Phật Học Vấn Đáp Loại Biên
佛學問答類編
Phần 7
Lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội, Đài Loan, 2007)
Giảo chánh: Đức Phong,
Trịnh Vân và Huệ Trang
* Hỏi: Có người hỏi: Người tŕ trai chẳng ăn mặn, thân ấy là chay hay là mặn? Có khác với người thường hay không? (Khoan Quán hỏi)
Đáp: Thân người do rất nhiều tế bào hợp thành, các tế bào ấy chỉ nhờ vào chất dinh dưỡng trong thực phẩm [mà tồn tại], sanh diệt trong từng sát-na, đổi cũ, thay mới. Ăn ngũ cốc, rau dưa, các tế bào trên thân này tiếp nhận tinh hoa của ngũ cốc, rau dưa; ăn lợn, dê, gà, cá, đương nhiên sẽ xen tạp những tố chất của lợn, dê, gà, cá.
* Hỏi: Khi có hỷ sự hoặc tang sự th́ phải chọn lựa ngày tốt để tế lễ tổ tiên, tế thần cũng giống như vậy. Người học Phật nên coi trọng hay xem nhẹ chuyện này? (Lâm Khê Hà hỏi)
Đáp: Người học Phật tâm địa hiền lương, an tường, mọi việc đều tốt lành, chẳng cần câu nệ thuật Âm Dương, Ngũ Hành. Chỉ [trừ khi] gia đ́nh đông người, quen thói [coi trọng ngày tốt xấu] đă sâu, sửa đổi ngay lập tức sẽ dẫn đến sự phản đối, đến nỗi ư kiến mâu thuẫn th́ dường như cũng chẳng hay lắm. Hăy nên tùy cơ tùng quyền để dần dần bỏ đi.
* Hỏi: Hữu t́nh chúng sanh đều do nghiệp mà hiện các thứ thân trong sáu đường, hứng chịu các thứ quả báo thiện hay ác, nhưng vô t́nh chúng sanh do là vô t́nh nên chẳng tạo nghiệp thiện
hay
ác, v́ sao có h́nh dáng khác nhau? (Hoàng Mậu
Vinh hỏi)
Đáp: Vật vô t́nh là khí thế gian, là y báo của hữu t́nh thế gian. Hữu t́nh chánh báo đă ngàn vạn phần sai khác, y báo tự nhiên sẽ muôn h́nh muôn vẻ bất đồng, cũng thuận theo nghiệp báo của hữu t́nh mà ứng hiện.
* Hỏi: “
Đáp: [Quan điểm cho rằng] bao nhiêu nguyên tố ấy chẳng thể phân tích [nhỏ hơn] được nữa, chính là do khoa học chưa phát triển đến cực điểm. Sau này, trải qua ngần ấy năm tiến bộ, sẽ c̣n có thể phân tích tiếp, giống như trước đây chỉ phát hiện nguyên tử, điện tử, hạt nhân của nguyên tử v.v... Có ngă, có thường, há nên phản bác!
* Hỏi: Mỗi khi trông thấy chữ Vạn
(卍), tôi liền cảm thấy vui mừng. Kẻ ngu này cho rằng chữ ấy đă căn cứ trên ư nghĩa nhằm biểu thị đức Thế Tôn tay trái chỉ trời, tay phải chỉ đất. Nay tôi trông thấy chữ Vạn do các đồng tu đă quen dùng liền cảm thấy không vui. Có bậc đại đức trách kẻ ngu này chấp trước, viện lẽ “Phật pháp vô biên, pháp luân thường chuyển,
thiên đường
biến thành địa ngục,
mà địa
ngục biến
thành thiên đường”, nói rất hùng hồn, cưỡng từ đoạt chánh lư. Tôi suy nghĩ chi ly, chỉ có Phật giáo dùng chữ này; nếu chẳng thống nhất, sử dụng lung tung, loạn xạ, thị phi điên đảo, th́ các pháp cũng [sẽ bị hỗn độn, thị phi điên đảo] giống như thế, đối với tín chúng, nên trả lời [câu vấn nạn ấy] như thế nào? (Lă Tồn Tâm hỏi)
Đáp: Xét theo kinh Lăng Nghiêm và Hoa Nghiêm Âm Nghĩa[1], [chữ Vạn thoạt đầu] đều được ghi bằng kư hiệu 卍.
Tới niên hiệu Trường Thọ (692-694) đời Vơ Tắc Thiên nhà Đường, mới quy định kư hiệu ấy là một chữ, đọc là Vạn, biểu thị ư nghĩa “vạn
đức cát tường”. Hết thảy tượng Phật và các bức vẽ tại Trung Quốc đều vẽ là 卍. Ở Bắc B́nh (Bắc Kinh) lại có một kiến trúc có h́nh dáng đặc biệt cũng phỏng theo
h́nh dạng của kư hiệu ấy, gọi là Vạn Tự Lang (hành lang theo lối chữ Vạn). Chỉ có trước ngực tượng Phật Nhật Bản, đa số tạo h́nh chữ 卐, nêu lư do trong ba mươi hai tướng, phàm những ǵ có tánh chất xoay tṛn đều xoay theo chiều phải, như tóc xoắn trôn ốc, tướng bạch hào giữa hai mày v.v... nên chữ Vạn này cũng phải xoay theo chiều bên phải. Tuy vậy, bọn ta là phàm phu, chưa thấy thánh thân (chân thân của đức Phật), há dám quả quyết ai đúng! Nhưng cư sĩ đă nói “phải nên thống nhất”, kẻ hèn rất đồng ư. Trước khi chưa khảo cứu [tường tận], hăy nên tuân theo tập quán của mỗi nước. Như tượng A Di Đà Phật tiếp dẫn, kiểu mẫu Trung Quốc là cánh tay bên phải buông xuôi [theo
thân],
c̣n
kiểu
mẫu
Nhật
Bản
là
buông
xuông
cánh
tay
trái,
cũng
chẳng
nhất
trí!
Trong
lúc
hai
luồng văn hóa giao lưu này, chẳng cần phải tranh chấp với người khác, có tranh chấp cũng vô ích! Chẳng bằng cầu sao cho ai ấy được an tâm, thuận theo những ǵ được đa số trong nước ḿnh ưa chuộng [để vẽ, khắc h́nh chữ Vạn] th́ hay hơn!
* Hỏi: Trong tương lai, lúc Di Lặc Bồ Tát hạ sanh v́ sao lại ở Ấn Độ? Sao không đến nước Mỹ thuyết pháp, cảm hóa hàng ngoại đạo ương bướng, ngu độn? (Hoàng Mậu
Vinh hỏi)
Đáp: Nơi đức Phật chẳng giáng sanh, chưa chắc đă không được Phật giáo thấm nhuần, như đức Thích Ca chẳng sanh tại Trung Quốc, Nhật Bản v.v... Cớ sao Phật pháp riêng tại Trung Quốc, Nhật Bản hưng thịnh, mà Ấn Độ lại lặng tênh, im ắng? Chuẩn theo đó, tuy ngài Di Lặc chẳng sanh tại Mỹ, cũng chưa chắc cơi ấy chẳng được thấm nhuần Phật pháp! Chỉ v́ Mỹ là quốc gia mới thành lập, có quan hệ đặc thù với Âu Châu, tôn giáo tự nhiên chịu ảnh hưởng của Âu
Châu,
nhưng hiện thời càng ngày càng dính líu với Đông Á, số người biết đến Phật pháp đă dần dần nâng cao, đă có kẻ đang nghiên cứu [Phật giáo], lại c̣n có tăng lữ, chẳng đợi Di Lặc giáng sanh mà đă tự tiếp nhận trước rồi!
* Hỏi: Khi tuổi thọ con người giảm xuống ba mươi tuổi, rồng trên trời thấy người đời quá ác nên suốt bảy năm chẳng chịu đổ mưa. Theo lư luận ấy th́ mưa là do rồng trên trời trút xuống, nhưng nếu nói theo khoa học th́ há chẳng phải là do nước bị nung nóng biến thành hơi kết thành hay sao? (Hoàng Mậu
Vinh hỏi)
Đáp: Mưa có khi do khí tượng tự nhiên kết thành, mà cũng có khi do rồng gây ra. Như trong hiện thời, băng cố nhiên có lúc do trời Đông rét buốt ngưng kết, mà cũng có khi trong tiết Hè, dùng sức người để tạo thành.
* Hỏi: Lúc đức Phật làm Thái Tử chưa xuất gia tu hành, do v́ lẽ nào mà có kinh điển để nghiên cứu; sau đấy, do thấy thấu suốt t́nh đời mà tu hành? (Huệ
Lượng hỏi)
Đáp: Từ kiếp xưa lâu xa, Thích Ca Thế Tôn đă sớm thành Phật, đến cơi này thị hiện ứng thân để độ chúng sanh đă hơn tám ngàn lần. Ngài làm Thái Tử tại nước Ca Tỳ La Vệ ở Ấn Độ cũng là cố ư thị hiện tướng phàm phu; thật ra chẳng phải là chỉ trong đời này do đọc kinh điển nào rồi mới bắt
đầu thấy thấu suốt t́nh đời vậy!
* Hỏi: Thánh đản của chư Phật, Bồ Tát và các thứ trai kỳ[2], có nên đều đổi sang dùng Dương Lịch hay không? (Quế Dẫn
Hạnh hỏi)
Đáp: Điều này tùy ư mỗi người, chẳng cần phải câu nệ nhất định!
*Hỏi: Đức Phật nói có một loại người bị xuyên ngực, cớ sao xưa có, nay không? (Trí Lương
hỏi)
Đáp: Chuyện “xưa có, nay không” kể sao cho xiết? Như Xi Vưu có thể tuôn sương mù, Hiên Viên có thể sai khiến gấu, cọp, báo[3] v.v.. Cầm thú có phụng hoàng, kỳ lân. Cỏ cây có minh giáp, chỉ nịnh[4], [những thứ ấy] nay đều chẳng có, có lẽ cũng chẳng cần phải lấy làm lạ vậy?
* Hỏi: Gần đây, tôi kính cẩn đọc hai cuốn sách là Đương Sanh Thành Tựu Chi Phật Pháp (Phật pháp thành tựu trong đời này) do Đài Trung Phật Giáo Liên Xă phát hành và Kỹ Lộ Chỉ Quy do xưởng in của Thụy Thành Thư Cục ở Đài Trung ấn hành vào tháng Mười năm Dân Quốc 38 (1949), cảm kích sâu đậm ân Phật quang phổ chiếu. Chỉ có điều [thắc mắc] là năm nay rốt cuộc là năm Phật lịch bao nhiêu, hai sách nói khác nhau khá nhiều, chẳng biết có phải là “Phật lịch hoàn toàn không tính từ lúc Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh vào năm hai mươi sáu đời Châu Chiêu Vương” hay
chăng? Sách trước nói năm Dân Quốc 42 (1953) là năm Phật lịch 2516, sách sau lại bảo năm Dân Quốc 24 (1935) là năm Phật Lịch 2962; như vậy th́ năm Dân Quốc 43 (1954) lẽ ra phải là năm Phật Lịch 2981. Chẳng biết nỗi nghi của kẻ bất tài này có đúng hay không, xin hăy dạy bảo cho! (Trương
Bá Liệt
hỏi)
Đáp: Đây là vấn đề thuộc về lịch pháp.
Nếu
chẳng phải là chuyên gia tinh thông về vấn đề này, lại có tài liệu dồi dào, sẽ chẳng dễ giải quyết. Vấn đề này có rất nhiều thuyết khác nhau, chẳng phải chỉ có hai thuyết như vậy. Nếu lấy năm Dân Quốc 43 để bàn luận th́ có những thuyết khác nhau như sau: Thuyết cũ cho là năm Phật Lịch 2981, tạp chí Vô Tận Đăng ở Hương Cảng cho là năm 2518, tạp chí Nhân Sinh ở Đài Loan cho là năm 2517, tạp chí Hải Triều Âm cho là năm 2225 v.v... Xét ra ai đúng, kẻ hèn này chưa học lịch số, chẳng dám đoán bừa! Dẫu là bậc chuyên về lịch pháp, cũng khó thể t́m căn cứ để khảo chứng đích xác, chỉ có điều gần đây [sách vở Phật giáo thường] nói là năm hai ngàn năm trăm mười mấy là do lấy bộ Chúng Thánh Điểm Kư làm căn cứ. Cần phải biết xưa nay đă ba lượt định tháng đầu tiên của một năm khác nhau, trong ngoài nước có Âm Dương lịch sai khác, ắt phải gộp những dữ kiện ấy lại để suy đoán th́ may ra sẽ tạm gần đúng với sự thật
mà thôi!
Nói chung, nếu dựa theo bộ Chúng Thánh Điểm Kư th́ đức Phật giáng sanh vào hơn hai ngàn năm trăm năm trước, so ra khá gần. Ở đây, tôi nêu lên một thí dụ để chứng thực chuyện này khó thể khảo chứng. Khổng Tử là người Trung Quốc, đối với năm sanh của Ngài, Công Dương Truyện[5] nói là năm 21 đời Lỗ Tương Công
(năm 552 trước Công Nguyên), Sử Kư chép là năm 22 đời Lỗ Tương Công. Tháng sanh th́ Công Dương Truyện bảo là tháng Canh Tư, tức tháng Mười Một. Từ năm Dân Quốc 11 (1922) trở về trước luôn lấy ngày Hai Mươi Bảy tháng Tám Âm Lịch làm thánh đản của Ngài, về sau đổi thành ngày Hai Mươi Bảy tháng Tám Dương Lịch, nay lại khảo cứu th́ thấy là ngày Hai Mươi Tám tháng Chín. Chỉ ở trong nước mà c̣n như thế, huống ǵ kết hợp [các tài liệu] xưa nay, trong ngoài nước để tính toán để nói chuẩn xác, có lẽ chẳng phải là đơn giản, dễ dàng!
* Hỏi: Vạn sự đều được khoa học hóa; nương vào kinh chú [được ghi âm] trong các đĩa máy hát có hiệu quả hay không? (Hà Giang Đô hỏi)
Đáp: Vạn pháp duy tâm, tiếng nước suối c̣n là tướng lưỡi rộng dài, huống hồ từng câu từng chữ
trong đĩa hát có âm thanh rơ ràng ư? Chỉ cần có tâm chí thành, đương nhiên là hữu hiệu! Nếu không, dù có nghe người khác niệm tụng th́ cũng như tiếng gió lùa qua khe trống đó thôi!
Hỏi: Người có mắt âm dương hoặc huệ nhăn có thể thấy kim quang, áo, măo của Phật, thần, quỷ v.v... chuyện ấy có thật hay không? (Hà Giang Đô hỏi)
Đáp: Mắt âm dương có thật hay không, kẻ hèn này chẳng biết. Dẫu là chân thật, chắc là có
thể thấy quỷ thần, chứ chẳng thể thấy cảnh giới của Phật, Bồ Tát; bởi thánh có thể thấy phàm, nhưng phàm chẳng thể suy
lường thánh, giống như người thấy kiến, nhưng kiến chẳng thể thấy người!
* Hỏi: Ư nghĩa chân thật của tam kỳ mạt pháp là như thế nào? Kỳ một và kỳ hai có thể khảo chứng trong lịch sử hay không? (Hà Giang Đô hỏi)
Đáp: Đấy là ngoại đạo vô tri bịa đặt lời lẽ yêu mị, há có ư nghĩa chân thật, có lịch sử ǵ để khảo chứng!
* Hỏi: Trẻ nhỏ đi học, đứng hạng hai mươi sáu trong số năm mươi ba học tṛ, vợ tôi bực tức, tôi đáp: “Hăy nên vui v́ nó c̣n khá hơn hai mươi bảy đứa kia, cớ ǵ cứ phải khổ sở ép buộc nó phải đứng đầu?” Xin
hăy phê b́nh, chỉ dạy! (Hà
Giang Đô hỏi)
Đáp: “Đi học chỉ cần đạt mức là được rồi”, người làm cha mẹ nghĩ như vậy cũng chẳng phải là không được! Nhưng đối với con cái vẫn nên đốc thúc, cổ vũ cái tâm tinh tấn, kẻo chúng biếng nhác đến nỗi sa sút.
* Hỏi: Đức Phật nói “độ chúng sanh”, tôi trọn chẳng biết Ngài độ bằng cách nào? Có phải là dạy người
ta
theo thiện, trừ ác? Trừ điều ấy ra, c̣n có phương pháp nào khác nữa hay chăng? (Trọng Chí Anh hỏi)
Đáp: Nên hiểu “độ” là cứu độ, chia ra thành Quyền và Thật. Khiến cho thoát khỏi tai nạn trong hiện thời bèn là Quyền. Khiến cho được bất sanh bất diệt, đạt đến Niết Bàn rốt ráo, đó là Thật. Phật độ chúng sanh, cố nhiên chẳng ngoài khuyến thiện, nhưng Thiện lại chia thành hữu lậu và vô lậu khác nhau. Thoát khỏi tai ách trong hiện thời th́ thuộc về thiện nghiệp hữu lậu. Nếu bỏ thiện nghiệp vô lậu sẽ chẳng thể thành tựu bất sanh bất diệt. Nghiệp vô lậu ấy chính là các phương pháp Thiền, Tịnh, Mật, Luật trong Phật giáo. Các tôn giáo khác chẳng biết đến điều này, chỉ riêng Phật giáo là có. Nếu chỉ nói “làm lành, trừ ác” là xong chuyện th́ bất luận tôn giáo nào cũng đều khuyến thiện, c̣n quư báu chỗ nào mà phải tất yếu học Phật nữa ư?
* Hỏi: Phật Học Tạp Chí thường nói người Trung Quốc có căn tánh Đại Thừa. Đối với chuyện học Phật, có nên chấp nhận cách nói ấy là đúng hay không? (Trọng Chí Anh hỏi)
Đáp: Có thể nói là như vậy.
* Hỏi: Cầu được chết tốt lành như thế nào? (Diêu Thanh Nguyên hỏi)
Đáp: Sám hối túc nghiệp, làm nhiều chuyện lành.
* Hỏi: Suốt đời nên xử sự, làm tṛn nhiệm vụ như thế nào? (Diêu Thanh Nguyên hỏi)
Đáp: Cẩn thận vâng giữ bổn phận, đừng tổn người lợi ḿnh, đó là nói theo phương diện tiêu cực. Tận tâm, tận lực, ắt phải trung tín, đó là nói theo phương diện tích cực. Như vậy th́ sẽ có thể thực
hiện trọn hết nhiệm vụ!
* Hỏi: Chúng ta là người quy y Tam Bảo, trừ lễ bái Phật, Bồ Tát ra, do ngẫu nhiên bước vào miếu thờ thần, cũng như đối với những vị Lăo Gia được thờ kèm thêm trong chùa Phật, liền chẳng lễ bái
và
thắp hương, làm như vậy có đúng hay không? (Dương Thừa
Quang hỏi)
Đáp: Thắp hương nhằm tỏ ḷng thành. Tâm Phật tử nên niệm niệm đặt nơi Phật, cần ǵ phải đa sự tỏ ḷng thành với hết thảy thần, quỷ. Lễ bái cũng có các thứ đại lễ và thường lễ khác biệt. Nếu ngẫu nhiên bước vào miếu thờ thần, chỉ cần hướng về tượng thần, chắp tay xá là đủ rồi. Bởi lẽ, vị ấy là người đứng đầu một miếu, khách gặp chủ nhà phải lễ phép, đó là lẽ đương nhiên.
* Hỏi: Lại có người nói, phàm là người quy y Tam Bảo, hễ gặp các vị thần như trên, hăy nên hành lễ và chúc nguyện, “nguyện tôn thần phát Bồ Đề
tâm, văng sanh Cực
Lạc”, hoặc niệm Phật và tŕ chú Văng Sanh, niệm như vậy có đúng hay không? (Dương
Thừa Quang hỏi)
Đáp: Rộng hành pháp thí, chính là việc nên làm của Phật tử Đại Thừa, ông ấy nói cũng đúng!
* Hỏi: Đối với Ngọc Hoàng Đại Đế như thế tục nói, hay Thượng Đế được nói trong đạo Gia Tô, kinh luận Phật có nói: Phía trên cơi này tám vạn bốn ngàn do-tuần cho đến tận đỉnh núi Tu Di, chính là tầng trời thứ hai, tức cung trời Đao Lợi, chúa trời cơi ấy tên là Đế Thích. Danh xưng khác biệt, nhưng vị thần ấy và địa vị của ông ta có giống [với các vị Thượng Đế hoặc Ngọc Hoàng Đại Đế trên đây] hay không? (Phan Thành Lâm hỏi)
Đáp: Phật giáo nói đến trời th́ theo chiều dọc có hai mươi tám tầng trời, theo chiều ngang có tam thiên đại thiên, gộp chung lại để ước tính sẽ có hơn bốn trăm mấy chục ức Thiên Đế. Ngọc Hoàng Đại Đế như Đạo Giáo đă gọi chính là vị chúa tầng trời thứ hai như Phật giáo đă nói. C̣n Thượng Đế được nói đến trong đạo Gia Tô rốt cuộc thuộc tầng trời nào, Tân Ước lẫn Cựu Ước đều chẳng nói tường tận, nên chưa thể suy đoán được!
* Hỏi: Bỉ nhân tuy theo Phật đă nhiều năm, nhưng do bận bịu, chẳng rảnh rỗi để xem đọc kinh Phật, nên chẳng biết nguyên do, khởi đầu của thiên địa vạn vật, chẳng biết đức Phật giảng như thế nào, xin hăy chỉ dạy cặn kẽ! (La Quán Thông hỏi)
Đáp: Vấn đề này há có thể nói tường tận bằng đôi ba câu ư? Nếu muốn nói sơ lược đại ư th́ chỉ một câu “chư pháp nhân duyên sanh” có thể khái quát hết thảy!
* Hỏi: Ban đêm khó ngủ, lại c̣n sau khi ngủ thường gặp ác mộng, kinh hăi tỉnh giấc, vô cùng sợ sệt, tâm thần chẳng yên, là do duyên cớ nào? Có ảnh hưởng như thế nào? Có phương pháp nào để trị hay không? (Ông Minh Tiêu hỏi)
Đáp: Hăy nên nằm nghiêng bên hông phải. Sau khi đă nằm, bèn nhắm mắt quán tưởng h́nh dạng mặt trời lặn, trong tâm niệm thầm bốn chữ Phật hiệu, lâu ngày sẽ tự yên.
* Hỏi: Hiện thời, thế tục thường đem vàng, bạc, tiền giấy, hương, nến đặt trước mộ để lễ bái, nhưng Phật giáo đồ chúng ta có nên tảo mộ hay không? (Ông Minh Tiêu hỏi)
Đáp: Tang ma cẩn thận khi cha mẹ đă khuất, luôn tưởng nhớ, th́ đức hạnh của dân chúng sẽ sâu dầy. Tục lệ tốt đẹp của nước ta đáng nên ǵn giữ. Nhà Phật đối với cha mẹ nhiều kiếp c̣n nghĩ báo ân, lẽ đâu bỏ mất việc tảo mộ đối với tổ tiên hiện đời?
* Hỏi: Có nên niệm kinh trước mộ hay không? (Ông Minh Tiêu hỏi)
Đáp: Đấy là cách hay nhất, vong nhân thật sự được lợi ích chỉ có cách này!
* Hỏi: Nên đem theo những ǵ để bày trước mộ? (Ông Minh Tiêu hỏi)
Đáp: Hương, hoa, trái cây, cơm là đủ rồi. Muôn phần chớ nên sát sanh để cúng. Vàng, bạc, tiền giấy v.v... cũng chẳng cần đến!
* Hỏi: Thế tục hiện thời là vào những ngày đầu năm và tiết [Thanh Minh trong] tháng Ba v.v... phải đi tảo mộ, nhưng chúng ta có nên đi theo đúng ngày tháng, hay là muốn đi lúc nào cũng được? (Ông Minh Tiêu hỏi)
Đáp: Có lẽ nên theo tập tục. Nếu có lúc nghĩ nhớ, có thể tùy thời tế lễ, cũng chẳng phải là không được!
* Hỏi: Thân thể thường xuyên sanh bệnh, có phương pháp ǵ loại trừ gốc bệnh hay không? (Ông Minh Tiêu hỏi)
Đáp: Tâm trong sạch, ít ham muốn, ấn định thời gian vận động mỗi ngày, ăn uống, sinh hoạt hằng ngày phải có quy luật, đó là trị từ bên ngoài. Nhất tâm niệm Phật, kiêng giết, phóng sanh, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, đó là chuyển biến bằng cách ngấm ngầm; nhưng phải giữ [những điều ấy] cho thường hằng, đừng nên làm đôi chút đă cho là đủ!
* Hỏi: Ngài Tam Tạng thỉnh kinh về Trung Quốc, v́ sao [người
đời] chẳng nghĩ đến công lao thỉnh kinh của Ngài, trọn chẳng tôn kính là v́ lẽ nào? (Trần Giang Ái hỏi)
Đáp: Đời Tống, Âu Dương Tu chẳng tin Phật pháp, bộ Tân Đường Thư do ông ta biên soạn, chẳng chép tiểu truyện về ngài Huyền Trang, nên chuyện ấy không được nêu rơ. V́ thế, giới Nho sĩ không để ư đến. Lại do bộ tiểu thuyết Tây Du Kư tuyên truyền những chuyện quái đản, công lao [thỉnh kinh của ngài Huyền Trang] phần nhiều bị Tôn Ngộ Không che lấp. Đấy cũng là một nguyên nhân khiến ngài Huyền Trang bị quên lăng.
* Hỏi: Ngày Mười Chín tháng Chín là ngày khánh chúc Quán Thế Âm Bồ Tát xuất gia, hay là mừng thánh đản, hay là ngày Ngài thành đạo? (Vương B́nh Lăng hỏi)
Đáp: Tương truyền đó là ngày Ngài xuất gia; thật ra, nguồn cội của ngài Quán Âm rất xa xưa, lịch pháp xưa nay trong ngoài nước đủ mọi thứ sai khác, làm sao có thể [phán định] chuẩn xác cho được? Chuyện này bất quá nhằm cảm niệm ân đức của Bồ Tát, nên giả định mỗi năm kỷ niệm vài lượt mà thôi, chớ nên câu nệ t́m cầu quá mức!
* Hỏi: Tâm Kinh do đức Phật nói, hay do Quán Thế Âm Bồ Tát nói. Xá Lợi Tử và Quán Tự Tại Bồ Tát trong ấy có phải là ngài Xá Lợi Phất và Quán Thế Âm Bồ Tát hay không? Lúc nói kinh ấy là hướng về ai mà nói? Địa điểm là ở chỗ nào? (Vương B́nh Lăng hỏi)
Đáp: Hiện thời c̣n giữ được bảy bản dịch của kinh này. [Các bản dịch] được phát
hiện
gần đây từ hang đá Đôn Hoàng chẳng kể vào số ấy! Trong bản dịch của Pháp Nguyệt đại sư đời Đường có câu: “Duy
nguyện Thế
Tôn, thính ngă sở thuyết” (kinh xin đức Thế Tôn hăy nghe con nói), nên có thể nói [Tâm Kinh] do Quán Âm Bồ Tát nói. Hai vị pháp sư là La Thập đời Diêu Tần và Pháp Nguyệt đời Đường đều dịch Quán Tự Tại thành Quán Thế Âm. Trí Huệ luận sư đời Đường dịch [danh hiệu Quán Âm Bồ Tát] thành Quán Thế Âm Tự Tại. Dựa theo đó, vị này là Quán Thế Âm chẳng c̣n ngờ ǵ! Địa điểm th́ ngoại trừ bản dịch của hai vị La Thập và Huyền Trang không ghi chép, năm bản dịch kia đều ghi là [Tâm Kinh được giảng] trong núi Linh Thứu thành Vương Xá. Xá Lợi Tử chính là Xá Lợi Phất; c̣n hướng về ai để nói th́ có thể bảo là hướng về Xá Lợi Phất, mà cũng có thể nói là hướng về đại chúng!
* Hỏi: Vị tỳ-kheo Tăng [truyền thọ Tam Quy cho ta] đă quá cố, có nên xin quy y lại với người khác hay không? (Vương
B́nh Lăng hỏi)
Đáp: Tăng là đoàn thể đại chúng, thật sự chẳng nói riêng về một cá nhân nào! V́ thế, quy y là quy y Tăng đoàn. Bất quá, vị thầy truyền quy y cho người khác [chính là vị] đại diện Tăng đoàn. Nếu vị ấy đă khuất, Tăng đoàn vẫn c̣n rất nhiều người, nhưng cứ khăng khăng coi người đă chết mới là đại biểu [của Tăng đoàn] để giảng giải về chuyện Tam Quy, cử hành nghi thức nên biện định như thế nào th́ kẻ hèn này chưa từng nghiên cứu luật nên chẳng dám đáp bừa!
* Hỏi: Có người nói đại đa số người xuất gia đều do bị muôn vàn nỗi đả kích trên cơi đời bèn sanh ḷng chán ghét thế gian, dấn ḿnh vào Không môn. Do vậy, họ là những kẻ bị đào thải trong cuộc đấu tranh sanh tồn, chẳng đáng làm thầy của người khác! Lại nữa, người xuất gia đều lấy văng sanh thế giới Cực Lạc làm mục đích, như vậy th́ luận định về dục niệm, đúng là c̣n quá đáng hơn kẻ tục! Nên đáp [lời vấn nạn ấy] như thế nào? (Trần
Vũ Cát hỏi)
Đáp: Câu hỏi này có mấy ư, cần phải tách ra để trả lời.
- Một, “do bị đả kích nên vào cửa Không” (chữ “Không môn” đổi thành chữ Phật sẽ rơ ràng hơn. Người đời phần nhiều hiểu lầm chữ Không. Tôi học Phật đă mười năm vẫn chưa liễu giải chữ Không). Thử hỏi, hết thảy mọi chuyện trên đời, có chuyện ǵ chẳng do bị kích thích mà làm? Kích thích là cảm xúc; chuyện ǵ chẳng có cảm xúc ǵ mà làm sẽ trở thành hành động mù quáng, thiếu mục tiêu, sao lại chỉ gán ghép điều này vào người học Phật?
- Hai, “bị đào thải trong cuộc đấu tranh sanh tồn”, nói đại lược th́ có hai loại khác nhau:
a. Chẳng cầu phú quư bất nghĩa, không ngại an bần lạc đạo, ngồi chẳng ấm chiếu, bếp không rảnh để đun, chăm nom người già của kẻ khác như người già của chính ḿnh, thương con thơ của người khác như con thơ của chính ḿnh, bố thí rộng răi giúp chúng sanh, coi trọng thiên hạ, chẳng trái nghịch nguyên tắc ấy chút nào, đó là đạo cạnh tranh sanh tồn của bậc quân tử.
b. Thiếu hẳn liêm sỉ, ỷ mạnh cưỡng đoạt, hy sinh đại chúng nhằm cung phụng, bồi bổ chính ḿnh. Đó là sự cạnh tranh sanh tồn của phường tiểu nhân.
Người xuất gia cố nhiên là hạng bị đào thải trong công cuộc đấu tranh sanh tồn nếu hiểu theo kiểu thứ hai. Nếu không, chẳng ít Tăng sĩ trong Phật môn là thanh niên, cậy vào tuổi trẻ,
sẵn có
sức mạnh, nếu chuyên mưu cầu cơm áo, chỉ cầu [đạt được mục đích] chẳng nề hà thủ đoạn, lo ǵ chẳng đạt được những thứ ấy?
- Ba, “chẳng đáng làm thầy người khác”. Con người phải có tư cách của con người, trọn đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, chẳng phạm giết, trộm, dâm (tức là tà dâm), dối trá, rượu chè, sẽ là người hoàn chỉnh. Kẻ nào chẳng thể như vậy, nh́n vào người đó, sẽ mong được bằng, nên người đó là “thầy của người khác”. Người nào chẳng cạnh tranh sanh tồn theo kiểu thứ hai như vừa nói trên đây, chẳng đáng làm thầy người khác ư?
- Bốn, “văng sanh Cực Lạc” là một trong tám vạn bốn ngàn pháp môn để Phật độ chúng sanh, điều này được gọi là pháp môn Tịnh Độ. Người xuất gia tu tập ai nấy tùy thuộc căn cơ nào mà chọn pháp nấy, trọn chẳng phải là ai cũng lấy Cực Lạc làm mục đích.
- Năm, “dục niệm Cực Lạc đúng là quá đáng hơn kẻ tục”. Đó toàn là lời lẽ của kẻ chẳng thông hiểu! Lư Tịnh Độ sáng ngời trọn khắp, khế hợp trọn khắp các căn cơ. Thật ra, các thứ trang nghiêm trong Cực Lạc đều nhằm thuyết pháp, cần phải nghiên cứu tinh tường kinh điển Tịnh Độ mới hiểu lư ấy. Do chúng sanh trong Sa Bà dục ái quá nồng, nên đức Phật trước hết dùng dục
phương tiện để dẫn dắt, khiến họ nhờ vào đó mà nhập chánh pháp, đạt đến rốt ráo.
* Hỏi: Đọc chương Nhất Tướng Vô Tướng trong kinh Kim Cang do pháp sư Cưu Ma La Thập dịch, [có câu]: “Thế
Tôn! Phật
thuyết ngă đắc Vô Tránh tam-muội,
nhân trung tối vi đệ nhất” (Bạch Thế Tôn! Phật nói con đắc Vô Tránh tam-muội, là bậc nhất trong loài người). Trong tác phẩm [Kim Cang Kinh] Tiên Chú, ông Đinh Phước Bảo đă dựa theo ư nghĩa lời dịch của pháp sư Nghĩa Tịch đời Đường “Như
Lai thuyết
ngă đắc
Vô Tránh Trụ trung tối vi đệ nhất”
(Như Lai nói con đúng là bậc nhất trong [những người] được an trụ trong Vô Tránh), cho rằng phải đọc [lời dịch của pháp sư Cưu Ma La Thập] là “Thế Tôn! Ngă đắc
Vô Tránh tam-muội nhân trung, tối
vi đệ
nhất” (Thế Tôn! Trong những người đắc Vô Tránh tam-muội, con thật là bậc nhất). Trong khóa tụng hiện thời nên đọc theo câu nào cho đúng? (Phương Định
Đức hỏi)
Đáp: Trong phần lớn các bản [kinh Kim Cang đang được lưu hành], câu này được đọc theo cách đă nêu trong trang trước, [do vậy], vẫn nên thuận theo đa số th́ hơn. Hơn nữa, [đọc theo kiểu ấy] lời văn cũng phù hợp với ư nghĩa.
* Hỏi: Giáo lư Phật giáo rộng răi, sâu sắc, kinh điển khá nhiều, văn tự trong các câu kinh phần nhiều là dịch âm tiếng Phạn, khiến cho những kẻ b́nh phàm chẳng có cách nào nghiên cứu. Có những kẻ hâm mộ Phật giáo, liền mong nghiên cứu giáo lư, nhưng chẳng biết nên đọc và nghiên cứu kinh điển theo thứ tự nào? Lại chẳng có thầy, làm sao có thể nghiên cứu thông suốt? (Phan Ngọc
Tuyền hỏi)
Đáp: [Trong kinh Phật], số lượng những chữ tiếng Phạn không được dịch ra [tiếng Hán] chỉ hữu hạn, nhưng chúng trở thành một vấn đề khó khăn đối với người mới đọc kinh là v́ tại Đài Loan kinh điển quá thiếu. Theo tệ ư, trước hết hăy nên xem những cuốn sách nhỏ thuộc loại nhập môn, đợi đến khi đă biết đôi chút đường nẻo rồi mới xem kinh điển th́ cũng chẳng trễ
tràng.
Kinh Phật [khó đọc] trọn chẳng phải do văn sâu, mà thật ra là do nghĩa lư sâu xa. Thụy Thành Thư Cục ở đường Thành Công, Đài Trung và bộ phận phục vụ độc giả của tạp chí này đều có lưu thông các tác phẩm Kỹ Lộ Chỉ Quy, Học Phật Thiển Thuyết, Phật Pháp Đạo Luận, Phật Học Thường Thức Khóa Bản v.v... có thể thỉnh về đọc vậy!
*
Hỏi:
Tệ
nhân
xem
kinh
tuy
chưa
thể
liễu
giải
triệt
để,
trong
tâm
vẫn
cảm
thấy
mười
phần
thú
vị,
nhưng
đọc
chưa
được
mấy,
đầu
óc
đă
bị
các
loài
ma
hôn
trầm,
tán
loạn,
buồn
ngủ
nhiễu
loạn,
muốn xem, nhưng chẳng thể tự chủ! Vậy là
như thế nào? Có phải là nghiệp chướng sâu nặng hay không? (Phan Ngọc
Tuyền hỏi)
Đáp: Cố nhiên là có chướng ngại, nhưng lư sâu khó hiểu, chẳng thể khơi dậy hứng thú cũng là một nguyên nhân.
* Hỏi: Hiện nay là thời kỳ kiếp giảm, tuổi thọ con người cứ mỗi một trăm năm lại giảm một tuổi, cứ mỗi một trăm năm bèn thấp hơn một tấc (theo An Sĩ Toàn Thư). Nếu luận theo tuổi thọ của con người hiện tại là bảy mươi tuổi, thân cao năm thước để luận định, th́ năm ngàn năm sau chỉ thọ hai mươi tuổi, thân chỉ cao năm tấc, ắt sẽ chẳng thành ra người nữa! Người dân Nhật Bản thân thể
lùn nhỏ, từ thời Minh Trị Duy Tân tới nay, [do chính quyền] đề xướng thể dục, thân thể cao lớn hơn tiền nhân, nên giải thích lư này như thế nào? (Tông Thụy
Tích hỏi)
Đáp: Mọi sự đều có thông thường và ngoại lệ, An Sĩ Toàn Thư nói theo lẽ thông thường. Người Nhật thân thể cao thêm, đó là ngoại lệ. Điều này cũng có mối quan hệ với nhân duyên, thường được gọi là Tăng Thượng Duyên. Ví như tiết Đông rét buốt, trong nhà đặt ḷ sưởi, có
thể hưởng sự ấm áp, nhưng vẫn phải
nói là tiết Đông. Mùa Hè nóng hừng hực, tuy gắn máy lạnh có thể được mát mẻ, vẫn phải nói là tiết Hạ.
* Hỏi: Phương danh của những người bỏ tiền ấn tống kinh điển đều được nêu ra ở cuối sách nhằm cổ vũ, khích lệ, nhưng văn học lần này lo liệu chuyện ấn loát kinh Nhật Tụng, do không có chỗ nên cuối mỗi trang kinh văn bèn ghi tên họ của những người ấy, chuyện này có phạm tội khinh nhờn Pháp Bảo hay không? (Tạ Phổ
Dương hỏi)
Đáp: In tên họ của những người bỏ tiền ấn tống nhằm phô bày công đức của họ, trọn chẳng phải là khinh nhờn. In [tên họ những người ấy phía dưới kinh văn] cũng chẳng khác biệt ǵ, chẳng qua là [bản in] sẽ thiếu rơ ràng, tề chỉnh mà thôi. Cổ nhân tạo tượng Phật, phần nhiều cũng khắc tên dưới ṭa sen của Phật.
* Hỏi: Trên giấy viết thư in thêm lời tự kiểm điểm, khuyên đời, cũng bị phạm tội thiếu cung kính hay không? (Tạ
Phổ Dương
hỏi)
Đáp: Giấy viết thư nên chú trọng nghệ thuật hóa, nhất là phải chú ư sao cho kẻ nhă người tục đều ưa thích. Nếu chọn thơ ca khuyên đời, hoặc sao lục những tác phẩm đơn giản, dễ hiểu của cổ nhân sẽ rất tốt.
* Hỏi: A Lư Tư Đa Đức (Aristotélēs)
đă nói: “Con người là động vật
mang tính xă hội”. Y sĩ nổi tiếng của Đức là Mă Khắc có nói: “Con
người là động vật
có t́nh cảm”. Theo cách nh́n của Phật giáo, con người là ǵ? (Lâm Quốc
Đống hỏi)
Đáp: Theo cách nh́n của bậc thánh triết thế gian Trung Quốc, con người là động vật có lễ nghĩa. Trong kinh Thư có nói: “Chim
két, tinh tinh đều
biết nói chuyện, nhưng
vẫn là cầm thú, v́ chúng không hiểu
Lễ”. Kinh Thư c̣n nói: “Hiểu nghĩa
là người.
Chẳng hiểu
nghĩa, chỉ
tham lợi
sẽ là Chim”. Theo cách nh́n của Phật, chúng sanh
mang thân người giải thoát dễ dàng nhất, v́ chư thiên tham lạc, súc sanh quá ngu si, ngạ quỷ, địa ngục bị khổ sở bức bách quá ngặt nghèo, đều chẳng dễ ǵ giải thoát.
* Hỏi: Trung Thổ có câu ngạn ngữ: “Một vị ḥa thượng
gánh nước
uống, hai vị ḥa thượng khiêng nước uống,
ba vị ḥa thượng
chẳng có nước uống”. Xét ra Tăng-già có sáu thứ ḥa hợp, sao lại chia rẽ như thế? Câu ngạn ngữ ấy có chứng cứ nào để khảo sát hay không? (Lâm Quốc
Đống hỏi)
Đáp: Lời đồn đăi bịa đặt, có căn cứ chi đâu! Câu ấy có ư nghĩa giống như “long đa bất giáng vũ” (lắm rồng chẳng tuôn mưa, nhiều săi không ai đóng cửa chùa), chính là lời tỷ dụ của thế tục để châm chọc những kẻ thiếu hợp tác với nhau, chẳng phải là Tăng đoàn thật sự có chuyện như vậy.
* Hỏi: Trở thành “tṛng
mắt” trong kinh điển Phật giáo là ǵ? (Lâm Quốc
Đống hỏi)
Đáp: Tôi không hiểu rơ tôn ư dùng hai chữ “tṛng mắt” như thế nào, Kinh Phật chẳng nói đến tṛng mắt hay chẳng phải là tṛng mắt, có phải là ông muốn hỏi mục đích là ǵ? Nếu đúng như tệ ư đă suy đoán th́ có thể đáp bằng một câu: “Khiến cho chúng sanh ĺa khổ,
được vui”.
* Hỏi: Nếu có tà ma, ngoại đạo khinh rẻ Phật tử, tuy vậy, Phật tử chẳng v́ lẽ đó mà có sân hận hay bị tổn hại, loài tà ma, ngoại đạo ấy tất nhiên mắc tội, Phật tử gặp gỡ chuyện đó, có phải là do nghiệp cảm vời gây ra đó chăng? (Lâm Quốc
Đống hỏi)
Đáp: Kẻ ấy do ngu mê mà làm như thế, hăy nên giữ tấm ḷng thương xót để mềm mỏng khuyến hóa họ.
* Hỏi: Nếu có nữ nhân chán ghét bố mẹ chồng, sai kẻ hầu giết chết, rốt cuộc kẻ hầu giết lầm người chồng, đến nỗi kẻ hầu bị xử tử, người nữ ấy do đang có thai nên được thoát chết, đâm ra phát tâm tin Phật, hằng ngày v́ chồng và kẻ hầu sám hối tội lỗi, thọ tŕ kinh Kim Cang. Người ấy tu hành có phước đức, nhưng do nghiệp lực trói buộc, nên không có công năng tiêu tội, đúng không? (Lâm Quốc
Đống hỏi)
Đáp: Nếu có thể chí tâm, tinh ṛng, chuyên nhất, [tội nghiệp] sẽ chuyển nặng thành nhẹ, có thể tiêu diệt.
* Hỏi: Cổ nhân tạo ra chữ viết với tông chỉ “thúc
đẩy nhân loại hướng đến văn minh, tiến bộ”, v́ thế, phải nên kính tiếc. Quần áo, giày dép, khăn, váy của người hiện thời thường in hay thêu chữ, kẻ thích sử dụng [những thứ ấy] có bị coi là ngă mạn hay không? (Lâm Quốc Đống
hỏi)
Đáp: Đó là cách thức thế gian. Khúc Lễ nói: “Không ǵ chẳng kính”. Văn tự tuy thuộc về giả tướng, nhưng do nó có công năng biểu thị, diễn đạt lời lẽ của thánh nhân, hăy nên kính trọng!
* Hỏi: Trong bài kệ tán Phật có câu “cám mục
trừng thanh tứ đại
hải”, “tứ đại
hải” [trong câu] ấy có phải là nói tới bốn đại châu ở phía ngoài núi Tu Di hay không? (Trại Mạnh
Thu hỏi)
Đáp: Câu ấy bất quá tán thán sự rộng lớn, chớ nên câu nệ t́m ṭi [bốn đại hải] thật sự ở chỗ nào! Phàm là quả núi cao nhất trong một tinh cầu đều có thể gọi là Tu Di, biển cả vây quanh nó đều gọi là “tứ
hải”. Câu hỏi của ông đă nói tới núi Tu Di là trung tâm của một đơn vị thế giới, có thể hiểu “tứ đại
hải” là biển vây quanh bốn phía bốn đại châu, chứ không thể hiểu là nước bao quanh một đại châu được!
*
Hỏi: Chẳng
thể
cúng Phật bằng hoa nở cuối tháng Tám là v́ lẽ nào? (Trại
Mạnh Thu hỏi)
Đáp: Chưa nghe nói thuyết ấy, có lẽ là tục truyền của một vùng nào đó khiến thành ra như thế!
* Hỏi: Theo sách nói, thế giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, chẳng biết núi Tu Di là núi ở chỗ nào? Nếu thế giới đúng như Phật lư đă dạy th́ giải thích sự vận hành của mặt trời, mặt trăng như thế nào? (Hứa
Tái Hưng
hỏi)
Đáp: Tu Di là trung tâm của thế giới, tức là nói tới một đơn vị thế giới. Trong đơn vị thế giới ấy, vây quanh núi là bốn đại tinh cầu, tám trung tinh cầu, mấy vạn tiểu tinh cầu v.v... dưới là đến Không Luân Tế[6], trên là đến Sơ Thiền Thiên đều thuộc về phạm vi của nó. Cuộc đất chúng ta đang sống là một trong bốn đại tinh cầu; v́ thế, biết núi Tu Di chẳng thuộc về cơi này. Kinh Phật bảo mặt trời, mặt trăng xoay quanh núi Tu Di. Nếu hiểu núi ấy không ở trên địa cầu này, sẽ chẳng c̣n có nghi vấn về sự vận hành của mặt trời, mặt trăng nữa. Bởi lẽ, các nhà khoa học bảo địa cầu thuộc về Thái Dương Hệ, kinh Phật bảo địa cầu này (Nam Thiệm Bộ Châu) thuộc về núi Tu Di, tuy mục tiêu trung tâm khác nhau, nhưng Lư và Sự tương thông.
* Hỏi: Sáu thần thông trong Phật lực có chân thật hay không? Hiện thời có bậc cao tăng [có thần thông] như thế hay không? Lại giải thích nguyên do [của thần thông] theo khoa học như thế nào? Có sách vở chuyên môn [giảng giải, chỉ dạy về thần thông] hay không? Liên quan đến Thiền Lư như thế nào? (Hứa
Tái Hưng
hỏi)
Đáp: Đâu phải riêng Phật có thần thông! Những ngoại đạo khác cũng có thần thông, bất quá họ chẳng có Lậu Tận Thông mà thôi! Thần thông có hai loại là do quả báo mà có và do tu mà đạt được. Do tu mà đạt được[thần thông] chính là cảnh giới sau khi đắc Định, nhưng nhà Phật chú trọng Lậu Tận Thông. Nếu chưa đắc loại thần thông này mà biến hiện các thứ thần thông khác, ắt sẽ chiêu cảm các loại ma gây phiền! Hiện thời, chưa chắc đă không có cao nhân, nhưng người có thần thông đa số tiềm dưỡng, ẩn ḿnh, quyết chẳng tỏ lộ. Khoa học chia thành hai hệ thống là tinh thần và vật chất, chỉ có kẻ mê tín vật chất sẽ tự nhiên chẳng hiểu lư!
* Hỏi: Kẻ đồ đệ ngu muội này tuy chưa thể thông hiểu Phật lư, nhưng cũng chuộng tập tành quyền thuật từ bé, do vậy, ḷng hướng về Thiền, có tín tâm cực lớn, [tập Thiền] có phải là chuyện đáng nên làm, đúng pháp hay không? (Hứa Tái Hưng hỏi)
Đáp: Quyền thuật nhằm tu dưỡng thân thể, Phật học (sợ cư sĩ chẳng hiểu Thiền, nên ở đây tôi đổi cách gọi thành Phật học) chính là tu dưỡng tâm tánh, đôi bên chẳng trở ngại nhau.
* Hỏi: Gần đây, báo chí đăng
tải
ở
phương
Nam
có
một
loại
dị
giáo,
chuyên
sử
dụng
thuật
lạ,
những
người
có
khả
năng
trong
giới
Phật
giáo
chúng
ta
hăy nên
điều
tra
đến
tận ngọn nguồn
bọn chúng ḥng giữ cho ḷng dân chánh đáng, chẳng biết thầy có ư kiến như thế nào? (Hứa Tái Hưng hỏi)
Đáp:
Kẻ
sử
dụng
thuật
lạ
đều
là
tà
ma,
ngoại
đạo.
Đây
là
vấn
đề
chính
trị,
chúng
ta
chỉ
có
thể
dùng
lời
lẽ
để
giảng
giải,
trọn
chẳng
có
quyền
can
thiệp.
* Hỏi: Gần đây, tôi đọc bài Sám Hối Văn, có khá nhiều chữ chẳng biết âm đọc ra sao, như Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo “Tích” (積)
Phật, Nhất Thiết Thế Gian “Lạc” (樂) Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật, “đoàn” (摶)
thực, kỹ “nhạc” (樂),
đồ hương, và tán cái, “giảo” (校) kế trù lượng, tổng cộng mười lăm chữ, xin dạy cho biết. (Tông
Đức hỏi)
Đáp: Chữ thứ nhất đọc là Tích (績), chữ thứ hai đọc là Lạc (落), chữ thứ ba đọc là Đoàn (慱), chữ thứ năm đọc là Nhạc (岳), tức là kỹ nữ âm nhạc ca vũ, chữ thứ năm đọc là Giảo (較).
* Hỏi: Trong kinh Di Giáo có nói “nguyệt khả
linh nhiệt,
nhật khả
linh lănh” (có thể khiến mặt trăng thành nóng, có thể khiến mặt trời thành lạnh), nên hiểu ra sao? (Lư Hàm Vinh hỏi)
Đáp: Mặt trời tỏa hơi nóng, mặt trăng tỏa hơi lạnh. Vốn khó thể biến đổi, mà có thể khiến cho chúng đổi cho nhau thành lạnh hay nóng, đấy chính là lời lẽ giả thiết.
* Hỏi: Trước kia, tôi xem nguyệt san Hải Triều Âm thấy nói chư thiên là ma, rốt cuộc là như thế nào? (Lư Hàm Vinh hỏi)
Đáp: Ma có rất nhiều chủng loại, nếu nói là “thiên ma” th́ tức là nói về Ba Tuần trên tầng trời thứ sáu.
* Hỏi: Thuở đức Thế Tôn tại thế, đă xuống cung rồng dưới đáy biển thuyết pháp. Biển là cảnh giới toàn nước, làm sao có thể vào? Đă thế, mấy ngàn đệ tử đều có thể dẫn theo, v́ sao có thể đến đó? Cá, tôm, thủy tộc đều đến nghe pháp, v́ sao có thể nghe? Long vương trong biển có sanh tử luân hồi hay chăng? (Khoan Châu hỏi)
Đáp: Người có Thần Túc Thông sẽ xuyên qua núi chẳng trở ngại, vào biển chẳng chết đuối. Các vị đại đệ tử đều là A La Hán, đều có thần thông, cố nhiên có thể cùng đi. Lời Phật thuyết pháp, có thể phát ra một âm thanh mà khiến cho nhiều loài chúng sanh nghe tiếng đều [cảm thấy] giống như [đức Phật đang sử dụng] tiếng nói của loài ḿnh. Do có sự kỳ diệu ấy, loài thủy tộc cũng đều có thể nghe
pháp.
Kinh dạy: “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết
pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải” (Phật dùng một âm thanh để thuyết pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loại đều hiểu) là nói đến chuyện này. Long vương trong biển cả chưa thoát khỏi lục đạo, tự nhiên bị luân hồi.
* Hỏi: Trong phần thứ mười, tức phần Trang Nghiêm Tịnh Độ của kinh Kim Cang có nói: “Thí
như hữu
nhân, thân như Tu Di sơn vương” (ví như có người thân như núi chúa Tu Di). Trong phần thứ hai mươi bốn là Phước Trí Vô Tỷ lại nói: “Sở
hữu chư Tu Di sơn vương” (tất cả các núi chúa Tu Di). Trong kinh ấy, trước sau hai lượt đều dùng núi chúa Tu Di để tỷ dụ sự to lớn. Lại
nữa,
trong phẩm Bất Tư Nghị của kinh Duy Ma lại nói: “Hữu thế
giới danh Tu Di Tướng, kỳ Phật hiệu
Tu Di Đăng Vương,
kim hiện
tại, bỉ Phật thân trường bát vạn tứ thiên do-tuần” (có thế giới tên là Tu Di Tướng, đức Phật trong ấy hiệu là Tu Di Đăng Vương, nay đang tại thế, vị Phật ấy thân cao tám vạn bốn ngàn do-tuần). Đoạn này cũng có ư nghĩa h́nh dung sự vĩ đại của núi Diệu Cao. Trong kinh A Di Đà, Đông phương thế giới, “Tu
Di Tướng
Phật, Đại
Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật”, lại nữa, Nam phương thế giới “Tu
Di Đăng
Phật”, lại nữa, thượng phương thế giới “Tu
Di Sơn Phật”. Kinh ấy lần lượt nêu ra thánh hiệu của năm vị Phật có chữ Tu Di. Tu Di Đăng Phật trong số ấy và Tu Di Đăng Vương Phật trong kinh Duy Ma có lẽ tương đồng, những vị khác chính là “chư Tu Di sơn vương” được nói trong
kinh Kim Cang đó chăng? Các kinh đă dẫn trên đây đều do ngài La Thập dịch, cớ sao danh xưng hơi sai khác? Tôi tra trong bộ Thực Dụng Phật Học Từ Điển do Hương Cảng Phật Kinh Lưu Thông Xứ ấn hành, chỉ có Tu Di Đăng Vương, chẳng có “chư
Tu Di sơn vương”, chẳng biết là trong các kinh khác, và Phật Học Từ Nguyên v.v... có khác biệt hay không? (Phương
Thư Bưu hỏi)
Đáp: Tu Di Sơn Vương là nói: Núi Diệu Cao là vua trong các quả núi. Chư Tu Di Sơn Vương là nói chung hết thảy các núi Diệu Cao. Hai từ ngữ này đều nói đến núi. “Thế giới
danh Tu Di Tướng”
là nói tên của thế giới ấy là Tu Di Tướng, giống như thế giới này có tên là Sa Bà. Đấy là tên của một thế giới. Những [danh xưng] khác như Tu Di Đăng Vương, Tu Di Tướng Phật v.v... đều là danh hiệu của bao nhiêu vị Phật trong mỗi thế giới, hoặc thêm chữ Đại trước [chữ Tu Di], hoặc thêm chữ Quang, chữ Đăng vào sau đó, chính là chỗ bất đồng của mỗi danh hiệu Phật, giống như tên người tại Trung Quốc, có Triệu Thụ Nhân, Triệu Thụ Nghĩa, Triệu Thụ Lễ v.v... Lại nữa, những danh hiệu như ông vừa nêu trên đây tuy đều có chữ Tu Di, nhưng có ba thứ xưng hô khác nhau là núi, thế giới và Phật Đà, đừng nên lẫn lộn thành một chuyện!
* Hỏi: Trong triều đại gần đây nhất, có quốc vương hoặc hoàng đế thuộc triều đại nào tin tin tưởng Phật giáo chuyên dốc nhất? Tốt nhất là có chứng cứ lịch sử, xin hăy kể một vài vị! (Ngu cư sĩ hỏi)
Đáp: Triều đại gần nhất là nhà Thanh trước kia. Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chánh, Càn Long, không vị nào chẳng tin tưởng chuyên dốc. Bốn vị vua ấy dùng
văn
nghệ để bàn đến Phật lư rất nhiều, nhưng Ung Chánh Ngự Tuyển Ngữ Lục khiến người ta đọc thích thú nhất. Đă nói tới lịch sử, lại chỉ hạn chế trong thời gần đây nhất, phạm vi hạn hẹp, thật sự là trong các đời đế vương Trung Hoa không đời nào chẳng có người tin tưởng, nhưng [những người] được lịch sử [ghi chép] rơ rệt có thể thấy rải rác trong các văn tập, nếu nêu ra đầy đủ sẽ quá rườm rà!
* Hỏi: Lúc tiên phụ c̣n sống, do gia huynh niệm Phật, có ấn tượng rất sâu đối với Phật, nhưng không ăn chay. Một đêm nọ, bỗng mộng thấy đến một ngôi chùa cổ xa lạ, tăng chúng trong đó rất đông đang niệm Phật tại đại điện. Tiên phụ cũng tham gia lễ Phật, xong xuôi, một vị Tăng đưa cho một đĩa
cháo, tiên phụ vừa ăn bèn hết. Sau đấy, từ biệt, quay về nửa đường, bên đường có một cái đ́nh cổ, mười mấy vị Tăng đứng trong ấy, thấy tiên phụ đi đến đều mỉm cười làm lễ. Cha tôi từ biệt, ra đi, chợt nghe một vị Tăng ngâm rằng: “Khoái khoái đầu thỉnh
tu chánh quả, tất
ly khổ
hải kiến
Thế Tôn” (xin hăy mau về tu chánh quả, ắt ĺa biển khổ thấy Thế Tôn), có ư thúc giục cha tôi hăy sớm tu hành. Không lâu sau, cụ liền thức giấc, ghi nhớ thật tường tận. Đến năm Dân Quốc 28 (1939), cha tôi bị bệnh viêm năo qua đời. Gia huynh gởi thư cho thầy là Ấn Quang đại sư, được đại sư thay mặt hướng về Phật hồi hướng hai lần. Với t́nh h́nh như thế, linh hồn cha tôi có thể sanh về Tịnh Độ hay không? (Trác Trung Chấn hỏi)
Đáp: Lệnh tôn có ấn tượng rất sâu đối với Phật, tức là trong tâm có Phật, vừa thấy, vừa nghe, rốt cuộc trở thành “hạt giống đạo”, nhưng chẳng biết b́nh thời có công phu hay không? C̣n như Ấn Quang đại sư đă v́ cha ông hồi hướng hai lượt, đương nhiên là chẳng thể nghĩ bàn! Chỉ có điều lúc ấy đại sư hồi hướng ra sao, chẳng biết t́nh h́nh, nên cũng chẳng dám phán đoán bừa băi, nhưng cụ được siêu thăng chắc chắn chẳng ngờ chi!
* Hỏi: Nếu lúc địa cầu ta đang sống bị hủy hoại, linh tánh trong lục đạo sẽ nương gởi trong cơi nào? (Trần
Minh Triết
hỏi)
Đáp: Một địa cầu là một phần trong tất cả mấy vạn địa cầu thuộc một tam thiên đại thiên thế giới. Một đại thiên thế giới lại là một phần của mấy vạn đại thiên thế giới trọn khắp hư không. Một địa cầu hoại th́ hăy c̣n có vô lượng tinh cầu, lo chi chẳng có chỗ sanh về?
* Hỏi: Học Phật phải tham cứu sâu xa tự tánh vốn có. Nếu ngộ lư, ngộ đạo th́ phải sử dụng phương thức để tự tánh và thần thức bèn hợp thành một khối? (Trần Minh Triết hỏi)
Đáp: Đây là hiểu lầm, nhưng cũng chẳng dễ nói rơ trong vài câu! Ở đây, tôi tạm nói đại khái ḥng ông có chỗ để bắt tay vào nghiên cứu mà thôi. Nói “tự tánh” là nói tới Chân Như bổn tánh, nói “thần thức” là nói tới huyễn vọng do bất giác mà khởi lên, nó chính là vô minh. Kẻ tu hành phải chuyển biến “thức thần”
nhằm
hiển
lộ
bổn
tánh.
Tôi
lại
nêu
một
thí
dụ
để
nói
rơ,
tướng
của
thức
thần
ví
như
gió
thổi
nước
tạo
thành
sóng,
tướng
của
tự
tánh
giống như sóng lặng, gió dứt. Công phu ấy chẳng phải chỉ là ngộ, mà c̣n cần phải chứng.
* Hỏi: Do học tṛ có trách nhiệm gánh vác hội niệm Phật, nhưng thiếu đức, bất tài, chẳng thể khiến cho hội viên ḥa hợp, nhất trí, ngơ hầu ánh quang minh thanh tịnh của Phật giáo được tỏa sáng, chẳng biết phải dùng đức năng nào để tiến hành? (Trần Minh Triết hỏi)
Đáp: Dùng ngôn ngữ để lay động người khác chẳng bằng lấy thân làm gương. Ở đây, tôi xin dâng lên cư sĩ ư kiến vụng dại:
1) Cầu học, phải nhất tâm niệm Phật, nghiên cứu tinh tường, mật thiết.
2) Đối với công việc, phải đích thân làm trước mọi người, nghỉ ngơi sau khi đại chúng đă nghỉ ngơi, chuyện ǵ đáng nên làm bèn làm ngay, đừng đợi đến hôm sau.
3) Đăi người: Đối với hết thảy mọi việc đều bao dung, nhẫn nại, tự khiêm, khen ngợi người khác, thăm hỏi, an ủi tỉ mỉ, b́nh đẳng, chu đáo, chẳng nhớ tới oán cừu cũ, chẳng bỏ một ai.
Làm được như thế, đó chính là đức năng. Ắt phải giữ thường hằng th́ mới sanh ra hiệu quả. Đức là nhân, công là quả, v́ thế kinh Phật nói “công đức”. “Năng” là
tốn công sức, tốn công sức là nhân, Công là quả; v́ thế, người đời nói “công lao”. Nếu “đức” lẫn “lao” đều không có, th́ cũng chẳng có công!
* Hỏi: Hôm trước, tôi ở Liên Xă nghe Trần cư sĩ giảng Phú Na Kỳ Đọa Quỷ Duyên (duyên cớ khiến Phú Na Kỳ đọa vào quỷ đạo)[7], trong ấy, có nói: “Có vị Bích Chi Phật bị bệnh khát rất nặng...” Đă chứng đắc Bích Chi Phật rồi mà vẫn c̣n bị bệnh tật nữa ư? V́ sao chẳng thể hết bệnh được? (Trương Trọng
Nhạc hỏi)
Đáp: Bậc chứng quả đại để chia thành hai loại khác nhau là Hữu Dư Y và Vô Dư Y. Hữu Dư Y là đối với Tam Chướng, tuy đă đoạn hai loại
Hoặc và Nghiệp, vẫn c̣n sót lại sắc thân nương vào khổ báo. V́ thế, cái thân khổ báo ấy vẫn sanh chướng. Cái thân khổ báo ấy đă chấm dứt th́ sẽ chẳng chịu khổ nữa! Nhưng cũng có trường hợp cố ư thị hiện tướng khổ để độ chúng sanh, thí dụ
như đức Thế Tôn [thị hiện] mắc các nạn như bị ngọn thương vàng đâm, nhức đầu v.v...
* Hỏi: Bất luận người nào đến lạc quyên hoặc muốn phóng sanh, mỗi lần tôi đều đóng góp, chỉ là ít hay nhiều mà thôi. Có một lần nghe người ta nói sau khi phóng sanh mà lại sát sanh sẽ chẳng thể tiêu diệt tội nghiệp, ngược
lại c̣n
tăng thêm tội nghiệp. V́ thế, xin hỏi thầy là có nên phóng sanh hay không? (Tệ
nhân hỏi)
Đáp: Phóng sanh có công đức phóng sanh, sát sanh có tội báo sát sanh. Nếu phóng sanh rồi lại sát sanh, bất quá là hứng chịu phần quả báo [do nghiệp sát sanh] ấy, quyết chẳng có lẽ nào ngược ngạo tăng thêm tội nghiệp! Cần phải biết: Sát sanh rồi phóng sanh, vẫn là thiện ác hỗn tạp. Nếu chỉ sát sanh, chẳng phóng sanh, sẽ trở thành kẻ thuần ác. Cư sĩ có thể phóng sanh mà chẳng sát sanh, cố nhiên là tốt lành càng thêm tốt lành hơn. Nếu do hoàn cảnh bèn chẳng thể kiêng giết, hăy phóng sanh nhiều hơn th́ cũng là một cách bổ cứu!
* Hỏi: Hậu học mới quy y Tam Bảo năm ngoái. Trong khi nghiên cứu, [nhận thấy] Phật giáo hiện thời tiến triển là do các vị đại đức, trưởng lăo từ Đại Lục đến Đài Loan tưới tắm, [khiến Phật giáo khởi sắc] như măng mùa Xuân sau cơn mưa. Nếu không, Phật giáo bị ch́m đắm oan uổng, không chỉ [bản thân tôi] chẳng có cơ duyên quy y, mà c̣n có thể hủy báng Phật giáo là “tiêu cực, kư sinh trùng”, há chẳng phải là tội càng thêm tội, nhưng chẳng biết làm thế nào để cảm tạ nhân duyên thù thắng này? (Ông Đức
Ḥa hỏi)
Đáp: Phát Bồ Đề tâm, tinh tấn bất thoái, để cầu ta lẫn người đều thành tựu. Đó là thật sự cảm tạ.
* Hỏi: Theo đại đức nói, tự viện trên núi thích hợp tu hành, tự viện trong thành thị thích hợp độ chúng, hậu học lên tự viện trên núi, họ chẳng bàn tới tu hành Phật pháp, phần nhiều nói về công việc làm ruộng, đẵn củi, gần như chẳng khác ǵ [những kẻ b́nh thường trong] xă hội! Cớ sao người cầm quyền đương thời trong hội Phật giáo chẳng uốn nắn? (Ông Đức
Ḥa hỏi)
Đáp: Có kẻ từ nhỏ ở trên núi chẳng nghe tới Phật pháp, có trường hợp là mật hạnh, nên cũng chẳng thể nhất loạt nh́n họ qua bề ngoài được!
* Hỏi: Căn cứ [trên nhận định] tự viện ở thành thị là đạo tràng thích hợp để độ chúng sanh, hậu học nghĩ người trụ trong các tự viện ở thành thị là hạng tu hành lỗi lạc, nhưng quan sát kỹ, toàn là hạng lợi ḿnh, muốn kiếm tiền! Sao hội Phật giáo Trung Quốc chẳng phái cao tăng đến trụ tŕ để đến nỗi người trong xă hội khinh rẻ vậy? (Ông Đức
Ḥa hỏi)
Đáp: Thành thị đô hội, chùa miếu như rừng, há có nhiều cao tăng để thường
trụ từng ngôi chùa một? Nếu chẳng có cao tăng, lại chẳng cho phép hạng phàm tăng trụ tŕ, ắt chùa Phật chẳng bị kẻ khác chiếm th́ cũng bị suy vi, trở thành chốn cỏ hoang um tùm. Hiện thời, phong tục xă hội tệ bạc, ưa trách lỗi người khác, đành nghe [trách móc] mà thôi. Nếu cầu được bậc chẳng bị người khác coi thường [trụ tŕ trong các ngôi chùa], cố nhiên vị ấy là ánh sáng trong Phật môn, nhưng cũng chưa chắc vị ấy đă là cao tăng!
* Hỏi: Đức Phật nói đại bi b́nh đẳng, hậu học đă đi qua nhiều tự viện, [nhận thấy] họ đối xử với người trên kẻ dưới rất khác nhau. Đối với kẻ nghèo hèn, lời lẽ hằn học, châm chích, giống như đóng cửa từ chối khách, gần như chẳng khác ǵ doanh nghiệp, tiệm buôn, quán trọ. Nói thẳng thừng là thiếu hẳn quan niệm từ bi, b́nh đẳng. Chánh phủ hoặc bậc đại đức trong hội Phật giáo Trung Hoa có biện pháp ǵ để uốn nắn nhằm duy tŕ chân diện mục của Phật giáo trong tương lai hay không? (Ông Đức
Ḥa hỏi)
Đáp: Thời kỳ Mạt Pháp, rồng rắn hỗn tạp, ắt phải có hiện tượng như thế; nhưng một ấp mười nhà, ắt có bậc trung tín, chẳng phải là khắp mọi nơi đều là như vậy. Ngay như trong một chùa, không phải ai nấy cũng đều như thế cả! Đấy là phẩm đức của riêng mỗi cá nhân, luật lệ chánh phủ hoặc quy định của hội Phật giáo Trung Hoa chẳng thể can thiệp được! Ông gặp t́nh cảnh ấy, nếu yêu thương Phật giáo th́ không ǵ bằng kín đáo gởi thư khuyên răn, may ra họ sẽ sửa đổi!
* Hỏi: Ḷng thương xót những kẻ khổ bất giác nẩy sanh tràn trề, nhưng lo cho chính ḿnh c̣n chưa xong, lại c̣n v́ nghèo hèn, đơn bạc, phải tu dưỡng như thế nào th́ mới có thể thương xót, cứu vớt những kẻ khổ sở mà chẳng bị tự lầm, khiến người khác bị lầm lẫn? (Ông Đức
Ḥa hỏi)
Đáp: Thân dẫu tàn bệnh, mắt và lưỡi vẫn chưa sao, trừ tự tu ra, hăy nên đọc nhiều kinh sách nhà Phật để mong khai trí huệ, khuyên người khác niệm Phật cho nhiều, nói nhiều về nhân quả để mong lợi tha, sẽ là thương xót, cứu vớt chúng sanh. Nếu chỉ phát tâm suông mà chẳng thực hành, hoặc chẳng cầu thấu hiểu Phật pháp sâu xa, chẳng nói [giáo pháp] đúng lẽ, sẽ là tự lầm, khiến cho người khác bị lầm lẫn.
* Hỏi: Giáo nghĩa Phật pháp bao hàm toàn diện, chân lư cao hơn hết thảy, cớ sao chúng ta cần phải dùng thần thông để tuyên dương, hiển lộ, đến nỗi người đời hiểu lầm Phật giáo là mê tín? (Hoàng Ḥe Đ́nh
hỏi)
Đáp: Tuyên dương hoặc diễn thuyết Phật pháp, phần nhiều là xiển dương, nêu bày nghĩa lư, tôi hoàn
toàn chưa hề nghe nói có chuyện tuyên bố, khoe khoang thần thông. Chỉ có điều trong kinh có chỗ nào nói đến thần thông th́ cũng phải chiếu kinh văn để tŕnh bày, dẫu có [nói đến thần thông như vậy] th́ cũng chớ nên kiêng kỵ chẳng nhắc tới!
* Hỏi: Duy Tâm Luận trong học thuật thế tục có phải là do Duy Thức Luận trong Phật giáo biến thành hay không? Hai luận thuyết có ǵ khác biệt? Có những điểm đặc trưng nào? (Hoàng Ḥe Đ́nh
hỏi)
Đáp: Duy Tâm Luận cũng chẳng do một người [sáng lập], có phải là từ Duy Thức diễn biến hay không, điều này thuộc về vấn đề khảo cứu, ắt phải tốn công [nghiên cứu] sâu đậm th́ mới có thể nói là có hay không? Tôi chưa hề theo đuổi chuyện này! Bàn đến sự giống nhau và khác nhau của chúng, có thể nói về đại thể th́ giống nhau, chỉ có điều tinh vi hay thô sơ, tương tự hay triệt để sai khác. Như Thực Tại Luận Chi Tâm Quán (A Realistic Theory of Mind) của Bạch Lai (R.B.Perry) và Luận Tâm (Concept of Consciouness) của Hoắc Nhĩ Thoát (Edwin Holt) đều chủ trương “ngoài tâm có cảnh”, nhưng Á Lư Sĩ Đa Đức (Aristotélēs) cũng chủ trương “ngoại cảnh tồn tại”, những [kiến giải] ấy đều là thô sơ, tương tự. Duy Thức chủ trương “ngoài
tâm không có cảnh”; đó là chỗ [sai biệt] đặc trưng của hai phái vậy.
* Hỏi: Chi đầu tiên trong mười hai nhân duyên là Vô Minh, nó là quả của quá khứ, Hành là nhân của quá khứ. Từ trước lúc vô thỉ đă có cái nhân ấy như thế nào? Tôi mờ mịt chẳng hiểu, xin hăy chỉ dạy! (Hoàng
Ḥe Đ́nh
hỏi)
Đáp: Quá khứ, hiện tại, vị lai giáp ṿng không có đầu mối, nên gọi là Vô Thỉ, nhưng thật ra cũng chẳng có xưa, nay, tương lai. Chẳng qua là để nói cho tiện, bèn lấy sát-na ngay trước mặt là “nay”, gọi lúc trước và sau sát-na này là “quá khứ, vị lai”. Truy ngược về trước th́ quá khứ chẳng cùng tận, chỉ có thể nói là “vô thỉ”, dơi đến mai sau th́ vị lai không cùng tận, chỉ có thể nói là “vô chung’. Đó là chân lư vô thỉ vậy! Cư sĩ hỏi “trước khi vô thỉ”, mà vô thỉ có ư nghĩa như vừa được nói trên đây, đă không thể nào t́m được cái khởi đầu, làm sao có cái “trước lúc khởi đầu” cho
được? Ắt phải suy nghĩ cặn kẽ mới ḥng ngộ được. Hai chi đầu của mười hai nhân duyên nói về cái nhân quá khứ, cũng là do dựa trên cái Thức hiện tiền mà giả định “hiện tại”. Đă có hiện tại giả định, nên lúc trước cái hiện tại giả định sẽ được gọi là quá khứ, càng chớ nên câu nệ t́m cầu xa gần ḥng định đoạt quá khứ!
* Hỏi: Muốn tu Lục Độ, có cần phải đọc hết kinh điển thuộc mười hai thể loại trong Tam Tạng hay không? Hay là trong kinh điển chủ yếu của các tông phái đă bao hàm giáo nghĩa Lục Độ? (Hoàng
Ḥe Đ́nh
hỏi)
Đáp: Đạo cầu học là “nghe một phần, hành một phần”. Nhà Phật chú trọng hạnh giải tương ứng, Nho gia xem trọng “ôn cố, tri tân” (ôn cái cũ để biết cái mới). Do vậy, “hễ biết liền hành” tức là hiểu rơ vậy! Lục Độ là giáo nghĩa của toàn bộ Đại Thừa, chẳng phân chia bất luận tông phái nào, [giáo nghĩa ấy] được thấy trong khắp các kinh.
* Hỏi: Đức Thế Tôn phổ độ chúng sanh, chủ trương nhất loạt b́nh đẳng từ bi, khiến cho họ tự tu, tự giác, tự chứng. Cớ sao riêng tu một môn Tịnh Độ th́ lúc lâm chung lại được Phật đến tiếp dẫn? (Hoàng Ḥe Đ́nh hỏi)
Đáp: B́nh đẳng phổ độ là nguyên tắc, c̣n phương pháp dùng để độ và nguyện lực của kẻ được hóa độ th́ mỗi
người mỗi khác. [Chúng sanh nào] nguyện dùng tự lực để thành tựu, [đức Phật] bèn nói phương pháp đoạn Hoặc. [Chúng sanh] nguyện học pháp xuất yếu nhờ vào tha lực, [đức Phật] bèn nói môn tiếp dẫn. [Do vậy], chẳng trái nghịch ư nghĩa b́nh đẳng.
* Hỏi: Có người hỏi về thệ nguyện “chúng
sanh độ
hết mới
chứng Bồ Đề, địa
ngục chưa
rỗng thề
chẳng thành Phật” của Địa Tạng Bồ Tát. Khi địa cầu thuộc thế giới Sa Bà này đến lúc kiếp Không trong Thành Trụ Hoại Không, [chính là] “chúng sanh liền hết, nên địa ngục cũng trống không”, có đúng hay không? Tôi rất không hiểu ư nghĩa trên đây! (Châu
Ấu hỏi)
Đáp: Trong cơi tam thiên đại thiên của thế giới Sa Bà, chẳng biết có bao
nhiêu ngàn vạn địa cầu! Tinh cầu này hoại, tinh cầu khác h́nh thành, giống như bọt nước nổi, tụ tán vô thường, há có lúc nào chấm dứt! Có thế giới liền có tam ác đạo, địa ngục vĩnh viễn chẳng có lúc nào trống rỗng, chúng sanh vĩnh viễn chẳng có lúc nào hết, nên Bồ Tát vĩnh viễn chẳng có duyên thành Phật. V́ thế, nguyện ấy to lớn!
* Hỏi: Sau khi đức Phật diệt độ, [pháp vận được] chia thành bốn thời kỳ là do chính kim khẩu đức Phật đă nói, hay do các vị tổ sư nói. Có phải là chúng sanh thời Diệt Pháp chẳng có Phật pháp để nghe? (Châu Ấu hỏi)
Đáp: Điều này thấy trong khắp các kinh, đương nhiên là do đức Phật nói. Pháp đă diệt th́ làm sao có thể nghe được? Do vậy biết bọn chúng ta sanh nhằm thời này, tuy chẳng gặp Phật, vẫn c̣n có kinh để đọc, có thể nhờ vào Văn Tu mà giải thoát, đúng là hạnh phúc vô lượng.
* Hỏi: Kinh là chân lư do đức Phật nói, dạy con người phương pháp hướng đến giải thoát, nương theo đó tu hành th́ mới hữu ích. V́ sao đọc tụng bèn có thể bạt độ vong linh, tiêu tai, giải ách? Chẳng biết đọc tụng có công đức ǵ? V́ sao các kinh phần nhiều khen ngợi đọc tụng? (Hồng Vinh Bảo hỏi)
Đáp: Tai ách chính là quả báo của ác nghiệp đă tạo bởi thân, miệng, ư. Thành kính tụng kinh có thể thanh tịnh ba nghiệp ấy, nên có thể chuyển biến. Vạn pháp duy tâm, nếu tâm nghĩ đến người đă khuất, sẽ có giao cảm, cũng có thể tiêu nghiệp của người đă khuất. Ấy là v́ cái tâm năng niệm, cảnh được nghĩ, tâm và cảnh như một, khi tâm thanh tịnh th́ cảnh cũng thanh tịnh, nên có thể siêu độ vong linh.
* Hỏi: Chúng xuất gia nam nữ có ǵ khác với kẻ nam người nữ tại gia? (Lô Thục Trân hỏi)
Đáp: Chúng xuất gia phải xa ĺa dục trần, chuyên tâm tu tŕ. Chúng tại gia chưa thoát trần lao, tùy phận tu tŕ.
* Hỏi: Xin hỏi Đại Tạng Kinh bao gồm toàn bộ các pháp do đức Phật đă nói trong bốn mươi chín năm hay chỉ là một phần? (Châu Huệ
Đức hỏi)
Đáp: Kinh Tạng vốn do đức Phật nói, có điều các kinh do đức Phật đă nói trong bốn mươi chín năm rốt cuộc là bao nhiêu bộ vẫn chưa thể nói nhất định. Đối với Đại Tạng của Trung Quốc, bất quá luận định theo các bản dịch tiếng Hán, nghe nói hăy c̣n nhiều kinh chưa được dịch. Dùng điều này để luận đoán th́ có thể nói Tạng Kinh Trung Quốc chỉ là một phần của những ǵ đức Phật đă nói.
* Hỏi: Nghe nói khi tụng kinh Kim Cang, nếu gần đó có trứng đang ấp th́ trứng ấy sẽ tự nhiên chẳng nở, lời ấy có thật hay là không? (Trang Khánh Hiền
hỏi)
Đáp: Lời ấy cũng có lư! Cần phải xét xem người tụng kinh thành kính như thế nào để luận định. Nếu lúc thân Trung Ấm đến đầu thai trong trứng gà mà
được nghe tiếng [tụng] kinh ấy, nhất niệm hoan hỷ, sẽ có thể chuyển nghiệp. Một hạt chủng tử mới mẻ do nghe kinh trong lúc ấy, v́ có sức lực mạnh
mẽ
bèn dấy lên hiện hành, sẽ dẫn [thần thức trong thân Trung Ấm ấy] đi vào đường lành.
* Hỏi: Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội, chân lư nhân sinh và vũ trụ lưu truyền trong thế gian, khiến cho chúng sanh liền có thể thoát ly sanh tử. Chẳng biết vào thời đại trước khi đức Thế Tôn giáng sanh, [trong thế giới này] có Phật pháp hay không? Giả sử có Phật pháp th́ là do đức Phật nào nói? (Vương
Huệ Hương
hỏi)
Đáp: Thế giới vô tận, kiếp vô tận, Phật cũng vô tận. Nếu trước Thích Ca Thế Tôn chẳng có Phật, cớ sao nói Ngài được Nhiên
Đăng Phật thọ kư? Nếu hỏi là pháp nào, hăy nên biết là Phật Phật đạo đồng, Tam Tạng kinh văn như ta đang đọc hiện thời trọn chẳng khác ǵ Tam Tạng của cổ Phật.
* Hỏi: Đức Thế Tôn tại thế, trông thấy một con kiến, nói [trong suốt thời gian] bảy đức Phật [lần lượt] xuất thế, [con kiến ấy vẫn] chưa thoát thân kiến. Bảy vị Phật xuất thế là bao nhiêu năm? (Vương Huệ
Hương hỏi)
Đáp: [Thông thường, thời gian cần thiết để] một vị Phật [tu chứng] thành tựu là ba A-tăng-kỳ, c̣n như thời gian xuất thế cách nhau [giữa hai vị Phật] chưa thấy kinh văn [nói rơ], chỉ biết Di Lặc Phật giáng sanh cách Thích Ca Phật năm mươi sáu ức vạn năm. Lại nữa, Trụ kiếp này do hai mươi tiểu kiếp hợp thành, kinh chép có một ngàn vị Phật xuất thế. Dựa theo đó, [ta biết khoảng cách] xuất thế giữa các vị Phật dường như cũng
chẳng có thời gian nhất định. Giả sử lấy thời gian tối thiểu là năm mươi sáu ức vạn năm để luận, nhân lên bảy đă là ba trăm chín mươi hai ức vạn năm th́ cũng biết thời gian dài bao lâu vậy!
* Hỏi: Đường Ư Tông cúng dường Ngộ Đạt quốc sư bằng cách ban cho ṭa trầm hương, hại quốc sư khởi lên một niệm tâm danh lợi, tổn hại đức trong sạch của bậc cao tăng, đến nỗi đầu gối trái sanh ra ghẻ mặt người. Chẳng biết Ư Tông có phải gánh trách nhiệm tội lỗi hay chăng? (Lại Huệ
Phồn hỏi)
Đáp: Đế vương dùng vật quư báu cúng dường quốc sư là gieo phước điền, có thể dẫn khởi tâm cung kính Tam Bảo của dân chúng, rất có công đức. Quốc sư tham đắm chính là tự ḿnh khởi điên đảo, nếu quở trách là do cúng dường mà [tâm tham đắm ấy] dấy lên, sẽ đoạn tuyệt thiện căn bố thí của chúng sanh; chẳng nghe những chuyện như Phật thấy vàng ṛng bèn tránh, vua Vũ ghét uống chỉ tửu[8] đó sao?
* Hỏi: Quê tôi (Chiết Giang) có đạo tràng niệm Phật gọi là Đường Hội, mỗi năm gặp dịp mồng Ba tháng Ba, mồng Sáu tháng Sáu, mồng Chín tháng Chín, bèn chiêu tập dân chúng phụ cận “quy
trung” (tức quy y). Miếu ấy vốn thuộc về Đạo gia, tín đồ cũng là đạo sĩ, nhưng trong lúc quy trung, sư phụ (tức là cách xưng hô thông thường ở quê tôi, đại khái là “pháp sư”) lớn tiếng tuyên cáo, Tam Quy (tức Phật, Pháp, Tăng) là Chánh, Ngũ Giới (tức giết, trộm, dâm, vọng, uống rượu) là Thanh, đều là Tam Quy Ngũ Giới của nhà Phật. Tín đồ Đạo gia thọ Tam Quy của Phật gia, có sai lầm hay không? Tôi cũng quy trung ở đó, nhưng hiện thời tin Phật, chẳng tin Đạo, xin hăy dạy cho biết có cần phải quy y lại hay không? (Chương Phổ
Minh hỏi)
Đáp: Đạo tràng ở quư địa sợ là ngoại môn nên mới rối ren lung tung như thế. Tiên sinh đă tin Phật, hăy nên nương theo một vị tỳ-kheo Tăng chân chánh, xin quy y Tam Bảo, nhận lănh giới điệp th́ mới đúng pháp!
* Hỏi: Sau khi “quy trung”, tôi hết sức nghiêm túc hành tŕ Tam Quy, Ngũ Giới, nhưng sau khi nhập ngũ, bèn chẳng có cách nào hành tŕ đúng lư, nhất là phá giới ăn chay trước. Sau đó, do ḷng tin chẳng kiên định, lại hoàn toàn giải trừ Tam Quy, Ngũ Giới. Theo lời truyền tụng trong gia đ́nh tôi, nếu ăn chay mà ngă mặn, tam đại, cửu tộc[9], cho đến ông Táo, Quán Âm đều muốn quở tội kẻ ngă mặn! Xin hỏi có thật sự nghiêm trọng như vậy hay không? (Chương
Phổ Minh hỏi)
Đáp: Tự ḿnh tạo tội, tự ḿnh chịu báo! Bất quá, những điều như quê ông đă nói nhằm răn nhắc người học đừng phá giới mà thôi!
* Hỏi: Xét đến tánh chất nghiêm trọng của việc ngă mặn, sau khi đến Đài Loan, tôi lại tŕ trai, nhưng rốt cuộc vẫn chẳng thể đúng lư, chỉ bất quá tận hết tấm ḷng mà thôi! Chẳng biết làm như vậy có hợp lư hay không? (Chương Phổ
Minh hỏi)
Đáp: Ông chưa nói rơ tận tâm đến mức độ nào, chẳng có cách nào giải đáp!
* Hỏi: Tôi vừa mới đọc mục Phật Học Vấn Đáp trong báo Bồ Đề Thụ kỳ bốn mươi bảy, đối với câu hỏi thứ hai của cư sĩ Trần Tâm Nguyện ở Trúc Đông: “V́
sao tại gia cư sĩ chẳng thể thâu nhận đệ tử quy y?” Lăo cư sĩ giải thích là v́ quy y tập đoàn [Tăng chúng], nên kẻ tại gia chẳng thể thâu nhận [đệ tử quy y], nhưng cư sĩ Mật Tông có thể thâu nạp đệ tử quy y! Chiếu theo kinh Vi Diệu Đại Mạn Đồ La và kinh Tô Tất Địa[10], đức Phật đă khuyên dạy, kinh chép: “Y
Kim Cang A Xà Lê giả,
bất luận
tỳ-kheo, ưu bà tắc,
duy tu kiên tŕ Ngũ Giới,
tức khả
sung học
nhân đạo
sư” (Nương tựa Kim Cang A Xà Lê: Bất luận tỳ-kheo hay ưu bà tắc, chỉ cần là người giữ vững Ngũ Giới, sẽ có đủ tư cách làm đạo sư của người khác). C̣n có cư sĩ Thiền Tông cũng thâu nhận đệ tử quy y, nhưng chẳng đặt pháp danh, nói là “làm chứng”. Do vậy, đối với chuyện tại gia cư sĩ có thể thâu nhận đệ tử quy y hay không [vẫn chưa thể nói dứt khoát] (ở đây là nói tới hàng tại gia cư sĩ đă thọ Bồ Tát giới), xin hăy chỉ dạy! (Dương Nhân Tiên hỏi)
Đáp: Chỗ khác nhau về nghi thức giữa hai tông Hiển và Mật rất nhiều. Kẻ hèn này từng học Mật tám năm, do hiểu biết ít ỏi, [nên chỉ luận định theo] sự rơ rệt nhất thuộc bề ngoài là Mật Tông coi trọng Tứ Quy Y (tức là Tam Bảo thêm vào Kim Cang Thượng Sư), lại c̣n thờ Kim Cang Thượng Sư ở phía trên tượng Phật, bất luận tại gia hay xuất gia đều có thể làm Kim Cang Thượng Sư. Đă do Thượng Sư truyền pháp, nên tự nhiên [Thượng
Sư] có thể tiếp nhận kẻ khác quy y. Tăng chúng của Hiển Tông, khởi đầu từ năm vị tỳ-kheo; v́ thế, chỉ có tỳ-kheo được tiếp nhận kẻ khác quy y. Cư sĩ bất luận thọ giới tướng nào [đều chẳng được truyền thọ quy y]. Trước kia, rất hiếm nghe nói tới chuyện hàng cư sĩ có hành vi [trao truyền quy y, thọ giới] này. Cư sĩ Thiền Tông thâu nạp đồ đệ, nhưng chẳng đặt pháp danh, vẫn là dạy học, chẳng phải là quy y. Trộm nghĩ, học Mật th́ theo quy củ của Mật, học Hiển ắt phải tuân theo quy củ của Hiển giáo. Tôi chỉ biết như vậy, nếu có điều ǵ chưa thỏa đáng, xin hăy thưa hỏi các bậc đại đức chuyên nghiên cứu Luật Tông sẽ thỏa đáng hơn!
* Hỏi: Có người khách hỏi nhân dân các nước Tây Dương đa số tin theo Cơ Đốc giáo, sát sanh đặc biệt nặng nề, c̣n mỗi nước ở Á Châu phần nhiều tin thờ đạo Phật, nhất là Trung Quốc đối với giới sát sanh được mọi Phật giáo đồ tuân phụng, ít giết chóc hơn các nước Tây Dương, cớ sao mấy trăm năm gần đây, Trung Quốc binh đao không ngớt? Chuyện này giải thích theo nhân quả báo ứng như thế nào? Tây Dương văn minh, c̣n Trung Quốc lắm nỗi ma kiếp là v́ lẽ nào? (Dương Từ Hy hỏi)
Đáp: Sát sanh tại hai xứ Đông Tây chủng loại nhiều hay ít, số lượng nhiều hay ít chưa được điều tra chánh xác, nên chẳng thể nói đoan quyết ai nhiều, ai ít. Trung Quốc tuy chiến tranh liên tiếp xảy ra, nhưng các cuộc đại chiến đều phát xuất từ Âu Châu, mà cũng thường nghe thấy họ có những cuộc chiến nhỏ, rốt cuộc vùng đất nào tử thương nhiều nhất, cũng phải gộp lại để so sánh, xem xét. Trong số những người mắc nạn v́ chiến tranh ở Trung Quốc, đă có số liệu thống kê mấy người là kẻ kiêng giết, mấy kẻ là phường hiếu sát hay chăng? Đối với những câu hỏi trên đây, nếu chẳng biết rơ [câu trả lời], tất nhiên khó thể luận đoán. Dẫu cho những câu hỏi ấy đều được thống kê th́ c̣n phải biết bốn nghĩa “cộng trung cộng, cộng
trung bất
cộng, bất
cộng trung cộng, bất
cộng trung bất cộng” (cộng nghiệp trong cộng nghiệp, bất cộng nghiệp trong cộng nghiệp, cộng nghiệp trong bất cộng nghiệp, bất cộng nghiệp trong bất cộng nghiệp). Lại c̣n phải biết cái nhân luân hồi khác biệt, không nhất định [sau khi chết] sẽ cùng sanh vào một đường, mà cũng chẳng nhất định phải bó buộc [tái sanh] ở một nơi nào!
* Hỏi: Nếu có một người xuất gia bỗng nhiên gặp phải hổ đói trong rừng thẳm, núi hoang, người xuất gia ấy đem theo vũ khí. Khi đó, có nên cầm súng giết hổ, hay là vứt súng để mặc cho hổ ăn? (Dương Từ Hy hỏi)
Đáp: Mỗi người có nguyện lực riêng. Cho hổ ăn là bậc Đại Thừa Bồ Tát, ḷng đại bi b́nh đẳng vô ngă. Tránh né là trung đạo của bậc thiện nhân. Cầm súng pḥng vệ cũng là lẽ thường t́nh của thường nhân. Nhưng kẻ xuất gia ấy đă cầm
sẵn
súng từ trước th́ chúng ta cần ǵ phải hoạch định phương cách thay cho họ?
* Hỏi: Nếu trông thấy rắn xơi ếch th́ khi ấy ta nên cứu ếch hay để mặc cho rắn ăn nuốt? Nếu giải cứu, ắt rắn ôm nỗi hận, há chẳng phải là tăng thêm một mối oán đối ư? Nếu không, ếch bị rắn nuốt, đó gọi là “thấy chết chẳng cứu”, há chẳng phải là dạy kẻ khác giết chóc ư? (Dương Từ Hy hỏi)
Đáp: Cứu cho khỏi chết là đại từ đại bi. Kết cái nhân gây oán nhằm bố thí vô úy, cứu khỏi chết là lợi tha. Sợ kết oán là lợi ḿnh. Lựa cách nào để theo hay bỏ, xin hăy tự chọn!
* Hỏi: Gần đây tôi thấy các đoàn thể Phật giáo như chùa miếu, hội, xă, chỉ lo sửa chữa, xây cất điện, đường trang nghiêm hay tổ chức pháp hội v.v... coi thường, thờ ơ đối với những sự nghiệp từ thiện trong xă hội như cứu giúp tai nạn, cứu giúp người nghèo v.v... Rất ít đoàn thể Phật giáo xướng suất thực hiện, ngay cả tùy hỷ, vui vẻ giúp đỡ cũng rất ít thấy. Ngược lại, tôi thấy ngoại đạo đối với những thiện sự bèn dốc hết sức lực chẳng sót, đâu đâu cũng vậy. Cố nhiên chùa miếu cần phải tu bổ, xây dựng trang nghiêm, nhưng đang trong lúc phong khí xă hội bất lợi cho tôn giáo của ta, cũng phải nên dành một phần sức lực cho xă hội, vừa sửa đổi phong khí ích kỷ trong xă hội, vừa có thể đề cao tiếng tăm của Phật giáo, lại c̣n có thể dùng đồ bố thí của thí chủ để gieo phước trong xă hội. Do vậy, hậu học kiến nghị từ nay trở đi, nếu gặp những sự nghiệp từ thiện như cứu tai nạn, giúp kẻ nghèo v.v... các đoàn thể Phật giáo chúng ta hăy nên hớn hở, hoan hỷ giúp đỡ, và khuyên lơn hàng thiện tín tùy hỷ, chẳng biết tiên sinh có đồng cảm giống như thế hay chăng? (Vương Diệu
Hoa hỏi)
Đáp: Lời cao luận của ông hết sức đúng, kẻ hèn này rất đồng cảm. Do vậy, Phật giáo đồ Đài Trung đă lập ra Đồ Thư Quán, tiến hành những chuyện công ích từ thiện như thâu thập nuôi dưỡng cô nhi v.v... Nhưng tiến hành [những việc công ích ấy] phải cậy vào kinh tế, nhất là cần phải có nhiều người góp công, góp sức, chỉ có điều là gần đây những người cùng chí hướng ít ỏi, thật đáng than thở! Sau này vẫn nên giữ chí ấy, nỗ lực theo đuổi.
* Hỏi: Đức Phật nói mười phương thế giới vô lượng vô biên, có phải [những thế giới ấy] chính là vô lượng vô biên tinh cầu thuộc các phương trong hư không? Các cơi trời trong tam giới (Dục, Sắc, Vô Sắc) có phải cũng là những tinh cầu hay không? Vô Sắc Giới Thiên vô h́nh vô sắc th́ tinh cầu của họ vẫn có thể thấy được hay không? (Vương Diệu
Hoa hỏi)
Đáp: Thế giới có các loại:
đơn vị, tiểu thiên, trung thiên, đại thiên khác biệt. Chỉ nói tới đơn vị thế giới th́ chắc chắn nó cũng là tổ hợp của bao
nhiêu tinh
cầu. Nơi cư trụ của chúng sanh trong các cơi trời có địa cư và không cư khác biệt, từ Đao Lợi Thiên trở lên đều là không cư.
* Hỏi: Kinh chép bốn đại châu là nơi loài người sanh sống, tụ tập, như Tây Ngưu Hạ Châu v.v... [những châu ấy] có đều thuộc trong phạm vi của địa cầu hay không? Địa ngục ở Đại Thiết Vy Sơn có thuộc địa cầu hay không? Nếu không, rốt cuộc là ở nơi nào? (Vương Diệu
Hoa hỏi)
Đáp: Tứ đại châu là bốn tinh cầu, trọn chẳng phải là bốn đại châu
cùng
ở trong một tinh cầu. Địa ngục có rất nhiều chủng loại, nói đại lược có thể chia thành ba loại: Một là căn bản, hai là cận biên, tức trong các tinh cầu, [các
địa ngục] tụ thành [ngoại biên] bao quanh thế giới, ở khoảng giữa núi Thiết Vy, hoặc trên mặt đất; ba là cô độc, [tức
là] trong núi, rừng, đồng hoang, chỗ nào cũng đều có!
* Hỏi: Nơi trang thứ năm quyển bốn của Long Thư Tịnh Độ Văn có đoạn: “Kính
lễ chư thiên, thiên đế, thiên nhân, mặt
trời, mặt
trăng, tinh tú, Nam Đẩu, Bắc
Đẩu, tư trung, tư mạng, phong sư, vũ sư[11], hết
thảy linh thần chủ
tŕ tạo
hóa, các vị địa
linh kỳ[12], núi to, biển
thẳm, các núi, các chỗ có nước”, v.v... nay đă gọi là đệ tử chánh tín Tam Bảo có nên lạy những vị ấy hay không? (Tĩnh
Tu tinh xá )
Đáp: Ở đây phải phân biệt rơ ràng, “bái” là kính lễ, chẳng phải là tín ngưỡng, quy y. Đệ tử Tam Bảo chẳng quy y ai khác, đă có giới điều chánh thức! Nếu vi phạm sẽ chẳng phải là Phật tử, nhưng từ bi, b́nh đẳng, hăy nên do [ta và họ] có cùng một Thể mà cung kính đối phương.
* Hỏi: Có cuốn sách Ô Khoa Thiền Sư Độ Bạch Thị Lang Hành Cước, trong ấy nói thiền sư Ô Khoa chính là một vị thiền sư ḿnh người đầu chim, thật sự có người ấy hay không? Sách ấy có phải là sách của ngoại đạo hay không? (Tĩnh Tu tinh xá hỏi)
Đáp: Thiền sư Đạo Lâm đời Đường, thường ở núi Tùng Thụ thuộc rặng Tần Vọng, người đương thời gọi Ngài là thiền sư Ô Khoa (ổ quạ), thật sự có vị này; nhưng nói những chuyện quái gở như ḿnh người đầu chim, đều là chuyện bịa đặt của những kẻ quê mùa đó thôi!
* Hỏi: Nơi trang bốn của phần Các Câu Hỏi Tổng Quát (Thông Vấn) trong bản in lần đầu của bộ Phật Học Vấn Đáp Loại Biên có nói “mỗi thế
giới có hai mươi
tám tầng
trời, thế
giới vô lượng” có phải là [chữ “thế giới”] chỉ một tiểu thế giới gồm một mặt trời, mặt trăng, mà cũng là thế giới trên địa cầu hay không? (Vu Tiền Đ́nh
hỏi)
Đáp: Ông nói “tiểu thế giới” tức là nói tới một đơn vị thế giới hoặc là một tiểu thiên, ư hỏi chưa rơ ràng! Nếu nói theo một đơn vị thế giới th́ dưới là tới Không Luân, trên đến cơi Sơ Thiền trong Sắc Giới, trong là từ núi Tu Di, ngoài là đến núi Thiết Vy, tất cả tinh cầu được bao gồm trong ấy, có bốn đại [tinh cầu] lớn, tám trung [tinh cầu] và mấy vạn tiểu [tinh cầu]. Phạm vi ấy được gọi là một đơn vị thế giới (nhưng Tu Di và Thiết Vy cũng là nhằm thuận tiện tính kể mà giả lập). Gộp một ngàn thế giới, phía trên cho đến Nhị Thiền của Sắc Giới, được gọi là một tiểu thiên thế giới. Trong Vấn Đáp Loại Biên đă nói “một thế giới có hai mươi tám tầng trời” là vốn có ư nói đại thiên thế giới nhiều vô lượng, nên nói “đại thiên vô lượng”. Điều ấy rơ ràng chẳng giống với ư trong lời ông hỏi.
* Hỏi: Nam Thiệm Bộ Châu (thế giới Sa Bà) có phải là nói đến địa cầu chúng ta đang sống hay chăng? (Vu
Tiền Đ́nh
hỏi)
Đáp: Tuy Nam Thiệm Bộ Châu chỉ cho quả địa cầu này, nhưng quả địa cầu này chẳng qua là một trong mấy vạn tinh cầu thuộc thế giới Sa Bà. Nam Châu (Nam Thiện Bộ Châu) hoàn toàn chẳng phải là toàn bộ thế giới Sa Bà.
* Hỏi: Có cư sĩ nói Đao Lợi Thiên (Tam Thập Tam Thiên) ở trên ngọn núi cao nằm giữa ranh giới Ấn Độ và Trung Quốc. Có cư sĩ nói trong hư không ở ngoài địa cầu có núi Tu Di, [trời Đao Lợi] ở trên núi ấy. Chỗ nào là đúng? (Vu
Tiền Đ́nh
hỏi)
Đáp: Tu Di (Sumeru) có nghĩa là Diệu Cao, chẳng phải là tên riêng của một ngọn núi, phàm núi cao nhất trong một chỗ đều có thể gọi [là Diệu Cao]. Thuyết trước coi núi Hỷ Mă Lạp Nhă là trung tâm của một đơn vị thế giới. Nếu là như vậy th́ lănh thổ Trung Quốc ở phía Đông Bắc núi ấy, làm sao có thể gọi là Nam Châu? Kẻ hèn này chỉ biết như vậy, cho nên tạm hùa theo thuyết sau.
* Hỏi: Trong kinh Di Đà, phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phía dưới, phía trên đều có cơi Phật, nhưng chẳng có cơi Phật ở chính giữa. Tam thiên đại thiên thế giới mà chúng ta đang trụ đây có phải là cơi Phật ở trung ương hay chăng? (Vu
Tiền Đ́nh
hỏi)
Đáp: Bốn phương, trên, dưới, há có nhất định! Như chúng ta sống ở Đài Loan bèn gọi Trung Quốc Đại Lục là Tây, nhưng người sống ở Âu Mỹ lại gọi Trung Quốc Đại Lục là Đông. Nói “sáu
phương”, tức
là bất quá coi chỗ ta đang ở là trung tâm, là lời lẽ giả thiết mà thôi! Kinh Di Đà được nói ở cơi này nên cơi này được gọi là “phương giữa”.
* Hỏi: Theo sách Nhị Khóa Hiệp Giải, ở lưng chừng núi Tu Di có một cặp mặt trời, mặt trăng, đó có phải là mặt trời và mặt trăng được thấy bởi nhục nhăn của chúng ta hay chăng? Hay là có mặt trời, mặt trăng khác chiếu soi địa cầu chúng ta đang cư trụ? (Vu Tiền
Đ́nh hỏi)
Đáp: Vô lượng thế giới vốn có vô lượng nhật nguyệt. Theo các nhà thiên văn gần đây đă trắc nghiệm, trong thế giới này cũng chẳng phải là chỉ có một vầng thái dương, chẳng qua là quá xa, nhục nhăn không trông thấy. Ngoài thế giới này, lại có nhật, nguyệt khác, có ǵ đáng kể là lạ? Chỉ v́ chúng ta sống ở nơi đây, đối với mặt trời và mặt trăng thấy bằng mắt thịt, chỉ có thể nói là nó xoay quanh núi Tu Di trong cơi này mà thôi!
* Hỏi: Giải thích câu “bạch hào uyển chuyển
ngũ Tu Di” trong bài kệ tán Phật như thế nào? (Hà Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Khoảng giữa hai lông mày đức Phật có một sợi lông trắng [đó là bạch hào], “uyển chuyển” nghĩa là xoay quanh, [tướng bạch hào ấy] to lớn như năm ṭa núi Diệu Cao.
* Hỏi: Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh nói đến Tam Thập Tam Thiên, ư nghĩa là ǵ? (Hà Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Đó là tầng trời thứ hai trong Dục Giới, xếp theo chiều ngang có ba mươi ba đơn vị, ba mươi ba vị Thiên Đế làm chúa cơi ấy, giống như thiên tử và chư hầu tại Trung Quốc vào thời cổ, cho nên có tên gọi ấy.
* Hỏi: Ở tỉnh này (Đài Loan), có loại rau Kiệu (藠) trong Ngũ Huân Thái[13] hay không? Nó có tên gọi là ǵ? (Hà Vĩnh
Đinh hỏi)
Đáp: Tỉnh này có, tục gọi là Độc Đầu Toán, tên khoa học là Giới (薤, kiệu).
* Hỏi: Đốt thần y, linh ốc, hồn kiệu, tiền văng sanh, tiền thần thọ sanh, gởi kho, đăng tọa[14], vàng, bạc, tiền giấy v.v.... thật ra do giáo nào đề xướng, có thể bỏ đi hay không? (Hà Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Chẳng do Phật giáo đề xướng, Phật tử chẳng cần những thứ ấy!
* Hỏi: Dầu gan cá thuộc loại đồ mặn, người ăn chay trường do mắt bị hoa một chút, chẳng biết có thể dùng được hay không? (Tạ Trí Nguyên hỏi)
Đáp: Nguyên nhân khiến mắt bị bệnh rất nhiều, dầu gan cá chưa chắc đă thích hợp. Hơn nữa, trong ḷng lại nghi ngờ, chẳng thà t́m loại thuốc khác! Nếu nói phương
tiện,
so
giữa
dầu
ấy
và
năm
thứ
tịnh nhục th́ nó vẫn là dược phẩm. Khi bị bệnh, cần đến nó th́ cũng có thể dung thông mà dùng!
* Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát ăn chay, những kẻ b́nh phàm thường dùng gà hay thịt để kính dâng Bồ Tát, có sao không? Có bị tội ác hay không? Có phải là phạm lỗi đối với Bồ Tát hay không? (Hoàng Thiên Tống
hỏi)
Đáp: Quán Âm đại từ đại bi thấy chúng sanh trong lục đạo đều giống như con ruột. Sát sanh là đă trái nghịch tâm Quán Âm, tự nhiên là phạm lỗi. Nếu sát sanh chẳng phải là tội ác th́ phóng sanh sẽ là tội ác vậy!
* Hỏi: “Phật pháp tại thế
gian, chẳng
ĺa thế
gian giác”. Ư nghĩa của câu ấy có phải là người học Phật phải cầu học vấn thế gian sâu xa hay không? Nhưng tâm học Phật quư ở chỗ chuyên nhất, nhắm đến tông chỉ “trừ vọng”; nếu cầu t́m học vấn thế gian sâu xa, há chẳng phải là khiến cho cái tâm bị tạp loạn, như vậy th́ làm sao có thể học Phật cho được? Điều này khiến cho tôi có cả một khối nghi t́nh, chẳng có cách nào biết được chỗ mầu nhiệm! (Chương Bá Sanh hỏi)
Đáp: Hết thảy các pháp đều là Phật pháp, như các pháp ngũ dục, lục trần, nhiễm là mê, ĺa là giác. Dục và trần vốn ở trong thế gian, ắt phải đối với chỗ mê mới có thể nói đến giác. Hai câu ấy có ư nghĩa đại
để
như sau: Con người nương vào thế gian, cố nhiên phải nên hiểu rơ
pháp
thế gian. Nếu hiểu [hai câu ấy có nghĩa là] “cầu t́m học vấn thế gian sâu xa” tức là đă hiểu lầm mất rồi!
* Hỏi: Các nước Tích Lan, Tiêm La (Thái Lan) và Miến Điện là những quốc gia Phật giáo phát triển nhất, v́ sao văn hóa của họ trọn chẳng cao siêu? Mà vận nước [của họ] trọn chẳng hưng thịnh? (Hoàng Quán Trung hỏi)
Đáp: Các nước Tích Lan, Thái, Miến đều hành Tiểu Thừa Phật pháp, chẳng thể xưng là phát triển nhất. Chuyện này hăy tạm thời để đó chẳng bàn tới. C̣n nói tới chuyện quốc gia hưng vượng
hay
suy vong thuộc về vấn đề chánh trị, chẳng thể trách móc Phật pháp. Ví như Trung Quốc trước đây tôn sùng học thuật Nho giáo, các đời v́ đó mà có lúc hưng thịnh, có lúc
suy vong. Nếu bảo do Nho mà hưng thịnh, ắt chẳng nên suy vong. Bảo là do Nho mà suy vong; ắt chẳng nên hưng thịnh. Lương Vũ Đế sùng mộ Phật pháp, nhưng vận nước chẳng lâu bền[15]; Đường Thái Tông sùng mộ Phật pháp, oai đức khuất phục Tứ Di, phân định thị phi như thế nào đây? Nhật Bản sùng tín Phật pháp, xưng hùng trên thế giới mấy đời. Phi Châu chẳng nghe Phật pháp, cứ ch́m đắm là thuộc địa của bọn thực dân măi cho đến hiện thời. Đối với điều này, lại phải nên nh́n toàn diện, chớ nên nh́n lệch lạc một khía cạnh. Lại nói tới văn hóa th́ vấn đề này cũng phức tạp, luân lư, vật chất, triết học, nghệ thuật v.v... đều là văn hóa; chẳng thể do một mặt mà mạt sát hết thảy, càng chớ nên chủ quan chạy theo trào lưu hiện thời! Như nước Mỹ chê bai Trung Quốc cày ruộng bằng trâu là thiếu khoa học, nhưng Trung Quốc cũng chê cười nam nữ Âu Mỹ ôm nhau hôn hít là thiếu luân lư. Hai chuyện này đều thuộc về văn hóa, có lẽ nên phân biệt để phê b́nh, chẳng thể gộp chung lại để nói được!
* Hỏi: Núi Tu Di trong kinh Phật có ư nghĩa như thế nào? (Châu Ấu hỏi)
Đáp: Tu Di Sơn nghĩa là Diệu Cao, trọn chẳng phải là tên riêng của một quả núi. Giả sử vạch một giới tuyến, quả núi cao nhất trong ranh giới ấy có thể gọi là Tu Di. C̣n như núi Tu Di thường được kinh nhắc tới phần nhiều chính là ngọn núi cao nhất trong đại thiên thế giới, nhưng đại thiên vô lượng vô biên, nên Tu Di cũng giống như thế.
* Hỏi: Diệu pháp và diệu lư có ǵ sai biệt? Xin hăy giải thích ư nghĩa của chữ Diệu! (Châu Ấu hỏi)
Đáp: Đối với một chữ Diệu (妙), Trí Giả đại sư thuộc tông Pháp Hoa Trung Quốc đă giảng suốt chín mươi ngày mà vẫn chưa hết. Ở đây chỉ có thể nói đại khái, nhờ vào một cái vằn mà có thể nghĩ tới toàn bộ con báo. Chữ ấy tượng trưng cho sự tinh vi, sâu xa, không ǵ sánh bằng, lại c̣n là chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn!
* Hỏi: Siêu độ cha mẹ, nên niệm kinh nào? Quê tôi có tập tục niệm kinh Cứu Khổ và kinh Huyết Bồn, có nên hay không? Cá nhân ở chỗ hoang vắng, thanh tịnh để niệm kinh siêu độ th́ có được hay không? (Trương Xuân Huyên hỏi)
Đáp: Các kinh như Cứu Khổ, Huyết Bồn v.v... đều chẳng phải là kinh Phật chân chánh, kẻ tín phụng phần nhiều là hạng thiếu chánh tri kiến. Nếu muốn siêu độ ḥng trọn hết ḷng hiếu, dùng kinh Di Đà là tốt nhất.
* Hỏi: Trong Phật Học Vấn Đáp tập thứ nhất, bản cũ, Lư lăo tiên sinh khi trả lời câu hỏi của cư sĩ Trần Chí Nghiệp “sao
chẳng hướng dẫn người đời ai nấy đều đi tham quan luân hồi” đă nói: “Chết kia, sanh đây,
chính là thần thức
bồng bềnh,
trôi nổi,
chẳng dễ hướng dẫn
họ tham quan”. Vậy th́ v́ sao đức Thích Tôn lại có thể hướng dẫn em Ngài là Nan Đà tham quan thiên đ́nh và địa ngục? Lại nữa, trong pháp môn Tịnh Độ, v́ sao nói Phật có thể đích thân đến tiếp dẫn? (Trương Xuân Huyên hỏi)
Đáp: Thích Tôn có thần thông rộng lớn, v́ thế có thể dẫn Nan Đà tham quan địa ngục. Nếu cư sĩ gặp người có thần thông, cũng có thể được hướng dẫn dạo khắp trời đất. Phật Di Đà cũng có thần thông, khi cư sĩ niệm Phật đến mức nhất tâm cảm ứng, Phật sẽ đích thân đến tiếp dẫn.
* Hỏi: Kính thần (các vị thần như Ngọc Hoàng v.v...) có thể đốt các loại tiền bạc như thiên kim, thọ kim[16] v.v... hay không? Cúng giỗ tổ tiên có nên đốt vàng, bạc, tiền giấy hay không? Thật sự có ích hay chăng? Lại nữa, theo Thông Thư[17] ghi chép, hết thảy các sự như truyền pháp trong nhà Phật, vẽ tượng thần hay Phật, khai quang, an tọa (an vị) v.v... đều phải chọn ngày tốt, có phải là mê tín hay không? Phật giáo đồ làm hết thảy các sự như cưới gả, sửa nhà, xây bếp v.v... có cần phải chọn ngày tốt hay không? (Hà Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Những điều ấy đều là tục lệ thế gian, chẳng dính dáng ǵ đến tông chỉ rộng lớn của Phật giáo. Lúc mới học, chánh trí chưa sanh Căn và Lực, tạm thời tuân theo thói tục cũng chẳng trở ngại ǵ. Nếu muốn trừ khử, hăy dùng cách cúng dường trong Phật pháp th́ lợi ích sẽ càng lớn hơn.
* Hỏi: Theo sách Tánh Lư Đề Thích ghi chép th́ Thượng Đế là vị Phật tối cao, đúng không? Họ nói là thần th́ làm sao có thể sanh ra Phật được? (Hà
Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Tôi chưa từng ngó tới sách ấy, dựa theo điều vừa hỏi, chắc chắn là bọn ngoại đạo vô tri, mù quáng bịa đặt. Nếu gặp sách ấy, hăy nên giao cho nước, lửa, ḥng khỏi giết chết huệ mạng của chúng sanh!
* Hỏi: Toàn bộ kinh sách Phật giáo vẫn c̣n tồn tại ư? Trung Quốc có bao nhiêu trường Phật giáo, mỗi tỉnh có bao nhiêu trường? (Hà
Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Kinh ở Tây Độ[18] th́ tôi không biết, chứ những kinh đă được dịch ở Đông Độ th́ cũng có một số ít bị thất lạc. Trọn chẳng phải là mỗi tỉnh đều có trường Phật giáo!
* Hỏi: Bất luận dùng món chay hay mặn để kính thần, thần có đến hưởng hay không? (Hà Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Tâm thành có cảm, thần mới đến hưởng. Nếu không, [chỉ là] h́nh thức mà thôi! Nhưng dùng huyết thực để kính thần, sẽ tăng thêm sát nghiệp cho thần, đó là do kính trọng mà ngược ngạo làm hại đến thần vậy!
* Hỏi: Tôi mộng đến một chỗ thanh nhă, có một cái thất giống như pḥng
học
trong nhà trường, cả đống người ngồi kín mít lắng nghe một người giảng diễn. Tôi v́ thăm ḍ xem họ đang giảng diễn điều ǵ, bèn thong thả đến gần cửa sổ, gió nhẹ lùa qua đúng là sảng khoái, và được nghe người giảng nói hai câu “tam
bạt la, tam bạt
la”, bèn đại ngộ là đang giảng kinh, càng nẩy sanh ư niệm muốn bước vào trong để nghe, bước đến bên cửa bèn tỉnh giấc. Chẳng biết giấc mộng ấy là cát hay hung? Tam Bạt La[19] nghĩa là ǵ? Kính xin hăy khai thị. (Ngộ Tông hỏi)
Đáp: Đó là tiếng Phạn, có nghĩa là hộ tŕ giới pháp trong tiếng Hán. Người học Phật giữ giới th́ cát, phá giới là hung. Luật nghi như thế, chẳng cần phải hỏi các cảnh mộng!
* Hỏi: Lúc đức Phật tại thế, Ngài giảng Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh ở chỗ nào, tại Kỳ Viên Tinh Xá, Trúc Lâm Tinh Xá, hay ở nơi khác? Kinh ấy do vị pháp sư nào dịch? (Tĩnh Tu tinh xá hỏi)
Đáp: Người dịch Tâm Kinh khá nhiều, hiện thời c̣n giữ được bảy bản[20]. Do [liệt kê] tên người dịch sẽ rườm rà nên chẳng nêu trọn. Bản được lưu thông là bản của pháp sư Huyền Trang đời Đường. Trong bảy bản ấy, hễ liệt kê địa danh đều chép là [kinh được nói tại] núi Linh Thứu thành Vương Xá.
* Hỏi: Ḍng thứ năm trang tám mươi hai sách Giáo Chủ Truyện do pháp sư Tinh Vân biên soạn có viết: “Vua
Đại Chiêu Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt Đà”, câu Đại Chiêu ấy có ư nghĩa ǵ? Trang ba trăm tám mươi lăm thuộc quyển thượng bộ Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo có chú giải chữ Đại Chiêu, tôi biết đại lược là “lầu cao”, hoặc Phật điện, ở đây nên giải thích như thế nào? (Tĩnh Tu tinh xá hỏi)
Đáp: Pháp sư tham khảo rất nhiều sách, hăy nên hỏi thẳng Ngài, kẻ hèn này chẳng biết phạm vi xuất xứ của
từ ngữ ấy.
* Hỏi: Các màu và [một dải màu bao gồm các] màu sắc gộp chung trong cờ của hội Phật giáo thế giới nhằm biểu hiện ư nghĩa ǵ trong Phật giáo? (Tĩnh Tu tinh xá hỏi)
Đáp: Kẻ hèn này từng gởi thư hỏi ngoại quốc, những lời đáp của họ đều chẳng tường tận, cho nên không có cách nào đáp lời được!
* Hỏi: Phật lịch năm 2500 là tính từ lúc giáo chủ đản sanh hay tính từ ngày Ngài nhập Niết Bàn? Chiếu theo ḍng thứ tám trong lời tựa cuốn Giáo Chủ Truyện do pháp sư Tinh Vân biên soạn th́ là tính từ lúc Phật nhập Niết Bàn, nhưng báo chí và tạp chí Phật giáo lại tính từ năm [đức
Phật] đản sanh, ai đúng, ai sai? (Tĩnh
Tu tinh xá hỏi)
Đáp: Vấn đề này cho đến hiện thời vẫn c̣n đang tranh căi, chưa thể quyết đoán, ai nấy tự cho là đúng. Nếu tôi có nói ǵ th́ cũng bất quá là có thêm một kẻ góp phần tranh chấp mà thôi!
* Hỏi: Ḥa thượng Nhật Bản có thể lấy vợ, nuôi con. Trong thời đại Nhật chiếm đóng Đài Loan, tại gia cư sĩ Đài
Loan có thể thâu nhận đệ tử quy y. Cớ sao hiện thời chúng ta chẳng được phép? (Trần
Tâm Nguyện
hỏi)
Đáp: Tôi chẳng biết chuyện ấy, chẳng biết th́ làm sao nói được!
* Hỏi: Ở nơi không có Tăng Bảo, muốn “nhập Phật” phải nên làm như thế nào? (Cần có kinh luận để làm căn cứ) (Trần Tâm Nguyện hỏi)
Đáp: Ư nghĩa của câu thứ
hai [trong lời hỏi] chẳng rơ ràng. Đại khái [“nhập Phật”] là “thông hiểu ư Phật” đó
chăng? Hiện thời giao thông tiện lợi, có thể đến [chỗ pháp sư] để cầu. Nếu không, cũng có thể viết thư để khẩn cầu!
* Hỏi: Thâu nhận đệ tử quy y và thâu nhận học tṛ ([ở đây] là nói đến người học Phật tại gia) có ǵ khác nhau? (Trần
Tâm Nguyện
hỏi)
Đáp: Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo nhất thể. Trước kia, tôi đă nói, khi quy y Tăng, ắt phải quy y nhất thể. Tăng là người thay mặt Phật nhiếp thọ chúng sanh. Do Phật là tam đức viên măn, nên Phật bất sanh bất diệt. Quy là gieo vào, gởi gắm, Y là nương tựa, tức là chúng sanh nương cậy Phật Đà th́ mới có thể liễu sanh thoát tử. Trừ Phật - Pháp - Tăng, ai có thể kham làm chỗ quy y cho chúng sanh? Đại sự như vậy, há có thể làm càn? Nếu dùng Phật học để dạy người khác, thâu nhận mấy đứa học tṛ, th́ chẳng hạn cuộc xuất gia hay tại gia, đều có thể làm được!
* Hỏi: Hoàng đế Thuận Trị du ngoạn Giang Nam, lúc qua biển chợt gặp sóng gió dữ dội, thuyền sắp ch́m. Ḥa thượng Ngọc Lâm biết là long vương bốn biển đến chầu, bảo vua viết hai chữ “miễn triều” cột ở đầu thuyền, sóng gió liền dứt. Chuyện ấy có thật hay không? (Huệ Hương
hỏi)
Đáp: Những chuyện như vậy phần nhiều phát xuất từ bút kư, dă sử, có lúc là cố ư khoe khoang sự thần kỳ, nhưng chánh sử và chánh truyện chẳng ghi chép những chuyện như vậy. Có thật hay không chẳng dính dáng đến tông chỉ to lớn [của
Phật pháp]! Kẻ nói th́ cứ nói,
kẻ tin th́ cứ tin, thế là được rồi!
* Hỏi: Thầy thường nói mỗi vị Phật giáng sanh trong thế giới hóa độ chúng sanh ắt phải cần đến ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, nhưng vị Phật gần đây nhất trong thế giới Sa Bà là Thích Ca Mâu Ni Phật đến nay chỉ hơn hai ngàn năm, đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật cũng cần phải đợi ba đại
A-tăng-kỳ kiếp mới có thể giáng sanh trong Long Hoa Tam Hội đó chăng? Do ư nghĩa ǵ vậy? (Huệ Hương
hỏi)
Đáp: Kẻ hèn này chưa hề nói như vậy, chỉ nói “từ hạng phàm phu sát đất cho đến khi thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp”. Ngài Di Lặc hạ sanh trong nhân gian lúc bốn ngàn tuổi [tính theo thọ mạng trên cơi trời Đâu Suất], tức là năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm theo năm tháng trong nhân gian. Dưới cội Long Hoa, Ngài ba lượt mở pháp hội, rộng độ các căn cơ, cho nên gọi là Tam Hội.
* Hỏi: Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện “địa ngục
chưa trống
không, thề
chẳng thành Phật”, nhưng chúng sanh khổ năo trong địa ngục dùng phương pháp ǵ để có thể cầu Bồ Tát độ thoát? (Huệ Hương
hỏi)
Đáp: Bồ Tát đại từ, đại bi, đại nguyện, tự vào địa ngục cứu vớt, chẳng đợi họ cầu!
* Hỏi: Có người nói “tu tiên cũng là lạy Phật”, đúng hay không? (Hà Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Cũng có lúc [kẻ tu tiên] lạy Phật, nhưng lạy và học là hai chuyện khác nhau!
* Hỏi: Có người nói: “Ông học Phật, ăn chay, chẳng mua thịt, giết gà để cúng bái thổ địa, nên vận khí chẳng tốt đẹp”, nên trả lời như thế nào? (Hà Vĩnh
Đinh hỏi)
Đáp: [Nếu bảo] Thổ Địa do chẳng được ăn thịt bèn thay đổi mạng vận của ông, vậy th́ do ông sát sanh, thần hộ pháp Kim Cang trong Phật giáo bèn chẳng thể thay đổi vận mạng của ông hay sao? Đây là vấn đề từ bi, chỉ nên hỏi chính ḿnh có chịu làm hay không, người mới học chẳng cần phải tranh căi với họ.
* Hỏi: Hai chữ Nam Mô có lúc c̣n đọc là Nam Vô, đọc như thế có tội hay không? (Hà Vĩnh
Đinh hỏi)
Đáp: Ư chẳng khinh mạn th́ có tội ǵ? Điều này cần phải do người được kẻ ấy tin
tưởng [đến bảo ban kẻ ấy] sửa
đổi [âm đọc] cho đúng mà thôi!
* Hỏi: Có một gă đồ tể thông minh nói: “Ông ăn chay càng mau chết, Phật giáo tuyệt đối là mê tín, há có thần quỷ ǵ đâu! Kính thần, cúng tế tổ tiên bất quá là kỷ niệm mà thôi! Bàn Cổ[21] tách trời vạch đất, và những chuyện được chép trong quốc sử, tiểu thuyết ông đă đọc rồi chứ ǵ? Bất cứ chuyện kiếm hiệp lạ lùng nào tôi hoàn toàn chẳng tin, chắc chắn là do cổ nhân thông minh đă biên soạn ra để đùa bỡn, tôi trọn chẳng tin con người có thần thức. Thuở ấy, Ấn Độ muốn thuyết phục hết thảy nên dùng kinh Phật để áp chế toàn thế giới, văn hóa của họ hay đẹp, mọi người khâm phục, coi họ là Phật. Ví như người phát minh ra tàu hỏa, mọi người đều sùng phụng kẻ ấy là thánh nhân. Nước Trung Hoa yếu hèn v́ chịu ảnh hưởng rất lớn từ Phật giáo, tin vào bất cứ loại quỷ thần nào đến nỗi khoa học lạc hậu. Nước ta văn tự quá nhiều, muốn cho nước ta cường thịnh, cần phải dẹp bỏ toàn bộ văn tự đang có, sáng chế một loại chữ mới rất ít chữ th́ mới có thể phát triển khoa học. Những sách vở, tiểu thuyết nước ta được truyền lại đều do những kẻ thông minh thuở trước gạt người, hoàn toàn vô ích đối với khoa học!” (Hà Vĩnh
Đinh hỏi)
Đáp: Ông tán dương kẻ ấy là thông minh là nói kẻ ấy có thể bài xích Phật, lại c̣n muốn phế trừ văn tự Trung Quốc, hay là sùng bái khoa học, muốn sáng tạo một loại văn tự mới, làm một bậc thánh nhân mới? Tôi cũng tán dương kẻ ấy là thông minh, nhưng ư nghĩa chẳng giống như cư sĩ. Nếu ông ta tán thành mọi người ăn chay, thử hỏi lợn ông ta giết sẽ bán cho ai ăn? Ai nấy đều có tự do, chẳng ngại kẻ tin Phật tuân theo lời Phật dạy, kẻ tin tưởng phường đồ tể tin lời đồ tể nói, đôi bên chẳng tranh chấp là được rồi!
* Hỏi: Đức Phật Thích Ca thành Phật khi nào? (Hà Vĩnh
Đinh hỏi)
Đáp: Nói theo sự hóa thân lần này th́ do c̣n tranh luận chưa dứt khoát, [có thể tạm thời nói] là khoảng hai ngàn năm trăm trước. Nói theo bổn địa, sẽ là từ vô lượng trần điểm kiếp trước, Ngài đă thành Phật. Đấy là điều được dạy trong phẩm Như Lai Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa.
* Hỏi: Ngoại đạo nói vạn vật đều do thần tạo ra, đạo Phật ta nói hết thảy các pháp đều từ duyên khởi, nhưng nếu một thế giới lúc mới thành lập (nếu lấy con người để nói), lúc ấy đă không có sở duyên phụ mẫu (phụ mẫu làm cái duyên để sanh ra con cái) th́ làm sao có thể sanh ra chúng sanh? Nếu nói vào lúc kiếp sơ, chúng sanh từ trời Quang Âm đến, hoặc do hóa sanh mà có, v́ sao hiện thời lại chưa nghe nói chỗ nào đó bỗng có một người từ trên không trung rớt xuống, hoặc trên mặt đất bỗng sanh ra một người? Điều này giống như nói người thời thượng cổ do vượn và khỉ tiến hóa thành, hiện thời chẳng có! Điều này khiến cho người ta chẳng hiểu, cố nhiên người học Phật coi trọng “minh
tâm kiến tánh”, nhưng điều này cũng là một trong những tri kiến của Phật, nếu bị người khác hỏi đến mà tránh né chẳng đáp, hoặc đáp mà chẳng trọn hết lư, há có thể khiến cho người khác tăng ḷng tin tưởng hay chăng? (Hồ
Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Chân Như bản tánh vô thỉ vô chung, pháp vốn là như vậy, chẳng cần đến tạo tác. Do khuất lấp nên gọi là A Lại Da Thức; đó chính là Thân Nhân Duyên của tam giới chúng sanh. Lại hợp với các duyên như Duyên Sở, Tăng Thượng, Vô Gián, liền biến thành chúng sanh trong Vô Sắc Giới. Tiếng Phạn gọi thức ấy là Chất Đa (Citta), có thể biến ra chủng tử của căn thân và khí giới, nên có thể hiện tướng của chúng sanh trong Sắc Giới. Nhưng sự biến huyễn ấy ngày càng phức tạp hơn, chủng tử bèn dấy lên hiện hành, hiện hành huân tập chủng tử, mê vọng lần lượt tăng lên, bèn hiện tướng chúng sanh trong năm đường thuộc Dục Giới. Nói con người từ trời Quang Âm đến cơi này là nói tỉnh lược quyền biến cho gọn. Nhưng bất cứ huyễn tướng nào của chúng sanh cũng đều là ngẫu nhiên, giống như mỗi giấc mộng hiện ra một
chuyện, chẳng thể nào vạn giấc mộng đều là cùng một sự. Chỉ là chúng sanh được sanh ra, mỗi loài đều có năng lực sanh sản, từ đấy, sự giao cảm càng nhiều, không ǵ chẳng phải là cơ duyên tạo thành h́nh tướng trong tứ sanh lục đạo. Nghiệp lực dẫn dắt thần thức đi đầu thai, như nước dồn xuống chỗ trũng, các pháp huyễn hiện trước đó bị chúng đoạt mất. Đây cũng là nhằm khiến cho kẻ ngoài ŕa dễ hiểu mà lập ra cách nói quyền biến này, chứ thật ra từ ngữ “duyên
sanh” lời lẽ đơn giản, nhưng ư nghĩa bao trùm, không kinh luận nào chẳng lấy nó làm chủ. Nếu nói đến khởi đầu, sẽ mâu thuẫn với duyên sanh, ư nghĩa chẳng thể thông. Đối với nghĩa “như” của các pháp, há chúng sanh ra ngoài lệ ấy? Cư sĩ có nghi duyên sanh hay không? Thử nêu một thí dụ, rệp đẻ trứng, trứng nở ra rệp, sanh sôi chẳng ngừng; nhưng rệp thật sự sống trên thân người. Xin hỏi thân người sau khi được sanh thành, trên thân trọn chẳng có cha mẹ của rệp, con rệp thứ nhất do đâu mà có? Nói được sự trước mắt th́ sẽ có thể suy lường những chuyện xa xôi!
* Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát dùng nước Đại Bi lợi lạc chúng sanh, ngàn xứ khẩn cầu, ngàn xứ ứng. Ngài c̣n là bậc Thí Vô Úy Bồ Tát, xưa nay đă nghe những chuyện linh cảm của Bồ Tát được ghi chép rất nhiều, nhưng ḷng từ bi cứu độ Bồ Tát có hạn lượng hay chăng? Lấy ǵ làm giới hạn? Nếu chẳng phải vậy, v́ sao đối với chúng sanh trong Lạc Sanh Viện chẳng dạy họ hăy siêng năng niệm thánh hiệu của Bồ Tát để trị những căn bệnh nan y, ngơ hầu họ khỏi phải chịu tội suốt đời? Nếu nói là do tội nghiệp từ đời trước quá nhiều có thể sánh bằng núi Tu Di, đời này phải hứng chịu nỗi đau khổ ấy, chẳng phải là như trong kinh đă nói “Bồ Tát có thể bố thí vô úy, hễ có cầu bèn có ứng” hay sao? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Cư sĩ có tin mặt trời có thể làm tan băng hay không? Nay có băng dày trăm trượng, gặp tiết Hè nắng gắt, chưa hết một ngày đă chảy tan, nhằm tiết Xuân th́ đôi ba ngày sẽ tan. Trong lúc tiết Đông rét buốt, chẳng thấy nó tan, nhưng thật ra khi đối trước mặt trời, không ǵ chẳng tiêu tan, bất quá là nó tan ít, “mặt trời khiến băng bị chảy” là
nguyên tắc! Nhưng tiêu nhiều hay ít là do duyên phận sâu hay cạn! Những liên hữu sống trong Lạc Sanh Viện đều tu Tịnh Độ, một câu hồng danh có thể tiêu trừ trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, pháp ấy càng triệt để hơn. Cớ
sao
do chưa thấy tội tiêu, hết bệnh, cư sĩ bèn nghi ngờ?
* Hỏi: Do hư không vô biên, thế giới vô biên, cho đến chúng sanh vô biên, nhưng Phật xuất thế thuyết pháp cũng có thể sánh ví như số cát trong chẳng thể lường, chẳng thể nói
các sông
Hằng. Lại c̣n theo chiều dọc, tột cùng ba đời, cũng dùng vô lượng vô biên A-tăng-kỳ để tính kể. V́ vậy, hễ nơi nào, lúc nào có chúng sanh, bèn có Phật xuất thế thuyết pháp. Tướng lưỡi dài rộng có thể che khắp tam thiên đại thiên thế giới, v́ các chúng sanh thuyết pháp, tế độ. Cớ sao chẳng thấy chúng sanh ít đi (đây là nói đến chúng sanh trong tứ sanh), mà ngược lại bèn thấy rất nhiều? Nếu nói là do từ thế giới phương khác đến, những
người sẵn có trong thế giới này cũng phải nên ứng duyên văng sanh trong thế giới khác th́ mới là đúng, chẳng thể chuyên sanh vào thế giới này? Nhưng điều này chỉ là dựa trên tất cả hiện tượng của những kẻ chưa được Phật giáo hóa để luận. Nếu không, sẽ thấy họ ít đi, v́ những kẻ được Phật dạy dỗ đă đản sanh từ vô thỉ. Nếu nói theo cái Thể “sanh
chính là vô sanh” (Thật Tướng của các pháp) của pháp Đại Thừa, từ vô thỉ đến nay, trong thế giới này tối thiểu cũng phải có bậc thượng căn thượng trí nhiều đời th́ ở đây mới
chẳng
mâu thuẫn luật nhân quả. V́ sao người thượng căn thượng trí ngày càng ít dần, kẻ thiểu căn thiểu trí, thậm chí kẻ vô căn vô tri đâu đâu cũng có? Quả thật chẳng thể hiểu chuyện này! (Hồ
Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Câu hỏi này khá rườm rà, có thể tách thành hai đoạn:
1. Từ đầu tới câu “chẳng thể
chuyên sanh vào thế
giới này”, [nếu ông] tham
khảo lời đáp trong phần trước, [sẽ thấy] vật thể đều có sức sanh sản, ngày càng dần dần tăng nhiều hơn, nên [chuyện
chúng sanh trên thế giới này ngày càng đông hơn] vốn chẳng đáng lấy làm lạ! Nhưng mỗi thế giới có thành, trụ, hoại, không, mỗi chúng sanh đều
có sanh, trụ, dị, diệt. Thế giới ví như biển xanh, ruộng dâu, chúng sanh ví như sóng cuộn trong biển, đều chẳng có tướng nhất định. Cư sĩ sống ở nơi đây, ở trong lúc này, nói “chuyên sanh vào trong thế giới này”, tức là chưa thấy [thế giới] biến đổi tang thương và chưa thấy sóng trong toàn bộ biển.
2. [Phần c̣n lại] cho tới câu “kẻ vô căn vô tri đâu đâu cũng
có”, bậc Địa Thượng Bồ Tát chưa đạt đến Thất Địa hăy c̣n bị thoái chuyển, huống hồ phàm phu? Lại c̣n thoạt ch́m, thoạt nổi, lại c̣n bị mê khi cách ấm, hai thứ Hoặc bẩm sanh (Kiến Hoặc và Tư Hoặc) chưa đoạn, hai thứ Hoặc phân biệt (Lư Hoặc
và Sự Hoặc) lại tăng thêm. Phật pháp như cái chổi, tâm chúng sanh như cơi đất, tuy chổi quét bụi, ngày hôm sau [mặt
đất] lại sanh bụi trở lại, đó là lư do v́ sao trọn hết [chúng sanh trong thế giới này] chẳng phải là bậc thượng trí!
* Hỏi: Hiện thời là lúc kiếp giảm, tuổi thọ con người cứ một trăm năm giảm một tuổi, thầy thường nói thọ mạng con người hiện thời nói chung là sáu mươi tuổi, sau năm ngàn năm nữa, thọ mạng của con người chỉ có mười tuổi, nếu trải qua giai đoạn ấy, nhân loại và núi, sông, đại địa sẽ như thế nào? (Diệu Canh hỏi)
Đáp: Đấy là cách tính [thời gian] của một kiếp, xét về đại thể là như thế, chẳng phải là cách nói hoàn toàn khẳng định. Giảm đến mười tuổi là lúc cùng cực của thời kiếp giảm, từ đấy là [lúc bắt đầu] kiếp tăng, tức là cứ một trăm năm bèn tăng thêm một tuổi, tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi là cực hạn của kiếp tăng. Núi, sông, đại địa vốn luôn biến hóa trong mọi lúc, cũng giống như cây cỏ sanh trưởng, điêu tàn, mỗi giai đoạn có hiện tượng trong giai đoạn ấy, chẳng cần phải hỏi chuyện của riêng năm ngàn năm sau!
* Hỏi: “Nên
dùng thân Phật để đắc độ” là người thuộc địa vị nào trong thế giới Sa Bà này? (Lă Huệ
Lương hỏi)
Đáp: [Nếu
chúng sanh] đă thành Phật th́ cần ǵ phải độ nữa? Chỉ là đối với đoạn kinh văn liệt kê ba mươi hai ứng thân [trong phẩm Phổ Môn], hăy nên chia thành hai đoạn là “mong chứng quả” và “hiện đang thuộc địa vị” nào! Câu này nói về chúng sanh mong chứng Phật quả, tức là dạy hàng Bồ Tát phát đại tâm vậy!
* Hỏi: Thấp nhất trong khí thế giới là Phong Luân, trên cùng là Thủy Luân, lư ấy rất lạ lùng, v́ gió nhẹ, nước nặng, địa vị điên đảo, làm sao tồn tại được? (Lă
Huệ Lương
hỏi)
Đáp: Hăy thử lấy một cái chén dùng dây buộc thật chặt, chẳng cho nó tuột rớt. Ở ngay chỗ nút thắt đối diện
với trung tâm của cái chén, lại buộc một sợi dây khác dài hai ba thước. Đổ đầy nước vào chén, cầm sợi giây buộc ở giữa đó, dùng sức quay tṛn cái chén trên không, tuy đáy chén hướng lên trên, nước chúc xuống dưới, nhưng nước chẳng chảy ra, ông ngộ lư ấy sẽ tự hiểu!
* Hỏi: Trong những đạo tràng như liên xă hoặc tinh xá v.v... nếu có kẻ ác đă từng làm chuyện giết, trộm, dâm tham dự, hoặc trong liên hữu gặp lúc bất hạnh có kẻ ác th́ người chủ tŕ có nên cự tuyệt chẳng cho kẻ ấy gia nhập, hoặc gạch tên người đó chẳng cho tham dự nữa hay không? (Lâm Quang Thầm
hỏi)
Đáp: Có những người như thế th́ nên khuyên họ sám hối. Nếu đôi ba lượt chẳng hối cải, hăy “mặc tẫn” là
tốt nhất, chẳng cần phải đón tiếp mà cũng chẳng cần phải cự tuyệt. Lâu ngày, kẻ ấy sẽ tự biết hổ thẹn; nếu không, cũng sẽ tự rút lui!
* Hỏi: Trong Ngũ Giới và Thập Ác, sát đứng đầu, đồ tể chưa buông dao mổ xuống, chẳng lẽ nào thành Phật được! Nếu một gă đồ
tể
gia
nhập
đoàn
thể
Phật
giáo
có
thể
[chấp
nhận
lư
do]
“đó
là
cái
nghề
để
sống”
mà
phương
tiện
cho
kẻ
ấy
hay
không?
Bởi
lẽ,
Phật
là
bi
tâm
đồng
thể,
chẳng
vứt
bỏ
một
cá
nhân
nào
khiến
họ
chẳng
thể thành Phật, chúng ta có nên cự tuyệt những người ấy hay không? (Lâm Quang Thầm
hỏi)
Đáp: Có thể dung thứ cho người ấy gia nhập, khiến cho kẻ ấy huân nhiễm Phật pháp, dần dần sanh từ tâm, sau đấy hăy nên phương tiện thiện xảo, khuyên dụ người ấy đổi nghề. Nếu [người
ấy] viện cớ mưu sinh, rốt cuộc vẫn cầm dao mổ th́ chẳng có cách nào bù đắp cho người ấy, khiến cho Phật môn bị lắm tiếng chê trách. Hăy khéo vận dụng lẽ ứng xử quyền và thật!
* Hỏi: Kể lỗi tứ chúng tức là phạm tội Ba La Di[22], nhưng đối với kẻ đă phạm lỗi bèn chẳng nói ǵ, cứ xoen xoét “thiện tai, thiện tai” (Lành thay! Lành thay), há chẳng phải là phạm lỗi vọng ngữ, nói thêu dệt, nói chẳng chân thật ư? Ngày nay, phường quân tử ngụy đạo đức [giả
vờ] làm lành là căn bệnh đáng nhục của thời đại. Những vật ở bên ngoài đều bất thiện mà cứ bảo là thiện, đối với chính ḿnh cố nhiên là thiện, điều ấy chỉ nhằm dưỡng đức của chính ḿnh mà thôi, giới Phật giáo dần dần không có tổ chức, chứa đựng, thâu nạp phường ô uế. Ngày nay Phật giáo bị xă hội (ngoài tín đồ Phật giáo ra) hiểu lầm, ghét
bỏ,
thật sự là do
quan niệm ấy tạo thành, biết làm sao được? Hơn nữa, luận theo giới tự nhiên, cứ chân thật đúng như cái sẵn có, quả thật sẽ đẹp đẽ, tốt lành đáng tin hơn! Nguyện đại đức chỉ dạy. (Lê Minh Thời hỏi)
Đáp: Phàm đọc kinh luật, chớ nên v́
từ ngữ mà hại nghĩa! Tứ chúng phạm lỗi, nếu có ḷng yêu thương, trọn chẳng phải là không được phép ngấm ngầm khuyên can, răn nhắc. Điều này có cùng ư nghĩa với “tránh thần,
tránh hữu” (bầy tôi can gián, con can gián)[23]. Dẫu can gián mà kẻ ấy chẳng nghe theo, vẫn chẳng mất lẽ cung kính, tôn trọng tăng và đại chúng, làm như vậy lẽ đâu có tội? Nếu hướng về người thứ ba rao bày lỗi ác ấy th́ mới mắc tội! Bậc quân tử trong thế gian c̣n phải ẩn giấu điều ác, tuyên dương điều lành, huống hồ đệ tử Phật há nên phô bày điều xấu trong nhà ḿnh, chuốc lấy tiếng cười chê của kẻ khác ư? Tứ chúng có lỗi, chỉ nên nói (khuyên can lẫn nhau), chớ nên bộc lộ ra ngoài, mà cũng chẳng cần phải khen ngợi sai lạc khiến chính ḿnh trở thành kẻ siểm nịnh.
* Hỏi: Từ khảo cứu hóa thạch, cho thấy con người từ loài vượn và khỉ biến hóa thành. Trước thời Tam Hoàng[24], [con người] ăn lông, uống máu, làm tổ trên cây để sống hay sống trong hang hốc, đấu tranh man rợ, chứng tỏ [con người] từ thuở hồng hoang dă man đă ngày càng tiến hóa. Điều này phù hợp với duyên khởi nghiệp cảm và khoa học, chưa chắc đă như kinh Hoa Nghiêm và Trung Luận ghi chép con người từ cơi trời giáng xuống như thế nào (hậu học không có kinh Hoa Nghiêm), có phải là [thuyết ấy] đă vướng phải khuyết điểm cắt rời đoạn văn ra khỏi ngữ cảnh để hiểu ư nghĩa hay không? Vả nữa, đức Thích Tôn sống từ hơn hai ngàn năm trước, văn hóa Ấn Độ cũng chỉ có mấy ngàn năm, thời hồng hoang cuộc sống hoang dă, người lẫn thú đều hiếm hoi, chắc chắn đức Thích Ca ắt cũng có cách nh́n [riêng biệt], trọn
chẳng có cái nh́n không phù hợp Nhân Minh (La Tập - logic) như thế! Nếu là cắt rời kinh văn khỏi ngữ
cảnh
để hiểu nghĩa, cố ư giữ lấy một thuyết, chúng ta lại chẳng t́m được một luận cứ khoa học hơn để phủ định chứng cứ của ngành khảo cổ học th́ sống trong thời đại khoa học này sẽ bị chướng ngại! (Lê Minh Thời hỏi)
Đáp: Thế giới thành, trụ, hoại, không, ứng thân của Thích Tôn thị hiện diệt độ đều khó thể tính là bao nhiêu lần! Lời Phật dạy trong kinh vốn có Bổn, Tích, Quyền, Thật khác nhau! Nói theo Bổn, ắt là trần điểm kiếp (kiếp số nhiều như vi trần) và trước trần điểm kiếp! Nói theo Tích, ắt từ trần điểm kiếp đến nay, lần lượt thị hiện, cho đến nay [lần thị hiện cuối cùng] là hai ngàn năm trăm năm trước. Nói đến Thật sẽ là Nhất Thừa vô tướng. Nói theo Quyền, ắt vạn pháp rành rành! Hiểu rơ lẽ này, “con người từ cơi trời giáng xuống” là nói về kiếp xưa. “Thích
Tôn sống hơn hai ngàn năm trước” chỉ là sự “thị Tích” gần đây. Đem sự thị Tích gần đây để ghép vào chuyện bao kiếp trước th́ làm sao có thể phù hợp cho được! Nhưng ở đây cũng có một tin tức, người thời nay từng thấy vầng trăng thời cổ, nhưng vầng trăng ngày nay chưa từng soi bóng cổ nhân!
* Hỏi: Sau khi đức Thích Tôn bát Niết Bàn, bèn tự dùng tam-muội chân hỏa để trà-tỳ, thu được tám vạn bốn ngàn hạt xá-lợi. Bài biểu can vua về chuyện nghênh tiếp xá-lợi của Hàn Dũ đời Đường là nhằm can gián vua nghênh đón xương của vị Phật nào? (Lê Minh Thời hỏi)
Đáp: Trong một kiếp này, tại thế giới Sa Bà, ứng thân Như Lai há có hai vị? Triều đại nhà Đường cũng là một quốc gia trong cơi này và kiếp này, há c̣n có thể đón tiếp xương của một vị Phật ở thế giới khác, kiếp khác hay chăng?
* Hỏi: Báo Bồ Đề Thụ số hai mươi bốn, đối với câu hỏi “tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn mới được thành Phật” của cư sĩ Hà Ngọc, đă giải đáp hai chữ Viên Măn như sau: Viên Măn là nói chúng sanh căn cơ chín muồi trong thời kỳ đều được độ hết. Ví như một cái cây có ngàn quả, sống, chín khác nhau, ắt phải chia ra từng lúc để hái. Hôm nay chín năm mươi trái, bèn hái năm mươi trái. Ngày mai chín trăm trái, bèn hái một trăm. Hái hôm nay hay ngày mai đều có thể bảo người khác là “những trái đáng nên hái đều đă hái hết”. Kinh Kim Cang dạy: “Tất
cả hết
thảy các loài chúng sanh, sanh bằng trứng,
hoặc sanh bằng thai, hoặc sanh từ nơi ẩm ướt,
hoặc là hóa sanh, hoặc có sắc, hoặc
vô sắc,
hoặc có tưởng, hoặc
vô tưởng,
hoặc phi hữu tưởng,
hoặc phi vô tưởng,
ta đều
khiến cho nhập Vô Dư Niết
Bàn để
diệt độ”. Lại như Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú có câu: “Như
nhất chúng sanh vị thành Phật,
chung bất
ư thử
thủ Nê Hoàn” (Nếu một chúng sanh chưa thành Phật, ta trọn chẳng nhập vào Niết Bàn), do chúng sanh căn cơ chín muồi trong một thời kỳ đều đă được độ hết mà nói [là viên măn]. Theo ngu ư của học nhân th́ đấy vẫn chưa phải là rốt ráo viên măn, xin lại dạy cho biết lẽ chánh! (Lê Minh Thời hỏi)
Đáp: Như kẻ hèn này biết, “giác
hạnh viên măn” chỉ có nghĩa là “chúng sanh căn cơ chín muồi trong một thời kỳ đă đều được độ hết”. Đấy là cách hiểu theo mặt sự việc, dấu vết. Xin hăy xét khi đức Thế Tôn nhập diệt, chẳng phải là hăy c̣n chúng sanh trong nhiều nước khác chưa được nghe Phật pháp đó sao? Nếu gộp Bổn và Tích lại để nói th́ Phật thật sự chưa hề an trụ Niết Bàn bởi chúng sanh vĩnh viễn chẳng cùng tận! V́ thế, trong không gian, đức Thế Tôn có trăm ngàn vạn ức hằng sa hóa thân; trong thời gian, Ngài đă hơn tám ngàn lần ứng hiện trong Sa Bà! Nếu hiểu theo Lư, kinh Tịnh Danh dạy: “Nhất thiết
chúng sanh, tất cánh tịch diệt,
bất phục
cánh độ” (hết thảy chúng sanh rốt ráo tịch diệt, chẳng c̣n độ nữa), đă nói là tịch diệt rốt ráo nên gọi là “giác hạnh viên măn”, c̣n có chỗ nào chẳng thông suốt? Phàm đối với những điều này, hăy đều nên thấu hiểu ư, quán trọn vẹn, đừng câu nệ nơi mặt văn tự. Thử hỏi kinh Hoa Nghiêm nói: “Vị
xuất mẫu
thai, độ
nhân dĩ tất” (Chưa ra khỏi thai mẹ, đă độ người khác xong xuôi) nên giải thích như thế nào?
* Hỏi: Lục đạo là thiên, nhân, A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, chưa thấy [nói đến] thần đạo! Những vị thần minh được thế tục cúng dường và quỷ hồn nên thuộc vào đường nào? (Lê Minh Thời
hỏi)
Đáp: Có những vị thần thuộc vào thiên đạo như Ngọc Hoàng, Tam Quan[25] v.v.. trong Đạo gia. Có thần thuộc quỷ đạo như Thành Hoàng, Thổ Địa v.v... được thế tục thờ phụng.
* Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát thường dùng ba mươi hai ứng thân để thuyết pháp độ sanh, trừ khử tam độc, thí vô úy, cứu tám nạn. Nếu chúng ta phát đại nguyện, quán sát căn cơ, phương tiện thuyết giáo độ sanh, thiện xảo khế cơ, chỉ dẫn trừ khử tam độc, rộng thí vô úy, cứu tám nạn cho người khác. Lúc nguyện lực như vậy tương ứng với nguyện lực của Quán Thế Âm Bồ Tát, tự tâm chính là Phật, chúng ta có thể xưng là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát hay không? (Lê Minh Thời hỏi)
Đáp: Nếu được gia bị th́ có thể nói như thế. [Hành giả tu] Mật Tông quán [chính ḿnh] trở thành Bổn Tôn, tương thông với lư ấy. Nhưng đó chỉ là chuyện trong một thời gian ngắn, c̣n như trong lời ông hỏi, đối với các thứ diệu hạnh của đức Quán Âm như đă kể, bọn chúng ta chẳng thể đạt được một phần vạn vạn! Nếu chẳng tự lượng, đem phàm lạm thánh, sợ sẽ chuốc lấy tội lỗi vô biên!
* Hỏi: Có người bạn hỏi, đức Thế Tôn lúc tu nhân trong quá khứ, thường xả thân nuôi hổ, tinh thần từ bi cố nhiên đáng khâm phục, kính ngưỡng, nhưng hổ là loài thú ăn thịt người, sao không để mặc cho nó chết đói, ḥng trừ một con vật có hại cho chúng sanh, lại c̣n giảm bớt tội lỗi làm ác của nó? Vả nữa, nó chết đói là do quả báo của việc hằng ngày làm ác, có lẽ nó chẳng đáng được cứu! Học nhân ngu si, lúc ấy chỉ dùng ư nghĩa cảnh giới “vật và ta cùng một thể” và ḷng từ bi của thánh nhân để giải thích cho người ấy. Ngoài ra, chẳng biết đáp như thế nào. V́ thế, nỗi nghi của người ấy chưa được tháo gỡ, nay xin cụ hăy chỉ dạy! (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Lời cư sĩ đáp hết sức chánh xác, kẻ Ngă Chấp quá mức sẽ khó lănh hội. Lời đáp của kẻ hèn này phần nhiều dựa theo quyền biến, phương tiện, chẳng thể nói đơn giản, bao hàm nhiều ư nghĩa như thế được! Ở đây, tôi lập lại và mở rộng ư nghĩa ấy. Phật pháp từ bi, b́nh đẳng, không có tướng ta, tướng người, chỉ thấy người khác khổ mà thôi! Nếu nói hổ là ác, tức là nói theo lập trường của con người. Nếu đứng trên lập trường của hổ, sẽ nói ngược lại là con người ác độc (tuy hổ thỉnh thoảng ăn thịt người, nó cũng chẳng vào thành t́m người để ăn!) Con người đặt bẫy rập ở trên không trung, trong biển cả, trong núi non, trong đồng
trống để săn bắt hết thảy động vật, đuổi tận, giết tuyệt, chứ hổ chưa hề giết chóc bừa băi. Cứ mấy
chục năm, con người ắt gây chiến dữ dội một lần, đồng loại tương tàn, máu chảy vạn dặm, cũng chưa hề nghe thấy loài hổ tụ tập tự tàn sát nhau! Nếu hổ dùng chuyện này để trách người, người c̣n biện bạch
lẽ nào?
* Hỏi: Trong kinh nói đức Phật từ lúc xuất thai cho tới lúc nhập Niết Bàn và khi chư thánh chứng quả, đại địa chấn động sáu cách, chẳng biết loại chấn động ấy có phải là động đất hay không? Nếu như vậy th́ khi chấn động, sanh mạng và tài vật của chúng sanh ở nơi ấy khó tránh khỏi bị tổn hại, bổn hoài từ bi của đức Phật có bị hao tổn hay không? Rốt cuộc [chuyện này] là như thế nào? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Chỉ là chấn động vang ra tiếng, chẳng hề có tổn thương hết thảy!
* Hỏi: Trong phần Phật Học Vấn Đáp đăng trên nguyệt san Bồ Đề Thụ số ba mươi bảy, đối với câu hỏi của Lâm cư sĩ ở Hương Cảng về quỷ đạo, lăo cư sĩ trả lời: “Quỷ có thai sanh và hóa sanh sai khác. Thai sanh bèn có cha mẹ, hóa sanh th́ không”, trong kinh Phật có căn cứ ǵ [chứng tỏ] quỷ có thai sanh? Nếu quỷ có thai sanh, sẽ có tướng phụ mẫu, nam nữ, quỷ thuộc về thể Khí, há có những tướng như vậy ư? (Tĩnh Tu tinh xá hỏi)
Đáp: Đối với lục đạo tứ sanh, có một bài kệ: “Thiên
ngục câu hóa sanh, quỷ đạo
thai hóa nhị, nhân, súc, A Tu La, thông biệt
tứ chủng
sanh” (trời, địa ngục đều hóa sanh, quỷ đạo có hai cách là thai sanh và hóa sanh. Người, súc sanh, A Tu La, có bốn cách sanh chung hay riêng). Các kinh hễ nói tới tứ sanh th́ trong lời chú giải đều có nói rơ, như kinh Lăng Nghiêm, Kim Cang v.v... đều theo lệ ấy. Trừ Chân Như ra, hết thảy đều chẳng ĺa tướng, Tống Nho từng nói: “Quỷ
vi nhị
khí chi lương năng” (quỷ là lương năng
(năng lực sẵn có) của hai thứ khí), chữ Khí ấy trọn chẳng thích hợp. Thử hỏi Tánh và Thức là thể Khí ư? Hơn nữa, quỷ sống trong Dục Giới, có tướng nam nữ th́ có ǵ đáng lạ lùng!
* Hỏi: Trong phẩm Phổ Môn có đoạn nói: “Nhân giả,
thọ thử
pháp thí, trân bảo
anh lạc.
Thời Quán Thế Âm Bồ Tát, bất khẳng
thọ chi. Vô Tận
Ư phục
bạch Quán Thế Âm Bồ Tát ngôn: Nhân giả! Mẫn
ngă đẳng
cố, thọ
thử anh lạc” (“Nhân giả! Hăy nhận lấy chuỗi anh lạc pháp thí quư báu này”, khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng chịu nhận. Vô Tận Ư lại bạch với Quán Thế Âm Bồ Tát: “Thưa nhân giả, xin hăy v́ thương xót chúng tôi mà nhận chuỗi anh lạc này”). Hai vị Bồ Tát ấy là Bồ Tát từ thế giới phương khác đến ứng hóa trong cơi Sa Bà giúp đức
giáo chủ hoằng pháp, khi ấy dùng những thân nào để ứng hóa trong cơi đời, mắt phàm phu có thể trông thấy hay không? (Tĩnh
Tu tinh xá hỏi)
Đáp: Người hữu duyên có thể trông thấy. Kinh dạy: “Nên dùng thân nào để đắc
độ, bèn hiện thân ấy để
thuyết pháp”.
* Hỏi: Trong cuốn khóa tụng do Thụy Thành Thư Cục ấn hành, nơi trang bảy mươi chín, bài tán Giáo Chủ có câu “tam
loại Hóa Thân” là nói tới những loại hóa thân nào, mong hăy dạy rơ! (Tĩnh
Tu tinh xá hỏi)
Đáp: Kẻ hèn chỉ biết Hóa Thân nói theo nghĩa rộng hay hẹp bèn có hai thuyết: Nghĩa rộng là thân trong mười pháp giới hiện cho Nhị Thừa và phàm phu; nghĩa hẹp chính là chia Hóa Thân thành hai danh xưng, tức là hiện thân Phật th́ là Ứng Thân; c̣n hiện thân trong lục đạo là Hóa Thân. Ba loại Hóa Thân có lẽ là như thế đó!
* Hỏi: Tôi thỉnh được cuốn Tượng Giải Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh, Đường Tây Thiên Trúc Sa-môn Già Phạm Đạt Ma dịch” (Giải thích bằng h́nh vẽ bản dịch kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni của sa môn Già Phạm Đạt Ma, xứ Tây Thiên Trúc, đời Đường) tại chùa Đại Tiên núi Quan Tử, trong ấy có đoạn: “Nhược hoạn
xích nhăn giả, cập
nhăn trung hữu nỗ nhục, cập
hữu ế giả, thủ
Xa Xa Di diệp
(tức Câu Kỷ diệp
dă), đảo
lự thủ
trấp, chú tam thất
biến, tẩm
thanh tiền
nhất túc, cánh chú thất biến,
trước nhăn trung, tức
sai” (Nếu bị mắt đỏ, và trong mắt có mộng thịt, và mắt có màng, hăy lấy lá Xa Xa Di (tức lá Câu Kỷ), giă lọc lấy nước, tụng chú hai mươi mốt biến, ngâm đồng tiền bằng đồng xanh vào đó một đêm, rồi lại tụng chú bảy biến, bôi lên mắt, sẽ lành). Ngoài ra c̣n có các đoạn kinh văn dạy trị bệnh. Do vậy, ở trấn Diêm Thủy có một tín đồ bị bệnh mắt bèn dùng phương pháp chế thuốc ấy để trị liệu đến nỗi mù cả hai mắt, thật đáng khiến cho mọi người kinh ngạc, than thở! Nay tôi hỏi lăo cư sĩ kinh điển ấy quả thật do đức Phật nói, hay do pháp sư đời sau biên soạn, mong hăy tra cứu tường tận để chỉ rơ tà - chánh th́ may lắm thay! (Tĩnh
Tu tinh xá hỏi)
Đáp: Chú Đại Bi ai nấy đều biết, vốn chẳng phải là giả, c̣n giă lá Câu Kỷ v.v... để chữa bệnh mắt là do người đời sau bịa chuyện!
* Hỏi: Trong cùng số nguyệt san ấy, đối với câu trả lời cho câu hỏi thứ ba của tệ xá trong mục Phật Học Vấn Đáp về Ngũ Nghịch, Thập Ác, lăo cư sĩ có nói tượng khắc bằng gỗ, tượng đắp bằng đất, tượng đúc bằng đồng, tượng vẽ trên giấy đều thuộc loại Hóa Thân. Hóa sanh là từ trong Không sanh ra Có, những thứ ấy đều do con người tạo thành, v́ sao lại thuộc loại Hóa Thân? Nhưng giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu là nói về Sự hay nói về Lư? Nếu nói về Sự th́ làm sao phàm phu có thể phạm hai hạnh ác nghịch ấy, nghĩa lư ra sao? (Tĩnh Tu
tinh xá hỏi)
Đáp: Hóa Thân chẳng hạn cuộc trong loại nào, núi, sông, trúc biếc, hoa vàng đều có thể biến huyễn. Huống hồ tượng gỗ khắc, đất nặn do tâm tạo ra, tâm chính là Pháp Thân, Hóa Thân ấy nương vào Pháp Thân mà hiện nên gọi là Hóa Thân, có ǵ không được? Đối với những
chuyện như làm thân Phật chảy máu v.v... có nói đến Sự và Lư khác biệt! Ở đây, nói theo Sự, La Hán là như các đệ tử của đức Thế Tôn, Phật như đức Thế Tôn, một là có thân hữu dư y, hai là hóa thân. Ngoại đạo sát hại Mục Kiền Liên, Điều Đạt dùng đá khiến chân đức Thế Tôn bị thương bèn phạm hai tội nghịch ấy. [Thân bị] phàm phu làm hại cũng chỉ thuộc trong hai loại ứng hóa ấy. Nếu nói tới Pháp Thân
th́
không ai có thể hại được!
* Hỏi: Phân biệt Tăng và Đạo như thế nào? Hiện thời, tại Đài Loan, những kẻ làm chay cho người chết
ở các nơi đều xưng là ḥa thượng! Họ uống rượu, ăn thịt, hút thuốc, làm sao có thể lạy Phật, làm công đức cầu siêu cho người đă khuất được? Đó là ḥa thượng hay đạo sĩ? (Hà
Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Luận về h́nh thức, xuất gia đầu tṛn, thọ giới, đắp ca-sa là Tăng, đó là Phật giáo đồ. Kẻ để tóc, kết thành búi, mặc đạo bào là đạo sĩ, tức tín đồ Đạo Giáo. Hai loại người ấy nếu thật sự tu hành sẽ chẳng hút thuốc, uống rượu, ăn thịt. Tang
gia
ở Đài Loan theo thói tục thỉnh những kẻ làm các tṛ phường tuồng như qua cầu, gánh kinh[26], múa lửa v.v... những kẻ ấy được gọi là “đàn môn”, chẳng phải Tăng mà cũng chẳng phải Đạo!
* Hỏi: Dân chúng thường giết lợn, gà, mua những vật như vàng, bạc, tiền giấy, kẹo v.v... thỉnh người đến cầu phước, hoặc cúng tạ thần. Người ăn chay chúng ta có thể nhận lời mời của họ, thay họ cầu phước hay hoàn phước[27] hay chăng? Phật giáo đồ viết sớ, cầu phước, tạ thần cho người ta như vậy có tội hay không? Để cúng cho thượng giới toàn là món chay, cúng trung hạ giới toàn dùng đồ mặn và tiền vàng, tiền giấy. Theo cách nh́n của tôi [cúng như vậy] là trái phạm ḷng từ bi, có đúng hay không? (Hà Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Kinh Phật cấm sát sanh tế thần; cầu phước thay cho người khác sẽ giống như bọn đồng cốt. Nếu có cơ duyên th́ cũng được phép, hăy khuyên họ cúng thần bằng hoa, hương, trái cây. Cầu phước th́ đến trước pháp sư sám hối, xin họ chú nguyện th́ công đức mới là chân thật.
* Hỏi: Em trai thứ ba của ông nội tôi chuyên chọn ngày, sống bằng nghề Địa Lư, cuộc sống khá sung sướng, nổi danh cả huyện Tân Trúc. Rất nhiều người giục giă tôi hăy nghiên cứu để kế tục nghề ấy. Xin thầy hăy thật tâm chỉ dạy, Phật giáo đồ có nên theo nghề ấy hay không? Chọn ngày, xem Địa Lư có phải là mê tín hay không, hay là ngoại đạo? Có trái nghịch Phật pháp hay không? Gia đ́nh tôi cuộc sống rất khó khăn, muốn nghiên cứu để làm thêm ḥng duy tŕ cuộc sống. Nếu là mê tín, tôi sẽ không học nghề ấy. Mong hăy chỉ dạy chân thật, rơ ràng. (Hà Vĩnh
Đinh hỏi)
Đáp: Đối với hàng tỳ-kheo, các chuyện như xem Địa Lư, chiêm tinh, xem tướng v.v... đều cấm ngặt. Người học Phật tại gia, chưa thọ Bồ Tát đại giới, v́ sanh kế, có thể dính líu đến cũng chẳng trở ngại. Những chuyện ấy sẽ gọi là “mê tín” nếu đắm chấp, mê muội trong đó, tin tưởng sâu đậm đến nỗi chẳng thể tự bỏ, nghe theo, trông cậy, chịu sự chi phối của nó mà thôi! Nhà Phật chủ trương “vạn
pháp do tâm tạo,
vạn pháp do tâm chuyển”, tự tạo nhân quả, chẳng bị điều ǵ khác chi phối, nên chẳng ch́m đắm, mê muội [bởi những thuật ấy]! Nếu cư sĩ có nghề khác, chẳng học những thứ này, cố nhiên sẽ tốt hơn. Nếu bắt buộc phải học, hễ gặp chuyện bèn khuyên [người đến xem bói, coi ngày] tin sâu nhân quả sẽ có thể chuyển được số mạng đă định, đó cũng là phương tiện trong trần lao vậy!
* Hỏi: Trong sách Kỹ Lộ Chỉ Quy có nói Ngọc Hoàng Đại Đế là thần, v́ sao người b́nh phàm nói ông ta là lớn nhất? (Hà
Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Kẻ b́nh phàm chưa đọc kinh Phật, tâm bị giam
hăm
trong lục đạo, tự nhiên coi Ngọc Hoàng là lớn nhất. Họ lại chẳng biết phía trên tầng trời của Ngọc Hoàng c̣n có hai mươi sáu tầng trời, đối với sự cao cả của Phật, Bồ Tát, họ càng chẳng hiểu rơ!
* Hỏi: Thầy đồng là đạo sĩ phải không? (Hà Vĩnh Đinh
hỏi)
Đáp: Thầy đồng là một loại đồng cốt, chẳng phải là đạo sĩ.
* Hỏi: A Tu La đạo là ǵ, đường này sống ở nơi nào? Có cùng với địa ngục đạo ở trên quả địa cầu này hay không? (Vô Danh Thị hỏi)
Đáp: Nghĩa tiếng Hán [của A Tu La] là Vô Đoan (thiếu đoan chánh), hoặc Phi Thiên (chẳng phải trời), h́nh dáng xấu xí, thô tháp, có phước trời, nhưng chẳng có phẩm đức của trời, nổi tiếng là một loại thần hung bạo. Có thể chia thành bốn loại trong tứ sanh, họ sống trên không trung, hang núi, đáy biển khác nhau! Cùng với
địa ngục tồn tại trong cơi này!
* Hỏi: Xem kinh Phật chẳng hiểu tiếng Phạn, có cách nào bổ cứu hay không để vừa đọc liền hiểu ngay! (Hoàng Quán Trung hỏi)
Đáp: Tiếng Phạn trong kinh chỉ là số ít, tra cứu trong từ điển Phật học sẽ biết (có bộ sách Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập chuyên giải thích những tiếng Phạn trong kinh). Nếu có chú ngữ th́ cũng là tiếng Phạn; đối với loại ấy, chỉ nên cung kính tụng, chẳng cần phải hiểu!
* Hỏi: Đức Phật có nói đến sự tồn tại của linh hồn hay không? Có nói đến vô ngă hay không? Xét theo thuyết vô ngă, lẽ đâu c̣n có luân hồi? (Trí
Dẫn hỏi)
Đáp: Hàng sơ cơ chẳng dễ hiểu rơ chuyện này! Ở đây, tôi giải thích đại lược. Phàm phu phần nhiều nghĩ thân là ta, hoặc nghĩ linh hồn là ta. Cả hai thứ ấy đều do các duyên ḥa hợp, trọn chẳng có thực thể. Duyên hợp bèn hiện tướng; duyên ĺa, h́nh ảnh lẫn dư âm đều mất, nên nói là Vô Ngă. Ư nói giả tướng ấy chẳng có chủ thể, chứ không phải là nói nó chẳng có bản tánh. Viên chứng Phật quả th́ bản tánh sẽ hiển lộ toàn thể, lúc ấy mới có thể nói là “thấy Ngă”.
* Hỏi: Nhằm truyền thừa hưng thịnh Phật pháp, hậu học cho rằng từ nay trở đi đối với chuyện xuất gia, vẫn phải nên khôi phục chế độ thi cử, chẳng biết đại cư sĩ có nghĩ như vậy là đúng hay không? (Chân Tàm Quư hỏi)
Đáp: Tôi cũng cho là đúng, bất quá khảo thí là khảo hạch học vấn! Một vị Tăng, ngoài học vấn ra c̣n phải coi trọng đức
hạnh,
khảo thí chẳng thể khảo hạch điều đó được!
* Hỏi: Loài động vật lưỡng thê[28] thường thấy trong cơi đời (như rùa, ếch v.v...); đối với tam thê động vật, trong kinh Phật cũng có ghi chép hay chăng? Nếu có, xin hăy kể đại lược mấy loài, ḥng mở mang kiến thức cho kẻ chưa nghe biết! (Chân
Tàm Quư hỏi)
Đáp: Những động vật được ghi chép trong kinh Phật cố nhiên có những loài ở Trung Thổ chẳng có, cũng chẳng qua là chuyện ngẫu nhiên [được kinh nhắc tới], như chim Cộng Mạng, chim Tần Già v.v... Nhưng nội điển có tánh chất giảng rơ đại sự nhân duyên, trọn chẳng phải là sách chuyên nghiên cứu các sự vật, nên chẳng ghi chép những thứ vụn vặt. Há phải chỉ mấy loài “thê”, ngay cả những danh từ về loài thân có đốt, loài có xương sống, loài ḅ ngược v.v... cũng chẳng nhắc tới! Mỗi sách có trọng tâm riêng, xe đi trên đất, thuyền chạy dưới nước, hăy nên biết công dụng của chúng!
* Hỏi: Những năm gần đây, Phật giáo đồ phần nhiều dùng pháp môn Niệm Phật để khuyên lơn, khích lệ lẫn nhau, dụng tâm cố nhiên là tốt đẹp, nhưng hậu học cho rằng: Quá khứ chư Phật, Bồ Tát, đa số vạn kiếp ngàn đời xuất sanh, nhập tử, hành Bồ Tát đạo trước rồi sau đó mới chứng đại quả. Nếu chúng ta cầu sanh Tây Phương trước, chứng địa vị Bất Thoái, rồi sau đấy mới dùng thần thông tự tại cứu độ chúng sanh, như thế là “không tốn công mà đạt được”, chẳng khỏi đánh mất tinh thần đại vô úy của bậc đại Bồ Tát “xả thân đổ máu, chỉ cầu lợi người”! Nếu là cầu văng sanh Tây Phương trước, đạt được thần thông tự tại rồi mới độ sanh, chẳng tránh khỏi là kẻ sợ sệt nỗi khổ sở trong sự nghiệp độ sanh. Thử hỏi: Kẻ trước hết pḥng ngự chính ḿnh khỏi bị đọa lạc, tấm ḷng đại bi chẳng phải là quá yếu ớt ư? C̣n có đạo Bồ Tát ǵ để bàn luận nữa đây? (Chân
Tàm Quư hỏi)
Đáp: Người tu niệm Phật trọn chẳng phải là ngăn cấm hành Bồ Tát đạo. Người hành Bồ Tát đạo nào ngại niệm Phật? C̣n như cầu sanh Tây Phương chính là v́ người ấy là hạng năng lực và trí huệ chẳng hội đủ điều kiện, chẳng thể có bản lănh to lớn để rộng độ các khổ, cho nên phải ra đi, cầu học trước ḥng dự bị tác dụng to lớn. Giống như thanh niên đi thi v́ học vấn đă có thành tựu, bèn dốc sức cho nước nhà. Nếu quở trách kẻ cầu học chẳng ái quốc, có hợp lư hay chăng? Nhưng trước khi sanh về Tây, có nhiều chuyện cần phải làm, ba phước trong Quán Kinh, lục độ vạn hạnh trong kinh Vô Lượng Thọ đă được kinh dạy rành rành, sao lại bảo là chẳng hành Bồ Tát đạo? C̣n như nói “xả thân vẩy máu, rưới khắp tam thiên”, nghị luận cao lắm, tiếc là rỗng tuếch, thiếu thực tế! Trước hết, hăy luận định trong phạm vi nhỏ nhoi! Hiện thời, tại Đài Loan của kẻ hèn này, những người gặp cảnh bất hạnh bị tử thương, các loài súc vật mỗi ngày bị giết ngàn vạn con, sao không trước hết hăy bỏ ḿnh theo người ḥng cứu vớt họ? Chuyện nhỏ mà làm chẳng được, rảnh đâu để
bàn chuyện lớn! Có phải là v́ chẳng phát Bồ Tát tâm ư? Hay là do năng lực chẳng đủ ư? Lắng ḷng suy xét sẽ tự hiểu câu hỏi này! Đoạn sau [trong lời hỏi của ông] lại càng luận định lệch lạc một phía, nay tôi lại nêu một thí dụ. Câu Tiễn dưỡng sức mười năm, mười năm tụ tập sức mạnh để sau đó nhấn ch́m nước Ngô, vẫn trách móc cái tâm khôi phục nước Việt của Câu Tiễn là yếu ớt, nhỏ nhoi ư?
* Hỏi: Khổng Tử có ba kẻ thù, tên họ là ǵ? Khổng Tử là đại thánh nhân, v́ sao có cừu nhân kết oán với Ngài? (Hồng
Hoàn hỏi)
Đáp: Đó là ngạn ngữ thường được lưu hành, nhưng Ngài ắt có kẻ thù, chẳng phải chỉ có ba, c̣n như Thúc Tôn Vũ Thúc[29], Tư Mă Hoàn Đồi[30] đều là những cừu nhân hiển nhiên. Oán ghét là một trong tám khổ của thế gian vốn chẳng thể tránh khỏi. Bậc thánh nhân xuất thế như Thích Ca Thế Tôn c̣n gặp kẻ hủy hại như Điều Đạt v.v... huống ǵ Khổng Tử!
* Hỏi: Duyên Giác c̣n gọi là Bích Chi Phật, Ngài chưa đạt tới cảnh giới Bồ Tát, Bồ Tát c̣n chưa gọi là Phật, cớ sao Bích Chi Phật lại có thêm một chữ Phật? (Đỗ Phấn
hỏi)
Đáp: Gặp duyên mà tự ngộ bèn gọi đơn giản là Độc Giác, tiếng Phạn là Bích Chi Phật
(Pratyekabuddha).
[Trong
tiếng
Phạn],
Giác
là
Phật
Đà,
Giác
có
lớn,
nhỏ,
các
loại
khác
nhau.
Phật
cũng
có
Tạng,
Thông,
Biệt,
Viên
khác
biệt.
B́nh
thường
nói
đến
Phật,
phần
nhiều
là
nói
về
vị
Phật
tam
kiếp
phước
huệ,
giác
hạnh
viên
măn,
khác
hẳn
Bích
Chi
Phật.
Như
Trung
Quốc
thời
cổ
đại,
Nghiêu,
Thuấn,
Vũ,
Thang,
Châu
Văn
Vương,
Châu
Vơ Vương xưng là vương. Cuối đời Châu, vua của bảy nước [chư hầu lớn][31] cũng xưng là Vương. Chư hầu đời Hán phần nhiều cũng được phong vương, tuy đều gọi là vương, nhưng phẩm vị há chẳng khác biệt ư?
* Hỏi: Lập trường của Tô Mạn Thù[32] đối với Phật giáo ra sao? Là tín đồ Phật giáo thuộc tông phái nào? Ngoại trừ tác phẩm văn nghệ ra, có tác phẩm nào về chánh pháp hay không? (Trương Cung hỏi)
Đáp: Chỉ thấy tác phẩm văn nghệ của người ấy thanh nhă, đẹp đẽ, [đối với chuyện người ấy] tu tŕ thuộc tông nào và tác phẩm hoằng dương kinh điển [như thế nào], kẻ hèn này do bỉ lậu, chưa được nghe tới!
* Hỏi: Hiện thời Phật giáo Đài Loan có những tông phái nào, địa chỉ các tự viện tiêu biểu cho các phái là như thế nào? (Trương
Cung hỏi)
Đáp: Nói trong hiện thời, các tông phái Phật giáo Trung Quốc chỉ có mười tông. Ngoài danh xưng của mười tông ấy ra, sẽ chẳng phải là Phật giáo. Sợ ông hiểu lầm, nên tôi đặc biệt trịnh trọng nói rơ! Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc, há có ngoại lệ, nhưng mỗi tự viện thuộc về tông nào th́ phải hướng về mỗi chùa khảo sát th́ mới hiểu rốt ráo!
* Hỏi: Tôi thấy tạp chí Phật giáo viết “Phật giáo bài trừ mê tín”, nhưng như chùa Khai Nguyên ở Đài Nam có đặt bàn xin xăm của thần để người đến viếng chùa cúng bái có thể tùy hỷ rút thẻ xăm, có phải là chẳng thích đáng hay không? (Trương
Cung hỏi)
Đáp: Đối với tập tục này, chẳng phải là một chùa là như vậy, mà cũng chẳng phải hiện thời là như vậy.
* Hỏi: Trong đời này mang chí nguyện xuất thế, nhưng nhân duyên chẳng đủ nên chưa thành tựu, trở thành nỗi tiếc hận suốt đời! Nên tu theo cách nào? Lập công đức như thế nào mới ḥng đời sau thành công? (Trương
Cung hỏi)
Đáp: Tu đắc Túc Mạng Thông, đời sau gặp duyên có thể tiếp tục tu; nhưng người đắc đạo ấy, há có mấy ai? Do vậy, có pháp môn Tịnh Độ đới nghiệp văng sanh Nhất Sanh Bổ Xứ là con đường đặc biệt lạ lùng!
* Hỏi: Kinh Di Giáo nói: “...Chú
thuật tiên dược... Giai bất ưng tác” (chú thuật, thuốc tiên... đều chớ nên làm). Trong Phật giáo chúng ta, hiện thời có Đại Bi Chú Thủy, hoặc đốt giấy viết Lục Tự Đại Minh Thần Chú lấy tro để trị bệnh cho người khác, có trái nghịch lời Phật răn cấm hay không? (Chân Tàm Quư hỏi)
Đáp: Các thứ chú thuật như kinh Di Giáo đă nói đều chỉ cho hết thảy những thứ huyễn pháp của ngoại đạo, ngụ ư Phật tử hăy nên lấy Phật pháp làm chỗ nương về, đừng tập tành huyễn thuật của ngoại đạo kẻo tăng trưởng tà kiến!
Hỏi: Hành giả dốc sức chủ yếu tu Thiền Tông thường coi thụy tướng của lịch đại thiền sư lúc lâm chung như tọa hóa
(ngồi qua đời), tỏa quang minh là dấu hiệu chứng tỏ vị ấy đă tu thoát tam giới. Loại thụy tướng như vậy có đủ để chứng thực [vị thiền sư ấy] đă thoát tam giới, liễu sanh tử hay không? Người sanh trong thiên đạo cũng có hiện tượng tốt lành ấy hay không? (Chân Tàm Quư hỏi)
Đáp: Thiền sư lâm chung phóng quang là một trong các thụy tướng, đương nhiên có thành tựu. Người sanh trong thiên đạo cũng có tiểu thụy tướng. Cần biết là hai hạng người ấy chẳng nhất định phải phóng quang. Nếu hỏi có thoát tam giới hay không, hăy khám nghiệm hơi nóng thoát ra [cuối cùng] ở nơi đâu sẽ là tiêu chuẩn nhất!
* Hỏi: Tệ nhân gần đây quy y Tam Bảo, khi viết thư xin chỉ dạy th́ đối với vị xuất gia sư phụ tự xưng là “học nhân” hoặc “cư sĩ” có được hay không? (Vương Gia Thanh hỏi)
Đáp: Sau khi quy y Tam Bảo, hai chúng xuất gia chánh thức đều là thầy ta, trọn chẳng phải chỉ giới hạn một người truyền quy
y cho ta
mới là thầy ta. Bất luận đối diện tṛ chuyện hay viết thư, trong hết thảy nơi, hết thảy lúc, đều tự xưng là “đệ tử”.
* Hỏi: Bà nội đă khuất của tệ nhân lúc tại thế là Long Hoa Trai Hữu[33], hiện nay đă qua đời, tệ nhân muốn thay cụ quy y Tam Bảo, xin hăy chỉ dạy phương pháp và có tiền lệ ǵ chăng? (Vương Gia Thanh hỏi)
Đáp: Có cách truyền thọ U Minh Giới, nhưng cần phải hướng về bậc tỳ-kheo rành luật để cầu [truyền thọ].
* Hỏi: Kinh điển có rất nhiều chữ A trong A Di Đà Phật, rốt cuộc nên đọc là A hay nên đọc là Áp, hay là tùy mỗi chỗ mà có phân biệt, xin hăy chỉ dạy! (Quế Dẫn
Hạnh hỏi)
Đáp: Chữ ấy cần phải phát âm từ trong họng, chữ A th́ gần giống, chứ Áp th́ chẳng phải. Nhưng chữ ấy nên gặp mặt [người thông hiểu] đích thân xin truyền dạy cách đọc sẽ thỏa đáng, bởi lẽ hai chữ A và Áp, người
phương Nam và kẻ phương Bắc phát âm cũng khác nhau.
* Hỏi: Niệm Phật hoặc tụng kinh hoàn tất, đem công đức ấy hồi hướng tiên vong quyến thuộc, có nên đọc ra tiếng tên húy và vai vế của quyến thuộc đă mất hay không? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Đọc ra cố nhiên là được, hoặc vận tâm tưởng tượng cũng chẳng phải là không được!
* Hỏi: Ba mươi sáu ức mười một vạn chín ngàn năm trăm vị A Di Đà Phật đồng danh đồng hiệu ở Tây Phương Cực Lạc thế giới là Phật đă diệt độ, hay là hiện tại Phật, lúc tu nhân đă cùng tỳ-kheo Pháp Tạng thành Phật cùng một lúc, hay là thành Phật khác thời? (Hồ Chánh Lâm hỏi)
Đáp: Chẳng thấy kinh ghi chép, chẳng dám đáp bừa, nhưng dùng cách so sánh để nói th́ có lẽ chẳng đồng thời. Như trước đức Phật Thích Ca đă có danh hiệu Thích Ca, trước Quán Âm Bồ Tát đă có Quán Âm Phật. Đây thật sự là lời lẽ suy đoán, vẫn mong ông hăy hỏi bậc cao minh khác.
* Hỏi: Sát sanh ăn thịt là cái nhân tạo kiếp nạn khiến chúng sanh trên thế giới oan oan tương báo, nhưng muốn cho nhân loại và chúng sanh chẳng sát sanh, không ăn thịt, dường như chẳng phải là mệnh lệnh chánh phủ và sức giáo hóa có thể làm được. Cận đại, đường lối để quốc gia giàu mạnh là những khu vực gần biển sẽ đề xướng phát triển ngư nghiệp, số lượng đánh bắt cho nhiều, con số đạt tới mức khổng lồ. Muốn họ bỏ cách ấy, chẳng ham cầu nữa, thật khó thực hiện! Lại nữa, dẫu nhằm thời Lương Vũ Đế hay vua A Dục, mệnh lệnh chánh phủ vẫn chẳng thể ngăn cấm giết chóc! Nh́n từ chỗ này, sát nghiệp đến khi nào mới hết sạch được? Lại nữa, các loài động vật ăn thịt lớn nhỏ lần lượt ăn nuốt nhau, vĩnh viễn chẳng có lúc hết, cũng là vĩnh viễn chẳng có lúc giác ngộ! Như vậy th́ hoằng nguyện đại thệ “độ hết chúng sanh” của Phật chẳng phải là vĩnh viễn chẳng có ngày thực hiện ư? (Tân
La hỏi)
Đáp: Câu hỏi này có thể chia thành hai đoạn:
1) Trước hết trả lời từ đoạn “sát
sanh ăn thịt” cho
tới “sát nghiệp đến khi nào mới hết sạch được?” Chuyện thế gian có trật tự, đạo đức, nhân quả v.v... khác nhau, tuy có quan hệ hỗ tương, nhưng mỗi chuyện có phạm trù riêng. Mệnh lệnh của chánh phủ có tánh chất mạnh bạo, chú trọng duy tŕ trật tự hữu h́nh trong xă hội và quyền hạn, lợi ích cá nhân, nhưng do đạo đức, nhân quả ẩn kín, khó hiển lộ, nên chỉ có thể nâng đỡ hữu hạn. Giáo hóa có tánh chất ḥa b́nh, chú trọng đề xướng đạo đức, khiến cho con người mong được an tâm. Tác dụng phụ của nó chỉ là giảm mức độ nặng nề của mệnh lệnh chánh phủ. Ngoài ra c̣n có vấn đề báo ứng, mang tánh chất tự nhiên, chú trọng tự làm, tự chịu. Bất luận là việc làm hữu h́nh hay vô h́nh, tâm an hay bất an, mệnh lệnh chánh phủ chẳng thể cấm đoán, giáo hóa chẳng thể khuyên can, đều được thâu nhiếp trong loại báo ứng này. Thiện ác ba đời chẳng sai sót mảy may, [thế mà] người ta do nghe đă quen tai nên vẫn chẳng sợ hăi! [Vậy th́] mệnh lệnh chánh phủ và giáo hóa chẳng có công năng thâu nhiếp [dân chúng] hoàn toàn [khiến họ thôi sát sanh, dứt ăn thịt], há đáng tiếc nuối ư?
2) Kế đến là trả lời về đoạn “động vật ăn nuốt lẫn nhau”. Chính kinh Phật đă nói: Phiền năo vô tận, chúng sanh vô tận, cho nên thế giới này được gọi là “bến
mê, biển
khổ”. Do phiền năo và chúng sanh đều vô tận, cố nhiên lời nguyện của Phật cũng vô tận (Phật xuất thế cũng vô tận). Thích Ca Thế Tôn đến ứng hiện trong thế giới này đă hơn tám ngàn lần, chính là một tấm gương vậy!
* Hỏi: Cổ thánh tiên hiền nước ta chẳng chú trọng kỹ thuật lạ lùng, khéo léo, nên xưa kia tuy có các thứ phát minh cơ giới, nhưng đều đă bị thất truyền từ lâu. Cận đại, khoa học văn minh phát triển, có thể sử dụng nguyên tử tới mức tột đỉnh, những điều sâu xa, ẩn kín của trời đất đă bị tiết lộ hết, ḷng ham muốn của con người hoành hành, càng thêm phóng túng. Xét theo lẽ “giai
binh bất
tường, binh bất trấp
tất tự phần” (dụng binh dẫu thành công mỹ măn vẫn là điều bất tường, dụng binh không biết ngưng nghỉ, ắt sẽ tự hủy diệt) như cổ nhân đă giáo huấn, há chẳng phải là điềm báo trước cả thế giới đều cùng mắc kiếp nạn to lớn trước nay chưa hề có ư? Chỉ có cái vụng về nhất trong thiên hạ là có thể phá được cái khéo nhất trong cơi trời, vậy th́ quốc gia trong hiện thời nắm được ưu thế vũ khí nguyên tử chưa chắc đă thật sự có cái để ỷ vào ḥng chẳng sợ hăi! Chỉ có chí thành là có thể phá được cái chí ngụy, tức là những hạng người sở trường âm mưu, lừa gạt, lật đổ xâm nhập, ly gián, phân hóa trong hiện thời rốt cuộc ắt sẽ có ngày không có nẻo nào để đi. Nếu không, nguyên tắc lịch sử ắt bị đổ nhào, mặt trời, mặt trăng ắt sẽ mọc đằng Tây, lặn đằng Đông. Tiếc là họ chỉ chú trọng hiện thực, mù quáng v́ những cái trước mắt, chẳng thấy những điều này đáng để bàn tới. Cân nhắc theo Phật lư, chẳng biết những điều đă nói trên đây cũng có phần đúng hay là không? (Tân La hỏi)
Đáp: Lời luận định của ngài hết sức đúng! Nhà Tần tàn bạo, nhà Tùy bạo ngược ở Trung Quốc đều theo nhau diệt vong. Gần đây th́ như Uy Liêm (William) đệ nhị[34], Hy Đặc Lặc (Hitler), Mặc Sách Lư Ni (Mussolini), Đông Điều[35] v.v... đều chẳng thể toàn vẹn một đời, mà trái lại mỗi kẻ ấy đều tự chôn vùi đất nước, đúng là những tấm gương tầy đ́nh! Những kẻ đă qua đều là như thế, th́ những kẻ trong tương lai nhất định sẽ đi theo vết xe đổ!
* Hỏi: Có kẻ hỏi: V́ sao tụng kinh điển Đại Thừa, nhờ vào nguyện lực của hành nhân có thể làm cho người sống lẫn kẻ chết đều được lợi ích, do đâu mà phát sanh hiệu lực ấy? Có nên đáp: Những lời Phật nói đều là chân lư chí cao vô thượng về vũ trụ và nhân sinh, bản thân chân lư đương nhiên có oai lực vô thượng, điều
này ví như thái dương trong khí thế gian tỏa ánh sáng và sức nóng không ǵ lớn bằng. Lại do nguyện lực của hành nhân và sức mạnh của bản thân chân lư ngưng hợp tại một chỗ, lấy nguyện lực làm sức phát động để thúc đẩy sức mạnh của chân lư, ví như tàu chiến hàng hải, phi cơ hàng không, cộng thêm ư chí và kỹ thuật của người điều khiển, đương nhiên chẳng có ǵ bất lợi, mong ǵ được nấy. Nhưng rốt cuộc vẫn hiềm câu trả lời ấy chưa đạt đến ư nghĩa viên măn, dám xin cụ lại chỉ dạy [để câu trả lời được] tiến hơn bước nữa! (Tân La hỏi)
Đáp: Được lợi ích là do trí huệ khiến thành ra như vậy. Kẻ chẳng được lợi ích là do mê vọng làm hại. Đức Thế Tôn thấy sao Mai, bèn nói: “Hết
thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng
của Như Lai, nhưng
do vọng
tưởng, chấp
trước, nên chẳng thể
chứng đắc.
Nếu ĺa vọng tưởng
th́ Nhất
Thiết Trí, Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí liền được
hiện tiền”. Đọc kinh, niệm Phật, tham Thiền v.v... đều là các pháp để trừ vọng tưởng. Vọng đă trừ, trí sẽ hiện, cho nên được lợi ích.
Phật Học
Vấn Đáp
Loại Biên
Phần 7 hết
[1] Hoa Nghiêm Âm Nghĩa có tên gọi đầy đủ là Tân Dịch Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Âm Nghĩa, c̣n được gọi là Huệ Uyển Âm Nghĩa do ngài Huệ Uyển (673-?) biên soạn vào đời Đường. Ngài là học tṛ của ngài Hiền
Thủ Pháp Tạng, đă kế thừa và hoàn thành công tác chú sớ kinh Hoa Nghiêm của thầy. Bộ sách Hoa Nghiêm Âm Nghĩa giải thích âm đọc và ư nghĩa những chữ khó trong kinh Hoa Nghiêm, dẫn dụng rất nhiều sách ngữ âm học thời cổ như Thiết Vận, Thương Hiệt Thiên v.v... làm căn cứ lập luận.
[2] Ăn chay theo ngày hoặc kỳ hạn,
chẳng hạn Nguyên Thủy Lục Trai (một tháng ăn
chay sáu ngày), Chuẩn Đề Thập Trai (ăn chay mỗi
tháng mười ngày) v.v...
[3] Nguyên văn là Sơ (貙), theo cổ thư đây là một loại mănh thú. Có sách nói là mèo rừng, có sách nói là báo. Sách Nhĩ Nhă chỉ giảng sơ lược: “Sơ,
hổ thuộc,
đại như cẩu, văn như ly, ly chỉ
báo miêu” (Sơ thuộc loài hổ, to như chó, có vằn như chồn, chữ ly chỉ loài báo). Chúng tôi tạm dịch là “báo”. Theo cổ thư, trong cuộc chiến giành quyền lực giữa Xi Vưu (thủ lănh Miêu tộc) và Hiên Viên Hoàng Đế, Xi Vưu đă tuôn mây mù, Hoàng Đế phải chế ra xe chỉ nam và vận dụng mănh thú đánh dẹp Xi Vưu.
[4] Minh giáp (蓂荚) là một loài cỏ tốt lành. Theo Hoàng Đế Bản Kỷ, vua Nghiêu có một loài cỏ mọc trong sân, từ đầu tháng mỗi ngày trổ một quả, đến giữa tháng trổ mười lăm quả, từ ngày Mười Sáu trở đi, mỗi ngày rụng một quả, đến cuối tháng th́ rụng hết. Do đó, cổ nhân coi đây là một loài cỏ tốt lành, có linh tánh.
Theo Bác
Vật Chí của Trương Hoa đời Tấn, Chỉ Nịnh là một loài cỏ “thần kỳ” khác cũng mọc vào thời vua Nghiêu trong sân chầu. Hễ kẻ xu nịnh vào chầu, cỏ liền nghiêng đầu chỉ thẳng vào kẻ đó, nên gọi là Chỉ Nịnh Thảo.
[5] Công Dương Truyện là sách chú giải
kinh Xuân Thu, tương truyền do Công Dương Cao nước
Tề viết. Sử sách không ghi chép rơ rệt về Công
Dương Cao, chỉ nói ông là đệ tử của Tử
Hạ. Tử Hạ là tên tự của Bốc
Thương (507-420 trước Công Nguyên), là một đệ
tử nổi tiếng của Khổng Tử, được
xếp vào hàng Khổng Môn Thập Triết.
[6] Tế (際) có nghĩa là bờ mé. Không Luân chính là hư không, được hiểu là lớp cuối cùng trong một thế giới. Luân (輪) hàm nghĩa “vây
quanh”. Sách Phật Tổ Thống Kỷ, quyển ba mươi mốt giảng: “Kinh Hoa Nghiêm nói tam thiên đại thiên thế giới
do vô lượng nhân duyên mà thành, do đại địa
nương vào thủy luân, phong luân và không luân, không luân chẳng
nương vào đâu, do nghiệp cảm
của chúng sanh mà thế giới
an trụ”.
[7] Theo kinh
Hiền
Ngu,
Phú
Na
Kỳ
(Purneccha)
là
tên
một
ngạ
quỷ.
Khi đó, đức
Phật
ngự
tại
Trúc
Lâm
Tinh
Xá
ở
thành
Vương
Xá,
tôn
giả
Mục
Kiền
Liên
trông
thấy
một
ngạ
quỷ,
thân
như
cột
cháy
nham
nhở,
bụng
to
như
quả
núi
lớn,
họng
nhỏ
như
cái
kim,
rên
xiết
ầm
ĩ,
chạy
rảo
khắp
bốn
phương,
t́m
cầu
phân,
tiểu
để
ăn.
Ngài Mục
Liên
đến
hỏi
Phật,
đức
Phật
dạy:
- Trong
Hiền
Kiếp
này,
tại
thành
Xá
Vệ,
có
một
trường
giả
do
ép
nước
mía
mà
trở
thành
giàu
to.
Khi
ấy,
có
một
vị
Bích
Chi
Phật
bị
bệnh
khát,
đến
nhà
trưởng
giả
xin
nước
mía
để
uống.
Trưởng
giả
tâm
sanh
hoan
hỷ,
bảo
vợ
là
Phú
Na
Kỳ:
“Ta
có
chuyện
gấp
sắp
đi,
bà
ở
nhà
hăy
đem
nước
mía
cúng
dường
Bích
Chi
Phật”. Chồng đi khỏi, vợ lấy bát của Bích Chi Phật đem vào nhà xí, tiểu vào, rồi đổ
nước
mía
lên
trên,
đưa
cho
Bích
Chi
Phật.
Vị
ấy
nhận
lấy,
biết
là
thứ
chẳng
sạch,
bèn
đổ
xuống
đất,
ôm
bát
không
trở
về.
Người
vợ
chết
đi,
đọa
trong
loài
ngạ
quỷ
thường
bị
đói
khát
bức
bách,
tức
là
thân
quỷ
Phú
Kỳ
Na
hiện
tại
vậy!
[8] “Chỉ
tửu” là danh xưng chung để chỉ rượu ngon. Bài Lộc Minh trong phần Tiểu Nhă của kinh Thi có câu: “Ngă hữu
chỉ tửu,
dĩ yến
lạc gia tân chi tâm” (ta có rượu ngon, có ḷng đăi đằng, làm khách quư vui sướng). Điển tích vua Vũ ghét chỉ tửu trích từ sách Mạnh Ngữ, thiên Ly Lâu Hạ: “Vũ
ố chỉ
tửu, nhi hiếu thiện
ngôn” (Vua Vũ ghét rượu ngon, chuộng lời lành).
[9] Tam đại là đời cha, đời
ông, đời cố. “Cửu tộc” là từ ngữ phiếm
chỉ thân thuộc, có nhiều cách giải thích, nhưng
cách giải thích phổ biến nhất là từ bản
thân ta tính lên bốn đời tức cha, ông, ông cố, ông
sơ (phụ, tổ phụ, tằng tổ phụ, cao tổ
phụ) và tính xuống bốn đời con, cháu, chắt,
chút (tử, tôn, huyền tôn, tằng tôn). Có thuyết giải
thích cửu tộc là bốn họ bên cha (tức anh chị
em và con cái của bên cha (bác, chú, cô, các anh em họ bên nội),
con cái của chị em ḿnh, con cái của con gái ḿnh và những
người có liên hệ huyết thống trực tiếp
với ḿnh như mẹ, anh em ruột, chị em ruột,
con cái của chính ḿnh), ba họ bên mẹ (họ nội và
họ ngoại của mẹ ruột, con cái của mẹ
kế), hai họ của vợ (họ nội và họ ngoại
của vợ).
[10] Tô Tất Địa Kinh có tên gọi đầy đủ là Tô Tất Địa Yết La Kinh (Susiddhikara Mahātantra Sādhanopāyika Patala) do ngài Thâu Ba Ca La (Śubhakarasimha, tức
Ngài Thiện Vô Úy, c̣n dịch là Tịnh
Sư Tử) dịch
vào đời Đường, gồm ba quyển, mười tám phẩm, giảng rộng
về những nghi thức tŕ tụng, quán đảnh, cầu thỉnh,
hỏa cúng (hộ-ma), thành tựu, thời
phần và pháp tắc
liên quan đến Phật Bộ, Liên Hoa Bộ và Kim Cang Bộ trong Mật Tông. Tô Tất
Địa có nghĩa là thành tựu. Kinh này cùng với kinh Đại Nhật và kinh Kim Cang Đảnh được gọi
là Mật Giáo Tam Bộ Đại Kinh. Kinh này được ngài Viên Nhân (Ennin), sáng tổ Thiên Thai Tông Sơn Môn Phái của Nhật
chú giải với
tựa đề Tô Tất Địa Yết
La Kinh Lược Sớ, và bộ sớ giải ấy được tông Thai Mật
của Nhật coi là một tác phẩm trọng yếu
để hiểu về
Thai Tạng Giới
lẫn Kim Cang Giới.
[11] Nam Đẩu là Nam Đẩu Tinh Quân, một vị thần trong Đạo Giáo, chưởng quản Nam Đẩu Lục Tinh. Đạo giáo tin vị thần này có trách nhiệm cầm cân nẩy mực thọ mạng và tài lộc của con người. Có thuyết nói vị thần này và Nam Cực Tiên Ông là cùng một người, nhưng đa số cho Nam Cực Tiên Ông (c̣n gọi là Nam Cực Lăo Nhân, Trường Sanh Đại Đế) là một vị thần khác, chủ về trường thọ, tức là ông Thọ trong bộ ba Phước Lộc Thọ. Nam Đẩu thường được gọi là Nam Tào. Nam Đẩu Lục Tinh là một cḥm sao thuộc tinh ṭa Nhân Mă (Sagitarius) gồm sáu ngôi sao: Đẩu Tú Nhất, Đẩu Tú Nhị v.v... Nam Đẩu Lục Tinh chính là cḥm sao Đẩu trong Nhị Thập Bát Tú.
Bắc Đẩu Tinh Quân chưởng quản Bắc Đẩu Thất Tinh, chủ quản sổ tử. V́ thế, Đạo giáo thường nói: “Nam
Đẩu chủ
sanh, Bắc
Đẩu chủ
tử”. Do vậy, tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa mới đặt chuyện Khổng Minh ngă bệnh, bèn lập đàn Thất Tinh cầu Bắc Đẩu Tinh Quân diên mạng. Bắc Đẩu chính bảy ngôi sao sáng nhất trong chùm sao Đại Hùng (Ursa Major), bảy ngôi sao ấy hợp thành
h́nh như cái gáo đặt nằm ngang trên bầu trời,
nên
gọi là Đẩu. Bảy ngôi sao là Thiên Khu (Dubhe, Tham Lang), Thiên Toàn (Merak, Cự Môn), Thiên Cơ (Phecda, Lộc Tồn), Thiên Quyền (Megrez, Văn Khúc), Ngọc Hoành (Alioth, Liêm Trinh), Khai Dương (Mizar, Vũ Khúc), Dao Quang (Alkaid, Phá Quân). Đạo Giáo lại coi bảy ngôi sao này tương ứng với bảy vị đại đế, chẳng hạn Thiên Khu là Tham Lang Tinh Quân v.v... thêm vào Tả Phù và Hữu Bật hợp thành Cửu Hoàng Đại Đế. Họ lại đặt ra một vị nữ thần gọi là Đẩu Mẫu Nguyên Quân là mẹ của chín ngôi sao này.
Tư Trung và Tư Mạng có thể hiểu là tên các ngôi sao thường được cúng tế trong dân gian. Trịnh Huyền chú giải sách Châu Lễ đă nói: “Tư
Mạng và Tư Trung là ngôi sao thứ
năm và thứ tư trong cḥm sao Văn Xương”. Đồng thời, đây cũng là hai vị thần, Tư Trung chưởng quản hồn con người, Tư Mạng chưởng quản những kẻ chết non (chưa đầy 19 tuổi đă chết). Có thuyết nói Tư Trung chủ sanh, Tư Mạng chủ tử, tức là vai tṛ trùng lặp với Nam Đẩu và Bắc Đầu (trong Đạo Giáo thường có những vị thần có trách nhiệm chồng chéo với nhau như vậy).
Phong
Sư là thần gió, Vũ Sư là thần mưa.
[12] Địa linh kỳ: thần đất. Đạo giáo gọi các vị thần cai quản hư không là Thần, gọi thần cai quản mặt đất là Kỳ.
[13] Ngũ Huân Thái tức là Ngũ Tân, Huân có nghĩa là hôi tanh. Theo kinh Phạm Vơng, Ngũ Huân là Thông, Giới, Cửu, Toán, Hưng Cừ (hành, kiệu, hẹ, tỏi, hưng cừ). Hưng Cừ (Hingu) chỉ có ở Ấn Độ, có củ nhỏ, hăng nồng. Củ nén (néng?) ở miền Trung Việt Nam cũng cay, hôi nồng, nên Hưng Cừ thường được dịch là nén. Kiệu (tên khoa học là Allium Chinense) c̣n có tên gọi là Lạt Cửu, Kiệu Đầu, Thế Đầu, Tiểu Toán, Giới Bạch Đầu, Dă Toán, Dă Cửu v.v...
[14] Đây là những h́nh thức mê tín của dân gian Trung Hoa. “Thần y”
(áo thần) gồm hai loại, loại thứ nhất thường bằng gấm, lụa màu đỏ hay vàng,
thêu thùa rực rỡ, thường may dưới h́nh thức áo khoác để choàng lên các tượng thần. Loại thứ hai là các thứ quần áo bằng giấy dán trang kim dùng để đốt cúng cho các vị thần như bộ áo măo cúng ông Táo, cúng Thái Tuế, cúng Thiên Quan v.v...
Linh
Ốc là nhà cửa, điện, đài v.v.. làm bằng giấy, tô màu, phủ trang kim rực rỡ để đốt cho người chết.
Hồn Kiệu là kiệu dành cho người chết, gồm hai loại: Loại thứ nhất c̣n gọi là Chỉ Kiệu (kiệu giấy) làm bằng giấy, có h́nh cái kiệu khá nhỏ, bên trong có đặt h́nh người bằng giấy đề tên người chết, ngụ ư hồn phách người chết ngự trong kiệu ấy. Loại này thường được đốt
khi
đưa
quan
tài
ra
mộ.
Loại
thứ
hai
là
kiệu
thật,
dành
cho
cháu
đích
tôn
của
người
chết
ngồi
ôm
một
cái
khám.
Trong
khám
đặt
bài
vị,
hồn
bạch,
ngũ
cốc,
tiền
đồng,
chân
đèn
v.v...
Loại
kiệu
này
thường dùng để rước bài vị người chết về nhà thờ cúng sau khi đă an táng. “Hồn bạch” là một dải lụa trắng thắt thành h́nh người. Khi người chết hấp hối, người nhà dùng lụa trắng
áp lên thân người chết nhằm thu lấy hồn phách người chết rồi thắt thành h́nh người,
gọi
là
“hồn
bạch”. Khi quan tài c̣n quàn tại nhà, họ vẫn để
hồn
bạch
nằm
trong
giường
người
chết,
buông
màn
cẩn
thận,
đến
khi
cúng
cơm
ba
bữa
đều rước
hồn
bạch
ra
đặt
trên
bàn
thờ.
Cúng
xong
lại
rước
vào,
tục
lệ
này
đến nay có
lẽ
không
c̣n
ai
thực
hiện
nữa!
“Tiền thần văng sanh” chính là những tờ giấy vẽ h́nh xâu tiền cổ, chính giữa có chú Văng Sanh vẽ thành ṿng tṛn.
Tiền Thọ Sanh cũng là tiền giấy, chính giữa được tráng một lớp giấy bạc, trên phủ một lớp vàng nhỏ hơn, bốn phía tô đỏ, hoặc vẽ những chữ cát tường như Tài Lộc, Thọ, Hỷ, Quư v.v... Loại tiền này thường đốt để cúng thần.
“Gởi kho” là đốt tiền giấy, vàng, bạc để gởi xuống âm phủ ḥng sau khi chết có cái để tiêu dùng!
“Đăng tọa” có nghĩa gốc là cái đế đèn, chân đèn. Ở đây là các loại đèn lồng bằng giấy để đốt cho người chết dùng. Thông
thường làm thành h́nh một người đầy tớ
gái cầm đèn lồng.
[15] Nhà Nam Lương do Lương Vũ
Đế (Tiêu Diễn) sáng lập chỉ tồn tại 55
năm (502-557). Nhà Tây Lương (553-587) do Tiêu Sát
(Lương Tuyên Đế), tức là cháu nội của
Lương Vũ Đế sáng lập chỉ là một
nước chư hầu nhỏ bé, lần lượt phụ
thuộc nhà Tây Ngụy, Bắc Châu và nhà Tùy nên coi như
không đáng kể.
[16] Thiên kim c̣n gọi là Thiên Công Kim, Ngọc Hoàng Kim, hoặc Khấu Đáp Ân Quang là một loại tiền vàng mă thường dùng bởi người Triều Châu, Phước Kiến, Quảng Đông dùng để cúng trời. Tờ tiền rất to, gồm một lớp vàng tráng trên một lớp bạc, chung quanh mép giấy tô màu đỏ hoặc cam, in chữ Khấu Đáp Ân Quang.
Thọ Kim là tiền Thọ Sanh như đă nói trong phần trước.
[17] Thông Thư gọi đủ là Hoàng Lịch Thông Thư là một thứ niên giám (Almanac) kiêm bói toán của người Hoa, ghi ngày âm dương lịch, các sao cát hung mỗi ngày, ngày kỵ, ngày hạp v.v... Thông Thư mang ư nghĩa “sách gồm đủ mọi thứ”, nhưng do chữ Thư trong âm Quảng Đông và Quan Thoại đọc giống như chữ Thu (輸: thất bại), nên Thông Thư dễ bị hiểu lầm “thất bại trong mọi chuyện”, nên Thông Thư tại Đài Loan thường đổi thành Thông Thắng. Thông thường trang đầu của Thông Thư là Xuân Ngưu Đồ, Thần Sát Đồ, kế đến là Thiên Quan Tứ Phước Đồ. Phần c̣n lại bao gồm thuật xem tướng, chọn ngày, chọn hướng, những câu cách ngôn, thức ăn kiêng kỵ, các loại bùa thông dụng, cách đoán sao hạn, cách cúng sao, thậm chí cả quẻ xăm Quán Âm. Xuân Ngưu Đồ là bức tranh vẽ thần Câu Mang dẫn một con trâu đất, tùy theo h́nh vẽ của trâu mà có thể dự đoán các tiết khí, lượng mưa, can chi, ngũ hành xung khắc v.v... Nói chung là những yếu tố cần thiết cho nông dân. Dưới h́nh vẽ thường có một bài thơ thất ngôn nhằm tiên đoán thời tiết, mùa màng trong năm ấy.
[18] Chỉ những kinh Phật bằng nguyên bản tiếng Phạn c̣n
được lưu giữ tại Ấn Độ.
[19] Tam Bạt La (Samvara), c̣n phiên âm là Tam Bà La, Tam Phạt La, dịch nghĩa là Cấm Giới hoặc Hộ, hàm nghĩa người hộ tŕ giới cấm sẽ chẳng đọa tam đồ. Nó c̣n có nghĩa là Vô Biểu Sắc của giới thể. Sách Hữu Bộ Bách Nhất Yết Ma, quyển một giảng: “Luật nghi hộ, ở đây nói là Hộ,
tiếng Phạn
là Tam Bạt La, dịch là Ủng Hộ.
Do thọ
quy giới
rồi hộ tŕ khiến
cho chẳng
đọa lạc
tam đồ”.
[20] Theo các sách mục lục ghi chép, Tâm Kinh
có các bản dịch như sau:
1. Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Chú Kinh, do ngài Chi Khiêm dịch
vào đời Ngô, đă thất lạc.
2. Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Đại Minh Chú Kinh
do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đời Diêu Tần.
3. Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh do ngài Huyền
Trang dịch vào đời Đường.
4. Bát Nhă Ba La Mật Đa Na Kinh do ngài Bồ Đề
Lưu Chí dịch vào đời Đường đă thất
lạc.
5. Ma Ha Bát Nhă Tủy Tâm Kinh do ngài Thật Xoa Nan Đà
dịch vào đời Đường đă thất lạc.
6. Phật Thuyết Ba La Mật Đa Tâm Kinh do ngài Nghĩa
Tịnh dịch vào đời Đường.
7. Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh do ngài Pháp Nguyệt dịch
vào đời Đường.
8. Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhă Ba La Mật Đa
Tâm Kinh do ngài Pháp Nguyệt dịch vào đời Đường.
9. Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh do các vị Bát Nhă, Cộng
Lợi v.v... cùng dịch vào đời Đường.
10. Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh, do ngài Trí Huệ
Luân dịch vào đời Đường.
11. Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh do ngài Pháp Thành dịch
vào đời Đường.
12. Thánh Phật Mẫu Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh,
do ngài Thi Hộ dịch vào đời Tống.
Như vậy, trên thực tế có đến chín bản
dịch, cụ Lư Bỉnh Nam chỉ nói bảy bản v́
ngài Pháp Nguyệt dịch kinh này hai lần với tên gọi
khác nhau và không kể bản dịch của ngài Thi Hộ.
[21] Bàn Cổ là một nhân vật huyền thoại, được coi là người sáng tạo trời đất. Truyền thuyết về Bàn Cổ đă có từ lâu trước khi Đạo Giáo ra đời. Đạo Giáo đặt
ra thuyết “Bàn Cổ là hóa thân của Ngọc Thanh Nguyên Thỉ Thiên Tôn”, hoặc
là
“hóa thân của Hồng Quân Lăo Tổ”. Theo cổ thư, Bàn Cổ thường được mô tả có h́nh dạng đầu rồng, ḿnh rắn, hít ra thở vào bèn thành gió mưa, thổi hơi ra bèn biến thành sấm chớp, nhắm mắt là ngày, mở mắt là đêm. Sử gia Phạm Văn Lan nghĩ Bàn Cổ là nhân vật huyền thoại do dân tộc Hán đă vay mượn từ truyền thuyết quả bầu nở ra các sắc dân của các dân tộc Dao, Miêu để giải thích sự sáng tạo trời đất, v́ “Bàn” theo nghĩa gốc là khởi đầu, và cũng có nghĩa là quả bầu. Người Hoa thêu dệt thêm: Bàn Cổ khi chết đi, đầu hóa thành Đông Nhạc, bụng hóa thành Trung Nhạc, tay trái thành Nam Nhạc, tay phải thành Bắc Nhạc, chân hóa thành Tây Nhạc, mắt hóa thành mặt trời và mặt trăng, nước tiểu hóa thành sông ng̣i v.v... Truyền thuyết Bàn Cổ khai sáng trời đất được Từ Chỉnh viết trong Tam Ngũ Lịch Kỷ như sau: “Trời đất
hỗn độn
như trứng
gà suốt
một vạn
tám ngàn năm, mới
tách rời
ra. Khí Dương trong sạch thành trời, khí Âm ô trược thành đất. Bàn Cổ ở chính giữa,
mỗi ngày biến đổi
chín lượt.
Thần ở trên trời,
thánh ở dưới đất.
Trời mỗi
ngày cao thêm một
trượng, đất
mỗi ngày dầy thêm một trượng.
Bàn Cổ mỗi ngày cao thêm một trượng.
Như thế
suốt một
vạn tám ngàn năm,
thiên số cực cao, địa số cực sâu, Bàn Cổ cực lớn.
Do vậy,
trời cách đất chín vạn dặm,
sau đấy
mới có Tam Hoàng”.
[22] Ba La Di (Pārājika) là tội nghiêm trọng nhất trong giới luật. Ba La Di có nghĩa là “lui mất, chẳng thể ở chung, đọa lạc, đứt đầu”, tức là tỳ-kheo phạm vào bốn tội trọng là giết, trộm, dâm, đại vọng ngữ.
[23] “Tránh
thần, tránh hữu” là điển tích xuất phát từ chương Trọng Ni Nhàn Cư trong Tăng Tử Toàn Thư. “Tăng Tử viết: ‘Cảm
vấn tùng phụ chi lệnh, khả
vị hiếu
hồ?’ Tử viết: “Thị
hà ngôn hỹ! Tích giả thiên tử hữu
tránh thần
thất nhân, tuy vô đạo, bất
thất kỳ thiên hạ. Chư
hầu hữu
tránh thần
ngũ nhân, tuy vô đạo, bất
thất kỳ quốc.
Đại phu hữu
tránh thần
tam nhân, tuy vô đạo, bất
thất kỳ gia. Sĩ hữu
tránh hữu,
tắc thân bất ly vu lệnh
danh. Phụ
hữu tránh tử, tắc
thân bất
hăm ư bất nghĩa.
Cố đương
bất nghĩa,
tắc tử bất khả
dĩ phất
tránh vu phụ, thần
bất khả
dĩ phất
tránh vu quân. Cố đương bất
nghĩa tắc
tránh chi. Tùng phụ
chi lệnh,
hựu yên đắc vi hiếu hồ!” (Tăng Tử hỏi: “Dám
hỏi là nghe theo lệnh của cha có phải là hiếu hay không?” Khổng Tử nói: “Tùy thuộc nói như thế nào! Xưa kia, thiên tử có bảy bề tôi can gián, tuy vô đạo, chẳng mất thiên hạ. Chư hầu có năm bề tôi can gián, tuy vô đạo, chẳng mất nước. Đại phu có ba thuộc hạ can gián, dẫu vô đạo, gia tộc chẳng tiêu tan. Kẻ sĩ có bạn bè can gián, chẳng bị mất thanh danh. Cha có con can gián, sẽ chẳng bị hăm ḿnh vào chỗ bất nghĩa. V́ thế, nếu bị sai phái làm chuyện bất nghĩa, con chẳng thể nào không can cha, bề tôi chẳng thể nào không can vua. Do vậy, nếu bị sai khiến
làm chuyện bất nghĩa, phải can gián. [Mù quáng] nghe theo lệnh cha, há c̣n là hiếu nữa ư?”)
[24] Tam Hoàng là thời kỳ huyền sử của Trung Hoa, thường được tin là thời kỳ đầu tiên sau khi Bàn Cổ lập trời đất. Sử sách Trung Hoa thường coi thời đại Tam Hoàng cách đây từ sáu ngàn năm đến bốn ngàn năm. Chế độ xă hội đang dần dần chuyển từ mẫu hệ sang phụ hệ, và danh tính của Tam Hoàng cũng không thống nhất. Từ
thư tịch cổ, ta thấy danh xưng Tam Hoàng có các
thuyết như sau:
-
Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng (có người cho rằng đây chỉ là cách tôn xưng những vị cổ thánh vương, chẳng phải là danh hiệu thật sự).
-
Phục Hy, Thần Nông, Nữ Oa (quan điểm này do Tư Mă Thiên đề xướng).
-
Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế (thuyết này có khuyết điểm v́ Hoàng Đế cũng được kể tên trong Ngũ Đế là thời đại kế tiếp của Tam Hoàng).
-
Phục Hy, Thần Nông, Toại Nhân (có thuyết nói Toại Nhân có trước Phục Hy).
-
Phục Hy, Thần Nông, Chúc Dung.
-
Phục Hy, Thần Nông và Cung Công.
[25] Tam Quan gọi đủ là Tam Quan Đại Đế (c̣n gọi là Tam Giới Công, hoặc Tam Giới Gia, Tam Nguyên Đại Đế), là ba vị thần trong Đạo Giáo, tức Thiên Quan (Tử Vi Đại Đế), Địa Quan (Thanh Hư Đại Đế) và Thủy Quan (Động Dương Đại Đế) lần lượt có trách nhiệm chưởng quản thiên đường, địa phủ và biển khơi. Theo truyền thuyết, Thiên Quan là vua Nghiêu, Địa Quan là vua Thuấn, Thủy Quan là vua Vũ. Đạo Giáo c̣n có thuyết Tam Thanh hóa thân thành Tam Quan, chẳng hạn như Ngọc Thanh Nguyên Thỉ Thiên Tôn hóa thành Thượng Nguyên Thiên Quan, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn hóa thành Trung Nguyên Địa Quan,
Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (Thái Thượng Lăo
Quân) hóa thành Hạ Nguyên Thủy Quan. Họ c̣n chủ
trương “Thiên Quan Tứ
Phước, Địa Quan Xá Tội, Thủy Quan Giải
Ách”. Theo họ, ba ngày Rằm lớn trong âm lịch chính là ngày vía của Tam Quan Đại Đế. Do vậy, Rằm tháng Bảy vẫn thường được gọi là Trung Nguyên Phổ Độ.
[26] Đây là những tṛ do bọn thầy cúng hoặc đạo sĩ bầy ra trong tang ma tại Đài Loan. Gánh kinh (đảm kinh) là tṛ diễn tuồng Mục Kiền Liên Cứu Mẹ. Thầy cúng thủ vai này cũng mặc hải thanh vàng, đắp
ca-sa,
đội
măo
Tỳ-Lô,
múa may quay cuồng theo kiểu “đạp Thất Tinh” của đạo sĩ, quảy một gánh nhỏ, một đầu gánh đựng kinh, đầu kia đựng thần chủ (bài vị) của người chết, vừa múa vừa hát những lời diễn
tả ḷng
thương xót người chết, kể
lể
những cảnh địa ngục đi qua, cũng như bày tỏ sự nuối tiếc của người chết đối với người thân. Màn biểu diễn kết thúc bằng cảnh thầy cúng hạ gánh xuống đất, thân quyến ôm lấy bài vị khóc lóc ra vẻ không nỡ rời xa.
Qua
cầu (quá kiều) là tṛ diễn
tuồng trong đó thần Thổ Địa dẫn linh hồn người chết vượt cầu nhằm
khỏi
bị oan hồn uổng quỷ ngăn trở. “Cầu” là
một tấm vải hoa căng giữa hai cái bàn đặt lễ vật, hương, đèn. Trên vải đă rải sẵn tiền thật lẫn tiền vàng mă. Một người đeo mặt nạ đóng vai Thổ Địa cầm gậy đi trước, một thầy cúng mặc hải thanh màu vàng cầm phan tiếp dẫn, dẫn trưởng nam ôm thần chủ người chết, tang gia lũ lượt theo sau đi ṿng quanh tấm vải ấy. Cứ hết một ṿng, Thổ Địa lại nói vài câu khuyến thiện, hoặc chúc tụng. Phía dưới tấm vải đặt một cái thau, tang gia mỗi lần đi ṿng quanh tấm vải ấy đều bỏ tiền vào thau ấy, đó gọi là tiền “măi
lộ”. Tùy theo tiền công được trả mà vở diễn sẽ dài hay ngắn cho đến khi tang chủ rải hết số tiền đă thỏa thuận vào thau.
[27] Hoàn Phước là một nghi thức cầu phước và cảm tạ trời đất của người Khách Gia (Hakka, người Hẹ) thường diễn ra vào cuối năm. Lễ này thường diễn ra từ tháng Mười âm lịch đến tháng Mười Một, đồng thời cầu cho năm mới sắp đến sẽ hanh thông. Gặp năm xui xẻo, họ vẫn làm lễ này hầu sám hối, cầu thần xóa đi sự xui xẻo. Lễ tế thường diễn ra vào buổi tối, dựng rạp sẵn để người trong thôn làng đem lễ vật đến.
Nhà
nào cũng cúng tối thiểu một mâm, dùng lợn và gạo làm lễ vật chủ yếu. Lợn thường để sống nguyên con bày lên cúng sau khi đă mổ ruột, cạo lông. Ngoài ra c̣n có các món ăn nấu bằng thịt lợn bày la liệt hai bên. Nghi thức bao gồm dâng hương thỉnh thần, dâng đèn, lễ bái, đại tế, cầu phước, cùng diễn các tṛ vui. Nghi lễ kéo dài đến rạng sáng mới hoàn thành.
[28] Thê (棲) theo nghĩa gốc là nghỉ ngơi, nghĩa rộng là sinh sống tại một nơi nào đó. Lưỡng Thê (Amphibian, c̣n gọi là “lưỡng
cư”) là
loài có thể sống được trên mặt đất và dưới nước
như ếch, nhái, cóc, sa giông (newt), ếch giun (Ceylon
caecilian)...
[29] Thúc Tôn Vũ Thúc, họ Cơ, là cháu tám đời của Thúc Tôn Thị, tên thật là Cơ Châu Cừu, thụy hiệu là Vũ, nên người đời sau hay gọi ghép chung lại là Thúc Tôn Vũ Thúc. Thúc Tôn là một trong ba quư tộc thuộc hoàng thất nước Lỗ. Lỗ Hoàn Công (Cơ Doăn) có bốn con trai, con trai trưởng là Cơ Đồng trở thành Lỗ Trang Công, con trai thứ là Cơ Khánh Phụ (hậu duệ của ḍng này gọi là Mạnh Tôn Thị, và lấy chữ Mạnh Tôn đặt trước tên), Cơ Thúc Nha (con cháu ḍng này được gọi là Thúc Tôn Thị), và Cơ Quư Hữu (con cháu ḍng này gọi là Quư Tôn Thị). Ba ḍng họ này về sau gọi là Tam Hoàn, lũng đoạn triều chánh nước Lỗ, lấn hiếp vua. Năm mười hai đời Lỗ Định Công (498 trước Công Nguyên), Khổng Tử làm Đại Tư Khấu nước Lỗ, chủ trương tước bỏ quyền lực
và thâu hồi thái ấp của Tam Hoàn, tập trung quyền lực về trung ương. Sử gọi sự kiện này là Đọa Tam Đô. Tam Đô là Thành Ấp của Mạnh Tôn Thị, Hậu Ấp của Thúc Tôn Thị và Phí Ấp của Quư Tôn Thị, nên tạo thành oán cừu với Tam Hoàn; nhất là với Thúc Tôn Vũ Thúc. Chiến dịch đọa Tam Đô thất bại, Khổng Tử mất quyền Đại Tư Khấu, phải rời nước Lỗ.
[30] Tư Mă Hoàn Đồi nắm quyền quân sự nước Tống, em trai Hoàn Đồi là Tư Mă Ngưu lại là học tṛ của đệ tử. Ông này vốn có họ là Hoàn (桓), tên là Đồi (魋), do nắm chức Tư Mă nên có họ là Tư Mă. Họ Hoàn vốn là con cháu họ Khương nước Tề. Công tử Khương Tiểu Bạch là em trai Tề Tương Công, do bị truy sát phải trốn sang nước Cử, về sau trở về nước, giành được ngôi vua, trở thành một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu tức Tề Hoàn Công. Con cháu ḍng thứ của nhà vua bèn lấy chữ Hoàn trong thụy hiệu của nhà vua làm họ. Sử Kư chép Khổng Tử từ đất Tào qua Tống, cùng học tṛ tập lễ dưới một cội cây. Hoàn Đồi ganh ghét, sai lính bao vây, chặt cây, Tử Lộ toan tranh chấp với Hoàn Đồi, nhưng Khổng Tử không cho, bảo: “Thiên
sanh đức
ư dư, Hoàn Đồi
kỳ như dư hà?” Cụ Lư Bỉnh Nam giảng câu này có nghĩa là: “Đức hạnh
do thiên bẩm, Hoàn Đồi chẳng
có cách nào tổn
hại đức
ấy được”. Nói xong, Khổng Tử dẫn học tṛ qua đất Trịnh.
[31] Thời Chiến Quốc có rất nhiều nước chư hầu, sử thường chép là “tám trăm chư hầu”. Trong đó các nước lớn thôn tính dần các nước nhỏ, đến cuối thời Chiến Quốc, chỉ c̣n bảy nước đáng kể là Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần. Về sau Tần Thủy Hoàng thôn tính sáu nước kia, thống nhất Trung Hoa. Trước đó, vua chư hầu chỉ xưng là Công, chữ Vương dành riêng cho thiên tử nhà Châu. Người đầu tiên xưng vương của nước Tần là Tần Huệ Văn Vương (337-311 trước Công Nguyên).
[32] Tô Mạn Thù (1884-1918) là một thi nhân, văn gia, họa gia và dịch giả đầu thời Dân Quốc, là người huyện Châu Hải, tỉnh Quảng Đông. Tên thật là Tử Cốc, Mạn Thù là pháp hiệu, c̣n có biệt hiệu là Nguyên Anh, sinh ra tại Nhật, là con tư sinh của Tô Kiệt với một nàng hầu. Ông ta từng xuất gia ba lần, nhưng cuối cùng đều bỏ ra đời, thông thạo Anh, Pháp, Nhật và tiếng Phạn, từng tham gia cách mạng lật đổ nhà Thanh. Tác phẩm nổi tiếng nhất là Bái Luân Thi Tuyển.
[33] Long Hoa Trai là một chi phái của Trai Giáo, tức
là một thứ tín ngưỡng dân gian tạp nhạp, phát xuất từ La Giáo, chính là hậu duệ của Bạch Liên Giáo. Tín đồ Trai Giáo ăn chay, không xuất gia, các chức sắc thường gọi là Thái Công (ông ăn chay), Thái Cô (bà ăn chay). Trai Giáo là biến thể của La Giáo khi người Hán di dân sang Đài Loan, vay mượn lung tung các tín điều từ Nho, Thích, Đạo, đặc biệt họ tự coi ḿnh là Thiền Tông chánh truyền. Thần cao nhất trong giáo ấy là Vô Sanh Lăo Mẫu được coi là mẹ của muôn loài, thần thánh, Phật, Bồ Tát ǵ cũng đều do Vô Sanh Lăo Mẫu sanh ra. Đồng thời họ thờ đủ thứ thần Phật, hễ nhân vật nào nổi tiếng đều được thờ hết như Phục Hy, Thần Nông, Quảng Thành Tử, Hoàng Đế, Hứa Do, vua Nghiêu, Sào Phụ, vua Thuấn, Nhiên Đăng Phật, Quán Âm, Di Lặc, Thích Ca Mâu Ni Phật, tôn giả Ca Diếp, tổ Đạt Ma, Tế Công v.v... và các vị thiền sư kể từ ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng cho đến Lư Đầu Đà cộng thêm La Thanh (sáng tổ La Giáo).
[34] Wiliam II (1859-1941) được nói ở đây chính là hoàng đế nước Đức, tức vua Friedrich Wilhelm Viktor Albert (Frederick William Victor Albert), là hoàng đế (Kaiser) của Đức và Phổ (Prussia). Ông này là cháu nội nữ hoàng Victoria của Anh và có quan hệ huyết thống với nhiều hoàng gia Âu Châu. Hai năm sau khi lên ngôi, nhà vua đă sa thải thủ tướng Bismarck v́ không tán đồng chủ trương ngoại giao khôn khéo và mềm mỏng của ông này. Nhà vua chủ trương thúc đẩy phát triển kinh tế, để biến nước Đức thành hùng mạnh nhất thời ấy về quân sự lẫn kinh tế. Do tham vọng, nhưng đầy mâu thuẫn, vua đă bị phe quân phiệt chi phối, đẩy nước Đức vào cuộc thế chiến thứ nhất. Sau khi đại bại trong thế chiến thứ nhất, ông phải tuyên bố thoái vị vào năm 1918 và bị lưu đày sang Ḥa Lan.
[35] Đông Điều (Hideki Tōjō, 1884-1948), gọi đầy đủ là Đông Điều Anh Cơ, là tướng của lục quân hoàng gia Nhật, thủ lănh của hội Taisei Yokusankai (Đại Chánh Dực Tán Hội, một tổ chức chủ trương thực hiện chủ nghĩa phát xít tại Nhật), và là thủ tướng thứ 40 của nước này. Ông này mang tư tưởng phát xít, quân phiệt cực
đoan. Trước khi trở thành thủ tướng, ông đă thống lănh quân đội xâm nhập Nội Mông và tấn công nhiều trọng điểm của Trung Hoa trong cuộc chiến tranh Trung Nhật lần thứ hai. Chính ông ta đă lèo lái mọi hành động quân sự và chính sách của Nhật trong suốt đệ nhị thế chiến. Cuộc tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) cũng do ông ta chủ tŕ. Sau khi Nhật thất trận, Đông Điều bị bắt, bị xét xử tại ṭa án Quân Sự Quốc Tế vùng Viễn Đông và bị treo cổ vào ngày 23 tháng Chạp năm 1948.