Phật Học
Vấn Đáp Loại Biên
佛學問答類編
Phần 3
Lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo
Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội, Đài
Loan, 2007)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
* Hỏi: V́ sao thánh hiệu
của Phật Đà có mười loại, do nhân duyên nào
mà xưng hô [như vậy]? (Kha
Băng hỏi)
Đáp: Mười
hiệu của Phật Đà trọn chẳng phải là gọi
theo tên họ, mà nhằm nêu rơ đức năng to lớn của
Ngài nên đặt ra mười thứ [danh hiệu] xưng
tụng vậy! Giống như hiện thời khen ngợi
người khác, bèn nói: “Mỗ
công, ngô huynh, tiên sinh” (Tiên sinh X... anh tôi), đó là gọi
bằng ba danh hiệu. Nếu nói “mỗ công, mỗ trưởng, thị lương lại,
thị chánh nhân, thị quốc gia chi trụ thạch” (Ông
X... hoặc bậc trưởng quan X... là vị quan tốt,
là bậc chánh nhân, là cột trụ của nước nhà)
tức là dùng năm cách xưng hô. Xưa kia, danh hiệu được
phong tại Trung Quốc phần nhiều cũng tuân theo lệ
ấy!
* Hỏi:
Thầy thường nói: “Sau
khi chết bốn mươi chín ngày, người ta sẽ
đầu thai”; nhưng con trai trưởng của tôi đă
chết sáu năm rồi, thường báo mộng cho em gái
nó: “Không có nhà để ở!” Sau đấy, đứa
con thứ lại mộng thấy quan tài của anh nó bị
phơi ra dưới ánh mặt trời. Ngày hôm sau, liền
tới nơi an táng, thấy t́nh trạng chẳng khác ǵ
trong mộng. Như vậy th́ thuyết “thần thức đầu
thai sau bốn mươi chín ngày” giải thích như thế
nào? Nếu hài cốt là giả, sao [người đă khuất]
lại bận tâm không có nhà để ở? (Tŕ Huệ Lâm hỏi)
Đáp:
Đấy chẳng phải là thân Trung Ấm, mà là thân trong
quỷ đạo. Hết thảy phàm chúng đều chấp
trước Ngă và Ngă Sở (cái mà ta có). Đứa con đă
mất của cư sĩ lúc sống chưa nghe Phật
pháp, làm sao có thể phá chấp. Chấp xương là “ta”,
chấp quan tài là “cái ta có”, tự nhiên là chuyện thường
t́nh, có chi là lạ?
* Hỏi:
Nguyên nhân lai lịch khiến Nho, Thích, Đạo dùng mơ là như
thế nào? (Hoàng Cẩm
Lương hỏi).
Đáp:
Chưa khảo cứu.
* Hỏi:
Tăng ni chẳng lạy thần khác, nhưng tôi thấy
kinh Kim Cang có dạy: “Chẳng
có cao thấp”, nếu luận theo phương diện
thần thánh có thể do đức mà chứng quả to hay
nhỏ, nghĩ tới người đang trôi giạt trong
biển khổ th́ cớ sao chẳng lạy? (Hoàng Cẩm Lương hỏi)
Đáp: Tăng
ni là một ngôi trong Tam Bảo, là thầy của người,
trời, trăm thần, thầy chẳng lạy tṛ là lẽ
đương nhiên, có ǵ lạ đâu?
* Hỏi:
Thích Ca Truyện chép Thái Tử Tất Đạt hai mươi
chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo.
Sách Di Đà Kinh Bạch Thoại Giải nói đức Phật
xuất gia tu hành lúc mười chín tuổi, sai khác nhau đến
mười năm? (Hứa Minh
Hoài hỏi)
Đáp: Các
kinh ghi chép sai khác, đều có căn cứ riêng. Chủ yếu
chép [đức Phật xuất gia lúc] hai mươi chín tuổi
là Trung A Hàm, Tăng A Hàm, Đại Bát Niết Bàn, Bổn Hạnh
Tập Kinh v.v... Chủ trương [Phật xuất gia] lúc
mười chín tuổi là Tu Hành Bổn Khởi Kinh, Thụy
Ứng Bổn Khởi Kinh, Lục Đạo Tập Kinh
v.v....
* Hỏi:
“A-tăng-kỳ kiếp” là trong mỗi đại kiếp
có bốn trung kiếp, tức là thành, trụ, hoại, không;
xét theo kinh nói th́ thật sự có bốn trung kiếp ấy
hay không? (Hứa Minh Hoài hỏi)
Đáp: A-tăng-kỳ
kiếp và đại kiếp khác nhau! Đừng lẫn lộn!
C̣n như ông hỏi: “Thành, trụ, hoại, không là đích xác
hay chăng?” Thử xem mỗi ngày có giờ Tư, giờ Ngọ,
sáng, tối hay chăng? Mỗi năm có Xuân, Hạ, Thu, Đông
hay chăng? Hiểu rơ điều này sẽ chẳng nghi ngờ!
* Hỏi:
Thích Đề Hoàn Nhân là thiên chúa cơi Tam Thập Tam Thiên mà cũng
phải luân hồi ư? (Hứa
Minh Hoài hỏi)
Đáp: Dẫu
sanh lên trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thuộc về
Tứ Không vẫn c̣n bị luân hồi, huống hồ tầng
trời thứ hai trong Dục Giới!
* Hỏi:
Đối với Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ
Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, Tứ Niệm
Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ư, gộp lại thành
ba mươi bảy đạo phẩm sâu mầu, dường
như hàng sơ cơ như chúng tôi chẳng có cách nào lănh ngộ,
chỉ có Ngũ Căn, Ngũ Lực là có thể biết được
một hai phần, những điều khác hoàn toàn bù trất!
Hai loại tinh tấn đầu tiên trong Thất Giác Chi có
thể sử dụng trí huệ để hiểu rơ đạo
lư chân chánh. Trí huệ ấy là do Cần Căn và Tấn Lực
cùng phát động đó chăng? Hay là do cách nào khác mà đạt
được trí huệ, hay là trí huệ vốn tự nhiên
có? (Hứa Minh Hoài hỏi)
Đáp: Chuyện
này khó thể nói hết trong một lời, mong cư sĩ
trước hết hăy kiếm một quyển Phật Học
Thường Thức Khóa Bổn của Đài Trung Liên Xă, t́m
đọc phần ba mươi bảy đạo phẩm.
Sau khi hiểu đại ư, lại xem phần chú thích chi tiết
về ba mươi bảy phẩm trong các kinh, sẽ tự
có thể lănh ngộ đôi chút. Ông lại hỏi về Thất
Giác Chi, sử dụng trí huệ v.v... Ở đây, tôi giải
thích đại lược. Tu ba mươi bảy đạo
phẩm, cần phải tuân theo thứ tự của bảy
khoa, khi đă thành tựu Huệ Lực trong Ngũ Lực ở
phần trước, tự nhiên tri kiến hướng
theo nẻo chánh đáng, có thể khéo phân biệt, lại tấn
tu Thất Chi, lúc ấy mới khởi giác chiếu, biết
nên lấy hay bỏ các pháp ra sao, điều nào đáng nên
tinh tấn, và điều nào chẳng nên tinh tấn. Những
điều khác có thể suy từ đây ra. Trí huệ ấy
cố nhiên là vốn có, nhưng nếu chẳng tu những
pháp trước đó, nó cũng chẳng thể hiển hiện.
* Hỏi:
Phật Đản mỗi năm vào ngày mồng Tám tháng Tư
là dựa theo Dương lịch hay Âm lịch? Tại các nơi
có những lễ hội lớn nào? Phụ cận vùng Ngô Thê
có đại hội truyền bá đạo pháp nào? (Trần Vấn Vân hỏi)
Đáp: Âm
lịch và Dương lịch cùng được dân gian tuân
hành, hết sức thiếu nhất trí, các chùa kỷ niệm
Phật Đản cũng tùy theo mỗi nơi mà tổ chức
sao cho thuận tiện. C̣n như ông hỏi vùng Ngô Thê[1] có đại hội hay không, tôi chẳng
biết!
* Hỏi:
Khuyên người khác ghét tam đồ, chuộng cơi trời, có phải là cảnh giới vẫn
chưa siêu thoát, tiến nhập tịch diệt (phi đoạn,
phi thường) hay chăng? (Trần
Vấn Vân hỏi)
Đáp: Phật
giáo có ngũ thừa thuyết pháp, đấy là lời phương
tiện thấp nhất để nói với kẻ hạ
hạ căn. Giống như dạy trẻ trong vườn
trẻ, nếu đem chương tŕnh đại học để
dạy chúng th́ biết ông thầy ấy là một tên đần
quá cỡ!
* Hỏi:
Tôi đọc bài Nhân Sanh Thiên của pháp sư Từ Hàng,
con người và súc sanh phân biệt ở chỗ biết đạo
và hành đạo. Trâu, ngựa ăn những thứ kém hèn,
làm lụng nhọc nhằn chẳng oán, mà cũng chẳng
biết si mê vật chất trên thế gian, dường như
chúng tự nhiên hợp đạo? (Trần Vấn Vân hỏi)
Đáp: Kẻ
hèn này chưa từng đọc [bài ấy], chẳng biết
nguyên văn như thế nào, sợ chẳng giống như
cư sĩ đă nhớ. Xin hăy xét lại câu nói “cũng chẳng
si mê vật chất thế gian”! Lắng ḷng quan sát súc sanh,
chúng nó biểu hiện đầy đủ dâm, nộ, si, ông
nói chúng “hợp đạo” th́ chẳng biết là hợp với
đạo ǵ?
* Hỏi: Phật thuộc về
Pháp Thân bất sanh, bất diệt, hết thảy các phiền
năo thế gian chẳng phải do vô minh sanh ra hay sao? Cớ ǵ
phải kỷ niệm Ứng Thân có sanh diệt? (Trần Vấn Vân hỏi)
Đáp: Thân
phàm phu do phiền năo dẫn dắt mà có, do vô minh sanh ra. Đức
Phật chẳng phải là như thế, mà chính là v́ độ
chúng sanh, nên thừa nguyện hóa hiện. Chúng ta kỷ niệm
Ứng Thân, chẳng qua là ai nấy trọn hết đạo
nhằm bày tỏ chút ḷng báo ân mà thôi.
* Hỏi:
Gần đây nhất, có kẻ hỏi: “Con người có
linh hồn hay không? Lại nói: “Đến rốt ráo th́ linh
hồn ở chỗ nào?” Lại nói: “Nhà thương mổ
bao tử cho người ta, cho người ấy uống
thuốc mê, người ấy liền chẳng biết đau,
giống như đă chết. Nếu có linh hồn th́ lẽ
ra phải nằm mộng, nhưng lại chẳng nằm
mộng?” (Thích Tâm Xuyên hỏi)
Đáp: Kẻ
sơ học chẳng thể nào hiểu rơ vấn đề
này! Nếu giải thích rơ ràng, sợ rằng cũng chưa
thể lănh ngộ. Kinh dạy: “Chẳng
ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặng giữa”,
chỉ có vậy! Nếu chỉ ra [linh hồn tức thần
thức] ở một chỗ nhất định, chính là
sai lầm lớn. Ở đây, tôi dùng đĩa ghi âm làm thí
dụ, thử hỏi âm thanh ấy đến từ chỗ
nào, rốt ráo là cái đĩa ấy có âm thanh hay chăng? Nói
là không th́ người ta biết nó có thể phát ra âm thanh phân
minh. Bảo là có, cớ sao nó chẳng thể tự phát ra
tiếng? Hiểu được cơ duyên này, sẽ nghĩ
ra quá nửa! Nếu bảo nằm mộng là có linh hồn,
không nằm mộng là chẳng có linh hồn, tôi lại nêu
một tỷ dụ, khi con người đi đứng,
cử động bèn có tri giác, bảo đó là người
sống, nhưng nếu lúc nằm ngủ th́ tri giác chẳng
khởi, có thể nói là người ấy đă chết
hay chăng? Xin hăy thấu hiểu!
* Hỏi: Nơi trang một
trăm bốn mươi bảy sách Địa Tạng Bổn
Nguyện Kinh Bạch Thoại Giải Thích, phẩm thứ
sáu, có nói: Trong Hiền Kiếp này có một ngàn vị Phật
xuất thế, Thích Ca là vị Phật thứ tư, c̣n có
chín trăm chín mươi sáu vị Phật nữa. Theo kinh
Phật nói Tam Bảo Phật là quá khứ Di Đà, hiện
tại Thích Ca, vị lai Di Lặc. V́ sao chẳng nói vị Phật
trong kiếp thứ nhất, vị Phật trong kiếp thứ
hai.... mà nói Tam Bảo Phật? (người
giấu tên hỏi)
Đáp: Kiếp
nhiều như vi trần, chẳng thể tính toán, chẳng
biết nói kiếp thứ nhất từ đâu! Hơn nữa,
kinh ấy do Thích Ca Như Lai nói, nên các vị chú giải chỉ
nói về thời kỳ Phật Thích Ca ứng thế mà
thôi, làm sao có thể dây dưa thời trước, la cà thời
sau, nêu ra cả đống chi tiết ra ngoài vấn đề
chính!
* Hỏi:
Mở đầu hai thiên thượng và hạ của Sa Di
Luật Nghi Yếu Lược đều nói “ngũ hạ” hay “thập hạ”, ngũ hạ
và thập hạ có ư nghĩa như thế nào? (Diêu Bổn Khiết hỏi)
Đáp: Trong
nhà Phật, hàng năm từ ngày Mười Sáu tháng Tư tới
ngày Rằm tháng Bảy, có quy chế Kết Hạ An Cư,
lấy đó để tính một năm, mấy hạ là
mấy năm, giống như cách tính năm tháng trong thế
tục vậy!
* Hỏi:
Đức Phật nói vạn vật đều có linh tánh, nhưng
tôi chưa rơ cái gọi là “linh tánh” có vô lượng sai khác
[hay không], chẳng hạn như linh tánh chứa đựng
trong một con muỗi có phải là ít hơn ruồi nhặng,
mà ruồi nhặng lại ít hơn cầm thú hay không? Mà ruồi
nhặng lại ít [linh tánh] hơn chim bay thú chạy? Mà linh
tánh của chim bay thú chạy lại ít hơn con người?
Hay là dựa trên mức độ sáng suốt mạnh hay yếu
mà phân biệt, tùy thuộc nghiệp lực to hay nhỏ mà luân
hồi lục đạo? (Châu
Gia Lân hỏi)
Đáp: Vật
hữu h́nh hữu chất th́ có thể dùng số lượng
để tính toán, c̣n tánh là vô h́nh, vô chất, không thể đo
lường, tính toán nhiều hay ít được! Ví như
người và chó, mèo đều nằm mộng (chó, mèo nằm
đă được các học giả nghiên cứu động
vật suy đoán [nhận biết chúng có nằm mộng]),
mộng cũng chẳng có h́nh và chất; cho nên chẳng thể
đo lường ba loại mộng ấy, mỗi loại
nặng mấy cân, mấy lạng. Nếu luận về tác
dụng mạnh hay yếu, tự nhiên có sai khác, đó là v́
Như Lai Tạng được huân tập nhiễm hay tịnh.
Tịnh nhiều hơn th́ tác dụng thiện to, tác dụng
ác nhỏ; nhiễm chiếm phần hơn th́ ngược lại.
C̣n nói về luân hồi lục đạo, càng không thể chỉ
nói nghiệp lực lớn hay nhỏ, mà c̣n phải gộp
thêm những nhân thiện hay ác đă gieo để xem xét!
* Hỏi:
Nghe nói âm thanh viên măn của Phạm Bái có thể lợi lạc
chúng sanh, vậy th́ các bài tán như Hương Tán và Di Đà
Tán có phải là một loại Phạm Bái hay không? Phạm
Bái có bao nhiêu loại? Có ca khúc, nhạc phổ để dễ
tu tập hay chăng? (Châu Gia
Lân hỏi)
Đáp: Các
thứ tán Phật hiện đang lưu hành tại Trung Quốc
có thể gọi là Phạm Bái, nhưng đă khác với
thanh điệu Ngư Sơn Phạm Bái[2] thời
Hán - Ngụy. Nếu vào thời cổ ở Thiên Trúc, dường
như là mỗi câu kinh, chú ngữ đều có âm vận đặc
biệt, chuyên gọi là Phạm âm. Như kinh chép: Vua nghe tiếng
tụng kinh mà vui vẻ thí xả, chim nhạn nghe tiếng đọc
tụng bèn lưu luyến lượn quanh, có thể biết
[Phạm âm thuở ấy] chẳng giống như đời
sau phải dựa vào thanh điệu, phách nhịp để
xướng lên. Hiện thời, tụng niệm Hoa Nghiêm Tự
Mẫu[3] như ta thường nghe nói tới, cũng
phải dựa vào chuông, mơ, tang, chập chơa để tạo
thành thanh vận, chưa hề thấy do môi họng khép mở
[mà tạo thành vận điệu riêng]. Có chỗ khác biệt
như thế, có thể biết là giai điệu từ thời
cổ tới nay đă bị thất truyền!
* Hỏi:
Chùa chiền có khi cất trong núi, có khi dựng tại vùng
ngoại ô, có khi dựng trong đô thị, vị trí nào
thích đáng? (Trang Khánh Hiền
hỏi)
Đáp: Chùa
Phật lập nơi núi non, rẫy bái thích hợp cho kẻ
tự tu, xa ĺa trần lao, dễ đắc tịch tĩnh.
Lập ở đô thị thích hợp để độ
người khác, gần gũi quần chúng nhằm thuận
tiện tiếp dẫn họ.
* Hỏi:
Trong một gia đ́nh, có người tin Phật giáo, có kẻ
tin ngoại giáo, có cách nào khiến cho mọi người
đều quay về tin tưởng Phật giáo hay chăng?
(Trang Khánh Hiền hỏi)
Đáp: “Đạo bất đồng, bất tương vi mưu” (Đạo khác nhau, chẳng thể bàn tính với nhau). Một gia đ́nh, tín ngưỡng mỗi người mỗi khác, đấy chính là biểu hiện của tâm và đức rời ră. Gia chẳng tề, mà mong hưng thịnh, sợ rằng là “noi theo cây để t́m cá”. Nếu muốn chuyển dời khiến cho người nhà cùng hưởng sự giáo hóa của Phật, ắt phải tự ḿnh nêu gương, thanh tịnh tam nghiệp! Có khổ th́ tự hứng chịu, có lợi bèn chia đều. Chí thành, chẳng dối trá, làm mọi việc luôn có chí thường hằng, người nhà sẽ bị cảm hóa. Lại c̣n phải hiểu rơ Phật lư, tri kiến chính xác, vận dụng phương tiện thiện xảo, lời lẽ khế cơ. Trước hết, dùng đức để nhiếp thọ; sau đấy, dùng trí để nhiếp thọ, đối phương như ngồi hứng gió Xuân, ắt tâm họ sẽ vui vẻ, chân thành khâm phục vậy!
* Hỏi:
Người tin Phật có kẻ mang tràng hạt (xâu chuỗi)
theo ḿnh, có người chẳng mang theo, rốt cuộc người
tin Phật có phải luôn mang theo bên ḿnh hay chăng? (Trang Khánh Hiền hỏi)
Đáp: Tín
ngưỡng ở trong tâm, chứ không ở nơi tràng hạt;
nhưng thường mang tràng hạt bên ḿnh sẽ có thể
luôn nhắc nhở cái tâm niệm Phật, cũng là một
trợ duyên vậy!
* Hỏi:
Tín đồ lúc vào nhà vệ sinh có lúc vô ư mang theo các vật
như sách Phật, tràng hạt, huy chương v.v... hoặc
mặc pháp y đi vào, có sao không? (Trang
Khánh Hiền hỏi)
Đáp:
Chuỗi tràng hạt và huy chương là vật mang theo tùy
thân, nếu trót mang lầm vào pḥng vệ sinh, đều phạm
lỗi thiếu thận trọng. Nếu là sách Phật th́ nên
cung kính đọc nơi bàn, đọc xong, xếp sách, bọc
lại, lẽ nào có chuyện mang theo vào nhà xí? Nếu có, tức
là cố ư làm ác. Lúc sắp mặc pháp y, c̣n phải nên chắp
tay, trọn chẳng được phép mặc vào nhà xí. Dẫu
là áo hải thanh (áo tràng), c̣n chẳng được mặc
để đi tiểu, huống hồ ca-sa ư?
* Hỏi:
Lúc tụng kinh, v́ sao phải dùng Phật cụ? (Trang Khánh Hiền hỏi)
Đáp: “Phật cụ” chỉ những
ǵ, ông chưa từng nói rơ, tôi chẳng thể đáp được.
Tôi đoán thử chơi th́ chẳng phải là ông nói đến
những thứ như mơ, chuông, khánh ư? Nếu đúng vậy
[th́ mục đích dùng pháp khí] nhằm giữ cho âm tiết
chỉnh tề, và khiến cho người đọc tụng
chẳng hôn trầm. Lại c̣n có thể dẫn khởi sự
quán cảm của chúng sanh, dễ làm cho họ phát tâm.
* Hỏi:
Thắp hương có khi dùng ba cây, có khi dùng một cây, vốn
phải nên dùng mấy cây? (Trang
Khánh Hiền hỏi)
Đáp: Thoạt
đầu không nhất định; về sau, tùy theo phong tục
các nơi mà khác biệt. Ba cây nhằm thể hiện ư nghĩa
Giới - Định - Huệ. Thuận theo tập quán mỗi
nơi mà làm đều được, không ǵ là chẳng nên!
* Hỏi:
Chùa chiền có nơi đốt giấy vàng bạc, có nơi
chẳng đốt, thoạt đầu vốn có đốt
giấy vàng bạc hay chăng? Đốt giấy vàng bạc
có ư nghĩa ǵ? (Trang Khánh Hiền
hỏi)
Đáp: Giấy
vàng bạc v.v... là vật để bố thí cho loài quỷ,
Phật chẳng cần đến thứ ấy. Người
ở trong nhà chùa mà hiểu lư sẽ chẳng đối trước
Phật làm những chuyện ấy!
* Hỏi:
Kính vâng lời thầy, ban viên chúng con là đệ tử Phật,
nhất định hóa độ chúng sanh! Thứ nhất là
đối với Phật, Tổ, thứ hai là đối
với thầy báo ân, mong Ngài vĩnh viễn ở Đài Trung
chỉ dạy tín đồ chúng con, thầy có cao kiến
như thế nào? (Trang Khánh Hiền
hỏi)
Đáp: “Nhất định hóa độ
chúng sanh”, lời ấy vừa thốt ra, tiếng vang động
trên giấy, chư Phật đều nghe. Kẻ hèn này mong
mỏi cư sĩ phải thực hiện lời ấy! Nhưng
muốn thực hiện chuyện này, ắt tự ḿnh phải
dồn công phu nơi hai đằng Giới và Thừa. Nếu
chịu khuất ḿnh học hỏi, tôi sẽ trọn hết
ḷng ngu thành cống hiến. C̣n như vĩnh viễn trụ
lại Đài Trung, là do nhân duyên quyết định; nhưng
kẻ hèn này cũng chưa hề có ư nghĩ khác với tâm
của cư sĩ vậy!
* Hỏi:
Tây Phương Cực Lạc thế giới có đồng
thời xoay chuyển theo địa cầu hay không? Chúng ta ở
châu Á, cơi nước ấy ở phương Tây của chúng
ta, nhưng nếu người đang ở châu Mỹ, cơi
nước ấy có ở phương Tây [của họ] hay
chăng? (Lư Sĩ Nhân hỏi)
Đáp:
Theo thuyết cũ trong khoa học, mặt trời là hằng
tinh, địa cầu là một ngôi sao nhỏ thuộc vào Thái
Dương Hệ, cho nên địa cầu xoay quanh mặt
trời; nhưng trong không gian, không phải là chỉ có một
Thái Dương Hệ. Cực Lạc há chỉ ở phía Tây
châu Á, mà là ở phía Tây của cả Thái Dương Hệ.
Nếu dựa theo Phật học để suy lường,
quả địa cầu này chỉ là một châu trong một
đơn vị thế giới, tức là một thiên hạ
trong Sa Bà tam thiên đại thiên thế giới. Ở đây,
chỉ dùng phạm vi của Sa Bà để luận, [địa
cầu] sẽ giống như một hạt kê trong cái kho
quá to! [Kinh nói] Cực Lạc ở phương Tây là nói về
phương Tây của Sa Bà đại thiên (tam thiên đại
thiên thế giới), chẳng phải là phía Tây của một
thiên hạ này! Lại dùng thí dụ trên đây để giảng
rơ hơn, một đại thiên thế giới giống như
một cái kho rất to, nhưng cái kho lớn ấy quả
thật là vô lượng vô biên. Kinh nói “ở phía Tây” là nói ở
phía Tây của mười vạn ức cái kho lớn, chẳng
phải là nói phía Tây của một hạt kê!
* Hỏi:
Lục đạo chúng sanh ngoại trừ nhân đạo có
thể tu ra, những đường khác như quỷ đạo,
thiên đạo cũng có thể tu hành thành Phật ư? (Lư Sĩ Nhân hỏi)
Đáp: Chúng
sanh đều có Phật Tánh, tự có khả năng tu hành
thành Phật. Chỉ v́ trong những đường khác, hoặc
là do tham luyến sự vui sướng nên chẳng nghĩ đến
tu hành, hoặc v́ chịu khổ, chẳng rảnh rỗi để
tu, hoặc do mê ngu quá nặng nên chẳng biết tu. Dễ
tu dễ thành chỉ có duy nhất nhân loại mà thôi! V́ thế,
nói: “Thân người khó
được”. Quư trọng thân người là v́ dễ
tu thành Phật!
* Hỏi:
Phật quốc trừ Tây Phương Cực Lạc thế
giới ra, c̣n có Phật quốc nào khác hay chăng? Sau khi nhập
Niết Bàn, Thích Ca Mâu Ni trụ trong cơi nào? (Lư Sĩ Nhân hỏi)
Đáp: Trong
điều trước đă nói đến tam thiên đại
thiên thế giới là một Phật quốc; có vô lượng
vô biên đại thiên thế giới, Phật quốc cũng
giống như vậy. Phật có ba thân là Pháp, Báo và Ứng.
Hai thân Báo và Ứng có hạn lượng, Pháp Thân tràn ngập
hư không, không nơi đâu chẳng trụ.
* Hỏi:
Khi trước con nghe kinh, từng nghe nói đến chuyện
thuyết pháp ở núi Hổ Khâu, đá cũng gật đầu.
Tờ Trung Ương Nhật Báo số ra ngày mồng Tám tháng
Tám lại có câu “đá chẳng
gật đầu”. Rốt cuộc là như thế nào? Xuất
xứ từ sách nào vậy? (Trương
A Long hỏi)
Đáp:
Cao tăng Trúc Đạo Sanh là đệ tử của La
Thập đại sư, giảng kinh Niết Bàn, lập
ra nghĩa “Xiển Đề
cũng có Phật Tánh”, đại chúng chẳng dung, nên
Ngài đi về phương Nam, vào núi Hổ Khâu gom đá làm
đồ chúng, để giảng kinh Niết Bàn, đến
chỗ “Xiển Đề
cũng có Phật Tánh”, hỏi: “Ta nói có khế hợp Phật tâm hay chăng?” Các
ḥn đá đều gật đầu. Chuyện này được
chép trong Cao Tăng Truyện, người đời sau bèn
mượn chuyện này để làm từ ngữ chỉ
sự khuyên răn người khác. Người tiếp nhận
lời khuyên gọi là “điểm
đầu” (gật đầu), kẻ chẳng tiếp
nhận lời khuyên gọi là “bất
điểm đầu”.
Hỏi: Sau
khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, sanh về cơi Phật
nào? Hay là ở trong tam giới? (Liêu
Diệu Cát hỏi)
Đáp: Phật
có ba thân, đó là Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân. Pháp Thân ngự
trong cơi Thường Tịch Quang, cơi ấy chỉ có cái tên,
thật sự là Chân Như Lư Thể. Nếu nói theo phương
diện sắc tướng, tận hư không, khắp pháp
giới, không ǵ chẳng bao gồm, làm sao phân biệt ở
trong hay ngoài tam giới cho được! Báo Thân sống
trong cơi Thật Báo Vô Ngại, cơi này do Phật trí biến hiện,
trọn chẳng có ngằn mé không gian và thời gian. Ứng
Thân th́ trăm ngàn vạn ức, ngự trong cơi tịnh hay
sống trong cơi uế khác nhau. Có thể nói cơi Phàm Thánh Đồng
Cư cũng do Phật trí biến hiện, nên có kiếp thành,
trụ, hoại, không, ba cơi là Dục Giới, Sắc Giới,
Vô Sắc Giới, Tam Tai là nước, lửa, gió. Thân và cơi
đă thuật sơ lược, cần phải biết là
Phật nhập Niết Bàn chẳng giống như phàm phu
tử vong. Phàm phu chết sẽ có thần thức; lại
hướng đến nơi khác đầu thai, cho nên nói
“có sanh”. Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, bất
quá là dứt hóa hiện Ứng Thân trong cơi này! Câu “sanh về cơi nào” chẳng thể
áp dụng được!
* Hỏi:
Cơi trời có mấy tầng? Tam thiên đại thiên thế
giới nên giải thích như thế nào? Có mấy quả địa
cầu? (Cư sĩ Huệ
Lượng hỏi)
Đáp: Cơi
trời có hai mươi tám tầng. Hư không vô lượng,
thế giới vô tận. Nhằm nói thuận tiện, [ta có
thể] giả định bao nhiêu tinh cầu hợp thành một
đơn vị thế giới (trên một địa cầu
như vậy, năm đại dương, sáu châu[4], kinh tuyến, vĩ tuyến, đường
xích đạo, các vành đai nhiệt độ cũng là giả
định), hợp một ngàn đơn vị thế giới
làm một tiểu thiên thế giới; hợp một ngàn tiểu
thiên thế giới thành một trung thiên thế giới; hợp
một ngàn trung thiên thế giới thành một đại
thiên thế giới. Địa cầu chính là tinh cầu; xin
hăy ngửa mặt xem bầu trời vào ban đêm, thử hỏi
có mấy tinh cầu?
* Hỏi:
Di Lặc Tôn Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật là anh em ruột
suốt ba đời, cùng tu đại đạo, cùng chứng
Bồ Đề Vô Thượng Chánh Giác, trọn đủ
mười hiệu, thân trọn vạn ức. Suốt cả
ba đời, đại công thành tựu, Di Lặc Phật
là anh, Thích Ca Phật là em, đại đạo chánh giác đều
đă thành tựu. Trước là giao cho em tiếp quản
cai trị cơi đời trong ba ngàn năm. Nay chính nhằm
thời kỳ Hạ Nguyên[5], anh sẽ cai trị cơi đời, nên Di
Lặc Phật sẽ tiếp quản trong hai vạn năm,
rộng lập chánh pháp Long Hoa, phổ độ trời, người,
có phải là [Phật Thích Ca] chưa liễu ngộ hay chăng?
Dám xin cư sĩ hăy chỉ dạy cho đúng! (Lam Thủy Thuận hỏi)
Đáp: “Trước là giao cho em tiếp
quản cai trị cơi đời trong ba ngàn năm. Nay chính nhằm
thời kỳ Hạ Nguyên, anh sẽ cai trị cơi đời,
Di Lặc Phật sẽ tiếp quản trong hai vạn
năm”, cư sĩ nghe lời này từ chỗ nào? Khuyên
cư sĩ hăy mau mau rửa tai! Nếu không, nó sẽ nhập
tâm, sẽ bị hại, tâm tánh đă bị mê hoặc, lại
c̣n chuốc lấy tội báng pháp! Kẻ trí chẳng chịu
làm như thế! Tôi bảo cùng ông lời thành thật, những
lời lẽ ấy đều là yêu ngôn do tàn dư của
bọn giặc Trương Lăng[6], Hoàng Cân[7] cuối đời Hán, hoặc bọn Bạch
Liên Giáo, Hàn Sơn Đồng[8] cuối đời Nguyên v.v... bịa ra
ḥng dối gạt kẻ ngu muội, vô tri. Nếu lầm lạc
tin theo, sẽ thành tà ma, hậu họa vô cùng! Ngoại đạo
trên thế giới nhiều như mè, nếu chúng chẳng
giả mạo Phật giáo, tôi cũng chẳng đa sự
biện bác cùng chúng nó!
* Hỏi:
Chúng sanh sau khi chết đi, do nghiệp lực lôi kéo, dẫn
đường đầu thai, thuyết ấy đúng hay
sai? Có kẻ nói sau khi chịu hết tội trong địa
ngục rồi mới đầu thai, hay là chết nơi đây
bèn sanh sang nơi kia. Nếu thuyết sau là đúng th́ lập
ra địa ngục có phải là sự thật hay chăng?
(Hồ Chánh Lâm hỏi).
Đáp: Hữu
t́nh trong lục đạo đều gọi là chúng sanh. Kẻ
đă ở trong địa ngục, đương nhiên khi
tội trong địa ngục đă măn, sẽ chuyển
sanh vào đường khác; nhưng chúng sanh trong các đường
khác, sau khi chết, có nghiệp lực thuộc đường
nào sẽ đầu thai vào đường đó; trọn
chẳng phải là nhất loạt phải vào địa
ngục trước rồi mới được chuyển
sanh vào nơi khác. Câu hỏi sau cùng [của ông] dường
như là hiểu lầm. [Đối với chuyện] chết
nơi đây, sanh vào nơi kia; do duyên cớ ǵ mà [ông nghĩ]
địa ngục chẳng phải là thật? Xin ông hăy nói
cặn kẽ nghĩa ấy!
* Hỏi:
Nếu chúng sanh đă đền sạch ác nghiệp trong địa
ngục, cớ sao lại có nghiệp cảm duyên khởi
khiến cho kẻ ấy sau khi chuyển sanh lại tạo
những tội nghiệp để rồi phải chịu
tội ḥng đền trả những nghiệp đă tạo?
(Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Tạo
nghiệp chẳng phải chỉ một đời, gây ác
nghiệp chẳng phải chỉ một mối, nhiều
lần thọ báo, có ǵ là khó hiểu? Nếu như gă X....
phạm [các tội] giết, trộm, dâm, khi tội giết
hại bị phát hiện, quan phủ tự nhiên vây bắt,
phán quyết xử phạt hắn về tội giết hại.
Sau đấy, chuyện trộm, dâm lại bị phát hiện,
ắt cũng sẽ luận tội riêng biệt. Đó là lư
do thứ nhất. Lại nữa, xử phạt có chánh và
phụ, chánh là như tử h́nh hoặc giam cầm v.v... phụ
là như cách chức, tước quyền, phần nhiều
là chánh h́nh (h́nh phạt chính) đă măn hạn, nhưng h́nh phạt
phụ vẫn c̣n đang phải chấp hành. Cổ nhân nói
“dư khánh, dư ương”
(sự may mắn c̣n thừa, tai ương sót lại) chính
là nói về t́nh trạng này. Đấy là lư do thứ hai.
* Hỏi:
Phật là viên giác, hóa thân độ chúng sanh lẽ ra thù thắng
hơn Bồ Tát vô ngại, nhưng Chánh Pháp Minh Như Lai chẳng
rời Tịch Quang, chuyển làm thân Bồ Tát, có phải là
nhằm mục đích nhờ vào sự chuyển thân ấy
để tăng trưởng, phát khởi đại nguyện
từ bi cứu vớt tứ sanh hay không? (La Đức Chương hỏi).
Đáp: Trong
một đại thiên thế giới, có một vị Phật
làm giáo chủ, cũng như một nước chẳng có
hai vua. Nếu vị Phật khác có duyên với chúng sanh trong
thế giới ấy, hoặc muốn phụ trợ vị
Phật trong thế giới ấy hóa độ chúng sanh, th́
khi Ngài đến thế giới ấy phải thị hiện
thân Bồ Tát. Chánh Pháp Minh Như Lai [thị hiện làm Quán
Thế Âm Bồ Tát] do lư do này. Phật là hết thảy viên
măn, ông nói “tăng trưởng, phát khởi” là đă hiểu
lầm mất rồi!
* Hỏi: Nay tôi có một
đồng nghiệp hỏi: “Người xuất gia tŕ tịnh
hạnh, cớ sao trong chùa đặt ra trống bịt bằng
da trâu, nhẫn tâm đánh trống?”, ông ta hỏi khiến
cho tôi chẳng biết trả lời như thế nào!
Trong chùa, đặt ra trống, lại dùng da trâu để
bịt [mặt trống] th́ dường như là bạch
ngọc bị tỳ vết! Hăy nên giải thích như thế
nào? (La Đức Chương
hỏi)
Đáp: Trống
chẳng phải do chùa miếu sáng chế, giết trâu lấy
da cũng chẳng do chùa miếu chủ trương. Bất
quá chùa miếu mua loại nhạc khí đă có sẵn trong hiện
thời mà thôi! Nhưng có thể nói là con trâu ấy rất
may mắn, có thể nói là nó đă bố thí thân cho Tam Bảo,
lại thường được nghe tiếng tụng
kinh, Phật hiệu gia tŕ, sẽ được giải
thoát. Quả thật đă vượt trỗi [những con
trâu bị căng da bịt mặt trống] trong chốn nhà
hát, hoặc dùng nơi chiến trường, giúp kẻ khác
tạo nghiệp người rất nhiều! Gơ trống
th́ có ǵ là bất nhẫn?
* Hỏi:
Theo truyền thuyết, trước khi thành đạo, Quán
Âm Bồ Tát là con gái vua Diệu Trang, tức công chúa Diệu
Thiện, thấy thấu suốt hồng trần, chẳng
muốn lấy chồng, bỏ cơi tục xuất gia, tu hành
đắc đạo. Xin hỏi Diệu Trang Vương
xuất hiện trong thời đại nào? Là quốc vương
nước nào? Lịch sử có ghi chép hay không? Nghe nói Phổ
Đà Sơn ở Nam Hải là đạo tràng của Quán Âm
Bồ Tát, núi ấy được sáng lập từ đời
nào? Có phải do công chúa Diệu Thiện sau khi đắc đạo
đến đó lập đạo tràng hay không? (Phan Kim Tuyền hỏi)
Đáp: Chuyện
vua Diệu Trang do những kẻ hiếu sự rảnh rỗi
bịa đặt ra, rồi được các nhà xuất
bản in ra làm món giải trí cho người khác. Nếu nói
đến mặt tốt đẹp của chuyện ấy
th́ chẳng qua là một loại tiểu thuyết khuyến
thiện dành cho những ông già bà cả trong làng quê mà thôi!
Trong sử sách lẽ đâu ghi chép những chuyện hoang đường
như thế? Phải nên biết: Quán Âm và chuyện này chẳng
có mảy may liên quan ǵ. Hiểu rơ điều này, chẳng cần
phải rườm lời về đạo tràng Phổ Đà
Sơn nữa!
* Hỏi:
Quán Thế Âm bồng một đứa bé, có người nói
[đứa bé ấy] là Tống Nhân Tông[9], có đúng hay không? Giả sử là Tống
Nhân Tông được Bồ Tát ẵm đến chuyển
thế th́ người thế gian do đâu mà biết được?
Tống Nhân Tông cũng tin Phật hay sao? (A Hoa hỏi)
Đáp: Đó
là lời đồn đại vô căn cứ trong thế
gian, há đáng tin cậy? Chỉ có điều bản thân Tống
Nhân Tông tin Phật hay không, tuy chưa thấy sử sách ghi
chép, nhưng rơ ràng là các quan văn vơ đầu triều thời
ấy đa số là Phật tử, từ đó có thể
suy ra để biết công lao hộ pháp của Tống Nhân
Tông!
* Hỏi:
Bồ Tát nhập thai bị mê khi cách ấm, người
văng sanh Tây Phương thừa nguyện tái lai có bị mê
khi cách ấm hay không? (A Hoa hỏi)
Đáp: Điều
này tùy thuộc vào quả địa đă chứng như
thế nào, chẳng thể luận định nhất loạt
như nhau được!
* Hỏi:
Nếu Phật tử cầu siêu cho tổ tiên, làm một lần
liền hữu hiệu, hay là làm nhiều lần mới hữu
hiệu, có cảm ứng hay không, làm sao con cháu biết được?
(Trương Khoan Tâm hỏi)
Đáp: Nhiều
lần tự nhiên tốt hơn một lần, bởi công
đức càng nhiều càng tốt; nhưng cũng phải
xét coi là đúng pháp hay không đúng pháp. Nếu đúng pháp th́
một lần bèn hữu hiệu; nếu không đúng pháp,
trăm lần cũng vô ích! Nói “đúng pháp” và “không đúng pháp”
là vị sư tu pháp (cử hành lễ cầu siêu), đàn
tràng được thiết lập, cũng như vị chủ
nhân sắp đặt trai diên (cỗ chay cúng dường),
nếu trong ba món này có một thứ nào chẳng đúng pháp,
công đức sẽ chẳng viên măn. C̣n nếu [cả ba] đều
không đúng pháp th́ có thể suy ra mà biết!
* Hỏi:
Nếu ai nấy đều ĺa khỏi kẻ ác, rốt cuộc
kẻ ác phải trông cậy vào ai cứu giúp họ trở
về đường chánh? (Lữ
Chánh Lương hỏi)
Đáp: Ở
đây chia thành Bồ Tát và kẻ chưa phải là Bồ
Tát, kẻ có chánh tri kiến và kẻ chẳng có chánh tri kiến
để nói. Bồ Tát có ḷng đại từ bi, nhất
loạt phổ độ, chẳng xa ĺa kẻ ác. Người
có chánh tri kiến, dẫu chẳng thể hóa độ kẻ
ác, cũng chẳng đến nỗi bị kẻ ác chuyển
biến. Ĺa và chẳng ĺa, chẳng có ích, mà cũng chẳng
có hại. Nếu chưa phải là Bồ Tát, lại thiếu
chánh tri kiến, thử hỏi nếu thân cận ác nhân, sẽ
gặt được cái quả như thế nào?
* Hỏi:
Trời Đao Lợi có thiên nữ và thiên nhân (thiên tử)
khác biệt; trời Đâu Suất có phân biệt nam nữ
hay chăng? (Đỗ Phấn
hỏi)
Đáp: Đâu
Suất được xếp vào cơi Lục Dục, sẽ
có tướng nam nữ, chỉ trừ nội viện mà
thôi!
* Hỏi:
Sanh vào nội viện của Đâu Suất Thiên có c̣n bị
đọa lạc hay chăng? (Đỗ
Phấn hỏi)
Đáp: Sanh
vào nội viện bèn vượt thoát sanh tử. Sau này sẽ
theo Di Lặc Phật giáng xuống thế gian này, chứng
quả trong Long Hoa tam hội, làm sao có chuyện đọa
lạc được!
* Hỏi:
Người đă kết hôn có được phép dẫn vợ
con theo xuất gia hay chăng? Đạo Giáo c̣n truyền tụng
giai thoại Lữ Động Tân dẫn vợ đi tu tiên,
Phật có răn cấm chuyện này hay chăng? (Lư Trung Tâm hỏi)
Đáp: “Gia” có rất nhiều cách giảng
giải, nêu đơn giản th́:
1. Bao gồm hết thảy
các chỗ có thể sản xuất, sinh sống.
2. Chồng và vợ.
Kinh Thi có câu: “Chi tử vu quy,
nghi kỳ gia thất” (ngươi về nhà chồng, nên
cửa, nên nhà)[10].
Kẻ xuất gia lại
chia ra nhiều loại, những người mang h́nh tướng
tỳ-kheo trong hiện tại chỉ là một loại xuất
gia, tức là kẻ ĺa khỏi gia sản và vợ con. Đối
với vấn đề mà ông đă nhún ḿnh hỏi tôi, [nếu
vợ chồng] xin thế độ (xuống tóc) tại hai
chùa tăng và ni [tách biệt] th́ có ǵ là không được!
Nhưng nếu vẫn ở chung một chỗ, chẳng
biết sẽ ra thể thống ǵ? C̣n như giai thoại
Lữ Động Tân mà ông đă nêu, chẳng dính dáng ǵ đến
[chuyện đang bàn] ở đây!
* Hỏi:
Một gia đ́nh Phật hóa có h́nh thái như thế nào? Lại
xin nêu ra một trường hợp thực tế. (Lư Trung Tâm hỏi)
Đáp: Trọn
chẳng có h́nh thái nào khác, bất quá là tín ngưỡng đồng
nhất, cùng tu Phật pháp, cùng giữ Phật giới mà
thôi. Tiên sinh tuy muốn học Phật, nhưng ắt phải
đọc kinh để trước hết hiểu đại
lược. Tệ xă (Đài Trung Liên Xă) có thể chọn lựa
những sách nhập môn biếu tặng; sau khi đă hiểu
biết kha khá rồi th́ mới có thể bàn đến chuyện
Phật hóa gia đ́nh.
* Hỏi:
Cơ Đốc Giáo có những người mang chức trách
truyền đạo như mục sư v.v... Các pháp sư,
tăng ni Phật giáo cũng có chức trách truyền đạo
hay không? (Lư Trung Tâm hỏi)
Đáp: Bất
cứ pháp sư nào cũng đều là tăng chúng xuất
gia, hy sinh hết thảy, chuyên v́ giáo
hóa, hướng dẫn chúng sanh, trên hoằng dương Phật
pháp, dưới hóa độ chúng sanh, đó là chức vụ,
hạnh nghiệp của họ, trọn chẳng v́ đổi
lấy tiền bạc mà làm chuyện này, cho nên chẳng
thể coi họ giống như những người làm
nghề ấy được!
* Hỏi:
Tôi đọc báo biết ở Đại Hàn có chuyện tăng
ni xuất gia mà kết hôn, lại c̣n rất nhiều, đấy
là Phật giáo tiến bộ hay suy vi? Rốt cuộc quư vị
có nhận định như thế nào? (Lư Trung Tâm hỏi)
Đáp: Đệ
tử học Phật vốn có hai loại là xuất gia và
tại gia, mỗi loại có quy củ riêng, giới luật
hết sức rơ rệt, chớ nên hỗn loạn! Đă
luyến mến vợ con, tài sản th́ chẳng ngại ǵ
tu tŕ tại gia. Trong giới cư sĩ vốn có bậc
long tượng, từ cổ đă có rất nhiều vị
thành tựu, trọn chẳng phải là học Phật ắt
cần phải xuất gia. Phật giáo đồ Đại
Hàn kết hôn cũng chỉ là tại gia Ưu Bà Tắc, Ưu
Bà Di mà thôi. Họ sống trong chùa, tiếm xưng danh hiệu
tăng ni, trọn chẳng phải là quy chế nhà Phật,
đấy chính là thói tệ biến chất của Phật
giáo Nhật Bản. Luật Tạng nay vẫn c̣n, đừng
phí công nhao nhác [bàn luận] những kẻ học Phật tệ
hại ấy!
* Hỏi:
Tôi biết bậc thánh hiền có thể kết hôn, nhưng
lại có lời dạy rành rành “bất
hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (có ba điều
bất hiếu, không có người nối dơi là tội bất
hiếu lớn nhất), chẳng biết Phật có thể
[kết hôn] hay không? Nếu có thể th́ tăng ni không có ǵ
là chẳng thể [kết hôn]! Tương truyền, thuở
ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật đă từng kết hôn, chẳng
biết có đúng hay không? Cho nên tôi có mối nghi này! (Lư Trung Tâm hỏi)
Đáp: Thánh
nhân vốn kết hôn vô ngại, Nghiêu, Thuấn, Liễu Hạ
Huệ là người như vậy. Học Phật cũng
chẳng trở ngại kết hôn, Duy Ma Cật, Tu Đạt
Đa là người như vậy. Chỉ có kẻ xuất
gia làm tăng, ni là chẳng được phép kết hôn. V́
cớ sao? Do kết hôn sẽ chẳng thể gọi là “xuất
gia”. Tuy Thích Ca Mâu Ni Phật từng kết hôn, nhưng đó
là chuyện trước khi Ngài xuất gia. Phải hiểu
rơ ràng chỗ này!
* Hỏi:
V́ cứu năm trăm vị Bồ Tát mà đức Phật
giết một kẻ ác, chính ḿnh cam tâm đọa lạc địa
ngục, chẳng biết có giống như kẻ b́nh thường
chịu xử phạt trong địa ngục hay chăng?
Hay là do sức thần thông mà ứng hóa, trọn chẳng
chịu khổ? (Tiêu Huệ Tâm
hỏi)
Đáp: Vạn
pháp duy tâm, trong nhiều kiếp trước, đức Phật
đă giết kẻ ác tặc để cứu nhiều người,
đấy là phát tâm từ mẫn, chẳng giống kẻ
phát tâm tham sân giết người, xét theo lư, h́nh tướng
địa ngục hiện ra sẽ khác biệt, chẳng cần
phải dính dáng đến thần thông!
* Hỏi:
Giáo đồ đạo Cơ Đốc nói họ lạy
thần, c̣n Phật giáo lạy người, do vậy, họ
có tŕnh độ cao hơn. Đối với điều này
có cách trả lời đơn giản nào hay không? (Liêu Ngọc Kiều hỏi)
Đáp:
Gia Tô (Jesus) cũng chẳng phải là người hay sao? Nếu
nói họ chẳng thờ Jesus th́ là thờ trời. Phật
là pháp tánh vốn có từ vô thỉ, bao gồm cả vô
lượng vô biên trời đất, chẳng cao lớn hơn
ư? Nhưng người ngoài sẽ chẳng thể hiểu
lời này. Nếu gặp hạng người như vậy,
không ǵ bằng đáp: “Mỗi người có niềm tin riêng”
để khỏi đấu vơ mồm sẽ hay hơn!
* Hỏi:
Đệ tử mỗi ngày tụng công khóa sáng tối, niệm
Phật tại nhà, chẳng biết tổ tiên và người
đă khuất trong nhà của chính ḿnh có nghe âm thanh tốt đẹp
ấy hay chăng? (Hương
Nguyên hỏi)
Đáp:
Chuyện này không nhất định. Nếu có thể chuyên
hồi hướng cho họ, hoặc khi niệm bài văn
hồi hướng, [niệm đến câu] “thượng báo tứ trọng
ân” bèn thầm quán tưởng th́ họ sẽ có thể
cảm được lợi ích!
*
Hỏi: V́ sao trên trán của Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà
Phật, và Quán Âm Bồ Tát đều có một nốt ruồi?
(Hương Nguyên hỏi)
Đáp: Chẳng
phải là nốt ruồi, mà là một trong ba mươi hai
tướng lành. Đấy là giữa hai mày sanh một sợi
lông trắng cực dài (bạch hào), bên trong trống rỗng,
tỏa sáng, cuộn tṛn lại, giống như một viên
minh châu. Khi vẽ tượng Phật, do không thể diễn
tả rơ rệt được, nên vẽ một chấm,
hoặc vẽ một ṿng tṛn, nhằm diễn tả ư ấy.
Khi tạc tượng, bèn dùng đá quư khảm vào.
* Hỏi:
Tập khí của chúng ta rất khó đoạn, như những
người giàu, có địa vị, hằng ngày mặc quần
áo tốt đẹp, đă trở thành quen thuộc, nếu
mặc quần áo rách rưới sẽ hổ thẹn. “Đoạn” là mặc y phục
tốt đẹp cũng chẳng vui thích, mặc y phục
rách nát cũng chẳng hổ thẹn đấy chăng? (Hứa Ngọc Hà hỏi)
Đáp: Cũng
có thể tỷ dụ như vậy! Tôi đă từng kể
với ông chuyện Tŕnh Tử thấy săn bắn tâm vui
thích, tôn giả Tất Lăng Già Bà Tha[11] quở trách thần sông, đó đều
là biểu hiện tập khí có thể thấy rơ vậy!
* Hỏi: Ngài Châu Lợi Bàn Đà Già căn khí
ngu độn, nhưng thành tựu nhanh chóng, đó có phải
là trong Ngũ Độn Sử đă đoạn được
bốn Sử nên mới thành tựu nhanh chóng hay không? (Hứa Ngọc Hà hỏi).
Đáp: Nói như ông
cũng được! Nhưng cũng nên biết là c̣n có
nghĩa “đoạn một thứ, sẽ đoạn hết
thảy”.
* Hỏi:
Đối với sự truyền thừa và giáo nghĩa của
mười tông Phật giáo Trung Quốc và năm phái Thiền
Tông, người xưa đă nói rất tường tận,
nhưng phương pháp tu tŕ chánh yếu cụ thể của
các tông, trừ pháp môn Tịnh Độ đă được
tŕnh bày đầy đủ ra, những tông phái khác đều
là khác đường nhưng cùng về một nơi, nên
mỗi tông phái sẽ có phương pháp tu tŕ khác biệt. Xin
hăy chuyên luận định về chuyện này! (Pháp Xưng hỏi)
Đáp: Vâng
lệnh luận định, tŕnh bày phương pháp tu tŕ của
mười tông; nếu nói đại lược sẽ chẳng
rơ ràng, nói chi tiết sẽ quá rườm rà, kẻ hèn này vụng
về, quả thật thiếu tài văn chương ấy!
Ở đây vẫn là nói đại khái, nếu muốn
nghiên cứu đến tột cùng th́ phải đọc các
kinh chuyên biệt của mỗi tông. Luật chính là pháp quy của
Phật môn, các tông đều cùng vâng giữ, giống như
hiến điển (sách vở ghi chép hiến pháp, luật
lệ) của quốc gia. Thiền hiện thời đa số
chú trọng tham thoại đầu để cầu minh
tâm kiến tánh. Tịnh chủ yếu là “buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật”,
dẫu chưa đoạn Hoặc, vẫn có thể cầu
đới nghiệp văng sanh. Mật là tay kết ấn, miệng
tŕ chú, ư quán tưởng để cầu cảm ứng
thành tựu. Ba tông này (Thiền, Tịnh, Mật) thiên trọng
tu tŕ, cho nên gọi là Hành môn. Sáu tông kia chú trọng diễn
giáo, nên gọi là Giải môn; nhưng sáu tông ấy chẳng
phải là không hành tŕ, cách hành tŕ của họ cũng không
ngoài những pháp của bốn tông trên đây.
* Hỏi:
Tôi thấy tạp chí Bồ Đề Thụ ghi năm Dân
Quốc 44 (1955) tương ứng với năm 2518 trong Phật
lịch, nhưng Ủy Viên Hội chủ tŕ công cuộc ấn
hành Niên Phổ của lăo ḥa thượng Hư Vân lại
ghi là năm 2980. Xin hăy giải thích nguyên nhân! (Tạ Phổ Dương hỏi).
Đáp: Vấn
đề này đă được giải đáp nhiều
lần trong tạp chí Bồ Đề Thụ. [Cách tính Phật
lịch] hơn hai ngàn chín trăm năm là cách tính theo sự
khảo cứu xưa kia, c̣n cách tính Phật lịch hơn
hai ngàn năm trăm năm là cách tính toán dựa theo ghi chép
trong bộ Chúng Thánh Điểm Kư, thuộc về sự khảo
cứu trong hiện thời. Gần đây, đa phần
[ghi Phật lịch] tuân theo cách khảo cứu trong hiện
thời. Chẳng qua, tờ Bồ Đề Thụ cũng
thuận theo [khuynh hướng ấy] mà thôi, chẳng phải
là thật sự có ư kiến riêng biệt. Xét đến cùng,
lấy ǵ để làm chuẩn, nếu chẳng hiểu rơ
lịch pháp rất sâu, sẽ không thể nào quyết đoán
được!
* Hỏi:
Trong hội Pháp Hoa, tôn giả A Nan ba lần khẩn khoản
thỉnh cầu đức Thế Tôn tuyên dạy diệu
pháp, nhưng năm ngàn người thuộc bốn chúng lễ
Phật, lui về, đức Phật nói bọn họ tội
căn sâu nặng và Tăng Thượng Mạn, có thể
nói là họ ngạo nghễ, ngă mạn hay chăng? (Tạ Phổ Dương hỏi)
Đáp: Đức
Phật đă nói bọn họ là Tăng Thượng Mạn,
chúng ta hăy nên vâng theo lời ấy mà nói, chẳng có ǵ là không
được!
* Hỏi:
Trong hội Pháp Hoa, đức Thế Tôn dùng ba loại xe dê,
nai, ngựa của ông trưởng giả để thí dụ
pháp tam thừa, pháp tam thừa ấy giữa nước ta
và nước khác có sai biệt hay chăng? (Tạ Phổ Dương hỏi)
Đáp: Lời
lẽ trong kinh Phật chẳng bị phân cách bởi thời
gian và không gian. Nếu có ǵ đặc biệt khác với ư
nghĩa trong kinh th́ đó chẳng phải là Phật pháp!
* Hỏi:
Trong kinh Địa Tạng, đức Phật bảo quỷ
vương: “Ta cũng bảo Phạm
Thiên, Đế Thích hộ vệ ông”. Phạm Thiên Đế
Thích rốt cuộc là nói về vị Phật hay vị thần
nào? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Phạm
Thiên là chư thiên thuộc Sắc Giới; Đế Thích là
chúa tầng trời thứ hai trong Dục Giới.
* Hỏi:
Đáp: Chứng
biết những điều ấy, thấy đúng là như
vậy. Nếu hạn cuộc trong kiến giải của
chính ḿnh, sẽ nghi [những điều ấy] là suy đoán
từ lư! Phàm vạn hữu trong vũ trụ, nếu chính
ḿnh chẳng biết, sẽ đều ngờ là suy đoán
từ lư!
* Hỏi:
Theo như Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh đă nói,
con người sanh tử tội lỗi nặng nề, nếu
đọa vào ngục Vô Gián th́ ngàn vạn ức kiếp chẳng
mong có lúc thoát ra, nhưng nay xét theo lời cư sĩ giảng
trên hai số báo Bồ Đề Thụ hai mươi lăm
và hai mươi sáu in chung, trong phần vấn đáp, chỉ
nói “tối đa bốn
mươi chín ngày” sẽ chuyển sanh, rốt cuộc
như thế nào mới là sự thật? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp:
Thân tâm hiện khởi th́ gọi là Hữu. “Hữu” có nghĩa là có thân tâm này. Phân loại tổng
quát th́ có ba thứ:
1. Bổn
Hữu: Chính là thân tâm trong khoảng thời gian sau khi sanh
ra, trước khi chết đi.
2. Hậu
Hữu: Sau khi hết đời này, chết đi, đầu
thai trong lục đạo, [do nghiệp lực] sẽ phải
có thân tâm [như thế nào].
3. Nhưng
khi Bổn Hữu đă chết, Hậu Hữu chưa sanh,
trong khoảng thời gian ấy sẽ gọi là thân Trung Hữu
(Trung Ấm thân).
Ắt cần
phải hiểu những điều này trước đă!
Trong lần trước, kẻ hèn này đă đáp lời người
khác hỏi “chậm nhất là bốn
mươi chín ngày sẽ chuyển sanh” chính là chỉ nói
về một loại Trung Hữu mà thôi! Xin chớ hiểu
lầm!
* Hỏi:
Đức Thế Tôn đến thế giới Sa Bà này đă
bảy hay tám ngàn lần, cớ sao chỉ có một lần
lưu lại kinh điển? Những lần khác có lưu
lại kinh điển hay không? Cớ sao chẳng thấy? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Thế
giới có thành, trụ, hoại, không, Phật pháp có chánh, tượng,
mạt, diệt. Do pháp diệt mất, nên Phật mới
phải quay lại. Đừng nói là kinh của vị Phật
trước, ngay cả đồ vật lâu ngày cũng chẳng
dễ ǵ t́m được. Thử hỏi Hiên Viên Hoàng Đế
của Trung Quốc mới hơn bốn ngàn năm, mà chiếc
xe chỉ nam do vua chế ra để phá Xi Vưu[12] hiện c̣n ở nơi nào? Hiểu rơ điều
này, sẽ có thể suy ra những điều khác!
* Hỏi:
Bồ Tát thường dùng tứ sự: Thức ăn, y phục,
thuốc men, đồ trải nằm để cung kính cúng
dường hết thảy chư Phật. V́ sao lại có
chuyện “thuốc men”? (Châu
Dương Huệ Khanh hỏi)
Đáp: Tứ
sự là những thứ cần thiết thường ngày,
Ứng Thân Phật c̣n phải dùng, cho nên cúng dường.
Pháp Thân và Báo Thân cố nhiên chẳng cần đến những
thứ ấy, [nhưng vẫn cúng dường] nhằm
gieo trồng phước điền cho ta. “Thuốc men” không
nhất thiết phải là những thứ để uống
khi bệnh tật, mà c̣n là những vật phẩm vệ
sinh như vải lọc nước, hương bôi, dầu
bôi chân v.v.. đều có thể coi là “thuốc men”.
* Hỏi:
Quán Thế Âm Đại Thế Chí Bồ Tát Thọ Kư Kinh chép
sau khi A Di Đà Phật diệt độ, Quán Thế Âm Bồ
Tát thành Chánh Giác, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn
Vương Như Lai, cơi nước đổi tên thành Chúng
Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm. A Di Đà Phật thọ mạng
vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, cớ sao c̣n có
cảnh giới “diệt độ”? (Châu Dương Huệ Khanh hỏi)
Đáp: Sự
diệt độ ấy chính là nói về Báo Thân thôi hóa hiện,
chứ chẳng phải là phần đoạn sanh tử; [điều
này] giống như trong thế gian, đại phương
trượng của tùng lâm xin thôi giữ chức, ẩn cư.
* Hỏi:
Có một vị pháp sư khai thị trong pháp hội Địa
Tạng như sau: “Thổi tắt
đèn thắp trước tượng Phật, đời
sau bị quả báo mù ḷa. Nếu trên kinh sách dính bụi,
dùng miệng thổi, đời sau sẽ bị quả báo
mồm vẹo” v.v... Tại nhà học nhân có thờ một
tượng Quán Âm Bồ Tát, chính giữa để một
ngọn đèn dầu thắp măi chẳng tắt, nhưng
nếu học nhân ban ngày có chuyện phải ra ngoài làm việc,
nên lúc sắp rời nhà, sẽ gắp bỏ bấc đèn
cũ, thay bấc đèn mới, đổ thêm dầu, nên
phải tắt đèn rồi mới thắp lại. Như
thế th́ có đúng pháp hay chăng? Hơn nữa, học
nhân phát nguyện đới nghiệp cầu sanh Tịnh
Độ, đă tính toán chẳng làm người trong đời
sau nữa, vậy th́ trong t́nh h́nh ấy, có cần phải
lo ngại quả báo “mù mắt, lệch mồm” nữa hay
không? (Vương Minh hỏi)
Đáp: Phật
pháp viên dung, có giá, có khai[13]. Dùng miệng thổi đèn, vừa giết
hại các loài trùng nhỏ, vừa chẳng cung kính, nên chẳng
được phép làm. Nếu trong nhà không có ai, hăy cẩn
thận đèn lửa, dụi tắt bấc đèn, lúc trở
về sẽ thắp lại, sẽ khỏi bị phiền
phức, hăy thuận theo lẽ quyền biến. Hiểu rơ
lư này th́ đối với lời hỏi trong đoạn
sau, cũng chẳng cần phải nói nữa!
* Hỏi:
Pháp sư nói: “Trong Ngũ Bách Vấn Sự Kinh có nói: - Phàm là
tượng Phật, kinh chú nhà Phật v.v... đều là Pháp
Thân của Phật, chớ nên thiêu hủy. Nếu không, tội
sẽ giống như làm thân Phật chảy máu, phải đọa
địa ngục” v.v... Học nhân là kẻ sơ cơ học
Phật chẳng hiểu Sự Lư, do nhận chức trong
tiệm buôn có máy in ronéo, nên đă từng dùng giấy stencil
để chép lại mấy thứ kinh chú rồi dùng máy
ronéo in thành nhiều bản tặng cho người khác lễ
tụng. Trong tiệm, giấy sáp (stencil) để chế
bản in đă chất lại một hộp to. Tôi vốn
tính khi nào rảnh rỗi sẽ thiêu đi, nhưng nay nghe nói
phàm là kinh Phật chớ nên hủy, như vậy th́ chẳng
biết phải làm như thế nào đối với cả
hộp to kinh chú chẳng thể ghép thành sách ấy? Xin hăy
chỉ dạy phương pháp xử trí ổn thỏa, và
có nên tiếp tục viết, in hay không? Lại như ống
giấy đựng hương (bao nhang) có in h́nh Phật trên
đó, lại nên xử trí ra sao? (Vương
Minh hỏi)
Đáp: Kinh Phật v́ lợi
ích chúng sanh mà trụ trong thế gian, cho nên phải tôn kính và
lưu thông, hủy diệt sẽ chuốc lấy tội nặng.
C̣n như những trang kinh in ronéo lờ mờ, tàn khuyết,
chẳng hoàn chỉnh, cũng như giấy sáp làm bản gốc
[để in], bao nhang, ống nhang bằng giấy v.v... đă
chẳng thuận tiện cho người khác đọc tụng,
lại chẳng thể bày lên cao cúng dường, nếu bỏ
mặc cho chúng mục nát, trùng đục, chuột gặm,
lại đâm ra mắc lỗi khinh nhờn! Chẳng ngại
ǵ chọn lựa cuộc đất sạch, lễ bái thiêu
đi, đem tro đổ xuống chỗ có ḍng nước
sạch. Ở đây tôi nói khác với lời pháp sư, hăy
nên chú tâm thấu hiểu. Nếu ư vẫn chưa nỡ, mà
có đủ sức, cũng có thể dựng cái tháp nhỏ
cao mấy thước để chuyên đựng những
kinh, tượng hư nát th́ Sự và Lư đều vô ngại!
* Hỏi:
Trong Tây Du Kư có nhắc tới Tôn Ngộ Không, Bát Giới, Sa
Tịnh. Chiếu theo Phật học để nói, toàn bộ
đều là tiểu thuyết bịa đặt bừa băi,
v́ sao có kẻ nói Tôn Ngộ Không là Đấu Chiến Thắng
Phật, Bát Giới là Tịnh Đàn Sứ Giả, Sa Tịnh
là Bảo Kim Thân La Hán; những điều này cũng có thể
không nhất định là do tiểu thuyết bịa đặt
ra! Nói như vậy là nói quyền biến hay nói chân thật?
V́ sao đức Phật phải chia ra quyền và thật? Cớ
sao chẳng đồng nhất nói tới chỗ cùng cực
mới thôi th́ chúng sanh mới chẳng bị phiền phức?
Phân biệt quyền và thật như thế nào? (Vương Tích Kỹ hỏi)
Đáp: “Tôn
Ngộ Không là Đấu Chiến Thắng Phật, Bát Giới
là Tịnh Đàn Sứ Giả” v.v... đều là lời lẽ
trong tiểu thuyết Tây Du Kư, đâu có ǵ đáng để
nói là quyền hay thật! C̣n như nói đức Phật
thuyết pháp, v́ sao phải chia thành quyền và thật, đấy
vốn là v́ chúng sanh căn khí bất đồng, nên phải
có đủ mọi phương thức thuyết pháp. Như
nêu lên con số mười, nếu có người chẳng
thể hiểu, bèn nói là hai lần năm, hoặc bốn cộng
với sáu, khiến cho người ta dễ hiểu. Số
mười là thật, hai lần năm hoặc bốn cộng
sáu là quyền; nhưng cần phải biết rơ: Hai lần
năm hay bốn cộng sáu vẫn là mười. V́ thế,
biết rằng: Nói quyền biến th́ vẫn là nói thật!
* Hỏi:
Nếu thế giới chúng ta đang ở bị phá hoại
khi kiếp tận, nó sẽ biến thành vi trần, hay là thế
giới vẫn tồn tại, chỉ diệt chúng sanh. (Vương Tích Kỹ hỏi)
Đáp: Thành,
trụ, hoại, không là nói về khí thế gian.
* Hỏi:
Thầy dạy: Lương Hoàng Bảo Sám nói muôn h́nh tượng
do nghiệp tạo, tâm hiện. Ví như nước, con người
thấy là nước, chư thiên thấy là ngọc lưu
ly, quỷ thấy là một đống lửa, cá, rồng
thấy như mây, khói, nhưng quỷ thấy là lửa chẳng
thể uống, nên thường khát nước.
Đáp: Đây
là nói đến nước trong hạ giới, chứ thiên
giới thanh tịnh, quang minh, họ có sự hưởng
thụ riêng biệt; nhưng họ thấy [nước dưới]
hạ giới xấu, bẩn, ô uế, xông vào mũi khiến
mắc ói. Dẫu chẳng thấy như ngọc lưu ly,
há vật ô uế ấy c̣n đáng để uống ư?
* Hỏi:
Diêm La Vương và mười tám chúa ngục cùng ngưu
đầu A Bàng[14] trong địa
ngục xử phạt tội nhân trong thời gian có hạn
độ hay là thời gian vĩnh cửu chẳng có hạn
độ? (Huệ Hương
hỏi)
Đáp: Diêm
La Vương chính là chức danh của vị chúa địa
ngục. Ngưu đầu A Bàng cũng là chức danh, tự
nhiên là họ Trương đi, họ Vương tới,
mới thay thế cũ. Nếu lại nói tới thọ mạng
th́ trong hai mươi tám tầng trời c̣n có sanh tử, huống
là Diêm La ngục tốt? Thọ mạng đă có hạn
độ, làm sao có thể nhậm chức vĩnh cửu?
* Hỏi:
Trong Lương Hoàng Bảo Sám có nói một câu: Xưa kia,
vua Diêm La là quốc vương, cùng quốc vương xứ
khác đánh nhau, bại trận, phát nguyện sau khi chết
sẽ làm vua Diêm La và mười tám vị chúa ngục v.v...
Nhưng đấy là chuyện [đă phát nguyện] trước
khi chết, trong địa ngục có Diêm La Vương, chúa
ngục v.v... hay chăng? (Huệ
Hương hỏi)
Đáp: Nếu
hiểu rơ lời đáp trước, sẽ hiểu chuyện
này!
* Hỏi:
Hai vị thần hộ pháp đứng hai bên ba vị Thế
Tôn, trong tạp chí tôi thấy ghi là “Vi Quan nhị thần”. Vi là Vi Hộ, chẳng biết
Quan là vị thần nào? (Từ
Đạt Tuấn hỏi)
Đáp: Vi
chính là Vi Đà Bồ Tát, Quan là người đời Hán,
húy là Vũ (羽), tự Vân
Trường, tức là vị được người
đời gọi là Quan Thánh Đế Quân. Vi Hộ chính là
nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết Phong Thần
Diễn Nghĩa, chớ nên lầm lạc tin theo.
Hỏi: Đối
với Đại Hùng bảo điện của các chùa miếu,
nói Tam Thế Tôn, có kẻ nói là A Hàm, A Di Đà, Thích Tôn, lại
có nhiều cách nói khác nhau, rất nhiều người nói
[Tam Thế Tôn là] Tây Phương Tam Thánh, tức A Di Đà Phật,
Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, các chùa có giống nhau
hay không? (Từ Đạt Tuấn
hỏi)
Đáp: Tượng
Phật Tam Tôn trong các chùa Phật vốn có nhiều loại,
ở đây tôi thử nêu lên ba vị Phật được
xếp ngang nhau th́ chính giữa là Thích Ca Phật, Đông là
Dược Sư Phật, Tây là A Di Đà Phật. Có khi là một
vị Phật, hai vị Bồ Tát, lại chia thành hai loại:
Một là Hoa Nghiêm Tam Thánh, tức Thích Ca, Văn Thù, Phổ Hiền;
hai là Tây Phương Tam Thánh, tức Di Đà, Quán Âm, Thế
Chí. Nhưng được gọi là Đại Hùng Bảo
Điện th́ phần lớn là hai loại trước.
* Hỏi:
Về hai thứ mơ và khánh có nguồn gốc từ nơi nào?
Phát minh vào thời đại nào? Do người nào sáng chế?
Cách dùng Pháp Bảo có xuất xứ ra sao? (Kỷ Uyên Quư hỏi)
Đáp: Từ
thời thượng cổ, Trung Quốc đă chế ra khánh,
chỉ có điều chất liệu bằng đá, có h́nh
dáng dẹp và cong, đại khái giống như h́nh chữ
Nhân (人)[15].
Thứ dùng trong chùa Phật làm bằng đồng hay sắt,
có h́nh dáng tṛn. Hai thứ này đều dùng trong tụng niệm,
nhằm giữ cho âm tiết nhịp nhàng. Do mắt cá chẳng
nhắm, nên [chế mơ theo h́nh con cá] với ngụ ư “thường
tỉnh giác”. Khánh khiến cho [người nghe] cảnh giác,
nên được dùng làm [nhạc khí] hướng dẫn
chính [trong khi tụng niệm]. Chỉ có câu hỏi [những
thứ này được] sáng chế trong thời đại
nào, do ai chế ra, kẻ hèn này học thức hủ lậu,
chưa từng khảo sát, tra cứu.
* Hỏi:
Quan Thánh Đế Quân vốn thuộc Nho, cớ sao được
Phật giáo rất sùng bái, coi Quan Công là thần hộ pháp?
V́ sao Quan Công được coi là thần hộ pháp? Nguyên
nhân ấy khởi đầu từ đâu? Ghi chép trong sách
sử nào? (Kỷ Uyên Quư hỏi)
Đáp: Quan
Công là thần hộ pháp trong Phật môn được chép
trong sách Phật Tổ Thống Kư. Trí Giả đại
sư đời Tùy, trong Định, đă từng truyền
giới cho Quan Công.
* Hỏi:
Đối với h́nh tượng Tây Phương Vạn Phật,
cần phải mua loại bản vẽ gốc nào để
tham khảo? (Kỷ Uyên Quư hỏi)
Đáp:
Tôi trọn chẳng nghe nói có loại sách như vậy.
* Hỏi:
Tín ngưỡng Phật giáo luôn tự xưng là “trí tín” (tin tưởng bằng
trí huệ), nghĩa là: Chẳng lạy thần, chẳng bái
quỷ, chẳng lạy vị thiên đế nào, tự mệnh
danh là “chánh tri chánh kiến”, nhưng tôi thấy tăng chúng
trong các đại tùng lâm hay tự viện lớn ở Đại
Lục vào ngày Rằm tháng Tám thường dán bài vị viết
sáu chữ Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát ở nơi
trống trải ngoài trời, bày hương án, cử hành
lạy mặt trăng. Theo như kinh Phật nói, mặt trời,
mặt trăng chỉ ở lưng chừng núi Tu Di. Như
trên đă nói “tín đồ Phật giáo chẳng lạy quỷ,
thần, thiên đế”, huống hồ mặt trời, mặt
trăng chưa cao đến tầng trời thứ hai là Đao
Lợi Thiên trên chót đảnh núi Tu Di; mà có thể gọi
là Bồ Tát được ư? Cớ sao lại được
Phật giáo đồ coi trọng, sùng bái dường ấy?
Ngay như tục ngữ có câu: “Đàn
ông chẳng lạy mặt trăng, đàn bà chẳng lạy
ông Táo”, có thể thấy lời ấy của người
đời quả thật có ư nghĩa chân chánh, biểu thị
hành vi của bậc trượng phu. Huống hồ hàng Phật
tử chánh tín lại cử hành lạy mặt trăng, há
chẳng bị người đời cười nhạo,
báng bổ là kiến giải ngu muội, rơ ràng là hành vi mê tín
ư? Cư sĩ nghĩ như thế nào? (Phan Thành Lâm hỏi).
Đáp: Ở
đây có hai nghĩa:
1. Pháp
Thân của Phật, Bồ Tát trọn khắp hư không, đă
nói là Biến Chiếu Bồ Tát th́ chẳng phải là chuyên
lễ bái mặt trăng.
2. Hoặc
có thể là một số ít người làm như vậy,
chứ không phải là chùa miếu nào cũng làm như thế.
* Hỏi:
Lúc đức Thích Ca mới xuất gia, theo kinh Phạm Vơng,
Ngài xuất gia năm bảy tuổi, [nhưng tôi lại] thường
nghe Tăng chúng nói Ngài mười chín tuổi mới xuất
gia, lại thấy tác phẩm Phật Học Thường
Thức của quư tập san nói Phật xuất gia lúc hai mươi
chín tuổi, tu khổ hạnh sáu năm trong Tuyết Sơn,
thành đạo vừa đúng ba mươi lăm tuổi.
Thuyết ấy so ra chuẩn xác hơn, nhưng các thuyết
trước cũng có kinh điển làm căn cứ. Kinh Phật
chẳng giống các tiểu thuyết thế tục mà kẻ
hư vọng có thể ngụy tạo. Chư Phật, Bồ
Tát chẳng nói dối. Nếu dựa theo những ǵ được
nói trong kinh điển, đương nhiên đáng tin, cớ
sao cách nói trong các kinh điển cũng có chỗ trước
sau chẳng phù hợp? Tôi trộm mang nỗi nghi ấy, xin
cư sĩ hăy luận định, chỉ dạy cho công bằng.
(Phan Thành Lâm hỏi)
Đáp: Điều
này thuộc về vấn đề khảo cứu, chẳng
liên quan đến sự học hỏi về Lư, chẳng
hề có cái gọi là ngụy tạo và vọng ngữ, chỉ
là các nhà [nghiên cứu] khảo cứu, so sánh khác nhau. Thật
ra là do kinh tạng kết tập chẳng phải là cùng một
nơi, cùng một chỗ, cùng một người, nhất
là thời gian [kết tập] cho đến bốn trăm
năm sau khi đức Phật diệt độ, vẫn
c̣n kết tập, thời đại cách xa lâu đời,
mờ mịt, mỗi người căn cứ trên điều
ḿnh thấy, chọn lấy những chứng cứ. Do vậy,
mới đi vào ngơ rẽ. Đây cũng là sự tranh luận
khó tránh được. Ngay như ngày thánh đản Khổng
Tử tại Trung Quốc, xét ra “nên lấy ngày nào làm chuẩn”
cho đến nay vẫn chưa kết luận dứt khoát.
Đấy là một thí dụ vậy. Thời điểm
[Phật xuất gia] được chọn lựa để
ghi trong bản Khóa Tụng của Đài Trung Liên Xă do dựa
theo các kinh A Hàm, kinh Niết Bàn, Bổn Hạnh Tập Kinh
v.v...đấy là chủ trương của đa số vậy!
* Hỏi:
Lúc đức Thế Tôn thuyết pháp đă nói: Hết thảy
mọi thứ trong mười phương thế giới
Ngài đều có thể biết, có thể thấy. Thuở
ấy, tân đại lục chưa phát hiện, cớ sao đức
Phật chẳng nói thế giới này c̣n có đại lục
mới, khiến cho người đời sau cũng biết
đức Phật thuyết pháp chẳng phải là lời
hư dối? (Hoàng Mậu Vinh
hỏi)
Đáp: Tu
Di, tứ đại châu, bát trung châu[16], mấy vạn tiểu châu vây quanh chín núi,
tám biển[17]. Trên lên tới trời Sơ Thiền, dưới
cho tới phong luân là một đơn vị thế giới.
Tân đại lục trên địa cầu bất quá là một
bộ phận trong
* Hỏi:
Người xuất gia đạt tới địa vị
nào mới có thể xưng là ḥa thượng? Ḥa thượng
và pháp sư có ǵ khác nhau? (Hoàng Mậu
Vinh hỏi)
Đáp: Ḥa
thượng có nghĩa là “thầy tôi”, c̣n “pháp sư” th́ những
người thông hiểu Phật pháp và tu hành theo Phật pháp
đều có thể gọi [là “pháp sư”].
* Hỏi:
Thích Tôn từng thuyết pháp trên trời và trong cung rồng,
đấy là nhục thân hay thần thức [tới những
nơi đó]. (Tiêu Huệ Tâm hỏi)
Đáp: Có
lẽ là nhục thân. Nếu không, cớ sao vua Ưu Điền
nghĩ tưởng, luyến mộ không nguôi, thỉnh tôn
giả Mục Liên lên thiên cung, điêu khắc tướng
tốt lành bằng gỗ chiên đàn [để chiêm lễ
cho đỡ nhớ].
* Hỏi:
V́ sao chuỗi tràng hạt nhất định phải xâu thành
một trăm lẻ tám hạt? (Tiêu
Huệ Tâm hỏi)
Đáp: Mang
ư nghĩa: Đoạn một trăm lẻ tám món phiền
năo.
* Hỏi:
Hiện thời, thế giới Sa Bà đang thuộc tiểu
kiếp thứ chín của Trụ Kiếp, nhưng ban đêm
tôi thấy trong hư không có tinh cầu bị phá hoại,
tinh cầu bị phá hoại thuộc vào hay nằm ngoài quốc
độ? (Lâu Vĩnh Dự hỏi)
Đáp: Con
người ở trong thế giới Sa Bà thấy lưu
tinh (sao xẹt), [th́ những ngôi sao ấy thuộc] phạm
vi của Sa Bà, tỷ như Thiên Vương Tinh (Uranus) và Hải
Vương Tinh (Neptune) trong Thái Dương Hệ này chẳng
nhờ vào viễn vọng kính c̣n chưa thể thấy được,
huống hồ là ở ngoài đại thiên ư!
* Hỏi:
Người đắc Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Thần Túc Thông
bèn không ǵ chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng đi. Thử
hỏi những sức thần thông ấy hạn cuộc
trong một quốc độ hay mười phương thế
giới đều có thể đến? Nếu có thể
th́ do lẽ nào loài quỷ tuy có ngũ thông nhưng chẳng
thể đến Cực Lạc? (Lâu Vĩnh Dự hỏi)
Đáp: Sức
thần thông có lớn hay nhỏ, trọn chẳng giống
hệt nhau. [Sức thần thông của] thánh có thể bao gồm
phàm, nhưng [sức thần thông của] phàm chẳng thể
bao gồm thánh. Quỷ thần có Ngũ Thông, nhưng chưa
Lậu Tận, nên chẳng thể vào Cực Lạc; c̣n người
sanh về Cực Lạc, đă hết Phần Đoạn
sanh tử, cho nên có thể rạng sáng nhặt hoa, bay đi
cúng dường mười vạn ức cơi Phật!
* Hỏi:
Tu Tịnh Độ niệm Phật sử dụng tràng hạt
(xâu chuỗi) th́ mỗi tràng hạt (xâu chuỗi) dài nhất
là bao nhiêu hạt, nhỏ nhất là bao nhiêu hạt, và có dụng
ư như thế nào? Xin hăy giải thích! (Dương Thừa Quang hỏi)
Đáp:
Tràng hạt được sử dụng trong mỗi tông cố
nhiên có cách giải thích khác nhau, nhưng chẳng phải là
mười phần nghiêm ngặt. Thường dùng nhất
phần nhiều là một trăm lẻ tám hạt và mười tám hạt. Đôi khi có người
hợp hai chuỗi một trăm lẻ tám hạt thành một
chuỗi nhằm giảm bớt số lần phải lần
chuỗi. Đối với chuyện này, Tịnh Độ
Tông trọn chẳng có chế định đặc biệt
nào, phần nhiều cũng sử dụng chuỗi một
trăm lẻ tám hạt, c̣n về ư nghĩa của số
hạt th́ có thể tham khảo câu đáp cho lời hỏi
của cư sĩ Lưu Định Xí trong phần trước
sẽ hiểu rơ.
* Hỏi:
Tỳ-kheo-ni chưa thọ giới Tỳ Kheo có được
phép thâu nhận giáo đồ hay chăng? Có được
phép thờ Thái Tử Gia, Cửu Thiên Huyền Nữ nương
nương[18] này nọ, lạy
Đáp:
Chưa thọ giới th́ làm sao có thể xưng là tỳ-kheo-ni?
Điều này giống như chưa vào trường, liền
xưng là học tṛ đă tốt nghiệp từ trường
nào đó! Khôi hài như nhau! Những kẻ ấy do chẳng
thông hiểu giáo lư mà nên nỗi! Do chẳng hiểu lư nên thờ
xen tạp đủ thứ thần thánh, cũng chẳng có
ǵ là lạ!
* Hỏi:
Phong tục của tỉnh nhà là hễ gặp ngày mồng
Bảy tháng Bảy, đa số nhà nào, nhà nấy đều
lạy một vị Thất Nương Ma ǵ đó, chẳng
biết Thất Nương Ma thuộc tôn giáo nào! Đệ
tử khuyên những người sống cùng nhà đừng
sát sanh cúng Thất Nương Ma, đâm ra bị người
ta phê b́nh xằng bậy: “Nhạo báng người thắp
hương, ngăn trở quyền tự do thắp hương
của người ta”. Kết quả là nói rát họng vô ích!
Chưa biết phải nên dùng cách nào th́ mới thích hợp
bụng dạ của những kẻ tham vị ngon, xin hăy
chỉ dạy! (Nhan Khoan Văn
hỏi)
Đáp:
Phong tục do lâu ngày đă thành thói quen. Đối với
chuyện này, chính phủ đă khuyên cấm cũng chẳng
phải chỉ một lần, nhưng vẫn chưa thay đổi
được! Muốn cậy vào một lời để
chuyển dời, sẽ chẳng thể nào thực hiện
được! Nếu quan tâm chuyện này, ắt lúc thường
ngày phải tuyên truyền cho nhiều những nhân quả ác
do sát sanh tế thần như kinh Phật đă dạy, khiến
cho họ hiểu lẽ tà chánh trong chuyện này th́ mới
có hy vọng sửa trừ được!
* Hỏi:
Có một hạng người miệng nói đă quy y Phật
giáo, nhưng vẫn c̣n làm bà đồng, bà cốt, bảo
là “từ bi tế thế”, những kẻ ấy bị tín
đồ các tôn giáo Tây Dương biết đến, há chẳng
bị những kẻ ấy mù quáng dè bỉu Phật giáo mê
tín? Có phương thuốc tốt lành nào để cứu
giúp, chữa trị những kẻ giống như vậy hay
không? Xin hăy chỉ dạy. (Nhan
Khoan Văn hỏi)
Đáp: Đă
làm bà đồng, bà cốt th́ đă đánh mất tư cách
Tam Quy rồi, chẳng c̣n là đệ tử Phật nữa.
Hăy dùng lời ấy để bảo [những kẻ dè bỉu].
Nếu họ chẳng tin tưởng, có thể mời người
ấy đến hỏi vị thầy quy y của kẻ
[đồng cốt] kia. Nếu kẻ ấy vẫn làm nghề
đồng cốt để kiếm sống, kiên quyết
chẳng thay đổi, tức là bệnh chẳng trị được,
chẳng có hy vọng ǵ giữ cho huệ mạng sống sót
cả!
* Hỏi:
Chùa Long Sơn ở Đài Bắc là một ngôi chùa cổ nổi
danh cả tỉnh, sao không chọn mời Tăng già thích đáng
đến quản lư? Cớ sao lại giao cho người
thế tục chưởng quản? Đúng là thiếu khuyết
gia phong nơi chốn Không môn. Đối với điều
này, hội Phật giáo đă biến khách thành chủ, cụ
nghĩ như thế nào? Đúng là phải nên sửa đổi
th́ mới là đúng! (Nhan Khoan
Văn hỏi)
Đáp: Cư
sĩ nói có lư, nhưng nơi ấy diễn biến như
thế nào và biến thành hiện tượng như vậy
chắc có nguyên nhân khác, tôi chẳng am tường t́nh h́nh,
nên chẳng tiện có chủ trương!
* Hỏi:
Trang nghiêm tượng Phật, phần lớn là giữa ấn
đường có một hạt giống như hạt châu
hay nốt ruồi, chẳng rơ là danh nghĩa ǵ? Xin đại
đức khai thị! (Nhan Phật
Triệu hỏi)
Đáp: Phật
có ba mươi hai thụy tướng (tướng tốt
lành), giữa hai mày có một sợi lông trắng (bạch hào),
cuộn tṛn như h́nh cầu. Ắt là cư sĩ đă niệm
tụng bài kệ tán Phật, trong ấy có câu: “Bạch hào uyển chuyển
ngũ Tu Di”, chính là nói về tướng này. Phàm tạo
tượng Phật, nơi ấn đường khảm
viên châu nhằm biểu thị thụy tướng bạch
hào ấy!
* Hỏi:
Giặc Cộng đă hủy diệt các đại tùng lâm,
các ngôi chùa nổi tiếng tại Đại Lục, bọn
giặc c̣n sai lũ bộ đội cả trăm hoặc
ngàn tên ra tay phá hoại. Kẻ tạo nghiệp là kẻ ban
bố mệnh lệnh, nhưng kẻ thuộc hạ bị
ép tạo nghiệp; một kẻ [ban bố mệnh lệnh
ấy] bị đọa địa ngục, c̣n lôi thêm những
kẻ vô tri bị bắt buộc [tạo nghiệp] đọa
địa ngục. Xét theo nhân quả, thế gian vĩnh viễn
chẳng thể ḥa thuận ư? (Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Khi
Hoặc nghiệp đă hết, sẽ chẳng phải là
chúng sanh. Chẳng phải là chúng sanh bèn ḥa thuận. Do vậy,
nh́n vào cơi sen ở phương Tây, toàn là các vị thượng
thiện nhân, nên có tên là Cực Lạc, mới biết là
chuyện chẳng tầm thường!
* Hỏi:
Trong các đồng sự, có kẻ báng bổ, chẳng gọi
tên, mà cố ư gọi mạt học là “A Di Đà Phật” !
Đối phương chẳng tin Phật mà gọi mạt
học là Phật, khiến cho cái nhân Phật được
gieo cũng là điều tốt lành, hiềm rằng phàm
phu thân nghiệp chướng nặng nề, làm sao xứng
để đối phương gọi là A Di Đà Phật?
Dường như kẻ hậu học này phạm lỗi
th́ phải? (Nhan Phật Triệu
hỏi)
Đáp:
Do kẻ kia dấy động, chẳng do ta xằng bậy
tự khen, đó là lư do chẳng phạm lỗi thứ nhất!
Kẻ ấy chẳng tôn kính danh hiệu ấy, đấy
chính là cử chỉ khinh bạc, cợt nhả [đem danh
hiệu tôn quư] gán lên thân ta, đó là bỡn cợt, chẳng
phải là do hư vinh [mà ta tự xưng là Phật]. Đấy
chính là lư do chẳng phạm lỗi thứ hai. Hơn nữa,
ta tu Tịnh Độ, trọng yếu là dùng tâm làm Phật,
tự tánh vốn là Di Đà, kẻ ấy gọi như thế,
hăy coi như [chính ḿnh được hắn ta] cảnh giác,
cũng chẳng phải là vô ích đối với ta.
* Hỏi:
Vợ tôi theo đa thần giáo, sau khi lấy nhau, lẽ ra
nên “phu xướng, phụ tùy” th́ mới là đúng, hiềm
rằng gia đ́nh cô ta dạy dỗ quen thói, thần nào cũng
cúng bái, nhiều lần khuyên thay đổi, mười phần
đă bỏ được tám chín, nhưng vẫn c̣n một,
hai phần chưa trừ, có nên để mặc cô ta, hay là
ngăn chặn, xin hăy lập cách độ cô ta! (Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Nếu
quư phu nhân là tín đồ Phật giáo từng được
quy y, nhưng thờ phụng nhiều vị thần, tự
trái nghịch giới điều, hăy nên cạn hết sức
dùng giáo nghĩa để uốn nắn, khuyên răn, chẳng
để cho cô ta thoái đọa. Nếu chẳng phải
là tín đồ nhà Phật chính thức, nhằm tránh né xung đột,
chỉ nên t́m cách ḥa hoăn, lựa dịp khuyên răn. Ông đă
nói mười phần trừ được tám, chín, điều
này rất khác so với kẻ chẳng thèm nghe lời khuyên
lơn; c̣n như ông nói thỉnh tôi hăy giảng giải [cho
cô ta] th́ kẻ hèn chưa hề gặp mặt, làm sao có thể
khuyên lơn, hóa độ được!
Hỏi: Vợ tin nhiều
vị thần, quen thói sát sanh nặng nề, tuy đă được
giáo hóa, chỉ bảo, nhưng đối với những
con vật nhỏ vẫn chẳng che chở, chồng bèn đối
trước vợ thề: “Nay bà chẳng sửa lỗi giết
kiến và những con vật nhỏ, về sau, bà sanh con cái,
sanh một đứa, sẽ chết một đứa”. Ư
là muốn văn hồi [ngăn vợ] chẳng giết những
con vật bé nhỏ mà thề, may là vợ nghe lời! Dường
như đối với chính ḿnh, lời thề độc
địa ấy tạo thành khẩu nghiệp ngập trời,
có ảnh hưởng đến sự văng sanh hay không? (Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Tâm
cư sĩ cố nhiên là tốt lành, nhưng cách làm của
cư sĩ chẳng thể chấp nhận! Do phạm lỗi
quá dữ dội, lại c̣n là ác khẩu. [Điều này] có
ảnh hưởng đến sự văng sanh hay không c̣n phụ
thuộc sau này ông có thể sửa đổi hay không. Bởi
lẽ, trước hết, hành vi ấy chính là ư nổi
sân, lại ăn nói thô bạo, hai nghiệp cùng uế, tạo
thành bao nhiêu chủng tử. Nếu lúc lâm chung, chúng dấy
lên hiện hành, sẽ sanh ra chướng ngại. Ông chẳng
thấy Nhẫn Nhục tiên nhân và vua Ca Lợi, đức
Thế Tôn và Đề Bà Đạt Đa, có bao giờ có nửa
điểm nóng giận hay chăng? Bọn ta đă xưng
là học Phật, hăy nên nỗ lực noi theo.
* Hỏi:
Một người bạn làm nghề nông nói: “Phật giáo
các anh nói phàm là hết thảy động vật đều
có linh tánh. Nếu băm con đỉa thành từng mảnh
nhỏ rồi bỏ trong phân trâu một đêm; sáng hôm sau,
bươi phân ra, bao nhiêu miếng thịt đỉa ấy
biến thành bấy nhiêu con đỉa”. Chẳng biết có
phải là trong phân trâu có vi khuẩn, vùi thịt đỉa
vào đó, những loài vi khuẩn sẽ nương theo duyên
mà hóa ra đỉa? Hay là có rất nhiều thân Trung Ấm nương
vào duyên, thừa nghiệp lực nhập vào các mảnh thịt
đỉa mà sanh [ra những con đỉa]? Xin chỉ dạy!
(Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Thần
thức đạt được giả thân, bất quá
như khách trọ và quán trọ mà thôi. Thức là chủ thể
nương gá, các vật thể thai, noăn, thấp, hóa là cái được
nương gởi. Do thần thức có linh cơ, noăn,
thai, thấp, hóa có sanh cơ (khả năng phát triển thành
sự sống). Đă có sanh cơ làm năng sanh (chủ thể
có khả năng sanh thành), gặp duyên là thức thần ḥa
hợp, bèn tạo thành thân thể một động vật,
đó là “sở sanh” (cái được sanh ra). Đây vẫn
là nguyên lư Duyên Sanh, chẳng có ǵ lạ lùng, đặc biệt
cả! Thần thức là thân Trung Ấm, đỉa vốn
là động vật thân đốt, mỗi đốt đều
có thể [tồn tại] độc lập, đều có
sanh cơ.
* Hỏi:
Theo học thuyết vệ sinh: “Cứ cách hai giờ, bàn
tay mỗi người có thể sanh ra vô số vi trùng”. Phàm
các loài trùng đều có sanh mạng; nếu có sanh mạng,
trong quá tŕnh sanh diệt, chắc chắn có Trung Ấm thân,
v́ sao Trung Ấm nhiều như thế? Trung Ấm có đầy
ắp không gian hay chăng? Xin chỉ dạy. (Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Động
vật hữu h́nh c̣n là vô lượng vô biên, huống chi thần
thức vô h́nh mà có hạn lượng ư?
* Hỏi:
Tiểu vi khuẩn trên da, mỗi con vật nhỏ nhoi đều
có sanh mạng; rửa tay và tắm rửa mỗi ngày, há chẳng
phải là vô t́nh giết hại vô số sanh mạng, hoặc
là do những con vật ấy nhỏ xíu nh́n không thấy nên
vô t́nh sát hại, chẳng thể chấp trước bảo
những chuyện ấy là sát sanh đó chăng? (Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Há
chỉ tắm rửa là sát sanh, mà con người chẳng
thể không hô hấp, một hơi thở ra hít vào đă
giết vô lượng sanh mạng. Đối với bọn
phàm phu chúng ta mà luận, bất quá là đối với chuyện
này, chỉ khác biệt ở chỗ có thể tránh hay không
thể tránh. Có thể tránh mà không tránh th́ gọi là tội, do
chẳng thể tránh nên không tránh th́ là lỗi mà thôi!
* Hỏi:
Trong thân thể con người, có không ít loài trùng nhỏ sống
kư sinh bên trong thân thể, nên mỗi người giống như
một tiểu thế giới. Giả sử một
người chết đi th́ có giống như một tiểu
thế giới bị diệt hay chăng? Như vậy th́
một người đă chết, chẳng phải chỉ
là một thân Trung Ấm thăng trầm trong hư không? Xin
chỉ dạy! (Nhan Phật Triệu
hỏi)
Đáp: Thế
giới đă hoại, đă trống không, th́ động vật
gởi thân trong thế giới ấy tự nhiên bị liên
đới hủy hoại, lại bị luân hồi.
* Hỏi:
Kiến chết đuối một hai ngày, có trường
hợp được cứu sống. Sau khi sống, thức
[của con kiến ấy] là thức trước đó, hay
là một Trung Ấm gặp duyên mà sanh? Xin dạy cặn kẽ!
(Nhan Phật Triệu hỏi)
Đáp: Có
thể sống lại tức là không phải thật sự
chết! Tuy chết thật, nhưng cơ năng chưa
hoại, th́ có trường hợp bổn thức (cái thức
vốn ở trong thân ấy trước khi chết) trở
lại, mà cũng có trường hợp thức khác gá vào đó,
chẳng thể chấp trước nhất loạt được!
* Hỏi: Trong kinh Phật
đă nói Pháp Thân vô tướng, v́ sao có ba mươi hai
tướng, tám mươi vẻ đẹp, chẳng lẽ
vô tướng chính là chân thân, hữu tướng chính là giả
thân ư? (Tŕ Huệ Lâm hỏi)
Đáp: Phật
có ba thân là Pháp, Báo, Ứng, nghĩa này hết sức phức
tạp. Nhằm dễ hiểu, nay tôi chọn cách giải
thích đơn giản. Lư Chân Như vô vi chính là Pháp Thân, có
thể nói là vô tướng. Trí hữu vi hiển hiện thành
sắc thân vi diệu chính là Báo Thân, có thể nói là hữu
tướng; khởi tác dụng công đức, do chúng sanh
cơ cảm mà hiện th́ là Ứng Thân, thuộc về hữu
tướng, thường nói là “ba mươi hai tướng,
tám mươi vẻ đẹp”. Nếu chỉ chú trọng
một phương diện th́ nói Pháp, Báo, Ứng là ba thân,
chẳng trở ngại ǵ! Pháp Thân là chân, Ứng Thân là giả,
như lửa có ngọn lửa, sức nóng, ánh sáng, chia thành
ba sự! Nếu hiểu viên măn th́ ba thân Pháp, Báo, Ứng vốn
là một, như nước có thể lỏng, tánh ướt
và sóng, nhưng hoàn toàn là một Thể. Chỉ chú trọng
một phương diện là cưỡng phân chia, nói quyền
biến bèn có Chân và Giả. Hiểu viên măn, sẽ thấy
toàn thể quả thật chẳng có chân, mà cũng không có giả.
Ngộ giải cặn kẽ hai tỷ dụ nước và
lửa, sẽ tự có thể hiểu rơ.
* Hỏi:
Thế giới Sa Bà có phạm vi lớn cỡ nào, bao quát những
thế giới nào? Địa cầu này ở vị trí nào
trong đại thiên thế giới? Có thể thấy chín rặng
núi, tám cái biển và tứ châu của đại thiên thế
giới cùng chư thiên, rồng hay không? Ở nơi nào? (Trần B́nh Chương hỏi)
Đáp: Phạm
vi của Sa Bà là toàn thể tam thiên đại thiên thế
giới. Về kết cấu của đại thiên, nói ra
sẽ vô cùng phức tạp; ở đây chỉ nói tổng
quát sẽ đơn giản hơn. Bốn đại châu,
tám trung châu, mấy vạn tiểu châu là một đơn
vị thế giới. Một ngàn [đơn vị thế
giới] như thế là một tiểu thiên thế giới.
Một ngàn tiểu thiên hợp thành một trung thiên, một
ngàn trung thiên hợp thành một đại thiên. Địa
cầu chính là một đại châu trong một đơn
vị thế giới, có tên là Nam Thiệm Bộ Châu. Đối
với những câu hỏi khác, [câu trả lời đơn
giản là] nếu bản thân ông] có thể đến nơi
ấy, sẽ có thể thấy được. Nếu không,
sẽ chẳng thể thấy! Như thật sự có Trường
An, nhưng nay nh́n về phương Tây chỉ thấy khói
giăng mịt mờ, mênh mang, chẳng thể thấy được!
* Hỏi:
Các vị Hoạt Phật như Đạt Lại, Ban Thiền
v.v... đă chứng quả vị nào? Họ thật sự
có sức thần thông và đại trí huệ ư? Cớ
sao họ vẫn nhiều lần mắc nạn? Những kẻ
xưng là Hoạt Phật khác, có phải là đều có Túc
Mạng Thông hay chăng? (Trần
B́nh Chương hỏi)
Đáp: Chỉ
thú của cột báo này là phàm có ai rộng ḷng hỏi tới,
sẽ đáp theo những ǵ chính ḿnh biết. Hoặc dựa
theo kinh điển, hoặc nghe người khác nói, ắt
có cái để làm căn cứ. Đối với lời
hỏi của Ngài th́ hiện thời các vị thầy như
Đạt Lại, Ban Thiền, kẻ hèn này chưa từng
gặp mặt, chiêm bái, chẳng dám tùy tiện nói này, nói nọ.
C̣n trí huệ, thần thông v.v... như thế nào, cũng là
nghe mọi người nói [như thế nào bèn biết như
thế đó] mà thôi!
* Hỏi:
Trí Giả đại sư là hóa thân của Phật Thích Ca,
ḥa thượng Thiện Đạo và thiền sư Vĩnh
Minh đều là hóa thân của Di Đà, do đâu mà biết?
Lại nữa, có người nói Ấn Quang đại
sư là Thế Chí Bồ Tát thị hiện, đúng không? Nếu
chỉ là lời khâm phục, ca ngợi, chứ không phải
là bổn địa của Ấn công (tổ Ấn Quang),
há chẳng phải là mắc tội vọng ngữ ư? (Trần B́nh Chương hỏi)
Đáp:
Những điều này do đều có những sự tích,
căn cứ trên đó để suy ra, tôi nghĩ là chuyện
đương nhiên. C̣n đích xác hay chăng th́ ắt phải
có Thiên Nhăn và Túc Mạng Thông rồi mới có thể quyết
đoán. Người xưa do căn cứ trên sự việc
để nói, nên không thể bảo họ là vọng ngữ.
* Hỏi:
Đức Thích Tôn đản sanh năm nào, mấy tuổi
xuất gia, thường có hai cách nói [khác nhau]. Lại nữa,
tranh luận kinh Lăng Nghiêm là chân hay ngụy đến
nay vẫn chưa thể dứt khoát, nhưng thấy trải
các đời chẳng thiếu những bậc cao tăng đại
đức có đại trí huệ, đại thần thông,
dựa theo trí huệ của các vị ấy há chẳng thể
có đáp án chính xác ư? (Trần
B́nh Chương hỏi)
Đáp: Năm
sanh và năm xuất gia của đức Thế Tôn thuộc
lănh vực chuyên môn của người học lịch pháp,
chẳng phải là vấn đề trong nội điển,
do xưa, nay, không chỉ trong, ngoài nước lịch pháp
khác biệt, mà ngay cả trong một nước, c̣n có nhiều
lần biến hóa! Trung Quốc mỗi đời trong Tam Đại[19] lịch
pháp đều khác, cho đến nay, so sánh lịch trong và
ngoài nước sẽ thấy rơ rệt nhất, há cần
phải nói tới đức Thích Tôn cho xa xôi? Ngay như ngày
sanh của Khổng Tử, tại Trung Hoa vẫn c̣n tranh luận
lung tung chưa thể ngă ngũ. Theo tệ kiến, nếu
chỉ cầu về đại thể chẳng sai, hăy nên
tập hợp đông đảo các vị học giả về
lịch số trong ngoài nước, chung sức cùng nhau nghiên
cứu, thảo luận, mới mong giải quyết được,
chứ chỉ dựa vào ư kiến suy đoán của một
hai người th́ cũng giống như phỏng đoán!
C̣n kinh Lăng Nghiêm là chân hay ngụy, chẳng phải là không
có lời giải đáp chính xác, mà chỉ là do người
đọc chẳng thể quyết đoán đó thôi! Những
người chủ trương [kinh Lăng Nghiêm] là thật,
như những vị tổ sư các tông đă viết chú
giải. Kẻ chẳng tin [kinh ấy] là thật, lẽ nào
viết chú giải? Kẻ chủ trương kinh ấy là
ngụy tạo, phần nhiều là những nhà học giả,
thâu thập chừng đó tài liệu bèn hoài nghi. Đây cũng
là vấn đề “người
nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí”. Kể
từ xưa, chẳng ít người đă nương vào
kinh Lăng Nghiêm để chứng đạo. Đă có thể
chứng đạo, làm sao bảo kinh [Lăng Nghiêm] là ngụy
tạo cho được? Há có phải chỉ là như thế,
những người theo Tiểu Thừa lại chưa từng
gièm báng kinh Đại Thừa ư? Há chẳng phải là họ
tin [kinh điển] Đại Thừa đều chẳng
do đức Phật nói ư? Đây chẳng qua là thuận
theo dấu vết, h́nh tướng để tranh biện.
Nếu nói thật th́ nói là chân hay ngụy đều là hư luận!
* Hỏi:
Nói theo Phật lư, bố thí tài vật chẳng khác ǵ một
thứ quan hệ vay mượn ân huệ! Lại thấy
có câu “kẻ thí thăng thiên
đường, kẻ nhận vào địa ngục”,
vậy th́ bố thí vốn muốn lợi người, kết
quả lại thành hại người, người nhận
bố thí vốn muốn làm phước điền cho
người khác, nhưng lại hại chính ḿnh. Có đạo
lư nào viên măn hơn để tháo gỡ mối mâu thuẫn ấy
hay không? (Trần B́nh
Chương hỏi)
Đáp: Kẻ
hèn này đọc kinh chẳng nhiều, cố nhiên kiến
văn hủ lậu. Nói “bố thí thăng thiên đường”
ít ra c̣n thấy gần gũi, chứ “nhận của bố
thí sẽ vào địa ngục” chẳng những chưa hề
thấy đoạn văn ấy ở trong kinh nào, mà
cũng chưa hề nghe ai nói! Kính thỉnh Ngài hăy dạy
cho biết lời ấy xuất phát từ kinh nào, hoặc
nghe ai nói, sau đấy tôi sẽ tra duyệt rơ ràng, dựa
theo đó để vâng mạng đáp lời!
* Hỏi:
Chọn ăn rau bên cạnh thịt, ắt thịt bên cạnh
rau sẽ được người chẳng tŕ giới
ăn, đấy cũng là nhường con đường
tạo tội ác cho người khác đi, sao chẳng theo
tinh thần “ta không vào địa
ngục, ai vào địa ngục?” để giành lấy
tội, nhường phước [cho người khác]? (Trần B́nh Chương hỏi)
Đáp: Ăn
rau bên cạnh thịt chính là biện pháp phương tiện
bất đắc dĩ của người tŕ giới khi đến
chỗ người khác ăn uống, chính ḿnh chẳng sắp
đặt những món ăn ấy, nên đành để
cho người ta ăn thịt, c̣n chính ḿnh ăn rau, chớ
nên hiểu lầm! C̣n như ông chất vấn “giành tội,
nhường phước” th́ trong một trường hợp
nào đó cũng chẳng phải là không được, nhưng
đó là chuyện đôi khi mới có, chẳng phải là
chuyện thường xảy ra. Dẫu nhường rau
cho người ta, người ta bằng ḷng tiếp nhận
ư? Cần biết: Phật pháp b́nh đẳng, v́ khắp
đại chúng mà nói. Nếu như chúng sanh ương ngạnh,
khó giáo hóa, cự tuyệt chẳng tiếp nhận th́ sao?
Theo như cách luận định mà Ngài đă chủ trương,
vô lượng kẻ đồ tể do đă giết cả
đống chúng sanh, cho nên sẽ mắc tội báo, vô
lượng gă giặc cướp, trộm nhiều của
báu, sẽ mắc phải tội báo, chẳng lẽ Phật
tử v́ ḷng từ bi, thấy hai loại người ấy
về sau sẽ hứng chịu tội báo, liền hùa nhau
làm đồ tể hay làm giặc cướp ư? Nếu
là như vậy th́ người ta sẽ nói Phật giáo như
thế nào?
* Hỏi: Trong lục
đạo, ngoài loài người và súc sanh đạo có thể
thấy bằng mắt ra, y báo và chánh báo trong bốn đường
kia đều ẩn, chẳng thấy được, là do
lẽ nào vậy? Nếu đều cùng sống với nhân
loại trong một thế giới này, các khí quan và vật
bài tiết của họ đặt ở nơi nào? (Trần B́nh Chương hỏi)
Đáp: Lục
đạo có loài [phàm nhân] có thể thấy, có loài chẳng
thể thấy. Điều này có mối liên hệ với
sinh lư và nghiệp báo, nhưng dưới một điều
kiện nào đó, cũng có thể thấy chư thiên, quỷ
thần, địa ngục. Kinh sử Nho gia cũng có ghi
chép, chứ không phải chỉ riêng kinh Phật, mà hiện
thời, những phát biểu của các nhà nghiên cứu về
tâm linh của Âu Mỹ cũng thường được
đăng tải trên báo chí, há có phải đều là hư
vọng! Nhưng chẳng thể thấy th́ cũng chẳng
thể quyết đoán là không! Như ông Giáp có mộng cảnh,
nhưng ông Ất chẳng thể thấy; Ất có tưởng
tượng, nhưng Giáp chẳng thể biết. Lại nữa,
vật để bài tiết nhỏ hơn thân, thân đă chẳng
thấy, làm sao hỏi về bài tiết cho được?
Hăy thử suy nghĩ: Trong hư không có vô lượng tiểu
động vật, trên thân con người có vô lượng
tiểu trùng, chưa hề thấy trên phân rơi tung tóe trên
không trung, hoặc lỗ chân lông ta chảy nước tiểu
ṛng ṛng!
* Hỏi: Báo chí đăng tải Từ Hàng
pháp sư[20] nhục thân Bồ Tát ngồi
trong cái ang năm năm mà toàn thân chưa hoại, nói theo Phật
lư là do duyên cớ như thế nào? (Vương Nhất Minh hỏi)
Đáp: Cư
sĩ đă chiếu theo Phật lư để nói, tôi chỉ
đành tuân thủ phạm vi ấy để đáp! Nghe nói
thuở sanh tiền, đại sư đă dặn ḍ quyến
thuộc: “Nguyện lưu cái
thân hư huyễn này để thị hiện cho chúng sanh
thấy, khiến họ sanh ḷng tín ngưỡng”. Kẻ
chân tâm, có nguyện ắt thành. Kinh chép bậc thánh nhân thời
cổ, thân thể bị cắt rời, mà c̣n có thể phục
hồi như cũ, huống hồ [giữ cho] da thịt
c̣n nguyên vẹn chẳng hư hoại ư? Đây là do nguyện
lực khiến thành ra như vậy! Đó là lư do thứ
nhất. Người tu hành hằng ngày có công hạnh, định
lực sâu, tinh khí nội liễm, chẳng hời hợt
phô bày ra ngoài, khí huyết lâu ngày trở thành tự nhiên. Do công
phu thâu liễm, có thể giữ cho thân chẳng tiêu tan, cho
nên khô khan mà chẳng hư nát, đó là lư do thứ hai!
* Hỏi:
Giáo chủ Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni Phật v́ sao không
để lại nhục thân cho hậu thế? (Vương Nhất Minh hỏi)
Đáp: Mỗi
vị nguyện lực bất đồng, chớ nên dựa
vào điều này để cho rằng có cao thấp. Nhục
thân chỉ có một, xá-lợi nhiều viên; nhiều viên sẽ
có thể cho thế gian cúng dường trọn khắp,
nhưng [người chiêm lễ] chẳng thể thấy kim
dung. Một thân th́ [người chiêm bái] có thể thấy tướng
mạo từ bi, nhưng chẳng thể khiến thế
gian cúng dường trọn khắp, đều có nhân duyên,
đều trọn đủ thiện xảo.
* Hỏi:
Giáo nghĩa Phật giáo nói “Tứ
Đại giai không” (Tứ Đại đều là không),
nhục thân của pháp sư Từ Hàng thuộc về Địa
Đại trong Tứ Đại, v́ sao lại riêng tồn
tại trái với lẽ thường? (Vương Nhất Minh hỏi)
Đáp: Tứ
Đại là đất, nước, lửa, gió, đó là cái
tên quy nạp chung cho các sắc tướng. Trong cái rỗng không, do các duyên ḥa hợp mà
hiện giả tướng, trọn chẳng có thực thể.
Ư cư sĩ cho rằng bọn ta lao xao qua lại nên chẳng
phải là Không ư? Lại nữa, sau khi chết, Tứ
Đại chia ĺa mới nói là Không ư? Kiến giải
như thế chính là [kiến giải] Ngoan Không của thế
tục, chẳng phải là nghĩa Không trong nhà Phật. Dẫu
thuận theo kiến giải Ngoan Không để nói th́ chẳng
qua di thể của pháp sư Từ Hàng cũng thuộc về
vấn đề [tồn tại] lâu dài hay tạm thời.
Ví như con phù du (con vờ) sáng sanh tối chết, huyền
hạc sống ngàn năm, có thể nói huyền hạc là
thường, phù du là vô thường ư? Hiểu rơ lư tạm
bợ hay lâu dài th́ có ǵ là trái lẽ thường?
* Hỏi:
Con người chết đi, thần thức rời khỏi
nhục thể, chẳng lâu sau liền hư nát, nay pháp
sư Từ Hàng nhục thân bất hoại, râu, tóc, móng tay
lại c̣n mọc dài, có phải là thần thức chưa ĺa
khỏi thân hay chăng? Nếu không, người đă chết
v́ sao râu tóc lại mọc? (Vương
Nhất Minh hỏi)
Đáp:
Chết là danh từ chỉ [sự kiện] thần thức
đă rời khỏi [thân xác], chưa rời khỏi sẽ
chẳng thể gọi là chết! Trong câu trước, tôi đă
chẳng nói người tu hành tinh khí nội liễm hay sao?
Người nội liễm có lúc dư khí (tinh khí c̣n sót lại)
chưa tan, dư khí nơi râu, tóc, huyết, hoặc dư
khí nơi móng tay, xương. Khí đă nội liễm bèn phát
tiết ra ngoài, tự nhiên h́nh thành tóc, móng tay. Như cái cây đă
chặt ngọn, tuy rễ đứt, lá héo, trải qua một
thời gian lâu sau vẫn có thể nẩy mầm, chuyện
này thuộc về quan hệ sinh lư. Nh́n vào những vật
thể khác, sẽ có thể ngộ được lẽ này!
* Hỏi:
So sánh giữa nhục thân bất hoại và sau khi thiêu có xá-lợi,
công phu nào giỏi hơn? (Vương
Nhất Minh hỏi)
Đáp: Câu
hỏi này giống như hư luận! Nếu nói có xá-lợi
là công phu tốt đẹp, Lục Tổ hiện nhục
thân là kém cỏi, sẽ chuốc lấy cái họa phỉ báng
Tổ! Nếu nói [lưu lại] nhục thân là công phu tốt
đẹp, th́ Phật Thích Ca hiện xá-lợi sẽ là kém
cỏi, bèn chuốc lấy tội báng Phật! Đây là vấn
đề nguyện lực, chứ không phải là vấn
đề công phu!
* Hỏi:
Nghe nói Lục Tổ cũng là [lưu lại] nhục thân,
cho tới nay vẫn c̣n, chẳng biết có đúng hay không?
(Vương Nhất Minh hỏi)
Đáp:
Phàm là dân tỉnh Quảng Đông, hoặc người chuyên
tham lễ đều biết [chuyện ấy], có ǵ là chẳng
đích xác!
* Hỏi:
Toàn thân xá-lợi có phải là nhục thân bất hoại
hay không? (Vương Nhất
Minh hỏi)
Đáp:
Ngày hôm qua, tôi đọc Trung Ương Nhật Báo số
ra ngày Hai Mươi Chín tháng Năm, đối với vấn
đề này, pháp sư Đạo An cũng đă giải đáp.
Xin hăy tự đọc báo ấy sẽ biết!
* Hỏi:
Chúng sanh nên làm như thế nào th́ mới có thể đạt
được phước thọ chân chánh? Phước thọ
chân chánh có cùng tận hay chăng? (Trường Tinh hỏi)
Đáp: Vạn
pháp vô thường, hễ có h́nh tướng đều là vọng.
Cư sĩ hỏi: “Phước thọ chân chánh có cùng tận
hay chăng?” Dùng nguyên tắc “pháp là vô thường, tướng
đều là vọng” để luận, có ǵ là chân chánh, có
ǵ là bất tận. Vô thường mà coi là thường, chẳng
chân ngỡ là chân, đấy chính là điên đảo! Chỉ
v́ vô thường, chẳng chân, con người cảm thấy
tiếc nuối, thiếu thốn, nên nhà Phật mới nêu
ra đạo “chân thường”. Bất sanh, bất diệt
là thọ chân thường; vạn đức trọn đủ,
thần thông tự tại là phước chân thường.
Ắt phải đạt đến Phật quả th́ mới
có thể trọn đủ hai điều này, nên [Phật
được] gọi là Lưỡng Túc Tôn; nhưng chúng sanh
đều có Phật Tánh, cớ sao người có chí chẳng
mau theo đuổi?
* Hỏi:
Hiện thời tại Đài Loan có công ty điện ảnh
Phật giáo hay không? Cần phải có minh tinh Phật giáo hay
không?
Đáp: Phật
giáo hóa điện ảnh đúng là chuyện tất yếu,
chỉ có điều tôi vẫn chưa nghe Đài Loan có công
ty như vậy. Gần đây, Hương Cảng có ấp
ủ dự định ấy, nhưng chẳng biết thành
công hay chăng? Theo tệ ư, bước đầu chẳng
cần phải lập một công ty chuyên biệt, chỉ nên
nhờ chuyên gia quay mấy bộ phim khế cơ, khế
lư, ḥng thay đổi phong tục xă hội, công đức cũng
không ngằn mé. Cư sĩ đă phát nguyện thích làm minh
tinh, mong hăy tạm thời dốc ḷng nghiên cứu Phật lư,
ngơ hầu có chánh tri chánh kiến trước đă, sau đấy
mới sắp đặt, sẽ chẳng đến nỗi
giống như kẻ thế tục sắp đặt [kịch
bản, quay phim] có lắm điều trái nghịch pháp thế
gian lẫn pháp xuất thế gian, chẳng thể khiến
cho người khác dấy khởi ḷng hứng thú, yêu thích được!
* Hỏi:
Trong phẩm Phổ Môn, Vô Tận Ư Bồ Tát dùng chuỗi anh
lạc kết bằng các thứ châu báu để cúng dường
Quán Thế Âm Bồ Tát, chẳng nói là Tài Bố Thí mà gọi
là Pháp Bố Thí, nên hiểu như thế nào? (Trạch Mạnh Thu hỏi)
Đáp:
Quán Thế Âm là cổ Phật hóa thân, thả chiếc bè Từ,
đến cơi này độ chúng sanh. Tuy [Quán Thế Âm Bồ
Tát trong hội ấy] có [thân phận] Đẳng Giác Bồ
Tát, nhưng lẽ đâu [Vô Tận Ư Bồ Tát] lại hướng
về Phật thí pháp? Cổ đức từng có vị
cho rằng [ngài Vô Tận Ư] đă hành pháp bố thí v́ tam luân
thể không, nên mới là hành đúng pháp [v́ thế, nói sự
bố thí ấy là pháp thí]. Để giải thích v́ sao là bố
thí đúng pháp, kẻ hèn này cũng tuân theo ư ấy, nhưng
lại mở rộng thêm ư nghĩa: Vô Tận Ư Bồ Tát v́
chúng sanh cầu pháp, thay mặt chúng sanh cúng thí chuỗi anh lạc,
tức là v́ pháp mà hành bố thí, đó là một cách giải
thích. Thay chúng sanh gieo trồng, vun bồi phước điền,
mà hành bố thí, tức là hành bố thí đúng pháp trong Phật
pháp, đó là cách giải thích thứ hai.
* Hỏi:
Nếu có cư sĩ chánh tín Tam Bảo, nhưng do công việc
chi phối, phải thường mặc quần áo lao động
dơ bẩn để lễ Phật, có thiếu cung kính
hay không? (Trạch Mạnh Thu hỏi)
Đáp:
Tuy chưa nói rơ chuyện ǵ bẩn thỉu, nhưng suy từ
hai chữ “công việc”, chắc là làm việc dọn dẹp
những thứ bất tịnh, nếu như thế th́ chẳng
trở ngại ǵ! Thuở Phật tại thế, từng
có người làm nghề dọn phân được độ
thành tỳ-kheo. Chúng sanh đều có Phật tánh, Phật
pháp b́nh đẳng phổ độ. Dẫu là gái bao,
lũ trộm, c̣n chẳng khinh thường! Bất luận
công việc bẩn thỉu nào đi nữa, lẽ đâu ảnh
hưởng chuyện lễ Phật! Chỉ có điều
khi lễ Phật, ngoài gột rửa cái thân, trong thanh tịnh
tâm ư, sẽ chẳng mắc tội khinh nhờn, mà c̣n có
công đức!
* Hỏi:
Hàng xóm của tôi có cụ X... tuổi đă cao, không đi làm,
nhiều năm qua hoàn toàn sống nhờ bài bạc, đêm
ngủ thường mộng thấy tứ chi cứng đờ,
gào to có quỷ, hàng xóm bốn phía mỗi khi bị ông cụ
kinh động thức giấc, bèn gọi tên, đập vách,
thần trí ông cụ mới tỉnh táo trở lại, đó
là nghiệp cảm ra sao? (Trạch
Mạnh Thu hỏi)
Đáp: Tâm
địa quang minh, ắt tinh thần sáng suốt, nằm
mộng b́nh ổn. Kẻ bài bạc, tam độc lẫy
lừng, làm sao chẳng có mộng? Nằm mộng thấy
quỷ khuấy là do chính ḿnh chiêu cảm, chẳng đáng để
luận định nữa!
* Hỏi:
Ngày nay Phật giáo đồ hô to “Phật giáo cứu đời,
Phật giáo ái quốc, tịnh hóa nhân gian”; nói “cứu đời,
ái quốc, tịnh hóa nhân gian”, rốt cuộc là làm những
chuyện ǵ? Không ǵ chẳng phải là nhiễu quanh niệm
Phật, hoặc ngồi trên giường nhắm mắt
tham Thiền ư? Hoặc là khua khua, gơ gơ, hướng về
người chết siêu độ ư? (Trầm Tử Lương hỏi)
Đáp: Phật
giáo chẳng chuộng nói suông, mà chú trọng thực tế.
V́ vậy, đối với thân và tâm đều chú trọng.
Tu tâm nhằm khôi phục sự sáng suốt, đó là “nội
công” (công phu bên trong). Hạnh nguyện mong được
trọn khắp, đó là “ngoại công”. Hy sinh vợ con, tài
sản, đầu, mắt, tủy, năo, nhảy vào hầm
lửa, vào địa ngục, đương nhiên là cứu
thế, hộ quốc, tịnh hóa. Đó là biểu hiện
của ngoại công. V́ mong trừ khử ḷng ham muốn riêng
tư, phù hợp lư trí, đoạn trừ gốc ác tham, sân,
si, mạn, chẳng để cho “giết, trộm, dâm, dối”
hiện hành; v́ thế, ắt phải tu tập bằng niệm
Phật, tham Thiền. Đó là sự tu dưỡng nội
công. Trong chẳng đủ th́ bên ngoài sẽ không có thực
chất, bên ngoài không có thực chất th́ dẫu có sự ấy
cũng đều là biểu hiện rỗng tuếch, há có
thể ích lợi cho đời, cho đất nước ư?
C̣n như khua khoắng, gơ đập, siêu độ người
chết, cũng có chân và giả sai khác. Mắt Phật thấy
tứ sanh lục đạo nhất loạt b́nh đẳng,
đă cứu trời, người, há chẳng nên cứu vớt
quỷ thần, súc sanh ư? Đấy là ḷng từ bi phổ
thí, chưa hề đáng nên chê trách! Nếu chẳng cầu
t́m cái gốc, cứ chuyên nhờ vào đó để kiếm
ăn th́ sau đó sẽ biến thành thói tệ, trọn chẳng
phải là Phật giáo chỉ làm chuyện đó! Há có nên dựa
vào đó để công kích, tiên sinh chưa khỏi huênh hoang
quá mức!
* Hỏi:
Hiện thời, tôi vẫn chưa tin tưởng bất cứ
tôn giáo nào, vốn tính đọc mấy cuốn kinh của
Phật giáo, nếu hợp ư cũng có thể tin theo Phật
giáo, nhưng thấy [kinh điển nhà Phật] nếu không
phải là những chữ hiếm dùng, lạ lùng, th́ cũng
là những ngôn ngữ khiến cho kẻ khác chẳng hiểu
được! Có người chủ trương dùng ngôn
ngữ hiện đại để dịch lại kinh Phật
lần nữa, tôi nghĩ chuyện này đích xác là chuyện
tất yếu! (Trầm Tử
Lương hỏi)
Đáp:
Kinh Phật ngoài chú ngữ theo cổ lệ chẳng phiên dịch
ra, trọn chẳng có chữ ǵ kỳ quái! Nếu nói không
hiểu, há chẳng riêng ḿnh kinh Phật, mà nguyên lư [hoạt
động] của ốc anh vũ[21], chất liệu bom nguyên tử, lễ Đế
Thường[22], nhạc Lữ Luật[23], tiên sinh có thể vừa nh́n liền thấu
triệt hay chăng? Mỗi môn học đều có sự
chuyên biệt riêng, ắt phải nghiên cứu mới thấu
hiểu. Nói đến chuyện dịch lại, chưa biết
chắc có được như dịch lần đầu
hay chăng. Ngài La Thập dịch kinh ở gác Tây Minh, ngài
Huyền Trang dịch kinh tại chùa Hoằng Phước,
tuy là hai vị đại sư, sẵn trí thông minh thiên bẩm
trác tuyệt, thật học, đức dầy, nhưng số
lượng các bậc tài năng dị thường giúp đỡ
phiên dịch thuở ấy, há phải chỉ có mấy ngàn
hay mấy trăm người! Bất luận xét về mặt
tinh vi nơi nghĩa lư hay văn tự, cũng đều
chẳng phải là kẻ học vấn nông cạn mà ḥng
liếc thấy đường nẻo được! Hiện
thời, cố nhiên có bậc thông thạo, già dặn Hán văn,
nhưng vẫn là thiểu số. Nếu mê lầm nơi văn,
làm sao có thể lănh hội đạo? Tôi đă từng dùng
câu kệ “văng tích sở tạo
chư ác nghiệp” để cật vấn người
khác, mười người hết tám chín chẳng am hiểu
pháp tắc! Một câu kệ c̣n như vậy, sẽ biết
toàn thể Đại Tạng Kinh [như thế nào]. Tệ
ư cho rằng ắt phải có người vượt trỗi
hai vị La Thập, Huyền Trang rất xa th́ mới san
thuật lần nữa thành một bản khác chẳng trở
ngại ǵ!
* Hỏi:
Cơ Đốc giáo và Phật giáo thường xuyên bút chiến
hay thưa kiện, nhưng Cơ Đốc giáo thường
làm rất nhiều chuyện từ thiện, về điểm
này, sợ là Phật giáo lạc hậu mất rồi! Tôi nói
lời thật, xin tiên sinh chớ nên hiểu lầm! (Trầm Tử Lương hỏi)
Đáp: Bút
chiến, thưa kiện, chỉ là Phật giáo phản ứng
lại, trọn chẳng phải do chúng ta khởi xướng
gây hấn, xin hăy xét kỹ ngọn nguồn! Nói đến
sự nghiệp từ thiện, chỉ có thể luận định
trong hiện tại, chỉ là hiện tượng khắc
phục hoạn nạn trong một khoảng thời gian, tôi
chẳng phủ nhận; nhưng trước kia th́ không biết
như thế nào, mà sau này cũng chẳng biết sẽ như
thế nào!
* Hỏi:
Phẩm Phổ Môn chép Quan Thế Âm Bồ Tát có thể để
“độ Phật thân”, v́ sao Bồ Tát có thể độ
Phật? (Giang Khoan Ngọc hỏi)
Đáp: Nói
“độ Phật thân” chẳng phải là nói độ vị
đă thành Phật, mà là ứng với người nào đó
đă phát đại đạo tâm, Quán Thế Âm Bồ Tát liền
hiện thân Phật, giảng cho người ấy nghe pháp
Nhất Thừa, khiến cho người ấy tiến thẳng
đến Phật Thừa, đây là nghĩa thứ nhất.
Nếu là thánh chúng từ Thập Địa trở lên, c̣n chưa
đoạn vô minh, Quán Thế Âm liền hiện thân Phật,
thuyết pháp cho họ, khiến họ ngộ chứng, mau
thành Đẳng Giác. Đây lại là một nghĩa nữa!
* Hỏi:
Phật là người nương theo Phật pháp tu thành công,
nhưng vị Phật đầu tiên là do đâu mà ra? (Ẩn danh hỏi)
Đáp: Tâm,
Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng sai biệt. Tâm mê là chúng
sanh. Tâm giác là Phật. Có người nghe giáo nghĩa Phật
pháp bèn khởi lên sự giác ngộ, loại này gọi là Thanh
Văn. Có người thấy hoa rụng, lá rơi mà ngộ
đạo, loại này được gọi là Độc
Giác. Ông hỏi vị nào trước nhất, tức là nói
trước khi có Phật pháp, đă có chuyện Độc
Giác, tức là ngộ đạo cũng có trường hợp
chẳng cậy vào thanh giáo[24]!
* Hỏi:
Có người nói thế gian thêm một người, tức
là cơi Âm bớt đi một con quỷ, chứng tỏ thần
thức như nhà Phật đă nói (người ta thường
gọi thần thức là “linh hồn”) phải có số lượng
nhất định, rốt cuộc là có bao nhiêu thần thức
? (Ẩn danh hỏi)
Đáp: Thế
gian tăng thêm một người, chưa chắc cơi Âm bớt
đi một con quỷ! Bởi lẽ, từ năm đường
đều có thể đầu thai làm người, chẳng
giới hạn trong loài quỷ; v́ thế, chẳng dám quả
quyết quỷ đạo bớt đi một quỷ. Đây
là [lời giải đáp cho câu hỏi] thứ nhất. Kinh
Phật trọn chẳng nói thần thức có số lượng
nhất định, đây là [lời giải đáp cho câu
hỏi] thứ hai. Nếu hỏi có bao nhiêu thần thức,
xin hăy xét những thứ có h́nh tướng, như tinh tú trên
trời, bọt sóng trong biển, hai thứ ấy xét ra có
bao nhiêu? Thứ không có h́nh tướng, như ư niệm
trong tâm, ánh chớp trên không, hai thứ ấy xét ra có bao nhiêu?
Hễ biết [những điều ấy], sẽ biết
số lượng của thần thức! Đấy là [lời
giải đáp cho câu hỏi] thứ ba.
* Hỏi:
Siêu độ tổ tiên, nhưng họ đă đọa quỷ
đạo hay địa ngục, có thể mong nhờ Phật
lực siêu bạt khiến họ thoát khổ, điều
này c̣n dễ hiểu. Chứ nếu họ đă làm người,
trở thành đồ tể, siêu độ cho họ có cảm
ứng hay không? (Huệ Lâm hỏi)
Đáp:
Các nẻo luân hồi như quán trọ, thân h́nh dường
xiêm y, tâm thức như chủ nhân, Phật pháp ví như quà
tặng. Quà tặng biếu cho chủ nhân, chẳng tặng
cho quán trọ và xiêm y. Hiểu rơ lư này, sẽ biết tâm thức
ở trong bất cứ đường nào, siêu độ
đều có thể đạt được lợi ích.
Chỉ riêng đối với kẻ làm đồ tể, lại
tạo họa ương mới, Phật pháp siêu độ
là siêu độ những ǵ đă tạo, chứ những ǵ
sắp tạo, sẽ chẳng thuộc vào lệ ấy. Sợ
rằng nghiệp cũ tuy diệt, vẫn phải hứng
chịu họa hại mới!
* Hỏi:
Tín đồ nhà Phật tŕ trai đang ở trong quân ngũ
có thể phương tiện hay chăng? (Trang Khánh Hiền hỏi)
Đáp: Một
chữ Trai có rất nhiều cách giảng, nếu trước
hết chẳng nói rơ, sợ người khác hiểu lầm.
Từ trước tới nay, nhà Phật chuyên dạy về
trai thời, c̣n thế tục cho rằng Trai là chuyên nói về
ăn chay. Nay xét lời cư sĩ hỏi, đại khái cũng
chuyên nói về ăn chay. Nếu như vậy, chỉ có thể
dùng chuyện này để đáp. Nhập ngũ là sinh hoạt
trong đoàn thể, hoàn toàn chẳng do ḿnh làm chủ, có thể
ăn rau bên cạnh thịt, giữ tâm thanh tịnh, đấy
chính là phương tiện.
Phật Học Vấn Đáp
Loại Biên
Phần 3
hết
[1] Ngô Thê (梧棲) là một trấn nằm ven biển, thuộc quyền quản hạt của thành phố Đài Trung. Vùng này nổi tiếng là một ngư cảng, có tên cổ là Trúc Phiệt Huyệt, hoặc Ngũ Xoa Cảng. Đến niên hiệu Đạo Quang được đổi tên thành Ngao Tây, đến đời Quang Tự mới đổi thành Ngô Thê như hiện tại, dựa theo ư một bài thơ cổ “phượng vi ngô bất thê, phi linh tuyền bất ẩm, phi trúc thật bất thực” (chim phượng hoàng nếu chẳng phải là cây ngô đồng sẽ không đậu, không phải suối thiêng sẽ chẳng uống, chẳng phải là trúc sẽ chẳng ăn).
[2] Theo Tuyên Nghiệm Kư, Ngư Sơn là một ngọn núi ở Sơn Đông. Đời Ngụy, vào năm Thái Ḥa thứ tư (230), Trần Tư Vương Tào Thực (con thứ của Tào Tháo) lên chơi Ngư Sơn, chợt nghe tiếng tụng kinh, tán xướng trầm hùng, thanh nhă, lay động ḷng người, vang vọng khắp cả núi. Do tinh thông âm luật, Tào Thực bèn phỏng theo âm thanh ấy để chế ra thể loại tán tụng trong nhà Phật, gọi là Phạm Bái, thường gọi là Ngư Sơn Phạm Bái. Ngư Sơn c̣n gọi là Ngô Sơn, cách huyện thành Đông A tỉnh Sơn Đông tám dặm. Phạm là gọi tắt của Phạm Lăm Ma (Brahma) có nghĩa là Thanh Tịnh, Bái (Bhāshā) có nghĩa là uyển chuyển, ḥa điệu. Bái c̣n được dịch là Chỉ Đoạn hay Chỉ Tức (đều hàm nghĩa ngưng dứt tạp niệm), Tán Thán. Sau này, c̣n có nhiều loại Phạm Bái khác như Liên Cú Phạm Bái (do cư sĩ Chi Khiêm sáng chế, dựa trên nội dung của kinh Vô Lượng Thọ và Trung Bổn Khởi Kinh), Nê Hoàn Phạm Bái (do ngài Khang Tăng Hội sáng chế, lời tán dựa theo kinh Nê Hoàn nên mới có tên này), Cao Thanh Phạm Bái (do ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La truyền từ Tây Vực vào Trung Quốc dưới thời Tây Tấn, âm điệu hùng hồn, cao vút), Lục Ngôn Phạm Bái (do Chi Đàm Dược xứ Nhục Chi sáng chế dưới thời Đông Tấn, được ca ngợi là lối Phạm Bái hay khéo, vượt xa các thể loại Phạm Bái trước đó) v.v... Các loại này đều đă thất truyền.
[3] Hoa Nghiêm Tự Mẫu chính là bốn
mươi hai chữ cái trong văn tự Siddham (Tất
Đàm Phạn văn) của cổ Ấn Độ. Trong
kinh Hoa Nghiêm, vị thiện tri thức thứ bốn
mươi bốn là Chúng Nghệ Đồng Tử đă dạy
Thiện Tài đồng tử ư nghĩa chân thật của
bốn mươi hai mẫu tự này, cũng như cho biết:
Do Ngài học tập bốn mươi hai chữ cái ấy
mà đắc pháp môn Tự Trí trong Bồ Tát Hạnh, nên
chư cổ đức mới gọi những chữ ấy
là Hoa Nghiêm Tự Mẫu. Phật môn Trung Hoa có riêng một
nghi thức xướng tụng Hoa Nghiêm Tự Mẫu, chia
thành ba phần Đơn Âm Tự Mẫu, Song Âm Tự Mẫu,
và Tam Âm Tự Mẫu, mỗi bộ phận có tiết
điệu riêng rất phức tạp. Chẳng hạn chữ
đầu tiên là A sẽ tán xướng bằng bài: “Hoa Nghiêm tự mẫu, Chúng Nghệ
thân tuyên, Thiện Tài đồng tử đắc chân truyền,
bí mật nghĩa u huyền, công đức vô biên, xướng
tụng lợi nhân thiên. A, ương, anh, ông, ô, ao, ai, y, in,
an, âu, a. Xướng A tự thời, phổ nguyện pháp
giới chúng sanh, nhập Bát Nhă Ba La Mật môn”. Thông
thường, tại Việt
[4] Ở đây, cụ Lư nói “sáu châu” là ngoài
năm châu Âu, Á, Phi, Mỹ, Úc, c̣n tính thêm châu Nam Cực (
[5] Hạ Nguyên (thường bị đọc trại thành Hạ Nguơn, và thường
bị viết sai thành Hạ Ngươn) là một từ
ngữ phát xuất từ bói toán. Theo các nhà bói toán Dịch
số, sáu mươi năm gọi là một Giáp Tư (do phối
hợp mười Thiên Can với mười hai Địa
Chi để đặt tên mỗi năm, nên hết sáu
mươi năm mới lại có năm cùng Can, cùng Chi. Do
Thiên Can và Địa Chi phối hợp nhau khởi đầu
bằng năm Giáp Tư, nên một chu kỳ cũng gọi là
một Giáp Tư). Họ lại phối hợp Can Chi với
Bát Quái Cửu Cung, lập thành một chu kỳ gồm một
trăm tám mươi năm. Giáp Tư thứ ba gọi là Hạ
Nguyên. Do Hạ Nguyên tương ứng với sự kết
thúc của một chu kỳ, các tà giáo Trung Hoa thường
gán cho Hạ Nguyên những ư nghĩa như thời kỳ suy
vong, thiên hạ đại loạn, thiên đ́nh mở cuộc
khảo hạch tuyển chọn những người biết
tu được phép sống sót qua thời Hạ Nguyên, c̣n
những kẻ không biết tu sẽ bị trầm luân, chết
sạch. Các tà giáo thấy kinh Phật nói đến Di Lặc
Phật ra đời thuyết pháp dưới cội Long
Hoa, bèn bịa ra thời Hạ Nguyên là hội Long Hoa chuyển
thế, Di Lặc Phật ra đời chưởng quản
thiên bàn, pháp của Phật Thích Ca đă tận diệt, Di
Lặc Phật chuyển pháp luân mới v.v... Điều
được nói đến trong lời hỏi ở
đây là tà giáo bịa ra chuyện Di Lặc Phật và Thích
Ca Mâu Ni Phật cùng tu trên thiên đ́nh, Phật Thích Ca là em,
nóng ḷng muốn xuống cứu đời, tuy chưa đắc
đạo trọn vẹn. Không khuyên bảo được,
Phật Di Lặc bèn bảo hăy cùng nhau ngồi Thiền, cắm
hai cây thiền trượng trước mặt, gậy của
ai nở hoa sen trước sẽ xuống thế trước.
Phật Thích Ca lén hé mắt, thấy gậy của ḿnh chẳng
thay đổi ǵ, gậy của Phật Di Lặc đă nở
hoa sen bèn lén tráo chỗ hai cây thiền trượng. Phật
Di Lặc mới nói: Do em nóng ruột nên lúc xuống trần,
thế sự nhiễu nhương, chỉ có thể
chưởng quản trần gian ba ngàn năm, sau đó ta sẽ
thay em chưởng quản hai vạn năm v.v... Điều
lạ lùng là tà thuyết này được khá nhiều sơn
môn miền Bắc Việt
[6] Trương Lăng (34-156), tự là Phụ
Hán, sáng lập Ngũ Đấu Mễ Đạo (tiền
thân của Đạo Giáo), quê ở Phong Huyện, tỉnh
Giang Tô, tự xưng là hậu duệ của Trương
Lương. Họ Trương sanh vào thời Hán Vũ
Đế, tương truyền từ thuở bé đă tinh
thông Đạo Đức Kinh, từng được vào học
trong nhà Thái Học, từng làm quận lệnh Ba Quận
dưới thời Hán Minh Đế. Về sau, vào ẩn
cư trong núi Bắc Mang nhằm cầu đạo trường
sinh, từng được triều đ́nh vời ra làm
quan Bác Sĩ, nhưng cáo bệnh từ chối. Dưới
thời Hán Thuận Đế, Trương Lăng tự
xưng được Thái Thượng Lăo Quân truyền thọ
tam thiên chánh pháp, thiên đ́nh sắc phong Trương
Lăng làm Thiên Sư, sáng lập Ngũ Đấu Mễ
Đạo (muốn nhập đạo phải đóng
năm đấu gạo) tại núi Hạc Minh, tự
xưng hiệu là Tam Thiên Pháp Sư Chánh Nhất Chân Nhân, viết
hai mươi bốn bộ kinh Đạo Giáo. Đạo
của Trương Lăng về sau được gọi
là Thiên Sư Đạo, sở trường về phù chú (vẽ
bùa, tụng chú, bắt quyết), nên c̣n gọi là Phù Lục
Phái. Cho đến nay, con cháu Trương Lăng vẫn kế
tục làm tổ sư đạo Thiên Sư. Năm 1949,
thiên sư đời thứ sáu mươi ba là
Trương Ân Phổ chạy sang Đài Loan, sau khi
Trương Ân Phổ mất, cháu là Trương Nguyên Tiên kế
ngôi làm thiên sư đời thứ sáu mươi bốn.
[7] Hoàng Cân là một đám giặc thường
được các sử gia Hoa Lục tô vẽ là “nông dân khởi
nghĩa” nổi loạn vào năm 184 dưới thời Hán
Linh Đế do Trương Giác cầm đầu. Lợi
dụng sự thối nát của triều đ́nh do bè
lũ Thập Thường Thị (mười hoạn
quan) lũng đoạn triều chánh, Trương Giác
đă lợi dụng danh nghĩa Đạo Giáo để
chiêu mộ tín đồ, tạo lực lượng dấy
loạn, rêu rao trời sai hắn xuống cứu dân.
Trương Giác tuyên bố đă được Hoàng Lăo
trao thiên thư Thái B́nh Yếu Thuật (c̣n gọi là Thái B́nh
Kinh, thật ra Thái B́nh Kinh do Vu Cát sáng tác mấy chục
năm trước đó và đă dâng lên Hán Thuận Đế),
tự xưng là Đại Hiền Lương Sư, tổ
chức các tín đồ thành các Phương, mỗi
Phương là một vạn người, dùng phương
thức bùa chú chữa bệnh để dụ dỗ tín
đồ. Quân phản loạn đầu bịt khăn
vàng, nên gọi là Hoàng Cân. Cuộc nổi loạn kéo dài
đến năm 185 mới bị dẹp yên, nhưng
dư đảng tại núi Thái Hàng lại nổi dậy,
măi cho đến năm 192, Tào Tháo mới hoàn toàn dẹp tan
dư đảng Hoàng Cân.
[8] Hàn Sơn Đồng (?-1351) là lănh tụ
Bạch Liên Giáo cuối đời Nguyên, quê ở Loan Thành,
Triệu Châu, vừa làm nghề nông, vừa truyền bá Bạch
Liên Giáo, tuyên truyền Di Lặc Phật Giáng Sanh, tự
xưng Minh Vương Xuất Thế, chủ trương
lật đổ nhà Nguyên. Năm Chí Chánh 11 (1351) đời
Nguyên Thuận Đế, triều đ́nh huy động
mười lăm vạn dân công đắp đê Hoàng Hà, tiếng
oán than vang đội. Hàn Sơn Đồng và bè đảng
là Lưu Phước Thông cho là thời cơ đă tới,
bèn cho đồn đại câu sấm “thạch nhân nhất chỉ nhăn, khiêu động
Hoàng Hà thiên hạ phản” (người đá chỉ một
mắt, dấy động sông Hoàng, thiên hạ làm phản),
ngầm cho người chôn tượng đá một mắt,
trên lưng có khắc câu sấm ấy. Khi tượng
đá được phát hiện, ḷng người rúng động,
Hàn và Lưu bèn khởi binh tại Dĩnh Thượng thuộc
Dĩnh Châu. Các thuộc hạ như Thịnh Văn Úc, La
Văn Tố v.v... suy tôn họ Hàn là cháu tám đời của
Tống Huy Tông, giết ngựa trắng, trâu đen lấy
máu ăn thề, nghĩa quân đầu buộc khăn
đỏ (nên c̣n gọi là loạn Hồng Cân) để
làm hiệu. Khởi nghĩa vừa nổ ra, Hàn Sơn
Đồng đă bị huyện lệnh bắt được,
giết chết, nghĩa quân bèn tôn con ông ta là Hàn Lâm Nhi lên
làm lănh tụ, tự xưng là Tiểu Minh Vương, trở
thành giáo chủ Bạch Liên Giáo. Châu Nguyên Chương
cũng dựa vào thế lực của Hàn Lâm Nhi để
giành thắng lợi trong cuộc kháng Nguyên.
[9] Tống Nhân Tông (1010-1063) tên thật là
Triệu Trinh, là hoàng đế thứ tư của nhà Bắc
Tống, là con thứ sáu của Tống Chân Tông, do Lư Thần
Phi sanh hạ vào năm Đại Trung Tường Phù thứ
ba (1010), đến năm Đại Trung Tường Phù thứ
tám (1015) được phong làm Thọ Xuân Quận
Vương, được Tống Chân Tông lập làm Hoàng
Thái Tử ba năm sau đó, và truyền đổi tên từ
Thọ Ích thành Trinh. Ông lên ngôi hoàng đế năm mười
ba tuổi, do Lưu Thái Hậu làm Nhiếp Chánh măi cho đến
khi nhà vua được hai mươi bốn tuổi th́
Thái Hậu mất. Tuy được coi là “minh quân”, trọng dụng những bầy tôi giỏi
như Phạm Trọng Yêm, Hàn Kỳ, Bao Chửng, Lă Di Giản,
Văn Ngạn Bác, Dương Văn Quảng, Lỗ Tông
Đạo... Tuy sử sách Trung Hoa thường tô vẽ nhà
Tống cường thịnh dưới thời Tống
Nhân Tông, nhưng nhà Tống hằng năm phải cống
nạp cho Tây Hạ (tuy được sử gia Trung Hoa nói
tránh đi là “ban thưởng”), những khoản “ban
thưởng” này khiến cho triều đ́nh phải liên tục
tăng thuế. Do cố gắng giữ ḥa b́nh với Tây Hạ,
Liêu, và các rợ Địch khác bằng cách mua chuộc, cống
nạp, quốc gia dưới thời nhà Tống bị
suy yếu nhanh chóng. Tuy sử sách tô vẽ nhà Tống có nhiều
vị đại tướng lỗi lạc, dụng binh
như thần, như Địch Thanh, Dư Tĩnh,
nhưng trên thực tế, Nùng Trí Cao chỉ là một tù
trưởng nhỏ, chiếm giữ vài châu của Việt
Nam, lập ra Đại Lư Quốc, nhưng đă liên tục
quấy phá biên cảnh nhà Tống, nhưng bọn Địch
Thanh không làm ǵ được, phải gởi thư yêu cầu
nhà Lư Việt Nam góp sức b́nh định.
[10] Đây là hai câu trích từ bài Đào Yêu
trong thiên Châu
[11] Tôn giả Tất Lăng Già Bà Tha (Pilinda-vatsa), dịch nghĩa là Dư Tập. Do Ngài đă năm trăm đời làm Bà La Môn nên c̣n tập khí kiêu mạn rất lớn. Ngài thấy có người đi khất thực phải vượt sông Hằng khổ sở, bèn quát nữ thần sông Hằng: “Tiểu tỳ ! Ngưng chảy đi!” Nước sông liền tách làm hai cho người ấy đi qua. Nữ thần tức tối đến mách với Phật. Phật bảo ngài Tất Lăng Già Bà Tha hăy sám hối với nữ thần, Ngài nói: “Tiểu tỳ! Ta sám hối tạ lỗi với ngươi”. Mọi người hiện diện đều cười: “Đă sám hối tạ lỗi mà c̣n chửi người ta!” Nhân đó, Phật mới cho biết do ngài Tất Lăng năm trăm đời làm Bà La Môn nên tập khí kiêu mạn rất nhiều, thường gọi phụ nữ là “tiểu tỳ” (con hầu nhỏ nhoi) là do thói quen, chứ tâm Ngài không có ư nhục mạ. Trong phần hai mươi lăm pháp Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, Ngài đă thuật phép quán thân (Thân Căn Viên Thông). Do vừa đi khất thực vừa tư duy những lời giảng của đức Phật về sự thống khổ trong thế gian, bất ngờ đạp phải gai độc, bị thương, đau đớn. Ngài quán sát tánh nhận biết sự đau đớn ấy chính là giác tâm thanh tịnh, cái biết bị đau chẳng phải là cái bị đau. Như vậy lẽ nào một thân lại có hai tánh biết? Do quán như vậy, thân tâm không tịch, tiêu hết lậu tập, thành A La Hán.
[12] Xi Vưu (蚩尤) là thủ lănh của
vương quốc Cửu Lê (thuộc bộ tộc Tam
Miêu). Nguyên nhân của cuộc chiến giữa Hoàng Đế
và Xi Vưu được sử sách ghi không thống nhất.
Có thuyết nói Xi Vưu làm loạn sau khi Hoàng Đế chiến
thắng Viêm Đế (Thần Nông), có thuyết nói Xi
Vưu đánh bại, chiếm đất của Viêm Đế,
nên Viêm Đế phải cầu cứu Hoàng Đế liên
minh chống lại Xi Vưu. Thực ra, đây là cuộc
tranh giành lănh thổ giữa người Hán và dân Tam Miêu
đă sống tại Trung Nguyên trước đó.
Tương truyền, Xi Vưu biết cách hóa ra mây mù khiến
cho quân Hoàng Đế thất điên bát đảo, cuối
cùng Hoàng Đế chế ra xe chỉ nam để định
hướng, đánh bại Xi Vưu tại cánh đồng
Trác Lộc. Bộ tộc Cửu Lê sau đó bị phân tán,
đất đai bị người Hoa chiếm giữ, phải
tản lạc lên núi cao thuộc vùng Quư Châu, Tương Tây,
Ngạc Tây (tức là Miêu Tộc (người H’mong sau này),
người Khương, một số lưu lạc sang
vùng bán đảo Triều Tiên, trở thành một bộ phận
chính trong hai vương quốc cổ Phù Dư (Buyeo) và Cao
Cú Ly (Koguryo) tại Triều Tiên. Do lẽ đó, người
Đại Hàn vẫn coi Xi Vưu như quốc tổ của
họ. Một bộ phận người Cửu Lê bị
Hán hóa trở thành người Hán, các sử gia thường
coi những người có họ Trâu, Đồ, Lê, Xi v.v...
là hậu duệ của bộ tộc Xi Vưu. Khởi
đầu từ Tần Thủy Hoàng tôn xưng Xi Vưu là
Chiến Thần, các đế vương Trung Hoa sau đấy
cũng sùng bái Xi Vưu như vị thần bảo hộ
chiến tranh, trước khi xuất quân cũng thường
cúng tế Xi Vưu để cầu gia hộ.
[13] Giá: Ngăn cấm, khai: Cho phép. Chẳng
hạn Ngũ Giới cấm uống rượu nhằm
khỏi bị loạn tánh, phá hoại các giới khác,
đó là Giá. Nhưng nếu người ấy bị bệnh
phải dùng rượu làm chất dẫn thuốc, hay phải
ăn những thứ tẩm ướp, chưng nấu bằng
rượu v.v... th́ có thể ăn, nhưng khi hết bệnh
không được dùng nữa. Đó là Khai.
[14] A Bàng là loài quỷ trong địa ngục,
thuộc hạ của Diêm Vương. Sách Pháp Uyển Châu
Lâm, quyển tám mươi tư giảng: “Ngục tốt trong địa ngục gọi là A
Bàng”. Ngũ Khổ Chương Cú Kinh nói A Bàng đầu
trâu, tay người, có sức mạnh lật núi, cầm
chĩa ba cứng rắn.
[15] Loại này thường được
gọi là Biên Khánh, thường làm bằng đá hay bằng
đồng, giống như h́nh chữ V, thường treo
trên giá, san sát nhau, gơ bằng dùi bọc nỉ. Đây là một
nhạc khí quan trọng trong dàn nhă nhạc cổ Trung Hoa
ngày xưa, mỗi cái khánh như vậy tương ứng
với một note nhạc. Thông thường, ít khi tấu
Biên Khánh nếu không dùng kèm Biên Chung (tức là một dàn
chuông treo, mỗi quả chuông có một âm tiết khác nhau).
Một dàn Biên Khánh hay Biên Chung như vậy, tối thiểu
phải gồm mười sáu cái trở lên. Đôi khi,
như bộ Biên Chung t́m được trong mộ Tăng
Hầu Ất có đến sáu mươi lăm quả. Nếu
các miếng Khánh không bẻ thành h́nh chữ V, mà để
thẳng th́ lại gọi là Phương Hưởng,
nhưng công dụng chẳng khác ǵ Biên Khánh. Ở Trung Hoa hiện
thời ít thấy sử dụng Biên Chung và Biên Khánh (ngoại
trừ Khổng Miếu hay Cố Cung), nhưng trong các dàn
nhă nhạc của Nhật Bản và Đại Hàn, Biên
Chung, Biên Khánh và Phương Hưởng vẫn c̣n
được sử dụng thường xuyên.
[16] Trung Châu là hai châu phụ thuộc vào mỗi
đại châu. Luận Câu Xá, quyển mười một
chép: “Bên cạnh mỗi châu
trong tứ đại châu có hai trung châu phụ thuộc. Thiệm
Bộ Châu có hai trung châu: Một là Giá Mạt La Châu, hai là Phiệt
La Giá Mạt La Châu”.
[17] Chín núi là chín rặng núi bao quanh núi Tu Di
tính từ trong ra, giữa mỗi núi là một biển
nước mặn có mùi thơm (hương hàm hải thủy),
nên mới có tám biển. Tính từ trong ra, chín rặng núi là
Tu Di (Sumeru), Do Càn Đà (Yugandhara), Y Sa Đà (Isadhara), Kha La
Trí (Khadiraka), Tu Đằng Sa (Sudarsana), A Sa Càn Na (Asvakarna), Tỳ
Na Đa (Vinadhara), Ni Dân Đà La (Nimindhara) và Thiết Vy
(Cakravada).
[18] Cửu Thiên Huyền Nữ vốn là một
vị thần cổ đại của Trung Quốc, về
sau được Đạo Giáo tông xưng là nữ tiên,
thánh mẫu v.v... Cách giải thích thân phận vị thần
này cũng không rơ ràng, có sách nói bà là con gái của Ngọc
Đế, có thuyết nói bà chính là Tây Vương Mẫu
(Diêu Tŕ Kim Mẫu). Cửu Thiên Huyền Nữ chủ tŕ
chiến tranh, theo truyền thuyết, bà đă từng nhận
ấn kiếm của Hoàng Đế để chinh phạt
Xi Vưu. Đạo Giáo cho rằng Bành Tổ và Lăo Đam
(Lăo Tử) đều là học tṛ của bà, thậm chí họ
c̣n đặt chuyện nói Hoàng Đế luận đạo
dưỡng sinh với Tố Nữ và Huyền Nữ.
Thái Tử Gia chính là Na Tra. Na Tra (Nalakuvara)
là con trai của Bắc Phương Đa Văn Thiên
Vương, vốn là một vị thần hộ pháp trong
Phật giáo, đă bị người Hán bịa chuyện
là con trai thứ ba của Thác Tháp Thiên Vương Lư Tĩnh
(thường bị đọc trại thành Lư Tịnh). Theo
đó, Lư Tĩnh c̣n có hai người con trai nữa là Kim Tra
và Mộc Tra. Các đền thờ, miếu mạo Đạo
Giáo thường gọi Na Tra là Tam Thái Tử.
[19] Tam Đại là Hạ, Thương,
Châu, lịch pháp mỗi đời mỗi khác. Chẳng hạn
nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng Giêng, nhà Thương lấy
tháng Sửu làm tháng Giêng, c̣n nhà Châu lấy tháng Tư (tháng Mười
Một Âm lịch hiện thời) làm tháng Giêng.
[20] Pháp sư Thích Từ Hàng (1893-1954), tục
danh Ngải Kế Vinh, tự Ngạn Tài, quê ở Kiến
Ninh, tỉnh Phước Kiến. Ngài sinh trong gia đ́nh
thư hương, mẹ mất khi Ngài lên mười. Do
nhà nghèo, chỉ được đi học bảy năm
tại trường tư. Đến năm mười ba
tuổi bắt đầu học may để kiếm sống.
Do thường đến chùa miếu may tăng phục
cho tăng chúng, Ngài mang ư niệm xuất gia. Năm mười
bảy tuổi, cha mất, bèn đến ngọn Nga My ở
Thái Ninh xin xuống tóc với Tự Trung thượng nhân.
Năm 1911, sau khi được Tự Trung thượng
nhân gởi Ngài sang thọ Cụ Túc Giới tại chùa
Năng Nhân ở Cửu Giang, Sư bắt đầu tham học
khắp một giải
[21] Ốc anh vũ (Nautilus) là tên gọi
chung của nhiều loại ốc thuộc họ
Nautilidae. Loại ốc này có đặc điểm là có nhiều
xúc tu quanh đầu, vỏ ốc giống như một
cái ống cuộn tṛn, mỏng, nhưng chịu đựng
được sức ép rất tốt. Bên trong vỏ chia
thành nhiều ngăn, có một sợi tơ xuyên qua lỗ
thủng giữa vách ngăn mỗi khoang nối đến
khoang cuối cùng ở trung tâm vỏ ốc. Một con ốc
trưởng thành có đến ba mươi khoang, mỗi
khi ốc lớn thêm lên, sẽ phát triển thêm một
khoang mới, và chất vôi sẽ hàn kín ngăn cũ, chừa
một lỗ nhỏ để sợi tơ [như đă
nói trong phần trên] xuyên qua. Người ta vẫn chưa
hiểu v́ sao ốc lại phát triển như vậy.
[22] Theo Châu Lễ, lễ tế vào mùa Hạ gọi là Đế (禘), tế vào mùa Thu gọi là Thường (嘗). Cổ nhân thường ghép hai chữ này để chỉ lễ tế tổ hằng năm của thiên tử và chư hầu. Theo cổ lễ, có rất nhiều quy định nghiêm ngặt, chư hầu không thể tiếm dụng nghi thức tế tổ tiên của thiên tử.
[23] Lữ Luật hay Luật Lữ là một
quy định về âm luật trong cổ nhạc truyền
thống của Trung Hoa. Theo đó, nhạc được
chia thành mười hai âm cơ bản (dựa trên cao độ
và trường độ), sáu âm thuộc về
Dương gọi là Luật, sáu âm thuộc về Âm gọi
là Lữ. Mười hai âm ấy có tên gọi là Hoàng Chung,
Đại Lữ, Thái Thốc, Giáp Chung, Cô Tẩy, Trọng
Lữ, Nhuy Tân, Lâm Chung, Di Tắc, Nam Lữ, Vô Xạ, Ứng
Chung. Nói dễ hiểu hơn th́ Hoàng Chung tương ứng
với note Do, Lâm Chung tương ứng với note Sol
v.v... Theo Lă Thị Xuân Thu, Hoàng Đế đă ra lệnh
cho Linh Luân chế ra “thập nhị
luật lữ”. Linh Luân đi đến xứ Đại
Hà ở phía Tây núi Côn Luân, chọn loại trúc có các đốt
dài bằng nhau, chặt làm mười hai đoạn, mỗi
đoạn dài ba tấc chín phân, rồi mô phỏng theo sáu lần
đối đáp giữa chim phượng hoàng trống và
mái để chế ra mười hai cây sáo trúc. Âm thanh mô phỏng
tiếng chim trống gọi là Lục Dương Luật,
âm mô phỏng tiếng chim phượng mái gọi là Lục
Âm Lữ.
[24] Thanh giáo: Đức Phật dùng âm thanh
để thuyết pháp, nên giáo pháp của Phật gọi
là “thanh giáo”. Chẳng cậy vào thanh giáo tức là chẳng
do nghe Phật thuyết pháp mà tự khai ngộ.