Phật Học Vấn
Đáp Loại Biên
Quyển
Hạ
佛學問答類編
Phần 2
Lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam giải đáp
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo Cư
Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội,
Đài Loan, 2007)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
*
Hỏi: Những điểm trọng yếu trong hô hấp
khi tĩnh tọa là như thế nào? (cần phải hóp
cơ bụng lại, hay là phồng cơ ngực ra) (Tô Thái Văn hỏi)
Đáp:
Hít thở điều ḥa, quân b́nh. Nhẹ nhàng như không thở,
chẳng hóp bụng, chẳng chuyển động các
cơ, [hơi thở] chẳng gấp rút, chẳng căng
thẳng. Nếu chẳng có kẻ sáng suốt chỉ
điểm [cách tĩnh tọa], sợ là sẽ nẩy sanh
bệnh tật. Đă chẳng phải là bằng dăm ba
câu mà có thể [nói trọn hết cách tĩnh tọa], càng
chớ nên tu mù, luyện đui! Lúc bất đắc dĩ,
có thể t́m trong sách Tiểu Chỉ Quán để hành theo
đó, ngơ hầu chẳng phải để lại mối
hận về sau!
*
Hỏi: Khi xem kinh, tay phe phẩy quạt, một là đuổi
ruồi muỗi, hai là để khỏi bị nóng, như
thế có phải là chẳng cung kính hay không? Lại nữa,
khi xem kinh, v́ sao lại thắp hương? (Trịnh Triều Tín hỏi)
Đáp:
Theo thường lễ trong thế gian, khi yết kiến
bậc tôn trưởng, dẫu cầm quạt cũng chẳng
được phe phẩy, mà thường là cất vào
trong tay áo. Bởi lẽ, mặc t́nh phe phẩy, xét theo lễ
mạo, sẽ là chẳng tôn kính. C̣n như trong thời
đại xưa kia, khi vào miếu thờ tế bái, hễ
che dù, phẩy quạt, đều là thất lễ. Kinh
điển chính là Pháp Bảo, chẳng khác đức Phật,
há chẳng nên tự thâu liễm, mà cứ phóng túng không ra thể
thống ǵ? Thắp hương nhằm biểu thị sự
cúng dường. Biết phe phẩy quạt là khinh mạn,
có thể biết thắp hương nhằm tôn kính. Kính và
mạn chia thành nẻo tội phước rành rành!
*
Hỏi: Niệm kệ có lợi ích ǵ? Như lúc rửa tay,
bèn niệm bài kệ rửa tay, và những bài kệ như
khi xuống giường v.v… v́ sao cần phải niệm? (Trịnh Chí Tây hỏi)
Đáp:
Chúng sanh vọng niệm tơi bời, để an trụ
nơi đạo, hoàn toàn nhờ vào công phu. Rửa tay th́
tâm đặt nơi chuyện rửa tay; bước xuống
giường, tâm đặt nơi chuyện bước xuống
giường. Hễ có hành động, không ǵ đều chẳng
là như vậy. Cảnh dẫn khởi cái tâm phát sanh, chao
động chẳng ngừng, nắm níu sáu trần, có ǵ là
đặt tâm nơi đạo? Hễ có chuyện ǵ bèn niệm
kệ, [do nội dung của những bài] kệ chuyên chở
đạo, hễ có động tác bèn niệm kệ, sẽ
thành “hết thảy chẳng
ĺa khỏi đạo”. Giống như cổ nhân dùng
đồ vật, mỗi món đồ đều có khắc
bài minh, [hễ sử dụng, nh́n vào bài minh, sẽ tự
nhắc nhở chính ḿnh], có công dụng to lớn như thế
đó. Nếu tu Thiền th́ một câu Thoại Đầu,
tu Tịnh th́ là một câu Di Đà. Đi, đứng, ngồi,
nằm, đều là câu ấy, chẳng cần phải tụng
kệ. [Bởi lẽ] quá nhiều thứ, tâm sẽ đi
vào ngơ rẽ!
*
Hỏi: Kẻ tin Phật ắt phải tu hành, chẳng biết
phải tu theo cách nào th́ mới có thể thành tựu? (Hoàng Từ Chiêu hỏi)
Đáp:
Chúng sanh sanh tử luân hồi, đều do vọng niệm
chẳng ngừng. Nếu có thể đè nén vọng niệm,
sẽ tự có thể thấy tâm mà thành tựu. Nói th́ dễ
hiểu, làm rất khó khăn! Đức Phật có các pháp
phương tiện, nương theo đó để làm th́
gọi là “tu hành”. Pháp môn vô
lượng, quy nạp thành bốn loại, một là tŕ giới,
hai là Thiền Na, ba là niệm Phật, bốn là tu Mật.
Bốn môn ấy, mỗi môn đều có chỗ mầu nhiệm,
đều chẳng thể diễn tả bằng dăm ba
câu được! Để có thể nói rơ, mỗi môn
đều có kinh chuyên biệt. Trong ấy, dễ tu nhất,
dễ thành tựu nhất, không ǵ bằng pháp Niệm Phật.
Nếu có thể niệm đến mức nhất tâm bất
loạn, sẽ thành tựu, mạng chung văng sanh Cực Lạc,
vĩnh viễn đoạn trừ sanh tử.
*
Hỏi: Nhà tôi ở chốn núi sâu, hang vắng, hàng xóm rất
ít, hai thời công khóa sáng tối có thể gơ pháp khí hay không?
Hay là thầm tụng niệm? Giữa hai đằng, cách
nào là đúng? Xin hăy chỉ dạy tường tận! (Hoàng Từ Chiêu hỏi)
Đáp:
Chuyện này cần phải quan sát hoàn cảnh để
quyết định. Gơ pháp khí khiến cho người khác
hoan hỷ th́ sử dụng rất tốt. Nếu người
khác cảm thấy bị quấy nhiễu, hăy nên chọn
cách niệm thầm. Trong trường hợp chẳng hiểu
rơ hoàn cảnh, có thể chọn cách chiết trung, tức
là tuy gơ pháp khí, nhưng rất khẽ tiếng, giống
như cái chuông treo trên vách lay động phát ra tiếng rất
khẽ, dường như có, dường như không, chú ư
mới nghe thấy. Chẳng chú ư, sẽ không nghe tiếng!
*
Hỏi: Xưa kia có hai người theo Phật xuất gia,
một là thợ chế tạo “lư
câu”, người kia là kẻ giữ mộ. Hai người
dụng công đều chẳng được lợi ích. Về
sau, đức Phật dạy người chế lư câu
tu Sổ Tức Quán, dạy người giữ mộ tu Bất
Tịnh Quán. Không lâu sau, hai người đều đắc
đạo quả. “Lư câu”
(鑪韝) là thứ
ǵ? Sổ Tức Quán và Bất Tịnh Quán là ǵ? (Lại Khoan Châu hỏi)
Đáp:
Phật pháp vô biên, nhiều môn phương tiện. Bệnh
của chúng sanh chẳng chỉ có một; để trị
bệnh, cần phải cấp thuốc tương ứng.
Đối với kẻ tâm tán loạn, dạy họ học
Sổ Tức. Sổ Tức (數息) là đếm
hơi thở của chính ḿnh. Từ một tới mười,
từ mười tới trăm, ắt phải ghi nhớ
rơ ràng. “Nhớ rơ” chính là cái
tâm đă nhiếp. Đối với kẻ lắm tham dục,
bèn dạy Bất Tịnh Quán, tức là quán thân ḿnh và thân
người khác, có năm thứ, hoặc chín thứ bất
tịnh, tâm sanh chán nhàm, ngưng dứt tham dục. “Lư câu” chính là cái ống bễ
trong hiện thời, là một thứ ống rỗng bằng
gỗ, gắn van đóng mở, gắn thêm cái cán dài, thông
ra ngoài ống bễ. Liên tục đẩy vào, rút ra, có thể
sanh ra gió, đặt ở bên cạnh bếp ḷ. Nó chính là một
thứ dụng cụ để tăng thêm sức lửa.
Cách chế tạo xưa nay khác nhau, các nơi hoặc có, hoặc
không. V́ thế, có kẻ biết dùng, có kẻ chẳng biết
dùng. Kéo đẩy ống bễ, sẽ sanh ra gió, khá giống
hô hấp. Chỗ mồ mả chính là nơi xác người,
xương xẩu vương văi. Anh hùng, mỹ nhân [đều
là] một nắm đất vàng, là gốc ngọn duy nhất
để đời người trở về. Tập khí
của chúng sanh khó tu, khó sửa; đối với chuyện
đă từng trải sẽ quen thuộc, sẽ dễ
thành công hơn! Dạy người chế ống bễ
pháp Sổ Tức, dạy người giữ phần mộ
Bất Tịnh, [chính là] thuận theo thói quen của họ,
sẽ khế cơ. Đấy chính là sự thiện xảo
trong sự hóa độ chúng sanh của đức Phật
vậy!
*
Hỏi: Làm thế nào để có thể khiến cho tâm
t́nh của ta b́nh lặng, chẳng dấy lên vọng tưởng?
Xin hăy chỉ dạy! (Lâm Tú Diễm
hỏi)
Đáp:
Dấy lên vọng niệm, chúng sanh ai nấy đều có!
Trừ đức Phật ra, bất luận là phàm hay thánh
[đều có niệm], bất quá là chia thành thời gian dài
hay ngắn, thuần hay tạp sai khác mà thôi! Nếu bảo
là “chẳng khởi”, kẻ sơ học chẳng thể
làm nổi, ắt phải là hết sạch vô minh th́ mới
chẳng có vọng niệm. Vô minh đă hết, chẳng có
vọng niệm, tức là đă thành Phật quả! Nếu
cư sĩ muốn trừ vọng niệm, các pháp khác
đều khó, chỉ có Tịnh Độ niệm Phật
c̣n dễ, có thể cầu hỏi cách tu tập từ
người thông hiểu.
*
Hỏi: Làm thế nào để lúc sáng dậy niệm kinh,
tôi chẳng dấy lên suy tưởng lung tung? Niệm kinh
Kim Cang chẳng được mấy trang, đă dấy
lên vọng tưởng. Có khi nghĩ tưởng đến
nỗi cứ thuận miệng mà niệm, niệm đến
trang thứ mấy cũng chẳng biết! (Lâm Tú Diễm hỏi)
Đáp:
Không hiểu rơ Phật lư, chẳng biết Thọ đều
là Khổ, chẳng biết mạng người vô thường.
V́ thế, cái tâm buông lung, tán loạn. Nếu có thể biết
rơ mạng sống chỉ tồn tại trong ṿng hô hấp,
v́ liễu sanh tử mà cầu giải thoát, cái tâm sẽ có
thể dần dần thâu liễm vậy!
*
Hỏi: Làm thế nào để khi tôi niệm kinh sẽ một
dạ chuyên nhất tụng niệm? (Lâm Tú Diễm hỏi)
Đáp:
Câu hỏi này và hai câu hỏi thứ sáu, thứ bảy chẳng
sai khác cho mấy! Suy ngẫm kỹ càng lời đáp cho hai
câu trên đây, sẽ tự hiểu ư nghĩa, chẳng cần
phải rườm lời!
*
Hỏi: Cổ nhân có câu “đản
mộ trực hành khứ”,
“cổ miếu hương lô khứ”, nên hiểu ư
nghĩa như thế nào? (Chí
Tây hỏi)
Đáp:
Những lời ấy đă nghe từ chỗ nào? Đă tu
Tịnh Độ, đối với kinh sách Tịnh Độ
c̣n chưa xem nhiều, lư c̣n chưa rơ, lại hỏi những
lời ấy, tức là chẳng thật thà vậy! Cư
sĩ có thể niệm Phật sao cho miệng niệm, tai
nghe, sẽ là “mộ trực
hành khứ” (cứ hâm mộ mà thẳng thừng làm theo).
Niệm nào cũng đều văng sanh trong ao sen, đấy
chính là “cổ miếu
hương lô khứ” (miếu xưa ḷ hương tỏa)
vậy!
*
Hỏi: Tổ Ấn Quang bảo “người niệm Phật chớ nên xen tạp
đường lối tham cứu của nhà Thiền”, giải
thích như thế nào? (Triệu
Lệ Lượng hỏi)
Đáp:
“Quy nguyên vô nhị lộ,
phương tiện hữu đa môn” (về nguồn chẳng
hai nẻo, phương tiện có nhiều môn). “Quy nguyên” là từ Thỉ Giác cho
đến Cứu Cánh Giác, đấy là nói theo Tánh Đức.
Đoạn hết vô minh, trở lại diện mục mà
ta vốn sẵn có. “Phương
tiện” là phương pháp hay khéo để quy nguyên.
Đấy là nói theo Tu Đức. Hăy nên thuận theo căn
khí của mỗi người, để lập ra các thứ
đường lối khế cơ. Tánh chính là diện mục
vốn sẵn có, Tu chính là đường lối khế
cơ. Ví như đi xa, ắt có chỗ nhất định
[để đạt đến], nhưng đối với
phương tiện giao thông và tuyến đường, ắt
phải chọn lấy một thứ phù hợp, hoặc
thuyền, hoặc xe, hoặc cỡi ngựa, lừa, hoặc
ngồi máy bay. Theo con đường ấy, chọn phương
tiện giao thông ấy, sớm hay muộn ắt sẽ
đến nơi. Nếu lên núi mà ngồi thuyền, vượt
biển mà ngồi xe, thoắt hướng sang Đông, nửa
chừng ngoặt sang Tây, bánh xe vốn quay về Nam, cứ
khăng khăng tiến về phương Bắc, ắt
chẳng đến nơi được! Tu hành trong nhà Phật
cũng giống như thế! Thiền có Thiền pháp, Tịnh
có đường lối của Tịnh!
*
Hỏi: “Niệm Phật th́
quan trọng nhất là giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng hành các điều thiện”, giải
thích như thế nào? (Triệu
Lệ Lượng hỏi)
Đáp:
Niệm Phật ắt phải tu Tam Phước. Nhằm dụng
ư khiến cho công phu của học nhân trước cạn
sau sâu, [cho nên] khởi sự bằng điều thiện hữu
vi của thế gian, [sau đấy sẽ] đạt tới
chỗ quy hướng về điều thiện vô vi. Nhiều
kẻ chẳng biết Tam Phước, nhưng bốn câu
này lưu hành, ai nấy đều hiểu. Đáng tiếc
là [người học Phật] nói được mà chẳng
làm được; v́ thế, tổ sư nhắc nhở.
Ư nghĩa của bốn câu ấy và ư nghĩa của Tam Phước,
[chỉ là] cách nói khác nhau, chứ Sự và Lư đều phù
hợp. Người tu đạo ắt phải có hai thứ
công phu Chánh và Trợ. Bốn câu ấy chính là công phu phụ
trợ vậy!
*
Hỏi: Đêm ngày thường nghe tiếng niệm Phật
hiệu, như trong khi Phật Thất, các duyên ḥa hợp
cùng niệm, âm thanh rơ ràng, tôi cũng niệm theo, từng chữ
rành rẽ, tuy không phát ra tiếng. Bất luận là nấu
nướng, ăn cơm, hoặc biên chép, đều là tai
nghe Phật hiệu, tâm niệm Phật hiệu; đấy
là cảnh giới như thế nào? (Tiêu Thông hỏi)
Đáp: Chuyển uế thành tịnh, tất nhiên là cảnh
tốt đẹp, nhưng cần phải biết “vạn pháp duy tâm”. Nói chung,
đấy chính là chủng tử kết thành do kết thất
niệm Phật, ngẫu nhiên dấy lên hiện hành đó thôi.
Ông vốn chẳng có định lực, tâm niệm sanh diệt
vô thường, tham đắm cảnh ấy chẳng bằng
giữ cho cái tâm thường ở trong Định, sẽ
có thể đoạt cảnh!
*
Hỏi: Khi sám hối thường cảm thấy bi tâm sanh
khởi, lệ tuôn đầm đ́a. Hiện tượng ấy
có gây chướng ngại cho sự tu hành hay chăng? (Tiêu Thông hỏi)
Đáp:
Sám hối như vậy đại khái cũng thuộc loại
t́nh cảm xung động. Ông cũng biết đại
lược giáo tướng, vẫn nên là sám hối theo lư
trí. Sự sám cần phải bắt nguồn từ Lư sám, Lư
sám chẳng trở ngại Sự sám. Sám hối th́ ắt
phải tỏ lộ chuyện đă qua, hết sức hối
lỗi, về sau chẳng c̣n làm nữa. Lại c̣n phải
có phương tiện thiện xảo, khiến cho lỗi
lầm được sửa chữa, mới có thể gạt
bỏ những điều quấn trói, t́m được
lối ra. Nếu một tay quét dọn mặt đất,
tay kia liên tiếp vẩy bụi, dẫu khóc đến cạn
nước của ba con sông, bất quá chỉ là quỷ
khóc sói tru đó thôi!
*
Hỏi: Người sống có thể mang theo cát Quang Minh[1]
nơi thân ḥng có tác dụng văng sanh hay không? (Tiêu Thông hỏi)
Đáp:
Kinh đă dạy rơ công dụng của cát Quang Minh là để
độ vong, chưa thấy nói “người sống
đeo trong người, về sau sẽ có thể văng sanh”.
Hăy nên biết, người học Phật phải căn cứ
theo thực tế, đúng pháp tu tŕ, hăy nên chết sạch
tấm ḷng mong ngóng, mánh khóe, đừng mong chuyện cầu
may!
*
Hỏi: Trong khóa giảng thứ hai, thầy có nói: “Phật học chẳng nói đến
chuyện dùng công chuộc tội, v́ cái quyền lập công
hay tạo tội do chính ḿnh nắm giữ, [công và tội] chẳng
thể triệt tiêu lẫn nhau được”. Đệ
tử nghĩ kẻ học Phật khi chưa học Phật,
dẫu tấm ḷng vốn sẵn thiện lương,
cũng khó tránh phạm tội, tạo nghiệp. Nếu sau
khi học Phật, vẫn chẳng cho phép người ấy
dùng công chuộc tội, vậy th́ những tội nghiệp
trước kia sẽ tiêu trừ bằng cách nào? (Biện Khắc An hỏi)
Đáp:
Công và tội không thể triệt tiêu [lẫn nhau], pháp vốn
là như vậy. Như trồng dưa được
dưa, trồng đậu được đậu, mỗi
thứ chẳng biến thành lẫn nhau, mà cũng chẳng
chống trái nhau. Do tánh chất của cái nhân là như thế
nào th́ cái quả cũng là như thế ấy. Nhưng quả
phải cậy vào duyên để sanh; hễ chẳng có duyên,
sẽ chẳng sanh. Sau khi đă học Phật, chẳng
làm các điều ác, tuy trước kia từng tạo ác,
nhưng nay v́ ác duyên chẳng dấy lên, cái nhân của tội
do chẳng có duyên nên không có sức, sẽ không do đâu mà
sanh [ra cái quả được]. Nếu lại thêm công phu
tinh tấn, có thể nhờ vào đó mà đoạn Hoặc.
Hoặc đă đoạn, cái nhân ác tự mất, đấy
chính là chuyển biến từ căn bản. Hăy nên biết
cái quả của tội hay phước vốn là do tự
làm. Người chẳng tạo tội, tù ngục tự
trống không. Tuy có quan lại thuộc ngành tư pháp, quả
thật họ chẳng thể vận dụng quyền lực
được. Huống chi Phật chẳng làm chuyện
tru lục, trừng phạt, làm sao có chuyện chuộc tội
hay không!
*
Hỏi: Trong buổi giảng thứ tám, thầy đă nói: “Người tu Tịnh Độ
có thể đới nghiệp văng sanh, nhưng khi sắp lâm
chung, nếu có thể tiếp điện từ A Di Đà
Phật th́ mới có thể văng sanh thế giới Cực
Lạc”. Nói “tiếp điện”
có ư nghĩa như thế nào? Có phải là lâm chung thấy
Phật, đến chỗ Phật, hay là niệm Phật văng
sanh? Hoặc là chánh niệm phân minh? (Biện Khắc An hỏi)
Đáp:
Nói “tiếp điện” là
dùng vật chất trong hiện thời để tỷ dụ,
dùng chuyện này [để diễn tả] cho [người
nghe] dễ hiểu. Ư nghĩa ấy chính là cảm ứng đạo
giao. Người niệm Phật lâm chung, chánh niệm phân
minh, nhất tâm, chẳng điên đảo, tức là tâm và
Phật giao cảm. Thấy Phật, đến chỗ Phật
hay không, vẫn thuộc về Nhăn Thức. Nếu đạt
được ư niệm thanh tịnh, chính là “thấy Phật”. Tuy chẳng
có thụy tướng nơi ngoại cảnh, quyết
định văng sanh.
*
Hỏi: Trong buổi giảng thứ mười bốn, thầy
nói: “Học Phật có thể
tiêu diệt tội nghiệp trước kia, chẳng có lẽ
ấy”. Đệ tử nghĩ người học Phật
nếu một mặt học Phật, một mặt tạo
nghiệp, như vậy th́ đương nhiên là những
nghiệp đă tạo sẽ vĩnh viễn không có cách nào
tiêu diệt, nhưng trong kinh Phật đă dạy rơ ràng: “Chí tâm niệm A Di Đà Phật một
tiếng, có thể tiêu trọng tội trong tám mươi ức
kiếp sanh tử”, điều này có phải là mâu thuẫn
hay chăng? (Biện Khắc An
hỏi)
Đáp:
Đối với câu hỏi này, nếu xem lời đáp
cho câu hỏi thứ nhất, sẽ tự hiểu rơ lư này!
C̣n như nói “niệm Phật một
tiếng, có thể tiêu trọng tội trong tám mươi ức
kiếp sanh tử”, đấy chính là công phu chuyển biến
[như đă giải thích] trong lời đáp thứ nhất,
có ǵ là mâu thuẫn? Nhưng đối với đoạn
kinh văn này, hăy chú trọng hai chữ “chí tâm”. “Chí tâm” là tinh thành, chẳng hai, chẳng có
tạp vọng. Nếu chẳng có tạp vọng, sẽ
khế hợp Chân Không Bát Nhă. Đó gọi là “nếu tâm vong th́ tội cũng mất”. Chuyện này
chẳng phải là Phật cho phép chuộc tội, mà là do
chính ḿnh học Phật, chuyển biến vậy!
*
Hỏi: Hậu học từ mùa Đông năm ngoái đă
nương theo pháp Chỉ Quán để tu tập tĩnh tọa.
Trong mùa Xuân năm nay, quy y Cam Châu Hoạt Phật, được
truyền dạy chú ngữ Mật Tông, bèn mỗi đêm
đều đối trước Phật tŕ tụng. Từ
khi nghe pháp âm, ngộ sâu xa công năng của việc tŕ tụng
Phật hiệu, bèn trong khóa tối mỗi ngày, niệm thêm
thánh hiệu Tây Phương Tam Thánh và Địa Tạng. Lại
c̣n từng được nhận lễ quán đảnh Vô
Lượng Thọ Phật, bèn niệm thêm danh hiệu Vô
Lượng Thọ Phật. Trước khi ngủ, vẫn
tu tập tĩnh tọa nửa giờ. Cùng hành ba hạng mục
Chỉ Quán, Mật Tông và Tịnh Độ như vậy,
có phải là mâu thuẫn, chẳng thuần, đâm ra sẽ
nẩy sanh chướng ngại hay chăng? Thiết tha xin
chỉ giáo! (Cung Quốc Tuấn
hỏi)
Đáp:
Phật pháp thiện xảo, đều là “lương
dược” (thuốc tốt lành, thuốc hay). V́ để
khế hợp căn khí của chúng sanh, cho nên nói nhiều
môn. Người tu nên chọn một môn để thâm nhập.
Một môn đă nhập, sẽ đều thông. Tu nhiều
môn sẽ tạp loạn, khó nhập. Một đă chẳng
thành, nhiều càng khó luận. Cư sĩ hăy nên trong hai khóa
tụng sớm tối chuyên tu Tịnh Độ, lập thệ
nguyện quyết định, chuyên cầu sanh về Tây.
Đối với những công khóa khác, hăy nên chọn thời
gian khác, tùy duyên tu tập để làm trợ hạnh. Nếu
luận theo ba pháp mà ông đă tu, quả thật có thể gộp
chung lại. Niệm Phật đ̣i hỏi nhất tâm th́ mới
là tịnh niệm. Nhất tâm chính là Chỉ, niệm Phật
là Quán. A Di Đà Phật dịch sang tiếng Hán là Vô Lượng
Thọ Phật, bất quá là một vị Phật có hai
danh xưng, do đọc theo tiếng Phạn hay tiếng
Hán mà thành khác nhau. Niệm Di Đà chính là hợp với Mật,
niệm Vô Lượng Thọ Phật ngược lại
sẽ biến thành Hiển. Niệm Vô Lượng Thọ
Phật th́ có ư nghĩa biến thân, niệm Di Đà sẽ
dấy lên cái tâm liễu thoát.
*
Hỏi: Nên tu “Thiền Tịnh
song tu” theo cách nào, xin hăy khai thị! (Trương Huệ Văn hỏi)
Đáp:
Thiền có cách hành tŕ của Thiền, Tịnh có cách hành tŕ
của Tịnh. Nhân địa là như thế, quả
địa chẳng hai. Kẻ hiểu Thiền dùng Tịnh
làm trợ hạnh, có thể nói “Thiền
Tịnh song tu”. Kẻ hiểu Tịnh chẳng cần
phải Thiền Tịnh song tu, mà tự khế hợp với
Thiền. Kẻ chẳng hiểu Thiền, chẳng bằng
chuyên tu Tịnh. Kẻ đă chẳng hiểu Tịnh, càng
không thể do đâu bàn đến Thiền được!
Nói chung, ắt là phải trước hết thông hiểu một
pháp, đă có một chỗ chứng nhập rồi mới
có thể nói đến chuyện song tu được!
*
Hỏi: Niệm “tự tánh Di
Đà” và niệm Tây Phương Cực Lạc thế
giới A Di Đà Phật có ǵ bất đồng? Tôi trộm
cho rằng niệm tự tánh Di Đà là niệm Pháp Thân Phật,
chẳng chấp tướng là Thiền. Văng sanh bất cứ
cơi Phật nào cũng đều chẳng thể đới
nghiệp văng sanh, do phải cậy vào tự lực. Nếu
coi “niệm Phật là Định”
để niệm Phật,
“ngoài tâm chẳng có Phật, tâm chính là Phật”, chứng
quả sẽ cao, nhưng khó tu. Nếu niệm Tây
Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật,
sẽ là niệm Báo Thân hoặc Ứng Thân Phật, do chấp
tướng, nên chẳng phải là Thiền. Văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới sẽ có thể
đới nghiệp văng sanh, do cậy vào tự lực và
tha lực để khởi cảm ứng với A Di
Đà Phật mà niệm Phật. [Tức là] ngoài tâm có Phật,
tâm và Phật là hai mặt của cùng một Thể, chứng
quả thấp, nhưng dễ thành. Đúng hay chăng? (Trương Huệ Văn hỏi)
Đáp:
Đại khái là như vậy, nhưng có chút sai biệt:
1)
Đối với câu “niệm
tự tánh Di Đà chẳng thể đới nghiệp văng
sanh”, hễ có nguyện bèn văng sanh; chẳng có nguyện
th́ không [văng sanh].
2)
Đối với câu “niệm
Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật”
có mấy ư hiểu lầm. Như ông nói “niệm Báo Thân hoặc Ứng Thân”, chuyện này chẳng nhất
định! Trong ba thân của Phật, tùy thuộc hành giả
niệm [thân nào]. Câu “ngoài tâm có
Phật, tức là tâm và Phật chính là hai mặt của một
Thể”, đă nói rơ “tâm và Phật
là hai mặt của một Thể”, lại chia thành trong
và ngoài, chẳng khế Lư! Đối với câu “chứng quả thấp, dễ
thành”, “dễ thành” th́
đúng, “quả thấp” sai
rồi! Thế giới Cực Lạc chia thành chín phẩm
sen. Hạ phẩm hạ sanh cố nhiên là thấp, nhưng
thượng phẩm thượng sanh cũng là thấp kém
ư? So ra, người văng sanh hạ phẩm tuy thấp,
nhưng đạt được Bất Thoái Chuyển, có
thể nói là “thấp” ư? Đệ tử Thanh Văn th́
nói là “thấp”, bậc Nhất Sanh Bổ Xứ há là thấp
ư? Phàm Thánh Đồng Cư là thấp, cơi Thường
Tịch Quang cũng là thấp ư?
*
Hỏi: Ngoài lúc đến đạo tràng ra, ở nhà kiêm
tŕ tụng công khóa đơn giản (sáng sớm tŕ chú
Đại Bi, buổi tối tŕ theo pháp Thập Niệm). V́
công việc nên chưa thể giữ cho khóa tối liên tục,
th́ đến khuya, sau khi tan sở, sẽ niệm khóa tối
bổ sung, có được hay không? (V́ phải làm việc
trong công xưởng). (Lương
Minh Tượng hỏi)
Đáp:
Hai khóa tụng sáng tối là công khóa cố định, những
thời khác là tán khóa. Đối với định khóa (定課, công khóa cố định) tuy bận bịu, cũng
chớ nên phế bỏ. Sau khi tan sở, nếu v́ quá ít thời
gian th́ có thể niệm tán khóa trên đường, hoặc
về nhà bèn hành Thập Niệm. Phương tiện thiện
xảo, hăy tự nên châm chước.
*
Hỏi: Tŕ tụng chú Đại Bi, niệm Lư Hương
Tán, các bài chân ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp, Tịnh Thân Nghiệp
v.v…, Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn
Quán Thế Âm Bồ Tát ba lượt, chú Đại Bi ba lần.
Sau đấy, niệm Bổ Khiếm Chân Ngôn[2], lại
niệm Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát th́ có thích
đáng hay không? (Lương
Minh Tượng hỏi)
Đáp: Do đều thuộc Phật pháp, mỗi bài
đều có công đức; nhưng học Phật quư ở
chỗ có mục tiêu, phải nên có chỗ quy túc. Nhất
định phải xác định mục tiêu là ở chỗ
nào rồi mới có thể nói pháp nào là thích hợp hay không!
*
Hỏi: Trong Phật đường, hoặc đối
trước Phật, gơ pháp khí lung tung, hoặc học tập
pháp khí, có phạm lỗi hay không? Nếu phạm lỗi,
hăy nên tránh như thế nào? (Lương
Minh Tượng hỏi)
Đáp:
Khi học tập, hoặc sử dụng pháp khí nhằm mục
đích ôn tập, chẳng mang tánh chất khinh mạn, cho
nên hoàn toàn chẳng có lỗi lầm. Ngoại trừ khóa tụng
chánh thức, hoặc do chẳng thành thạo mà tập luyện,
chẳng được khua gơ lung tung nhằm tránh lầm lỗi!
*
Hỏi: V́ học tập kinh, tán kệ, chẳng tránh khỏi
có chỗ trùng lặp, giữa chừng niệm sai (trong Phật
đường hoặc bất cứ chỗ nào), có phạm
lỗi hay không? (Lương
Minh Tượng hỏi)
Đáp: Khi chưa tập luyện thuần thục,
cùng tụng niệm với đại chúng, có khi tụng
theo chẳng khớp vốn là chuyện thường. Nếu
muốn niệm bổ sung [ngay trong lúc đó], ắt sẽ
so le, chệch choạc so với người khác, đâm ra
khuấy loạn, hăy nên lướt qua đoạn đó là
được. Đấy chẳng phải là lỗi, chỉ
nên hổ thẹn mà thôi! Nếu đă luyện tập thuần
thục, do chẳng chú tâm vào đó bèn bị sai sót, chính là cái
tâm chẳng thành kính, sẽ là tội lỗi.
*
Hỏi: Có người nói niệm Phật cần phải
kèm theo quán tưởng. Xin hỏi cách quán như thế nào?
Dựa theo Thập Lục Quán Kinh là được rồi,
hay là có cách quán khác? (Khoan Tâm hỏi)
Đáp:
Niệm Phật tuy có bốn pháp, nhưng nay hành tŕ thông dụng
chỉ trọng tŕ danh. Ấy là do sau thời ngài Liên Tŕ trở
đi, đa số là [hành tŕ] như thế. Đối với
Thập Lục Quán Kinh, ắt phải hiểu rơ giáo tướng
th́ mới dễ tu tập. Hơn nữa, tâm thô, cảnh tế,
chẳng dễ thành công cho lắm! Những phép Quán khác th́
có phép chỉ quán tượng Di Đà, có phép quán chữ Phạn,
có phép quán một chỗ trên thân. Người xưa đă sớm
có thuyết chủ trương “chỉ
tŕ danh hiệu, không cần quán kèm theo”. Nói chung là v́ cầu
chuyên nhất. Có thể thuận theo căn khí của mỗi
người, hễ dùng pháp ǵ để khế cơ, bèn chọn
pháp ấy. Chẳng cần phải câu nệ nhất định!
*
Hỏi: Tu pháp môn Tịnh Độ lấy Tŕ Danh làm chủ,
nếu xen tạp những pháp khác, sẽ bị ảnh
hưởng. Học nhân do nghiệp nặng, chướng sâu,
thân mang bệnh cũ. V́ thế, thường là sau khi niệm
Phật, bèn niệm thánh hiệu Quán Âm Đại Sĩ và chú
Đại Bi, chẳng biết có trở ngại Tịnh
nghiệp hay không? Xin hăy khai thị! (Liêu Thanh Hoa hỏi)
Đáp:
Chỉ cốt sao nguyện văng sanh khẩn thiết. Do nguyện
khác mà tu thêm phương pháp khác, hoàn toàn chẳng ảnh
hưởng.
*
Hỏi: Có một lần “tŕ
tĩnh” (持静, ngồi yên lặng), tôi định tâm nơi từng
tiếng Phật hiệu niệm thầm trong tâm. Công phu
[như vậy] được một lúc, tâm, chính ḿnh và Phật
hiệu ḥa lẫn thành một khối, chẳng tách rời,
dường như tôi là Di Đà. Bỗng nhiên một niệm
dấy lên: “Ta làm sao có thể là Phật Di Đà cho
được?” [Khối ḥa quyện] ấy tan mất.
Trong sát-na ấy, có phải nhất tâm hay không? (Bạch Trương Văn Thích
hỏi)
Đáp:
Đă nói là “ḥa lẫn thành một khối”, lại nói “chẳng
tách rời”, trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy,
nói theo Sự, có thể là nhất tâm. Nhưng lại dấy
lên ư niệm “chẳng dám làm Di Đà” tức là vẫn
chưa hiểu Lư, vẫn chưa đạt đến “bất
loạn”! Nhưng rốt cuộc vẫn là cảnh tốt,
mong càng thêm tinh tấn.
*
Hỏi: Gần đây, tôi thường cảm thấy
đỉnh đầu co rút, đau đớn, tai bên trái
(phía mặt bên trái) giống như có thứ ǵ nút chặt,
dường như đau mà chẳng phải đau. Đă
thế, trí nhớ giảm sút; nghi là do niệm Phật bị
ma dựa mà ra, chẳng biết có đúng hay không? Niệm
Phật như thế nào th́ mới chẳng bị ma dựa?
Hiện thời có chứng bệnh này, cần phải dùng
cách nào để chữa trị? (Trịnh Triều Tín hỏi)
Đáp:
Nếu chuyên niệm Phật, chẳng quán tưởng, lại
chẳng tu Sổ Tức, sẽ chẳng đến nỗi
phát sanh những bệnh khác! Có phải là cư sĩ đă
từng học công phu tĩnh tọa của ngoại đạo
hay không? Nếu có, hăy lập tức đ́nh chỉ! Nếu
không, [căn bệnh ấy] có thể là do niệm Phật
chẳng dùng hơi thở đúng pháp. Cách niệm Phật
là hơi thở phải êm ả, nhẹ nhàng, chẳng gấp
rút, chẳng rề rà, lấy tự nhiên làm chuẩn. Nếu
không, sẽ mắc bệnh về mặt sinh lư, hoàn toàn chẳng
phải là ma dựa. Hăy nên đi chữa bệnh, chớ
nên mê tín!
*
Hỏi: Gần đây, đầu óc hôn trầm, tinh thần
chẳng khá. Khi xem kinh, giống như cưỡi ngựa
ngắm hoa, chẳng thể lănh ngộ, cảm thấy rất
hổ thẹn! Hôm nay xem bộ kinh này, ngày mai lại xem bộ
kinh khác; xem kinh như thế nào th́ mới có thể nắm
được lư thú của kinh? Xin chỉ dạy! (Trịnh Triều Tín hỏi)
Đáp:
Xem kinh hoặc nghiên cứu kinh đều dùng trí óc. Có
căn bệnh nhức đầu và xây xẩm, hăy tạm ngừng
nghiên cứu và xem đọc để giúp cho chuyện tu
dưỡng. Buông xuống muôn duyên, lắng ḷng niệm Phật,
công đức sẽ thù thắng hơn niệm kinh, lại
c̣n có thể trị bệnh. Đợi tới khi bệnh
khỏi hẳn, gởi thư cho tệ nhân thỉnh sách,
tôi sẽ kính biếu.
*
Hỏi: Hậu học dâm tâm quá nặng. Tuy dùng phép Cửu
Tưởng Quán, vẫn chẳng có công hiệu. Nghe có vị
cư sĩ nói “bữa tối hăy ăn ít, sẽ có thể
giảm bớt ḷng dục”, chẳng biết có đúng hay
không? C̣n có diệu pháp nào khác hay không? (Trịnh Triều Tín hỏi)
Đáp:
Bữa tối ăn ít có thể giảm dục. Đấy
chính là tác dụng sinh lư, vốn là sự thật. Cửu
Tưởng Bất Tịnh Quán chính là phép Quán để sửa
đổi từ tâm lư, cần phải có công phu. Do thói quen
dâm dục nhiều đời, chẳng thể do công phu
trong một thời gian ngắn ngủi mà ḥng khắc chế
[dâm niệm] được! V́ thế, ông cảm thấy
[tu tập] phép Quán ấy vô hiệu. Cửu Tưởng vốn
là [phép đối trị] căn bản, bớt ăn bất
quá là nhánh ngọn mà thôi!
*
Hỏi: Ngoài chuyện hồi hướng trong hai thời
công khóa sáng tối ra, khi tán khóa niệm Phật, chẳng hồi
hướng cho cô hồn (quỷ hồn). Nếu cô hồn
thấy nghe Phật hiệu, có thể ĺa khổ được
vui hay không? (Khưu Hợp Thuận
hỏi)
Đáp:
Phật hiệu trong Tịnh Tông có danh xưng là “chẳng hồi hướng”,
v́ pháp này chú trọng cái tâm, tức là [toàn tâm toàn ư] nơi
chuyện văng sanh, chỉ cần nguyện tha thiết, chẳng
đổi dời, tuy miệng chẳng hồi hướng,
mà tâm thường hồi hướng vậy. Nhưng
đấy chẳng phải là chuyện kẻ học cạn
làm được; v́ thế, vẫn phải hồi hướng
th́ sẽ ổn thỏa. C̣n như ông nói “quỷ nghe tiếng Phật hiệu, có thể ĺa khổ
được vui hay không?”, hoàn toàn chẳng nhất
định. Bởi lẽ, hễ nghe, [Phật hiệu] sẽ
lọt vào thức thứ tám, tức là gieo hạt giống
lành vậy! Đấy chỉ là nhân. “Ĺa khổ, được vui” chính là đắc quả,
ắt cần phải đợi duyên!
*
Hỏi: Tu Tịnh Độ, kiêng nhất là xen tạp, một
mực tinh tấn, đọc tụng kinh Tiểu Bổn Di
Đà và niệm vạn đức hồng danh hồi
hướng Tây Phương, trang nghiêm Tịnh Độ. Buổi
sáng tụng thêm phẩm Phổ Môn, nhưng lười
đọc các kinh, v́ chẳng hiểu các kinh, chẳng biết
văng sanh có bị trở ngại hay không? Mong thầy hăy dạy
rơ cho! (Khưu Hợp Thuận
hỏi)
Đáp:
Lười đọc các kinh, chẳng hiểu các kinh, cố
nhiên là hạnh và giải có chỗ chẳng
cân bằng. Nhưng ông tự nói là tinh tấn tụng kinh Tiểu
Di Đà và niệm vạn đức hồng danh, hồi
hướng Tây Phương, trang nghiêm Tịnh Độ. Nếu
đúng là như thế, quyết định sẽ văng sanh.
Pháp cốt yếu là ở chỗ chuyên ṛng, chẳng do nhiều.
Đạo quư ở chỗ chuyên nhất, chẳng do tạp!
Ông lại nói buổi sáng tụng thêm phẩm Phổ Môn,
công khóa cũng chẳng ít vậy! Không cần tăng thêm nữa!
*
Hỏi: Sau khi nghe kinh Viên Giác, chúng con mới biết quá khứ
luôn hồ đồ, cầu pháp ngoài tâm. Tuy vào Phật môn,
chẳng thể nhập Định. Hơn nữa, Định
lại có tới mấy loại. Hiện thời, điều
đáng hổ thẹn nhất chính là mang tiếng là nhân viên
hoằng pháp, chẳng quán cái tâm có thể hoằng pháp, làm
sao có thể hiểu lư được hoằng cho
được! Kính mong thầy từ bi nghĩ tưởng
đệ tử phát nguyện xuất thế mà huấn luyện
sâu xa! (Châu Huệ Đức hỏi)
Đáp:
Há có phải chỉ là quá khứ luôn hồ đồ, ngay
như hiện tại, vẫn là hồ
đồ! Bất quá, hiện thời biết quá khứ hồ
đồ, có thể nói hiện thời là Thỉ Giác. Do mới
bắt đầu giác, do chưa từng thấu triệt, nên
vẫn bảo là “hồ đồ”. Chỉ là đại hồ
đồ và tiểu hồ đồ, hoàn toàn hồ đồ
hay hồ đồ một phần v.v… khác nhau [đó thôi].
Hễ chưa đạt tới “đoạn sạch
căn bản vô minh”, sẽ luôn là hồ đồ. Cư
sĩ đă tu Tịnh Độ, nhất tâm bất loạn,
đấy là chánh định, chẳng cần cầu chi
khác! Tâm như như bất động; hễ động,
sẽ hiểu rơ. Đó là quán tâm. Tâm thuận theo thiện
duyên, chẳng thuận theo ác duyên, đó gọi là “phước đức”. Lúc
nào cũng chú ư đến phước đức, đó là hiểu
lư.
*
Hỏi: Trong kinh Hoa Nghiêm có bài kệ: “Thân tâm khoái lạc, vô chư khổ. Tri lực quảng
đại biến thập phương” (Thân tâm vui
sướng, chẳng có các nỗi khổ. Sức hiểu
biết rộng lớn trọn khắp mười
phương). Chúng con công phu cạn mỏng, chưa đạt
được cảnh ấy. Xin hỏi thầy làm thế
nào để có thể đạt được? (Châu Huệ Đức hỏi)
Đáp:
Buông xuống hết thảy, chẳng phan duyên, thân tâm sẽ
vui sướng, không có các nỗi thống khổ. Nhất
tâm bất loạn, niệm niệm tương ứng với
Phật, sẽ tự có thể đạt được
sức hiểu biết rộng lớn trọn khắp
mười phương. Vốn đă sẵn thành trong hiện
tại, cần ǵ phải cầu xa xôi?
*
Hỏi: Niệm A Di Đà Phật không chỉ là trong
tương lai có thể văng sanh Tây Phương, lại c̣n
có thể được chư Phật, Bồ Tát gia bị,
gặp dữ hóa lành, nhưng tổ Ấn Quang c̣n khuyên mọi
người niệm thêm danh hiệu Quán Thế Âm, dụng
ư của tổ sư là ǵ? (Trịnh
Thắng Dương hỏi)
Đáp:
Trong Một Lá Thư Gởi Khắp có lời dạy ấy.
Lời giáo huấn của tổ sư sâu thẳm, kẻ
hèn này chưa có dịp gặp gỡ thỉnh giáo chuyện
ấy, chẳng dám giải thích xằng bậy thánh ư. Chỉ
có thể nêu đại lược kiến giải của
chính ḿnh. [Tŕ niệm] thánh hiệu Di Đà cầu sanh Tây
Phương, cốt yếu là tập trung nguyện lực
th́ mới có thể nhất tâm. Nếu hai hoặc ba, ắt
sẽ tán loạn, chẳng có sức. Tuy nói “chí tâm niệm Phật một câu, có thể tiêu trọng
tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”, nhưng
kẻ biết đoạn kinh văn ấy th́ ít. Dẫu biết
đi nữa, cũng chẳng hiểu nghĩa lư. V́ thế,
thường thấy có kẻ nghe câu ấy, đâm ra hoài
nghi. Hễ nghi, cảm ứng sẽ kém cỏi. Quán Âm cứu
khổ, nhà nào, người nào cũng đều biết, dễ
sanh ḷng tin. Hễ tin, ắt cảm thông. Hơn nữa, dẫu
là nguyện khác, tu điều khác, vẫn chẳng đến
nỗi khiến cho cái tâm nguyện tha thiết cầu sanh về
cơi Di Đà bị phân tán vậy!
*
Hỏi: Có người nói Quán Thế Âm Bồ Tát đă ở
thế giới Cực Lạc, lại c̣n giúp A Di Đà Phật
tiếp dẫn chúng sanh. Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát
cũng có thể văng sanh. Đệ tử nghĩ [nói như
vậy] chẳng đúng, v́ trong kinh chẳng nói niệm Quán
Thế Âm Bồ Tát có thể văng sanh! Hơn nữa, kể
từ khi theo thầy, đệ tử chưa hề nghe thầy
nói câu ấy. V́ thế, xin thầy hăy khai thị! (Trịnh Thắng Dương hỏi)
Đáp:
Ông nói rất đúng! Bởi lẽ, đối với một
pháp môn, một pháp tu, hăy nên y giáo phụng hành, chẳng nên
tùy ư mà làm! Kinh điển Cực Lạc Tịnh Độ
đều dạy niệm danh hiệu Phật để
văng sanh. Nếu nghiền ngẫm Một Lá Thư Gởi Khắp,
trong đoạn văn dạy “niệm Phật hăy niệm
kèm thêm danh hiệu Quán Âm”, [tổ Ấn Quang] cũng nói: Hiện thời, đang nhằm
t́nh thế tai nạn, họa hoạn to lớn. Tai họa
xảy tới, chẳng làm cách nào được. Nếu có
thể thường niệm Phật và Quán Âm, chắc chắn
sẽ được [các Ngài] từ bi che chở, gặp
hung hóa cát”. Tức là dạy mọi người niệm
thêm Quán Âm chuyên v́ “gặp dữ
hóa lành”, Tổ chẳng nói nương vào chuyện ấy
để cầu sanh Cực Lạc. Đấy chính là “ắt phải nương theo
kinh để tu” đă rơ rành rành! Lại có thể thấy,
niệm Phật tuy nhằm cầu văng sanh, cũng có thể
khiến cho vào lúc hoạn nạn sẽ tiêu tai, hóa thành tốt
lành. Lời huấn dụ của tổ sư không ǵ chẳng
thuận theo ư nghĩa trong kinh để phát khởi, kẻ
khéo đọc sẽ nghiền ngẫm kỹ càng ḥng lănh hội
ư Tổ!
*
Hỏi: Đệ tử từng có cảm giác niệm Phật
sẽ giảm thiểu trí nhớ. Chẳng biết hiện
tượng này là có hại hay có ích? (Trịnh Thắng Dương hỏi)
Đáp:
Chuyện này cũng là có giai đoạn. Hiện tượng
đă dấy khởi ấy thật ra chẳng phải là
giảm trí nhớ! Mà là v́ do cái tâm có chỗ chuyên chú, sẽ
chẳng coi trọng những chuyện khác, dẫn đến
trạng thái có ấn tượng chẳng sâu. Cổ nhân
nói: “Phải biến chỗ sống
sít thành chỗ chín, chỗ chín biến thành chỗ sống”.
Tuy ông vẫn chưa đạt đến chỗ ấy,
nhưng đạo tâm ngày một sanh, tục duyên dần dần
cách xa, cho nên mới có chuyện này!
*
Hỏi: Ư chỉ của niệm Phật là cầu Định,
v́ sao lại phải kết ấn? (Đồ Trinh Quang hỏi)
Đáp: Kết ấn trong pháp
niệm Phật, đại để có hai loại: Một
là Di Đà Ấn, hai là Định Ấn, đều thuộc
loại kết ấn khi ngồi kết già, vẫn đều
nhằm ư nghĩa “cầu Định”.
Chẳng kết cũng không sao, trọn chẳng phải là
nhất quyết phải làm! Ngoài [hai ấn ấy] ra, chẳng
cần phải kết những ấn khác. Nhưng pháp tu Di
Đà trong Mật Tông, vốn tự có pháp Tam Mật trong
tông ấy. [Tu pháp ấy] th́ đối với chuyện kết
ấn, phải vâng giữ.
*
Hỏi: Nếu đem công đức niệm kinh hay niệm
Phật để cầu tiêu tai cho người bất hạnh,
phải hồi hướng như thế nào? Làm như thế
nào th́ mới là “chí thành khẩn
thiết”? (Đồ Trinh
Quang hỏi)
Đáp:
Phàm làm công đức hồi hướng cho người
khác, hăy đọc kệ, cầu nguyện rơ ràng, chẳng
có ǵ là không được! Nhưng muôn pháp duy tâm, nếu trọn
một niệm chân thành, đối phương liền có
cảm ứng. “Chí thành, khẩn
thiết” như ông đă hỏi chính là tâm thật sự
cầu. “Chí thành” là chẳng
có mảy may hư ngụy. “Khẩn
thiết”: “Khẩn” (懇) có
nghĩa là đạt tới chỗ sâu nhất. “Thiết” (切) là
chân thật. Đấy chính là sự hành tŕ với cái tâm chẳng
tán loạn, chẳng chao động.
*
Hỏi: Đệ tử Phật tu đạo chú trọng
kiến tánh. Trong sách có ghi chép: Nếu là kẻ chẳng kiến
tánh, có thể ví như nửa đêm không có đèn, bỗng
có chuyện cần phải ghi chép, trong tối tăm ṃ
được một trang giấy, một cây bút ch́, tuy có
thể viết chữ lên giấy, nhưng vừa khó
khăn, vừa chẳng ngay ngắn. Nếu có cách nào thắp
đèn, đương nhiên vẫn là thắp đèn lên
để viết, tốt hơn nhiều. Chẳng thấy
tánh mà tu có thể ví như viết chữ chẳng có
đèn. Sau khi đă thấy tánh bèn tu, có thể ví như thắp
đèn lên để viết, công hiệu sai khác trăm ngàn
lần. Nay tôi muốn hỏi, sau khi đă kiến tánh, c̣n
phải tu vạn đức vạn năng để làm
ǵ? (Châu Huệ Đức hỏi)
Đáp:
Hoặc chướng nơi tánh của bọn ta, phân biệt
đại lược th́ có ba, tức là Căn Bản, Trần
Sa và Kiến Tư. Khử được một phẩm
Hoặc, tức là kiến tánh một phần. Kiến tánh chính
là giác; v́ thế, có Bổn Giác, Thỉ Giác, Tùy Phần Giác,
Cứu Cánh Giác khác nhau! Như trăng cuối tháng hoặc trăng
mồng Một, ắt phải đến ngày Rằm mới
viên măn. Đó là có thứ tự, chẳng phải là vừa
mới có trăng bèn sáng trọn vẹn ngay! Cư sĩ nói
“vạn đức vạn
năng” rạng ngời chính là đă đạt đến
Cứu Cánh Giác, là quả địa của Phật. Những
vị thánh hiền thấp hơn Phật chẳng có cảnh
giới ấy, tức là kiến tánh có sâu hay cạn.
Chưa đạt đến Phật quả th́ đều
cần phải tu!
*
Hỏi: Chúng ta cầu Phật, cầu Pháp. Phật, Pháp,
Tăng là Tam Bảo, vốn tự sẵn có trong tâm tánh của
hết thảy hữu t́nh, kho báu trong ấy chẳng có cùng
tận. Tuy trong sách có nói [rơ ràng những điều này], chỉ
là [hành nhân] trọn chẳng có tâm đắc! Điều
tôi muốn hỏi là phần lớn các đồng tu đều
nói là từ khi dụng công niệm Phật cho tới nay, dễ
quên khuấy. Cái tâm của người tu hành thường
là vô sự. Quên khuấy chính là chẳng có ư niệm; kẻ
chẳng có ư niệm chính là kẻ chẳng có tâm, đúng không?
(Châu Huệ Đức hỏi)
Đáp:
Vô tâm là chân không, có niệm là vọng tưởng. [Ông nói] đồng
tu “dụng công từ trước
tới nay, dễ quên khuấy” là muốn hỏi quên
điều ǵ? Nếu quên ngũ dục, lục trần;
đó là từ chỗ chín chuyển thành sống sít, tất
nhiên là tiến bộ. Nếu quên bẵng Phật hiệu,
th́ gọi là “thất niệm”,
đấy là phiền năo! Nếu nói đến kẻ vô
tâm, dục trần lẫn Phật pháp nhất loạt chẳng
có, sẽ thật sự là vô tâm. Nếu chỉ quên bẵng
Phật hiệu, vẫn c̣n có [những ư niệm] tài sản,
quyến thuộc, đấy chính là chỗ sống chẳng
chín, chẳng thể gọi là vô tâm được!
*
Hỏi: Hiện thời học nhân xấu hổ nhất
là dẫu có thuyết pháp mà giống như “kể chuyện ăn, đếm của báu”, chẳng thể rộng độ
chúng sanh, rộng làm các Phật sự, giống như chiếc
xe nhỏ chẳng kham chở nặng. Nếu cứ cưỡng
làm, không chỉ là chẳng đạt được hiệu
quả, mà sợ rằng ta lẫn người đều
chuốc lấy tai họa. V́ thế, ắt phải là trước
hết cầu sanh Tịnh Độ, thấy Phật nghe
pháp, đắc Vô Sanh Nhẫn, đạt được
đại trí huệ, đại biện tài, trọn đủ
các món thần thông, oai lực; khi ấy, sẽ lại
đến cơi này độ chúng sanh. Há chẳng phải là kế
sách hay khéo tốt đẹp nhất đấy chăng? (Châu Huệ Đức hỏi)
Đáp:
Cổ nhân đă từng nói lời này. Điều bất hạnh
là kẻ b́nh phàm chẳng phát tâm Bồ Đề, cứ viện
cớ ăn bám, lười nhác. Nói “độ tha” cũng chẳng phải là buông xuống
hết thảy. Chuyên khuyên kẻ khác, chỉ bất quá là
tùy duyên, tùy phận, trọn hết bi tâm của ta. Nếu
cơ duyên hiện tiền, cứ kiên quyết chẳng mở
miệng, ắt phải đợi văng sanh xong mới quay lại
độ chúng sanh; đấy là gă chỉ biết lo giải
thoát cho chính ḿnh, chẳng có ḷng Bi. Do thiếu thiện
căn, phước đức, nhân duyên, e rằng chính ḿnh
sẽ chẳng thể liễu thoát được!
*
Hỏi: Tôi được dạy là trong thời kỳ Mạt
Pháp này, hăy tận lực tu phước, rất đúng! Chỉ
có điều phước và huệ giống như mặt
trước và mặt lưng của cùng một chiếc lá.
Tu phước th́ huệ cũng được gộp vào trong
ấy. Xin hăy chỉ bảo nên hiểu cho đúng ư này như
thế nào? (Kinh Thông Lâm hỏi)
Đáp:
Lời cao luận có lư. Phàm những người tu phước,
ắt là đă có huệ. Nếu chẳng có huệ, làm sao
chịu tu phước cho được? V́ thế, kẻ
ngu si chẳng hiểu rơ thiện, ác, sẽ khó thể làm
chuyện tốt. Khi tu phước, huệ cũng mở rộng.
Do thiện nghiệp huân tập, cũng khơi mở quang
minh. Đôi bên huân tập lẫn nhau, có thể nói là “huệ
ở trong phước”, mà cũng có thể nói là “huệ do
phước mà khởi”. Nhưng huệ có nhiều loại
khác nhau, nhỏ th́ là Thế Trí Biện Thông, công xảo, kỹ
năng; lớn là trị quốc, an bang, dọc ngang trời
đất. Chánh đáng th́ là Lễ, Nhạc, Thi, Thư. Lệch
lạc th́ là ca, múa, bài bạc, đánh cờ v.v… không ǵ chẳng
đều là huệ! Nhưng chúng đều là huệ trong
pháp thế gian; do tu phước, có lẽ sẽ đạt
được những loại huệ ấy. Nếu là huệ
thuộc về chuyện xuất thế gian, họ (những
kẻ chỉ tu phước) sẽ chẳng biết
được! Cổ đức nói: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí bất năng giải”
(Phật pháp mà không có ai nói, dẫu có trí vẫn chẳng thể
hiểu). Chỉ tu phước, sẽ chẳng thể
đạt được [huệ]. Ắt phải do
Văn, Tư, Giới, Định th́ mới có thể
khơi mở chánh huệ.
*
Hỏi: Chỉ có điều phước và huệ đều
là vật ngoài thân. Khi tiến cao hơn một tầng, ngay
cả hai chữ phước và huệ cũng phải vứt
sạch, chẳng c̣n thừa sót! (Kinh
Thông Lâm hỏi)
Đáp: Trong phần trước,
nói đến huệ, đă chia thành pháp thế gian và pháp xuất
thế gian. Điều được bàn trong đoạn
này chính là xuất thế gian huệ, chứ thế gian huệ
chẳng đáng để nói đến trong trường
hợp này. Kính dùng Phật lư để giải thích quan
điểm này. Phước và huệ rơ ràng là ngoài thân. Thân
là vật ǵ? Chẳng lẽ là ngă ư? Há chẳng nghe “Tứ Đại đều là
Không, Ngũ Uẩn chẳng có” ư? Phước và huệ
cố nhiên là vật ngoài thân, mà cũng đích xác là ở
ngoài ngă. Nếu lại cầu ngă, cũng sẽ thuộc về
cái chẳng hề tồn tại! Nếu nói “phước huệ cũng cần
phải vứt bỏ”, hăy nên biết tánh của phước
vốn là Không, chẳng thể vứt bỏ! Huệ là thứ
có trong tánh, có vứt cũng chẳng được!
* Hỏi: Tôi học Phật ngày
một nông cạn, niệm Phật chẳng chuyên, có khi niệm,
có lúc chẳng niệm, có lúc nhận biết đă lâu rồi
không niệm Phật. Nghĩ đến chỗ này, tâm và miệng
liền khẩn thiết niệm Nam-mô A Di Đà Phật,
nhưng bất tri bất giác lại chẳng niệm! Thật
sự cảm thấy giải đăi, phải như thế
nào th́ mới có thể chuyên tâm? (Hoàng
Từ Chiêu hỏi)
Đáp: Một là thường
gặp thiện tri thức nhắc nhở, sách tấn, rèn
giũa. Hai là hằng ngày đọc kinh Phật cầu ngộ.
Ba là luôn cảnh giác tánh mạng chỉ tồn tại trong
hơi thở. Hễ một hơi thở ra chẳng hít
vào được nữa, sẽ là ngàn kiếp vạn
đời trong tam đồ lục đạo. Hai điều
trước chẳng có duyên, một điều sau là tự
cảnh giác, chính là điều khẩn yếu nhất. Nếu
có thể tin tưởng chuyện sau cùng, sẽ có cách: Khi
đắc ư, phải nghĩ đến sanh mạng. Khi trái
ư, phải nghĩ đến sanh mạng. Khi thấy ngũ
dục, hăy nghĩ đến sanh mạng. Khi thất t́nh dấy
động, hăy nghĩ đến sanh mạng. Trong hết
thảy các thời, hăy nghĩ đến sanh mạng, sẽ
niệm Phật chẳng giải đăi!
* Hỏi: Gần đây, tôi
nghe có người dạy học Thiền, tọa Thiền,
bảo “tọa Thiền có thể trị bách bệnh”. Ban
ngày nghe nói chuyện ấy, đến đêm nằm mộng,
mơ thấy ngồi xe taxi đến bờ một cái biển
lớn, tự nghĩ: “Đấy chẳng phải là bờ
kia hay sao?” Nhưng chẳng thể vượt qua, bỗng
nhiên tỉnh giấc, chẳng thể dứt được
ḷng nghi. Xin hăy dạy cặn kẽ! (Hoàng Từ Chiêu hỏi)
Đáp: Đời người
hư huyễn, mộng càng chẳng thật! Tuy cũng có
chuyện dùng điềm mộng để chỉ dạy,
nhưng [người nằm mộng] ắt phải là bậc
hiểu biết th́ mới có thể ngộ được!
Người ấy chỉ nói “Thiền
trị bách bệnh”, chẳng biết [bất cứ pháp
môn nào trong] Phật pháp cũng đều là trị bách bệnh.
Phật pháp như thuốc, để sử dụng, cần
phải có thầy thuốc [chẩn bệnh, kê toa]. Không biết
mà cứ dùng bừa băi, vẫn sợ bệnh sẽ nặng
thêm! Nếu cư sĩ tự hiểu pháp Thiền th́ mới
nói đến chuyện sử dụng pháp ấy được,
hoặc là có người nào thông hiểu Thiền Na sâu xa th́
mới có thể theo học [với người ấy
được]. Nếu cả hai đằng đều
không có, bỗng dưng xả Tịnh để tu Thiền,
Tịnh đă chẳng tinh ṛng, mà Thiền lại càng mờ
mịt! Băn khoăn nơi ngơ rẽ, hai đằng
đều chẳng đạt được ǵ! Đấy
chính là “thiên hạ thái b́nh, chính
ḿnh tự nhiễu loạn” vậy!
* Hỏi: Tệ nhân tu tập
Phật pháp tại gia đă mười mấy năm. Có một
chuyện thường khiến tôi băn khoăn là sáng sớm,
hoặc buổi trưa, hoặc buổi tối tụng niệm
kinh Phật, chẳng biết có phải là [tụng niệm
th́ phải tuân] theo khuôn mẫu quy định sẵn hay
không? (Dương Vận Hỏa
hỏi)
Đáp: Hai khóa tụng sáng tối
có cộng tu và tự tu khác nhau. Cộng tu th́ có nghi thức
tụng niệm chuyên biệt, đại chúng ắt phải
tuân theo sự hướng dẫn của người duy-na
để xướng tụng, chẳng được mạnh
ai nấy làm theo ư ḿnh, th́ mới nhịp nhàng, trang nghiêm. Tự
tu th́ phải xét xem người ấy vốn tu theo pháp môn
nào, bèn dùng kinh điển của tông ấy để chuyên
tụng niệm. Tự đối trước vị Phật
ḿnh đang thờ, sáng là như thế, mà tối cũng là
như thế, không có ǵ là chẳng được! Ví
như kinh A Di Đà, trong sách nghi thức khóa tụng [thông dụng],
vốn được xếp vào khóa tối, nhưng đối
với người tự tu Tịnh Độ, chẳng cần
biết sáng hay tối đều có thể phúng tụng
được!
* Hỏi: Tệ nhân gần
đây được ủy thác trụ tŕ đạo tràng,
nhưng chưa từng thọ giới, chẳng biết có
nên đường đột tiếp nhận hay không? (Dương Vận Hỏa hỏi)
Đáp: Hiện thời, đạo tràng chia thành chùa miếu
của người xuất gia và Phật đường của
người tại gia. Chùa miếu th́ hăy nên do người
xuất gia trụ tŕ, hàng bạch y chẳng tiện quản
lư. Phật đường tại gia ắt cần phải
v́ tu hành thuận tiện mà thiết lập, chớ nên cậy
vào đó để cầu lợi. Có tiền th́ làm lớn,
không có tiền th́ làm nhỏ. Tài vật đều quy vào của
công, chẳng được hưởng riêng! Nếu có thể
rỗng rang, trắng trong, sẽ có công đức. Người
quản sự trong ấy, chẳng cần biết đă thọ
giới hay không, tấm ḷng thanh bạch, chịu bỏ sức,
có tài năng th́ có thể tiếp nhận. Trước hết,
hăy nên hiểu rơ: Hàng bạch y chẳng được truyền
quy y cho người khác. Kẻ chẳng hiểu giáo lư, học
vấn không có thầy truyền thừa, trước khi thọ
giới, chớ nên đường đột giảng
kinh.
* Hỏi: Trứng vịt là
thức ăn chay hay đồ mặn? Trước kia, tôi
hỏi đại sư huynh Vu Kỷ, ông ta bảo là đồ
chay, ăn được. Mọi người đều bảo
chẳng đúng, xin hăy dạy cho! (Vương Tùng Khê hỏi)
Đáp: Chữ Huân (葷) có
bộ Thảo trên đầu, chính là nói về những loài
thực vật có mùi hôi gắt như hành, tỏi, hẹ,
kiệu v.v… Chữ Tinh (腥, tanh tưởi)
có bộ Nhục (肉) bên cạnh, chính là nói tới những loài động
vật có máu thịt, như những con vật thuộc loại
chim, thú, những loài có vảy, có mai v.v… Chẳng phải là
Huân, chẳng phải là Tinh, th́ gọi là Tố (素,
trong sạch, đồ chay). Trứng chính là con của
động vật, đương nhiên chẳng phải là
phẩm vật thuộc về Tố. Nếu là trứng
không có cồ, tức là không có mầm sống, chẳng có
sanh mạng, có thể phương tiện ăn được!
* Hỏi: Sữa ḅ có phải
là đồ chay hay không? (Vương
Tùng Khê hỏi)
Đáp: Sữa ḅ cũng thuộc
về đồ mặn, nhưng do chẳng sát sanh, nên
được phép dùng. Thời đức Phật tại
thế, Ngài cũng từng dùng.
* Hỏi: Sám hối hành từ
trong tâm (niệm Phật), hay cần phải theo nghi thức?
Cần phải theo nghi thức nào? (Vương Tùng Khê hỏi)
Đáp: Phương thức
sám hối đại lược có hai loại, tức là
tâm sám và nghi sám (儀懴, sám hối theo nghi thức). “Nghi sám” là thỉnh pháp sư chủ tŕ, tuân theo quy
củ cử hành các thứ nghi thức, cũng cần phải
có ḷng Thành. “Tâm sám” là niệm
Phật cho đến ư niệm được Định.
Dẫu chẳng thể đắc Định, cũng cần
phải nhất tâm, chẳng phan duyên bên ngoài, sẽ sanh ra
hiệu quả to lớn. Có một bài kệ để tham
khảo như sau: “Tội
nhược khởi thời, tương tâm sám. Tâm nhược
vong thời, tội diệc vong. Tâm vong tội diệt,
lưỡng câu không. Thị tắc danh vi chân sám hối”
(Khi tội dấy lên, đem tâm sám. Khi tâm mất rồi tội
cũng tiêu. Tâm mất, tội diệt thảy đều
không. Đấy mới gọi là chân sám hối). Thực hiện
cả hai thứ trên đây càng hay. Nếu chẳng thuận
tiện, th́ tâm sám chẳng thể thiếu được!
* Hỏi: Như đệ tử
ở nơi đây, chẳng gặp minh sư, đạo
tràng khó gặp, bậc đại đức khó thân cận
(hiếm hoi), dùng cách tự tu niệm Phật th́ có hợp
đạo hay không? (Vương
Tùng Khê hỏi)
Đáp: Cố nhiên là pháp Niệm
Phật có thể tự tu, cũng cần phải có người
chỉ điểm cách niệm và hiểu rơ lư. Nơi hoang vắng
chẳng có người để thỉnh giáo, chỉ
đành xem sách. Hai tác phẩm Di Đà Yếu Giải Giảng
Nghĩa và Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tinh Hoa Lục là học
vấn ở mức độ thấp nhất. Trong tay ắt
cần phải có hai loại sách ấy, luôn luôn nghiên cứu,
hành theo đó, không chỉ là có thể nhập đạo,
mà c̣n có thể vượt lên cơi Tịnh.
* Hỏi: Có người nói “tam giáo quy nhất, ngũ giáo quy
nhất”, có phải là tà giáo hay không? (Vương Tùng Khê hỏi)
Đáp: Hai loại ông vừa
nêu đều khuyên kẻ khác làm lành, [nếu xét theo
phương diện ấy], chẳng thể nói là được
hay không. Nếu nói đến đạo, th́ đă lạc
đề vạn dặm. [Bởi lẽ], mỗi giáo có tánh
chất giáo nghĩa riêng, làm sao có thể quy nhất cho
được? Ông chưa nói rơ giáo nào, đại khái có lẽ
là giống kiểu Quy Nhất Đạo! Nếu đúng là
như vậy, đó toàn là chủ thuyết của những
kẻ chẳng có học vấn, sao chép, cóp nhặt các thứ
kinh sách xào nấu lung tung, tạp loạn, mâu thuẫn, lầm
lạc, gây nên trăm nỗi chê cười, chánh phủ cấm
đoán. Muôn phần chớ nên dính dáng với họ, kẻo
phạm pháp!
* Hỏi: Trong khóa tụng
sáng tối, tôi dấy lên vọng tưởng bừng bừng.
V́ sao chẳng có cách nào dẹp yên được? (Trương Tịnh Âm hỏi)
Đáp: Chớ nên vội vă,
gấp rút! Chuyện này cần phải huân tập lâu dài th́
mới có thể khiến cho vọng niệm từ nhiều
thành ít. Nói đến công phu, cần phải có thời gian.
Ai nấy đều phải trải qua như vậy, chẳng
phải riêng ḿnh ông là như thế! Chỉ nên chẳng quan
tâm đến nó, cứ một mực niệm tụng, một
năm, hai năm, sẽ có những biến đổi.
* Hỏi: B́nh thường niệm
Phật, tụng chú, khi gặp chuyện chẳng vừa mắt,
tâm sân hận dấy động. Tôi biết rơ đó là chuyện
chẳng tốt, phải khống chế, v́ sao chẳng thể
khống chế được? (Trương
Tịnh Âm hỏi)
Đáp: Đấy là do thiếu
sót tu dưỡng. Người khác lầm lỗi, thấy
chẳng vừa mắt, [nào có biết] bản thân có lỗi
mà [chính ḿnh] đâu có thấy! Nếu có thể b́nh tâm tự
phản tỉnh, e rằng chính ḿnh c̣n phạm lỗi nhiều
hơn người ta. Đến khi có thể thấy
được chính ḿnh nhiều lỗi, tức là tu dưỡng
đă có tiến bộ, sẽ thấy người khác
cũng vừa mắt, tự nhiên có thể khống chế
sân tâm. Huống chi lúc chuyên tâm niệm Phật, niệm chú,
cứ gặp chuyện chẳng vừa mắt, đủ
thấy cái tâm chẳng để nơi Phật. V́ thế,
sanh ra sân hận! Đấy chính là tự tâm chuốc vời
ma, hăy nên thống thiết sám hối!
* Hỏi: Trước kia, thầy
thượng Sám hạ Vân có gởi những bài kệ nhật dụng (日用, những bài kệ sử dụng hằng ngày)
đến nhà tôi. Trong ấy có chép chú ngữ, có nói khảy
ngón tay. Khảy ngón tay có ư nghĩa ǵ? Tŕ chú mà chẳng khảy
ngón tay, có được hay không? (Trương Tịnh Âm hỏi)
Đáp: Chưa thấy
thư gốc, chẳng hiểu ư câu hỏi. Xin thứ lỗi
khó thể trả lời!
* Hỏi: Thọ mạng của
Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật
là vô lượng vô biên. V́ sao Quán Thế Âm Bồ Tát lại
là vị Bổ Xứ [nối tiếp thành Phật trong cơi ấy]?
(Trương Tịnh Âm hỏi)
Đáp: Phật Đà vốn
bất sanh, bất diệt, nhưng hóa hiện h́nh tướng
độ chúng sanh, hoàn toàn chẳng hạn cuộc một
nơi! Thế giới Cực Lạc về sau là chỗ bổ
xứ của ngài Quán Âm hoàn toàn chẳng phải là Phật
Di Đà sanh tử, mà chính là Ngài ứng hóa trong thế giới
khác.
* Hỏi: Tịnh Độ
Tông niệm Phật cầu sanh Tây Phương, Thiền
Tông tham Thiền cầu minh tâm kiến tánh, nhưng Thiên
Đài Tông[3] và Hoa Nghiêm Tông chỉ
niệm tên kinh, có thể thành Phật quả hay không? (Lại Khoan Châu hỏi)
Đáp: Hai tông Thiên Đài và
Hoa Nghiêm mỗi tông đều có cách tu Chỉ Quán Đại
Định riêng, hoàn toàn chẳng phải là chuyên niệm tựa
đề kinh, chớ nên hiểu lầm. Chuyện này bất
quá là do những kẻ chẳng hiểu giáo lư, chẳng thể
tu Định, mà mở ra một pháp môn phương tiện,
chọn lấy cách đơn giản, dễ tu mà thôi, giống
như cách tŕ danh của Tịnh, hoặc cách quán Thoại
đầu của Thiền. Kinh điển của Tịnh
há chỉ là sáu chữ hồng danh? Kinh điển nhà Thiền
há chỉ là một câu Thoại Đầu ư?
* Hỏi: Gần đây, tôi
đọc bộ Tu Học Tinh Hoa Lục do lăo cư sĩ
Châu Hiểu An biên soạn, phần thứ hai nói về các
tông phái trong Phật giáo. Trong ấy có trích lục những
câu của Ngẫu Ích đại sư như “do chấp ‘văn tự là đạo’,
nên người giảng bị chê là kể chuyện ăn,
đếm của báu. Do chấp ‘ĺa văn tự là đạo’,
nên kẻ tu Thiền mắc họa nhà tối không đèn,
mù từ lúc lọt ḷng”. Bỉ nhân học cạn, chẳng
hiểu v́ sao kẻ học Thiền ĺa văn tự bèn mắc
họa “nhà tối không đèn,
mù từ lúc lọt ḷng”? Lại
chẳng biết “nhà tối
không đèn, mù từ lúc lọt ḷng” là như thế nào?
Xin hăy chỉ giáo! (Vương
B́nh hỏi)
Đáp: Tách ĺa văn tự,
cần phải nương theo minh sư, tham cứu có ngộ.
Sau khi đă ngộ, bèn bắt đầu tu, tu rồi sẽ
chứng. Đă không có minh sư, lại chẳng hiểu
giáo, ṃ mẫm trong chốn tối tăm, chẳng phân định
ma với Phật, chắc chắn là sẽ có trường
hợp lầm lạc “chưa
đắc bảo là đắc, chưa chứng khoe đă
chứng”, sẽ giống như vừa lọt ḷng
đă không có mắt, không thể nói đâu là chánh kiến
hay tà kiến được, chỉ là một bầu
đen kịt mà thôi!
* Hỏi: Có bao nhiêu loại bế
quan, có thể bảo cho biết hay không? Nghe nói có các danh
xưng sanh tử quan, có phương tiện quan v.v… khác
nhau, chẳng biết sai biệt ở chỗ nào? (pháp sư Từ Định hỏi)
Đáp: Học nhân chưa từng
trải qua chuyện ấy, chẳng biết có mấy loại.
Đối với hai loại như pháp sư đă rộng
ḷng hỏi tới, tôi chỉ nghe nói đại lược
mà thôi! Như tôi nghe nói về phương tiện quan th́ là
hễ gặp chuyện đặc biệt, có thể tạm
thời xuất quan, cũng chẳng sử dụng nghi thức
phong kín quan pḥng. Sanh tử quan là giữ rất nghiêm ngặt.
Sau khi đă nhập quan, cho đến hết tuổi thọ,
chẳng hề xuất quan, hoặc là khi đă đại
triệt đại ngộ rồi mới xuất quan, mở
đạo tràng độ chúng.
* Hỏi: Nói “y giáo phụng hành” là đă nhập cảnh giới
được dạy. Học Bồ Tát, bèn nương
theo lời dạy, nhập cảnh giới của Bồ
Tát, tức là giữ tấm ḷng Bồ Tát, hành theo Bồ Tát
hạnh, niệm tại đâu, nghĩ tại đó. Học
Phật, niệm niệm chẳng ĺa Phật. Tôi thử thực
hành, tuy có lúc cảm thấy chẳng thể, nhưng có lúc tâm
cảnh đă khác xa khi trước, có lúc hỷ duyệt. Nếu
tu theo kiểu này, chẳng biết có đúng hay không? (Liên Thục Mỹ hỏi)
Đáp: Niệm từ tâm khởi,
tâm tạo vạn pháp. Niệm Phật chính là Phật, niệm
ma chính là ma. V́ thế, kẻ tu đạo tâm chẳng ĺa
đạo. Hễ ĺa, sẽ chẳng phải là đạo!
Cổ nhân dạy “niệm tại
đâu, nghĩ tại đó, khắc chế ư niệm sẽ
thành thánh, đánh mất chánh niệm sẽ thành cuồng”,
nguyên do là v́ đó. Nếu ông có thể niệm niệm chẳng
ĺa Phật, tự nhiên sẽ có nhập xứ. Hăy nên niệm
như thế, tu như thế.
* Hỏi: Khi thức thứ
sáu và thức thứ bảy chuyển thành Diệu Quán Sát
Trí và B́nh Đẳng Tánh Trí, có phải là năm thức
trước và thức thứ tám đồng thời chuyển
thành Thành Sở Tác Trí và Đại Viên Cảnh Trí hay không? (Liên Thục Mỹ hỏi)
Đáp: Xưa kia, tôi học
Duy Thức, từng thấy nói “hễ
một thức đă chuyển, những thức khác đều
chuyển”, nhưng nay đă quên điều ấy
được chép trong kinh sách nào, chẳng thể nêu ra xuất
xứ. Hết sức xin lỗi!
* Hỏi: Phá hết Trần
Sa Hoặc, có phải là căn bản vô minh cũng đoạn
hay không? Căn bản vô minh có gồm trong Trần Sa Hoặc
hay không? (Liên Thục Mỹ hỏi)
Đáp: “Vô minh làm nhân sanh ra tam tế, cảnh giới làm duyên
tăng trưởng lục thô”. “Vô minh” ở đây chính là nói đến căn bản
vô minh. Có thể nói cảnh giới là Trần Sa. Trước
hết, phải có vô minh, sau đấy mới có cảnh giới,
tức là Trần Sa chẳng bao gồm căn bản vô
minh. Căn Bản, Trần Sa và Kiến Tư nếu chia
thành ba đoạn để nói, sẽ rơ ràng hơn. Có thể
nói [như thế này]: Đoạn Trần Sa, căn bản
vẫn c̣n; v́ chỗ khác biệt giữa Đẳng Giác và
Phật là [Đẳng Giác Bồ Tát] c̣n có một phẩm
vô minh. “Vô minh” chính là căn
bản vậy!
* Hỏi: Thần th́ có linh,
có thánh. Có phải là linh hồn của chúng sanh sau khi đă
chết đều có một tí linh thánh hay không? Tín đồ
có lần gặp chuyện thuộc cảnh ma tà mà chính ḿnh chẳng
thể ngờ được, họ có thể đến
chỉ dạy, biết phân minh. Đấy có phải là thần
thông hay không? Nếu là thần thông, có phải là linh hồn
của người đă chết có linh thánh đến nói
năng hay không? Lại nữa, mỗi lần con tọa Thiền,
họ đều đến chỉ dạy, “để cứu
đời, ắt phải từ bi, hành thiện”. Cũng
có khi báo mộng, cũng có khi bên tai bất tri bất giác
nghe tiếng bảo cho biết những chuyện chính ḿnh chẳng
bao giờ tưởng tượng được! Đấy
có phải cũng là sự trao đổi do sự linh cảm
với thần hay không? Xin thầy dạy cho biết
năm loại thần thông của Bồ Tát. Hiện thời,
con nghĩ tới hết thảy những điều
đó, chẳng biết là loại thần thông ǵ? (Liêu Thông Mẫn hỏi)
Đáp: Trước kia, tôi
đă kính thưa [chuyện này] cùng các hạ rồi! Nay ông
vẫn chẳng tin, vẫn tự nói là ḿnh có thần thông,
sợ rằng sẽ lại bị ma dựa! Dốc hết
ḷng thành nhắn nhủ, về căn bản, các hạ chẳng
hiểu Thiền, lại càng chẳng thể có thần
thông! Những sự thấy, nghe, hay, biết trong hiện
thời, không ǵ chẳng phải là ma. Đă chẳng có minh
sư, tu mù luyện đui, tương lai sẽ gặp
nguy hiểm to lớn. Tôi lại đề nghị một
biện pháp: Từ nay trở đi, chỉ niệm một
câu A Di Đà Phật. Tự niệm, tự nghe, giữ kỹ
năm giới, sẽ là bậc thiện nhân. Mai sau, sẽ
chẳng khó ǵ được thọ dụng đôi chút. Nếu
có những điều thấy nghe xằng bậy, hăy nhất
loạt trừ khử, chẳng quan tâm đến chúng, vọng
sẽ tự diệt, ngơ hầu giữ được b́nh
an.
* Hỏi: Lúc đệ tử
lễ Phật, liền quán tưởng có một tượng
kim thân của A Di Đà Phật ở trước mặt,
nhưng có lúc có thể quán thành, có lúc quán chẳng thành. Có
lúc tuy quán thành, nhưng dường như chẳng rơ ràng
cho lắm! Đấy có phải là do tâm loạn hay tịnh
đó chăng? Lại nữa, trong khi lễ Phật, hết
thảy đều chẳng nghĩ đến. Lễ Phật
kiểu nào sẽ là thù thắng nhất? Xin chỉ dạy!
(Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Công phu đạt mức,
sẽ tự quán thành! Công phu thiếu sót, sẽ thấy chẳng
rơ ràng. Chuyện này tuy liên quan đến thời gian [tu tập]
dài hay ngắn, cũng có liên quan đến chuyện cái tâm
tĩnh lặng hay hời hợt, xáo động. Khi lễ
Phật, quán hay chẳng quán, cách nào thù thắng hơn, hoàn
toàn chẳng có tiêu chuẩn! Hễ khế hợp căn
cơ th́ là thù thắng; chẳng khế cơ, sẽ uổng
công. Kẻ làm nghề giữ mộ, tu tập phép Sổ Tức
chẳng khế hợp, đổi sang tu Bạch Cốt
Quán bèn thành công dễ dàng. Kẻ chế ống bễ, tu tập
Bạch Cốt Quán chẳng khế hợp, đổi sang
tu phép Sổ Tức bèn thành công dễ dàng! Quyết định
pháp nào thích hợp hay không, cứ nh́n theo đó sẽ hiểu
rơ!
* Hỏi: Thầy giảng
kinh nói thế giới Cực Lạc chia thành bốn cơi, đệ
tử giải ngộ chuyện này như sau:
1) Theo nguyên tắc “vạn pháp duy tâm”, cái tâm của
chúng ta bao trùm trọn hết hư không. V́ vậy, thế
giới Cực Lạc ở trong tâm ta, hoàn toàn chẳng nhất
định là ở ngoài mười vạn ức cơi Phật!
2) Bốn cơi của Cực Lạc
nhằm biểu thị quả vị đạt được
do công phu tu hành của chúng ta cạn hay sâu. Như niệm Phật
chỉ có thể chế phục Hoặc, đới nghiệp
văng sanh, sẽ là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Đoạn
Kiến Tư Hoặc, sẽ là cơi Phương Tiện Hữu
Dư. Phá Trần Sa Hoặc, sẽ là cơi Thật Báo Trang
Nghiêm. Đoạn căn bản vô minh, sẽ là Thường
Tịch Quang. Bốn cơi đều thuộc trong một tâm,
chỉ nhằm hiển thị công phu tu tập, hoàn toàn chẳng
hiện h́nh tướng giới hạn và phạm vi khu vực,
đúng không? Xin hăy chỉ dạy! (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Bốn cơi của Cực
Lạc đương nhiên là liên quan đến chuyện
đoạn Hoặc, nhưng chẳng đơn giản
như cư sĩ đă nêu! Đă biết như vậy,
cũng là khó có rồi. Hăy nên xem kỹ Di Đà Yếu Giải
của tổ Ngẫu Ích, sẽ có thể hiểu rơ ràng. Mấy
câu hỏi cuối do ư nghĩa thiếu phân minh, chẳng tiện
đáp xằng được!
* Hỏi: Khi thầy giảng
kinh, có nói “sanh vô sanh xứ”,
đệ tử dựa theo văn tự mà hiểu ư
như thế này:
1) Niệm Phật đạt
đến nhất tâm bất loạn, khi mạng chung, tâm
hiện cảnh giới Cực Lạc, hoàn toàn chẳng có
nơi nào khác để xuất sanh.
2) Khi văng sanh thế giới
Cực Lạc, sẽ đạt đến cảnh giới
“hoa nở, thấy Phật, ngộ
Vô Sanh”.
3) Đă ngộ lư “tướng của các pháp là
Không, bất sanh bất diệt”.
Ba điều trên đây có
đúng hay không? Xin hăy chỉ dạy. (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Xem kinh đương nhiên là kiêng dựa theo
văn tự để suy đoán ư nghĩa! Nay ông nêu ra câu “sanh vô sanh xứ” là nghe từ
kinh nào, ư nghĩa của đoạn văn trước
đó là như thế nào? Ắt cần phải nói toàn thể,
chớ nên chọn ra ư nghĩa theo kiểu cắt đoạn.
Ba điều một, hai, ba như ông đă nêu, có đúng ư
của câu ấy hay không? Quả thật, tôi chẳng dám tùy
tiện nói này nọ! Chỉ có thể nói như thế này,
phàm những ǵ thuộc về học lư, ắt cần phải
dựa theo sách vở để hiểu trọn vẹn. Sau
đấy, châm chước [để lănh hội]. Muôn vàn
phần chớ nên cậy vào ư kiến của chính ḿnh!
* Hỏi: Trong khi ăn
cơm sáng tối, đệ tử mở băng niệm
Phật để bổ sung những chỗ thiếu sót
trong sáng tối. Có người già rất bực bội nói:
“Ăn cơm mà nghe băng niệm Phật, muốn hại
chết người hả?” Đệ tử thuận theo
ư người già, tắt đi. Nhưng người ấy
nói kiểu đó có đúng hay không, xin chỉ dạy! (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Âm thanh lọt vào tai,
có người thích, có kẻ không thích. Mỗi người
một ư, khó ḷng cưỡng ép được! Cá nhân ở
một ḿnh, tùy ư cá nhân. Đă có người khác, ắt phải
nghĩ cho người khác. Ngay như bàn về phía chính
ḿnh, cũng là “tâm vô nhị dụng”.
Ăn cơm mà nghe băng tụng niệm, tâm bị phân
đôi: Nghe hiểu âm thanh, bèn chẳng biết mùi vị; biết
mùi vị, sẽ chẳng hiểu âm thanh, trở ngại rất
lớn đối với chuyện giữ lấy một
đường! Ông há chẳng nghe chuyện xem đánh cờ
quên bẵng thời gian, nghe nhạc Thiều chẳng biết
đến mùi thịt ư?
* Hỏi: Nhất tâm tŕ tụng
chân ngôn, chỉ chí thành, khẩn thiết, chẳng quán
tưởng và kết ấn, đạo nghiệp có thể
thành tựu trong một đời hay không? Có thể đạt
được toàn bộ những công đức như
kinh đă dạy hay không? Nếu đă thành tựu, chẳng
c̣n tiếp tục tŕ tụng, hoặc gián đoạn, giải
đăi, có phải là đạo lực bị tổn thất
hay không? Hết sức mong được dạy rơ cho! (Lâm Thực Đức hỏi)
Đáp: Cách tu chân ngôn lấy
tam mật tương ứng làm chủ. Nếu chẳng học
toàn vẹn, chỉ tŕ chân ngôn, thật sự chí thành, chắc
chắn là có công đức. “Thành tựu ngay trong một
đời” là do công đức, chẳng do pháp. C̣n như
ông nói, “sau khi đă thành tựu”, chẳng biết những
chữ ấy nói về điều ǵ! Có phải là nói
“đoạn Hoặc, chứng quả” hay chăng? Hay là sự
tương ứng trong hiện tiền? Nếu đă
đoạn sạch vô minh, sẽ là vô tu vô chứng, chẳng
bị tổn thất. Nếu chỉ có những sự
tương ứng, hễ gián đoạn, giải đăi,
sẽ đều bị thoái chuyển.
* Hỏi: Luận theo sự
thật, tŕ tụng chân ngôn có ổn thỏa, thích đáng
hay không? Niệm chân ngôn Lục Tự Đại Minh, có thể
văng sanh Cực Lạc hay không? Có tương ứng với
pháp môn Tịnh Độ hay không? (Lâm Thực Đức hỏi)
Đáp: Hai chữ “ổn đáng” (穩當, ổn thỏa, thích đáng) là nói về chuyện ǵ?
Cầu phước ư? Cầu huệ ư? Cầu định
ư? Cầu quả ư? Ắt phải nói rơ th́ mới có
thể đáp được. Lại nữa, chẳng cần
biết tu môn nào, ắt đều phải chánh xác, ắt
phải đúng pháp, ắt phải tinh thành. Chánh xác, đúng
pháp là do công phu tu tập của cá nhân. Đối với chuyện
văng sanh Cực Lạc như ông đă hỏi, cốt yếu
là ba điều Tín, Nguyện, Hạnh. Chẳng có ba điều
ấy, bất cứ công phu nào cũng đều chẳng
thể văng sanh. Kinh điển Tịnh Độ chỉ rơ
các loại niệm Phật là chánh nhân [văng sanh], chớ nên
trái nghịch giáo pháp! Nhưng đối với các phước
đức làm duyên, tạo thành cái nhân cho thiện căn, ắt
đều cần phải chẳng phế trừ điều
nào, đó gọi là “chánh trợ
song tu”. Lục Tự Đại Minh chỉ có thể
dùng làm trợ duyên.
* Hỏi: Chúng ta xem kinh hoặc
tụng kinh với cái tâm chí thành giống như nhau,
nhưng so sánh công đức và lực dụng giữa hai
đằng, sẽ là như thế nào? (Lâm Thực Đức hỏi)
Đáp: “Xem kinh” có [hai loại]
sai khác. Một là chỉ xem, chẳng nghĩ ngợi. Hai là
chuyên nghiên cứu ư nghĩa kinh. “Chẳng nghĩ ngợi”
là để thâu hồi ư niệm. “Chuyên nghiên cứu” là
để cầu huệ. Tụng kinh th́ ư nghĩa đại
lược cũng giống như trên. Để thâu hồi
ư niệm, xem kinh hay tụng kinh đều có thể thâu hồi
ư niệm. Tức là hai đằng đều khế hợp
căn cơ của ta, [công đức, lực dụng] sẽ
như nhau. Nếu xem kinh khế hợp, mà tụng chẳng
khế hợp, hoặc tụng th́ khế hợp mà xem chẳng
khế hợp, sẽ là bất đồng. Nhằm cầu
huệ, hăy suy nghĩ cẩn thận, biện định
rành rẽ, phá mê, khơi mở đường ngộ, khế
hợp với ta th́ sẽ là như thế. Đọc sách
ngàn lượt, tự thấy ư nghĩa, khế hợp với
ta th́ sẽ là như thế. Nếu khế hợp, [công
đức, lực dụng] sẽ là như nhau; chẳng khế
hợp, sẽ khác nhau. Hễ khế hợp th́ công đức
lẫn lực dụng đều lớn; chẳng khế
hợp th́ công đức lẫn lực dụng đều
nhỏ nhoi.
* Hỏi: Để niệm
Phật đạt đến mức nhất tâm, nhằm cầu
thượng thượng phẩm hăy nên tấn tu như thế
nào? (Lâm Thực Đức hỏi)
Đáp: Sơ học th́ miệng
niệm, tai nghe. Tiến cao hơn th́ là tâm niệm, tâm nghe.
Đạt đến tột cùng, sẽ là thần niệm,
thần nghe. Đấy chính là chánh nhân để cầu nhất
tâm. “Tùy duyên tiêu nghiệp
cũ, chẳng tạo họa ương mới”, “rộng tu tam phước”,
có thể đọc kinh điển Đại Thừa.
Đấy chính là trợ duyên để cầu thượng
thượng phẩm.
* Hỏi: Đối với
danh hiệu Phật bèn dùng Phạm âm để niệm, giữ
măi chẳng đổi, nhưng có chỗ bất đồng
với [những cách tụng niệm] thông thường. Chẳng
biết tôn ư của bậc đại đức là như
thế nào? (Lâm Thực Đức
hỏi)
Đáp: Ông nói “Phạm âm”
th́ “Phạm âm” là như thế
nào? [Ư ông nói là] những chữ chưa được dịch
nghĩa sang tiếng Hán, hay là giọng điệu, nhịp
phách trong xướng tụng Phạm bái? “Danh hiệu Phật” là danh hiệu của vị
Phật nào? [Những điều ấy] đều chẳng
[nêu ra] rơ ràng, chẳng thể không biện định. Phàm
là chân ngôn, mật chú, chính là kinh văn thuộc loại “ngũ bất phiên” (năm loại
chẳng phiên dịch). Cách phát âm từng chữ đều
là theo âm tiếng Phạn. [Âm thanh của] mơ, chuông, hồng
chung, trống, đọc khẽ, hoặc xướng rơ tiếng,
hoặc tán, hoặc kệ, cũng đều gọi là “phạm âm”. C̣n như danh hiệu
Phật, có đến cả ngàn vạn loại! Có danh hiệu
dịch nghĩa sang tiếng Hán như Dược Sư Phật,
Nhiên Đăng Phật v.v… Có danh hiệu vẫn giữ
nguyên âm tiếng Phạn, như A Di Đà Phật, A Súc Bệ
Phật v.v… Tôi chẳng hiểu ư của câu hỏi “danh hiệu Phật dùng Phạm
âm để niệm” như ông đă nêu! Những danh hiệu
Phật như chúng ta đă biết, không ǵ chẳng xuất
phát từ kinh văn. Cứ tuân theo đó để niệm,
chớ nên biến đổi! Cách niệm Phật th́ có các
loại như tŕ niệm lớn tiếng, tŕ niệm nhỏ
tiếng, kim cang tŕ, niệm thầm… Để cầu nhất
tâm th́ cũng chẳng hoàn toàn phải dùng chuông, mơ, phách
điệu.
* Hỏi: Học tṛ theo thầy
nhiều năm. Trong quá khứ, chẳng dụng công, có một
ưu điểm là chân tâm tin Phật, thích xướng niệm
Phật hiệu. Năm nọ, theo pháp sư Sám Vân đả
Phật Thất. Pháp sư dạy phương pháp niệm
Phật th́ phải [chú tâm] giống như dùng điện
hàn một vật, giống như đóng đinh thánh hiệu
Phật chẳng sai, chẳng lệch! Tiếp đó là bắt
đầu [xướng niệm] Phật hiệu. Học
tṛ hành theo lời dạy của pháp sư, bất tri bất
giác thấy Phật. Kế đó, đôi ba lượt
đều có cảnh giới. Phật Thất lần ấy
chẳng uổng công! Kể từ lúc ấy, đối với
chuyện học Phật bắt đầu có hứng thú. Nghe
kinh càng chẳng uổng công! Mỗi lần nghe thầy giảng,
đều có thể thu thập một đôi điều.
Hoặc là có lúc dường như hiểu, nhưng chẳng
hiểu; trên đường về nhà, nghĩ lại
cũng có thể hiểu ra. Thầy nói “nước tám công đức trong ao sen bằng bảy
báu có thể tùy tâm thuận theo ḷng mong”. Học tṛ
cũng lănh hội, thật sự là có thể “thuận theo ḷng mong muốn”.
Niệm Phật, quán tưởng, học tṛ thích nhất
tượng Phật ở Thiện Quả Lâm. Mở mắt
thấy Phật, nhắm mắt cũng thấy Phật. Lại
nghe thầy nói “hăy tận hết
sức quán tượng Phật to lớn”, học tṛ làm
theo lời thầy dạy. Hôm sau, khi tụng niệm khóa
sáng tại nhà, phát hiện tận hư không đều là
cơi Phật, là một chữ Không. Từ đấy, xuất
hiện vấn đề như thế này: Học tṛ chẳng
biết niệm Phật th́ nên quán tưởng như thế
nào?
Nhiều
lần cầu thầy, nhưng chưa được toại
ư, chỉ đành cầu Phật oai lực gia bị khai ngộ.
Phật do tâm sanh, thuận theo tâm mà Phật hiện. Ngoài
tâm không có cảnh, toàn thể Phật là tâm. Ngoài cảnh chẳng
có tâm, toàn thể Tha chính là Tự. Hồng danh thật sự
tỏ lộ tự tánh, Tịnh Độ mới hiển
lộ duy tâm. Cảm ứng đạo giao, hô ứng đồng
thời, hành tŕnh mười vạn ức [cơi Phật] cách
đây chẳng xa. Tâm làm, tâm là A Di Đà Phật. Trước
kia, thầy nói “nơi đây
chính là thế giới Cực Lạc”, học tṛ chẳng
hiểu, chẳng khai ngộ. Hỏi han khá nhiều đồng
tu, họ cũng chẳng biết. Nay học tṛ đă biết,
cũng dám đảm nhận “chính ḿnh là A Di Đà Phật”.
Lần này học tṛ thọ Bồ Tát Giới, ăn chay
trường, thời thời khắc khắc ghi nhớ “giới là cội gốc của
Vô Thượng Bồ Đề. Hăy nên nhất tâm tŕ tịnh
giới”. Chẳng thể quên thầy đă nhiều
năm răn dạy đoạn Hoặc, trừ khử
tham, sân, si, mạn, nghi. Nhất là lời dạy trong ba ngày
nay. Chính ḿnh tự xét, khắc rơ trong tâm. Học tṛ chưa
hề cầu phước báo, luôn cầu văng sanh thành Phật,
[sau đấy] sẽ trở lại độ chúng sanh.
Đấy là nguyện vọng của học tṛ, xin thầy
khai thị. (Đạo Long hỏi)
Đáp: Ông nói hết sức
nhiều mà chẳng chia theo thứ tự. Tôi đọc kỹ
những điều ông nói, [th́ thấy] vẫn là thuộc
về “thành tâm, chân tín”. Điều
này cũng là khó có. Nay lại thọ giới, tiền đồ
nhất định khả quan. Ở đây, tôi chọn ra
những điểm quan trọng trong nội dung th́ có ba
điều. Xin tŕnh bày cách nh́n hẹp ḥi [như thế
này].
1) Đối với câu hỏi
về chữ Không, chữ này chính là Lư thường
được nói trong kinh. Người giảng kinh gặp
chữ này, chẳng cần biết là khế cơ hay không,
chẳng thể gạt bỏ, không nói tới! Kẻ sơ
học chẳng thể hiểu chữ Không
này, nhưng do kinh cũng nhắc đến Hữu khá nhiều,
cũng chẳng thể chỉ nói riêng một chữ!
Phải nên gộp chung Không và Hữu để xét. Ở
đây, tôi nói phương tiện đối với quư
cư sĩ: Ngũ dục lục trần trong thế gian
đều chẳng có thật tánh (實性, tánh chân
thật), tham chẳng thật; hăy nên quán là Không. Tây
Phương Cực Lạc liên bang, bốn cơi trang nghiêm,
chân thật chẳng hư huyễn, hăy nên quán là Hữu.
2) “Hăy nên
quán Phật theo cách nào?”: Ông đă nói thích tượng
Phật ở Thiện Quả Lâm nhất, hăy y theo đó
để quán. Đó gọi là “đă
quen thuộc, sẽ dễ dàng”, [cứ quán tượng ấy],
sẽ dễ thành công.
3) “Đoạn Hoặc”:
Đây chính là chuyện phiền phức nhất, v́ số
lượng các phẩm Hoặc trong tam giới vẫn
chưa thể hiểu rơ, giảng giải sẽ khó
khăn. C̣n may là ông c̣n biết “tham, sân, si, mạn, nghi” chính
là Hoặc. Tốt đẹp thay! “Hoặc” (惑) chính là những chuyện gây chướng đạo.
Tu Tịnh ắt cần phải chánh trợ song tu. “Chánh tu” là tŕ danh hiệu Phật,
cầu đắc nhất tâm. “Trợ
tu” là tiêu nghiệp cũ, chẳng tạo ương họa
mới. Từ đấy, nhận biết Hoặc, sửa
đổi Hoặc, thoạt đầu th́ miễn cưỡng,
về sau sẽ trở thành tự nhiên, dần dần chế
phục Hoặc. Đă chế phục lại cứ chế
phục măi, sẽ đoạn Hoặc!
* Hỏi: Mỗi lần tụng
kinh đều cảm thấy tạp tưởng, loạn
niệm rất nhiều. V́ sao nghiệp chướng nặng
nề ngần ấy? (Thái Ḥa hỏi)
Đáp: Chúng sanh trong cơi đời
tạo đủ thứ nghiệp, thọ đủ thứ
quả, vô số lần luân hồi trong lục đạo,
đều là do tạp tưởng làm nhân! Những chuyện
như niệm Phật, tụng kinh, tham Thiền, nhập
Định v.v… đều nhằm tu tập, trừ khử
tạp niệm. Chẳng có tạp niệm, sẽ là chứng
đắc. Chuyện này cần phải có công phu thường
hằng, lâu dài, chẳng phải là vừa cầu liền
thành công được!
* Hỏi: Mỗi lần lễ
Phật, có phải là vẫn phải phát nguyện hay
chăng? (pháp sư Pháp Trí hỏi)
Đáp: Nguyện có phát, có
hành. Đă phát, ắt phải thật sự hành th́ nguyện
mới chẳng rỗng tuếch. Hành ắt phải có phát;
chẳng phát, làm sao chịu hành? Nguyện chẳng bao gồm
hành, nhưng hành đă bao gồm phát nguyện. Mỗi ngày lạy
Phật, cũng từng phát nguyện. Nay lạy Phật
chính là để thực hiện cái nguyện ấy. Khi lạy
Phật, tâm đặt nơi Phật, nguyện và hành sẽ
đều được trọn đủ.
* Hỏi: Nếu lấy chuyện
đoạn Hoặc để luận định, thánh nhân
Sơ, Nhị, Tam, Tứ Quả, mỗi bậc đạt
được loại thần thông nào? Và đạo lực
của mỗi bậc là như thế nào? (Triệu Hàm Khiêm hỏi)
Đáp: Điều này hết
sức khó nói! Ắt phải hiểu rơ Tứ Đế và
Kiến Tư Hoặc được đoạn [như thế
nào trong mỗi bậc] th́ mới có thể dễ nói. Tiểu
Thừa đoạn hết Kiến Hoặc thuộc về
tam giới, sẽ chứng Sơ Quả. Lại đoạn
sáu phẩm Tư Hoặc thuộc Dục Giới, sẽ chứng
Nhị Quả. Lại đoạn ba phẩm Tư Hoặc
cuối cùng trong Dục Giới, sẽ chứng Tam Quả.
Hoàn toàn đoạn hết Kiến Tư Hoặc trong tam giới,
sẽ chứng Tứ Quả. Tứ Quả th́ Lục Thông
đều trọn đủ, ba bậc đầu (Sơ
Quả, Nhị Quả, Tam Quả) không có Lậu Tận
Thông.
* Hỏi: Chúng ta nương
theo pháp để tinh tấn tu học, làm thế nào để
chứng minh [chính ḿnh] xác thực là đă chứng quả? (Triệu Hàm Khiêm hỏi)
Đáp: Tu loại học vấn
nào, nương theo loại pháp nào, đă chẳng nói rơ,
không có cách nào nói về cái quả được! Nhưng bất
luận Tiểu Thừa hay Đại Thừa, đều
phải là đoạn Hoặc. “Đoạn”
th́ có đoạn do đă thấy [tánh], hoặc đoạn
do tu. Nếu muốn chứng biết, có thể cậy vị
tri thức đă đoạn Hoặc ấn chứng, sẽ
có thể biết rơ. Nếu không, tự xét những ǵ chính
ḿnh đă đoạn, sẽ có thể ngộ, biết.
* Hỏi: Sau khi rời khỏi
Từ Quang giảng ṭa, đối với cuộc sống
tại gia, hoặc trong học hành, hăy nên làm như thế
nào để giữ ǵn căn bản của đạo? (Nghê Mai Tiên hỏi)
Đáp: Ở nhà th́ đối
với hai khóa tụng sáng tối, hăy nên dành thời gian nhiều
hơn. Ở trường, hăy nên thầm niệm, rút ngắn
lại, thậm chí mười niệm. Điều đại
cương, cốt yếu trong Phật học, bất quá
là Giới, Định, Huệ. Hai thời công khóa chính là
cách để cầu Định; đấy gọi là “thực hành”. “Minh đức, chỉ
thiện” của Nho gia cũng nhằm để cầu
Định. Nói th́ đơn giản; xét ra, ư nghĩa rất
sâu. Ngoài ra, cần phải dành thời gian để xem kinh
giống như đọc báo vậy. Ắt phải sao cho
chẳng thiếu sót ngày nào, sẽ có thể hữu ích cho
trí huệ. Hành và giải như vậy, căn bản
nơi đạo sẽ được kiên cố.
* Hỏi: Chẳng ăn chay
th́ có thể niệm Phật hay không? Ngoài niệm Phật
ra, c̣n cần phải niệm những kinh điển nào
khác? (Nghê Mai Tiên hỏi)
Đáp: C̣n đang trong thời
kỳ làm học sinh, chẳng được tự do, chẳng
thể hoàn toàn ăn chay, có thể ăn rau bên cạnh thịt,
hoặc ăn tam tịnh nhục đều được.
Niệm Phật là tu tâm, cầu Định, bất cứ
ai đều có thể hành. Dẫu chẳng ăn chay, vẫn
có thể niệm Phật. Bất quá, ḷng Từ hơi kém
mà thôi; rốt cuộc, vẫn tốt hơn không niệm.
Đối với kinh điển, trong thời gian này, chỉ
xem đọc là được rồi, tạm thời chẳng
cần niệm tụng. Hễ rảnh rang, hăy niệm Phật
cho nhiều, sức ít, công nhiều, đạo căn
trưởng dưỡng rất nhanh!
* Hỏi: Trong cuộc sống
của chúng ta, có thể gặp đủ mọi loại
người. Nếu chúng ta gặp phải hạng người
ác căn rất nặng, chẳng có thời khắc nào
không ôm ḷng làm hại kẻ khác, ngược ngạo coi
đó là chuyện vui sướng. Khuyên nhủ họ, họ
lại cho là ḿnh chửi họ, cũng có lẽ là chính họ
hoàn toàn chẳng biết bản thân đang làm ác. Chúng ta hăy
nên hóa độ hạng người như vậy bằng
cách nào? (Nghê Mai Tiên hỏi)
Đáp: Độ người cần phải quán
cơ, khế cơ. Chính ḿnh học vấn trọn đủ,
sung măn, th́ mới có thể hiểu biết đối
phương, mới có thể thiện xảo phương
tiện. Khi học lực chưa đầy đủ, chỉ
đành tùy duyên, tùy phận, tận hết sức ḿnh, c̣n
nghe theo hay không là do kẻ đó!
* Hỏi: Đối với
kẻ lăng nhục chúng ta, chúng ta hăy nên nhẫn nại,
chẳng quan tâm đến, có đúng hay chăng? Hay là sau
khi đă nhẫn rồi, sẽ lại khuyên dạy họ?
(Nghê Mai Tiên hỏi)
Đáp: Nhà Phật trọng
nhẫn nhục, Nho gia cũng coi trọng “phạm nhi bất giảo” (chẳng so đo với
kẻ xâm phạm ta); nhẫn nại, bao dung, đấy
chính là điều nên làm. Sau đấy, khuyên bảo họ
chính là bi mẫn, nhưng cũng cần phải xem xét tánh
người và căn cơ để khuyên th́ mới chẳng
trở thành lục đục. Chẳng thấy đức
Phật đối với kẻ có tánh ác bèn dùng cách mặc
tẫn, nhà Nho có huấn thị “bất
khả dữ ngôn, nhi bất dữ ngôn” (chẳng thể
nói mà [cứ nói], [đáng nên nói] mà chẳng nói)[4] đó
chăng?
* Hỏi: Khi quá mức bận
bịu, hoặc xuất ngoại, chẳng thuận tiện,
hoặc không có thời gian để niệm tụng công
khóa sáng tối cố định, hăy nên làm như thế
nào? (Tạ Ấu hỏi)
Đáp: Đấy là do cái tâm
sanh tử chẳng tha thiết; v́ thế, đối với
chuyện nặng nhẹ bèn điên đảo! Phải biết
ăn cơm nhằm nuôi nấng cái thân hư giả, tu
Định nhằm dưỡng Pháp Thân. Bất luận bận
bịu như thế nào, tôi nghĩ nhất định chẳng
quên ăn cơm. V́ sao chẳng thể tu Định? Nuôi nấng
cái thân hư giả mấy chục năm, [vô thường
xảy đến], hơi thở hóa thành gió Xuân, thịt
hóa thành tro, đất, Pháp Thân trăm ngàn kiếp, thoạt
ch́m, thoạt nổi trong tam đồ lục đạo!
Hai ngày chẳng ăn cơm, chẳng gây hại giả thân
cho mấy, người ta cứ khăng khăng chẳng
quên ăn! Hai ngày chẳng tu Định, Pháp Thân nhiễm vô
minh, con người cứ quên khuấy tu hành. Nếu coi tu
Định [cần thiết] như ăn cơm, sẽ là
biện pháp tốt đẹp.
* Hỏi: Y giáo tu hành, một
khi công hạnh khế nhập quả vị, có phải là
Phật, Bồ Tát sẽ đích thân chứng minh, hay là tự
biết? (Trương Khoát Nhiên
hỏi)
Đáp: Hai đằng đều
có! Một, chứng quả chính là giai đoạn đoạn
Hoặc. Đối với chuyện này, ắt trước
hết phải là đă hiểu rơ Phật lư; sau đấy,
nương theo cách tu, chẳng tu chuyện ǵ khác, tức là
đoạn Hoặc. Cổ đức nói: “Chỉ trừ khử phàm t́nh, chẳng coi là thánh cảnh
nào khác”. Chính ḿnh có phiền năo hay không, há lẽ nào chẳng
biết? Nếu thật sự chẳng biết, đấy
vẫn là bất giác, sao đáng nói là học rồi tự
tu? Hai, Phật có mười lực, trong ấy có một
điều là biết công hạnh tu tập chứng đắc
của chúng sanh, lại c̣n có pháp thọ kư đối với
kẻ hữu duyên thấy Phật.
* Hỏi: Bồ Tát có chủng
tử Biến Dịch Sanh Tử tồn tại, nhưng
tôi chưa biết Biến Dịch Sanh Tử là huyễn hóa,
hay là liên hoa hóa sanh? Chỉ biết danh xưng gọi là Biến
Dịch Sanh Tử, chẳng biết rơ cách giải thích
tường tận là như thế nào? (Tiêu Huệ Tâm hỏi)
Đáp: Chủng tử của
Biến Dịch chính là vô minh. Có thể đoạn một
phẩm, vô minh sẽ giảm một phần. Đó gọi
là Biến Dịch (變易), tức là sự biến hóa do vô minh giảm bớt.
Trong sự biến hóa ấy, gán cho nó một cái giả danh
là Sanh Tử. Đợi cho đến khi đoạn sạch
vô minh, chẳng c̣n biến đổi, sẽ chẳng gọi
là sanh tử nữa!
* Hỏi: Thập Tín, Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa, cho đến Đẳng Giác là năm
mươi mốt địa vị, đúng không? Đă
đạt tới Thập Hồi Hướng, lại tiến
lên đăng địa th́ gọi là địa vị thứ
bốn mươi mốt đấy chăng? (Tiêu Huệ Tâm hỏi)
Đáp: Trụ, Hạnh,
Hướng, Địa, mỗi thứ có mười cấp
bậc, tổng cộng là bốn mươi cấp. Sau khi
viên măn bốn mươi cấp ấy, tiến cao hơn sẽ
gọi là Đẳng Giác, nên gọi là “địa vị thứ bốn mươi mốt”.
* Hỏi: Từng nghe La Hán có
bảy phen sanh tử, lại có một phen qua lại. Sau
khi đă trải qua bảy phen sanh tử và một phen qua lại,
sẽ sanh về phương nào? Sanh từ kiểu ấy
có phải là Phần Đoạn hay không? Xin hăy dạy
tường tận! (Tiêu Huệ
Tâm hỏi)
Đáp: Đối với
chuyện này, cần phải biết thứ tự đoạn
Hoặc th́ mới có thể hiểu rơ. Nói cặn kẽ, sẽ
hết sức phiền phức, chỉ nói đại khái
mà thôi. Tiểu Thừa có bốn quả. Sơ Quả, dịch
theo lối cũ là Nhập Lưu, [có nghĩa là] đă siêu
phàm nhập thánh. Nhị Quả gọi là Nhất Văng Lai,
nghĩa là một phen sanh trong nhân gian hoặc cơi trời.
Tam Quả gọi là Bất Lai, nghĩa là chẳng c̣n sanh
trong Dục Giới nữa. Tứ Quả gọi là Bất
Sanh, tức là A La Hán, đă vượt thoát tam giới, bất
sanh, bất diệt.
* Hỏi: Chúng tại gia sau
công khóa sáng, hăy nên niệm bài kệ hồi hướng gồm
tám câu “nguyện
dĩ thử công đức… đồng sanh Cực Lạc
quốc”, có thể niệm thêm “tứ sanh cửu hữu, đồng quy Tịnh Độ pháp môn, bát nạn
tam đồ, cộng nhập Di Đà nguyện hải”
hay không? (nhân viên thuộc ban Cát
Tường hỏi)
Đáp: Chẳng thêm những
câu văn khác vào, tám câu ấy cũng đă hết sức
viên măn. Nếu muốn thêm vào bốn câu đó, cũng chẳng
có ǵ là không được! Hăy nên biết, hồi hướng
chính là cái nguyện trong tâm, xuất phát từ ḷng chân thành,
chẳng do nói rộng hay nhiều!
* Hỏi: Gia mẫu từng
ghi thêm các phù hiệu ghi chú âm đọc vào bài Thiên Thủ
Thiên Nhăn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Chú để
tiện đọc tụng, khó tránh có chỗ nhếch nhác,
thiếu cung kính. Chẳng biết có phương pháp nào
để bổ cứu hay không? (Vương
Doăn Hữu hỏi)
Đáp: Chuyện ấy vốn
là do cầu pháp, chẳng biết đó là khinh mạn, xuất
phát từ sự vô tâm. Nay lại hối hận, sợ hăi,
tức là từ chểnh mảng, sơ sót, chuyển thành
cung kính, thận trọng. Hễ ḷng cung kính chiếm phần
lớn th́ là tốt lành, sẽ có thể tiêu trừ tội
khiên. Nếu tâm bất an, hăy nên đối trước Phật,
cầu nguyện, sám hối, về sau chẳng tái phạm
nữa, chắc chắn sẽ được Phật gia hộ.
Cổ đức nói: “Tâm có thể
tạo nghiệp, tâm có thể chuyển nghiệp”.
Trước là giải đăi, sau là kính trọng, sẽ là từ
họa chuyển thành phước vậy.
* Hỏi: Gần đây, ở
trong quan pḥng, học tṛ vẫn tốt đẹp, nhưng học
tṛ chẳng biết dụng công, chẳng thể chuyên niệm.
Xin hỏi, trong quan pḥng từ sáng đến tối đều
là một câu Phật hiệu. Học tṛ chẳng hiểu rơ
chuyện này: Có cần phải tụng niệm công khóa sáng
tối hay không? (pháp sư Pháp
Trí hỏi)
Đáp: Tổ sư nh́n vào vách,
người đời sau bế quan, sự khác, lư đồng,
đều nhằm tu dưỡng đạo nghiệp. Suốt
chín năm, [tổ sư Đạt Ma] chẳng nói một lời,
[hành giả] ở trong quan pḥng chẳng hỏi chuyện
bên ngoài, chẳng xen tạp niệm khác, tâm định
nơi một chuyện. Một câu Di Đà, không hai, không ba.
Nếu có thể hiểu rơ, đại sự đă làm xong!
Nếu có thể như vậy, cũng gọi là “hợp thành một khối”,
cần ǵ phải nghĩ ngợi chi khác. Nếu trong quan
pḥng mà vọng niệm chẳng đoạn, chẳng thể
chế phục được, hăy hướng về bậc
đại đức trong chùa thỉnh cầu khai thị.
Có thể tăng thêm công khóa sáng tối như là một
phương pháp để điều ḥa vậy!
* Hỏi: Đối với
nghi thức tụng niệm sáng tối trong kinh nhật tụng
đă được quy định, các phần
Hương Tán, kinh Di Đà… cho đến Tam Quy Y, tán thán Vi
Đà, Già Lam v.v… có mối quan hệ trọng yếu đối
với chuyện cầu nhất tâm hay không? Đệ tử
cảm thấy quá nhiều tiết mục sẽ gây trở
ngại cho việc cầu nhất tâm, đúng không? (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Nghi thức tụng
niệm sáng tối đă định chính là cách hành tŕ trong
các đoàn thể, chùa miếu, dành cho công chúng cùng tu với
nhau, phải nhất loạt [theo tŕnh tự như nhau] th́
mới chỉnh tề. Nếu không, mỗi người một
kiểu, sẽ thành rối ren, chẳng có trật tự. Nếu
cầu đắc Định, ắt cần phải khế
hợp căn cơ để tự tu. Đối với
các tiết mục rườm rà đều có thể bỏ
bớt, thậm chí một câu hồng danh chuyên ṛng, chuyên nhất,
sẽ được thọ dụng. Nhiều quá sẽ đâm
ra rối loạn! Nhưng đối với hai pháp đều
chớ nên chấp, mỗi đằng có phương tiện
riêng. Tu chung với mọi người, ắt phải tuân theo
đại chúng. Tự tu th́ giảm bớt nghi thức, chú
trọng nhiều về chất lượng.
* Hỏi: Khi thầy giảng
kinh, đôi ba lượt khai thị “hạnh giải tương ứng”. Lư ấy hết
sức thích đáng, nhưng lư trong kinh Phật hết sức
vi diệu, hết sức sâu xa, mong hiểu được
sẽ khá khó khăn. Như đệ tử nghe pháp quá trễ,
lại là kẻ độn căn, mong thấu hiểu sẽ
tốn rất nhiều thời gian, có thể chiếu theo
cách tu của những bà cụ già chốn làng quê, chỉ trọng
tŕ danh, chẳng cầu giải th́ cũng có thể văng sanh
hay chăng? Hay là thầy có thời gian thích đáng nào khác
để ban phát pháp? Kính xin chỉ dạy! (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Hạnh có cạn hay
sâu, Giải có chuyên biệt hay rộng răi. Tu một pháp môn
mà nghiên cứu nhiều kinh điển, đó là rộng
răi. Tu một pháp môn, chỉ hiểu kinh của pháp môn chính
ḿnh đang tu, đó là chuyên. Tánh chất của các bà cụ
chốn làng quê cũng chẳng phải chỉ có một loại.
Hoàn toàn chẳng phải là các bà cụ già đều coi trọng
tŕ danh! Nếu thật sự là một bà cụ tŕ danh chẳng
thoái chuyển, nhưng chẳng hiểu tín nguyện, sẽ
chỉ đạt được phước báo, nhất
quyết chẳng thể văng sanh! Người tu Tịnh
Độ tự xét khả năng của chính ḿnh, lợi
căn th́ học rộng, độn căn th́ học
chuyên, như vậy th́ sẽ có thể làm được!
* Hỏi: Khi tán niệm, vừa
niệm Phật, vừa chú ư đến chuyện khác. Như
khi đi xe đạp, vừa niệm Phật vừa chú ư
t́nh h́nh trên đường. Cách niệm ấy có đắc
lực hay không? (Tiên Thuần Hiền
hỏi)
Đáp: Niệm Phật cầu
chuyên nhất, chớ nên chú ư chuyện khác. Hễ tâm đặt
hai chỗ, sẽ có công hiệu ít ỏi. Nhưng trong khi tụng
niệm công khóa chánh yếu, hăy cầu chuyên nhất, chẳng
thể duyên nơi sự vật khác. Khi tán khóa th́ tùy duyên,
chuyên chú vào công việc đang làm, chỉ quan niệm đức
Di Đà chiếu lâm ở trên mà thôi. Như thế chính là
khéo hiểu phương tiện, mà cũng chẳng hỏng
việc, tịnh niệm lại được tiếp nối.
* Hỏi: Tứ tướng[5]
như trong kinh Kim Cang đă nói có khá nhiều cách giải
thích, ư nghĩa bao hàm trong ấy rốt cuộc là như thế
nào? (Triệu Hàm Khiêm hỏi)
Đáp: Chỉ nh́n vào sự
chứng giải của cổ đức, tin nhận, phụng
hành, xa ĺa [các tướng], chẳng chấp trước, sẽ
là hay nhất. Học lực chẳng đủ, mà mong hiểu
tường tận, hễ nói tường tận, ngôn từ
sẽ rất nhiều. Hễ ngôn từ nhiều, sức
thấu hiểu sẽ khó thể kham nổi. Dẫu chẳng
hiểu lầm, cũng sợ là rất khó [lănh hội thỏa
đáng].
* Hỏi: Vô tâm làm ác th́ có phải
vẫn là mắc tội hay không? (Triệu
Hàm Khiêm hỏi)
Đáp: Vô tâm làm ác: “Vô tâm” là không cẩn thận,
tâm ư đểnh đoảng, hời hợt. Dẫu chẳng
mưu tính sẵn, vẫn là tội lỗi! Do đă tạo
thành điều ác, vẫn phải thọ báo, nhưng báo nhẹ
hay nặng, lớn hay nhỏ, cần phải luận theo Sự
và Lư để đoán định, chẳng thể nói nháo
nhào, luông tuồng là đúng hay sai được! Pháp luật
thế gian cũng có điều khoản trừng phạt
[tội lỗi] do lầm lẫn. Nhân quả vi tế, chẳng
sai sẩy mảy may, nhưng xét đoán sự việc
để có thể gia giảm, ắt phải dựa theo Sự
và Lư để luận định, chẳng thể dấy
lên lời nghị luận suông được!
* Hỏi: Bậc thánh giả
chứng quả có phải là đă đều minh tâm kiến
tánh? Thiền Tông ngộ chứng nguồn tâm, có phải là
đă vượt lên, dự vào địa vị Phật,
hoặc thuộc vào địa vị Bồ Tát, Nhị Thừa?
T́nh h́nh như thế nào, xin hăy dạy cho! (Triệu Hàm Khiêm hỏi)
Đáp: Thanh Văn có bốn
quả vị, Bồ Tát có năm mươi mốt quả
vị, Phật gồm một quả vị, đều gọi
là “thánh quả”. Kiến, tu,
đoạn, chứng, mỗi địa vị khác nhau! Ngay
như đối với sự minh tâm kiến tánh, [mỗi
quả vị] có cảnh giới và quả khác nhau. T́nh h́nh
như thế nào, chẳng phải bằng vài câu mà có thể
nói trọn hết được! Hơn nữa, “Thiền Tông ngộ chứng nguồn
tâm” cũng có cạn, sâu, thiên (偏, thiên lệch),
viên (圓, viên măn) [khác biệt]. Đoạn hết Kiến
Tư (Kiến Hoặc và Tư Hoặc), chính là A La Hán.
Đoạn hết Trần Sa, chính là Đẳng Giác, Diệu
Giác. Đoạn căn bản vô minh, chính là Phật. Nói theo
kiến, tu, và những pháp đă đoạn, không ǵ là chẳng
dựa theo tông ta đang xem xét để bàn luận.
* Hỏi: Khi chứng địa
vị thánh, sẽ là [chính hành giả] đích thân thấy biết,
hay là do Phật, Bồ Tát chứng minh? (Triệu Hàm Khiêm hỏi)
Đáp: Người tu tự
biết, mà Phật, Bồ Tát cũng biết.
* Hỏi: Tu chứng đến
giai đoạn nào th́ mới chẳng ngủ nghỉ? A La
Hán có ngủ hay không? (Triệu
Hàm Khiêm hỏi)
Đáp: Ngủ nghỉ vốn
là một món trong Thập Triền, khiến cho chúng sanh bị
trói buộc, chẳng thể xuất ly tam giới. Hễ
đoạn được nó, tức là đă hết Phần
Đoạn Sanh Tử. A La Hán đă đoạn hết Kiến
Tư, tự nhiên chẳng ngủ nghê.
* Hỏi: Thông thường,
hễ nói tới các địa vị của bậc thánh,
đều dựa theo Biệt Giáo hoặc Viên Giáo [để
luận định]. Vậy th́ địa vị Bồ Tát
được nói trong kinh Lăng Nghiêm là Biệt Giáo hay
Viên Giáo? (Triệu Hàm Khiêm hỏi)
Đáp: Hàng Bồ Tát
được nói trong kinh Lăng Nghiêm có hai mươi
lăm loại Viên Thông. Nh́n vào danh xưng, nghĩ tới ư
nghĩa, chẳng hỏi cũng biết!
* Hỏi: Luận định
thông thường về các địa vị của những
bậc thánh, sẽ dựa theo Tạng, Thông, hay Biệt,
Viên? (Trương Khoát Nhiên hỏi)
Đáp: Tạng, Thông, Biệt,
Viên chính là tám món gồm hóa giáo và hóa pháp do tông Thiên Thai lập
ra, hết sức phức tạp, chẳng dễ thuyết
minh đơn giản được! Mỗi tông vẫn có
cách nói riêng, không phải là tông nào cũng đều tuân theo
cách nói của tông Thiên Thai. Nhưng tuy các tông [luận định
địa vị của các bậc thánh] bất đồng,
[xét theo phương diện] đoạn Hoặc chứng
thánh, nói chung là chẳng khác!
* Hỏi: Nếu đối
với thế tục, cái tâm tự xa ĺa sâu đậm,
cũng chẳng có dục niệm tham luyến các sự
nghiệp, tập khí trần lao dần dần giảm nhẹ,
chỉ cầu giải thoát, tinh tấn v́ đạo. Tâm có
ư hướng như thế, có phải là gần với bậc
Sơ Quả hay không? (Trương
Khoát Nhiên hỏi)
Đáp: Xin quư cư sĩ hăy rộng
ḷng tha lỗi. Chẳng học, chẳng hiểu, chẳng
tu, chỉ dấy vọng tưởng suông là “đă gần
bậc Sơ Quả”, đấy chính là hư luận! “Thừa” chia thành Tiểu Thừa
và Đại Thừa. Quả có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát. Ông hỏi về “bậc
Sơ Quả”, rốt cuộc là nói về quả nào, thuộc
thừa nào? Hăy gác lại đó chẳng bàn! Tiểu Thừa
Sơ Quả cũng cần phải đoạn hết Kiến
Hoặc trong tam giới th́ mới đắc. Nếu chẳng
hiểu hành tướng của Tứ Đế và phẩm
số của Kiến Hoặc mà mong nhập Sơ Quả,
chẳng có lẽ ấy!
* Hỏi: Luận theo Phật
pháp, kẻ tại gia có thể đoạn Kiến Tư Hoặc
hay không? Hay chỉ là sau khi xuất gia th́ mới có thể
đạt được? (Trương
Khoát Nhiên hỏi)
Đáp: Đoạn Hoặc
là do hai đường “kiến” (kiến tánh) và “tu” (tu tập).
Học Phật chẳng phân biệt xuất gia hay tại
gia, chứng quả hoàn toàn là do công phu sâu hay cạn! Thường
nói là “ông tu, ông đắc; bà
tu, bà đắc, chẳng tu, chẳng đắc”. Điểm
then chốt là trước hết phải có “minh sư, ích hữu” (thầy
sáng suốt, bạn tạo lợi ích tấn tu), huân tập
chẳng thiếu sót, siêng gắng Văn, Tư, Tu. Hễ
điều kiện trọn đủ, tứ chúng tại
gia và xuất gia đều có thể đoạn [Hoặc].
Nói thêm: Điểm cốt
yếu của vấn đáp là trả lời những câu
đă hỏi. Trong thư cư sĩ gởi tới, có nói
kèm thêm “chẳng cần phải
câu nệ ư nghĩa sâu thẳm trong văn tự”, “chẳng ngại dùng lư sâu chân thật
để xiển dương, phát khởi một cách rơ
ràng, xác thực. Chẳng cần phải nhọc nhằn
chú trọng khuyên khắp mọi người tu Tịnh”.
Đọc kỹ những điều Ngài rộng ḷng hỏi
tới, đều là những chuyện bàn huyền thuyết
diệu về Tánh, Tướng. Cứ theo lời hỏi
để đáp, th́ “huyền”
chẳng phải là do lời đáp! Nếu nói đến “lư sâu chân thật”, [ông vẫn
ngỡ] tu Tịnh là nông cạn ư? Đấy chính là cảnh
giới chỉ có Phật và Phật mới thấu hiểu
tột cùng! Nhọc nhằn khuyên nhủ chính là nỗi khổ
tâm. Nếu có thể hiểu một phần trong vạn phần,
đă đủ để chẳng phí uổng công sức rồi!
Những điều khác sẽ đáp sau.
* Hỏi: Nguồn gốc, ư
chỉ chủ yếu và cái nhân của việc “nằm cát tường” là
như thế nào? (Ẩn Danh Thị
hỏi)
Đáp: Làm người sống
trong cơi đời, phải nên có lễ nghi. Những người
có giáo dục trong nước ta, đối với việc
đi, đứng, nằm, ngồi, đều có cách thức
nhất định được chép tường tận
trong thiên Khúc Lễ[6].
Giới luật và oai nghi trong nhà Phật so ra càng nghiêm ngặt
hơn! Cách nằm trong thường nhật và khi nhập
Niết Bàn đều tuân theo cách ấy, được gọi
là “sư tử ngọa” (獅子臥), cũng gọi là “đới
đao ngọa” (帯刀臥, cách đeo đao mà nằm). Cách này đối với
công phu định lực, hô hấp, sinh lư, vệ sinh v.v…
đều có mối quan hệ. [Nói cặn kẽ] sẽ hết
sức dài ḍng, khó thể thuật trọn!
* Hỏi: Khi tĩnh tọa
niệm Phật, nhắm mắt, hay mở mắt? (Ẩn Danh Thị hỏi)
Đáp: Chẳng nhất
định. Thông thường là hạ thấp mí mắt, mắt
chỉ mở hờ, chẳng nh́n thấy phía trước
xa hơn một thước. Hễ tâm hôn trầm, bèn mở
mắt để phấn chấn cái tâm. Tâm tán loạn bèn
nhắm mắt để thâu nhiếp.
* Hỏi: Đă quy y Tam Bảo,
nhưng chẳng thọ bất cứ giới nào, có
được hay không? (Ẩn
Danh Thị hỏi)
Đáp: Sau khi đức Phật
diệt độ, lấy giới làm thầy. Giới có thể
ngừa tà, dứt ác, giúp cho người ta nhập đạo.
[Giới] có ích, chẳng tổn hại, chẳng phải là
công cụ để trói buộc; nhưng người thọ
giới chỉ đeo cái danh suông, chẳng thể vâng giữ,
có khác ǵ không thọ? Nếu là người chân thành, nhất
thời cơ duyên chưa đến, tuy chưa vào giới
đàn thọ giới, có thể biết [những ǵ là] sai
trái chẳng làm, th́ cũng có công đức.
* Hỏi: Nỗi buồn khổ
của kẻ học Phật thường là học Phật
đă mấy năm, phiền năo vẫn y hệt như
cũ, thống khổ giống hệt như xưa, đă
lâu mà chẳng thấy có tin tức ǵ [chứng tỏ có tiến
bộ trên đường đạo]. Do đấy, uể
oải, chẳng phấn chấn, thoái thất cái tâm ban
đầu! (Hà Thân Cận hỏi)
Đáp: “Làm lành, điều tốt lành giáng xuống; làm ác,
tai ương giáng xuống”. Thánh hiền thế gian và
xuất thế gian đều nói như thế. Người
hiểu rơ điều này, tin tưởng chuyện này, chắc
chắn sẽ không oán trời, hờn người. Nếu
nói niệm Phật buồn khổ, lui sụt cái tâm ban
đầu, đấy chính là do chưa thân cận thiện
tri thức, hoặc v́ chẳng hiểu Phật lư mà ra.
Đấy có lẽ là v́ “tu mù,
luyện đui”, cho nên chẳng đắc lực.
* Hỏi: Niệm Phật niệm
đến mức pháp hỷ sung măn, v́ sao thân tâm vẫn bất
an y như cũ? (Hà Thân Cận
hỏi)
Đáp: Pháp hỷ sung măn há dễ
dàng ư? Nếu niệm Phật thật sự đạt
đến cảnh giới ấy, tức là đă đắc
lực. “Hỷ” là chẳng
mơ màng, chẳng mệt mỏi, làm sao có chuyện ngă ḷng
cho được? Sung túc th́ sẽ b́nh thản, thảnh
thơi, làm sao có chuyện bất an cho được? Xem
thư cư sĩ gởi đến, nét chữ khéo léo, lời
lẽ khiêm nhường, vẫn là căn khí để chở
đạo, sẽ có thành tựu to lớn. Nếu có thể
đọc sách tại nhà, đi ra ngoài tham phỏng,
thăng đường nhập thất, sẽ chẳng phải
là không thể [đạt được thân tâm an định].
* Hỏi: Có cần phải
đến ẩn cư trong núi thẳm hay không? Ngày đêm
sáu thời chẳng ngừng niệm Phật suốt một
hai năm th́ mới có thể chế phục phiền năo
ư? (Hà Thân Cận hỏi)
Đáp: Đối với sự,
cần phải nói đến chuyện có thể làm
được; lại càng phải là chuyện có thể
làm được th́ mới nói! Nếu có thể ngày
đêm sáu thời niệm Phật chẳng gián đoạn,
ở ẩn trong núi sẽ giống như bế quan. Bế
quan cốt yếu là để chế ngự cái tâm. Hiểu
rơ lư này, chế phục cái tâm này, không chỉ là chế phục
Hoặc, mà c̣n có thể đoạn Hoặc. Tổ Ngẫu
Ích từng nói bảy ngày nhất tâm bất loạn, sẽ
có thể đoạn Hoặc. Nếu tâm địa chẳng
chân thật, chẳng hiểu rơ giáo lư, nửa tin, nửa ngờ,
có đầu không có cuối, dẫu vào núi thẳm, tâm vẫn
ở nơi phố phường! Không chỉ là vô ích, mà sợ
c̣n chuốc lấy ma dựa nữa kia!
* Hỏi: Học sinh từ
lúc nghe chữ “Phật pháp”
đến nay, thường được lợi ích
nơi Phật pháp, nhưng cho đến nay vẫn chưa
thể “giải hành hợp nhất”,
thường bị vọng niệm quấy phá, đối
với chuyện nên làm vẫn do dự chẳng thực hiện,
chuyện nên đoạn vẫn thường ràng buộc tự
tâm. Tuy chẳng dám quên niệm Phật, nhưng nói chung là chẳng
cảm thấy đắc pháp. Vẫn khẩn khoản xin thầy
ban cho một lời. (Tăng
Hiến Lập hỏi)
Đáp: Mọi chuyện
đều do tập luyện, sau đấy mới thành thục.
Huống chi Hoặc đă lâu xa, làm sao có thể chế phục
trong một thời gian ngắn cho được? Tinh tấn
bất thoái, núi c̣n có thể dời. Xuân ấm, Hạ nóng,
Thu mát, Đông lạnh, đều do dần dần mà thành,
chẳng thể gấp rút được! Mạnh Tử
nói: “Dục tốc tắc bất
đạt” (Mong cho nhanh chóng, sẽ chẳng đạt
được). Cổ ngạn ngữ có câu: “Công đáo tự nhiên thành” (Công
sức đă đạt đủ mức, sẽ tự
nhiên thành tựu).
* Hỏi: Khi niệm Phật
cứ thường nhớ đến phần dưới
thân thể của chính ḿnh; đấy có phải là do đời
đời kiếp kiếp trong quá khứ đă tạo dâm
nghiệp quá nặng hay không? Làm thế nào để trong
khi niệm Phật, sẽ hoàn toàn quên mất ư niệm nhớ
đến phần dưới thân thể? Xin chỉ dạy
cho! (Điền Quán Xác hỏi)
Đáp: Dâm nghiệp trong quá
khứ chính là túc nhân. Nay chẳng có dâm duyên quá nặng, nó
cũng chẳng thể luôn luôn dấy lên hiện hành! Chẳng
thể đoạn túc nhân, ắt phải dứt tuyệt
cái duyên trong hiện thời. Nếu hiểu rơ giáo lư, có thể
tu Bất Tịnh Quán. Hoặc nếu không có huệ lực
ấy, hăy nên trong lúc ấy, nghĩ đến địa
ngục, gấp rút lớn tiếng gọi Phật cầu
cứu. Từng câu nối tiếp nhau khít khao, chẳng sót
một mảy nào. Niệm đến mức âm thanh chấn
động tận kẽ tóc, tay nắm được tay
Phật th́ mới kể như đă thoát khỏi tai nạn.
Nếu không, sẽ vào địa ngục. Hăy làm thử xem!
* Hỏi: Sách Xuất Khổ
Phi Hàng có chép “nếu người
niệm Phật nghiệp chướng quá nặng, nhất
thời khó đạt được hiệu quả,
trước hết cần phải lễ sám cho nhiều.
Đại Bi Sám là tốt nhất”. (Điền Quán Xác hỏi)
Đáp: Mỗi người
có nghiệp lực riêng, mỗi người có căn cơ
riêng! Xuất Khổ Phi Hàng bất quá là một loại sách
để tham khảo, hoàn toàn chẳng phải nhất
định là như thế. Nói chung, đối với hai
chuyện Tín và Giải, ông đều chưa có lực, do vậy,
có lắm nỗi nghi! Chuyện này cần phải hỏi
nhiều, học nhiều. Há ông chẳng nghe lời giáo huấn
“chí tâm niệm một câu A Di
Đà Phật, có thể tiêu trọng tội trong tám
mươi ức kiếp sanh tử” ư? Tôi đặc
biệt dâng lên câu này, cũng là để tham khảo, ngơ hầu
ông khỏi phải “hôm nay
Trương Tam, ngày mai Lư Tứ”, do dự chẳng quyết,
phí uổng thời gian!
* Hỏi: “Chư uẩn nghiệp vi bổn, chư nghiệp
tâm vi bổn, tâm pháp do như huyễn, thế gian diệc
như thị” (Nghiệp là gốc các uẩn, tâm là gốc
các nghiệp, tâm pháp ví như huyễn, thế gian cũng giống
vậy). Chữ Tâm trong từ ngữ “tâm pháp” của bài kệ trên đây là chỉ cái
tâm như mọi người thường nói, tức là thức
thứ sáu (Ư Thức), chẳng phải là chữ Tâm trong “tâm tánh”, đúng không? (Điền Quán Xác hỏi)
Đáp: Chữ Tâm trong bài kệ
ấy cố nhiên có thể nói là thức thứ sáu,
nhưng cội gốc của thức thứ sáu là thức
thứ bảy. Do vậy, cũng chẳng thể gạt bỏ
thức thứ bảy được! V́ thức thứ bảy
thường xuyên suy lường, tứ ngă nhiễm ô, há nó
có thể vô can ư? Nếu nói nghiêm ngặt, thức thứ
tám chứa đựng chủng tử, chẳng đoạn
tập khí, lại do thức thứ bảy phan duyên, há có lẽ
nào chẳng phạm lỗi? Nói chung là một điều vừa
động, trăm điều khác đều nẩy sanh.
* Hỏi: Trong bộ Kim Cang
Kinh Giảng Nghĩa do Giang lăo cư sĩ (Giang Vị Nông)
biên soạn, có khai thị về niệm Phật [như
sau]: “Hơn nữa, Phật là
giác. Niệm nào cũng là Phật, tức niệm nào cũng
là giác. ‘Giác’ là nhận biết bản tánh vô niệm. V́ thế
nói là ‘càng thân thiết hơn’. Do vậy, chỉ có thể một
dạ siêng năng, khẩn thiết, sẽ có thể đạt
đến ‘niệm mà vô niệm’. Hăy nên biết mục
đích của niệm Phật ắt cần phải quy về
‘niệm mà vô niệm’. Quy về vô niệm, tức là trở
về Chân Như, sẽ là chẳng nói đến đoạn
mà tự đoạn, chẳng mong chứng mà tự chứng…”
Ư nghĩa của câu “niệm mà
vô niệm” trong đoạn văn trên đây dường
như là nói niệm Phật khi đă đạt đến
cảnh giới “Phật hiệu miên mật chẳng đoạn”,
hoàn toàn chẳng phải là “muôn
niệm đều dứt bặt, Phật hiệu cũng
chẳng có”. [Tôi hiểu như vậy] có đúng hay
không? (Tiên Thuần Hiền hỏi)
Đáp: Từ ngữ “vô niệm” có cách nói khác hẳn.
Đại khái [vô niệm] là “chẳng có vọng niệm”,
chẳng phải là “không có chánh niệm”. Đối với
chánh niệm, lại nói “niệm
mà vô niệm” th́ “vô niệm”
phải hiểu là “không ǵ chẳng
niệm”. Kẻ học cạn chẳng thể hiểu
câu này! Đại Thế Chí Bồ Tát “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối”, không ǵ chẳng phải là chánh niệm. Tịch
mà thường Chiếu, Chiếu chính là chánh niệm. Chiếu
mà thường Tịch, Tịch chính là vô niệm. Tịch
và Chiếu dung thông lẫn nhau, vừa là hữu niệm, vừa
là vô niệm, quy về Trung Đạo. Hăy suy ngẫm kỹ
lưỡng mấy câu này, sẽ có thể hiểu
được chỉ thú của Giang lăo cư sĩ.
* Ba câu hỏi
của cư sĩ Sĩ Lâm Diệp Giới Lân
1) Hỏi: Quán hạnh Như
Huyễn tam-muội là như thế nào? Cảnh giới sau
khi đă tu chứng là như thế nào? Đến tối
hậu, có thể tu Tịnh Độ hoặc mật pháp cứu
độ thân Trung Ấm hay không? Cảnh giới của thân
Trung Ấm khi mạng chung và thân Trung Hữu trong Thật
Tướng có khế hợp hay không?
Đáp: Quư cư sĩ hết
sức có thành ư, tôi phải nên trọn hết ḷng thành để
đáp. Sơ học cần phải có thầy và bạn; đối
với chuyện xem sách và cách tu, đều phải nên tiến
theo thứ tự, kỵ nhất là tạp loạn, chẳng
theo lề lối! Câu hỏi này tuy lời lẽ chẳng
nhiều, sự cực phức tạp. Có Thiền, có Tịnh,
có Hiển, có Mật, có hiện thời, có kết cục
mai sau, có nhân địa, có quả địa! Đừng
nói là tại hạ không có đa văn như vậy, dẫu
cậy bậc thông gia diễn nói, vẫn sợ rằng chẳng
thể liễu giải ngay lập tức. Mong [hăy gác lại
đó], sau này hăy luận. Chỉ kính dâng vài lời nông cạn
nhập môn để mong ngài xem xét trước.
2) Hỏi: Thường nhật,
dụng tâm vào lúc ban ngày hơi khó liên tục. Nếu dùng máy
thu âm để thu âm kinh văn, Phật hiệu, hoặc
chú ngữ. Sau đấy, vào lúc ban đêm, trong khi ngủ
nghỉ bèn mở lên, sẽ do nghe tiếng mà lọt vào bổn
thức. Xin hỏi cách thức như vậy có thể khiến
cho nghiệp chướng và tập khí dễ tiêu trừ
hơn, lại c̣n khiến cho tu tŕ thành tựu nhanh chóng
hơn hay không?
Đáp: Đấy bất quá
là trợ duyên dùng trong một giai đoạn nào đó mà
thôi. Nếu nương cậy vào đó ḥng tiêu trừ nghiệp
chướng, khiến cho sự tu tŕ được thành tựu,
chẳng phải là [cách ấy] không thể bổ trợ,
nhưng sức mạnh của nó rất yếu. Học
nhân phải chú trọng “hạnh
giải tương ứng, Định Huệ giữ cho
cân bằng”. Hơn nữa, đại sự sanh tử
chẳng phải là do cầu may mà ḥng thành công. Nếu mong
[thành tựu] nhanh chóng, sợ rằng sẽ là “dục tốc tắc bất
đạt” (muốn cho thành công mau chóng sẽ chẳng đạt
được).
3) Hỏi: Khi niệm Phật hoặc tu Quán, ác niệm
dấy lên chẳng dứt, xin hỏi đối trị
như thế nào? Tự tâm hoàn toàn chẳng dấy niệm,
nhưng khi vọng niệm nổi lên, thường biến
thành ác niệm, có phải chính là tạo nghiệp hay không? Lại
nên sám hối như thế nào?
Đáp: Từ kiếp số
nhiều như bụi trần, chúng sanh đă thoạt ch́m,
thoạt nổi, nhiễm đắm tập khí vô lượng
vô biên. Nếu chúng có h́nh tướng, hư không khó thể
chứa đựng nổi! Nếu cầu cho vọng niệm
chẳng dấy lên, trừ phi đă đoạn sạch hai
thứ Hoặc (Kiến Hoặc và Tư Hoặc)! Tu hành th́
ắt phải có công phu thường hằng. Nếu mong vừa
niệm liền thành, nói theo học lư, sẽ chẳng suông!
Hăy nên biết khi chí tâm niệm Phật, bèn chế ngự
Hoặc chẳng cho chúng nó dấy lên. Nếu có thể liên
tục chẳng dứt, hợp thành một khối, đấy
chính là cách sám hối, chính là cách đoạn Hoặc. Hoặc
đă đoạn, sẽ chẳng có vọng niệm, quả
vị bèn thành.
* Một
câu hỏi của cư sĩ Trang Nam Gia ở Đài Bắc
* Hỏi: Ngu mỗ ban đêm
đọc bài Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia đại
sư, đến câu “mộng
lư minh minh hữu lục thú, giác hậu không không vô đại
thiên” (trong mộng rành rành bày sáu nẻo, giác rồi ba cơi
rỗng toang hoang), tâm trí chuyên chú, chợt cảm thấy
thân tâm đều vắng lặng, tự tại vô ngại.
Lúc ấy, chợt nghe tiếng chuông cửa (con gái út từ
bên ngoài trở về), trong sát-na ấy, toàn thân thanh
lương. Cảm giác thanh lương ấy trải qua
giấc ngủ một đêm măi cho đến lúc ăn
điểm tâm vào sáng hôm sau mới tan. Trong khi ngủ, cảm
giác thanh lương ấy vẫn rơ rành rành. Hơn nữa,
suốt đêm chẳng mộng mị, thoải mái dị
thường. Chẳng biết cảm giác thanh lương
mà thân thể cảm nhận khi ấy rốt cuộc do
đâu mà có? Trong quá tŕnh học Phật, t́nh cảnh như
vậy có phải là b́nh thường hay không? Nên gọi nó bằng
danh xưng ǵ?
Đáp: Chuyện như ông
đă rộng ḷng hỏi tới, có ba trọng điểm:
1) Cảm giác thanh
lương ấy rốt cuộc do đâu mà có? Thưa,
đấy chính là do đọc Chứng Đạo Ca, tâm có
sự liễu giải, thô tướng vọng niệm tạm
thời chẳng dấy lên, bèn hiện ra cảnh giới ấy.
Tuy chỉ một đêm, cũng rất khó có. Chẳng phải
là do đă có căn khí từ xưa, sẽ chẳng thể
như thế được!
2) Trong quá tŕnh học Phật,
đó có phải là b́nh thường hay không? Thưa, nói theo
Văn và Tư, khi không có tạp niệm quấy nhiễu
th́ mới có thể như thế. Nếu không, sẽ chẳng
thể thường đạt được.
3) Nên gọi bằng danh
xưng nào? Thưa, có thể gọi là “thô tướng tịnh niệm”.
* Chín câu hỏi
của cư sĩ Khang Triều Hội ở Đài Bắc
1) (Lược
đi phần đầu) Hiện thời, tôi đă quên.
Thuở ấy, khi ngồi một ḿnh, lúc chỉ tĩnh[7] vẫn
tŕ bốn chữ, bỗng nghe trong cả thất, khắp
cả không gian đều là bốn chữ Phật hiệu.
Âm điệu ấy hết sức êm tai. Hơn nữa,
trong tất cả các đạo tràng của hàng xuất gia
hoặc tại gia suốt cả một vùng phía Bắc mà
tôi đă đến, đều chưa từng nghe thấy
âm điệu giống như tai tôi nghe (hoặc tâm nghe). Tiếng
niệm ấy chẳng nhanh, chẳng chậm, ngay trong lúc
tôi ngủ say cũng nghe thấy, khi tỉnh giấc
cũng nghe thấy. Trong đầu, trong tai, trong tâm, trong
không gian, đều là cùng một âm điệu. Bất cứ
âm thanh nào trong thế gian cũng đều chẳng xáo
động được. T́nh h́nh ấy tốt đẹp
lư tưởng vô cùng!
Đáp: Nói chung, lời hỏi
của quư cư sĩ hết sức phức tạp! Trước
hết, tôi đành nêu ư kiến như thế này để
làm điều tham khảo cho mai sau, [ngơ hầu ông] có thể
nhờ vào đó để noi theo đường chánh, chẳng
đến nỗi nửa đường sanh chướng!
Chân tâm học Phật, muốn liễu sanh tử, khởi
đầu th́ ắt phải trước hết là hiểu
rơ đường lối. Nếu không, sẽ chẳng dễ
thành công!
a) Trước hết, hăy cầu
thầy chỉ dạy và thiện tri thức giúp đỡ.
Học sao cho có sự nhận thức rồi mới có thể
tự tu. Nếu không, chính ḿnh ṃ mẫm trong bóng tối, chẳng
có học vấn, không có bầu bạn, khó thể tránh khỏi
đụng vách, sụp hầm!
b) Bất luận học pháp
môn nào, đều cần phải phá mê, khơi mở lối
ngộ. Để khai ngộ, cậy vào huệ. Huệ có
điều kiện căn bản, trước hết phải
nên giữ giới, do Giới sanh Định, Định
sanh Huệ. Chẳng có Giới, huệ ấy sẽ là tà!
c) Để vào cửa Phật,
trước hết nên cầu Văn. Nghe xong rồi mới
suy nghĩ kỹ. Suy nghĩ đến khi chẳng có nghi hoặc,
nương theo đó để bắt đầu tu. Biết
noi theo đường lối đó, sẽ đi đúng
khuôn khổ. Nếu không có thầy, chẳng giữ giới,
chẳng có Văn và Tư, sợ rằng phần lớn sẽ
lạc lối!
Khi quư cư sĩ ngồi một
ḿnh, chỉ tĩnh, trong thất không có ai, bỗng trỗi
tiếng Phật hiệu, há chẳng phải là chuyện kỳ
quái ư? Cư sĩ thấy chuyện quái lạ, lại
mê thích điều quái lạ. Ngủ và tỉnh đều
kỳ quái! Năo, tai, tâm, không trung đều có điều kỳ
quái, vẫn nghĩ là chuyện hết sức lư tưởng
tốt đẹp! Đấy chính là lỗi lầm phát xuất
từ cái tâm cầu may “chưa
đắc Định mà đă khai Thiên Nhĩ Thông, có thể
nghe tiếng niệm Phật ở nơi khác”! Hoặc là
cho rằng công đức của chính ḿnh ṿi vọi, hộ
pháp già lam đến trợ niệm ư? Nếu tự suy
lường, [sẽ thấy] cả hai đằng đều
sai. [Hiện tượng ấy] là do vọng tâm cầu may
tạo thành hiện tượng hư huyễn.
2) Hỏi: Bất quá âm thanh ấy
và tiếng niệm của bệnh nhân trong Phật
đường của bệnh viện cùi ở Tân Trang có
sự sai khác hết sức vi tế. Kể từ sau khi
tôi nghe thấy âm thanh ấy, tôi liền ngưng dứt chẳng
đến Phật môn trong vùng nữa, chính ḿnh đơn
độc niệm. V́ âm thanh niệm tụng thánh hiệu
trong chùa miếu đều thô tháp. Tiếng niệm [trong
chùa miếu] tách thành hai câu thượng và hạ, âm thanh của
mỗi câu mỗi chữ do sự hít thở để phát
ra giống như là yêu khí, yêu nhân niệm thánh hiệu. Nghe họ
niệm chẳng thấy thoải mái!
Đáp: Tôi nghĩ thời
gian ông học Phật chẳng lâu. V́ thế, Ngă Chấp rất
nặng, chẳng thể khống chế cái tâm phân biệt.
Cái ông nghe từ bệnh viện cùi và cái ông nghe từ các
chùa miếu đều là nghe tiếng, chưa từng nghe
Phật! V́ thế trong ruộng tám thức, nhiễm chấp
thanh tướng, chưa gieo Phật hiệu! Đối với
cái yêu thích bèn đắm nhiễm sâu đậm, đối
với cái ghét bỏ th́ nông cạn, hời hợt. Âm thanh
hiện ra trong khi chỉ tĩnh lúc ấy chính là âm thanh do
ông đă nghe tại bệnh viện phong cùi hiện hành.
3) Hỏi: Kể từ sau
khi nghe trong không trung và tai có bốn chữ thánh hiệu, thường
là khi dùng âm thanh nhỏ khẽ để niệm các kinh chú
khác, hoặc thánh hiệu Phật, Bồ Tát khác, tai tôi đều
nghe thành tiếng niệm do âm thanh từ không trung, chẳng
phải là âm thanh từ miệng tôi phát ra.
Đáp: Kinh, chú, thánh hiệu
do miệng chính ḿnh tụng, tai nghe thành tiếng niệm
khác từ trong không trung. Đấy chính là ba thức nơi
tai, lưỡi và ư chẳng tương ứng, tự nhiễu
loạn nhau, chẳng phải là Chỉ hay Định ǵ cả!
4) Hỏi: T́nh huống ấy
xác thực là chẳng gián đoạn trong từng sát-na. Mỗi
giây, mỗi sát-na trong hai mươi bốn tiếng đồng
hồ đều chẳng gián đoạn. Nhưng sau bốn
năm ngày, tôi dấy lên một vọng tưởng, niệm
theo tiếng ấy, rất lạ lùng là âm thanh bèn biến
đổi, tốc độ của nó tăng nhanh hơn.
Tôi dụng tâm tận lực niệm theo, tiếng niệm
trong không trung biến thành niệm càng nhanh hơn nữa. Tốc
độ âm thanh dồn dập hết sức nhanh, hết
sức cao chót vót. Ước chừng duy tŕ khoảng mười
bốn ngày, tôi chẳng c̣n theo kịp nữa, âm thanh
cũng tiêu mất! Kết quả là t́nh h́nh phát sanh sau
đó măi cho đến nay hoàn toàn tương đồng với
bệnh cảnh như trong câu hỏi thứ tư của
cư sĩ Lư Tâm Thành được đăng nơi trang
năm mươi hai báo Bồ Đề Thụ số ra
đầu tháng Hai năm Dân Quốc 64 (1975).
Đáp: Ông nói “tôi dấy lên một vọng tưởng”. Ôi! Luôn
luôn dấy động vọng tưởng, nào phải chỉ
có một lượt! Nếu chẳng động vọng
tưởng, há có âm thanh kỳ quái! “Niệm theo tiếng ấy” chính là học theo sự
kỳ quái, đánh mất tự tâm! Nhưng âm thanh phát ra vẫn
là Phật hiệu, càng niệm càng nhanh, nhanh đến chỗ
tột bậc, có lẽ là do tiếng niệm Phật ḥa
thành một khối, tự nhiên là điều kỳ quái sẽ
tiêu mất. Tuy gặp phải t́nh cảnh khốn khó nhỏ
nhặt, biết đâu là có phước!
5) Hỏi: Kể từ sau
khi âm thanh biến thành nhanh chóng, ở miền Bắc, tôi
đă thỉnh vấn mấy vị cao tăng ḥa thượng,
họ chỉ dạy tôi “chẳng cần quan tâm đến
âm thanh ấy”, nhưng chẳng có câu thứ hai nào để
giải thích! Lại nghe có người nói, “khi đă tiết
lộ cảnh giới tu tŕ, sau đó sẽ chẳng đạt
được nữa, lại càng chẳng thể tinh tấn”.
Đúng là khiến cho tôi áo năo, hối hận khôn nguôi. Hiện
thời, tôi thấy câu hỏi thứ tư của cư
sĩ Lư Tâm Thành, khác nào cây khô gặp tiết Xuân, hết sức
vui mừng. Do vậy, mạo muội thỉnh giáo.
Đáp: Học Phật nếu
để cầu liễu thoát sanh tử, ắt cần phải
đoạn Hoặc. Chẳng hiểu lư ấy, rốt cuộc
vẫn ở trong luân hồi. Pháp môn Tịnh Độ
đới nghiệp văng sanh. “Đới
nghiệp” hàm ư “nghiệp”
chính là Hoặc. Tuy chẳng thể đoạn, ắt cần
phải trước hết là chế phục. Chế phục
là chưa đoạn, nhưng chẳng để cho nó dấy
lên. Nếu chẳng chế phục, sẽ chẳng thể
văng sanh. “Hoặc” chia thành
hai loại là Kiến và Tư. Tư Hoặc chính là tham, sân,
si, mạn, nghi. Trong đoạn “tôi
đến thỉnh vấn suốt miền Bắc” của
quư cư sĩ, lời lẽ đă mang ư châm biếm, ôm ḷng
ngă mạn. Chẳng cần biết đối phương
như thế nào, chính ḿnh trước hết đă dấy
phiền năo, đă rất thất lễ trong việc vấn
đạo, làm sao đạt được ǵ? “Chẳng quan tâm đến âm thanh
ấy”, lời lẽ tuy đơn giản, xác thực
là chánh luận. Cổ nhân có giáo huấn: “Kiến quái bất quái” (Thấy chuyện lạ
lùng, chẳng coi là lạ lùng). C̣n như nói “tiết lộ, về sau chẳng đạt
được nữa” v.v… “khiến cho tôi áo hôi (có lẽ
là “hối”)[8]
khôn cùng”; chuyện lạ lùng tiêu mất tức là ma
đă rút lui, lại ngược ngạo hối hận, áo
năo. Đúng là tri kiến bất chánh vậy!
6) Hỏi: T́nh h́nh ấy là tốt
hay xấu? Mỗi ngày tôi thường hoài niệm, mong sao cảnh
giới ấy tái hiện. Có phải là nó sẽ lại hiện
ra hay không? Hiện thời, làm như thế nào để
duy tŕ bất biến? V́ sau khi âm thanh của bốn chữ
thánh hiệu êm tai trên không trung tiêu mất, tôi liền buông bỏ
pháp môn Tịnh Độ, chuyên t́m kiếm trong kinh giáo để
t́m hiểu những vấn đề liên quan đến
t́nh huống trong mười bốn ngày của tôi, nhưng
chẳng t́m được lời chỉ dạy nào! Xem
kinh đă hơn một năm, trong tâm càng thêm phiền muộn,
rối loạn, bèn buông bỏ kinh điển, quay lại
niệm bốn chữ thánh hiệu cho đến nay đă
khoảng một năm. Kết quả là niệm Phật
hoàn toàn giống như lời hỏi thứ tư của ông
Lư, chẳng có tiến bộ chi hết!
Đáp: Tốt hay xấu chẳng
biết, chỉ là tà và chánh chẳng phân! Mong cầu [âm thanh
lạ lùng] tái hiện, tức là hư vọng phan duyên. “Thiên hạ vốn vô sự,
khăng khăng muốn tự tạo nỗi rối ren”
quá nhiều! Rốt cuộc buông bỏ Phật hiệu, há
chẳng phải là chuốc lấy ma, bị thoái chuyển
ư? Đổi sang xem kinh giáo, lại càng thêm phiền loạn.
Lại vứt bỏ kinh giáo, lại niệm
bốn chữ, thoạt Đông, thoắt Tây, đó là cảnh
giới nào? Ông cứ suy nghĩ kỹ, chắc là sẽ tự
biết. Những chuyện này đều do đă phạm lỗi
vứt bỏ học vấn, chẳng có thầy vậy!
7) Hỏi: Trước kia, bắt
đầu tu Tịnh Độ, măi cho đến khi nghe tiếng
niệm Phật trên không trung là một khoảng thời
gian rất lâu, chẳng thấy cảnh giới, chẳng
nghe cảnh giới, chẳng quan tâm có cảm ứng hay
không, cứ một mực niệm bốn chữ mà thôi,
hoàn toàn chẳng có bất cứ cảnh giới nào, chẳng
hề có cảnh giới như trong câu hỏi thứ
tư của ông Lư. Tiếng niệm Phật trong không trung bỗng
dưng hiện ra, bỗng dưng nghe thấy, có muốn
tránh né cũng chẳng được, trừ bỏ chẳng
được! Bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ
nào, cũng đều là bốn chữ thánh hiệu đầy
khắp không trung!
Đáp: Đối với tiếng
Phật hiệu trong không trung, trong phần trước, ông
đă nói là lư tưởng tốt đẹp, nay lại nói
là “muốn tránh né, muốn trừ bỏ”. Những điều
ấy đều là do “tâm không có phương hướng
nhất định” tạo thành. Đối với cảnh
giới, hễ thanh tịnh vô tướng th́ là tốt
đẹp. Nếu chẳng hiểu rơ giáo lư, vọng tưởng
cảnh giới. sợ rằng sẽ xuất hiện những
nỗi sai lầm khác. Hăy nên cẩn thận!
8) Sau khi tiếng Phật hiệu
trong không trung tiêu mất, tôi cũng sợ chết. Do vậy,
cũng thấu hiểu tầm quan trọng của việc
trợ niệm. Trợ niệm th́ phải có cái duyên trợ
niệm. Nói “trợ niệm” rất dễ dàng, nhưng muốn
thực hiện chuyện trợ niệm, nhân duyên cũng
chẳng đơn giản. Tại miền Bắc, như
tôi thường được thấy nghe, những
người niệm Phật nếu chẳng phải là có
quan niệm hệ phái, hoặc có quan niệm danh lợi, hoặc
quan niệm là thành phần của tổ chức, đoàn thể,
sẽ chẳng có sự trợ niệm thực tế! Kết
quả là những vị cư sĩ và ḥa thượng danh
tiếng lừng lẫy, sau khi đă chết, hết thảy
đều chẳng khiến cho người khác có mảy
may hoài niệm, kính ngưỡng, chẳng có thụy tướng.
Do vậy, hễ bệnh nguy cấp, bèn vội đưa
vào bệnh viện. Chết đi, di sản cả một
đống lớn!
Đáp: Tâm sanh th́ cảnh
sanh; tâm diệt, cảnh bèn diệt. Tâm tịnh th́ cảnh
tịnh; tâm uế, cảnh bèn uế. Mọi chuyện
đều do nghiệp cảm chiêu vời mà hiện, lư ấy
hết sức rơ ràng. Nói đến chuyện trợ niệm
khi mạng chung, cũng chẳng ra ngoài sự cảm vời
lúc thường ngày. Nếu v́ danh lợi mà niệm Phật,
làm sao có thể cảm vời người chân tu đến
trợ niệm? Kính khuyên cư sĩ, từ nay hăy buông xuống
cái tâm phân biệt. Chỉ cầu chính ḿnh hổ thẹn,
đừng thấy chuyện đúng sai của người
khác. Hăy thật thà niệm Phật, luôn luôn sám hối. Hai ba
năm sau, sẽ tự được thọ dụng.
Người học Phật chú trọng tự tu trong nội
tâm, chẳng màng khen chê điều thiện lẽ ác của
người khác. C̣n như khi lâm chung, chẳng biết là
lúc nào. Nếu thật sự gieo thiện nhân, khi khuất
bóng, sẽ tự có thiện duyên.
9) Hỏi: Người niệm
Tây Phương Tịnh Độ, hăy coi loại cảnh giới
cảm ứng nào trong tâm là ổn thỏa, thích đáng nhất?
Lấy chẳng trợ niệm làm nguyên tắc!
Đáp: Kinh dạy “nhất tâm bất loạn”,
há chẳng tin ư? Nhất tâm hoàn toàn là do tự tu trong
thường nhật, chẳng phải là ngẫu nhiên mà
thành. Loạn do tâm tạo, Hoặc nghiệp dấy lên hiện
hành, tức là tâm loạn. Khi Hoặc nghiệp dấy lên,
chẳng thể nhất tâm, đó là điều ngàn vạn
phần chánh xác! Tuy khó đoạn Hoặc, ắt cần phải
chế phục Hoặc. Nếu có thể chế phục, sẽ
có thể đới nghiệp văng sanh. Nếu chẳng gặp
thầy, cần phải t́m bộ Di Đà Yếu Giải
do tổ Ngẫu Ích chú giải, pháp sư Viên Anh giảng
nghĩa để nghiên cứu kỹ càng. Ngoài ra, c̣n có bộ
Ngữ Lục của thiền sư Triệt Ngộ, Gia
Ngôn Lục của pháp sư Ấn Quang v.v… hăy xem mấy
lượt, sẽ có thể giúp cho sự tiến bộ.
* Ba câu hỏi
của cư sĩ Trần Văn Viêm ở Phụng Sơn
1) Hỏi: Người tu hành
bị kẻ khác hủy báng, coi thường, sẽ nhường
nhịn kẻ ấy, chẳng quan tâm đến kẻ ấy
đúng không?
Đáp: Trong Phật pháp Đại
Thừa, chánh hạnh là Lục Độ, độ thứ
ba là Nhẫn Nhục, người học Phật ắt cần
phải phụng hành. Huống chi bị kẻ khác hủy
báng, coi thường, tức là điều nhục nhỏ.
Nếu chuyện nhỏ mà c̣n chẳng thể nhẫn
được, làm sao có thể nhẫn nại chuyện to
lớn, gánh vác chuyện lớn lao? Hơn nữa, nếu
ngoại cảnh chẳng trái ngang, làm sao có thể hành Nhẫn
Độ cho được? Đấy chính là cơ duyên
để tấn tu, tăng thượng công đức.
C̣n như nhường nhịn kẻ khác, đấy chính
là hạnh tiêu cực. Nếu có thể khuyến hóa, chuyển
biến họ, mới là đại tâm Bồ Đề.
2) Hỏi: Tịnh Độ
Tông chỉ niệm thánh hiệu và lập chí nguyện sẽ
được linh cảm. Tông này khá thích hợp đối
với tôi, chỉ có điều chẳng biết nên tu hành
như thế nào?
Đáp: Học Phật ắt
cần phải giải hạnh tương ứng. Nếu
không, sợ là sẽ đâm quàng ngơ rẽ! Kinh điển tột
bậc sâu xa, tột bậc vi diệu, chú giải kinh
điển và các bộ luận trong Tịnh Độ
đúng là “trâu chở toát mồ
hôi, chất đầy đến tận kèo nhà”. Mức
độ thấp nhất là cần phải đọc hết
Tịnh Độ Thập Yếu. Nếu cầu tác phẩm
giản yếu, cũng ắt phải đọc bộ Di
Đà Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư.
Đọc đi đọc lại năm lượt, có thể
nhận biết đại khái môn đ́nh. Ắt cần phải
xem bộ Giảng Nghĩa của pháp sư Viên Anh, cũng
phải đọc từ ba lượt trở lên. Nếu
không, đọc quá ít, sẽ chẳng hiểu rơ. Nếu
trong tay không có sách, có thể gởi thư nói rơ, tại hạ
có thể kính tặng.
3) Hỏi: Muốn thành Phật,
cần phải đoạn phiền năo, phá Trần Sa, diệt
vô minh, chỉ có điều chẳng biết trừ khử
phiền năo như thế nào? Tôi phiền năo nhiều
hơn phàm nhân, chẳng biết là do nguyên nhân ǵ!
Đáp: Phiền năo do nhiều
kiếp tích tập thành, ai nấy đều là vô lượng
vô biên. Biết như vậy bèn tu, công phu đạt mức
th́ mới đoạn được! Nhưng Kiến
Tư có bao nhiêu phẩm, phân phối như thế nào, để
hiểu biết c̣n là chuyện khá phức tạp, đoạn
trừ há là chuyện dễ dàng ư? Nếu thật sự
đoạn Kiến Tư, tức là đă hết Phần
Đoạn Sanh Tử. Phá Trần Sa Hoặc, chính là chuyện
của hàng Bồ Tát thuộc những địa vị Thập
Thánh, Tam Hiền. Chẳng hiểu rơ giáo lư, sẽ chẳng
có cách nào thực hiện được! Nói đến lư
vô minh, trước hết phải hiểu tam tế, lục
thô, cuối cùng là đoạn sạch nguyên thỉ vô minh, mới
chứng Phật quả. Sơ cơ nghe nói như vậy,
mờ mịt chẳng có đầu mối! Chỉ cần
đem bộ Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Nghĩa của
pháp sư Viên Anh nhẫn nại đọc thuộc ḷng, sẽ
có thể biết đại khái.
* Ba câu hỏi
của cư sĩ Kỳ Nguyệt ở Cao Hùng
1) Hỏi: Toàn tánh khởi tu,
cớ sao nói là “toàn tánh”? Có
phải là nói đến Ngũ Uẩn, lục căn hay không?
Tu học niệm Phật là nhiếp trọn sáu căn, tham
Thiền là chế ngự tâm một chỗ, hoặc tu Lục
Độ, Chỉ Quán v.v… có được coi là toàn tánh khởi
tu hay không?
Đáp: Trong Phật pháp Đại
Thừa, vốn nói theo sự lư, tánh tướng viên dung, chớ
nên thiên chấp. Hễ chấp, sẽ chẳng viên. Kẻ
sơ học sẽ chẳng thể liễu giải câu hỏi
này! Nghe nhiều, nghĩ nhiều mới biết. Ở
đây, tôi gượng giải thích đại lược,
bất quá mong rằng sẽ do nông cạn mà nhập chỗ
sâu. “Như như bất động”
là nói đến chân tâm. “Sâm la vạn
tượng” là nói đến pháp giới. Tâm và pháp giới
chẳng phải hai, chẳng phải một. Kinh nói đến
Nhất Chân pháp giới là nói Chân Như và vạn pháp b́nh
đẳng. Hễ ngộ, hết thảy đều viên
dung; mê th́ pháp nào cũng bị chướng ngại. Trước
hết, hiểu rơ lư này, sau đó mới nói đến “toàn tánh khởi tu”. Dùng quán
đế để luận, Nhất Tâm Tam Quán chính là một
phép Quán dung thông cả ba đế Không, Giả, Trung, chẳng
phải là tách ra từng đế Không, Giả, Trung để
quán. Lại như niệm Phật, niệm một câu Phật
hiệu, mười phương ba đời Phật, Tam
Tạng mười hai bộ loại [đều được
bao gồm]. Một niệm, hết thảy niệm, đó
chính là “toàn tánh khởi tu”.
2) Hỏi: Phép Quán thứ nhất
trong Thập Lục Quán Kinh có nói: “Thử Quán tu thành, khai mục, bế mục, thử
nhật bất thất” (tu thành phép Quán này, nhắm mắt,
mở mắt, mặt trời [được quán thành] ấy
chẳng mất), cho đến các phép Quán nước, cây cối,
quán Phật v.v… có phải là Quán cũng chẳng ra ngoài nhất
tâm, chỉ do tâm tạo thành hay không? Nếu khi học nhân
niệm Phật, hoặc làm chuyện khác, phép Quán ấy vẫn
có thể chẳng mất ư? Nếu chẳng mất, há
chẳng phải là nhị tâm? Nếu mất đi, há có phải
cũng coi như là sanh diệt đấy chăng?
Đáp: Kinh có dạy “bất biến tùy duyên” và “tùy duyên bất biến”. Lại
có câu “tịnh niệm tiếp
nối”, cho đến “gánh
nước, chở củi, đều là pháp ấy”. Câu
trước dường như là chẳng sanh diệt, câu
sau dường như là sanh diệt. Quư cư sĩ thấy
theo kiểu nào? Nếu hiểu là tùy duyên, niệm Phật sẽ
chẳng trở ngại làm chuyện khác! Nếu hiểu là
bất biến, làm chuyện khác chẳng trở ngại niệm
Phật. Lư cố nhiên là như thế, nhưng đối
với Sự, cần phải dụng công.
3) Hỏi: Tác quán và tŕ danh niệm
Phật, tuy cùng là dẫn về Cực Lạc Tịnh
Độ, trên phương diện tu tŕ, có phải là hai loại
công phu hay không? Quán Kinh đến phép Quán cuối cùng, [tức
là] trong phép Quán hạ phẩm hạ sanh, mới bắt
đầu đề xuất tŕ danh hiệu Phật.
Người tŕ danh niệm Phật đến mức độ
nào th́ mới có thể thượng phẩm thượng
sanh?
Đáp: Pháp tuy có tám vạn bốn
ngàn, hạnh cần phải chuyên nhất. Lư tuy nói là “chẳng
thể nghĩ bàn”, Sự cần phải từ một môn
để nhập. Tác Quán (quán tưởng) và tŕ danh xét theo
Lư chẳng hai; về Sự, mỗi pháp mỗi khác. Dùng sai
lầm, sẽ uổng công nhọc nhằn! Tôi lấy thí dụ
dùng bột ḿ làm thực phẩm để giải thích. Làm
sợi ḿ, làm sủi cảo[9] cần
phải nấu bằng nước nóng. Làm bánh man đầu[10],
các loại bánh bột v.v… cần phải hấp trong lồng.
Các loại bánh th́ hoặc áp chảo, hoặc nướng, hoặc
chiên, bánh rán[11] chiên dầu ắt
phải đổ đẫm dầu
để chiên. Chẳng đúng cách thức, sẽ chẳng
thành món ăn. Phép Quán thứ mười sáu là Tŕ Danh, có dụng
ư bổ cứu cho kẻ quán lực ít ỏi, yếu kém.
Pháp thượng phẩm thượng sanh đă được
kinh dạy rơ ràng!
* Mười
một câu hỏi của cư sĩ Tăng Hiến Vỹ
ở Trung Lịch
1) Hỏi: Tôi từng dựa
theo lời dạy trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện Kinh, đặt một chén nước sạch,
các loại hoa tươi khác, bánh quy v.v… cũng đặt
trước tượng Địa Tạng. Sau đấy,
cung kính chắp tay bạch Địa Tạng Bồ Tát,
nguyện có tánh đọc tụng đối với kinh
điển Đại Thừa và các thứ học vấn
thế gian. Trong hai ngày đầu, tận lực niệm
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh bảy biến.
Lại c̣n ăn chay trong ṿng bảy ngày. Đối với
hai phương diện dâm niệm và vọng ngữ, cũng
tận hết khả năng giảm đến mức thấp
nhất, nhưng cho đến nay, vẫn chưa từng
có ngày nào trong mộng có bất cứ thứ cảm ứng
nào. Chẳng biết là không đúng pháp ở chỗ nào?
Đáp: Đấy chính là chuyện
thuộc về cầu nguyện phát huệ. Khi hành, ắt
phải đạt đến mức tinh thành. Trong kinh
đă dặn ḍ kiêng ngũ tân, rượu, thịt, giết
chóc và dâm, vọng v.v…, ắt là tâm niệm thanh tịnh th́ mới
có thể cảm ngộ. Cả bảy ngày đều
như thế, cái tâm ấy cần phải liên tục chẳng
đoạn. Nếu chẳng liễu giải cách tùy thời
khắc chế ư niệm, sẽ không thể làm được.
Đừng nói là bảy ngày, dẫu một ngày, cũng cần
phải có công phu tu tập to lớn. Quư cư sĩ chỉ
nói “tận hết khả
năng giảm thiểu đến mức độ thấp
nhất”, tức là phạm lỗi thứ nhất, cái
tâm chưa thanh tịnh vậy. Lại nói “cho đến nay chưa từng có cảm ứng
trong mộng”. Cảm ứng như trong kinh đă dạy
chính là nói đến trong ṿng bảy ngày cầu nguyện. Nếu
không có cảm ứng [trong khi ấy], tức là hăy nên tiếp
tục thực hiện trong hai mươi mốt ngày. Nay
ông lầm tưởng là sự cảm ứng sau khi đă
niệm xong, đấy là lỗi thứ hai, do chưa hiểu
ư nghĩa trong kinh vậy.
2) Hỏi: Người học
Phật chớ nên cầu thần thông, nhưng tôi đọc
truyện của tôn giả Mật Lặc Nhật Ba
(Milarepa), thấy trong quá tŕnh tu đạo, tôn giả Mật
Lặc Nhật Ba do đă từng thấy Thượng
Sư [Marpa] thần thông biến hóa, bèn phát nguyện tận
lực học. Nay chúng ta biết thần thông thường
khiến cho người ta tự măn, khoe khoang, cho nên có hại
nhiều hơn là có lợi. Nhưng nếu có thể học
những thứ thần thông nho nhỏ, lại thường
răn nhắc chính ḿnh: “Chớ nên đắc ư quên bẵng!”
Như thế th́ đối với ḿnh, đối với
người, đều thuận tiện. Huống hồ
đạt được thần thông, sẽ cảm kích,
vui sướng có thừa, đối với những đạo
lư khác do đức Phật đă nói, nhất định sẽ
dốc hết ḷng tin, chẳng nghi. Trong t́nh huống ấy,
v́ sao chẳng thể học thần thông? Hơn nữa,
thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, có khá nhiều vị
trong hàng đệ tử có thần thông. Đủ thấy
đức Thế Tôn cũng truyền dạy thần thông
cho đệ tử. V́ sao ngày nay, hễ nhắc đến
thần thông, đều bị coi là kém cỏi, chẳng
đáng nói tới? Kết quả là chẳng đắc thần
thông, mà đối với phương diện đạo
lư trong Phật pháp cũng chẳng thấy khai ngộ. Cuối
cùng lâm vào t́nh cảnh “chẳng thành một điều ǵ!”
Đáp: Chiếu theo giáo lư
thông thường để nói, thần thông có báo đắc
và tu đắc sai khác. Nếu công phu định lực
thành tựu, mới có hy vọng phát khởi thần thông. Nếu
chẳng cầu Định lực, chuyên học thần
thông, đừng nói là khó thể hiểu lư, mà cũng cần
phải có người truyền trao. Dẫu gặp minh
sư trao truyền, thành tựu hay không vẫn là do tu tŕ,
hoàn toàn chẳng phải là ai học cũng đều thành!
Đơn giản như thế đó. Trong các vị đệ
tử của đức Phật, những vị có thần
thông đều là những vị đă chứng quả.
Đoạn Kiến Tư Hoặc, sẽ trọn đủ
Lục Thông, chẳng phải là đắc thần thông
trước rồi mới đoạn Hoặc! Ông lại
nói “ngày nay hễ nhắc đến
thần thông bèn coi là kém cỏi”, đấy chính là quư
cư sĩ đă hiểu lầm! Bởi lẽ, hiện thời
pháp yếu, ma mạnh, chân ngụy chẳng biện định,
kẻ hiếu sự mạo nhận đă chứng đạo
quả, bịa đặt, dựng chuyện, khiến cho
hàng hậu học bị lầm lạc, chẳng thể
không ngăn ngừa chuyện ấy. Chẳng phải là phản
đối Lục Thông nơi chánh quả.
3) Hỏi: Dẫu người
học Phật thật sự chẳng mong đắc thần
thông do chuốc lấy nhiều nỗi phiền phức
chướng ngại, nhưng đối với chuyện
như thấy tượng Phật, ngửi mùi hương
lạ v.v… có thể cổ vũ con người, khiến
cho người ta nẩy sanh ḷng tin, v́ sao cũng theo lệ
ngăn cấm?
Đáp: Đấy cũng là
hiểu lầm, có thể thấy Phật hoặc ngửi
mùi hương là do công phu của chính ḿnh, hoàn toàn chưa
nghe thấy có chuyện ngăn cấm! Hăy nên biết, những
điều ấy là chuyện thuộc về bổn phận,
thuận theo tự nhiên, chớ nên chấp tướng, hoặc
dấy vọng tưởng, đâm ra mất chánh niệm.
4) Hỏi: V́ sao Hoằng Nhất
đại sư thường đối trước Phật,
do sám hối một chuyện nhỏ mà nước mắt
đầm đ́a? Tâm chúng tôi tự vấn, [bản thân
ḿnh] cũng chẳng phải là phường thiếu hụt
liêm sỉ, nhưng chẳng sám hối được. Dám hỏi
như thế nào th́ mới có thể chân thật sám hối?
Đáp: Hoằng Nhất
đại sư khiến cho mọi người khâm phục,
kính ngưỡng, chính là v́ sự tu dưỡng và học vấn
của Ngài đều cao! Vị pháp sư ấy cũng là
thầy mọi người. Ngài hành sám hối, ắt v́ [nhận
thấy] sám hối là chuyện tất yếu, c̣n chúng ta có
lỗi mà chẳng nhận biết, quá dễ dăi đối
với chính ḿnh. V́ thế, thấy người khác sám hối,
bèn cho là chuyện nhỏ nhặt, chẳng cần phải
làm to chuyện. Há chẳng nghe những câu cách ngôn như “đừng thấy điều
ác nhỏ mà làm”, “từng
gịng nước nhỏ chẳng ngăn ngừa, sẽ biến
thành biển cả” v.v… ư? Ngài Hoằng Nhất làm
như vậy mới đạt được tam nghiệp
thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, cho nên thành tựu.
Quư cư sĩ lại hỏi: “Như
thế nào mới là chân thật sám hối”, kính dùng bài kệ
xưa để đáp: “Tội
nhược khởi thời tương tâm sám, tâm nhược
vong thời tội diệc vong, tâm vong tội diệt
lưỡng câu không, thị tắc danh vi chân sám hối”
(Khi tội khởi lên, dùng tâm sám. Khi đă mất, tội
cũng tiêu. Tâm mất, tội diệt, thảy đều
không. Đó mới gọi là chân sám hối). Hăy suy nghĩ kỹ!
5) Hỏi: Trong Phật Thuyết
A Di Đà Kinh có nói, lúc lâm chung chỉ cần thành tâm niệm
Phật, bất luận nghiệp chướng sâu cỡ
nào, đều được tạm tiêu diệt. V́ sao công
đức từ khá nhiều thiện sự đă tạo
trong một đời lại chẳng bằng một niệm
lúc lâm chung? Lại nữa, nếu một kẻ ác khi lâm
chung tự niệm, hoặc nghe người nhà trợ niệm
mà tiêu diệt trọng tội, thậm chí c̣n sanh về Tây
Phương, nhưng một người lành khác, chỉ v́
khi lâm chung chưa thể nhất tâm niệm Phật, kết
quả vẫn luân hồi trong tam giới y như cũ. Nói
như vậy, há chẳng phải là thiếu công bằng
ư?
Đáp: Câu trọng yếu
trong kinh Di Đà là niệm đến mức nhất tâm bất
loạn, lúc lâm chung “tâm chẳng
điên đảo”. Quư cư sĩ chỉ nghe nói thô
lược, chưa hiểu ư nghĩa kinh! Lại nữa,
“thành tâm” và “nhất tâm bất loạn” cũng có khác biệt.
Tuy có pháp trợ niệm khi lâm chung, nếu người sắp
mất chẳng có công phu lúc b́nh nhật và huân tập trong
nhiều đời, sợ sẽ khó đạt được
lợi ích do trợ niệm. Bởi lẽ, người lâm
chung phần nhiều là tâm thần “điên đảo”, hoặc
hôn trầm, mê loạn. Kẻ kém thiện căn, phước
đức, sẽ chẳng thể viện cớ cầu
may được!
6) Hỏi: Trong Phật Thuyết
A Di Đà Kinh dẫn ra khá nhiều danh hiệu Phật,
đều nói hiện tướng lưỡi rộng dài,
trịnh trọng tuyên bố sự trọng yếu của
việc niệm Phật khi lâm chung. Chúng ta là hạng phàm phu
sát đất, nghiệp chướng sâu nặng, chẳng
dám không tin; nhưng đấy vẫn là bị động,
tin tưởng gián tiếp! Xin hỏi là có phương pháp
nào để có thể làm cho người nghe mau chóng nẩy
sanh tín tâm kiên cố hay không?
Đáp: Trong kinh, sáu
phương Phật ấn chứng, đều nhằm hộ
niệm pháp môn Di Đà, chẳng phải là chuyên nói về
chuyện người mạng chung, chớ nên hiểu lầm!
C̣n như nói khiến cho người ta mau chóng sanh ḷng tin
kiên cố, chỉ có kinh Phật. Kinh Phật chẳng tin, bọn
phàm phu chúng ta c̣n làm ǵ được nữa!
7) Hỏi: Trong Phật Thuyết
A Di Đà Kinh có khi nói phải đầy đủ thiện
căn, nhân duyên, có lúc nói bảy ngày liên tục nhất tâm bất
loạn, có lúc nói chí tâm tin ưa, cho đến mười
niệm liền được văng sanh. Thiên sai vạn biệt
như vậy, rốt cuộc là do điều kiện nào
th́ mới có thể văng sanh?
Đáp: Phật pháp không có
người nói, dẫu có trí chẳng thể hiểu! Đừng
nói Phật lư là như thế, ngay cả cách đọc
cũng chẳng liễu giải. Trong kinh Phật, có khi nói
về nhân, có loại nói về quả, có lúc nói thông, có lúc
nói biệt, có kinh nói về sự, có kinh nói về lư, có kinh
nói về nhân duyên, có kinh nói thí dụ v.v… Nói tách ra, sẽ là
thiên sai vạn biệt; gộp chung lại để nh́n,
[sẽ thấy] vốn là một mối. Như con người,
bên ngoài là ngũ quan, tứ chi, trong là lục tạng, lục
phủ, nói ra nhiều tên gọi, nói chung là một thân! Nếu
hỏi đến điều kiện văng sanh, th́ chỉ là
“tín, nguyện, tŕ danh, nhất
tâm bất loạn”.
8) Hỏi: Nếu có cơ hội
rất tốt để học pháp môn Mật Tông, th́ tôi là
một kẻ học Tịnh Độ, có nên dùng thái độ
“pháp môn vô lượng thệ
nguyện học” để học hay không? Hay là dốc
ḷng chẳng màng đến chuyện khác, thật thà niệm
Phật?
Đáp: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”
chính là nhằm dạy học rộng, nghe nhiều,
nhưng hành th́ chú trọng “thâm
nhập một môn” nhằm dạy “chuyên ṛng, duy nhất”.
Chẳng cầu học rộng, sẽ chẳng thể vừa
tiếp xúc bèn hiểu rơ. Thế nhưng nếu chẳng
thông hiểu một pháp, [tất cả những ǵ đă học
rộng răi] sẽ toàn là chuyện hời hợt bề
ngoài!
9) Kinh dạy: “Cập văn chư Phật danh
giả, thị chư thiện nam tử, thiện nữ
nhân giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ
niệm, giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Và nghe danh hiệu
của chư Phật, những thiện nam tử, thiện
nữ nhân ấy sẽ đều được hết
thảy chư Phật hộ niệm, đều được
bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác). Mỗi tối trước khi ngủ, tôi đều
xưng niệm như thế, nhưng quan sát tự tâm, vẫn
thấy tầng tầng nghi hoặc, làm sao có thể nói là “bất thoái chuyển nơi Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”?
Đáp: “Bất thoái chuyển nơi
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” là trong ruộng
tám thức đă gieo một chủng tử. Chủng tử
ấy vĩnh cửu bất diệt, nên bảo là “bất thoái chuyển”. Về
sau gặp duyên, [chủng tử ấy] sẽ có thể sanh
trưởng. Tuy có nghi hoặc, nhưng đă có ấn
tượng bên trong. Nếu chẳng có ấn tượng,
làm sao có nghi hoặc cho được?
10) Hỏi: Các nhà khoa học
nói số lượng tế bào trong năo người không nhất
định. Người ta sau khi trưởng thành, sẽ
có chỉ số thông minh (IQ) nhất định. Uống
thuốc ǵ, dùng các thứ phương pháp, cũng đều
chẳng thể biến thành thông minh. Nhưng tôi thấy
sách Phật ghi chép, người kiền thành học Phật,
trải qua một thời gian kha khá, sẽ được
đại ngộ. Đối với học vấn thế
gian, gần như là hễ học đều thông suốt.
Dám [xin cụ dạy] cho nghe về nguyên cớ, cũng
như mong mỏi được nghe cách tu thực tế
để đạt đến cảnh giới ấy.
Đáp: Tế bào là công cụ
nơi thân người, chẳng phải là động lực
gốc. Như các bộ phận trong một cỗ máy, vẫn
cần phải có một sức thúc đẩy chủ yếu.
Tâm tánh vạn đức vạn năng, Mạnh Tử
cũng nói đến “lương
tri, lương năng”. Nay tôi gượng dùng cái
gương [bằng đồng] để tỷ dụ: Gương
để lâu có chất teng. Mài sạch teng, nó sẽ tỏa
sáng. Chẳng mài, gương sẽ mờ câm! Cổ nhân nói
“tâm kính thư ma” (dùng sách vở
để mài gương ḷng), ông có thể tự hiểu ư
nghĩa.
11) Hỏi: Kẻ tạo ác họa
lây đến con cháu. Con cháu vô tội, v́ sao lại phải
chịu tội thay cho kẻ khác? Kẻ chẳng có Túc Mạng
Thông làm thế nào th́ mới có thể đích thân chứng
nhân quả chẳng sai sót mảy may? Hơn nữa, c̣n kính
trời sợ thần, dẫu ở trong buồng tối
cũng chẳng làm điều dối trá.
Đáp: Phật pháp chủ
trương nhân duyên, thế tục chỉ thấy thô lậu,
cho là họa lây lan [từ ông bà cha mẹ đến con cháu].
Luận định kỹ, [sẽ thấy cách nói ấy] có
đôi chút mâu thuẫn. Lời hỏi trong đoạn sau chẳng
hợp Nhân Minh, chỉ đành dùng giáo huấn của thánh
nhân thế gian để bảo ban, may ra ông sẽ ngộ
đôi chút. Khổng Tử nói: “Chí
thành chi đạo, khả dĩ tiên tri” (Do ḷng thành đạt
tới tột cùng, sẽ có thể biết trước
được chuyện xảy ra trong vị lai). Nếu muốn
biết trước, hăy nên thực hiện từ “chánh tâm thành ư”. Như “kính thiên úy thần, bất khi ám
thất” (kính trời, sợ thần, chẳng dám [có ư
nghĩ] dối gạt [dẫu ở một ḿnh] trong buồng
tối) Ông có thể suy ngẫm lời dạy của
Tăng Tử “thập mục
sở thị, thập thủ sở chỉ, kỳ nghiêm hồ?”
(mười mắt nh́n vào, mười tay chỉ vào, chẳng
nghiêm ngặt ư?). Nếu chẳng kính sợ, sẽ là
phóng túng, chẳng kiêng dè mất rồi!
Phật Học Vấn Đáp Loại
Biên,
quyển Hạ, phần 2 hết
[1] Cát Quang Minh (光明砂) là một cách siêu độ vong linh trong Mật Tông.
Nói đơn giản, hành giả tu Mật Tông tŕ chú Tỳ
Lô Giá Na Như Lai Đại Quán Đảnh Quang Đà La Ni
(bộ chú này c̣n được gọi là Kim Quang Minh chân
ngôn) vào cát sạch, gọi là cát Quang Minh. Rải cát ấy
lên thân thể của người đă khuất sẽ giúp
cho người ấy sanh thiên, hoặc sanh vào các cơi tốt
lành. Bộ chú này trích từ phẩm Quán Đảnh Chân Ngôn
Thành Tựu trong kinh Bất Không Quyến Sách Thần Biến
Chân Ngôn. Chân ngôn như sau: “Oṃ amogha
vairocana mahāmudrā maṇipadma jvāla pravarttaya hūṃ”
(ओं अमोघ वैरोचन महामुद्रा मणि पद्म ज्वाल प्रवर्त्तय हूं), kinh điển tiếng Hán phiên âm thành “Án, a mộ già, vĩ lô tả nẵng, ma ha mẫu nại
ra, ma nê, bát nạp ma, nhập phạ la, bát ra vạt đá
dă, hồng”.
[2] Bài chú này
đúng ra có tên gọi là Bổ Khuyết Chân Ngôn. Theo Đại
Chánh Đồ Tượng Bộ, bài chú này do ngài Đạo
Như chùa Tĩnh Tuyền tại Thục Quận truyền
dạy. Sư phát nguyện tụng kinh Pháp Hoa một vạn
biến. Đến năm Chí Ḥa nguyên niên, Sư tụng
đủ số. Vị Sư ở Tăng pḥng bên cạnh
bỗng chết đi, bảy ngày sau sống lại, nói: “Tôi gặp Địa Tạng Bồ
Tát. Ngài nói: - Đạo Như đă tụng kinh đủ
một vạn biến, nhưng bị thiếu sót quá nhiều.
Ngươi hăy đem bài chú này về nói với Đạo
Như, mỗi lần tụng kinh bèn tụng chú này ba biến,
những chỗ kinh văn bị thiếu khuyết sẽ
được viên măn như pháp”. Trong Đại Tạng
Kinh, lưu hành hai phiên bản của chú này. Bản ngắn
(thường gọi là Bổ Khuyết Viên Măn Chân Ngôn) là “Án, hô rô, hô rô, xă duệ mục khế,
sa ha”. Bản dài hơn là “nam
mô hát ra đát na, đá ra dạ da, khư ra, khư ra, câu trụ,
câu trụ, ma ra, ma ra, hổ ra hồng, hạ hạ, tô
đát noa hồng, phát mạt noa, sa bà ha”. Bản dài
được dùng phổ biến hơn trong các nghi thức
tụng niệm, nhất là khi tụng những bộ kinh lớn
như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm.
[3] Thiên Đài Tông (Tendaishu) chính là cách gọi tông Thiên Thai
tại Nhật Bản. Thật ra, chỉ có Nhật Liên
Tông (Tân Thiên Đài Tông, Pháp Hoa Tông) là chủ trương tŕ
niệm tựa đề kinh, chứ Thiên Đài Tông và Hoa
Nghiêm Tông Nhật Bản cũng không chủ trương chỉ
niệm tên kinh.
[4] Đây là một câu trích từ thiên Vệ Linh Công trong
sách Luận Ngữ: “Khả dữ
ngôn, nhi bất dữ chi ngôn, thất nhân. Bất khả dữ
ngôn, nhi dữ chi ngôn, thất ngôn. Tri giả bất thất
nhân, diệc bất thất ngôn” (Có thể nói [để
khuyên nhủ họ] mà chẳng nói cho họ biết, sẽ
có lỗi với người ta. Chẳng nên nói mà cứ
nói, sẽ thành lỡ lời. Người hiểu biết
sẽ chẳng có lỗi với người khác mà cũng
chẳng lỡ lời).
[5] “Tứ tướng” là nhân tướng, ngă tướng,
chúng sanh tướng và thọ giả tướng.
[6] Khúc Lễ (曲禮) là một phần quan trọng trong sách Lễ Kư. “Khúc” có nghĩa là vụn vặt,
chi tiết. Khúc Lễ có nghĩa là những quy phạm chi
tiết trong mọi hành vi, động tác. Tuy ngắn gọn,
nội dung có thể nói đă bao gồm hết các hành vi, cử
chỉ trong mối quan hệ giữa con người trong
xă hội. Có những câu trong Khúc Lễ luôn được
nhắc nhở như châm ngôn để xử thế, chẳng
hạn như “ngạo bất
khả trưởng, dục bất khả tùng, chí bất
khả măn, lạc bất khả cực” (đừng
nên tăng trưởng ḷng kiêu ngạo, đừng thuận
theo dục vọng, đừng nên đắc ư, buông thả
chí hướng, chớ nên hưởng vui quá mức).
[7] “Chỉ tĩnh” (止静) là ngồi im
lặng, thầm niệm Phật hiệu sau khi niệm Phật
ra tiếng.
[8] Ông Khang Triều Hội viết là “áo hôi” (懊灰), từ ngữ này không có ư nghĩa ǵ, có lẽ là do
nghe lóm chữ “áo hối” (懊悔, hối hận, áo năo) mà không hiểu rơ ư nghĩa, cho nên
mới viết như vậy.
[9] Sủi cảo (thủy giảo, 水餃, c̣n gọi là “giảo tử”, 餃子), ở
miền Bắc Việt Nam thường gọi là “bánh chẻo”, là một loại
bánh xếp, thường làm bằng bột ḿ cán mỏng, bọc
thịt bằm, trộn lẫn với các thứ rau quả
cắt vụn, phổ biến nhất là củ cải, rau
cải trắng, mộc nhĩ, nấm hương, hành củ,
hẹ v.v... Mép bột được vặn thành nếp nhún,
cho nên đôi khi c̣n gọi là bánh quai vạc (nhưng danh
xưng này chỉ để gọi loại chiên hoặc hấp).
Há cảo (蝦餃, hà
giảo) là loại sủi cảo nhân tôm. Tùy theo cách nấu
chín mà gọi là Thủy Giảo (thả trong nước
canh để luộc), nếu hấp cho chín th́ gọi là
Chưng Giảo (蒸餃, bánh chẻo hấp), nếu
chiên th́ gọi là Oa Thiếp (鍋貼, áp chảo) hoặc
Tiễn Giảo (煎餃, bánh chẻo chiên).
[10] Man đầu (饅頭) là loại bánh bao không nhân (thường biết đến
theo cách mô phỏng âm đọc tiếng Quảng Đông là
mằn thầu).
[11] Do không có chữ tương ứng, nên tạm dịch
là bánh rán cho dễ hiểu. Thật ra, “hàn cụ” (寒具) ở đây là một món ăn vặt, c̣n gọi là
Tán Tử (饊子), làm bằng bột gạo nếp ḥa lẫn bột
ḿ, cán thành sợi, rồi cuộn từng bó thành những
ṿng tṛn nhỏ, chiên gịn. Nổi tiếng nhất là Hoài An
Trà Tán chiên bằng dầu mè, mỗi sợi được
làm nhỏ tí như sợi tóc.