Phật Học
Vấn Đáp Loại Biên
佛學問答類編
Phần
9
Lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam giải
đáp
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo
Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội, Đài
Loan, 2007)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
* Hỏi: Các loài hoa, cỏ, tre, gỗ, đá, ngọc, dường
như cũng có Phật tánh, nhưng khó phân biệt. Điều này căn cứ trên những chuyện hoa có thể hiểu lời nói, ngọc, đá thành tinh v.v… trong các truyện xưa Trung Quốc để suy luận. Vậy th́ cây Bồ Đề nơi đức Thích Tôn thành đạo cũng có Phật Tánh, chẳng c̣n ngờ chi nữa! Nhưng cớ sao ngoài lục
đạo, chẳng kể thêm [những loài vô t́nh như cây, cỏ, gỗ, đá]? (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: Phàm học thuyết th́ đại khái có sự thật và lư luận sai khác. Nếu nói theo Lư, bất luận động vật, thực vật, hay khoáng vật đều có Pháp Tánh; đó gọi là “vạn pháp duy tâm. Trúc biếc,
hoa vàng, không ǵ chẳng phải là Bát Nhă. T́nh và vô t́nh, cùng viên măn Chủng Trí”. Nếu nói theo Sự, chữ “chúng sanh” chỉ dùng để chỉ động vật có t́nh thức, có sắc thân Lục Nhập do nghiệp báo chuyển biến. Sắc thân của loại động vật hàm thức ấy có sanh, có diệt, nhưng trong lục đạo, t́nh thức biến huyễn chẳng ngừng. Khoáng vật và thực vật chẳng
phải là t́nh thức nghiệp báo, nên những loài như hoa, cỏ, đá, ngọc… chẳng được
kể vào đó. Hoa có thể hiểu tiếng người vốn là lời đùa bỡn của văn nhân. Ngọc thành tinh chính là vật lâu đời tác quái, vốn do linh hồn [của các quỷ thần] dựa vào, cũng thuộc vào loại yêu tinh, quỷ quái, là biến hóa, chẳng phải là chuyện thường có!
* Hỏi: Trước đức Phật Thích Ca, có Phật trụ
trong thế giới này hay không? Nói “cổ Phật”
có phải là nói tới những vị Phật đă giáng sanh trong thế giới này trước đức Phật Thích Ca hay không? Thuở đức Phật giáng thế, có phải là Pháp Thân hóa thành Ứng Thân, hay là Pháp Thân vẫn trụ trong cơi Thường Tịch Quang? (Mạnh Hiếu Quang hỏi)
Đáp: Đức Phật hiện
trong thế gian, chuyên v́ độ chúng sanh. Thế giới vô tận, thời gian vô tận, nên Phật đến ứng hiện cũng là vô tận. Phật hiện tướng, được
gọi là “ứng hóa”, c̣n Pháp Thân thường tịch vẫn nghiễm nhiên bất
động.
* Hỏi: Trong tam giới lục đạo đều có Phật, Bồ Tát, nên cố nhiên trong đường trời người chẳng c̣n phải bàn luận nữa! Trong địa ngục c̣n có đại Bồ Tát trụ, há có thể nói là “chẳng có
Phật pháp” ư? Nhân loại chẳng thể biết hành vi và phương tiện hoằng pháp, cứu độ chúng sanh ấy, chẳng biết trong kinh Phật có từng nhắc tới hay chưa? (Lưu
Định Nhất hỏi)
Đáp: Trong lục
đạo đều có Phật, Bồ Tát phương tiện thuyết
pháp, trong kinh Phật cũng
có ghi chép. Chỉ v́ tánh chia thành nhiễm và tịnh, nhiều, ít, dày, mỏng khác nhau, nên sự lănh thọ rất khác biệt. Nếu tạm lấy nhân loại để luận định th́ kẻ Thế Trí Biện Thông tập khí ô nhiễm quá nặng, trở thành chướng ngại đối với Phật pháp. Kẻ mù, điếc, câm, ngọng do mầm ác quá nặng,
cũng trở thành chướng ngại trong việc tiếp nhận Phật pháp. Nhân đạo đă là như thế, [suy ra] có thể biết [t́nh h́nh] trong tam đồ. Chẳng phải là nói “trong địa ngục chẳng có Phật pháp”, mà là nói: “Tuy có, nhưng tiếp nhận khá khó khăn!”
* Hỏi: Phật, Bồ Tát hóa thân vô số trọn khắp vũ trụ. Tam giới vô số, dẫu lấy cơi này để luận, làm sao biết các hạ chẳng phải là hóa thân của Bồ Tát? Lại nữa, đối với phương tiện cứu độ chúng sanh của Phật, Bồ Tát, có thể [nói các ngài] chẳng phải chỉ xuất hiện dưới
thân Phật trong các loài. [Tôi nghĩ] những vị thuở
trước như Nghiêu, Thuấn, Khổng Tử, Châu Công,
cho đến Gia Tô (Jesus), Mục Hăn Mặc Đức (Mohammed, Muhammad), Nam Đinh Cách Nhĩ (Florence Nightingale)[1]
v.v... và các vị đại
thần tiên được người Trung Quốc tôn sùng,
cũng như các bậc thánh hiền xưa nay trong ngoài
nước, đa số
phải là hóa thân của Phật, Bồ Tát! Nhưng đối với những vị ấy, Phật giáo đồ hết sức phân biệt, hậu học nghĩ: Gặp đời kiếp nạn này, hăy nên lấy khuyến thiện làm chủ yếu, chẳng cần phải chửi kẻ khác là ngoại đạo, phân biệt giáo môn, khiến cho sự hoằng dương rộng răi bị trở ngại, tŕ trệ, có lẽ sẽ hợp với tâm Phật hơn! (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: Đối với lời cao luận của Ngài, trừ những lời lẽ lầm lẫn tán dương tại hạ ra, những điều khác đều rất thích đáng. Nói đến “phân biệt” th́ cũng nên có sự phân biệt trong phân biệt. Chỉ nói đến Thiện th́ thiện là phải ḥa đồng với mọi người, chỉ nên nhất loạt tùy hỷ, đó gọi là “chúng thiện phụng hành”. Nếu nói đến Đạo th́ chẳng bắt buộc phải gượng ép cho giống nhau, mỗi đạo có bản chất và tinh thần riêng biệt. Hễ bản chất bị biến đổi th́ học thuyết cũng chẳng thể thành lập được!
Chỉ nên mỗi đạo giữ lấy cương vị, người ưa thích núi, kẻ ưa thích nước, tùy người ta chọn lựa, chớ nên thù hằn, ganh ghét. Nói theo bản thân Phật giáo th́ vốn có các thuyết so
lường Quyền và Thật, liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, nên mới có thuyết Ngũ Thừa. Những đạo nằm ngoài Phật giáo há lại có thể vượt trỗi Ngũ Thừa ư? Phật giáo vốn chẳng công kích các giáo khác (ngoại trừ những trường hợp họ t́m đến tranh
luận), nhưng các giáo khác chuyên công kích Phật giáo!
* Hỏi: Ma h́nh thành như thế nào? Có thể nói cho biết lịch tŕnh [h́nh thành ma] cụ thể ra sao hay chăng? Đức Thích Ca hàng ma, nhưng chưa
độ ma, là do nguyên nhân nào? Có phải là ma chẳng thể độ ư? (Lưu Định Nhất hỏi)
Đáp: Phàm những chuyện chướng
ngại Phật pháp và kẻ phản
đối Phật pháp đều giả định là Ma! Chữ Ma (魔) vốn là Ma (磨), có nghĩa là “gây khó khăn, chướng nạn”. Sự Ma phần nhiều sanh từ tâm, Nhân Ma cũng do nghiệp duyên. Thích Tôn hàng ma, đó là độ ma, “hàng” (降) là chế phục vậy! Đương
nhiên tự biết hết thảy [những kẻ được hóa độ]
đều khuất phục, nên gọi là “hàng”. Chỉ có điều “độ” là tự độ, [kẻ được hàng phục] có chịu [phụng hành] hay không, lại tùy thuộc vào căn cơ của đối phương. Giống như lương y cho
thuốc, chí mong cứu người, nhưng uống thuốc
hay không là do người bệnh tự quyết định!
* Hỏi: Một kẻ tri thức thế tục,
nghiệp báo khá sâu, nói cách khác là kẻ đọc sách đă nhiều năm, nay đang thệ nguyện học Phật hoàn chỉnh, có nên đổ công sức [nghiên cứu, học tập] toàn bộ Đại Tạng Kinh hay không? Do chuyện này bèn hỏi là nên bắt đầu từ phương diện nào (Kinh Tạng, Luật Tạng, Đại
Thừa, hay Tiểu Thừa) th́ sẽ dễ dốc sức hơn? Về phương thức th́ nên giữ thái độ chẳng cầu thấu hiểu cho lắm, cứ để lại đó, mai sau sẽ dần dần lănh ngộ? Hay là mỗi khi đọc một kinh nào, ắt phải chú trọng đọc rộng, hiểu thông suốt để cầu thâm nhập? (Hoàng Thao hỏi)
Đáp: Tŕnh tự học Phật chia ra thành Thông (thông thường) và Biệt (đặc biệt, riêng biệt). “Thông” tức là bốn chữ “Tín, Giải, Hành, Chứng”. Biệt là chẳng cần theo thứ tự, vừa khởi đầu liền chọn một môn để hành. Thông th́ chẳng có vấn đề ǵ đáng nói, nhưng Biệt th́ cũng phải trọn đủ tín tâm. Người tín tâm mạnh mẽ chỉ hành công phu ấy liền có thành tựu. Nếu không, ắt phải cầu hiểu, ḥng tăng trưởng ḷng tin. Đó là hành và giải cùng tiến hành, hoặc hành trước, giải sau, không ǵ chẳng được!
Đó là điều thứ nhất.
Kẻ mới học mà đọc Đại Tạng, sợ chẳng đạt được lợi ích, v́ kết cấu của Đại Tạng chủ yếu là sắp xếp theo thể loại của các kinh, chẳng phải là sắp theo khóa tŕnh từ cạn tiến đến sâu, từ đầu tới cuối vậy! Người học Phật hăy nên nắm khái quát giáo tướng rồi mới đọc Đại Tạng th́ mới có cửa nẻo [để thâm nhập]; ví như trước hết phải biết bơi lội thông thạo rồi mới có thể vào biển cả. Đó là lư do thứ hai.
Người đọc Đại Tạng cũng chia thành hai loại:
- Thứ nhất là Tĩnh Lự, lấy đọc kinh làm công khóa, chỉ cung kính đọc theo từng câu, chẳng nghĩ ngợi, suy lường.
- Thứ hai là “nghiên giáo”, tức là cầu hiểu rơ ư nghĩa. Chuyên chú trọng ḍ t́m, truy cầu [nghĩa lư], hy vọng từ văn tự mà thấy được
phần nào Thật Tướng.
* Hỏi: Đức Phật nói “hết thảy chúng sanh
đều là vị
lai chư Phật”,
đấy có phải là để đả phá quan niệm bất b́nh đẳng của chúng sanh hay không? Lại nói hết thảy người nam, hết thảy kẻ nữ đều là cha mẹ trong đời quá khứ; đó có phải là để đả phá sự phân biệt của chúng sanh hay không? (Trang Quư hỏi)
Đáp: Đối với hai ư cư sĩ vừa đề ra, cũng chẳng phải là không thể nói như vậy; nhưng xét theo sự thật th́ [những ǵ đức Phật đă nói] cũng chẳng phải là hư giả. Chúng sanh đều
có Phật tánh, gặp duyên bèn khởi tu, đoạn sạch vô minh, tức là Phật vậy! Hết thảy nam nữ và ta trong trần điểm
kiếp đều trôi lăn trong sáu đường, từng làm cha, mẹ, con cái của nhau, há chỉ một lần, nhưng do mê muội khi cách ấm, nên chẳng c̣n hay biết! Nam là cha ta, nữ là mẹ ta, há c̣n đáng ngờ nữa ư?
* Hỏi: Chánh hạnh nơi đạo là có cả thiện căn lẫn trí huệ. Tự hành
đoạn được
Kiến Hoặc và Tư Hoặc, do trợ hạnh từ bi cùng với phước
đức nên có thể đoạn Trần Sa Hoặc. Làm như thế nào sẽ có thể
đoạn? (Trang Quư
hỏi)
Đáp: Trợ hạnh có nhiều loại. Thượng
cầu hạ hóa là trợ hạnh trọng yếu. Một chuyện không biết bèn gọi là Trần Sa Hoặc. Thường hành từ bi, mới hiểu căn khí của chúng sanh, mới thấu triệt thế sự rối ren. Học trọn hết Phật pháp, sẽ có thể
đoạn nghi, sanh tín, trí huệ tự nhiên mở
mang, thông suốt. Hành như thế th́ có thể đoạn được Trần Sa.
* Hỏi: Thuở đức Thế Tôn giáng sanh tại Trung Ấn Độ, làm Thái Tử của vua Tịnh Phạn nước Ca Tỳ La Vệ, vinh hoa, phú quư thượng đẳng. Do
duyên cớ ǵ chẳng hưởng thụ phước báo và địa vị của bậc vương giả trong loài người mà lại muốn xuất gia? Tu đạo trong chốn núi rừng, há chẳng chịu hết nỗi khổ gió sương, đói rét ư? (Hoàng Mễ Điền hỏi)
Đáp: Tham hưởng vinh hoa phú quư chính là sự ích kỷ của phàm phu. Cứu
độ vô biên chúng sanh chính là công huân to lớn
của bậc thánh nhân. Nay tôi dùng pháp thế gian để tỷ dụ! Vua Đại
Vũ trị thủy, ba lần đi qua cửa nhà ḿnh mà chẳng vào [thăm vợ con], con sanh
ra chẳng ngó tới, tay chân phồng rộp, thân h́nh như cây khô. Nếu vua Vũ chẳng hứng chịu nỗi khổ sở ấy, há Trung Hoa có bọn người chúng ta? Đức Thế Tôn chẳng dầm sương, dăi gió, chịu đói, chịu khát, thành đạo trong
chốn núi rừng, chúng sanh nhờ vào đâu để vượt thoát luân hồi, ĺa khổ, được vui?
* Hỏi: Đức Thế Tôn tự chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, v́ nguyên nhân ǵ mà phải sáng lập giáo? (Hoàng Mễ Điền hỏi)
Đáp: Đức Thế Tôn thành Phật cũng chẳng phải v́ tự vui thú Niết Bàn, mà vẫn là do mong mỏi chúng sanh thoát ly Nhị Tử (Biến Dịch Sanh Tử và Phần Đoạn Sanh Tử), cùng chứng Phật quả.
V́ thế, lập ra giáo pháp, đem những điều đă tu, đă chứng dạy hết cho đại chúng, ngơ hầu họ đều
thành tựu. Nếu chuyên v́ lợi lạc chính ḿnh, chỉ chứng A La Hán là đă đủ rồi, cần ǵ phải nhọc nhằn ba Tăng Kỳ, khổ sở tu vạn hạnh ư?
* Hỏi: V́ sao đức Thế Tôn bảo các đệ tử hăy hoằng pháp, khất thực các nơi? (Hoàng Mễ
Điền hỏi)
Đáp: Dạy đệ tử hoằng pháp ở các nơi vẫn nhằm lợi lạc chúng sanh. Khất thực là chẳng tích cóp tiền của riêng tư, v́ sợ tâm nhiễm sáu trần, chẳng thể chuyên tu đạo ḥng cứu độ chúng sanh.
* Hỏi: Đức Thế Tôn dạy các vị đại đệ tử (họ là phước điền tăng) thường hành cước giữa dân chúng. Hóa duyên khất thực th́ có lợi ích ǵ? Có lợi cho dân chúng hay chăng? (Hoàng Mễ
Điền hỏi)
Đáp: Kinh Tứ Thập Nhị Chương có câu: “Phạn phàm nhân bách, bất
như phạn nhất thiện nhân” (đăi ăn một trăm người phàm, chẳng bằng đăi ăn một người lành). Lần lượt theo
thứ tự, tới “phạn tŕ Ngũ Giới
giả vạn nhân, bất như phạn nhất Tu Đà
Hoàn” (đăi ăn một vạn người tŕ Ngũ Giới, chẳng bằng đăi ăn một vị Tu Đà Hoàn). Cao hơn nữa là “phạn A
Na Hàm nhất ức, bất như phạn nhất A La Hán” (đăi ăn một ức A Na Hàm, chẳng bằng đăi ăn một vị A La Hán). Lời ấy nhằm dạy: Do thí cơm cho người khác, nên có thể đạt được công đức như thế! Các đệ tử của đức Thế Tôn, nếu chẳng phải là A La Hán th́ cũng đă chứng ba quả trước đó, dân chúng cúng dường cơm bèn đạt được
phước báo. Cứ suy theo kinh, liền biết [phước báo ấy to lớn đến đâu]!
* Hỏi: Chỉ nói riêng trong tỉnh Đài Loan, hiện thời Phật giáo rất hưng thịnh. Ở mọi ngơ ngách, chùa cũ được
tu bổ, hoặc chùa mới dựng, mỗi năm một tăng, nhưng trong dân chúng ở khắp mọi nơi, nghe thấy những lời lẽ lạ lùng, đa số nói: “Gần đây, sao có lắm kẻ xuất gia đi hóa duyên ngần ấy?” Mong lăo cư sĩ thiện giải chỉ dạy! (Hoàng Mễ
Điền hỏi)
Đáp: Lời ông hỏi ư nghĩa chẳng rơ ràng! “Thiện giải” là nói về phương diện nào? Nếu tôi thốt lời bừa băi, sợ chẳng khế cơ, nên đành để lại đó, sau này mới lại bàn tới th́ cũng chẳng muộn!
Hỏi: Sau khi liễu thoát sanh tử th́ có ĺa vật hay không? Có ĺa thần hay không? Theo tư tưởng Phật giáo, đương nhiên chẳng phải là vật, mà cũng chẳng phải là thần, nhưng Pháp Tánh chẳng phải là thần hay vật, chẳng thể nghĩ bàn lại do đâu mà có? (ngoại giáo quy kết về Đại Tự Nhiên Thần Ngă, chẳng hợp lư!) (Trần Tâm Bồi hỏi)
Đáp: “Bất sanh, bất
diệt; vô thỉ, vô chung”. Nếu đại đức cứ khăng khăng hỏi “từ đâu mà có”, th́ hai câu trên đây là Thánh Giáo Lượng. Nếu chẳng hiểu, chẳng tin, cứ muốn hỏi [Pháp Tánh] xuất phát từ đâu th́ chỉ có cách hỏi đức Như Lai.
* Hỏi: Tu hành có điểm kết thúc hay không? Hễ có mục đích tức là chấp trước. Không có mục đích th́ lại là mê. Giả sử Có và Không đều chẳng có th́ sự tu hành ấy lại chẳng thành lập. Có hành hay không hành đều là trụ, mà trụ th́ chẳng có tiến bộ được!
(Trần Tâm
Bồi hỏi)
Đáp: A La Hán gọi là Vô Học, đó là
điểm kết thúc của Tiểu Thừa. Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác là Vô Học, là điểm kết thúc của Đại Thừa “Bất
tận hữu vi, bất trụ vô vi” là Thánh Giáo Lượng. “Bất tận hữu vi” có thể nói miễn cưỡng là “có mục đích” ; “bất
trụ vô vi” là chẳng chấp, chẳng trụ. “Tâm
chẳng trụ pháp mà hành bố
thí”, hành bố thí là
mục đích, chẳng trụ pháp là Thể Không, há có mâu thuẫn? Câu “chẳng nhận biết rơ vạch khắc trên cán
cân, toàn bộ việc cân đong bị rối tung” chính là nói về chuyện này vậy!
* Hỏi: Có thể chứng minh hay không? Nếu chẳng thể chứng minh, vậy là chẳng thể kết thúc. Đương
nhiên,
khi Phật giáo đồ tranh luận cùng nhau, nếu có chứng cứ th́ đương
nhiên có thể trao đổi, nhưng trong cái “có thể trao đổi
ấy”, cái nhân (Biến Kế và Y Tha) của nó lại là chẳng thể được! Lại nữa, trong sự chẳng nghĩ bàn (bất khả tư nghị) của cái “chẳng thể được ấy” (bất khả đắc), làm sao có thể chứng minh được!
(Trần Tâm Bồi hỏi)
Đáp: “Lạ thay!
Lạ thay! Hết
thảy chúng sanh đều trọn đủ trí huệ
và đức tướng của Như Lai”. Đấy là đức Thế Tôn đă đưa ra chứng cứ, mà vẫn chẳng tin tưởng, kẻ khác há có thể múa mép [để thuyết phục kẻ khăng
khăng chẳng tin tưởng lời Phật dạy ư]? Phật giáo đồ tranh
luận với nhau, chỉ có cách dựa trên
lời dạy của đức Thế Tôn để biện luận. “Bất khả đắc” là v́ bọn phàm phu chúng ta vọng tưởng, chấp trước đă ḥa thành một khối, nên cách biệt điều này cả vạn quả núi, đúng là chẳng thể được.
Cớ sao Chứng Đạo Ca có câu “đắc được ǵ?”, cớ sao Đàn Kinh chép: “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính là lúc nào?” Ngôn ngữ chẳng thể biểu đạt điều này; tư duy, so lường chẳng thể hiển lộ được,
nên nói “chỉ có chứng th́ mới biết”.
* Hỏi: Liễu thoát có
phải là tự tu, tự đắc, tự biết? Nếu là như vậy, tổ sư truyền cho nhau như thế nào? (Trần Tâm
Bồi hỏi)
Đáp: Những điều tổ sư truyền dạy là pháp phương tiện, pháp ấy chẳng ngoài “trừ bỏ phàm t́nh” mà thôi, tâm tánh vẫn phải là tự thấy rơ ràng, bất quá [hành nhân tu tập đă đạt] đến một mức độ công phu kha khá th́ [vị thầy hay tổ] bèn làm tăng thượng duyên [giúp cho người
ấy tự khai ngộ], há có phải là từng mâm, từng chén, tay này đưa cho tay kia đỡ lấy ư?
* Hỏi: Mong lăo cư sĩ hăy biểu hiện tư tưởng căn bản của Phật giáo th́ đúng là mạt học rất may mắn, mà chúng sanh cũng rất may mắn. Hậu học
tin Phật đă nhiều năm, đối với chuyện lễ Phật và tĩnh tọa cũng có kinh nghiệm đôi chút, hiềm rằng đối
với câu “chánh tín” và tịnh tín chưa thật sự
đạt được,
nên thường nẩy sanh nghi hoặc, gây chướng ngại không chi to bằng! (Trần Tâm Bồi hỏi)
Đáp: Tam Tạng mười hai
phần giáo rạng rỡ trong cơi đời mà [ông] vẫn [cảm thấy] chưa đủ ư? Thiền, Tịnh, Mật, Luật, xưa nay người nương theo đó mà thành tựu, đâu phải chỉ là ngàn vạn, há chẳng phải là căn bản ư? Hăy nên biết: Hiện thời dẫu cùng lúc xuất hiện một vạn vị Phật th́ các Ngài thuyết pháp vẫn là như thế. Nếu ĺa khỏi điều này, nói tới chuyện khác, th́ đó là ma ngữ! Đại đức ơi! Kẻ hèn này mạo muội dâng lên một lời: Học về tâm tánh, ắt phải được bậc tông tượng chỉ điểm. Nếu không, cũng có thể nghiên cứu, t́m ṭi dựa trên văn tự, có lẽ cũng có thể uốn nắn chánh tri kiến. Mong được thọ dụng mấy phần th́ cũng phải cậy vào mấy phần công phu! Nếu chẳng có đồng bạn, kiến thức ít ỏi, chẳng thông đạt văn nghĩa, tự ḿnh ṃ mẫm trong chốn tối tăm, vớt trăng nơi đáy giếng th́ không chỉ là chẳng thể minh tâm kiến tánh, mà muốn đạt được mấy phần tin tức, e rằng cũng phải tới năm nảo, năm nao!
* Hỏi: Tôi thường mang sách Phật đến trường tụng
niệm, thường bị bạn học
cười nhạo, dụng ư [của những kẻ ấy] là ở chỗ nào? Lại phải nên giải quyết ra sao? (Trần Đăng Phùng hỏi)
Đáp: Pháp luật có văn bản rơ ràng quy định tự do tín ngưỡng tôn giáo rơ ràng, tin tưởng hay không ắt tùy ư mỗi người. Kẻ không tin tự nhiên nghe nói tới đạo bèn cười cợt, cũng chẳng có dụng ư ǵ, cố nhiên chẳng đáng quan tâm! Hăy nên biết: Phật pháp
như gỗ Chiên Đàn, đội lên đầu hay giày xéo dưới chân, đều nhiễm phải mùi thơm. Chỉ nên dùng Phật pháp để dạy người khác là được
rồi, c̣n người ta giữ thái độ như thế nào, chẳng cần bận tâm!
* Hỏi: Tôi cung kính đọc cuốn “Ngũ Thừa Phật Pháp Và Văn Hóa Trung Quốc” của đại cư sĩ Châu Kính Trụ, nơi trang tám mươi tám, phần giảng về Tinh Tấn có nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật do tinh
tấn nên rốt cuộc
thành Chánh Giác trước Di Lặc Bồ Tát”, chẳng biết sự tích ấy
là như thế nào? [Chuyện ấy] được
chép trong kinh điển nào? (Lữu Mậu Thịnh hỏi)
Đáp: Chuyện ấy được chép trong quyển thượng kinh Bồ Tát Bổn Hạnh. Do kinh văn dài nên làm sao có thể trích lục đầy đủ [trong cột báo này] cho được! Muốn biết tường tận, ông có thể hỏi mượn người có kinh ấy để đọc. Tại Đài Loan, người thâu thập Đại Tạng Kinh thật nhiều. Kinh ấy thuộc về Bổn Duyên Bộ[2] [trong Đại Tạng Kinh].
* Hỏi: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”, xin hăy dạy cho biết “cái nhân” của hàng Bồ Tát là nói về điều ǵ? (Lữu Mậu Thịnh hỏi)
Đáp: Nhân là động cơ (motivation) và khởi đầu của sự việc, Quả là sự kết thúc và thọ báo của sự việc. Nay đang sống trong khổ sở, ách nạn, đó là quả báo. Phàm phu si mê, [đến khi] thân lănh chịu [quả báo] mới nhận biết, đó gọi là “sợ quả”. Tuy sợ, cũng chẳng ích ǵ! Tội ác đă tạo trước kia là nguyên nhân. Bồ Tát có trí, thấy khởi đầu liền biết kết cục. Đó gọi là “sợ nhân”. Do sợ nên chẳng tạo [nhân gây ra ác quả] nữa!
* Hỏi: Ở quê tôi, Nhất Quán Đạo thịnh hành. Đó gọi là “thời
kỳ Mạt Pháp, buôn bán Như Lai, tuyên thuyết khai
thị dường như Chánh Pháp, nơi nơi
đều có”, khiến cho người ta cảm khái muôn vàn, thậm chí có kẻ giống như người xuất gia qua lại giao du cùng họ. Văn bối thuộc lứa tuổi thanh niên, nhưng hiểu biết Phật pháp đôi chút, trong ḷng chẳng nỡ, xin hăy dạy cho biết: Đối với những vị pháp sư ấy, nên làm như thế nào? (Lữu Mậu Thịnh hỏi)
Đáp: Chữ “pháp sư”
trong lời ông hỏi là nói về tu sĩ Nhất Quán Đạo hay là nói về những người giống như kẻ xuất gia? Hai hạng người
ấy đều không phải là pháp sư, không nên dùng tôn hiệu [pháp sư] để tùy tiện gọi họ! Nói tới chuyện “buôn bán Như Lai”, cố nhiên là tội lỗi, nhưng bọn họ vẫn chưa có đủ tư cách đă nhận lănh tiếng xấu ấy! C̣n nói “đối phó với họ như thế nào” th́ nếu có sức cảm hóa, bèn khuyên họ cải tà quy chánh. Nếu tự xét ḿnh chẳng có sức, trời đất mênh mông, sao lại chẳng dung, cứ để mặc họ, chẳng quan tâm tới mà thôi!
* Hỏi: Có bà cụ già ở xa nhà tôi trong xóm, thường xuyên hỏi tôi về kinh Phật. Bà cụ thờ Dược Sư Phật, tôi thường giảng cho cụ nghe về kinh Di Dà và pháp môn Tây Phương Tịnh Độ, [như vậy th́] có phạm lỗi “khách ồn ào lấn át chủ” hay không? (Lữu Mậu Thịnh hỏi)
Đáp: Bà cụ ấy tuy thờ tượng Dược Sư Phật, chắc là cũng chẳng hiểu lư, chưa tu pháp ấy. Giảng cho bà ta nghe về Di Đà, chính là dạy bà ta vượt thoát luân hồi, liễu thoát sanh tử, hoàn toàn chẳng có ǵ là không nên!
* Hỏi: Bán kính của địa cầu là sáu ngàn ba trăm năm mươi cây số, v́ sao kinh nói chúng ta là “bạc địa phàm phu”?[3] (Trần Đăng Phùng hỏi)
Đáp: Kích thước địa cầu nếu hoán đổi theo đơn vị đo lường th́ xưa nay, trong ngoài nước, trọn chẳng thống nhất. Kinh Phật và sự trắc lượng hiện thời [do đó] cũng chẳng phù hợp!
* Hỏi: Ngày Phật Đản là ngày mồng Tám tháng Tư nông lịch (âm lịch), v́ sao nước ta khánh chúc nhằm ngày mồng Tám tháng Tư quốc lịch (dương lịch), có phải là sai lầm hay không? (Trần
Đăng Phùng hỏi)
Đáp: Đấy là nhằm thích ứng với quốc lịch, là biện pháp dung thông.
* Hỏi: Thị giả của Địa Tạng Bồ Tát là ai? (Trần Đăng Phùng hỏi)
Đáp: Người mang h́nh tướng xuất gia là ḥa thượng Đạo Minh;
cụ già tại gia là bố của ḥa thượng Đạo Minh, tức Mân lăo cư sĩ[4].
* Hỏi: Có sắp mở lớp Phật Học Hàm Thụ hay không? (Trần
Đăng Phùng hỏi)
Đáp: Đại khái là năm nay tôi không dự định mở lớp.
* Hỏi: Học nhân kể từ khi quy y Tam Bảo đến nay đă tham dự lễ kỷ niệm thánh đản đức Phật hai lần. Địa điểm lần đầu là ở Nghi Lan, thời gian nhằm ngày mồng Tám tháng Tư âm lịch năm Dân Quốc 50 (1961). Lần sau tại tân công viên của thành phố Đài Bắc, tức ngày mồng Tám tháng Tư dương lịch năm nay. Cớ sao ngày tháng kỷ niệm khánh chúc một vị thần thánh vĩ đại trong đạo chúng ta trọn chẳng thống nhất, đúng là tạo cớ cho người ngoài chê cười! Có thể kiến nghị hội Phật Giáo Trung Quốc thông cáo các nơi cử hành [lễ Phật Đản] thống nhất hay không? Kính xin hăy dạy cho! (Liêu Thanh Hoa hỏi)
Đáp: Hiện thời đối với chuyện cử hành lễ Phật Đản, đă h́nh thành hai lượt [kỷ niệm] theo quy định chung và riêng biệt. Theo luật định th́ lấy ngày mồng Tám tháng Tư dương lịch để cử hành, do hội Phật Giáo lănh đạo. Riêng biệt th́ lấy ngày mồng Tám tháng Tư âm lịch do các chùa tự do cử hành. Chuyện này cũng giống như ăn Tết. Ăn mừng Tết Dương Lịch là chuyện tiến hành riêng tư, trong mỗi cơ cấu hay đoàn thể sẽ tiến hành [ăn mừng hay không], c̣n ăn mừng Tết Âm Lịch th́ là công khai, toàn thể nhân dân đều ăn mừng. Dường như chẳng thống nhất, nhưng thật ra là thống nhất. Đă cử hành theo cả âm lịch lẫn dương lịch th́ chẳng thể có ǵ đáng để chê cười cả!
* Hỏi: Phần đông nhân sĩ trong xă hội hiểu lầm Phật giáo đến nỗi gây ảnh hưởng thật lớn đối với chuyện hoằng pháp. Họ thường đem những chuyện “quái lực, loạn thần” trong thần đạo[5] đổ lên đầu Phật giáo. Chẳng hạn như đối
với sự kiện Trương Ngọc Cô[6] trong quá khứ, tín đồ Cơ Đốc Giáo bèn tuyên truyền là Phật pháp mê tín đến nỗi chết người, mặc sức công kích. Thậm chí các sách báo cũng đem những sự kiện như Thành Hoàng, thần tài, Vương Gia, cầu phước, cầu tài choàng vào đầu Phật giáo, đúng là khiến cho người ta đau ḷng. V́ hộ giáo, hoằng pháp, có nên in nhiều tập sách nhỏ tuyên truyền (loại bỏ túi) dùng h́nh thức vấn đáp bằng văn tự thông tục để giới thiệu Phật giáo với đại chúng hay không? (Liêu Thanh Hoa
hỏi)
Đáp: Những điều ông nói cũng chẳng phải là không nên, nhưng những sự phân tích như vậy trong các tạp chí Phật học cũng thường tuyên truyền. Kẻ chẳng đọc sách hoặc cố ư vặn vẹo, có thấy th́ cũng như chẳng thấy. Ở Đài Loan có phổ biến các cuốn Ám Lộ Chỉ Quy và Ám Lộ Minh Đăng là những tập sách nhỏ phân tích [những ǵ là] Phật giáo hay chẳng phải Phật giáo.
* Hỏi: Cơ Đốc Giáo truyền giáo đúng là phiền phức khôn xiết! Tuy tôi thường nói rơ ḿnh là tín đồ Phật giáo, nhưng bọn họ cứ bâu lấy tôi ầm ĩ, lải nhải truyền đạo chẳng ngớt. Có một lần, có một tín đồ tôn giáo khác thấy tôi ương bướng, bèn v́ tôi cầu nguyện, quỳ ngay hai gối xuống đất, miệng khấn nguyện liên tiếp. Chưa đầy một phút, toàn thân hắn bỗng nhiên giật đùng đùng giống như lên cơn kinh phong, tôi tưởng là có chuyện ngoài ư muốn xảy ra, kinh hoảng muôn phần. Sau đó hỏi tới th́ hắn nói là do Thánh Linh của Thượng Đế giáng xuống thân! Đúng là khiến cho người khác dở khóc, dở cười, giống như chuyện mê tín, chẳng thể tránh né được, chẳng thể căi lẫy, chẳng biết phải làm như thế nào mới nên! Xin hăy dạy cho tôi kế sách đối phó! (Liêu Thanh Hoa
hỏi)
Đáp: Nếu họ xử sự lễ phép th́ ta lễ độ từ tạ, bảo họ mỗi người có chí riêng, pháp luật quy định tự do tín ngưỡng tôn giáo. Tam quân có thể cướp tướng, chứ thất phu chẳng thể đoạt chí. Nếu họ thiếu học thức, chẳng hiểu Lư, cứ cưỡng ép, gây khó dễ, bèn dùng Sự để cự tuyệt, hoặc là im lặng, chẳng đoái hoài, hoặc tránh né chẳng gặp, tùy cơ ứng phó, há có cách nhất định!
* Hỏi: Do Tứ Thánh Đế mà tu chứng Tứ Quả th́ tột bậc là A La Hán. Do tu chứng Thập Nhị Nhân Duyên mà thành Độc Giác Phật (Bích Chi Phật). Tu Bồ Tát pháp bèn chẳng trải qua hai địa vị trên đây, có thể từ Thập Trụ, Thập
Địa lên thẳng địa vị Phật, chẳng cần phải tu chứng Tứ Quả; nhưng chư đệ tử của đấng Thích
Tôn đều thị hiện
chứng quả A La Hán, chẳng rơ ư nghĩa uyên áo ở chỗ nào? (Kẻ ngoài cửa hỏi)
Đáp: Căn khí của chúng sanh không đồng
nhất, nên đức Phật chia ra ngũ thừa phương tiện. Nếu chỉ nói một thừa, chẳng thể phổ
độ. Bồ Tát tuy tu lục độ, vạn hạnh, nhưng cũng hiểu sâu xa Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên. Tuy La Hán tự giải thoát cho riêng ḿnh, vẫn khuyên họ hồi Tiểu
hướng Đại, tấn tu Phật quả.
* Hỏi: A La Hán là cực quả trong Tiểu Thừa; mà có thể tu Phật quả của Đại Thừa ư? “Đại A La Hán” có phải là nói những vị La Hán bỏ Tiểu Thừa hướng về Đại Thừa hay không? Rốt cuộc có mấy loại A La Hán? (kẻ ngoài
cửa hỏi)
Đáp: Đối với Đại Thừa Phật pháp, chỉ cần chịu phát tâm, bất luận ai cũng
đều có thể tu được,
huống hồ La Hán! Đại A La Hán chính là Bồ Tát, do bên trong ẩn tàng bổn hạnh nên thị hiện làm căn cơ nhỏ nhoi, hướng về đức Phật hỏi đáp, nhằm tạo lợi ích cho những người khác. Đại A La Hán trọn chẳng phải là nói tới những vị bỏ Tiểu Thừa, hướng theo Đại
Thừa. Đă hướng về Đại Thừa, bèn chính là Bồ Tát, sao c̣n gọi là La Hán cho được? C̣n như hỏi mấy loại th́ chỉ có một, không hai. Trong kinh tuy có nói “Ly Dục Đệ Nhất” và kể kèm thêm những danh xưng
khác, bất quá là nói theo tướng, chứ luận theo
tánh bèn chẳng có phân
biệt. Ví như núi đá, mùa Xuân gọi là
Tiếu (笑), mùa
Hạ gọi là Trích (滴), mùa Thu gọi là Trang (妝), mùa Đông gọi là Thụy (睡), đều là đặt theo h́nh
tướng, chứ thật ra vẫn là núi đá mà thôi!
Hỏi: Chư Phật nhập
rốt ráo Niết Bàn là
một, hay là khác? Nói theo lư tưởng th́ phải nên là một (tức là toàn thể vô phân biệt
như nước ḥa vào biển cả). Nếu như vậy th́ vô minh dấy động,
chư Phật cũng có quan hệ liên đới. Vũ trụ do các nghiệp cùng hợp thành, chư Phật cũng có một phần trong ấy! (kẻ ngoài
cửa hỏi)
Đáp: Chư Phật Niết
Bàn như vầng trăng sáng ngời giữa trời biếc, chúng sanh vô minh như mây dầy, mưa gió. Thử hỏi mây dầy, mưa gió có trở ngại trời biếc, trăng sáng hay không? Lại nêu một thí dụ nữa, Giáp và Ất cùng nằm trên một giường, Giáp và Ất cùng chia sẻ chiếc giường ấy, nhưng Giáp ngủ chẳng mộng mị ǵ, mà Ất mộng thấy cảnh ác. Vậy th́ đối với ác mộng của Ất, Giáp cũng có phần ư?
* Hỏi: Như Lai là “như như bất động, đi như chẳng đi, đến như
chẳng đến”. Sách Phật giải thích [chữ Như Lai]
như vậy, người chưa thông pháp nghĩa rất khó thấu hiểu. Nếu dùng [ư nghĩa] “trừ vọng, trở về
chân, khôi phục Phật tánh” để nói th́ có phải là nghĩa “như Ngă
tự lai” hay chăng? (kẻ ngoài cửa hỏi)
Đáp: Cổ đức chú giải hai chữ này có rườm rà và đơn giản [khác biệt], tùy thuộc Thể và Dụng của một bộ kinh nào đó, mà có sự vận dụng văn tự khéo léo [để giải thích chi tiết hay đại lược]. Muốn biết đại khái, có thể tra từ điển, chứ chẳng tiện sao lục trong cột báo này. Nay tôi kính đáp bằng cách nông cạn, đơn giản nhất: Tánh gọi là Chân Như. Chân là chẳng sanh, chẳng diệt. Như là thường hằng, bất
biến. Luận theo Tánh, há có đến, đi? Chữ Tướng chỉ sắc thân, sắc huyễn là h́nh,
thân là duyên sanh, đó là nói theo Tướng, nên bảo là có đến và đi.
* Hỏi: Xin hăy dạy chỗ tu tập ḥng có thể chứng Định, Huệ và Thiền. Nếu là bậc từng trải, ắt trong khi tu
tập sẽ có thể nói cho người khác biết [những chỗ ấy] rơ rệt, rành mạch nhất. Hậu học cho rằng: Định mà chẳng phát Huệ th́ thành tựu
hữu hạn, có thể nói là chẳng bằng ngoại
đạo. Tịnh Độ Tông niệm Phật đạt
tới nhất tâm bất loạn th́ định
lực đă đạt tới tŕnh độ phát huệ, cho nên được văng sanh đấy chăng? (kẻ ngoài cửa hỏi)
Đáp: Ông nêu lên ba điều, nhưng thật ra chỉ là Định và Huệ, v́ Thiền pháp cũng là Định. Pháp để cầu Định chẳng ngoài Chỉ Quán; Thiền, Tịnh, Mật, Luật là bốn giềng mối chính, nhưng mỗi giềng mối đều chia thành nhiều mục nhỏ nhặt. Pháp để cầu Huệ chẳng ngoài Văn, Tư, Tu, và bốn pháp Giáo, Lư, Hành, Tham. Các pháp cũng có những chi tiết. Người tu phải chú trọng cân bằng Định và Huệ, chỉ có kẻ hành chẳng đúng pháp, lệch về Định hay
Huệ [là thua sút, chứ đối với những người
Định Huệ cân bằng, sự tu tập ấy] đều là chánh nhân, rốt cuộc vẫn trỗi vượt ngoại đạo. Tịnh Độ Tông thích hợp khắp ba căn. Người khai huệ văng sanh thượng
phẩm, kẻ chưa khai huệ văng sanh trong hạ phẩm. V́ thế, kinh Di Đà chỉ nói đến “nhất tâm”, c̣n các nghĩa khác để cho hành giả tự lo liệu!
Hỏi: Thiền Tông “kiến tánh thành Phật” và Mật Tông “thành Phật ngay trong đời này” (tức thân thành Phật), những vị Phật ấy khác hay giống với Phật Thích Ca và Phật Di Đà? Hậu học cho rằng: [Xét theo phương diện] nguyện hạnh viên măn th́ có sai khác, nên Phật có đẳng cấp [khác nhau]! Vậy th́ các vị đại đức nhà Thiền, nhà Mật có nghĩ như vậy hay không? Lại nữa, tâm pháp “chẳng lập văn
tự” được gọi là Thiền Tông dường như có chút miễn cưỡng, chẳng viên dung bằng “giáo ngoại biệt truyền”. Tâm pháp há có phải là do cậy vào tu tập mà thành ư? (kẻ ngoài cửa hỏi)
Đáp: “Kiến tánh thành Phật” là nói “tự tánh
hiển lộ”, Phật là giác! Tánh là Bổn Giác, từ mê đạt đến ngộ là Thỉ Giác, công phu tăng tấn theo thứ tự nên gọi là Tùy Phần Giác, đạt tới viên măn cực quả bèn gọi là Cứu Cánh Giác. “Thành Phật
ngay trong đời này” chính là lúc tu pháp, tam mật tương
ứng, quán [chính ḿnh] trở thành Bổn Tôn. Khoan nói tới bậc đại đức thường ở trong Định, chứ học nhân thông thường hễ xuất Quán th́ vẫn là phàm phu! Thích Ca và Di Đà đều là Cứu Cánh Giác, thường
trụ Tịch Quang, những vị giống như Di Lặc trước thuở vị lai [giáng sanh thành Phật] đều chẳng thể sánh bằng. Ngoài ra, c̣n có những thuyết Tạng, Thông, Biệt, Viên, nên cũng là [các địa vị Phật] khác nhau! Thiền Tông chẳng lập văn tự chính là [phương tiện] quyền xảo nhất thời, trọn chẳng phải là nói năng tùy tiện, tu loạn xạ chẳng có đầu mối! Ắt phải trải qua [sự chỉ dạy của] bậc danh sư, được
hướng dẫn phù hợp mà khai ngộ. Ngộ là kiến đạo. Sau khi kiến đạo bèn tu đạo, nên mới chẳng đâm quàng vào ngơ hẻm của đường rẽ! Đă kiến tánh rồi th́ mới nghiên cứu giáo pháp, nên mới khế hợp thật nghĩa của Như Lai. Sự tu học này ắt phải khổ công giống như mèo bắt chuột, như gà ấp trứng. Lại phải như chôn cất cha mẹ, hao tổn tinh thần to lớn một phen. Mỗi pháp môn có tông thừa và gia phong riêng biệt,
trọn chẳng phải là đóng cửa chế tạo xe, người ḷa, ngựa mù! Chớ nên chỉ thấy mấy kẻ thuộc loại chồn hoang chỉ Thiền có cái miệng mà bảo là Thiền Tông như thế này, thế nọ! [Nếu chấp những kẻ ấy đang tu Thiền], tức là lầm lẫn to lớn vậy!
* Hỏi: Đức Thích Ca giáng hạ thế giới Sa Bà này hơn tám ngàn lần, chẳng biết Ngài đă giáng sanh trong cơi này bao nhiêu lần? Giáng hạ Trung Quốc mấy lần? Những thân ứng hóa của Ngài đều có thể khảo chứng hay chăng? (kẻ ngoài cửa hỏi)
Đáp: Kẻ hèn này chưa từng v́ câu hỏi này mà tra duyệt khắp Đại Tạng, chỉ có thể đáp là “không biết”.
* Hỏi: Vạn pháp do nhân duyên sanh; Phật, Bồ
Tát độ đời cũng chẳng rời khỏi nguyên tắc này. Chứng cớ là các đệ tử của đức Phật Thích Ca đều thành A La Hán. Vị tôn giả nọ chỉ biết niệm chữ “chổi lau” [mà vẫn thành tựu], nên biết duyên hành pháp lực của đức Phật vô biên. Nay đang thời Mạt Pháp, chúng sanh cầu đắc độ, há chẳng phải là đă khó khăn lại càng khó khăn hơn ư? Trong thời kỳ Mạt Pháp, có Phật, Bồ Tát v́ ḷng từ bi đối với chúng sanh mà riêng hoằng dương một pháp môn rộng độ chúng sanh hay không? (kẻ ngoài cửa hỏi)
Đáp: Cổ đức nói: “Thời kỳ Chánh Pháp, Giới Luật
thành tựu. Thời kỳ Tượng Pháp,
Thiền thành tựu. Thời
kỳ Mạt Pháp, Tịnh thành tựu”. Phật, Bồ Tát có cảm ắt ứng, tùy thời hiện thân, hóa độ chúng sanh, nhưng bọn ta chướng nặng, dẫu gặp gỡ mà bỏ lỡ, thật đáng buồn! Pháp môn Tịnh Độ được gọi là “môn dư đại
đạo”, tức là một pháp môn riêng biệt ở ngoài tám vạn
bốn ngàn pháp môn, cần ǵ phải cầu pháp nào khác nữa!
* Hỏi: Bố thí chú trọng tam luân thể không, nhưng hồi hướng công đức về Bồ
Đề đạo và chúng sanh th́ có rớt vào chấp tướng hay
không? Bởi lẽ, hồi
hướng ắt có ba tướng là ta, công đức và đối
phương! (Lâm Huệ Minh hỏi)
Đáp: Trong cửa nhà Phật, nói Lư nhưng chẳng phế Sự, nói Sự nhưng chẳng phế Lư. Tam luân thể không là Lư, hồi hướng là Sự. Kẻ học cạn, hiểu sơ sài, tự dùng hồi hướng làm phương tiện. Bậc học lâu, thâm nhập sâu xa, sẽ tự khế nhập, trở về Thể Không chân thật. Công đức của chúng ta là tướng, hồi
hướng là chấp tướng, tam luân thể không cũng là tướng. Hễ có ư niệm th́ cũng là chấp tướng, vậy th́ phải nên như thế nào mới
được? Đáp: Chẳng trụ vô vi, chẳng tận hữu vi, cũng chẳng hồi
hướng, cũng chẳng niệm Không, th́ sẽ có thể gần [đạt được
bố thí tam luân thể không] vậy!
* Hỏi: Tôi thường thấy người bệnh nặng, hết sức mong mỏi thay họ cầu đảo Phật, Bồ
Tát gia bị, khiến cho họ bệnh khổ tiêu trừ và tăng trưởng chánh tín, nhưng lại sợ đạo lực mỏng ít, chưa đạt được
cảm ứng, lại ngược ngạo khiến cho chúng sanh nghi hoặc thần lực của Phật, Bồ
Tát; chẳng biết lúc b́nh thời phải tu pháp nào, mang tấm ḷng như thế nào th́ gặp chuyện mới có thể đạt được cảm ứng? (Lâm Huệ Minh hỏi)
Đáp: Phàm là kẻ bị bệnh khổ đều là do oan nghiệt đời trước. Quả đă chín muồi, tuy phát tâm sám hối, e rằng đă trễ, huống hồ kẻ ấy chẳng tự hối ư? Người khác thay cho kẻ ấy sám hối, vẫn là do ḷng từ bi của người sám hối, ắt có công đức, nhưng người sám hối được hưởng nhiều phần, kẻ được
sám hối thay chỉ hưởng ít phần! Vẫn cần phải do người được kẻ khác sám hối giùm có tín tâm, sanh ḷng hổ thẹn; nếu không, dẫu chút phần cũng chẳng được
cảm ứng! Phàm những ǵ thuộc về Phật pháp đều có sức mạnh, chẳng cần phải phân biệt. Càng phải nên biết Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, nghiệp lực cũng chẳng thể nghĩ bàn! Pháp lực thắng nghiệp lực th́ nghiệp có thể tiêu. Nghiệp lực
thắng pháp lực, ắt nghiệp chẳng tiêu!
* Hỏi: Đạo Chung
Khải Minh, Khổng Tử, Đẩu Tinh Thánh Tượng Tập có phải là sách ngoại đạo hay không? (Trần
Đăng Phùng hỏi)
Đáp: Sách Đạo Chung
Khải Minh tôi chưa từng xem. Nh́n vào tựa đề [th́ thấy] văn từ và nghĩa lư chẳng thông suốt, ắt có thể suy ra nội dung như thế nào! Đối với sách Khổng Tử, tôi đă học tập từ nhỏ, nhưng trong Lục Kinh cũng chẳng thấy nói đến chuyện thánh tượng của Đẩu Tinh!
Trong mục lục kinh tạng nhà Phật cũng không có tựa sách ấy. Sách ấy chẳng dính dáng ǵ đến Phật và Nho!
* Hỏi: Nghe nói cầu cơ cũng có Phật Tổ giáng đàn chỉ dạy, nên tôi nghĩ cầu cơ cũng là Phật giáo, có sai hay không? (Trần
Đăng Phùng hỏi)
Đáp: Đàn pḥ loan (cầu cơ) là một thứ do thần đạo bày ra, chẳng dính dáng ǵ đến Phật giáo! Cái gọi là “sắc chỉ của Phật” là do bọn hầu đàn giả tạo, hoặc do linh quỷ giả mạo bịa đặt. Những lời lẽ xuất phát từ đàn cầu cơ, người thông hiểu Phật học đôi chút đều có thể phân biệt [dễ dàng]. Cư sĩ chớ nên chẳng phân biệt rơ đen trắng!
* Hỏi: Nghe nói: “Người
đă chết, hễ có tội bèn vào địa ngục thọ báo, kẻ vô tội liền văng sanh”, nhưng thường nghe người
ta nói ở chỗ nào đó, chính mắt họ thấy quỷ ǵ đó. Do đâu mà có chuyện “ở chỗ nào đó, chính mắt thấy quỷ ǵ đó”? (Lâm Tú Diễm hỏi)
Đáp: Lời ấy lầm lẫn quá đỗi! Hai chữ “văng sanh” là nói đến chuyện sanh về thế giới Cực Lạc. Không chỉ kẻ vô tội chẳng thể sanh về đó, mà ngay cả bậc đại thiện đại đức [nếu không phát nguyện văng sanh] cũng chẳng thể sanh về đó được! Chỉ có người thường niệm A Di Đà Phật đạt đến nhất tâm th́ mới có thể sanh về đó. Trong kinh
Di Đà đă dạy rất rơ, ắt phải tin tưởng. Nói tới chuyện vào địa ngục th́ cũng chẳng đơn giản như vậy!
Trong thế giới khổ sở này, có sáu giới tuyến, tức là thiên, nhân, tu-la,
súc sanh, ngạ quỷ,
địa ngục, được
gọi là “lục đạo luân hồi”, sống sống chết chết, vĩnh viễn luân chuyển trong ṿng khổ sở. Người khi c̣n sống niệm Phật, [sau khi chết] chẳng trở vào đó, mà văng sanh Cực Lạc. Kẻ chẳng biết niệm Phật, chết đi bèn tùy theo [nghiệp đă tạo là] thiện hay ác
mà vào lục đạo.
* Hỏi: Sau khi cha mẹ tôi đă khuất, tôi nghĩ nhớ, hoài niệm họ, có lúc nhớ nhung quá bèn dâng hương trước linh vị của họ, cầu khẩn họ cho tôi đêm nằm mộng thấy, nhưng trọn chưa từng mộng thấy. Như vậy th́ có lẽ chẳng có quỷ đạo ư? (Lâm Tú
Diễm hỏi)
Đáp: Con người sau khi đă chết, chẳng biết sẽ vào đường
nào trong lục đạo. Nếu thuộc vào quỷ đạo th́ có thể cảm vời, chứ trong những đường
khác,
họ đều chẳng thể đến được!
Nghĩ tưởng mộng thấy, đúng là chẳng có ích ǵ! Chẳng bằng niệm Phật, chúc phước cho người thân, cầu họ siêu thăng.
* Hỏi: Có phải nguyên nhân là v́ tôi từ trước đến nay ngủ chưa hề nằm mộng hay chăng? (Lâm Tú
Diễm hỏi)
Đáp: Trong câu trước đă nói rơ rồi, chẳng cần phải rườm lời nữa!
* Hỏi: Nghiên cứu Phật học, nên bắt đầu bằng việc đọc loại sách nào? (Lư Mậu Hồng hỏi)
Đáp: Phật học bao hàm thành phần triết học rất nhiều, lại có các thứ thuật ngữ và các học phái [khác biệt]. Lúc khởi đầu, nên xem các tập sách nhỏ về khái luận và thường thức để hiểu đại lược, sau đấy tiến cao hơn là nghiên cứu kinh th́ sẽ biết đường
nẻo.
(Phụ chú: Tệ xă kính tặng mấy tập sách nhỏ, xin hăy thâu nhận).
* Hỏi: Chẳng màng thắp hương, lạy Phật, niệm kinh, chỉ cầu nghiên cứu
sách vở Phật giáo và tuân hành giáo điều
trong Phật giáo th́ có thể coi là giáo đồ nhà Phật hay không? (Lư Mậu
Hồng hỏi)
Đáp: Tŕnh tự học Phật có bốn [giai đoạn] là Tín, Giải, Hành, Chứng. Nếu là người có thể thắp hương, lễ Phật, niệm kinh th́ là Tín. Người nghiên cứu giáo điển là Giải. Tuân thủ giáo điều để hành theo là Hành. Người có thể làm như vậy th́ là giáo đồ chân thật
trong nhà Phật, về sau ắt thành tựu nhanh chóng. Thành tựu chính là Chứng.
Hỏi: Phật giáo đồ trừ nghiên cứu giáo nghĩa Phật giáo ra, v́ sao c̣n phải thắp hương, lạy thần, và niệm kinh? Như vậy th́ chẳng
phải là biến thành mê tín hay sao? (Lư Mậu
Hồng hỏi)
Đáp: Tín đồ Phật giáo trọn chẳng sùng bái quỷ thần. Dâng hương cũng chỉ là biểu thị ḷng cung kính đối với đức Phật. Niệm kinh bèn có nhiều loại khác nhau: Một là giáo nghĩa được chép trong kinh, chẳng niệm làm sao có thể hiểu? Hai là công phu tu tập của Phật giáo là Giới, Định, Huệ. Niệm kinh là một cách để cầu Định. Người hiểu điều này th́ thắp hương, niệm kinh, nhưng chẳng mê tín. Kẻ không biết điều này, mong cầu phước báo th́ chẳng tránh khỏi mê tín!
* Hỏi: La Hán có mấy loại, cũng có phân biệt hay chăng? (kẻ ngoài
cửa hỏi)
Đáp: Điều này trong lời hỏi lần trước của Ngài, trong câu thứ hai đă đáp cặn kẽ rồi!
* Hỏi: Tôi trộm nghĩ La Hán c̣n chưa vượt thoát tam giới,
chỉ có Phật đă vượt thoát tam giới. Thái Hư đại
sư từng chia tam giới thành lớn, nhỏ. Tiểu tam giới cũng chẳng bằng Sắc Giới (xem chương
Phật Pháp Tổng Luận [của Thái Hư đại sư]), th́ chư thiên có thể nói là bậc thánh vượt thoát tam giới. “Thiên” như nhân loại thường nói chính là Đao Lợi Thiên. Do từ tam giới trở lên bèn chẳng hứng chịu các tai kiếp như hỏa, thủy, phong, tự ḿnh tránh được
các đại kiếp. Nếu La Hán đă chẳng thoái chuyển, tức là đă liễu luân hồi! Lại nữa, từ Vô Sắc Giới trở lên, rốt cuộc là giới ǵ? Hậu học vẫn chưa biết, cho rằng nó tương tự như Phật giới, cho nên Bích Chi Phật c̣n chưa thể đạt được,
huống là La Hán ư? Do tôi ít đọc kinh điển, nghi vấn đă lâu, nên xin cụ hăy khai thị! (kẻ ngoài
cửa hỏi)
Đáp: Tam giới là Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. La Hán dịch là Vô Sanh, đă đoạn hết Kiến Tư nhị hoặc, tức
là đă siêu xuất, chẳng có Phần Đoạn Sanh Tử. Ngoài Vô Sắc Giới vẫn có thế giới, bốn phương, trên, dưới, [đều có các thế giới] trùng trùng vô tận. Đây là nói theo phương diện Chất Cảnh (cảnh giới sắc chất). Nếu nói tới Phật giới, liền có Pháp và Báo sai khác. Pháp giới Tịch Quang vô tướng, trọn chẳng có giới hạn. Báo giới
(thuật ngữ gọi là Báo Độ), tùy thuộc Báo Thân mà hiện, chính là hóa cảnh (cảnh được biến hóa), chuyên nhằm lợi ích chúng sanh mà hiện bày. Báo Độ của Phật đă v́ lợi ích chúng sanh, người cảm được bèn có thể vào đó. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát
đều có thể dạo chơi trong đó. Nếu không, đức Phật hiện cơi ấy để làm ǵ?
* Hỏi: Phân định thiên giới [gồm bao nhiêu tầng trời] có phải là do kim khẩu của đức Phật nói ra hay chăng? Chép tường tận trong kinh điển nào? (kẻ ngoài
cửa hỏi)
Đáp: Trong đa số các kinh Đại Thừa đều có ghi chép, chẳng có cách nào liệt kê [cho xiết]. Nếu không [có dịp đọc trọn khắp các kinh điển Đại Thừa] th́ có sách Pháp Uyển Châu Lâm giống như một cuốn tiểu tự điển Phật giáo, tuy là trước tác của xứ Chấn Đán, nhưng [những điều chép trong ấy] đều có căn cứ giáo điển. Trong đó, có phần nói về cách xếp đặt thế giới, [đọc phần ấy] sẽ có thể biết t́nh h́nh đại lược.
Hỏi: Đối với Phật pháp, chẳng hiểu Thể, Dụng, chẳng thấu triệt ư nghĩa Sắc và Không. Như nói Thể là Chân Như, là Pháp Tánh, là Pháp Giới, là Pháp Thể, là Bát Nhă, là Tâm... Giả danh quá
nhiều, các tông khác nhau! Nay muốn biết đại khái về Pháp Thể, xin hỏi phải xem loại sách nào của nhà Phật? Xin hăy chỉ cho biết! (kẻ ngoài
cửa hỏi)
Đáp: Cư sĩ đă biết các danh từ ấy, nhưng do các tông bất đồng, muốn biết khái quát duyên do, ắt phải đọc trọn hết kinh
điển các tông th́ mới có thể hiểu rơ. Nếu muốn hiểu đại lược, chỉ tra duyệt Phật Học Từ Điển th́ cũng có thể phân biệt danh tướng, nhưng chẳng thể hiểu tường tận ư nghĩa! Nhưng động cơ là v́ nghiên cứu giáo hay là v́ chứng đạo? Nếu v́ chứng đạo, ngắn th́ là Kim Cang, Nhập Lăng Già, dài là Hoa Nghiêm, Đại Bát Nhă, Pháp Hoa v.v… Tùy ư chọn một loại, chuyên chú dốc công sức vào đó th́ sẽ có thể nhận biết những điểm trọng yếu trong bản thể của Pháp Tánh. Nếu v́ nghiên cứu giáo pháp, ắt phải tập hợp những kinh chủ yếu của các tông để đối chiếu những điểm tương đồng và dị biệt th́ mới có thể hiểu được chỉ thú!
* Hỏi: Thọ là một thứ trong
Ngũ Uẩn. Nói “quán Thọ
là Khổ” th́ chỉ là nói về Thọ Uẩn hay là nói chung cả Ngũ Uẩn? (Ngô Nhậm Huy hỏi)
Đáp: Sắc trong Ngũ Uẩn chỉ thân h́nh bên ngoài; Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tâm tưởng nội tại. Chữ Thọ (受) trong ấy chính là danh từ biểu thị một phần của tâm. Chữ Thọ trong “quán
Thọ là khổ” có ư nghĩa hơi khác với Thọ trong Ngũ Uẩn, nó chỉ có nghĩa là lănh nhận, trọn chẳng phải là đại danh từ [biểu
thị một phần của tâm]. Thân hứng chịu khốn khổ, ách nạn, tức là những nỗi khổ nơi Sắc Uẩn, c̣n tâm hứng chịu ưu năo là những nỗi khổ nơi bốn Uẩn Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
* Hỏi: Khổ là thực tại, Lạc là hư ngụy, Lư Sự hiển nhiên,
nhưng Tâm Kinh đối với những nghĩa Khổ cũng coi
chúng là Không, xin lại chỉ dạy! (Ngô Nhậm Huy hỏi)
Đáp: Tâm Kinh là sách phát huy huyền lư Bát Nhă, nói sắc tướng vạn pháp đều do nhân duyên ḥa hợp mà giả có, chứ vạn pháp thật sự chẳng có tự tánh, nên nói là Không. Vô tự tánh là Chân Không, hiện sắc tướng là Diệu Hữu. Nhưng Tánh là Thể của Tướng, Tướng là Dụng của Tánh, nên Tánh, Tướng, Thể, Dụng như một, Chân Không và Diệu Hữu như một. Do vậy, kinh dạy: “Sắc tức là Không, Không tức là
Sắc”, hai câu ấy viên thông tột bậc! Nhưng Tâm Kinh là kinh dạy về Tánh, tự nhiên sẽ diễn nói cặn kẽ về Không; c̣n kinh chẳng chuyên nói về Tánh sẽ quán sát căn cơ để nói về Tánh Không, hoặc nói về Tướng Có. Tuy vậy, hai câu “Sắc tức là Không, Không
tức là Sắc” của Tâm Kinh trọn chẳng mâu thuẫn với bất cứ kinh văn nào. Tứ Đế nói Khổ, Tâm Kinh nói Không, một đằng nói về Thể, một đằng luận về Dụng, chớ nên hiểu lầm!
* Hỏi: Mạng căn của chúng ta chẳng đoạn, chẳng thể cách tuyệt thế gian, đương
nhiên có mối tương quan
khăng khít, nhưng sống trong thế gian đau khổ này, phát tâm học Phật, cầu giải thoát, nên giữ thái độ ǵ cho thích hợp? (Ngô Nhậm Huy hỏi)
Đáp: Quán những ǵ chính ḿnh lănh nhận là Khổ, hăy nên hiểu rơ nhân quả, biết Khổ, đoạn Tập, hâm mộ Diệt mà tu Đạo ḥng cầu giải thoát. Quán những ǵ người khác hứng chịu là khổ, nên đồng thể
khởi bi, tùy duyên thí pháp, thiện xảo
hóa độ, hướng dẫn, khiến cho họ giải thoát.
* Hỏi: Kính nghe tiên sinh giảng diễn Phật Học Đại Nghĩa ba lượt, như bật tung cái nút chặn, nhưng dường như những lời chỉ dạy trước sau là những lời khải thị chú trọng lư luận, phần nhiều tỉnh lược sự tu hành về mặt Sự. Như tiên sinh đă dạy: “Thần thức là đại chướng ngại của Tánh. Khống chế duyên là pháp yếu căn bản để giải thoát biển khổ”. Nhưng trừ khử thần thức ra sao và khống chế duyên như thế nào chính là chỗ mấu chốt lớn nhất trong sự học Phật, tiên sinh có thể dùng phương tiện đơn giản, thẳng chóng nhất để khai thị những điều vừa nêu trên đây ḥng thỏa ḷng khát vọng hay không? (Ngô Nhậm Huy hỏi)
Đáp: Giảng diễn lần này, kẻ hèn này vốn có kế hoạch: Chia thành mười bốn phần nhỏ, trước hết là khơi gợi ḷng tin, sau đấy là hiểu Lư, kế đến là nêu lên pháp, tiếp đó là hành tŕ, rồi nói đến đường
tắt (cách hành tŕ nhanh gọn), cuối cùng là ân cần khuyên lơn, ngơ hầu có thể khiến cho kẻ sơ cơ trong khi lữ hành cầm được
bản đồ hướng dẫn, có thể dựa vào đó để đi, chẳng đến nỗi đâm quàng lối rẽ, chẳng đến nỗi bỡ ngỡ! Nếu vượt qua giai đoạn, nói tràn lan, sẽ giống như chẳng làm đường
mà cứ lái xe chạy bừa. Tôi đă có lời nói rơ, giảng lần này là nói về những điều thông thường. Nếu muốn có những cuộc tṛ chuyện đặc biệt th́ cũng có thể gặp gỡ riêng để có thể dùi mài lẫn nhau!
* Hỏi: Học tập Phật pháp như thế nào để thân tâm khỏe mạnh? Cổ nhân nói: “Sơn hữu ngọc thạch,
thảo mộc bất điêu. Nhân hữu chí đạo,
h́nh mạo bất suy” (Núi có ngọc thạch, cỏ cây chẳng tàn tạ; người có đạo tột cùng, diện mạo chẳng suy sụp). Lại nói: “Phú
nhuận ốc, đức nhuận thân” (giàu th́ đẹp nhà, đức th́ đẹp người). Người học Phật nếu nhiều bệnh, suy yếu, làm sao có thể phấn chấn, tinh tấn, đảm nhiệm trọng trách, đạt đến cao xa? Do vậy, xin cụ hăy chỉ dạy cách để khỏe mạnh, ít bệnh (phù hợp Phật pháp)! (Hoàng Thanh Vinh hỏi)
Đáp: Bệnh tật, yếu ớt cố nhiên thuộc về phú bẩm
và hoàn cảnh; nhưng xét theo Phật lư th́ cũng có mối quan hệ nhân quả ba đời. Hiểu điều này, chỉ có cách chí tâm sám hối, đừng làm các điều ác nhằm dứt các tội duyên; vâng làm các điều lành, nhằm vun bồi phước
nhân, khiến cho túc nghiệp chẳng có duyên nên không thể sanh khởi, có thể chuyển biến những tạo tác. Đó là điều thứ nhất. Tiến hơn nữa là hiểu sâu Phật lư. Hăy nên biết: Thân Kiến đứng đầu trong Kiến Hoặc, Ngă Tướng chướng ngại Bồ Đề. Có hai thứ ấy, không chỉ là học Phật bị trở ngại, mà c̣n suốt ngày so đo pháp thế gian, nên cũng đánh mất khí tượng khoan ḥa, tâm chẳng khoáng đạt, do đâu mà khỏe
mạnh cho được?
Đó là điều thứ hai.
* Hỏi: Đức Thế Tôn thuyết kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo trong
cung rồng dưới đáy biển, thính chúng khi ấy là loài nào? Thế tục thường nói “tứ hải
long vương”, vậy th́ cung rồng cũng có bốn chỗ, đúng không? Hiện thời, trên mặt biển, tàu thuyền to lớn
đi lại khắp nơi, thậm chí c̣n có những trận hải chiến v.v… [như vậy th́] có gây trở ngại cho long cung hay chăng? (Châu Ấu hỏi)
Đáp: Đức Thế Tôn thuyết pháp trong long cung, kinh đă nói rơ: Các loài thủy tộc đều nhóm lại nghe. C̣n như nói long cung có bị tàu bè, hải chiến v.v… gây trở ngại hay chăng, có thể nói là: Chẳng phải mất công lo nghĩ! Nói tới long vương th́ họ là loài long thần có thể biến hóa thông linh, chẳng phải là loài rồng thuộc giống động vật ngu xuẩn, ương bướng. Long cung cũng do phước báo
biến hóa, chẳng phải là kiến trúc vật chất trong cơi người, nên chẳng bị nhân loại gây trở ngại!
* Hỏi: Tôi là Phật giáo đồ, thường muốn tới Phật đường để học Lư, nhưng chồng tôi thấy tôi thường ra
ngoài, rất bất măn, đối với vấn đề nan giải này, nên làm như thế nào? Lại nữa, nếu Phật giáo là như nhau, v́ sao tiếng tán tụng của các chùa khác nhau? (Trương Tu Chứng hỏi)
Đáp: Nhân sanh học Phật có nhiều chướng ngại, cần phải có phương tiện thiện xảo, chớ nên cố chấp.
Nếu chân tâm học Phật, trong tâm bèn là đạo tràng, gia đ́nh cũng là đạo tràng, cần ǵ phải ra ngoài! Chính ḿnh ở trong pḥng, sáng tối một ḷ hương, niệm trăm ngàn câu Phật hiệu, chỉ xuất phát từ ḷng chí thành, liền có thể đạt được lợi ích, dường như c̣n cảm thấy thanh tịnh hơn là đi lung tung,
chuốc lấy tiếng thị phi! Nếu v́ chấp trước, vợ chồng căi cọ, khiến cho gia đ́nh
bất an, đâm ra chuốc lấy tiếng hủy báng của người ngoài! C̣n như các chùa xướng tán bất đồng là do giọng nói Nam, Bắc, trong, ngoài nước [khác nhau], chứ nội dung kinh điển không ǵ chẳng thống nhất. Hăy nên chú trọng thực tế, chớ nên bới lông t́m vết bề ngoài.
* Hỏi: Vạn pháp
đều do nhân duyên sanh, không ǵ chẳng phải là giả tướng, chẳng có pháp nào th́ có phải là “duyên sanh tánh Không” hay chăng? (Liên Vân Ban hỏi)
Đáp: Người học thông hiểu kinh tạng, nhưng nghiệp thức chưa rỗng không th́ mới nên quán điều ấy, v́ nó là Chân Thật Đế. Nếu đă đến mức “nghiệp
thức chuyển thành trí, b́nh đẳng đại giác” th́ Tánh và Tướng chẳng hai, vạn pháp như nhau.
* Hỏi: Phật giáo nói “ba tâm chẳng thể được”; nếu gặp vui chẳng mừng, gặp khổ chẳng lo, tâm ấy là tâm ǵ? Chúng tôi do cách xa, chẳng được
nghe thầy dạy, nên chẳng hiểu rơ lư sâu! (Liên Vân Ban hỏi)
Đáp: “Ba tâm chẳng thể
được” hăy khoan không nói tới. Nếu có thể thật sự gặp vui chẳng mừng, gặp khổ chẳng lo; đó là chẳng khởi phân biệt, tâm ấy sẽ dần dần hướng về b́nh đẳng. Nhưng đă nói là “gặp vui, gặp khổ” tức là trong tâm đă khởi phân biệt, dùng pháp để trừ khử, đè nén, chế ngự sự vui buồn; đó chính là đạo tâm “hễ t́nh dấy động bèn ngăn dứt bằng cách dùng lễ để nhẫn nại” vậy!
* Hỏi: Trong truyện Hồng Lâu Mộng có nói: “Giả
giả, chân chân, chân diệc
giả. Chân chân, giả giả, giả diệc chân” (Giả giả, thật thật, thật cũng giả. Thật thật, giả giả, giả cũng thật). Hai câu ấy có lẽ phù hợp “Không tức là Sắc, Sắc
tức là Không”, có thể dùng để quán Trung Đạo hay chăng? (Liên Vân Ban
hỏi)
Đáp: Tâm Kinh Bát Nhă phổ biến khắp chốn, hai câu Sắc Không được đa số mọi người biết đến. Người viết bộ Hồng Lâu Mộng trộm ư ấy để viết thành câu, tuy phù hợp khít khao với ư nghĩa trong kinh và Tam Quán, nhưng sợ rằng là lời lẽ của con vẹt học nói tiếng người, miệng có, tâm không!
* Hỏi: Phật dùng từ bi nhiếp hóa quần mê, cho nên có các pháp. Nếu mê trở về ngộ th́ chẳng có một pháp nào để có thể nói, bất quá chỉ là hết sạch phàm t́nh, chứ chẳng có thánh giải nào khác, [đúng không]? (Liên Vân Ban hỏi)
Đáp: Các vị thượng thiện nhân đă hiểu rơ “chỉ tận hết phàm t́nh, chẳng có thánh giải nào khác”, sẽ tự biết chúng sanh đang mê, nhưng Phật cũng chẳng có pháp nào. Nếu Phật có pháp, bèn là thánh giải. Bất quá là khế lư, khế cơ, có phương tiện thiện xảo bất tận mà thôi!
* Hỏi: Trong Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục có chép: “Cầu cơ là tác dụng
của linh quỷ, chúng nó xưng
là vị Phật hay Bồ Tát nào đó [giáng đàn], toàn là
giả mạo”, vậy th́ cớ sao quỷ vương chẳng quản thúc chúng nó chặt chẽ hơn? (Trần Đăng Phùng hỏi)
Đáp: Những lời giáng cơ trong thiện đường[7] phần nhiều là khuyên người ta làm lành. Phàm phu ngu mê, trọn chẳng hiểu đạo, nghe biết thần linh chưởng quản, trừng phạt, sẽ tin tưởng, kinh
sợ, răn dè, nên cũng bổ ích đôi chút trong lúc thế gian trược ác, phong tục bạc bẽo, đó gọi là “thần đạo lập giáo”. Quỷ vương cũng là phàm phu trong lục đạo, chẳng hiểu đại đạo, thấy các linh quỷ chẳng làm chuyện ác, nên cũng chấp thuận, chẳng quản thúc chặt chẽ hơn!
* Hỏi: Trong sách Phật Pháp Đạo Luận, cư sĩ Viên Tịnh nói: “Phật giáo là khơi gợi ḷng
tin, chẳng phải là ép buộc phải tin”, tôi tán đồng điều này nhất, v́ cứ một mực ép người khác phải tin chỉ là tự ḿnh mê muội mà
thôi, nhưng khiến cho chính ḿnh khởi ḷng tin th́ như thế nào? Tôi cảm thấy phiền năo sâu xa về điều này! (Trần Hướng Phước hỏi)
Đáp: Cổ nhân có câu: “Cái nh́n
của bậc anh hùng đại khái giống nhau”. Đối với lời ấy, hai trí b́nh đẳng th́ đôi bên mới có thể hiểu nhau rơ rệt. Trí huệ của Phật và ta khác biệt vời vợi, [phàm phu] chẳng tin lời Ngài th́ cũng chẳng có ǵ là lạ! Phương pháp để dấy khởi ḷng tin, phân biệt đại lược th́ có hai: Một là do tôn trọng người nào bèn tin lời người ấy; hai là xét theo lư, [thấy hoàn toàn hợp lư] bèn tin lời ấy. Đó đều gọi là “chánh tín”, chẳng phải là miễn cưỡng! Nếu chẳng tôn trọng người
ấy, mà cũng chẳng xét theo Lư th́ cứ bỏ mặc là được rồi, có ǵ mà phiền năo! Đă v́ chẳng thể khởi tín, bèn sanh phiền năo, tức là coi trọng người
ấy, nhưng chẳng có cách nào tiến nhập. Con đường thứ nhất chẳng thông th́ chỉ có cách chọn con đường thứ hai. Nếu cả hai đường lối đều chẳng sử dụng, tức là kinh sợ, nghi hoặc, bị chướng ngại vậy!
* Hỏi: [Ngoại đạo hay Phật
đạo] đều có thần thông th́ làm thế nào để phân biệt là Phật
đạo hay là ngoại đạo? (Ngô Mậu Hùng hỏi)
Đáp: Phân biệt đại lược th́ thần thông có
sáu thứ, nhưng có thể liễu sanh tử th́ chỉ có Lậu Tận Thông, ngoại đạo chẳng có loại thần thông này! Những món thần thông kia tuy giống nhau, nhưng khởi tác dụng tà - chánh khác biệt, sức mạnh lớn hay nhỏ cũng khác biệt, bậc trí sẽ có thể tự phân biệt!
* Hỏi: Kinh Địa Tạng dạy: “Lúc Nhất
Thiết Trí Thành Tựu Như Lai chưa xuất gia, đă phát nguyện sớm
thành Phật đạo, rộng độ bọn tội nhân chẳng
c̣n thừa sót”. Khi Địa Tạng Bồ Tát chưa xuất gia, đă phát nguyện: “Nếu trước hết chẳng
độ kẻ tội khổ, khiến
cho họ an lạc, đắc đạo Bồ Đề, tôi nguyện
trọn chẳng thành Phật”. Hai nguyện trên đây đều hay,
nhưng chẳng rơ nguyện nào thù thắng hơn? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Hai nguyện đều mong rộng độ kẻ tội khổ, khiến cho họ được an lạc. Xét về quả th́ tương đồng, chẳng có cao, thấp; chỉ có điều phương pháp của hai vị khác nhau. Do vậy, nên luận định về quả, chẳng cần luận định phương pháp. Như người dùng quả bầu bằng gỗ đựng một cân nước, lại có người dùng quả bầu bằng vàng để chứa một cân nước; xin hỏi hai người
ấy ai đựng nhiều nước hơn?
* Hỏi: Tam Bảo đệ tử mua nghiệp
sản (ruộng nương), hoặc tham gia chánh trường, có phải là nhiễm Phiền Năo Trược càng sâu hơn hay không? (Lương Minh Tượng hỏi)
Đáp: Tại gia đệ tử chẳng thể không kiếm sống, nhưng phải giữ cái tâm cân bằng, đừng mong chiếm tiện nghi của người khác, giữ đúng bổn phận th́ cũng chẳng
phải là tham.
* Hỏi: Có người đến hỏi: “Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Tăng nương theo Pháp để tu tŕ mà thành Phật; v́ thế, Pháp c̣n gọi là Phật Mẫu. Nhưng Pháp lại do Phật nói, chẳng biết thuở đầu th́ Phật là trước hay là Pháp trước?” Đệ tử chẳng thể đáp, xin thầy khai thị! (Lại
Đống Lương hỏi)
Đáp: Pháp là chân lư tự nhiên trong vũ trụ, chẳng phải do bất cứ một ai soạn thành, chẳng qua là có người biết, có kẻ chẳng hiểu, nên người giác ngộ trước [hóa độ] người giác ngộ sau mà thôi! Chân Như pháp giới có trước Phật, pháp để cầu giác ngộ có sau Phật. Nhưng mấy năm trước tôi đă từng nói đến vấn đề này, xin hăy kiểm lại [những số báo cũ] để tham khảo.
* Hỏi: Châu Tử (Châu Hy) cho rằng: “Quỷ thần là hai khí Âm
và Dương qua lại, mở rộng ra hay rút gọn
lại, hợp hay tán”; [Trương] Hoành Cừ bảo: “Quỷ thần
là lương năng của hai khí”; [Tŕnh] Y Xuyên nghĩ quỷ thần là diệu dụng của trời đất, nhưng họ đều bài xích thuyết lục
đạo luân hồi của Phật giáo. Các ông ấy thấy Lư tinh xác, nhưng tôi thường thấy hai ông [Châu và Tŕnh] bài bác mạnh mẽ nhất, v́ cớ ǵ mà nẩy sanh hai thứ Đoạn Kiến ấy? (Chung Quân Lương hỏi)
Đáp: Các ông ấy nói “quỷ thần là hai khí Âm Dương, hoặc là diệu
dụng của thiên
địa”, chẳng giống như Tây học thuần chuộng duy vật, nên vẫn chẳng thể nói họ là Đoạn Kiến. Hỏi xem hai thứ khí Âm Dương ấy rốt cuộc là ǵ? Đă thừa nhận có hai khí, bất quá là danh từ khác biệt mà thôi! Lại hỏi “diệu
dụng” là ǵ? Dụng ắt phải nương vào Thể, nên cũng là danh từ sai khác, chứ thật ra đều là công nhận có những chuyện ấy! Kinh sách Nho Gia chưa hề nói “chẳng có quỷ thần”. Kinh Thi, kinh Dịch, truyện, sử đều có ghi chép, kiểm đọc sẽ thấy rơ rành rành! Khổng Tử trọn chẳng nói là không [có quỷ thần], mà Tống Nho cũng chẳng nói! Đó là những lời lẽ do các học phái đề ra, chẳng phải là cái học truyền thừa trong Nho Tông! Tuy các ông ấy đă từng đọc kinh Phật, nhưng đều không thấu hiểu tinh tường, lại c̣n ngoài mặt bài xích, trong tâm ngấm ngầm chấp nhận. [Họ nói những câu như] “tĩnh
tọa, đàm tánh”, xét ra, học vấn và lời lẽ của họ, đại loại là [vay mượn] từ ngữ lục nhà Thiền, có lẽ là có nỗi khổ tâm riêng, [họ phải thốt ra những lời báng Phật] là v́ bị nếp suy nghĩ thịnh hành thời ấy lung lạc đó chăng?
* Hỏi: Ngộ cảnh (cảnh
giới giải ngộ) của ông Vương Dương Minh rất cao, công phu đa phần đắc lực nơi Thiền Tông, tự mệnh danh là “dương Nho, âm Thích”
(ngoài Nho, trong Phật), nhưng từ đầu tới cuối vẫn giữ thái độ bài xích Phật giáo. Có người nói: “Do tông chỉ bất đồng, v́ mục đích của Dương Minh là thân dân và chỉ ư chí thiện; một đằng chủ trương dấn thân vào đời, một đằng chú trọng siêu thế”. Lời ấy có đúng hay không? (Chung Quân
Lương hỏi)
Đáp: Ai có chí nấy, chẳng cần phải giống hệt như nhau; chỉ cốt sao khiến cho con người khôi phục chân tánh th́ danh lẫn tướng đều thiện xảo. Huống chi ông ta đă lấy nghĩa lư nhà Phật thay cho danh ngôn trong đạo Nho, tức là dựa vào Nho để tuân hành sự giáo hóa của Phật, [nhưng vẫn bài xích Phật, khác nào] kẻ vẫn uống rượu mà kiêng nói tới rượu, tuy
khoe là thánh hiền, kết quả vẫn bị say mèm! Há có phải riêng ǵ những kẻ ở ngoài Phật giáo là như thế, mà trong Phật môn cũng có hiện tượng ấy. Thiền và Tịnh đều do đức Phật nói, nhưng về sau, hai tông ấy gần như nước với lửa! Xét ra, tuy Thiền bài xích Tịnh, Tịnh há từng bị tổn hại? Tịnh tuy bài xích Thiền, Thiền cũng chẳng bị thương tổn! Lại xét thấy đức Thế Tôn có Ngũ Thừa thuyết pháp, có pháp liễu nghĩa và pháp bất liễu nghĩa. Bất liễu nghĩa quả thật là thang lầu hay bậc thềm dẫn tới liễu nghĩa, pháp dấn thân trong cơi đời cũng dẫn đường cho pháp siêu thế!
* Hỏi: Sách Trung Dung nói Thành, Tống Nho chú trọng Kính, có khác biệt ǵ với “nhất tâm bất loạn” và “chế tâm
nhất xứ” của Phật giáo hay không? (Chung Quân
Lương hỏi)
Đáp: Dù là Sự hay Lư, đều có những điểm khác biệt và tương tự. Những thứ tương phản tột bậc vẫn có chỗ tương tự, như cuối mùa Hạ là Dương, đến cuối cùng là Âm sanh, nên [cuối mùa Hạ] là Âm mà giống như Dương. Cuối Đông là Âm, nhưng đến cuối cùng Dương sanh,
nên là Dương mà giống như Âm. Thành Kính đến tột bậc sẽ có thể đạt đến nhất tâm, mới tu nhất tâm th́ chẳng ĺa thành kính. Đó là “khác nhau mà chẳng khác, chẳng khác mà khác” vậy!
* Hỏi: Châu Tử nói Lư và Khí có phải là nói dựa theo hai môn nhất tâm trong Khởi Tín Luận hay không? (Chung Quân
Lương hỏi)
Đáp: Điều này chẳng cần phải gượng ép cho thật phù hợp, mà cũng chẳng nên nhất loạt phủ nhận. Có thể tham khảo lời đáp cho câu hỏi trước [để hiểu rơ hơn]. Có những chuyện Giáp và Ất giống nhau, nhưng chẳng phải là Ất dựa vào Giáp để làm. Có chuyện Giáp và Ất mâu thuẫn, nhưng cũng chẳng phải là Ất làm ngược với Giáp. Người phương Đông khát bèn uống nước, người phương Tây khát cũng uống nước, tư tưởng và xu thế ngẫu nhiên có chỗ giống nhau!
* Hỏi: Tống Nho ngộ Lư rất sâu, hành tŕ lại có nhiều chỗ phù hợp với giới luật Phật giáo, nhưng chẳng tin vào thuyết hậu hữu. Nói theo Phật pháp, thân sau của họ sẽ rớt vào đường
nào? (Chung Quân
Lương hỏi)
Đáp: Họ chẳng tin vào hậu hữu, nhưng tin tưởng tiền hữu! [Tống Nho] chú giải tánh Minh Đức đă nói: “Nhân chi sở đắc hồ thiên, nhi hư linh bất muội” ([tánh Minh Đức] của con người do bởi trời mà có, nhưng [tánh ấy] rỗng rang, linh diệu, chẳng mê tối), nên họ cũng thật sự tin có hậu hữu. Quỷ thần là một trong các thứ hậu hữu! Các vị sáng lập Tống Nho đă tin vào hai khí, lại chú giải chữ Thần trong câu “chí thành như thần” là quỷ
thần, mà quỷ thần đều là chuyện thuộc về hậu hữu của con người vậy! Đó gọi là “giáp ngạn đào hoa tân vũ
hậu, mă đề vô xứ
tỵ tàn hồng” (tạnh mưa, khe núi hoa đào rụng, vó ngựa khôn ngăn giẫm xác hồng).
* Hỏi: Bố thí “tam luân thể không” chẳng chấp tướng. Mỗi khi làm thiện sự, có cần phải mỗi việc đều hồi hướng hay không? (Vương Thanh Hán hỏi)
Đáp: Tam luân rỗng không hay chăng, được
quyết định bởi tâm có ấn tượng hay chăng. Bọn ta sơ cơ cầu tâm vô tướng, tuy biết Lư ấy, nhưng có thể thật sự chẳng chấp tướng, trọn chẳng
phải do công phu [tu tập] một ngày! Mỗi khi làm thiện sự, giữ ư niệm hồi hướng th́ cũng là có tướng, sao
lại bảo là Không? Nhưng hồi
hướng chẳng v́ chính ḿnh, mà hồi hướng chúng sanh, cho nên cũng là một cách thiện xảo để dần dần ĺa ngă tướng. Chẳng cần biết là Không hay Bất Không, [hồi hướng cho chúng sanh] đă thù thắng hơn kẻ chỉ v́ ḿnh rất nhiều!
* Hỏi: Di Lặc Bồ Tát là vị Bồ Tát đă chứng quả, v́ sao vẫn sống trong Đâu Suất Thiên là tầng trời thứ tư trong Dục Giới Thiên? (Hà Ngọc Trinh hỏi)
Đáp: Trong các cơi trời thuộc tam giới, có hai chỗ đặc
biệt. Một là Ngũ Bất Hoàn trong Sắc Giới, hai là Đâu Suất Nội Viện trong Dục Giới. Hai chỗ ấy chẳng bị Tam Tai, là chỗ tạm cư của thánh nhân. Bất Hoàn Thiên phần nhiều là trụ xứ của bậc Thanh Văn, Duyên Giác giải thoát. Nội Viện là hành cung[8]
của vị Phật sẽ giáng sanh Sa Bà, thật sự chẳng giống với y báo của hàng phàm phu bị nghiệp lôi kéo, chẳng được
tự tại.
* Hỏi: Buổi trưa nay, văn bối nghe thấy trong làn điệu xướng tán Tam Bảo, tiết tấu, nhịp điệu rất giống với giọng ngâm thơ của ngoại giáo, lại c̣n dùng thêm âm nhạc của người Tây Phương (ngưng sử dụng các nhạc khí vốn thường bày trước bàn Phật) để ḥa theo, nghe tán tụng đúng là chẳng khác ǵ giọng điệu ngâm thơ của ngoại giáo. Nhất là trong bài Quán Âm Tán, hoàn toàn chọn nhạc điệu bài hát Tô Vũ Chăn Dê để xướng, đúng là chẳng nghe thấy có chút nào hơi hướng làn điệu xướng tụng cố hữu của Phật giáo! Do vậy, văn bối hỏi ư một vị cư sĩ: “Sử dụng cách xướng tụng như thế có nên hay không?”, ông ta quở ngược văn bối là “chấp trước”. Đúng là khiến cho văn bối càng mê loạn hơn! Do vậy, đặc biệt gởi thư này, cầu xin cụ dạy cho biết “Phật giáo chúng ta có nên sử dụng làn điệu xướng tụng của ngoại giáo để biên soạn những bài tán xướng trước Phật hay không?” (Tiêu Chí Dương hỏi)
Đáp: Ngũ Trần vốn nhiễm, nhưng trong nhiễm cũng chia ra thanh
và trược khác nhau. Nhiễm thanh th́ tâm bèn chuyển thành thanh, nhiễm trược th́ tâm bèn chuyển thành trược; nhưng thanh lẫn trược vốn chẳng thật, vọng đều do t́nh thức so lường mà có. Ca ngợi, tán thán trong Phật môn được gọi là Phạm Xướng v́ thanh điệu
đều khác với nhạc thế tục, khiến cho người ta nghe có thể dấy lên ư tưởng xuất thế, đấy cũng là phương tiện thuyết pháp bằng Thanh Trần. Nay dùng làn điệu của ngoại giáo và âm nhạc Tây Phương để phổ nhạc [các bài tán tụng], nếu người nghe sanh khởi tâm tưởng thanh tịnh th́ sử dụng chẳng trở ngại ǵ, [nếu như vậy th́] các thứ âm nhạc như Tây Phương vẫn là Phạm âm. Nhưng nếu nghe [những kiểu xướng tụng ấy] mà dấy ḷng chán ghét âm điệu của ngoại giáo và Tây Phương, tránh né, chẳng nghe, th́ âm điệu ngoại giáo và Tây Phương trở thành nhạc thế tục. Nghe nhạc ấy, tâm sẽ bị ô trược bởi thanh trần!
* Hỏi: Chúng sanh là vốn có hay do duyên sanh? Nếu là vốn có th́ chẳng hợp với nguyên tắc “duyên sanh”. Nếu là “duyên sanh” th́ trước đó, có chúng sanh tạo nghiệp hay không? Hay là cảm vời quả báo của nghiệp trước rồi mới thành chúng sanh? Nếu trước đó chính là chúng sanh thanh tịnh th́ cớ ǵ tạo nghiệp? Nếu thuộc loại sau (tức là cảm vời quả báo của nghiệp rồi mới thành chúng sanh), do trước đó đă không có chính ḿnh th́ tạo nghiệp bằng cách nào? Há có phải là do nghiệp của kẻ khác mà chúng ta cảm vời quả báo? Như vậy th́ quá oan uổng! Nếu là tự sanh, tha
sanh, cộng sanh, duyên sanh, hóa ra chúng sanh bị sáng tạo không ngừng! Dường như những thuyết ấy đều trật, chắc là bị thầy quở là “thế gian kiến”, nhưng con bị liên hữu hỏi, chẳng có cách nào giải đáp! (Thái Minh Cốc hỏi)
Đáp: Những điều ông hỏi phần nhiều là do hiểu lầm. V́ thế, chẳng hiểu rơ giới tuyến, đến nỗi râu ông nọ cắm cằm bà kia. Nay tôi chia thành bốn đoạn để đáp!
Một, [trả lời cho những nghi vấn từ câu] “chúng sanh là vốn có” cho đến “cảm
vời quả báo của nghiệp trước rồi
mới thành chúng sanh”. Được gọi là “chúng sanh” chính là những ǵ do nhiều duyên tụ tập mà có sanh mạng. Vạn vật sanh thành đều thuộc về duyên, đây là quy luật chung,
chứ không riêng ǵ con người là như vậy! Nay nói đến con người th́ là Ngũ Uẩn, Tứ Đại, mười hai
nhân duyên v.v… tức nhiều duyên mà hợp thành con người. Cần phải biết: Chân Không chính là Diệu Hữu, tuy Diệu Hữu mà vẫn là Chân Không, nhưng cái Chân Không ấy nếu tĩnh th́ chẳng có ǵ sanh, nếu động th́ biến hiện
vạn vật. Hễ động bèn có chư hữu ḥa hợp lẫn nhau, nên sanh ra huyễn tướng. Cái “động” ấy chính là tạo tác, chẳng cần biết là thiện hay ác. Thức Uẩn của con người chính là do bổn tánh bất giác dấy động mà biến hiện ra. Sắc Uẩn là do tinh túy của cha mẹ ḥa hợp mà hóa hiện. Thức và Sắc hợp lại th́ các duyên đều tụ tập. Đó là nói đại khái về giai đoạn đầu của chúng sanh,
nên chẳng cần phải nói tới các nghiệp
thiện, ác v.v…
Hai
là [trả lời những thắc mắc] trong đoạn “nếu trước đó là chúng sanh thanh tịnh”. Chúng sanh đă do các duyên tụ tập mà biến hiện th́ Ngũ Ấm hừng
hực, tức là chúng sanh chẳng thanh tịnh; v́ đă thanh tịnh th́ sẽ chẳng trở thành chúng sanh. Bởi lẽ, các duyên tụ tập chính là xen tạp, hỗn loạn, nhiễm bẩn. Chẳng tạp, chẳng nhiễm th́ mới là thanh tịnh. Ngũ Ấm hừng hực bèn phan duyên, tạo nghiệp. Từ đó, thiện - ác mới phân ra, nghiệp có thiện và ác, quả báo có lạc và
khổ, đều là tự làm, tự chịu, chẳng liên can đến ai khác!
Ba là trả lời đoạn “chúng sanh không ngừng bị sáng tạo”. Không có ai sáng tạo chúng sanh! Trong phần Duyên Sanh trên đây, tôi đă nói: Vô thỉ th́ bổn tánh vô tướng bất giác dấy động, nên hỗn hợp cùng chư hữu, kế đó là mê nhiễm càng sâu, nên điên đảo khó thoát khỏi lục
đạo. Nếu có thể tự giác, cầu khôi phục bổn tánh, trước hết là ngăn dứt sự huân nhiễm, kế đó là cầu đoạn Hoặc, lặng dứt các duyên, há c̣n có chúng sanh nữa ư?
Bốn là trả lời đoạn “liên hữu hỏi bèn chẳng có cách nào giải đáp”, Lư này quá sâu, người chưa thể đọc nhiều kinh Phật sẽ khó thể lănh hội. Dẫu có giảng cho họ, chỉ sợ họ cũng chẳng nghe lọt tai!
* Hỏi: Từ hơn hai
ngàn năm trước, Thích Ca Thế Tôn ứng hóa trong thế giới
này. Sau đó, chia thành bốn thời kỳ là Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp và Diệt Pháp. Trước khi đức Thế Tôn giáng sanh th́ gọi là thời kỳ ǵ? Chúng sanh có thể nghe Phật pháp [trong thời kỳ ấy] hay chăng? (Trương Khoan Tâm hỏi)
Đáp: Mỗi vị Phật xuất hiện th́ pháp của Ngài đều có bốn thời kỳ ấy, không phải chỉ ḿnh đức Phật Thích Ca là như thế. Một thế
giới trọn chẳng có hai đức Phật đồng thời, nhưng thời gian cách biệt giữa đức Phật này diệt độ và đức Phật kia xuất hiện phải lâu đến trăm ngàn vạn ức
năm. Pháp vận của đức Phật trước cũng chia thành Chánh, Tượng, Mạt, Diệt, pháp vận của đức Phật sau cũng chia thành Chánh, Tượng, Mạt, Diệt. V́ thế biết: Sau Diệt là bắt đầu thời kỳ Chánh, trước Chánh là Diệt. Dựa theo đó để suy đoán, trước khi đức Thích Ca giáng thế chính là thời kỳ Diệt Pháp của đức Phật trước Ngài. Đă là thời Diệt Pháp, há có pháp để chúng sanh có thể nghe ư?
* Hỏi: Đao Lợi Thiên là tầng trời thứ hai trong Dục Giới, có dục vọng nam nữ, ăn uống. Sau khi
sanh ra đức Phật bảy ngày, phu nhân Ma Da liền thăng lên trời, chẳng biết Phật Mẫu sanh về thiên cung là thân nam tử hay là thân thiên nữ? (Trương Khoan Tâm
hỏi)
Đáp: Tầng trời thứ hai tuy thuộc Dục Giới, nhưng trọn chẳng
phải là
[bất cứ ai] ở trong Dục Giới đều phải hành các dục, do trong cơi này có chuyện như vậy
đó. Như ta sống trong Nam Diêm Phù Đề, há chẳng phải là Dục Giới ư? Nhưng bậc hành giả suốt đời thanh
tịnh, há phải chỉ có ngàn vạn? Nhân gian là như vậy, nên cơi trời có thể suy luận được!
Phu nhân Ma Da, dịch [sang nghĩa
tiếng Hán] là Đại Huyễn, các kinh nói Ngài là bậc đại quyền Pháp Thân, do đại nguyện bèn huyễn hiện làm mẹ của một ngàn vị Phật. Kinh chẳng nói rơ thân tướng của Ngài trên trời Đao Lợi. Dẫu hiện nữ
thân th́ cũng giống như Quán Âm ứng hóa, chẳng cần phải chấp trước theo
phàm t́nh “nam là nam, nữ là nữ”!
* Hỏi: Do bị hoàn cảnh trước mắt bó buộc, tôi chẳng thể thọ Ngũ Giới, nhưng muốn lợi dụng kỳ nghỉ hè để nghiên tụng (nghiên cứu ư nghĩa, đọc tụng kinh văn) kinh điển Tịnh Tông, chẳng biết có được hay không? (Lưu Tự Nhậm hỏi)
Đáp: Cố nhiên người học Phật phải quy y và thọ giới, nhưng trước hết hiểu Lư, sanh khởi tín tâm, sau đó mới làm chuyện ấy th́ gọi là “có căn”, chẳng đến nỗi trôi nổi Đông Tây. Lợi dụng dịp nghỉ hè để tụng đọc kinh văn, nghiên cứu ư nghĩa là đúng lúc, rất hay!
* Hỏi: Nếu gặp chữ khó đọc trong kinh, tra tự điển thấy có nhiều cách đọc, có thể chọn lấy cách đọc thông dụng nhất hay không? Lỡ vạn nhất đọc lầm thành quen th́ có tội hay không? (Lưu Tự Nhậm hỏi)
Đáp: Những chữ lạ trong kinh Phật có cách đọc khác với lối đọc thông thường, trừ những chữ dùng trong chân ngôn ra th́ cũng chẳng nhiều lắm! Trước hết, hăy nên tra cặn kẽ cách phiên thiết [ghi chú âm đọc] trong tự điển để chọn lấy cách đọc. Nếu vẫn nghi hoặc, có thể hỏi người học Phật đă lâu. Dẫu có đọc lầm, nhưng do đă trọn hết tấm ḷng t́m học, suy nghĩ, trọn chẳng giống như kẻ hời hợt, qua loa, do tâm đă chí thành nên chẳng có lỗi lầm ǵ!
* Hỏi: Tôi nghe nói: “Người sơ phát tâm
học Phật, trước hết hăy đọc kinh Phật, sau đó xem các tác phẩm luận giải là hợp lẽ”, lời ấy có đúng hay không? Hiện thời tôi có thể thỉnh chú giải của ba bộ kinh trọng yếu trong Tịnh Tông [để xem trước] hay không? Cách nào là tốt nhất? Xin hăy nêu cặn kẽ tên các tác giả nổi tiếng! (Lưu Tự Nhậm hỏi)
Đáp: Nguyên tắc là như thế, nhưng có ngoại lệ,
như có kẻ sơ cơ xem kinh chẳng hiểu, trước hết hăy đọc những tập sách nhỏ khái luận để làm phương tiện nhập môn. Đó cũng là pháp phương tiện. Ông hỏi “ba kinh trọng yếu” trong Tịnh Tông, có phải là nói đến kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, và Quán Kinh hay không? Nếu đúng như thế, ba kinh ấy chẳng có hơn kém, đáng gọi là “lương dược
để chữa bệnh”. Nhưng xét về sự hành tŕ trong ba kinh ấy th́ kinh Di Đà đề xướng Tŕ Danh, Quán Kinh chỉ dạy quán tưởng, kinh
Vô Lượng Thọ giảng về bổn tích của thế giới Tây Phương và lục độ
vạn hạnh cùng nhân quả thiện ác. Người tu Tịnh hiện nay phần nhiều chọn cách Tŕ Danh; v́ thế, hăy nên đọc kinh A Di Đà trước tiên!
* Hỏi: Phàm nhân hễ cầu Quán
Thế Âm Bồ Tát, ắt Ngài cảm ứng. Cầu ở nơi ta, ứng thuộc nơi Ngài. Người cầu tuy
khẩn thiết, nhưng cảm ứng có rơ rệt, ngấm ngầm, nhanh, chậm sai khác, nguyên do v́ đâu? Gần đây, tâm tôi hướng về Quán Âm Bồ Tát, xin trong mộng được
Ngài dạy phương pháp nghiên cứu kinh, đă trọn chẳng được
[như nguyện], mà đâm ra ban đêm khó ngủ, tâm lại c̣n mang nỗi khổ bồi hồi. Tôi rất mờ mịt, xin hăy khai thị! (Lưu Tự Nhậm hỏi)
Đáp: Mọi sự hễ cầu nơi Phật, [tuân theo] nguyên tắc là “nếu có thể chấp thuận, [Phật, Bồ Tát] bèn chấp thuận”. Nếu cầu mong chuyện trái lư, sai trái, sẽ chẳng có cảm ứng. Và cũng có trường hợp mong cầu đúng pháp th́ mới được
hứa khả. Nếu chẳng tu tŕ mà cầu
chứng quả th́ cũng chẳng có cảm ứng, v́ phải hợp với lư trí. Nếu không, ắt sẽ trở thành quái đản! Phương pháp nghiên cứu kinh điển đều có đường lối. Trong nhà Phật có ba thứ là Văn, Tư, Tu. Nho gia có năm tầng cấp là “học rộng, hỏi han
cặn kẽ, suy nghĩ cẩn thận, biện định
rơ rệt, dốc sức hành tŕ”, sự lư rành rành, cần ǵ phải cầu mộng thấy? Khai ngộ hay không là do công phu!
* Hỏi: Xưa kia có một phụ nữ mang thai suốt ba năm, đợi thiền sư Viên Trạch đến làm con bà ta. Về sau, thiền sư đúng là vừa trông thấy [bà ta] bèn chẳng thể né tránh, không muốn làm con bà ta, nhưng chẳng có cách nào! Vô Thượng Sư
chùa Linh Ẩn c̣n biết phải văng sanh Tây Phương nếu chẳng muốn đầu thai.
Trí của thiền
sư Viên Trạch đă có thể biết quá khứ và vị lai, do cớ nào mà trọn chẳng biết có thể văng sanh Tây Phương vậy? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Sự đă chín muồi là do các duyên ḥa hợp, thời cơ đầy đủ. Các duyên tuy có, nhưng thời cơ chưa đủ, tức là vẫn chưa đạt đến ḥa hợp th́ Sự chẳng thể thành. Thiền sư Viên Trạch gặp người nữ có mang, tức là thời cơ ở ngay trước mặt, đó gọi là “duyên ḥa hợp”, nên chẳng thể tránh né. [Trường hợp của] Vô Thượng Sư [chùa Linh Ẩn] chỉ hoàn toàn là mộng cảnh, chẳng có các duyên khác ḥa hợp, thời cơ chưa hiện tiền, nên có thể chẳng nhập thai ngay! Vô Thượng Sư chưa trông thấy chỗ đầu thai, đă nguyện cầu Tây Phương, nên có thể nấn ná một thời gian kha khá để đổi sang
tu Tịnh Độ. Sư Viên Trạch đă đối diện người
đàn bà sắp sanh, mà đổi sang tu Tịnh Độ, th́ Tịnh
Độ có thể thành tựu ngay trong lúc ấy hay không? Nếu tŕ hoăn tức là giết chết hai mạng! Huống chi, duyên phận giữa mẹ và con đều có tiền căn, muốn tránh né cực khó! Đó gọi là định
luật nhân quả. Lư Nguyên ép buộc, lôi kéo sư Viên Trạch đến đó, chính là do nghiệp duyên lôi dẫn.
* Hỏi: Lại nữa, bà ta đă có thai ba năm, trong bào thai phải có thần thức th́ mới có thể
sanh trưởng, mang thai mười tháng bèn tự nhiên có
thể hạ sanh, cần ǵ phải đợi thần thức của Viên Trạch [đầu thai] để sanh nở? (Lại
Đống Lương hỏi)
Đáp: Người có phước đức và người có nhân duyên đặc biệt th́ sẽ có chuyện chẳng ở trong thai mười tháng, sẽ có [thần thức khác] do bị những nhân khác chi phối đến đầu thai thay thế [tạm thời] trong thai ấy. Chuyện xưa [giống như vậy] rất nhiều, thiền sư Viên Trạch là một trường hợp!
* Hỏi: Lại nữa, thiền sư đă đoạt thai để sanh ra, đến nỗi thần thức vốn nương gá vào thai [trước đó] chẳng có chỗ nương tựa, khác nào bị giết. Cớ sao thiền sư đa sự làm như vậy? Há chẳng phải là phạm giới “chẳng sát sanh” ư? (Lại
Đống Lương hỏi)
Đáp: Thiền sư chẳng đến đoạt thai, mà là do tránh không được
[nên phải đầu thai]. Trong câu trả lời trên đây, tôi đă nói là “thay thế”, ông hăy xem lại. Chủ nhân đă tới th́ người thay
thế tự đi; thai chưa chết sao lại nói là giết? Thần thức vốn ở trong thai do nghiệp duyên to nhiều, chưa đầy bốn mươi chín ngày bèn có chỗ để đầu thai.
Nếu không có chỗ để nương vào tức là chẳng c̣n sanh tử nữa; chẳng đoạn Nhị Hoặc, há có sự tiện nghi ấy? Ông lại nói thiền sư v́ lẽ ǵ mà đa sự làm chuyện này? Chẳng phải là trong câu trả lời trước đó, tôi đă nói là “chẳng thể tránh được”
ư? Đă biết là “muốn tránh mà không được” th́ chẳng phải là vô duyên cớ mà đa sự vậy!
* Hỏi: Lại có người nói: “Người ta dâng cơm cúng Phật và Phật cho chó đói ăn, công đức chẳng khác nhau”. V́ sao nói như vậy? (Lại
Đống Lương hỏi)
Đáp: Phật và chó đói là sắc tướng bên ngoài; mắt phàm phu có sự phân biệt ấy. Thấy chó đói bèn dấy ḷng bi là tướng nội tâm. Tâm Phật là vô duyên từ bi, nhất loạt b́nh đẳng. Đă nói là b́nh đẳng
th́ làm sao có sai khác cho được?
* Hỏi: Nghe nói các vị Bồ Tát v́ thượng
cầu hạ hóa bèn giáng sanh xuất hiện trong cơi đời, [như vậy th́] trong lúc chưa gặp minh sư, các Ngài vốn tự
linh minh; hay là do cầu minh sư mà ngộ
đạo bèn khôi phục Bổn Giác? [Các Ngài đă khôi phục Bổn Giác] trước khi gặp thầy hay sau gặp thầy, kính xin hăy chỉ dạy! (Hoàng Mễ Điền hỏi)
Đáp: Bồ Tát có năm mươi hai địa vị, lại
có Tạng, Thông, Biệt, Viên khác biệt, nói ra hết sức phức tạp, sợ là hàng sơ cơ chẳng dễ ǵ hiểu được!
Nay tôi nói đơn giản,
đại khái th́ chia ra công phu cạn hay sâu sai khác. Người công phu sâu xa nương nguyện
ứng hóa, chẳng bị mê khi cách ấm; sau khi đă giáng sanh bèn vốn tự linh minh,
bất quá thị hiện phải cầu thầy như đức Thích Ca xuất gia cầu đạo vậy. Người công phu cạn, tuy cũng nương theo nguyện, nhưng mê muội khi cách ấm, hễ gặp cơ duyên bèn có thể giác chiếu, ắt phải gặp minh sư th́ mới có thể đạt đến cực quả, như lịch đại tổ sư đi tham phỏng các nơi bèn đốn ngộ là do như vậy
đó.
* Hỏi: Thâu tiếng tụng kinh của tăng ni vào máy thâu âm để nghe th́ có công đức hay không? [Công đức của] kẻ thâu, người phát, người tụng kinh là như thế nào? Xin hăy chỉ dạy! (Hoàng cư
sĩ hỏi)
Đáp: Được lợi ích hay không là do cảm tưởng trong tâm. Trong thế giới Cực Lạc, chim hót, cây khua, đều nghe thành tiếng diễn nói diệu pháp đạo phẩm, lọt vào tai bèn có thể chứng đạo quả. Người công phu định lực sâu xa trong cơi này, nghe tiếng ồn ào nơi chợ búa, hay tiếng nước chảy, cũng có
thể khai ngộ. Tâm này là gốc đạo, tiếng là trợ duyên. Những lời tụng niệm từ máy thâu âm thù thắng hơn sự trừu tượng của tiếng cây reo, chim hót, tiếng ồn ào nơi chợ búa! Pháp âm in vào tâm, há chẳng có công đức? Nhưng cũng chỉ v́ có kẻ nghe xong bèn ưa thích hoặc chán ghét [mà có công đức hay không], tùy thuộc tâm người
ấy cảm nhận như thế nào!
* Hỏi: Thuở ấy, đức Phật thuyết pháp, vô lượng trời, rồng, quỷ thần đều đến tham dự nghe pháp, mỗi loài đều hiện h́nh tướng của chính ḿnh. Hết thảy thính chúng khi ấy có đều trông thấy họ hay không? (Lâm Khán Trị
hỏi)
Đáp: Do mỗi loài đều dùng h́nh tướng vốn có của họ để đến tham dự, những người có thần thông trong thính chúng bèn có thể trông thấy, chứ người không có thần thông sẽ chẳng thấy!
* Hỏi: Có phải là thiên long bát bộ loài nào có ngôn ngữ riêng của loài nấy hay không? Đức Phật thuyết pháp th́ họ có đều nghe hiểu hay chăng? (Lâm Khán
Trị hỏi)
Đáp: Tám bộ dùng tiếng nói của chính loài ḿnh để nói năng là chuyện b́nh thường, trong đó cũng có kẻ có thể nói tiếng của loài khác, nhưng bất luận là loại ngôn ngữ nào, đức Phật
đều nhất loạt thấu hiểu. Nếu không, [tức là Phật] chưa đoạn hết Trần Sa Hoặc, mà cũng chẳng thông thạo học vấn Thanh Minh! Đức Phật thốt ra lời nói vi diệu khó thể nghĩ bàn. Ngài thuyết pháp cho
chúng sanh, chẳng cần phải dùng ngôn ngữ của từng loài để nói, mà dùng một âm có
thể biến thành nhiều thứ. Người nghe đều nghĩ đức Phật đang dùng ngôn ngữ của chính loài ḿnh, ai nấy đều có thể hiểu. Kinh nói: “Phật dùng một âm
để thuyết pháp, chúng
sanh tùy loại đều
được hiểu”.
* Hỏi: Xin hăy giới thiệu quyển nào khá hay trong thư tịch lịch sử Phật giáo nói về sự truyền nhập Phật giáo vào nước ta và sự h́nh thành kế thừa của các tông phái. (Lưu Gia Phú hỏi)
Đáp: Tường tận th́ có Phật Tổ Thống Kỷ, đại lược th́ có Phật Giáo Tam Tự Kinh. Muốn biết hạnh nghiệp của họ th́ có các sách như Cao Tăng Truyện v.v...
* Hỏi: Ở địa phương X… hai
chúng tại gia theo pháp sư học tập xướng
niệm rất đông, loại tán thán Như Lai này có công đức vô lượng, nhưng
mạt học cho rằng chuyên chú trọng xướng niệm sẽ khó liễu sanh tử,
đối với kẻ hậu học lại dễ sanh ngă mạn, trở thành tự chướng ngại, lăo cư
sĩ có nghĩ như thế hay không? (Trại Mạnh
Thu hỏi)
Đáp: Pháp liễu sanh tử th́ một là đoạn Hoặc chứng Chân, hai là đới
nghiệp văng sanh. Người hiểu điều ấy sẽ có phần, kẻ mê muội bèn chẳng có phần! Nếu chuyên theo đuổi xướng niệm, chẳng tương ứng với Giới, Định, Huệ, th́ chính là công đức hữu lậu. Nếu có thể dùng phương pháp xướng
niệm để đoạn Hoặc, hoặc đắc nhất tâm th́ sẽ có thể liễu sanh tử. Nếu chẳng thể th́ chỉ đạt được phước báo mà thôi!
* Hỏi: Ở một ḿnh trong núi, vào lúc ban đêm thanh vắng, thường có dị loại xâm phạm, quấy nhiễu, tôi bèn niệm chú Đại Bi, ma tự rút lui. Nếu chẳng phải là túc nghiệp khiến thành như thế, th́ là kẻ đang trong nẻo khổ cầu xin cứu bạt; mạt học bèn v́ họ đối trước Phật phát nguyện, thí kinh, niệm Phật, đốt sớ để khẩn cáo, quả nhiên không thấy họ đến nữa. Tôi làm chuyện này có đúng pháp hay chăng? (Trại Mạnh
Thu hỏi)
Đáp: Phật pháp từ bi vốn v́ độ chúng sanh. Tuy có những pháp hàng phục, nhưng đều thuộc về phương tiện. Dẫu hành pháp hàng phục th́ vẫn thuộc về nhiếp thọ. Học nhân chúng ta hăy nên hiểu nghĩa ấy, bất luận gặp chuyện quái dị nào, dù có phải là túc nghiệp hay không, đều tụng niệm kinh chú, cầu Phật gia bị. Lại có thể nghĩ tưởng làm chuyện cứu độ họ th́ càng tốt lành hơn. Sở ngộ và sở hành của cư
sĩ rất đúng pháp!
* Hỏi: Trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, khi đức Phật thăng
lên trời Đao Lợi v́ mẹ thuyết pháp, chẳng thấy đôi bên hành lễ và đức Phật nói ǵ với mẹ? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Tựa đề kinh là chủ đề của một bản kinh, nên có quy định bảy thể lệ [để đặt tên kinh][9]. Kinh này lấy Địa
Tạng bổn nguyện làm chủ yếu, chẳng phải là kinh để đức Phật chuyên v́ mẹ thuyết pháp, nên chẳng chép những lời vấn đáp giữa đức Phật và Phật mẫu, có ǵ đáng ngờ? Bất quá, đức Phật chẳng thuyết kinh này trong nhân gian mà ở trên Đao Lợi, ắt phải tường
thuật nhân duyên v́ sao Ngài tới đó. Câu mở đầu kinh là: “Ở cung
trời Đao Lợi v́ mẹ thuyết pháp” chỉ là lời dẫn nhập tŕnh bày thời điểm và đại chúng, nói pháp nào th́ đều đă nói cả rồi. [Trong kinh Địa Tạng], thính chúng đến dự toàn là những người
được ngài Địa
Tạng hóa độ, nên những lời kinh văn tiếp theo câu đó chính là do pháp hội trước đă xong, lại có pháp hội kế tiếp [giảng về hạnh nguyện của ngài Địa Tạng]. Những ngôn ngữ lễ phép [trao đổi giữa hai mẹ con] phải thuộc về hội trước.
* Hỏi: Nhưng Phật mẫu thấy Phật cũng chẳng biểu lộ bất cứ t́nh cảm ǵ, mà cũng chẳng hỏi han đức Phật câu nào. Lại cũng chưa thấy đức Phật thuyết pháp ǵ cho mẹ. Có phải là kết tập bị thiếu sót hay không? (Lại
Đống Lương hỏi)
Đáp: Xin tham khảo câu trả lời thứ nhất, sẽ có thể hiểu rơ. Thật sự chẳng phải là kết tập thiếu sót, chẳng cần phải rườm lời.
* Hỏi: Hai ngục Vô Gián địa ngục và A Tỳ
địa ngục là cùng một ngục, hay khác nhau? (Lại
Đống Lương hỏi)
Đáp: Các kinh dịch [danh xưng] khác nhau. Có người dịch [hai ngục] là một, có người nói là hai. Kinh này (kinh Địa Tạng) dịch thành hai. Tuy nói là hai, nhưng cổ đức chú giải vẫn nói tuy hai mà một, mang ư nghĩa giống như trong một đ́nh viện lớn, lên ṭa nhà này bèn có gian pḥng ấy.
* Hỏi: Kinh Địa Tạng chép: “Ngô dĩ Phật nhăn
quán cố, do bất tận số” (ta dùng Phật nhăn để xem mà c̣n chẳng thấy trọn hết số lượng). Trời mưa bao nhiêu giọt đức Phật c̣n biết, v́ sao chẳng biết được số lượng đại chúng nhóm họp trong cung trời Đao Lợi? (Lại
Đống Lương hỏi)
Đáp: Điều này có hai nghĩa: Một là đại chúng nhóm họp nhiều hơn số lượng mưa rơi tại một nơi nào đó, hai là v́ tán thán mà đức Phật nói lời khiêm tốn.
* Hỏi: Ở Cơ Long, tôi mua được một đồng tiền, trên đó có đúc bốn chữ Thế Chí Bồ Tát. Nếu đồng tiền ấy là một đồng tiền thông dụng th́ giá trị lớn hay nhỏ? Được
chế tạo vào triều đại nào? Thế Chí Bồ Tát có nghĩa là ǵ? Có phải là có những đồng tiền khác được
bán ra hay không? (Lư Đáo
Thành hỏi)
Đáp: Vật ông có được
chẳng phải là tiền tệ được
lưu hành chánh thức, mà là loại tiền để trấn yểm[10]. Tôi chẳng thấy chất liệu đồng và h́nh thể chữ đúc, nên chẳng dám quyết đoán niên đại, nhưng Phật giáo truyền vào Trung Quốc có lịch sử để căn cứ. Sử chép vào thời Minh Đế nhà Hậu Hán, chỉ có tiền trong thời ấy được đúc bằng đồng tía. Từ sau thời Tùy - Đường, mới đổi sang đúc bằng đồng xanh; nhưng đến thời Tống Huy Tông, cũng từng dùng dạng chữ Sấu Kim[11], tiền được đúc bằng đồng tía, nhưng thời gian ấy rất ngắn. Đại khái vật ấy nếu chẳng phải bằng đồng xanh th́ bất quá sớm nhất là đời Tống - Nguyên, trễ nhất là thời Minh - Thanh.
* Hỏi: Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, “Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành”, cần phải có đủ sức để độ chúng sanh th́ mới phát nguyện thành Phật. Đă nói là vô thượng th́ bất cứ đại nguyện nào cũng đều chẳng thể sánh bằng. Nếu như vậy, tại sao Địa Tạng Bồ Tát chẳng phát nguyện thành Phật trước? (Lại
Đống Lương hỏi)
Đáp: Phật là giác hạnh viên măn; thệ nguyện độ hết chúng sanh chẳng phải là phát Phật nguyện th́ là ǵ? Bồ Tát sớm chứng Phật quả, cũng như Quán Âm thả chiếc bè Từ, mười lực đă trọn, tự trọn đủ sức mạnh.
* Hỏi: Phật nhập
Niết Bàn là nói Ngài trở về cơi Phật nào? (Vương Thanh Hán hỏi)
Đáp: Nói phương
tiện th́ là thế giới Hoa Nghiêm; nói chân thật th́ trọn khắp hư không đều là cơi của
Ngài.
* Hỏi: Có xá-lợi châu th́ có đủ để chứng tỏ [người
đă mất] văng sanh Cực Lạc hay không? (Vương Thanh Hán hỏi)
Đáp: Chuyện này không nhất
định, tất nhiên đó là tướng tốt lành. Người tu Tịnh
Độ văng sanh Cực Lạc, chứ người tu phương pháp khác sẽ có sự thành tựu khác!
* Hỏi: Nếu có kẻ tin sâu Phật pháp, tự biết
chướng sâu, nghiệp nặng, căn khí kém cỏi, chậm lụt, khó thể
độ chúng sanh, nhưng trong cuộc sống hằng ngày luôn giữ tâm chánh trực, trong hết thảy mọi lúc đều niệm niệm chẳng ĺa A Di Đà Phật, mang hoằng nguyện độ vô biên chúng sanh, mong mỏi thừa nguyện tái lai,
người như vậy kiến giải có chánh xác hay không? (Lư Liên Giai hỏi)
Đáp: Niệm niệm A Di Đà Phật là tịnh niệm tiếp nối; mong trở lại độ chúng là phát tâm ước nguyện sẵn. Xét về tri kiến th́ vẫn là chánh đáng, bất quá tâm lượng chẳng lớn. Cổ
nhân nói: “Chính ḿnh chưa độ, mà nguyện
độ người khác
trước, chính là Bồ Tát phát tâm”. Lại nói: “Chẳng biết bơi, vào
nước chết ch́m, [người làm như vậy] chẳng hợp lẽ!” Hai hạng người ấy đều có lư, nhưng do căn tánh khế hợp điều này bèn hành điều này, khế hợp điều kia bèn hành điều kia.
Nếu cầu hành giải tương ứng, chẳng độ chúng sanh th́ giải lực ít ỏi. Nếu luận về phước huệ song tu th́ chẳng độ chúng sanh ắt phước
đức cũng ít ỏi!
* Hỏi: Niệm Phật cầu sanh cơi Cực Lạc th́ có pháp để đắc hay chăng? Do Lục Tổ Đàn Kinh có nói: “Phàm gọi là Thiền Tông th́ chẳng do
độ thứ năm trong lục độ là tọa
Thiền, bèn do độ thứ
sáu tức Bát
Nhă Ba
La Mật”. Nếu chiếu theo cách như vậy, há [Thiền
Tông] chẳng phải là tối
thượng thừa ư? Nhưng đối với Tịnh Độ Tông th́ chùa miếu chỗ nào cũng đều là Tịnh Độ Tông, chẳng biết chùa miếu Thiền Tông được
mấy chỗ? Thiền sư có mấy vị? (Diệp Đặc Hoa hỏi)
Đáp: Pháp cầu sanh Cực Lạc vốn có nhiều thứ, nhưng ắt phải y giáo phụng hành. Nếu chẳng đúng pháp, sẽ chẳng có hiệu quả ǵ! Kinh A Di Đà có pháp tŕ danh, Thập Lục Quán Kinh có quán tưởng, kinh Vô Lượng Thọ th́ có các pháp lục độ, vạn hạnh. Trong các pháp ấy, do tŕ danh khá dễ dàng, nên trước hết hăy nghiền ngẫm cuốn Sơ Cơ Tịnh Nghiệp Chỉ Nam và cuốn A Di Đà
Kinh Bạch Thoại Giải của cư sĩ Hoàng Khánh Lan. Hăy xem đọc hai lượt, ắt biết được đường
nẻo. Đàn Kinh và Thiền Tông nếu không có thầy chỉ dạy, sợ chẳng thể hiểu rơ. Hăy nên đợi sau này, đă hiểu giáo tướng đôi chút rồi lại bàn. C̣n như chùa Thiền bao nhiêu ngôi, Thiền sư bao nhiêu vị, thiên hạ to lớn, tôi chưa tra xét.
* Hỏi: Tụng kinh trước Phật th́ thật ra, đối với kinh điển để đọc tụng ấy, trọn chẳng có ai nghe liền liễu giải. Vả nữa, người tụng kinh hoàn toàn chẳng biết diệu lư do đức Phật đă nói. Cứ tụng kinh như vậy th́ có công đức hay chăng? Nếu người tụng kinh là Phật giáo đồ th́ [tụng kinh] có ích cho bản thân hay chăng? Có ích cho chúng sanh hay chăng? Kẻ ngu mê này nghĩ việc đó giống như xướng ca
th́ có đúng hay không? Xin hăy chỉ dạy để giải trừ nghi lự! (Diệp Đặc Hoa hỏi)
Đáp: Nếu hiểu ư nghĩa kinh văn, bèn tụng đọc, tư duy lư ấy để cầu khai huệ. Chẳng hiểu ư nghĩa kinh văn th́ tụng để tập trung cái tâm tán loạn, nhằm cầu thành Định. Người có thể làm như thế th́ ai mà chẳng có công đức. Tuy không có người nghe, nhưng có thiên long bát bộ đến nghe.
Vả nữa, tu đạo cốt yếu là chính ḿnh chứng hay không
chứng, chẳng do có người nghe hay không! Nếu nói giống như ca hát th́ là loại người miệng tụng, tâm chẳng tụng. Hạng người
ấy tuy tâm không có đạo, nhưng do tụng kinh, nên khẩu
nghiệp tốt lành.
* Hỏi: Trước khi đức Phật trụ thế, chẳng biết có chúng sanh nào khai ngộ thành tựu Phật quả hay không? (Diệp
Đặc Hoa hỏi)
Đáp: Theo không gian th́ trọn hết mười phương, theo thời gian th́ tột cùng ba đời, v́ thế nói là “mười
phương ba đời hết thảy chư Phật”.
Hằng sa thế giới có hằng sa chư Phật; trong kiếp số nhiều như bụi trần, bèn có chư Phật nhiều như bụi trần. Nếu hiểu điều này, xin hỏi là có thể nói đức Phật nào là vị Phật trước đức Phật đang trụ thế hay không?
* Hỏi: Lúc mừng, giận, buồn, vui chưa dấy th́ là Không, là vô trụ. Trong lúc [những t́nh cảm ấy] dấy lên th́ là sanh tâm. Chuyện này có thể hiểu là vô trụ sanh tâm hay Chân Không Diệu Hữu được
chăng? (Chung Quân Lương hỏi)
Đáp: “Chưa phát là Không, vô trụ; đă phát là sanh tâm”, giải thích như vậy cũng chẳng phải là không được. Nhưng hai câu sau [trong lời hỏi] (tức “vô trụ sanh tâm” và “Chân Không Diệu Hữu”) vẫn là hai nghĩa [khác biệt], nên chẳng cần phải gượng ép sao cho phù hợp với ư “phát” và “không phát”.
Bởi lẽ, vô trụ sanh tâm là tùy duyên nhưng chẳng chấp
tướng, Chân Không và Diệu Hữu là nói tướng của Sắc và Không là bất nhị.
* Hỏi: “Chẳng
chú tâm th́ thấy mà như chẳng thấy” giống và khác [với ư nghĩa] “nếu thấy các tướng
chẳng phải là tướng, liền thấy
Như Lai” trong kinh Kim Cang như thế nào? (Chung Quân
Lương hỏi)
Đáp: Ư chỉ của kinh Kim Cang là “nhiếp Tướng quy Tánh”, cũng tức là “phá vọng
hiển chân”. Chân là Như Lai Pháp Thân, là đạo trọng yếu để xuất thế. Hai câu “chẳng chú tâm” ư nói làm chuyện ǵ, ư niệm ắt phải tập trung nơi chuyện ấy, chớ nên tán loạn, rong ruổi. Dốc ḷng làm việc như thế th́ mới có thành tích, đó là dạy người ta “niệm ở đâu, hăy nghĩ nơi đó”. Dụng đă bất đồng, ư nghĩa tự khác!
* Hỏi: Có những kẻ chỉ tin có thần, nhưng chẳng tin nhân quả. V́ thế, một mực bợ đỡ thần, làm ác bừa băi, thậm chí c̣n nói: “Nếu con người làm ác th́ quỷ thần c̣n phải sợ”. Có pháp dược ǵ để có thể trị căn bệnh ấy? (Vương Chí Hiền hỏi)
Đáp: Phàm phu tục tử chưa nghe đạo,
lại chẳng đọc sách, chẳng tránh khỏi tà tri tà kiến. Loại bệnh ấy ắt có lương
dược th́ mới có
thể trị lành.
“Lương dược” chính là người học rộng, có biện tài. Vận dụng biện luận, cần phải khéo léo quan sát căn cơ để châm chước, đúng là chẳng có cách nhất định, tùy cơ ứng
biến, chẳng thể suy tính thay được!
* Hỏi: Quỷ thần
có Tha Tâm Thông, nhưng cớ sao chúng ta biết pháp môn Tịnh Độ, mà bọn họ chẳng biết? (Vương Chí Hiền hỏi)
Đáp: Họ đắc Tha Tâm Thông, nhưng sức thần thông cũng có chừng hạn. Hạ trí chẳng thể biết thượng trí, thế gian trí chẳng thể biết xuất thế gian trí. Pháp môn Tịnh
Độ là “môn dư đại đạo”
thích hợp khắp ba căn, chúng ta tuy
học, nhưng thật ra cũng chưa hiểu. Quỷ được
xếp vào tam đồ, càng tối tăm, mê muội, dẫu
có tiểu thông th́ cũng chẳng thể thông hiểu đại đạo!
* Hỏi: Phật giáo đồ
ngộ đạo, đắc giải thoát, chẳng biết thân thể và tướng mạo có biến đổi [khác biệt với] thân thể của tục nhân hay không? Lại nữa, [sau khi hỏa thiêu], xá-lợi châu càng nhiều th́ đạo hạnh càng sâu phải không? Xin hăy tháo gỡ sự u mê! (Diệp Đặc Hoa hỏi)
Đáp: Thân thể và tướng
mạo thuộc về bên ngoài,
người khác nh́n vào cũng chẳng thấy đặc thù; nhưng thần thái và khí chất liền có yên tĩnh hay bộp chộp khác biệt. Lại nh́n kỹ ngôn ngữ, hành động, thiện, ác, đạo,
tục, càng thấy rơ sự khác biệt. Anh hùng nhận biết anh hùng, đó gọi là “nhân yên
sưu tai, nhân yên sưu tai”[12] (Ai giấu được ư? Ai giấu được ư?)
* Hỏi: Kinh Duy Ma Cật nói: “Do nhân duyên, nên các pháp sanh, vô ngă, vô
tạo, vô thọ giả”. Xin phiền cụ hăy chú giải hai câu trên đây! (Diệp Đặc Hoa hỏi)
Đáp: Một bộ kinh lớn, ai có thể nhớ kỹ từng câu! Hỏi chuyện này, cần phải chỉ ra chương, phẩm, để nương theo đó kiểm lại, so sánh, đối chiếu với những câu kinh văn trước và sau đoạn đó rồi mới trả lời phù hợp! Nếu không, sẽ trở thành hiểu theo mặt chữ. Ở đây, do lười nhác, tôi chỉ đành giải thích theo từng câu. Câu trước nói đến sự xuất sanh của vạn pháp, được gọi là “kết quả”.
Quả ấy do nguyên nhân và trợ duyên mà thành. Câu kế tiếp nói về tướng của vạn
pháp, đều do các duyên ḥa hợp mà có, các duyên ly tán mà diệt, trọn chẳng có chủ thể tồn tại; nên nói là “vô ngă”. Đă do duyên hợp mà có, nên biết là trọn chẳng có người tạo tác. Đă là diệt mà chẳng có chủ, nên biết chẳng có người thọ. Nhưng chớ nên hiểu lầm “vô thọ” (không nhận lănh), đừng bảo là những ǵ do phàm phu có thân thể tạo tác sẽ không có báo. Nếu cho là như vậy, sẽ trở thành “bài bác chẳng có nhân quả”, tội ấy to lớn. Tôi lại đặc biệt rườm lời nói thêm như sau:
1. Vô tạo bèn vô thọ, hữu tạo bèn hữu thọ.
2. Tu đến Pháp Thân vô tướng th́ chẳng có sở thọ.
* Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát là nam nhân hay nữ nhân? Hơn nữa, Quán Thế Âm Bồ Tát cũng ở trong Tịnh Độ, mà A Di Đà Phật cũng trụ trong Tịnh Độ, Như Lai Phật cũng
trụ trong Tịnh Độ, chẳng biết vị nào là Tịnh
Độ chân thật? (Diệp
Đặc Hoa hỏi)
Đáp: Nói theo Thắng Nghĩa th́ chẳng có tướng nam hay nữ. Luận theo Tục Đế, Quán Âm là nam tử. Nhưng thần tượng Quán
Âm tóc dài, đeo anh lạc, là tướng tại gia, đừng nghĩ Ngài là nữ nhân. Có khi tượng được tạng thuần là h́nh tượng người nữ, đó là do Ngài hóa thành thân nữ nhằm độ nữ nhân. Lại nữa, Báo Thân của Phật, Bồ
Tát đều ngự trong Tịnh Độ. Tịnh Độ to lớn, c̣n rộng hơn tam thiên đại thiên Sa Bà. Mỗi cơi Tịnh Độ đều có vô số thánh
hiền cư ngụ, Di Đà và Quán Âm cùng ở trong Cực Lạc th́ có ǵ lạ đâu?
* Hỏi: Phật giáo đồ quy y
Tam Bảo là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo, nhưng chẳng biết trong tương lai, chết đi, Tam Bảo sẽ quy về đâu? (Diệp Đặc Hoa hỏi)
Đáp: Tam Bảo thường trụ bất diệt, không đến, không về. Hư không có diệt hay không? Tam Bảo cũng như thế đó!
* Hỏi: Nghiệp
lực của chúng sanh chẳng thể
nghĩ bàn, quả báo chẳng thể nghĩ bàn. Nghe nói người đă thành tựu Tịnh nghiệp,
tuy thân chưa chết mà thần thức đă hiện trong Tịnh Độ. Kẻ ác nghiệp sâu nặng, người c̣n đang nằm bệnh mà thần thức đă bị trừng phạt trong chốn u minh, mạng tuy chưa hết mà đă đi đầu thai.
Chẳng biết Lư này là như thế nào? (Châu Huệ Đức hỏi)
Đáp: Tâm thần như biển cả, thân h́nh như một bọt nước. Nước có động hay tĩnh, tĩnh là toàn bộ biển, động là vài bọt nước. Thần thức có phiêu du và giữ lấy. Giữ lấy th́ là một thân, phiêu du bèn có thể ở hai chỗ.
* Hỏi: Phật giáo đồ có tại gia và xuất gia,
bất luận có phân biệt hay không. Nếu tu đạo th́ chẳng biết là có phân biệt tại gia hay xuất gia hay không? Nếu là có phân biệt, chẳng biết Phật tánh có phân biệt tại gia hay xuất gia hay chăng? (Diệp
Đặc Hoa hỏi)
Đáp: Phật tánh của hết thảy
chúng sanh đều như nhau. Tánh tại gia và xuất gia há có hai? Người tu đạo là tu để trừ khử cái nhiễm ô tánh, tức là vô minh. Hiểu rơ chân tánh sẵn có th́ tu đạo cũng chẳng có hai. Nhưng Phật pháp có tám vạn bốn ngàn [pháp môn], có khó, có dễ, bất luận tại gia hay xuất gia, hăy nên chọn lấy pháp chính ḿnh có thể tu được để tu tập th́ mới dễ thành tựu!
* Hỏi: Nghe nói người tiều phu nọ chuyển sanh làm Lương Vũ Đế, có chứng cứ ǵ hay chăng? (Châu Huệ
Đức hỏi)
Đáp: Chỉ có một đoạn công án được
hậu hiền ghi chép mà thôi! Lịch sử Trung Quốc ghi chép người X… là do [mẹ mộng thấy] người Y… xuất hiện trong mộng mà sanh ra, hoặc tự nhớ đời trước là người nào, đều chỉ là do Tỷ Lượng mà suy đoán, chẳng thể cầu chứng thực
bằng Hiện Lượng.
* Hỏi: Hiện thời, Phật giáo tại Đài Loan quá suy yếu, mọi người
đều công nhận điều này. Có phải là v́ phụ nữ chiếm đại đa số trong giới xuất gia mà ra hay không? (Đương thời, đức Phật phản đối nữ nhân xuất gia. Hơn nữa, trong hiện thời, nữ nhân xuất gia mà có thể khiến cho Phật giáo và quốc gia hưng thịnh rất ít). Hay là v́ người lănh đạo Phật giáo? Hoặc là v́ nguyên nhân nào khác? (Châu Di Quân
hỏi)
Đáp: Thời kỳ Mạt Pháp th́ pháp chẳng hưng thịnh. Nhưng trong lúc mùa Hạ nắng gắt, có mấy lượt gió mưa th́ cũng biến thành mát mẻ; mùa Đông rét buốt, nếu có mấy hôm trời quang đăng, cũng biến thành ấm áp. Đó là do khí cảm mà chuyển thành điều ḥa. Nắng gắt gắn máy lạnh, tiết rét buốt gắn máy sưởi th́ mùa Hạ có thể mát mẻ, mùa Đông có thể ấm áp. Đó là sự điều ḥa bởi sức người. Phật pháp tuy gặp lúc mạt vận, nhưng nếu tín đồ nhà Phật có thể tinh tấn cảm vời Chánh Pháp trụ thế, Phật giáo sẽ hưng thịnh. Lỗi chẳng phải do nữ chúng nhiều hay ít, hoặc do người lănh đạo chẳng tốt lành, mà do tín, giải, hành, chứng của mỗi người, hai đường
chân và ngụy
[phải nên hiểu rơ]! Trách người chẳng bằng trách ḿnh. Trách người khác chỉ mất công dẫn đến tranh
chấp. Thật sự làm th́ sẽ có tác dụng xướng suất, hướng dẫn [người khác làm theo].
* Hỏi: Kinh nói “người mê niệm
Phật cầu cơi kia, kẻ ngộ bèn tự tịnh tâm ḿnh”, nhưng chúng ta khắp nơi đều là lớn tiếng niệm kinh Phật; như vậy là thuộc về mê hay ngộ? Hay là do có những mục đích khác mà tu tốt lành đằng miệng? Xin hăy giải trừ ḷng nghi! (Châu Di Quân hỏi)
Đáp: Ngài và tại hạ đều là kẻ mê trong mê, chẳng được đến nửa phần trong vạn phần ngộ. Tại hạ chưa đoạn Hoặc, Ngài chưa nhập môn chữ Ngộ, nên chẳng bàn được!
Xin trước hết hăy chiếu theo lời đáp cho câu hỏi thứ ba để thực hiện. Nếu không, sai chỉ hào ly, lạc xa ngàn dặm, lầm lẫn to lớn!
* Hỏi: Các chùa Phật và các đoàn thể tôn giáo thường hướng dẫn tín đồ tế bái vận mạng. Những tṛ bày vẽ như lễ bái Bắc Đẩu v.v… hết sức nhiều! Cách làm như vậy mang sắc thái ngoại giáo quá nhiều, kinh điển trọn chẳng ghi chép chuyện ấy. Đó là mê tín, trái nghịch Phật giáo, thuộc về đạo tà ác. Hội Phật giáo có quyền xử lư ḥng cấm ngặt hay không? Hoặc có biện pháp kèm cặp, sửa đổi họ hay không? Xin hăy chỉ dạy. (Châu Di Quân hỏi)
Đáp: Những thứ như ông đă nói đều chẳng phải là những điều nên làm của Phật giáo đồ, nhưng họ đă làm th́ đủ chứng tỏ họ chẳng tôn trọng chánh pháp. Chẳng phải là hội Phật giáo không khuyên họ chấm dứt, nhưng thói quen tích tụ đă sâu, bề ngoài tuân phụng, nhưng bề trong chống trái, cũng chỉ đành để mặc họ mà thôi!
* Hỏi: Như Lai Phật cũng là Phật, A Di Đà
cũng là Phật, chẳng
biết vị nào lớn, vị nào nhỏ? (Ngô Kính Nhân hỏi)
Đáp: Đạo pháp và địa vị của các đức Phật đều giống như nhau, trọn chẳng có cao, thấp, lớn, nhỏ. Nếu chẳng hiểu
rơ th́ hăy thử nghĩ tới các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh v.v…, ngôi vị hoàng đế của triều đại nào lớn, ngôi vị hoàng đế của triều đại nào nhỏ, sẽ hiểu rơ ngay!
* Hỏi: Kinh Kim Cang nói đức Phật [Thích Ca]
được bảy vị Nhiên Đăng Phật thọ kư, chẳng biết bảy vị Nhiên Đăng Phật có phải là chúng sanh khai ngộ trong đời trước, thành tựu quả Phật hay không? (Ngô Kính Nhân hỏi)
Đáp: Chư Phật
đều do chúng sanh tu thành, trọn chẳng có lẽ nào trời sanh ra Phật, hay Phật là tự nhiên! Nhiên Đăng Cổ Phật cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Đó gọi là “ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, chẳng tu chẳng đắc!”
* Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát là con gái thứ ba của vua Diệu Trang Vương, chẳng biết [chuyện ấy] có kinh điển nào
[ghi chép] hay không? Lại có căn cứ ǵ để sưu khảo hay không? (Ngô Kính Nhân
hỏi)
Đáp: Đó là do những kẻ chẳng hiểu Phật lư, chẳng đọc kinh Phật, từ trong không đặt ra có, mù quáng bịa chuyện, trọn chẳng có giá trị ǵ để bàn luận!
* Hỏi: Trong pháp môn Tịnh Độ, Phật hiệu rất nhiều, đấy có phải là những chúng sanh khai ngộ thành Phật quả trước đức Phật [Thích Ca Mâu Ni] hay không? (Ngô Kính Nhân
hỏi)
Đáp: Trước thời Phật Thích Ca, có vô ương số hằng sa chúng sanh thành Phật. Sau đức Phật Thích Ca, cũng có vô ương số hằng sa chúng sanh thành Phật. Truy lên trước bèn chẳng có ngằn hạn, truy về sau th́ vô cùng. Do chúng sanh đều có Phật Tánh, hễ tu th́ thành Phật, chẳng tu th́ vĩnh viễn là chúng sanh.
* Hỏi: Kệ văn trong kinh luận nhà Phật, thông thường do v́ chuyện ǵ mà soạn ra? Có phải là giống như luật thơ Ngũ Ngôn, có quy cách và hạn chế về cách gieo vần nhất
định? Nếu đọc tụng kinh luận nhà Phật, hễ có tâm đắc bèn soạn kệ văn để biểu lộ tâm ư th́ có được
hay không? (Lưu Tự Nhậm hỏi)
Đáp: Kệ tụng trong kinh vốn có nhiều loại, có lúc để nhắc lại phần kinh văn trước đó, hoặc có lúc nhằm bổ sung những ư chưa đủ trong kinh
văn trước đó, đó là thông thường. Ngoài ra, cũng có thể chỉ là kệ ngữ. Mỗi câu được hạn định bởi số chữ, không cần nhất định phải gieo vần. [Mỗi câu kệ có thể là] bốn chữ, năm chữ, cho đến sáu, bảy, tám chữ khác nhau. Loại năm bảy chữ th́ giống như thơ Cận Thể, những loại khác giống thơ Cổ Thể[13]. Những loại khác (như kệ phó chúc, kệ thị tịch v.v…) th́ là một loại văn tự, trọn chẳng gọi là kinh. Hễ có cảm tưởng th́ có thể múa ngọn bút để gởi gắm nỗi niềm!
* Hỏi: Trong phẩm mười một, tức phẩm Địa Thần Hộ Pháp của kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có nói: “Tôi thấy
chúng sanh trong vị lai và hiện tại, ở nơi cư
trụ, nhằm chỗ thanh khiết thuộc phương
Nam, dùng đất, đá, tre, gỗ, làm thành cái khám
thất, trong ấy có thể đắp, vẽ h́nh tượng Địa Tạng, cho
đến chế bằng vàng, bạc, đồng,
sắt… th́ chỗ ở của người ấy liền
được mười thứ lợi ích”. Xin hăy giải thích “khám thất” (龕室) là cái ǵ? (Lưu Tự
Nhậm hỏi)
Đáp: Trong điện đường của các chùa,
thờ Phật ở chính giữa, có khi làm thành một gian
pḥng nhỏ bằng gỗ bọc lấy tượng
Phật, hoặc lộng gương, hoặc chỉ làm lan
can, mái diềm, xếp cột [vây quanh]. Những thứ trang trí ấy
được gọi là Khám Thất. Lại nữa, bài vị tổ tiên thờ trong
nhà tại Đài Loan, phía ngoài có hộp gỗ bao bọc,
[cách này] rất phổ biến, [hộp gỗ ấy]
cũng được gọi là “thần
khám” (神龕).
* Hỏi: [Những điều được
viết trong] cuốn Quán Thế Âm Truyện do Mạn Đà La Thất Chủ Nhân trước tác có phải là những sự tích chân thật? Nếu muốn nghiên cứu những sự tích tu đạo, thành đạo, ứng hóa v.v… của Quán Thế Âm Bồ Tát th́ có sách nào để tham khảo? (Lưu Tự
Nhậm hỏi)
Đáp: Tôi chưa đọc sách ấy, nhất thời cũng chẳng kiểm được! Phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa có bản lưu hành riêng lẻ, các vị đại sư như Đế Nhàn, Từ Châu, Viên Anh đều có chú giải. Trong ấy có nói đại lược về bổn tích của Quán Thế Âm Bồ Tát, nên có thể tham khảo. Muốn biết sự ứng hóa của Ngài th́ có sách Quán Âm Linh Cảm Lục tường thuật sự tích rất nhiều. Sách vừa kể trên đây ở Đài Trung rất hiếm, ông hăy thử kiếm từ các chỗ lưu thông [kinh sách] ở Đài Bắc. Nếu không có, chỉ có cách cậy người bên Hương Cảng kiếm giùm.
* Hỏi: Cái học của bậc đại nhân trong Nho gia và sự giác ngộ của bậc đại nhân trong Phật giáo, xét về căn bản là khác nhau hay giống nhau? (Trương Thụy Lương hỏi)
Đáp: Cái học của bậc đại nhân trong Nho gia là “tại minh Minh Đức,
tại tân dân”, nhà Phật là “tự giác, giác tha, giác hành viên măn”. Minh Đức và tự giác là một, tân dân và giác tha là một. Xét về Lư, hai nhà Nho và Phật chẳng có ǵ không giống nhau; xét theo Sự th́ không ǵ chẳng khác. Khác ở chỗ Phật là xuất thế gian, Nho là thế gian.
* Hỏi: Chân Tục nhị đế và Tam Đế viên dung của tông Thiên Thai có phải là lư luận h́nh thành do sự phát triển tư
tưởng hay không? Hay là cùng một Lư nhưng nói khác nhau? (Trương Thụy
Lương hỏi)
Đáp: Chân và Tục là nói chia ra; Tam Đế là hợp lại để nh́n. Tham khảo lời đáp trong câu thứ nhất, ắt có thể suy ra.
* Hỏi: Quan hệ giữa Giới, Định, Huệ và Chỉ Quán tam-muội là ở chỗ nào? (Trương Thụy
Lương hỏi)
Đáp: Giới, Định,
Huệ là thành tích mong cầu, Chỉ Quán là phương pháp để tu.
* Hỏi: V́ sao các tông phán giáo[14] khác nhau? Có phải là về nguyên tắc th́ như nhau, nhưng sở kiến mỗi tông mỗi khác đó chăng? (Trương Thụy Lương hỏi)
Đáp: Nếu dựa theo thời kỳ để luận th́ không ǵ chẳng giống nhau. Nếu xét theo bán tự, măn tự, tô, đề hồ… các thí dụ để luận th́ mỗi tông đều có điều đề cao riêng, chẳng khỏi có các phương tiện khác nhau!
* Hỏi: Quan Công chưa từng chứng quả vị ǵ, v́ sao phong ông ta làm thần hộ pháp? (Dương Trường Sơn hỏi)
Đáp: Quan Công từng thọ giới nơi Trí Giả
đại sư; do vậy, được người đời sau tôn xưng, chẳng phải là sắc phong, nhưng mỗi người đều có nhân duyên riêng. Chuyện đă ngàn năm, thần thức ông ta tu ra sao, chứng như thế nào, bọn phàm phu chúng ta chẳng biết!
* Hỏi: Xét về căn bản, tầng bậc tu hành trong Phật pháp và Nho, Đạo là giống nhau hay khác nhau? “Ai cũng đều có thể
làm Nghiêu, Thuấn”, hoặc “người nào cũng
đều có thiện
tánh” th́ có liên quan ǵ với “mỗi
người đều có Phật tánh” hay chăng? (Trương Thụy Lương hỏi)
Đáp: Phương pháp tu hành của ba nhà đều lấy thân tâm làm gốc, đó là chỗ tương đồng, nhưng tiền tŕnh và mục tiêu th́ mỗi nhà mỗi khác. Tuy vậy, cũng chỉ là nói theo h́nh thức biểu hiện, c̣n những chân lư được ẩn tàng trong ngôn thuyết của mỗi nhà đều chẳng thể nói bằng vài chữ được.
Nho và Đạo xuyên suốt nhân thiên, c̣n tông chỉ của nhà Phật là siêu thế.
* Hỏi: Phật học được truyền vào [Trung Hoa] thời Lục Triều[15]. Vào khoảng cuối đời Minh đổ lại, Tây Học xâm nhập Trung Thổ. Người trong
nước xưa kia đă đạt thành tựu, nêu khuôn mẫu từ xưa. Nếu văn hóa Trung Quốc và Tây Phương dung hợp, như Nho, Thích, Đạo hội hợp chẳng xen hở, thử hỏi t́nh h́nh hiện thời có tương tự thời Ngụy - Tấn hay không? Một mặt, cần phải khai quật nền văn hóa vĩ đại của cổ Trung Quốc, mặt khác cần phải tăng cường phiên dịch văn hóa Tây Dương,
dùng đó làm cầu bến, đợi đến sau này dung hội, xuyên suốt. Tôi nghĩ người thuở Lục Triều mê mẩn văn hóa Phật giáo Ấn Độ, do phiên dịch mà sáng lập phương cách [văn học, ngôn ngữ mới mẻ], cuối cùng [những điều ấy] được ḥa hợp viên dung trong hệ thống văn hóa Trung Quốc. Hiện thời, có nên cũng dùng phiên dịch để mở ra đầu mối này, hay là có đường lối tốt hơn để theo đuổi? (Trương Thụy Lương hỏi)
Đáp: “Phật pháp vô
lượng thệ nguyện học”, muôn Sự muôn Lư trong thế gian chẳng xưa, chẳng nay, không thứ ǵ chẳng phải là Phật pháp. Nếu có chuyện ǵ chẳng biết, bèn gọi là Sở Tri Chướng. Do vậy, muốn cầu Đại Giác, ắt phải đoạn Trần Sa Hoặc. Học vấn trong đại thiên thế giới c̣n phải đều trao đổi, huống ǵ Trung Hoa và Tây Phương. Dùng phiên dịch để mở ra đầu mối cố nhiên là hữu lư, nhưng bất quá cũng chỉ là giới thiệu mà thôi, c̣n như nghiên cứu, bắt tay vào thực hiện th́ rất có nhiều chuyện tồn tại!
* Hỏi: Chư pháp do nhân duyên sanh, [vậy th́] Chân Như bổn tánh do nhân duyên nào sanh ra? Chúng sanh hữu hạn, đúng không? Nếu vô hạn th́ làm sao Bồ Tát có thể hóa độ cho đến khi chúng sanh giới rỗng không? (Dương
Trường Sơn hỏi)
Đáp: “Chư pháp nhân
duyên sanh” là pháp phương
tiện; Chân Như là pháp vô vi, làm sao có thể dùng hữu vi để sanh ra vô vi? Kinh dạy: “Chẳng phải
nhân, chẳng phải duyên, mà cũng chẳng phải là tự nhiên”, “vốn chẳng
phải là nhân duyên, chẳng phải là tánh tự nhiên”. Cổ
đức đă nói kệ: “Phi nhân duyên, phi tự nhiên, diệu trung chi diệu
huyền trung huyền, sâm la vạn tượng quang trung
hiện, tầm chi bất kiến
hữu căn nguyên” (Chẳng phải nhân duyên, chẳng tự nhiên, mầu nhiệm thêm mầu, huyền thêm huyền. Quang minh
hiện bóng sâm la sự, t́m măi chẳng ra chỗ cội nguồn). Đối
với vấn đề chúng sanh hữu hạn hay vô hạn, kinh dạy: “Nhưng do chúng sanh
giới cho
đến phiền năo chẳng có cùng tận”, đó là chứng cớ chúng sanh vĩnh viễn chẳng thể cùng tận. Bồ Tát bao nhiêu kiếp tùy
thuận chúng sanh, hóa độ chúng sanh chưa hề ngưng nghỉ. Kinh dạy: “Chúng sanh giới tận, nhưng sự tùy thuận này của ta
chẳng có cùng tận,
niệm niệm tiếp nối
chẳng gián đoạn, thân, ngữ, ư nghiệp chưa
từng chán mệt!” tức là chúng sanh và Bồ Tát cả hai đều vô hạn.
* Hỏi: Một người vừa mới qua đời th́ linh hồn đi về chỗ nào? (Quách Bang Quang hỏi)
Đáp: Sau khi thân chúng sanh vừa chết, trước khi vào trong lục đạo th́ gọi là Trung Ấm Thân, bồng bềnh, trôi nổi, trọn chẳng có chỗ cố định. Ngắn th́ mấy khắc, dài th́ bốn mươi chín ngày, bèn vào trong lục đạo. Nhưng trong giai đoạn Trung Ấm, người có Thiên Nhăn có thể thấy đầu, chân, người ấy đúng hướng, nằm ngang, hay đảo ngược v.v… nên cũng có
thể đoán biết người ấy sẽ đầu thai trong
đường nào! Bọn ta mắt phàm chỉ có thể dựa trên bộ vị nơi hơi ấm mất đi cuối cùng để đoán định. Đó gọi là bốn câu kệ “đảnh thánh, mắt thăng
thiên v.v…” mà thôi.
* Hỏi: Bất luận
tại gia hoặc xuất gia, Phật tử đă quy y một vị tỳ-kheo làm sư phụ
th́ có thể lại quy y một vị tỳ-kheo-ni làm sư phụ hay không? (Đông Cầm hỏi)
Đáp: Quy y Tăng Bảo, hăy nên biết ư nghĩa của Tăng. Tăng là Chúng, tức đoàn thể xuất gia. Quy y một vị tỳ-kheo th́ vị tỳ-kheo ấy là người đại diện Tăng Đoàn, người quy y [Tam Bảo] đă quy y hết thảy các vị tỳ-kheo. Hiểu rơ điều này th́ biết: Sau khi quy y, chẳng phải chỉ là đệ tử của một
người, mà là đệ tử của hết thảy tăng. Nếu do tùy thuận kết duyên mà quy y lại, ắt là đă ở giữa hai đằng có thể và không thể. Nếu nói là nương theo vị mới mà đoạn tuyệt vị cũ, tối Sở sáng Tần, th́ sai trái quá lớn!
* Hỏi: Phẩm Hạnh Nguyện có nói: “Nói sám hối
nghiệp chướng là… do tham, sân, si, phát ra thân, khẩu, ư”, v́ lẽ ǵ dùng “khẩu” chẳng dùng “ngữ”. Lại nói: “Thân, ngữ, ư nghiệp chẳng
có chán mệt”, cớ ǵ chẳng dùng Khẩu? Lại nói: “Con xưa trót tạo các ác nghiệp, đều do vô thỉ tham, sân, si, từ thân, ngữ, ư phát sanh ra”, v́ sao phải dùng chữ Ngữ? Có phải là phân biệt Thể, Tướng, Dụng hay không? Xin hăy chỉ dạy cặn kẽ từng điều trong
ba điều ấy! (Thái Vinh Hoa hỏi)
Đáp: Ba thứ thân, khẩu, ư chính là công cụ tạo tác thiện ác nơi thân người. Khi thân không nghỉ ngơi, bèn hướng ra ngoài khởi lên hành động. Khi ư chẳng ngưng dứt, bèn khởi lên suy lường. Hai
thứ công cụ này mỗi thứ chỉ có một loại tác dụng. Công cụ “khẩu” có hai thứ tác dụng là ăn uống và ngôn ngữ, khác với thân và ư. Cái gọi là “bốn
nghiệp nơi miệng” đều là dấy động ngôn ngữ, chẳng thuộc trong ăn uống. V́ thế, trong cách hành văn, có chỗ nói đến công cụ, có chỗ nói đến nghiệp tạo tác. Nay trong lời hỏi về chữ Khẩu th́ kinh văn có ba chỗ: Một là phần kinh văn mở đầu, ắt phải nói đến công cụ trước, nhằm nói rơ nghiệp do nương vào công cụ mà dấy động, nói đến nguyên do. Hai chỗ kinh văn thứ hai
và thứ ba đều nói đến sự tạo nghiệp; v́ thế, dùng chữ Ngữ, chẳng dùng chữ Khẩu!
* Hỏi: Tu hành
đến Tứ Không Thiên trong Vô Sắc Giới th́ đă không c̣n hiện tướng sắc thân vật chất ngăn ngại, nhưng c̣n có phân biệt tướng nam nữ hay không? (Đông Cầm hỏi)
Đáp: Nói là nam hay nữ là do lấy sắc thân biến
hiện để luận định, cơi Tứ Không chẳng có sắc chất, thân tướng đều không có, làm sao có nam nữ cho được?
* Hỏi: Hán Minh Đế
mộng thấy người vàng, Phật giáo liền du nhập Trung Quốc. Có phải là người sống trước thời Hán Minh Đế chẳng có Phật pháp để nghe
hay chăng? Từ Hán Minh Đế đến hiện tại ước chừng bao nhiêu năm? (Cố Phượng Anh hỏi)
Đáp: Trước thời Hán Minh Đế có Phật pháp tuyên dương hay không, sử chẳng ghi chép, chẳng tiện bàn suông! Nhưng trong triều đại nhà Châu, dưới đời Tần Mục Công và Yên Chiêu Vương đều có tượng Phật và các tháp xuất hiện. Hán Vũ Đế[16] đánh nhau với dân tộc Hung Nô, cũng đoạt được tượng Phật, đem về cung thờ phụng, nhưng chẳng có kinh bổn. Từ Hán Minh Đế đến nay
khoảng chừng hai ngàn lẻ ba mươi
năm.
* Hỏi: Khi đức Phật giảng kinh, thuyết pháp, thiên long bát bộ đều đến nghe pháp, hộ pháp, nhưng đối với đạo tràng giảng kinh hiện thời, thiên long bát bộ có đến hộ pháp hay không? (Trần Nguyệt Nga hỏi)
Đáp: Chỉ cần là đạo tràng thanh tịnh, luôn giữ nghiêm túc, nương theo kinh để hiểu kinh, chẳng ĺa chánh nghĩa, một là v́ lợi sanh, hai
là v́ cầu đạo. Hành đúng pháp th́ công đức mới chẳng luống uổng. Không chỉ là thiên long bát bộ đến trước hộ pháp, mà Phật, Bồ Tát cũng đến gia bị.
* Hỏi: Khi lịch
đại cao tăng viên tịch, thường có vị tự phun tam-muội chân hỏa để đốt thân, chẳng biết tam-muội chân
hỏa là như thế nào? Và cách phun ra sao? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Chuyện này ngẫu nhiên cũng có, chẳng phải là chuyện thường xảy ra. Tam-muội là Chánh Định. Định có thủy hỏa các thứ khác nhau. Công phu Thiền Định này phun ra lửa. Cách phun như thế nào, phải tu theo thứ tự. Thứ tự đă hoàn thành th́ hễ dùng đến bèn hiện. Định chẳng thành, sẽ chẳng thể hiện.
* Hỏi: Phẩm Phổ Môn có câu: “Nếu muốn cầu con trai,
lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm
Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức, trí huệ”. Có người hỏi: Nếu nữ nhân cầu con, nhưng xét theo điều kiện sinh lư chẳng thể mang thai, nhưng chính ḿnh không biết, mỗi ngày hy vọng Quán Thế Âm ban cho con th́ như vậy có thể cầu được
hay không? (Lại Khoan Châu hỏi)
Đáp: Vạn pháp do nhân duyên sanh, chưa đầy đủ điều kiện sẽ chẳng thể sanh, như thạch nữ[17] và bất nam[18]
v.v… là do chưa đầy đủ nhân, nhưng vạn pháp như huyễn, đều chẳng chân thật. Thân Tứ Đại, Ngũ Uẩn cũng là huyễn giả. Người có đại lực th́ cũng có thể biến đổi, phải phối hợp với nghiệp lực th́ mới có thể làm được!
Sách cổ đă ghi chép nữ chuyển thành nam, người biến thành súc vật, kẻ mù mắt lại sáng, người teo chân có thể đứng dậy, đều là do lệ ấy. Huyễn thân của nữ nhân ắt phải thay đổi cái nhân rồi sau đấy mới nói tới những chuyện khác được!
* Hỏi: Trước đây, trong bài văn của đại đức X… tôi có thấy viết: “Đức Thế Tôn ban đêm
thấy sao Hôm bèn thành đạo” v.v… Xin khai thị về căn cứ và lai lịch của kinh điển [của chuyện ấy]. (Triệu Triết hỏi)
Đáp: Chuyện này thấy chép trong kinh Phổ Diệu. Tôi kính cẩn dùng mấy lời để dâng hiến đại khái. Đạo học Phật có giữ chuyên tinh giới
luật, có y pháp tu tŕ, có cầu hiểu giáo nghĩa, có chuyên chú trọng khảo
cứu. Tuy những cách ấy đều trọng yếu, nhưng người mới học ắt phải chọn lựa để tiến nhập. Tŕ luật là Giới, tu pháp là Định, hiểu nghĩa là Huệ. Khảo cứu là t́m ṭi đằng ngọn, nay chẳng t́m cái gốc trước th́ có đạt được cái ngọn cũng vô ích!
* Hỏi: Vô thường nhanh chóng, đường luân hồi nguy hiểm, mai sau mẹ con chẳng tránh khỏi đi khác đường,
nên trong tâm sợ hăi, thường viết “nghĩ muốn báo ân mẹ,
chỉ có tu phạm hạnh” để khích lệ ư chí. Nếu đem công đức do con đă làm để hồi hướng cho thân mẫu trong hiện tại th́ mẹ đạt được
bao nhiêu lợi ích? (Lữu Mậu
Thịnh hỏi)
Đáp: Chuyện này chẳng cần phải trích dẫn kinh điển; phải biết là vạn pháp duy tâm. Mẹ con khí phận tương thông, [con cầu nguyện hồi hướng cho mẹ] sẽ trỗi vượt người khác cầu đảo. Nếu cảm Phật lực gia bị, cũng
có công lao chẳng thể
nghĩ bàn! Nếu nay mẹ chưa sanh vào đường
khác, hăy làm ngay đi!
* Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ có nói khi đức Thích Ca Thế Tôn
giảng đến đoạn cuối cùng th́ tôn giả A Nan và hết thảy đại chúng đều trông thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chẳng biết [đại chúng] khi ấy có thể trông thấy bằng huệ nhăn hay bằng mắt thịt? (A Ái hỏi)
Đáp: Người đă chứng
quả và đắc thần thông dùng thiên nhăn hoặc huệ nhăn để thấy, phàm phu dùng mắt thịt để thấy v́ được đức Phật gia bị.
* Hỏi: Tôi trộm thấy Văn Thù Bồ Tát cưỡi sư tử, Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi
trắng, Địa
Tạng Bồ Tát cưỡi thú một sừng, tay cầm minh châu. Tôi là kẻ sơ học, chẳng biết sư tử, voi và minh châu do chỗ nào mà đến? Rốt cuộc nhân duyên là như thế nào? (Hồ Thiệu Đức hỏi)
Đáp: Tượng Địa Tạng do người Trung Quốc tạc chính là [h́nh tượng] của vị thánh tăng Cao Ly đến Trung Quốc vào đời Đường,
dắt theo một con chó trắng, trác tích ở núi Cửu Hoa tỉnh An Huy, từng hiển lộ thần thông, [nên đại chúng] biết Ngài là hóa thân của Địa Tạng. Sau khi Ngài diệt độ, bèn tạc tượng theo h́nh dáng đó. Thú một sừng chính là biến tướng của con chó trắng. C̣n như hỏi tay cầm minh châu và vật cưỡi của hai đức thánh Văn Thù và Phổ Hiền đều đến từ nơi đâu th́ cũng gần như là hư luận!
* Hỏi: Có một bà cụ niệm Phật mấy chục năm, gần đây, lúc niệm Phật thấy rất nhiều con vật, sợ sẽ bị sanh vào súc sanh đạo. Lúc tôi mới học niệm Phật th́ cũng từng nh́n thấy. Đây là do thức nào hiện? V́ sao có những đồng tu chẳng thấy hiện tượng đó? (Huệ Chi hỏi)
Đáp: Trong thức thứ tám có chứa chủng tử, ngẫu nhiên dấy lên hiện hành. Thức thứ sáu thường luôn chuyển dịch, vọng niệm chẳng ngừng, nên có hiện tượng ấy. Nhưng “phàm tất cả các
tướng đều là hư vọng”, nếu có thể buông xuống vạn duyên, nhiếp trọn sáu căn, sẽ tự nhiên chẳng thấy tướng ấy. Hăy nên biết vọng tướng là do có vọng niệm. Nếu đắc nhất tâm, há c̣n có vọng tướng!
* Hỏi: Nay tôi đọc sách khóa tụng, thấy trong bài văn để vị chủ lễ đọc vào nước [sái tịnh] có những câu như: “Thủy bất tẩy
thủy, diệu khế Pháp Thân; trần bất tẩy trần, phản tác tự kỷ, quyên trừ khí giới, đăng địch đàn
tràng”, chẳng biết nên hiểu như thế nào? Lại chẳng biết do ư nghĩa nào mà hướng về nước nói [những câu] như thế? (Trương Tự Nghiêu hỏi)
Đáp: Nước có thể gột rửa các vật dơ bẩn, nhưng nước vốn tịnh, chẳng phải là do dùng nước [để] rửa nước mà sạch, nên nói: “Thủy bất tẩy thủy” (Nước chẳng rửa nước). Nước ví như bổn tánh, tánh chính là Pháp Thân, Pháp Thân vốn tịnh, chẳng do tu mà thành, nên nói: “Diệu khế
Pháp Thân” (khế hợp khéo léo cùng Pháp Thân). Trần vốn là huyễn cảnh, tâm mê giống như
nhiễm, mà trần là huyễn cảnh, chẳng
phải do trần nhiễm bẩn, nên nói: “Trần bất nhiễm
trần”. Phàm phu chẳng hiểu tự tâm, duyên theo bóng dáng của sáu trần, coi đó là tâm tướng của chính ḿnh, nên nói “phản tác tự kỷ” (ngược ngạo coi [bóng dáng của sáu trần] là chính ḿnh). Đấy là một thứ nghi thức tán sái nhằm tịnh hóa đàn tràng, nguyện sau khi rẩy nước xong, hết thảy thanh tịnh. Tướng vọng to lớn th́ khí thế giới là lớn nhất. Sau khi dùng nước gột rửa, vọng cảnh đều không, nên nói là “quyên
trừ khí giới” (trừ sạch khí thế giới). Ư nghĩa chánh yếu là khiến cho đạo tràng thanh tịnh, do cậy vào pháp thủy này th́ mới được thành tựu, nên nói “đăng
địch đàn tràng” (gột sạch rỗng rang đàn tràng) v.v...
Phụ
chú:
1) Những điều trên đây đều là giải thích thô thiển, tôi nghĩ kẻ sơ cơ chẳng thể hiểu rơ; do hỏi, nên phải đáp mà thôi. Chứ thật ra đối
với người sơ học, những điều này chẳng cần kíp, trọng yếu! Tuy phát xuất từ khóa tụng, nhưng cũng chẳng phải là công khóa tụng niệm hằng ngày, nhất là bạch y tại gia sử dụng [nghi thức] này rất ít!
2) Những câu hỏi khác, ư hỏi thiếu rơ ràng, nên xin lượng thứ chẳng đáp!
* Hỏi: Trung Ấm Thân là ǵ? (Thái Từ Tâm hỏi)
Đáp: Khi thần thức rời khỏi thân Ngũ Uẩn hiện tại, chưa đầu thai vào chỗ thọ thân cho đời sau, trong khoảng ấy có h́nh dáng Ngũ Ấm nên gọi là Trung Ấm Thân!
* Hỏi: Người sau
khi đă chết bèn từ Trung Ấm Thân trực tiếp đi đầu thai?
Hay là phải trải qua Thập Điện Diêm Vương phán quyết rồi mới
đầu thai? (Thái Từ Tâm
hỏi)
Đáp: Có Trung Ấm Thân hay không, chẳng nhất định! Hai
hạng chúng sanh cực thiện và cực ác đều chẳng có Trung Ấm. Bỏ thân này, nhập thân khác, những loại c̣n lại đều có [Trung Ấm Thân]. Thời gian mang thân Trung Ấm chẳng thuộc trong lục đạo. Nếu nói tới Diêm Vương thẩm phán th́ đó là trạng huống trong hai đường quỷ và địa ngục.
* Hỏi: V́ sao cho đến nay Đài Loan vẫn chẳng có một Quán Âm Đường độc lập để bảo vệ đại chúng? Có phải là chẳng được phép thiết lập? Hay là không có ai đề nghị? (Thái Sùng
Kỳ hỏi)
Đáp: Chùa thờ Quán Âm làm Bổn Tôn rất nhiều, nhưng chẳng cần đều phải đặt tên là Quán Âm Đường. C̣n như nói độc lập, tiểu miếu th́ được,
chùa lớn điện đường
thờ nhiều vị Phật, Bồ Tát, thường chẳng phải chỉ là một vị. Tôn giáo chánh thức được
pháp luật bảo vệ, nếu muốn thờ phụng một ḿnh Quán Âm, chẳng có ai ngăn trở!
* Hỏi: Nếu từng khinh lờn Phật, phải làm như thế nào để hồi phục ư cung kính? (Thái Sùng
Kỳ hỏi)
Đáp: Đối trước Phật chí tâm sám hối, sau này chẳng tái phạm, tức là khôi phục lại tấm ḷng cung kính, chịu làm th́ không ǵ tốt lành bằng!
* Hỏi: “Chẳng đoạn gốc ái dục, khổ
cũng lại sanh sôi”. Nhưng đă hứa yêu thương trước kia, nếu đoạn ái, há chẳng phải là thất tín ư? (Thái Sùng
Kỳ hỏi)
Đáp: “Đă nhận lời yêu thương, nếu đoạn ái sẽ bị thất tín”, tôi chẳng biết “ái” trong lời hỏi là chuyện như thế nào? Nếu là tại gia nam nữ, trải qua cha mẹ, mai mối, thủ tục pháp
luật để chánh thức
kết hôn, đó chính là đại sự trong luân lư con người, là lẽ đương
nhiên. Nếu làm chuyện sai quấy, nghịch lư, phạm pháp, hễ biết sai liền sửa, phải mau chóng chấm dứt. Tín là một trong các đức hạnh, ắt phải làm sao cho tín hợp với đức. Nếu trái nghịch nguyên tắc này, ắt tín chẳng có căn cội, tông chỉ. V́ thế, thánh nhân nói: “Ngôn bất tất tín, hành
bất tất quả; duy nghĩa thị tùng, khả tam phục tư ngôn” (lời nói không luôn nhất định giữ chữ tín, việc làm không nhất
định phải đạt kết quả, miễn sao hợp với đạo nghĩa là được,
hăy nên suy đi nghĩ lại lời nói ấy). Nay nói tới nam nữ th́ đó chỉ là một loại trong các thứ Ái, đối với vật chất, tiền tài, rượu, thịt, đều nên quán như thế!
* Hỏi: Hiện thời, thông thường những tượng Phật, Bồ Tát được vẽ đều chẳng giống hệt như nhau, có nên thờ phụng pháp tướng được
vẽ đẹp đẽ hơn, ngơ hầu kẻ khác [nh́n vào] sẽ dấy ḷng cung kính? (Thái Sùng
Kỳ hỏi)
Đáp: Lẽ đương
nhiên là nên như thế.
* Hỏi: Phật học chia thành mười tông, mỗi tông có sự phân biệt và ư nghĩa như thế nào, mong hăy chỉ dạy. (Hoàng Vĩnh
Lâm hỏi)
Đáp: Phật pháp vô biên, nhiều môn phương tiện. Hoặc nói là Thiền, hoặc nói là Tịnh, hoặc nói là Luật, hoặc nói là Mật, hoặc diễn nói Tiểu Thừa, hoặc diễn nói Phương Đẳng. Mỗi tông phái đều có nghĩa lư, tông chỉ sâu xa, tinh vi, và mỗi tông cũng có thuật ngữ chuyên môn. Người sơ học đối
với tông chỉ và thuật ngữ của một tông nào đó, sợ rằng nghe cũng chẳng thể liễu giải, huống hồ mười tông! Mong cư sĩ hăy tạm thời đọc kỹ những tập sách nhỏ được
biếu tặng, nương theo thứ tự để tấn nhập th́ sẽ dần dần tự biết.
* Hỏi: Đao Lợi Thiên Chúa là Thích Đề, nhưng Tứ Vương Thiên, Dạ Ma Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Thiên, giáo chủ mỗi cơi trời là ai, và người trong thiên đạo kết hôn dùng phương
thức nào? (Hoàng Vĩnh
Lâm hỏi)
Đáp: Tứ Vương Thiên có các tên như Đa La Trá (Dhṛtarāṣṭra,
Đề Đầu Lại Tra, Tŕ Quốc Thiên
Vương) v.v… [những danh hiệu] này cũng bất quá chuyên nói về một đơn vị thế giới Sa Bà này và trong một thời kỳ. Bởi lẽ, trong tam thiên đại thiên Sa Bà, chư thiên quá nhiều, Thiên Đế sanh tử
cũng như hoa nở, hoa rụng, đều chẳng có cách nào ghi hết tên tuổi. Người hay biết chỉ có đức Phật, nhưng đức Phật chẳng nói cặn kẽ, ai có thể biết được! Nếu đức Phật nói [chi tiết], sợ rằng [những điều Ngài đă nói] trong bốn mươi chín năm chỉ là tụng Thiêm Danh Bạ (sổ
ghi danh hiệu), có lợi ích ǵ cho con người hay chăng? C̣n như ông hỏi phương
thức kết hôn trên cơi trời, đó là hư luận. Xin hỏi trong châu Á Tế Á (Asia) này, phương thức kết hôn ra sao? Cư sĩ là người như vậy, xin hăy bảo cho tôi biết. Nếu nói phong tục ngàn dặm khác nhau, tục lệ trăm năm khác biệt, mỗi nơi mỗi khác,
không có cách nào bảo ban, tôi thưa: “Suy ra, phương thức kết hôn trên trời đương nhiên cũng giống như vậy!”
* Hỏi: Kiến thuộc loài nào [trong tứ sanh]? Nếu bọn chúng kết đoàn, kéo đội, ḅ đi nhịp nhàng, đột nhiên vạch giữa chúng một giới tuyến (dùng đầu ngón tay, hoặc que củi), chúng bèn chẳng dám tiến nữa, là do nguyên nhân nào? (Hoàng Vĩnh Lâm hỏi)
Đáp: Kiến là loài noăn sanh trong súc sanh đạo. Tuyến đường
đi của chúng được
vạch ra do chúng đă tiết ra một chất dịch. Loài trùng này khứu giác rất nhạy; v́ thế, có thể đi theo đúng [tuyến đường
do những con đi trước đă vạch ra]. Ông dùng ngón tay cắt đứt tuyến đường
của chúng, chúng nó sợ tiền đội đă đứt liên lạc, sợ đi lạc đường, nên chẳng tiến nữa. Câu hỏi này đă vượt ra ngoài phạm vi của cột báo này, chỉ v́ dung thông một lần [nên mới trả lời].
* Hỏi: Kinh Địa Tạng dạy: “Có hai quốc vương kết bạn,
do dân chúng làm nhiều điều ác, hai vua bàn bạc,
rộng lập phương tiện. Một vua phát nguyện
sớm thành Phật đạo để
độ bọn họ chẳng thừa sót. Một vua phát nguyện, nếu trước hết, không
độ kẻ
tội khổ, khiến cho họ an lạc, đắc quả Bồ Tát, tôi trọn
chẳng nguyện thành
Phật.
Đức Phật bảo Định Tự Tại Vương Bồ Tát, một vua phát nguyện sớm thành Phật đạo chính là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai; một vua phát nguyện
vĩnh viễn độ chúng sanh tội khổ, chẳng nguyện thành
Phật chính là Địa Tạng
Bồ Tát”. Chẳng biết trong lúc tu nhân, hai vị vua ấy ai là Đại
Thừa, ai là Tiểu Thừa? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Phát nguyện “sớm thành Phật đạo, sẽ
độ bọn họ chẳng thừa sót”, thành Phật
độ chúng sanh, chẳng
phải là Đại
Thừa th́ là ǵ? “Nếu trước hết không độ
kẻ tội khổ, khiến cho họ an lạc,
đắc quả Bồ Tát, tôi trọn chẳng nguyện
thành Phật”, bỏ ḿnh v́ người khác, chẳng phải là Đại
Thừa th́ là ǵ? Hăy nên biết: Thương xót chúng sanh, [mục đích] trọn chẳng khác biệt, nhưng phương tiện thiện xảo th́ mỗi người khác biệt. Đă là độ chúng sanh, há có Tiểu Thừa?
* Hỏi: Tâm tưởng “ta và chúng sanh chẳng hai”, chúng sanh khổ là ta khổ, chúng sanh vui là ta vui, nguyện
thay cho chúng sanh chịu vô lượng khổ, thay cho chúng sanh cầu vô lượng lạc, bất luận nghịch
cảnh nào cũng chẳng tránh né, bất luận đau khổ ǵ cũng chẳng sợ, chuyên lấy chuyện độ sanh làm niềm vui, phục vụ chúng sanh vô điều kiện, người như vậy có phải là phát Bồ
Đề tâm chân thật hay không? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Đáng gọi là chân thật phát Bồ Đề tâm.
* Hỏi: Vạn pháp do nhân duyên sanh; tôi cảm thấy sanh mạng vốn không khởi đầu, không kết thúc, cuộc đời này chỉ là một đoạn tiểu nhân duyên trong đại sanh mạng mà thôi! Khi có thân này, chẳng coi là sanh; khi thân này diệt, chẳng kể là tử. Lại cảm thấy vạn sự đều chẳng ĺa nhân quả, đúng là “không có vui để cầu, cũng chẳng có khổ để né tránh”, chỉ nhất tâm
niệm Phật. Đó có phải là phương pháp
Thiền Tịnh Song Tu hay
không? (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Đấy vẫn là hiểu Bát Nhă mà tu Tịnh Độ. Phương pháp Thiền Tịnh Song Tu, trước kia tôi đă nói đại lược rồi!
* Hỏi: Nếu Bồ Tát tuy có chí độ sanh, nhưng công phu chưa đạt, trí huệ chưa khai, không chỉ chẳng thể
độ người khác, c̣n lo bị thoái lui nhiều lần. Hễ đánh mất thân người, vạn kiếp khó có lại được, chẳng thà tạm thời tự tu, để mong thành tựu trong đời này, nương theo nguyện trở lại, cảm thấy ổn thỏa hơn. [Mặt khác], có những người tâm độ sanh thiết tha, mạnh mẽ chẳng tiếc thân, tuy cùng ch́m đắm với chúng sanh mà vẫn chẳng tiếc nuối. So giữa hai hạng người
ấy th́ như thế nào? Xin thầy hăy khai thị! (Lại Đống Lương hỏi)
Đáp: Hai hạng người ấy đều là tâm nguyện Bồ Đề, do chí thú bất
đồng, chẳng thể
cưỡng chia hơn, kém được! Hạng người trước được gọi là Bồ
Đề tâm, hạng người sau là Bồ
Đề hạnh. Đúng như trong câu hỏi thứ nhất, hai vua phát nguyện, mỗi vua đều đạt đến tột bậc. Tâm cùng v́ chúng sanh, nhưng cách thực hiện có chút sai
khác!
* Hỏi: Tám vạn
bốn ngàn pháp môn của Phật giáo có bao quát trong các tông của Phật giáo hay không? Có phải là mỗi tông đều tương ứng với danh xưng, người học Phật nên chọn lấy một tông để hành theo, hay là đều cần phải tham học trọn hết? Lại nữa, tám vạn
bốn ngàn phiền năo của chúng sanh có phải là mỗi thứ đều trọn đủ, hay là có cao, thấp, sâu, cạn? Lại nữa, tám vạn
bốn ngàn pháp nhằm đối trị các phiền năo của chúng sanh mà lập ra; nếu pháp môn tu tập của người nào đó chẳng thích hợp đối trị phiền năo (như cần có áo, mà lại cầu được gạo!) th́ có phải là đạt được,
nhưng chẳng dùng được?
Như vậy th́ một pháp môn nhằm trị một loại phiền năo, có cần phải tách ra hay không? (Lư Ngọc
Nam hỏi)
Đáp: Nếu sao lục để liệt kê danh xưng của “tám vạn bốn ngàn [pháp môn]” th́ cột báo này làm sao có thể chứa hết được!
Tám vạn bốn ngàn pháp môn nhằm đối trị tám vạn bốn ngàn phiền năo; pháp môn là thuốc, phiền năo là bệnh. Nếu chẳng có bệnh ấy th́ cũng chẳng có thuốc ấy. Phiền năo nhiều đến tám vạn bốn ngàn, cũng là do mười điều ác nơi thân, khẩu, ư, thêm vào, nhân lên, mà thành ra con số vi tế ấy[19]. Pháp là thuốc, nên theo lư cũng phải nhiều như vậy! Hạng phàm phu sát đất trọn đủ tám vạn bốn ngàn [phiền năo], cao, thấp, sâu, cạn, đích xác là bất đồng. Chọn pháp để đối trị, cốt yếu là chọn lấy pháp trọng yếu. Trí Độ Luận viết: “Bát Nhă Ba La Mật có thể
trừ tám vạn bốn ngàn bệnh căn bản”. Kinh dạy: “Một câu A Di Đà Phật có thể tiêu trừ trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”. Cổ
đức nói: “A Di Đà
Phật là thuốc A Già Đà”. Người
biết điều này bèn đáng gọi là “đă đạt được chỗ trọng yếu”.
* Hỏi: [Danh xưng] Tây Phương Tam Thánh có phải là chỉ A Di Đà Phật, và hai vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí? Lại nữa, vị hậu bổ của A Di Đà Phật là hai vị Bồ Tát Quán Âm và Thế Chí, khi nào các Ngài sẽ tiếp nhận quyền chưởng quản? Sau khi
giao lại thế giới
Cực Lạc, A Di Đà Phật sẽ đi về đâu? Sau khi nhập Niết Bàn, Bổn Sư Thích Ca Phật nay đang trụ trong cơi Phật nào? Phật Di Lặc trong
tương lai [giáng sanh] thế giới Sa Bà, nay đang trụ trong cơi Phật nào? Nay các Ngài đang thuyết pháp độ chúng hay là đang nghỉ ngơi?
Kinh Phật có ghi chép, giảng giải về Pháp Thân, Ứng Thân, và Báo Thân hay không? (Lư Ngọc
Nam hỏi)
Đáp: Câu hỏi này về đại ư gồm hai điều:
- Một, A Di Đà Phật thoái vị sẽ đi về đâu? Hư không thế
giới vô tận, Ngài sẽ đến nơi hữu duyên để hóa độ.
- Hai, Phật Thích Ca và Phật Di Lặc nay đang ở cơi nào? Kinh dạy đức Phật Thích Ca ứng hiện trong Sa Bà đă hơn tám ngàn lần. Nghĩ tưởng đại nguyện của đức Thế Tôn, chắc Ngài phải ở trọn khắp trong cơi Sa Bà. Ngài Di Lặc hiện trụ trong trời Đâu Suất, chẳng hề nghỉ ngơi.
* Hỏi: Lăo cư sĩ có kế hoạch tập hợp những câu hỏi đă được
nêu ra và lời giải đáp, biên soạn rồi ấn hành thành sách Thường Thức Vấn Đáp (để tránh hỏi đáp trùng lặp), cũng như chỉ dạy sẵn những nghi vấn liên quan đến Phật giáo để học nhân tự ngộ chẳng khó khăn! (Lư Ngọc
Nam hỏi)
Đáp: Vốn đă có bộ Phật Học Vấn Đáp Loại Biên, nhưng người ta chẳng chịu xem, nên hỏi đáp chẳng tránh khỏi trùng lặp. C̣n như nói “chỉ dạy sẵn những điều nghi ngờ, vấn nạn”, tại hạ là phàm phu sát đất, làm sao có thể biết trước nỗi nghi của người khác? Ông lại nói: “Để học nhân tự
ngộ khỏi khó khăn”, lời này rất lạ! Ngộ là do tự tâm, trọn chẳng do kẻ khác. Xin thử nghĩ: Ai nấy mở mắt, mỗi người tự thấy, há có lẽ nào chính ḿnh muốn thấy mà phải nhờ vào mắt người khác hay chăng?
* Hỏi: Nay đang nhằm thời kỳ Mạt Pháp, căn tánh chúng sanh ngu muội, kém hèn, chẳng tin Tam Bảo, đức Phật đă sớm biết từ hơn hai ngàn năm trước, nhưng theo như kẻ ngu này thấy: Tuy chúng sanh căn tánh kém hèn là một nguyên nhân, nhưng nỗ lực của người truyền pháp (kể cả hàng cư sĩ) sợ rằng cũng là một nguyên nhân (tôi chẳng phải là có ư phê b́nh Tăng Bảo), lại sợ ư nguyện “tự độ, độ người” cũng chẳng tha thiết (như công tác tuyên truyền, khuyến hóa trong các tôn giáo khác đích xác là triệt để hơn Phật giáo. Có phải là Phật yếu, ma mạnh? Xưa kia, lăo pháp sư Từ Hàng đề xướng nhân gian Tịnh Độ và nhấn mạnh Phật giáo ở trong nhân gian là có nguyên do vậy). Thử xem tại Đài Loan hiện thời, các tôn giáo như Thiên Chúa, Gia Tô v.v… truyền đạo khắp nơi (tạm gọi là đạo), lập giáo đường, xuất bản báo chí, in truyền đơn v.v…
(không chỉ ấn loát tinh vi, đẹp đẽ, mà c̣n tự động miễn phí gởi đến tận cửa), không ǵ chẳng tích cực triệt để. Đương
nhiên là bọn họ tu đến mức công thành nguyện măn, tối đa là sanh lên Thiên Đường,
nói theo phương diện thâu hoạch, há dám sánh bằng Phật giáo, nhưng tinh thần truyền giáo của tín đồ bọn họ, quả thật [Phật tử chúng ta] chẳng sánh bằng! Nhưng điều đau đớn, tiếc nuối là do căn tánh của chúng sanh ngu muội, kém cỏi, hèn ác đến nỗi vô phước, vô duyên thân cận bậc đại đức trong Phật giáo (Kẻ ngu này nhớ đă từng bái phỏng một vị sư phụ, nhưng nghe thấy ngôn hạnh của vị ấy, rốt cuộc chẳng dám thân cận). Dẫu có [bậc thiện tri thức] th́ những vị nhân sĩ thượng thượng thiện căn cũng cực ít! V́ thế, mong mỏi những vị nhân sĩ đức cao vọng trọng trong giới Phật giáo đừng tiếc công sức, nỗ lực thực hiện công tác tuyên dương Phật giáo nhiều hơn, nhất là những vị đang đảm đương
trách nhiệm hoằng dương Phật giáo (như hội Phật giáo), càng phải làm công tác độ tha nhiều hơn, cũng như mong mỏi sẽ có những thành tích ưu tú, lạ lùng cống hiến cho xă hội, ḥng báo cáo với mỗi giáo đồ, hỗ trợ, khích lệ lẫn nhau, cùng nỗ lực chấn hưng Phật giáo. Lại xin hỏi lăo cư sĩ: Hiện thời, tại Đài Loan có bao nhiêu loại báo chí liên quan đến Phật giáo? Kinh phí làm báo do người ta tự lo liệu, ngưng xuất bản hay phát hành tùy thuộc mỗi người tự sanh, tự diệt? Hay là có hội Phật giáo hoặc chính quyền chi viện? Tinh xá, liên xă, giáo đường
(như Niệm Phật Hội), lâm thời truyền đạo hội (hội
truyền đạo tạm thời) có phải là thiết lập tự do hay không? Phân hội các nơi có giúp đỡ hay không? (Lư Ngọc
Nam hỏi)
Đáp: Câu hỏi này có thể chia thành hai đoạn trước và sau:
1) Đối
với vấn đề trước,
đừng mong mỏi một ai đứng ra lănh đạo! Chỉ cầu ai nấy tự động phát tâm là được rồi! Dựa vào người khác sẽ là chuyện không tưởng, chính ḿnh tạo tác mới là thực tiễn! Nếu ai nấy đều thực tiễn, ắt sẽ có thể chuyển yếu thành mạnh.
2) Đối với vấn đề sau, t́nh h́nh bất nhất. Lấy ngay tờ báo này để nói, hoàn toàn do tiền bán báo duy tŕ, thuộc loại tự sanh, tự diệt. Đôi khi được độc giả yêu mến quyên tặng, chứ trọn chẳng thường có [người quyên tặng]. Lại luận theo sự truyền đạo của Đài Trung Liên Xă, mười mấy năm qua cũng là tự do lo liệu, chỉ nhận được
sự ủng hộ tinh thần của các nơi!
* Hỏi: Trong lúc đêm sâu ngon giấc, mộng thấy tôi cùng bạn bè bị một kẻ chẳng quen biết gia hại, tôi liền niệm liên tiếp danh hiệu của Tây Phương Tam Thánh và đức Phật Thế Tôn, tỉnh giấc th́ tinh thần vốn trong sáng, có phải là ma đến [quấy nhiễu] hay không? (Hoàng Vĩnh Lâm hỏi)
Đáp: Sợ đó là ma trong tự tâm, hoặc là oán thân trái chủ nhiều đời. Trong
mộng biết niệm Phật, [sự kinh sợ] liền tiêu diệt, có thể thấy công đức của Phật hiệu chẳng thể
nghĩ bàn. Sau đấy, hăy nên tinh tấn niệm Phật, đừng coi Phật pháp như ngoại
đạo.
* Hỏi: Xin hỏi thầy, chúng sanh trong Sa Bà sanh từ đâu đến? Chết đi về đâu? (Hoàng Vĩnh Lâm hỏi)
Đáp: Sanh từ lục đạo đến, chết đi vào trong lục đạo. Nếu luận theo “thân người khó được”
th́ càng nguội lạnh cơi ḷng! Hăy nên nói: “Sanh từ
tam đồ đến, chết đi vào tam đồ”.
* Hỏi: Trong trang bốn mươi ba ḍng thứ ba của bộ Phật Học Thường Thức Khóa Bổn do đại đức biên soạn, phần tu hành có nói đến Thập Lục Hành Quán, xin hăy khai thị tóm tắt từng điều. (Lưu Tân Chi hỏi)
Đáp: Ba câu hỏi của cư sĩ, hai câu đầu thuộc loại tự đề ra nghị luận, mỗi câu đến mấy trăm chữ, không liên quan đến việc vấn đáp [về giáo lư Phật giáo], mà cột báo này cũng chẳng thể đăng tải được, xin lượng thứ chẳng nhắc tới. Tiếp đó, ông hỏi về Thập Lục Hành Quán. Xét kỹ trong nguyên bản, đó là chú giải của mười sáu chữ. Có thể xem chi tiết về mười sáu chữ ấy trong Đại Thừa Nghĩa Chương và Câu Xá Luận. Xin hăy tự đọc chi tiết, ở đây tôi chỉ giải thích đại lược. Bốn tướng của Khổ là: Khổ là bức năo, Không là thật sự chẳng có ǵ của ta, Vô Thường là đổi dời, biến hóa, Vô Ngă là chẳng có cái Ngă thật thể. Bốn tướng của Tập: Nhân là nguồn cội do mê nhân tạo nghiệp sanh ra khổ, Tập là tích tập nỗi khổ khiến cho hiện tiền, Sanh là khổ quả tiếp nối chẳng dứt, đời đời chẳng hết, Duyên là cái duyên giúp cho quả khổ thành tựu. Bốn tướng của Diệt: Diệt là tội lỗi đă diệt, Tĩnh là ưu năo, lo sầu đă dứt, Diệu là những chướng
ngại thô thiển đă xa ĺa, Ly là những trói buộc đă tháo gỡ. Bốn tướng của Đạo là: Đạo là chánh đạo nói chung, Như là khế hợp chánh lư, Hạnh là hạnh hướng đến Niết Bàn, Xuất là vĩnh viễn vượt thoát sanh tử.
* Hỏi: Thành Phật có phải là phá tan hai chấp Ngă Chấp và Pháp Chấp? Tông nào là chẳng chấp Ngă Kiến, thân ḿnh chính là Phật? (Đồng Thụy Châu hỏi)
Đáp: Thành Phật cần phải đoạn hết Tam Hoặc, tám thức
chuyển thành trí; há có phải chỉ là đả phá nhị chấp? Ông coi nhẹ Phật quá sức! Chẳng chấp Ngă Kiến là tu theo đường lối thông thường, chẳng phân biệt tông phái nào, đều nhất loạt phải phá! C̣n như câu “tự thân
tức Phật”, nói theo lư luận, chúng sanh đều có Phật tánh, thảy đều là vị lai chư
Phật. Nói theo Sự th́ ắt phải như đức Thế Tôn tám tướng thành đạo th́ mới gọi là “tự thân tức Phật”.
* Hỏi: Chùa miếu các nơi trong tỉnh này (Đài Loan) tụng kinh trong các ngày lễ thường dùng máy khuếch âm phóng thanh to tiếng, có phù hợp với lư tưởng thanh tĩnh để khơi gợi lên sự thánh khiết hay không? (Dương Gia Hiến hỏi)
Đáp: Thanh tịnh quả thật là do nghiêm túc. Cổ thánh cúng tế, có lễ, có nhạc, nhưng nhạc cốt yếu là ḥa hoăn, b́nh tịnh. Tuy có tiếng, nhưng vẫn êm ả. Chuông khánh trong chùa miếu cũng chú trọng sao cho phạm âm lan xa, khơi gợi kẻ khác tỉnh ngộ sâu xa, hễ nghe thấy tâm bèn có thể tịnh, đó là thích hợp. Nếu máy khuếch âm phát ra âm thanh ồn ào, khiến người ta sanh ḷng chán ngán, há chỉ chẳng thể khơi gợi sự thánh khiết, mà sợ là c̣n chuốc lấy báng bổ nữa kia!
* Hỏi: Có phải là sách vở, báo chí Phật giáo dùng Phật lịch rồi ghi thêm năm Dân Quốc thứ mấy? Điều ấy có trái pháp hay không? (Dương Gia
Hiến hỏi)
Đáp: Ban hành lịch pháp do chính quyền quốc gia quy định; đức Phật ta thí giáo, chẳng làm chuyện cai trị. Vả nữa, chưa ban hành lịch pháp, há có thể nói đến Phật lịch? Quốc dân mỗi nước dùng lịch của nước ḿnh, đó là nghĩa vụ, cổ nhân bảo là “tuân theo
chánh sóc”[20]. Những ấn phẩm Phật giáo ấn hành tại nước nào bèn dùng lịch pháp nước ấy, đó là chuyện chánh đáng!
* Hỏi: Nơi trang chín mươi hai, hàng thứ sáu trong tác phẩm Kim Quang Minh Kinh Không Phẩm Giảng Kư của pháp sư Diễn Bồi có đoạn: “Chuyển pháp luân có hai thứ:
Một là chuyển nơi tự thân, như đức
Phật ở dưới cội Bồ Đề, dùng ba
mươi bốn tâm thành đạo vô thượng đạo, đó là tự chuyển pháp luân…”. Ba mươi bốn tâm là những tâm nào? (Lư Vinh Đường hỏi)
Đáp: Hành quán Tứ Đế Khổ - Tập - Diệt - Đạo, mỗi Đế đều có bốn tướng là “pháp nhẫn, pháp
trí, loại nhẫn, loại trí”, hợp thành con số mười sáu. Tam giới lại chia ra chín địa, trong mỗi địa đều có Kiến Hoặc và Tu Hoặc (修惑), hành giả bắt buộc phải tu để đoạn.
Trong lúc tu để đoạn th́ gọi là vô ngại. Do có chín địa, nên gọi là Cửu Vô Ngại. Đă đoạn Hoặc bèn gọi là Giải Thoát, do có chín địa nên gọi là Cửu Giải Thoát. Gộp Cửu Vô Ngại và Cửu Giải Thoát lại, sẽ thành con số mười tám. Gộp mười sáu hành quán trong Tứ Đế trên đây và mười tám pháp trong chín địa, cộng thành con số ba mươi
bốn. Do Quán và Đoạn đều dùng tâm để tu, nên nói là “ba
mươi bốn tâm”.
* Hỏi: Tâm Kinh có những câu như “bất
tăng, bất giảm… vô trí mà cũng vô đắc”, có phải là nói đến học Phật và chẳng học Phật
đều chẳng tránh khỏi nhân quả hay không? Nếu muốn tránh khỏi luân hồi, ắt phải ngược ḍng lưu chuyển. Phàm nhân thường nói “hễ chết rồi cái ǵ cũng chẳng biết (do chẳng biết sanh từ đâu đến, do nhân nào mà có, nên diễn dịch như vậy), quan tâm làm chi?” Đối với lời lẽ ấy, hăy nên chỉ điểm kẻ mê ra sao? (Từ
Phương hỏi)
Đáp: Tâm Kinh có một đoạn nói như thế nhằm giải thích về Thật Tướng của Chân Như, chẳng lập một pháp. Kẻ ngộ [lư ấy] th́ sẽ Tịch mà thường Chiếu, Chiếu nhưng thường Tịch. Những điều như cư sĩ đă viết trong đoạn nói về những điều người ta thường nói, chỉ là do tối tăm nên thường mê, do mê nên thường tối tăm. Phàm và thánh như mây và bùn, mê và ngộ khác đường. Làm thế nào để dứt trừ nỗi nghi hoặc ấy, đúng là hư luận!
* Hỏi: Tôi từng nghe người ta nói: “Tận tín thư,
bất như vô thư” (hoàn toàn tin vào sách, chẳng thà không có sách), nghĩa là sao? Lại nữa, thánh nhân lập giáo, không ǵ chẳng muốn tạo chuẩn mực cho người ta xử sự trong cơi đời, cách nghĩ này có đúng hay không? Lại nữa, [những điều dạy trong cổ thư] toàn là hành vi, kiến giải và chủ ư của thánh nhân đúng không? (Từ Phương hỏi)
Đáp: Viết xuống thẻ tre th́ gọi là Thư, thốt ra đằng miệng bèn gọi là Ngữ. Ngữ chia thành lệch lạc hay chánh đáng, và cũng có nghe nói lại hoặc đích thân nghe. Thư chia thành Kinh và Tập, mà cũng có chân thật và ngụy tạo. Nghe lời nói th́ hăy nên quan sát [thấy đúng lư] rồi mới tin tưởng. Đọc sách cũng nên phân biệt [đúng - sai] để vâng giữ. Nếu mù quáng tin giữ, sẽ có thể mắc hại, nên bảo là: “Tận tín
thư, bất như vô thư”. Đó là dạy người ta hăy lấy nghĩa lư làm chuẩn, chẳng dạy con người
đọc sách ngây ngốc. Xem kỹ những nghĩa lư giải đáp trên đây th́ đối
với câu hỏi kế tiếp sẽ tự hiểu!
* Hỏi: Nếu một kẻ thường dối trá, bịp bợm, chẳng nói tới lư lẽ, tự biết là sai, nhưng chẳng sửa đổi, làm thế nào để khiến cho kẻ ấy tự giác hồi đầu? (Thái Lân
Định hỏi)
Đáp: Muốn uốn nắn người khác th́ trước hết chính ḿnh phải chánh đáng. Chính ḿnh đă chánh đáng th́ mới có thể thật sự uốn nắn người khác. Nếu chính ḿnh chẳng chánh đáng, mà uốn nắn kẻ khác th́ cũng là dối trá, bịp bợm, chẳng nói tới lư lẽ. Chính ḿnh đă là dối trá, bịp bợm, chẳng nói tới lư lẽ, mà toan uốn nắn sự dối trá, bịp bợm, chẳng nói tới lư lẽ của kẻ khác, há ai nghe theo? Khuyên lơn, uốn nắn kẻ khác sửa lỗi cố nhiên là chuyện tốt. Khi kẻ mới học, thân tâm c̣n chưa vào nề nếp, khuyên bảo người khác sẽ có hiệu quả rất bé, chẳng bằng trước hết hăy nghiêm ngặt với chính ḿnh, rồi mới nhắc nhở người khác th́ mới khỏi dấy lên đôi co!
* Hỏi: So sánh giữa ba phương thức nêu ra sau đây như thế nào?
- Một, làm lành rồi hồi hướng cho cá nhân ĺa khổ được
vui.
- Hai, làm lành rồi hồi hướng cho chúng sanh ĺa khổ được
vui.
- Ba, do thiện xuất phát từ tự tánh, nên không có tâm thiện, ác, được, mất. Niệm mất, cảnh tiêu, một tướng chẳng lập. (Trương văn Kỳ hỏi)
Đáp: So sánh ba điều ấy th́ điều sau cùng là thật. Điều thứ nhất là tự liễu, chẳng trừ Ngă Chấp. Điều thứ hai thuộc về Bồ Tát, nhưng vẫn c̣n có Pháp Chấp. Điều sau cùng là tam luân thể không, thuộc về Tánh Đức.
* Hỏi: Từ ngữ “bốn câu kệ” trong kinh Kim Cang được các vị chú giải giải thích chẳng hoàn toàn giống nhau, có người nói đó là tất cả những bài kệ bốn câu trong kinh, có người bảo đó là bất cứ bài kệ nào trong kinh. Rốt cuộc “bốn câu kệ” là nói đến điều
ǵ? (Chung Khiết
Viên hỏi)
Đáp: Cố nhiên kinh chú trọng nghĩa lư, nhưng cũng chẳng thể coi thường văn tự. Thường nói “văn
dĩ tải đạo” (văn để chở đạo); v́ thế, trong kinh văn hiếm có chỗ nào chẳng đẹp đẽ. Kinh
Kim Cang nói “tŕ bốn câu kệ” là từ ngữ phiếm chỉ, không chỉ là văn lư như thế, mà nghĩa cũng viên măn. Nếu chuyên chỉ bốn câu nào đó, ắt sẽ nói rơ. Hơn nữa, “bốn câu” có phạm vi rất rộng, há nên giảng là chuyên chỉ một chỗ nào đó, gượng ép nhất định là câu nào. Tôi chẳng nói cách giảng như vậy là không được, nhưng [giảng theo kiểu đó] nghĩa lư sẽ lệch lạc, hẹp ḥi, mà cũng thiếu viên măn!
* Hỏi: Đối với “nhất hợp
tướng” trong kinh Kim Cang,
phần nhiều các nhà chú giải giảng khác nhau, nên hiểu như thế nào? (Chung Khiết
Viên hỏi)
Đáp: Người chú giải do thấy nhân, thấy trí[21], nên chẳng cần phải giống nhau. Nên hiểu như thế nào th́ lời giải thích trong kinh là đúng. Kinh văn có nói: “Như Lai nói nhất hợp tướng
tức chẳng phải là nhất hợp tướng”. Câu trên là xét theo Sự và Tướng bèn lập, câu dưới là noi theo Lư và Thể bèn phá; nhưng ngộ và chẳng ngộ là do căn tánh. Do vậy, mấy câu sau đó, lại giảng về căn khí. Tức là ngộ th́ chính là Lư Thể chẳng thể nói, phàm phu tham chấp sự tướng. Các vị chú giải khác nhau là do phương tiện khế cơ. Phần nhiều là để nói với phàm phu, chẳng phải nhằm giải thích cho người
đă ngộ.
* Hỏi: Phật, Bồ
Tát hóa thân vô lượng trong tam thiên đại thiên thế giới tùy cơ cứu vớt chúng sanh, những hóa thân ấy phải là do thần thông biến hiện, nên cũng ắt phải thích ứng với hoàn cảnh trong tam giới. Thần thông biến hóa có quy luật, có phương thức, thể loại khác nhau hay không? Nếu hóa thân làm người, ắt có cái thân máu thịt, theo đúng lẽ,
phải chịu những nỗi khổ ách sanh, lăo, bệnh, tử. Lại c̣n chẳng tránh khỏi ương lụy do bị nghiệp lực lôi kéo, gặp phải nhiễm ô, nên cũng chưa thoát khỏi báo ứng nhân quả. Vậy th́ làm như thế nào để thoát tam giới, khôi phục sự thanh tịnh vốn có? (Lưu cư
sĩ hỏi)
Đáp: Phật, Bồ Tát là bậc đă chứng quả địa. Đối với bậc đă chứng quả
th́ chân tánh tùy duyên nhưng bất biến, chứng Pháp Thân trước rồi sau đó mới có thể hóa thân. Hóa thân ấy ắt khế hợp căn cơ của chúng sanh, đó là quy luật. Hiện khắp trong lục đạo đó là “loại biệt”. Hóa làm người bèn là thân huyết nhục, thị
hiện có tám khổ, nhưng là thần thông tùy duyên, huyễn hóa, chẳng thật, đến chẳng
phải do nghiệp duyên lôi kéo, lời nói và việc làm cũng chẳng bị phiền hoặc thúc giục. Giống như diễn viên trong rạp hát, đóng các màn bi, hoan, ly, hợp. Trên sân khấu th́ đúng là không ǵ chẳng phải là bi, hoan, ly, hợp, nhưng bước xuống sân khấu, chẳng bị ảnh hưởng ǵ. Cũng chẳng có người tạo, mà cũng chẳng có kẻ nhận, Hóa Thân tiêu
diệt, Pháp Thân như cũ.
* Hỏi: Nay vị Bồ Tát nào đó v́ do nguyện nào đó mà hóa thân, sanh ra làm người. Người ấy chết đi, có phải là thần thức vẫn quy về thần thức của vị Bồ Tát đó? Hay là trở thành một thần thức khác độc
lập, để lại tu thành một vị Phật, hay Bồ Tát khác? Hay là do hạnh nguyện chưa trọn, bèn chiêu cảm một cái thân tội nghiệp vẫn bị ảnh hưởng bởi nghiệp
lực quả báo trong tam giới mà trầm luân trong hạ giới? “Hết thảy chúng sanh đều là
Phật tử” là nói về chuyện này đấy chăng? (Lưu cư
sĩ hỏi)
Đáp: Bậc thừa
nguyện tái lai nói chung có hai thuyết:
- Một là người
đă chứng viên măn Pháp Thân, hóa thân vô biên. Tướng sanh diệt trước sau của hạng người này giống như câu trả lời trong phần trên đă nói.
- Hai là người chưa chứng viên măn Pháp Thân, nhờ vào hóa độ chúng sanh để tự tu, tức là nhờ vào thân cuối cùng để thành một vị Phật, thần thức chuyển thành trí. Sau khi đă chuyển thành trí, bèn chẳng một, chẳng hai với Pháp Thân của chư Phật, đó gọi là “mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Nhưng trước khi viên măn, đạo đă hành cũng thuộc về vô lậu, chẳng tạo tội; tuy vậy, trước khi chứng Thất Địa sẽ có thể bị thoái chuyển. Dẫu bị thoái chuyển, gặp duyên vẫn tiến.
Nói tới tam giới th́ cũng chia thành nhân thiên thiện đạo và tam đồ ác đạo. Nếu chẳng do nhân duyên đặc biệt, hiếm khi đọa trong tam đồ!
* Hỏi: Cao Tăng Truyện nói Tổ Đạt Ma là Quán Thế Âm Đại Sĩ thị hiện, như vậy th́ ngài Đạt Ma là hóa thân của Quán Thế Âm ư? (Lưu cư sĩ hỏi)
Đáp: Sách truyện chép như thế chắc là có căn cứ. Người chẳng có thần thông như Túc Mạng, Thiên Nhăn v.v… bèn chẳng thể khẳng định chuyện ấy.
* Hỏi: Nếu v́ thuộc các địa vị Bồ Tát khác nhau mà hóa thân của Bồ Tát có năng lực sai khác th́ hóa thân của năm mươi địa vị Bồ Tát và bốn mươi địa vị Bồ Tát theo lẽ phải là khác nhau. Nếu năng lực của hóa thân thuộc năm mươi địa vị Bồ Tát so với năng lực của hóa thân thuộc bốn mươi địa vị Bồ Tát rơ ràng là khác nhau th́ hạnh nguyện cũng phải viên măn hay thiếu khuyết sai khác. Hóa thân của hàng tiểu Bồ Tát sẽ khó tránh khỏi bị nhiễm ô bởi kiếp giới và trầm luân trong hạ giới, rốt cuộc lại biến thành đối tượng cứu vớt của [các vị] Bồ Tát [khác]? (Lưu cư sĩ hỏi)
Đáp: Bốn mươi hay năm mươi địa vị Bồ Tát là do các tông ấn định vị thứ sai khác, nhưng trọn chẳng phải là hai chuyện. Nói năm mươi, tức là kể thêm Thập Tín. Nói bốn mươi là đă tính gộp Thập Tín vào Thập Trụ. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng v.v… gọi là Tam Hiền, từ Đăng Địa trở lên (từ
Sơ Địa trở lên) bèn gọi là Thập Thánh, nhưng trong Thập Địa lại dùng trước hay sau Thất Địa để định sâu cạn. Tu Đức càng tiến, Tánh Đức càng hiển lộ. Hiền chẳng bằng Thánh. Trước khi chứng Thất Địa chẳng bằng sau khi đă chứng Thất Địa. Các địa vị trước Thất Địa có lui sụt, từ Thất Địa trở lên chẳng thoái chuyển. Đối với chuyện khác, hăy xem điều thứ hai th́ có thể suy ra quá nửa!
Phật Học Vấn Đáp
Loại Biên
Phần 9
hết
[1] Florence Nightingale (1820-1910) là một nhà
cải cách xă hội và là một nhà thống kê học
người Anh. Bà đă sáng lập ra ngành y tá hiện
đại. Bà nổi tiếng trong vai tṛ lănh đạo
đoàn nữ y tá thiện nguyện chăm sóc thương
binh trong cuộc chiến Crimea. Năm 1860, bà đă sáng
lập ra ngành y tá chuyên nghiệp với sự thiết
lập học viện đào tạo y tá St. Thomas’s Hospital
tại Luân Đôn. Bà cũng đề xướng
những phương cách nhằm cải thiện sự
chăm sóc y tế trong xă hội, các biện pháp cứu
đói, cũng như vận động cho nữ giới
được tham gia làm việc trong xă hội.
[2] “Bộ” (部) là cách phân chia kinh điển theo
thể loại trong Đại Tạng Kinh. Thông
thường, những kinh dạy về những giáo pháp có
liên quan, hoặc là bản dịch khác nhau của cùng
một kinh sẽ được xếp vào cùng một
Bộ. Chẳng hạn như A Hàm Bộ, Bát Nhă Bộ, Pháp
Hoa Bộ, Niết Bàn Bộ, Bảo Tích Bộ v.v… Bổn
Duyên Bộ là những kinh nói về sự tích trong lúc tu nhân
của chư Phật, Bồ Tát, A La Hán v.v…
[3] “Bạc địa phàm phu” (薄地凡夫)nghĩa
là hàng chúng sanh thấp kém, lè tè sát đất, nhưng ông
Phùng thấy chữ Bạc Địa (薄地) lại hiểu là “đất rất mỏng” nên mới thắc
mắc địa cầu to như thế mà sao kinh Phật
lại bảo chúng ta ở trên quả địa cầu
mỏng tanh!
[4] Đây là cách vẽ tranh thờ
truyền thống của Trung Hoa. Theo truyện kư, khi ḥa
thượng Kim Kiều Giác từ Cao Ly sang ẩn cư
tại Cửu Hoa Sơn, Mân lăo cư sĩ đă dâng cúng
mảnh đất cho Ngài dựng thảo am. Người
con trai của cụ Mân cũng xuất gia theo ngài Kim
Kiều Giác, pháp hiệu là Đạo Minh. Do vậy, tranh
thờ Địa Tạng Bồ Tát thường vẽ
một vị tăng và một cụ già đứng
hầu hai bên Địa Tạng Bồ Tát.
[5] Chữ “thần đạo” chỉ
những tà giáo hay tín ngưỡng mê tín trong dân gian, thờ
thần tiên, đồng bóng, hoặc những biến
tướng của Đạo giáo, hoặc ngoại
đạo dựa hơi Phật giáo, v́ trong các “giáo” ấy
luôn tôn sùng một vị Thượng Đế như Minh
Minh Lăo Mẫu, Vô Cực Thiên Tôn v.v...
[6] Trương Ngọc Cô là một vị
thần do dân chúng tin thờ, lập
miếu tại huyện Chương Hóa, Đài Loan. Cô này
vốn có tên là Trương Kim Hoa, nhũ danh A Miến, sanh
năm Dân Quốc 28 (1939) tại Thủy Quật, Đài
Trung. Do đi bắt tôm, cô ta bị nước lũ,
chết đuối vào năm 14 tuổi, xác trôi giạt vào chỗ
miếu thờ hiện thời, được dân chúng vùi
tạm ở đó. Sau đó, một cư dân tại
vùng đó là Lưu Toàn có con bị bệnh măi không khỏi,
mời thầy đồng đến cầu tiên th́
biết là do Trương Ngọc Cô (tức cô gái chết
đuối) muốn ông ta dựng miếu thờ. Họ
Lưu bèn vận động dân làng dựng miếu
thờ, quả nhiên con trai khỏi bệnh. Từ đó,
tin đồn Ngọc Cô hiển thánh lan ra, người
đến dâng hương, cầu chữa bệnh đông
nghẹt, miếu thờ Trương Ngọc Cô trở
thành một ngôi đền nguy nga.
[7] “Thiện đường” là các
đền miếu thờ lẫn lộn thần, Phật,
thường tổ chức lên đồng, cầu cơ,
hầu thánh để chữa bệnh, đôi khi họ có
làm những việc từ thiện như phát thuốc, khám
bệnh.
[8] Hành cung: Cung điện để
đế vương ở khi tuần du bên ngoài. Trong
lịch sử Trung Quốc, người hạ lệnh xây
dựng nhiều hành cung nhất là Tùy Dượng
Đế. Ở những nơi nổi tiếng có cảnh
đẹp, hoặc những nơi săn bắn nổi
tiếng, đều có hành cung của nhà vua. Ngoài ra, ông c̣n
cho lập riêng một hành cung để tránh nắng hè
gọi là Phần Dương Cung ở đầu nguồn
ḍng Phần Hà dưới chân núi Quản Sầm.
[9] Thể lệ để đặt tên
kinh là Nhân, Pháp, Dụ (người, pháp và tỷ dụ), do
phối hợp đơn và phức mà thành bảy loại.
Bảy loại là đơn nhân, đơn pháp, đơn
dụ, nhân pháp, pháp dụ, nhân dụ và nhân pháp dụ.
Chẳng hạn Phật Thuyết A Di Đà Kinh là
Đơn Nhân tức là dùng người để
đặt tên kinh (kinh chuyên nói về A Di Đà Phật),
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là Pháp và Dụ (dùng hoa sen để
tỷ dụ), Văn Thù Sở Vấn Bát Nhă Kinh là Nhân và
Pháp, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
gồm đủ cả Nhân, Pháp và Dụ.
[10] Nguyên văn là “áp thắng” (壓勝). Chữ này vốn có nghĩa gốc là “yểm thắng” (魘勝), có nghĩa là chế ngự, trấn
yểm cho ma quỷ khỏi tác quái. Phong tục này xuất
hiện từ thời Tùy - Đường, để
trấn áp phần mộ (nhất là những người
bị coi là chết trùng), hoặc những nơi tin là có ma
quỷ tác quái, người ta thường đúc những
h́nh tượng được tin là có tác dụng trừ
tà như kỳ lân, tỳ hưu, rồng, các vị
thần, hoặc đúc những đồng tiền có
khắc tôn hiệu Phật, Bồ Tát, thần thánh
để treo quanh hoặc dằn lên xác người
chết.
[11] Sấu Kim (瘦金,c̣n gọi là Hạc Thể 鶴体) là
một kiểu chữ Khải do Tống Huy Tông (Triệu
Cát) sáng chế, phỏng theo các kiểu chữ Khải
của Chử Toại Lương, Tiết Diệu, Hoàng
Đ́nh Kiên v.v… Đặc điểm dễ thấy
nhất là nét chữ cứng cỏi, gân guốc, rất
mỏng, và dài, nên gọi là Sấu Kim (vàng gầy).
[12] Đây là một câu nói của Khổng
Tử trong Luận Ngữ: “Thị
kỳ sở dĩ, quán kỳ sở do, sát kỳ sở an,
nhân yên sưu tai? Nhân yên sưu tai?” (xem xét việc làm
của một người, xét đến nguyên do dẫn
đến hành động, xét đến kết quả
của việc làm ấy, há ai có thể giấu diếm [tính
cách và bản chất của kẻ đó] ư?)
[13] Theo quy định từ xưa,
những h́nh thức thơ trước đời
Đường, trừ loại Tề Lương Thể
ra đều gọi là Cổ Thể, và các loại thơ
từ đời Đường trở đi gọi là
Cận Thể. Về sau, khái niệm này được
mở rộng, các loại thơ ca dù sau đời
Đường, nhưng không tuân theo quy luật của
thơ Đường (Đường thi) th́ cũng
gọi là Cổ Thể. Nói chung, Cổ Thể không quy
định số chữ ngặt nghèo, có thể là bốn
chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, hoặc
tạp ngôn (tức là số chữ trong các câu không
đều nhau). Số câu trong một bài Cổ Thể không
nhất định, ít là hai câu, nhiều th́ có thể
đến mấy chục câu, mấy trăm câu. Trong khi
đó, Cận Thể chỉ cho phép năm chữ hoặc bảy
chữ, bài thơ chỉ có tám câu; loại gọi là
Tuyệt Cú chỉ có bốn câu. Về cách gieo vần,
Cổ Thể có thể dùng nhiều vần, trong khi một
bài Cận Thể chỉ được dùng một
vần. Một điểm khác biệt nữa là Cận
Thể không quan tâm nhiều đến luật Bằng
Trắc, miễn sao đọc lên nghe du dương, trôi
chảy là được, trong khi luật thơ Cận
Thể đ̣i hỏi nghiêm ngặt mỗi chữ trong bài
phải tuân theo đúng quy luật Bằng Trắc
(thường gọi là niêm luật).
[14] “Phán giáo” là phân chia giáo pháp của Thích Ca
Mâu Ni Phật thành các giai đoạn khác nhau (thường
gọi là “thời”) với hàm nghĩa mỗi giai
đoạn nhằm thích ứng với một loại
căn cơ, hoặc tiếp dẫn từ từ khiến
cho chúng sanh cuối cùng đạt được Phật
quả. Cách phán giáo nổi tiếng nhất và thông dụng
nhất là Ngũ Thời của tông Thiên Thai, tức năm
thời kỳ Hoa Nghiêm, A Hàm, Bát Nhă, Phương
Đẳng, và Pháp Hoa.
[15] Có hai cách hiểu chữ Lục
Triều:
1. Lục Triều là sáu triều đại gồm
Đông Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương,
Trần.
2. Lục Triều là Tào Ngụy, Tấn và Tống,
Tề, Lương, Trần.
Dù hiểu theo cách nào đi nữa th́ Lục
Triều đều có thể hiểu là các triều
đại trước thời Tùy - Đường.
[16] Tần Mục Công (Doanh Nhậm Hảo)
trị v́ từ 659 đến năm 621 trước Công
Nguyên, Yên Chiêu Vương (gọi đủ là Yên Chiêu
Tương Vương, tên thật là Cơ B́nh) trị v́
từ năm 312 đến năm 279 trước Công Nguyên.
Hán Vũ Đế (Lưu Triệt) trị v́ từ 156
đến năm 87 trước Công Nguyên. Hán Minh Đế
(Lưu Dương, chính là con của Hán Quang Vũ
Đế) làm vua từ năm 28 đến năm 75.
[17] Thạch nữ (石女,c̣n gọi là Thạch Tâm Tử) là danh
xưng thông dụng trong dân gian Trung Quốc để
gọi những người đàn bà không thể sanh
nở. Thường chia ra làm hai loại Chân Thạch và
Giả Thạch. Chân Thạch là loại nữ nhân hoàn toàn
không có âm đạo, hoặc âm đạo phát triển không
hoàn chỉnh, hoặc không có tử cung, hoặc tử cung
không hoàn chỉnh. Giả Thạch là loại nữ nhân có
khuyết tật trong cơ quan sinh dục, hoặc do các
yếu tố nội tại khiến không thể nào mang
thai được!
[18] Bất nam (不男)là một thuật ngữ trong Phật
học chỉ năm loại đàn ông nam tánh chẳng hoàn
chỉnh:
- Một là Sanh Bất Nam (生不男), tức là bẩm sinh nam căn không phát triển.
- Hai là Kiện Bất Nam (犍不男), tức tự
thiến.
- Ba là Đố Bất Nam (妒不男), nam căn chỉ
có thể hoạt động khi thấy người khác
hành dâm, do ghen ghét mà nam căn tạm thời hoạt động.
- Bốn là Biến Bất
Nam (變不男), không có sinh thực
khí nhất định. Tùy theo sự tham luyến mà sinh thực
khí xuất hiện, chẳng hạn gặp nam nhân sanh ḷng
mê luyến bèn xuất hiện nữ căn, gặp nữ
nhân nếu mê luyến bèn xuất hiện nam căn.
- Năm là Bán Bất Nam (半不男), tức nửa
tháng trước là nam, nửa tháng sau là nữ.
[19] Theo Hoa Nghiêm Khổng Mục
Chương, tám vạn bốn ngàn phiền năo c̣n gọi là
“tám vạn bốn ngàn trần lao”, xuất phát từ
Thập Sử (tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên
kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới
thủ kiến). Trong mười Sử, nếu coi mỗi
Sử là chánh th́ chín Sử kia là trợ, nên mười nhân
mười thành một trăm. Do ba đời, mỗi
đời có một trăm Sử nên thành ba trăm.
Một trăm Sử trong đời hiện tại nhân
với hai trăm sử của quá khứ và vị lai thành
hai ngàn, cộng với một trăm Sử trong
đời hiện tại thành hai ngàn một trăm
Sử. Lại phối hợp với đa tham, đa sân,
đa si và đẳng phần (tham, sân, si cùng sanh khởi),
tức là bốn yếu tố nhân với hai ngàn một
trăm thành tám ngàn bốn trăm. Lại phối hợp
với Lục Suy (tức sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp có thể làm suy tổn thiện pháp), nên sáu yếu
tố ấy cộng với bốn yếu tố trên
đây (đa tham, đa sân, đa si, đẳng phần)
thành mười, nhân với tám ngàn bốn trăm thành tám
vạn bốn ngàn trần lao. Đây là cách nói chi tiết
nhằm giải thích con số “tám vạn bốn ngàn”,
chứ nếu hiểu theo nghĩa rộng th́ tám vạn
bốn ngàn trần lao chỉ đại diện cho vô
lượng vô biên trần lao (phiền năo).
[20] Sóc (朔) là ngày đầu mỗi tháng. Do tháng
Giêng c̣n gọi là Chánh Nguyệt (正月), nên ngày mồng Một tháng Giêng
được gọi là Chánh Sóc. Tam Đại Hạ,
Thương, Châu đă định ngày Chánh Sóc khác nhau, Âm
Lịch hiện thời tuân theo chánh sóc nhà Hạ, tức là
lấy ngày mồng Một tháng Dần làm ngày đầu
năm.
[21] Đây là một câu thành ngữ “người nhân thấy là nhân,
người trí thấy là trí”, hàm ư tùy theo tánh cách của
mỗi người mà nh́n nhận cùng một sự
việc khác nhau.