi xoay theo chiều phải hay trái đều được, đến nỗi phá hoại thụy tướng. Có phải là xoay theo chiều bên trái là có ư nghĩa nào khác, hay là do hiểu lầm? (Ngô Cơ Miên hỏi)

 

          Đáp: chỉ là tướng, chẳng phải là chữ! Các vị thầy dịch kinh người Hoa bắt đầu gọi nó là chữ Vạn. Cách đọc và sự giải thích tướng ấy được chép trong bộ từ điển của ông Đinh (Đinh Phước Bảo). Kể từ đời Đường cho đến triều Thanh, tướng ấy đều là , hoàn toàn chẳng có dị nghị. Chỉ có Nhật Bản là chuyên tạo h́nh tướng chữ này thành “”. Từ đấy, mới bắt đầu có sự thay đổi và tạo tác [h́nh tượng] khác biệt, tranh luận mới dấy lên. Chỉ có điều, đây là tướng tốt lành trước ngực đức Phật, rốt cuộc h́nh dạng như thế nào, người đời sau chưa từng đích thân trông thấy, chẳng dám vũ đoán! Xét ra người Nhật học Phật là do cầu pháp từ Trung Hoa truyền sang nước ấy. [So sánh] tượng Phật và kinh văn [giữa hai nước], sẽ phát hiện có nhiều chỗ khác nhau. Rốt cuộc, giữa Trung Hoa và Nhật Bản ai đúng, kẻ hèn này vô học, chẳng thể đoán định!

 

          * Hỏi: Nếu chữ Vạn xoay theo chiều bên phải ()[22] là sai lầm, tôi tính xin quư san kiến nghị tổng hội Phật giáo thông báo các chi hội Phật giáo để họ báo lại các chùa miếu, các nhà xuất bản sách vở Phật giáo, các chỗ khắc tạc tượng Phật v.v… nhất loạt chú ư: Nếu có kẻ nào sai lầm, hăy nên sửa cho đúng, ḥng chỉ có một tướng tôn nghiêm! (Ngô Cơ Miên hỏi)

 

          Đáp: Tạc tượng vốn có kinh điển, gọi là [kinh] Tạo Tượng Độ Lượng. Đối với việc chạm khắc, đắp tạc tượng trong chùa miếu lớn xưa kia, đều thỉnh bậc đại đức về Phật học trông chừng chuyện tạo tác. Trong phạm vi nước Trung Hoa, về đại thể là tương đồng, chẳng dám tùy tiện, cũng chẳng có tranh luận. Đại khái, chuyện này thống nhất, ắt phải được những vị thạc học, lăo túc nhiều cách cầu chứng, cùng nhau quyết định, thật sự chẳng phải do một hai người đề xướng riêng lẻ, th́ mới có thể khến cho mọi người thuận theo vậy!

 

          * Hỏi: Tỳ-kheo thọ giới đốt dấu thọ giới trên đỉnh đầu, và đệ tử Phật đốt ngón tay cúng Phật, có phải là chuyện đă được răn dạy khi đức Phật c̣n tại thế? Chép trong giới luật, kinh luận nào? Hay là do đệ tử về sau đặt ra? Do vị hiền đức nào đặt ra? Bắt đầu vào thời nào? (Ngô Cơ Miên hỏi)

 

          Đáp: Thiêu thân cúng Phật, kinh có chép chuyện ấy. Như tại Trung Hoa, có người cắt thịt đùi dâng vua, cắt thịt ḿnh để chế thuốc dâng lên cha mẹ, đôi khi có chuyện ấy, hoàn toàn chẳng có văn bản rơ ràng ép buộc ai nấy đều phải làm như vậy! Những người đốt ngón tay, chặt ngón tay trong hiện thời, cũng là do họ tự động làm, thật sự chẳng có giới luật sắc truyền, mà là chuyện tự do cá nhân. Đối với chuyện đốt hương trên đầu hay trên cánh tay, tại hạ là hàng bạch y, chưa từng đọc tụng giới luật tỳ-kheo, chẳng biết nguyên nhân, chẳng thể vâng mạng trả lời được!

 

          * Hỏi: Tràng hạt gồm một trăm lẻ tám viên, trừ hạt mẫu châu ra, lại c̣n thêm vào ba hạt “gián châu”[23] khác chất liệu, khác màu. Nhưng Nhật Bản chế tạo loại tràng hạt thượng hạng bèn thêm vào năm hạt [gián châu], chưa biết mỗi loại biểu thị ư nghĩa nào? Có kinh điển hay nghi quỹ nào để làm căn cứ hay chăng? Xen thêm gián châu thuộc chất liệu khác so với những hạt chánh yếu, hăy nên [dùng hạt] hơi lớn hay nhỏ hơn [những hạt chánh yếu] th́ mới hợp pháp tắc? (Ngô Cơ Miên hỏi)

 

          Đáp: Quy định về chuỗi tràng hạt căn cứ theo kinh điển. Thông thường, số lượng các hạt là từ mười tám cho đến một trăm lẻ tám hạt. C̣n có những con số khác nữa, đều có ư nghĩa riêng. Có thể tham khảo bộ Phật Học Vấn Đáp của tại hạ, đă có nói rơ cặn kẽ! Đối với những hạt thêm vào ngoài số hạt chánh yếu, chẳng qua là chia [chuỗi tràng hạt] thành mấy phần, ḥng dễ nhớ số, chẳng thể đếm lẫn vào trong số hạt chánh yếu được. Nhưng những hạt thêm vào, không ǵ là chẳng thêm vào hạt to hơn để tạo sự khác biệt. Những chuỗi do người Nhật chế tạo th́ mới thêm vào những hạt nhỏ hơn.

 

          * Hỏi: Thế nào là Tứ Quả La Hán? Xin thầy chỉ dạy cặn kẽ! (Chiêm Kim Chi hỏi)

 

          Đáp: Phàm phu ở trong tam giới, có đủ Kiến Hoặc và Tư Hoặc. Nếu hành giả đoạn hết Kiến Hoặc trong tam giới, bèn chứng nhập ḍng thánh, gọi là Tu Đà Hoàn. Đấy là Sơ Quả. Lại đoạn hết sáu phẩm Tư Hoặc trong Dục Giới, th́ gọi là Tư Đà Hàm. Đấy là Nhị Quả. Lại đoạn hết ba phẩm Tư Hoặc trong Dục Giới c̣n lại th́ gọi là A Na Hàm. Đấy là Tam Quả. Lại đoạn hết các Tư Hoặc thuộc hai giới trên (Sắc Giới và Vô Sắc Giới) th́ gọi là A La Hán, đấy là Tứ Quả. Đó là nói đại lược. Nói cặn kẽ, sợ chẳng dễ liễu giải! Ấy là v́ trước hết ắt phải biết danh xưng Nhị Hoặc, kế đó là biết số lượng các Kiến Tư Hoặc ứng hợp với tam giới, lại biết số lượng trên dưới qua lại của người tu, sau đấy mới hiểu rơ đại khái.

 

          * Hỏi: Tôi c̣n chưa hiểu rơ ư nghĩa của [danh xưng] Bồ Tát Ma Ha Tát, xin dạy tường tận! (Chiêm Kim Chi hỏi)

 

          Đáp: Bồ Tát (Boddhisattva) là danh từ tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Giác Hữu T́nh. Ma Ha Tát (Mahasattva) cũng là âm Phạn, dịch sang tiếng Hán là Đại Bồ Tát. Nói gộp lại, sẽ là vị đại Bồ Tát trong các vị Bồ Tát. V́ cấp bậc, phẩm vị chứng đắc của Bồ Tát quá nhiều, tổng cộng hơn bốn mươi mốt địa vị, đầu tiên là địa vị Thập Trụ, tiến hơn nữa là Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, cuối cùng là Thập Địa. Ba mươi địa vị đầu là Hiền, mười địa vị sau là Thánh. Thánh mới được gọi là Đại.

 

          * Hỏi: Nếu tâm trái giác hiệp trần (bối giác hiệp trần) th́ chính là chúng sanh. Nếu tâm trái trần hiệp giác th́ chính là Phật. Khẩn khoản xin hăy chỉ dạy về hai loại trên đây! (cư sĩ Đạt Hoằng hỏi)

 

          Đáp: Trước hết, tôi thanh minh, lời giải thích phúc đáp của tôi chỉ cốt sao dễ hiểu, chẳng thể học theo mặt chữ để luận định ư nghĩa được! “Bối” () là tương phản, cũng có nghĩa là ly khai. “Hiệp” () là khế hợp với nó, có ư nghĩa tương đồng. “Giác” () là đại triệt đại ngộ, trí huệ sáng suốt. “Trần” () là tục sự trong thế gian, ngũ dục, lục trần, các thứ phiền năo. Giảng giải về “tâm” () quá nhiều, chỉ có thể nói đơn giản là “ư niệm”. Nói gộp lại, nếu khởi tâm động niệm ĺa khỏi giác ngộ, khế hợp dục trần thế tục, sẽ là chúng sanh trong lục đạo, là sanh tử phàm phu. Nếu khởi tâm động niệm ĺa khỏi dục trần thế sự, khế hợp giác ngộ, khiến cho trí huệ sáng suốt, sẽ là cái nhân thành Phật, lâu ngày sẽ tự có thể thành Phật.

 

          * Hỏi: Sau lưng tượng thần hộ pháp có một ṿng tṛn, là do ư nghĩa ǵ? (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

          Đáp: Tạo h́nh một ṿng tṛn nhằm biểu thị quang minh của Ngài.

 

          * Hỏi: Tra t́m trong bộ Từ Nguyên của Thương Vụ Ấn Thư Quán, thấy chữ ghi âm đọc là Ỷ Cấm Thiết (倚禁切)[24], âm đọc như chữ Ấm (), thuộc vần Thấm (), có nghĩa là “ẩn giấu”. Sách Lễ Kư chép: “Cốt nhục tễ ư hạ, ấm vi dă thượng” (xương cốt chôn vùi dưới đất, vùi lấp ngoài đồng); lại có Ngũ Ấm là danh từ Phật giáo, tức Ngũ Uẩn. Điều thứ hai, Tâm Kinh có câu: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không” chính là câu ắt phải đọc tụng trong khóa tụng hằng ngày. Điều thứ ba, tra cứu thuật ngữ Ngũ Uẩn trong bộ Thực Dụng Phật Học Từ Điển của Hương Cảng, [thấy ghi như sau]: “(Thuật ngữ) Tiếng Phạn là Tắc Kiện Đà, dịch theo lối cổ là Ấm, c̣n dịch là Chúng. Dịch theo lối mới là Uẩn. Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức”. Chữ Ấm đọc b́nh thanh (tức Âm) hay đọc theo giọng khứ thanh (tức Ấm)? Nếu đọc theo giọng khứ thanh, đôi câu đối tôi tính viết dưới đây sẽ thành sai âm vận! “Quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai, đảo giá từ hàng độ chúng khổ. Hiện tiền Quán Thế Âm Bồ Tát, hành thâm Bát Nhă không Ngũ Ấm” (Quá khứ, Chánh Pháp Minh Như Lai, thả chiếc bè từ, độ các khổ. Hiện tại, Quán Thế Âm Bồ Tát, hành sâu Bát Nhă, rỗng năm uẩn). (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: Đối với chữ Ngũ Ấm trong kinh Phật, xét theo lối cựu dịch, có hai cách nói: Một là “che lấp”, hai là “tích tụ”. Tức là: Một là đọc theo giọng b́nh thanh, hai là đọc theo giọng khứ thanh. Theo lối tân dịch là Uẩn (), chỉ có nghĩa “tích tụ”, chẳng có nghĩa “che lấp”, do chữ Ấm trong tiếng Phạn phải là Bát La Bà Đà, chẳng phải là Tắc Kiện Đà (Skandha). [Điều này] vẫn c̣n đang tranh luận. Lối tân dịch cũng chấp nhận cách hiểu là Âm Dương. Do đa số đọc [chữ này] theo giọng b́nh thanh, biết là c̣n có cách đọc khác mà thôi. Chữ này thuộc loại dịch nghĩa, nhưng đối với cách hiểu lại có những tranh luận cho rằng [cổ nhân] đă hiểu lầm tiếng Phạn. Nếu chẳng thông hiểu sâu xa tiếng Phạn, sẽ chẳng dám đoán định Tắc Kiện Đà và Bát La Bà Đà, chữ nào là Tích Tụ, chữ nào là Che Lấp. Vậy th́ đối với chữ Ấm () đọc giọng b́nh thanh hay khứ thanh cũng nên tồn nghi, hăy thuận theo cách đọc của đa số. Nhưng đối với câu đối do ông đă làm, đọc [chữ Ấm] theo giọng b́nh thanh (tức Âm) hoàn toàn chẳng có ǵ là không được!

 

          * Hỏi: Có người nói Quan Vân Trường thời Tam Quốc chính là Già Lam tôn giả trong hiện thời, c̣n có kẻ bảo ông ta là Già Lam Bồ Tát. Ông ta suốt đời giết người quá nhiều, làm sao có thể là tôn giả hay Bồ Tát cho được? Ai là người đầu tiên biết ông ta là Già Lam tôn giả, hoặc Già Lam Bồ Tát? (độc giả ở Đài Trung hỏi)

 

          Đáp: V́ nước giết địch, do hộ pháp mà hàng ma, chẳng giống chuyện giết người thông thường! Giết địch là trung; hàng ma là nhân. Đại trung, đại nhân, hộ quốc, hộ pháp, há chẳng phải là Bồ Tát ư? C̣n như chuyện được gọi là Già Lam là v́ ông ta quy y với Trí Giả đại sư, sách Phật Tổ Thống Kỷ chép chuyện này. Mấy năm trước, sách Phật Học Vấn Đáp đă sớm có ghi chép về chuyện này, mong hăy tra duyệt.

 

          * Hỏi: Sau mỗi tượng Di Lặc Bồ Tát, có một tượng Quán Âm Bồ Tát là do nguyên nhân nào? Di Lặc Bồ Tát cầm túi vải để làm ǵ? (độc giả ở Đài Trung hỏi)

 

          Đáp: Sau lưng Di Lặc Bồ Tát có Quán Âm Bồ Tát là chuyện ngẫu nhiên trong một chùa, trọn chẳng phải là nhất loạt đều là như thế, không thể dựa vào đâu để trả lời được! Tạc tượng [ngài Di Lặc] trong cơi này vốn dựa theo h́nh tướng của Bố Đại ḥa thượng vào đời Lương thời Ngũ Đại. Khi Ngài sắp nhập Niết Bàn, từng có nói kệ như sau: “Di Lặc, chân Di Lặc, phân thân thiên vạn ức”. Ai nấy đều nói Ngài là hóa thân của đức Di Lặc. Hễ tạc tượng Di Lặc, đều phỏng theo h́nh tướng của Bố Đại ḥa thượng.

 

          * Hỏi: Nghe nói vào tháng Chín năm Dân Quốc 58 (1969), quư xă phát hành tạp chí Bồ Đề Thụ, ngoài b́a có h́nh Bồ Tát cưỡi voi. Điều này rất bất hợp lư! Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, chẳng dám cưỡi lên thân động vật th́ mới đúng! V́ sao lại phải in loại tượng đó? (độc giả ở Đài Trung hỏi)

 

          Đáp: Kinh Pháp Hoa có nói “thân tác khuông sàng” (thân làm giường chơng)[25] để cúng dường. Đức Thế Tôn cũng dùng tóc để trát đất bùn nơi mặt đất [cho bằng phẳng], cúng dường bằng cách “tiếp túc” (hai bàn tay ngửa lên ôm chân Phật), ư nghĩa ở chỗ này, chẳng phải là ở chỗ kia! Voi dâng thân để ngồi, cưỡi, ḥng cúng dường Bồ Tát, tự có đầy đủ công đức, chẳng phải là Bồ Tát tự buông lung, bắt nó nhọc nhằn. Ví như con hiếu cơng vác cha mẹ, há có nên nói là cha mẹ chẳng hợp lư ư? Hơn nữa, Pháp Thân vô tướng, hiển thị độ chúng sanh, đều có ư nghĩa bí mật. Nếu chấp tướng, hiểu theo cách nh́n thông tục, sai mất rồi!

 

          * Hỏi: “Bạch liên tọa thượng Di Đà Phật, tử trúc lâm trung Quán Thế Âm” (Phật Di Đà ngồi trên hoa sen trắng, Quán Thế Âm trong rừng trúc tía) nên hiểu như thế nào? (độc giả ở Đài Trung hỏi)

 

          Đáp: Đây là một cặp câu đối trong thế tục, hiểu theo nghĩa văn tự của thế tục là được rồi, chẳng cần phải cố ư chèo kéo, thêm thắt, không có cách nào dẫn chứng kinh điển cả!

 

          * Hỏi: Lục Tổ là Huệ Năng (惠能), hay là Huệ Năng (慧能)? (độc giả ở Đài Trung hỏi)

         

          Đáp: Theo truyện kư ghi chép, Ngài là thượng Huệ () hạ Năng ().

 

          * Hỏi: Nơi trang tám trăm sáu mươi chín của quyển thứ ba, tập năm mươi mốt trong bộ Đại Tạng Kinh do các vị đại sư đương thời của Phật giáo như Chương Gia, Ấn Thuận, Đạo An, Bạch Thánh v.v… biên soạn (Trung Hoa Phật Giáo Đại Tạng Kinh Ủy Viên Hội xuất bản), phần Sử Truyện Bộ thứ ba, tức là trong quyển một của Đại Đường Tây Vực Kư, có nói: “Thế giới Sách Ha (cựu dịch là thế giới Sa Bà, c̣n dịch là thế giới Sa Ha, đều là sai), trong các sách như Thích Ca Phương Chí v.v… cũng có bàn tới)”. V́ sao hiện thời trong các ấn bản Phật giáo, hoặc khi Phật tử trích dẫn để diễn giải, đều bỏ chữ “thế giới Sách Ha” mà nói là “thế giới Sa Bà”. Đấy chẳng phải là đem sai lầm truyền thừa sai lầm ư?

          Lại như cùng trang ấy có viết: “Núi Tô Mê Lô (tiếng Hán dịch là núi Diệu Cao), cựu dịch là Tu Di Lâu đều là sai”. “Già Hà (cựu dịch là Hằng Hà, c̣n dịch là Hằng Già đều là sai)” v.v… vậy th́ cũng là đem sai ngoa truyền thừa sai ngoa. Kinh [Nho gia] dạy: “Âm ngoa tắc nghĩa thất, ngữ mậu tắc lư quai, cố viết tất dă chánh danh hồ” (Âm đọc sai lầm sẽ mất ư nghĩa, nói sai lầm sẽ trái nghịch lư. V́ thế, ắt phải gọi sự việc cho đúng tên). (Thí Chấn Huy hỏi)

 

          Đáp: Đọc sách của tiền nhân, ắt phải t́m nơi sách cổ để làm căn cứ th́ mới có căn cứ để chứng thực ḥng tin tưởng. Nhưng sách vở cổ đă lâu đời, tàn khuyết, mất trang là điều chẳng thể tránh khỏi. V́ thế, đọc đến, thường có những chỗ khó thể [lư giải] suông sẻ được! Hễ nghi, hoặc là hăy ra sức khảo chứng, nghị luận, chẳng có ǵ là không được! Nếu thấy bản khác [chép khác biệt], bèn sửa đổi [bản ḿnh đang có], sẽ là bất hợp lư quá mức! Bởi lẽ, sách xưa dẫu chẳng hoàn bị, vẫn là bản chân thật, bất quá là bị khuyết lạc mà thôi. Nếu [tùy tiện] sửa đổi, rơ ràng là chẳng c̣n chân thật nữa! Rốt cuộc ai đúng, ai sai, há có thể căn cứ trên một bản để vũ đoán ư? Đối với chuyện này, cổ nhân có hai cách: Hoặc là đợi khi có đủ tài liệu, hoặc là mặc cho người đọc quyết định. Huống chi kinh Phật [nguyên văn bằng] tiếng Phạn, ắt phải là trước hết thông hiểu tiếng Phạn. Đă thông hiểu [tiếng Phạn] rồi, đối với các ngữ hệ của Trung Hoa, xưa nay, Nam, Bắc, đều có nhiều chuyển biến, sự phiên âm qua các đời chẳng tránh khỏi biến cải. Nếu dùng âm đọc hiện thời để sửa đổi lối cổ, người đời sau lại sửa đổi cách đọc hiện thời. Cứ như thế mà suy, sẽ đến lúc chẳng có ǵ là đúng cả, thật sự trở thành “đấu tranh kiên cố”, đạo hoàn toàn bị ẩn mất. Theo ư kiến vụng về của kẻ hèn này cho rằng: Âm đọc nên thuận theo lối cổ, cầu t́m ư nghĩa nơi sự thật, chớ nên thay đổi cách viết và đọc thời cổ. Người có học thật sự, sẽ chẳng ngại dùng theo lối tân dịch!

 

          * Hỏi: Chữ Tạng trong Như Lai Tạng có phải là “tại triền Như Lai Tạng” hay không? (A Lại Da Thức) (Lư Dục Phi hỏi)

 

          Đáp: [Nếu nói “tại triền Như Lai Tạng” là A Lại Da Thức th́] đúng như ông đă nói; nhưng đối với Như Lai Tạng, nếu bỏ chữ Như Lai đi, chuyên nói về chữ Tạng, những điều ông đă nói sẽ chẳng phải là như vậy.

 

          * Hỏi: Quả cao tột của chư Phật là Bồ Đề Niết Bàn, có phải là do tư tưởng sáng tạo hay không? Lấy tư tưởng làm nhân, có thể chứng quả Bồ Đề hay không? (Lư Dục Phi hỏi)

 

          Đáp: Công phu trong nhà Phật cố nhiên chẳng ĺa tư tưởng, nhưng sau khi đă “tư” (suy nghĩ), ắt phải tu th́ mới có thể chứng đắc. Cậy vào vọng tưởng suông [mà mong chứng đắc], chẳng có lẽ ấy!

 

          * Hỏi: Phân biệt đơn giản Tư Hoặc và Tư Huệ như thế nào? (Lư Dục Phi hỏi)

 

          Đáp: Tư Hoặc là tên gọi chung của tám mươi mốt phẩm vô minh. Tư Huệ là một trong Tam Huệ Văn Tư Tu. Hoặc () là mê hoặc, điên đảo. Huệ chính là Bát Nhă. Hai đằng trái ngược nhau rất lớn.

 

          * Hỏi: Xin hỏi Diêm Phù Đề và thế giới Sa Bà là như nhau hay khác nhau? (tổ thứ tư trong khóa học Đại Chuyên Giảng Ṭa hỏi)

 

          Đáp: “Thế giới Sa Bà” chính là tên gọi chung của tam thiên đại thiên thế giới này. Diêm Phù Đề chính là một châu thuộc về một đơn vị thế giới trong đại thiên thế giới Sa Bà.

 

          * Hỏi: Rồng thuộc về đường nào? (tổ thứ tư trong khóa học Đại Chuyên Giảng Ṭa hỏi)

 

          Đáp: Rồng thuộc về súc sanh.

 

          * Hỏi: Đối với núi Tu Di trong kinh Phật, trong số các tinh cầu mà giới thiên văn có thể trông thấy trong hiện thời, có thể thấy núi Tu Di hay không? (Liêu Thông Mẫn hỏi)

 

          Đáp: Sợ rằng chẳng trông thấy. Mặt trăng là vệ tinh của địa cầu, ở ngay trước mắt. Núi Hỷ Mă Lạp Nhă ở ngay tại châu Á, nhưng tại Đài Loan ngẩng đầu ḍm không thấy, c̣n nói ǵ đến chuyện khác!

 

          * Hỏi: Xin hỏi đại lược về tiểu sử của A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, và Dược Sư Phật? (Tạ Minh Châu hỏi)

 

          Đáp: Phàm là những vị Phật, Bồ Tát, thành tựu đều vượt quá ba đại A-tăng-kỳ kiếp, trừ [hành trạng của] A Di Đà Phật được nói đại lược đầu mối trong kinh Vô Lượng Thọ ra, những vị khác đều chẳng được đề cập. Hăy nên biết: Trong Tam Tạng kinh Phật, danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát há chỉ là mấy vạn! Nếu đối với mỗi vị đều chép lịch sử, sẽ không có chỗ nào để chứa nổi lượng sách [dùng để biên chép]. Hơn nữa, dẫu biết lịch sử của các Ngài, có ích ǵ cho việc tu tập hay chăng? Người học Phật cầu đạo, hăy nên nắm lấy chỗ trọng yếu, chẳng cần phải hỏi những điều không liên quan!

 

          * Hỏi: Khi trước, thầy giảng kinh Hoa Nghiêm, có ba điều tôi nghe không hiểu, xin thầy giải thích. Một là Đồng Chân Trụ, hai là Pháp Vương Tử Trụ, ba là Quán Đảnh Trụ! (Tạ Minh Châu hỏi)

 

          Đáp: Đồng (, trẻ thơ) hiển thị ư nghĩa vô cấu, Chân () nhằm ư nghĩa vạch rơ “chẳng hư ngụy”, tức là địa vị ấy cũng ĺa khỏi sự nhiễm đắm thế gian. Pháp Vương Tử nghĩa là địa vị ấy cũng ngộ giải pháp của đấng Pháp Vương, có hy vọng thừa kế trong tương lai. Đă viên măn địa vị Quán Đảnh th́ chính là Phật tử thật sự, có thể hành Phật sự, giống như vương tử trong cơi đời nhận chức, tiếp nhận lễ quán đảnh vậy.

 

          * Hỏi: Giấc mộng Nam Kha (南柯)[26] là ǵ? (Tạ Minh Châu hỏi)

 

          Đáp: Đấy chính là chuyện tiểu thuyết, cũng có thể cảnh tỉnh con người khỏi mê. Nói đại lược th́ là một người nằm mộng thấy [chính ḿnh] đến nước Ḥe An, được quốc vương gả con gái cho, lại được phong làm thái thú quận Nam Kha, hiển quư tột bậc. Về sau, do giao chiến với địch bị thất bại, công chúa bị chết, mất sạch quyền chức. Tỉnh giấc, thấy thân ḿnh đang nằm tựa vào cành ḥe mà ngủ, dưới đó có một ổ kiến, mới hiểu ra nước Ḥe An chính là [ổ kiến] ấy!

 

          * Hỏi: Tên gọi của địa vị Vô Học bao hàm ư nghĩa ǵ? (Tạ Minh Châu hỏi)

 

          Đáp: Vô Học đồng nghĩa với danh từ “đă tốt nghiệp từ một trường nào đó” trong hiện thời. Đă tốt nghiệp, tự nhiên là đạt được một học vị, ư nghĩa là như thế đó. Tiểu Thừa chứng đắc Tứ Quả La Hán, tức là địa vị Vô Học của Tiểu Thừa. Đại Thừa th́ đạt đến địa vị Phật Đà cũng gọi là Vô Học.

 

          * Hỏi: Trong Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương có câu “đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, nhập Tam Ma Đề, tư vi đệ nhất” (nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập Tam Ma Đề, đấy là bậc nhất). Tam Ma Đề là ǵ? (Lại Khoan Châu hỏi)

 

          Đáp: Tam Ma Đề (Samadhi) là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Hán thành Chánh Định hoặc Đẳng Tŕ. Chế ngự tâm một chỗ, chẳng nắm níu bên ngoài, đó là tướng Định. Ĺa các tán loạn, lao chao, nên gọi là Đẳng Tŕ.

 

          * Hỏi: Từ Lục Dục Thiên cho đến Đệ Tam Thiên, tuy thọ lạc, nhưng lạc chẳng thể lâu dài, rốt cuộc sẽ bại hoại. Từ Tứ Thiền Thiên trở lên, tuy khổ và lạc cùng mất, khó tránh khỏi Hành Ấm chuyển dời, chưa ĺa sanh tử. Khi phước báo trời đă hết, vẫn phải đọa xuống. “Hành Ấm chuyển dời”“bại hoại” là ǵ? (Lại Khoan Châu hỏi)

 

          Đáp: Ngũ Uẩn c̣n gọi là Ngũ Ấm, tức là năm món Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. “Hành” () có nghĩa là ba nghiệp tạo tác, tâm niệm chuyển dời, luôn động, chẳng ngừng. Món ấm ấy (Hành) tạo tác hữu vi, lại chuyển dời, chẳng tuần hoàn, luân hồi trong lục phàm.

 

          * Hỏi: Xưa kia, do ông Cổn trị thủy không xong, vua [Thuấn] ra lệnh xử tử ông Cổn ở Vũ Sơn thuộc vùng Đông Nam tỉnh Sơn Đông. Sau khi chết, thần thức của ông Cổn biến thành con ba ba có ba chân ḅ xuống vực Vũ Uyên dưới chân núi. “Thần thức” là như thế nào? V́ sao ngay lập tức hóa thành súc sanh, chẳng thọ thân Trung Ấm, hay là tuân theo từng giai đoạn của tứ sanh (thai, noăn, thấp, hóa)? (Lại Khoan Châu hỏi)

         

          Đáp: Kẻ đại thiện hay đại ác đều không có thân Trung Ấm! Người văng sanh Cực Lạc sẽ chẳng trải qua thân Trung Ấm, [kẻ đọa vào] Ngũ Vô Gián địa ngục cũng không trải qua thân Trung Ấm. Ông Cổn hóa thành con ba ba có ba chân, có trải qua giai đoạn Trung Ấm hay không, chẳng thể biết được! Bởi lẽ, trước khi Phật pháp truyền đến Trung Hoa, các sử gia chẳng biết cảnh giới ấy. Sách vở cũng chẳng ghi chép thời gian [kể từ khi ông Cổn chết cho đến khi hóa thành ba ba] dài ngắn bao lâu, chẳng thể quyết đoán ông ta không trải qua giai đoạn Trung Ấm được! Nói đến “tứ sanh” th́ cũng là ngôn từ trong nhà Phật, các sử gia chẳng hiểu rơ chuyện này; v́ thế, chẳng ghi chép tường tận. Tuy sách chép là “hóa vi” (hóa thành), nhưng đấy cũng là cách nói theo kiểu gọt giũa trong văn chương.

 

          * Hỏi: Trong Khuyến Tu Niệm Phật Pháp Môn có một câu: “Niệm Phật tam-muội c̣n gọi là Nhất Hạnh tam-muội”, có nghĩa là ǵ? Xin thầy khai thị. (Lại Khoan Châu hỏi)

 

          Đáp: Tam-muội c̣n gọi là Chánh Định. Nhất Hạnh là tâm chuyên chú nơi một việc để tu Chánh Định, tức là dựa theo một pháp để tu hành công phu định lực. Cách này cũng chia thành hai loại Sự và Lư. Lư là tâm quán, Sự là chuyên niệm Phật.

 

          * Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật có người nói là Thích Ca Văn Phật, phân biệt như thế nào? (Lư Trí Viễn hỏi)

 

          Đáp: “Văn” là âm đọc sai của chữ Mâu Ni (Muni). Thuở ấy, có cách phiên dịch như vậy. Về sau, chẳng thông dụng, chẳng cần đa sự phân biệt!

 

          * Hỏi: Tượng Quán Thế Âm Bồ Tát thoạt nh́n là nữ nhân. V́ sao lại lưu truyền như thế? (Lư Trí Viễn hỏi)

 

          Đáp: Quán Âm Bồ Tát phổ độ chúng sanh, v́ khế cơ nên tùy loại hóa thân. Trong phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa, có chép ba mươi hai loại ứng thân, hoặc nam, hoặc nữ, hoặc già, hoặc trẻ, hoặc văn, hoặc vơ, hoặc tăng, hoặc tục, hoàn toàn chẳng nhất định. Tượng như ông đă thấy có lẽ là Ngài hóa thân nữ nhân.

 

          * Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm cành dương liễu, lại cầm b́nh, là do ư nghĩa ǵ? (Lư Trí Viễn hỏi)

 

          Đáp: Trong b́nh đựng pháp thủy cam lộ, cành dương thấm nước để vẩy. Nước nhuần thấm, lợi ích chúng sanh. Đại ư là như thế.

 

          * Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát đứng trên đầu rồng, giải thích như thế nào? (Lư Trí Viễn hỏi)

 

          Đáp: Trong phần trước, tôi đă nhắc tới ba mươi hai hóa thân, bất quá dựa theo những điều thường biết để nói. Thật ra là trăm ngàn khó lường. [Bồ Tát đứng trên] đầu rồng cũng là một hóa thân vậy.

 

          * Hỏi: Trong phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, có nhắc tới một vị Vô Tận Ư Bồ Tát thưa hỏi đức Thế Tôn về nhân duyên của Quán Thế Âm Bồ Tát. Vô Tận Ư Bồ Tát sống vào thời nào? Có phải là hóa thân hiện đến hay không? (độc giả ở Hoa Liên hỏi)

 

          Đáp: Quán Thế Âm và Vô Tận Ư đều là Pháp Thân đại sĩ. C̣n như trong hội Pháp Hoa, các Ngài hiện thân thuyết pháp, là Báo Thân hay Hóa Thân, kinh chẳng nói tách bạch, chẳng thể tùy tiện nói này nói nọ được! Chỉ biết bậc Pháp Thân đại sĩ thị hiện thân tướng, cùng một lúc [có thể hiện thân] số đến vô lượng. Con số vô lượng ấy là do chuyên v́ từng chúng sanh mà hiện, nhưng căn cơ của chúng sanh khác nhau, cho nên thân đă hiện ra trong một thời, đương nhiên là có tướng Báo Thân, mà cũng có tướng Hóa Thân, tợ hồ chẳng thể chuyên nói là một loại nào được!

 

          * Hỏi: Mồng Một tháng Giêng là thánh đản của Di Lặc Bồ Tát, [ngày ấy] có phải là [nhằm lúc] sau khi Phật Thích Ca giáng sanh, hay là thuộc nhiều kiếp trước? (độc giả ở Hoa Liên hỏi)

 

          Đáp: Phật Thích Ca và ngài Di Lặc từ nhiều kiếp trước, vào thời Để Sa Phật, đă tu hành cùng thời. Nay đồng thời thị hiện tại Ấn Độ trong thế giới Sa Bà, Phật Thích Ca đă sớm thành Phật, nên hiện thân Phật. Ngài Di Lặc vẫn hiện thân Bồ Tát. Trước hết, Ngài sẽ thị hiện diệt độ để đợi nối ngôi Phật Thích Ca.

 

          * Hỏi: Vi Đà Bồ Tát là người thuộc triều đại nào? Thành Bồ Tát như thế nào? (độc giả ở Hoa Liên hỏi)

 

          Đáp: Vị được cơi đời gọi là Vi Đà Bồ Tát chính là một vị trong tám vị thiên tướng của Nam Thiên Vương, Ngài chính là Vi Thiên Tướng Quân. Sách Pháp Uyển Châu Lâm chép: “Vị trời tên là Vi Côn, có túc nguyện (nguyện từ đời trước) ủng hộ sự giáo hóa của đức Phật trong ba châu Đông, Tây, Nam”. Ngài đă chẳng phải là người Hoa trên địa cầu, làm sao thể bàn luận Ngài là người thuộc triều đại nào!

 

          * Hỏi: Những người thuộc giới Phật giáo tại Trung Hoa đều nói Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm. Gần đây, trên tờ nguyệt san của Huệ Cự Xă, cư sĩ Cố Pháp Nghiêm có dịch bài viết Sự Khải Thị Của Đức Phật trích từ sách vở nhà Phật bằng tiếng Anh. Trong ấy có nói: “Đức Phật xuất gia lúc hai mươi chín tuổi, ba mươi lăm tuổi chứng đạo, thuyết pháp bốn mươi lăm năm”. Trong hai thuyết ấy, thuyết nào là đúng? Hay là chẳng nên có cách suy nghĩ phân biệt như thế? Chỉ tùy thuận nói theo cho xong! Xin hăy chỉ dạy. (Tiên Thuần Hiền hỏi)

 

          Đáp: Chuyện này thuộc loại năm tháng lâu xa, lắm người truyền tụng, sao chép, chẳng thể nhất trí, có lẽ là chuyện không thể tránh khỏi. Rốt cuộc là như thế nào? Sợ rằng chưa có đủ tài liệu. Hai mươi chín tuổi xuất gia, ba mươi lăm tuổi chứng đạo, là do các kinh Tăng Nhất A Hàm, Trung A Hàm, Đại Niết Bàn, Bổn Hạnh Tập Kinh, đều nói như thế. Mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo, là do Tu Hành Bổn Khởi Kinh, Thụy Ứng Bổn Khởi Kinh, Lục Độ Tập Kinh v.v… đều chủ trương [như vậy]. Không chỉ là như vậy, đối với [niên đại] đức Thích Tôn xuất sanh, diệt độ cũng bất nhất, cách niên đại hiện thời bao xa, cũng có nhiều điều tranh luận. Những chuyện như vậy chẳng phải là nên phân biệt hay không, mà là có muốn phân biệt cũng chẳng được! Trộm nghĩ: Lũ chúng ta đă chẳng phải là học Phật theo kiểu khảo cứu, lại chẳng phải là chuyên gia từng trải, thông thạo, tuy muốn hiểu vấn đề này, sợ rằng chẳng thể làm được! Chẳng thà quăng những điều này ra sau óc, [dốc sức] cầu liễu đại sự.

 

          * Hỏi: Thường nghe người ta nói “trên trời có mười tám vị La Hán”, xin cụ nói rơ nguồn cội của mười tám vị La Hán? (Dư Thiện hỏi)

 

          Đáp: Sách Pháp Trụ Kư chép mười sáu vị La Hán, tuân theo sắc lệnh của Phật trụ thế, tế độ chúng sanh. Do nhiều danh hiệu, chẳng tiện ghi rơ từng vị. Sách Thập Lục La Hán Nhân Quả Thức Kiến Tụng gồm một quyển, cũng chép về chuyện ấy, nhưng hai sách chép danh hiệu các Ngài hơi khác. C̣n mười tám vị La Hán là do người đời Tống thêm vào; bởi lẽ, thuở ấy, [người đương thời] không hiểu tiếng Phạn, chép trùng lặp hai danh hiệu, nên thành mười tám vị. Về sau, nhà chùa tạc tượng, có khi tạc mười sáu vị, lại thêm ngài Di Lặc và Lương Vũ Đế vào, tức là đă sai lầm càng sai lầm hơn nữa!

 

          * Hỏi: Có người nói “chẳng thể dùng dưa hấu và thạch lựu cúng Phật”, có đúng hay không? Nếu là thật, là do nguyên nhân nào? (Dư Thiện hỏi)

 

          Đáp: Chưa hề nghe nói. Do chẳng biết, nên chẳng thể đáp!

 

          * Hỏi: Hiểu trí huệ trong Phật giáo như thế nào? (Dư Thiện hỏi)

 

          Đáp: Hiểu rành rẽ muôn pháp, chẳng mê, có thể ngộ Tam Đế viên dung, gọi là Huệ. Việc khó có thể [thực hiện] mà có thể, chuyện khó làm mà có thể làm, tinh tấn chẳng lui sụt, ắt chứng thánh quả, th́ gọi là Trí. Tuy nói như vậy, hàng sơ học vẫn chẳng biết được! Nay lập phương tiện, nói từ chỗ nông cạn. Tin sâu nhân quả, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, chính là Huệ. Tự thanh tịnh ư ḿnh, hiểu rơ sanh tử, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc. Đấy chính là trí.

 

          * Hỏi: Trong các tự viện thông thường, Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi ở chính giữa [đại điện], tức Đại Hùng Bảo Điện. Quán Âm Bồ Tát thờ trong Viên Thông Bảo Điện. Núi Nga Mi bên Đại Lục là đạo tràng của Phổ Hiền Bồ Tát, có phải là tự viện trên núi Nga Mi thờ Phổ Hiền Bồ Tát ngồi chính giữa? Nếu đúng như vậy, th́ gọi là Bảo Điện ǵ? Địa Tạng Bồ Tát ngồi chính giữa th́ gọi là Bảo Điện ǵ? Văn Thù Bồ Tát ngồi chính giữa th́ gọi là Bảo Điện ǵ? (Dư Thiện hỏi)

 

          Đáp: Tên của điện thờ do người thông sáng nghĩ ra, hoàn toàn chẳng có thể lệ nhất định. Chỉ cầu sao danh và thực phù hợp th́ là hợp lẽ. Ai dựng chùa, tạc tượng, người đó sẽ đặt tên. Hai người ông và tôi chẳng cần phải rỗi hơi lo chuyện bao đồng!

 

          * Hỏi: Phật giáo có Nam Truyền và Bắc Truyền, phân biệt như thế nào? (Dư Tiện hỏi)

 

          Đáp: Phật giáo truyền sang phương Đông, từ phía Nam Ấn Độ truyền kinh điển Tiểu Thừa sang các nơi như Tích Lan, Tiêm La (Xiêm La), Miến Điện v.v… gọi là Nam Truyền Phật Giáo. Từ phương Bắc của Ấn Độ, truyền kinh điển Đại Thừa đến các nơi như Tây Tạng, Trung Hoa v.v… gọi là Bắc Truyền Phật Giáo.

 

          * Hỏi: Số năm trong Phật lịch có phải là tính từ lúc Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh hay không? (Dư Thiện hỏi)

 

          Đáp: Đúng như ông đă nghe.

 

          * Hỏi: “Huưnh thoát căn trần, linh quang độc diệu”. Xin hỏi chữ Huưnh giải thích như thế nào? (Lưu Từ Hoa hỏi)

 

          Đáp: Huưnh () có nghĩa là “xa xôi”, nhưng chữ nào có nghĩa của chữ ấy. Phải đọc liên tục thành câu, lại xét theo lối đọc cả câu, châm chước dụng ư để nói; bởi lẽ, chữ chết cứng, câu văn sống động. Ở đây là nói như thế, đổi sang chỗ khác, sẽ cần phải thay đổi sang cách diễn tả khác.

 

          * Hỏi: Vào hai mươi năm trước, tệ nhân từ một sạp bán quần áo cũ bên đường, thấy hai hạt khoáng chất h́nh bầu dục, màu hồng nhạt, dường như to bằng hạt đậu phộng. Trên b́nh [đựng hai hạt ấy], đề ba chữ “xá-lợi tử”. Thuở ấy, tôi c̣n chưa tin Phật, nên chẳng biết “xá-lợi tử” là vật ǵ? Hỏi chủ nhân th́ họ cũng không biết lai lịch và công dụng. Do hiếu kỳ mà giá lại rẻ, bèn mua về cất. Từ sau khi tin Phật, từng đến chiêm ngưỡng khá nhiều xá-lợi tử, nhưng thể chất của chúng đều khá nhỏ, c̣n xá-lợi tử do tôi cất giữ to hơn một xăng-ti-mét! Giám định chân ngụy như thế nào, xin hăy chỉ dạy! (Có thể gởi đến Ngài nhờ giám định giùm hay không)? (Lâu Vĩnh Dự hỏi)

 

          Đáp: Xá-lợi như tại hạ được thấy, ngoại trừ những viên đă được thờ phụng trong tự viện từ trước, đều là cổ vật. Lúc ấy, c̣n chưa có chuyện cậy vào khoa học để làm giả; hễ trông thấy bèn lạy, không có tâm phân biệt. Những xá lợi được thấy hiện thời cũng là thu được sau khi hỏa táng thầy hoặc bạn, càng chẳng từng dấy lên quan niệm phân định, mà thấy cũng chẳng nhiều. Theo như sách vở ghi chép, [xá-lợi] kiên cố, bất hoại, ai chịu [đem xá-lợi] làm thí nghiệm. Đối với chuyện lớn, nhỏ, màu sắc, sự sáng nhuận chẳng giống nhau, chẳng thể căn cứ vào đó để biện định chân, ngụy. Tôi biết như thế mà thôi, hoàn toàn chẳng có nhăn lực giám định, phân biệt. Mong hăy khéo ǵn giữ, thưa hỏi người hiểu biết khác.

 

          * Hỏi: Nghe nói có một bài chú Xá Lợi có thể khiến cho số lượng xá-lợi tử tăng thêm. Xin hăy chỉ dạy cách tŕ bài chú ấy như thế nào? (Lâu Vĩnh Dự hỏi)

 

          Đáp: Mật pháp và chú chủng loại quá nhiều, hoàn toàn chẳng phải hễ là kẻ học Mật đều biết các chú! Quả thật tôi chưa từng học pháp môn ấy, hoàn toàn chẳng phải là mượn cớ thoái thác, do tiếc nuối mà chẳng chịu thí pháp!

 

          * Hỏi: T́m kiếm trong tự điển, chữ Kiếp () có nghĩa là cưỡng đoạt lấy, chiếm giữ, thường viết là Kiếp (). Kiếp () là chữ Kiếp () được viết theo lối thông tục. Kiếp (), kiếp (), kiếp (), kiếp () hoàn toàn như nhau. [Hiểu theo nghĩa thông thường], Kiếp () là cưỡng lấy, chiếm đoạt, ỷ thế ức hiếp; tai ách gọi là Kiếp (). Kinh Phật nói một giai đoạn thời gian bao gồm một [giai đoạn] thành, một [giai đoạn] hoại th́ gọi là một Kiếp (). Tôi đọc kinh khá nhiều, thấy đều viết là Kiếp (), như A-tăng-kỳ kiếp (阿僧祇)… Xin hỏi: Đấy có phải là do nhà Phật chẳng muốn thấy có các nỗi khổ chiến tranh, nên nhất loạt dùng chữ Kiếp () có chữ Lực () bên cạnh. Đệ tử Phật môn trong các bài phát biểu đăng trên các ấn phẩm Phật giáo, có người dùng chữ Kiếp (), có người dùng chữ Kiếp (), hoặc Kiếp (), có phải là chẳng hợp lư hay chăng? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: Tiếng Phạn là Kiếp-ba (Kalpa), [dịch sang nghĩa] tiếng Hán là Thời Phần, chỉ là dịch âm, chẳng dịch ư nghĩa. Trong sách tiếng Hoa, bất luận kinh luận hay những các tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau, khi dùng chữ này, cũng là sử dụng theo âm đọc. Tuy có những chữ Kiếp khác nhau, nhưng đó là vấn đề phiên bản, hoàn toàn chẳng có ư nghĩa chi khác!

 

          * Hỏi: Bồ Tát thượng cầu, hạ hóa, mong cầu viên thành Phật quả rốt ráo. Quả ấy trọn đủ ba đức:       

          - Một là viên măn Nhất Thiết Chủng Trí, bèn gọi là Bát Nhă.

          - Hai là vượt thoát tam chướng, trọn đủ hết thảy công đức, gọi là Pháp Thân (Tam Chướng trong ấy là nói đến ba loại chướng nào?)

          - Ba là diệt sạch hết thảy các khổ, thoát ĺa hai thứ sanh tử Phần Đoạn và Biến Dịch, gọi là Giải Thoát (Phần Đoạn và Biến Dịch có nghĩa là ǵ). (Hứa Lệ Hoa hỏi)

 

          Đáp: Tam Chướng chính là khởi Hoặc, tạo nghiệp, thọ khổ. “Chướng” là chướng ngại sự tiến triển nơi thánh đạo, và tổn hại thiện tâm, khiến cho nó chẳng phát sanh. Khởi Hoặc chính là phiền năo tham, sân, si. Tạo Nghiệp là tạo bảy chi tội như giết, trộm, tà dâm v.v… Thọ Khổ chính là báo thân đọa trong tam đồ. C̣n như Phần Đoạn Sanh Tử th́ chính là phàm phu luân hồi trong lục đạo, chết trong đường này, sanh trong đường kia. Trong mỗi đường, có thời hạn tồn tại trong đường ấy khác biệt. Ngay trong một đường, cũng là thiên sai vạn biệt, hưởng thụ chẳng giống nhau. V́ thế gọi là Phần Đoạn. Người hóa thân văng sanh Tịnh Độ và bậc đại tu hành đoạn Hoặc, hai hạng người ấy chưa chứng Phật quả, đều cần phải mong tiến cao hơn, đoạn bao nhiêu phẩm Hoặc, quả vị sẽ tự nhiên tăng cao hơn, cảnh giới chẳng giống như trước, nên gọi là Biến Dịch. La Hán chia thành bốn quả, Bồ Tát có bốn mươi mốt tầng cấp. Vượt khỏi cấp này, dự vào cấp kia, giống như “chết đây, sanh kia”, thật sự chẳng giống như thọ mạng dài ngắn của phàm phu, thay đổi thân h́nh trong lục đạo.

 

          * Hỏi: “Buông xuống toàn thể thân, tâm, thế giới để làm phương tiện siêu phương đặc đạt”. Xin hỏi bốn chữ “siêu phương đặc đạt” giải thích như thế nào? (Lư Nhất Quang hỏi)

 

          Đáp: Trong câu hỏi, ông chưa nêu rơ [câu nói ấy] xuất phát từ kinh điển nào, mà cũng chưa thấy những câu văn trước và sau đó, sợ sẽ trả lời trái nghĩa, chỉ dựa theo mặt chữ để giải thích mà thôi. “Siêu phương” (超方) là vượt khỏi các phương pháp, chẳng bị hạn cuộc trong một khuôn khổ nào! “Đặc đạt” (特達) có nghĩa gốc là “khuê chương đặc đạt”, [nghĩa là] khi dùng lễ mời ai, sai sứ giả đặc biệt cầm ngọc khuê chương[27] đến chuyển đạt lời mời, chẳng cần phải thêm những thứ ngọc khác. Về sau, [chữ “đặc đạt”] diễn biến thành ư nghĩa nói đến “người xuất chúng”, rồi lại trở thành ư nghĩa “đặc biệt nhận được lời ca ngợi nồng nhiệt”. Suy nghĩ kỹ càng câu trên đây, dường như là [có ư nói] “ắt cần phải buông xuống hết thảy th́ mới có thể nhanh chóng vượt thoát, đạt đến quả tột cùng”.

 

          * Hỏi: Có kẻ nói xá-lợi là do Tinh, Khí, Thần ngưng kết thành, chẳng biết đích xác hay không? (Ngô An Minh hỏi)

 

          Đáp: Cổ nhân nói như vậy, kẻ hèn này học vấn nông cạn, chẳng hơn cổ nhân, cũng không có cách giải thích mới mẻ nào!

 

          * Hỏi: Xá-lợi có h́nh dạng như một viên đá nhỏ, gồm nhiều hạt, có mấy chục hạt chẳng giống nhau, nhưng chẳng biết ẩn tại chỗ nào trong thân thể, làm sao có thể an nhiên, chẳng bệnh tật ǵ? (Ngô An Minh hỏi)

 

          Đáp: Trước kia chẳng có, nay lại có. Trời đổ mưa lớn, mưa từ mây ra. Khi trời quang đăng không mây, mưa cất chứa ở chỗ nào?

 

          * Hỏi: Tượng Chuẩn Đề Bồ Tát và tượng Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Âm Bồ Tát rất giống nhau, chẳng biết phân biệt theo cách nào? (Ngô An Minh hỏi)

 

          Đáp: Thiền Tông coi Chuẩn Đề Bồ Tát là một [hóa thân] của Quán Âm. Đông Mật nói Chuẩn Đề là một trong sáu vị Quán Âm[28], thuộc về Liên Hoa Bộ. Đài Tông (tông Thiên Thai) gọi Ngài là Phật Mẫu. Nói chung, Thánh Quán Âm ở Tây Phương Cực Lạc là tổng thể, hoặc hóa thành sáu vị, hoặc hóa thành hai mươi ba vị, mà Chuẩn Đề là một trong số đó. Theo như cổ đức giải thích, tượng ngàn mắt ngàn tay th́ là Thiên Thủ Quán Âm; tượng có ba mắt, mười tám tay th́ gọi là Chuẩn Đề Quán Âm.

 

          * Hỏi: Quán Âm Bồ Tát hóa thân tuy nhiều, các h́nh tượng được thờ phụng chủ yếu là nữ. Nếu nữ nhân lập tông, nam nhân tham gia, là chuyện b́nh thường. Trước nay cũng chưa hề nói có Quán Âm Tông, danh từ Liên Tông do đâu mà có? (Lưu Chánh B́nh hỏi)

 

          Đáp: Các tượng Quán Âm vẽ hoặc đắp có [h́nh tướng] nam, có [h́nh tướng] nữ, tùy thuộc ư nguyện của người tin tưởng mà thờ phụng, hoàn toàn chẳng có thuyết “lấy tượng nữ làm chủ”. Nói đến chuyện lập tông th́ đều là do các vị tổ sư đời trước toàn là những bậc hữu chứng lập ra, ắt phải nương vào kinh điển, mở đạo tràng hoằng pháp, độ chúng sanh rất nhiều, được Phật giáo công nhận th́ mới có thể xưng [là tông], hoàn toàn chẳng phải do chính ḿnh ham muốn, tùy tiện nói này nói nọ được! Bậc lập tông là tổ sư, trên là tiếp nối đức Phật, có truyền thừa, há có phải là hạng bộp chộp? Lại kính cẩn thanh minh, nếu hỏi về chuyện ngoại đạo, tôi sẽ tránh né chẳng bàn tới. Nếu chỉ liên quan đến Phật giáo, th́ như luật nghi đă định, chúng xuất gia chẳng được phép kết hôn, c̣n chúng tại gia th́ thuận theo tự nhiên.

 

          * Hỏi: Phật giáo truyền đến Trung Hoa vào thời nào? Do ai truyền đến? Cho đến hiện thời đă được bao nhiêu năm? (độc giả ở Đài Trung hỏi)

 

          Đáp: Phật giáo chẳng phải là truyền sang, mà là dưới triều đại Minh Đế của nhà Đông Hán, [nhà vua] đă sai người cầu [tăng sĩ Thiên Trúc qua Trung Hoa] truyền pháp. Theo sử truyện, các vị đến trước hết, một là tôn giả Ca Diếp Ma Đằng, hai là tôn giả Trúc Pháp Lan, đến nay khoảng chừng hai ngàn năm.

 

          * Hỏi: Trước cửa tự viện đặt sư tử bằng đá, biểu thị điều ǵ? (độc giả ở Đài Trung hỏi)

 

          Đáp: Chẳng riêng ǵ cửa tự viện có sư tử đá, mà trước các cung điện và cửa nhà các thân sĩ tại Trung Hoa cũng đều có vật ấy, cớ sao lại cứ riêng hỏi về tự viện?

 

          * Hỏi: Chuỗi tràng hạt có hai mươi chín hạt, hoặc một trăm lẻ tám hạt, biểu thị điều ǵ? (độc giả ở Đài Trung hỏi)

 

          Đáp: Phổ biến nhất là con số một trăm lẻ tám hạt và mười tám hạt. Từ hai mươi hạt trở lên, chỉ nghe nói có hai loại là hai mươi mốt hạt và hai mươi bảy hạt. Hai mươi chín hạt tôi chưa từng thấy, mà cũng chưa từng nghe, chẳng thể vâng mạng trả lời được! Đối với tràng hạt gồm một trăm lẻ tám hạt, ư tôi cho rằng [con số ấy biểu thị] “đoạn trừ một trăm lẻ tám phiền năo, chuyển thành một trăm lẻ tám Bồ Đề”.

 

          * Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngă độc tôn” giải thích như thế nào? (độc giả ở Đài Trung hỏi)

 

          Đáp: “Thiên thượng” là nói tới các tầng trời thuộc về Dục Giới, Sắc Giới, Không Giới (Vô Sắc Giới), “thiên hạ” là nói tới cơi người và địa ngục. “Ngă” là từ ngữ do Phật Thích Ca tự xưng (đây chỉ là nói thô thiển. [Từ ngữ này] c̣n bao hàm những nghĩa khác, kẻ sơ học chẳng hiểu, nên chẳng tiện nói sâu). “Độc tôn” nghĩa là thầy của mọi chúng sanh trong thế gian, chẳng ai có thể vượt trỗi đức Phật.

 

          * Hỏi: Chuỗi hạt niệm Phật gồm một trăm lẻ tám viên, rốt cuộc là ư nghĩa như thế nào? (Trác Trung Chấn hỏi)

 

          Đáp: Số hạt trong xâu chuỗi có nhiều loại. Một trăm lẻ tám hạt nghĩa là “đoạn một trăm lẻ tám phiền năo, chuyển thành một trăm lẻ tám món Bồ Đề”. Câu hỏi loại này trong mục vấn đáp trước đây đă được đăng tải nhiều lần. Nếu muốn biết tường tận, xin hăy tra duyệt, sẽ biết!

 

          * Hỏi: Bốn chữ Lâm Tế Chánh Tông có phải là danh xưng của một bộ phận trong Thiền Tông hay không? (Trác Trung Chấn hỏi)

 

          Đáp: Thiền Tông từ Đạt Ma Tổ Sư, trải qua năm đời, truyền đến ngài Hoằng Nhẫn. Dưới tổ Hoằng Nhẫn là hai vị đệ tử, tức là Thần Tú và Huệ Năng. Tổ Thần Tú là Bắc Tông; tổ Huệ Năng là Nam Tông. Về sau, Bắc Tông chỉ có một, Nam Tông có năm nhà (năm chi phái), hoặc bảy nhà sai khác. Trong năm nhà, một là tông Quy Ngưỡng, hai là tông Lâm Tế… Tổ của tông Lâm Tế là đại sư Nghĩa Huyền. Danh xưng Lâm Tế do đấy là có, thuộc về Thiền Tông Nam Phái. Do ông không hỏi ba tông kia, nên tôi lược đi không nói!

 

          * Hỏi: “Tứ vạn lục thiên nhật (tạp ngữ) là một loại trong các duyên nhật của Phật, Bồ Tát v.v…. Trong ngày hôm ấy, kẻ đến tham bái chùa miếu và tham bái tứ vạn lục thiên nhật có cùng một công đức. Nhưng đa số vẫn chuộng duyên nhật của Quán Âm Bồ Tát, tức là ngày mồng Mười tháng Bảy âm lịch!” (trích từ Phật Học Từ Điển, trang năm trăm năm mươi bảy). Theo như tôi được nghe, duyên nhật xuất gia của Quán Âm Bồ Tát là ngày Mười Chín tháng Chín âm lịch. Chẳng biết ngày mồng Mười tháng Bảy có phải là ngày thành đạo hay không? Có phải ngày Mười Chín tháng Sáu là ngày thánh đản [của Quán Thế Âm Bồ Tát] hay không? Có phải ngày Mười Chín tháng Hai là ngày Ngài trăm tuổi (nhập Niết Bàn) hay không? Ba vạn sáu ngàn ngày, cộng thêm một vạn ngày nữa[29], có phải là giống như Địa Tạng Vương Bồ Tát cứu độ chúng sanh trong đường địa ngục hay không? (Cao Tân Phát hỏi)

 

          Đáp: Những ngày có liên quan đến Phật và Bồ Tát được sách vở ghi chép là ngày thánh đản, xuất gia, thành đạo, duyên nhật v.v… liệt kê rành rẽ thành bốn sự. Mỗi chuyện đều có tánh chất riêng biệt, chớ nên lẫn lộn. “Duyên nhật” là ngày để chúng sanh trong thế giới Sa Bà kết duyên với Phật, Bồ Tát. Chuyện ấy cũng chẳng thấy được ghi chép trong kinh. Khởi đầu từ thiền sư Ngũ Tổ Giới, đă phân định ba mươi ngày [trong một tháng âm lịch] để lạy ba mươi vị Phật, Bồ Tát, nhằm kết duyên cùng Phật, Bồ Tát. Đấy chính là ngày tốt lành, gặp chuyện thù thắng, khuyên chúng sanh hằng ngày kính Phật, sẽ được cát tường. Lại cần nên biết: Hễ sách chép là ngày nào, tháng nào đó, phát sanh chuyện chi đó, chẳng thể chỉ dựa theo lịch Trung Hoa để phán định cho phù hợp. Bởi lẽ, lịch pháp các nước xưa nay sai khác muôn ngàn, lại c̣n luôn luôn biến đổi, không có cách nào khiến cho chúng phù hợp [khít khao với nhau] được. Chỉ là dựa vào lịch đương thời của nước ḿnh, ghép thêm các danh hiệu, quyền biến định ra một ngày để làm kỷ niệm. Đối với chuyện này, vẫn phải nên kiền thành, cung kính, chẳng chú trọng khảo cứu xác thực.

 

          * Hỏi: Đối với các danh xưng như tự, miếu, am, sát, tinh xá, động, các, quán (vốn thuộc Đạo giáo), cung, điện v.v… phân biệt bằng cách nào? Họ dựa vào đâu để đặt tên? (Lưu Chánh B́nh hỏi)

 

          Đáp: Những vật kiến trúc phần lớn dựa vào những nơi chốn công hoặc tư của Trung Hoa để mượn dùng [các danh xưng ấy]. Như sáu thứ cung (), điện (殿), tự (), miếu (), các (), quán (), đều là tên gọi chung của công thự. Chỗ ở của bậc đế vương gọi là Cung, chỗ để bàn chánh sự gọi là Điện, chỗ cúng tế tổ tiên và thần thánh gọi là Miếu. Như Chiêu Dương Cung, Hàm Nguyên Điện, Tông Miếu, Thái Miếu chẳng hạn! Tên gọi của các công sở, phủ thự của quan lại mỗi mỗi khác biệt, gọi là Tự, Quán, Các…. như Hồng Lô Tự, Bạch Hổ Quán, Đông Quán, Văn Uyên Các v.v… Am () và xá () đều có nghĩa là căn pḥng nhỏ. Động () là một khu vực vây kín trong rừng núi. Đối với chỗ ở của tư nhân, phần nhiều dùng danh xưng này. Sát () chỉ là nói tới nơi chốn, chẳng phải là tên gọi nhất định. Về sau, diễn biến thành chữ Tự chuyên dùng trong nhà Phật, Quán dành cho Đạo giáo, những danh từ khác đều dùng lẫn lộn.

 

          * Hỏi: Phật miếu của Tam Giáo Nhất Tông (Thích, Đạo, Nho (Lư giáo, chẳng phải là Nho giáo)). Chiếu theo lệ thường, chỉ có thể gọi là Nho học, gộp chung với hai giáo Thích và Đạo có thích đáng hay không? Xét theo đại lễ và nhân luân, đối với hai giáo Thích và Đạo, [việc gộp chung] như vậy có ảnh hưởng hay không?) Do ai sáng lập trước hết? Khởi đầu từ thời nào? Có liên quan đến Bạch Liên Xă do Huệ Viễn đại sư đời Tấn thành lập tại Lư Sơn hay không? Ngoài ra, tôi c̣n thấy ghi chép: Vào cuối đời Minh, đầu đời Thanh, có kẻ sáng lập Tam Giáo Nhất Tông, có phải động cơ (motivation) là “phục Hán, diệt Thanh” hay không? Về sau, h́nh thành các tầng cấp tam giáo, cửu lưu sai khác trong tư tưởng xă hội, có phải là do căn cứ vào điều này hay không? (Lưu Chánh B́nh hỏi)

 

          Đáp: Giáo ắt phải có kinh điển, ắt phải có giáo nghĩa chuyên biệt. Mỗi giáo tuân theo giáo nghĩa của chính ḿnh, thuần là một giáo của họ. Giáo này kính giáo kia, giáo kia kính giáo này. Đôi bên kính trọng lẫn nhau, đó là coi trọng lễ vậy. Tuân theo nghĩa lư trong kinh của giáo ḿnh, chẳng báng bổ kẻ khác. Đôi bên giữ lễ, chẳng tu đạo khác. Đấy là người dân trong nước vâng giữ pháp tắc, chẳng xâm phạm lẫn nhau. Tự do tin theo tôn giáo, đó là người có đạo vậy. Trái nghịch nguyên tắc ấy, mặc t́nh ḥa trộn, chẳng tránh khỏi nháo nhào, khiến cho tai mắt mê muội! Nhào nặn loạn xạ, chẳng ṛng rặt, nếu hỏi là có thích đáng hay không, hễ bàn đến, sẽ trở thành chuyện thị phi! Kính khuyên ngài trước hết hăy cầu lập vững cái gốc cho chính ḿnh, tạm thời dẹp sạch những chuyện khác. Tổ sư Huệ Viễn là bậc thánh hiền đă chứng quả, há làm chuyện xằng bậy ấy? Đừng kéo bừa Ngài dính dáng vào chuyện này! Những điều khác đều chẳng phải là đúng, chẳng đáng để nghiên cứu!

 

          * Hỏi: Định nghĩa của Tam Giáo Nhất Tông là ở chỗ nào? Chữ Nhất Tông chỉ điều ǵ? (Lưu Chánh B́nh hỏi)

 

          Đáp: Tôi chưa hề đọc sách của tông ấy. Kẻ chẳng biết, sẽ chẳng dám nói bừa! Kẻ vọng ngôn, ắt có vọng tâm. Kẻ có vọng tâm điên đảo tạo nghiệp, tức là có nghiệp hệ khổ. Tam giới mênh mông, tam đồ đáng sợ. Dẫu họ có sách vở, tôi cũng chẳng muốn xem!

 

          * Hỏi: Tông chỉ của hai giáo Thích và Đạo chẳng tương đồng, sống trong cùng một chùa có xung đột hay không? Có phải là người b́nh phàm có thể tín ngưỡng tư tưởng của hai tôn giáo trên đây hay không? Tăng ni sống trong chùa, đạo nhân sống trong Quán, rành rành là tách rời, có thể hay không? (Lưu Chánh B́nh hỏi)

         

          Đáp: Xét kỹ giọng điệu của Ngài, dường như là có câu hỏi về những chuyện này, là v́ tâm chẳng nghĩ là đúng. Nếu không, cần ǵ phải mất công thưa hỏi? Trạng huống này, đối với bậc đại quyền Bồ Tát, [có thể] ḥa hợp, nhưng chẳng thuận theo th́ chưa hề chẳng phải là không được! Nếu không, gần son th́ đỏ, gần mực th́ đen, nhuốm xanh, nhuốm vàng, rốt cuộc là ai có thể hóa độ, ai là người được hóa độ, hoặc hóa độ lẫn nhau, đều chẳng phải là bản chất.

 

          * Hỏi: Cách đặt tên Bát Quái Thiền Tự (Bát Quái là Đạo, Thiền là Phật) có thích đáng hay không? Bát Quái Thiền Tự xưng là miếu của Tam Giáo Nhất Tông th́ có được hay không? (Lưu Chánh B́nh hỏi)

 

          Đáp: Danh chẳng chánh, ắt lời lẽ chẳng thuận, sự sẽ chẳng thành. Khổng Tử dạy như thế đó. Nếu là một kẻ b́nh phàm, chuộng thờ phụng nhiều thần, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, chỉ cầu phước báo, vẫn tốt hơn nhiều so với kẻ nhàn cư bất thiện. Nếu là người đă chánh thức xuất gia, giới luật của các giáo phân minh, cần ǵ phải chơ miệng vào chuyện của kẻ khác?

 

          * Hỏi: Chùa miếu có thể treo cao Bát Quái hay không? Bên trong chùa, treo biển cảnh cáo “có chó dữ, cấm người không phận sự bước vào”. Đạo tràng có thể thuộc về tư nhân hay không? Hay là thuộc quyền sở hữu riêng của một tài đoàn[30]? (Lưu Chánh B́nh hỏi)

 

          Đáp: Đấy là vấn đề pháp luật, tôi già cả, tích cực chuẩn bị cho ngày Ba Mươi tháng Chạp, chẳng rảnh rang để đọc Lục Pháp Toàn Thư[31]. Đối với vấn đề tài sản, càng không có hứng thú, v́ nghèo kiết xác, chẳng có mảnh đất cắm dùi, làm sao quan tâm đến chuyện quyền lợi cho được? Chuyện này ông hăy nên trưng cầu bậc chuyên gia phúc đáp, để tránh phải miễn cưỡng “không biết mà làm ra vẻ hiểu biết”, nói năng chẳng đâu vào đâu, c̣n tạo thành khẩu nghiệp.

 

          * Hỏi: Ngày hôm nay là thánh đản Dược Sư Như Lai, tôi cung kính tụng Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Kinh, nẩy sanh những điều nghi vấn như sau: “Nhất thời, Bạc Già Phạm du hóa chư quốc, chí Quảng Nghiêm thành, trụ Nhạc Âm thụ hạ, dữ đại bật-sô chúng, bát thiên nhân câu” (Khi ấy, đức Thế Tôn du hóa các nước, đến thành Quảng Nghiêm, ở dưới gốc cây Nhạc Âm, cùng với các vị đại tỳ-kheo, tám ngàn người nhóm họp). Đối với chữ Bạc Già Phạm (薄伽梵), tôi biết chính là chữ Bà Già Bà (婆伽婆, Bhagavān), dịch thành Thế Tôn, v́ sao Phật Học Từ Điển ghi là Bạc Ca Phạm (薄迦梵). Chữ có âm đọc là Lạc (, lụ) hay là Ngạo (, ào)? Đại Bật Sô (大苾蒭) chính là Đại Tỳ Kheo, có phải âm đọc là Tất Sô (必蒭, b́ chú) hay không? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: Từ âm tiếng Phạn phiên âm sang tiếng Hán, chẳng phải là do một người dịch, mà cũng chẳng phải là dịch cùng một chỗ, cùng một thời. Phiên âm sang tiếng Hán do người (phiên dịch), nơi chốn, thời điểm khác nhau, đều có sự biến hóa, cho nên phiên dịch khác nhau, do có mối quan hệ với sự phát âm khác nhau. Tôi dùng một thí dụ gần nhất để chứng tỏ: Chữ Khách (), người đất Lỗ (Sơn Đông) đọc là Khắc (, kēi), người phương Nam đọc thành âm Khóa (, ), người xứ Yên Tân[32] đọc là Thiết (, qiē). Đối với tên của nước Đức (Deutschland) ở châu Âu, âm gần nhất là Đặc Dĩ Tŕ Lam Đế (特以持藍諦, dè yǐ chí lán d́), Trung Hoa phiên âm thành Đức Ư Chí (德意志, dé ý zh́), Nhật Bản phiên âm thành Độc Dật (独逸, Doitsu), những trường hợp như vậy khó thể kể xiết! Bà Già Bà và Bà Già Phạm âm khác nhau, nhưng sự việc chẳng khác nhau. Tỳ-kheo và Tất Sô cũng thế. Chữ trong “Nhạc Âm thụ” tuy không có âm tiếng Phạn, nhưng hiểu là Hoan Lạc hay Âm Nhạc đều hợp lư, kẻ hèn này chẳng dám chấp nhất.

 

          * Hỏi: “Đệ cửu đại nguyện, nguyện ngă lai thế, đắc Bồ Đề thời, linh chư hữu t́nh, xuất ma quyến vơng, giải thoát nhất thiết ngoại đạo triền phược…” (Đại nguyện thứ chín, nguyện tôi trong đời sau, khi đắc quả Bồ Đề, sẽ khiến cho các hữu t́nh, thoát khỏi lưới rập ma, giải thoát hết thảy sự trói buộc của ngoại đạo), chữ “” trong ấy có âm đọc như thế nào? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: Chữ “” có các âm đọc Khuyển (), Quyến () v.v… ư nghĩa như nhau, nên hiểu [chữ ấy có] nghĩa là buộc hay vướng mắc.

 

          * Hỏi: “Đệ tam đại nguyện, nguyện ngă lai thế, đắc Bồ Đề thời… mạc linh chúng sanh, hữu sở chi thiểu” (Đại nguyện thứ ba, nguyện tôi trong đời sau, khi đắc quả Bồ Đề… chẳng để cho chúng sanh có chỗ thiếu thốn). Dường như chữ Chi () là chữ Phạp () phải không? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: Đây là vấn đề văn bản. Kẻ hèn này ở nơi đất khách, chẳng có một bản hoàn thiện, chẳng thể so sánh, suy xét được, không thể nào quyết định!

 

          * Hỏi: “Phục thứ, Mạn Thù Thất Lợi! Nhược hữu tứ chúng bật sô, bật sô ni, ô ba sách ca, ô ba tư ca, cập dư tịnh tín thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, hữu năng thọ tŕ bát phần trai giới, hoặc kinh nhất niên, hoặc phục tam nguyệt, thọ tŕ học xứ… sấu luyến, càn tiêu, hoàng nhiệt đẳng bệnh…” (Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Nếu có tứ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu bà tắc, ưu bà di, và các thiện nam tử, thiện nữ nhân có ḷng tin trong sạch khác, có thể thọ tŕ tám phần trai giới, hoặc suốt một năm, hoặc là ba tháng, thọ tŕ học xứ… gầy ṃn, tay chân co quắp, khô khát[33], bệnh hoàng, bệnh nhiệt v.v…), chữ “” đọc như thế nào? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: Chữ Luyến () giống như chữ Luyến (), đọc như chữ Luyến (), b́nh thanh.

 

          * Hỏi: “Phục thứ, Mạn Thù Thất Lợi, nhược chư hữu t́nh, xan tham, tật đố, tự tán, hủy tha… vĩnh đoạn ma quyến, phá vô minh xác…” (Lại này, Văn Thù Sư Lợi! Nếu các hữu t́nh, keo kiệt, tham lam, ganh ghét, khen ḿnh, chê người… vĩnh viễn đoạn dứt bẫy rập của ma, xé toang cái vỏ vô minh). Chữ Quyến () trong ấy có đồng âm với [chữ Quyến trong] phần trước đó hay không? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: Cùng một chữ, đồng âm, đồng nghĩa [với chữ Quyến] trong câu hỏi thứ hai.

 

          * Hỏi: “Nhĩ thời, Mạn Thù Thất Lợi đồng tử bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đương thệ ư Tượng Pháp chuyển thời, dĩ chủng chủng phương tiện, linh chư tịnh tín, thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, đắc văn Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, năi chí thụy trung, diệc dĩ Phật danh, giác ngộ kỳ nhĩ… tùy sở nhạo cầu” (Khi ấy, đồng tử Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng: - Thưa đức Thế Tôn! Con thề sẽ vào thời Tượng Pháp chuyển, dùng các thứ phương tiện khiến cho các hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân có ḷng tin trong sạch đều được nghe danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho đến trong khi ngủ, cũng dùng danh hiệu ấy giác ngộ bên tai họ… thuận theo ḷng ưa thích, mong cầu của họ). Chữ “” trong ấy đọc âm là Lạc hay Ngạo? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: Ở chỗ này, có ư nghĩa “ham thích”, giống như câu “nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy” (người nhân thích núi, kẻ trí thích nước) trong Luận Ngữ. Kẻ hèn này là người phương Bắc, đọc chữ này gần giống như âm Diệu.

 

          * Hỏi: “Tức nhập Định dĩ, ư nhục kế trung, xuất đại quang minh, quang trung diễn thuyết đại đà-la-ni: - Nam mô bạt già phạt đế, bệ sát xă, cũ rô bệ lưu ly, bát lạt bà, hát ra xà dă… tam một yết đế sa ha” (Đă nhập Định rồi, từ trong nhục kế, tỏa ra quang minh lớn, trong quang minh diễn nói đại đà la ni: “Nam mô bạt già phạt đế, bệ sát xă, cũ rô bệ lưu ly, bát lạt bà, hát ra xà dă… tam một yết đế sa ha”). Chữ “[34] đọc là Cự () hay là Lũ ()? Dường như trong câu “chung lũ thả bần” (終窶且貧, đă sống ở chỗ sơ sài, thô kệch, lại c̣n nghèo nàn), đọc theo cách thứ hai phải không? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: Chân ngôn là tiếng Phạn. Muốn học tập, ắt phải được Kim Cang Thượng Sư đích thân truyền dạy cách đọc rồi tụng theo âm đă được truyền dạy, chớ khởi tâm phân biệt. Đấy là quy củ trong Mật pháp. Nhưng vị Thượng Sư ắt phải tinh thông tiếng Phạn, mà tiếng Phạn th́ cũng mỗi người đọc một kiểu, hoàn toàn chẳng nhất trí, do thời gian, nơi chốn sai khác mà ra. Nay tôi nêu một trường hợp để làm chứng, các vị Thượng Sư Mông Cổ và Tây Tạng truyền dạy chú Lục Tự Đại Minh là chú phổ biến nhất[35], nhưng cách phát âm đều không giống nhau.

 

          * Hỏi: “Nhĩ thời, chúng trung hữu nhất Bồ Tát Ma Ha Tát, danh viết Giải Thoát, tức tùng ṭa khởi… nhiên bỉ tự thân, ngọa ư bổn xứ, kiến Diệm Ma sứ… năi chí tứ thập cửu nhật, quang minh bất tuyệt, tạo ngũ sắc thái phan, trường tứ thập cửu kiệt thủ...” (Khi ấy, trong hàng đại chúng có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Giải Thoát liền từ chỗ ngồi đứng dậy… nhưng bản thân người đó, nằm ở chỗ ḿnh, thấy sứ giả của vua Diễm La… cho đến bốn mươi chín ngày, quang minh chẳng dứt, tạo phan lụa năm màu, dài bốn mươi chín sải tay), chữ trong ấy có phải đọc thành âm Viêm (), thượng thanh. Chữ “” đọc như Kiệt () hay không? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: Diệm Ma (琰魔) tức là Diêm La (閻羅). Diệm đọc theo giọng thượng thanh, c̣n Diêm đọc b́nh thanh, đủ chứng tỏ phát âm không giống hệt như nhau. Chữ Kiệt ()[36] [được từ điển chú âm] là Tri Hách thiết (tức Trách), âm đọc gần giống như chữ Chất, nhập thanh.

 

          * Hỏi: Cung Tỳ La đại tướng, Phạt Chiết La đại tướng, Mê Xí La đại tướng, An Để La đại tướng, Át Nhĩ La đại tướng, chữ Át (, è) trong ấy, [căn cứ theo câu] “cử tật thủ xúc ngạch nhi tương cáo viết” (lắc đầu nhăn trán mà bảo rằng) có phải là đọc như chữ Ngạch (, é). Căng Già Sa tức là Hằng Hà, chữ Căng () có phải là đọc như chữ Cầm (, qín), khứ thanh hay không? (Hùng Thanh Tuấn hỏi)

 

          Đáp: [Dấu giọng của mỗi] chữ được chia thành bốn thanh, tuy mỗi thanh đọc một khác, nhưng chữ Át và chữ Căng đều là phiên âm, nên cứ dựa theo âm gốc của nó để đọc, chẳng cần phải luận định bốn dấu giọng.

 

          * Hỏi: Xét theo cách nói [trong kinh Phật], địa cầu là Nam Thiệm Bộ Châu trong bốn đại tinh cầu; nhưng xét theo cách nói của các nhà thiên văn học, trong thái dương hệ có chín đại hành tinh, mỗi tinh cầu trong ấy đều lớn hơn địa cầu, như vậy th́ bốn đại tinh cầu như đă nói [trong kinh Phật] há chẳng có vấn đề ư? (Hứa cư sĩ hỏi)

 

          Đáp: Trong hư không, tinh cầu vô lượng, Phật học giả định một phạm vi tổ chức, chẳng giống như tổ chức giả định của các nhà khoa học. Phật học dựa theo sự tổ chức của tinh cầu trong tận cùng hư không, chẳng coi mặt trời là trung tâm. Cách nói của các nhà khoa học là chỉ nói theo phạm vi lấy mặt trời làm trung tâm, nên gọi là “thái dương hệ”. Quả địa cầu của chúng ta được gọi là Nam Thiệm Bộ Châu bất quá là một đơn vị thế giới trong tam thiên đại thiên, là một phần tư trong ấy, có thể Hỏa Tinh thuộc về tổ chức của một đơn vị khác, hoàn toàn chẳng phải là nói theo [phạm vi của] thái dương hệ, “biến” () là trọn khắp hư không.

 

          * Hỏi: Trong Tứ Thập Biểu, nơi trang thứ hai có câu “giác chi thời không”, “giác” là nói đến thời gian và không gian vô tận như trong phần trước, hay là c̣n có ư nghĩa nào khác? (Hứa cư sĩ hỏi)

 

          Đáp: Ư nói thời gian và không gian đều vô hạn lượng. Cuối biểu đồ ấy đă có thuyết minh, hoàn toàn chẳng có ư nào khác.

 

          * Hỏi: Đối với phạm vi của tam thiên đại thiên thế giới, căn cứ theo Thường Thức Khóa Bổn và Tứ Thập Biểu ghi chép, đại thiên thế giới chỉ bao quát Tứ Thiền Thiên trong Sắc Giới. Như vậy th́ Tứ Không Thiên của Vô Sắc Giới chẳng thuộc trong đại thiên thế giới ư? (Hứa cư sĩ hỏi)

 

          Đáp: Chẳng nói tới là v́ nó (Vô Sắc Giới) không có tướng; thật ra, đă được bao gồm trong ấy. Mỗi khi nói “thế gian”, đều là nói đến tam giới, há [Vô Sắc Giới] chẳng bao gồm trong ấy. Trong sự an lập tướng thế gian ấy, do Không Thiên (Tứ Không Thiên thuộc Vô Sắc Giới) không có tướng để nói, tam tai lại chẳng lan đến tầng trời ấy, cho nên lược đi [không nói].

 

          * Hỏi: Y bát của đức Phật có phải là một, hay là hai? Nếu là một, y bát do Ngũ Tổ truyền cho Lục Tổ và y bát do tôn giả Đại Ca Diếp đang nhập Định [ǵn giữ] tại núi Kê Túc có phải cùng là y bát của đức Phật hay không? (Dịch Cao Trụ hỏi)

 

          Đáp: Y bát của đức Phật chẳng thể là một. Nếu bắt buộc phải dùng một, sau khi trao cho ngài Ca Diếp, há có phải là từ đó, đức Phật chẳng đắp y, chẳng dùng cơm ư? Ngài Ca Diếp chờ đợi [Phật Di Lặc giáng thế] ở núi Kê Túc và tổ Đạt Ma sang phương Đông là hai pháp sự lớn, ắt đều phải có [phương tiện] để ấn chứng. Chỉ có y bát đều là do đức Phật truyền lại, nhưng không bắt buộc phải là cùng một bộ. Giống như chánh phủ ban phát ấn tín cho quan chức, cũng là mỗi vị quan lănh một cái ấn, nhưng đều xuất phát từ chánh phủ, chẳng phải là ngụy tạo.

 

          * Hỏi: Theo như sách Danh Sơn Du Phỏng Kư của ông Cao Hạc Niên ghi chép, núi Kê Túc ở Đại Lư, tỉnh Vân Nam, vào thời cổ thuộc cương giới của Thiên Trúc, là chỗ tôn giả Ca Diếp nhập Định. Nhưng Đại Đường Tây Vực Kư lại nói núi Kê Túc thuộc về nước Ma Kiệt Đà tại Trung Ấn Độ, rốt cuộc núi Kê Túc nơi tôn giả nhập Định là ở chỗ nào? (Chung Quân Lương hỏi)

 

          Đáp: Tên núi, tên đất vốn do con người đặt ra. Trùng tên rất nhiều, từ xưa đến nay những tên gọi trùng lặp, không chỉ là một chỗ Kê Túc. Núi Kê Túc nơi tôn giả nhập Định rốt cuộc ở Vân Nam hay tại Ấn Độ, ắt cần phải khảo chứng nhiều cách th́ mới dám chủ trương. Kẻ hèn này trong tay sách vở ít ỏi, chẳng dám nói bừa!

 

          * Hỏi: Tam Quy là ǵ? Cảnh giới như thế nào th́ Tam Quy mới chẳng phải là h́nh thức, giống như hư ngụy? Nói đơn giản, như thế nào mới là Tam Quy chân thật? (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

          Đáp: Quy () chính là hai chữ Quy Y nói giản lược. Ư nghĩa là giống như từ mê muội [rong ruổi] bên ngoài, quay trở lại cố hương, nương cậy cha mẹ. Lời đáp bất quá là thí dụ như thế, ḥng dễ liễu giải mà thôi! Thật ra, đấy chính là thủ tục quy nhập Phật môn. Phàm là người học Phật, ắt cần phải có thầy, thầy chính là Phật. Thầy ắt dạy đạo, “đạo” chính là pháp của Phật, tức là lư trong kinh Phật. Người nào sẽ đại diện Phật để truyền pháp? Chính là hàng tỳ-kheo xuất gia, được gọi là Tăng. Tam Quy chính là quy y Phật, Pháp, Tăng. Thành tâm tín ngưỡng, y giáo phụng hành, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, chính là “chân quy y”. Nếu không, sẽ là hư ngụy.

 

          * Hỏi: Pháp Lục Ba La Mật là ǵ? Xin hăy giải đáp tường tận? (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

          Đáp: Lục Ba La Mật chính là sáu loại pháp môn để tự độ và độ người khác. Một là Bố Thí, hai là Tŕ Giới, ba là Nhẫn Nhục, bốn là Tinh Tấn, năm là Thiền Định, sáu là Bát Nhă. Để có thể hiểu những chuyện này, ắt cần phải đọc duyệt kinh bổn, hoặc đích thân nghe giảng giải, hoặc đơn giản, hoặc tường tận, ấn định thời gian để cầu t́m. Nếu viết ra, cột báo này sẽ chẳng thể làm được chuyện ấy. Dẫu chỉ viết ra một phần vạn, dung lượng của cột báo này cũng chẳng thể dung nạp. Nếu phát tâm cầu hiểu Phật lư, cần phải có bộ từ điển Phật học, kính thưa với ông như vậy.

 

          * Hỏi: Đại Thừa là ǵ? Xét theo tinh thần bố thí, Đại Thừa và Tiểu Thừa có ǵ khác biệt? Như thế nào mới được coi là Đại Thừa? (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

          Đáp: Đây là mượn chuyện làm tỷ dụ để nói. “Thừa” () là nói tới xe hay thuyền chở vật. Xe thuyền nhỏ chở cá nhân, xe thuyền lớn chở nhiều người. Đấy là nói Phật pháp có nhiều môn, có pháp chỉ để tự độ, đó là Tiểu Thừa. Có pháp độ kèm thêm đại chúng, đấy là Đại Thừa. Tu pháp tự độ chỉ có thể chứng quả A La Hán; tu pháp Đại Thừa mới có thể thành Phật. Nếu nói tới sự bố thí giữa hai đằng, bố thí đại lược chia thành ba loại (Tài, Pháp, Vô Úy), Tiểu Thừa phần nhiều không thể thực hiện được, nhưng Đại Thừa sẽ thực hiện vô hạn lượng.

 

          * Hỏi: Bồ Đề tâm là ǵ? Xin hăy giải đáp minh bạch và tường tận. (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

          Đáp: Bồ Đề tâm chính là phát tâm học theo Bồ Tát. Trong việc làm của hàng Bồ Tát, trước hết là phải học Phật pháp, chính ḿnh giác ngộ hết thảy đạo lư, tức là dựa theo những điều đă học, đă biết để phổ độ chúng sanh. Điều này cần phải dựa vào Lục Ba La Mật để làm, đại từ, đại bi, đại công vô tư, chẳng nề hà bất cứ sự hy sinh nào, đấy mới là Phật tử thật sự. Nếu chẳng như thế, hoặc là có đầu mà không có cuối, hoặc thoái chuyển đôi chút, dẫu có điều thiện nhỏ nhoi, cũng là ma nghiệp!

 

          * Hỏi: Tỳ-kheo là ǵ? Sa-môn là ǵ? Ḥa thượng là ǵ? Pháp sư là ǵ? Luật sư là ǵ? Bồ Tát là ǵ? Xin giải thích định nghĩa của những danh từ trên đây! (Trịnh Kim Cân hỏi)

         

          Đáp: Cũng nên giải đáp đại lược những danh từ ấy, chẳng thể nói tường tận những chuyện ấy được. Nam tử xuất gia, sau khi đă thọ hai trăm năm mươi đại giới, gọi là Tỳ-kheo. Hành giả dứt diệt tham, sân, si, siêng tu Giới, Định, Huệ, gọi là Sa-môn. Vị tỳ-kheo có đủ Giới, Định, Huệ và lục ḥa hợp (lục ḥa kính) th́ gọi là Ḥa Thượng. Bậc Sa-môn tụng kinh, giảng kinh, nghiên cứu kinh giáo th́ gọi là Pháp Sư. Vị pháp sư chuyên nghiên cứu giới luật, cũng gọi là Luật Sư. Bất luận xuất gia hay tại gia, chỉ dựa theo Lư và Sự [đă nêu] trong lời đáp thứ tư để hành, sẽ là Bồ Tát.

 

          * Hỏi: Như thế nào th́ sẽ được gọi là “đệ tử chánh pháp”? Như thế nào th́ mới có thể chẳng rơi vào cảnh giới ngoại đạo? Cảnh giới tri kiến của đệ tử chánh pháp là như thế nào? (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

          Đáp: Đối với lời huấn thị trong kinh Phật và giới luật thọ được mấy phần, chẳng dám có chút trái nghịch nào, sẽ là đệ tử chánh pháp. Tuy là làm như thế, nhưng chẳng thể siêng hành Văn, Tư, Tu, sợ rằng trí huệ chẳng mở mang, gặp chuyện bèn nghi hoặc, chẳng thể quyết đoán, sợ rằng sẽ bị tà thuyết chuyển dời, sẽ rớt vào ngoại đạo. Đó gọi là “đối với Phật pháp chẳng chân thật nhận biết, tri kiến sẽ tự nhiên bất chánh”. Cảnh giới hôn trầm, tán loạn như vậy, sẽ đọa trong lục trần, tiền đồ (tương lai) chẳng thể nào nói được! Người học Phật đối với Thiền, Tịnh, Luật, Mật, hăy chuyên tŕ một thứ, niệm niệm nối tiếp, giữ vững, chẳng biến đổi, tự nhiên sẽ có cảnh giới tốt lành.

 

          * Hỏi: Pháp sư Từ Hàng nói: “Lấy tâm Phật làm tâm của chính ḿnh, lấy chí của thầy làm chí của chính ḿnh”. Ư nghĩa ở chỗ nào? (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

          Đáp: Đối với hai câu của pháp sư Từ Hàng, câu thứ hai bọn chúng ta không có cách nào nói ǵ được, v́ chẳng biết chí của pháp sư Từ Hàng. Do chẳng biết, nên chẳng dám suy lường xằng bậy. Nói đến tâm Phật, nói chung là lấy chuyện phổ độ chúng sanh làm tâm. Tôi chỉ biết như vậy, chỉ có thể nói những ǵ chính ḿnh đă biết!

 

          * Hỏi: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn v.v… mười danh từ trên đây biểu thị cảnh giới nào? Có thể khai thị về ư nghĩa hay không? (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

          Đáp: Mười danh hiệu ấy nhằm xưng dương đức trí của Phật. Các thứ đức trí đều do tự đạt, lợi tha. Trước hết, hăy tra duyệt [các phẩm] chú giải kinh, hoặc kiểm trong Phật Học Từ Điển. Đă biết tường tận ư nghĩa th́ mới có thể hiểu cảnh giới của những danh hiệu ấy. Câu hỏi như thế này thuộc về loại danh số; nếu chọn một hai danh hiệu để hỏi, chẳng phải là không thể tŕnh bày. Chép trọn hết cả mười, sẽ quá rườm rà, phạm vi của cột báo này không thể đăng tải được!

 

          * Hỏi: Nhân quả quan là ǵ? Nhân duyên ḥa hợp luận là như thế nào? (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

          Đáp: Hết thảy các hành động, hết thảy thiện ác, đều có động cơ nhỏ nhặt gây nên, điều đó được gọi là “nhân”. Nếu nhân gặp được duyên phận trợ lực, sẽ có một loại hiện tướng (tướng biến hiện ra), điều đó gọi là “quả”. Đấy chính là cái thường được gọi là “nguyên nhân”“kết quả”. Nói thông thường, tức là hễ có tạo tác, sẽ có báo ứng, tơ hào chẳng sai, nhưng người ta không biết đó thôi! Nếu có thể nghiên cứu lư ấy, biết quả, sợ nhân, đấy chính là “nhân quả quan”. Câu hỏi kế tiếp thuộc về học lư, hay là tên một quyển sách, tôi không hiểu rơ lắm, cho nên chẳng tiện bộp chộp trả lời được.

 

          * Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát do v́ lẽ nào mà có danh hiệu ấy? Danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát hiểu như thế nào? (Trịnh Kim Cân hỏi)

 

          * Đáp: Quán là tịch chiếu, Thế là thế gian, Âm là âm thanh. Nói gộp lại, sẽ là “quán sát hết thảy âm thanh trong thế gian”. Lại do sự cứu độ khế cơ, khế lư, tức là như thường nói “tầm thanh cứu khổ” (xét t́m âm thanh để cứu khổ). Do nhân duyên ấy, Bồ Tát có danh hiệu là Quán Thế Âm. Nếu muốn biết tường tận, hăy nên đọc phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa. Tiếp đó, Địa là ví như đại địa, Tạng có nghĩa là chứa đựng hết thảy. Nói gộp lại, đấy chính là từ bi và đức trí của Bồ Tát như đại địa an nhiên bất động. Vạn vật đều do đất cất giữ, không ǵ chẳng bao trùm, không ǵ chẳng chứa đựng. Đó là nhân duyên khiến ngài Địa Tạng có danh hiệu ấy. Nếu muốn hiểu tường tận, cần phải xem đọc Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh.

 

          * Hỏi: Bài Quán Âm Tán chép trong sách Khóa Tụng như sau: “Quán Âm đại sĩ, tất hiệu viên thông, thập nhị đại nguyện thệ hoằng thâm, khổ hải độ mê tân, cứu khổ tầm thanh, vô sát bất hiện thân” (Quán Âm đại sĩ, hiệu là Viên Thông, mười hai đại nguyện thệ rộng sâu, biển khổ Ngài ban bờ cứu độ, nghe tiếng sẽ t́m cứu độ ngay, cơi nước không đâu chẳng hiện thân). Nguyên văn của mười hai đại nguyện được chép trong kinh nào? (Người tên X… ở Nam Đầu hỏi)

 

          Đáp: Đối với câu hỏi của ông X… từ nhiều năm qua đă có nhiều người tra duyệt trong kinh, đều chưa t́m được căn cứ. Mười hai nguyện là do Phật Dược Sư phát ra, ai nấy đều biết. Trong các kinh điển dạy về Quán Âm, đều không thấy nói tới. Nếu ắt muốn quyết định là có hay không, cần phải có người phát tâm, tra duyệt trọn khắp toàn bộ Đại Tạng th́ mới có thể thốt lời quyết định. Nhưng đă từng có bậc đại đức, nghi [bài tán ấy] bị sai chữ, bảo: Trong Thiên Thủ Đại Bi Chú Kinh có một bài kệ theo lối bảy chữ, gồm mười nguyện; lại có bài kệ theo lối năm chữ gồm sáu nguyện. “Mười hai đại nguyện” trong bài Quán Âm Tán có lẽ là mười sáu đại nguyện bị chép sai! Tôi nói: Chữ Lục () bị mất chữ Bát () ở dưới sẽ thành Nhị (), chưa chắc đă không phải là do năm tháng lâu ngày, văn bản tàn khuyết! Chữ Lục bị viết mất nét thành Nhị, các vị đại đức công nhận [chuyện này] có thể xảy ra. C̣n nói: Đă từng thấy có văn bản, chữ Lục bị khuyết nét, thành chữ Nhị. Điều này dùng để tham khảo vậy. Lại nữa, trong kinh ấy, bài kệ chép ngay sau phần văn trường hàng, lại có bốn nguyện, hợp với mười sáu nguyện trước đó thành hai mươi nguyện. Nếu tra các chỗ khác không có căn cứ, “nhị thập nguyện” bị viết sai thành “thập nhị nguyện” cũng rất có thể! Chuyện này có thể dùng làm [tài liệu] thứ hai để tham khảo. Học nhân do công việc bận rộn, chẳng có phước tra cứu Đại Tạng. Mong tôn giả hăy mời người khác tra duyệt toàn bộ Đại Tạng, sau đấy sẽ quyết định th́ hay hơn!

 

* Bốn câu hỏi của cư sĩ Liêu Thanh Hoa ở Đài Đông

 

          1) Hỏi: Sách Tâm Kinh Yếu Thích (do pháp sư Bân Tông biên soạn) giải thích câu “Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc” trong Tâm Kinh có nói như thế này: “Xá Lợi Tử là đương cơ của kinh này. Do vậy, trước khi thuyết pháp, Quán Tự Tại Bồ Tát liền gọi ngài Xá Lợi Phất một tiếng để nhắc nhở Ngài hăy chú ư”. Chiếu theo kiểu nói ấy, một bộ Tâm Kinh chẳng phải do đức Phật nói, mà là do Bồ Tát nói!

 

          Đáp: Theo như cư sĩ Châu Chỉ Am đă khảo sát, Tâm Kinh gồm có chín bản dịch tiếng Hán. Bắc Kinh Trung Ương Khắc Kinh Viện đă ấn hành bảy bản, hai bản kia chắc là đă thất lạc. Các bản dịch tường tận hay đại lược khác nhau, bản lưu thông hiện thời là bản dịch của pháp sư Huyền Trang vào đời Đường. Khảo sát bản dịch của Pháp Nguyệt Tam Tạng vào đời Đường, đầu kinh có câu “như thị ngă văn, nhất thời Phật tại Vương Xá đại thành… mông Phật thính hứa, Phật sở hộ niệm” (Tôi nghe như thế này: Một thời đức Phật ngự tại đại thành Vương Xá… được Phật cho phép, được Phật hộ niệm). Lại có đoạn “văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành” (nghe lời đức Phật nói, ai nấy đều hết sức hoan hỷ, tin nhận, vâng hành). Đối với phần kết thúc trong các bản khác, phần nhiều có nói: “Phật tùng Định khởi, tán thán: - Thiện tai! Như thị, như thị” (Đức Phật xuất Định, khen ngợi: ‘Lành thay! Đúng như thế đó, đúng như vậy đấy”) v.v… Bản dịch của ngài Huyền Trang là bản trích yếu, đă lược bỏ phần Tự và phần Lưu Thông.

 

          2) Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật có khi được gọi là Thích Ca Văn Phật; chẳng biết ư nghĩa của Văn Phật là như thế nào?

 

          Đáp: Bốn chữ Thích Ca Mâu Ni chính là tiếng Hoa phiên âm tiếng Phạn. Phiên dịch xưa nay có nhiều chỗ khác nhau, tức là tại một vùng, âm thanh xưa nay cũng có biến đổi khác đi, đó là chuyện thông thường. Như hai chữ Nam Mô, âm thời cổ đại khái đọc như Na Ma (那摩, na muó), người hiện thời đọc là Nan Ngô (難吾, nán wú). Chữ Văn () trong Văn Phật (文佛) chính là biến âm của hai chữ Mâu Ni. Có bộ sách Phật Nhĩ Nhă từng chú giải như thế.

 

          3) Hỏi: Nơi đức Thế Tôn xuất sanh là nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatsu) ở Ấn Độ, nhưng có sách ghi là nước Ca Tỳ La, thiếu mất chữ Vệ, như vậy th́ có đúng pháp hay không?

         

          Đáp: Xin nghiền ngẫm kỹ câu giải đáp thứ hai, sẽ tự biết ư nghĩa ấy. Cũng là do người phiên dịch khác nhau, [nên trở thành] nhiều hơn hay ít hơn một chữ. Như Hằng Hà chính là nói giản lược của Hằng Già Hà. Căng Già Hà là biến âm của Hằng Già.

 

          4) Hỏi: Tứ thánh giới tính từ tầng thấp nhất, sẽ là Thanh Văn, Duyên Giác, Nhị Thừa, Phật, nhưng Duyên Giác lại gọi là Bích Chi Phật. Đă là Phật, v́ sao ở dưới Bồ Tát?

         

          Đáp: Bích Chi Ca (Pratyeka) cũng là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Độc Giác, hoặc Duyên Giác. Xét theo ư nghĩa của chữ Giác, tiếng Phạn là Phật Đà (Buddha). Phàm là bậc phá mê, chứng giác, đều gọi theo tiếng Phạn là Phật. Chỉ có điều, giác có nhiều loại bất đồng, có Bổn Giác, Thỉ Giác, Tùy Phần Giác, Cứu Cánh Giác v.v… Giác lại c̣n chia thành Tạng, Thông, Biệt, Viên. Như Phật Thích Ca chính là Cứu Cánh Giác, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, những nghĩa khác bất đồng, chớ nên hiểu lầm!

 

* Một câu hỏi của cư sĩ Vô Sở Đắc ở Hương Cảng

         

          Hỏi: Tôi đọc báo Bồ Đề Thụ số ra tháng Sáu, trong số báo hai trăm bảy mươi mốt, nửa sau của trang hai mươi sáu, ḍng thứ nhất tính từ bên phải qua đă viết: “Do thử, ngă môn đại thể khả dĩ liệu giải Long Thọ sở phá xích kỳ hướng dĩ cập kỳ sở yết trư đích…” (Do vậy, về đại thể, chúng ta có thể hiểu rơ ư hướng và mục tiêu trong việc đả phá, bài xích của ngài Long Thọ), hai chữ “kỳ hướng” (蘄向) trong ấy phát xuất từ điển tích nào? Hăy nên giải thích như thế nào?

 

          Đáp: Đối với đoạn văn do ông đă hỏi, xét ra thuộc loại bài viết gởi tới; vốn có thể dựa theo mặt chữ để giải thích, nhưng sợ trong ấy c̣n chứa đựng ư nghĩa sâu xa. Tôi đă từng sai người đến thăm, thỉnh giáo [tác giả], nghe nói vị ấy gần đây đă sang Nhật Bản, chỉ đành đợi đến khi ông ta về nước, sẽ đem thư của ông giao lại, xin chính tác giả giải đáp th́ mới chẳng bị lầm lẫn!

 

* Phụ lục: Trả lời giản lược những câu hỏi của cư sĩ Vô Sở Đắc

(tác giả Lam Cát Phú)

 

          1) Bài văn vụng về của tôi được đăng trên báo Bồ Đề Thụ vào tháng Sáu, đối với câu “do thử, ngă môn đại thể khả dĩ liệu giải Long Thọ sở phá xích (chi) kỳ hướng…”, trước chữ “kỳ hướng” (蘄向) hăy nên có một chữ Chi (), nhưng bản in vào tháng Sáu đă bỏ sót.

          2) Chữ “kỳ hướng” thuộc loại từ ngữ phổ thông, hoàn toàn chẳng phải là danh từ Phật học.

          3) Chữ “kỳ hướng” có ư nghĩa gần giống như “ư hướng” (意向), “kỳ” () là “cầu” (xem Kinh Tịch Toản Hỗ quyển bốn).

          4) Chữ “kỳ hướng” (蘄向) có ư nghĩa hoàn toàn tương đồng với “kỳ hướng” (祈嚮, hướng đến, dẫn đến, mong mỏi). Chữ Kỳ () viết theo lối cổ có khi viết thành Tiệm (). Chữ Kỳ () cũng có nghĩa là “cầu” (xem Quảng Nhă, phần Thích Hỗ, quyển ba).

          Do đó, hai chữ () thật sự là một. Âm, nghĩa của Hướng () và Hướng () hoàn toàn giống nhau, cũng là những chữ quen thuộc của người thông thạo. Từ ngữ Kỳ Hướng (祈嚮) có thể thấy trong sách Trang Tử, chương Thiên Địa: “Nhi kim dă, dĩ thiên hạ hoặc, dư tuy hữu kỳ hướng, bất khả đắc dă” (Như trong hiện thời, do thiên hạ lầm lạc, dẫu tôi có mong mỏi, cũng chẳng thể thực hiện được).

          5) “Kỳ hướng” (蘄向) tuy là từ ngữ thông dụng của người hiện thời, nhưng khi nào, do người nào bắt đầu đổi chữ Kỳ Hướng (祈嚮) thành Kỳ Hướng (蘄向) th́ tôi không biết.

 

* Một câu hỏi của cư sĩ Lâm Bá Tu ở Đào Viên

 

          Hỏi: Đời người có tám nỗi khổ, giải thích “Ngũ Ấm xí thịnh khổ” như thế nào?

 

          Đáp: Ngũ Ấm chính là Sắc Ấm (thuộc về Sắc pháp) và Thọ, Tưởng, Hành, Thức là các tâm pháp. Nói gộp lại sẽ là năm thứ; năm thứ ấy tụ tập thành giả thân. Hai pháp thân và tâm của chúng sanh chẳng hứng chịu ba thứ khổ là Khổ, Hoại, Hành. “Xí thịnh” (熾盛) có nghĩa là hưng vượng, như lửa lớn cháy rừng rực, chẳng thể dập tắt! Chữ Thịnh () cũng có thể đọc thành b́nh thanh (tức Th́nh), có nghĩa là “chứa đựng, tiếp nhận”. Ư nói Ngũ Ấm như đồ chứa, những thứ chứa đựng bên trong nó chỉ là khổ năo!

 

 * Một câu hỏi của cư sĩ Vương Thục Phân ở Đài Bắc

 

          Hỏi: Đệ tử là Phật giáo đồ kiền thành, buổi tối hôm qua, tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm Phương Tiện, đối với đoạn Thập Như Thị mờ mịt không hiểu. Dám xin thầy từ bi chỉ dạy. Lại như cái gọi là “nhất niệm tam thiên luận” của tông Thiên Đài có phải là có liên quan với Thập Như Thị hay không?

         

          Đáp: Người tin tưởng, thân cận kinh Phật cũng có các loại khác nhau. Phổ biến nhất là có ba loại, tức Tụng, Duyệt và Giải. Tụng niệm trong công khóa hằng ngày gọi là Tụng (), tĩnh tọa thầm đọc th́ gọi là Duyệt (). Hai loại ấy chỉ cần ḷng thành là được rồi, chẳng cần mong hiểu. Nếu suy nghĩ, thấu hiểu lư, mong t́m hiểu sâu hơn th́ gọi là Giải (). Điều này cần phải nghe người khác giảng giải, hoặc tự xem các bản chú giải của cổ đức, vẫn cần phải chuẩn bị sẵn từ điển Phật học, bởi danh tướng trong các bản chú giải hết sức phức tạp. Nay tôi miễn cưỡng giải đáp lời hỏi của bà. Nếu nói cặn kẽ, sẽ thành một bài văn lớn, đâm ra sợ rằng càng đáp, càng khó hiểu hơn! Dẫu có hiểu rơ, bất quá cũng chỉ là một sợi lông của chín con trâu, những chỗ khác vẫn là chẳng biết, chẳng nghe y như cũ, tuy có trí mà chẳng thể hiểu được! Nay tôi đáp như sau:

          Thập Như c̣n gọi là Thập Như Thị, tức là trong vạn pháp, mỗi pháp đều có mười thứ Như là Tánh, Tướng, Thể, Lực, Tác, Nhân, Duyên, Quả, Báo, Bổn Mạt Cứu Cánh. Bà lại hỏi “nhất niệm tam thiên”, có nghĩa là trong mười pháp giới, mỗi pháp giới đều có đủ mười giới, [nên mười nhân với mười] gọi là “bách giới”. Trong một trăm giới ấy, mỗi giới đều có mười Như, nên gọi là Thiên Như (một ngàn Như). Đối với Thiên Như, lại nhân với chúng sanh thế gian, quốc độ thế gian và ngũ ấm thế gian [cho nên ba nhân với một ngàn] thành ba ngàn. Tôi lại đặc biệt thanh minh, đối với những câu thắc mắc, sẽ đều trả lời trên báo, chẳng trả lời thư cho riêng ai!

 

* Ba câu hỏi của pháp sư Hoằng Ngạn ở Đài Trung

 

          1) Hỏi: Phật có Ngũ Nhăn, ngoài ra c̣n có mắt ǵ nữa?

 

          Đáp: Thánh, phàm trong mười pháp giới, số lượng nhiều như cát sông Hằng khó thể sánh ví, mỗi loại đều có mắt riêng. Cố nhiên là thị giác bất đồng! Nói tới Ngũ Nhăn th́ bất quá là quy nạp Thể và Dụng của chúng mà thôi. Năng lực của Ngũ Nhăn cũng là mỗi loại khác biệt, Nhục Nhăn chẳng bằng Thiên Nhăn, Huệ Nhăn chẳng bằng Pháp Nhăn, mỗi loại đều chẳng sánh bằng Phật Nhăn, nhưng đức Phật thông suốt Ngũ Nhăn. Nếu luận định theo năm loại ấy, đức Phật đă trọn đủ. Nếu nói theo mười pháp giới, đức Phật sẽ trọn đủ hằng sa loại mắt, khó thể sánh ví được!

 

          2) Hỏi: Kinh dạy: “Kiêu mạn chấp trước giả, bất tác thị vi pháp” (Kẻ kiêu mạn, chấp tướng, chẳng thể coi là pháp). Chấp tướng có phải là mỗi kẻ học Phật đều sẽ chấp tướng, hay là tại gia và xuất gia có phân biệt?

 

          Đáp: Nếu hỏi về kinh văn, cần phải nói rơ là kinh nào. Hăy nên biết người phúc đáp chẳng đọc kinh nhiều. Đối với những kinh đă đọc, cũng khó thể ghi nhớ chẳng quên! Lại cần phải nêu bày những đoạn kinh văn trước câu kinh thắc mắc ấy, v́ một câu hay nửa câu chẳng phải là toàn bộ ư nghĩa, chẳng dám đáp xằng! Nay tôi chỉ dựa vào chữ “chấp tướng” để đáp, bất luận xuất gia hay tại gia, người hữu đắc hữu chứng sẽ có thể chẳng chấp tướng; kẻ học lực chẳng đủ, tuy biết chấp tướng là lầm lỗi, nhưng vẫn y như cũ chấp tướng, chẳng giác!

 

          3) Hoa Liên Phật Giáo Liên Xă có lăo cư sĩ Trương Minh Như là một vị Phật tử kiền thành, muốn đến dưới ṭa của ngài nghe pháp ngữ, v́ tệ tự là đạo tràng của nữ chúng, chẳng tiện tiếp đăi. Tôi vừa mới đến Đài Trung, chẳng rành đường sá và ít quen biết ai, cũng không rảnh rang để hằng ngày dẫn cụ đến nghe. Quư xá có pḥng trống để ở mấy hôm hay không? Tại gia cư sĩ chẳng phải là quải đơn, sẽ làm công đức.

 

          Đáp: Theo như tôi nghe, Phật Giáo Liên Xă gần đây đang bận tu bổ, thi công c̣n chưa xong, tạm thời chẳng giảng kinh. V́ thế, không có pḥng trống để cho ở tạm. Sau khi lạc thành, mỗi tuần chỉ giảng một lần, những lúc khác chẳng tránh khỏi ngồi không, thật chẳng hợp lư cho lắm! Kính cẩn thưa tŕnh chuyện này.

 

* Một câu hỏi của cư sĩ Vương Thể Nhân ở Đài Nam

 

          Hỏi: Lăng Nghiêm Kinh Trực Giải, quyển một, trang bốn mươi lăm viết: “Cái tâm tánh giác tri phân biệt chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở trung gian”. Kinh Đại Bát Niết Bàn, quyển một, phẩm Tự thứ nhất, nơi trang thứ bảy chép: “Đầu là điện đường, tâm vương ở trong ấy”. Đă nói tâm tánh chẳng ở trong, ngoài, hay trung gian, sao lại nói “ở trên đầu”. Xem ra ư nghĩa trong hai bộ kinh trên đây tợ hồ chẳng nhất trí, khẩn khoản mong cầu cụ giải thích, gởi thư chỉ dạy!

 

          Đáp: Hễ nghiên cứu kinh, ắt [phải là] chẳng bỏ qua một chữ nào! Chỗ nói đến tâm trong hai kinh có ư nghĩa khác nhau. Kinh Niết Bàn nói về chỗ ở của tâm vương, c̣n kinh Lăng Nghiêm chỉ nói tâm mà thôi! Các kinh nói đến tâm, phần nhiều [diễn tả] là “to lớn không có ǵ ra ngoài được”, như nói: Hư không tuy lớn, chẳng ra ngoài tâm. Hoặc sánh ví biển cả như tâm, một bọt nước trong biển cả ví như hư không. Lại như một áng mây bềnh bồng trong hư không, tự nhiên là hư không to lớn, mây nhỏ nhoi. Dùng hư không để sánh ví cái tâm, dùng áng mây để sánh ví hư không. Hai thí dụ vừa nêu chính là ư nghĩa “tâm chẳng ở trong hay ngoài” của kinh Lăng Nghiêm. Bát thức tâm vương trong Duy Thức, đứng đầu là năm thức (tức nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân). V́ thế nói “tâm vương ở nơi đầu”, đấy chính là ư nghĩa “vua ở trong điện đường” của kinh Niết Bàn. Trong phương diện hành văn, có cách nói theo tổng tướng, có cách nói theo biệt tướng. Hăy gộp lại để suy nghĩ th́ sẽ thông suốt! Tôi gởi lại bưu phiếu, chẳng trả lời thư!

 

* Một câu hỏi của đại đức Kỳ Nguyệt tại thành phố Cao Hùng

 

          Hỏi: Thuật ngữ “ly tứ cú, khiển bách phi” (ĺa bốn câu, dứt trăm điều chẳng phải), “tứ cú” là như thế nào, “bách phi” lại là ǵ?

 

          Đáp: “Tứ cú” có đến mấy loại như tứ cú kệ, tứ cú báo, tứ cú thôi kiểm, tứ cú phân biệt v.v… Dùng “tứ cú” (bốn câu) để phân biệt là phổ biến nhất. Nói đơn giản, sẽ là: Một là có, chẳng phải là không; hai là không, chẳng phải là có; ba là cũng có cũng không; bốn là chẳng phải có, chẳng phải không! “Bách phi”: Bách (một trăm) là nói tới trăm thứ pháp môn, như sắc pháp, tâm pháp, tâm sở pháp, bất tương ứng pháp, vô vi pháp v.v… đều chẳng có thực thể. Những điều vừa nói trên đây, chính là nghĩa “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Như nói Niết Bàn vốn khó thể diễn tả; v́ thế, dùng hai câu ấy, biểu thị “chẳng thể nghĩ bàn”. Tuy nói đại lược, có lẽ chẳng thể hiểu, [bởi lẽ], người mới học chẳng hiểu rơ giáo tướng, làm sao có thể trước hết là đàm luận huyền lư cho được. Hăy nên biết: Học tập th́ cần phải từ cạn đến sâu!

 

* Một câu hỏi của cư sĩ Tŕnh Đạo Tu ở Vân Lâm

 

          Hỏi: “Đôn Hoàng xuất thổ” có nghĩa là ǵ?

 

          Đáp: Đôn Hoàng (燉煌) chính là tên một huyện ở tỉnh Cam Túc. Nơi ấy, có núi Minh Sa, trên núi có Thiên Phật Động, và vô số hang đá cất giữ tượng Phật, kinh Phật v.v… Nơi ấy được phát hiện vào những năm cuối đời Thanh, và phần nhiều đă bị người Tây Dương lấy trộm. Thư hỏi chỉ nói đến chuyện “xuất thổ” (出土, ra khỏi đất), chẳng biết là muốn nói đến vật ǵ! Nếu là kinh tượng th́ chính là nói đến chuyện này (chuyện phát hiện ra hang Đôn Hoàng); nếu là nói đến chuyện khác th́ phải luận định cách khác.

 

* Năm câu hỏi của cư sĩ Ngô Kiến Thành ở thành phố Đào Viên

 

          1) Hỏi: Thường thấy sáu chữ “nam vô A Di Đà Phật”, chẳng biết v́ sao phương Nam chẳng có A Di Đà Phật? Chữ “nam vô” (南無) có ư nghĩa ǵ?

 

          Đáp: Chữ “Nam-vô” đời Đường đọc thành âm Na-ma (nà muó, tức là phải đọc thành Nam Mô), nay đă chuyển thành Nan Ngô (nán wú)! Chẳng thể nói hai chữ ấy có nghĩa là “phương Nam không có [thứ ǵ đó]”! Đây là tiếng Phạn chưa dịch nghĩa. Khi niệm, hăy nên đọc là Na Ma, có nghĩa là “quy y” v.v… Nếu ông muốn học Phật, mà chẳng gặp người thông sáng chỉ điểm; trước hết, cần phải đọc những tập sách nhỏ rơ ràng, dễ hiểu, chớ nên tự ḿnh suy đoán loạn xạ!

 

          2) Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát là nữ nhân ư? Ngài có phải là con gái của vua Diệu Trang hay không?

 

          Đáp: Quán Thế Âm là cổ Phật hóa thân, Phật tự nhiên là nam tử. Nhưng v́ hóa thân độ chúng sanh, có khi hóa thân thành phụ nữ. Chuyện vua Diệu Trang chính là tục truyền. Học Phật th́ cần phải đọc sách Phật, chớ nên nghe theo những lời đồn đăi!

 

          3) Hỏi: Muốn cho gia đ́nh cát tường, b́nh an, hăy nên niệm danh hiệu vị Phật nào th́ tốt hơn?   

         

          Đáp: Niệm A Di Đà Phật là tốt nhất. Xưa nay là như vậy, các nơi đều như thế, cũng nên xem kinh sách càng hay!

 

          4) Hỏi: Di Lặc Bồ Tát là vị Bồ Tát như thế nào? V́ sao hiện thời do Ngài chưởng quản thiên bàn?

 

          Đáp: Đấy là vị Bồ Tát đang ở cơi trời Đâu Suất, tương lai sẽ đến nhân gian làm Phật, hoàn toàn chẳng chưởng quản thiên bàn như lời đồn thổi! Đó là lời lẽ của bọn bàng môn ngoại đạo vô tri!

 

          5) Hỏi: Nến thắp hai bên Phật đường nên dùng nến trắng hay nến đỏ? Rất nhiều người thắp nến trắng, chẳng biết có đúng hay không?

 

          Đáp: Nến thắp trong Phật đường đỏ hay trắng đều có thể, miễn sao thuận tiện, hoàn toàn chẳng có tánh chất cố định cứng ngắc. Bắt buộc phải dùng nến trắng chính là phù hiệu của bọn bàng môn ngoại đạo. Ông đọc sách không nhiều, tà, chánh chẳng phân biệt được! Hăy nên hướng về nhà chùa quy y, để sau này thường đến thỉnh giáo, mới chẳng đến nỗi lầm lẫn bước vào đường tà, hối hận suốt đời!

 

* Một câu hỏi của cư sĩ Trần Đốc Kính ở Chương Hóa

 

          Hỏi: Mỗi lần văn bối lễ Đại Bi Sám, tới câu “nhất tâm đại vị, Thiện Tra Phạm Ma Cù Bà Già thiên tử… Đồng Mục thiên nữ…”, rốt cuộc chẳng hiểu vị trời và vị thiên nữ ấy thuộc cơi trời nào? V́ sao phải thay họ lễ bái Tam Bảo? Nhân duyên như thế nào? Tôi chưa từng thấy [sách vở nào nói rơ], từng tra Phật Học Từ Điển hoàn toàn chẳng có tên hai vị ấy, lại tra cứu chẳng thấy có bản chú thích nào. Xét thấy trưởng giả là bậc thâm nhập Tam Tạng, thấy nghe tinh ṛng, rộng răi, nên mới chẳng nề hà mạo muội quấy nhiễu. Xin hăy giải trừ nỗi nghi, tôi cảm kích lắm thay!

 

          Đáp: Sự hiểu biết của tại hạ chỉ là do ghi nhớ, hỏi han, hết sức nông cạn, thô lậu. Ĺa khỏi kinh bổn, sẽ không có ǵ để nương theo! Đối với thắc mắc của ông, từ điển chẳng chép, [thế nhưng] Tam Tạng mênh mông, kẻ học cạn làm sao có thể nhớ rơ được! Nhưng chuyện này thuộc về cách tu lễ sám, chẳng thuộc về nghiên cứu giáo điển, chỉ có thể y giáo phụng hành, giữ tâm chí thành. Nếu dấy lên phân biệt, sức cảm ứng sẽ bị giảm. Thử hỏi tám mươi tám vị Phật trong sách khóa tụng, mỗi vị ở cơi nào? Ngàn vị Phật, vạn vị Phật, v́ sao chỉ tụng mấy vị đó? Ngài Vi Đà rốt cuộc thuộc tầng trời nào? Nếu cứ mong biết trọn hết, sẽ phiền toái khôn xiết! Hơn nữa, phiên âm tiếng Phạn sang Hán, cùng một tên mà có nhiều cách [phiên âm khác nhau]. Như các danh xưng Hằng Hà và Kỳ Viên[37] đều là đa âm (có nhiều cách phiên âm khác nhau), mọi người đều biết những tên gọi ấy. Thiện Tra Phạm Ma Cù Bà Già[38] v.v… có lẽ cũng là như thế. Lại nữa, ai nấy đều có cửu tổ (tổ tiên chín đời), cửu tộc (chín mối quan hệ họ hàng)[39], có thể biết tên họ của từng người một hay chăng? Kính khuyên, khi nghiên cứu giáo th́ cần phải khảo cứu, nhưng khi tu pháp th́ chỉ nhất tâm thành kính là được rồi!

Phật Học Vấn Đáp Loại Biên

Quyển Trung hết

 



[1] Tĩnh từ và động từ ở đây không phải là adjective và verb theo cách hiểu thông thường, mà có nghĩa là tĩnh tương phản với động. Do Quán là có sự vận dụng tác dụng Chiếu của cái tâm, nên nó là động, c̣n Đế là đối tượng được quán chiếu bởi người Quán, nên là thụ động, tức tĩnh.

[2] Người Hoa không học Phật (nhất là người Quảng Đông) có thói quen gọi người cạo đầu mặc y phục xuất gia là ḥa thượng; do vậy họ hay gọi những chú tiểu c̣n bé tí là “tiểu ḥa thượng”.

[3] Tam Tế (三際) chính là cách nói khác của tam thế (三世), tức là quá khứ, hiện tại và vị lai.

[4] Chỉ nói riêng trong Thái Dương Hệ, các hành tinh có “mặt trăng” (tức vệ tinh) rất nhiều. Chẳng hạn Thổ Tinh (Saturn) có đến sáu mươi hai vệ tinh, Hỏa Tinh (Mars) có hai vệ tinh là Deimos và Phobos, Mộc Tinh (Jupiter) có sáu mươi bảy vệ tinh, lớn nhất là vệ tinh Io, Europa, Ganymede, Callisto v.v…

[5] Cơi trời này ở ngay trên đầu chúng ta. Do có bốn vị thiên vương cai quản nên gọi là Tứ Vương Thiên (Cāturmahārājikakāyika, cơi trời có bốn vị vua).

[6] Cờ Phật giáo được thiết kế từ năm 1885 bởi một ủy ban gồm các vị tôn túc và cư sĩ hữu danh thời ấy tại Tích Lan do trưởng lăo Hikkaduwe Sri Sugamanla làm chủ tịch, thành viên là các vị: Trưởng lăo Migettuwatte Gunananda, cư sĩ Don Carolis Hewavitharana, cư sĩ Andiris Perera Dharmagunawardhana, cư sĩ Charles De Silva, cư sĩ Peter Abrew, cư sĩ William Fernando v.v… Lá cờ này được treo đầu tiên tại Tích Lan vào ngày 28 tháng Tư năm 1885, nhằm đúng dịp lễ Vesak cử hành tại tinh xá Dipaduttamarama. Thoạt đầu lá cờ khá dài, đại tá Henry Stell Olcott, một kư giả Hoa Kỳ, sáng lập viên của hội Thông Thiên Học (Theosophical Society), đă đề nghị rút ngắn lá cờ này theo kích thước chung của các lá cờ quốc gia. Sau đó, vào năm 1889, ông Olcott và trưởng lăo Anagarika Dharmapala đă giới thiệu lá cờ này cho vua Minh Trị (Meiji) của Nhật và đem vào Miến Điện. Do sự giới thiệu và lăng-xê của ông Olcott, khá nhiều người đă tưởng lầm ông Olcott là người chế ra lá cờ ấy. Năm 1952, Thế Giới Phật Giáo Đồ Liên Nghị Hội (World Fellowship of Buddhists) đă tán thành chọn lá cờ này là cờ quốc tế của Phật giáo. Nhưng tại Miến Điện, màu cam được thay bằng màu hồng, tại Nepal thay màu cam bằng màu tím mận, Tây Tạng thay màu cam bằng màu nâu đỏ. Tịnh Độ Chân Tông của Nhật cũng thay màu cam bằng màu hồng. Ở Nhật c̣n lưu hành một loại cờ riêng, gọi là ngũ sắc mạc (Goshikimaku), có h́nh dáng giống hệt như cờ Phật giáo quốc tế, nhưng vạch đầu tiên là xanh dương bị thay bằng màu xanh lá cây, màu cam thay bằng màu xanh dương đậm (gần như đen) và treo dọc. Sáng Giá Học Hội (Soka Gakkai, một chi phái của Nhật Liên Tông) lại giảm bớt, chỉ c̣n ba màu là xanh dương, vàng và đỏ.

[7] Hồ quỵ (胡跪) thường đọc trại thành “hồ quỳ” có nghĩa đen là “cách quỳ của người Hồ”, tức là cách hành lễ của những sắc dân ở phía Tây Trung Hoa. Cách quỳ là đầu gối trái đặt sát đất, bàn chân đặt vuông góc với mặt đất, đầu gối phải dựng lên, ḷng bàn chân phải đạp thẳng xuống đất. Cách quỳ này biểu thị ư nghĩa hết sức cung kính, sẵn sàng nhổm dậy để thực hiện ngay mệnh lệnh được giao phó. Trường quỳ là quỳ thẳng lưng, đùi đặt thẳng góc với mặt đất. Về sau, hồ quỳ thường được hiểu là quỳ sao cho mông đặt trên hai gót chân, hai bắp chân ép sát đất.

[8] Đây là cách nói phối hợp Thiên Can với Ngũ Hành, tức là Giáp Ất Mộc, Bính Đinh Hỏa, Mậu Kỷ Thổ, Canh Tân Kim, Nhâm Quư Thủy. Rơ ràng là cách diễn tả xằng bậy thánh hiệu đức từ phụ Di Đà để biện minh cho các khẩu quyết luyện đan, thổ nạp của họ.

[9] Danh xưng Ngũ Công Bồ Tát chỉ tồn tại trong Đạo giáo. Do dân gian Trung Hoa sùng bái Tế Điên ḥa thượng (thường gọi là Tế Công Hoạt Phật), các miếu thờ Đạo giáo cũng thờ Ngài. Họ đề ra hai thuyết phổ biến nhất về Ngũ Công Bồ Tát:

1. Ngũ Công Bồ Tát là năm lần hóa thân giáng thế chữa bệnh cứu đời của ngài Tế Công: Thái Tổ Chí Công Phật Tổ, Nhị Tổ Lăng Công Phật Tổ, Tam Tổ Khang Công Phật Tổ, Tứ Tổ Hóa Công Phật Tổ, và Ngũ Tổ Bảo Công Phật Tổ. Thuyết này khá mơ hồ v́ ngọc phả trong các miếu đền của họ không thể chỉ rơ pháp danh thật sự của các vị này, chỉ nói mơ hồ là người đời Đông Tấn, hoặc đời Tùy.

2. Ngũ Công Bồ Tát chính là các vị tổ sư bên Thiền hoặc La Hán. Theo đó, Ngũ Công Bồ Tát chính là Giáng Long La Hán (tức là ngài Tế Công, có tục danh là Lư Tu Duyên, mặt trắng), Thanh Diện Tế Công (tổ Đạt Ma), Hắc Diện Tế Công (Phục Hổ La Hán), Kim Diện Tế Công (Bố Đại ḥa thượng), Hồng Diện Tế Công (Lư Phủ Tiên Tổ, nhưng chẳng nêu rơ vị này thật sự là ai).

Ngoài ra, từ truyền thống thờ Quan Công, tín ngưỡng dân gian Trung Hoa đă đặt ra Ngũ Công Vương Phật, tức là Quan Công ngồi ở giữa, bên trái là Quan B́nh bưng hộp ấn, Châu Xương vác thanh long đao đứng bên phải, sau lưng Quan B́nh là Trương Tiên cầm cung (ông này là một vị tiên thường phù trợ sản phụ và trẻ sơ sinh), sau lưng Châu Xương là Vương Thiên Quân (tức Thiên Lôi) cầm thiết giản.

[10] Ư nói: Tận tai nghe người ta dạy cho cách đọc, không thể dựa vào ghi chú trong sách để phát âm.

[11] Đây là bốn dấu giọng căn bản của tiếng Phổ Thông hiện thời, cách giải thích khá phức tạp. Tạm so sánh thô thiển với âm thanh trong tiếng Việt như thế này: B́nh thanh là không dấu, thượng thanh là dấu huyền hoặc dấu hỏi (nhẹ hơn tiếng Việt rất nhiều), khứ thanh gần như dấu hỏi (hoặc dấu ngă), nhập thanh gần như dấu sắc. Tuy vậy, c̣n có âm dương b́nh và âm b́nh, các phân định rất phiền toái.

[12] Vận Thư là một thể loại tự điển thời cổ, ghi chú ư nghĩa, cách đọc. Mỗi từ ngữ được xếp theo cách đọc và âm vận thay v́ số nét hoặc bộ thủ. Các chữ được xếp thành nhóm theo âm đọc và dấu giọng, những chữ trong mỗi nhóm như vậy có cách đọc và thanh điệu liên quan đến chữ đứng đầu nhóm đó (thường gọi là Vận Mục). Những bộ Vận Thư nổi tiếng nhất là Thiết Vận, Đường Vận, Quảng Vận, Tập Vận, Vận Phủ Quần Ngọc, Hồng Vũ Chánh Vận, Bội Văn Thi Vận... Khi viết văn, làm thơ, từ, phú, người ta thường dựa theo các âm đọc trong cùng một Vận Mục để gieo vần.

[13] Theo giọng Quan Thoại, Ha () và Hà đều đọc là Hé, Kích và Cách đều đọc là Gé.

[14] “Nhị hợp” là hai chữ phải đọc thành một, chẳng hạn như trong câu “sa bà ha” (svaha), chữ Sa Bà là phiên âm của Sva, nên phải đọc dính lại. “Tam hợp” là ba chữ phải đọc dính lại, “tứ hợp” là bốn chữ phải đọc dính lại.

[15] Người hỏi dùng danh từ như vậy, không phải là lỗi typo.

[16] Trong nguyên bản chỉ thấy kể tên sáu vị, không biết là do cụ Lư kể thiếu hay người biên tập vô ư ghi thiếu.

[17] Di Lặc lục bộ kinh: Sáu bộ kinh chuyên nói về Di Lặc Bồ Tát, tức là Quán Di Lặc Thượng Sanh Kinh (do ngài Thư Cừ Kinh Thanh dịch), Di Lặc Hạ Sanh Kinh (do ngài Cưu Ma La Thập dịch), Di Lặc Lai Thời Kinh (mất tên người dịch), Quán Di Lặc Bồ Tát Hạ Sanh Kinh (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch), Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật Kinh (do ngài Nghĩa Tịnh dịch) và Di Lặc Đại Thành Phật Kinh (do ngài Cưu Ma La Thập dịch).

[18] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải trong bộ Quản Tử Kim Chú Kim Dịch do Lư Miễn biên soạn, Quốc Lập Biên Dịch Quán Trung Hoa Tùng Thư Biên Thẩm Ủy Viên Hội hiệu đính.

[19] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải sách Đại Học của trang nhà Đài Loan Hải Ngoại Vơng. Mao Thi là phần kinh Thi do Mao Hanh người nước Lỗ sưu tập vào đời Đông Hán. Thoạt đầu, kinh Thi gồm có bốn phần lớn, tức Tề Thi, Lỗ Thi, Hàn Thi và Mao Thi, nhưng ba phần trước đă thất truyền. Bản kinh Thi lưu hành hiện thời chỉ có phần Mao Thi.

[20] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của sách Châu Lễ Chú Sớ (tập hợp các lời chú giải sách Châu Lễ của Triệu Bá Hùng, Trịnh Huyền, Giả Công Nhan, Lư Học Cần v.v…)

[21] Ở đây, ông Thí Chấn Huy đă lầm lẫn. “Thạch nữ” (石女) là người đàn bà không có khả năng sinh nở, c̣n ngọc nữ (玉女) là tiếng để ca ngợi người con gái đẹp đẽ, có phẩm hạnh cao quư.

[22] Ở đây, ông Ngô Cơ Miên cũng tự lẫn lộn. Trong câu trước, ông ta đă cho chữ là xoay theo chiều bên trái, ở đây ông lại gọi nó là xoay theo chiều phải!

[23] “Mẫu châu” (母珠) là hạt to nhất trong xâu tràng hạt, hai đầu của sợi chỉ sẽ được luồn qua hạt này, kết thành tua. “Gián châu” (間珠) là các hạt nhỏ hơn, hoặc to hơn, thường bằng chất liệu khác, thường có tác dụng chia chuỗi tràng hạt thành ba đoạn (hoặc năm đoạn) nhỏ.

[24] Đây là cách chú thích âm đọc theo lối phiên thiết, ghép chữ đầu chữ trước với âm vận của chữ sau. “Ỷ cấm thiết” nghĩa là âm vận đầu là Ỷ, ḥa với âm “ấm” của chữ Cấm, sẽ ghép thành Ấm.

[25] “Khuông sàng” (匡牀) có nghĩa là một loại giường hẹp dài, dùng để ngồi thoải mái, hay ngả lưng trong chốc lát, làm bằng tre, mây, hoặc dây thừng bện lại.

[26] Nam Kha có nghĩa là cành cây mọc ở hướng Nam.

[27]Khuê chương (圭璋) vốn là hai thứ ngọc quư, thường dùng làm lễ vật, ḥng biểu thị phẩm đức tốt đẹp.

[28] Lục Quán Âm trong Đông Mật là:

1. Thánh Quán Âm cứu độ ngạ quỷ đạo.

2. Thiên Thủ Quán Âm cứu độ chúng sanh trong địa ngục đạo.

3. Mă Đầu Quán Âm (v́ trên nhục kế có h́nh đầu ngựa) cứu độ chúng sanh trong súc sanh đạo. Mật Tông Tây Tạng đặc biệt sùng bái vị này, và thường tạo tượng Ngài dưới h́nh dạng phẫn nộ, tóc tai tua tủa, có cánh, nhe răng, trừng mắt, viên quang như lửa cháy rừng rực.

4. Thập Nhất Diện Quán Âm (Quán Âm mười một mặt), cứu độ chúng sanh trong A Tu La đạo.

5. Chuẩn Đề Quán Âm, cứu độ chúng sanh trong nhân gian.

6. Như Ư Quán Âm, cứu độ chúng sanh trong thiên đạo.

Tông Thiên Thai (ở đây, cụ Lư lại gọi là Đài Tông), lập ra sáu vị Quán Âm cứu độ lục đạo chúng sanh như sau:

1. Đại Bi Quán Âm cứu độ địa ngục đạo.

2. Đại Từ Quán Âm cứu độ ngạ quỷ đạo.

3. Sư Tử Vô Úy Quán Âm cứu độ súc sanh đạo.

4. Đại Quang Phổ Chiếu Quán Âm cứu độ A Tu La đạo.

5. Thiên Nhân Trượng Phu Quán Âm (tức Chuẩn Đề Bồ Tát) cứu độ nhân gian.

6. Đại Phạm Thâm Viễn Quán Âm cứu độ thiên đạo.

[29] Do từ ngữ “tứ vạn lục thiên nhật” có nghĩa đen là “bốn vạn sáu ngàn ngày”, thế mà cổ nhân thường nói đời người là ba vạn sáu ngàn ngày (tức là một trăm năm nhân với ba trăm sáu mươi ngày trong Âm Lịch), nên ông Cao Tân Phát đă diễn giải từ ngữ ấy như thế. Cụ Lư không trả lời thắc mắc này!

[30] “Tài đoàn” (財團) là từ ngữ để gọi một đoàn thể tư nhân có đăng kư về mặt pháp lư, có toàn quyền sử dụng các quỹ chi tiêu dưới sự giám sát của một ban cố vấn.

[31] Lục Pháp Toàn Thư là tổng tập các luật lệ được áp dụng tại Trung Hoa Dân Quốc. Gọi là Lục Pháp v́ nó bao gồm sáu lănh vực hiến pháp, tức là dân pháp (civil law), h́nh pháp, dân sự tố tụng pháp, h́nh sự tố tụng pháp và hành chánh pháp (bao gồm hành chánh tố tụng pháp).

[32] Yên Tân chính là thành phố Thiên Tân, do vùng này thuộc lănh thổ nước Yên thời Chiến Quốc, nên gọi là Yên Tân. Cũng như tỉnh Sơn Đông là đất cũ của nước Tề và Lỗ, nên thường gọi là đất Tề Lỗ hoặc đất Lỗ.

[33] Theo cách giải thích hiện thời, chẳng hạn như trong bài Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Chú Thích của cư sĩ Đặng Lai Tống, “càn tiêu” (乾肖) nghĩa là tiêu khát, chính là tên gọi khác của bệnh tiểu đường. “Hoàng” () là bệnh xơ gan, bụng nổi báng. C̣n “nhiệt” () là bệnh truyền nhiễm gây sốt cao.

[34] Theo tự điển Khang Hy, chữ có hai cách đọc.

1. “唐韻其矩切,集韻郡羽切” (Đường Vận, Kỳ Củ thiết, Tập Vận Quận Vũ thiết, “sách Đường Vận phiên âm là Kỳ+ Củ (tức Củ). Sách Tập Vận phiên âm là Quận + Vũ, tức Cũ).

2. “集韻郞侯切,正韻盧侯切” (Tập Vận Lang hầu thiết, Chánh Vận Lư Hầu thiết, “Sách Tập Vận phiên âm là Lang - Hầu (tức Lâu), sách Chánh Vận phiên âm là Lư+Hầu, tức Lâu). Người Việt thường đọc chữ này thành Lũ.

Mạt nhân trộm nghĩ rằng khi đọc chú, phải đọc thành âm Củ, hoặc Cũ theo cách đọc thứ nhất, v́ câu này là lời quy kính đức Phật Dược Sư trong nguyên văn bài chú như sau: Namo bhagavate bhaiṣajyaguru, vaiḍūryaprabha rājāya, tathāgatāya arahate samyak sambuddhāya tadyathā: Oṃ bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā”. Chữ “窶嚕 chính là phiên âm của chữ Guru trong câu chú trên đây, cho nên phải đọc thành Cũ Rô cho gần với âm tiếng Phạn.

[35] Chú Lục Tự Đại Minh chính là bài chú: Oṃ maṇi padme hūṃ”, nhưng có những vị lạt-ma Tây Tạng đọc biến âm thành “Om, mani beme hum”, người Mông Cổ th́ đọc thành “Um, maani bad mei khum”. Người Măn Châu đọc thành “am, mani bami xu”.

[36] Từ điển Khang Hy ghi cách đọc chữ này là Cừ Liệt thiết, hoặc Cự Liệt thiết, nên chúng tôi vẫn giữ âm đọc là Kiệt.

[37] Kỳ Viên (Jetavana) c̣n được phiên âm là Kỳ Uyển, Kỳ Hoàn, Chỉ Hoàn, Thệ Đa Lâm, hoặc đôi khi dịch nghĩa là Thắng Lâm, Khổ Hạnh Lâm v.v… Hằng Hà c̣n phiên âm là Căng Già Hà.

[38] Sở dĩ sám pháp nhắc đến tên các vị này là v́ họ đă hiện diện trong pháp hội khi đức Phật giảng kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Theo kinh chép, khi đức Phật giảng kinh ấy, ngoài hải chúng Bồ Tát (như Phổ Hiền, Tổng Tŕ Vương, Dược Vương, Dược Thượng, Quán Thế Âm, Kim Cang Tạng…), các vị La Hán do ngài Ma Ha Ca Diếp làm thượng thủ, c̣n có vô lượng chư thiên từ trời Phạm Ma (tức trời Đại Phạm) do Thiện Tra Phạm Ma thiên vương làm thượng thủ. Vô lượng chư thiên từ Dục Giới câu hội do ngài Cù Bà Già Thiên Tử làm thượng thủ… Lại có vô lượng thiên nữ từ Dục Giới nhóm họp do ngài Đồng Mục thiên nữ làm thượng thủ. Đại Bi Sám Pháp ngoài lễ vị Phật hiện tại là Thích Ca Mâu Ni Phật ra, c̣n lễ thầy của Quán Thế Âm trong quá khứ là đức Quán Thế Âm Như Lai, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Phật, A Di Đà Phật, Cổ Phật Chánh Pháp Minh v.v… cũng như các vị thượng thủ hiện diện trong pháp hội ấy.

[39] Cửu tộc (九族): Theo cách giải thích thông thường, cửu tộc là cách xét họ hàng của người phạm tội để tru di. Cửu tộc bao gồm bốn họ thuộc về bên nội, ba họ bên ngoại, hai họ bên vợ. Bốn họ bên nội bao gồm họ của chính ḿnh (tức cha mẹ, anh chị em, con cái, chú, bác, cô, thím, con nuôi, cháu chắt nội của đương sự), con cái của các cô (chị em gái của cha), con cái của chị em ruột của đương sự (các cháu gọi ḿnh bằng cậu và con cái chúng nó), con cái của con gái (tức cháu ngoại). Ba họ bên ngoại là họ bên ông ngoại, họ bên bà ngoại, và họ của các cậu (tức là gia đ́nh, con cháu họ). Đối với hai họ bên vợ th́ chỉ có bố mẹ vợ bị liên lụy.