Phật Học Vấn Đáp Loại Biên

佛學問答類編

Phần 9

Lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam giải đáp

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội, Đài Loan, 2007)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

      * Hỏi: Các loài hoa, cỏ, tre, gỗ, đá, ngọc, dường như cũng có Phật tánh, nhưng khó phân biệt. Điều này căn c trên những chuyện hoa có th hiểu lời nói, ngọc, đá thành tinh v.v… trong các truyện xưa Trung Quốc để suy luận. Vậy th́ cây Bồ Đề nơi đức Thích Tôn thành đạo cũngPhật Tánh, chẳng c̣n ng chi nữa! Nhưng c sao ngoài lục đạo, chẳng k thêm [những loài vô t́nh như cây, cỏ, gỗ, đá]? (Lưu Định Nhất hỏi)

 

      Đáp: Phàm học thuyết th́ đại khái có s thật và lư luận sai khác. Nếu nói theo Lư, bất luận động vật, thực vật, hay khoáng vật đều có Pháp Tánh; đó gọi là “vạn pháp duy tâm. Trúc biếc, hoa vàng, không ǵ chẳng phải là Bát Nhă. T́nh vô t́nh, cùng viên măn Chủng Trí. Nếu nói theo Sự, chữ chúng sanh ch dùng để ch động vật có t́nh thức, có sắc thân Lục Nhập do nghiệp báo chuyển biến. Sắc thân của loại động vật hàm thức ấy sanh, có diệt, nhưng trong lục đạo, t́nh thức biến huyễn chẳng ngừng. Khoáng vật và thực vật chẳng phải t́nh thức nghiệp báo, nên những loài như hoa, cỏ, đá, ngọcchẳng được k vào đó. Hoa có th hiểu tiếng người vốn là lời đùa bỡn của văn nhân. Ngọc thành tinh chính là vật lâu đời tác quái, vốn do linh hồn [của các qu thần] dựa vào, cũng thuộc vào loại yêu tinh, qu quái, là biến hóa, chẳng phải là chuyện thường có!

 

      * Hỏi: Trước đức Phật Thích Ca, có Phật trụ trong thế giới này hay không? Nói cổ Phật” có phải là nói tới những v Phật đă giáng sanh trong thế giới này trước đức Phật Thích Ca hay không? Thuở đức Phật giáng thế, có phải là Pháp Thân hóa thành Ứng Thân, hay là Pháp Thân vẫn tr trong cơi Thường Tịch Quang? (Mạnh Hiếu Quang hỏi)

 

      Đáp: Đức Phật hiện trong thế gian, chuyên độ chúng sanh. Thế giới vô tận, thời gian tận, nên Phật đến ứng hiện cũng là vô tận. Phật hiện tướng, được gọi làứng hóa, c̣n Pháp Thân thường tịch vẫn nghiễm nhiên bất động.

 

      * Hỏi: Trong tam giới lục đạo đều Phật, Bồ Tát, nên c nhiên trong đường trời người chẳng c̣n phải bàn luận nữa! Trong địa ngục c̣n đại Bồ Tát trụ, thể nói là “chẳng có Phật pháp” ư? Nhân loại chẳng th biết hành vi phương tiện hoằng pháp, cứu độ chúng sanh ấy, chẳng biết trong kinh Phật từng nhắc tới hay chưa? (Lưu Định Nhất hỏi)

 

      Đáp: Trong lục đạo đều có Phật, Bồ Tát phương tiện thuyết pháp, trong kinh Phật cũng có ghi chép. Chỉ v́ tánh chia thành nhiễm và tịnh, nhiều, ít, dày, mỏng khác nhau, nên s lănh th rất khác biệt. Nếu tạm lấy nhân loại để luận định th́ k Thế Trí Biện Thông tập khí ô nhiễm quá nặng, trở thành chướng ngại đối với Phật pháp. K mù, điếc, câm, ngọng do mầm ác quá nặng, cũng trở thành chướng ngại trong việc tiếp nhận Phật pháp. Nhân đạo đă là như thế, [suy ra] có th biết [t́nh h́nh] trong tam đồ. Chẳng phải là nói “trong địa ngục chẳng có Phật pháp”, là nói:Tuy, nhưng tiếp nhận khá khó khăn!”

 

      * Hỏi: Phật, Bồ Tát hóa thân vô s trọn khắp vũ trụ. Tam giới vô số, dẫu lấy cơi này để luận, làm sao biết các h chẳng phải là hóa thân của Bồ Tát? Lại nữa, đối với phương tiện cứu độ chúng sanh của Phật, Bồ Tát, thể [nói các ngài] chẳng phải chỉ xuất hiện dưới thân Phật trong các loài. [Tôi nghĩ] những vị thuở trước như Nghiêu, Thuấn, Khổng Tử, Châu Công, cho đến Gia Tô (Jesus), Mục Hăn Mặc Đức (Mohammed, Muhammad), Nam Đinh Cách Nhĩ (Florence Nightingale)[1] v.v... và các vị đại thần tiên được người Trung Quốc tôn sùng, cũng như các bậc thánh hiền xưa nay trong ngoài nước, đa số phải là hóa thân của Phật, Bồ Tát! Nhưng đối với những v ấy, Phật giáo đồ hết sức phân biệt, hậu học nghĩ: Gặp đời kiếp nạn này, hăy nên lấy khuyến thiện làm ch yếu, chẳng cần phải chửi k khác là ngoại đạo, phân biệt giáo môn, khiến cho sự hoằng dương rộng răi b tr ngại, tŕ tr, có l s hợp với tâm Phật hơn! (Lưu Định Nhất hỏi)

     

      Đáp: Đối với lời cao luận của Ngài, tr những lời l lầm lẫn tán dương tại h ra, những điều khác đều rất thích đáng. Nói đến “phân biệt” th́ cũng nên có s phân biệt trong phân biệt. Ch nói đến Thiện th́ thiện phải ḥa đồng với mọi người, ch nên nhất loạt tùy hỷ, đó gọi là “chúng thiện phụng hành”. Nếu nói đến Đạo th́ chẳng bắt buộc phải gượng ép cho giống nhau, mỗi đạo có bản chất và tinh thần riêng biệt. H bản chất b biến đổi th́ học thuyết cũng chẳng thể thành lập được! Ch nên mỗi đạo gi lấy cương vị, người ưa thích núi, k ưa thích nước, tùy người ta chọn lựa, ch nên thù hằn, ganh ghét. Nói theo bản thân Phật giáo th́ vốn các thuyết so lường Quyền và Thật, liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, nên mới có thuyết Ngũ Thừa. Những đạo nằm ngoài Phật giáo há lại có th vượt trỗi Ngũ Thừa ư? Phật giáo vốn chẳng công kích các giáo khác (ngoại tr những trường hợp h t́m đến tranh luận), nhưng các giáo khác chuyên công kích Phật giáo!

 

      * Hỏi: Ma h́nh thành như thế nào? th nói cho biết lịch tŕnh [h́nh thành ma] c th ra sao hay chăng? Đức Thích Ca hàng ma, nhưng chưa độ ma, do nguyên nhân nào? Có phải là ma chẳng th độ ư? (Lưu Định Nhất hỏi)

 

      Đáp: Phàm những chuyện chướng ngại Phật pháp và k phản đối Phật pháp đều gi định là Ma! Ch Ma () vốn là Ma (), nghĩa là “gây khó khăn, chướng nạn”. Sự Ma phần nhiều sanh t tâm, Nhân Ma cũng do nghiệp duyên. Thíchn hàng ma, đó là độ ma, hàng () là chế phục vậy! Đương nhiên tự biết hết thảy [những kẻ được hóa độ] đều khuất phục, nên gọi là “hàng”. Ch có điềuđộ” là t độ, [kẻ được hàng phục] chịu [phụng hành] hay không, lại tùy thuộc vào căn cơ của đối phương. Giống như lương y cho thuốc, chí mong cứu người, nhưng uống thuốc hay không là do người bệnh t quyết định!

 

      * Hỏi: Một k tri thức thế tục, nghiệp báo khá sâu, nói cách khác là k đọc sách đă nhiều năm, nay đang th nguyện học Phật hoàn chỉnh, có nên đổ công sức [nghiên cứu, học tập] toàn b Đại Tạng Kinh hay không? Do chuyện này bèn hỏi là nên bắt đầu t phương diện nào (Kinh Tạng, Luật Tạng, Đại Thừa, hay Tiểu Thừa) th́ sẽ d dốc sức hơn? V phương thức th́ nên gi thái độ chẳng cầu thấu hiểu cho lắm, cứ để lại đó, mai sau s dần dần lănh ngộ? Hay là mỗi khi đọc một kinh nào, ắt phải chú trọng đọc rộng, hiểu thông suốt để cầu thâm nhập? (Hoàng Thao hỏi)

 

      Đáp: Tŕnh t học Phật chia ra thành Thông (thông thường) và Biệt (đặc biệt, riêng biệt). Thông tức là bốn ch “Tín, Giải, Hành, Chứng. Biệt chẳng cần theo th tự, vừa khởi đầu liền chọn một môn để hành. Thông th́ chẳng có vấn đề ǵ đáng nói, nhưng Biệt th́ cũng phải trọn đủ tín tâm. Người tín tâm mạnh m ch hành công phu ấy liền có thành tựu. Nếu không, ắt phải cầu hiểu, ḥng tăng trưởng ḷng tin. Đó là hành và giải cùng tiến hành, hoặc hành trước, giải sau, không ǵ chẳng được! Đó là điều thứ nhất.

      Kẻ mới học đọc Đại Tạng, s chẳng đạt được lợi ích, v́ kết cấu của Đại Tạng ch yếu là sắp xếp theo th loại của các kinh, chẳng phải là sắp theo khóa tŕnh t cạn tiến đến sâu, t đầu tới cuối vậy! Người học Phật hăy nên nắm khái quát giáo tướng rồi mới đọc Đại Tạng th́ mới có cửa nẻo [để thâm nhập]; ví như trước hết phải biết bơi lội thông thạo rồi mới có th vào biển cả. Đó là lư do thứ hai.

      Người đọc Đại Tạng cũng chia thành hai loại:

      - Thứ nhất là Tĩnh Lự, lấy đọc kinh làm công khóa, chỉ cung kính đọc theo từng câu, chẳng nghĩ ngợi, suy lường.

      - Thứ hai lànghiên giáo”, tức là cầu hiểu rơ ư nghĩa. Chuyên chú trọng ḍ t́m, truy cầu [nghĩa lư], hy vọng t văn t mà thấy được phần nào Thật Tướng.

 

      * Hỏi: Đức Phật nói hết thảy chúng sanh đều là vị lai chư Phật”, đấy có phải là để đả phá quan niệm bất b́nh đẳng của chúng sanh hay không? Lại nói hết thảy người nam, hết thảy k n đềucha m trong đời quá khứ; đó có phải là để đả phá s phân biệt của chúng sanh hay không? (Trang Quư hỏi)

 

      Đáp: Đối với hai ư cư sĩ vừa đề ra, cũng chẳng phải là không thể nói như vậy; nhưng xét theo s thật th́ [những ǵ đức Phật đă nói] cũng chng phải là hư giả. Chúng sanh đều có Phật tánh, gặp duyên bèn khởi tu, đoạn sạch vô minh, tức là Phật vậy! Hết thảy nam nữ ta trong trần điểm kiếp đều trôi lăn trong sáu đường, từng làm cha, mẹ, con cái của nhau, há ch một lần, nhưng do mê muội khi cách ấm, nên chẳng c̣n hay biết! Nam là cha ta, n là m ta, há c̣n đáng ng nữa ư?

 

      * Hỏi: Chánh hạnh nơi đạo có c thiện căn lẫn trí huệ. T hành đoạn được Kiến Hoặc và Hoặc, do trợ hạnh từ bi cùng với phước đức nên có thể đoạn Trần Sa Hoặc. Làm như thế nào s thể đoạn? (Trang Quư hỏi)

 

      Đáp: Trợ hạnh có nhiều loại. Thượng cầu hạ hóa tr hạnh trọng yếu. Một chuyện không biết bèn gọi là Trần Sa Hoặc. Thường hành từ bi, mới hiểu căn khí của chúng sanh, mới thấu triệt thế sự rối ren. Học trọn hết Phật pháp, sẽ có thể đoạn nghi, sanh tín, trí huệ tự nhiên mở mang, thông suốt. Hành như thế th́ có th đoạn được Trần Sa.

 

      * Hỏi: Thu đức Thế Tôn giáng sanh tại Trung Ấn Độ, làm Thái Tử của vua Tịnh Phạn nước Ca T La Vệ, vinh hoa, phú quư thượng đẳng. Do duyên c ǵ chẳng hưởng th phước báo và địa v của bậc vương gi trong loài người mà lại muốn xuất gia? Tu đạo trong chốn núi rừng, há chẳng chịu hết nỗi kh gió sương, đói rét ư? (Hoàng Mễ Điền hỏi)

 

      Đáp: Tham hưởng vinh hoa phú q chính là s ích k của phàm phu. Cứu độ vô biên chúng sanh chính là công huân to lớn của bậc thánh nhân. Nay tôi dùng pháp thế gian để t dụ! Vua Đại Vũ trị thủy, ba lần đi qua cửa nhà ḿnh mà chẳng vào [thăm v con], con sanh ra chẳng ngó tới, tay chân phồng rộp, thân h́nh như cây khô. Nếu vua Vũ chẳng hứng chịu nỗi kh s ấy, há Trung Hoa có bọn người chúng ta? Đức Thế Tôn chẳng dầm sương, dăi gió, chịu đói, chịu khát, thành đạo trong chốn núi rừng, chúng sanh nh vào đâu để vượt thoát luân hồi, ĺa khổ, được vui?

 

      * Hỏi: Đức Thế Tôn tự chứng Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyên nhân ǵ mà phải sáng lập giáo? (Hoàng Mễ Điền hỏi)

 

      Đáp: Đức Thế Tôn thành Phật cũng chẳng phải v́ t vui thú Niết Bàn, mà vẫn là do mong mỏi chúng sanh thoát ly Nh T (Biến Dịch Sanh T và Phần Đoạn Sanh Tử), cùng chứng Phật quả. thế, lập ra giáo pháp, đem những điều đă tu, đă chứng dạy hết cho đại chúng, ngơ hầu họ đều thành tựu. Nếu chuyên lợi lạc chính ḿnh, ch chứng A La Hán là đă đủ rồi, cần ǵ phải nhọc nhằn ba Tăng Kỳ, kh s tu vạn hạnh ư?

 

      * Hỏi: V́ sao đức Thế Tôn bảo các đệ t hăy hoằng pháp, khất thực các nơi? (Hoàng Mễ Điền hỏi)

 

      Đáp: Dạy đệ t hoằng pháp các nơi vẫn nhằm lợi lạc chúng sanh. Khất thực là chẳng tích cóp tiền của riêng tư, v́ s tâm nhiễm sáu trần, chẳng thể chuyên tu đạo ḥng cứu độ chúng sanh.

 

      * Hỏi: Đức Thế Tôn dạy các v đại đệ tử (họ là phước điền tăng) thường hành cước giữa dân chúng. Hóa duyên khất thực th́ có lợi ích ǵ? Có lợi cho dân chúng hay chăng? (Hoàng Mễ Điền hỏi)

 

      Đáp: Kinh T Thập Nh Chương câu: Phạn phàm nhân bách, bất như phạn nhất thiện nhân” (đăi ăn một trăm người phàm, chẳng bằng đăi ăn một người lành). Lần lượt theo th tự, tới “phạn tŕ Ngũ Giới giả vạn nhân, bất như phạn nhất Tu Đà Hoàn” (đăi ăn một vạn người tŕ Ngũ Giới, chẳng bằng đăi ăn một v Tu Đà Hoàn). Cao hơn nữa là “phạn A Na Hàm nhất ức, bất như phạn nhất A La Hán” (đăi ăn một ức A Na Hàm, chẳng bằng đăi ăn một v A La Hán). Lời ấy nhằm dạy: Do thí cơm cho người khác, nên có th đạt được công đức như thế! Các đệ tử của đức Thế Tôn, nếu chẳng phải là A La Hán th́ cũng đă chứng ba qu trước đó, dân chúng cúng dường cơm bèn đạt được phước báo. C suy theo kinh, liền biết [phước báo ấy to lớn đến đâu]!

 

      * Hỏi: Ch nói riêng trong tỉnh Đài Loan, hiện thời Phật giáo rất hưng thịnh. mọi ngơ ngách, chùa cũ được tu bổ, hoặc chùa mới dựng, mỗi năm một tăng, nhưng trong dân chúng khắp mọi nơi, nghe thấy những lời l l lùng, đa s nói: “Gần đây, sao có lắm k xuất gia đi hóa duyên ngần ấy?” Mong lăo sĩ thiện giải ch dạy! (Hoàng Mễ Điền hỏi)

     

      Đáp: Lời ông hỏi ư nghĩa chẳng rơ ràng! “Thiện giải” là nói v phương diện nào? Nếu tôi thốt lời bừa băi, s chẳng khế cơ, nên đành để lại đó, sau này mới lại bàn tới th́ cũng chẳng muộn!

 

      Hỏi: Sau khi liễu thoát sanh tử th́ có ĺa vật hay không? Có ĺa thần hay không? Theo tư tưởng Phật giáo, đương nhiên chẳng phải là vật, mà cũng chẳng phải là thần, nhưng Pháp Tánh chẳng phải là thần hay vật, chẳng th nghĩ bàn lại do đâu mà có? (ngoại giáo quy kết v Đại T Nhiên Thần Ngă, chẳng hợp lư!) (Trần Tâm Bồi hỏi)

 

      Đáp: “Bất sanh, bất diệt; vô thỉ, vô chung”. Nếu đại đức c khăng khăng hỏi “t đâu mà có”, th́ hai câu trên đây là Thánh Giáo Lượng. Nếu chẳng hiểu, chẳng tin, c muốn hỏi [Pháp Tánh] xuất phát t đâu th́ ch có cách hỏi đức Như Lai.

 

      * Hỏi: Tu hành có điểm kết thúc hay không? Hễ có mục đích tức là chấp trước. Không có mục đích th́ lại là mê. Gi s và Không đều chẳng có th́ sự tu hành ấy lại chẳng thành lập. Có hành hay không hành đều là trụ, mà tr th́ chẳng có tiến b được! (Trần Tâm Bồi hỏi)

 

      Đáp: A La Hán gọi là Vô Học, đóđiểm kết thúc của Tiểu Thừa. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Học,điểm kết thúc của Đại Thừa “Bất tận hữu vi, bất trụ vi” là Thánh Giáo Lượng. “Bất tận hữu vi có th nói miễn cưỡng là “có mục đích” ; “bất trụ vô vi” là chẳng chấp, chẳng trụ. “Tâm chẳng trụ pháp mà hành bố thí”, hành bố thí là mục đích, chẳng tr pháp là Thể Không, có mâu thuẫn? Câu “chẳng nhận biết rơ vạch khắc trên cán cân, toàn bộ việc cân đong bị rối tung” chính là nói v chuyện này vậy!

 

      * Hỏi: Có thể chứng minh hay không? Nếu chẳng thể chứng minh, vậy chẳng thể kết thúc. Đương nhiên, khi Phật giáo đồ tranh luận cùng nhau, nếu có chứng c th́ đương nhiên có th trao đổi, nhưng trong cái “có thể trao đổi ấy”, cái nhân (Biến Kế và Y Tha) của nó lại là chẳng th được! Lại nữa, trong s chẳng nghĩ bàn (bất kh tư nghị) của cáichẳng thể được ấy” (bất kh đắc), làm sao có th chứng minh được! (Trần Tâm Bồi hỏi)

 

      Đáp: Lạ thay! Lạ thay! Hết thảy chúng sanh đều trọn đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Đấy là đức Thế Tôn đă đưa ra chứng cứ, vẫn chẳng tin tưởng, kẻ khác há th múa mép [để thuyết phục kẻ khăng khăng chẳng tin tưởng lời Phật dạy ư]? Phật giáo đồ tranh luận với nhau, ch có cách dựa trên lời dạy của đức Thế Tôn để biện luận. “Bất khả đắc” là v́ bọn phàm phu chúng ta vọng tưởng, chấp trước đă ḥa thành một khối, nên cách biệt điều này c vạn qu núi, đúng chẳng th được. C sao Chứng Đạo Ca có câu “đắc được ǵ?”, c sao Đàn Kinh chép: “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính là lúc nào?” Ngôn ng chẳng th biểu đạt điều này; tư duy, so lường chẳng th hiển lộ được, nên nói “chỉ có chứng th́ mới biết”.

 

      * Hỏi: Liễu thoát có phải là t tu, tự đắc, tự biết? Nếu là như vậy, t sư truyền cho nhau như thế nào? (Trần Tâm Bồi hỏi)

 

      Đáp: Những điều ttruyền dạy là pháp phương tiện, pháp ấy chẳng ngoài “tr b phàm t́nh” mà thôi, tâm tánh vẫn phải là t thấy rơ ràng, bất quá [hành nhân tu tập đă đạt] đến một mức độ công phu kha khá th́ [v thầy hay tổ] bèn làm tăng thượng duyên [giúp cho ngườiy t khai ngộ], há có phải là từng mâm, từng chén, tay này đưa cho tay kia đỡ lấy ư?

 

      * Hỏi: Mong lăo cư sĩ hăy biểu hiện tư tưởng căn bản của Phật giáo th́ đúng là mạt học rất may mắn, mà chúng sanh cũng rất may mắn. Hậu học tin Phật đă nhiều năm, đối với chuyện l Phật tĩnh tọa cũng có kinh nghiệm đôi chút, hiềm rằng đối với câu “chánh tín” và tịnh tín chưa thật sự đạt được, nên thường nẩy sanh nghi hoặc, gây chướng ngại không chi to bằng! (Trần Tâm Bồi hỏi)

      Đáp: Tam Tạng mười hai phần giáo rạng r trong cơi đời mà [ông] vẫn [cảm thấy] chưa đủ ư? Thiền, Tịnh, Mật, Luật, xưa nay người nương theo đó mà thành tựu, đâu phải ch là ngàn vạn, há chẳng phải căn bản ư? Hăy nên biết: Hiện thời dẫu cùng lúc xuất hiện một vạn v Phật th́ các Ngài thuyết pháp vẫn như thế. Nếu ĺa khỏi điều này, nói tới chuyện khác, th́ đó là ma ngữ! Đại đức ơi! K hèn này mạo muội dâng lên một lời: Học v tâm tánh, ắt phải được bậc tông tượng chỉ điểm. Nếu không, cũng có th nghiên cứu, t́m ṭi dựa trên văn tự, có lẽ cũng có th uốn nắn chánh tri kiến. Mong được th dụng mấy phần th́ cũng phải cậy vào mấy phần công phu! Nếu chẳng có đồng bạn, kiến thức ít ỏi, chẳng thông đạt văn nghĩa, t ḿnh ṃ mẫm trong chốn tối tăm, vớt trăng nơi đáy giếng th́ không ch là chẳng th minh tâm kiến tánh, mà muốn đạt được mấy phần tin tức, e rằng cũng phải tới năm nảo, năm nao!

 

      * Hỏi: Tôi thường mang sách Phật đến trường tụng niệm, thường bị bạn học cười nhạo, dụng ư [của những k ấy] ch nào? Lại phải nên giải quyết ra sao? (Trần Đăng Phùng hỏi)

 

      Đáp: Pháp luật có văn bản rơ ràng quy định t do tín ngưỡng tôn giáo ràng, tin tưởng hay không ắt tùy ư mỗi người. K không tin t nhiên nghe nói tới đạo bèn cười cợt, cũng chẳng có dụng ư ǵ, c nhiên chẳng đáng quan tâm! Hăy nên biết: Phật pháp như gỗ Chiên Đàn, đội lên đầu hay giày xéo dưới chân, đều nhiễm phải mùi thơm. Ch nên dùng Phật pháp để dạy người khác là được rồi, c̣n người ta gi thái độ như thế nào, chẳng cần bận tâm!

 

      * Hỏi: Tôi cung kính đọc cuốn “Ngũ Thừa Phật Pháp Và Văn Hóa Trung Quốc” của đại cư sĩ Châu Kính Trụ, nơi trang tám mươi tám, phần giảng v Tinh Tấn có nói: Thích Ca Mâu Ni Phật do tinh tấn nên rốt cuộc thành Chánh Giác trước Di Lặc Bồ Tát”, chẳng biết s tích ấy là như thế nào? [Chuyện ấy] được chép trong kinh điển nào? (Lữu Mậu Thịnh hỏi)

 

      Đáp: Chuyện ấy được chép trong quyển thượng kinh Bồ Tát Bổn Hạnh. Do kinh văn dài nên làm sao có th trích lục đầy đủ [trong cột báo này] cho được! Muốn biết tường tận, ông có th hỏi mượn người kinh ấy để đọc. Tại Đài Loan, người thâu thập Đại Tạng Kinh thật nhiều. Kinh ấy thuộc v Bổn Duyên B[2] [trong Đại Tạng Kinh].

      * Hỏi: Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”, xin hăy dạy cho biết “cái nhân” của hàng Bồ Tát nói v điều ǵ? (Lữu Mậu Thịnh hỏi)

 

      Đáp: Nhân là động cơ (motivation) và khởi đầu của s việc, Qu là sự kết thúc và th báo của s việc. Nay đang sống trong kh sở, ách nạn, đó là qu báo. Phàm phu si mê, [đến khi] thân lănh chịu [qu báo] mới nhận biết, đó gọi là “s qu”. Tuy sợ, cũng chẳng ích ǵ! Tội ác đă tạo trước kia là nguyên nhân. Bồ Tát có trí, thấy khởi đầu liền biết kết cục. Đó gọi là “s nhân. Do s nên chẳng tạo [nhân gây ra ác quả] nữa!

 

      * Hỏi: q tôi, Nhất Quán Đạo thịnh hành. Đó gọi là “thời kỳ Mạt Pháp, buôn bán Như Lai, tuyên thuyết khai thị dường như Chánh Pháp, nơi nơi đều có”,  khiến cho người ta cảm khái muôn vàn, thậm chí k giống như người xuất gia qua lại giao du cùng họ. Văn bối thuộc lứa tuổi thanh niên, nhưng hiểu biết Phật pháp đôi chút, trong ḷng chẳng nỡ, xin hăy dạy cho biết: Đối với những v pháp sư ấy, nên làm như thế nào? (Lữu Mậu Thịnh hỏi)

 

      Đáp: Chữ “pháp sư” trong lời ông hỏi là nói v tu sĩ Nhất Quán Đạo hay là nói v những người giống như kẻ xuất gia? Hai hạng ngườiy đều không phải là pháp sư, không nên dùng tôn hiệu [pháp sư] để tùy tiện gọi họ! Nói tới chuyện “buôn bán Như Lai”, c nhiên là tội lỗi, nhưng bọn h vẫn chưa có đủ tư cách đă nhận lănh tiếng xấu ấy! C̣n nóiđối phó với h như thế nào” th́ nếu có sức cảm hóa, bèn khuyên h cải tà quy chánh. Nếu t xét ḿnh chẳng có sức, trời đất mênh mông, sao lại chẳng dung, c để mặc họ, chẳng quan tâm tới mà thôi!

 

      * Hỏi: Có bà c già xa nhà tôi trong xóm, thường xuyên hỏi tôi v kinh Phật. Bà c th DượcPhật, tôi thường giảng cho c nghe v kinh Di Dà và pháp môn Tây Phương Tịnh Độ, [như vậy th́] có phạm lỗikhách ồn ào lấn át ch” hay không? (Lữu Mậu Thịnh hỏi)

 

      Đáp: Bà c ấy tuy th tượng DượcPhật, chắc là cũng chẳng hiểu lư, chưa tu pháp ấy. Giảng cho bà ta nghe v Di Đà, chính là dạy bà ta vượt thoát luân hồi, liễu thoát sanh tử, hoàn toàn chẳng có ǵ là không nên!

 

      * Hỏi: Bán kính của địa cầu là sáu ngàn ba trăm năm mươi cây số, v́ sao kinh nói chúng ta là “bạc địa phàm phu”?[3] (Trần Đăng Phùng hỏi)

 

      Đáp: Kích thước địa cầu nếu hoán đổi theo đơn v đo lường th́ xưa nay, trong ngoài nước, trọn chẳng thống nhất. Kinh Phật s trắc lượng hiện thời [do đó] cũng chẳng phù hợp!

 

      * Hỏi: Ngày Phật Đản là ngày mồng Tám tháng Tư nông lịch (âm lịch), v́ sao nước ta khánh chúc nhằm ngày mồng Tám tháng Tư quốc lịch (dương lịch), có phải là sai lầm hay không? (Trần Đăng Phùng hỏi)

 

      Đáp: Đấy là nhằm thích ứng với quốc lịch, là biện pháp dung thông.

 

      * Hỏi: Th gi của Địa Tạng Bồ Tát ai? (Trần Đăng Phùng hỏi)

 

      Đáp: Người mang h́nh tướng xuất gia là ḥa thượng Đạo Minh; c già tại gia là b của ḥa thượng Đạo Minh, tức Mân lăo cư sĩ[4].

 

      * Hỏi: Có sắp m lớp Phật Học Hàm Th hay không? (Trần Đăng Phùng hỏi)

 

      Đáp: Đại khái là năm nay tôi không d định m lớp.

 

      * Hỏi: Học nhân k t khi quy y Tam Bảo đến nay đă tham d l k niệm thánh đản đức Phật hai lần. Địa điểm lần đầu là Nghi Lan, thời gian nhằm ngày mồng Tám tháng Tư âm lịch năm Dân Quốc 50 (1961). Lần sau tại tân công viên của thành ph Đài Bắc, tức ngày mồng Tám tháng Tư dương lịch năm nay. C sao ngày tháng k niệm khánh chúc một v thần thánh vĩ đại trong đạo chúng ta trọn chẳng thống nhất, đúng là tạo c cho người ngoài chê cười! Có th kiến ngh hội Phật Giáo Trung Quốc thông cáo các nơi c hành [l Phật Đản] thống nhất hay không? Kính xin hăy dạy cho! (Liêu Thanh Hoa hỏi)

      Đáp: Hiện thời đối với chuyện c hành l Phật Đản, đă h́nh thành hai lượt [k niệm] theo quy định chung và riêng biệt. Theo luật định th́ lấy ngày mồng Tám tháng Tư dương lịch để c hành, do hội Phật Giáo lănh đạo. Riêng biệt th́ lấy ngày mồng Tám tháng Tư âm lịch do các chùa t do c hành. Chuyện này cũng giống như ăn Tết. Ăn mừng Tết Dương Lịch là chuyện tiến hành riêng tư, trong mỗi cơ cấu hay đoàn th s tiến hành [ăn mừng hay không], c̣n ăn mừng Tết Âm Lịch th́ là công khai, toàn th nhân dân đều ăn mừng. Dường như chẳng thống nhất, nhưng thật ra là thống nhất. Đă c hành theo c âm lịch lẫn dương lịch th́ chẳng th có ǵ đáng để chê cười cả!

 

      * Hỏi: Phần đông nhân sĩ trong xă hội hiểu lầm Phật giáo đến nỗi gây ảnh hưởng thật lớn đối với chuyện hoằng pháp. H thường đem những chuyện “quái lực, loạn thần” trong thần đạo[5] đổ lên đầu Phật giáo. Chẳng hạn như đối với sự kiện Trương Ngọc Cô[6] trong quá khứ, tín đồ Cơ Đốc Giáo bèn tuyên truyền là Phật pháp mê tín đến nỗi chết người, mặc sức công kích. Thậm chí các sách báo cũng đem những s kiện như Thành Hoàng, thần tài, Vương Gia, cầu phước, cầu tài choàng vào đầu Phật giáo, đúng là  khiến cho người ta đau ḷng. V́ h giáo, hoằng pháp, có nên in nhiều tập sách nh tuyên truyền (loại b túi) dùng h́nh thức vấn đáp bằng văn t thông tục để giới thiệu Phật giáo với đại chúng hay không? (Liêu Thanh Hoa hỏi)

 

      Đáp: Những điều ông nói cũng chẳng phải là không nên, nhưng những s phân tích như vậy trong các tạp chí Phật học cũng thường tuyên truyền. K chẳng đọc sách hoặc c ư vặn vẹo, có thấy th́ cũng như chẳng thấy. Đài Loan có ph biến các cuốn Ám L Ch Quy và Ám L Minh Đăng là những tập sách nh phân tích [những ǵ là] Phật giáo hay chẳng phải Phật giáo.

 

      * Hỏi: Cơ Đốc Giáo truyền giáo đúng là phiền phức khôn xiết! Tuy tôi thường nói rơ ḿnh là tín đồ Phật giáo, nhưng bọn h c bâu lấy tôi ầm ĩ, lải nhải truyền đạo chẳng ngớt. một lần, có một tín đồ tôn giáo khác thấy tôi ương bướng, bèn v́ tôi cầu nguyện, qu ngay hai gối xuống đất, miệng khấn nguyện liên tiếp. Chưa đầy một phút, toàn thân hắn bỗng nhiên giật đùng đùng giống như lên cơn kinh phong, tôi tưởng là có chuyện ngoài ư muốn xảy ra, kinh hoảng muôn phần. Sau đó hỏi tới th́ hắn nói là do Thánh Linh của Thượng Đế giáng xuống thân! Đúng là khiến cho người khác d khóc, d cười, giống như chuyện mê tín, chẳng th tránh né được, chẳng th căi lẫy, chẳng biết phải làm như thế nào mới nên! Xin hăy dạy cho tôi kế sách đối phó! (Liêu Thanh Hoa hỏi)

 

      Đáp: Nếu h x s l phép th́ ta l độ t tạ, bảo h mỗi người chí riêng, pháp luật quy định t do tín ngưỡng tôn giáo. Tam quân có th cướp tướng, ch thất phu chẳng th đoạt chí. Nếu h thiếu học thức, chẳng hiểu Lư, c cưỡng ép, gây khó dễ, bèn dùng S để c tuyệt, hoặc là im lặng, chẳng đoái hoài, hoặc tránh né chẳng gặp, tùy cơ ứng phó, há có cách nhất định!

 

      * Hỏi: Do T Thánh Đế mà tu chứng T Qu th́ tột bậc là A La Hán. Do tu chứng Thập Nh Nhân Duyên mà thành Độc Giác Phật (Bích Chi Phật). Tu Bồ Tát pháp bèn chẳng trải qua hai địa v trên đây, có th t Thập Trụ, Thập Địa lên thẳng địa v Phật, chẳng cần phải tu chứng T Quả; nhưng chư đệ tử của đấng Thích Tôn đều thị hiện chứng quả A La Hán, chẳng rơ ư nghĩa uyên áo ch nào? (Kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: Căn khí của chúng sanh không đồng nhất, nên đức Phật chia ra  ngũ thừa phương tiện. Nếu ch nói một thừa, chẳng thể phổ độ. Bồ Tát tuy tu lục độ, vạn hạnh, nhưng cũng hiểu sâu xa T Đế, Thập Nh Nhân Duyên. Tuy La Hán t giải thoát cho riêng ḿnh, vẫn khuyên h hồi Tiểu hướng Đại, tấn tu Phật quả.

 

      * Hỏi: A La Hán là cực quả trong Tiểu Thừa; mà có th tu Phật quả của Đại Thừa ư? Đại A La Hán” có phải là nói những v La Hán b Tiểu Thừa hướng v Đại Thừa hay không? Rốt cuộc có mấy loại A La Hán? (kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: Đối với Đại Thừa Phật pháp, chỉ cần chịu phát tâm, bất luận ai cũng đều có thể tu được, huống hồ La Hán! Đại A La Hán chính Bồ Tát, do bên trong ẩn tàng bổn hạnh nên th hiện làm căn cơ nh nhoi, hướng v đức Phật hỏi đáp, nhằm tạo lợi ích cho những người khác. Đại A La Hán trọn chẳng phải là nói tới những v b Tiểu Thừa, hướng theo Đại Thừa. Đă hướng v Đại Thừa, bèn chính là Bồ Tát, sao c̣n gọi là La Hán cho được? C̣n như hỏi mấy loại th́ ch có một, không hai. Trong kinh tuy có nói “Ly Dục Đệ Nhất” và kể kèm thêm những danh xưng khác, bất quá là nói theo tướng, chứ luận theo tánh bèn chẳng có phân biệt. như núi đá, mùa Xuân gọi là Tiếu (), mùa Hạ gọi là Trích (), mùa Thu gọi là Trang (), mùa Đông gọi là Thụy (), đều là đặt theo h́nh tướng, chứ thật ra vẫn là núi đá mà thôi!

 

      Hỏi: Chư Phật nhập rốt ráo Niết Bàn là một, hay là khác? Nói theo lư tưởng th́ phải nên một (tức là toàn th vô phân biệt như nước ḥa vào biển cả). Nếu như vậy th́ vô minh dấy động, chư Phật cũng có quan h liên đới. trụ do các nghiệp cùng hợp thành, chư Phật cũng có một phần trong ấy! (kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: Chư Phật Niết Bàn như vầng trăng sáng ngời giữa trời biếc, chúng sanh vô minh như mây dầy, mưa gió. Th hỏi mây dầy, mưa giótrở ngại trời biếc, trăng sáng hay không? Lại nêu một thí d nữa, Giáp và Ất cùng nằm trên một giường, Giáp và Ất cùng chia s chiếc giường ấy, nhưng Giáp ng chẳng mộng m ǵ, mà Ất mộng thấy cảnh ác. Vậy th́ đối với ác mộng của Ất, Giáp cũng có phần ư?

 

      * Hỏi: Như Lai như như bất động, đi như chẳng đi, đến như chẳng đến”. Sách Phật giải thích [ch Như Lai] như vậy, người chưa thông pháp nghĩa rất khó thấu hiểu. Nếu dùng [ư nghĩa] “trừ vọng, trở về chân, khôi phục Phật tánh” để nói th́ có phải là nghĩa “như Ngă tự lai” hay chăng? (kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: Cổ đức chú giải hai ch này có rườm rà và đơn giản [khác biệt], tùy thuộc Th Dụng của một b kinh nào đó, mà có s vận dụng văn t khéo léo [để giải thích chi tiết hay đại lược]. Muốn biết đại khái, th tra từ điển, ch chẳng tiện sao lục trong cột báo này. Nay tôi kính đáp bằng cách nông cạn, đơn giản nhất: Tánh gọi là Chân Như. Chân là chẳng sanh, chẳng diệt. Như là thường hằng, bất biến. Luận theo Tánh, há có đến, đi? Chữ Tướng ch sắc thân, sắc huyễn là h́nh, thân là duyên sanh, đó là nói theo Tướng, nên bảo là có đến và đi.

 

      * Hỏi: Xin hăy dạy ch tu tập ḥng có th chứng Định, Huệ và Thiền. Nếu là bậc từng trải, ắt trong khi tu tập s có th nói cho người khác biết [những ch ấy] rơ rệt, rành mạch nhất. Hậu học cho rằng: Định mà chẳng phát Hu th́ thành tựu hữu hạn, có thể nói là chẳng bằng ngoại đạo. Tịnh Độ Tông niệm Phật đạt tới nhất tâm bất loạn th́ định lực đă đạt tới tŕnh độ phát huệ, cho nên được văng sanh đấy chăng? (kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: Ông nêu lên ba điều, nhưng thật ra ch là Định và Huệ, v́ Thiền pháp cũng là Định. Pháp để cầu Định chẳng ngoài Ch Quán; Thiền, Tịnh, Mật, Luật là bốn giềng mối chính, nhưng mỗi giềng mối đều chia thành nhiều mục nh nhặt. Pháp để cầu Huệ chẳng ngoài Văn, Tư, Tu, bốn pháp Giáo, Lư, Hành, Tham. Các pháp cũng có những chi tiết. Người tu phải chú trọng cân bằng Định và Huệ, ch có k hành chẳng đúng pháp, lệch v Định hay Hu [là thua sút, ch đối với những người Định Hu cân bằng, s tu tập ấy] đều là chánh nhân, rốt cuộc vẫn trỗi vượt ngoại đạo. Tịnh Độ Tông thích hợp khắp ba căn. Người khai hu văng sanh thượng phẩm, k chưa khai hu văng sanh trong hphẩm. V́ thế, kinh Di Đà ch nói đến “nhất tâm”, c̣n các nghĩa khác để cho hành gi t lo liệu!

 

      Hỏi: Thiền Tông kiến tánh thành Phật và Mật Tông thành Phật ngay trong đời này (tức thân thành Phật), những v Phật ấy khác hay giống với Phật Thích Ca và Phật Di Đà? Hậu học cho rằng: [Xét theo phương diện] nguyện hạnh viên măn th́ có sai khác, nên Phật đẳng cấp [khác nhau]! Vậy th́ các v đại đức nhà Thiền, nhà Mật có nghĩ như vậy hay không? Lại nữa, tâm pháp “chẳng lập văn tự” được gọi là Thiền Tông dường như có chút miễn cưỡng, chẳng viên dung bằng “giáo ngoại biệt truyền. Tâm pháp có phải là do cậy vào tu tập mà thành ư? (kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: “Kiến tánh thành Phật” là nói “tự tánh hiển lộ”, Phật giác! Tánh Bổn Giác, t mê đạt đến ng là Th Giác, công phu tăng tấn theo th t nên gọi là Tùy Phần Giác, đạt tới viên măn cực quả bèn gọi là Cứu Cánh Giác. Thành Phật ngay trong đời này” chính là lúc tu pháp, tam mật tương ứng, quán [chính ḿnh] tr thành Bổn Tôn. Khoan nói tới bậc đại đức thường trong Định, ch học nhân thông thường h xuất Quán th́ vẫn là phàm phu! Thích Ca và Di Đà đều là Cứu Cánh Giác, thường trụ Tịch Quang, những v giống như Di Lặc trước thu vị lai [giáng sanh thành Phật] đều chẳng th sánh bằng. Ngoài ra, c̣n có những thuyết Tạng, Thông, Biệt, Viên, nên cũng là [các địa v Phật] khác nhau! Thiền Tông chẳng lập văn tự chính là [phương tiện] quyền xảo nhất thời, trọn chẳng phải là nói năng tùy tiện, tu loạn x chẳng có đầu mối! Ắt phải trải qua [s ch dạy của] bậc danh sư, được hướng dẫn phù hợp mà khai ngộ. Ng là kiến đạo. Sau khi kiến đạo bèn tu đạo, nên mới chẳng đâm quàng vào ngơ hẻm của đường rẽ! Đă kiến tánh rồi th́ mới nghiên cứu giáo pháp, nên mới khế hợp thật nghĩa của Như Lai. Sự tu học này ắt phải kh công giống như mèo bắt chuột, như gà ấp trứng. Lại phải như chôn cất cha mẹ, hao tổn tinh thần to lớn một phen. Mỗi pháp môn có tông thừa và gia phong riêng biệt, trọn chẳng phải là đóng cửa chế tạo xe, người ḷa, ngựa mù! Ch nên ch thấy mấy k thuộc loại chồn hoang ch Thiền có cái miệng mà bảo là Thiền Tông như thế này, thế nọ! [Nếu chấp những k ấy đang tu Thiền], tức là lầm lẫn to lớn vậy!

 

      * Hỏi: Đức Thích Ca giáng h thế giới Sa Bà này hơn tám ngàn lần, chẳng biết Ngài đă giáng sanh trong cơi này bao nhiêu lần? Giáng h Trung Quốc mấy lần? Những thân ứng hóa của Ngài đều có th khảo chứng hay chăng? (kẻ ngoài cửa hỏi)

     

      Đáp: Kẻ hèn này chưa từng v́ câu hỏi này mà tra duyệt khắp Đại Tạng, ch có th đáp là “không biết”.

 

      * Hỏi: Vạn pháp do nhân duyên sanh; Phật, Bồ Tát độ đời cũng chẳng rời khỏi nguyên tắc này. Chứng c là các đệ t của đức Phật Thích Ca đều thành A La Hán. V tôn gi n ch biết niệm ch “chổi lau” [mà vẫn thành tựu], nên biết duyên hành pháp lực của đức Phật biên. Nay đang thời Mạt Pháp, chúng sanh cầu đắc độ, há chẳng phải là đă khó khăn lại càng khó khăn hơn ư? Trong thời k Mạt Pháp,Phật, Bồ Tát ḷng t bi đối với  chúng sanh mà riêng hoằng dương một pháp môn rộng độ chúng sanh hay không? (kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: Cổ đức nói: “Thời kỳ Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu. Thời kỳ Tượng Pháp, Thiền thành tựu. Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh thành tựu”. Phật, Bồ Tát có cảm ắt ứng, tùy thời hiện thân, hóa độ chúng sanh, nhưng bọn ta chướng nặng, dẫu gặp g mà b lỡ, thật đáng buồn! Pháp môn Tịnh Độ được gọi là mônđại đạo”, tức là một pháp môn riêng biệt ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn, cần ǵ phải cầu pháp nào khác nữa!

 

      * Hỏi: B thí chú trọng tam luân thể không, nhưng hồi hướng công đức về Bồ Đề đạo và chúng sanh th́ có rớt vào chấp tướng hay không? Bởi lẽ, hồi hướng ắt có ba tướng là ta, công đức và đối phương! (Lâm Huệ Minh hỏi)

 

      Đáp: Trong cửa nhà Phật, nói Lư nhưng chẳng phế Sự, nói S nhưng chẳng phế Lư. Tam luân thể không là Lư, hồi hướng là Sự. Kẻ học cạn, hiểu sơ sài, t dùng hồi hướng làm phương tiện. Bậc học lâu, thâm nhập sâu xa, s t khế nhập, tr v Th Không chân thật. Công đức của chúng ta là tướng, hồi hướng là chấp tướng, tam luân th không cũng là tướng. H có ư niệm th́ cũng là chấp tướng, vậy th́ phải nên như thế nào mới được? Đáp: Chẳng tr vô vi, chẳng tận hữu vi, cũng chẳng hồi hướng, cũng chẳng niệm Không, th́ s có th gần [đạt được b thí tam luân th không] vậy!

 

      * Hỏi: Tôi thường thấy người bệnh nặng, hết sức mong mỏi thay h cầu đảo Phật, Bồ Tát gia bị, khiến cho họ bệnh kh tiêu tr tăng trưởng chánh tín, nhưng lại s đạo lực mỏng ít, chưa đạt được cảm ứng, lại ngược ngạo khiến cho chúng sanh nghi hoặc thần lực của Phật, Bồ Tát; chẳng biết lúc b́nh thời phải tu pháp nào, mang tấm ḷng như thế nào th́ gặp chuyện mới có th đạt được cảm ứng? (Lâm Huệ Minh hỏi)

 

      Đáp: Phàm là kẻ bị bệnh khổ đều là do oan nghiệt đời trước. Qu đă chín muồi, tuy phát tâm sám hối, e rằng đă trễ, huống h k ấy chẳng t hối ư? Người khác thay cho k ấy sám hối, vẫn là do ḷng t bi của người sám hối, ắt có công đức, nhưng người sám hối được hưởng nhiều phần, k được sám hối thay ch hưởng ít phần! Vẫn cần phải do người được k khác sám hối giùm có tín tâm, sanh ḷng h thẹn; nếu không, dẫu chút phần cũng chẳng được cảm ứng! Phàm những ǵ thuộc v Phật pháp đều có sức mạnh, chẳng cần phải phân biệt. Càng phải nên biết Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, nghiệp lực cũng chẳng th nghĩ bàn! Pháp lực thắng nghiệp lực th́ nghiệp có th tiêu. Nghiệp lực thắng pháp lực, ắt nghiệp chẳng tiêu!

 

      * Hỏi: Đạo Chung Khải Minh, Khổng Tử, Đẩu Tinh Thánh Tượng Tập có phải là sách ngoại đạo hay không? (Trần Đăng Phùng hỏi)

 

      Đáp: Sách Đạo Chung Khải Minh tôi chưa từng xem. Nh́n vào tựa đề [th́ thấy] văn t và nghĩa lư chẳng thông suốt, ắt có th suy ra nội dung như thế nào! Đối với sách Khổng Tử, tôi đă học tập t nhỏ, nhưng trong Lục Kinh cũng chẳng thấy nói đến chuyện thánh tượng của Đẩu Tinh! Trong mục lục kinh tạng nhà Phật cũng không có tựa sách ấy. Sách ấy chẳng dính dáng ǵ đến Phật Nho!

 

      * Hỏi: Nghe nói cầu cơ cũng Phật Tổ giáng đàn ch dạy, nên tôi nghĩ cầu cơ cũng là Phật giáo, có sai hay không? (Trần Đăng Phùng hỏi)

 

      Đáp: Đàn pḥ loan (cầu cơ) là một th do thần đạo bày ra, chẳng dính dáng ǵ đến Phật giáo! Cái gọi là “sắc ch của Phật” do bọn hầu đàn gi tạo, hoặc do linh qu giả mạo bịa đặt. Những lời l xuất phát t đàn cầu cơ, người thông hiểu Phật học đôi chút đều có th phân biệt [d dàng]. Cư sĩ ch nên chẳng phân biệt rơ đen trắng!

 

      * Hỏi: Nghe nói: “Người đă chết, h có tội bèn vào địa ngục th báo, k vô tội liền văng sanh”, nhưng thường nghe người ta nói ở ch nào đó, chính mắt họ thấy qu ǵ đó. Do đâu mà có chuyện “ở ch nào đó, chính mắt thấy qu ǵ đó? (Lâm Diễm hỏi)

 

      Đáp: Lời ấy lầm lẫn quá đỗi! Hai ch văng sanh” là nói đến chuyện sanh v thế giới Cực Lạc. Không ch k vô tội chẳng th sanh v đó, mà ngay c bậc đại thiện đại đức [nếu không phát nguyện văng sanh] cũng chẳng th sanh v đó được! Ch có người thường niệm A Di Đà Phật đạt đến nhất tâm th́ mới có th sanh v đó. Trong kinh Di Đà đă dạy rất rơ, ắt phải tin tưởng. Nói tới chuyện vào địa ngục th́ cũng chẳng đơn giản như vậy! Trong thế giới khổ s này, có sáu giới tuyến, tức là thiên, nhân, tu-la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, được gọi làlục đạo luân hồi”, sống sống chết chết, vĩnh viễn luân chuyển trong ṿng kh sở. Người khi c̣n sống niệm Phật, [sau khi chết] chẳng tr vào đó, văng sanh Cực Lạc. K chẳng biết niệm Phật, chết đi bèn tùy theo [nghiệp đă tạo là] thiện hay ác mà vào lục đạo.

 

      * Hỏi: Sau khi cha m tôi đă khuất, tôi nghĩ nhớ, hoài niệm họ, có lúc nh nhung quá bèn dâng hương trước linh v của họ, cầu khẩn h cho tôi đêm nằm mộng thấy, nhưng trọn chưa từng mộng thấy. Như vậy th́ có l chẳng có qu đạo ư? (Lâm Tú Diễm hỏi)

 

      Đáp: Con người sau khi đă chết, chẳng biết s vào đường nào trong lục đạo. Nếu thuộc vào quỷ đạo th́ có th cảm vời, chứ trong những đường khác, họ đều chẳng th đến được! Nghĩ tưởng mộng thấy, đúng là chẳng có ích ǵ! Chẳng bằng niệm Phật, chúc phước cho người thân, cầu h siêu thăng.

 

      * Hỏi: Có phải nguyên nhân là v́ tôi t trước đến nay ng chưa h nằm mộng hay chăng? (Lâm Tú Diễm hỏi)

 

      Đáp: Trong câu trước đă nói rơ rồi, chẳng cần phải rườm lời nữa!

 

      * Hỏi: Nghiên cứu Phật học, nên bắt đầu bằng việc đọc loại sách nào? (Lư Mậu Hồng hỏi)

       

      Đáp: Phật học bao hàm thành phần triết học rất nhiều, lại có các th thuật ng và các học phái [khác biệt]. Lúc khởi đầu, nên xem các tập sách nh v khái luận và thường thức để hiểu đại lược, sau đấy tiến cao hơn là nghiên cứu kinh th́ s biết đường nẻo.

      (Ph chú: T xă kính tặng mấy tập sách nhỏ, xin hăy thâu nhận).

 

      * Hỏi: Chẳng màng thắp hương, lạy Phật, niệm kinh, chỉ cầu nghiên cứu sách v Phật giáo tuân hành giáo điều trong Phật giáo th́ có th coi là giáo đồ nhà Phật hay không? (Lư Mậu Hồng hỏi)

 

      Đáp: Tŕnh t học Phật có bốn [giai đoạn] là Tín, Giải, Hành, Chứng. Nếu là người th thắp hương, l Phật, niệm kinh th́ là Tín. Người nghiên cứu giáo điển là Giải. Tuân th giáo điều để hành theo là Hành. Người th làm như vậy th́ là giáo đồ chân thật trong nhà Phật, v sau ắt thành tựu nhanh chóng. Thành tựu chính là Chứng.

 

      Hỏi: Phật giáo đồ trừ nghiên cứu giáo nghĩa Phật giáo ra, v́ sao c̣n phải thắp hương, lạy thần, và niệm kinh? Như vậy th́ chẳng phải biến thành mê tín hay sao? (Lư Mậu Hồng hỏi)

 

      Đáp: Tín đồ Phật giáo trọn chẳng sùng bái quỷ thần. Dâng hương cũng ch là biểu th ḷng cung kính đối với đức Phật. Niệm kinh bèn có nhiều loại khác nhau: Một là giáo nghĩa được chép trong kinh, chẳng niệm làm sao có th hiểu? Hai là công phu tu tập của Phật giáo là Giới, Định, Huệ. Niệm kinh là một cách để cầu Định. Người hiểu điều này th́ thắp hương, niệm kinh, nhưng chẳng tín. K không biết điều này, mong cầu phước báo th́ chẳng tránh khỏi mê tín!

 

      * Hỏi: La Hán mấy loại, cũng có phân biệt hay chăng? (kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: Điều này trong lời hỏi lần trước của Ngài, trong câu th hai đă đáp cặn k rồi!

 

      * Hỏi: Tôi trộm nghĩ La Hán c̣n chưa vượt thoát tam giới, chỉ có Phật đă vượt thoát tam giới. Thái Hư đạitừng chia tam giới thành lớn, nhỏ. Tiểu tam giới cũng chẳng bằng Sắc Giới (xem chương Phật Pháp Tổng Luận [của Thái Hư đại sư]), th́ chư thiên có th nói là bậc thánh vượt thoát tam giới. “Thiên” như nhân loại thường nói chính là Đao Lợi Thiên. Do t tam giới tr lên bèn chẳng hứng chịu các tai kiếp như hỏa, thủy, phong, t ḿnh tránh được các đại kiếp. Nếu La Hán đă chẳng thoái chuyển, tức là đă liễu luân hồi! Lại nữa, t Vô Sắc Giới tr lên, rốt cuộc là giới ǵ? Hậu học vẫn chưa biết, cho rằng nó tương t như Phật giới, cho nên Bích Chi Phật c̣n chưa th đạt được, huống là La Hán ư? Do tôi ít đọc kinh điển, nghi vấn đă lâu, nên xin c hăy khai thị! (kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: Tam giới là Dục Giới, Sắc Giới, Sắc Giới. La Hán dịch Vô Sanh, đă đoạn hết Kiếnnhị hoặc, tức là đă siêu xuất, chẳng có Phần Đoạn Sanh Tử. Ngoài Vô Sắc Giới vẫn có thế giới, bốn phương, trên, dưới, [đều có các thế giới] trùng trùng vô tận. Đây là nói theo phương diện Chất Cảnh (cảnh giới sắc chất). Nếu nói tới Phật giới, liền có Pháp và Báo sai khác. Pháp giới Tịch Quang tướng, trọn chẳng có giới hạn. Báo giới (thuật ngữ gọi là Báo Độ), tùy thuộc Báo Thân mà hiện, chính là hóa cảnh (cảnh được biến hóa), chuyên nhằm lợi ích chúng sanh mà hiện bày. Báo Độ của Phật đă v́ lợi ích chúng sanh, người cảm được bèn có th vào đó. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát đều có th dạo chơi trong đó. Nếu không, đức Phật hiện cơi ấy để làm ǵ?

 

      * Hỏi: Phân định thiên giới [gồm bao nhiêu tầng trời] phải do kim khẩu của đức Phật nói ra hay chăng? Chép tường tận trong kinh điển nào? (kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: Trong đa s các kinh Đại Thừa đều có ghi chép, chẳng có cách nào liệt kê [cho xiết]. Nếu không [có dịp đọc trọn khắp các kinh điển Đại Thừa] th́ có sách Pháp Uyển Châu Lâm giống như một cuốn tiểu t điển Phật giáo, tuy là trước tác của x Chấn Đán, nhưng [những điều chép trong ấy] đều có căn c giáo điển. Trong đó, có phần nói v cách xếp đặt thế giới, [đọc phần ấy] s có th biết t́nh h́nh đại lược.

 

      Hỏi: Đối với Phật pháp, chẳng hiểu Thể, Dụng, chẳng thấu triệt ư nghĩa Sắc và Không. Như nói Th là Chân Như, Pháp Tánh, Pháp Giới, là Pháp Thể, là Bát Nhă, là Tâm... Giả danh quá nhiều, các tông khác nhau! Nay muốn biết đại khái v Pháp Thể, xin hỏi phải xem loại sách nào của nhà Phật? Xin hăy ch cho biết! (kẻ ngoài cửa hỏi)

 

      Đáp: Cưđă biết các danh t ấy, nhưng do các tông bất đồng, muốn biết khái quát duyên do, ắt phải đọc trọn hết kinh điển các tông th́ mới có th hiểu rơ. Nếu muốn hiểu đại lược, ch tra duyệt Phật Học Từ Điển th́ cũng có th phân biệt danh tướng, nhưng chẳng th hiểu tường tận ư nghĩa! Nhưng động cơ là v́ nghiên cứu giáo hay là v́ chứng đạo? Nếu v́ chứng đạo, ngắn th́ là Kim Cang, Nhập Lăng Già, dài là Hoa Nghiêm, Đại Bát Nhă, Pháp Hoa v.v… Tùy ư chọn một loại, chuyên chú dốc công sức vào đó th́ sẽ có th nhận biết những điểm trọng yếu trong bản th của Pháp Tánh. Nếu nghiên cứu giáo pháp, ắt phải tập hợp những kinh ch yếu của các tông để đối chiếu những điểm tương đồng và d biệt th́ mới có th hiểu được ch thú!

 

      * Hỏi: Th là một thứ trong Ngũ Uẩn. Nói “quán Thọ là Khổ” th́ chỉ là nói v Th Uẩn hay là nói chung c Ngũ Uẩn? (Ngô Nhậm Huy hỏi)

 

      Đáp: Sắc trong Ngũ Uẩn chỉ thân h́nh bên ngoài; Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tâm tưởng nội tại. Ch Th () trong ấy chính danh t biểu th một phần của tâm. Ch Th trong “quán Thọ là khổ có ư nghĩa hơi khác với Th trong Ngũ Uẩn, nó ch có nghĩa là lănh nhận, trọn chẳng phải là đại danh từ [biểu thị một phần của tâm]. Thân hứng chịu khốn khổ, ách nạn, tức là những nỗi kh nơi Sắc Uẩn, c̣n tâm hứng chịu ưu năo là những nỗi kh nơi bốn Uẩn Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

 

      * Hỏi: Khổ là thực tại, Lạc là hư ngụy, Lư Sự hiển nhiên, nhưng Tâm Kinh đối với những nghĩa Kh cũng coi chúng là Không, xin lại ch dạy! (Ngô Nhậm Huy hỏi)

 

      Đáp: Tâm Kinh là sách phát huy huyền lư Bát Nhă, nói sắc tướng vạn pháp đều do nhân duyên ḥa hợp giả có, chứ vạn pháp thật s chẳng có tự tánh, nên nói là Không. Vô tự tánhChân Không, hiện sắc tướng là Diệu Hữu. Nhưng Tánh Th của Tướng, Tướng là Dụng của Tánh, nên Tánh, Tướng, Thể, Dụng như một, Chân Không và Diệu Hữu như một. Do vậy, kinh dạy: Sắc tứcKhông, Không tức là Sắc, hai câu ấy viên thông tột bậc! Nhưng Tâm Kinh kinh dạy v Tánh, t nhiên s diễn nói cặn k v Không; c̣n kinh chẳng chuyên nói v Tánh s quán sát căn cơ để nói v Tánh Không, hoặc nói về Tướng Có. Tuy vậy, hai câu “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc” của Tâm Kinh trọn chẳng mâu thuẫn với bất c kinh văn nào. T Đế nói Khổ, Tâm Kinh nói Không, một đằng nói v Thể, một đằng luận v Dụng, ch nên hiểu lầm!

 

      * Hỏi: Mạng căn của chúng ta chẳng đoạn, chẳng th cách tuyệt thế gian, đương nhiên có mối tương quan khăng khít, nhưng sống trong thế gian đau kh này, phát tâm học Phật, cầu giải thoát, nên gi thái độ ǵ cho thích hợp? (Ngô Nhậm Huy hỏi)

 

      Đáp: Quán những ǵ chính ḿnh lănh nhận là Khổ, hăy nên hiểu rơ nhân quả, biết Khổ, đoạn Tập, hâm m Diệt mà tu Đạo ḥng cầu giải thoát. Quán những ǵ người khác hứng chịu là khổ, nên đồng thể khởi bi, tùy duyên thí pháp, thiện xảo hóa độ, hướng dẫn, khiến cho h giải thoát.

 

      * Hỏi: Kính nghe tiên sinh giảng diễn Phật Học Đại Nghĩa ba lượt, như bật tung cái nút chặn, nhưng dường như những lời ch dạy trước sau là những lời khải th chú trọng lư luận, phần nhiều tỉnh lược s tu hành về mặt Sự. Như tiên sinh đă dạy: “Thần thức là đại chướng ngại của Tánh. Khống chế duyên là pháp yếu căn bản để giải thoát biển khổ”. Nhưng tr kh thần thức ra sao và khống chế duyên như thế nào chính là ch mấu chốt lớn nhất trong s học Phật, tiên sinh có th dùng phương tiện đơn giản, thẳng chóng nhất để khai th những điều vừa nêu trên đây ḥng thỏa ḷng khát vọng hay không? (Ngô Nhậm Huy hỏi)

 

      Đáp: Giảng diễn lần này, k hèn này vốn có kế hoạch: Chia thành mười bốn phần nhỏ, trước hết là khơi gợi ḷng tin, sau đấy là hiểu Lư, kế đến là nêu lên pháp, tiếp đó là hành tŕ, rồi nói đến đường tắt (cách hành tŕ nhanh gọn), cuối cùng là ân cần khuyên lơn, ngơ hầu có th khiến cho k sơ cơ trong khi l hành cầm được bản đồ hướng dẫn, có th dựa vào đó để đi, chẳng đến nỗi đâm quàng lối rẽ, chẳng đến nỗi b ngỡ! Nếu vượt qua giai đoạn, nói tràn lan, s giống như chẳng làm đường mà c lái xe chạy bừa. Tôi đă có lời nói rơ, giảng lần này là nói v những điều thông thường. Nếu muốn có những cuộc tṛ chuyện đặc biệt th́ cũng có thể gặp g riêng để có thể dùi mài lẫn nhau!

 

      * Hỏi: Học tập Phật pháp như thế nào để thân tâm khỏe mạnh? Cổ nhân nói: “Sơn hữu ngọc thạch, thảo mộc bất điêu. Nhân hữu chí đạo, h́nh mạo bất suy” (Núi có ngọc thạch, c cây chẳng tàn tạ; người đạo tột cùng, diện mạo chẳng suy sụp). Lại nói: “Phú nhuận ốc, đức nhuận thân” (giàu th́ đẹp nhà, đức th́ đẹp người). Người học Phật nếu nhiều bệnh, suy yếu, làm sao có th phấn chấn, tinh tấn, đảm nhiệm trọng trách, đạt đến cao xa? Do vậy, xin c hăy ch dạy cách để khỏe mạnh, ít bệnh (phù hợp Phật pháp)! (Hoàng Thanh Vinh hỏi)

 

      Đáp: Bệnh tật, yếu ớt c nhiên thuộc v phú bẩm và hoàn cảnh; nhưng xét theo Phật th́ cũng có mối quan h nhân qu ba đời. Hiểu điều này, ch có cách chí tâm sám hối, đừng làm các điều ác nhằm dứt các tội duyên; vâng làm các điều lành, nhằm vun bồi phước nhân, khiến cho túc nghiệp chẳng có duyên nên không thể sanh khởi, có th chuyển biến những tạo tác. Đó là điều thứ nhất. Tiến hơn nữa là hiểu sâu Phật lư. Hăy nên biết: Thân Kiến đứng đầu trong Kiến Hoặc, Ngă Tướng chướng ngại Bồ Đề. Có hai th ấy, không ch là học Phật bị tr ngại, mà c̣n suốt ngày so đo pháp thế gian, nên cũng đánh mất khí tượng khoan ḥa, tâm chẳng khoáng đạt, do đâu mà khỏe mạnh cho được? Đó là điều th hai.

 

      * Hỏi: Đức Thế Tôn thuyết kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo trong cung rồng dưới đáy biển, thính chúng khi ấy là loài nào? Thế tục thường nói tứ hải long vương”, vậy th́ cung rồng cũng có bốn chỗ, đúng không? Hiện thời, trên mặt biển, tàu thuyền to lớn đi lại khắp nơi, thậm chí c̣n có những trận hải chiến v.v… [như vậy th́] gây tr ngại cho long cung hay chăng? (Châu Ấu hỏi)

 

      Đáp: Đức Thến thuyết pháp trong long cung, kinh đă nói rơ: Các loài thủy tộc đều nhóm lại nghe. C̣n như nói long cung có b tàu bè, hải chiến v.v… gây tr ngại hay chăng, có th nói là: Chẳng phải mất công lo nghĩ! Nói tới long vương th́ h là loài long thần có th biến hóa thông linh, chẳng phải là loài rồng thuộc giống động vật ngu xuẩn, ương bướng. Long cung cũng do phước báo biến hóa, chẳng phải là kiến trúc vật chất trong cơi người, nên chẳng b nhân loại gây tr ngại!

 

      * Hỏi: Tôi là Phật giáo đồ, thường muốn tới Phật đường để học Lư, nhưng chồng tôi thấy tôi thường ra ngoài, rất bất măn, đối với vấn đề nan giải này, nên làm như thế nào? Lại nữa, nếu Phật giáo là như nhau, v́ sao tiếng tán tụng của các chùa khác nhau? (Trương Tu Chứng hỏi)

 

      Đáp: Nhân sanh học Phật nhiều chướng ngại, cần phải có phương tiện thiện xảo, ch nên cố chấp. Nếu chân tâm học Phật, trong tâm bèn là đạo tràng, gia đ́nh cũng là đạo tràng, cần ǵ phải ra ngoài! Chính ḿnh trong pḥng, sáng tối một ḷ hương, niệm trăm ngàn câu Phật hiệu, ch xuất phát t ḷng chí thành, liền có thể đạt được lợi ích, dường như c̣n cảm thấy thanh tịnh hơn là đi lung tung, chuốc lấy tiếng th phi! Nếu chấp trước, v chồng căi cọ, khiến cho gia đ́nh bất an, đâm ra chuốc lấy tiếng hủy báng của người ngoài! C̣n như các chùa xướng tán bất đồng là do giọng nói Nam, Bắc, trong, ngoài nước [khác nhau], ch nội dung kinh điển không ǵ chẳng thống nhất. Hăy nên chú trọng thực tế, ch nên bới lông t́m vết b ngoài.

 

      * Hỏi: Vạn pháp đều do nhân duyên sanh, không ǵ chẳng phải là giả tướng, chẳng có pháp nào th́ có phải làduyên sanh tánh Không” hay chăng? (Liên Vân Ban hỏi)

      Đáp: Người học thông hiểu kinh tạng, nhưng nghiệp thức chưa rỗng không th́ mới nên quán điều ấy, v́ nó là Chân Thật Đế. Nếu đă đến mứcnghiệp thức chuyển thành trí, b́nh đẳng đại giác” th́ Tánh và Tướng chẳng hai, vạn pháp như nhau.

 

      * Hỏi: Phật giáo nói ba tâm chẳng thể được”; nếu gặp vui chẳng mừng, gặp kh chẳng lo, tâm ấy là tâm ǵ? Chúng tôi do cách xa, chẳng được nghe thầy dạy, nên chẳng hiểu rơ lư sâu! (Liên Vân Ban hỏi)

 

      Đáp: “Ba tâm chẳng thể được” hăy khoan không nói tới. Nếu có th thật sự gặp vui chẳng mừng, gặp kh chẳng lo; đó là chẳng khởi phân biệt, tâm ấy s dần dần hướng v b́nh đẳng. Nhưng đă nói là “gặp vui, gặp kh” tức là trong tâm đă khởi phân biệt, dùng pháp để tr khử, đè nén, chế ng s vui buồn; đó chính là đạo tâm “h t́nh dấy động bèn ngăn dứt bằng cách dùng l để nhẫn nại” vậy!

 

      * Hỏi: Trong truyện Hồng Lâu Mộng có nói: “Giả giả, chân chân, chân diệc giả. Chân chân, giả giả, giả diệc chân” (Gi giả, thật thật, thật cũng giả. Thật thật, gi giả, giả cũng thật). Hai câu ấy có l phù hợp “Không tức là Sắc, Sắc tức là Không”, có th dùng để quán Trung Đạo hay chăng? (Liên Vân Ban hỏi)

 

      Đáp: Tâm Kinh Bát Nhă ph biến khắp chốn, hai câu Sắc Không được đa s mọi người biết đến. Người viết b Hồng Lâu Mộng trộm ư ấy để viết thành câu, tuy phù hợp khít khao với ư nghĩa trong kinh và Tam Quán, nhưng s rằng là lời l của con vẹt học nói tiếng người, miệng có, tâm không!

 

      * Hỏi: Phật dùng từ bi nhiếp hóa quần mê, cho nên có các pháp. Nếu mê tr v ng th́ chẳng có một pháp nào để có th nói, bất quá ch là hết sạch phàm t́nh, ch chẳng có thánh giải nào khác, [đúng không]? (Liên Vân Ban hỏi)

 

      Đáp: Các vị thượng thiện nhân đă hiểu rơ “ch tận hết phàm t́nh, chẳng có thánh giải nào khác”, s t biết chúng sanh đang mê, nhưng Phật cũng chẳngpháp nào. Nếu Phật pháp, bèn là thánh giải. Bất quá là khế lư, khế cơ, có phương tiện thiện xảo bất tận mà thôi!

 

      * Hỏi: Trong Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục có chép: “Cầu cơ là tác dụng của linh quỷ, chúng nó xưng là vị Phật hay Bồ Tát nào đó [giáng đàn], toàn là giả mạo”, vậy th́ c sao qu vương chẳng quản thúc chúng nó chặt ch hơn? (Trần Đăng Phùng hỏi)

 

      Đáp: Những lời giáng cơ trong thiện đường[7] phần nhiều là khuyên người ta làm lành. Phàm phu ngu mê, trọn chẳng hiểu đạo, nghe biết thần linh chưởng quản, trừng phạt, s tin tưởng, kinh sợ, răn dè, nên cũng b ích đôi chút trong lúc thế gian trược ác, phong tục bạc bẽo, đó gọi là “thần đạo lập giáo”. Qu vương cũng là phàm phu trong lục đạo, chẳng hiểu đại đạo, thấy các linh qu chẳng làm chuyện ác, nên cũng chấp thuận, chẳng quản thúc chặt chẽ hơn!

 

      * Hỏi: Trong sách Phật Pháp Đạo Luận, cư sĩ Viên Tịnh nói: “Phật giáo là khơi gợi ḷng tin, chẳng phải là ép buộc phải tin”, tôi tán đồng điều này nhất, v́ c một mực ép người khác phải tin chỉ là t ḿnh mê muội mà thôi, nhưng khiến cho chính ḿnh khởi ḷng tin th́ như thế nào? Tôi cảm thấy phiền năo sâu xa v điều này! (Trần Hướng Phước hỏi)

 

      Đáp: Cổ nhân có câu: Cái nh́n của bậc anh hùng đại khái giống nhau”. Đối với lời ấy, hai trí b́nh đẳng th́ đôi bên mới có th hiểu nhau rơ rệt. Trí hu của Phật và ta khác biệt vời vợi, [phàm phu] chẳng tin lời Ngài th́ cũng chẳng có ǵ là lạ! Phương pháp để dấy khởi ḷng tin, phân biệt đại lược th́ có hai: Một là do tôn trọng người nào bèn tin lời người ấy; hai là xét theo lư, [thấy hoàn toàn hợp lư] bèn tin lời ấy. Đó đều gọi là chánh tín”, chẳng phải miễn cưỡng! Nếu chẳng tôn trọng người ấy, mà cũng chẳng xét theo Lư th́ c b mặc là được rồi, có ǵ mà phiền năo! Đă v́ chẳng th khởi tín, bèn sanh phiền năo, tức là coi trọng ngườiy, nhưng chẳng có cách nào tiến nhập. Con đường th nhất chẳng thông th́ ch có cách chọn con đường th hai. Nếu c hai đường lối đều chẳng s dụng, tức là kinh sợ, nghi hoặc, b chướng ngại vậy!

 

      * Hỏi: [Ngoại đạo hay Phật đạo] đều có thần thông th́ làm thế nào để phân biệt là Phật đạo hay là ngoại đạo? (Ngô Mậu Hùng hỏi)

 

      Đáp: Phân biệt đại lược th́ thần thông có sáu thứ, nhưng có th liễu sanh t th́ ch có Lậu Tận Thông, ngoại đạo chẳng có loại thần thông này! Những món thần thông kia tuy giống nhau, nhưng khởi tác dụng tà - chánh khác biệt, sức mạnh lớn hay nh cũng khác biệt, bậc trí s có th tự phân biệt!

 

      * Hỏi: Kinh Địa Tạng dạy: “Lúc Nhất Thiết T Thành Tựu Như Lai chưa xuất gia, đă phát nguyện sớm thành Phật đạo, rộng độ bọn tội nhân chẳng c̣n thừa sót”. Khi Địa Tạng Bồ Tát chưa xuất gia, đă phát nguyện: “Nếu trước hết chẳng độ kẻ tội khổ, khiến cho họ an lạc, đắc đạo Bồ Đề, tôi nguyện trọn chẳng thành Phật”. Hai nguyện trên đây đều hay, nhưng chẳng rơ nguyện nào thù thắng hơn? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Hai nguyện đều mong rộng độ k tội khổ, khiến cho h được an lạc. Xét v qu th́ tương đồng, chẳng có cao, thấp; ch có điều phương pháp của hai vị khác nhau. Do vậy, nên luận định v quả, chẳng cần luận định phương pháp. Như người dùng qu bầu bằng g đựng một cân nước, lại có người dùng qu bầu bằng vàng để chứa một cân nước; xin hỏi hai ngườiy ai đựng nhiều nước hơn?

 

      * Hỏi: Tam Bảo đệ tử mua nghiệp sản (ruộng nương), hoặc tham gia chánh trường, có phải là nhiễm Phiền Năo Trược càng sâu hơn hay không? (Lương Minh Tượng hỏi)

 

      Đáp: Tại gia đệ tử chẳng th không kiếm sống, nhưng phải gi cái tâm cân bằng, đừng mong chiếm tiện nghi của người khác, gi đúng bổn phận th́ cũng chẳng phải tham.

 

      * Hỏi: Có người đến hỏi: “Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng. Tăng nương theo Pháp để tu tŕ mà thành Phật; v́ thế, Pháp c̣n gọi là Phật Mẫu. Nhưng Pháp lại do Phật nói, chẳng biết thuở đầu th́ Phật trước hay là Pháp trước?Đệ t chẳng th đáp, xin thầy khai thị! (Lại Đống Lương hỏi)

     

      Đáp: Pháp là chân lư t nhiên trong vũ trụ, chẳng phải do bất c một ai soạn thành, chẳng qua là có người biết, có k chẳng hiểu, nên người giác ng trước [hóa độ] người giác ng sau mà thôi! Chân Như pháp giới có trước Phật, pháp để cầu giác ng có sau Phật. Nhưng mấy năm trước tôi đă từng nói đến vấn đề này, xin hăy kiểm lại [những s báo cũ] để tham khảo.

 

      * Hỏi: Châu T (Châu Hy) cho rằng: “Quỷ thần hai khí Âm và Dương qua lại, mở rộng ra hay rút gọn lại, hợp hay tán”; [Trương] Hoành C bảo: “Quỷ thần là lương năng của hai khí”; [Tŕnh] Y Xuyên nghĩ quỷ thần diệu dụng của trời đất, nhưng h đều bài xích thuyết lục đạo luân hồi của Phật giáo. Các ông ấy thấy Lư tinh xác, nhưng tôi thường thấy hai ông [Châu và Tŕnh] bài bác mạnh m nhất, v́ cớ ǵ mà nẩy sanh hai th Đoạn Kiến ấy? (Chung Quân Lương hỏi)

 

      Đáp: Các ông ấy nói quỷ thần hai khí Âm Dương, hoặc là diệu dụng của thiên địa”, chẳng giống như Tây học thuần chuộng duy vật, nên vẫn chẳng th nói h là Đoạn Kiến. Hỏi xem hai th khí Âm Dương ấy rốt cuộc là ǵ? Đă thừa nhận hai khí, bất quá danh t khác biệt mà thôi! Lại hỏidiệu dụng” là ǵ? Dụng ắt phải nương vào Thể, nên cũng danh từ sai khác, ch thật ra đều là công nhận có những chuyện ấy! Kinh sách Nho Gia chưa h nói “chẳng có qu thần”. Kinh Thi, kinh Dịch, truyện, sử đều có ghi chép, kiểm đọc s thấy rơ rành rành! Khổng Tử trọn chẳng nói là không [có qu thần], mà Tống Nho cũng chẳng nói! Đó là những lời l do các học phái đề ra, chẳng phải là cái học truyền thừa trong Nho Tông! Tuy các ông ấy đă từng đọc kinh Phật, nhưng đều không thấu hiểu tinh tường, lại c̣n ngoài mặt bài xích, trong tâm ngấm ngầm chấp nhận. [H nói những câu như] “tĩnh tọa, đàm tánh”, xét ra, học vấn và lời l của họ, đại loại là [vay mượn] t ng lục nhà Thiền, l là có nỗi kh tâm riêng, [h phải thốt ra những lời báng Phật] là v́ b nếp suy nghĩ thịnh hành thời ấy lung lạc đó chăng?

 

      * Hỏi: Ng cảnh (cảnh giới giải ngộ) của ông Vương Dương Minh rất cao, công phu đa phần đắc lực nơi Thiền Tông, tự mệnh danh là “dương Nho, âm Thích” (ngoài Nho, trong Phật), nhưng t đầu tới cuối vẫn gi thái độ bài xích Phật giáo. Có người nói:Do tông ch bất đồng, mục đích của Dương Minh là thân dân và ch ư chí thiện; một đằng ch trương dấn thân vào đời, một đằng chú trọng siêu thế”. Lời ấy có đúng hay không? (Chung Quân Lương hỏi)

 

      Đáp: Ai có chí nấy, chẳng cần phải giống hệt như nhau; ch cốt sao khiến cho con người khôi phục chân tánh th́ danh lẫn tướng đều thiện xảo. Huống chi ông ta đă lấy nghĩa lư nhà Phật thay cho danh ngôn trong đạo Nho, tức là dựa vào Nho để tuân hành s giáo hóa của Phật, [nhưng vẫn bài xích Phật, khác nào] k vẫn uống rượu mà kiêng nói tới rượu, tuy khoe là thánh hiền, kết qu vẫn b say mèm! Há có phải riêng ǵ những k ngoài Phật giáo là như thế, mà trong Phật môn cũng có hiện tượng ấy. Thiền và Tịnh đều do đức Phật nói, nhưng v sau, hai tông ấy gần như nước với lửa! Xét ra, tuy Thiền bài xích Tịnh, Tịnh há từng b tổn hại? Tịnh tuy bài xích Thiền, Thiền cũng chẳng b thương tổn! Lại xét thấy đức Thế Tôn có Ngũ Thừa thuyết pháp, có pháp liễu nghĩa và pháp bất liễu nghĩa. Bất liễu nghĩa qu thật là thang lầu hay bậc thềm dẫn tới liễu nghĩa, pháp dấn thân trong cơi đời cũng dẫn đường cho pháp siêu thế!

 

      * Hỏi: Sách Trung Dung nói Thành, Tống Nho chú trọng Kính, có khác biệt ǵ với “nhất tâm bất loạn” và “chế tâm nhất xứ” của Phật giáo hay không? (Chung Quân Lương hỏi)

 

      Đáp: là S hay Lư, đều có những điểm khác biệt và tương tự. Những th tương phản tột bậc vẫn có ch tương tự, như cuối mùa H là Dương, đến cuối cùng là Âm sanh, nên [cuối mùa Hạ] là Âm mà giống như Dương. Cuối Đông là Âm, nhưng đến cuối cùng Dương sanh, nên là Dương mà giống như Âm. Thành Kính đến tột bậc s có th đạt đến nhất tâm, mới tu nhất tâm th́ chẳng ĺa thành kính. Đó là “khác nhau mà chẳng khác, chẳng khác mà khác” vậy!

 

      * Hỏi: Châu T nói Lư và Khí có phải là nói dựa theo hai môn nhất tâm trong Khởi Tín Luận hay không? (Chung Quân Lương hỏi)

 

      Đáp: Điều này chẳng cần phải gượng ép cho thật phù hợp, mà cũng chẳng nên nhất loạt ph nhận. Có th tham khảo lời đáp cho câu hỏi trước [để hiểu rơ hơn]. Có những chuyện Giáp và Ất giống nhau, nhưng chẳng phải là Ất dựa vào Giáp để làm. Có chuyện Giáp và Ất mâu thuẫn, nhưng cũng chẳng phải là Ất làm ngược với Giáp. Người phương Đông khát bèn uống nước, người phương Tây khát cũng uống nước, tư tưởng và xu thế ngẫu nhiên ch giống nhau!

 

      * Hỏi: Tống Nho ngộ rất sâu, hành tŕ lại nhiều ch phù hợp với giới luật Phật giáo, nhưng chẳng tin vào thuyết hậu hữu. Nói theo Phật pháp, thân sau của h s rớt vào đường nào? (Chung Quân Lương hỏi)

 

      Đáp: Họ chẳng tin vào hậu hữu, nhưng tin tưởng tiền hữu! [Tống Nho] chú giải tánh Minh Đức đă nói: Nhân chi sở đắc hồ thiên, nhi hư linh bất muội ([tánh Minh Đức] của con người do bởi trời mà có, nhưng [tánh ấy] rỗng rang, linh diệu, chẳng mê tối), nên h cũng thật s tin có hậu hữu. Qu thần là một trong các th hậu hữu! Các v sáng lập Tống Nho đă tin vào hai khí, lại chú giải ch Thần trong câu “chí thành như thần” quỷ thần, qu thần đều là chuyện thuộc v hậu hữu của con người vậy! Đó gọi là giáp ngạn đào hoa tân vũ hậu, mă đề xứ tỵ tàn hồng” (tạnh mưa, khe núi hoa đào rụng, vó ngựa khôn ngăn giẫm xác hồng).

 

      * Hỏi: Bố thí “tam luân thể không chẳng chấp tướng. Mỗi khi làm thiện sự, có cần phải mỗi việc đều hồi hướng hay không? (Vương Thanh Hán hỏi)

 

      Đáp: Tam luân rỗng không hay chăng, được quyết định bởi tâm có ấn tượng hay chăng. Bọn ta cơ cầu tâm vô tướng, tuy biết Lư ấy, nhưng có th thật sự chẳng chấp tướng, trọn chẳng phải do công phu [tu tập] một ngày! Mỗi khi làm thiện sự, gi ư niệm hồi hướng th́ cũng là có tướng, sao lại bảo là Không? Nhưng hồi hướng chẳng v́ chính ḿnh, hồi hướng chúng sanh, cho nên cũng là một cách thiện xảo để dần dần ĺa ngă tướng. Chẳng cần biết là Không hay Bất Không, [hồi hướng cho chúng sanh] đă thù thắng hơn k ch v́ ḿnh rất nhiều!

 

      * Hỏi: Di Lặc Bồ Tát vị Bồ Tát đă chứng quả, v́ sao vẫn sống trong Đâu Suất Thiên là tầng trời th tư trong Dục Giới Thiên? (Hà Ngọc Trinh hỏi)

 

      Đáp: Trong các cơi trời thuộc tam giới, hai ch đặc biệt. Một là Ngũ Bất Hoàn trong Sắc Giới, hai là Đâu Suất Nội Viện trong Dục Giới. Hai ch ấy chẳng b Tam Tai, là ch tạm cư của thánh nhân. Bất Hoàn Thiên phần nhiều là tr x của bậc Thanh Văn, Duyên Giác giải thoát. Nội Viện hành cung[8] của v Phật sẽ giáng sanh Sa Bà, thật s chẳng giống với y báo của hàng phàm phu b nghiệp lôi kéo, chẳng được t tại.

 

      * Hỏi: Buổi trưa nay, văn bối nghe thấy trong làn điệu xướng tán Tam Bảo, tiết tấu, nhịp điệu rất giống với giọng ngâm thơ của ngoại giáo, lại c̣n dùng thêm âm nhạc của người Tây Phương (ngưng s dụng các nhạc khí vốn thường bày trước bàn Phật) để ḥa theo, nghe tán tụng đúng là chẳng khác ǵ giọng điệu ngâm thơ của ngoại giáo. Nhất là trong bài Quán Âm Tán, hoàn toàn chọn nhạc điệu bài hát Tô Vũ Chăn để xướng, đúng là chẳng nghe thấy có chút nào hơi hướng làn điệu xướng tụng c hữu của Phật giáo! Do vậy, văn bối hỏi ư một v cư sĩ: “S dụng cách xướng tụng như thế có nên hay không?”, ông ta qu ngược văn bối là “chấp trước”. Đúng là khiến cho văn bối càng mê loạn hơn! Do vậy, đặc biệt gởi thư này, cầu xin c dạy cho biếtPhật giáo chúng ta có nên s dụng làn điệu xướng tụng của ngoại giáo để biên soạn những bài tán xướng trước Phật hay không?(Tiêu Chí Dương hỏi)

     

      Đáp: Ngũ Trần vốn nhiễm, nhưng trong nhiễm cũng chia ra thanh và trược khác nhau. Nhiễm thanh th́ tâm bèn chuyển thành thanh, nhiễm trược th́ tâm bèn chuyển thành trược; nhưng thanh lẫn trược vốn chẳng thật, vọng đều do t́nh thức so lường mà có. Ca ngợi, tán thán trong Phật môn được gọi là Phạm Xướng v́ thanh điệu đều khác với nhạc thế tục, khiến cho người ta nghe có th dấy lên ư tưởng xuất thế, đấy cũng là phương tiện thuyết pháp bằng Thanh Trần. Nay dùng làn điệu của ngoại giáo và âm nhạc Tây Phương để ph nhạc [các bài tán tụng], nếu người nghe sanh khởi tâm tưởng thanh tịnh th́ s dụng chẳng tr ngại ǵ, [nếu như vậy th́] các th âm nhạc như Tây Phương vẫn là Phạm âm. Nhưng nếu nghe [những kiểu xướng tụng ấy] mà dấy ḷng chán ghét âm điệu của ngoại giáo và Tây Phương, tránh né, chẳng nghe, th́ âm điệu ngoại giáo và Tây Phương tr thành nhạc thế tục. Nghe nhạc ấy, tâm s b ô trược bởi thanh trần!

 

      * Hỏi: Chúng sanh là vốn có hay do duyên sanh? Nếu là vốn có th́ chẳng hợp với nguyên tắc “duyên sanh”. Nếu làduyên sanh” th́ trước đó, có chúng sanh tạo nghiệp hay không? Hay là cảm vời qu báo của nghiệp trước rồi mới thành chúng sanh? Nếu trước đó chính chúng sanh thanh tịnh th́ c ǵ tạo nghiệp? Nếu thuộc loại sau (tức là cảm vời qu báo của nghiệp rồi mới thành chúng sanh), do trước đó đă không có chính ḿnh th́ tạo nghiệp bằng cách nào? Há có phải là do nghiệp của k khác mà chúng ta cảm vời qu báo? Như vậy th́ quá oan uổng! Nếu là tự sanh, tha sanh, cộng sanh, duyên sanh, hóa ra chúng sanh b sáng tạo không ngừng! Dường như những thuyết ấy đều trật, chắc là b thầy qu là “thế gian kiến”, nhưng con b liên hữu hỏi, chẳng có cách nào giải đáp! (Thái Minh Cốc hỏi)

 

      Đáp: Những điều ông hỏi phần nhiều là do hiểu lầm. V́ thế, chẳng hiểu rơ giới tuyến, đến nỗi râu ông n cắm cằm bà kia. Nay tôi chia thành bốn đoạn để đáp!

      Một, [tr lời cho những nghi vấn t câu] chúng sanh vốn có” cho đến “cảm vời quả báo của nghiệp trước rồi mới thành chúng sanh”. Được gọi là “chúng sanh” chính là những ǵ do nhiều duyên tụ tập mà có sanh mạng. Vạn vật sanh thành đều thuộc v duyên, đây là quy luật chung, chứ không riêng ǵ con người như vậy! Nay nói đến con người th́ là Ngũ Uẩn, T Đại, mười hai nhân duyên v.v… tức nhiều duyên mà hợp thành con người. Cần phải biết: Chân Không chính là Diệu Hữu, tuy Diệu Hữu mà vẫn là Chân Không, nhưng cái Chân Không ấy nếu tĩnh th́ chẳng có ǵ sanh, nếu động th́ biến hiện vạn vật. H động bèn có chư hữu ḥa hợp lẫn nhau, nên sanh ra huyễn tướng. Cáiđộngấy chính là tạo tác, chẳng cần biết là thiện hay ác. Thức Uẩn của con người chính là do bổn tánh bất giác dấy động mà biến hiện ra. Sắc Uẩn là do tinh túy của cha m ḥa hợp hóa hiện. Thức và Sắc hợp lại th́ các duyên đều t tập. Đó là nói đại khái v giai đoạn đầu của chúng sanh, nên chẳng cần phải nói tới các nghiệp thiện, ác v.v…

      Hai là [tr lời những thắc mắc] trong đoạn nếu trước đó là chúng sanh thanh tịnh”. Chúng sanh đă do các duyên t tập mà biến hiện th́ Ngũ Ấm hừng hực, tức là chúng sanh chẳng thanh tịnh; v́ đă thanh tịnh th́ sẽ chẳng tr thành chúng sanh. Bởi lẽ, các duyên t tập chính là xen tạp, hỗn loạn, nhiễm bẩn. Chẳng tạp, chẳng nhiễm th́ mới là thanh tịnh. Ngũ Ấm hừng hực bèn phan duyên, tạo nghiệp. Từ đó, thiện - ác mới phân ra, nghiệp có thiện và ác, quả báo có lạc và khổ, đều là t làm, tự chịu, chẳng liên can đến ai khác!

      Ba là tr lời đoạn chúng sanh không ngừng bị sáng tạo”. Không có ai sáng tạo chúng sanh! Trong phần Duyên Sanh trên đây, tôi đă nói: Vô thỉ th́ bổn tánh vô tướng bất giác dấy động, nên hỗn hợp cùng chư hữu, kế đó là mê nhiễm càng sâu, nên điên đảo khó thoát khỏi lục đạo. Nếu có th tự giác, cầu khôi phục bổn tánh, trước hết là ngăn dứt s huân nhiễm, kế đó là cầu đoạn Hoặc, lặng dứt các duyên, c̣nchúng sanh nữa ư?

      Bốn là tr lời đoạn “liên hữu hỏi bèn chẳng có cách nào giải đáp”, này quá sâu, người chưa th đọc nhiều kinh Phật s khó th lănh hội. Dẫu có giảng cho họ, ch s h cũng chẳng nghe lọt tai!

 

      * Hỏi: Từ hơn hai ngàn năm trước, Thích Ca Thế Tôn ứng hóa trong thế giới này. Sau đó, chia thành bốn thời kỳ là Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp và Diệt Pháp. Trước khi đức Thế Tôn giáng sanh th́ gọi là thời k ǵ? Chúng sanh th nghe Phật pháp [trong thời k ấy] hay chăng? (Trương Khoan Tâm hỏi)

 

      Đáp: Mỗi v Phật xuất hiện th́ pháp của Ngài đều có bốn thời k ấy, không phải ch ḿnh đức Phật Thích Ca là như thế. Một thế giới trọn chẳng có hai đức Phật đồng thời, nhưng thời gian cách biệt giữa đức Phật này diệt độ và đức Phật kia xuất hiện phải lâu đến trăm ngàn vạn ức năm. Pháp vận của đức Phật trước cũng chia thành Chánh, Tượng, Mạt, Diệt, pháp vận của đức Phật sau cũng chia thành Chánh, Tượng, Mạt, Diệt. V́ thế biết: Sau Diệt là bắt đầu thời k Chánh, trước Chánh là Diệt. Dựa theo đó để suy đoán, trước khi đức Thích Ca giáng thế chính là thời k Diệt Pháp của đức Phật trước Ngài. Đă là thời Diệt Pháp, há có pháp để chúng sanh có th nghe ư?

 

      * Hỏi: Đao Lợi Thiêntầng trời th hai trong Dục Giới, có dục vọng nam nữ, ăn uống. Sau khi sanh ra đức Phật bảy ngày, phu nhân Ma Da liền thăng lên trời, chẳng biết Phật Mẫu sanh v thiên cung là thân nam t hay là thân thiên nữ? (Trương Khoan Tâm hỏi)

 

      Đáp: Tầng trời th hai tuy thuộc Dục Giới, nhưng trọn chẳng phải là [bất cứ ai] trong Dục Giới đều phải hành các dục, do trong cơi này có chuyện như vậy đó. Như ta sống trong Nam Diêm Phù Đề, chẳng phải Dục Giới ư? Nhưng bậc hành gi suốt đời thanh tịnh, há phải ch có ngàn vạn? Nhân gian là như vậy, nên cơi trời có th suy luận được! Phu nhân Ma Da, dịch [sang nghĩa tiếng Hán] là Đại Huyễn, các kinh nói Ngài là bậc đại quyền Pháp Thân, do đại nguyện bèn huyễn hiện làm m của một ngàn vị  Phật. Kinh chẳng nói thân tướng của Ngài trên trời Đao Lợi. Dẫu hiện nữ thân th́ cũng giống như Quán Âm ứng hóa, chẳng cần phải chấp trước theo phàm t́nh “nam là nam, n là nữ”!

 

      * Hỏi: Do b hoàn cảnh trước mắt buộc, tôi chẳng th th Ngũ Giới, nhưng muốn lợi dụng kỳ nghỉ hè để nghiên tụng (nghiên cứu ư nghĩa, đọc tụng kinh văn) kinh điển Tịnh Tông, chẳng biết có được hay không? (Lưu Tự Nhậm hỏi)

 

      Đáp: C nhiên người học Phật phải quy y th giới, nhưng trước hết hiểu Lư, sanh khởi tín tâm, sau đó mới làm chuyện ấy th́ gọi là “có căn”, chẳng đến nỗi trôi nổi Đông Tây. Lợi dụng dịp nghỉđể tụng đọc kinh văn, nghiên cứu ư nghĩa là đúng lúc, rất hay!

 

      * Hỏi: Nếu gặp ch khó đọc trong kinh, tra t điển thấy có nhiu cách đọc, có th chọn lấy cách đọc thông dụng nhất hay không? L vạn nhất đọc lầm thành quen th́ có tội hay không? (Lưu Tự Nhậm hỏi)

 

      Đáp: Những ch l trong kinh Phật có cách đọc khác với lối đọc thông thường, tr những ch dùng trong chân ngôn ra th́ cũng chẳng nhiều lắm! Trước hết, hăy nên tra cặn k cách phiên thiết [ghi chú âm đọc] trong t điển để chọn lấy cách đọc. Nếu vẫn nghi hoặc, th hỏi người học Phật đă lâu. Dẫu có đọc lầm, nhưng do đă trọn hết tấm ḷng t́m học, suy nghĩ, trọn chẳng giống như k hời hợt, qua loa, do tâm đă chí thành nên chẳng có lỗi lầm ǵ!

 

      * Hỏi: Tôi nghe nói: “Người phát tâm học Phật, trước hết hăy đọc kinh Phật, sau đó xem các tác phẩm luận giải là hợp l”, lời ấy đúng hay không? Hiện thời tôi có th thỉnh chú giải của ba b kinh trọng yếu trong Tịnh Tông [để xem trước] hay không? Cách nào là tốt nhất? Xin hăy nêu cặn k tên các tác gi nổi tiếng! (Lưu Tự Nhậm hỏi)

 

      Đáp: Nguyên tắc như thế, nhưng có ngoại lệ, như k sơ cơ xem kinh chẳng hiểu, trước hết hăy đọc những tập sách nh khái luận để làm phương tiện nhập môn. Đó cũng là pháp phương tiện. Ông hỏiba kinh trọng yếu” trong Tịnh Tông, có phải nói đến kinh A Di Đà, kinh Lượng Thọ, Quán Kinh hay không? Nếu đúng như thế, ba kinh ấy chẳng có hơn kém, đáng gọi là “lương dược để chữa bệnh”. Nhưng xét v s hành tŕ trong ba kinh ấy th́ kinh Di Đà đề xướng Tŕ Danh, Quán Kinh ch dạy quán tưởng, kinh Vô Lượng Thọ giảng v bổn tích của thế giới Tây Phương và lục độ vạn hạnh cùng nhân qu thiện ác. Người tu Tịnh hiện nay phần nhiều chọn cách Tŕ Danh; v́ thế, hăy nên đọc kinh A Di Đà trước tiên!

 

      * Hỏi: Phàm nhân hễ cầu Quán Thế Âm Bồ Tát, ắt Ngài cảm ứng. Cầu nơi ta, ứng thuộc nơi Ngài. Người cầu tuy khẩn thiết, nhưng cảm ứng có rơ rệt, ngấm ngầm, nhanh, chậm sai khác, nguyên do v́ đâu? Gần đây, tâm tôi hướng về Quán Âm Bồ Tát, xin trong mộng được Ngài dạy phương pháp nghiên cứu kinh, đă trọn chẳng được [như nguyện], mà đâm ra ban đêm khó ngủ, tâm lại c̣n mang nỗi kh bồi hồi. Tôi rất m mịt, xin hăy khai thị! (Lưu Tự Nhậm hỏi)

 

      Đáp: Mọi s h cầu nơi Phật, [tuân theo] nguyên tắc là “nếu có th chấp thuận, [Phật, Bồ Tát] bèn chấp thuận”. Nếu cầu mong chuyện trái lư, sai trái, sẽ chẳng có cảmng. Và cũng có trường hợp mong cầu đúng pháp th́ mới được hứa khả. Nếu chẳng tu tŕ cầu chứng quả th́ cũng chẳng có cảm ứng, v́ phải hợp với lư trí. Nếu không, ắt s tr thành quái đản! Phương pháp nghiên cứu kinh điển đều có đường lối. Trong nhà Phật ba th Văn, Tư, Tu. Nho gia có năm tầng cấp là “học rộng, hỏi han cặn kẽ, suy nghĩ cẩn thận, biện định rơ rệt, dốc sức hành tŕ”, sự lư rành rành, cần ǵ phải cầu mộng thấy? Khai ng hay không là do công phu!

 

      * Hỏi: Xưa kia có một ph n mang thai suốt ba năm, đợi thiền sư Viên Trạch đến làm con bà ta. V sau, thiền đúng là vừa trông thấy [bà ta] bèn chẳng thể tránh, không muốn làm con bà ta, nhưng chẳng có cách nào! Thượng Sư chùa Linh Ẩn c̣n biết phải văng sanh Tây Phương nếu chẳng muốn đầu thai. Trí của thiền sư Viên Trạch đă có th biết quá kh và v lai, do c nào mà trọn chẳng biết có th văng sanh Tây Phương vậy? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Sự đă chín muồi là do các duyên ḥa hợp, thời cơ đầy đủ. Các duyên tuy có, nhưng thời cơ chưa đủ, tức là vẫn chưa đạt đến ḥa hợp th́ S chẳng th thành. Thiền sư Viên Trạch gặp người n có mang, tức là thời cơ ngay trước mặt, đó gọi duyên ḥa hợp, nên chẳng th tránh né. [Trường hợp của] Vô Thượng [chùa Linh Ẩn] chỉ hoàn toàn là mộng cảnh, chẳng có các duyên khác ḥa hợp, thời cơ chưa hiện tiền, nên th chẳng nhập thai ngay! Thượng Sư chưa trông thấy ch đầu thai, đă nguyện cầu Tây Phương, nên có th nấn ná một thời gian kha khá để đổi sang tu Tịnh Độ. Sư Viên Trạch đă đối diện người đàn bà sắp sanh, mà đổi sang tu Tịnh Độ, th́ Tịnh Độ th thành tựu ngay trong lúc ấy hay không? Nếu tŕ hoăn tức là giết chết hai mạng! Huống chi, duyên phận giữa m và con đều có tiền căn, muốn tránh né cực khó! Đó gọi là định luật nhân quả. Lư Nguyên ép buộc, lôi kéo sư Viên Trạch đến đó, chính là do nghiệp duyên lôi dẫn.

 

      * Hỏi: Lại nữa, bà ta đă có thai ba năm, trong bào thai phải có thần thức th́ mới có thể sanh trưởng, mang thai mười tháng bèn tự nhiên có thể hạ sanh, cần ǵ phải đợi thần thức của Viên Trạch [đầu thai] để sanh nở? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Người phước đức và người nhân duyên đặc biệt th́ sẽ có chuyện chẳng trong thai mười tháng, s có [thần thức khác] do b những nhân khác chi phối đến đầu thai thay thế [tạm thời] trong thai ấy. Chuyện xưa [giống như vậy] rất nhiều, thiền sư Viên Trạch là một trường hợp!

 

      * Hỏi: Lại nữa, thiềnđă đoạt thai để sanh ra, đến nỗi thần thức vốn nương gá vào thai [trước đó] chẳng có ch nương tựa, khác nào b giết. C sao thiền sư đa s làm như vậy? Há chẳng phải phạm giớichẳng sát sanh” ư? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Thiền sư chẳng đến đoạt thai, mà là do tránh không được [nên phải đầu thai]. Trong câu tr lời trên đây, tôi đă nói là “thay thế”, ông hăy xem lại. Chủ nhân đă tới th́ người thay thế t đi; thai chưa chết sao lại nói là giết? Thần thức vốn trong thai do nghiệp duyên to nhiều, chưa đầy bốn mươi chín ngày bèn có ch để đầu thai. Nếu không có ch để nương vào tức chẳng c̣n sanh t nữa; chẳng đoạn Nh Hoặc, há có s tiện nghi ấy? Ông lại nói thiền sư v́ l ǵ mà đa s làm chuyện này? Chẳng phải là trong câu tr lời trước đó, tôi đă nói là “chẳng th tránh đượcư? Đă biết làmuốn tránh mà không được” th́ chẳng phải là vô duyên c mà đa s vậy!

      * Hỏi: Lại có người nói: “Người ta dâng cơm cúng Phật và Phật cho chó đói ăn, công đức chẳng khác nhau”. V́ sao nói như vậy? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Phật chó đói là sắc tướng bên ngoài; mắt phàm phu có s phân biệt ấy. Thấy chó đói bèn dấy ḷng bi là tướng nội tâm. Tâm Phật vô duyên từ bi, nhất loạt b́nh đẳng. Đă nói là b́nh đẳng th́ làm sao có sai khác cho được?

 

      * Hỏi: Nghe nói các v Bồ Tát thượng cầu hạ hóa bèn giáng sanh xuất hiện trong cơi đời, [như vậy th́] trong lúc chưa gặp minh, các Ngài vốn tự linh minh; hay do cầu minh sư ngộ đạo bèn khôi phục Bổn Giác? [Các Ngài đă khôi phục Bổn Giác] trước khi gặp thầy hay sau gặp thầy, kính xin hăy ch dạy! (Hoàng Mễ Điền hỏi)

 

      Đáp: Bồ Tát năm mươi hai địa vị, lại có Tạng, Thông, Biệt, Viên khác biệt, nói ra hết sức phức tạp, sợ là hàng sơ cơ chẳng d ǵ hiểu được! Nay tôi nói đơn giản, đại khái th́ chia ra công phu cạn hay sâu sai khác. Người công phu sâu xa nương nguyện ứng hóa, chẳng b mê khi cách ấm; sau khi đă giáng sanh bèn vốn t linh minh, bất quá thị hiện phải cầu thầy như đức Thích Ca xuất gia cầu đạo vậy. Người công phu cạn, tuy cũng nương theo nguyện, nhưng mê muội khi cách ấm, h gặp cơ duyên bèn có th giác chiếu, ắt phải gặp minh sư th́ mới có th đạt đến cực quả, như lịch đại tổ sư đi tham phỏng các nơi bèn đốn ng là do như vậy đó.

 

      * Hỏi: Thâu tiếng tụng kinh của tăng ni vào máy thâu âm để nghe th́ có công đức hay không? [Công đức của] k thâu, người phát, người tụng kinh là như thế nào? Xin hăy ch dạy! (Hoàng cư sĩ hỏi)

 

      Đáp: Được lợi ích hay không là do cảm tưởng trong tâm. Trong thế giới Cực Lạc, chim hót, cây khua, đều nghe thành tiếng diễn nói diệu pháp đạo phẩm, lọt vào tai bèn thể chứng đạo quả. Người công phu định lực sâu xa trong cơi này, nghe tiếng ồn ào nơi ch búa, hay tiếng nước chảy, cũng có thể khai ngộ. Tâm này gốc đạo, tiếng là trợ duyên. Những lời tụng niệm t máy thâu âm thù thắng hơn s trừu tượng của tiếng cây reo, chim hót, tiếng ồn ào nơi ch búa! Pháp âm in vào tâm, há chẳng có công đức? Nhưng cũng ch v́ có k nghe xong bèn ưa thích hoặc chán ghét [mà có công đức hay không], tùy thuộc tâm ngườiy cảm nhận như thế nào!

 

      * Hỏi: Thuở ấy, đức Phật thuyết pháp, vô lượng trời, rồng, qu thần đều đến tham d nghe pháp, mỗi loài đều hiện h́nh tướng của chính ḿnh. Hết thảy thính chúng khi ấy có đều trông thấy họ hay không? (Lâm Khán Trị hỏi)

 

      Đáp: Do mỗi loài đều dùng h́nh tướng vốn có của h để đến tham dự, những người thần thông trong thính chúng bèn có th trông thấy, ch người không có thần thông s chẳng thấy!

 

      * Hỏi: phải là thiên long bát b loài nào có ngôn ng riêng của loài nấy hay không? Đức Phật thuyết pháp th́ họ đều nghe hiểu hay chăng? (Lâm Khán Trị hỏi)

 

      Đáp: Tám b dùng tiếng nói của chính loài ḿnh để nói năng chuyện b́nh thường, trong đó cũng có kẻ có th nói tiếng của loài khác, nhưng bất luận loại ngôn ngữ nào, đức Phật đều nhất loạt thấu hiểu. Nếu không, [tức là Phật] chưa đoạn hết Trần Sa Hoặc, mà cũng chẳng thông thạo học vấn Thanh Minh! Đức Phật thốt ra lời nói vi diệu khó th nghĩ bàn. Ngài thuyết pháp cho chúng sanh, chẳng cần phải dùng ngôn ng của từng loài để nói, mà dùng một âm có thể biến thành nhiều thứ. Người nghe đều nghĩ đức Phật đang dùng ngôn ng của chính loài ḿnh, ai nấy đều có th hiểu. Kinh nói: “Phật dùng một âm để thuyết pháp, chúng sanh tùy loại đều được hiểu”.

 

      * Hỏi: Xin hăy giới thiệu quyển nào khá hay trong thư tịch lịch s Phật giáo nói v sự truyền nhập Phật giáo vào nước ta và s h́nh thành kế thừa của các tông phái. (Lưu Gia Phú hỏi)

 

      Đáp: Tường tận th́ có Phật Tổ Thống Kỷ, đại lược th́ có Phật Giáo Tam T Kinh. Muốn biết hạnh nghiệp của h th́ có các sách như Cao Tăng Truyện v.v...

 

      * Hỏi: địa phương X… hai chúng tại gia theo pháp sư học tập xướng niệm rất đông, loại tán thán Như Lai này công đức vô lượng, nhưng mạt học cho rằng chuyên chú trọng xướng niệm s khó liễu sanh tử, đối với k hậu học lại d sanh ngă mạn, tr thành t chướng ngại, lăo cư sĩ nghĩ như thế hay không? (Trại Mạnh Thu hỏi)

 

      Đáp: Pháp liễu sanh tử th́ một là đoạn Hoặc chứng Chân, hai là đới nghiệp văng sanh. Người hiểu điều ấy s phần, kẻ mê muội bèn chẳng có phần! Nếu chuyên theo đuổi xướng niệm, chẳng tương ứng với Giới, Định, Huệ, th́ chính là công đức hữu lậu. Nếu có th dùng phương pháp xướng niệm để đoạn Hoặc, hoặc đắc nhất tâm th́ s th liễu sanh tử. Nếu chẳng th th́ ch đạt được phước báo mà thôi!

 

      * Hỏi: một ḿnh trong núi, vào lúc ban đêm thanh vắng, thường có d loại xâm phạm, quấy nhiễu, tôi bèn niệm chú Đại Bi, ma tự rút lui. Nếu chẳng phải túc nghiệp khiến thành như thế, th́ là k đang trong nẻo kh cầu xin cứu bạt; mạt học bèn v́ họ đối trước Phật phát nguyện, thí kinh, niệm Phật, đốt s để khẩn cáo, qu nhiên không thấy h đến nữa. Tôi làm chuyện này có đúng pháp hay chăng? (Trại Mạnh Thu hỏi)

 

      Đáp: Phật pháp từ bi vốn v́ độ chúng sanh. Tuy có những pháp hàng phục, nhưng đều thuộc v phương tiện. Dẫu hành pháp hàng phục th́ vẫn thuộc v nhiếp thọ. Học nhân chúng ta hăy nên hiểu nghĩa ấy, bất luận gặp chuyện quái d nào, dù phải là túc nghiệp hay không, đều tụng niệm kinh chú, cầu Phật gia bị. Lại có th nghĩ tưởng làm chuyện cứu độ h th́ càng tốt lành hơn. S ng và s hành của cư sĩ rất đúng pháp!

 

      * Hỏi: Trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, khi đức Phật thăng lên trời Đao Lợi m thuyết pháp, chẳng thấy đôi bên hành l và đức Phật nói ǵ với mẹ? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Tựa đề kinh là ch đề của một bản kinh, nên có quy định bảy th l [để đặt tên kinh][9]. Kinh này lấy Địa Tạng bổn nguyện làm ch yếu, chẳng phải là kinh để đức Phật chuyên m thuyết pháp, nên chẳng chép những lời vấn đáp giữa đức Phật Phật mẫu, có ǵ đáng ngờ? Bất quá, đức Phật chẳng thuyết kinh này trong nhân gian mà trên Đao Lợi, ắt phải tường thuật nhân duyên v́ sao Ngài tới đó. Câu m đầu kinh là: “Ở cung trời Đao Lợi v́ mẹ thuyết pháp” ch là lời dẫn nhập tŕnh bày thời điểm và đại chúng, nói pháp nào th́ đều đă nói c rồi. [Trong kinh Địa Tạng], thính chúng đến d toàn là những người được ngài Địa Tạng hóa độ, nên những lời kinh văn tiếp theo câu đó chính là do pháp hội trước đă xong, lại có pháp hội kế tiếp [giảng v hạnh nguyện của ngài Địa Tạng]. Những ngôn ng lễ phép [trao đổi giữa hai m con] phải thuộc v hội trước.

      * Hỏi: Nhưng Phật mẫu thấy Phật cũng chẳng biểu l bất c t́nh cảm ǵ, mà cũng chẳng hỏi han đức Phật câu nào. Lại cũng chưa thấy đức Phật thuyết pháp ǵ cho mẹ. Có phải là kết tập b thiếu sót hay không? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Xin tham khảo câu tr lời th nhất, s có th hiểu rơ. Thật s chẳng phải là kết tập thiếu sót, chẳng cần phải rườm lời.

 

      * Hỏi: Hai ngục Vô Gián địa ngục và A Tỳ địa ngục là cùng một ngục, hay khác nhau? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Các kinh dịch [danh xưng] khác nhau. Có người dịch [hai ngục] là một, có người nói là hai. Kinh này (kinh Địa Tạng) dịch thành hai. Tuy nói là hai, nhưng c đức chú giải vẫn nói tuy hai mà một, mang ư nghĩa giống như trong một đ́nh viện lớn, lên ṭa nhà này bèn có gian pḥng ấy.

 

      * Hỏi: Kinh Địa Tạng chép: “Ngô dĩ Phật nhăn quán cố, do bất tận số” (ta dùng Phật nhăn để xem mà c̣n chẳng thấy trọn hết s lượng). Trời mưa bao nhiêu giọt đức Phật c̣n biết, v́ sao chẳng biết được s lượng đại chúng nhóm họp trong cung trời Đao Lợi? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Điều này có hai nghĩa: Một là đại chúng nhóm họp nhiều hơn s lượng mưa rơi tại một nơi nào đó, hai là v́ tán thán mà đức Phật nói lời khiêm tốn.

 

      * Hỏi: Cơ Long, tôi mua được một đồng tiền, trên đó có đúc bốn ch Thế Chí Bồ Tát. Nếu đồng tiền ấy là một đồng tiền thông dụng th́ giá tr lớn hay nhỏ? Được chế tạo vào triều đại nào? Thế Chí Bồ Tát nghĩa là ǵ? Có phải là có những đồng tiền khác được bán ra hay không? (Lư Đáo Thành hỏi)

 

      Đáp: Vật ông có được chẳng phải là tiền t được lưu hành chánh thức, mà là loại tiền để trấn yểm[10]. Tôi chẳng thấy chất liệu đồng và h́nh th ch đúc, nên chẳng dám quyết đoán niên đại, nhưng Phật giáo truyền vào Trung Quốc có lịch s để căn cứ. S chép vào thời Minh Đế nhà Hậu Hán, ch có tiền trong thời ấy được đúc bằng đồng tía. T sau thời Tùy - Đường, mới đổi sang đúc bằng đồng xanh; nhưng đến thời Tống Huy Tông, cũng từng dùng dạng ch Sấu Kim[11], tiền được đúc bằng đồng tía, nhưng thời gian ấy rất ngắn. Đại khái vật ấy nếu chẳng phải bằng đồng xanh th́ bất quá sớm nhất là đời Tống - Nguyên, tr nhất là thời Minh - Thanh.

 

      * Hỏi: Trong T Hoằng Th Nguyện, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”, cần phải đủ sức để độ chúng sanh th́ mới phát nguyện thành Phật. Đă nói là thượng th́ bất c đại nguyện nào cũng đều chẳng th sánh bằng. Nếu như vậy, tại sao Địa Tạng Bồ Tát chẳng phát nguyện thành Phật trước? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Phật giác hạnh viên măn; thệ nguyện độ hết chúng sanh chẳng phải là phát Phật nguyện th́ là ǵ? Bồ Tát sớm chứng Phật quả, cũng như Quán Âm thả chiếc bè Từ, mười lực đă trọn, t trọn đủ sức mạnh.

 

      * Hỏi: Phật nhập Niết Bàn nói Ngài tr v cơi Phật nào? (Vương Thanh Hán hỏi)

 

      Đáp: Nói phương tiện th́ là thế giới Hoa Nghiêm; nói chân thật th́ trọn khắp hư không đều là cơi của Ngài.

 

      * Hỏi: -lợi châu th́ có đủ để chứng tỏ [người đă mất] văng sanh Cực Lạc hay không? (Vương Thanh Hán hỏi)

 

      Đáp: Chuyện này không nhất định, tất nhiên đó là tướng tốt lành. Người tu Tịnh Độ văng sanh Cực Lạc, chứ người tu phương pháp khác sẽ có s thành tựu khác!

 

      * Hỏi: Nếukẻ tin sâu Phật pháp, tự biết chướng sâu, nghiệp nặng, căn khí kém cỏi, chậm lụt, khó thể độ chúng sanh, nhưng trong cuộc sống hằng ngày luôn gi tâm chánh trực, trong hết thảy mọi lúc đều niệm niệm chẳng ĺa A Di Đà Phật, mang hoằng nguyện độ vô biên chúng sanh, mong mỏi thừa nguyện tái lai, người như vậy kiến giải có chánh xác hay không? (Lư Liên Giai hỏi)

 

      Đáp: Niệm niệm A Di Đà Phật là tịnh niệm tiếp nối; mong tr lại độ chúng là phát tâm ước nguyện sẵn. Xét v tri kiến th́ vẫn là chánh đáng, bất quá tâm lượng chẳng lớn. Cổ nhân nói: “Chính ḿnh chưa độ, nguyện độ người khác trước, chính là Bồ Tát phát tâm”. Lại nói: “Chẳng biết bơi, vào nước chết ch́m, [người làm như vậy] chẳng hợp lẽ! Hai hạng ngườiy đều có lư, nhưng do căn tánh khế hợp điều này bèn hành điều này, khế hợp điều kia bèn hành điều kia. Nếu cầu hành giải tương ứng, chẳng độ chúng sanh th́ giải lực ít ỏi. Nếu luận v phước huệ song tu th́ chẳng độ chúng sanh ắt phước đức cũng ít ỏi!

 

      * Hỏi: Niệm Phật cầu sanh cơi Cực Lạc th́ có pháp để đắc hay chăng? Do Lục T Đàn Kinh có nói: “Phàm gọi là Thiền Tông th́ chẳng do độ thứ năm trong lục độ là tọa Thiền, bèn do độ thứ sáu tức Bát Nhă Ba La Mật”. Nếu chiếu theo cách như vậy, há [Thiền Tông] chẳng phải là tối thượng thừa ư? Nhưng đối với Tịnh Độ Tông th́ chùa miếu chỗ nào cũng đều là Tịnh Độ Tông, chẳng biết chùa miếu Thiền Tông được mấy chỗ? Thiền sư có mấy vị? (Diệp Đặc Hoa hỏi)

 

      Đáp: Pháp cầu sanh Cực Lạc vốn có nhiều thứ, nhưng ắt phải y giáo phụng hành. Nếu chẳng đúng pháp, s chẳng có hiệu qu ǵ! Kinh A Di Đà có pháp tŕ danh, Thập Lục Quán Kinh có quán tưởng, kinh Vô Lượng Th th́ có các pháp lục độ, vạn hạnh. Trong các pháp ấy, do tŕ danh khá d dàng, nên trước hết hăy nghiền ngẫm cuốn Tịnh Nghiệp Chỉ Nam và cuốn A Di Đà Kinh Bạch Thoại Giải của cư sĩ Hoàng Khánh Lan. Hăy xem đọc hai lượt, ắt biết được đường nẻo. Đàn Kinh Thiền Tông nếu không có thầy ch dạy, s chẳng th hiểu rơ. Hăy nên đợi sau này, đă hiểu giáo tướng đôi chút rồi lại bàn. C̣n như chùa Thiền bao nhiêu ngôi, Thiền sư bao nhiêu vị, thiên h to lớn, tôi chưa tra xét.

 

      * Hỏi: Tụng kinh trước Phật th́ thật ra, đối với kinh điển để đọc tụng ấy, trọn chẳng có ai nghe liền liễu giải. V nữa, người tụng kinh hoàn toàn chẳng biết diệu lư do đức Phật đă nói. C tụng kinh như vậy th́ có công đức hay chăng? Nếu người tụng kinh là Phật giáo đồ th́ [tụng kinh] có ích cho bản thân hay chăng? Có ích cho chúng sanh hay chăng? K ngu mê này nghĩ việc đó giống như xướng ca th́ có đúng hay không? Xin hăy ch dạy để giải tr nghi lự! (Diệp Đặc Hoa hỏi)

 

      Đáp: Nếu hiểu ư nghĩa kinh văn, bèn tụng đọc, tư duy lư ấy để cầu khai huệ. Chẳng hiểu ư nghĩa kinh văn th́ tụng để tập trung cái tâm tán loạn, nhằm cầu thành Định. Người có th làm như thế th́ ai mà chẳng có công đức. Tuy không người nghe, nhưng có thiên long bát b đến nghe. V nữa, tu đạo cốt yếu là chính ḿnh chứng hay không chứng, chẳng do có người nghe hay không! Nếu nói giống như ca hát th́ là loại người miệng tụng, tâm chẳng tụng. Hạng ngườiy tuy tâm không có đạo, nhưng do tụng kinh, nên khẩu nghiệp tốt lành.

 

      * Hỏi: Trước khi đức Phật trụ thế, chẳng biết có chúng sanh nào khai ng thành tựu Phật quả hay không? (Diệp Đặc Hoa hỏi)

     

      Đáp: Theo không gian th́ trọn hết mười phương, theo thời gian th́ tột cùng ba đời, v́ thế nói là “mười phương ba đời hết thảy chư Phật”. Hằng sa thế giới hằng sa chư Phật; trong kiếp s nhiều như bụi trần, bèn có chư Phật nhiều như bụi trần. Nếu hiểu điều này, xin hỏi là có th nói đức Phật nào là v Phật trước đức Phật đang trụ thế hay không?

 

      * Hỏi: Lúc mừng, giận, buồn, vui chưa dấy th́Không, là vô trụ. Trong lúc [những t́nh cảm ấy] dấy lên th́sanh tâm. Chuyện này có th hiểu là vô tr sanh tâm hay Chân Không Diệu Hữu được chăng? (Chung Quân Lương hỏi)

 

      Đáp: “Chưa phát là Không, vô trụ; đă phátsanh tâm”, giải thích như vậy cũng chẳng phải không được. Nhưng hai câu sau [trong lời hỏi] (tức “vô tr sanh tâm” và “Chân Không Diệu Hữu”) vẫn là hai nghĩa [khác biệt], nên chẳng cần phải gượng ép sao cho phù hợp với ư “phát” vàkhông phát”. Bởi lẽ, trụ sanh tâm là tùy duyên nhưng chẳng chấp tướng, Chân Không và Diệu Hữu là nói tướng của Sắc và Không là bất nhị.

 

      * Hỏi: “Chẳng chú tâm th́ thấy mà như chẳng thấy” giống và khác [với ư nghĩa] “nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng, liền thấy Như Lai” trong kinh Kim Cang như thế nào? (Chung Quân Lương hỏi)

 

      Đáp: Ư ch của kinh Kim Cang là “nhiếp Tướng quy Tánh, cũng tức là “phá vọng hiển chân”. Chân là Như Lai Pháp Thân, đạo trọng yếu để xuất thế. Hai câu “chẳng chú tâm ư nói làm chuyện ǵ, ư niệm ắt phải tập trung nơi chuyện ấy, ch nên tán loạn, rong ruổi. Dốc ḷng làm việc như thế th́ mới có thành tích, đó là dạy người ta niệm đâu, hăy nghĩ nơi đó. Dụng đă bất đồng, ư nghĩa t khác!

      * Hỏi: những k ch tin có thần, nhưng chẳng tin nhân quả. V́ thế, một mực b đỡ thần, làm ác bừa băi, thậm chí c̣n nói: “Nếu con người làm ác th́ qu thần c̣n phải s”. pháp dược ǵ để có th tr căn bệnh ấy? (Vương Chí Hiền hỏi)

 

      Đáp: Phàm phu tục tử chưa nghe đạo, lại chẳng đọc sách, chẳng tránh khỏi tà tri tà kiến. Loại bệnh ấy ắt có lương dược th́ mới có thể tr lành. “Lương dược” chính người học rộng, có biện tài. Vận dụng biện luận, cần phải khéo léo quan sát căn cơ để châm chước, đúng là chẳng có cách nhất định, tùy ứng biến, chẳng th suy tính thay được!

 

      * Hỏi: Quỷ thần có Tha Tâm Thông, nhưng c sao chúng ta biết pháp môn Tịnh Độ, bọn h chẳng biết? (Vương Chí Hiền hỏi)

 

      Đáp: H đắc Tha Tâm Thông, nhưng sức thần thông cũng có chừng hạn. H trí chẳng th biết thượng trí, thế gian trí chẳng thể biết xuất thế gian trí. Pháp môn Tịnh Độ môn dư đại đạo thích hợp khắp ba căn, chúng ta tuy học, nhưng thật ra cũng chưa hiểu. Qu được xếp vào tam đồ, càng tối tăm, mê muội, dẫu có tiểu thông th́ cũng chẳng thể thông hiểu đại đạo!

 

      * Hỏi: Phật giáo đồ ngộ đạo, đắc giải thoát, chẳng biết thân th và tướng mạo có biến đổi [khác biệt với] thân th của tục nhân hay không? Lại nữa, [sau khi hỏa thiêu], xá-lợi châu càng nhiều th́ đạo hạnh càng sâu phải không? Xin hăy tháo g s u mê! (Diệp Đặc Hoa hỏi)

 

      Đáp: Thân th tướng mạo thuộc v bên ngoài, người khác nh́n vào cũng chẳng thấy đặc thù; nhưng thần thái khí chất liền có yên tĩnh hay bộp chộp khác biệt. Lại nh́n k ngôn ngữ, hành động, thiện, ác, đạo, tục, càng thấy rơ s khác biệt. Anh hùng nhận biết anh hùng, đó gọi là “nhân yên sưu tai, nhân yên sưu tai”[12] (Ai giấu được ư? Ai giấu được ư?)

 

      * Hỏi: Kinh Duy Ma Cật nói: “Do nhân duyên, nên các pháp sanh, vô ngă, vô tạo, vô th giả”. Xin phiền c hăy chú giải hai câu trên đây! (Diệp Đặc Hoa hỏi)

 

      Đáp: Một b kinh lớn, ai có th nh k từng câu! Hỏi chuyện này, cần phải ch ra chương, phẩm, để nương theo đó kiểm lại, so sánh, đối chiếu với những câu kinh văn trước và sau đoạn đó rồi mới tr lời phù hợp! Nếu không, s tr thành hiểu theo mặt chữ. đây, do lười nhác, tôi ch đành giải thích theo từng câu. Câu trước nói đến s xuất sanh của vạn pháp, được gọi làkết quả”. Qu ấy do nguyên nhân trợ duyên mà thành. Câu kế tiếp nói v tướng của vạn pháp, đều do các duyên ḥa hợp có, các duyên ly tán mà diệt, trọn chẳng có ch thể tồn tại; nên nói là “vô ngă”. Đă do duyên hợp mà có, nên biết là trọn chẳng có người tạo tác. Đă là diệt mà chẳng có chủ, nên biết chẳng có người thọ. Nhưng ch nên hiểu lầm “vô th” (không nhận lănh), đừng bảo là những ǵ do phàm phu có thân th tạo tác s không có báo. Nếu cho là như vậy, sẽ trở thành “bài bác chẳng có nhân qu”, tội ấy to lớn. Tôi lại đặc biệt rườm lời nói thêm như sau:

1.    tạo bèn vô thọ, hữu tạo bèn hữu thọ.

2.    Tu đến Pháp Thân vô tướng th́ chẳng có s thọ.

 

      * Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát là nam nhân hay nữ nhân? Hơn nữa, Quán Thế Âm Bồ Tát cũng trong Tịnh Độ, A Di Đà Phật cũng trụ trong Tịnh Độ, Như Lai Phật cũng tr trong Tịnh Độ, chẳng biết v nào là Tịnh Độ chân thật? (Diệp Đặc Hoa hỏi)

 

      Đáp: Nói theo Thắng Nghĩa th́ chẳngtướng nam hay nữ. Luận theo Tục Đế, Quán Âm là nam tử. Nhưng thần tượng Quán Âm tóc dài, đeo anh lạc, tướng tại gia, đừng nghĩ Ngài là n nhân. Có khi tượng được tạng thuần là h́nh tượng người nữ, đó là do Ngài hóa thành thân n nhằm độ nữ nhân. Lại nữa, Báo Thân của Phật, Bồ Tát đều ng trong Tịnh Độ. Tịnh Độ to lớn, c̣n rộng hơn tam thiên đại thiên Sa Bà. Mỗi cơi Tịnh Độ đều có vô số thánh hiền ngụ, Di Đà Quán Âm cùng trong Cực Lạc th́ có ǵ l đâu?

 

       * Hỏi: Phật giáo đồ quy y Tam Bảo là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo, nhưng chẳng biết trong tương lai, chết đi, Tam Bảo s quy v đâu? (Diệp Đặc Hoa hỏi)

 

      Đáp: Tam Bảo thường tr bất diệt, không đến, không về. Hư không có diệt hay không? Tam Bảo cũng như thế đó!

 

      * Hỏi: Nghiệp lực của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, quả báo chẳng thể nghĩ bàn. Nghe nói người đă thành tựu Tịnh nghiệp, tuy thân chưa chết mà thần thức đă hiện trong Tịnh Độ. K ác nghiệp sâu nặng, người c̣n đang nằm bệnh mà thần thức đă b trừng phạt trong chốn u minh, mạng tuy chưa hết mà đă đi đầu thai. Chẳng biết Lư này là như thế nào? (Châu Hu Đức hỏi)

 

      Đáp: Tâm thần như biển cả, thân h́nh như một bọt nước. Nước động hay tĩnh, tĩnh là toàn b biển, động là vài bọt nước. Thần thức có phiêu du và gi lấy. Gi lấy th́ là một thân, phiêu du bèn có th hai chỗ.

 

      * Hỏi: Phật giáo đồ có tại gia và xuất gia, bất luận phân biệt hay không. Nếu tu đạo th́ chẳng biết là có phân biệt tại gia hay xuất gia hay không? Nếu là có phân biệt, chẳng biết Phật tánhphân biệt tại gia hay xuất gia hay chăng? (Diệp Đặc Hoa hỏi)

 

      Đáp: Phật tánh của hết thảy chúng sanh đều như nhau. Tánh tại gia và xuất gia há có hai? Người tu đạo là tu để tr khử cái nhiễm ô tánh, tức minh. Hiểu rơ chân tánh sẵn có th́ tu đạo cũng chẳng có hai. Nhưng Phật pháp có tám vạn bốn ngàn [pháp môn], có khó, có dễ, bất luận tại gia hay xuất gia, hăy nên chọn lấy pháp chính ḿnh th tu được để tu tập th́ mới d thành tựu!

 

      * Hỏi: Nghe nói người tiều phu n chuyển sanh làm Lương Vũ Đế, có chứng c ǵ hay chăng? (Châu Huệ Đức hỏi)

 

      Đáp: Ch có một đoạn công án được hậu hiền ghi chép mà thôi! Lịch s Trung Quốc ghi chép người X… là do [m mộng thấy] người Y… xuất hiện trong mộng mà sanh ra, hoặc tự nh đời trước là người nào, đều ch là do T Lượng mà suy đoán, chẳng th cầu chứng thực bằng Hiện Lượng.

 

      * Hỏi: Hiện thời, Phật giáo tại Đài Loan quá suy yếu, mọi người đều công nhận điều này. Có phải là v́ ph n chiếm đại đa s trong giới xuất gia mà ra hay không? (Đương thời, đức Phật phản đối n nhân xuất gia. Hơn nữa, trong hiện thời, n nhân xuất gia mà có thể khiến cho Phật giáo và quốc gia hưng thịnh rất ít). Hay là v́ người lănh đạo Phật giáo? Hoặc là v́ nguyên nhân nào khác? (Châu Di Quân hỏi)

 

      Đáp: Thời k Mạt Pháp th́ pháp chẳng hưng thịnh. Nhưng trong lúc mùa H nắng gắt, có mấy lượt gió mưa th́ cũng biến thành mát mẻ; mùa Đông rét buốt, nếu có mấy hôm trời quang đăng, cũng biến thành ấm áp. Đó là do khí cảm mà chuyển thành điều ḥa. Nắng gắt gắn máy lạnh, tiết rét buốt gắn máy sưởi th́ mùa H có th mát mẻ, mùa Đông có th ấm áp. Đó là s điều ḥa bởi sức người. Phật pháp tuy gặp lúc mạt vận, nhưng nếu tín đồ nhà Phật th tinh tấn cảm vời Chánh Pháp tr thế, Phật giáo s hưng thịnh. Lỗi chẳng phải do n chúng nhiều hay ít, hoặc do người lănh đạo chẳng tốt lành, mà do tín, giải, hành, chứng của mỗi người, hai đường chân và ngụy [phải nên hiểu rơ]! Trách người chẳng bằng trách ḿnh. Trách người khác ch mất công dẫn đến tranh chấp. Thật s làm th́ s có tác dụng xướng suất, hướng dẫn [người khác làm theo]. 

 

      * Hỏi: Kinh nói “người mê niệm Phật cầu cơi kia, kẻ ngộ bèn tự tịnh tâm ḿnh”, nhưng chúng ta khắp nơi đều là lớn tiếng niệm kinh Phật; như vậy là thuộc v mê hay ngộ? Hay là do có những mục đích khác mà tu tốt lành đằng miệng? Xin hăy giải tr ḷng nghi! (Châu Di Quân hỏi)

 

      Đáp: Ngài và tại h đều là k mê trong mê, chẳng được đến nửa phần trong vạn phần ngộ. Tại h chưa đoạn Hoặc, Ngài chưa nhập môn ch Ngộ, nên chẳng bàn được! Xin trước hết hăy chiếu theo lời đáp cho câu hỏi th ba để thực hiện. Nếu không, sai ch hào ly, lạc xa ngàn dặm, lầm lẫn to lớn!

 

      * Hỏi: Các chùa Phật các đoàn th tôn giáo thường hướng dẫn tín đồ tế bái vận mạng. Những tṛ bày vẽ như l bái Bắc Đẩu v.v… hết sức nhiều! Cách làm như vậy mang sắc thái ngoại giáo quá nhiều, kinh điển trọn chẳng ghi chép chuyện ấy. Đó là mê tín, trái nghịch Phật giáo, thuộc v đạo tà ác. Hội Phật giáo có quyền x lư ḥng cấm ngặt hay không? Hoặc có biện pháp kèm cặp, sửa đổi h hay không? Xin hăy ch dạy. (Châu Di Quân hỏi)

 

      Đáp: Những th như ông đă nói đều chẳng phải là những điều nên làm của Phật giáo đồ, nhưng h đă làm th́ đủ chứng t h chẳng tôn trọng chánh pháp. Chẳng phải là hội Phật giáo không khuyên h chấm dứt, nhưng thói quen tích t đă sâu, b ngoài tuân phụng, nhưng b trong chống trái, cũng ch đành để mặc h mà thôi!

 

      * Hỏi: Như Lai Phật cũng là Phật, A Di Đà cũng là Phật, chẳng biết vị nào lớn, v nào nhỏ? (Ngô Kính Nhân hỏi)

 

      Đáp: Đạo pháp và địa vị của các đức Phật đều giống như nhau, trọn chẳng có cao, thấp, lớn, nhỏ. Nếu chẳng hiểu rơ th́ hăy th nghĩ tới các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh v.v…, ngôi v hoàng đế của triều đại nào lớn, ngôi v hoàng đế của triều đại nào nhỏ, s hiểu rơ ngay!

 

      * Hỏi: Kinh Kim Cang nói đức Phật [Thích Ca] được bảy v Nhiên Đăng Phật th kư, chẳng biết bảy v Nhiên Đăng Phật có phải là chúng sanh khai ng trong đời trước, thành tựu qu Phật hay không? (Ngô Kính Nhân hỏi)

 

      Đáp: Chư Phật đều do chúng sanh tu thành, trọn chẳng có l nào trời sanh ra Phật, hay Phật t nhiên! Nhiên Đăng Cổ Phật cũng chẳng ra ngoài l ấy. Đó gọi làông tu ông đắc, bà tu bà đắc, chẳng tu chẳng đắc!

 

      * Hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát con gái th ba của vua Diệu Trang Vương, chẳng biết [chuyện ấy] có kinh điển nào [ghi chép] hay không? Lại có căn c ǵ để sưu khảo hay không? (Ngô Kính Nhân hỏi)

 

      Đáp: Đó là do những k chẳng hiểu Phật lư, chẳng đọc kinh Phật, t trong không đặt ra có, mù quáng bịa chuyện, trọn chẳng có giá tr ǵ để bàn luận!

 

      * Hỏi: Trong pháp môn Tịnh Độ, Phật hiệu rất nhiều, đấy có phải là những chúng sanh khai ng thành Phật quả trước đức Phật [Thích Ca Mâu Ni] hay không? (Ngô Kính Nhân hỏi)

 

      Đáp: Trước thời Phật Thích Ca, có vô ương s hằng sa chúng sanh thành Phật. Sau đức Phật Thích Ca, cũng có vô ương s hằng sa chúng sanh thành Phật. Truy lên trước bèn chẳng có ngằn hạn, truy v sau th́ vô cùng. Do chúng sanh đều có Phật Tánh, h tu th́ thành Phật, chẳng tu th́ vĩnh viễn là chúng sanh.

 

      * Hỏi: Kệ văn trong kinh luận nhà Phật, thông thường do v́ chuyện ǵ mà soạn ra? Có phải là giống như luật thơ Ngũ Ngôn, có quy cách và hạn chế v cách gieo vần nhất định? Nếu đọc tụng kinh luận nhà Phật, h có tâm đắc bèn soạn k văn để biểu l tâm ư th́ có được hay không? (Lưu Tự Nhậm hỏi)

 

      Đáp: Kệ tụng trong kinh vốn có nhiều loại, lúc để nhắc lại phần kinh văn trước đó, hoặc lúc nhằm b sung những ư chưa đủ trong kinh văn trước đó, đó là thông thường. Ngoài ra, cũng có th ch là kệ ngữ. Mỗi câu được hạn định bởi s chữ, không cần nhất định phải gieo vần. [Mỗi câu kệ có thể là] bốn chữ, năm chữ, cho đến sáu, bảy, tám ch khác nhau. Loại năm bảy ch th́ giống như thơ Cận Thể, những loại khác giống thơ C Th[13]. Những loại khác (như k phó chúc, k th tịch v.v…) th́ là một loại văn tự, trọn chẳng gọi là kinh. H có cảm tưởng th́ có thể múa ngọn bút để gởi gắm nỗi niềm!

 

      * Hỏi: Trong phẩm mười một, tức phẩm Địa Thần H Pháp của kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có nói: “Tôi thấy chúng sanh trong vị lai và hiện tại, ở nơi cư trụ, nhằm chỗ thanh khiết thuộc phương Nam, dùng đất, đá, tre, gỗ, làm thành cái khám thất, trong ấy có thể đắp, vẽ h́nh tượng Địa Tạng, cho đến chế bằng vàng, bạc, đồng, sắt… th́ chỗ ở của người ấy liền được mười thứ lợi ích. Xin hăy giải thích “khám thất” (龕室) là cái ǵ? (Lưu Tự Nhậm hỏi)

 

      Đáp: Trong điện đường của các chùa, thờ Phật ở chính giữa, có khi làm thành một gian pḥng nhỏ bằng gỗ bọc lấy tượng Phật, hoặc lộng gương, hoặc chỉ làm lan can, mái diềm, xếp cột [vây quanh]. Những thứ trang trí ấy được gọi là Khám Thất. Lại nữa, bài vị tổ tiên thờ trong nhà tại Đài Loan, phía ngoài có hộp gỗ bao bọc, [cách này] rất phổ biến, [hộp gỗ ấy] cũng được gọi là “thần khám” (神龕).

 

      * Hỏi: [Những điều được viết trong] cuốn Quán Thế Âm Truyện do Mạn Đà La Thất Ch Nhân trước tác có phải là những s tích chân thật? Nếu muốn nghiên cứu những s tích tu đạo, thành đạo, ứng hóa v.v… của Quán Thế Âm Bồ Tát th́ có sách nào để tham khảo? (Lưu Tự Nhậm hỏi)

 

      Đáp: Tôi chưa đọc sách ấy, nhất thời cũng chẳng kiểm được! Phẩm Ph Môn kinh Pháp Hoa có bản lưu hành riêng lẻ, các v đại sư như Đế Nhàn, T Châu, Viên Anh đều có chú giải. Trong ấy có nói đại lược v bổn tích của Quán Thế Âm Bồ Tát, nên có th tham khảo. Muốn biết s ứng hóa của Ngài th́ có sách Quán Âm Linh Cảm Lục tường thuật s tích rất nhiều. Sách vừa k trên đây Đài Trung rất hiếm, ông hăy th kiếm t các ch lưu thông [kinh sách] Đài Bắc. Nếu không có, ch có cách cậy người bên Hương Cảng kiếm giùm.

 

      * Hỏi: Cái học của bậc đại nhân trong Nho gia và s giác ng của bậc đại nhân trong Phật giáo, xét v căn bản là khác nhau hay giống nhau? (Trương Thụy Lương hỏi)

 

      Đáp: Cái học của bậc đại nhân trong Nho gia là “tại minh Minh Đức, tại tân dân”, nhà Phật tự giác, giác tha, giác hành viên măn”. Minh Đức t giác là một, tân dân và giác tha là một. Xét v Lư, hai nhà Nho và Phật chẳng có ǵ không giống nhau; xét theo S th́ không ǵ chẳng khác. Khác ch Phật là xuất thế gian, Nho là thế gian.

 

      * Hỏi: Chân Tục nh đế và Tam Đế viên dung của tông Thiên Thai có phải là lư luận h́nh thành do s phát triển tưởng hay không? Hay là cùng một Lư nhưng nói khác nhau? (Trương Thụy Lương hỏi)

 

      Đáp: Chân và Tục là nói chia ra; Tam Đế là hợp lại để nh́n. Tham khảo lời đáp trong câu th nhất, ắt có th suy ra.

 

      * Hỏi: Quan h giữa Giới, Định, Huệ Ch Quán tam-muội là ch nào? (Trương Thụy Lương hỏi)

 

      Đáp: Giới, Định, Huệ thành tích mong cầu, Ch Quán là phương pháp để tu.

 

      * Hỏi: sao các tông phán giáo[14] khác nhau? Có phải là về nguyên tắc th́ như nhau, nhưng s kiến mỗi tông mỗi khác đó chăng? (Trương Thụy Lương hỏi)

 

      Đáp: Nếu dựa theo thời k để luận th́ không ǵ chẳng giống nhau. Nếu xét theo bán tự, măn tự, tô, đề hồ… các thí d để luận th́ mỗi tông đều có điều đề cao riêng, chẳng khỏi có các phương tiện khác nhau!

 

      * Hỏi: Quan Công chưa từng chứng qu v ǵ, v́ sao phong ông ta làm thần h pháp? (Dương Trường Sơn hỏi)

 

      Đáp: Quan Công từng th giới nơi Trí Giả đại sư; do vậy, được người đời sau tôn xưng, chẳng phải là sắc phong, nhưng mỗi người đều có nhân duyên riêng. Chuyện đă ngàn năm, thần thức ông ta tu ra sao, chứng như thế nào, bọn phàm phu chúng ta chẳng biết!

 

      * Hỏi: Xét v căn bản, tầng bậc tu hành trong Phật pháp Nho, Đạo là giống nhau hay khác nhau? Ai cũng đều có thể làm Nghiêu, Thuấn, hoặc “người nào cũng đều thiện tánh” th́ có liên quan ǵ với “mỗi người đều có Phật tánh” hay chăng? (Trương Thụy Lương hỏi)

 

      Đáp: Phương pháp tu hành của ba nhà đều lấy thân tâm làm gốc, đó là ch tương đồng, nhưng tiền tŕnh và mục tiêu th́ mỗi nhà mỗi khác. Tuy vậy, cũng ch là nói theo h́nh thức biểu hiện, c̣n những chân lư được ẩn tàng trong ngôn thuyết của mỗi nhà đều chẳng th nói bằng vài ch được. Nho Đạo xuyên suốt nhân thiên, c̣n tông ch của nhà Phật siêu thế.

 

      * Hỏi: Phật học được truyền vào [Trung Hoa] thời Lục Triều[15]. Vào khoảng cuối đời Minh đổ lại, Tây Học xâm nhập Trung Thổ. Người trong nước xưa kia đă đạt thành tựu, nêu khuôn mẫu t xưa. Nếu văn hóa Trung Quốc và Tây Phương dung hợp, như Nho, Thích, Đạo hội hợp chẳng xen hở, thử hỏi t́nh h́nh hiện thời có tương t thời Ngụy - Tấn hay không? Một mặt, cần phải khai quật nền văn hóa vĩ đại của c Trung Quốc, mặt khác cần phải tăng cường phiên dịch văn hóa Tây Dương, dùng đó làm cầu bến, đợi đến sau này dung hội, xuyên suốt. Tôi nghĩ người thuở Lục Triều mê mẩn văn hóa Phật giáo Ấn Độ, do phiên dịch mà sáng lập phương cách [văn học, ngôn ng mới mẻ], cuối cùng [những điều ấy] được ḥa hợp viên dung trong h thống văn hóa Trung Quốc. Hiện thời, có nên cũng dùng phiên dịch để m ra đầu mối này, hay là có đường lối tốt hơn để theo đuổi? (Trương Thụy Lương hỏi)

 

      Đáp: Phật pháp vô lượng thệ nguyện học”, muôn S muôn Lư trong thế gian chẳng xưa, chẳng nay, không th ǵ chẳng phải là Phật pháp. Nếu có chuyện ǵ chẳng biết, bèn gọi là S Tri Chướng. Do vậy, muốn cầu Đại Giác, ắt phải đoạn Trần Sa Hoặc. Học vấn trong đại thiên thế giới c̣n phải đều trao đổi, huống ǵ Trung Hoa và Tây Phương. Dùng phiên dịch để m ra đầu mối c nhiên là hữu lư, nhưng bất quá cũng ch là giới thiệu mà thôi, c̣n như nghiên cứu, bắt tay vào thực hiện th́ rất có nhiều chuyện tồn tại!

 

      * Hỏi: Chư pháp do nhân duyên sanh, [vậy th́] Chân Như bổn tánh do nhân duyên nào sanh ra? Chúng sanh hữu hạn, đúng không? Nếu vô hạn th́ làm sao Bồ Tát th hóa độ cho đến khi chúng sanh giới rỗng không? (Dương Trường Sơn hỏi)

 

      Đáp: Chư pháp nhân duyên sanh”pháp phương tiện; Chân Như là pháp vi, làm sao có th dùng hữu vi để sanh ra vi? Kinh dạy: Chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, mà cũng chẳng phải là tự nhiên”,vốn chẳng phải là nhân duyên, chẳng phải tánh t nhiên”. Cổ đức đă nói kệ: Phi nhân duyên, phi tự nhiên, diệu trung chi diệu huyền trung huyền, sâm la vạn tượng quang trung hiện, tầm chi bất kiến hữu căn nguyên” (Chẳng phải nhân duyên, chẳng t nhiên, mầu nhiệm thêm mầu, huyền thêm huyền. Quang minh hiện bóng sâm la sự, t́m măi chẳng ra ch cội nguồn). Đối với vấn đề chúng sanh hữu hạn hay vô hạn, kinh dạy: Nhưng do chúng sanh giới cho đến phiền năo chẳng có cùng tận”, đó là chứng c chúng sanh vĩnh viễn chẳng th cùng tận. Bồ Tát bao nhiêu kiếp tùy thuận chúng sanh, hóa độ chúng sanh chưa h ngưng nghỉ. Kinh dạy: Chúng sanh giới tận, nhưng sự tùy thuận này của ta chẳng có cùng tận, niệm niệm tiếp nối chẳng gián đoạn, thân, ngữ, ư nghiệp chưa từng chán mệt!” tức là chúng sanh và Bồ Tát cả hai đều vô hạn.

 

      * Hỏi: Một người vừa mới qua đời th́ linh hồn đi v ch nào? (Quách Bang Quang hỏi)

 

      Đáp: Sau khi thân chúng sanh vừa chết, trước khi vào trong lục đạo th́ gọi là Trung Ấm Thân, bồng bềnh, trôi nổi, trọn chẳng có ch c định. Ngắn th́ mấy khắc, dài th́ bốn mươi chín ngày, bèn vào trong lục đạo. Nhưng trong giai đoạn Trung Ấm, người Thiên Nhăn có th thấy đầu, chân, người ấy đúng hướng, nằm ngang, hay đảo ngược v.v… nên cũng có thể đoán biết ngườiy s đầu thai trong đường nào! Bọn ta mắt phàm ch có th dựa trên b v nơi hơi ấm mất đi cuối cùng để đoán định. Đó gọi là bốn câu k “đảnh thánh, mắt thăng thiên v.v…” mà thôi.

 

      * Hỏi: Bất luận tại gia hoặc xuất gia, Phật tử đă quy y một v tỳ-kheo làm sư phụ th́ có th lại quy y một v tỳ-kheo-ni làm sư ph hay không? (Đông Cầm hỏi)

 

      Đáp: Quy y Tăng Bảo, hăy nên biết ư nghĩa của Tăng. Tăng là Chúng, tức đoàn th xuất gia. Quy y một v tỳ-kheo th́ v tỳ-kheoy là người đại diện Tăng Đoàn, người quy y [Tam Bảo] đă quy y hết thảy các v tỳ-kheo. Hiểu rơ điều này th́ biết: Sau khi quy y, chẳng phải ch là đệ t của một người, mà là đệ t của hết thảy tăng. Nếu do tùy thuận kết duyên mà quy y lại, ắt là đă giữa hai đằng có th và không thể. Nếu nói là nương theo v mới mà đoạn tuyệt v cũ, tối S sáng Tần, th́ sai trái quá lớn!

 

      * Hỏi: Phẩm Hạnh Nguyện nói: “Nói sám hối nghiệp chướng là… do tham, sân, si, phát ra thân, khẩu, ư”, v́ l ǵ dùng “khẩu” chẳng dùng “ngữ”. Lại nói: “Thân, ngữ, ư nghiệp chẳng có chán mệt”, c ǵ chẳng dùng Khẩu? Lại nói: Con xưa trót tạo các ác nghiệp, đều do vô th tham, sân, si, từ thân, ngữ, ư phát sanh ra”, sao phải dùng ch Ngữ? Có phải là phân biệt Thể, Tướng, Dụng hay không? Xin hăy ch dạy cặn k từng điều trong ba điều ấy! (Thái Vinh Hoa hỏi)

 

      Đáp: Ba th thân, khẩu, ư chính là công c tạo tác thiện ác nơi thân người. Khi thân không ngh ngơi, bèn hướng ra ngoài khởi lên hành động. Khi ư chẳng ngưng dứt, bèn khởi lên suy lường. Hai th công c này mỗi th ch có một loại tác dụng. Công c “khẩu có hai th tác dụng là ăn uống và ngôn ngữ, khác với thân và ư. Cái gọi là “bốn nghiệp nơi miệng” đều là dấy động ngôn ngữ, chẳng thuộc trong ăn uống. thế, trong cách hành văn, có ch nói đến công cụ, có ch nói đến nghiệp tạo tác. Nay trong lời hỏi v ch Khẩu th́ kinh văn có ba chỗ: Một là phần kinh văn m đầu, ắt phải nói đến công c trước, nhằm nói rơ nghiệp do nương vào công cụ mà dấy động, nói đến nguyên do. Hai ch kinh văn th hai và th ba đều nói đến s tạo nghiệp; v́ thế, dùng ch Ngữ, chẳng dùng ch Khẩu!

 

      * Hỏi: Tu hành đến Tứ Không Thiên trong Sắc Giới th́ đă không c̣n hiện tướng sắc thân vật chất ngăn ngại, nhưng c̣n có phân biệt tướng nam n hay không? (Đông Cầm hỏi)

 

      Đáp: Nói là nam hay n là do lấy sắc thân biến hiện để luận định, cơi T Không chẳng có sắc chất, thân tướng đều không có, làm sao có nam n cho được?

 

      * Hỏi: Hán Minh Đế mộng thấy người vàng, Phật giáo liền du nhập Trung Quốc. Có phải là người sống trước thời Hán Minh Đế chẳng có Phật pháp để nghe hay chăng? T Hán Minh Đế đến hiện tại ước chừng bao nhiêu năm? (Cố Phượng Anh hỏi)

 

      Đáp: Trước thời Hán Minh Đế có Phật pháp tuyên dương hay không, s chẳng ghi chép, chẳng tiện bàn suông! Nhưng trong triều đại nhà Châu, dưới đời Tần Mục Công và Yên Chiêu Vương đều có tượng Phật các tháp xuất hiện. Hán Vũ Đế[16] đánh nhau với dân tộc Hung Nô, cũng đoạt được tượng Phật, đem v cung th phụng, nhưng chẳng có kinh bổn. T Hán Minh Đế đến nay khoảng chừng hai ngàn l ba mươi năm.

 

      * Hỏi: Khi đức Phật giảng kinh, thuyết pháp, thiên long bát bộ đều đến nghe pháp, h pháp, nhưng đối với đạo tràng giảng kinh hiện thời, thiên long bát bộ đến h pháp hay không? (Trần Nguyệt Nga hỏi)

 

      Đáp: Chỉ cần đạo tràng thanh tịnh, luôn gi nghiêm túc, nương theo kinh để hiểu kinh, chẳng ĺa chánh nghĩa, một là v́ lợi sanh, hai là v́ cầu đạo. Hành đúng pháp th́ công đức mới chẳng luống uổng. Không ch  là thiên long bát b đến trước hộ pháp, Phật, Bồ Tát cũng đến gia bị.

 

      * Hỏi: Khi lịch đại cao tăng viên tịch, thường có vị tự phun tam-muội chân hỏa để đốt thân, chẳng biết tam-muội chân hỏa là như thế nào? Và cách phun ra sao? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Chuyện này ngẫu nhiên cũng có, chẳng phải chuyện thường xảy ra. Tam-muội là Chánh Định. Định có thủy hỏa các th khác nhau. Công phu Thiền Định này phun ra lửa. Cách phun như thế nào, phải tu theo th tự. Th t đă hoàn thành th́ h dùng đến bèn hiện. Định chẳng thành, s chẳng th hiện.

 

      * Hỏi: Phẩm Phổ Môn có câu: “Nếu muốn cầu con trai, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức, trí huệ”. Có người hỏi: Nếu n nhân cầu con, nhưng xét theo điều kiện sinh lư chẳng th mang thai, nhưng chính ḿnh không biết, mỗi ngày hy vọng Quán Thế Âm ban cho con th́ như vậy có thể cầu được hay không? (Lại Khoan Châu hỏi)

 

      Đáp: Vạn pháp do nhân duyên sanh, chưa đầy đủ điều kiện s chẳng th sanh, như thạch n[17] và bất nam[18] v.v… là do chưa đầy đủ nhân, nhưng vạn pháp như huyễn, đều chẳng chân thật. Thân T Đại, Ngũ Uẩn cũng là huyễn giả. Người có đại lực th́ cũng có th biến đổi, phải phối hợp với nghiệp lực th́ mới có th làm được! Sách c đă ghi chép nữ chuyển thành nam, người biến thành súc vật, k mù mắt lại sáng, người teo chân có th đứng dậy, đều là do l ấy. Huyễn thân của n nhân ắt phải thay đổi cái nhân rồi sau đấy mới nói tới những chuyện khác được!

 

       * Hỏi: Trước đây, trong bài văn của đại đức X… tôi có thấy viết: “Đức Thế Tôn ban đêm thấy sao Hôm bèn thành đạo v.v… Xin khai th v căn c và lai lịch của kinh điển [của chuyện ấy]. (Triệu Triết hỏi)

 

      Đáp: Chuyện này thấy chép trong kinh Phổ Diệu. Tôi kính cẩn dùng mấy lời để dâng hiến đại khái. Đạo học Phật có gi chuyên tinh giới luật, có y pháp tu tŕ, có cầu hiểu giáo nghĩa, có chuyên chú trọng khảo cứu. Tuy những cách ấy đều trọng yếu, nhưng người mới học ắt phải chọn lựa để tiến nhập. Tŕ luật là Giới, tu pháp là Định, hiểu nghĩa là Huệ. Khảo cứu là t́m ṭi đằng ngọn, nay chẳng t́m cái gốc trước th́ có đạt được cái ngọn cũng ích!

 

      * Hỏi: thường nhanh chóng, đường luân hồi nguy hiểm, mai sau m con chẳng tránh khỏi đi khác đường, nên trong tâm sợ hăi, thường viết “nghĩ muốn báo ân mẹ, chỉ có tu phạm hạnh” để khích l ư chí. Nếu đem công đức do con đă làm để hồi hướng cho thân mẫu trong hiện tại th́ m đạt được bao nhiêu lợi ích? (Lữu Mậu Thịnh hỏi)

 

      Đáp: Chuyện này chẳng cần phải trích dẫn kinh điển; phải biết là vạn pháp duy tâm. Mẹ con khí phận tương thông, [con cầu nguyện hồi hướng cho mẹ] s trỗi vượt người khác cầu đảo. Nếu cảm Phật lực gia bị, cũng có công lao chẳng thể nghĩ bàn! Nếu nay m chưa sanh vào đường khác, hăy làm ngay đi!

 

      * Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói khi đức Thích Ca Thế Tôn giảng đến đoạn cuối cùng th́ tôn gi A Nan và hết thảy đại chúng đều trông thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chẳng biết [đại chúng] khi ấy có th trông thấy bằng hu nhăn hay bằng mắt thịt? (A Ái hỏi)

 

      Đáp: Người đă chứng quả đắc thần thông dùng thiên nhăn hoặc hu nhăn để thấy, phàm phu dùng mắt thịt để thấyđược đức Phật gia bị.

 

      * Hỏi: Tôi trộm thấy Văn Thù Bồ Tát cưỡi tử, Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi trắng, Địa Tạng Bồ Tát cưỡi thú một sừng, tay cầm minh châu. Tôi là k sơ học, chẳng biết sư tử, voi và minh châu do chỗ nào mà đến? Rốt cuộc nhân duyên là như thế nào? (Hồ Thiệu Đức hỏi)

 

      Đáp: Tượng Địa Tạng do người Trung Quốc tạc chính là [h́nh tượng] của v thánh tăng Cao Ly đến Trung Quốc vào đời Đường, dắt theo một con chó trắng, trác tích núi Cửu Hoa tỉnh An Huy, từng hiển l thần thông, [nên đại chúng] biết Ngài là hóa thân của Địa Tạng. Sau khi Ngài diệt độ, bèn tạc tượng theo h́nh dáng đó. Thú một sừng chính là biến tướng của con chó trắng. C̣n như hỏi tay cầm minh châu và vật cưỡi của hai đức thánh Văn Thù Phổ Hiền đều đến t nơi đâu th́ cũng gần như là hư luận!

 

      * Hỏi: Có một bà c niệm Phật mấy chục năm, gần đây, lúc niệm Phật thấy rất nhiều con vật, s s b sanh vào súc sanh đạo. Lúc tôi mới học niệm Phật th́ cũng từng nh́n thấy. Đây do thức nào hiện? V́ sao có những đồng tu chẳng thấy hiện tượng đó? (Huệ Chi hỏi)

 

      Đáp: Trong thức th tám có chứa chủng tử, ngẫu nhiên dấy lên hiện hành. Thức thứ sáu thường luôn chuyển dịch, vọng niệm chẳng ngừng, nên có hiện tượng ấy. Nhưng “phàm tất cả các tướng đều là vọng”, nếu có th buông xuống vạn duyên, nhiếp trọn sáu căn, sẽ t nhiên chẳng thấy tướng ấy. Hăy nên biết vọng tướng là do có vọng niệm. Nếu đắc nhất tâm, há c̣n có vọng tướng!

 

      * Hỏi: Nay tôi đọc sách khóa tụng, thấy trong bài văn để v ch l đọc vào nước [sái tịnh] những câu như: Thủy bất tẩy thủy, diệu khế Pháp Thân; trần bất tẩy trần, phản tác tự kỷ, quyên trừ khí giới, đăng địch đàn tràng”, chẳng biết nên hiểu như thế nào? Lại chẳng biết do ư nghĩa nào mà hướng v nước nói [những câu] như thế? (Trương Tự Nghiêu hỏi)

 

      Đáp: Nước có th gột rửa các vật dơ bẩn, nhưng nước vốn tịnh, chẳng phải là do dùng nước [để] rửa nước mà sạch, nên nói: Thủy bất tẩy thủy” (Nước chẳng rửa nước). Nước ví như bổn tánh, tánh chính là Pháp Thân, Pháp Thân vốn tịnh, chẳng do tu mà thành, nên nói: Diệu khế Pháp Thân” (khế hợp khéo léo cùng Pháp Thân). Trần vốn là huyễn cảnh, tâm giống như nhiễm, mà trần là huyễn cảnh, chẳng phải do trần nhiễm bẩn, nên nói: “Trần bất nhiễm trần”. Phàm phu chẳng hiểu tự tâm, duyên theo bóng dáng của sáu trần, coi đó là tâm tướng của chính ḿnh, nên nói “phản tác tự kỷ” (ngược ngạo coi [bóng dáng của sáu trần] là chính ḿnh). Đấy là một th nghi thức tán sái nhằm tịnh hóa đàn tràng, nguyện sau khi rẩy nước xong, hết thảy thanh tịnh. Tướng vọng to lớn th́ khí thế giới là lớn nhất. Sau khi dùng nước gột rửa, vọng cảnh đều không, nên nói là “quyên trừ khí giới (tr sạch khí thế giới). Ư nghĩa chánh yếu là khiến cho đạo tràng thanh tịnh, do cậy vào pháp thủy này th́ mới được thành tựu, nên nói “đăng địch đàn tràng” (gột sạch rỗng rang đàn tràng) v.v...

      Phụ chú:

      1) Những điều trên đây đều là giải thích thô thiển, tôi nghĩ kẻ sơ cơ chẳng thể hiểu rơ; do hỏi, nên phải đáp thôi. Ch thật ra đối với người học, những điều này chẳng cần kíp, trọng yếu! Tuy phát xuất t khóa tụng, nhưng cũng chẳng phải là công khóa tụng niệm hằng ngày, nhất là bạch y tại gia s dụng [nghi thức] này rất ít!

      2) Những câu hỏi khác, ư hỏi thiếu rơ ràng, nên xin lượng th chẳng đáp!

 

      * Hỏi: Trung Ấm Thân là ǵ? (Thái Từ Tâm hỏi)

 

      Đáp: Khi thần thức rời khỏi thân Ngũ Uẩn hiện tại, chưa đầu thai vào ch th thân cho đời sau, trong khoảng ấy có h́nh dáng Ngũ Ấm nên gọi là Trung Ấm Thân!

 

      * Hỏi: Người sau khi đă chết bèn t Trung Ấm Thân trực tiếp đi đầu thai? Hay là phải trải qua Thập Điện Diêm Vương phán quyết rồi mới đầu thai? (Thái Từ Tâm hỏi)

 

      Đáp: Có Trung Ấm Thân hay không, chẳng nhất định! Hai hạng chúng sanh cực thiện và cực ác đều chẳng Trung Ấm. B thân này, nhập thân khác, những loại c̣n lại đều có [Trung Ấm Thân]. Thời gian mang thân Trung Ấm chẳng thuộc trong lục đạo. Nếu nói tới Diêm Vương thẩm phán th́ đó là trạng huống trong hai đường qu và địa ngục.

 

      * Hỏi: V́ sao cho đến nay Đài Loan vẫn chẳng có một Quán Âm Đường độc lập để bảo v đại chúng? phải là chẳng được phép thiết lập? Hay là không có ai đề nghị? (Thái Sùng Kỳ hỏi)

 

      Đáp: Chùa th Quán Âm làm Bổn Tôn rất nhiều, nhưng chẳng cần đều phải đặt tên là Quán Âm Đường. C̣n như nói độc lập, tiểu miếu th́ được, chùa lớn điện đường thờ nhiều vị Phật, Bồ Tát, thường chẳng phải ch là một vị. Tôn giáo chánh thức được pháp luật bảo vệ, nếu muốn th phụng một ḿnh Quán Âm, chẳng có ai ngăn trở!

 

      * Hỏi: Nếu từng khinh lờn Phật, phải làm như thế nào để hồi phục ư cung kính? (Thái Sùng Kỳ hỏi)

 

      Đáp: Đối trước Phật chí tâm sám hối, sau này chẳng tái phạm, tứckhôi phục lại tấm ḷng cung kính, chịu làm th́ không ǵ tốt lành bằng!

 

      * Hỏi: Chẳng đoạn gốc ái dục, khổ cũng lại sanh sôi”. Nhưng đă hứa yêu thương trước kia, nếu đoạn ái, há chẳng phải thất tín ư? (Thái Sùng Kỳ hỏi)

 

      Đáp:Đă nhận lời yêu thương, nếu đoạn ái s b thất tín”, tôi chẳng biếtái” trong lời hỏi là chuyện như thế nào? Nếu là tại gia nam nữ, trải qua cha mẹ, mai mối, th tục pháp luật để chánh thức kết hôn, đó chính là đại s trong luân lư con người, là l đương nhiên. Nếu làm chuyện sai quấy, nghịch lư, phạm pháp, h biết sai liền sửa, phải mau chóng chấm dứt. Tín là một trong các đức hạnh, ắt phải làm sao cho tín hợp với đức. Nếu trái nghịch nguyên tắc này, ắt tín chẳng có căn cội, tông chỉ. V́ thế, thánh nhân nói: “Ngôn bất tất tín, hành bất tất quả; duy nghĩa th tùng, kh tam phục tư ngôn(lời nói không luôn nhất định gi ch tín, việc làm không nhất định phải đạt kết quả, miễn sao hợp với đạo nghĩa là được, hăy nên suy đi nghĩ lại lời nói ấy). Nay nói tới nam n th́ đó ch là một loại trong các th Ái, đối với vật chất, tiền tài, rượu, thịt, đều nên quán như thế!

 

      * Hỏi: Hiện thời, thông thường những tượng Phật, Bồ Tát được v đều chẳng giống hệt như nhau, có nên th phụng pháp tướng được v đẹp đẽ hơn, ngơ hầu k khác [nh́n vào] s dấy ḷng cung kính? (Thái Sùng Kỳ hỏi)

 

      Đáp: Lẽ đương nhiên nên như thế.

 

      * Hỏi: Phật học chia thành mười tông, mỗi tông có s phân biệt và ư nghĩa như thế nào, mong hăy ch dạy. (Hoàng Vĩnh Lâm hỏi)

 

      Đáp: Phật pháp vô biên, nhiều môn phương tiện. Hoặc nói là Thiền, hoặc nói là Tịnh, hoặc nói là Luật, hoặc nói là Mật, hoặc diễn nói Tiểu Thừa, hoặc diễn nói Phương Đẳng. Mỗi tông phái đều có nghĩa lư, tông ch sâu xa, tinh vi, và mỗi tông cũng có thuật ng chuyên môn. Người sơ học đối với tông ch và thuật ng của một tông nào đó, s rằng nghe cũng chẳng thể liễu giải, huống h mười tông! Mong cư sĩ hăy tạm thời đọc k những tập sách nh được biếu tặng, nương theo th t để tấn nhập th́ s dần dần t biết.

 

      * Hỏi: Đao Lợi Thiên Chúa là Thích Đề, nhưng T Vương Thiên, Dạ Ma Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Thiên, giáo ch mỗi cơi trời là ai, và người trong thiên đạo kết hôn dùng phương thức nào? (Hoàng Vĩnh Lâm hỏi)

 

      Đáp: T Vương Thiên có các tên như Đa La Trá (Dhṛtarāṣṭra, Đề Đầu Lại Tra, Tŕ Quốc Thiên Vương) v.v… [những danh hiệu] này cũng bất quá chuyên nói v một đơn v thế giới Sa Bà này và trong một thời kỳ. Bởi lẽ, trong tam thiên đại thiên Sa Bà, chư thiên quá nhiều, Thiên Đế sanh tử cũng như hoa nở, hoa rụng, đều chẳng có cách nào ghi hết tên tuổi. Người hay biết ch có đức Phật, nhưng đức Phật chẳng nói cặn kẽ, ai có th biết được! Nếu đức Phật nói [chi tiết], s rằng [những điều Ngài đă nói] trong bốn mươi chín năm chỉ là tụng Thiêm Danh Bạ (sổ ghi danh hiệu), có lợi ích ǵ cho con người hay chăng? C̣n như ông hỏi phương thức kết hôn trên cơi trời, đó là hư luận. Xin hỏi trong châu Á Tế Á (Asia) này, phương thức kết hôn ra sao? Cư sĩ là người như vậy, xin hăy bảo cho tôi biết. Nếu nói phong tục ngàn dặm khác nhau, tục l trăm năm khác biệt, mỗi nơi mỗi khác, không cách nào bảo ban, tôi thưa: “Suy ra, phương thức kết hôn trên trời đương nhiên cũng giống như vậy!

 

      * Hỏi: Kiến thuộc loài nào [trong t sanh]? Nếu bọn chúng kết đoàn, kéo đội, ḅ đi nhịp nhàng, đột nhiên vạch giữa chúng một giới tuyến (dùng đầu ngón tay, hoặc que củi), chúng bèn chẳng dám tiến nữa, là do nguyên nhân nào? (Hoàng Vĩnh Lâm hỏi)

 

      Đáp: Kiến là loài noăn sanh trong súc sanh đạo. Tuyến đường đi của chúng được vạch ra do chúng đă tiết ra một chất dịch. Loài trùng này khứu giác rất nhạy; v́ thế, có th đi theo đúng [tuyến đường do những con đi trước đă vạch ra]. Ông dùng ngón tay cắt đứt tuyến đường của chúng, chúng nó s tiền đội đă đứt liên lạc, s đi lạc đường, nên chẳng tiến nữa. Câu hỏi này đă vượt ra ngoài phạm vi của cột báo này, ch dung thông một lần [nên mới tr lời].

 

      * Hỏi: Kinh Địa Tạng dạy: “Có hai quốc vương kết bạn, do dân chúng làm nhiều điều ác, hai vua bàn bạc, rộng lập phương tiện. Một vua phát nguyện sớm thành Phật đạo để độ bọn họ chẳng thừa sót. Một vua phát nguyện, nếu trước hết, không độ kẻ tội khổ, khiến cho họ an lạc, đắc quả Bồ Tát, tôi trọn chẳng nguyện thành Phật. Đức Phật bảo Định Tự Tại Vương Bồ Tát, một vua phát nguyện sớm thành Phật đạo chính là Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai; một vua phát nguyện vĩnh viễn độ chúng sanh tội khổ, chẳng nguyện thành Phật chính là Địa Tạng Bồ Tát”. Chẳng biết trong lúc tu nhân, hai v vua ấy ai là Đại Thừa, ai là Tiểu Thừa? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Phát nguyện “sớm thành Phật đạo, sẽ độ bọn họ chẳng thừa sót”, thành Phật độ chúng sanh, chẳng phải Đại Thừa th́ là ǵ? “Nếu trước hết không độ kẻ tội khổ, khiến cho họ an lạc, đắc quả Bồ Tát, tôi trọn chẳng nguyện thành Phật”, bỏ ḿnh v́ người khác, chẳng phải là Đại Thừa th́ là ǵ? Hăy nên biết: Thương xót chúng sanh, [mục đích] trọn chẳng khác biệt, nhưng phương tiện thiện xảo th́ mỗi người khác biệt. Đă là độ chúng sanh, há có Tiểu Thừa?

 

      * Hỏi: Tâm tưởngta chúng sanh chẳng hai”, chúng sanh khổ là ta khổ, chúng sanh vui là ta vui, nguyện thay cho chúng sanh chịu vô lượng khổ, thay cho chúng sanh cầu lượng lạc, bất luận nghịch cảnh nào cũng chẳng tránh né, bất luận đau kh ǵ cũng chẳng sợ, chuyên lấy chuyện độ sanh làm niềm vui, phục v chúng sanh điều kiện, người như vậy có phải là phát Bồ Đề tâm chân thật hay không? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Đáng gọi là chân thật phát Bồ Đề tâm.

 

      * Hỏi: Vạn pháp do nhân duyên sanh; tôi cảm thấy sanh mạng vốn không khởi đầu, không kết thúc, cuộc đời này chỉ là một đoạn tiểu nhân duyên trong đại sanh mạng mà thôi! Khi có thân này, chẳng coi là sanh; khi thân này diệt, chẳng k là tử. Lại cảm thấy vạn sự đều chẳng ĺa nhân quả, đúng là “không có vui để cầu, cũng chẳng có kh để né tránh”, ch nhất tâm niệm Phật. Đó có phải là phương pháp Thiền Tịnh Song Tu hay không? (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Đấy vẫnhiểu Bát Nhă mà tu Tịnh Độ. Phương pháp Thiền Tịnh Song Tu, trước kia tôi đă nói đại lược rồi!

 

      * Hỏi: Nếu Bồ Tát tuy chí độ sanh, nhưng công phu chưa đạt, trí huệ chưa khai, không chỉ chẳng thể độ người khác, c̣n lo b thoái lui nhiều lần. H đánh mất thân người, vạn kiếp khó có lại được, chẳng thà tạm thời tự tu, để mong thành tựu trong đời này, nương theo nguyện tr lại, cảm thấy ổn thỏa hơn. [Mặt khác], có những người tâm độ sanh thiết tha, mạnh m chẳng tiếc thân, tuy cùng ch́m đắm với chúng sanh mà vẫn chẳng tiếc nuối. So giữa hai hạng ngườiy th́ như thế nào? Xin thầy hăy khai thị! (Lại Đống Lương hỏi)

 

      Đáp: Hai hạng ngườiy đều là tâm nguyện Bồ Đề, do chí thú bất đồng, chẳng thể cưỡng chia hơn, kém được! Hạng người trước được gọi là Bồ Đề tâm, hạng người sau là Bồ Đề hạnh. Đúng như trong câu hỏi th nhất, hai vua phát nguyện, mỗi vua đều đạt đến tột bậc. Tâm cùng v́ chúng sanh, nhưng cách thực hiện có chút sai khác!

 

      * Hỏi: Tám vạn bốn ngàn pháp môn của Phật giáo bao quát trong các tông của Phật giáo hay không? phải là mỗi tông đều tương ứng với danh xưng, người học Phật nên chọn lấy một tông để hành theo, hay là đều cần phải tham học trọn hết? Lại nữa, tám vạn bốn ngàn phiền năo của chúng sanh có phải là mỗi th đều trọn đủ, hay là có cao, thấp, sâu, cạn? Lại nữa, tám vạn bốn ngàn pháp nhằm đối tr các phiền năo của chúng sanh lập ra; nếu pháp môn tu tập của người nào đó chẳng thích hợp đối tr phiền năo (như cần có áo, mà lại cầu được gạo!) th́ có phải là đạt được, nhưng chẳng dùng được? Như vậy th́ một pháp môn nhằm tr một loại phiền năo, có cần phải tách ra hay không? (Lư Ngọc Nam hỏi)

 

      Đáp: Nếu sao lục để liệt kê danh xưng củatám vạn bốn ngàn [pháp môn]” th́ cột báo này làm sao có th chứa hết được! Tám vạn bốn ngàn pháp môn nhằm đối tr tám vạn bốn ngàn phiền năo; pháp môn là thuốc, phiền năo là bệnh. Nếu chẳng có bệnh ấy th́ cũng chẳngthuốc ấy. Phiền năo nhiều đến tám vạn bốn ngàn, cũng là do mười điều ác nơi thân, khẩu, ư, thêm vào, nhân lên, mà thành ra con s vi tế ấy[19]. Pháp là thuốc, nên theo lư cũng phải nhiều như vậy! Hạng phàm phu sát đất trọn đủ tám vạn bốn ngàn [phiền năo], cao, thấp, sâu, cạn, đích xác là bất đồng. Chọn pháp để đối trị, cốt yếu là chọn lấy pháp trọng yếu. Trí Độ Luận viết: Bát Nhă Ba La Mật có thể trừ tám vạn bốn ngàn bệnh căn bản”. Kinh dạy: “Một câu A Di Đà Phật có thể tiêu trừ trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”. Cổ đức nói: A Di Đà Phật là thuốc A G Đà. Người biết điều này bèn đáng gọi làđă đạt được ch trọng yếu”.

 

      * Hỏi: [Danh xưng] Tây Phương Tam Thánh có phải là ch A Di Đà Phật, và hai v Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí? Lại nữa, v hậu b của A Di Đà Phật hai v Bồ Tát Quán Âm và Thế Chí, khi nào các Ngài s tiếp nhận quyền chưởng quản? Sau khi giao lại thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật sẽ đi v đâu? Sau khi nhập Niết Bàn, Bổn Sư Thích Ca Phật nay đang tr trong cơi Phật nào? Phật Di Lặc trong tương lai [giáng sanh] thế giới Sa Bà, nay đang tr trong cơi Phật nào? Nay các Ngài đang thuyết pháp độ chúng hay là đang nghỉ ngơi? Kinh Phật ghi chép, giảng giải v Pháp Thân, Ứng Thân, và Báo Thân hay không? (Lư Ngọc Nam hỏi)

 

      Đáp: Câu hỏi này v đại ư gồm hai điều:

      - Một, A Di Đà Phật thoái vị s đi v đâu? không thế giới vô tận, Ngài s đến nơi hữu duyên để hóa độ.

      - Hai, Phật Thích Ca Phật Di Lặc nay đang cơi nào? Kinh dạy đức Phật Thích Ca ứng hiện trong Sa đă hơn tám ngàn lần. Nghĩ tưởng đại nguyện của đức Thế Tôn, chắc Ngài phải trọn khắp trong cơi Sa Bà. Ngài Di Lặc hiện trụ trong trời Đâu Suất, chẳng hề nghỉ ngơi.

 

      * Hỏi: Lăo cư sĩ có kế hoạch tập hợp những câu hỏi đă được nêu ra và lời giải đáp, biên soạn rồi ấn hành thành sách Thường Thức Vấn Đáp (để tránh hỏi đáp trùng lặp), cũng như ch dạy sẵn những nghi vấn liên quan đến Phật giáo để học nhân t ng chẳng khó khăn! (Lư Ngọc Nam hỏi)

 

      Đáp: Vốn đă có b Phật Học Vấn Đáp Loại Biên, nhưng người ta chẳng chịu xem, nên hỏi đáp chẳng tránh khỏi trùng lặp. C̣n như nói “ch dạy sẵn những điều nghi ngờ, vấn nạn, tại h là phàm phu sát đất, làm sao có th biết trước nỗi nghi của người khác? Ông lại nói: “Để học nhân tự ngộ khỏi khó khăn”, lời này rất lạ! Ng là do t tâm, trọn chẳng do k khác. Xin th nghĩ: Ai nấy m mắt, mỗi người tự thấy, há có l nào chính ḿnh muốn thấy mà phải nh vào mắt người khác hay chăng?

 

      * Hỏi: Nay đang nhằm thời k Mạt Pháp, căn tánh chúng sanh ngu muội, kém hèn, chẳng tin Tam Bảo, đức Phật đă sớm biết t hơn hai ngàn năm trước, nhưng theo như k ngu này thấy: Tuy chúng sanh căn tánh kém hèn là một nguyên nhân, nhưng n lực của người truyền pháp (k c hàng sĩ) s rằng cũng là một nguyên nhân (tôi chẳng phải là có ư phê b́nh Tăng Bảo), lại s ư nguyệntự độ, độ ngườicũng chẳng tha thiết (như công tác tuyên truyền, khuyến hóa trong các tôn giáo khác đích xác là triệt để hơn Phật giáo. Có phải là Phật yếu, ma mạnh? Xưa kia, lăo pháp sư T Hàng đề xướng nhân gian Tịnh Độ và nhấn mạnh Phật giáo trong nhân gian là có nguyên do vậy). Th xem tại Đài Loan hiện thời, các tôn giáo như Thiên Chúa, Gia Tô v.v… truyền đạo khắp nơi (tạm gọi là đạo), lập giáo đường, xuất bản báo chí, in truyền đơn v.v… (không ch ấn loát tinh vi, đẹp đẽ, mà c̣n t động miễn phí gởi đến tận cửa), không ǵ chẳng tích cực triệt để. Đương nhiên là bọn h tu đến mức công thành nguyện măn, tối đa là sanh lên Thiên Đường, nói theo phương diện thâu hoạch, há dám sánh bằng Phật giáo, nhưng tinh thần truyền giáo của tín đồ bọn họ, qu thật [Phật tử chúng ta] chẳng sánh bằng! Nhưng điều đau đớn, tiếc nuối là do căn tánh của chúng sanh ngu muội, kém cỏi, hèn ác đến nỗi vô phước, vô duyên thân cận bậc đại đức trong Phật giáo (K ngu này nh đă từng bái phỏng một v sư phụ, nhưng nghe thấy ngôn hạnh của v ấy, rốt cuộc chẳng dám thân cận). Dẫu có [bậc thiện tri thức] th́ những v nhân sĩ thượng thượng thiện căn cũng cực ít! V́ thế, mong mỏi những v nhân sĩ đức cao vọng trọng trong giới Phật giáo đừng tiếc công sức, nỗ lực thực hiện công tác tuyên dương Phật giáo nhiều hơn, nhất là những v đang đảm đương trách nhiệm hoằng dương Phật giáo (như hội Phật giáo), càng phải làm công tác độ tha nhiều hơn, cũng như mong mỏi s có những thành tích ưu tú, l lùng cống hiến cho xă hội, ḥng báo cáo với mỗi giáo đồ, h trợ, khích l lẫn nhau, cùng n lực chấn hưng Phật giáo. Lại xin hỏi lăo cư sĩ: Hiện thời, tại Đài Loan có bao nhiêu loại báo chí liên quan đến Phật giáo? Kinh phí làm báo do người ta t lo liệu, ngưng xuất bản hay phát hành tùy thuộc mỗi người tự sanh, t diệt? Hay là có hội Phật giáo hoặc chính quyền chi viện? Tinh xá, liên xă, giáo đường (như Niệm Phật Hội), lâm thời truyền đạo hội (hội truyền đạo tạm thời) có phải là thiết lập t do hay không? Phân hội các nơi có giúp đỡ hay không? (Lư Ngọc Nam hỏi)

 

      Đáp: Câu hỏi này có th chia thành hai đoạn trước và sau:

      1) Đối với vấn đề trước, đừng mong mỏi một ai đứng ra lănh đạo! Chỉ cầu ai nấy t động phát tâm là được rồi! Dựa vào người khác s là chuyện không tưởng, chính ḿnh tạo tác mới là thực tiễn! Nếu ai nấy đều thực tiễn, ắt s có th chuyển yếu thành mạnh.

      2) Đối với vấn đề sau, t́nh h́nh bất nhất. Lấy ngay t báo này để nói, hoàn toàn do tiền bán báo duy tŕ, thuộc loại t sanh, t diệt. Đôi khi được độc gi yêu mến quyên tặng, ch trọn chẳng thường có [người quyên tặng]. Lại luận theo s truyền đạo của Đài Trung Liên Xă, mười mấy năm qua cũng là t do lo liệu, ch nhận được s ủng h tinh thần của các nơi!

 

      * Hỏi: Trong lúc đêm sâu ngon giấc, mộng thấy tôi cùng bạn bè b một k chẳng quen biết gia hại, tôi liền niệm liên tiếp danh hiệu của Tây Phương Tam Thánh và đức Phật Thế Tôn, tỉnh giấc th́ tinh thần vốn trong sáng, có phải là ma đến [quấy nhiễu] hay không? (Hoàng Vĩnh Lâm hỏi)

 

      Đáp: Sợ đó là ma trong t tâm, hoặc là oán thân trái ch nhiều đời. Trong mộng biết niệm Phật, [s kinh sợ] liền tiêu diệt, có thể thấy công đức của Phật hiệu chẳng thể nghĩ bàn. Sau đấy, hăy nên tinh tấn niệm Phật, đừng coi Phật pháp như ngoại đạo.

     

      * Hỏi: Xin hỏi thầy, chúng sanh trong Sa Bà sanh t đâu đến? Chết đi v đâu? (Hoàng Vĩnh Lâm hỏi)

 

      Đáp: Sanh t lục đạo đến, chết đi vào trong lục đạo. Nếu luận theo “thân người khó được” th́ càng nguội lạnh cơi ḷng! Hăy nên nói: “Sanh từ tam đồ đến, chết đi vào tam đồ”.

 

      * Hỏi: Trong trang bốn mươi ba ḍng th ba của b Phật Học Thường Thức Khóa Bổn do đại đức biên soạn, phần tu hành có nói đến Thập Lục Hành Quán, xin hăy khai th tóm tắt từng điều. (Lưu Tân Chi hỏi)

 

      Đáp: Ba câu hỏi của cư sĩ, hai câu đầu thuộc loại t đề ra ngh luận, mỗi câu đến mấy trăm chữ, không liên quan đến việc vấn đáp [về giáo lư Phật giáo], mà cột báo này cũng chẳng th đăng tải được, xin lượng th chẳng nhắc tới. Tiếp đó, ông hỏi v Thập Lục Hành Quán. Xét k trong nguyên bản, đó là chú giải của mười sáu chữ. Có th xem chi tiết v mười sáu ch ấy trong Đại Thừa Nghĩa Chương và Câu Luận. Xin hăy t đọc chi tiết, đây tôi ch giải thích đại lược. Bốn tướng của Kh là: Khổ bức năo, Không là thật s chẳng có ǵ của ta, Vô Thường là đổi dời, biến hóa, Vô Ngă là chẳngcái Ngă thật thể. Bốn tướng của Tập: Nhân là nguồn cội do nhân tạo nghiệp sanh ra khổ, Tập tích tập nỗi kh khiến cho hiện tiền, Sanh là kh qu tiếp nối chẳng dứt, đời đời chẳng hết, Duyên là cái duyên giúp cho qu kh thành tựu. Bốn tướng của Diệt: Diệt là tội lỗi đă diệt, Tĩnh là ưu năo, lo sầu đă dứt, Diệu là những chướng ngại thô thiển đă xa ĺa, Ly là những trói buộc đă tháo gỡ. Bốn tướng của Đạo là: Đạo là chánh đạo nói chung, Như là khế hợp chánh lư, Hạnh là hạnh hướng đến Niết Bàn, Xuất là vĩnh viễn vượt thoát sanh tử.

 

      * Hỏi: Thành Phật phải là phá tan hai chấp Ngă Chấp và Pháp Chấp? Tông nào là chẳng chấp Ngă Kiến, thân ḿnh chính là Phật? (Đồng Thụy Châu hỏi)

 

      Đáp: Thành Phật cần phải đoạn hết Tam Hoặc, tám thức chuyển thành trí; há có phải ch là đả phá nh chấp? Ông coi nh Phật quá sức! Chẳng chấp Ngă Kiến là tu theo đường lối thông thường, chẳng phân biệt tông phái nào, đều nhất loạt phải phá! C̣n như câu “tự thân tức Phật”, nói theo lư luận, chúng sanh đều có Phật tánh, thảy đều vị lai chư Phật. Nói theo S th́ ắt phải như đức Thế Tôn tám tướng thành đạo th́ mới gọi là tự thân tức Phật”.

 

      * Hỏi: Chùa miếu các nơi trong tỉnh này (Đài Loan) tụng kinh trong các ngày l thường dùng máy khuếch âm phóng thanh to tiếng, có phù hợp với lư tưởng thanh tĩnh để khơi gợi lên s thánh khiết hay không? (Dương Gia Hiến hỏi)

 

      Đáp: Thanh tịnh qu thật là do nghiêm túc. C thánh cúng tế, có lễ, có nhạc, nhưng nhạc cốt yếu là ḥa hoăn, b́nh tịnh. Tuy có tiếng, nhưng vẫn êm ả. Chuông khánh trong chùa miếu cũng chú trọng sao cho phạm âm lan xa, khơi gợi k khác tỉnh ngộ sâu xa, hễ nghe thấy tâm bèn có th tịnh, đó là thích hợp. Nếu máy khuếch âm phát ra âm thanh ồn ào, khiến người ta sanh ḷng chán ngán, há chỉ chẳng th khơi gợi s thánh khiết, mà s là c̣n chuốc lấy báng b nữa kia!

 

      * Hỏi: Có phải là sách vở, báo chí Phật giáo dùng Phật lịch rồi ghi thêm năm Dân Quốc th mấy? Điều ấy có trái pháp hay không? (Dương Gia Hiến hỏi)

       

      Đáp: Ban hành lịch pháp do chính quyền quốc gia quy định; đức Phật ta thí giáo, chẳng làm chuyện cai trị. V nữa, chưa ban hành lịch pháp, há có th nói đến Phật lịch? Quốc dân mỗi nước dùng lịch của nước ḿnh, đó là nghĩa vụ, c nhân bảo là “tuân theo chánh sóc”[20]. Những ấn phẩm Phật giáo ấn hành tại nước nào bèn dùng lịch pháp nước ấy, đó là chuyện chánh đáng!

 

      * Hỏi: Nơi trang chín mươi hai, hàng th sáu trong tác phẩm Kim Quang Minh Kinh Không Phẩm Giảng của pháp sư Diễn Bồi đoạn:Chuyển pháp luân có hai thứ: Một là chuyển nơi tự thân, như đức Phật ở dưới cội Bồ Đề, dùng ba mươi bốn tâm thành đạo thượng đạo, đó là tự chuyển pháp luân…”. Ba mươi bốn tâm là những tâm nào? (Lư Vinh Đường hỏi)

 

      Đáp: Hành quán T Đế Khổ - Tập - Diệt - Đạo, mỗi Đế đều có bốn tướng làpháp nhẫn, pháp trí, loại nhẫn, loại trí”, hợp thành con s mười sáu. Tam giới lại chia ra chín địa, trong mỗi địa đều có Kiến Hoặc Tu Hoặc (修惑), hành giả bắt buộc phải tu để đoạn. Trong lúc tu để đoạn th́ gọi là ngại. Do có chín địa, nên gọi là Cửu Vô Ngại. Đă đoạn Hoặc bèn gọi là Giải Thoát, do có chín địa nên gọi là Cửu Giải Thoát. Gộp Cửu Vô Ngại và Cửu Giải Thoát lại, s thành con s mười tám. Gộp mười sáu hành quán trong T Đế trên đây và mười tám pháp trong chín địa, cộng thành con s ba mươi bốn. Do Quán và Đoạn đều dùng tâm để tu, nên nói là ba mươi bốn tâm”.

 

      * Hỏi: Tâm Kinh có những câu như “bất tăng, bất giảm… vô trí mà cũng vô đắc”, có phải là nói đến học Phật chẳng học Phật đều chẳng tránh khỏi nhân qu hay không? Nếu muốn tránh khỏi luân hồi, ắt phải ngược ḍng lưu chuyển. Phàm nhân thường nóihễ chết rồi cái ǵ cũng chẳng biết (do chẳng biết sanh t đâu đến, do nhân nào mà có, nên diễn dịch như vậy), quan tâm làm chi?” Đối với lời lẽ ấy, hăy nên ch điểm k mê ra sao? (Từ Phương hỏi)

 

      Đáp: Tâm Kinh có một đoạn nói như thế nhằm giải thích v Thật Tướng của Chân Như, chẳng lập một pháp. K ng [lư ấy] th́ s Tịch mà thường Chiếu, Chiếu nhưng thường Tịch. Những điều như cư sĩ đă viết trong đoạn nói v những điều người ta thường nói, ch là do tối tăm nên thường mê, do mê nên thường tối tăm. Phàm và thánh như mây và bùn, ngộ khác đường. Làm thế nào để dứt tr nỗi nghi hoặc ấy, đúng là hư luận!

 

      * Hỏi: Tôi từng nghe người ta nói: Tận tín thư, bất như thư” (hoàn toàn tin vào sách, chẳng thà không có sách), nghĩa là sao? Lại nữa, thánh nhân lập giáo, không ǵ chẳng muốn tạo chuẩn mực cho người ta x s trong cơi đời, cách nghĩ này có đúng hay không? Lại nữa, [những điều dạy trong c thư] toàn là hành vi, kiến giải và ch ư của thánh nhân đúng không? (Từ Phương hỏi)

 

      Đáp: Viết xuống th tre th́ gọi là Thư, thốt ra đằng miệng bèn gọi là Ngữ. Ngữ chia thành lệch lạc hay chánh đáng, và cũng có nghe nói lại hoặc đích thân nghe. Thư chia thành Kinh và Tập, mà cũng có chân thật và ngụy tạo. Nghe lời nói th́ hăy nên quan sát [thấy đúng lư] rồi mới tin tưởng. Đọc sách cũng nên phân biệt [đúng - sai] để vâng giữ. Nếu mù quáng tin giữ, s có th mắc hại, nên bảo là: “Tận tín thư, bất như thư”. Đó là dạy người ta hăy lấy nghĩa lư làm chuẩn, chẳng dạy con người đọc sách ngây ngốc. Xem k những nghĩa lư giải đáp trên đây th́ đối với câu hỏi kế tiếp s t hiểu!

 

      * Hỏi: Nếu một k thường dối trá, bịp bợm, chẳng nói tới lư lẽ, t biết là sai, nhưng chẳng sửa đổi, làm thế nào để khiến cho k ấy t giác hồi đầu? (Thái Lân Định hỏi)

 

      Đáp: Muốn uốn nắn người khác th́ trước hết chính ḿnh phải chánh đáng. Chính ḿnh đă chánh đáng th́ mới có th thật s uốn nắn người khác. Nếu chính ḿnh chẳng chánh đáng, mà uốn nắn k khác th́ cũng là dối trá, bịp bợm, chẳng nói tới lư lẽ. Chính ḿnh đă là dối trá, bịp bợm, chẳng nói tới lư lẽ, toan uốn nắn s dối trá, bịp bợm, chẳng nói tới lư l của kẻ khác, há ai nghe theo? Khuyên lơn, uốn nắn k khác sửa lỗi c nhiên là chuyện tốt. Khi k mới học, thân tâm c̣n chưa vào n nếp, khuyên bảo người khác s có hiệu qu rất bé, chẳng bằng trước hết hăy nghiêm ngặt với chính ḿnh, rồi mới nhắc nh người khác th́ mới khỏi dấy lên đôi co!

 

      * Hỏi: So sánh giữa ba phương thức nêu ra sau đây như thế nào?

      - Một, làm lành rồi hồi hướng cho cá nhân ĺa kh được vui.

      - Hai, làm lành rồi hồi hướng cho chúng sanh ĺa kh được vui.

      - Ba, do thiện xuất phát t t tánh, nên không có tâm thiện, ác, được, mất. Niệm mất, cảnh tiêu, một tướng chẳng lập. (Trương văn Kỳ hỏi)

 

      Đáp: So sánh ba điều ấy th́ điều sau cùng là thật. Điều th nhất là t liễu, chẳng tr Ngă Chấp. Điều th hai thuộc v Bồ Tát, nhưng vẫn c̣n có Pháp Chấp. Điều sau cùng là tam luân thể không, thuộc v Tánh Đức.

 

      * Hỏi: Từ ngữ “bốn câu kệ” trong kinh Kim Cang được các v chú giải giải thích chẳng hoàn toàn giống nhau, có người nói đó là tất c những bài k bốn câu trong kinh, có người bảo đó là bất c bài k nào trong kinh. Rốt cuộc “bốn câu k là nói đến điều ǵ? (Chung Khiết Viên hỏi)

 

      Đáp: C nhiên kinh chú trọng nghĩa lư, nhưng cũng chẳng th coi thường văn tự. Thường nói “văn dĩ tải đạo” (văn để ch đạo); thế, trong kinh văn hiếm có ch nào chẳng đẹp đẽ. Kinh Kim Cang nói “tŕ bốn câu k là t ng phiếm chỉ, không ch là văn lư như thế, mà nghĩa cũng viên măn. Nếu chuyên ch bốn câu nào đó, ắt s nói rơ. Hơn nữa, “bốn câu phạm vi rất rộng, nên giảng là chuyên ch một ch nào đó, gượng ép nhất định câu nào. Tôi chẳng nói cách giảng như vậy là không được, nhưng [giảng theo kiểu đó] nghĩa lư s lệch lạc, hẹp ḥi, mà cũng thiếu viên măn!

 

      * Hỏi: Đối với “nhất hợp tướng” trong kinh Kim Cang, phần nhiều các nhà chú giải giảng khác nhau, nên hiểu như thế nào? (Chung Khiết Viên hỏi)

 

      Đáp: Người chú giải do thấy nhân, thấy trí[21], nên chẳng cần phải giống nhau. Nên hiểu như thế nào th́ lời giải thích trong kinh là đúng. Kinh văn có nói: Như Lai nói nhất hợp tướng tức chẳng phải là nhất hợp tướng”. Câu trên là xét theo S và Tướng bèn lập, câu dưới là noi theo Lư và Th bèn phá; nhưng ng và chẳng ng là do căn tánh. Do vậy, mấy câu sau đó, lại giảng v căn khí. Tức là ng th́ chính là Lư Th chẳng th nói, phàm phu tham chấp s tướng. Các v chú giải khác nhau là do phương tiện khế cơ. Phần nhiều là để nói với phàm phu, chẳng phải nhằm giải thích cho người đă ngộ.

 

      * Hỏi: Phật, Bồ Tát hóa thân lượng trong tam thiên đại thiên thế giới tùy cứu vớt chúng sanh, những hóa thân ấy phải là do thần thông biến hiện, nên cũng ắt phải thích ứng với hoàn cảnh trong tam giới. Thần thông biến hóa có quy luật, có phương thức, th loại khác nhau hay không? Nếu hóa thân làm người,t có cái thân máu thịt, theo đúng lẽ, phải chịu những nỗi kh ách sanh, lăo, bệnh, tử. Lại c̣n chẳng tránh khỏi ương lụy do b nghiệp lực lôi kéo, gặp phải nhiễm ô, nên cũng chưa thoát khỏi báo ứng nhân quả. Vậy th́ làm như thế nào để thoát tam giới, khôi phục s thanh tịnh vốn có? (Lưu cư sĩ hỏi)

 

      Đáp: Phật, Bồ Tát là bậc đă chứng quả địa. Đối với bậc đă chứng quả th́ chân tánh tùy duyên nhưng bất biến, chứng Pháp Thân trước rồi sau đó mới có th hóa thân. Hóa thân ấy ắt khế hợp căn cơ của chúng sanh, đó là quy luật. Hiện khắp trong lục đạo đó là “loại biệt”. Hóa làm người bèn là thân huyết nhục, thị hiện có tám khổ, nhưng là thần thông tùy duyên, huyễn hóa, chẳng thật, đến chẳng phải do nghiệp duyên lôi kéo, lời nói và việc làm cũng chẳng b phiền hoặc thúc giục. Giống như diễn viên trong rạp hát, đóng các màn bi, hoan, ly, hợp. Trên sân khấu th́ đúng là không ǵ chẳng phải là bi, hoan, ly, hợp, nhưng bước xuống sân khấu, chẳng b ảnh hưởng ǵ. Cũng chẳng có người tạo, mà cũng chẳngkẻ nhận, Hóa Thân tiêu diệt, Pháp Thân như cũ.

 

      * Hỏi: Nay v Bồ Tát nào đó v́ do nguyện nào đó mà hóa thân, sanh ra làm người. Người ấy chết đi, có phải là thần thức vẫn quy v thần thức của v Bồ Tát đó? Hay là tr thành một thần thức khác độc lập, để lại tu thành một v Phật, hay Bồ Tát khác? Hay là do hạnh nguyện chưa trọn, bèn chiêu cảm một cái thân tội nghiệp vẫn b ảnh hưởng bởi nghiệp lực quả báo trong tam giới trầm luân trong hạ giới? Hết thảy chúng sanh đều là Phật tử” là nói v chuyện này đấy chăng? (Lưu cư sĩ hỏi)

 

      Đáp: Bậc thừa nguyện tái lai nói chung có hai thuyết:

      - Một là người đă chứng viên măn Pháp Thân, hóa thân vô biên. Tướng sanh diệt trước sau của hạng người này giống như câu tr lời trong phần trên đă nói.

      - Hai là người chưa chứng viên măn Pháp Thân, nhờ vào hóa độ chúng sanh để t tu, tức là nh vào thân cuối cùng để thành một v Phật, thần thức chuyển thành trí. Sau khi đă chuyển thành trí, bèn chẳng một, chẳng hai với Pháp Thân của chư Phật, đó gọi là “mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Nhưng trước khi viên măn, đạo đă hành cũng thuộc v lậu, chẳng tạo tội; tuy vậy, trước khi chứng Thất Địa sẽ th b thoái chuyển. Dẫu b thoái chuyển, gặp duyên vẫn tiến. Nói tới tam giới th́ cũng chia thành nhân thiên thiện đạo và tam đồ ác đạo. Nếu chẳng do nhân duyên đặc biệt, hiếm khi đọa trong tam đồ!

 

      * Hỏi: Cao Tăng Truyện nói T Đạt Ma là Quán Thế Âm Đại Sĩ th hiện, như vậy th́ ngài Đạt Ma là hóa thân của Quán Thế Âm ư? (Lưu cư sĩ hỏi)

 

      Đáp: Sách truyện chép như thế chắc là có căn c. Người chẳng có thần thông như Túc Mạng, Thiên Nhăn v.v… bèn chẳng th khẳng định chuyện ấy.

 

      * Hỏi: Nếu thuộc các địa v Bồ Tát khác nhau mà hóa thân của Bồ Tát năng lực sai khác th́ hóa thân của năm mươi địa v Bồ Tát và bốn mươi địa v Bồ Tát theo l phải là khác nhau. Nếu năng lực của hóa thân thuộc năm mươi địa v Bồ Tát so với năng lực của hóa thân thuộc bốn mươi địa v Bồ Tát ràng là khác nhau th́ hạnh nguyện cũng phải viên măn hay thiếu khuyết sai khác. Hóa thân của hàng tiểu Bồ Tát s khó tránh khỏi b nhiễm ô bởi kiếp giới và trầm luân trong h giới, rốt cuộc lại biến thành đối tượng cứu vớt của [các vị] Bồ Tát [khác]? (Lưu cư sĩ hỏi)

 

      Đáp: Bốn mươi hay năm mươi địa v Bồ Tát do các tông ấn định v th sai khác, nhưng trọn chẳng phải là hai chuyện. Nói năm mươi, tức là k thêm Thập Tín. Nói bốn mươi là đă tính gộp Thập Tín vào Thập Trụ. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng v.v… gọi là Tam Hiền, t Đăng Địa tr lên (từ Sơ Địa trở lên) bèn gọi là Thập Thánh, nhưng trong Thập Địa lại dùng trước hay sau Thất Địa để định sâu cạn. Tu Đức càng tiến, Tánh Đức càng hiển lộ. Hiền chẳng bằng Thánh. Trước khi chứng Thất Địa chẳng bằng sau khi đă chứng Thất Địa. Các địa v trước Thất Địa có lui sụt, t Thất Địa tr lên chẳng thoái chuyển. Đối với chuyện khác, hăy xem điều th hai th́ có th suy ra quá nửa!

Phật Học Vấn Đáp Loại Biên

Phần 9 hết

 

 

 

 



[1] Florence Nightingale (1820-1910) là một nhà cải cách xă hội và là một nhà thống kê học người Anh. Bà đă sáng lập ra ngành y tá hiện đại. Bà nổi tiếng trong vai tṛ lănh đạo đoàn nữ y tá thiện nguyện chăm sóc thương binh trong cuộc chiến Crimea. Năm 1860, bà đă sáng lập ra ngành y tá chuyên nghiệp với sự thiết lập học viện đào tạo y tá St. Thomas’s Hospital tại Luân Đôn. Bà cũng đề xướng những phương cách nhằm cải thiện sự chăm sóc y tế trong xă hội, các biện pháp cứu đói, cũng như vận động cho nữ giới được tham gia làm việc trong xă hội. 

[2] “Bộ” () là cách phân chia kinh điển theo thể loại trong Đại Tạng Kinh. Thông thường, những kinh dạy về những giáo pháp có liên quan, hoặc là bản dịch khác nhau của cùng một kinh sẽ được xếp vào cùng một Bộ. Chẳng hạn như A Hàm Bộ, Bát Nhă Bộ, Pháp Hoa Bộ, Niết Bàn Bộ, Bảo Tích Bộ v.v… Bổn Duyên Bộ là những kinh nói về sự tích trong lúc tu nhân của chư Phật, Bồ Tát, A La Hán v.v…

[3] “Bạc địa phàm phu (薄地凡夫)nghĩa là hàng chúng sanh thấp kém, lè tè sát đất, nhưng ông Phùng thấy chữ Bạc Địa (薄地) lại hiểu là “đất rất mỏng” nên mới thắc mắc địa cầu to như thế mà sao kinh Phật lại bảo chúng ta ở trên quả địa cầu mỏng tanh!

[4] Đây là cách vẽ tranh thờ truyền thống của Trung Hoa. Theo truyện kư, khi ḥa thượng Kim Kiều Giác từ Cao Ly sang ẩn cư tại Cửu Hoa Sơn, Mân lăo cư sĩ đă dâng cúng mảnh đất cho Ngài dựng thảo am. Người con trai của cụ Mân cũng xuất gia theo ngài Kim Kiều Giác, pháp hiệu là Đạo Minh. Do vậy, tranh thờ Địa Tạng Bồ Tát thường vẽ một vị tăng và một cụ già đứng hầu hai bên Địa Tạng Bồ Tát.

[5] Chữ “thần đạo” chỉ những tà giáo hay tín ngưỡng mê tín trong dân gian, thờ thần tiên, đồng bóng, hoặc những biến tướng của Đạo giáo, hoặc ngoại đạo dựa hơi Phật giáo, v́ trong các “giáo” ấy luôn tôn sùng một vị Thượng Đế như Minh Minh Lăo Mẫu, Vô Cực Thiên Tôn v.v...

[6] Trương Ngọc Cô là một vị thần do dân chúng tin thờ, lập miếu tại huyện Chương Hóa, Đài Loan. Cô này vốn có tên là Trương Kim Hoa, nhũ danh A Miến, sanh năm Dân Quốc 28 (1939) tại Thủy Quật, Đài Trung. Do đi bắt tôm, cô ta bị nước lũ, chết đuối vào năm 14 tuổi, xác trôi giạt vào chỗ miếu thờ hiện thời, được dân chúng vùi tạm ở đó. Sau đó, một cư dân tại vùng đó là Lưu Toàn có con bị bệnh măi không khỏi, mời thầy đồng đến cầu tiên th́ biết là do Trương Ngọc Cô (tức cô gái chết đuối) muốn ông ta dựng miếu thờ. Họ Lưu bèn vận động dân làng dựng miếu thờ, quả nhiên con trai khỏi bệnh. Từ đó, tin đồn Ngọc Cô hiển thánh lan ra, người đến dâng hương, cầu chữa bệnh đông nghẹt, miếu thờ Trương Ngọc Cô trở thành một ngôi đền nguy nga.  

[7] “Thiện đường” là các đền miếu thờ lẫn lộn thần, Phật, thường tổ chức lên đồng, cầu cơ, hầu thánh để chữa bệnh, đôi khi họ có làm những việc từ thiện như phát thuốc, khám bệnh. 

[8] Hành cung: Cung điện để đế vương ở khi tuần du bên ngoài. Trong lịch sử Trung Quốc, người hạ lệnh xây dựng nhiều hành cung nhất là Tùy Dượng Đế. Ở những nơi nổi tiếng có cảnh đẹp, hoặc những nơi săn bắn nổi tiếng, đều có hành cung của nhà vua. Ngoài ra, ông c̣n cho lập riêng một hành cung để tránh nắng hè gọi là Phần Dương Cung ở đầu nguồn ḍng Phần Hà dưới chân núi Quản Sầm.

[9] Thể lệ để đặt tên kinh là Nhân, Pháp, Dụ (người, pháp và tỷ dụ), do phối hợp đơn và phức mà thành bảy loại. Bảy loại là đơn nhân, đơn pháp, đơn dụ, nhân pháp, pháp dụ, nhân dụ và nhân pháp dụ. Chẳng hạn Phật Thuyết A Di Đà Kinh là Đơn Nhân tức là dùng người để đặt tên kinh (kinh chuyên nói về A Di Đà Phật), Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là Pháp và Dụ (dùng hoa sen để tỷ dụ), Văn Thù Sở Vấn Bát Nhă Kinh là Nhân và Pháp, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh gồm đủ cả Nhân, Pháp và Dụ. 

[10] Nguyên văn là “áp thắng” (壓勝). Chữ này vốn có nghĩa gốc là “yểm thắng” (魘勝), có nghĩa là chế ngự, trấn yểm cho ma quỷ khỏi tác quái. Phong tục này xuất hiện từ thời Tùy - Đường, để trấn áp phần mộ (nhất là những người bị coi là chết trùng), hoặc những nơi tin là có ma quỷ tác quái, người ta thường đúc những h́nh tượng được tin là có tác dụng trừ tà như kỳ lân, tỳ hưu, rồng, các vị thần, hoặc đúc những đồng tiền có khắc tôn hiệu Phật, Bồ Tát, thần thánh để treo quanh hoặc dằn lên xác người chết. 

[11] Sấu Kim (瘦金,c̣n gọi là Hạc Thể 鶴体) là một kiểu chữ Khải do Tống Huy Tông (Triệu Cát) sáng chế, phỏng theo các kiểu chữ Khải của Chử Toại Lương, Tiết Diệu, Hoàng Đ́nh Kiên v.v… Đặc điểm dễ thấy nhất là nét chữ cứng cỏi, gân guốc, rất mỏng, và dài, nên gọi là Sấu Kim (vàng gầy).

[12] Đây là một câu nói của Khổng Tử trong Luận Ngữ: “Thị kỳ sở dĩ, quán kỳ sở do, sát kỳ sở an, nhân yên sưu tai? Nhân yên sưu tai?” (xem xét việc làm của một người, xét đến nguyên do dẫn đến hành động, xét đến kết quả của việc làm ấy, há ai có thể giấu diếm [tính cách và bản chất của kẻ đó] ư?)

[13] Theo quy định từ xưa, những h́nh thức thơ trước đời Đường, trừ loại Tề Lương Thể ra đều gọi là Cổ Thể, và các loại thơ từ đời Đường trở đi gọi là Cận Thể. Về sau, khái niệm này được mở rộng, các loại thơ ca dù sau đời Đường, nhưng không tuân theo quy luật của thơ Đường (Đường thi) th́ cũng gọi là Cổ Thể. Nói chung, Cổ Thể không quy định số chữ ngặt nghèo, có thể là bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, hoặc tạp ngôn (tức là số chữ trong các câu không đều nhau). Số câu trong một bài Cổ Thể không nhất định, ít là hai câu, nhiều th́ có thể đến mấy chục câu, mấy trăm câu. Trong khi đó, Cận Thể chỉ cho phép năm chữ hoặc bảy chữ, bài thơ chỉ có tám câu; loại gọi là Tuyệt Cú chỉ có bốn câu. Về cách gieo vần, Cổ Thể có thể dùng nhiều vần, trong khi một bài Cận Thể chỉ được dùng một vần. Một điểm khác biệt nữa là Cận Thể không quan tâm nhiều đến luật Bằng Trắc, miễn sao đọc lên nghe du dương, trôi chảy là được, trong khi luật thơ Cận Thể đ̣i hỏi nghiêm ngặt mỗi chữ trong bài phải tuân theo đúng quy luật Bằng Trắc (thường gọi là niêm luật).

[14] “Phán giáo” là phân chia giáo pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật thành các giai đoạn khác nhau (thường gọi là “thời”) với hàm nghĩa mỗi giai đoạn nhằm thích ứng với một loại căn cơ, hoặc tiếp dẫn từ từ khiến cho chúng sanh cuối cùng đạt được Phật quả. Cách phán giáo nổi tiếng nhất và thông dụng nhất là Ngũ Thời của tông Thiên Thai, tức năm thời kỳ Hoa Nghiêm, A Hàm, Bát Nhă, Phương Đẳng, và Pháp Hoa.

[15] Có hai cách hiểu chữ Lục Triều:

1. Lục Triều là sáu triều đại gồm Đông Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần.

2. Lục Triều là Tào Ngụy, Tấn và Tống, Tề, Lương, Trần.

Dù hiểu theo cách nào đi nữa th́ Lục Triều đều có thể hiểu là các triều đại trước thời Tùy - Đường.

[16] Tần Mục Công (Doanh Nhậm Hảo) trị v́ từ 659 đến năm 621 trước Công Nguyên, Yên Chiêu Vương (gọi đủ là Yên Chiêu Tương Vương, tên thật là Cơ B́nh) trị v́ từ năm 312 đến năm 279 trước Công Nguyên. Hán Vũ Đế (Lưu Triệt) trị v́ từ 156 đến năm 87 trước Công Nguyên. Hán Minh Đế (Lưu Dương, chính là con của Hán Quang Vũ Đế) làm vua từ năm 28 đến năm 75.

[17] Thạch nữ (石女,c̣n gọi là Thạch Tâm Tử) là danh xưng thông dụng trong dân gian Trung Quốc để gọi những người đàn bà không thể sanh nở. Thường chia ra làm hai loại Chân Thạch và Giả Thạch. Chân Thạch là loại nữ nhân hoàn toàn không có âm đạo, hoặc âm đạo phát triển không hoàn chỉnh, hoặc không có tử cung, hoặc tử cung không hoàn chỉnh. Giả Thạch là loại nữ nhân có khuyết tật trong cơ quan sinh dục, hoặc do các yếu tố nội tại khiến không thể nào mang thai được!

[18] Bất nam (不男)là một thuật ngữ trong Phật học chỉ năm loại đàn ông nam tánh chẳng hoàn chỉnh:

- Một là Sanh Bất Nam (生不男), tức là bẩm sinh nam căn không phát triển.

- Hai là Kiện Bất Nam (犍不男), tức tự thiến.

- Ba là Đố Bất Nam (妒不男), nam căn chỉ có thể hoạt động khi thấy người khác hành dâm, do ghen ghét mà nam căn tạm thời hoạt động.

- Bốn là Biến Bất Nam (變不男), không có sinh thực khí nhất định. Tùy theo sự tham luyến mà sinh thực khí xuất hiện, chẳng hạn gặp nam nhân sanh ḷng mê luyến bèn xuất hiện nữ căn, gặp nữ nhân nếu mê luyến bèn xuất hiện nam căn.

- Năm là Bán Bất Nam (半不男), tức nửa tháng trước là nam, nửa tháng sau là nữ.

[19] Theo Hoa Nghiêm Khổng Mục Chương, tám vạn bốn ngàn phiền năo c̣n gọi là “tám vạn bốn ngàn trần lao”, xuất phát từ Thập Sử (tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới thủ kiến). Trong mười Sử, nếu coi mỗi Sử là chánh th́ chín Sử kia là trợ, nên mười nhân mười thành một trăm. Do ba đời, mỗi đời có một trăm Sử nên thành ba trăm. Một trăm Sử trong đời hiện tại nhân với hai trăm sử của quá khứ và vị lai thành hai ngàn, cộng với một trăm Sử trong đời hiện tại thành hai ngàn một trăm Sử. Lại phối hợp với đa tham, đa sân, đa si và đẳng phần (tham, sân, si cùng sanh khởi), tức là bốn yếu tố nhân với hai ngàn một trăm thành tám ngàn bốn trăm. Lại phối hợp với Lục Suy (tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thể làm suy tổn thiện pháp), nên sáu yếu tố ấy cộng với bốn yếu tố trên đây (đa tham, đa sân, đa si, đẳng phần) thành mười, nhân với tám ngàn bốn trăm thành tám vạn bốn ngàn trần lao. Đây là cách nói chi tiết nhằm giải thích con số “tám vạn bốn ngàn”, chứ nếu hiểu theo nghĩa rộng th́ tám vạn bốn ngàn trần lao chỉ đại diện cho vô lượng vô biên trần lao (phiền năo).

[20] Sóc () là ngày đầu mỗi tháng. Do tháng Giêng c̣n gọi là Chánh Nguyệt (正月), nên ngày mồng Một tháng Giêng được gọi là Chánh Sóc. Tam Đại Hạ, Thương, Châu đă định ngày Chánh Sóc khác nhau, Âm Lịch hiện thời tuân theo chánh sóc nhà Hạ, tức là lấy ngày mồng Một tháng Dần làm ngày đầu năm.

[21] Đây là một câu thành ngữ “người nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí”, hàm ư tùy theo tánh cách của mỗi người mà nh́n nhận cùng một sự việc khác nhau.