QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
PHỔ MÔN PHẨM GIẢNG KƯ
(phần 2)
觀世音菩薩普門品講記
演培老法師講述
釋寬嚴記
Chủ giảng: Lăo pháp sư
Thích Diễn Bồi
Pháp sư Thích Khoan Nghiêm ghi.
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo ấn bản
của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội, tháng 04, năm
2004)
II. Chánh thích kinh văn (Phần
giải thích chính vào kinh văn)
1. Trường hàng biệt thị (Giảng
riêng về phần kinh văn trường hàng)
1.1. Vấn đáp đắc danh sở
dĩ (Thưa hỏi duyên do [v́ sao Bồ Tát]
được danh hiệu [là Quán Thế Âm])
1.1.1. Đương cơ cử danh
thỉnh vấn (Vị đương cơ
của pháp hội thưa hỏi)
Chánh kinh:
Nhĩ thời,
Vô Tận Ư Bồ Tát tức tùng ṭa khởi, thiên đản
hữu kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi
tác thị ngôn:
- Thế Tôn! Quán
Thế Âm Bồ Tát dĩ hà nhân duyên danh Quán Thế Âm?
爾時無盡意菩薩。即從座起。偏袒右肩。合掌向佛。而作是言。世尊。觀世音菩薩。以何因緣。名觀世音。
(Lúc bấy giờ, Vô Tận Ư
Bồ Tát liền từ ṭa ngồi đứng dậy,
trật vai áo phải, chắp tay, hướng về
đức Phật, bạch như thế này:
- Bạch Thế Tôn! Quán
Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên ǵ tên là Quán Thế Âm?)
Kinh văn
toàn phẩm chia thành hai phần lớn: một là
Trường Hàng, tức là thể văn xuôi ghi lại
những ư nghĩa được tuyên nói trong kinh; hai là
Kệ Tụng, tức là thể văn vần ghi chép
những nghĩa lư được tuyên nói trong kinh.
Trường Hàng và Kệ Tụng nội dung không khác
biệt nhau nhiều lắm, chẳng qua là sử dụng
thể tài văn tự bất đồng mà thôi. Trong hai
phân đoạn lớn này, trước hết giảng
phần Trường Hàng, sau đó mới giảng Kệ
Tụng.
Hai chữ “nhĩ
thời” có nhiều cách giải thích khác nhau. Phần
trước, tôi đă từng nói, phẩm này là phẩm
thứ hai mươi lăm trong kinh Pháp Hoa, trước
phẩm này là phẩm hai mươi bốn, tên là Diệu Âm
Bồ Tát Phẩm. Nói “nhĩ thời” nghĩa là lúc
vừa mới nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát, bèn nói
ngay phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn này.
Trong phẩm
Diệu Âm Bồ Tát, cuối cùng là mấy câu: “Thuyết
thị Diệu Âm Bồ Tát lai văng phẩm thời, tứ vạn
nhị thiên thiên tử đắc Vô Sanh Nhẫn, Hoa Đức
Bồ Tát đắc Pháp Hoa tam-muội” (Lúc nói xong phẩm Diệu Âm
Bồ Tát lai văng này, bốn vạn hai ngàn thiên tử
đắc Vô Sanh Nhẫn, Hoa Đức Bồ Tát
đắc Pháp Hoa tam-muội). Do đây biết là khi
đức Phật nói phẩm Diệu Âm Bồ Tát, có
rất nhiều người được hưởng
pháp ích (lợi ích nơi pháp). Do đại chúng nghe pháp
được lợi ích, bởi thế lại mong
cầu Phật tiếp tục giảng thêm diệu pháp;
như vậy có thể hiểu “nhĩ thời” là lúc
rất nhiều chúng sanh mong mỏi Như Lai thuyết pháp.
Theo như kinh Pháp
Hoa giới thiệu, Diệu Âm Bồ Tát (Mañju-ghosha Boddhisattva)
là một đại Bồ Tát trong cơi nước Nhất
Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm ở phương Đông.
Quán Âm Bồ Tát như mọi người đều
biết rơ là một đại Bồ Tát thuộc Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Đông
phương Diệu Âm Bồ Tát đă đắc Hiện
Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội, bởi thế có
thể tự tại hiện thân theo từng loại
để giáo hóa chúng sanh trong đời, tức là cần
phải biến hiện thân tướng nào để giáo
hóa chúng sanh, Ngài liền có thể biến hiện thân
tướng ấy. Tây phương Quán Âm Bồ Tát như
trong phần sau phẩm này sẽ giới thiệu: “Ưng
dĩ hà thân đắc độ giả, tức hiện hà
thân nhi vị thuyết pháp”
(Nên dùng thân nào để đắc độ, liền
hiện thân ấy để thuyết pháp); có thể
nói là Quán Âm Bồ Tát cũng đắc Hiện Nhất
Thiết Sắc Thân Tam Muội giống hệt như
thế. Bởi thế, cổ đức gọi hai
phẩm kinh này là “những phẩm chị em”, hàm ư chúng có ư
nghĩa và giá trị gần giống nhau.
Hoặc có thể
nói là đại chúng nghe những công đức thù
thắng của Diệu Âm Bồ Tát ở phương
Đông xong, nghĩ đến Bồ Tát Quán Âm ở
phương Tây cũng là một vị đại Bồ
Tát rất phi thường, nhưng công đức tự
chứng, sự hóa độ người khác của Ngài
rốt cuộc ra sao, đại chúng trong pháp hội
vẫn chưa biết; bởi vậy, họ ngưỡng
vọng đức Thế Tôn giảng cho hành trạng
của đức Quán Âm. Chính ngay lúc đại chúng
ngưỡng vọng đức Thế Tôn tuyên thuyết
như thế, bèn gọi là “nhĩ thời”.
“Vô Tận Ư
Bồ Tát” là vị đại biểu vấn pháp trong
phẩm này. Ngay khi đức Phật giảng xong phẩm
Diệu Âm Bồ Tát, có vị Vô Tận Ư Bồ Tát (Aksaya-mati Boddhisattva) bèn
đứng ra thỉnh pháp. Vô Tận Ư là vị đại
Bồ Tát ở thế giới Bất Thuấn nơi
phương Đông, giáo chủ của thế giới
Bất Thuất là Phổ Hiền Như Lai. Trong
tương lai, Quán Âm Bồ Tát kế thừa A Di Đà
Phật thành Phật trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Cần biết rằng ngài Vô Tận Ư trong
tương lai sẽ kế thừa Phổ Hiền Như
Lai làm Phật trong thế giới Bất Thuấn ở
phương Đông.
Vô Tận Ư là
vị đại Bồ Tát ở phương Đông, v́ sao
lại đến thế giới Sa Bà nghe Phật Thích Ca
thuyết pháp? Là do tuân lệnh đức Phổ Hiền
Như Lai (Samantabhadra Tathāgata) mà đến. Lúc
đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa, chính là diễn bày
trực tiếp bản hoài, bởi thế mười
phương chư Phật đều phái những bậc
thượng thủ Bồ Tát của ḿnh đến nghe
đức Phật nói diệu pháp. Kể từ lúc Phật
bắt đầu nói kinh Pháp Hoa cho đến lúc này, Vô
Tận Ư Bồ Tát ngồi tại chỗ lặng lẽ
nghe giảng; đến lúc Phật nói xong phẩm Diệu
Âm Bồ Tát, v́ muốn thỉnh pháp, Ngài bèn “tức tùng ṭa
khởi” (từ ṭa
ngồi đứng dậy).
Thánh hiệu
của Phật và Bồ Tát đều được an
lập từ tất cả công đức. Sở dĩ Vô
Tận Ư mang tên Vô Tận Ư là do dựa theo công đức
nào mà an lập? Ở đây, có thể dựa theo ba
phương diện thế giới, chúng sanh, bi nguyện
mà thuyết minh. Trên phương diện thế giới,
trước hết phải hiểu rơ: Có nhiều vô cùng vô
tận, vô lượng, vô biên những thế giới to
như thế giới Sa Bà, kinh Phật gọi là “vô
lượng vô biên thế giới”. Trong những thế
giới nhiều như thế ấy, chỉ nói riêng
người trong Nam Thiệm Bộ Châu của thế
giới Sa Bà này đă nhiều vô kể; nếu nói gộp
tất cả số người trong bốn đại
châu lẽ đương nhiên càng nhiều hơn. Ngoài nhân
loại c̣n có những chúng sanh khác, chúng sanh thật là
nhiều chẳng thể tính đếm nổi. Chẳng
riêng ǵ chúng sanh trong một thế giới này là như
thế, chúng sanh trong mỗi một thế giới
đều như thế; bởi thế nói “chúng sanh vô
tận”. Lúc vị Bồ Tát này vận dụng trí huệ
quán sát thế giới, nhận thấy có vô tận thế
giới. Trong vô tận thế giới, có vô tận chúng sanh
hoạt động. Đúng là mỗi chỗ có một thế
giới, mỗi thế giới có một thế giới
chúng sanh, nhưng các chúng sanh đều bị phiền năo
sai khiến, trôi nổi, đọa lạc trong biển
nghiệp, ch́m đắm luân hồi, bị các thứ
khổ bức bách, trọn không có lúc nào giải thoát! Vô
Tận Ư Bồ Tát chẳng nỡ thấy vô cùng vô tận
chúng sanh chịu các khổ năo lâu dài, bèn từ tận
đáy ḷng sâu thẳm, phát khởi bi nguyện vô tận,
nguyện độ vô tận chúng sanh trong vô tận thế
giới, khiến cho vô tận chúng sanh thành Phật, sau
đó chính ḿnh mới thành Phật; bởi thế hiệu
là Vô Tận Ư.
Giải thích danh
hiệu Vô Tận Ư, cổ đức dùng bốn câu kệ
để h́nh dung:
Thế giới
vô biên trần nhiễu nhiễu,
Chúng sanh vô tận
nghiệp mang mang,
Ái hà vô để
lăng thao thao,
Thị cố
hiệu vi Vô Tận Ư.
(Thế giới
vô biên mờ mịt bụi,
Chúng sanh vô tận
nghiệp bời bời,
Sông ái không đáy
sóng cuồn cuộn,
Bởi thế
hiệu là Vô Tận Ư)
Ư nói: Thế
giới là vô tận, chẳng sai! Nhưng trong vô tận
thế giới lại có thế giới thanh tịnh, có
thế giới uế ác. Thế giới uế ác nhiều
hơn thế giới thanh tịnh. Bởi thế, vô cùng vô
tận thế giới nói chung là dơ bẩn bị
trần cảnh khuất lấp khó kham, uế ác bất
tịnh! Những chúng sanh trong các thế giới ấy
bất luận nhiều đến đâu, đại
đa số ở trong biển nghiệp mênh mông, bị
nghiệp lực lôi kéo! Nghiệp lực lôi quư vị lên
thiên đường, quư vị sẽ lên thiên
đường; nghiệp lực lôi quư vị xuống
địa ngục, quư vị sẽ đọa địa
ngục, tự ḿnh chẳng tự chủ được
mảy may ǵ! Sở dĩ chúng sanh ở trong biển
nghiệp mênh mông không chỗ nương về, căn
bản là do v́ ch́m đắm trong sông ái dục không đáy,
sóng vỗ cuồn cuộn bất tuyệt. Bởi thế,
biển khổ vô biên; chúng sanh tuần hoàn chẳng ngơi
trong Hoặc nghiệp như thế. V́ vậy, tâm Bồ
Tát suy tưởng: Chúng sanh chịu khổ như thế,
nếu ta chẳng phát tâm cứu độ, giáo hóa, c̣n
đợi ai làm chuyện này nữa đây? Bởi thế,
liền phát vô tận bi nguyện, muốn độ vô
tận chúng sanh. Do vậy hiệu là Vô Tận Ư.
Vô Tận Ư và các
đại chúng v́ muốn hiểu rơ công đức của
Quán Âm Bồ Tát, thấy không có ai khác thỉnh vấn, nên
Ngài bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, thay
mặt đại chúng thỉnh vấn đức Phật.
Câu “tức tùng ṭa khởi” (từ ṭa ngồi
đứng dậy) nếu giải thích theo mặt chữ
sẽ rất đơn giản, nhưng nếu dùng quán tâm
để giải thích như ngài Thiên Thai th́ lại mang
những ư nghĩa sâu sắc. Chữ “ṭa” ở đây
chẳng phải là chỗ ngồi thông thường, mà có
nghĩa là Pháp Không Ṭa, cũng như kinh Pháp Hoa đă chép: “
Ngài Vô Tận Ư từ
ṭa đứng dậy, biểu thị Ngài chẳng
nhiễm trước nơi Không, bởi thế mới nói “lấy
các pháp Không làm ṭa”. Tuy chẳng nhiễm Không, nhưng
chẳng phải là chẳng có cái ǵ; Bồ Tát từ ṭa
“pháp không” đứng dậy vấn pháp là một minh
chứng. Nếu như thật sự chẳng có cái ǵ
hết cả, cần ǵ phải đứng lên hỏi
nữa? Cần ǵ phải giảng kinh thuyết pháp? Do
bởi Không nhưng Bất Không, cho nên mới từ ṭa Pháp
Không đứng dậy, thỉnh Phật khai thị.
Như vậy, câu “tức tùng ṭa khởi” hàm nghĩa:
Chẳng chấp vào Không hay Hữu, vượt khỏi
cả Không lẫn Hữu, chánh thức chứng đắc
thâm nghĩa diệu pháp Thật Tướng.
“Thiên
đản hữu kiên” (trật áo vai phải) là nghi
thức nhất định phải dùng của hàng Phật
tử xuất gia đứng dậy vấn pháp. Lúc
Phật tại thế, tỳ-kheo mặc ca-sa giống
như cách tăng đoàn Phật giáo Nam Truyền mặc.
Theo quy củ nhà Phật, lúc b́nh thường, tỳ-kheo
không lễ Phật, không thuyết pháp, cả hai vai áo
đều phủ kín, chẳng lộ ra ngoài. Lúc thấy Phật,
lễ Phật, nhằm biểu thị ḷng cung kính, bèn
đặc biệt lộ vai phải ra. Vô Tận Ư Bồ
Tát muốn vấn pháp, nhằm tỏ ḷng tôn trọng
đức Phật, nên buông vạt ca-sa mặc trên thân
xuống, để lộ vai phải của ḿnh ra.
Nếu giải
thích theo quán tâm th́ lộ vai phải, che giấu vai trái
cũng có ư nghĩa sâu xa. Người tu học Phật pháp
đạt đến tŕnh độ khá, sẽ có hai
thứ trí huệ:
- Một là Chân Thật
Trí chứng ngộ chân lư “tánh các pháp là Không”, chẳng
thể dùng ngôn ngữ để diễn tả
được nổi, bởi thế che vai trái chẳng
để lộ ra ngoài.
- Hai là Phương
Tiện Trí phát xuất từ Chân Thật Trí, có thể quán
sát hết thảy thế tục, có thể v́ các chúng sanh
thuyết pháp, có thể chỉ ra một con đường
tu hành. Trí này c̣n gọi là Quyền Xảo Trí. Bởi
thế để lộ vai hữu ra cho mọi
người được thấy rơ ràng.
Phương Tiện
Trí như vai phải, Chân Thật Trí như vai trái. Một
bên che giấu, một bên hiển lộ, rất thích
hợp để biểu thị hai trí Quyền và Thật.
Vô Tận Ư là một vị đại Bồ Tát, che kín vai
trái biểu thị Ngài có Chân Thật Trí chứng ngộ
Thật Tướng các pháp, để lộ vai phải
biểu thị Ngài có thể vận dụng Phương
Tiện Trí quyền xảo. Phương Tiện Trí hóa độ
cơi tục, Chân Thật Trí khế hợp Chân Đế.
Vận dụng cả hai trí hiển thị Chân chính là
Tục, Tục chính là Chân, đạt đến cảnh
giới “Chân Tục viên dung” tối cao.
“Hợp
chưởng hướng Phật” (chắp tay hướng về
Phật): Chắp hai bàn tay lại, mặt hướng
về đức Phật, đây là một lễ nghi thông
thường để chào hỏi người trên và chào
hỏi nhau của người Ấn Độ. Nếu
giải thích theo quán tâm th́: Hai bàn tay có mười ngón,
nếu tách riêng từng ngón sẽ tượng trưng cho
mười pháp giới đă nói ở phần trên. Nay
đem mười ngón áp lại, đặt trước
ngực, biểu thị mười pháp giới trong
một niệm tâm của chúng ta, chẳng thể ĺa
một niệm tâm mà có.
“Nhi tác thị ngôn” (bèn nói như sau): Sau khi ngài Vô Tận Ư
thể hiện các lễ nghi cần phải có xong, Ngài bèn
nói những lời như dưới đây, thỉnh
Phật khai thị về hành trạng của đức
Quán Âm Bồ Tát.
Những câu trên đây
thật ra biểu thị các hoạt động thân,
ngữ, ư. “Từ chỗ ngồi đứng dậy”
là thân nghiệp; “bèn nói như sau” là khẩu nghiệp;
“chắp tay hướng Phật” là ư nghiệp. Trong
lúc ấy, chuyên tâm nhất ư, bề ngoài tưởng
chừng là thân nghiệp, nhưng thật ra thuộc về
ư nghiệp. Mỗi cá nhân đều có hoạt động
nơi ba nghiệp, vấn đề là hướng theo
phương diện hoạt động nào th́ mới là
hoạt động hợp lư chánh đáng. Về
đại thể, ba nghiệp của chúng sanh là
hướng theo phương diện hoạt động
ác, dẫu có lúc hướng thiện cũng vẫn
thuộc hữu lậu. Ba nghiệp hoạt động
của ngài Vô Tận Ư, bất luận là đến
mười phương thế giới gặp Phật nghe
pháp, bất luận là v́ tùy từng loài chúng sanh hóa hiện
thuyết pháp, đều là thanh tịnh vô nhiễm,
thuần thiện vô lậu.
“Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ hà nhân duyên
danh Quán Thế Âm?” (Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm
Bồ Tát do nhân duyên ǵ tên là Quán Thế Âm?): Vô Tận Ư
chánh thức nêu vấn đề. Vấn đề này ngay
cả người b́nh thường mới học Phật
cũng có thể hỏi được. Chẳng hạn
như những kẻ mới tin Phật, khuyên họ phát
tâm niệm nhiều thánh hiệu Quán Âm, họ thường
hay hỏi: “Bảo tôi niệm nhiều thánh hiệu
đương nhiên là rất hay, nhưng sao lại kêu tôi
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát?” Vô Tận Ư là bậc
Bổ Xứ Đại Sĩ, chẳng lâu sau sẽ thành
Phật, lẽ đâu chẳng hiểu thánh hiệu Quán Âm
Bồ Tát? Sở dĩ Ngài nêu lên câu hỏi này là thay mặt
những người chưa hiểu rơ công đức
của Quán Âm Bồ Tát, đặc biệt là hỏi thay cho
chúng sanh trong thời đại Mạt Pháp. Như chúng ta
hiện tại hiểu rơ sự vĩ đại và bi
nguyện sâu rộng của Quán Âm Bồ Tát là do Vô Tận Ư
ngay khi đó đă thỉnh vấn.
“Thế Tôn” là một trong các đức hiệu
của Phật Đà, có nghĩa là đức đại
thánh Phật Đà được thế gian lẫn
xuất thế gian cùng tôn trọng, bởi thế gọi
là Thế Tôn. V́ thỉnh đại pháp, trước
hết xưng một tiếng “Thế
Tôn”. Đại danh Quán Âm Bồ Tát chúng con thường
nghe qua, nhưng vị Quán Thế Âm Bồ Tát rốt ráo là
do nhân duyên ǵ mà gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát? Hiện
tại đại chúng trong pháp hội đối với
điều này vẫn c̣n chưa biết, kính thỉnh
Phật Đà v́ đại chúng khai thị sơ lược!
1.1.2. Như Lai
bị thị cảm ứng
(Như Lai chỉ dạy đầy đủ về
sự cảm ứng)
1.1.2.1. Chánh đáp
đắc danh sở dĩ (Giải
đáp nguyên do được danh hiệu ấy)
1.1.2.1.1. Tổng tiêu
tầm thanh cứu khổ (nói
tổng quát về công hạnh tầm thanh cứu khổ)
Chánh kinh:
Phật cáo Vô
Tận Ư Bồ Tát:
- Thiện nam
tử! Nhược hữu vô lượng bách thiên vạn
ức chúng sanh, thọ chư khổ năo, văn thị Quán
Thế Âm Bồ Tát, nhất tâm xưng danh, Quán Thế Âm
Bồ Tát tức thời quán kỳ âm thanh, giai đắc
giải thoát.
佛告無盡意菩薩。善男子。若有無量百千萬億眾生。受諸苦惱聞是觀世音菩薩。一心稱名。觀世音菩薩。即時觀其音聲,皆得解脫。
(Phật bảo Vô
Tận Ư Bồ Tát:
- Này thiện nam
tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức
chúng sanh bị các khổ năo, nghe đến Quán Thế Âm
Bồ Tát này, một ḷng
xưng danh th́ ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm bèn xem xét
âm thanh ấy, [khiến cho họ] đều
được giải thoát)
Phần trước là
Vô Tận Ư thỉnh vấn, phần này là Phật Thích Ca
giải đáp. Lời đáp tổng quát trong phần này
chính là phần trọng yếu nhất trong toàn phẩm, có
thể nói là cương yếu của toàn phẩm,
hoặc có thể nói là trung tâm của toàn phẩm; bởi
lẽ nó liên quan đến hoằng nguyện từ bi sâu
xa của đức Quán Âm, hoàn toàn phô bày hoằng nguyện
ấy trong đoạn kinh văn này.
Quán Âm Bồ Tát sở
dĩ có tên là Quán Âm Bồ Tát, nguyên do của danh hiệu
ấy cũng đă được biểu lộ trong
đoạn kinh văn này. Phương pháp xưng niệm
danh hiệu và những lợi ích đạt
được cũng đều nhờ mấy câu này mà
tỏ rơ. Bởi thế đây chính là cương yếu
hoặc trung tâm của toàn phẩm. Trong đoạn này
lại có ba câu tối trọng yếu, là: “nghe
đến Quán Thế Âm Bồ Tát này”, “nhất tâm xưng
danh” và “đều được giải thoát”, có
thể nói là cương yếu của toàn bộ
đoạn kinh này.
“Phật cáo Vô Tận
Ư Bồ Tát” (Phật bảo Vô Tận Ư Bồ Tát): “Thiện nam
tử!” Đây là cách xưng
hô của Phật đối với Vô Tận Ư. Nam tử
là đối ứng với nữ nhân mà nói, có đủ
nam tánh th́ gọi là nam tử; có đủ nữ tánh th́
gọi là nữ tử. “Thiện nam tử” ở
đây chẳng phải là nam tử hiểu theo nghĩa
thông thường, mà là kẻ có thiện căn sâu dày.
Kẻ nam tử có đủ thiện căn sâu dày mới
gọi là “thiện nam tử”.
Nữ nhân có đủ thiện căn sâu dày gọi là “thiện nữ nhân”. Thiện
căn do vun bồi mà có, nào phải do trời sanh. Như
nghe kinh, nghe pháp, bố thí, tŕ giới đều là
những phương tiện lớn nhất để vun
bồi thiện căn. Có thể học Phật là đă có
thiện căn, nhưng càng phải vun bồi hơn
nữa.
“Nhược hữu
vô lượng bách thiên vạn ức chúng sanh, thọ chư
khổ năo” (Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức
chúng sanh bị các khổ năo):
Đây là đối tượng cần được Quán
Âm cứu giúp. Câu “vô lượng trăm ngàn vạn
ức chúng sanh” h́nh dung chúng sanh rất nhiều. Chúng sanh
nhiều như thế sống trong thế giới này,
trọn chẳng phải là hưởng thọ khoái lạc
mà luôn phải chịu các nỗi khổ năo bức bách,
như các chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh, không loài nào chẳng có các thứ khổ năo.
Những nỗi khổ năo đó nếu nói chi tiết
chẳng thể kể hết nổi. Nói riêng nhân loại
không thôi đă có đủ loại, đủ dạng
khổ năo; như thông thường nói là tám khổ,
nghĩa là những thứ nhân loại không sao tránh khỏi.
Tám khổ có thể
chia thành ba loại, như sanh, lăo, bệnh, tử là
thống khổ thuộc về phương diện thân
tâm; c̣n ái biệt ly khổ (yêu thương xa ĺa), oán
tắng hội khổ (oán ghét phải gặp gỡ) là
thống khổ về mặt xă hội; cầu bất
đắc khổ (cầu chẳng được) là
thống khổ thuộc về mặt [hoàn cảnh] tự
nhiên. Nếu xét từ căn bản để luận, th́
đức Thích Tôn tổng kết bảy nỗi khổ
bằng cách nói đại lược là “nỗi khổ v́
năm ấm lừng lẫy” (ngũ ấm xí thịnh khổ).
Có nghĩa là: Có các nỗi khổ phát sanh nơi hữu t́nh
do chính bản thân hữu t́nh (Ngũ Uẩn là các nguyên
tố cấu tạo nên hữu t́nh). Có năm Uẩn đó
nhưng năm Uẩn hừng hực như lửa cháy,
bởi thế biển khổ vô biên. Thống khổ công
kích, thân tâm phiền năo, ai chẳng mong được
giải trừ ngay lập tức? Bất luận là ai, khi
bị thống khổ miệng phải kêu rên không ngừng
th́ trong tâm mới cảm thấy đỡ khổ đôi
chút.
Giờ đây,
đức Phật bảo chúng ta: Lúc chúng sanh bị
thống khổ bức bách, chớ có kêu rên vô ích, tốt
nhất là chuyên tâm nhất ư xưng niệm thánh hiệu
Quán Âm Bồ Tát. V́ thế, Ngài mới nói: “Văn thị Quán Thế Âm Bồ Tát, nhất tâm
xưng danh, Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời quán
kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát” (Nghe đến Quán Thế Âm
Bồ Tát này, một ḷng
xưng danh th́ ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm bèn xem xét
âm thanh ấy, [khiến cho họ] đều được
giải thoát): Câu này chỉ rơ lư do Quán Âm có
được danh hiệu ấy. Quán Thế Âm sở
dĩ có hiệu là Quán Thế Âm do Ngài nghe âm thanh xưng danh
của chúng sanh bèn tầm thanh cứu khổ. Quán Thế Âm
Bồ Tát đại từ đại bi cứu khổ
cứu nạn, đúng là “không khổ nào chẳng
cứu, không chúng sanh nào chẳng độ”. Là v́ chúng
sanh khi thọ khổ, nghe đến thánh hiệu Quán
Thế Âm, nếu có thể chuyên tâm nhất ư xưng danh
Ngài th́ Quán Thế Âm Bồ Tát xem xét âm thanh xưng danh
của chúng sanh ấy, tức thời giải trừ
nỗi đau khổ cho người đó, khiến cho
người đó giải thoát chẳng c̣n bị đau
khổ buộc ràng!
Ở đây, chữ “Văn”
(nghe) rất trọng yếu. Bởi lẽ, chúng sanh nghe âm
thanh thánh hiệu Quán Âm; Quán Âm cũng nghe âm thanh của chúng
sanh mà tầm thanh cứu khổ. Nghe lẫn nhau như
thế th́ mới có thể tương ứng, tương
cảm; tức là chúng sanh nghe thánh hiệu bèn xưng
dương, Bồ Tát nghe tiếng xưng danh bèn cứu
tế. Đấy gọi là “chúng sanh nghe Quán Âm, Quán Âm nghe
chúng sanh”. Chúng sanh nghe Quán Âm là “hữu sở cầu”,
Quán Âm nghe chúng sanh là “hữu sở ứng”. Cảm ứng
đạo giao như thế chúng sanh liền
được giải thoát. V́ Quán Âm là tận hư không
khắp pháp giới, bất luận thời gian nào, bất
luận địa phương nào, chỉ cần nghe
thấy âm thanh cầu được thoát khổ của
chúng sanh, Bồ Tát lập tức đại từ
đại bi thị hiện trước mặt
người đó, giải cứu nỗi thống khổ,
khiến cho người đó đắc đại
giải thoát. Bởi thế, chữ Văn ở đây có tánh
chất đặc biệt trọng yếu.
Chúng sanh nghe Quán Âm, Quán
Âm nghe chúng sanh, đều là dùng tai nghe, v́ sao chẳng
đặt tên là Văn Thế Âm mà lại là Quán Thế Âm?
Chúng sanh chẳng thể dùng lẫn lộn sáu căn, nên
chỉ có thể dùng mắt thấy, tai nghe, Bồ Tát có
thể dùng lẫn lộn sáu căn nên mắt chẳng
những có thể thấy mà c̣n có thể nghe nữa, tai
chẳng những có thể nghe mà cũng có thể thấy.
Sở dĩ Quán Âm được gọi là Quán Thế Âm là
v́ Ngài có thể quán sát âm thanh để tầm thanh cứu
khổ. Hoặc có thể hiểu là: Chữ Quán ở trên
là trí huệ quán sát, chữ Thế Âm ở dưới là
cảnh giới được đức Quán Âm quan sát.
Bồ Tát dùng trí huệ năng quán để quán sát hết
thảy âm thanh khổ năo cầu cứu của hữu t́nh
trong thế gian, rồi sau đó lập tức dùng bi
nguyện hoằng thệ giải trừ thống khổ,
ban sự an vui cho quư vị; tiêu trừ, cứu thoát tai
nạn cho quư vị, ban cho quư vị sự tốt lành, không
nỗi khổ nào chẳng dẹp, không nạn nào chẳng
cứu; bởi thế xưng là Quán Thế Âm. Chẳng phải
chỉ có thế, ngay trong lúc dùng trí năng quán để
quán cảnh là những âm thanh cầu cứu giải
trừ khổ nạn của chúng sanh trong thế giới,
th́ cảnh và trí đều chỉ là nhất tâm, bởi
vậy gọi là Quán Thế Âm.
Nếu dựa theo
lời kinh Bi Hoa giới thiệu về nhân địa
của Quán Âm th́ quá tŕnh phát tâm của Ngài như sau: Trong vô
lượng kiếp trước, Bồ Tát là phàm phu,
từng làm thái tử thứ nhất của Chuyển Luân
Thánh Vương. Đương thời, có Bảo Tạng
Phật xuất hiện trong đời, đệ nhất
thái tử vô cùng tin kính Tam Bảo, đặc biệt phát
tâm cúng dường Phật, Tăng ba tháng; lại c̣n
đối trước Phật Bảo Tạng phát
Đại Bồ Đề tâm, lập đại thệ
nguyện: “Giả sử có chúng sanh khổ năo trong
thế giới, v́ cầu giải cứu nỗi thống
khổ bèn xưng niệm danh hiệu con, con dùng thiên nhăn
thấy được, thiên nhĩ nghe được,
nếu con chẳng thể cứu thoát nỗi khổ
ấy, con thề quyết định chẳng thành
Phật”. Bảo Tạng Phật thấy Ngài phát
đại nguyện như thế, biết là thật khó
có, bởi thế, đối với hoằng nguyện
dẹp khổ ban vui ấy, bèn hết sức tán thán,
lại c̣n đặt hiệu là Quán Thế Âm. Từ
lời giới thiệu của kinh Bi Hoa, ta biết Quán
Thế Âm Bồ Tát được danh hiệu ấy là do
sự phát tâm khi c̣n tu nhân, danh hiệu ấy là do Bảo
Tạng Phật đặt.
Kinh này giải thích danh
hiệu Quán Thế Âm ước theo mặt lợi tha. Kinh
Lăng Nghiêm giải thích danh hiệu Quán Thế Âm
ước trên mặt tự lợi. Tự lợi là Trí,
lợi tha là Bi. Bởi vậy danh hiệu Quán Thế Âm
thật sự bao gồm những ư nghĩa tự lợi,
lợi tha, Bi Trí song vận (vận dụng cả Bi lẫn
Trí). C̣n như kinh Lăng Nghiêm giải thích danh hiệu Quán
Âm như thế nào, xin đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ
biết.
Nghe danh, xưng
niệm, được giải thoát, nay xin nêu một câu
chuyện cảm ứng để chứng minh:
Trong quá khứ, tại
đất Thượng Ngu thuộc tỉnh Triết Giang,
Trung Quốc, có một người buôn gạo chân thành
phụng tŕ thánh hiệu Quán Âm, trong nhà chỉ có hai vợ
chồng. Chàng buôn gạo là người lương
thiện, không việc ǵ cũng thường niệm thánh
hiệu Quán Âm, thậm chí trong mộng cũng c̣n nhớ
niệm Quán Âm Bồ Tát. Có bữa tối kia, vừa
mới đi ngủ, Bồ Tát đặc biệt báo
mộng, bảo anh ta sắp gặp đại nạn:
- Để giải
cứu đại nạn, ta có bốn câu dành cho anh, anh
phải nhớ kỹ nhé!
Gặp cầu
đừng dừng thuyền,
Gặp dầu
liền bôi đầu,
Đấu thóc ba
thưng gạo,
Nhặng xanh nâng
đầu bút.
Bốn câu nghe trong
mộng ấy, đến hôm sau anh ta nhớ kỹ bởi
lẽ giấc mộng ấy khác với những giấc
mộng b́nh thường. Chàng buôn gạo cảm thấy
rất kỳ quái, chẳng biết là điềm báo ǵ,
nhưng bởi tin tưởng đức Quán Thế Âm nên
chân thành ghi nhớ kỹ càng.
Đến một ngày
nọ, chèo thuyền qua xứ khác mua gạo kiếm
lời, thuyền đi chưa mấy chốc, chợt
cuồng phong, mưa dữ nổi lên. Thuyền phu trông
thấy đằng xa có một cây cầu lớn liền
muốn neo thuyền dưới chân cầu để
tạm tránh mưa gió. Lúc thuyền đến gần
dưới cầu, chàng buôn gạo chợt nhớ
đến câu “gặp cầu đừng dừng
thuyền”, lập tức bắt thuyền phu bơi
thuyền tách ra. Khéo sao, thuyền vừa tách khỏi
cầu, cầu liền gẫy sụp xuống. Nếu
thuyền chẳng tách khỏi cầu, ai nấy quyết
định phải chết. Chàng buôn gạo thấy t́nh
h́nh đó, biết là Bồ Tát cứu độ, bởi
thế ư niệm xưng niệm thánh hiệu Quán Âm càng thêm
kiền thành, tinh tấn.
Về sau, có một
chiều nọ, chàng lễ bái Quán Âm ở nhà, trong lúc
vừa lễ xuống, chưa kịp đứng lên,
đột nhiên chiếc đèn lưu ly treo trong Phật
đường rớt xuống, cả mặt đất
ngập ngụa dầu. Chàng buôn gạo nghĩ câu thứ nhất
đă linh nghiệm, chắc chắn câu thứ hai cũng
phải có lư do; v́ vậy, thấy dầu đầy
đất bèn cứ chất phác bôi dầu lên đầu
ḿnh. Một lúc sau đi ngủ, vô t́nh nửa đêm
thức dậy, nghe thấy trong pḥng có mùi máu tanh tưởi,
bèn đứng dậy thắp đèn t́m xem, thấy vợ ḿnh
đă bị kẻ khác giết. Tuy cảm thấy lạ
lùng quá, nhưng không biết làm sao, chỉ c̣n cách báo tin cho
bố vợ biết. Bố vợ hỏi đến nguyên
nhân, chàng nói không được một câu nào, bèn tra vặn
người trong nhà, phát hiện chàng rể tin Phật, con
gái ḿnh không tin Phật. Do đó, ông bố hoài nghi t́nh
cảm vợ chồng không tốt, quyết đoán con gái
ḿnh bị chàng rể giết chết, bèn đi báo quan.
Viên quan nhận
thấy sanh mạng rất quan
trọng, bèn truyền gọi chàng buôn gạo
đến thẩm vấn, chỉ thấy chàng rất thành
thực, chẳng giống phạm nhân giết
người, liền hỏi: “Trong buổi tối vợ
ngươi bị giết đó, tài vật trong nhà có
mất mát ǵ không?” Chàng buôn gạo thưa không, chứng minh
chẳng phải là bị giặc cướp giết.
Lại hỏi xóm giềng có ai thù hằn không? Chàng lái buôn
cũng đáp là không. Nhân viên thẩm án hỏi đến
đây thấy vụ án sát nhân này rất kỳ quái, đă
chẳng phải bị kẻ thù giết, lại cũng
chẳng phải do trộm giết, việc lại xảy
vào lúc đêm khuya, chẳng phải chính chàng lái buôn giết
vợ c̣n ai vào đây nữa? Bởi thế, phán quan (nhân
viên phán án) muốn cất bút ghép anh chàng buôn gạo vào
tội tử h́nh!
Chính trong lúc khẩn
yếu đó, chợt có một đoàn nhặng xanh lớn
bay đến bám đầy ngọn bút. Trong lúc viên phán quan
cảm thấy rất kỳ quái, chàng buôn gạo
đột nhiên vui sướng như phát cuồng, hét
ầm lên: “Hay quá xá! Hay quá xá! Nhặng xanh nâng đầu bút
lại thật sự ứng nghiệm rồi!” Viên phán quan
nghe kêu như thế, biết bên trong ắt có sự t́nh,
bèn hỏi chàng buôn gạo v́ sao vui sướng quá vậy?
Chàng buôn gạo nghĩ trong bốn câu đă có ba câu ứng
nghiệm, Bồ Tát nhất định gia bị ḿnh; nhân
đó, đem hết những sự t́nh đă thấy trong
mộng kể cho viên phán quan nghe. Viên phán quan là người
có học vấn, suy nghĩ trong bốn câu này, mấu
chốt nằm trong câu thứ ba, bèn cùng mọi
người nghiên cứu, hiểu ra câu “đấu cốc,
tam thăng mễ” (đấu thóc, ba thưng gạo) có
nghĩa như thế này: Một đấu thóc chỉ có
ba thưng gạo, tự nhiên những thưng kia phải
là cám (khang), như vậy hung phạm nếu chẳng
phải là Khang Thất th́ phải là Thất Khang[1].
Ngầm đi điều tra, quả nhiên trong địa
phương có người tên là Khang Thất, bắt
về hỏi mấy câu, Khang Thất chẳng thể không
thừa nhận ḿnh là phạm nhân giết người.
V́ sao Khang Thất
phải giết người? Khang Thất vốn gian díu
với vợ chàng buôn gạo, toan giết chàng buôn gạo,
do trong bóng tối ṃ phải cái đầu dính dầu
của chàng, tưởng là người vợ, nên bèn
giết kẻ đầu không có dầu, nào hay khéo thay
đă giết lầm người! Chân tướng của
hung án tự nhiên sáng tỏ. Phán quan liền phán Khang
Thất tội tử h́nh, chàng buôn gạo vô tội
được thả về nhà. Chàng buôn gạo trải
qua biến cố này, nhận biết Bồ Tát từ bi
quảng đại, lại thấy nhân sanh hư huyễn
chẳng thật, bèn phát tâm xuất gia cầu đắc
đạo quả! Phán quan cũng nhận thấy Bồ
Tát linh cảm rộng lớn, từ đấy tin sâu
Phật pháp. Bởi vậy, xưng niệm Quán Thế Âm
Bồ Tát có thể được giải thoát và cứu
tế!
Ở đây, có
lẽ có người hỏi: “Quán Âm là đại từ
đại bi, người niệm Quán Âm cũng rất
nhiều, cớ sao được giải thoát rất ít?”
Mấu chốt là cách niệm như thế nào! Kinh văn
dạy “nhất tâm xưng niệm” là một
điều tối trọng yếu! Nếu chẳng
thể nhất tâm nhất ư xưng niệm, chẳng
cần biết là niệm nhiều hay ít, hiệu quả
đều rất nhỏ. Cổ đức nói:
Khẩu
niệm Di Đà tâm tán loạn,
Hăm phá hầu lung
dă đồ nhiên!
(Miệng niệm
Di Đà tâm tán loạn,
Toạc hầu
rách họng uổng công thôi!)
Niệm Di Đà
như thế th́ niệm Quán Âm cũng giống như
vậy. Chúng ta chẳng cần phải từ sáng
đến tối niệm Quán Âm, cũng chẳng cần
phải cùng rất nhiều người niệm Quán Âm;
nếu như miệng niệm mà tâm tán loạn, tâm
miệng chẳng ứng với nhau, dù niệm cũng khó
được giải thoát! Nói “nhất tâm xưng danh”
nghĩa là chuyên nhất ư niệm, tập trung toàn bộ
tinh thần vào thánh hiệu Quán Âm, chẳng để cho ư
niệm nào khác xen tạp vào, câu này gối lên câu kia,
tiếp nối nhau, quên sạch hết thảy những ǵ
bên ngoài, khiến cho ta là người niệm cùng
đức Quán Âm được ta niệm hợp thành
một th́ mới có thể nói là “nhất tâm xưng danh”.
Nhất tâm xưng danh như vậy, niệm một
thời gian lâu sau sẽ tự nhiên đạt
được lợi ích, tự nhiên đạt
được giải thoát!
Chúng sanh trầm luân
trong sanh tử, bị các sự khổ bức bách, nói chung
là chẳng được tự do, tự tại. Nếu
muốn thoát luân hồi, chẳng bị các nỗi khổ
bức bách, thân tâm ḿnh được tự do, th́ trong
thời đại Mạt Pháp này, phương tiện
tối thù thắng nhất không chi hơn là nhất tâm
xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, tin tưởng Bồ
Tát đại từ đại bi, sẽ tầm thanh
cứu khổ khiến ta được giải thoát!
1.1.2.1.2. Biệt
thị tŕ danh cảm ứng (Dạy riêng từng
điều về sự cảm ứng của việc tŕ
danh)
1.1.2.1.2.1. Cứu
hỏa nạn (cứu nạn lửa)
Chánh kinh:
Nhược
hữu tŕ thị Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả,
thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng
thiêu, do thị Bồ Tát oai thần lực cố.
若有持是觀世音菩薩名者。設入大火。火不能燒。由是菩薩威神力故。
(Nếu có kẻ tŕ
danh vị Quán Thế Âm Bồ Tát này, giả sử vào trong
lửa lớn, lửa chẳng thể đốt cháy
được, là do sức oai thần của vị
Bồ Tát này vậy).
Phần kinh văn
trước là đức Thế Tôn v́ Vô Tận Ư đáp
tổng quát, tiếp theo đây, Phật nói đến các
thứ lợi ích. Như phẩm kinh này nói, Quán Âm lợi
ích chúng sanh, về đại thể có hai phương
diện:
- Một là “minh ích” (ích lợi ngầm),
tức là âm thầm ban cho chúng sanh lợi ích.
- Hai là “hiển ích” tức là ban lợi ích cho chúng sanh
một cách rơ rệt.
Trong hai thứ lợi
ích này, bây giờ trước hết nói về minh ích. Trong
đây lại chia thành ba đoạn:
1) Cứu bảy
nạn.
2) Giải tam
độc.
3) Đáp ứng hai
thứ cầu mong.
Bảy nạn là
nạn lửa, nạn nước, nạn hắc phong,
nạn đao trượng, nạn La-sát, nạn gông cùm,
nạn oán tặc. Thế gian vốn rất nhiều tai nạn,
nhưng tối trọng yếu là bảy nạn vừa nêu
trên. Nạn thứ nhất trong bảy nạn là nạn
lửa, tức là những tai nạn do lửa lớn gây
ra. Gặp phải tai nạn này, nếu niệm thánh
hiệu Quán Âm sẽ được giải thoát.
Trong thế gian này,
bất luận đi đến địa phương
nào, bất luận trong thời điểm nào, chúng ta
đều có thể gặp phải một trận hỏa
tai lớn. Nhỏ th́ khiến chúng ta khuynh gia bại
sản, lớn th́ khiến chúng ta táng thân mất mạng.
Bởi thế, bất cứ ai cũng đều sợ
hỏa tai. Sợ lửa là một chuyện, lửa
bốc lên lại là chuyện khác; nhưng lửa đâu có
muốn thế, thường là do sơ ư, một
đốm lửa nhỏ nhoi có thể là nguồn tai
họa. Nếu gặp lúc đại hỏa tai, nên làm cách
nào? Nói theo thế tục là phải dốc tận sức
người t́m cách dập tắt. Ngoài ra nên trấn
tĩnh cái tâm ḿnh, đừng sợ hăi quá mức; bởi
lẽ chỉ có tâm trấn tĩnh mới chẳng
đến nỗi bị tổn thất lớn lao! Nếu
tâm chẳng thể trấn tĩnh, kinh hoảng, thất
thố, th́ càng phải chịu tổn thất nặng
nề hơn. Bởi vậy, lúc gặp đại hỏa
tai, cần nhất là phải trấn tĩnh, đừng
kinh hoảng. Nếu tâm hoảng ư loạn, chẳng
những không cứu văn được t́nh thế, trái
lại c̣n bị hại, phải nhớ kỹ để
tránh khỏi!
Nói theo Phật giáo,
lại c̣n có một biện pháp tối hảo, tức là
nhất tâm xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, bởi
vậy mới nói: “Nhược
hữu tŕ thị Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả,
thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng
thiêu” (Nếu có kẻ
tŕ danh ngài Quán Thế Âm Bồ Tát này, giả sử vào trong
lửa lớn, lửa chẳng thể đốt cháy
được). Chữ “tŕ” ở đây
thật là trọng yếu, giống như chữ “nhất
tâm” trong đoạn văn ở phần trên vậy.
Thông thường, ta hiểu Tŕ là nắm vật ǵ trong tay,
nắm chắc chẳng buông th́ gọi là “chấp tŕ”. Bây giờ vận dụng ư
tưởng ấy vào việc niệm tụng danh hiệu
Quán Âm, th́ gọi là “chấp tŕ danh hiệu”.
Những ǵ ḿnh chấp
tŕ chẳng buông đa số đều là những thứ
quư báu, nhưng thứ quư báu nhất trong thế gian không ǵ
hơn nổi Phật, Bồ Tát. Bởi thế, xưng
niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát cần phải chấp
tŕ cho thật chắc. Thế nào mới là chấp tŕ?
Tức là niệm trước, niệm sau nối tiếp
nhau chẳng đoạn, thẳng thừng mà niệm th́
gọi là “chấp tŕ”.
Chấp tŕ như thế nội tâm nhất định
rất kiền thành. Nội tâm kiền thành bèn
được Bồ Tát cảm ứng, dẫu vô ư lọt
vào đại hỏa, đại hỏa cũng chẳng
thể đốt được quư vị. V́ sao lửa
chẳng đốt được? Là do sức thần
thông oai đức của Quán Âm Bồ Tát ngầm gia bị
cho quư vị đấy. Bởi thế nói: “Do thị Bồ
Tát oai thần lực cố” (Do sức oai thần của vị Bồ Tát này
vậy).
Điều này có
thể luận trên hai phương diện sự thực
và đạo lư. Luận trên phương diện sự
thực, nếu là Phật giáo đồ đương
nhiên là tin, nếu chẳng phải Phật giáo đồ
sẽ chẳng thể tin nổi. Chẳng cần biết
là tin hay không tin, sự linh cảm của Quán Âm Bồ Tát
đích xác là có.
Dưới thời Măn
Thanh ở Trung Quốc, có một người giữ
chức quan Vận Lương, tên là Thái Ân Tương.
Chỗ ông ta ở tiếp giáp nhà dân, bốn bề khít khao
chẳng hở chút nào. Một lần, nhà hàng xóm đột
nhiên bốc cháy, mọi người lo chạy cứu
đồ đạc này nọ, riêng ḿnh quan Vận Lương
ngồi yên trong nhà, có người khuyên ông ta cũng không ra,
tựa hồ muốn cùng chết với căn nhà. Kể
ra cũng lạ, lửa từ nhà này bén sang nhà kia, nhà hàng xóm
bốn bề đều bị cháy rụi, riêng ḿnh nhà ông
ta chẳng bị cháy! Sau này có người hỏi ông ta v́
sao lại như thế? Ông bèn đáp:
- Trong lúc lửa
đang mấy cháy đùng đùng, tôi nhất tâm nhất ư
niệm chú Đại Bi, không c̣n có ư tưởng nào khác.
Trong nhà tôi, không riêng ǵ tôi niệm chú Đại Bi, mấy
đời đều niệm chú Đại Bi, mỗi
đời đều có linh nghiệm chẳng thể nghĩ
bàn, thoát được các thứ tai nạn khác nhau! Riêng
bản thân tôi niệm chú Đại Bi đă mười mấy,
hai mươi năm, mỗi lần gặp nạn gấp
nào đều thấy hóa hiểm thành an! T́nh h́nh bữa nay
trong quá khứ tôi đă từng trải qua, cũng do
niệm chú Đại Bi mà thoát hỏa tai. Do tôi có tín
niệm như vậy, tin tưởng Bồ Tát nhất
định thầm gia bị cho; bởi thế, mọi
người phải tin tưởng Bồ Tát, niệm thánh
hiệu Quán Âm nhiều hơn!
Lại nữa, vào
thời Diêu Tần ở Trung Quốc, có vị pháp sư
Pháp Trí một dạ chuyên xưng niệm thánh hiệu Quán
Âm. Có một lần, có việc phải đi qua nơi khác,
con đường Sư đi cắt ngang đồng
cỏ lau; ngay lúc đó, có người đến
đốt cỏ dại, lửa từ bốn mặt cháy
tới, vây kín pháp sư Pháp Trí vào giữa, chẳng có cách
nào thoát khỏi biển lửa. Ngay khi đó, pháp sư
lắng tâm suy nghĩ: “Ḿnh là người tín phụng Quán
Âm, giờ đây đem sanh mạng này giao cho Quán Âm”. Sư
bèn ngồi ngay ngắn giữa đám cỏ lau, nhất tâm
nhất ư niệm thánh hiệu Quán Âm, niệm một lúc lâu
sau, lửa to dần dần cháy lan gần đến thân,
Sư bị khói ngộp mê đi, cho rằng sanh mạng
đến đây là kết thúc! Thế nhưng lúc lửa
to tắt rồi, một trận gió mát thổi tới,
Sư dần dần tỉnh lại, nh́n chung quanh, tất
cả cỏ hoang đều bị cháy sạch, chỉ có
những nhánh cỏ mọc quanh ḿnh trong ṿng một
thước là chẳng bị lửa bén đến, do
đó chưa bị thiêu chết!
Căn cứ vào
những sự thực này, chứng tỏ thánh hiệu Quán
Âm có thể miễn trừ tai nạn. Quư vị
đừng vội kêu ḿnh niệm chẳng có linh nghiệm,
vấn đề là có nhất tâm xưng danh hay không?
Lại luận trên
phương diện đạo lư: Đối với câu “giả
sử vào trong lửa lớn”, chớ nghĩ lửa
ở đây nhất định phải là lửa có h́nh, có
tướng, mà phải nghĩ tới loại lửa vô
h́nh vô tướng, hoặc nói theo cách thông thường là
lửa nóng giận, chẳng phải là lửa bên ngoài mà là
lửa trong tâm. Lửa Sân trong tâm cũng có tác dụng thiêu
đốt, như nói: “Lửa nóng giận đốt cháy
rừng công đức”, điều này đáng sợ
nhất! Kinh Diệu Huệ Đồng Nữ nói: “Sân
hoại thiện căn, vật tăng trưởng!”
(Sân phá hoại thiện căn, chẳng cho tăng
trưởng). Người b́nh thường chỉ
biết lửa dữ ác hại bên ngoài đốt tiêu nhà
cửa, rừng cây, chẳng nghĩ lửa Sân trong tâm c̣n
độc dữ hơn lửa bên ngoài. Lửa bên ngoài
chỉ có thể đốt tiêu vật ngoài thân, cùng lắm
là đốt mất thân thể, c̣n công đức thiện
căn đă tu học, tích tập, bất luận cách nào [lửa
dữ bên ngoài] cũng chẳng thể thiêu được.
Chỉ có mỗi lửa Sân trong tâm ḿnh mới có thể
thiêu cháy thiện căn công đức. Bởi vậy,
cố nhiên là phải đề pḥng ngoại hỏa,
nhưng nội hỏa lại càng phải gia tâm đề
pḥng.
Ngăn ngừa nội
hỏa bằng cách nào? Tức là ngay trong lúc nội tâm
nổi nóng, chợt nhớ đến Quán Âm đại
sĩ, kiền thành niệm thánh hiệu Quán Âm, khác nào
hắt một chậu nước lạnh thấu tận
tâm, dập tắt lửa Sân, tự nhiên rừng công đức
thiện căn chẳng bị đốt mất. Nếu
đổi “thiết nhập đại hỏa, hỏa bất
năng thiêu” (giả
sử vào trong lửa lớn, lửa chẳng thể thiêu)
thành “giả sử vào trong lửa Sân, lửa Sân chẳng
thể thiêu” có phải là rất hợp đạo lư hay
không? Người không tin Phật pháp há chẳng thể
cũng tin tưởng điều này hay sao? Bởi
thế, Phật pháp là vô cùng hợp t́nh,
hợp lư, chẳng phải là kể chuyện cổ
tích, nói huênh hoang đâu!
Lửa Sân có thể
đốt cháy hết thảy, nóng giận chẳng ích
lợi ǵ cho người khác, rất nhiều kinh đă
nhắc đến. Nay tôi dẫn kinh Di Giáo để nói: “Sân
khuể chi hại, tắc phá chư thiện pháp, hoại hảo
danh văn, kim thế, hậu thế nhân bất hỷ kiến,
đương tri sân tâm thậm ư mănh hỏa, thường
đương pḥng hộ, vô linh đắc nhập” (Cái hại của nóng giận
chính là phá các thiện pháp, hư hoại tiếng tăm
tốt, người đời này đời sau chẳng
thích trông thấy. Phải biết tâm Sân c̣n hơn lửa
mạnh, thường phải đề pḥng, ngăn
ngừa chẳng để cho nó vào được). Thật
đấy! Nếu là người thường nổi nóng,
dù các mặt khác rất tốt, ai cũng chẳng thích
gặp người đó. Như ta thường nghe nói: “Gă
đó làm việc rất giỏi giang, cũng chịu giúp
đỡ người khác, có thể nói những lời
tốt lành, có thể biên chép được, nhưng tánh
nóng quá!” Nếu có ai muốn gặp kẻ kia, những
người khác đều nói: “Tôi chẳng muốn gặp
anh ta, v́ tánh anh ta nóng quá!” Bởi thế, lửa Sân
độc hại nhất! Thật ra, có những lúc
chẳng nên nổi nóng, nhưng do không tự khống
chế được ḿnh, bất ngờ nổi giận
đùng đùng! Trong lúc đó, nếu có thể nghĩ
đến Quán Thế Âm Bồ Tát, nóng giận lập
tức mất tiêu!
Trong quá khứ, có
kẻ tục nhân hỏi vị pháp sư xuất gia câu này:
- Pháp sư! Tôi vốn
có một bệnh không ai trị lành được,
chẳng hay pháp sư có trị được bệnh cho
tôi hay không?
Pháp sư hỏi:
- Ông mắc bệnh ǵ?
- Nói thật ra, về
mặt thể chất tôi chẳng có bệnh ǵ, chỉ là
thường hay nổi nóng. Lúc nổi nóng giống như
sấm sét vậy đó, ai thấy cũng sợ, tôi
vốn chẳng muốn nổi nóng, nhưng lúc gặp
chuyện bèn tự nhiên đổ quạu giống như
trời sanh vậy đó, muốn nóng là nóng, thật không có
cách ǵ!
Gă tục nhân thưa
cùng pháp sư như thế. Pháp sư lại bảo:
- Quái lạ! Rất
nhiều bệnh tôi từng nghe qua, nhưng chưa bao
giờ nghe căn bệnh như thế.
- Nhà thầy đúng là vô lư quá, nóng
giận ai mà chẳng hiểu cơ chứ?
Pháp sư nói:
- Không phải là không
hiểu, ông nói nóng giận do trời sanh mà thành, xin ông
đem nó ra cho tôi coi, chắc chẳng ngại ǵ!
Gă tục nhân nghe
vậy, không khỏi ngẩn ngơ, suy nghĩ: “Đem
bệnh cho ổng coi, tuy nội tâm có bệnh, nhưng làm
sao đem cho ổng coi được?” Suy đi nghĩ
lại, không cách chi đem ra cho coi được, bởi
vậy, gă bảo pháp sư:
- Thầy muốn tôi
đem cái bệnh cho thầy coi, nhưng làm sao đem
được?
Nhân đó, pháp sư
nói:
- Đă không có cách ǵ
đem bệnh cho người khác coi, ông nói là tự nhiên
trời sanh, sao tự nhiên chẳng c̣n?
- Đúng vậy!
Nếu là trời sanh ra, ắt phải đem cho
người khác coi được. V́ chẳng phải là
trời sanh nên chính ḿnh phải rất chú ư!
Gă hiểu ra: Không
có tánh nóng nào do trời sanh, chỉ có cách do tu dưỡng
sẽ tự khống chế được t́nh cảm
của ḿnh, chẳng để tánh nóng lạm phát, sự
nóng giận tự nhiên chẳng bốc lên nữa. Do
vậy, bệnh nóng tánh của gă tục nhân đó không
cần uống thuốc mà tự lành. Đúng là làm
người trong thế gian bất luận gặp phải
chuyện ǵ, chỉ cần chịu lùi một bước,
suy nghĩ một chút, tánh nóng giàn trời cũng chẳng
thể phát tác được. Cội nguồn của tánh
nóng chẳng phải do nguyên nhân nào khác, đại đa
số là do chẳng khống chế được t́nh
cảm. Nếu có thể khéo khống chế t́nh cảm,
nhất định sẽ chẳng nóng giận bừa băi!
Khống chế
lửa Sân chẳng để nó thiêu đốt th́ niệm
thánh hiệu Quán Âm là biện pháp tốt nhất. Ngoài ra c̣n
có cách khống chế tánh nóng như sau: Nóng giận đa
phần là do người khác mà phát khởi, nếu có ai
chọc giận, phê b́nh, chê bai, bỡn cợt, khinh mạn,
nhục mạ v.v… sẽ dễ làm người ta nổi
nóng nhất.
Nếu lúc đó, quư
vị có thể dùng cách sau đây, ắt tánh nóng chẳng
đến nỗi phát sanh: Trước hết, xét coi
kẻ nói những lời đó là hạng người như
thế nào, là quân tử hay kẻ tiểu nhân? Nếu là
bậc quân tử rất mực quy củ th́ chính ḿnh
phải phản tỉnh! Quân tử chẳng tùy tiện phê
b́nh người khác, bây giờ phê b́nh ḿnh, nhất
định ḿnh có nhiều khuyết điểm. Nếu
không, quân tử tuyệt đối chẳng phê b́nh ḿnh. Ḿnh
phải nên tiếp nhận lời người đó phê
b́nh, sửa đổi khuyết điểm của ḿnh, sao
c̣n nổi nóng đối với người đó cơ
chứ? Nổi nóng trước mặt bậc chánh nhân quân
tử đúng là chuyện khó coi lắm! Nếu kẻ
tiểu nhân phê b́nh, lời kẻ tiểu nhân bận tâm làm
ǵ? Nếu cùng kẻ tiểu nhân so đo, hóa ra ḿnh cũng
là tiểu nhân ư? Thậm chí c̣n kém hơn tiểu nhân
nữa kia! Nghĩ như thế dù có muốn nổi nóng,
cũng nổi nóng chẳng được.
Nói chung, quán sát
đối phương chẳng cần biết là quân
tử hay tiểu nhân đều chẳng nên nổi nóng!
1.1.2.1.2.2. Cứu
thủy nạn (cứu nạn nước)
Chánh kinh:
Nhược
vị đại thủy sở phiêu, xưng kỳ danh
hiệu, tức đắc thiển xứ.
若為大水所漂。稱其名號。即得淺處。
(Nếu
bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu
Ngài liền được chỗ cạn).
Đây
là thủy nạn, nạn thứ hai trong bảy nạn. Đại thủy cũng đúng là
một tai nạn hết sức lớn. Như trong năm
Dân Quốc 48 (1959), Đài Loan gặp nạn đại
thủy tai nhằm ngày mồng Bảy tháng Tám, năm Dân
Quốc 49 (1960) gặp trận lụt lớn hôm mồng
Một tháng Tám, đều là những trận thủy tai bi
thảm, nặng nề chưa từng có. Quư vị xem báo
chí tường thuật, chỉ biết là tai nạn
rất nặng, c̣n rốt cuộc nghiêm trọng
đến mức độ nào, chỉ sợ quư vị
chẳng tưởng tượng nổi đâu!
Lúc trận lụt
mồng Bảy tháng Tám năm Dân Quốc 48 xảy ra, chính
tôi đang ở Đài Trung, lúc nước dâng lên, từng
dăy từng dăy nhà bị nhận ch́m, từng gốc
từng gốc cây bị nước xoáy tróc gốc, cả
cánh đồng màu mỡ rộng lớn lập tức
bị nước trào biến thành hoang sơn loạn
thạch, đường sắt bị xoáy đứt,
cầu sắt bị nước ngập kín, gia súc bị
cuốn phăng theo ḍng nước, người bị
chết đuối. Bởi vậy, cơn đại
thủy tai có thể làm cho người ta khuynh gia bại
sản, táng thân mất mạng, không ai chẳng sợ
thủy tai.
Thế nhưng
thủy tai thiên nhiên không cách ǵ đề pḥng
được, ngoại trừ tận nhân lực, không
cách ǵ trốn tránh được. Phật pháp cho rằng
niệm Quán Âm là tốt nhất, bởi vậy, kinh
dạy: “Nhược vị đại thủy sở phiêu,
xưng kỳ danh hiệu, tức đắc thiển xứ”
(Nếu bị
nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Ngài,
liền được chỗ cạn)”. Lúc một cá
nhân bị nước lớn cuốn trôi, sanh mạng
rất nguy hiểm, trong lúc khẩn yếu đó, nếu có
thể nhất tâm xưng niệm thánh hiệu Bồ Tát,
ngay lập tức sẽ từ chỗ rất sâu
đến được chỗ rất cạn, sanh
mạng được thoát hiểm! Bởi thế, lúc
bị nước lớn cuốn trôi, tối khẩn
yếu là đừng quên Đại Từ Đại Bi
Quán Âm Bồ Tát!
Trước hết,
tôi nêu lên sự cảm thông về mặt sự
tướng để thuyết minh chuyện thoát khỏi
thủy nạn. Theo sách Pháp Hoa Cảm Thông, vào đời
Đường ở Trung Quốc, có chàng Sầm Cảnh
Nhân, từ nhỏ đă niệm phẩm Phổ Môn. Có
lần, do có việc phải ngồi thuyền qua Tô Châu.
Thuyền đi chưa được bao lâu, chợt chao nghiêng,
mọi người rớt hết xuống nước.
Sầm Cảnh Nhân đang ở dưới nước,
nghe có người nói: “B́nh thời niệm phẩm Phổ
Môn, bây giờ nhất định được thoát
thủy nạn!” Nghe âm thanh như vậy ba lần tất
cả, sau đó, tự nổi trên mặt nước, trôi
tấp vào bờ, thật sự thoát khỏi thủy
nạn.
Những chuyện
giống như vậy ở Trung Quốc thấy rất
nhiều, chúng ta chẳng thể không tin! Thủy tai có
thể phát sanh bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc
nào, trong tâm lư chúng ta phải nên chuẩn bị như
thế, lại nên có tín niệm như thế, lỡ ra
gặp phải thủy tai, ngàn vạn phần nhớ
kỹ thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Kế tiếp,
giảng về mặt đạo lư: Đại thủy
cũng chẳng phải là đại thủy sóng vỗ
ngất trời bên ngoài, mà là nước ái dục trong tâm
chúng ta. Nhân loại chúng sanh rất nhiều kẻ ch́m
đắm trong nước ái dục, táng thân, mất
mạng. Nhà Phật nói:
Ái hà thiên xích lăng,
Khổ hải
vạn trùng ba,
(Sông ái ngàn thước
sóng,
Biển khổ sóng muôn
trùng)
Đủ biết là
sức nước ái dục lớn lao. Thử xem hiện
tại bao nhiêu thanh niên nam nữ trái nghịch cha mẹ và
những người thân thuộc ngụp lặn trong
vũng xoáy sông Ái, chẳng đạt mục đích
chẳng thôi, thậm chí tự sát cả đôi! Bởi
vậy, phải biết đại thủy chính là nước
tham ái. Nếu chúng sanh đắm ch́m trong nước ái
dục, th́ Phật dạy chúng ta chỉ có biện pháp
cứu văn là đề khởi chánh niệm, nhất tâm
xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, để cầu
khải phát trí huệ, sau đấy mới dùng lửa trí
huệ đốt tiêu nước ái dục, mới ḥng cứu
văn, bất tất phải hy sinh! Bởi vậy,
người tu học Phật pháp phải thường
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ tuyệt đối
hữu ích cho chúng ta.
Phật pháp coi ái
dục là căn bản của sanh tử. Sở dĩ chúng
sanh chẳng thể thoát khỏi ṿng sanh tử, gốc
bệnh là do ái dục. Kinh Tứ Thập Nhị Chương
nói: “Nhân hoài ái dục, bất kiến đạo giả,
thí như trừng thủy, trí thủ nhiễu chi, chúng nhân
cộng lâm, vô hữu đổ kỳ ảnh giả. Nhân dĩ
ái dục giao thác, tâm trung trược hưng, cố bất
kiến đạo. Nhữ đẳng Sa-môn, đương
xả ái dục, ái dục cấu tận, đạo khả
kiến hỹ” (Người
ôm ḷng ái dục chẳng thấy đạo th́ ví như
lấy tay khuấy nước lặng, mọi
người cùng đến, không ai thấy được
h́nh ảnh. Con người do ái dục xen tạp, những
thứ nhơ bẩn trong tâm nổi lên, nên chẳng
thấy đạo. Hàng sa-môn các ông nên bỏ ái dục, cấu
nhơ ái dục hết rồi mới thấy
được đạo vậy). Người
đời bị ái dục mê hoặc, bởi vậy
cả một đời chẳng thấy chân lư, chẳng
có cách nào giải thoát sanh tử! Như một chậu
nước thanh tịnh, vốn có thể soi
được mặt, do bị người ta dùng tay
khuấy động, tạo thành nhiều gợn lăn
tăn, bởi vậy bất cứ ai đến soi bóng
đều chẳng thể thấy được dung
mạo của chính ḿnh.
Một niệm tâm
của con người bị ái dục làm mê, suốt ngày
vọng tưởng tơi bời, làm sao thấy
được chân lư? Do bởi như vậy, chẳng
những hàng sa-môn xuất gia mà ngay cả mỗi một
người học Phật đều phải nên cắt
bỏ ái dục, cắt ngang ḍng ái dục, th́ bổn tâm
sẽ khôi phục thanh tịnh, sẽ thấy chân lư
được giải thoát!
1.1.2.1.2.3. Cứu
la-sát nạn
Chánh kinh:
Nhược
hữu bách thiên vạn ức chúng sanh, vị cầu kim,
ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân châu
đẳng bảo, nhập ư đại hải,
giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng,
phiêu đọa La Sát quỷ quốc, kỳ trung
nhược hữu năi chí nhất nhân, xưng Quán Thế Âm
Bồ Tát danh giả, thị chư nhân đẳng giai
đắc giải thoát La Sát chi nạn.
若有百千萬億眾生。為求金銀琉璃硨磲瑪瑙珊瑚琥珀真珠等寶。入於大海。假使黑風吹其船舫。漂墮羅剎鬼國。其中若有乃至一人。稱觀世音菩薩名者。是諸人等皆得解脫羅剎之難。
(Nếu có trăm
ngàn vạn ức chúng sanh v́ cầu các món báu: vàng, bạc,
lưu ly, xà cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân châu v.v… vào
trong biển cả, giả sử hắc phong thổi
thuyền của họ trôi giạt vào nước quỷ
La Sát, trong ấy nếu có dù chỉ một người,
xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát th́ những
người đó đều được thoát khỏi
nạn La Sát).
Đây là nạn
quỷ La Sát thứ ba trong bảy nạn. Nạn gió trong
kinh gọi là “hắc phong”. Rốt cuộc hắc
phong là loại gió nào chẳng biết rơ lắm, chỉ
cần biết là một thứ phong tai nghiêm trọng.
Những người sống ở Đài Loan Bảo
Đảo đều có kinh nghiệm tương
đương. Tại Đài Loan mỗi năm đến
mùa Đài Phong[2],
oai lực do Đài Phong phát sanh đúng là khiến
người nghe kinh hăi. Mỗi năm, tổn thất do
Đài Phong gây ra cũng rất nghiêm trọng. Đó là thiên
tai, ngày nay khoa học phát triển, cũng chưa t́m ra cách
nào tiêu diệt được Đài Phong, chỉ đành
đề cao cảnh giác, lập cách dự pḥng ngơ hầu
giảm thiểu tổn hại mà thôi. Bởi vậy, nó là
một đại tai nạn!
Câu “nhược hữu
bách thiên vạn ức chúng sanh” (nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh) h́nh
dung thật nhiều chúng sanh. Chúng sanh nhiều như
thế ấy “vị cầu kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân
châu đẳng bảo, nhập ư đại hải” (v́ cầu các món báu: vàng, bạc,
lưu ly, xà cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân châu v.v… vào
trong biển cả): Trong bảy thứ báu
được nói đến ở đây, kim là vàng ṛng,
ngân là bạc trắng, lưu ly (veluriyam) là
chất báu có màu xanh, xa cừ là một thứ báu có màu
trắng, mă năo là chất báu có màu hồng, báu san hô có h́nh
dạng như cành cây, hổ phách là do nhựa thông ngàn
năm biến thành, chân châu là từng hạt bảo châu.
Bảy báu đại đa số sanh từ biển
cả, bởi vậy người đi t́m của báu
thường kết thành đội vào biển thâu nhặt
chất báu. Vào biển t́m chất báu, nhất định
phải ngồi thuyền. Trăm ngàn vạn ức chúng
sanh đi t́m chất báu như thế ngồi thuyền vào
biển cả, thuyền đi chẳng bao lâu “giả
sử” gặp phải “hắc phong thổi thuyền
của họ trôi giạt vào nước quỷ La Sát”.
Tương truyền quỷ La Sát (Rāksasah) ăn thịt người, sống trong
những ḥn đảo trong biển, chuyên đợi
người đến nạp mạng. H́nh dạng của
chúng như sau: “Khẩu như huyết bồn, nhăn như
đồng linh, thủ như thiết xoa, thanh diện liêu
nha” (Miệng như
chậu máu, mắt như lục lạc đồng, tay
như chĩa sắt, mặt xanh, nanh chĩa), trông
rất đáng sợ. Do chúng cử động nhanh
nhẹn nên c̣n gọi là Tiệp Tật Quỷ.
Người cầu báu
chẳng may gặp phải hắc phong, thổi giạt vào
nước quỷ La Sát, chẳng cần phải nói, sanh
mạng rất nguy hiểm, ngay trong lúc ấy, “kỳ
trung nhược hữu, năi chí nhất nhân” (trong ấy nếu có dù chỉ
một người) trong số nhiều người,
“xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, thị chư
nhân đẳng, giai đắc giải thoát La Sát chi nạn”
(xưng danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ Tát th́ những người đó
đều được thoát khỏi nạn La Sát).
Có người nói:
Một người niệm Quán Âm th́ một người
được thoát nạn, c̣n đáng tin, chứ một
người niệm Quán Âm, trăm ngàn vạn ức chúng
sanh thoát nạn chẳng thể không khiến người
ta nghi ngờ! Thật ra, có ǵ đáng nghi đâu! Một cá
nhân trong lúc tại nạn gấp gáp đáng sợ, chỉ
cần nghe người khác niệm, dù miệng chẳng
niệm, trong tâm cũng đă có ấn tượng của
Bồ Tát, thậm chí trong tâm thầm niệm theo. Bởi
vậy, vô h́nh trung, cùng được lợi ích giải
thoát. Hiện thời chúng ta ra khỏi cửa, chẳng
cần biết là dùng phương tiện giao thông nào,
nếu có thể nhất tâm niệm Quán Âm cho bạn
đồng hành nghe thấy, lưu lại ấn
tượng về Bồ Tát, sẽ dần dần kích phát
người khác phát tâm học Phật, đây cũng là
đại công đức vậy!
Bây giờ, tôi sẽ
kể lại chuyện xưa xưng niệm Quán Âm thoát
khỏi nạn quỷ La Sát: Trong quá khứ, có một
thương chủ t́m của báu, dẫn năm trăm thương
nhân vào biển cả thâu nhặt của báu, thật sự
bị hắc phong thổi giạt thuyền vào nước
quỷ La Sát. Trong số đó, bốn trăm chín
mươi chín người đều tín ngưỡng Quán
Âm, bây giờ đại nạn đối đầu,
nghĩ không c̣n cách nào khác, chỉ c̣n cách nhất tâm xưng
niệm Quán Âm Bồ Tát. Nào ngờ bọn họ vừa
niệm như thế, bọn quỷ La Sát muốn
đến bắt người để ăn, thủy
chung chẳng thấy bóng một ai.
C̣n người
chẳng tin Quán Âm, chẳng những miệng không niệm,
c̣n cho là lúc gặp đại nạn niệm Quán Âm có ích ǵ?
Ngay lúc hắn ta nghĩ như thế, liền bị
quỷ La Sát trông thấy, sắp bị nó chụp bắt,
mới nghĩ niệm Quán Âm rất trọng yếu, bèn
gấp rút lớn tiếng niệm Quán Âm. Quỷ La Sát nghe
hắn niệm Quán Âm, vừa giơ tay chụp, lại
chẳng thấy hắn ta đâu nữa, mọi
người bèn cùng thoát nạn La Sát. Bởi vậy, trên
mặt sự tướng, gặp phải nguy nan nào,
xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, nhất định có
diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn!
“Đại hải” chỉ biển cả Phật pháp; “thất
bảo” chỉ Thất Thánh Tài trong Phật pháp, “hắc
phong” chỉ vô minh; “quỷ
La Sát” chỉ tâm giết hại; “thuyền
phưởng” chỉ sanh mạng của hữu t́nh. Ư
nói: Người thâm nhập biển cả Phật pháp,
muốn cầu tu tập, tích tụ Thất Thánh Tài,
chợt bị cuồng phong vô minh động khởi ư
niệm giết hại, khiến cho sanh mạng bị
mất.
Trước kia Trung
Quốc có câu chuyện cổ như sau: Trong quá khứ có
một viên tể tướng, đến thăm một
ngôi chùa, trong chùa có vị Tăng rất siêng năng tu
tập, mỗi ngày đều niệm phẩm Phổ Môn. Tể
tướng đi thăm chùa xong, ở sau vị Tăng
nghe ngài tụng kinh, lúc nghe tụng đến câu “giả
sử hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng phiêu
đọa La Sát quỷ quốc” (giả sử hắc phong thổi thuyền của
họ trôi giạt vào nước quỷ La Sát), viên
tể tướng chợt hỏi vị Tăng:
- Nhà
thầy vừa niệm hai câu kinh đó có nghĩa ǵ
vậy? Xin hăy giải thích cho ta nghe.
Vị tăng biết
rơ ông ta là tể tướng, vẫn cố ư đáp:
- Ông là người
chẳng hiểu đạo lư ǵ cả, người
xuất gia đang niệm kinh, lúc niệm đến
gần như nhập định, sao ông lại nêu câu
hỏi quấy rầy tôi? Muốn hỏi hăy đợi tôi
niệm kinh xong rồi hăy hỏi!
Viên tể tướng
thấy vị Tăng đối đáp chẳng chút khách khí,
trong tâm bực bội vô cùng, lập tức sai tùy tùng lôi
vị Tăng về nha môn, muốn xử vị Tăng
tội chết. Lúc đó, vị Tăng cười khanh
khách nói:
- Đúng là tôi đang
bị hắc phong thổi giạt thuyền bè, đọa
vào nước quỷ La Sát rồi!
Viên tể tướng
nghe nhà sư nói vậy, rất lấy làm lạ, bèn hỏi
v́ sao ông lại cười nói như thế? Vị Tăng
đáp:
- Ngài buông xuống không
được, bị gió vô minh lay động, tức là
hắc phong đấy. Ngài động sát tâm tức là
quỷ La Sát; bởi vậy tôi nói là bị hắc phong
thổi giạt vào nước quỷ La Sát.
Tể tướng nghe
lời giải thích ấy, chẳng những hiểu rơ ư
kinh mà c̣n hiểu rơ ư vị Tăng, chẳng những không
giết vị Tăng, trái lại c̣n tôn kính, đích thân
đưa vị Tăng về chùa. Vị tăng nhân
ấy có thể nói là người khéo thuyết pháp
nhất. Nếu ngay lúc đó, Ngài giải thích cách nào, gă
tể tướng cũng chẳng hiểu rơ vấn
đề, tin hay không tin cũng là vấn đề.
Hiện thân thuyết pháp như thế chẳng những
thật sự hiểu rơ, mà c̣n là tin tưởng thiết
tha nữa.
1.1.2.1.3. Kết
đáp đắc danh nhân duyên (kết lại
lời đáp về nhân duyên được danh hiệu
Quán Thế Âm)
Chánh kinh:
Dĩ thị nhân
duyên, danh Quán Thế Âm.
以是因緣。名觀世音。
(Do nhân duyên ấy,
tên là Quán Thế Âm).
Vô Tận Ư hỏi nhân
duyên Quán Thế Âm được danh hiệu ấy. Kinh này
đă giải thích những nguyên nhân, “do những nhân duyên
ấy” nên Bồ Tát được danh hiệu là Quán
Thế Âm. Đă hiểu rơ nhân duyên Bồ Tát
được danh hiệu ấy, ắt sẽ chẳng
c̣n nghi ngờ đối với Bồ Tát nữa. Hết
nghi sanh ḷng tin, tự nhiên đối với thánh hiệu
của Bồ Tát bèn xưng niệm khẩn thiết và chân
thành.
1.1.2.2. Quảng
hiển xưng danh cảm ứng (rộng
thuyết minh về những sự cảm ứng do
xưng danh)
1.1.2.2.1. Năng thoát
tứ nạn (Thoát bốn nạn)
1.1.2.2.1.1. Biệt
minh thoát nạn (Riêng nói về bốn nạn)
1.1.2.2.1.1.1. Năng
thoát lục nạn (Thoát nạn giết chóc)
Chánh kinh:
Nhược
phục hữu nhân, lâm đương bị hại,
xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, bỉ sở
chấp đao trượng, tầm đoạn
đoạn hoại, nhi đắc giải thoát.
若復有人。臨當被害。稱觀世音菩薩名者。彼所執刀杖。尋段段壞。而得解脫。
(Nếu
lại có người khi sắp bị hại mà xưng
danh Quán Thế Âm Bồ Tát, th́ những đao trượng
đang cầm đó liền găy từng khúc, bèn
được giải thoát.
Trong bảy nạn,
đây là nạn thứ tư: Đao trượng nạn.
Đao là dao bén, có thể cắt chặt sanh mạng,
Trượng là những thứ như côn, bổng, nhẹ
th́ làm tổn thương thân thể, nặng th́ tổn
hại sanh mạng. Bởi thế, bất luận con
người đi đến chỗ nào mà thấy có kẻ
vung đao, giáng gậy nói chung là tránh xa, chỉ sợ
lỡ bị đao trượng làm hại đến sanh
mạng. Nếu phạm phải phép nước, phải
bị quốc pháp xử phạt, có khi phải chịu
cực h́nh, nói theo thời cổ, tội chặt
đầu cần phải động đao; nếu
phạm pháp nhẹ hơn th́ bị đánh bằng bản
tử[3]
hoặc bằng côn, đều gọi là bị tội
Trượng. Chịu h́nh phạt đao trượng có
khác ǵ mắc tai nạn, bởi vậy phải tính cách né
tránh, không ai là chẳng sợ đao trượng. Nếu
gặp phải t́nh huống đó, nên làm cách nào đây? Kinh
dạy:
“Nhược phục
hữu nhân” (Nếu lại có người) hoặc là vô cớ bị hại, hoặc do phạm
pháp phải thọ h́nh, hoặc do gặp phải
cường đạo mà bị đánh, nói chung là “lâm đương
bị hại” (khi sắp
bị hại) mà nếu có thể nhất tâm nhất
ư “xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát”
th́ những đao trượng đang cầm trên tay
của những kẻ toan sát hại quư vị “liền
găy từng khúc” (tầm đoạn đoạn hoại)
khiến cho quư vị được giải thoát. Chữ “tầm”
(尋) có nghĩa là
rất nhanh, hay ngay lập tức. Đao trượng
đều là hung khí (những vật hung hiểm, bất tường),
nếu thật sự chạm vào thân, sanh mạng nhất
định bị tổn thương. Nay do niệm thánh
hiệu Quán Âm, đao trượng lập tức bị găy
nát thành từng khúc, mất đi tác dụng gây tổn
thương, cũng chẳng thể tổn hại tánh
mạng được nữa, bởi thế, ngay khi
đó liền được giải thoát.
Con người gặp
phải nạn đao trượng đều là do ác
nghiệp nhân duyên đă tạo trong đời này, hoặc
là tạo trong quá khứ. Nói thông thường, đă có ác
nghiệp như thế, vốn là khó trốn tránh, né tránh
nghiệp lực chẳng được; nay do sức nhân
duyên thiện nghiệp xưng niệm thánh hiệu Quán Âm
thắng được sức của nhân duyên ác nghiệp
đă tạo, nên có thể tiêu trừ được
tất cả ác nghiệp. Ác nghiệp đă tiêu, dù đao
trượng có gia hại cũng chẳng gia hại
được, nhân đấy bèn được giải
thoát.
Đao trượng có
thể nói là có đao trượng hữu h́nh và đao
trượng vô h́nh.
Về đao
trượng hữu h́nh, trong lịch sử Phật giáo
Trung Quốc, có một câu chuyện xưa như sau:
Trong
đời Đường, tại Trung Hoa, có thiền
sư Trí Giác, lúc chưa xuất gia làm quan Thái Thú. Lúc ông
đang làm quan Thái Thú, khu vực ông cai trị gặp
phải nạn đói chưa từng có, dân chúng bị
đói đến nỗi không có cái ǵ ăn, thậm chí ngay
cả rễ cỏ cũng không c̣n mà ăn, đúng là
khổ sở cực điểm! Nhưng kho lúa của
chánh quyền c̣n chứa rất nhiều lương
thực. Quốc gia chứa lương vốn dùng
để cứu đói, nhưng muốn sử dụng
phải xin phép nhà vua trước. Quan Thái Thú sợ thời
gian tấu tŕnh lâu lắc, đợi đến khi thánh
chỉ ban xuống, e rằng dân chúng chết đói
hết. Bởi đó, ông nổi ḷng bi, phát gạo cứu
đói trước đă, rồi mới tâu lên vua sau,
dụng tâm đương nhiên là tốt, nhưng chưa
được vua phê chuẩn th́ vẫn là phạm quốc
pháp. Bởi thế, vua băi chức ông, truyền giải
về kinh đô xử tội chém.
Nhưng viên
Thái Thú này là một vị quan thanh liêm, nổi tiếng trong
sạch, quốc vương biết tiếng. Bởi
vậy, lúc sắp hành h́nh, đặc biệt truyền quan
Giám Trảm chú ư xem thái độ, ngôn ngữ của quan
Thái Thú ra sao. Vị quan đương nhiên biết ḿnh làm như
vậy là phạm pháp, nhưng v́ nóng ḷng cứu nạn
đói cho dân chúng, biết rơ mà cố phạm, nên
đă sớm gác chuyện sống chết ra ngoài. Bởi
vậy, lúc sắp thọ h́nh chẳng những không tỏ
vẻ thống khổ, lại c̣n rất hoan hỷ nói: “Đem
cái mạng này cúng dường chúng sanh!” Người
cầm đao nghe nói vậy cảm thấy rất kỳ
quái, nên chẳng giết ông ta, trở về báo với
quốc vương. Vua nghe tâu, lập tức truyền
đem ông ta đến trước mặt vua, hỏi ông ta
v́ sao làm thế? Ông ta đáp rất tách bạch:
- Chẳng có nhân duyên
nào khác, chỉ là chẳng nỡ nh́n
thấy dân chúng đói khổ, phát xuất từ
một niệm đồng t́nh đó thôi!
Quốc vương
biết viên quan này thiện lương, truyền tha
tội. Viên Thái Thú do gặp chuyện này, biết nhân sanh
chẳng có ư nghĩa ǵ, bèn phát tâm xuất gia, pháp danh là Trí
Giác. Do đây biết rằng: Một người sắp
bị hại, chỉ cần sanh khởi một niệm
thiện tâm hoặc từ bi tâm, tâm ấy tương
ứng Bồ Đề tâm, liền được Bồ
Tát cứu tế, bèn thoát nạn đao trượng.
Lại thuật
chuyện do niệm Quán Âm mà được thoát nạn:
Trong quá khứ, ở
Trung Quốc có người sống tại địa
phương nọ, t́nh cảm vợ chồng rất
tốt, người vợ ngoài những việc cần
phải vén khéo trong nhà th́ chuyên môn niệm thánh hiệu Quán
Âm. Người chồng đối với vợ con
cũng rất tốt, ra ngoài làm ăn, mỗi khi cùng bè
bạn nhắc đến vợ đều khen ngợi
không ngớt miệng, nào là vợ hiền thục, nào là
vợ trinh tiết, nào là vợ biết giữ đạo
làm vợ. Có một gă bạn muốn chọc ghẹo anh
ta, kiếm cớ ṃ đến nhà anh ta, người vợ
thấy bạn chồng đến thăm, tiếp đón
anh ta rất lễ độ. Thời cổ, y phục
đàn bà mặc tay áo rất lớn, mỗi lần cử
động cánh tay, giơ ống tay áo lên xuống, mặt
trong cánh tay lộ ra. Trên cánh tay người vợ có
một nốt ruồi, bị gă bạn ḍm trộm
thấy. Gă bạn đó lúc sau gặp người chồng
bèn chọc ghẹo anh ta:
- Anh hay nói vợ anh
hiền lương, giữ phận làm vợ thế này
thế nọ, nhưng tay vợ anh ở chỗ này chỗ
nọ có nốt ruồi kín, tôi biết rất rơ, vậy
th́ vợ anh giữ đạo làm vợ như thế nào
cứ đó mà suy!
Người chồng
nghe nói chẳng biết đáp sao, bụng nghĩ ḿnh tin
tưởng vợ như thế, hóa ra vợ lại là
hạng đàn bà như thế, thật chẳng c̣n ra
thể thống ǵ nữa! Bởi vậy, phát phẫn,
nửa đêm cầm dao về nhà, kêu vợ mở cửa.
Lúc đang mở cửa, chẳng hỏi đầu
đuôi, vừa thấy mặt vợ liền đâm ngay
một nhát, giết xong liền bỏ chạy để
khỏi bị quan bắt.
Trong thời gian
lẩn trốn, nghĩ đến người vợ trinh
lương, chẳng hề có hành vi đó, biết là
bị người gạt gẫm, trong tâm rất hối
hận. Ít lâu sau, chẳng nghe nói có tin tức truy bắt
kẻ phạm tội sát nhân ǵ, bèn lén về nhà coi,
đến nhà thấy vợ ḿnh đang niệm thánh
hiệu Quán Âm, cảm thấy kỳ quái, liền hỏi:
- Mấy bữa
trước, có người nào đến nhà gơ cửa
không?
Người vợ
đáp:
- Gần đây không có
ai đến gơ cửa. Mỗi tối em đều
niệm thánh hiệu Quán Âm trong Phật đường, làm
sao mở cửa được?
Người chồng
nghe nói càng lấy làm lạ hơn, bèn kể rơ đầu
đuôi cùng vợ. Vợ chồng cùng cho là Quán Âm cảm
ứng, cùng đem tượng Quán Âm đang thờ ra xem,
quả nhiên thấy trên cổ tượng Quán Âm hăy c̣n
vết dao rành rành, chứng thực Quán Âm ra mở cửa
cứu nạn. Từ đó, vợ chồng càng thêm
kiền thành xưng niệm Quán Âm Bồ Tát.
Nói về đao
trượng vô h́nh th́ đao trượng chính là những
chướng ngại ghen ghét và tâm lư oán hận, năo loạn
đang uẩn tàng trong tâm mỗi người. Tâm ganh ghét
đúng là một loại đao tàn hại cùng cực,
như thấy ai có điều ǵ hơn ḿnh, hoặc
nhiều tiền của, hoặc địa vị cao,
hoặc danh dự lớn, chính ḿnh tự nhiên sanh ḷng ghen
ghét, khác nào bị đao kiếm cắt vào thân thể ḿnh
khó chịu đựng nổi; bởi vậy nói ghen ghét
giống như đao. Phẫn năo[4]
phát sanh từ tâm sân hận, nội tâm đang có phẫn năo
nung nấu, gặp chuyện chẳng như ư, chẳng có
cách nào đối phó, chỉ đành ôm hận trong ḷng,
cũng khó chịu khác nào bị lưỡi gươm bén
cắm vào thân; bởi vậy nói phẫn năo như đao.
Đang mang tâm lư đó mà nếu như có thể thành kính
niệm Quán Âm th́ phẫn năo, ghen ghét lập tức tiêu tan
ra mây khói, đồng thời lại c̣n nghĩ: Chúng sanh và
ḿnh có quan hệ mật thiết, v́ sao ḿnh lại ghen ghét,
phẫn năo họ? Nghĩ như vậy, tâm bèn thảnh
thơi, liền được giải thoát.
Trong kinh Pháp Hoa có
vị Thường Bất Khinh Bồ Tát rất đáng làm
gương cho chúng ta. Lúc ngài Thường Bất Khinh hành
đạo Bồ Tát, trông thấy bất cứ ai
đều đến lễ và nói: “Ngă bất cảm
khinh ư nhữ đẳng, nhữ đẳng giai đương
thành Phật” (Tôi chẳng
dám khinh quư ngài, quư ngài đều sẽ thành Phật).
Chúng sanh nghe xong chẳng những không tin lại c̣n rất
chán ghét, nhưng Bồ Tát vẫn cứ nói như thế.
Bởi thế, người ta chẳng khách khí, dùng ngói
gạch, đá, đất đáp lễ Bồ Tát, Bồ
Tát chạy ra xa, vẫn hoan hỷ nói như vậy: “Tôi
chẳng dám khinh quư ngài, quư ngài đều sẽ thành
Phật”. Đấy là tôn trọng nhân cách của
mỗi người chứ chẳng phải là nói giỡn.
Nếu mỗi
người đều có thể tôn trọng nhân cách
của đối phương th́ chẳng những
chẳng thể sanh khởi phẫn nộ, ghen ghét, mà
lại càng tôn kính người ta. Thông thường, sở
dĩ con người phẫn nộ, ghen ghét là do chẳng
tôn trọng nhân cách của người khác. Ngài
Thường Bất Khinh tuy bị người ta dùng
đao, trượng, gạch, đá đánh đập,
nhưng do tôn trọng con người, kết quả là
tất cả những ai từng tiếp xúc với Ngài
đều được Ngài cảm hóa tín phụng
Phật pháp.
Tục ngữ nói: “Nhu
thắng cương”. Đao trượng tượng
trưng cang cường, chỉ có nhu ḥa, nhẫn nhục
mới đối phó được. Bởi lẽ tuy
đao trượng là vũ khí sắc bén, chúng hoàn toàn vô tác
dụng trước mặt người nhu ḥa, nhẫn
nhục, bởi vậy liền bị găy từng khúc. Có cái
tâm phẫn nộ, ghen ghét, nhưng biết lùi một
bước, nghĩ “dùng nhu thắng cương” th́ tự
nhiên được giải thoát!
1.1.2.2.1.1.2. Năng
thoát quỷ nạn (thoát được nạn
quỷ)
Chánh kinh:
Nhược tam
thiên đại thiên quốc độ, măn trung Dạ Xoa, La
Sát, dục lai năo nhân, văn kỳ xưng Quán Thế Âm Bồ
Tát danh giả, thị chư
ác quỷ thượng bất năng dĩ ác nhăn
thị chi, huống phục gia hại?
若三千大千國土。滿中夜叉羅剎。欲來惱人。聞其稱觀世音菩薩名者。是諸惡鬼尚不能以惡眼視之。況復加害。
(Nếu
trong các cơi nước thuộc tam thiên đại thiên
đầy các Dạ Xoa, La Sát muốn đến năo hại
người, nghe họ xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát,
các ác quỷ đó c̣n chẳng thể dùng mắt ác
để ngó, huống c̣n gia hại?)
Đây là nạn
quỷ, nạn thứ năm trong bảy nạn. Trong phong
nạn ở phần trên có nói đến La Sát, nhưng
trọng tâm là hắc phong. Hoặc có thể hiểu là trong
phần trên chỉ nói đến một loại quỷ,
c̣n ở đây nói đến nhiều loại quỷ.
Dạ Xoa (Yaksha), Hán dịch là Tiệp Tật Quỷ,
chẳng những chúng có thể phi hành trên đất
liền mà c̣n có thể phi hành trên không trung. Quỷ đi
trên đất gọi là Địa Hành Dạ Xoa, quỷ
bay trên không gọi là Không Hành Dạ Xoa. La Sát đă giảng
ở phần trên, là một loại quỷ ăn thịt
người, cũng có khi dịch là Bạo Ác Quỷ.
Nếu lúc trong các cơi
nước thuộc tam thiên đại thiên thế
giới, đầy khắp trong đó đều là Dạ
Xoa, La Sát, thời thời khắc khắc muốn đến
năo loạn con người, người bị phiền
loạn đó chỉ cần xưng niệm Quán Âm, th́
quỷ Dạ Xoa, La Sát kia “văn kỳ xưng Quán
Thế Âm Bồ Tát, thị chư ác quỷ” (nghe họ xưng danh Quán Thế
Âm Bồ Tát, th́ các ác quỷ) chẳng dám nghĩ
đến chuyện dùng con mắt ác nh́n người
đó, huống hồ c̣n dám sát hại nữa ư? Bởi
vậy mới nói: “Thượng bất năng dĩ ác
nhăn thị chi, huống phục gia hại?” (C̣n chẳng thể dùng mắt ác
để ngó, huống c̣n gia hại?”)
Nói theo phương
diện thế gian: Tương truyền trong quá khứ có
một quốc gia khéo sao biên cương liền sát với
nước quỷ La Sát, quỷ La Sát thường
vượt biên giới sang bắt người về
ăn, khiến cho trong nước thường có
người bị mất tích. Quốc vương tuy yêu
mến nhân dân nhưng chẳng biết làm sao? Về sau,
quốc vương nghĩ ra một cách: Cùng quỷ
vương La Sát thỏa thuận, mỗi ngày đưa
một người sang nước quỷ La Sát cho La Sát
hưởng dụng. Quỷ vương La Sát cảm
thấy rất hay bèn tiếp nhận điều kiện
ấy. Bởi đó, quốc vương chiếu theo
sổ sách, mỗi ngày giao ra một người. Một hôm
sai nhằm con độc nhất của một nhà nọ,
người mẹ chẳng những thương con tha
thiết, mà từ đây c̣n bị tuyệt tử tuyệt
tôn, vấn đề chẳng đơn giản. Bởi
thế, bà đến cầu xin quốc vương, xin phái
con người khác đi, nhưng không được vua
chấp thuận, đành đem con đi giao.
May là bà mẹ tin
tưởng sâu xa đức Quán Âm, an ủi con đừng
khóc, chớ có sợ, hăy nhất tâm nhất ư niệm thánh
hiệu Quán Âm. Đứa con rất ngoan, nghe lời mẹ
niệm, đến lúc La Sát đến bắt
người, làm cách nào cũng chẳng thấy ai. Chẳng
cần phải nói, bà mẹ sau khi đưa con đi,
ở nhà không nghĩ ǵ khác, cũng nhất tâm nhất ư
xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, tin chắc mẹ con
kiền thành như thế sẽ được Quán Âm gia
bị, thoát khỏi nạn La Sát.
Bởi vậy,
đến sáng hôm sau, người mẹ t́m đến
chỗ đă bỏ con tối hôm trước, từ xa
đă nghe tiếng con gọi mẹ, biết con chưa
hề bị quỷ bắt đi, rất vui mừng
đem con về nhà, đem t́nh h́nh tâu rơ cùng quốc
vương. Quốc vương nghe tin rất tốt này,
lập tức hạ lệnh truyền nhân dân toàn quốc
từ nay trở đi đồng thanh xưng niệm thánh
hiệu Quán Âm. Từ đó trở đi, quỷ La Sát
thật sự chẳng thể nhiễu loạn
nước ấy được nữa, nhân dân trong
nước đều được sống tự do an
vui, chẳng c̣n bị quỷ La Sát uy hiếp. Bởi
thế xưng niệm thánh hiệu Quán Âm đúng là có
thể thoát khỏi nạn này!
Nói trên phương
diện đạo lư, thật sự ra, trong thế
giới nhân loại này, La Sát, Dạ Xoa vừa nói đó
chỗ nào cũng có, lúc nào cũng thấy, như hạng
nam nhân rất hung bạo, thích đánh đập, chửi
mắng người, ta gọi kẻ ấy là Ác La Sát, c̣n
hạng đàn bà cay độc, chỗ nào mắng
nhiếc, đánh lộn, giành giật đều có mặt,
ta gọi kẻ đó là Mẫu Dạ Xoa. Bởi thế,
trong thế giới này thật sự có Dạ Xoa, có La Sát,
nhưng mỗi người đều có thể trở
thành Dạ Xoa, La Sát. Bất quá, ngay khi quư vị sắp có
những biểu hiện đó, tốt nhất là hăy
nghĩ đến Quán Âm, thành tâm thành ư xưng niệm,
chẳng những chính ḿnh chẳng bị biến thành
Dạ Xoa, La Sát, mà Dạ Xoa, La Sát cũng chẳng dám
hại quư vị.
Đồng thời, ta
thường gọi quỷ là những tṛ ma mănh, quái
quỷ, tức là những việc được tiến
hành trong bóng tối. Nếu ai quỷ kế đa đoan,
dụng tâm cơ, bày mưu kế, làm thế này hăm hại
không được bèn nghĩ cách khác hăm hại, đó
chẳng phải là Dạ Xoa, La Sát th́ là ǵ? Chúng ta gặp
phải những hạng người đó, nếu
niệm Quán Âm Bồ Tát, trí huệ quang minh phát xuất
liền có thể hiểu rơ kế gian, khiến họ không
cách nào giở tṛ được, chúng ta cũng chẳng
bị họ hại, nên được giải thoát tự
tại.
1.1.2.2.1.1.3. Năng
thoát h́nh nạn (thoát được nạn tù
ngục)
Chánh kinh:
Thiết phục
hữu nhân, nhược hữu tội, nhược vô
tội, nữu giới già tỏa, kiểm hệ kỳ
thân, xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, giai tất
đoạn hoại, tức đắc giải thoát.
設復有人。若有罪。若無罪。鈕械枷鎖檢繫其身。稱觀世音菩薩名者。皆悉斷壞。即得解脫。
(Nếu
lại có người, dù có tội hay vô tội, c̣ng - cùm -
gông - xiềng trói buộc thân ḿnh, xưng danh Quán Thế Âm
Bồ Tát th́ [những gông cùm đó] đều găy nát,
liền được giải thoát).
Trong bảy nạn,
đây là nạn thứ sáu: Nạn c̣ng - cùm - gông
- xiềng. Nữu (鈕) là cái c̣ng tay, Giới (械) là cái cùm chân, Già (枷) là cái gông tṛng vào cổ, Tỏa (鎖) là những dây xiềng sắt trói
buộc trên thân. Những ai không bị những thứ này
trói buộc thân sẽ hành động tự do; nếu
không, bất luận làm ǵ, đều cảm thấy
rất bất tiện. Bởi thế, có ai muốn gặp
phải tai nạn này đâu?
Nếu lại có
một người nào đó, bất luận là có tội
hay là vô tội; có tội th́ đích thực là tự ḿnh làm
chuyện vi phạm pháp luật quốc gia; vô tội tức
là người không làm ǵ mà bị vu báng. Do đó, cơ quan
chấp pháp của quốc gia thấy kẻ đó phạm
tội nghiêm trọng, bèn dùng “gông, cùm, c̣ng, xiềng”
để trói buộc thân h́nh kẻ đó (“kiểm hệ kỳ thân”). Kiểm (檢) là ước thúc, Hệ (繫) là buộc ràng. Thân thể con
người vốn hoạt động tự do, v́ bị buộc
ràng nên thân thể chẳng được tự do.
Nhưng ngay trong lúc gặp phải t́nh huống đó,
nếu có thể chí thành xưng niệm danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ Tát th́ tất cả những thứ trói
buộc trên thân như gông, cùm, c̣ng, xiềng sẽ tự
nhiên đều găy nát, khiến cho người đó ngay
lập tức được giải thoát.
Nói trên phương
diện sự tướng: Tương truyền trong quá
khứ có một cặp vợ chồng, là Phật tử
quy y Tam Bảo, b́nh thời tin tưởng Quán Thế Âm Bồ
Tát nhất. Về sau, người chồng bị
người khác hăm hại, nói anh ta từng là kẻ
trộm, bởi thế bị chính phủ bắt
để trừng trị cho đáng tội. Anh ta nghe tin
ấy, biết làm thế nào cũng vô dụng, chỉ c̣n
cách bỏ trốn. Thế nhưng, chánh phủ chẳng
bắt được chánh phạm bèn bắt vợ
chịu tội thế chồng, tay mang c̣ng, chân mang cùm, giam
vào ngục cùng các phạm nhân khác.
Một ngày nọ,
đột nhiên nhà lao bốc lửa, phạm nhân bị áp
giải ra ngoài đường. Ngay lúc đó, có một
vị Tăng đi qua, nhân người vợ tin
tưởng Phật giáo, bèn kêu: “Sư phụ từ bi
cứu con”. Kể ra cũng lạ, vị Tăng đó
chính là thầy quy y của người vợ. Vị
Tăng bảo chị ta: “Bà muốn tôi cứu bà, tôi
thật chẳng có cách nào, bà thâm tín Quán Âm, ắt vốn
đă có tín niệm, hăy nhất tâm nhất ư xưng niệm
thánh hiệu Quán Âm, sẽ tự có linh nghiệm chẳng
thể nghĩ bàn, khiến cho bà được giải
thoát!” Từ đấy, người vợ ở trong
ngục, buông xuống vạn duyên, nhất tâm xưng danh.
Niệm hết ba ngày đêm, gông cùm trên thân chợt tự
nhiên đều hư nát, tuy có thể ra đi tự do,
nhưng lính gác canh ngay tại cửa, chẳng dám trốn
đi. Ngay trong lúc đang chần chừ đó, chợt nghe
trên không có tiếng bảo bà lập tức ra khỏi
ngục, chớ có do dự nữa. Căng mắt nh́n
bốn phía, quả nhiên cửa ngục mở rộng,
liền trốn ra khỏi ngục, lặng lẽ đi
đến hai, ba chục dặm, trên đường
gặp được chồng ḿnh. Hai người gặp
gỡ nhau trong cảnh hoạn nạn, mừng rỡ nói
chẳng nên lời. Từ sự thực đó, chứng
tỏ xưng niệm thánh hiệu Quán Âm đúng là giải
thoát được tai nạn gông cùm c̣ng xích.
Cố nhiên gông cùm
xiềng xích hữu h́nh khiến cho con người
chẳng được tự do, nhưng gông cùm xiềng
xích vô h́nh trói buộc chặt con người, nào ai có
biết! Như thường nghe nói “danh cương lợi
tỏa” (cương
tỏa danh lợi) chẳng phải là trói buộc
chặt chẽ người đời đó sao? Hăy thử
nh́n con người trong thế gian, có mấy kẻ
chẳng bị danh lợi lôi kéo? Danh lợi kéo sang Đông
liền sang Đông, danh lợi kéo sang Tây liền sang Tây.
Nhân v́ cầu danh, chỗ nào có danh bèn ṃ tới đó; nhân v́
cầu lợi, nơi nào có lợi bèn lần sang đó.
Tự ḿnh chẳng tự chủ được chút nào, c̣n
bàn chuyện tự do chi nữa? Tham danh th́ bị danh
buộc ràng, nên gọi là “danh
cương” (dây cương danh), cầu lợi bèn
bị lợi xiềng xích nên gọi là “lợi tỏa” (xiềng xích lợi). Già (cái gông)
là nói nam nữ mê đắm nhau, nam tham, nữ ái, kết
thành vợ chồng, tạo thành gia đ́nh, nam nắm
giữ nữ, nữ ràng buộc nam, người này
cũng chẳng ĺa bỏ được người kia,
đấy chẳng phải là gông cùm hay sao? Giới (cái cùm)
nói sâu sắc hơn, th́ mỗi cá nhân chấp ngă, do chấp
Tự Ngă thật có, suốt ngày bôn ba v́ cái Ngă, thời
thời khắc khắc hầu hạ cái Ngă, gặp chút
chuyện ǵ chẳng như ư, bèn nổi giận lôi đ́nh;
bởi thế Ngă Chấp chính là cái cùm.
Như vậy, theo
Phật pháp, người sống trong thế gian bị gông
cùm c̣ng xích hữu h́nh ràng buộc vẫn là chuyện
nhỏ, bị gông cùm c̣ng xích vô h́nh ràng buộc mới là chuyện
lớn. Gông xiềng hữu h́nh do người khác buộc
cho ḿnh, vẫn c̣n có lúc được giải thoát, chứ
gông xiềng vô h́nh do chính ḿnh tự buộc cho ḿnh; nếu
chính ḿnh chẳng lập cách giải trừ, người
khác không có cách ǵ giải trừ cho quư vị
được. Đức Phật vốn dạy cho chúng
ta rất nhiều phương pháp tự ḿnh giải
trừ gông cùm do chính ḿnh buộc, nhưng trong phẩm
Phổ Môn đang được giảng đây, chúng tôi
cho rằng biện pháp giản yếu nhất mà hữu
hiệu nhất là nhất tâm xưng niệm Đại Bi
Quán Thế Âm Bồ Tát để cầu sớm có ngày thoát
ly thế giới Sa Bà. Trong tâm có ư niệm như thế th́
đối với danh lợi thế gian, đối với
t́nh ái nam nữ, đối với cái Chấp Ngă của
chính ḿnh, sẽ tự nhiên đạm bạc, chẳng
lầm lạc chấp trước. Ràng buộc là do chính
ḿnh th́ tháo gỡ cũng do chính ḿnh, căn bản chẳng
phải là cầu từ bên ngoài!
1.1.2.2.1.1.4. Năng
thoát tặc nạn (thoát được nạn giặc)
Chánh kinh:
Nhược tam
thiên đại thiên quốc độ, măn trung oán tặc,
hữu nhất thương chủ, tương chư
thương nhân tê tŕ trọng bảo, kinh quá hiểm
lộ. Kỳ trung nhất nhân tác thị xướng ngôn:
- Chư thiện
nam tử! Vật đắc khủng bố! Nhữ
đẳng ưng đương nhất tâm xưng Quán
Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, thị Bồ Tát năng
dĩ vô úy thí ư chúng sanh; nhữ đẳng nhược
xưng danh giả, ư thử oán tặc đương đắc
giải thoát.
Chúng thương
nhân văn, câu phát thanh ngôn: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”,
xưng kỳ danh cố, tức đắc giải thoát.
若三千大千國土。滿中怨賊。有一商主。將諸商人。齎持重寶。經過險路。其中一人作是唱言。諸善男子。勿得恐怖。汝等應當一心稱觀世音菩薩名號。是菩薩能以無畏施於眾生。汝等若稱名者。於此怨賊。當得解脫。眾商人聞俱發聲言南無觀世音菩薩。稱其名故。即得解脫。
(Nếu
các cơi nước trong tam thiên đại thiên đầy dẫy
các oán tặc trong ấy, có một thương chủ
dẫn các khách buôn mang theo của báu quư giá, đi qua
đường hiểm; trong ấy có một người
xướng như thế này:
- Các thiện nam
tử! Chớ có sợ hăi! Các ông hăy nên nhất tâm xưng
danh hiệu Quán Thế Âm. Vị Bồ Tát này dùng vô úy thí cho
chúng sanh, nếu các ông xưng danh sẽ được
giải thoát nạn oán tặc này.
Các thương nhân
nghe nói, đều thốt lên: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ
Tát”. Do v́ xưng danh liền được giải thoát).
Đây là nạn
cuối cùng trong bảy nạn, tức là oán tặc
nạn. Oán (怨)
là oán gia, Tặc (賊) là đạo tặc (giặc cướp),
đều là những thứ bất lợi cho ḿnh. Nếu
gặp phải th́ không tổn mạng cũng bị
tốn tiền, nói chung là chẳng làm cho quư vị an
ổn.
Giả sử trong các
cơi nước thuộc tam thiên đại thiên thế
giới này, trong ấy đầy dẫy oán gia, đạo
tặc, chẳng cần phải nói nữa, cơi nước
như thế rất nguy hiểm, hầu hết mọi
người chẳng dám đi vào chỗ oán tặc
nhiều như hạt mè ấy. Thế nhưng hiện
thời có một vị thương chủ suất lănh các
khách buôn, mỗi khách buôn đều mang theo trân bảo
cực quư giá, cùng nhau đi qua con đường hiểm
nghèo ấy. Mọi người vốn dè dặt cẩn
thận, sợ gặp phải oán tặc cướp
đoạt tài bảo của ḿnh, tổn hại tánh
mạng ḿnh. Ngay trong lúc mọi người hồi hộp
tiến bước, trong số ấy chợt có một
người xướng như thế này:
- Các thiện nam
tử! Hiện thời chúng ta đang tiến vào một con
đường nguy hiểm vô cùng, nhưng mọi
người chớ sanh ḷng hoảng sợ, hoảng sợ
vô ích. Ngay trong lúc này, mọi người các vị chẳng
c̣n cách nào khác, chỉ có cách nên nhất tâm nhất ư xưng
niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, chỉ có
Bồ Tát mới có thể giải cứu tai nạn cho
chúng ta, khiến cho chúng ta an toàn vượt qua con
đường hiểm này. Bởi lẽ, vị Quán
Thế Âm này trong thế giới đây thường ban sự
vô úy cho chúng sanh; nếu các ông thật sự có thể
nhất tâm nhất ư xưng niệm danh hiệu Ngài, sẽ
đều được giải thoát tất cả oán
tặc trong tam thiên đại thiên thế giới này,
chẳng bị tổn hại mảy lông.
Các thương nhân nghe
nói niệm Quán Âm có lợi như thế, ngay lập
tức bèn cùng thốt lên: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát!”.
Do bởi xưng danh hiệu Ngài, ngay lập tức
liền được thoát khỏi cái nạn oán tặc,
tự do tự tại vượt qua con đường
nguy hiểm đó.
Cách để
đối phó đạo tặc là chớ có quyết
đấu cùng chúng, mà phải dùng đức để
cảm hóa. Quyết đấu chẳng những không
thể làm cho chúng hồi đầu mà chỉ càng làm cho
chúng tăng thêm dũng khí ăn cướp. Đức hóa
(cảm hóa bằng đức) mới thật sự
khiến cho chúng hồi đầu, chẳng c̣n phá nhà
cướp của nữa. Trong quá khứ, tại Trung
Quốc có vị ḥa thượng Hằng Thuận từng
gặp phải đạo tặc, kẻ giặc trông
thấy Ngài, câu đầu tiên gă nói là: “Đem tiền tài ra
nộp!” Ḥa Thượng Hằng Thuận vẫn ngồi
yên tại chỗ, tên giặc cướp rất tức,
rút dao kề ngang cổ dọa: “Nộp hay không nộp?” Ḥa
thượng Hằng Thuận chẳng nói câu nào, dốc
cạn túi cho tên cướp. Tên trộm cướp
được tiền liền lập tức chạy ra
ngoài, lúc ấy ḥa thượng Hằng Thuận mở
miệng, chỉ quát hai chữ: “Mạn tẩu!” (Hăy
chậm bước!) tựa hồ tiếng sét nổ, tên
cướp nghe thấy liền bị chấn động,
đứng đờ người ra, thật chẳng dám
đi nữa. Lúc đó, ḥa thượng Hằng Thuận
bảo gă:
- Người trong
thế gian bất luận làm chuyện ǵ đều
phải xét đạo lư, tiền ta cho ngươi đó là
dùng để cúng Phật, nay ngươi cầm đi,
lẽ ra phải cảm ơn Phật chớ!
Tên trộm lúc
đầu tưởng có chuyện ǵ quan trọng, nay nghe
nói chỉ phải cảm ơn Phật, bèn sốt sắng
hướng về Phật cảm ơn, rồi lập tức
co chân chạy mất! Việc đă qua tưởng là xong,
nhưng gă cướp về sau ăn trộm nơi khác,
bị chánh phủ bắt được, lúc thẩm
vấn, [nhân viên thuộc] cơ quan trị an hỏi gă:
- Sao mày ăn trộm
của người khác? Trước đây tiền của
ḥa thượng Hằng Thuận dường như
cũng bị mày cướp lấy, sao tánh cướp
vẫn không đổi vậy?
Tên trộm nói:
- Tôi chẳng hề ép
Ḥa Thượng lấy tiền, không tin, mấy thầy
cứ đến hỏi Ḥa Thượng coi!
Khi đó, cảnh sát
bèn giải tên cướp đến đối chất
với Ḥa Thượng. Ḥa Thượng Hằng Thuận
rất từ bi đáp:
- Gă này chẳng ép tôi
đoạt tiền, mà là tôi tự nguyện cho gă, có ǵ
để chứng minh hả? Lúc gă sắp bỏ đi,
từng hướng về Phật cảm ơn, như
vậy chứng tỏ gă không có cướp lấy!
Cảnh sát nghe,
biết Ḥa Thượng từ bi, không kết tội gă
trộm được, nhưng tên này phạm tội
ở nơi khác rất nhiều, chẳng thể v́ Ḥa
Thượng từ bi mà không kết tội gă, vẫn
phải cho gă nếm mùi vị song sắt! Lúc sắp đi,
Ḥa Thượng Hằng Thuận cầm tay gă trộm
bảo:
- Lần trước
anh tới đây, tôi rất thật t́nh, đem tất
cả tiền bạc tôi có tặng anh để làm anh
cảm động, khiến cho anh từ đây chẳng c̣n
trộm cắp nữa, nào ngờ tôi đạo đức
chẳng đủ, chẳng cảm động
được anh, khiến anh phạm phải phép
nước, bị quốc pháp trừng phạt, ngoài
việc hổ thẹn, tôi c̣n biết nói ǵ đây!
Tên trộm ấy
bị nhốt vào ngục rồi, mỗi lần nghĩ
đến những lời Ḥa Thượng Hằng
Thuận nói với ḿnh, trong ḷng cảm thấy áy náy
chẳng thể nói ra. Bởi thế, đau khổ hạ
quyết tâm, phát thệ từ nay trở đi không ăn
trộm nữa. Sau khi ra khỏi ngục, người thứ
nhất gă muốn gặp chính là Ḥa Thượng Hằng
Thuận, bày tỏ cùng Ngài từ nay trở đi quyết
chẳng làm những chuyện như vậy nữa,
thỉnh cầu Ḥa Thượng chứng minh cho con
được sám hối, nhờ vậy trở thành
một con người tốt!
Ở Dương Châu
quê tôi cũng có một câu chuyện từa tựa như
vậy: Có một vị cư sĩ tin Phật, trong nhà có
tất cả mười bảy người, trong lúc
ấy bọn đạo tặc đang lộng hành ở
quê nhà không ngớt, bọn họ nghĩ không c̣n cách nào khác
để né tránh cơn tai nạn này, lúc đó chỉ c̣n
biết tin tưởng Quán Âm, cả nhà xưng niệm
thánh hiệu Quán Âm. Có một buổi tối vị cư
sĩ ấy mộng thấy đức Quán Âm bảo ḿnh:
- Cả nhà ngươi
thành khẩn tŕ niệm thánh hiệu như thế, thật
là khó có, thế nhưng ngoại trừ mười sáu
người đương nhiên nhờ đó thoát khỏi
kiếp nạn này, bản thân ngươi chẳng thể
tránh khỏi tai nạn này là do định nghiệp khó tránh
khỏi. Ngày mai cướp đến nhà, trong số đó
có gă Vương Ma Tử đời trước
ngươi từng đâm gă mười sáu đao, bây
giờ do nhân duyên hội hợp, tất nhiên ngươi
bị Vương Ma Tử chém mười sáu đao,
nhưng do ngươi chân thành nên có thể thoát khỏi tai
nạn này.
Đến ngày hôm sau,
cư sĩ bảo người nhà núp vào chái nhà xong, tự
ḿnh chuẩn bị một bàn tiệc ê hề để
chiêu đăi Vương Ma Tử. Ngày hôm ấy, quả nhiên
Vương Ma Tử đến nhà, vị cư sĩ bèn
hỏi:
- Ngài có phải là
Vương Ma Tử hay không? Nếu đúng là ngài,
đời trước tôi thiếu nợ ngài mười
sáu đao, đời này xin trả nợ, chẳng qua tôi
mong ngài trước hết ăn bữa cơm này rồi
chém tôi mười sáu đao để kết thúc mối
oan trái giữa chúng ta.
Vương Ma Tử
nghe vậy cảm thấy rất kỳ quái, bèn hỏi
ngay:
- Làm sao ngươi
biết tên tuổi ta?
Cư sĩ đáp:
- Tôi là người tin
tưởng đức Quán Âm, trong mộng Bồ Tát
bảo cho tôi biết mối quan hệ trong quá khứ
giữa tôi và ngài.
- Đă là nhân quả
báo ứng, mảy may chẳng sai, quá khứ ngươi
chém ta mười sáu đao, hiện tại ta chém lại
ngươi mười sáu đao, giết qua, giết lại
như vậy, oan trái của chúng ta bao giờ mới
hết. Đă vậy, chẳng bằng bây giờ coi như
mối oan trái đă kết thúc.
Vương Ma Tử
nói như vậy xong, liền giở sống đao chém vào
thân cư sĩ mười sáu nhát, để trả
đũa mười sáu nhát đao trong quá khứ. Cư
sĩ đă thoát khỏi kiếp nạn ấy, mối oan
cừu giữa họ đă kết thúc.
Bởi thế, đúng
là niệm Quán Thế Âm Bồ Tát có điểm hay! Như
hai người vốn là oan gia, nay trở thành bạn bè
rất tốt; như vốn là đạo tặc, lại
biến thành người rất lương thiện.
Phải biết đấy đều là sự cảm
ứng chẳng thể nghĩ bàn của Quán Âm Bồ Tát.
1.1.2.2.1.2.
Tổng kết thần lực
Chánh kinh:
Vô Tận Ư! Quán
Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát oai thần chi lực, nguy nguy
như thị!
無盡意。觀世音菩薩摩訶薩威神之力。巍巍如是。
(Này
Vô Tận Ư! Sức oai
thần của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ṿi vọi
như thế).
Nói đến đây,
đức Phật lại tổng kết bốn nạn.
Phật gọi Vô Tận Ư để bảo cùng Bồ Tát:
Sức oai thần của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
đương nhiên là ṿi vọi vĩ đại như
thế, sao chẳng thành khẩn niệm Quán Thế Âm
Bồ Tát? “Nguy nguy” nghĩa là có dáng vẻ cao lớn,
h́nh dung nguyện lực, bi trí v.v… của Bồ Tát rộng
lớn vô biên, có thể độ thoát vô biên tai nạn và
khổ ách của chúng sanh.
1.1.2.2.2. Năng ly tam
độc (Ĺa khỏi ba độc)
1.1.2.2.2.1. Chánh minh ly
độc (Nói rơ về ĺa ba độc)
Chánh kinh:
Nhược
hữu chúng sanh đa ư dâm dục, thường niệm
cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly
dục. Nhược đa sân khuể, thường
niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc
ly sân. Nhược đa ngu si, thường niệm cung kính
Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly si.
若有眾生。多於淫欲。常念恭敬觀世音菩薩。便得離欲。若多瞋恚。常念恭敬觀世音菩薩。便得離瞋。若多愚癡。常念恭敬觀世音菩薩。便得離癡。
(Nếu
có chúng sanh nhiều dâm dục, thường niệm cung kính
Quán Thế Âm Bồ Tát liền được ĺa dục. Nếu nhiều nóng giận,
thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát
liền được ĺa giận. Nếu nhiều ngu si,
thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát
liền được ĺa si).
Bảy nạn vừa
kể trên tuy có thể nói là phiền năo bên trong, nhưng
nh́n từ mặt biểu hiện, rốt ráo vẫn
thuộc về ngoại cảnh. Ba độc hiện
đang được giảng đây mới thực
sự thuộc về nội tâm, mà cũng là những
phiền năo trọng yếu trong tâm chúng sanh. Tất cả
phiền năo của chúng sanh nếu nói trên phương
diện số lượng là vô lượng, vô biên,
nhiều như vi trần, như cát vậy; mà h́nh trạng
của phiền năo cũng cực vi tế, sâu xa, chẳng
dễ biết được. Chẳng qua nói thô thiển
cho dễ hiểu th́ chẳng ngoài ba độc phiền
năo, chúng chính là căn bản của hết thảy
phiền năo; bởi vô lượng vô biên phiền năo
đều từ ba thứ này sanh ra. Người tu học
Phật pháp nếu có thể viễn ly tam độc th́
cũng sẽ giải trừ được các phiền
năo khác. Do đây có thể thấy: Muốn đoạn
trừ phiền năo th́ chủ yếu là đoạn trừ
ba độc căn bản phiền năo. Bởi thế,
phẩm này đặc biệt đề cập ba
độc, dạy rơ cho chúng ta phương cách thật
sự viễn ly Tam Độc.
Tam Độc là ba
phiền năo tham, sân, si. V́ sao ba phiền năo ấy gọi là
Tam Độc? Là v́ trong những hoạt động
của thân tâm, ba thứ này thường gây độc
hại cho người tu hành, khiến cho hành nhân chẳng
thể tấn tu đúng pháp. Như người bị
rắn độc hoặc rồng độc cắn
phải, sẽ có nguy cơ sanh mạng tử vong, chẳng
thể tiếp tục sống c̣n. Tam Độc cũng
giống như thế, cũng có thể gây độc
hại cho Pháp Thân Huệ Mạng, khiến Pháp Thân chẳng
thể tăng trưởng, Huệ Mạng không cách nào khai
triển. Bởi thế gọi chúng là Độc; tự
độc, độc người, đúng là đáng chán
sợ. Phẩm Sư Tử Hống kinh Niết Bàn có câu: “Độc
trung chi độc, bất quá tam độc” (Độc nhất trong các
độc, không ǵ bằng Tam Độc). Bởi
thế, chất độc trong thế gian chẳng
phải là thứ chúng ta nên sợ, Tam Độc
độc nhất trong các độc mới đúng là
thứ khiến con người sợ hăi. Bởi vậy,
người tu học Phật pháp chủ yếu phải
đoạn trừ ba độc.
Xin hăy xem kinh Quán Âm chép:
“Tịnh ư tam độc căn, thành Phật
đạo vô nghi” (Thanh
tịnh ba độc căn, thành Phật đạo
chẳng nghi). Hành giả tu học Phật pháp nếu
có thể đoạn trừ được cội rễ ba
độc th́ chẳng những chứng được
quả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát không thành vấn
đề, ngay cả chuyện hoàn thành Phật quả
tối cao cũng chẳng c̣n là nghi vấn nữa. Bởi
thế, đoạn trừ ba độc phiền năo chính là
vấn đề trọng yếu duy nhất của chúng
ta. Ba độc như rễ cây, nhổ được
rễ th́ cành lá tự nhiên khô héo, bởi lẽ công năng
của cội rễ đă mất rồi. Bởi thế
tu hành đoạn phiền năo phải hạ thủ từ
căn bản. Chính v́ thế, kinh này chỉ giảng về
những căn bản phiền năo trọng yếu.
Danh xưng
của ba độc phiền năo, trong kinh có lúc chỉ
gọi đơn độc là tham, sân, si; có khi gọi kép
là tham dục, sân khuể, ngu si. Kinh này cũng dùng tên kép
để thuyết minh. Để giải thích tên kép,
cổ đức đă phân biệt như thế này:
- “Tự ái vi
dục, ái tha vi dâm” (Yêu chính ḿnh là dục, yêu
người khác là dâm): Con người và hết thảy
chúng sanh không ai chẳng tự yêu mến chính ḿnh. Yêu
đắm sanh mạng và thân thể của chính ḿnh,
muốn cho sanh mạng của chính ḿnh được sanh
tồn, đó gọi là Dục. Trong hiện thực
thế gian, sự yêu thương giữa nam nữ, đôi
bên yêu thương hành dâm, đó gọi là Dâm.
- “Tự phẫn vi
khuể, phẫn tha vi sân” (giận bực chính ḿnh là
Khuể, giận người khác là Sân): Nếu con
người bực tức chính ḿnh, tự ḿnh đột
nhiên nhiếc mắng ḿnh, đó gọi là Khuể. Nếu
giận dỗi người khác, nói chung thấy
người khác sai trái, chán chường, ghét bỏ
người khác, đó gọi là Sân.
- “Tự hoặc vi
Ngu, hoặc tha vi Si” (tự ḿnh mê hoặc là Ngu, mê
hoặc người khác là Si): Tự ḿnh làm ḿnh mê muội,
rơ ràng chẳng phải như vậy cứ khăng
khăng cho là như vậy, đó gọi là Ngu. Dùng
những phương pháp bất chánh đáng mê hoặc
người khác, khiến người khác lạc vào mê cung,
đó gọi là Si. Tuy căn cứ trên hai phương
diện ḿnh và người để giải thích tên kép
của ba độc, nhưng thật ra đó đều là
căn bản phiền năo trong nội tâm của chúng sanh.
Để đối
trị Tam Độc phiền năo, với mỗi thứ có
những phương cách khác nhau: như chúng sanh nhiều
tham tu Bất Tịnh Quán, chúng sanh nhiều sân tu Từ Bi
Quán, chúng sanh nhiều si tu Nhân Duyên Quán. Bất luận
Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều giống
như vậy. Thế nhưng, tuy Bất Tịnh Quán,
Từ Bi Quán, Nhân Duyên Quán là những pháp môn tối
thượng để đối trị Tam Độc,
chúng sanh b́nh phàm chẳng dễ ǵ tu được. Tu
chẳng đúng pháp th́ chẳng những không thể
đoạn Hoặc, trái lại phiền năo càng tăng
trưởng. Đức Phật đại từ
đại bi mở riêng một pháp môn phương tiện
dạy chúng sanh tham dục, sân khuể, ngu si nặng nề
nếu chẳng thể tu Bất Tịnh Quán v.v… th́ hăy nên
thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát,
cũng có thể viễn ly ba độc.
Đến đây,
ắt có kẻ sẽ đâm ra hoài nghi: Thông thường,
đoạn phiền năo phải có trí huệ, chẳng có trí
huệ làm sao đoạn được phiền năo?
Nếu đă là như vậy, v́ sao ở đây lại nói
là xưng danh Quán Âm Bồ Tát bèn có thể ĺa khỏi ba
độc? Ở đây, phải chú ư hai chữ “thường
niệm” trong kinh này. Thường niệm là chánh
niệm, nhờ đó có thể nhận hiểu phiền
năo tánh vốn là Không. [Khi đă hiểu tánh của phiền
năo vốn là Không] th́ an trụ trong phiền năo chính là
trụ vào Thật Tế. Lư thể của Thật Tế
không Năng, không Sở, niệm tánh thanh tịnh. Chánh
niệm như thế chẳng phải là trí huệ ư?
Ĺa bỏ điều này, biết c̣n t́m cầu trí huệ
ở đâu nữa? Trí huệ này chẳng ĺa phiền năo,
há c̣n ǵ để ĺa phiền năo? Nếu dùng riêng trí huệ
để đoạn phiền năo sẽ thành ra có “trí
huệ đoạn trừ phiền năo” và “phiền năo
bị đoạn trừ” đối lập nhau. Nếu
như vậy, chẳng những phiền năo chẳng
thể đoạn trừ, mà trí huệ cũng trở thành
phiền năo, sao c̣n gọi là “trí huệ đoạn
Hoặc” được nữa? Bởi thế, biết
rằng: Ngay chính nơi Chánh Niệm là trí huệ. V́
thế, nếu có thể thường niệm thánh hiệu
Quán Thế Âm Bồ Tát chính là có thể dùng chánh niệm
để trừ khử ba độc. Đó là đức
Phật v́ chúng sanh đặc biệt khai thị riêng
một đạo dễ hành.
Trong thế gian này, có
một loại chúng sanh tâm dâm dục nặng nề vô cùng,
đặc biệt là rất nhiều dâm dục. Tuy đây
là điều chúng sanh ưa thích, nhưng nó gây ra hậu
hoạn vô cùng. Bởi thế, bậc hiền thánh thế
gian hoặc bậc xuất thế đại thánh
đều đặc biệt chú trọng điều này,
răn dạy con người chúng ta bằng nhiều
phương cách, khiến cho chúng ta hết sức kiêng dè
chuyện này. Như bài văn Đoạn Dục của
Ngụy Văn Đế có câu: “Thủ ác mạc như sắc
dục, dị phạm đa thị tà dâm” (Điều ác đứng
đầu không ǵ bằng sắc dục, dễ phạm,
đa phần là tà dâm). Lại như thế gian
thường hay nói: “Vạn ác, dâm vi thủ” (Trong muôn
điều ác, dâm đứng đầu) cho thấy rơ
lỗi họa của dâm. Kinh Phật quở trách sắc
dục lại càng kịch liệt hơn, như nói sắc
dục hại người c̣n hơn mănh thú, nước
lũ, cho thấy lỗi hại của dâm dục rất
nặng nề.
Dâm dục là chuyện
nam nữ đều có, chẳng phải là riêng một
giới nào. Bởi thế, quở trách sắc dục là
phải quở trách cả nam lẫn nữ như nhau; nhưng
thời cổ Ấn Độ trọng nam khinh nữ;
hơn nữa, đối tượng thuyết pháp của
đức Phật đa phần là nam giới, bởi
thế khi kinh nhắc đến tội ác của dâm
dục, đại đa số quy tội nữ giới;
như kinh Quở Trách Sắc Dục (Ha Dục Kinh) chép: “Nữ
sắc giả, thế gian già tỏa, phàm phu luyến trước,
vị năng tự bạt. Nữ sắc giả, thế
gian trọng hoạn, phàm phu nhân chi, chí tử vị miễn.
Nữ sắc giả, thế gian suy họa, phàm phu tao chi, vô
ách bất chí. Hành giả kư đắc ly chi, nhược phục
cố niệm, thị tùng địa ngục xuất, hoàn
phục tư nhập” (Nữ
sắc là gông cùm của thế gian, phàm phu đắm
luyến chẳng thể tự dứt. Nữ sắc là tai
hoạn nặng nề trong thế gian, v́ đó phàm phu
đến nỗi chẳng tránh khỏi cái chết. Nữ
sắc là suy họa của thế gian, phàm phu gặp
phải th́ không tai ách nào chẳng gặp. Hành giả đă
ĺa được rồi, nếu c̣n đoái tưởng,
th́ là ra khỏi địa ngục lại nghĩ trở
vào). Từ đoạn kinh văn này có thể thấy
là họa hại nữ sắc rất lớn; nhưng
đứng trên lập trường khác mà nói, đem nữ
sắc đổi thành nam sắc th́ họa hoạn của
nam sắc cũng rất lớn, chẳng phải vậy
sao? Bởi thế, chẳng thể quy lỗi một
bề cho nữ giới được!
Trong kinh luận
lại thường nói như thế này: Trong hết
thảy các thứ suy, nữ suy là lớn nhất; trong
hết thảy bệnh, nữ bệnh là nặng nhất;
trong hết thảy trói buộc, nữ hệ (sự trói
buộc bởi nữ giới) là bền chắc nhất.
Nếu ai thật sự bị gông xiềng nữ sắc
ràng buộc, muốn giải thoát khỏi cô ta, thật
rất khó vậy! Bởi thế, từ cổ đến
nay, chẳng biết bao nhiêu người ch́m đắm
trong đó, không thể tháo ra được; chính là v́
đàn bà ràng buộc bền chắc. Phật, Bồ Tát
dạy chúng ta: Rắn độc, đao, lửa, sấm,
chớp, sét, tuy nói là hung tàn chẳng nên tiếp xúc, nhưng
vẫn c̣n có thể tạm thời thân cận, chỉ có
nữ nhân keo kiệt, ghen ghét, sân hận, siểm trá,
quỷ quái, bẩn thỉu, ưa tranh giành, dâm dục th́
tuyệt đối chẳng nên thân cận một chút nào
hết. Nếu như thân cận, quư vị sẽ mắc
họa hoạn, chẳng thể nói ǵ được
nữa. Nói nghiêm trọng hơn, dâm dục là căn bản
của các sanh tử. Do dâm dục giúp cho ḷng yêu đắm
phát khởi, khiến cho chúng sanh sống chết liên
tục.
Nói theo hiện thực
của người thế gian th́ tuyệt đối
chẳng thể tránh khỏi dâm dục, chỉ cần trong
thế gian có nam nữ sai khác, tất nhiên phải tạo
thành quan hệ vợ chồng. Đă có vợ chồng
kết hợp, sao không khỏi phát sanh dâm dục? Sở
dĩ Phật đôi ba lượt quở trách sắc
dục, chính là muốn chúng ta chẳng suốt ngày
đắm ch́m trong dâm dục chẳng thể tự thoát,
cũng như chẳng gây tạo những hành vi tà dâm phi
lễ. Bởi thế, đối với người
tại gia học Phật, vợ chồng kết hợp
chánh đáng, Phật chẳng cấm ngăn hoàn toàn.
Nếu đắm ch́m quá phận trong chuyện đó,
chẳng những thân thể ḿnh bị tổn hại, mà
sự nghiệp của ḿnh cũng bị bỏ phế,
đấy thật là bất trí nặng nề. Xem
gương đế vương, tể quan, anh hùng, hào
kiệt thời cổ, bị thân bại danh liệt, khuynh
quốc, táng gia, chẳng biết bao nhiêu người,
vẫn chẳng đáng cho chúng ta kiêng dè hay sao? Huống
nữa, dâm dục là nguồn gốc các khổ, là gốc
chướng đạo, bởi thế đức Phật
nghiêm khắc cấm ngặt.
Tuy nói hết thảy
chúng sanh đều do dâm dục mà có tánh mạng, nhưng
con người rất dễ phạm phải căn
bệnh này. Bởi lẽ, dâm dục là bẩm sanh, cũng
như Nho Gia nói “tham sắc, tánh dă” (tham sắc chính là
tánh vậy, ư nói: Tham sắc thuộc về bản tánh),
muốn chẳng phạm rất khó. Nhưng nếu chúng ta
luôn luôn giữ cái tâm ngăn dè, kiêng sợ, coi dâm dục là
bất tịnh nhất mà cũng là điều đáng
sợ nhất th́ dục niệm của quư vị sẽ
nhạt bớt, thậm chí chẳng khởi. Rất nhiều
kẻ do dâm dục mà tạo thành bi kịch, nguyên nhân
căn bản là do chẳng biết sợ, cho dâm dục là
chuyện nhân sinh đáng nên hưởng thọ, có ǵ mà
chẳng thể phát sanh quan hệ tánh dục? Do một
niệm lầm lạc đó, tạo thành đại
họa chung thân, câu nói: “Nhất thất túc thành thiên cổ
hận” (Một lần lầm
lỡ một lần đủ tạo thành nỗi hận
thiên cổ), chính là nói về ư này. Nếu hành giả tu
học Phật pháp tham đắm dục lạc sẽ
không cách nào tiến được. Bởi thế, phải
biết sắc dục là họa hoạn, tận lực
lập cách tránh né, chẳng nên tiếp cận nhiều
với người khác phái, th́ vấn đề sẽ
tự nhiên giảm thiểu.
Bất quá, nếu
thật sự muốn ly dục hoặc tuyệt dục
th́ phải xem tâm niệm của chúng ta trong lúc ấy
như thế nào, nếu tâm niệm hướng theo phương
diện khác, tự nhiên sẽ khó bị dục niệm lôi
kéo. Nếu như tâm niệm đặt nơi thánh hiệu
Quán Âm Bồ Tát, luôn nhất tâm xưng niệm Quán Âm Bồ
Tát, chỉ có mỗi chánh niệm Quán Âm Bồ Tát, không c̣n
tạp niệm nào khác trong tâm, tự nhiên sẽ
được Bồ Tát cảm ứng, khiến cho
dục niệm của quư vị băng tiêu. Cũng như
nếu quư vị có thể coi một người con gái
trước mặt chẳng phải là một phụ
nữ b́nh thường mà là Quán Âm Bồ Tát thị hiện
th́ cũng có thể lập tức trừ được
dục niệm trong tâm.
Tương truyền,
trong quá khứ có một hành giả, đột nhiên dục
niệm xung động, muốn chung chạ bậy bạ
cùng một người phụ nữ. Cô gái đó yêu
cầu ông ta đem bức họa Quán Âm Bồ Tát treo trên
đầu giường, rồi mới đáp ứng đ̣i
hỏi của ông ta. Ngay trong lúc ấy, vị hành giả
tỉnh ngộ, biết đó chẳng phải là chuyện
nên làm, từ đó bèn xa ĺa dục niệm. Đức
Phật biết rơ gốc bệnh chúng sanh tại đâu nên
đặc biệt chỉ dạy: “Thường niệm
cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ĺa
dục”. Trong câu này, khẩn yếu nhất là hai chữ
“thường niệm”. Thật sự phải làm
như dùi cây lấy lửa, như gà ấp trứng,
mỗi một sát-na đều chẳng ngưng nghỉ
niệm th́ mới phát sanh công hiệu. Nếu như lúc
niệm lúc không, khó ḷng đạt được hiệu
quả.
Lại có một
loại chúng sanh khác, tâm sân khuể nặng nề vô cùng,
đặc biệt là hay nóng giận, có biện pháp nào
để đối trị đây? Nói thông thường là
phải tu Từ Bi Quán, bởi Từ Bi đối trị
sân khuể. Sân khuể là đại bệnh, từ bi là
pháp dược, uống vào hiệu quả đặc
biệt phi thường. Chẳng cần biết quư vị
tâm sân khuể lớn nặng đến đâu, chỉ
cần tu hành Từ Bi Quán đúng pháp, không ai chẳng
trị được tận gốc sân khuể. Nói về
mặt phương tiện, nếu như có thể “thường
niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, liền
được ĺa dục”.
Đại từ
đại bi là điều đặc sắc lớn
nhất của Quán Âm Bồ Tát, bởi lẽ thường
xưng niệm Ngài, thường tương ứng với
ḷng từ bi của Bồ Tát, tự nhiên chẳng thể
khởi lên sân tưởng. Thử xem bất luận
người nào nóng giận đến đâu, cứ hễ
vừa niệm thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát, tánh nóng lớn
bằng trời cũng tiêu mất. Đây là phương
pháp đơn giản nhất lại dễ thực hành
nhất. Nếu lúc quư vị nổi nóng, chẳng ngại
ǵ mà không áp dụng thử xem, bảo đảm quư vị
thấy hiệu quả đặc biệt phi
thường. Đừng nói là thường xưng
niệm trừ được sân, có lúc quán thánh dung từ
ḥa đoan nghiêm của Ngài cũng có thể khiến cho tánh
nóng của quư vị không cách chi phát khởi
được. Bởi lẽ, đối diện thánh dung
từ ḥa, biết ḿnh nổi nóng chẳng có nghĩa lư ǵ
cả. Đức Phật biết rơ tâm lư chúng sanh, muốn
cho chúng sanh đừng phát sanh sân khuể, nên đặc
biệt dạy các chúng sanh thường niệm cung kính Quán
Thế Âm Bồ Tát.
Sân khuể là một
hiện tượng tâm lư bất b́nh thường, bạo
ác nhất trong tâm chúng sanh, một khi nó phát khởi tác
dụng, tác hại rất nghiêm trọng. Kinh Hoa Nghiêm
dạy: “Nhất niệm sân khuể khởi,
chướng bách pháp minh môn”, kinh Đại Tập nói: “Nhất
khởi sân, nhất thiết ma quỷ đắc tiện” (Một niệm sân dấy lên,
hết thảy ma quỷ được dịp thuận
lợi), ư nói: Người tu hành vốn có thể phát
sanh bách pháp minh môn, nhưng v́ một niệm sân khuể nên
các pháp ấy bị ngăn trở chẳng sanh
được. Ma quỷ vốn chẳng có cách nào
nhiễu loạn được hành giả, chỉ v́
một niệm sân dấy lên, ma quỷ bèn nắm lấy
cơ hội đó, gây nên nhiễu loạn, khiến quư
vị không cách ǵ tấn tu được. Hăy nghĩ coi sân
khuể ảnh hưởng đến người tu hành
có rộng lớn hay chăng? Lại nói về người
b́nh phàm, nếu như tâm sân khuể lớn lao, động
một chút bèn nổi nóng, nhỏ th́ đánh đập
người khác, lớn th́ tước đoạt tánh
mạng người ta. Thế gian phát sanh rất nhiều
bi kịch đều là do một niệm sân tâm chẳng nín
nhịn được mà ra, bởi thế Phật pháp cho
rằng sân khuể là điều chớ nên có.
Đương nhiên
nguyên nhân sanh khởi sân khuể rất nhiều, có chút ǵ
chẳng vừa ư, bèn có thể nổi nóng liền; bởi
thế, trong hiện thực thế gian khắp nơi
chống trái, tàn độc. Thế nhưng, có lúc Phật
pháp đem các loại sân khuể quy nạp thành ba thứ
như sau:
1) Thuận lư sân:
Nghĩa là chính ḿnh
chẳng phải là kẻ có tội, cũng chẳng v́ ác ư
mà phê b́nh người khác, càng chẳng có chỗ nào sai trái
đối với người khác, bất ngờ bị
người ta lăng nhục, bị người ta
chửi rủa dữ dằn, bị người ta hủy
báng, bị người ta phá hoại, thậm chí vô t́nh
ẩu đả. Trong những t́nh huống ấy, bất
cứ người có tu dưỡng nào cũng khó thể
chẳng nổi nóng.
Sự nổi nóng
đó, xét theo t́nh lư, có thể chấp nhận
được, cũng có thể nói là hợp t́nh, hợp
lư, nên gọi là Thuận Lư Sân; nhưng đứng trên
lập trường Phật pháp mà nói, nổi nóng như
vậy vẫn chưa phải là cần thiết. Bởi
lẽ, tuy vô duyên vô cớ bị chửi rủa, đánh
đập, nhưng nếu nhẫn nhịn được
th́ nhẫn vẫn là hơn. Nếu như biết
người đánh chửi quư vị cũng chẳng
phải là chính họ muốn làm vậy, mà là do bị
phiền năo sai khiến, chính họ cũng chẳng tự
chủ được, ta nổi nóng với họ làm ǵ?
Nghĩ được như thế, chẳng những không
nổi nóng với họ, mà c̣n thông cảm cho họ
nữa, biết họ đáng thương. Như thế
sẽ hóa khí dữ thành cát tường, đây - kia thân tâm
an nhiên.
2) Phi lư sân:
Tức là về căn bản
chẳng có nguyên nhân ǵ, vô duyên vô cớ đùng đùng
nổi giận. Như có những người vốn
rất tốt, chưa từng bị ai xâm phạm, cũng
chưa gặp nghịch cảnh nhiễu loạn, thế
mà đột nhiên nổi giận bừng bừng khiến
người khác chẳng biết nguyên do. Hiện
tượng này chẳng những thường thấy
nơi những người b́nh thường ngoài xă
hội, ngay trong những hành giả nhà Phật cũng
chẳng hiếm thấy. Như có hành nhân tu biệt cư
đă lâu, tự nấu cơm ăn, căn bản là không
có người thứ hai nào nhiễu loạn, nhưng
ngẫu nhiên gặp phải ngày mưa, củi ướt
chẳng nhóm được lửa, bởi thế bèn áo
năo, phẫn nộ, thậm chí giận không thèm ăn cơm
nữa! Phải biết đó là giận phi lư.
Nói theo Phật pháp,
giận như vậy càng chẳng nên, nóng giận có
đối tượng c̣n chấp nhận được;
tự ḿnh giận ḿnh, về lư nói sao cho thông? Bất quá là
tự ḿnh chọc ghẹo ḿnh đó thôi. C̣n như giận
không thèm ăn cơm nữa, thử hỏi có ích ǵ cho ḿnh
hay chăng? V́ đâu ḿnh phải tự ḿnh làm khổ ḿnh
như thế? Bởi thế, đức Phật càng nghiêm
khắc quở trách Phi Lư Sân để chúng ta đừng có
giận hờn vô lư.
3) Đấu Tránh
Sân:
Tức là lúc năm ba
người bạn tốt cùng thảo luận vấn
đề, ban đầu đàm luận tâm đầu ư
hợp lắm, nhưng một lúc sau, do tôi nói đằng
này, anh nói đằng kia, ai nấy giữ ư kiến riêng, ai
nấy cho thế này là đúng, thế kia là sai, không ai
nhường ai, bởi thế căi nhau đỏ mặt tía
tai, thậm chí căi lộn ầm ĩ cả lên. Đó
gọi là Đấu Tránh Sân. T́nh h́nh này trong thế gian
hiện thời đâu đâu cũng thấy. Thật ra,
bất tất phải sân khuể. Phải biết
rằng: Bất luận tranh luận vấn đề ǵ,
nói chung là chân lư càng bàn sẽ càng sáng, cớ ǵ cứ phải
tranh luận không cần thiết? Cớ ǵ cứ phải
v́ đó mà nổi nóng bừng bừng?
Tranh luận chẳng
đúng nghĩa lư như thế chẳng mảy may có ư
nghĩa ǵ, đánh mất t́nh bè bạn lại càng chẳng
đáng chi! Bởi thế v́ giận mà tranh, do tranh nên
giận đều là chuyện không nên. Hăy thử nghĩ
xem: Để thảo luận một vấn đề,
rốt cuộc lửa giận bốc cao đến ba
trượng, khiến cả ḿnh lẫn người đều
cảm thấy bất an, sao lại khổ thế? V́
thế, Phật pháp cũng chẳng cho sân khuể là
đúng, mà cho rằng phải nên ngăn dứt.
Hết thảy sân
khuể chẳng ngoài ba thứ ấy, nhưng bất
cứ loại nào cũng đều bất hảo,
đừng để cho nó tiếp tục sanh khởi,
phải biết sân khuể có hại rất lớn, như
nói: “Khởi nhất niệm chi sân, năng thiêu tận Bồ
Đề chi chủng” (khởi
một niệm sân, thiêu sạch hạt giống Bồ
Đề). Bởi thế, Sân là căn bản
để đánh mất Phật pháp, là nhân duyên đọa
ác đạo, là oan gia của pháp lạc, là đại
tặc đối với thiện tâm, chẳng những
hành giả tu học Phật pháp chẳng nên khởi sân,
ngay cả những người b́nh phàm cũng chẳng nên
khởi sân. Nếu lúc sân khuể phát động, quư vị
lập tức xưng niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ
Tát sẽ ĺa xa được sân ấy. Liên quan đến
vấn đề này, có một câu chuyện thực như
sau:
Trong quá khứ, ở
Trung Hoa có tiên sinh Cao Phiên, thông duệ, học giỏi vô
cùng. Năm mười bốn tuổi đă đậu Tú
Tài. Đến tuổi nhược quan (20 tuổi),
cưới cô họ Phàn, tên là Giang Thành làm vợ. Cô này tuy
xinh đẹp như hoa, nhưng tánh t́nh bạo ác. Bởi
thế, chàng Tú Tài có phần sợ hăi cô ta, mang nỗi
khổ chẳng nói ra được, đến nỗi
thân thể ngày càng suy nhược. Về sau, bà mẹ
vợ biết được, chẳng chịu nổi hành
vi con gái ḿnh, rất thông cảm với chàng rể, nhưng
không có cách nào khác, chỉ đành cầu khẩn Quán Âm
Bồ Tát.
Do nhạc mẫu
kiền thành, một đêm Bồ Tát báo mộng cho bà:
- Kiếp trước
con gái bà là con chuột Trường Sanh được
tăng nhân nuôi trong một ngôi chùa. Đời trước
con rể bà từng đọc sách ở chùa đó, lỡ
tay đùa bỡn làm chết con chuột Trường Sanh
đó, nên đời này phải báo ứng, con bà chẳng
hành hạ chàng rể héo hắt th́ chẳng thôi, không có cách
nào cứu được. Nếu thật sự muốn
cứu con rể bà chỉ có cách chân thành niệm phẩm
Phổ Môn.
Nhạc mẫu
được chỉ dạy như thế, chẳng
những tự ḿnh chân thành niệm, lại c̣n bảo cha
mẹ chàng rể và cả nhà tŕ niệm. Thế nhưng
kiền thành tụng niệm đă hơn một tháng,
chẳng thấy cảm ứng mảy may; tuy vậy,
nhạc mẫu tín tâm rất kiên định, chẳng
những chính ḿnh không ngừng niệm, c̣n buộc chàng
rể phát tâm cùng niệm.
Oan nghiệp của
chính ḿnh th́ chính ḿnh tự tiêu, do chàng Tú Tài cũng tham gia
xưng niệm, chẳng lâu sau, chợt có một vị lăo
tăng đi đến. Vị lăo tăng này chẳng
những hiểu rơ nhân quả, lại c̣n tinh thông thuật
xem tướng; bởi thế, rất nhiều
người làng đến thưa hỏi lăo tăng. Nàng
Phàn Thị vợ chàng Tú Tài cũng đến hỏi lăo
tăng chỉ điểm bến mê cho nàng, lăo tăng bèn
lập tức bảo nàng: “Chớ có sân! Chớ có sân! Đời
trước đă chẳng giả, đời này cũng
chẳng chân! Hừm! Chuột mau rút đầu lại,
chớ để mèo kiếm ra!” Nói xong sáu câu đó, lại
dùng chén nước phun vào mặt cô ta. Người làng
đều biết Phàn Thị chua ngoa, bây giờ thấy
lăo tăng làm như thế, mọi người đều
lo cho lăo tăng toát mồ hôi, bởi lẽ Phàn Thị
nhất định nổi giận lôi đ́nh. Thế
nhưng kỳ quái sao, Phàn Thị nghe xong dường có
điều ngộ ra, chẳng những không nổi nóng,
lại c̣n thay biến đổi tánh nóng, trở thành
hiền thê lương mẫu. Đủ thấy niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát có thể xa ĺa được sân
khuể.
Nếu lại có
một loại chúng sanh ngu si rất nặng, đặc
biệt là nhiều ngu si. Ngu si là mê hoặc, ngu muội,
chẳng hiểu rơ sự lư. Người chẳng hiểu
rơ sự lư chẳng nhất định là kẻ hoàn toàn
không có trí thức, có kẻ thậm chí trí thức quảng
bác, học vấn cao thâm, nhưng v́ chẳng tin thiện
ác, nhân quả, th́ nhà Phật gọi là ngu si. Trái lại, có
hạng người tuy chẳng có học thức ǵ,
nhưng chân thành thiết tha tin sâu nhân quả, nhà Phật
cũng gọi là có trí huệ. Là ngu si hay không th́ chẳng v́
có hay không có tri thức, mà là do có tin nhân quả hay không. Tin
sâu nhân quả là người có trí huệ, chẳng tin nhân
quả là kẻ ngu si. Bởi thế, trong nhà Phật, tin
nhân quả thật rất trọng yếu.
Có người do
chẳng thấy biết nên chẳng tin, nào biết nhân
quả nói trong Phật pháp thông suốt ba đời,
chẳng thể v́ không thấy được nhân mà xóa
sạch sự tồn tại của nó. Có người
hiện làm ác rất nhiều, bề ngoài thấy họ
hưởng thụ rất sướng, nhưng nỗi
khổ lớn đang chờ họ sau này. Chúng ta bất
tất phải ngưỡng mộ họ, cũng
đừng bắt chước làm theo họ. Có
người hiện tại rộng làm thiện nghiệp,
nhưng sống trong hoàn cảnh vô cùng xấu kém; hoặc
có người v́ làm lành chẳng được báo tốt.
Thật ra, quả báo khoái lạc đang ở tương
lai, quyết chẳng hư uổng. Chúng ta đừng v́
đó thoái tâm, mà càng phải bắt chước họ thích
làm lành, ưa bố thí.
Hiểu rơ nhân quả
ba đời chẳng sai mảy may, tự nhiên quư vị
sẽ chẳng dám làm ác, sẽ hành thiện. Đáng
tiếc người đời chẳng thường hiểu
đạo lư này, cứ nghĩ Phật pháp chẳng linh,
hoặc là oán trời trách người. Nói theo Phật pháp,
như vậy là ngu si. Đă có ngu si tồn tại, th́
phải làm cách nào? Nếu có thể tu Nhân Duyên Quán th́
tốt nhất là tu Nhân Duyên Quán. Chẳng thể tu Nhân Duyên
Quán th́ nếu có thể “thường niệm cung kính Quán
Thế Âm Bồ Tát, liền được ĺa si”.
Niệm Quán Âm Bồ
Tát có thể ĺa si, đắc trí huệ, trong giới
Phật giáo Trung Quốc, là một niềm tin sâu xa rất
phổ biến. Như trong quá khứ, các chú tiểu trong
các chùa miếu Trung Quốc được sư phụ
dạy bài học đầu tiên là trước khi ngủ,
lễ Quán Âm Bồ Tát hết một cây hương,
miệng đọc như thế này: “Đệ tử tên
là… cầu thông minh, mẫn tiệp, kính lễ đấng
trí huệ, quảng đại linh cảm, đại từ
đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm
Bồ Tát”. Niệm một lần, lễ một lần.
Lễ bái lâu dài như thế, được Bồ Tát
cảm ứng rất nhiều. Rất nhiều kẻ
vốn rất ngu độn, sau này thành thông duệ, mẫn
tiệp. Bây giờ, tôi chẳng ngại ǵ không kể
chuyện thực về sự cảm ứng của
việc lễ bái Quán Âm như sau:
Trong quá khứ có
một chú tiểu sa-di mới xuất gia, vốn cực
kỳ ngu xuẩn. Lăo ḥa thượng dạy chú niệm
kinh, bất luận dụng công cách nào, chú vẫn không cách
ǵ nhớ nổi. Vị thầy vô kế khả thi,
liền dạy chú ngày ngày lễ niệm Quán Âm, cầu
trừ nghiệp chướng khai trí huệ. Mỗi ngày quy
định thời gian lễ là một cây hương,
đến hết giờ sư phụ lắc linh làm
hiệu, chưa nghe tiếng linh chẳng được
nghỉ, đi ngủ. Chẳng gián đoạn như
thế, lẩm rẩm chú tiểu lễ suốt ba năm.
Có một ngày, chú
tiểu lễ niệm Quán Âm như thường lệ,
sư phụ quên lắc linh, thế nhưng linh không ai
động đến cũng tự kêu. Chú tiểu nghe tiếng
linh, đương nhiên là đi ngủ, nhưng sau đó
sư phụ quở trách chú: “Chưa nghe tiếng linh đă
đi ngủ, mày cố ư biếng nhác!” Chú tiểu thưa
cùng thầy: “Con chẳng lười đâu, con nghe
tiếng linh mới đi ngủ”. Lúc đó, sư phụ
thầm nghĩ: “Ḿnh chẳng lắc linh, làm sao có tiếng
linh cho được? Không biết có phải thằng
nhỏ này đă được Bồ Tát cảm ứng hay
không?” V́ muốn thí nghiệm coi có đúng là linh nghiệm
hay không, tối hôm sau sư phụ cố ư không lắc linh,
coi xem có tiếng linh hay không? Lạ lùng thay, hôm sau chú
tiểu lễ xong một cây hương, tiếng linh
lại tự nhiên vang lên. Sư phụ biết ḷng thành
đă được cảm ứng, bèn chẳng quy
định thời gian lễ bái nữa, nhưng từ
đó chú tiểu niệm kinh chẳng những mắt nh́n
qua chẳng quên, mà c̣n hiểu rơ ư, trở thành một
vị pháp sư giảng kinh hữu danh.
Bởi vậy, nếu
có chúng sanh biết ḿnh ngu si, thường niệm thánh
hiệu Quán Âm, tất nhiên được trí huệ.
Vấn đề là người trong thế gian, đa
phần cho ḿnh là thông minh, mẫn tiệp, chẳng chịu
thừa nhận ḿnh vốn ngu si, bởi thế quư vị
muốn họ niệm Quán Âm, chẳng khỏi trở thành
vấn đề. Làm người tốt nhất
đừng tự nghĩ ḿnh thông minh, mẫn tiệp, mà
phải thừa nhận ḿnh trí huệ có hạn, thỉnh
cầu Quán Âm Bồ Tát gia bị, càng niệm nhiều thánh
hiệu Quán Âm, xác tín Quán Âm Bồ Tát ban cho trí huệ,
khiến cho ta xa ĺa ngu si. Ngu si che lấp trí huệ, học
Phật là truy cầu trí huệ. Bởi thế, mỗi
một người học Phật, đều phải nên
đột phá vô minh hắc ám, sống trong quang minh trí
huệ.
1.1.2.2.2.2. Kết quy
thần lực
Chánh kinh:
Vô Tận Ư! Quán
Thế Âm Bồ Tát hữu như thị đẳng
đại oai thần lực, đa sở nhiêu ích, thị
cố chúng sanh thường ưng tâm niệm.
無盡意。觀世音菩薩。有如是等大威神力。多所饒益。是故眾生。常應心念。
(Này Vô Tận Ư! Quán
Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần lớn lao như
thế, hay làm lợi ích. V́ thế, chúng sanh nên
thường tâm niệm)
Phật nói đến
đây, lại kêu Vô Tận Ư Bồ Tát bảo: “Quán Thế Âm Bồ Tát hữu
như thị đẳng đại oai thần lực” (Quán Thế Âm Bồ Tát có sức
oai thần lớn lao như thế), bởi thế
đối với chúng sanh trong thế giới, Ngài làm
lợi ích rất nhiều như làm cho chúng sanh xa ĺa dâm
dục, xa ĺa sân khuể, xa ĺa ngu si, đấy chẳng
phải là nhiêu ích hay sao? Tam Độc c̣n gọi là Tam
Bất Thiện Căn, bây giờ chỉ do xưng niệm
thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát bèn có thể chuyển tham
dục thành vô tham tịnh định, chuyển sân khuể
thành từ bi vô sân, chuyển ngu si thành trí huệ vô si,
dẹp trừ ba bất thiện căn ác độc,
gộp thành ba thiện căn đức hạnh,
đạt đến mức phát triển hài ḥa, quân b́nh.
Nếu chẳng phải do sức oai thần lớn lao
của Bồ Tát gia bị, thử hỏi làm sao đạt
được như vậy?
Chúng sanh trong thế
gian có cùng một tâm lư, hễ chuyện ǵ chẳng có
lợi ích cho chính ḿnh bèn chẳng thể sốt sắng
tự nguyện làm, nếu chuyện ǵ có lợi cho chính
ḿnh bèn rất ưa thích làm ngay. Đức Quán Âm
đầy đủ đại oai đức, thần
thông lực, có đại lợi ích đối với chúng
sanh, nên ở đây, đức Phật đặc biệt
khuyến cáo: “Thị cố chúng sanh thường ưng
tâm niệm” (V́ thế,
chúng sanh phải thường tâm niệm).
Trong phần kinh văn
này, đáng chú ư nhất là hai chữ “tâm niệm”. B́nh
thường mọi người niệm thánh hiệu Quán
Âm đều là khẩu niệm, nếu lúc niệm mà tâm
tương ứng với miệng sẽ tự nhiên
rất tốt. Nếu như miệng niệm thánh
hiệu, tâm suy Đông nghĩ Tây, tuy chẳng thể nói là
hoàn toàn vô ích, nhưng công đức đạt
được rất nhỏ, muốn có cảm ứng
rất khó. Chẳng lạ ǵ người niệm Quán Âm
rất nhiều, nhưng người được
Bồ Tát cảm ứng rất ít.
Nên biết là miệng niệm, nhưng
tâm chẳng đặt nơi thánh hiệu, chẳng duyên
nơi sức công đức oai thần của Bồ Tát
th́ muốn có cảm ứng chẳng thể
được. Bởi thế, hai chữ “tâm niệm”
ở đây trọng yếu phi thường. Chẳng
những tâm niệm mà c̣n phải thường niệm.
Nếu lúc cao hứng th́ niệm, lúc chẳng cao hứng
không niệm th́ vẫn là chẳng đúng; tất yếu là
phải thường niệm. Lúc niệm, miệng
niệm, tai nghe, tâm tưởng, th́ mới có thể
cảm ứng oai đức thần lực của Bồ
Tát vậy.
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
PHỔ MÔN PHẨM GIẢNG KƯ
(phần 2 hết)
[1] Một đấu là mười
thưng, nay một đấu chỉ có ba thưng, tức
là c̣n bảy (thất) thưng chưa kể. Chỉ có ba
thưng gạo, tức bảy thưng kia phải là cám
(tiếng Hán là Khang 糠, đồng âm với họ Khang 康). Ghép hai chữ này thành Khang Thất
hoặc Thất Khang.
[2] Đài Phong: một loại băo dữ
dội ở vùng cận nhiệt đới Thái B́nh
Dương, ta thường gọi là băo nhiệt
đới. Có lẽ chữ “typhoon” chỉ cơn băo
nhiệt đới trong vùng Thái B́nh Dương là do
người Anh mượn âm từ chữ này.
[3] Bản tử: Một loại
thước to bản, dẹp, dùng để đánh
tội nhân.
[4] Phẫn năo: Ư niệm phẫn nộ, năo
loạn tâm địa của chính ḿnh.