QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

PHỔ MÔN PHẨM GIẢNG KƯ

(phần 2)

觀世音菩薩普門品講記

演培老法師講述

釋寬嚴記

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Diễn Bồi

Pháp sư Thích Khoan Nghiêm ghi.

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo ấn bản của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội, tháng 04, năm 2004)

 

II. Chánh thích kinh văn (Phần giải thích chính vào kinh văn)

1. Trường hàng biệt thị (Giảng riêng về phần kinh văn trường hàng)

1.1. Vấn đáp đắc danh sở dĩ (Thưa hỏi duyên do [v́ sao Bồ Tát] được danh hiệu [là Quán Thế Âm])

1.1.1. Đương cơ cử danh thỉnh vấn (Vị đương cơ của pháp hội thưa hỏi)

     

      Chánh kinh:

      Nhĩ thời, Vô Tận Ư Bồ Tát tức tùng ṭa khởi, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng hướng Phật, nhi tác thị ngôn:

      - Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ hà nhân duyên danh Quán Thế Âm?

            爾時無盡意菩薩。即從座起。偏袒右肩。合掌向佛。而作是言。世尊。觀世音菩薩。以何因緣。名觀世音。

            (Lúc bấy giờ, Vô Tận Ư Bồ Tát liền từ ṭa ngồi đứng dậy, trật vai áo phải, chắp tay, hướng về đức Phật, bạch như thế này:

      - Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên ǵ tên là Quán Thế Âm?)

 

       Kinh văn toàn phẩm chia thành hai phần lớn: một là Trường Hàng, tức là thể văn xuôi ghi lại những ư nghĩa được tuyên nói trong kinh; hai là Kệ Tụng, tức là thể văn vần ghi chép những nghĩa lư được tuyên nói trong kinh. Trường Hàng và Kệ Tụng nội dung không khác biệt nhau nhiều lắm, chẳng qua là sử dụng thể tài văn tự bất đồng mà thôi. Trong hai phân đoạn lớn này, trước hết giảng phần Trường Hàng, sau đó mới giảng Kệ Tụng.

      Hai chữ “nhĩ thời” có nhiều cách giải thích khác nhau. Phần trước, tôi đă từng nói, phẩm này là phẩm thứ hai mươi lăm trong kinh Pháp Hoa, trước phẩm này là phẩm hai mươi bốn, tên là Diệu Âm Bồ Tát Phẩm. Nói “nhĩ thời” nghĩa là lúc vừa mới nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát, bèn nói ngay phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn này.

      Trong phẩm Diệu Âm Bồ Tát, cuối cùng là mấy câu: “Thuyết thị Diệu Âm Bồ Tát lai văng phẩm thời, tứ vạn nhị thiên thiên tử đắc Vô Sanh Nhẫn, Hoa Đức Bồ Tát đắc Pháp Hoa tam-muội” (Lúc nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát lai văng này, bốn vạn hai ngàn thiên tử đắc Vô Sanh Nhẫn, Hoa Đức Bồ Tát đắc Pháp Hoa tam-muội). Do đây biết là khi đức Phật nói phẩm Diệu Âm Bồ Tát, có rất nhiều người được hưởng pháp ích (lợi ích nơi pháp). Do đại chúng nghe pháp được lợi ích, bởi thế lại mong cầu Phật tiếp tục giảng thêm diệu pháp; như vậy có thể hiểu “nhĩ thời” là lúc rất nhiều chúng sanh mong mỏi Như Lai thuyết pháp.

      Theo như kinh Pháp Hoa giới thiệu, Diệu Âm Bồ Tát (Mañju-ghosha Boddhisattva) là một đại Bồ Tát trong cơi nước Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm ở phương Đông. Quán Âm Bồ Tát như mọi người đều biết rơ là một đại Bồ Tát thuộc Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đông phương Diệu Âm Bồ Tát đă đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội, bởi thế có thể tự tại hiện thân theo từng loại để giáo hóa chúng sanh trong đời, tức là cần phải biến hiện thân tướng nào để giáo hóa chúng sanh, Ngài liền có thể biến hiện thân tướng ấy. Tây phương Quán Âm Bồ Tát như trong phần sau phẩm này sẽ giới thiệu: “Ưng dĩ hà thân đắc độ giả, tức hiện hà thân nhi vị thuyết pháp” (Nên dùng thân nào để đắc độ, liền hiện thân ấy để thuyết pháp); có thể nói là Quán Âm Bồ Tát cũng đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội giống hệt như thế. Bởi thế, cổ đức gọi hai phẩm kinh này là “những phẩm chị em”, hàm ư chúng có ư nghĩa và giá trị gần giống nhau.

      Hoặc có thể nói là đại chúng nghe những công đức thù thắng của Diệu Âm Bồ Tát ở phương Đông xong, nghĩ đến Bồ Tát Quán Âm ở phương Tây cũng là một vị đại Bồ Tát rất phi thường, nhưng công đức tự chứng, sự hóa độ người khác của Ngài rốt cuộc ra sao, đại chúng trong pháp hội vẫn chưa biết; bởi vậy, họ ngưỡng vọng đức Thế Tôn giảng cho hành trạng của đức Quán Âm. Chính ngay lúc đại chúng ngưỡng vọng đức Thế Tôn tuyên thuyết như thế, bèn gọi là “nhĩ thời”.

      “Vô Tận Ư Bồ Tát” là vị đại biểu vấn pháp trong phẩm này. Ngay khi đức Phật giảng xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát, có vị Vô Tận Ư Bồ Tát (Aksaya-mati Boddhisattva) bèn đứng ra thỉnh pháp. Vô Tận Ư là vị đại Bồ Tát ở thế giới Bất Thuấn nơi phương Đông, giáo chủ của thế giới Bất Thuất là Phổ Hiền Như Lai. Trong tương lai, Quán Âm Bồ Tát kế thừa A Di Đà Phật thành Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Cần biết rằng ngài Vô Tận Ư trong tương lai sẽ kế thừa Phổ Hiền Như Lai làm Phật trong thế giới Bất Thuấn ở phương Đông.

      Vô Tận Ư là vị đại Bồ Tát ở phương Đông, v́ sao lại đến thế giới Sa Bà nghe Phật Thích Ca thuyết pháp? Là do tuân lệnh đức Phổ Hiền Như Lai (Samantabhadra Tathāgata) mà đến. Lúc đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa, chính là diễn bày trực tiếp bản hoài, bởi thế mười phương chư Phật đều phái những bậc thượng thủ Bồ Tát của ḿnh đến nghe đức Phật nói diệu pháp. Kể từ lúc Phật bắt đầu nói kinh Pháp Hoa cho đến lúc này, Vô Tận Ư Bồ Tát ngồi tại chỗ lặng lẽ nghe giảng; đến lúc Phật nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát, v́ muốn thỉnh pháp, Ngài bèn “tức tùng ṭa khởi” (từ ṭa ngồi đứng dậy).

      Thánh hiệu của Phật và Bồ Tát đều được an lập từ tất cả công đức. Sở dĩ Vô Tận Ư mang tên Vô Tận Ư là do dựa theo công đức nào mà an lập? Ở đây, có thể dựa theo ba phương diện thế giới, chúng sanh, bi nguyện mà thuyết minh. Trên phương diện thế giới, trước hết phải hiểu rơ: Có nhiều vô cùng vô tận, vô lượng, vô biên những thế giới to như thế giới Sa Bà, kinh Phật gọi là “vô lượng vô biên thế giới”. Trong những thế giới nhiều như thế ấy, chỉ nói riêng người trong Nam Thiệm Bộ Châu của thế giới Sa Bà này đă nhiều vô kể; nếu nói gộp tất cả số người trong bốn đại châu lẽ đương nhiên càng nhiều hơn. Ngoài nhân loại c̣n có những chúng sanh khác, chúng sanh thật là nhiều chẳng thể tính đếm nổi. Chẳng riêng ǵ chúng sanh trong một thế giới này là như thế, chúng sanh trong mỗi một thế giới đều như thế; bởi thế nói “chúng sanh vô tận”. Lúc vị Bồ Tát này vận dụng trí huệ quán sát thế giới, nhận thấy có vô tận thế giới. Trong vô tận thế giới, có vô tận chúng sanh hoạt động. Đúng là mỗi chỗ có một thế giới, mỗi thế giới có một thế giới chúng sanh, nhưng các chúng sanh đều bị phiền năo sai khiến, trôi nổi, đọa lạc trong biển nghiệp, ch́m đắm luân hồi, bị các thứ khổ bức bách, trọn không có lúc nào giải thoát! Vô Tận Ư Bồ Tát chẳng nỡ thấy vô cùng vô tận chúng sanh chịu các khổ năo lâu dài, bèn từ tận đáy ḷng sâu thẳm, phát khởi bi nguyện vô tận, nguyện độ vô tận chúng sanh trong vô tận thế giới, khiến cho vô tận chúng sanh thành Phật, sau đó chính ḿnh mới thành Phật; bởi thế hiệu là Vô Tận Ư.

      Giải thích danh hiệu Vô Tận Ư, cổ đức dùng bốn câu kệ để h́nh dung:

      Thế giới vô biên trần nhiễu nhiễu,

      Chúng sanh vô tận nghiệp mang mang,

      Ái hà vô để lăng thao thao,

      Thị cố hiệu vi Vô Tận Ư.

      (Thế giới vô biên mờ mịt bụi,

      Chúng sanh vô tận nghiệp bời bời,

      Sông ái không đáy sóng cuồn cuộn,

      Bởi thế hiệu là Vô Tận Ư)

      Ư nói: Thế giới là vô tận, chẳng sai! Nhưng trong vô tận thế giới lại có thế giới thanh tịnh, có thế giới uế ác. Thế giới uế ác nhiều hơn thế giới thanh tịnh. Bởi thế, vô cùng vô tận thế giới nói chung là dơ bẩn bị trần cảnh khuất lấp khó kham, uế ác bất tịnh! Những chúng sanh trong các thế giới ấy bất luận nhiều đến đâu, đại đa số ở trong biển nghiệp mênh mông, bị nghiệp lực lôi kéo! Nghiệp lực lôi quư vị lên thiên đường, quư vị sẽ lên thiên đường; nghiệp lực lôi quư vị xuống địa ngục, quư vị sẽ đọa địa ngục, tự ḿnh chẳng tự chủ được mảy may ǵ! Sở dĩ chúng sanh ở trong biển nghiệp mênh mông không chỗ nương về, căn bản là do v́ ch́m đắm trong sông ái dục không đáy, sóng vỗ cuồn cuộn bất tuyệt. Bởi thế, biển khổ vô biên; chúng sanh tuần hoàn chẳng ngơi trong Hoặc nghiệp như thế. V́ vậy, tâm Bồ Tát suy tưởng: Chúng sanh chịu khổ như thế, nếu ta chẳng phát tâm cứu độ, giáo hóa, c̣n đợi ai làm chuyện này nữa đây? Bởi thế, liền phát vô tận bi nguyện, muốn độ vô tận chúng sanh. Do vậy hiệu là Vô Tận Ư.

      Vô Tận Ư và các đại chúng v́ muốn hiểu rơ công đức của Quán Âm Bồ Tát, thấy không có ai khác thỉnh vấn, nên Ngài bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, thay mặt đại chúng thỉnh vấn đức Phật. Câu “tức tùng ṭa khởi” (từ ṭa ngồi đứng dậy) nếu giải thích theo mặt chữ sẽ rất đơn giản, nhưng nếu dùng quán tâm để giải thích như ngài Thiên Thai th́ lại mang những ư nghĩa sâu sắc. Chữ “ṭa” ở đây chẳng phải là chỗ ngồi thông thường, mà có nghĩa là Pháp Không Ṭa, cũng như kinh Pháp Hoa đă chép: Chư pháp Không vi ṭa” (lấy các pháp Không làm ṭa). Lấy “các pháp Không” làm ṭa, không chỉ là chẳng chấp trước vào các pháp, mà ngay cả các “pháp Không” cũng chẳng chấp trước. Nếu chấp trước nơi Không, sẽ không thể thật sự liễu giải Không.

Ngài Vô Tận Ư từ ṭa đứng dậy, biểu thị Ngài chẳng nhiễm trước nơi Không, bởi thế mới nói “lấy các pháp Không làm ṭa”. Tuy chẳng nhiễm Không, nhưng chẳng phải là chẳng có cái ǵ; Bồ Tát từ ṭa “pháp không” đứng dậy vấn pháp là một minh chứng. Nếu như thật sự chẳng có cái ǵ hết cả, cần ǵ phải đứng lên hỏi nữa? Cần ǵ phải giảng kinh thuyết pháp? Do bởi Không nhưng Bất Không, cho nên mới từ ṭa Pháp Không đứng dậy, thỉnh Phật khai thị. Như vậy, câu “tức tùng ṭa khởi” hàm nghĩa: Chẳng chấp vào Không hay Hữu, vượt khỏi cả Không lẫn Hữu, chánh thức chứng đắc thâm nghĩa diệu pháp Thật Tướng.

      “Thiên đản hữu kiên” (trật áo vai phải) là nghi thức nhất định phải dùng của hàng Phật tử xuất gia đứng dậy vấn pháp. Lúc Phật tại thế, tỳ-kheo mặc ca-sa giống như cách tăng đoàn Phật giáo Nam Truyền mặc. Theo quy củ nhà Phật, lúc b́nh thường, tỳ-kheo không lễ Phật, không thuyết pháp, cả hai vai áo đều phủ kín, chẳng lộ ra ngoài. Lúc thấy Phật, lễ Phật, nhằm biểu thị ḷng cung kính, bèn đặc biệt lộ vai phải ra. Vô Tận Ư Bồ Tát muốn vấn pháp, nhằm tỏ ḷng tôn trọng đức Phật, nên buông vạt ca-sa mặc trên thân xuống, để lộ vai phải của ḿnh ra.

      Nếu giải thích theo quán tâm th́ lộ vai phải, che giấu vai trái cũng có ư nghĩa sâu xa. Người tu học Phật pháp đạt đến tŕnh độ khá, sẽ có hai thứ trí huệ:

- Một là Chân Thật Trí chứng ngộ chân lư “tánh các pháp là Không”, chẳng thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được nổi, bởi thế che vai trái chẳng để lộ ra ngoài.

- Hai là Phương Tiện Trí phát xuất từ Chân Thật Trí, có thể quán sát hết thảy thế tục, có thể v́ các chúng sanh thuyết pháp, có thể chỉ ra một con đường tu hành. Trí này c̣n gọi là Quyền Xảo Trí. Bởi thế để lộ vai hữu ra cho mọi người được thấy rơ ràng.

Phương Tiện Trí như vai phải, Chân Thật Trí như vai trái. Một bên che giấu, một bên hiển lộ, rất thích hợp để biểu thị hai trí Quyền và Thật. Vô Tận Ư là một vị đại Bồ Tát, che kín vai trái biểu thị Ngài có Chân Thật Trí chứng ngộ Thật Tướng các pháp, để lộ vai phải biểu thị Ngài có thể vận dụng Phương Tiện Trí quyền xảo. Phương Tiện Trí hóa độ cơi tục, Chân Thật Trí khế hợp Chân Đế. Vận dụng cả hai trí hiển thị Chân chính là Tục, Tục chính là Chân, đạt đến cảnh giới “Chân Tục viên dung” tối cao.

“Hợp chưởng hướng Phật” (chắp tay hướng về Phật): Chắp hai bàn tay lại, mặt hướng về đức Phật, đây là một lễ nghi thông thường để chào hỏi người trên và chào hỏi nhau của người Ấn Độ. Nếu giải thích theo quán tâm th́: Hai bàn tay có mười ngón, nếu tách riêng từng ngón sẽ tượng trưng cho mười pháp giới đă nói ở phần trên. Nay đem mười ngón áp lại, đặt trước ngực, biểu thị mười pháp giới trong một niệm tâm của chúng ta, chẳng thể ĺa một niệm tâm mà có.

“Nhi tác thị ngôn” (bèn nói như sau): Sau khi ngài Vô Tận Ư thể hiện các lễ nghi cần phải có xong, Ngài bèn nói những lời như dưới đây, thỉnh Phật khai thị về hành trạng của đức Quán Âm Bồ Tát.

Những câu trên đây thật ra biểu thị các hoạt động thân, ngữ, ư. “Từ chỗ ngồi đứng dậy” là thân nghiệp; “bèn nói như sau” là khẩu nghiệp; “chắp tay hướng Phật” là ư nghiệp. Trong lúc ấy, chuyên tâm nhất ư, bề ngoài tưởng chừng là thân nghiệp, nhưng thật ra thuộc về ư nghiệp. Mỗi cá nhân đều có hoạt động nơi ba nghiệp, vấn đề là hướng theo phương diện hoạt động nào th́ mới là hoạt động hợp lư chánh đáng. Về đại thể, ba nghiệp của chúng sanh là hướng theo phương diện hoạt động ác, dẫu có lúc hướng thiện cũng vẫn thuộc hữu lậu. Ba nghiệp hoạt động của ngài Vô Tận Ư, bất luận là đến mười phương thế giới gặp Phật nghe pháp, bất luận là v́ tùy từng loài chúng sanh hóa hiện thuyết pháp, đều là thanh tịnh vô nhiễm, thuần thiện vô lậu.

“Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ hà nhân duyên danh Quán Thế Âm?” (Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên ǵ tên là Quán Thế Âm?): Vô Tận Ư chánh thức nêu vấn đề. Vấn đề này ngay cả người b́nh thường mới học Phật cũng có thể hỏi được. Chẳng hạn như những kẻ mới tin Phật, khuyên họ phát tâm niệm nhiều thánh hiệu Quán Âm, họ thường hay hỏi: “Bảo tôi niệm nhiều thánh hiệu đương nhiên là rất hay, nhưng sao lại kêu tôi niệm Quán Thế Âm Bồ Tát?” Vô Tận Ư là bậc Bổ Xứ Đại Sĩ, chẳng lâu sau sẽ thành Phật, lẽ đâu chẳng hiểu thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát? Sở dĩ Ngài nêu lên câu hỏi này là thay mặt những người chưa hiểu rơ công đức của Quán Âm Bồ Tát, đặc biệt là hỏi thay cho chúng sanh trong thời đại Mạt Pháp. Như chúng ta hiện tại hiểu rơ sự vĩ đại và bi nguyện sâu rộng của Quán Âm Bồ Tát là do Vô Tận Ư ngay khi đó đă thỉnh vấn.

“Thế Tôn” là một trong các đức hiệu của Phật Đà, có nghĩa là đức đại thánh Phật Đà được thế gian lẫn xuất thế gian cùng tôn trọng, bởi thế gọi là Thế Tôn. V́ thỉnh đại pháp, trước hết xưng một tiếng “Thế Tôn”. Đại danh Quán Âm Bồ Tát chúng con thường nghe qua, nhưng vị Quán Thế Âm Bồ Tát rốt ráo là do nhân duyên ǵ mà gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát? Hiện tại đại chúng trong pháp hội đối với điều này vẫn c̣n chưa biết, kính thỉnh Phật Đà v́ đại chúng khai thị sơ lược!

 

1.1.2. Như Lai bị thị cảm ứng (Như Lai chỉ dạy đầy đủ về sự cảm ứng)

1.1.2.1. Chánh đáp đắc danh sở dĩ (Giải đáp nguyên do được danh hiệu ấy)

1.1.2.1.1. Tổng tiêu tầm thanh cứu khổ (nói tổng quát về công hạnh tầm thanh cứu khổ)

Chánh kinh:

Phật cáo Vô Tận Ư Bồ Tát:

- Thiện nam tử! Nhược hữu vô lượng bách thiên vạn ức chúng sanh, thọ chư khổ năo, văn thị Quán Thế Âm Bồ Tát, nhất tâm xưng danh, Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời quán kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát.

佛告無盡意菩薩。善男子。若有無量百千萬億眾生。受諸苦惱聞是觀世音菩薩。一心稱名。觀世音菩薩。即時觀其音聲,皆得解脫。

(Phật bảo Vô Tận Ư Bồ Tát:

- Này thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ năo, nghe đến Quán Thế Âm Bồ Tát này, một ḷng xưng danh th́ ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm bèn xem xét âm thanh ấy, [khiến cho họ] đều được giải thoát)

 

Phần trước là Vô Tận Ư thỉnh vấn, phần này là Phật Thích Ca giải đáp. Lời đáp tổng quát trong phần này chính là phần trọng yếu nhất trong toàn phẩm, có thể nói là cương yếu của toàn phẩm, hoặc có thể nói là trung tâm của toàn phẩm; bởi lẽ nó liên quan đến hoằng nguyện từ bi sâu xa của đức Quán Âm, hoàn toàn phô bày hoằng nguyện ấy trong đoạn kinh văn này.

Quán Âm Bồ Tát sở dĩ có tên là Quán Âm Bồ Tát, nguyên do của danh hiệu ấy cũng đă được biểu lộ trong đoạn kinh văn này. Phương pháp xưng niệm danh hiệu và những lợi ích đạt được cũng đều nhờ mấy câu này mà tỏ rơ. Bởi thế đây chính là cương yếu hoặc trung tâm của toàn phẩm. Trong đoạn này lại có ba câu tối trọng yếu, là: “nghe đến Quán Thế Âm Bồ Tát này”, “nhất tâm xưng danh” và “đều được giải thoát”, có thể nói là cương yếu của toàn bộ đoạn kinh này.

“Phật cáo Vô Tận Ư Bồ Tát” (Phật bảo Vô Tận Ư Bồ Tát): “Thiện nam tử!” Đây là cách xưng hô của Phật đối với Vô Tận Ư. Nam tử là đối ứng với nữ nhân mà nói, có đủ nam tánh th́ gọi là nam tử; có đủ nữ tánh th́ gọi là nữ tử. “Thiện nam tử” ở đây chẳng phải là nam tử hiểu theo nghĩa thông thường, mà là kẻ có thiện căn sâu dày. Kẻ nam tử có đủ thiện căn sâu dày mới gọi là “thiện nam tử”. Nữ nhân có đủ thiện căn sâu dày gọi là “thiện nữ nhân”. Thiện căn do vun bồi mà có, nào phải do trời sanh. Như nghe kinh, nghe pháp, bố thí, tŕ giới đều là những phương tiện lớn nhất để vun bồi thiện căn. Có thể học Phật là đă có thiện căn, nhưng càng phải vun bồi hơn nữa.

“Nhược hữu vô lượng bách thiên vạn ức chúng sanh, thọ chư khổ năo” (Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ năo): Đây là đối tượng cần được Quán Âm cứu giúp. Câu “vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh” h́nh dung chúng sanh rất nhiều. Chúng sanh nhiều như thế sống trong thế giới này, trọn chẳng phải là hưởng thọ khoái lạc mà luôn phải chịu các nỗi khổ năo bức bách, như các chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, không loài nào chẳng có các thứ khổ năo. Những nỗi khổ năo đó nếu nói chi tiết chẳng thể kể hết nổi. Nói riêng nhân loại không thôi đă có đủ loại, đủ dạng khổ năo; như thông thường nói là tám khổ, nghĩa là những thứ nhân loại không sao tránh khỏi.

Tám khổ có thể chia thành ba loại, như sanh, lăo, bệnh, tử là thống khổ thuộc về phương diện thân tâm; c̣n ái biệt ly khổ (yêu thương xa ĺa), oán tắng hội khổ (oán ghét phải gặp gỡ) là thống khổ về mặt xă hội; cầu bất đắc khổ (cầu chẳng được) là thống khổ thuộc về mặt [hoàn cảnh] tự nhiên. Nếu xét từ căn bản để luận, th́ đức Thích Tôn tổng kết bảy nỗi khổ bằng cách nói đại lược là “nỗi khổ v́ năm ấm lừng lẫy” (ngũ ấm xí thịnh khổ). Có nghĩa là: Có các nỗi khổ phát sanh nơi hữu t́nh do chính bản thân hữu t́nh (Ngũ Uẩn là các nguyên tố cấu tạo nên hữu t́nh). Có năm Uẩn đó nhưng năm Uẩn hừng hực như lửa cháy, bởi thế biển khổ vô biên. Thống khổ công kích, thân tâm phiền năo, ai chẳng mong được giải trừ ngay lập tức? Bất luận là ai, khi bị thống khổ miệng phải kêu rên không ngừng th́ trong tâm mới cảm thấy đỡ khổ đôi chút.

Giờ đây, đức Phật bảo chúng ta: Lúc chúng sanh bị thống khổ bức bách, chớ có kêu rên vô ích, tốt nhất là chuyên tâm nhất ư xưng niệm thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát. V́ thế, Ngài mới nói: “Văn thị Quán Thế Âm Bồ Tát, nhất tâm xưng danh, Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời quán kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát” (Nghe đến Quán Thế Âm Bồ Tát này, một ḷng xưng danh th́ ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm bèn xem xét âm thanh ấy, [khiến cho họ] đều được giải thoát): Câu này chỉ rơ lư do Quán Âm có được danh hiệu ấy. Quán Thế Âm sở dĩ có hiệu là Quán Thế Âm do Ngài nghe âm thanh xưng danh của chúng sanh bèn tầm thanh cứu khổ. Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, đúng là “không khổ nào chẳng cứu, không chúng sanh nào chẳng độ”. Là v́ chúng sanh khi thọ khổ, nghe đến thánh hiệu Quán Thế Âm, nếu có thể chuyên tâm nhất ư xưng danh Ngài th́ Quán Thế Âm Bồ Tát xem xét âm thanh xưng danh của chúng sanh ấy, tức thời giải trừ nỗi đau khổ cho người đó, khiến cho người đó giải thoát chẳng c̣n bị đau khổ buộc ràng!

Ở đây, chữ “Văn” (nghe) rất trọng yếu. Bởi lẽ, chúng sanh nghe âm thanh thánh hiệu Quán Âm; Quán Âm cũng nghe âm thanh của chúng sanh mà tầm thanh cứu khổ. Nghe lẫn nhau như thế th́ mới có thể tương ứng, tương cảm; tức là chúng sanh nghe thánh hiệu bèn xưng dương, Bồ Tát nghe tiếng xưng danh bèn cứu tế. Đấy gọi là “chúng sanh nghe Quán Âm, Quán Âm nghe chúng sanh”. Chúng sanh nghe Quán Âm là “hữu sở cầu”, Quán Âm nghe chúng sanh là “hữu sở ứng”. Cảm ứng đạo giao như thế chúng sanh liền được giải thoát. V́ Quán Âm là tận hư không khắp pháp giới, bất luận thời gian nào, bất luận địa phương nào, chỉ cần nghe thấy âm thanh cầu được thoát khổ của chúng sanh, Bồ Tát lập tức đại từ đại bi thị hiện trước mặt người đó, giải cứu nỗi thống khổ, khiến cho người đó đắc đại giải thoát. Bởi thế, chữ Văn ở đây có tánh chất đặc biệt trọng yếu.

Chúng sanh nghe Quán Âm, Quán Âm nghe chúng sanh, đều là dùng tai nghe, v́ sao chẳng đặt tên là Văn Thế Âm mà lại là Quán Thế Âm? Chúng sanh chẳng thể dùng lẫn lộn sáu căn, nên chỉ có thể dùng mắt thấy, tai nghe, Bồ Tát có thể dùng lẫn lộn sáu căn nên mắt chẳng những có thể thấy mà c̣n có thể nghe nữa, tai chẳng những có thể nghe mà cũng có thể thấy. Sở dĩ Quán Âm được gọi là Quán Thế Âm là v́ Ngài có thể quán sát âm thanh để tầm thanh cứu khổ. Hoặc có thể hiểu là: Chữ Quán ở trên là trí huệ quán sát, chữ Thế Âm ở dưới là cảnh giới được đức Quán Âm quan sát. Bồ Tát dùng trí huệ năng quán để quán sát hết thảy âm thanh khổ năo cầu cứu của hữu t́nh trong thế gian, rồi sau đó lập tức dùng bi nguyện hoằng thệ giải trừ thống khổ, ban sự an vui cho quư vị; tiêu trừ, cứu thoát tai nạn cho quư vị, ban cho quư vị sự tốt lành, không nỗi khổ nào chẳng dẹp, không nạn nào chẳng cứu; bởi thế xưng là Quán Thế Âm. Chẳng phải chỉ có thế, ngay trong lúc dùng trí năng quán để quán cảnh là những âm thanh cầu cứu giải trừ khổ nạn của chúng sanh trong thế giới, th́ cảnh và trí đều chỉ là nhất tâm, bởi vậy gọi là Quán Thế Âm.

Nếu dựa theo lời kinh Bi Hoa giới thiệu về nhân địa của Quán Âm th́ quá tŕnh phát tâm của Ngài như sau: Trong vô lượng kiếp trước, Bồ Tát là phàm phu, từng làm thái tử thứ nhất của Chuyển Luân Thánh Vương. Đương thời, có Bảo Tạng Phật xuất hiện trong đời, đệ nhất thái tử vô cùng tin kính Tam Bảo, đặc biệt phát tâm cúng dường Phật, Tăng ba tháng; lại c̣n đối trước Phật Bảo Tạng phát Đại Bồ Đề tâm, lập đại thệ nguyện: “Giả sử có chúng sanh khổ năo trong thế giới, v́ cầu giải cứu nỗi thống khổ bèn xưng niệm danh hiệu con, con dùng thiên nhăn thấy được, thiên nhĩ nghe được, nếu con chẳng thể cứu thoát nỗi khổ ấy, con thề quyết định chẳng thành Phật”. Bảo Tạng Phật thấy Ngài phát đại nguyện như thế, biết là thật khó có, bởi thế, đối với hoằng nguyện dẹp khổ ban vui ấy, bèn hết sức tán thán, lại c̣n đặt hiệu là Quán Thế Âm. Từ lời giới thiệu của kinh Bi Hoa, ta biết Quán Thế Âm Bồ Tát được danh hiệu ấy là do sự phát tâm khi c̣n tu nhân, danh hiệu ấy là do Bảo Tạng Phật đặt.

Kinh này giải thích danh hiệu Quán Thế Âm ước theo mặt lợi tha. Kinh Lăng Nghiêm giải thích danh hiệu Quán Thế Âm ước trên mặt tự lợi. Tự lợi là Trí, lợi tha là Bi. Bởi vậy danh hiệu Quán Thế Âm thật sự bao gồm những ư nghĩa tự lợi, lợi tha, Bi Trí song vận (vận dụng cả Bi lẫn Trí). C̣n như kinh Lăng Nghiêm giải thích danh hiệu Quán Âm như thế nào, xin đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ biết.

Nghe danh, xưng niệm, được giải thoát, nay xin nêu một câu chuyện cảm ứng để chứng minh:

Trong quá khứ, tại đất Thượng Ngu thuộc tỉnh Triết Giang, Trung Quốc, có một người buôn gạo chân thành phụng tŕ thánh hiệu Quán Âm, trong nhà chỉ có hai vợ chồng. Chàng buôn gạo là người lương thiện, không việc ǵ cũng thường niệm thánh hiệu Quán Âm, thậm chí trong mộng cũng c̣n nhớ niệm Quán Âm Bồ Tát. Có bữa tối kia, vừa mới đi ngủ, Bồ Tát đặc biệt báo mộng, bảo anh ta sắp gặp đại nạn:

- Để giải cứu đại nạn, ta có bốn câu dành cho anh, anh phải nhớ kỹ nhé!

Gặp cầu đừng dừng thuyền,

Gặp dầu liền bôi đầu,

Đấu thóc ba thưng gạo,

Nhặng xanh nâng đầu bút.

Bốn câu nghe trong mộng ấy, đến hôm sau anh ta nhớ kỹ bởi lẽ giấc mộng ấy khác với những giấc mộng b́nh thường. Chàng buôn gạo cảm thấy rất kỳ quái, chẳng biết là điềm báo ǵ, nhưng bởi tin tưởng đức Quán Thế Âm nên chân thành ghi nhớ kỹ càng.

Đến một ngày nọ, chèo thuyền qua xứ khác mua gạo kiếm lời, thuyền đi chưa mấy chốc, chợt cuồng phong, mưa dữ nổi lên. Thuyền phu trông thấy đằng xa có một cây cầu lớn liền muốn neo thuyền dưới chân cầu để tạm tránh mưa gió. Lúc thuyền đến gần dưới cầu, chàng buôn gạo chợt nhớ đến câu “gặp cầu đừng dừng thuyền”, lập tức bắt thuyền phu bơi thuyền tách ra. Khéo sao, thuyền vừa tách khỏi cầu, cầu liền gẫy sụp xuống. Nếu thuyền chẳng tách khỏi cầu, ai nấy quyết định phải chết. Chàng buôn gạo thấy t́nh h́nh đó, biết là Bồ Tát cứu độ, bởi thế ư niệm xưng niệm thánh hiệu Quán Âm càng thêm kiền thành, tinh tấn.

Về sau, có một chiều nọ, chàng lễ bái Quán Âm ở nhà, trong lúc vừa lễ xuống, chưa kịp đứng lên, đột nhiên chiếc đèn lưu ly treo trong Phật đường rớt xuống, cả mặt đất ngập ngụa dầu. Chàng buôn gạo nghĩ câu thứ nhất đă linh nghiệm, chắc chắn câu thứ hai cũng phải có lư do; v́ vậy, thấy dầu đầy đất bèn cứ chất phác bôi dầu lên đầu ḿnh. Một lúc sau đi ngủ, vô t́nh nửa đêm thức dậy, nghe thấy trong pḥng có mùi máu tanh tưởi, bèn đứng dậy thắp đèn t́m xem, thấy vợ ḿnh đă bị kẻ khác giết. Tuy cảm thấy lạ lùng quá, nhưng không biết làm sao, chỉ c̣n cách báo tin cho bố vợ biết. Bố vợ hỏi đến nguyên nhân, chàng nói không được một câu nào, bèn tra vặn người trong nhà, phát hiện chàng rể tin Phật, con gái ḿnh không tin Phật. Do đó, ông bố hoài nghi t́nh cảm vợ chồng không tốt, quyết đoán con gái ḿnh bị chàng rể giết chết, bèn đi báo quan.

Viên quan nhận thấy sanh mạng rất quan trọng, bèn truyền gọi chàng buôn gạo đến thẩm vấn, chỉ thấy chàng rất thành thực, chẳng giống phạm nhân giết người, liền hỏi: “Trong buổi tối vợ ngươi bị giết đó, tài vật trong nhà có mất mát ǵ không?” Chàng buôn gạo thưa không, chứng minh chẳng phải là bị giặc cướp giết. Lại hỏi xóm giềng có ai thù hằn không? Chàng lái buôn cũng đáp là không. Nhân viên thẩm án hỏi đến đây thấy vụ án sát nhân này rất kỳ quái, đă chẳng phải bị kẻ thù giết, lại cũng chẳng phải do trộm giết, việc lại xảy vào lúc đêm khuya, chẳng phải chính chàng lái buôn giết vợ c̣n ai vào đây nữa? Bởi thế, phán quan (nhân viên phán án) muốn cất bút ghép anh chàng buôn gạo vào tội tử h́nh!

      Chính trong lúc khẩn yếu đó, chợt có một đoàn nhặng xanh lớn bay đến bám đầy ngọn bút. Trong lúc viên phán quan cảm thấy rất kỳ quái, chàng buôn gạo đột nhiên vui sướng như phát cuồng, hét ầm lên: “Hay quá xá! Hay quá xá! Nhặng xanh nâng đầu bút lại thật sự ứng nghiệm rồi!” Viên phán quan nghe kêu như thế, biết bên trong ắt có sự t́nh, bèn hỏi chàng buôn gạo v́ sao vui sướng quá vậy? Chàng buôn gạo nghĩ trong bốn câu đă có ba câu ứng nghiệm, Bồ Tát nhất định gia bị ḿnh; nhân đó, đem hết những sự t́nh đă thấy trong mộng kể cho viên phán quan nghe. Viên phán quan là người có học vấn, suy nghĩ trong bốn câu này, mấu chốt nằm trong câu thứ ba, bèn cùng mọi người nghiên cứu, hiểu ra câu “đấu cốc, tam thăng mễ” (đấu thóc, ba thưng gạo) có nghĩa như thế này: Một đấu thóc chỉ có ba thưng gạo, tự nhiên những thưng kia phải là cám (khang), như vậy hung phạm nếu chẳng phải là Khang Thất th́ phải là Thất Khang[1]. Ngầm đi điều tra, quả nhiên trong địa phương có người tên là Khang Thất, bắt về hỏi mấy câu, Khang Thất chẳng thể không thừa nhận ḿnh là phạm nhân giết người.

      V́ sao Khang Thất phải giết người? Khang Thất vốn gian díu với vợ chàng buôn gạo, toan giết chàng buôn gạo, do trong bóng tối ṃ phải cái đầu dính dầu của chàng, tưởng là người vợ, nên bèn giết kẻ đầu không có dầu, nào hay khéo thay đă giết lầm người! Chân tướng của hung án tự nhiên sáng tỏ. Phán quan liền phán Khang Thất tội tử h́nh, chàng buôn gạo vô tội được thả về nhà. Chàng buôn gạo trải qua biến cố này, nhận biết Bồ Tát từ bi quảng đại, lại thấy nhân sanh hư huyễn chẳng thật, bèn phát tâm xuất gia cầu đắc đạo quả! Phán quan cũng nhận thấy Bồ Tát linh cảm rộng lớn, từ đấy tin sâu Phật pháp. Bởi vậy, xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát có thể được giải thoát và cứu tế!

      Ở đây, có lẽ có người hỏi: “Quán Âm là đại từ đại bi, người niệm Quán Âm cũng rất nhiều, cớ sao được giải thoát rất ít?” Mấu chốt là cách niệm như thế nào! Kinh văn dạy “nhất tâm xưng niệm” là một điều tối trọng yếu! Nếu chẳng thể nhất tâm nhất ư xưng niệm, chẳng cần biết là niệm nhiều hay ít, hiệu quả đều rất nhỏ. Cổ đức nói:

      Khẩu niệm Di Đà tâm tán loạn,

      Hăm phá hầu lung dă đồ nhiên!

      (Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn,

      Toạc hầu rách họng uổng công thôi!)

      Niệm Di Đà như thế th́ niệm Quán Âm cũng giống như vậy. Chúng ta chẳng cần phải từ sáng đến tối niệm Quán Âm, cũng chẳng cần phải cùng rất nhiều người niệm Quán Âm; nếu như miệng niệm mà tâm tán loạn, tâm miệng chẳng ứng với nhau, dù niệm cũng khó được giải thoát! Nói “nhất tâm xưng danh” nghĩa là chuyên nhất ư niệm, tập trung toàn bộ tinh thần vào thánh hiệu Quán Âm, chẳng để cho ư niệm nào khác xen tạp vào, câu này gối lên câu kia, tiếp nối nhau, quên sạch hết thảy những ǵ bên ngoài, khiến cho ta là người niệm cùng đức Quán Âm được ta niệm hợp thành một th́ mới có thể nói là “nhất tâm xưng danh”. Nhất tâm xưng danh như vậy, niệm một thời gian lâu sau sẽ tự nhiên đạt được lợi ích, tự nhiên đạt được giải thoát!

Chúng sanh trầm luân trong sanh tử, bị các sự khổ bức bách, nói chung là chẳng được tự do, tự tại. Nếu muốn thoát luân hồi, chẳng bị các nỗi khổ bức bách, thân tâm ḿnh được tự do, th́ trong thời đại Mạt Pháp này, phương tiện tối thù thắng nhất không chi hơn là nhất tâm xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, tin tưởng Bồ Tát đại từ đại bi, sẽ tầm thanh cứu khổ khiến ta được giải thoát!

 

1.1.2.1.2. Biệt thị tŕ danh cảm ứng (Dạy riêng từng điều về sự cảm ứng của việc tŕ danh)

1.1.2.1.2.1. Cứu hỏa nạn (cứu nạn lửa)

 

Chánh kinh:

Nhược hữu tŕ thị Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu, do thị Bồ Tát oai thần lực cố.

若有持是觀世音菩薩名者。設入大火。火不能燒。由是菩薩威神力故。 

(Nếu có kẻ tŕ danh vị Quán Thế Âm Bồ Tát này, giả sử vào trong lửa lớn, lửa chẳng thể đốt cháy được, là do sức oai thần của vị Bồ Tát này vậy).

 

 Phần kinh văn trước là đức Thế Tôn v́ Vô Tận Ư đáp tổng quát, tiếp theo đây, Phật nói đến các thứ lợi ích. Như phẩm kinh này nói, Quán Âm lợi ích chúng sanh, về đại thể có hai phương diện:

- Một là “minh ích” (ích lợi ngầm), tức là âm thầm ban cho chúng sanh lợi ích.

- Hai là “hiển ích” tức là ban lợi ích cho chúng sanh một cách rơ rệt.

Trong hai thứ lợi ích này, bây giờ trước hết nói về minh ích. Trong đây lại chia thành ba đoạn:

1) Cứu bảy nạn.

2) Giải tam độc.

3) Đáp ứng hai thứ cầu mong.

Bảy nạn là nạn lửa, nạn nước, nạn hắc phong, nạn đao trượng, nạn La-sát, nạn gông cùm, nạn oán tặc. Thế gian vốn rất nhiều tai nạn, nhưng tối trọng yếu là bảy nạn vừa nêu trên. Nạn thứ nhất trong bảy nạn là nạn lửa, tức là những tai nạn do lửa lớn gây ra. Gặp phải tai nạn này, nếu niệm thánh hiệu Quán Âm sẽ được giải thoát.

Trong thế gian này, bất luận đi đến địa phương nào, bất luận trong thời điểm nào, chúng ta đều có thể gặp phải một trận hỏa tai lớn. Nhỏ th́ khiến chúng ta khuynh gia bại sản, lớn th́ khiến chúng ta táng thân mất mạng. Bởi thế, bất cứ ai cũng đều sợ hỏa tai. Sợ lửa là một chuyện, lửa bốc lên lại là chuyện khác; nhưng lửa đâu có muốn thế, thường là do sơ ư, một đốm lửa nhỏ nhoi có thể là nguồn tai họa. Nếu gặp lúc đại hỏa tai, nên làm cách nào? Nói theo thế tục là phải dốc tận sức người t́m cách dập tắt. Ngoài ra nên trấn tĩnh cái tâm ḿnh, đừng sợ hăi quá mức; bởi lẽ chỉ có tâm trấn tĩnh mới chẳng đến nỗi bị tổn thất lớn lao! Nếu tâm chẳng thể trấn tĩnh, kinh hoảng, thất thố, th́ càng phải chịu tổn thất nặng nề hơn. Bởi vậy, lúc gặp đại hỏa tai, cần nhất là phải trấn tĩnh, đừng kinh hoảng. Nếu tâm hoảng ư loạn, chẳng những không cứu văn được t́nh thế, trái lại c̣n bị hại, phải nhớ kỹ để tránh khỏi!

Nói theo Phật giáo, lại c̣n có một biện pháp tối hảo, tức là nhất tâm xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, bởi vậy mới nói: Nhược hữu tŕ thị Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu” (Nếu có kẻ tŕ danh ngài Quán Thế Âm Bồ Tát này, giả sử vào trong lửa lớn, lửa chẳng thể đốt cháy được). Chữ “tŕ” ở đây thật là trọng yếu, giống như chữ “nhất tâm” trong đoạn văn ở phần trên vậy. Thông thường, ta hiểu Tŕ là nắm vật ǵ trong tay, nắm chắc chẳng buông th́ gọi là “chấp tŕ”. Bây giờ vận dụng ư tưởng ấy vào việc niệm tụng danh hiệu Quán Âm, th́ gọi là “chấp tŕ danh hiệu”.

Những ǵ ḿnh chấp tŕ chẳng buông đa số đều là những thứ quư báu, nhưng thứ quư báu nhất trong thế gian không ǵ hơn nổi Phật, Bồ Tát. Bởi thế, xưng niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát cần phải chấp tŕ cho thật chắc. Thế nào mới là chấp tŕ? Tức là niệm trước, niệm sau nối tiếp nhau chẳng đoạn, thẳng thừng mà niệm th́ gọi là “chấp tŕ”. Chấp tŕ như thế nội tâm nhất định rất kiền thành. Nội tâm kiền thành bèn được Bồ Tát cảm ứng, dẫu vô ư lọt vào đại hỏa, đại hỏa cũng chẳng thể đốt được quư vị. V́ sao lửa chẳng đốt được? Là do sức thần thông oai đức của Quán Âm Bồ Tát ngầm gia bị cho quư vị đấy. Bởi thế nói: “Do thị Bồ Tát oai thần lực cố” (Do sức oai thần của vị Bồ Tát này vậy).

Điều này có thể luận trên hai phương diện sự thực và đạo lư. Luận trên phương diện sự thực, nếu là Phật giáo đồ đương nhiên là tin, nếu chẳng phải Phật giáo đồ sẽ chẳng thể tin nổi. Chẳng cần biết là tin hay không tin, sự linh cảm của Quán Âm Bồ Tát đích xác là có.

Dưới thời Măn Thanh ở Trung Quốc, có một người giữ chức quan Vận Lương, tên là Thái Ân Tương. Chỗ ông ta ở tiếp giáp nhà dân, bốn bề khít khao chẳng hở chút nào. Một lần, nhà hàng xóm đột nhiên bốc cháy, mọi người lo chạy cứu đồ đạc này nọ, riêng ḿnh quan Vận Lương ngồi yên trong nhà, có người khuyên ông ta cũng không ra, tựa hồ muốn cùng chết với căn nhà. Kể ra cũng lạ, lửa từ nhà này bén sang nhà kia, nhà hàng xóm bốn bề đều bị cháy rụi, riêng ḿnh nhà ông ta chẳng bị cháy! Sau này có người hỏi ông ta v́ sao lại như thế? Ông bèn đáp:

- Trong lúc lửa đang mấy cháy đùng đùng, tôi nhất tâm nhất ư niệm chú Đại Bi, không c̣n có ư tưởng nào khác. Trong nhà tôi, không riêng ǵ tôi niệm chú Đại Bi, mấy đời đều niệm chú Đại Bi, mỗi đời đều có linh nghiệm chẳng thể nghĩ bàn, thoát được các thứ tai nạn khác nhau! Riêng bản thân tôi niệm chú Đại Bi đă mười mấy, hai mươi năm, mỗi lần gặp nạn gấp nào đều thấy hóa hiểm thành an! T́nh h́nh bữa nay trong quá khứ tôi đă từng trải qua, cũng do niệm chú Đại Bi mà thoát hỏa tai. Do tôi có tín niệm như vậy, tin tưởng Bồ Tát nhất định thầm gia bị cho; bởi thế, mọi người phải tin tưởng Bồ Tát, niệm thánh hiệu Quán Âm nhiều hơn!

Lại nữa, vào thời Diêu Tần ở Trung Quốc, có vị pháp sư Pháp Trí một dạ chuyên xưng niệm thánh hiệu Quán Âm. Có một lần, có việc phải đi qua nơi khác, con đường Sư đi cắt ngang đồng cỏ lau; ngay lúc đó, có người đến đốt cỏ dại, lửa từ bốn mặt cháy tới, vây kín pháp sư Pháp Trí vào giữa, chẳng có cách nào thoát khỏi biển lửa. Ngay khi đó, pháp sư lắng tâm suy nghĩ: “Ḿnh là người tín phụng Quán Âm, giờ đây đem sanh mạng này giao cho Quán Âm”. Sư bèn ngồi ngay ngắn giữa đám cỏ lau, nhất tâm nhất ư niệm thánh hiệu Quán Âm, niệm một lúc lâu sau, lửa to dần dần cháy lan gần đến thân, Sư bị khói ngộp mê đi, cho rằng sanh mạng đến đây là kết thúc! Thế nhưng lúc lửa to tắt rồi, một trận gió mát thổi tới, Sư dần dần tỉnh lại, nh́n chung quanh, tất cả cỏ hoang đều bị cháy sạch, chỉ có những nhánh cỏ mọc quanh ḿnh trong ṿng một thước là chẳng bị lửa bén đến, do đó chưa bị thiêu chết!

Căn cứ vào những sự thực này, chứng tỏ thánh hiệu Quán Âm có thể miễn trừ tai nạn. Quư vị đừng vội kêu ḿnh niệm chẳng có linh nghiệm, vấn đề là có nhất tâm xưng danh hay không?

Lại luận trên phương diện đạo lư: Đối với câu “giả sử vào trong lửa lớn”, chớ nghĩ lửa ở đây nhất định phải là lửa có h́nh, có tướng, mà phải nghĩ tới loại lửa vô h́nh vô tướng, hoặc nói theo cách thông thường là lửa nóng giận, chẳng phải là lửa bên ngoài mà là lửa trong tâm. Lửa Sân trong tâm cũng có tác dụng thiêu đốt, như nói: “Lửa nóng giận đốt cháy rừng công đức”, điều này đáng sợ nhất! Kinh Diệu Huệ Đồng Nữ nói: “Sân hoại thiện căn, vật tăng trưởng!” (Sân phá hoại thiện căn, chẳng cho tăng trưởng). Người b́nh thường chỉ biết lửa dữ ác hại bên ngoài đốt tiêu nhà cửa, rừng cây, chẳng nghĩ lửa Sân trong tâm c̣n độc dữ hơn lửa bên ngoài. Lửa bên ngoài chỉ có thể đốt tiêu vật ngoài thân, cùng lắm là đốt mất thân thể, c̣n công đức thiện căn đă tu học, tích tập, bất luận cách nào [lửa dữ bên ngoài] cũng chẳng thể thiêu được. Chỉ có mỗi lửa Sân trong tâm ḿnh mới có thể thiêu cháy thiện căn công đức. Bởi vậy, cố nhiên là phải đề pḥng ngoại hỏa, nhưng nội hỏa lại càng phải gia tâm đề pḥng.

Ngăn ngừa nội hỏa bằng cách nào? Tức là ngay trong lúc nội tâm nổi nóng, chợt nhớ đến Quán Âm đại sĩ, kiền thành niệm thánh hiệu Quán Âm, khác nào hắt một chậu nước lạnh thấu tận tâm, dập tắt lửa Sân, tự nhiên rừng công đức thiện căn chẳng bị đốt mất. Nếu đổi “thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu” (giả sử vào trong lửa lớn, lửa chẳng thể thiêu) thành “giả sử vào trong lửa Sân, lửa Sân chẳng thể thiêu” có phải là rất hợp đạo lư hay không? Người không tin Phật pháp há chẳng thể cũng tin tưởng điều này hay sao? Bởi thế, Phật pháp là vô cùng hợp t́nh, hợp lư, chẳng phải là kể chuyện cổ tích, nói huênh hoang đâu!

Lửa Sân có thể đốt cháy hết thảy, nóng giận chẳng ích lợi ǵ cho người khác, rất nhiều kinh đă nhắc đến. Nay tôi dẫn kinh Di Giáo để nói: “Sân khuể chi hại, tắc phá chư thiện pháp, hoại hảo danh văn, kim thế, hậu thế nhân bất hỷ kiến, đương tri sân tâm thậm ư mănh hỏa, thường đương pḥng hộ, vô linh đắc nhập” (Cái hại của nóng giận chính là phá các thiện pháp, hư hoại tiếng tăm tốt, người đời này đời sau chẳng thích trông thấy. Phải biết tâm Sân c̣n hơn lửa mạnh, thường phải đề pḥng, ngăn ngừa chẳng để cho nó vào được). Thật đấy! Nếu là người thường nổi nóng, dù các mặt khác rất tốt, ai cũng chẳng thích gặp người đó. Như ta thường nghe nói: “Gă đó làm việc rất giỏi giang, cũng chịu giúp đỡ người khác, có thể nói những lời tốt lành, có thể biên chép được, nhưng tánh nóng quá!” Nếu có ai muốn gặp kẻ kia, những người khác đều nói: “Tôi chẳng muốn gặp anh ta, v́ tánh anh ta nóng quá!” Bởi thế, lửa Sân độc hại nhất! Thật ra, có những lúc chẳng nên nổi nóng, nhưng do không tự khống chế được ḿnh, bất ngờ nổi giận đùng đùng! Trong lúc đó, nếu có thể nghĩ đến Quán Thế Âm Bồ Tát, nóng giận lập tức mất tiêu!

Trong quá khứ, có kẻ tục nhân hỏi vị pháp sư xuất gia câu này:

- Pháp sư! Tôi vốn có một bệnh không ai trị lành được, chẳng hay pháp sư có trị được bệnh cho tôi hay không?

Pháp sư hỏi:

- Ông mắc bệnh ǵ?

- Nói thật ra, về mặt thể chất tôi chẳng có bệnh ǵ, chỉ là thường hay nổi nóng. Lúc nổi nóng giống như sấm sét vậy đó, ai thấy cũng sợ, tôi vốn chẳng muốn nổi nóng, nhưng lúc gặp chuyện bèn tự nhiên đổ quạu giống như trời sanh vậy đó, muốn nóng là nóng, thật không có cách ǵ!

Gă tục nhân thưa cùng pháp sư như thế. Pháp sư lại bảo:

- Quái lạ! Rất nhiều bệnh tôi từng nghe qua, nhưng chưa bao giờ nghe căn bệnh như thế.

-  Nhà thầy đúng là vô lư quá, nóng giận ai mà chẳng hiểu cơ chứ?

Pháp sư nói:

- Không phải là không hiểu, ông nói nóng giận do trời sanh mà thành, xin ông đem nó ra cho tôi coi, chắc chẳng ngại ǵ!

Gă tục nhân nghe vậy, không khỏi ngẩn ngơ, suy nghĩ: “Đem bệnh cho ổng coi, tuy nội tâm có bệnh, nhưng làm sao đem cho ổng coi được?” Suy đi nghĩ lại, không cách chi đem ra cho coi được, bởi vậy, gă bảo pháp sư:

- Thầy muốn tôi đem cái bệnh cho thầy coi, nhưng làm sao đem được?

Nhân đó, pháp sư nói:

- Đă không có cách ǵ đem bệnh cho người khác coi, ông nói là tự nhiên trời sanh, sao tự nhiên chẳng c̣n?

- Đúng vậy! Nếu là trời sanh ra, ắt phải đem cho người khác coi được. V́ chẳng phải là trời sanh nên chính ḿnh phải rất chú ư!

      Gă hiểu ra: Không có tánh nóng nào do trời sanh, chỉ có cách do tu dưỡng sẽ tự khống chế được t́nh cảm của ḿnh, chẳng để tánh nóng lạm phát, sự nóng giận tự nhiên chẳng bốc lên nữa. Do vậy, bệnh nóng tánh của gă tục nhân đó không cần uống thuốc mà tự lành. Đúng là làm người trong thế gian bất luận gặp phải chuyện ǵ, chỉ cần chịu lùi một bước, suy nghĩ một chút, tánh nóng giàn trời cũng chẳng thể phát tác được. Cội nguồn của tánh nóng chẳng phải do nguyên nhân nào khác, đại đa số là do chẳng khống chế được t́nh cảm. Nếu có thể khéo khống chế t́nh cảm, nhất định sẽ chẳng nóng giận bừa băi!

Khống chế lửa Sân chẳng để nó thiêu đốt th́ niệm thánh hiệu Quán Âm là biện pháp tốt nhất. Ngoài ra c̣n có cách khống chế tánh nóng như sau: Nóng giận đa phần là do người khác mà phát khởi, nếu có ai chọc giận, phê b́nh, chê bai, bỡn cợt, khinh mạn, nhục mạ v.v… sẽ dễ làm người ta nổi nóng nhất.

Nếu lúc đó, quư vị có thể dùng cách sau đây, ắt tánh nóng chẳng đến nỗi phát sanh: Trước hết, xét coi kẻ nói những lời đó là hạng người như thế nào, là quân tử hay kẻ tiểu nhân? Nếu là bậc quân tử rất mực quy củ th́ chính ḿnh phải phản tỉnh! Quân tử chẳng tùy tiện phê b́nh người khác, bây giờ phê b́nh ḿnh, nhất định ḿnh có nhiều khuyết điểm. Nếu không, quân tử tuyệt đối chẳng phê b́nh ḿnh. Ḿnh phải nên tiếp nhận lời người đó phê b́nh, sửa đổi khuyết điểm của ḿnh, sao c̣n nổi nóng đối với người đó cơ chứ? Nổi nóng trước mặt bậc chánh nhân quân tử đúng là chuyện khó coi lắm! Nếu kẻ tiểu nhân phê b́nh, lời kẻ tiểu nhân bận tâm làm ǵ? Nếu cùng kẻ tiểu nhân so đo, hóa ra ḿnh cũng là tiểu nhân ư? Thậm chí c̣n kém hơn tiểu nhân nữa kia! Nghĩ như thế dù có muốn nổi nóng, cũng nổi nóng chẳng được.

Nói chung, quán sát đối phương chẳng cần biết là quân tử hay tiểu nhân đều chẳng nên nổi nóng!

 

1.1.2.1.2.2. Cứu thủy nạn (cứu nạn nước)

 

Chánh kinh:

Nhược vị đại thủy sở phiêu, xưng kỳ danh hiệu, tức đắc thiển xứ.

若為大水所漂。稱其名號。即得淺處。

(Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Ngài liền được chỗ cạn).

 

Đây là thủy nạn, nạn thứ hai trong bảy nạn. Đại thủy cũng đúng là một tai nạn hết sức lớn. Như trong năm Dân Quốc 48 (1959), Đài Loan gặp nạn đại thủy tai nhằm ngày mồng Bảy tháng Tám, năm Dân Quốc 49 (1960) gặp trận lụt lớn hôm mồng Một tháng Tám, đều là những trận thủy tai bi thảm, nặng nề chưa từng có. Quư vị xem báo chí tường thuật, chỉ biết là tai nạn rất nặng, c̣n rốt cuộc nghiêm trọng đến mức độ nào, chỉ sợ quư vị chẳng tưởng tượng nổi đâu!

Lúc trận lụt mồng Bảy tháng Tám năm Dân Quốc 48 xảy ra, chính tôi đang ở Đài Trung, lúc nước dâng lên, từng dăy từng dăy nhà bị nhận ch́m, từng gốc từng gốc cây bị nước xoáy tróc gốc, cả cánh đồng màu mỡ rộng lớn lập tức bị nước trào biến thành hoang sơn loạn thạch, đường sắt bị xoáy đứt, cầu sắt bị nước ngập kín, gia súc bị cuốn phăng theo ḍng nước, người bị chết đuối. Bởi vậy, cơn đại thủy tai có thể làm cho người ta khuynh gia bại sản, táng thân mất mạng, không ai chẳng sợ thủy tai.

Thế nhưng thủy tai thiên nhiên không cách ǵ đề pḥng được, ngoại trừ tận nhân lực, không cách ǵ trốn tránh được. Phật pháp cho rằng niệm Quán Âm là tốt nhất, bởi vậy, kinh dạy: “Nhược vị đại thủy sở phiêu, xưng kỳ danh hiệu, tức đắc thiển xứ” (Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Ngài, liền được chỗ cạn)”. Lúc một cá nhân bị nước lớn cuốn trôi, sanh mạng rất nguy hiểm, trong lúc khẩn yếu đó, nếu có thể nhất tâm xưng niệm thánh hiệu Bồ Tát, ngay lập tức sẽ từ chỗ rất sâu đến được chỗ rất cạn, sanh mạng được thoát hiểm! Bởi thế, lúc bị nước lớn cuốn trôi, tối khẩn yếu là đừng quên Đại Từ Đại Bi Quán Âm Bồ Tát!

Trước hết, tôi nêu lên sự cảm thông về mặt sự tướng để thuyết minh chuyện thoát khỏi thủy nạn. Theo sách Pháp Hoa Cảm Thông, vào đời Đường ở Trung Quốc, có chàng Sầm Cảnh Nhân, từ nhỏ đă niệm phẩm Phổ Môn. Có lần, do có việc phải ngồi thuyền qua Tô Châu. Thuyền đi chưa được bao lâu, chợt chao nghiêng, mọi người rớt hết xuống nước. Sầm Cảnh Nhân đang ở dưới nước, nghe có người nói: “B́nh thời niệm phẩm Phổ Môn, bây giờ nhất định được thoát thủy nạn!” Nghe âm thanh như vậy ba lần tất cả, sau đó, tự nổi trên mặt nước, trôi tấp vào bờ, thật sự thoát khỏi thủy nạn.

Những chuyện giống như vậy ở Trung Quốc thấy rất nhiều, chúng ta chẳng thể không tin! Thủy tai có thể phát sanh bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, trong tâm lư chúng ta phải nên chuẩn bị như thế, lại nên có tín niệm như thế, lỡ ra gặp phải thủy tai, ngàn vạn phần nhớ kỹ thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.

Kế tiếp, giảng về mặt đạo lư: Đại thủy cũng chẳng phải là đại thủy sóng vỗ ngất trời bên ngoài, mà là nước ái dục trong tâm chúng ta. Nhân loại chúng sanh rất nhiều kẻ ch́m đắm trong nước ái dục, táng thân, mất mạng. Nhà Phật nói:

Ái hà thiên xích lăng,

Khổ hải vạn trùng ba,

(Sông ái ngàn thước sóng,

Biển khổ sóng muôn trùng)

Đủ biết là sức nước ái dục lớn lao. Thử xem hiện tại bao nhiêu thanh niên nam nữ trái nghịch cha mẹ và những người thân thuộc ngụp lặn trong vũng xoáy sông Ái, chẳng đạt mục đích chẳng thôi, thậm chí tự sát cả đôi! Bởi vậy, phải biết đại thủy chính là nước tham ái. Nếu chúng sanh đắm ch́m trong nước ái dục, th́ Phật dạy chúng ta chỉ có biện pháp cứu văn là đề khởi chánh niệm, nhất tâm xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, để cầu khải phát trí huệ, sau đấy mới dùng lửa trí huệ đốt tiêu nước ái dục, mới ḥng cứu văn, bất tất phải hy sinh! Bởi vậy, người tu học Phật pháp phải thường niệm Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ tuyệt đối hữu ích cho chúng ta.

Phật pháp coi ái dục là căn bản của sanh tử. Sở dĩ chúng sanh chẳng thể thoát khỏi ṿng sanh tử, gốc bệnh là do ái dục. Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Nhân hoài ái dục, bất kiến đạo giả, thí như trừng thủy, trí thủ nhiễu chi, chúng nhân cộng lâm, vô hữu đổ kỳ ảnh giả. Nhân dĩ ái dục giao thác, tâm trung trược hưng, cố bất kiến đạo. Nhữ đẳng Sa-môn, đương xả ái dục, ái dục cấu tận, đạo khả kiến hỹ” (Người ôm ḷng ái dục chẳng thấy đạo th́ ví như lấy tay khuấy nước lặng, mọi người cùng đến, không ai thấy được h́nh ảnh. Con người do ái dục xen tạp, những thứ nhơ bẩn trong tâm nổi lên, nên chẳng thấy đạo. Hàng sa-môn các ông nên bỏ ái dục, cấu nhơ ái dục hết rồi mới thấy được đạo vậy). Người đời bị ái dục mê hoặc, bởi vậy cả một đời chẳng thấy chân lư, chẳng có cách nào giải thoát sanh tử! Như một chậu nước thanh tịnh, vốn có thể soi được mặt, do bị người ta dùng tay khuấy động, tạo thành nhiều gợn lăn tăn, bởi vậy bất cứ ai đến soi bóng đều chẳng thể thấy được dung mạo của chính ḿnh.

Một niệm tâm của con người bị ái dục làm mê, suốt ngày vọng tưởng tơi bời, làm sao thấy được chân lư? Do bởi như vậy, chẳng những hàng sa-môn xuất gia mà ngay cả mỗi một người học Phật đều phải nên cắt bỏ ái dục, cắt ngang ḍng ái dục, th́ bổn tâm sẽ khôi phục thanh tịnh, sẽ thấy chân lư được giải thoát!

 

1.1.2.1.2.3. Cứu la-sát nạn

 

Chánh kinh:

Nhược hữu bách thiên vạn ức chúng sanh, vị cầu kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân châu đẳng bảo, nhập ư đại hải, giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng, phiêu đọa La Sát quỷ quốc, kỳ trung nhược hữu năi chí nhất nhân, xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thị chư nhân đẳng giai đắc giải thoát La Sát chi nạn.

若有百千萬億眾生。為求金銀琉璃硨磲瑪瑙珊瑚琥珀真珠等寶。入於大海。假使黑風吹其船舫。漂墮羅剎鬼國。其中若有乃至一人。稱觀世音菩薩名者。是諸人等皆得解脫羅剎之難。

(Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh v́ cầu các món báu: vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân châu v.v… vào trong biển cả, giả sử hắc phong thổi thuyền của họ trôi giạt vào nước quỷ La Sát, trong ấy nếu có dù chỉ một người, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát th́ những người đó đều được thoát khỏi nạn La Sát).

 

Đây là nạn quỷ La Sát thứ ba trong bảy nạn. Nạn gió trong kinh gọi là “hắc phong”. Rốt cuộc hắc phong là loại gió nào chẳng biết rơ lắm, chỉ cần biết là một thứ phong tai nghiêm trọng. Những người sống ở Đài Loan Bảo Đảo đều có kinh nghiệm tương đương. Tại Đài Loan mỗi năm đến mùa Đài Phong[2], oai lực do Đài Phong phát sanh đúng là khiến người nghe kinh hăi. Mỗi năm, tổn thất do Đài Phong gây ra cũng rất nghiêm trọng. Đó là thiên tai, ngày nay khoa học phát triển, cũng chưa t́m ra cách nào tiêu diệt được Đài Phong, chỉ đành đề cao cảnh giác, lập cách dự pḥng ngơ hầu giảm thiểu tổn hại mà thôi. Bởi vậy, nó là một đại tai nạn!

Câu “nhược hữu bách thiên vạn ức chúng sanh” (nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh) h́nh dung thật nhiều chúng sanh. Chúng sanh nhiều như thế ấy “vị cầu kim, ngân, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân châu đẳng bảo, nhập ư đại hải” (v́ cầu các món báu: vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân châu v.v… vào trong biển cả): Trong bảy thứ báu được nói đến ở đây, kim là vàng ṛng, ngân là bạc trắng, lưu ly (veluriyam) là chất báu có màu xanh, xa cừ là một thứ báu có màu trắng, mă năo là chất báu có màu hồng, báu san hô có h́nh dạng như cành cây, hổ phách là do nhựa thông ngàn năm biến thành, chân châu là từng hạt bảo châu. Bảy báu đại đa số sanh từ biển cả, bởi vậy người đi t́m của báu thường kết thành đội vào biển thâu nhặt chất báu. Vào biển t́m chất báu, nhất định phải ngồi thuyền. Trăm ngàn vạn ức chúng sanh đi t́m chất báu như thế ngồi thuyền vào biển cả, thuyền đi chẳng bao lâu “giả sử” gặp phải “hắc phong thổi thuyền của họ trôi giạt vào nước quỷ La Sát”. Tương truyền quỷ La Sát (Rāksasah) ăn thịt người, sống trong những ḥn đảo trong biển, chuyên đợi người đến nạp mạng. H́nh dạng của chúng như sau: “Khẩu như huyết bồn, nhăn như đồng linh, thủ như thiết xoa, thanh diện liêu nha” (Miệng như chậu máu, mắt như lục lạc đồng, tay như chĩa sắt, mặt xanh, nanh chĩa), trông rất đáng sợ. Do chúng cử động nhanh nhẹn nên c̣n gọi là Tiệp Tật Quỷ.

Người cầu báu chẳng may gặp phải hắc phong, thổi giạt vào nước quỷ La Sát, chẳng cần phải nói, sanh mạng rất nguy hiểm, ngay trong lúc ấy, “kỳ trung nhược hữu, năi chí nhất nhân” (trong ấy nếu có dù chỉ một người) trong số nhiều người, “xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, thị chư nhân đẳng, giai đắc giải thoát La Sát chi nạn” (xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát th́ những người đó đều được thoát khỏi nạn La Sát).

Có người nói: Một người niệm Quán Âm th́ một người được thoát nạn, c̣n đáng tin, chứ một người niệm Quán Âm, trăm ngàn vạn ức chúng sanh thoát nạn chẳng thể không khiến người ta nghi ngờ! Thật ra, có ǵ đáng nghi đâu! Một cá nhân trong lúc tại nạn gấp gáp đáng sợ, chỉ cần nghe người khác niệm, dù miệng chẳng niệm, trong tâm cũng đă có ấn tượng của Bồ Tát, thậm chí trong tâm thầm niệm theo. Bởi vậy, vô h́nh trung, cùng được lợi ích giải thoát. Hiện thời chúng ta ra khỏi cửa, chẳng cần biết là dùng phương tiện giao thông nào, nếu có thể nhất tâm niệm Quán Âm cho bạn đồng hành nghe thấy, lưu lại ấn tượng về Bồ Tát, sẽ dần dần kích phát người khác phát tâm học Phật, đây cũng là đại công đức vậy!

Bây giờ, tôi sẽ kể lại chuyện xưa xưng niệm Quán Âm thoát khỏi nạn quỷ La Sát: Trong quá khứ, có một thương chủ t́m của báu, dẫn năm trăm thương nhân vào biển cả thâu nhặt của báu, thật sự bị hắc phong thổi giạt thuyền vào nước quỷ La Sát. Trong số đó, bốn trăm chín mươi chín người đều tín ngưỡng Quán Âm, bây giờ đại nạn đối đầu, nghĩ không c̣n cách nào khác, chỉ c̣n cách nhất tâm xưng niệm Quán Âm Bồ Tát. Nào ngờ bọn họ vừa niệm như thế, bọn quỷ La Sát muốn đến bắt người để ăn, thủy chung chẳng thấy bóng một ai.

C̣n người chẳng tin Quán Âm, chẳng những miệng không niệm, c̣n cho là lúc gặp đại nạn niệm Quán Âm có ích ǵ? Ngay lúc hắn ta nghĩ như thế, liền bị quỷ La Sát trông thấy, sắp bị nó chụp bắt, mới nghĩ niệm Quán Âm rất trọng yếu, bèn gấp rút lớn tiếng niệm Quán Âm. Quỷ La Sát nghe hắn niệm Quán Âm, vừa giơ tay chụp, lại chẳng thấy hắn ta đâu nữa, mọi người bèn cùng thoát nạn La Sát. Bởi vậy, trên mặt sự tướng, gặp phải nguy nan nào, xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, nhất định có diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn!

“Đại hải” chỉ biển cả Phật pháp; “thất bảo” chỉ Thất Thánh Tài trong Phật pháp, “hắc phong” chỉ vô minh; “quỷ La Sát” chỉ tâm giết hại; “thuyền phưởng” chỉ sanh mạng của hữu t́nh. Ư nói: Người thâm nhập biển cả Phật pháp, muốn cầu tu tập, tích tụ Thất Thánh Tài, chợt bị cuồng phong vô minh động khởi ư niệm giết hại, khiến cho sanh mạng bị mất.

Trước kia Trung Quốc có câu chuyện cổ như sau: Trong quá khứ có một viên tể tướng, đến thăm một ngôi chùa, trong chùa có vị Tăng rất siêng năng tu tập, mỗi ngày đều niệm phẩm Phổ Môn. Tể tướng đi thăm chùa xong, ở sau vị Tăng nghe ngài tụng kinh, lúc nghe tụng đến câu “giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng phiêu đọa La Sát quỷ quốc” (giả sử hắc phong thổi thuyền của họ trôi giạt vào nước quỷ La Sát), viên tể tướng chợt hỏi vị Tăng:

- Nhà thầy vừa niệm hai câu kinh đó có nghĩa ǵ vậy? Xin hăy giải thích cho ta nghe.

Vị tăng biết rơ ông ta là tể tướng, vẫn cố ư đáp:

- Ông là người chẳng hiểu đạo lư ǵ cả, người xuất gia đang niệm kinh, lúc niệm đến gần như nhập định, sao ông lại nêu câu hỏi quấy rầy tôi? Muốn hỏi hăy đợi tôi niệm kinh xong rồi hăy hỏi!

Viên tể tướng thấy vị Tăng đối đáp chẳng chút khách khí, trong tâm bực bội vô cùng, lập tức sai tùy tùng lôi vị Tăng về nha môn, muốn xử vị Tăng tội chết. Lúc đó, vị Tăng cười khanh khách nói:

- Đúng là tôi đang bị hắc phong thổi giạt thuyền bè, đọa vào nước quỷ La Sát rồi!

Viên tể tướng nghe nhà sư nói vậy, rất lấy làm lạ, bèn hỏi v́ sao ông lại cười nói như thế? Vị Tăng đáp:

- Ngài buông xuống không được, bị gió vô minh lay động, tức là hắc phong đấy. Ngài động sát tâm tức là quỷ La Sát; bởi vậy tôi nói là bị hắc phong thổi giạt vào nước quỷ La Sát.

Tể tướng nghe lời giải thích ấy, chẳng những hiểu rơ ư kinh mà c̣n hiểu rơ ư vị Tăng, chẳng những không giết vị Tăng, trái lại c̣n tôn kính, đích thân đưa vị Tăng về chùa. Vị tăng nhân ấy có thể nói là người khéo thuyết pháp nhất. Nếu ngay lúc đó, Ngài giải thích cách nào, gă tể tướng cũng chẳng hiểu rơ vấn đề, tin hay không tin cũng là vấn đề. Hiện thân thuyết pháp như thế chẳng những thật sự hiểu rơ, mà c̣n là tin tưởng thiết tha nữa.

 

1.1.2.1.3. Kết đáp đắc danh nhân duyên (kết lại lời đáp về nhân duyên được danh hiệu Quán Thế Âm)

 

Chánh kinh:

Dĩ thị nhân duyên, danh Quán Thế Âm.

以是因緣。名觀世音。

(Do nhân duyên ấy, tên là Quán Thế Âm).

 

Vô Tận Ư hỏi nhân duyên Quán Thế Âm được danh hiệu ấy. Kinh này đă giải thích những nguyên nhân, “do những nhân duyên ấy” nên Bồ Tát được danh hiệu là Quán Thế Âm. Đă hiểu rơ nhân duyên Bồ Tát được danh hiệu ấy, ắt sẽ chẳng c̣n nghi ngờ đối với Bồ Tát nữa. Hết nghi sanh ḷng tin, tự nhiên đối với thánh hiệu của Bồ Tát bèn xưng niệm khẩn thiết và chân thành.

 

1.1.2.2. Quảng hiển xưng danh cảm ứng (rộng thuyết minh về những sự cảm ứng do xưng danh)

1.1.2.2.1. Năng thoát tứ nạn (Thoát bốn nạn)

1.1.2.2.1.1. Biệt minh thoát nạn (Riêng nói về bốn nạn)

1.1.2.2.1.1.1. Năng thoát lục nạn (Thoát nạn giết chóc)

 

Chánh kinh:

Nhược phục hữu nhân, lâm đương bị hại, xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, bỉ sở chấp đao trượng, tầm đoạn đoạn hoại, nhi đắc giải thoát.

若復有人。臨當被害。稱觀世音菩薩名者。彼所執刀杖。尋段段壞。而得解

(Nếu lại có người khi sắp bị hại mà xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, th́ những đao trượng đang cầm đó liền găy từng khúc, bèn được giải thoát.

 

Trong bảy nạn, đây là nạn thứ tư: Đao trượng nạn. Đao là dao bén, có thể cắt chặt sanh mạng, Trượng là những thứ như côn, bổng, nhẹ th́ làm tổn thương thân thể, nặng th́ tổn hại sanh mạng. Bởi thế, bất luận con người đi đến chỗ nào mà thấy có kẻ vung đao, giáng gậy nói chung là tránh xa, chỉ sợ lỡ bị đao trượng làm hại đến sanh mạng. Nếu phạm phải phép nước, phải bị quốc pháp xử phạt, có khi phải chịu cực h́nh, nói theo thời cổ, tội chặt đầu cần phải động đao; nếu phạm pháp nhẹ hơn th́ bị đánh bằng bản tử[3] hoặc bằng côn, đều gọi là bị tội Trượng. Chịu h́nh phạt đao trượng có khác ǵ mắc tai nạn, bởi vậy phải tính cách né tránh, không ai là chẳng sợ đao trượng. Nếu gặp phải t́nh huống đó, nên làm cách nào đây? Kinh dạy:

“Nhược phục hữu nhân” (Nếu lại có người) hoặc là vô cớ bị hại, hoặc do phạm pháp phải thọ h́nh, hoặc do gặp phải cường đạo mà bị đánh, nói chung là “lâm đương bị hại” (khi sắp bị hại) mà nếu có thể nhất tâm nhất ư “xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát” th́ những đao trượng đang cầm trên tay của những kẻ toan sát hại quư vị “liền găy từng khúc” (tầm đoạn đoạn hoại) khiến cho quư vị được giải thoát. Chữ “tầm” () có nghĩa là rất nhanh, hay ngay lập tức. Đao trượng đều là hung khí (những vật hung hiểm, bất tường), nếu thật sự chạm vào thân, sanh mạng nhất định bị tổn thương. Nay do niệm thánh hiệu Quán Âm, đao trượng lập tức bị găy nát thành từng khúc, mất đi tác dụng gây tổn thương, cũng chẳng thể tổn hại tánh mạng được nữa, bởi thế, ngay khi đó liền được giải thoát.

Con người gặp phải nạn đao trượng đều là do ác nghiệp nhân duyên đă tạo trong đời này, hoặc là tạo trong quá khứ. Nói thông thường, đă có ác nghiệp như thế, vốn là khó trốn tránh, né tránh nghiệp lực chẳng được; nay do sức nhân duyên thiện nghiệp xưng niệm thánh hiệu Quán Âm thắng được sức của nhân duyên ác nghiệp đă tạo, nên có thể tiêu trừ được tất cả ác nghiệp. Ác nghiệp đă tiêu, dù đao trượng có gia hại cũng chẳng gia hại được, nhân đấy bèn được giải thoát.

Đao trượng có thể nói là có đao trượng hữu h́nh và đao trượng vô h́nh.

Về đao trượng hữu h́nh, trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, có một câu chuyện xưa như sau:

Trong đời Đường, tại Trung Hoa, có thiền sư Trí Giác, lúc chưa xuất gia làm quan Thái Thú. Lúc ông đang làm quan Thái Thú, khu vực ông cai trị gặp phải nạn đói chưa từng có, dân chúng bị đói đến nỗi không có cái ǵ ăn, thậm chí ngay cả rễ cỏ cũng không c̣n mà ăn, đúng là khổ sở cực điểm! Nhưng kho lúa của chánh quyền c̣n chứa rất nhiều lương thực. Quốc gia chứa lương vốn dùng để cứu đói, nhưng muốn sử dụng phải xin phép nhà vua trước. Quan Thái Thú sợ thời gian tấu tŕnh lâu lắc, đợi đến khi thánh chỉ ban xuống, e rằng dân chúng chết đói hết. Bởi đó, ông nổi ḷng bi, phát gạo cứu đói trước đă, rồi mới tâu lên vua sau, dụng tâm đương nhiên là tốt, nhưng chưa được vua phê chuẩn th́ vẫn là phạm quốc pháp. Bởi thế, vua băi chức ông, truyền giải về kinh đô xử tội chém.

Nhưng viên Thái Thú này là một vị quan thanh liêm, nổi tiếng trong sạch, quốc vương biết tiếng. Bởi vậy, lúc sắp hành h́nh, đặc biệt truyền quan Giám Trảm chú ư xem thái độ, ngôn ngữ của quan Thái Thú ra sao. Vị quan đương nhiên biết ḿnh làm như vậy là phạm pháp, nhưng v́ nóng ḷng cứu nạn đói cho dân chúng, biết rơ mà cố phạm, nên đă sớm gác chuyện sống chết ra ngoài. Bởi vậy, lúc sắp thọ h́nh chẳng những không tỏ vẻ thống khổ, lại c̣n rất hoan hỷ nói: “Đem cái mạng này cúng dường chúng sanh!” Người cầm đao nghe nói vậy cảm thấy rất kỳ quái, nên chẳng giết ông ta, trở về báo với quốc vương. Vua nghe tâu, lập tức truyền đem ông ta đến trước mặt vua, hỏi ông ta v́ sao làm thế? Ông ta đáp rất tách bạch:

- Chẳng có nhân duyên nào khác, chỉ là chẳng nỡ nh́n thấy dân chúng đói khổ, phát xuất từ một niệm đồng t́nh đó thôi!

Quốc vương biết viên quan này thiện lương, truyền tha tội. Viên Thái Thú do gặp chuyện này, biết nhân sanh chẳng có ư nghĩa ǵ, bèn phát tâm xuất gia, pháp danh là Trí Giác. Do đây biết rằng: Một người sắp bị hại, chỉ cần sanh khởi một niệm thiện tâm hoặc từ bi tâm, tâm ấy tương ứng Bồ Đề tâm, liền được Bồ Tát cứu tế, bèn thoát nạn đao trượng.

Lại thuật chuyện do niệm Quán Âm mà được thoát nạn:

Trong quá khứ, ở Trung Quốc có người sống tại địa phương nọ, t́nh cảm vợ chồng rất tốt, người vợ ngoài những việc cần phải vén khéo trong nhà th́ chuyên môn niệm thánh hiệu Quán Âm. Người chồng đối với vợ con cũng rất tốt, ra ngoài làm ăn, mỗi khi cùng bè bạn nhắc đến vợ đều khen ngợi không ngớt miệng, nào là vợ hiền thục, nào là vợ trinh tiết, nào là vợ biết giữ đạo làm vợ. Có một gă bạn muốn chọc ghẹo anh ta, kiếm cớ ṃ đến nhà anh ta, người vợ thấy bạn chồng đến thăm, tiếp đón anh ta rất lễ độ. Thời cổ, y phục đàn bà mặc tay áo rất lớn, mỗi lần cử động cánh tay, giơ ống tay áo lên xuống, mặt trong cánh tay lộ ra. Trên cánh tay người vợ có một nốt ruồi, bị gă bạn ḍm trộm thấy. Gă bạn đó lúc sau gặp người chồng bèn chọc ghẹo anh ta:

- Anh hay nói vợ anh hiền lương, giữ phận làm vợ thế này thế nọ, nhưng tay vợ anh ở chỗ này chỗ nọ có nốt ruồi kín, tôi biết rất rơ, vậy th́ vợ anh giữ đạo làm vợ như thế nào cứ đó mà suy!

Người chồng nghe nói chẳng biết đáp sao, bụng nghĩ ḿnh tin tưởng vợ như thế, hóa ra vợ lại là hạng đàn bà như thế, thật chẳng c̣n ra thể thống ǵ nữa! Bởi vậy, phát phẫn, nửa đêm cầm dao về nhà, kêu vợ mở cửa. Lúc đang mở cửa, chẳng hỏi đầu đuôi, vừa thấy mặt vợ liền đâm ngay một nhát, giết xong liền bỏ chạy để khỏi bị quan bắt.

Trong thời gian lẩn trốn, nghĩ đến người vợ trinh lương, chẳng hề có hành vi đó, biết là bị người gạt gẫm, trong tâm rất hối hận. Ít lâu sau, chẳng nghe nói có tin tức truy bắt kẻ phạm tội sát nhân ǵ, bèn lén về nhà coi, đến nhà thấy vợ ḿnh đang niệm thánh hiệu Quán Âm, cảm thấy kỳ quái, liền hỏi:

- Mấy bữa trước, có người nào đến nhà gơ cửa không?

Người vợ đáp:

- Gần đây không có ai đến gơ cửa. Mỗi tối em đều niệm thánh hiệu Quán Âm trong Phật đường, làm sao mở cửa được?

Người chồng nghe nói càng lấy làm lạ hơn, bèn kể rơ đầu đuôi cùng vợ. Vợ chồng cùng cho là Quán Âm cảm ứng, cùng đem tượng Quán Âm đang thờ ra xem, quả nhiên thấy trên cổ tượng Quán Âm hăy c̣n vết dao rành rành, chứng thực Quán Âm ra mở cửa cứu nạn. Từ đó, vợ chồng càng thêm kiền thành xưng niệm Quán Âm Bồ Tát.

Nói về đao trượng vô h́nh th́ đao trượng chính là những chướng ngại ghen ghét và tâm lư oán hận, năo loạn đang uẩn tàng trong tâm mỗi người. Tâm ganh ghét đúng là một loại đao tàn hại cùng cực, như thấy ai có điều ǵ hơn ḿnh, hoặc nhiều tiền của, hoặc địa vị cao, hoặc danh dự lớn, chính ḿnh tự nhiên sanh ḷng ghen ghét, khác nào bị đao kiếm cắt vào thân thể ḿnh khó chịu đựng nổi; bởi vậy nói ghen ghét giống như đao. Phẫn năo[4] phát sanh từ tâm sân hận, nội tâm đang có phẫn năo nung nấu, gặp chuyện chẳng như ư, chẳng có cách nào đối phó, chỉ đành ôm hận trong ḷng, cũng khó chịu khác nào bị lưỡi gươm bén cắm vào thân; bởi vậy nói phẫn năo như đao. Đang mang tâm lư đó mà nếu như có thể thành kính niệm Quán Âm th́ phẫn năo, ghen ghét lập tức tiêu tan ra mây khói, đồng thời lại c̣n nghĩ: Chúng sanh và ḿnh có quan hệ mật thiết, v́ sao ḿnh lại ghen ghét, phẫn năo họ? Nghĩ như vậy, tâm bèn thảnh thơi, liền được giải thoát.

Trong kinh Pháp Hoa có vị Thường Bất Khinh Bồ Tát rất đáng làm gương cho chúng ta. Lúc ngài Thường Bất Khinh hành đạo Bồ Tát, trông thấy bất cứ ai đều đến lễ và nói: “Ngă bất cảm khinh ư nhữ đẳng, nhữ đẳng giai đương thành Phật” (Tôi chẳng dám khinh quư ngài, quư ngài đều sẽ thành Phật). Chúng sanh nghe xong chẳng những không tin lại c̣n rất chán ghét, nhưng Bồ Tát vẫn cứ nói như thế. Bởi thế, người ta chẳng khách khí, dùng ngói gạch, đá, đất đáp lễ Bồ Tát, Bồ Tát chạy ra xa, vẫn hoan hỷ nói như vậy: “Tôi chẳng dám khinh quư ngài, quư ngài đều sẽ thành Phật”. Đấy là tôn trọng nhân cách của mỗi người chứ chẳng phải là nói giỡn.

Nếu mỗi người đều có thể tôn trọng nhân cách của đối phương th́ chẳng những chẳng thể sanh khởi phẫn nộ, ghen ghét, mà lại càng tôn kính người ta. Thông thường, sở dĩ con người phẫn nộ, ghen ghét là do chẳng tôn trọng nhân cách của người khác. Ngài Thường Bất Khinh tuy bị người ta dùng đao, trượng, gạch, đá đánh đập, nhưng do tôn trọng con người, kết quả là tất cả những ai từng tiếp xúc với Ngài đều được Ngài cảm hóa tín phụng Phật pháp.

Tục ngữ nói: “Nhu thắng cương”. Đao trượng tượng trưng cang cường, chỉ có nhu ḥa, nhẫn nhục mới đối phó được. Bởi lẽ tuy đao trượng là vũ khí sắc bén, chúng hoàn toàn vô tác dụng trước mặt người nhu ḥa, nhẫn nhục, bởi vậy liền bị găy từng khúc. Có cái tâm phẫn nộ, ghen ghét, nhưng biết lùi một bước, nghĩ “dùng nhu thắng cương” th́ tự nhiên được giải thoát!

 

1.1.2.2.1.1.2. Năng thoát quỷ nạn (thoát được nạn quỷ)

 

Chánh kinh:

Nhược tam thiên đại thiên quốc độ, măn trung Dạ Xoa, La Sát, dục lai năo nhân, văn kỳ xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thị chư  ác quỷ thượng bất năng dĩ ác nhăn thị chi, huống phục gia hại?

若三千大千國土。滿中夜叉羅剎。欲來惱人。聞其稱觀世音菩薩名者。是諸惡鬼尚不能以惡眼視之。況復加害。

(Nếu trong các cơi nước thuộc tam thiên đại thiên đầy các Dạ Xoa, La Sát muốn đến năo hại người, nghe họ xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, các ác quỷ đó c̣n chẳng thể dùng mắt ác để ngó, huống c̣n gia hại?)

 

Đây là nạn quỷ, nạn thứ năm trong bảy nạn. Trong phong nạn ở phần trên có nói đến La Sát, nhưng trọng tâm là hắc phong. Hoặc có thể hiểu là trong phần trên chỉ nói đến một loại quỷ, c̣n ở đây nói đến nhiều loại quỷ. Dạ Xoa (Yaksha), Hán dịch là Tiệp Tật Quỷ, chẳng những chúng có thể phi hành trên đất liền mà c̣n có thể phi hành trên không trung. Quỷ đi trên đất gọi là Địa Hành Dạ Xoa, quỷ bay trên không gọi là Không Hành Dạ Xoa. La Sát đă giảng ở phần trên, là một loại quỷ ăn thịt người, cũng có khi dịch là Bạo Ác Quỷ.

Nếu lúc trong các cơi nước thuộc tam thiên đại thiên thế giới, đầy khắp trong đó đều là Dạ Xoa, La Sát, thời thời khắc khắc muốn đến năo loạn con người, người bị phiền loạn đó chỉ cần xưng niệm Quán Âm, th́ quỷ Dạ Xoa, La Sát kia “văn kỳ xưng Quán Thế Âm Bồ Tát, thị chư ác quỷ” (nghe họ xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, th́ các ác quỷ) chẳng dám nghĩ đến chuyện dùng con mắt ác nh́n người đó, huống hồ c̣n dám sát hại nữa ư? Bởi vậy mới nói: “Thượng bất năng dĩ ác nhăn thị chi, huống phục gia hại?” (C̣n chẳng thể dùng mắt ác để ngó, huống c̣n gia hại?”)

Nói theo phương diện thế gian: Tương truyền trong quá khứ có một quốc gia khéo sao biên cương liền sát với nước quỷ La Sát, quỷ La Sát thường vượt biên giới sang bắt người về ăn, khiến cho trong nước thường có người bị mất tích. Quốc vương tuy yêu mến nhân dân nhưng chẳng biết làm sao? Về sau, quốc vương nghĩ ra một cách: Cùng quỷ vương La Sát thỏa thuận, mỗi ngày đưa một người sang nước quỷ La Sát cho La Sát hưởng dụng. Quỷ vương La Sát cảm thấy rất hay bèn tiếp nhận điều kiện ấy. Bởi đó, quốc vương chiếu theo sổ sách, mỗi ngày giao ra một người. Một hôm sai nhằm con độc nhất của một nhà nọ, người mẹ chẳng những thương con tha thiết, mà từ đây c̣n bị tuyệt tử tuyệt tôn, vấn đề chẳng đơn giản. Bởi thế, bà đến cầu xin quốc vương, xin phái con người khác đi, nhưng không được vua chấp thuận, đành đem con đi giao.

May là bà mẹ tin tưởng sâu xa đức Quán Âm, an ủi con đừng khóc, chớ có sợ, hăy nhất tâm nhất ư niệm thánh hiệu Quán Âm. Đứa con rất ngoan, nghe lời mẹ niệm, đến lúc La Sát đến bắt người, làm cách nào cũng chẳng thấy ai. Chẳng cần phải nói, bà mẹ sau khi đưa con đi, ở nhà không nghĩ ǵ khác, cũng nhất tâm nhất ư xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, tin chắc mẹ con kiền thành như thế sẽ được Quán Âm gia bị, thoát khỏi nạn La Sát.

Bởi vậy, đến sáng hôm sau, người mẹ t́m đến chỗ đă bỏ con tối hôm trước, từ xa đă nghe tiếng con gọi mẹ, biết con chưa hề bị quỷ bắt đi, rất vui mừng đem con về nhà, đem t́nh h́nh tâu rơ cùng quốc vương. Quốc vương nghe tin rất tốt này, lập tức hạ lệnh truyền nhân dân toàn quốc từ nay trở đi đồng thanh xưng niệm thánh hiệu Quán Âm. Từ đó trở đi, quỷ La Sát thật sự chẳng thể nhiễu loạn nước ấy được nữa, nhân dân trong nước đều được sống tự do an vui, chẳng c̣n bị quỷ La Sát uy hiếp. Bởi thế xưng niệm thánh hiệu Quán Âm đúng là có thể thoát khỏi nạn này!

Nói trên phương diện đạo lư, thật sự ra, trong thế giới nhân loại này, La Sát, Dạ Xoa vừa nói đó chỗ nào cũng có, lúc nào cũng thấy, như hạng nam nhân rất hung bạo, thích đánh đập, chửi mắng người, ta gọi kẻ ấy là Ác La Sát, c̣n hạng đàn bà cay độc, chỗ nào mắng nhiếc, đánh lộn, giành giật đều có mặt, ta gọi kẻ đó là Mẫu Dạ Xoa. Bởi thế, trong thế giới này thật sự có Dạ Xoa, có La Sát, nhưng mỗi người đều có thể trở thành Dạ Xoa, La Sát. Bất quá, ngay khi quư vị sắp có những biểu hiện đó, tốt nhất là hăy nghĩ đến Quán Âm, thành tâm thành ư xưng niệm, chẳng những chính ḿnh chẳng bị biến thành Dạ Xoa, La Sát, mà Dạ Xoa, La Sát cũng chẳng dám hại quư vị.

Đồng thời, ta thường gọi quỷ là những tṛ ma mănh, quái quỷ, tức là những việc được tiến hành trong bóng tối. Nếu ai quỷ kế đa đoan, dụng tâm cơ, bày mưu kế, làm thế này hăm hại không được bèn nghĩ cách khác hăm hại, đó chẳng phải là Dạ Xoa, La Sát th́ là ǵ? Chúng ta gặp phải những hạng người đó, nếu niệm Quán Âm Bồ Tát, trí huệ quang minh phát xuất liền có thể hiểu rơ kế gian, khiến họ không cách nào giở tṛ được, chúng ta cũng chẳng bị họ hại, nên được giải thoát tự tại.

 

1.1.2.2.1.1.3. Năng thoát h́nh nạn (thoát được nạn tù ngục)

 

Chánh kinh:

Thiết phục hữu nhân, nhược hữu tội, nhược vô tội, nữu giới già tỏa, kiểm hệ kỳ thân, xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, giai tất đoạn hoại, tức đắc giải thoát.

設復有人。若有罪。若無罪。鈕械枷鎖檢繫其身。稱觀世音菩薩名者。皆悉斷壞。即得解

(Nếu lại có người, dù có tội hay vô tội, c̣ng - cùm - gông - xiềng trói buộc thân ḿnh, xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát th́ [những gông cùm đó] đều găy nát, liền được giải thoát).

 

Trong bảy nạn, đây là nạn thứ sáu: Nạn c̣ng - cùm - gông - xiềng. Nữu () là cái c̣ng tay, Giới () là cái cùm chân, Già () là cái gông tṛng vào cổ, Tỏa () là những dây xiềng sắt trói buộc trên thân. Những ai không bị những thứ này trói buộc thân sẽ hành động tự do; nếu không, bất luận làm ǵ, đều cảm thấy rất bất tiện. Bởi thế, có ai muốn gặp phải tai nạn này đâu?

Nếu lại có một người nào đó, bất luận là có tội hay là vô tội; có tội th́ đích thực là tự ḿnh làm chuyện vi phạm pháp luật quốc gia; vô tội tức là người không làm ǵ mà bị vu báng. Do đó, cơ quan chấp pháp của quốc gia thấy kẻ đó phạm tội nghiêm trọng, bèn dùng “gông, cùm, c̣ng, xiềng” để trói buộc thân h́nh kẻ đó (“kiểm hệ kỳ thân”). Kiểm () là ước thúc, Hệ () là buộc ràng. Thân thể con người vốn hoạt động tự do, v́ bị buộc ràng nên thân thể chẳng được tự do. Nhưng ngay trong lúc gặp phải t́nh huống đó, nếu có thể chí thành xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát th́ tất cả những thứ trói buộc trên thân như gông, cùm, c̣ng, xiềng sẽ tự nhiên đều găy nát, khiến cho người đó ngay lập tức được giải thoát.

Nói trên phương diện sự tướng: Tương truyền trong quá khứ có một cặp vợ chồng, là Phật tử quy y Tam Bảo, b́nh thời tin tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát nhất. Về sau, người chồng bị người khác hăm hại, nói anh ta từng là kẻ trộm, bởi thế bị chính phủ bắt để trừng trị cho đáng tội. Anh ta nghe tin ấy, biết làm thế nào cũng vô dụng, chỉ c̣n cách bỏ trốn. Thế nhưng, chánh phủ chẳng bắt được chánh phạm bèn bắt vợ chịu tội thế chồng, tay mang c̣ng, chân mang cùm, giam vào ngục cùng các phạm nhân khác.

Một ngày nọ, đột nhiên nhà lao bốc lửa, phạm nhân bị áp giải ra ngoài đường. Ngay lúc đó, có một vị Tăng đi qua, nhân người vợ tin tưởng Phật giáo, bèn kêu: “Sư phụ từ bi cứu con”. Kể ra cũng lạ, vị Tăng đó chính là thầy quy y của người vợ. Vị Tăng bảo chị ta: “Bà muốn tôi cứu bà, tôi thật chẳng có cách nào, bà thâm tín Quán Âm, ắt vốn đă có tín niệm, hăy nhất tâm nhất ư xưng niệm thánh hiệu Quán Âm, sẽ tự có linh nghiệm chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho bà được giải thoát!” Từ đấy, người vợ ở trong ngục, buông xuống vạn duyên, nhất tâm xưng danh. Niệm hết ba ngày đêm, gông cùm trên thân chợt tự nhiên đều hư nát, tuy có thể ra đi tự do, nhưng lính gác canh ngay tại cửa, chẳng dám trốn đi. Ngay trong lúc đang chần chừ đó, chợt nghe trên không có tiếng bảo bà lập tức ra khỏi ngục, chớ có do dự nữa. Căng mắt nh́n bốn phía, quả nhiên cửa ngục mở rộng, liền trốn ra khỏi ngục, lặng lẽ đi đến hai, ba chục dặm, trên đường gặp được chồng ḿnh. Hai người gặp gỡ nhau trong cảnh hoạn nạn, mừng rỡ nói chẳng nên lời. Từ sự thực đó, chứng tỏ xưng niệm thánh hiệu Quán Âm đúng là giải thoát được tai nạn gông cùm c̣ng xích.

Cố nhiên gông cùm xiềng xích hữu h́nh khiến cho con người chẳng được tự do, nhưng gông cùm xiềng xích vô h́nh trói buộc chặt con người, nào ai có biết! Như thường nghe nói “danh cương lợi tỏa” (cương tỏa danh lợi) chẳng phải là trói buộc chặt chẽ người đời đó sao? Hăy thử nh́n con người trong thế gian, có mấy kẻ chẳng bị danh lợi lôi kéo? Danh lợi kéo sang Đông liền sang Đông, danh lợi kéo sang Tây liền sang Tây. Nhân v́ cầu danh, chỗ nào có danh bèn ṃ tới đó; nhân v́ cầu lợi, nơi nào có lợi bèn lần sang đó. Tự ḿnh chẳng tự chủ được chút nào, c̣n bàn chuyện tự do chi nữa? Tham danh th́ bị danh buộc ràng, nên gọi là “danh cương” (dây cương danh), cầu lợi bèn bị lợi xiềng xích nên gọi là “lợi tỏa” (xiềng xích lợi). Già (cái gông) là nói nam nữ mê đắm nhau, nam tham, nữ ái, kết thành vợ chồng, tạo thành gia đ́nh, nam nắm giữ nữ, nữ ràng buộc nam, người này cũng chẳng ĺa bỏ được người kia, đấy chẳng phải là gông cùm hay sao? Giới (cái cùm) nói sâu sắc hơn, th́ mỗi cá nhân chấp ngă, do chấp Tự Ngă thật có, suốt ngày bôn ba v́ cái Ngă, thời thời khắc khắc hầu hạ cái Ngă, gặp chút chuyện ǵ chẳng như ư, bèn nổi giận lôi đ́nh; bởi thế Ngă Chấp chính là cái cùm.

Như vậy, theo Phật pháp, người sống trong thế gian bị gông cùm c̣ng xích hữu h́nh ràng buộc vẫn là chuyện nhỏ, bị gông cùm c̣ng xích vô h́nh ràng buộc mới là chuyện lớn. Gông xiềng hữu h́nh do người khác buộc cho ḿnh, vẫn c̣n có lúc được giải thoát, chứ gông xiềng vô h́nh do chính ḿnh tự buộc cho ḿnh; nếu chính ḿnh chẳng lập cách giải trừ, người khác không có cách ǵ giải trừ cho quư vị được. Đức Phật vốn dạy cho chúng ta rất nhiều phương pháp tự ḿnh giải trừ gông cùm do chính ḿnh buộc, nhưng trong phẩm Phổ Môn đang được giảng đây, chúng tôi cho rằng biện pháp giản yếu nhất mà hữu hiệu nhất là nhất tâm xưng niệm Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát để cầu sớm có ngày thoát ly thế giới Sa Bà. Trong tâm có ư niệm như thế th́ đối với danh lợi thế gian, đối với t́nh ái nam nữ, đối với cái Chấp Ngă của chính ḿnh, sẽ tự nhiên đạm bạc, chẳng lầm lạc chấp trước. Ràng buộc là do chính ḿnh th́ tháo gỡ cũng do chính ḿnh, căn bản chẳng phải là cầu từ bên ngoài!

 

1.1.2.2.1.1.4. Năng thoát tặc nạn (thoát được nạn giặc)

 

Chánh kinh:

Nhược tam thiên đại thiên quốc độ, măn trung oán tặc, hữu nhất thương chủ, tương chư thương nhân tê tŕ trọng bảo, kinh quá hiểm lộ. Kỳ trung nhất nhân tác thị xướng ngôn:

- Chư thiện nam tử! Vật đắc khủng bố! Nhữ đẳng ưng đương nhất tâm xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, thị Bồ Tát năng dĩ vô úy thí ư chúng sanh; nhữ đẳng nhược xưng danh giả, ư thử oán tặc đương đắc giải thoát.

Chúng thương nhân văn, câu phát thanh ngôn: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, xưng kỳ danh cố, tức đắc giải thoát.

若三千大千國土。滿中怨賊。有一商主。將諸商人。齎持重寶。經過險路。其中一人作是唱言。諸善男子。勿得恐怖。汝等應當一心稱觀世音菩薩名號。是菩薩能以無畏施於眾生。汝等若稱名者。於此怨賊。當得解脫。眾商人聞俱發聲言南無觀世音菩薩。稱其名故。即得解

(Nếu các cơi nước trong tam thiên đại thiên đầy dẫy các oán tặc trong ấy, có một thương chủ dẫn các khách buôn mang theo của báu quư giá, đi qua đường hiểm; trong ấy có một người xướng như thế này:

- Các thiện nam tử! Chớ có sợ hăi! Các ông hăy nên nhất tâm xưng danh hiệu Quán Thế Âm. Vị Bồ Tát này dùng vô úy thí cho chúng sanh, nếu các ông xưng danh sẽ được giải thoát nạn oán tặc này.

Các thương nhân nghe nói, đều thốt lên: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Do v́ xưng danh liền được giải thoát).

 

Đây là nạn cuối cùng trong bảy nạn, tức là oán tặc nạn. Oán () là oán gia, Tặc () là đạo tặc (giặc cướp), đều là những thứ bất lợi cho ḿnh. Nếu gặp phải th́ không tổn mạng cũng bị tốn tiền, nói chung là chẳng làm cho quư vị an ổn.

Giả sử trong các cơi nước thuộc tam thiên đại thiên thế giới này, trong ấy đầy dẫy oán gia, đạo tặc, chẳng cần phải nói nữa, cơi nước như thế rất nguy hiểm, hầu hết mọi người chẳng dám đi vào chỗ oán tặc nhiều như hạt mè ấy. Thế nhưng hiện thời có một vị thương chủ suất lănh các khách buôn, mỗi khách buôn đều mang theo trân bảo cực quư giá, cùng nhau đi qua con đường hiểm nghèo ấy. Mọi người vốn dè dặt cẩn thận, sợ gặp phải oán tặc cướp đoạt tài bảo của ḿnh, tổn hại tánh mạng ḿnh. Ngay trong lúc mọi người hồi hộp tiến bước, trong số ấy chợt có một người xướng như thế này:

- Các thiện nam tử! Hiện thời chúng ta đang tiến vào một con đường nguy hiểm vô cùng, nhưng mọi người chớ sanh ḷng hoảng sợ, hoảng sợ vô ích. Ngay trong lúc này, mọi người các vị chẳng c̣n cách nào khác, chỉ có cách nên nhất tâm nhất ư xưng niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, chỉ có Bồ Tát mới có thể giải cứu tai nạn cho chúng ta, khiến cho chúng ta an toàn vượt qua con đường hiểm này. Bởi lẽ, vị Quán Thế Âm này trong thế giới đây thường ban sự vô úy cho chúng sanh; nếu các ông thật sự có thể nhất tâm nhất ư xưng niệm danh hiệu Ngài, sẽ đều được giải thoát tất cả oán tặc trong tam thiên đại thiên thế giới này, chẳng bị tổn hại mảy lông.

Các thương nhân nghe nói niệm Quán Âm có lợi như thế, ngay lập tức bèn cùng thốt lên: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát!”. Do bởi xưng danh hiệu Ngài, ngay lập tức liền được thoát khỏi cái nạn oán tặc, tự do tự tại vượt qua con đường nguy hiểm đó.

Cách để đối phó đạo tặc là chớ có quyết đấu cùng chúng, mà phải dùng đức để cảm hóa. Quyết đấu chẳng những không thể làm cho chúng hồi đầu mà chỉ càng làm cho chúng tăng thêm dũng khí ăn cướp. Đức hóa (cảm hóa bằng đức) mới thật sự khiến cho chúng hồi đầu, chẳng c̣n phá nhà cướp của nữa. Trong quá khứ, tại Trung Quốc có vị ḥa thượng Hằng Thuận từng gặp phải đạo tặc, kẻ giặc trông thấy Ngài, câu đầu tiên gă nói là: “Đem tiền tài ra nộp!” Ḥa Thượng Hằng Thuận vẫn ngồi yên tại chỗ, tên giặc cướp rất tức, rút dao kề ngang cổ dọa: “Nộp hay không nộp?” Ḥa thượng Hằng Thuận chẳng nói câu nào, dốc cạn túi cho tên cướp. Tên trộm cướp được tiền liền lập tức chạy ra ngoài, lúc ấy ḥa thượng Hằng Thuận mở miệng, chỉ quát hai chữ: “Mạn tẩu!” (Hăy chậm bước!) tựa hồ tiếng sét nổ, tên cướp nghe thấy liền bị chấn động, đứng đờ người ra, thật chẳng dám đi nữa. Lúc đó, ḥa thượng Hằng Thuận bảo gă:

- Người trong thế gian bất luận làm chuyện ǵ đều phải xét đạo lư, tiền ta cho ngươi đó là dùng để cúng Phật, nay ngươi cầm đi, lẽ ra phải cảm ơn Phật chớ!

Tên trộm lúc đầu tưởng có chuyện ǵ quan trọng, nay nghe nói chỉ phải cảm ơn Phật, bèn sốt sắng hướng về Phật cảm ơn, rồi lập tức co chân chạy mất! Việc đă qua tưởng là xong, nhưng gă cướp về sau ăn trộm nơi khác, bị chánh phủ bắt được, lúc thẩm vấn, [nhân viên thuộc] cơ quan trị an hỏi gă:

- Sao mày ăn trộm của người khác? Trước đây tiền của ḥa thượng Hằng Thuận dường như cũng bị mày cướp lấy, sao tánh cướp vẫn không đổi vậy?

Tên trộm nói:

- Tôi chẳng hề ép Ḥa Thượng lấy tiền, không tin, mấy thầy cứ đến hỏi Ḥa Thượng coi!

Khi đó, cảnh sát bèn giải tên cướp đến đối chất với Ḥa Thượng. Ḥa Thượng Hằng Thuận rất từ bi đáp:

- Gă này chẳng ép tôi đoạt tiền, mà là tôi tự nguyện cho gă, có ǵ để chứng minh hả? Lúc gă sắp bỏ đi, từng hướng về Phật cảm ơn, như vậy chứng tỏ gă không có cướp lấy!

Cảnh sát nghe, biết Ḥa Thượng từ bi, không kết tội gă trộm được, nhưng tên này phạm tội ở nơi khác rất nhiều, chẳng thể v́ Ḥa Thượng từ bi mà không kết tội gă, vẫn phải cho gă nếm mùi vị song sắt! Lúc sắp đi, Ḥa Thượng Hằng Thuận cầm tay gă trộm bảo:

- Lần trước anh tới đây, tôi rất thật t́nh, đem tất cả tiền bạc tôi có tặng anh để làm anh cảm động, khiến cho anh từ đây chẳng c̣n trộm cắp nữa, nào ngờ tôi đạo đức chẳng đủ, chẳng cảm động được anh, khiến anh phạm phải phép nước, bị quốc pháp trừng phạt, ngoài việc hổ thẹn, tôi c̣n biết nói ǵ đây!

Tên trộm ấy bị nhốt vào ngục rồi, mỗi lần nghĩ đến những lời Ḥa Thượng Hằng Thuận nói với ḿnh, trong ḷng cảm thấy áy náy chẳng thể nói ra. Bởi thế, đau khổ hạ quyết tâm, phát thệ từ nay trở đi không ăn trộm nữa. Sau khi ra khỏi ngục, người thứ nhất gă muốn gặp chính là Ḥa Thượng Hằng Thuận, bày tỏ cùng Ngài từ nay trở đi quyết chẳng làm những chuyện như vậy nữa, thỉnh cầu Ḥa Thượng chứng minh cho con được sám hối, nhờ vậy trở thành một con người tốt!

Ở Dương Châu quê tôi cũng có một câu chuyện từa tựa như vậy: Có một vị cư sĩ tin Phật, trong nhà có tất cả mười bảy người, trong lúc ấy bọn đạo tặc đang lộng hành ở quê nhà không ngớt, bọn họ nghĩ không c̣n cách nào khác để né tránh cơn tai nạn này, lúc đó chỉ c̣n biết tin tưởng Quán Âm, cả nhà xưng niệm thánh hiệu Quán Âm. Có một buổi tối vị cư sĩ ấy mộng thấy đức Quán Âm bảo ḿnh:

- Cả nhà ngươi thành khẩn tŕ niệm thánh hiệu như thế, thật là khó có, thế nhưng ngoại trừ mười sáu người đương nhiên nhờ đó thoát khỏi kiếp nạn này, bản thân ngươi chẳng thể tránh khỏi tai nạn này là do định nghiệp khó tránh khỏi. Ngày mai cướp đến nhà, trong số đó có gă Vương Ma Tử đời trước ngươi từng đâm gă mười sáu đao, bây giờ do nhân duyên hội hợp, tất nhiên ngươi bị Vương Ma Tử chém mười sáu đao, nhưng do ngươi chân thành nên có thể thoát khỏi tai nạn này.

Đến ngày hôm sau, cư sĩ bảo người nhà núp vào chái nhà xong, tự ḿnh chuẩn bị một bàn tiệc ê hề để chiêu đăi Vương Ma Tử. Ngày hôm ấy, quả nhiên Vương Ma Tử đến nhà, vị cư sĩ bèn hỏi:

- Ngài có phải là Vương Ma Tử hay không? Nếu đúng là ngài, đời trước tôi thiếu nợ ngài mười sáu đao, đời này xin trả nợ, chẳng qua tôi mong ngài trước hết ăn bữa cơm này rồi chém tôi mười sáu đao để kết thúc mối oan trái giữa chúng ta.

Vương Ma Tử nghe vậy cảm thấy rất kỳ quái, bèn hỏi ngay:

- Làm sao ngươi biết tên tuổi ta?

Cư sĩ đáp:

- Tôi là người tin tưởng đức Quán Âm, trong mộng Bồ Tát bảo cho tôi biết mối quan hệ trong quá khứ giữa tôi và ngài.

- Đă là nhân quả báo ứng, mảy may chẳng sai, quá khứ ngươi chém ta mười sáu đao, hiện tại ta chém lại ngươi mười sáu đao, giết qua, giết lại như vậy, oan trái của chúng ta bao giờ mới hết. Đă vậy, chẳng bằng bây giờ coi như mối oan trái đă kết thúc.

Vương Ma Tử nói như vậy xong, liền giở sống đao chém vào thân cư sĩ mười sáu nhát, để trả đũa mười sáu nhát đao trong quá khứ. Cư sĩ đă thoát khỏi kiếp nạn ấy, mối oan cừu giữa họ đă kết thúc.

Bởi thế, đúng là niệm Quán Thế Âm Bồ Tát có điểm hay! Như hai người vốn là oan gia, nay trở thành bạn bè rất tốt; như vốn là đạo tặc, lại biến thành người rất lương thiện. Phải biết đấy đều là sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn của Quán Âm Bồ Tát.

 

 1.1.2.2.1.2. Tổng kết thần lực

 

Chánh kinh:

Vô Tận Ư! Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát oai thần chi lực, nguy nguy như thị!

無盡意。觀世音菩薩摩訶薩威神之力。巍巍如是

(Này Vô Tận Ư! Sức oai thần của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ṿi vọi như thế).

 

Nói đến đây, đức Phật lại tổng kết bốn nạn. Phật gọi Vô Tận Ư để bảo cùng Bồ Tát: Sức oai thần của Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát đương nhiên là ṿi vọi vĩ đại như thế, sao chẳng thành khẩn niệm Quán Thế Âm Bồ Tát? “Nguy nguy” nghĩa là có dáng vẻ cao lớn, h́nh dung nguyện lực, bi trí v.v… của Bồ Tát rộng lớn vô biên, có thể độ thoát vô biên tai nạn và khổ ách của chúng sanh.

 

1.1.2.2.2. Năng ly tam độc (Ĺa khỏi ba độc)

1.1.2.2.2.1. Chánh minh ly độc (Nói rơ về ĺa ba độc)

 

Chánh kinh:

Nhược hữu chúng sanh đa ư dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly dục. Nhược đa sân khuể, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly sân. Nhược đa ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện đắc ly si.

若有眾生。多於淫欲。常念恭敬觀世音菩薩。便得離欲。若多瞋恚。常念恭敬觀世音菩薩。便得離瞋。若多愚癡。常念恭敬觀世音菩薩。便得離癡。

(Nếu có chúng sanh nhiều dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền được ĺa dục. Nếu nhiều nóng giận, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền được ĺa giận. Nếu nhiều ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền được ĺa si).

 

Bảy nạn vừa kể trên tuy có thể nói là phiền năo bên trong, nhưng nh́n từ mặt biểu hiện, rốt ráo vẫn thuộc về ngoại cảnh. Ba độc hiện đang được giảng đây mới thực sự thuộc về nội tâm, mà cũng là những phiền năo trọng yếu trong tâm chúng sanh. Tất cả phiền năo của chúng sanh nếu nói trên phương diện số lượng là vô lượng, vô biên, nhiều như vi trần, như cát vậy; mà h́nh trạng của phiền năo cũng cực vi tế, sâu xa, chẳng dễ biết được. Chẳng qua nói thô thiển cho dễ hiểu th́ chẳng ngoài ba độc phiền năo, chúng chính là căn bản của hết thảy phiền năo; bởi vô lượng vô biên phiền năo đều từ ba thứ này sanh ra. Người tu học Phật pháp nếu có thể viễn ly tam độc th́ cũng sẽ giải trừ được các phiền năo khác. Do đây có thể thấy: Muốn đoạn trừ phiền năo th́ chủ yếu là đoạn trừ ba độc căn bản phiền năo. Bởi thế, phẩm này đặc biệt đề cập ba độc, dạy rơ cho chúng ta phương cách thật sự viễn ly Tam Độc.

Tam Độc là ba phiền năo tham, sân, si. V́ sao ba phiền năo ấy gọi là Tam Độc? Là v́ trong những hoạt động của thân tâm, ba thứ này thường gây độc hại cho người tu hành, khiến cho hành nhân chẳng thể tấn tu đúng pháp. Như người bị rắn độc hoặc rồng độc cắn phải, sẽ có nguy cơ sanh mạng tử vong, chẳng thể tiếp tục sống c̣n. Tam Độc cũng giống như thế, cũng có thể gây độc hại cho Pháp Thân Huệ Mạng, khiến Pháp Thân chẳng thể tăng trưởng, Huệ Mạng không cách nào khai triển. Bởi thế gọi chúng là Độc; tự độc, độc người, đúng là đáng chán sợ. Phẩm Sư Tử Hống kinh Niết Bàn có câu: “Độc trung chi độc, bất quá tam độc” (Độc nhất trong các độc, không ǵ bằng Tam Độc). Bởi thế, chất độc trong thế gian chẳng phải là thứ chúng ta nên sợ, Tam Độc độc nhất trong các độc mới đúng là thứ khiến con người sợ hăi. Bởi vậy, người tu học Phật pháp chủ yếu phải đoạn trừ ba độc.

Xin hăy xem kinh Quán Âm chép: “Tịnh ư tam độc căn, thành Phật đạo vô nghi” (Thanh tịnh ba độc căn, thành Phật đạo chẳng nghi). Hành giả tu học Phật pháp nếu có thể đoạn trừ được cội rễ ba độc th́ chẳng những chứng được quả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát không thành vấn đề, ngay cả chuyện hoàn thành Phật quả tối cao cũng chẳng c̣n là nghi vấn nữa. Bởi thế, đoạn trừ ba độc phiền năo chính là vấn đề trọng yếu duy nhất của chúng ta. Ba độc như rễ cây, nhổ được rễ th́ cành lá tự nhiên khô héo, bởi lẽ công năng của cội rễ đă mất rồi. Bởi thế tu hành đoạn phiền năo phải hạ thủ từ căn bản. Chính v́ thế, kinh này chỉ giảng về những căn bản phiền năo trọng yếu.

      Danh xưng của ba độc phiền năo, trong kinh có lúc chỉ gọi đơn độc là tham, sân, si; có khi gọi kép là tham dục, sân khuể, ngu si. Kinh này cũng dùng tên kép để thuyết minh. Để giải thích tên kép, cổ đức đă phân biệt như thế này:

- “Tự ái vi dục, ái tha vi dâm” (Yêu chính ḿnh là dục, yêu người khác là dâm): Con người và hết thảy chúng sanh không ai chẳng tự yêu mến chính ḿnh. Yêu đắm sanh mạng và thân thể của chính ḿnh, muốn cho sanh mạng của chính ḿnh được sanh tồn, đó gọi là Dục. Trong hiện thực thế gian, sự yêu thương giữa nam nữ, đôi bên yêu thương hành dâm, đó gọi là Dâm.

- “Tự phẫn vi khuể, phẫn tha vi sân” (giận bực chính ḿnh là Khuể, giận người khác là Sân): Nếu con người bực tức chính ḿnh, tự ḿnh đột nhiên nhiếc mắng ḿnh, đó gọi là Khuể. Nếu giận dỗi người khác, nói chung thấy người khác sai trái, chán chường, ghét bỏ người khác, đó gọi là Sân.

- “Tự hoặc vi Ngu, hoặc tha vi Si” (tự ḿnh mê hoặc là Ngu, mê hoặc người khác là Si): Tự ḿnh làm ḿnh mê muội, rơ ràng chẳng phải như vậy cứ khăng khăng cho là như vậy, đó gọi là Ngu. Dùng những phương pháp bất chánh đáng mê hoặc người khác, khiến người khác lạc vào mê cung, đó gọi là Si. Tuy căn cứ trên hai phương diện ḿnh và người để giải thích tên kép của ba độc, nhưng thật ra đó đều là căn bản phiền năo trong nội tâm của chúng sanh.

Để đối trị Tam Độc phiền năo, với mỗi thứ có những phương cách khác nhau: như chúng sanh nhiều tham tu Bất Tịnh Quán, chúng sanh nhiều sân tu Từ Bi Quán, chúng sanh nhiều si tu Nhân Duyên Quán. Bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều giống như vậy. Thế nhưng, tuy Bất Tịnh Quán, Từ Bi Quán, Nhân Duyên Quán là những pháp môn tối thượng để đối trị Tam Độc, chúng sanh b́nh phàm chẳng dễ ǵ tu được. Tu chẳng đúng pháp th́ chẳng những không thể đoạn Hoặc, trái lại phiền năo càng tăng trưởng. Đức Phật đại từ đại bi mở riêng một pháp môn phương tiện dạy chúng sanh tham dục, sân khuể, ngu si nặng nề nếu chẳng thể tu Bất Tịnh Quán v.v… th́ hăy nên thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, cũng có thể viễn ly ba độc.

Đến đây, ắt có kẻ sẽ đâm ra hoài nghi: Thông thường, đoạn phiền năo phải có trí huệ, chẳng có trí huệ làm sao đoạn được phiền năo? Nếu đă là như vậy, v́ sao ở đây lại nói là xưng danh Quán Âm Bồ Tát bèn có thể ĺa khỏi ba độc? Ở đây, phải chú ư hai chữ “thường niệm” trong kinh này. Thường niệm là chánh niệm, nhờ đó có thể nhận hiểu phiền năo tánh vốn là Không. [Khi đă hiểu tánh của phiền năo vốn là Không] th́ an trụ trong phiền năo chính là trụ vào Thật Tế. Lư thể của Thật Tế không Năng, không Sở, niệm tánh thanh tịnh. Chánh niệm như thế chẳng phải là trí huệ ư? Ĺa bỏ điều này, biết c̣n t́m cầu trí huệ ở đâu nữa? Trí huệ này chẳng ĺa phiền năo, há c̣n ǵ để ĺa phiền năo? Nếu dùng riêng trí huệ để đoạn phiền năo sẽ thành ra có “trí huệ đoạn trừ phiền năo” và “phiền năo bị đoạn trừ” đối lập nhau. Nếu như vậy, chẳng những phiền năo chẳng thể đoạn trừ, mà trí huệ cũng trở thành phiền năo, sao c̣n gọi là “trí huệ đoạn Hoặc” được nữa? Bởi thế, biết rằng: Ngay chính nơi Chánh Niệm là trí huệ. V́ thế, nếu có thể thường niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát chính là có thể dùng chánh niệm để trừ khử ba độc. Đó là đức Phật v́ chúng sanh đặc biệt khai thị riêng một đạo dễ hành.

Trong thế gian này, có một loại chúng sanh tâm dâm dục nặng nề vô cùng, đặc biệt là rất nhiều dâm dục. Tuy đây là điều chúng sanh ưa thích, nhưng nó gây ra hậu hoạn vô cùng. Bởi thế, bậc hiền thánh thế gian hoặc bậc xuất thế đại thánh đều đặc biệt chú trọng điều này, răn dạy con người chúng ta bằng nhiều phương cách, khiến cho chúng ta hết sức kiêng dè chuyện này. Như bài văn Đoạn Dục của Ngụy Văn Đế có câu: “Thủ ác mạc như sắc dục, dị phạm đa thị tà dâm” (Điều ác đứng đầu không ǵ bằng sắc dục, dễ phạm, đa phần là tà dâm). Lại như thế gian thường hay nói: “Vạn ác, dâm vi thủ” (Trong muôn điều ác, dâm đứng đầu) cho thấy rơ lỗi họa của dâm. Kinh Phật quở trách sắc dục lại càng kịch liệt hơn, như nói sắc dục hại người c̣n hơn mănh thú, nước lũ, cho thấy lỗi hại của dâm dục rất nặng nề.

Dâm dục là chuyện nam nữ đều có, chẳng phải là riêng một giới nào. Bởi thế, quở trách sắc dục là phải quở trách cả nam lẫn nữ như nhau; nhưng thời cổ Ấn Độ trọng nam khinh nữ; hơn nữa, đối tượng thuyết pháp của đức Phật đa phần là nam giới, bởi thế khi kinh nhắc đến tội ác của dâm dục, đại đa số quy tội nữ giới; như kinh Quở Trách Sắc Dục (Ha Dục Kinh) chép: “Nữ sắc giả, thế gian già tỏa, phàm phu luyến trước, vị năng tự bạt. Nữ sắc giả, thế gian trọng hoạn, phàm phu nhân chi, chí tử vị miễn. Nữ sắc giả, thế gian suy họa, phàm phu tao chi, vô ách bất chí. Hành giả kư đắc ly chi, nhược phục cố niệm, thị tùng địa ngục xuất, hoàn phục tư nhập” (Nữ sắc là gông cùm của thế gian, phàm phu đắm luyến chẳng thể tự dứt. Nữ sắc là tai hoạn nặng nề trong thế gian, v́ đó phàm phu đến nỗi chẳng tránh khỏi cái chết. Nữ sắc là suy họa của thế gian, phàm phu gặp phải th́ không tai ách nào chẳng gặp. Hành giả đă ĺa được rồi, nếu c̣n đoái tưởng, th́ là ra khỏi địa ngục lại nghĩ trở vào). Từ đoạn kinh văn này có thể thấy là họa hại nữ sắc rất lớn; nhưng đứng trên lập trường khác mà nói, đem nữ sắc đổi thành nam sắc th́ họa hoạn của nam sắc cũng rất lớn, chẳng phải vậy sao? Bởi thế, chẳng thể quy lỗi một bề cho nữ giới được!

Trong kinh luận lại thường nói như thế này: Trong hết thảy các thứ suy, nữ suy là lớn nhất; trong hết thảy bệnh, nữ bệnh là nặng nhất; trong hết thảy trói buộc, nữ hệ (sự trói buộc bởi nữ giới) là bền chắc nhất. Nếu ai thật sự bị gông xiềng nữ sắc ràng buộc, muốn giải thoát khỏi cô ta, thật rất khó vậy! Bởi thế, từ cổ đến nay, chẳng biết bao nhiêu người ch́m đắm trong đó, không thể tháo ra được; chính là v́ đàn bà ràng buộc bền chắc. Phật, Bồ Tát dạy chúng ta: Rắn độc, đao, lửa, sấm, chớp, sét, tuy nói là hung tàn chẳng nên tiếp xúc, nhưng vẫn c̣n có thể tạm thời thân cận, chỉ có nữ nhân keo kiệt, ghen ghét, sân hận, siểm trá, quỷ quái, bẩn thỉu, ưa tranh giành, dâm dục th́ tuyệt đối chẳng nên thân cận một chút nào hết. Nếu như thân cận, quư vị sẽ mắc họa hoạn, chẳng thể nói ǵ được nữa. Nói nghiêm trọng hơn, dâm dục là căn bản của các sanh tử. Do dâm dục giúp cho ḷng yêu đắm phát khởi, khiến cho chúng sanh sống chết liên tục.

Nói theo hiện thực của người thế gian th́ tuyệt đối chẳng thể tránh khỏi dâm dục, chỉ cần trong thế gian có nam nữ sai khác, tất nhiên phải tạo thành quan hệ vợ chồng. Đă có vợ chồng kết hợp, sao không khỏi phát sanh dâm dục? Sở dĩ Phật đôi ba lượt quở trách sắc dục, chính là muốn chúng ta chẳng suốt ngày đắm ch́m trong dâm dục chẳng thể tự thoát, cũng như chẳng gây tạo những hành vi tà dâm phi lễ. Bởi thế, đối với người tại gia học Phật, vợ chồng kết hợp chánh đáng, Phật chẳng cấm ngăn hoàn toàn. Nếu đắm ch́m quá phận trong chuyện đó, chẳng những thân thể ḿnh bị tổn hại, mà sự nghiệp của ḿnh cũng bị bỏ phế, đấy thật là bất trí nặng nề. Xem gương đế vương, tể quan, anh hùng, hào kiệt thời cổ, bị thân bại danh liệt, khuynh quốc, táng gia, chẳng biết bao nhiêu người, vẫn chẳng đáng cho chúng ta kiêng dè hay sao? Huống nữa, dâm dục là nguồn gốc các khổ, là gốc chướng đạo, bởi thế đức Phật nghiêm khắc cấm ngặt.

Tuy nói hết thảy chúng sanh đều do dâm dục mà có tánh mạng, nhưng con người rất dễ phạm phải căn bệnh này. Bởi lẽ, dâm dục là bẩm sanh, cũng như Nho Gia nói “tham sắc, tánh dă” (tham sắc chính là tánh vậy, ư nói: Tham sắc thuộc về bản tánh), muốn chẳng phạm rất khó. Nhưng nếu chúng ta luôn luôn giữ cái tâm ngăn dè, kiêng sợ, coi dâm dục là bất tịnh nhất mà cũng là điều đáng sợ nhất th́ dục niệm của quư vị sẽ nhạt bớt, thậm chí chẳng khởi. Rất nhiều kẻ do dâm dục mà tạo thành bi kịch, nguyên nhân căn bản là do chẳng biết sợ, cho dâm dục là chuyện nhân sinh đáng nên hưởng thọ, có ǵ mà chẳng thể phát sanh quan hệ tánh dục? Do một niệm lầm lạc đó, tạo thành đại họa chung thân, câu nói: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận” (Một lần lầm lỡ một lần đủ tạo thành nỗi hận thiên cổ), chính là nói về ư này. Nếu hành giả tu học Phật pháp tham đắm dục lạc sẽ không cách nào tiến được. Bởi thế, phải biết sắc dục là họa hoạn, tận lực lập cách tránh né, chẳng nên tiếp cận nhiều với người khác phái, th́ vấn đề sẽ tự nhiên giảm thiểu.

Bất quá, nếu thật sự muốn ly dục hoặc tuyệt dục th́ phải xem tâm niệm của chúng ta trong lúc ấy như thế nào, nếu tâm niệm hướng theo phương diện khác, tự nhiên sẽ khó bị dục niệm lôi kéo. Nếu như tâm niệm đặt nơi thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát, luôn nhất tâm xưng niệm Quán Âm Bồ Tát, chỉ có mỗi chánh niệm Quán Âm Bồ Tát, không c̣n tạp niệm nào khác trong tâm, tự nhiên sẽ được Bồ Tát cảm ứng, khiến cho dục niệm của quư vị băng tiêu. Cũng như nếu quư vị có thể coi một người con gái trước mặt chẳng phải là một phụ nữ b́nh thường mà là Quán Âm Bồ Tát thị hiện th́ cũng có thể lập tức trừ được dục niệm trong tâm.

Tương truyền, trong quá khứ có một hành giả, đột nhiên dục niệm xung động, muốn chung chạ bậy bạ cùng một người phụ nữ. Cô gái đó yêu cầu ông ta đem bức họa Quán Âm Bồ Tát treo trên đầu giường, rồi mới đáp ứng đ̣i hỏi của ông ta. Ngay trong lúc ấy, vị hành giả tỉnh ngộ, biết đó chẳng phải là chuyện nên làm, từ đó bèn xa ĺa dục niệm. Đức Phật biết rơ gốc bệnh chúng sanh tại đâu nên đặc biệt chỉ dạy: “Thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ĺa dục”. Trong câu này, khẩn yếu nhất là hai chữ “thường niệm”. Thật sự phải làm như dùi cây lấy lửa, như gà ấp trứng, mỗi một sát-na đều chẳng ngưng nghỉ niệm th́ mới phát sanh công hiệu. Nếu như lúc niệm lúc không, khó ḷng đạt được hiệu quả.

Lại có một loại chúng sanh khác, tâm sân khuể nặng nề vô cùng, đặc biệt là hay nóng giận, có biện pháp nào để đối trị đây? Nói thông thường là phải tu Từ Bi Quán, bởi Từ Bi đối trị sân khuể. Sân khuể là đại bệnh, từ bi là pháp dược, uống vào hiệu quả đặc biệt phi thường. Chẳng cần biết quư vị tâm sân khuể lớn nặng đến đâu, chỉ cần tu hành Từ Bi Quán đúng pháp, không ai chẳng trị được tận gốc sân khuể. Nói về mặt phương tiện, nếu như có thể “thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ĺa dục”.

Đại từ đại bi là điều đặc sắc lớn nhất của Quán Âm Bồ Tát, bởi lẽ thường xưng niệm Ngài, thường tương ứng với ḷng từ bi của Bồ Tát, tự nhiên chẳng thể khởi lên sân tưởng. Thử xem bất luận người nào nóng giận đến đâu, cứ hễ vừa niệm thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát, tánh nóng lớn bằng trời cũng tiêu mất. Đây là phương pháp đơn giản nhất lại dễ thực hành nhất. Nếu lúc quư vị nổi nóng, chẳng ngại ǵ mà không áp dụng thử xem, bảo đảm quư vị thấy hiệu quả đặc biệt phi thường. Đừng nói là thường xưng niệm trừ được sân, có lúc quán thánh dung từ ḥa đoan nghiêm của Ngài cũng có thể khiến cho tánh nóng của quư vị không cách chi phát khởi được. Bởi lẽ, đối diện thánh dung từ ḥa, biết ḿnh nổi nóng chẳng có nghĩa lư ǵ cả. Đức Phật biết rơ tâm lư chúng sanh, muốn cho chúng sanh đừng phát sanh sân khuể, nên đặc biệt dạy các chúng sanh thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát.

Sân khuể là một hiện tượng tâm lư bất b́nh thường, bạo ác nhất trong tâm chúng sanh, một khi nó phát khởi tác dụng, tác hại rất nghiêm trọng. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhất niệm sân khuể khởi, chướng bách pháp minh môn”, kinh Đại Tập nói: “Nhất khởi sân, nhất thiết ma quỷ đắc tiện” (Một niệm sân dấy lên, hết thảy ma quỷ được dịp thuận lợi), ư nói: Người tu hành vốn có thể phát sanh bách pháp minh môn, nhưng v́ một niệm sân khuể nên các pháp ấy bị ngăn trở chẳng sanh được. Ma quỷ vốn chẳng có cách nào nhiễu loạn được hành giả, chỉ v́ một niệm sân dấy lên, ma quỷ bèn nắm lấy cơ hội đó, gây nên nhiễu loạn, khiến quư vị không cách ǵ tấn tu được. Hăy nghĩ coi sân khuể ảnh hưởng đến người tu hành có rộng lớn hay chăng? Lại nói về người b́nh phàm, nếu như tâm sân khuể lớn lao, động một chút bèn nổi nóng, nhỏ th́ đánh đập người khác, lớn th́ tước đoạt tánh mạng người ta. Thế gian phát sanh rất nhiều bi kịch đều là do một niệm sân tâm chẳng nín nhịn được mà ra, bởi thế Phật pháp cho rằng sân khuể là điều chớ nên có.

Đương nhiên nguyên nhân sanh khởi sân khuể rất nhiều, có chút ǵ chẳng vừa ư, bèn có thể nổi nóng liền; bởi thế, trong hiện thực thế gian khắp nơi chống trái, tàn độc. Thế nhưng, có lúc Phật pháp đem các loại sân khuể quy nạp thành ba thứ như sau:

 

1) Thuận lư sân:

 

Nghĩa là chính ḿnh chẳng phải là kẻ có tội, cũng chẳng v́ ác ư mà phê b́nh người khác, càng chẳng có chỗ nào sai trái đối với người khác, bất ngờ bị người ta lăng nhục, bị người ta chửi rủa dữ dằn, bị người ta hủy báng, bị người ta phá hoại, thậm chí vô t́nh ẩu đả. Trong những t́nh huống ấy, bất cứ người có tu dưỡng nào cũng khó thể chẳng nổi nóng.

Sự nổi nóng đó, xét theo t́nh lư, có thể chấp nhận được, cũng có thể nói là hợp t́nh, hợp lư, nên gọi là Thuận Lư Sân; nhưng đứng trên lập trường Phật pháp mà nói, nổi nóng như vậy vẫn chưa phải là cần thiết. Bởi lẽ, tuy vô duyên vô cớ bị chửi rủa, đánh đập, nhưng nếu nhẫn nhịn được th́ nhẫn vẫn là hơn. Nếu như biết người đánh chửi quư vị cũng chẳng phải là chính họ muốn làm vậy, mà là do bị phiền năo sai khiến, chính họ cũng chẳng tự chủ được, ta nổi nóng với họ làm ǵ? Nghĩ được như thế, chẳng những không nổi nóng với họ, mà c̣n thông cảm cho họ nữa, biết họ đáng thương. Như thế sẽ hóa khí dữ thành cát tường, đây - kia thân tâm an nhiên.

 

2) Phi lư sân:

 

Tức là về căn bản chẳng có nguyên nhân ǵ, vô duyên vô cớ đùng đùng nổi giận. Như có những người vốn rất tốt, chưa từng bị ai xâm phạm, cũng chưa gặp nghịch cảnh nhiễu loạn, thế mà đột nhiên nổi giận bừng bừng khiến người khác chẳng biết nguyên do. Hiện tượng này chẳng những thường thấy nơi những người b́nh thường ngoài xă hội, ngay trong những hành giả nhà Phật cũng chẳng hiếm thấy. Như có hành nhân tu biệt cư đă lâu, tự nấu cơm ăn, căn bản là không có người thứ hai nào nhiễu loạn, nhưng ngẫu nhiên gặp phải ngày mưa, củi ướt chẳng nhóm được lửa, bởi thế bèn áo năo, phẫn nộ, thậm chí giận không thèm ăn cơm nữa! Phải biết đó là giận phi lư.

Nói theo Phật pháp, giận như vậy càng chẳng nên, nóng giận có đối tượng c̣n chấp nhận được; tự ḿnh giận ḿnh, về lư nói sao cho thông? Bất quá là tự ḿnh chọc ghẹo ḿnh đó thôi. C̣n như giận không thèm ăn cơm nữa, thử hỏi có ích ǵ cho ḿnh hay chăng? V́ đâu ḿnh phải tự ḿnh làm khổ ḿnh như thế? Bởi thế, đức Phật càng nghiêm khắc quở trách Phi Lư Sân để chúng ta đừng có giận hờn vô lư.

 

3) Đấu Tránh Sân:

 

Tức là lúc năm ba người bạn tốt cùng thảo luận vấn đề, ban đầu đàm luận tâm đầu ư hợp lắm, nhưng một lúc sau, do tôi nói đằng này, anh nói đằng kia, ai nấy giữ ư kiến riêng, ai nấy cho thế này là đúng, thế kia là sai, không ai nhường ai, bởi thế căi nhau đỏ mặt tía tai, thậm chí căi lộn ầm ĩ cả lên. Đó gọi là Đấu Tránh Sân. T́nh h́nh này trong thế gian hiện thời đâu đâu cũng thấy. Thật ra, bất tất phải sân khuể. Phải biết rằng: Bất luận tranh luận vấn đề ǵ, nói chung là chân lư càng bàn sẽ càng sáng, cớ ǵ cứ phải tranh luận không cần thiết? Cớ ǵ cứ phải v́ đó mà nổi nóng bừng bừng?

Tranh luận chẳng đúng nghĩa lư như thế chẳng mảy may có ư nghĩa ǵ, đánh mất t́nh bè bạn lại càng chẳng đáng chi! Bởi thế v́ giận mà tranh, do tranh nên giận đều là chuyện không nên. Hăy thử nghĩ xem: Để thảo luận một vấn đề, rốt cuộc lửa giận bốc cao đến ba trượng, khiến cả ḿnh lẫn người đều cảm thấy bất an, sao lại khổ thế? V́ thế, Phật pháp cũng chẳng cho sân khuể là đúng, mà cho rằng phải nên ngăn dứt.

Hết thảy sân khuể chẳng ngoài ba thứ ấy, nhưng bất cứ loại nào cũng đều bất hảo, đừng để cho nó tiếp tục sanh khởi, phải biết sân khuể có hại rất lớn, như nói: “Khởi nhất niệm chi sân, năng thiêu tận Bồ Đề chi chủng” (khởi một niệm sân, thiêu sạch hạt giống Bồ Đề). Bởi thế, Sân là căn bản để đánh mất Phật pháp, là nhân duyên đọa ác đạo, là oan gia của pháp lạc, là đại tặc đối với thiện tâm, chẳng những hành giả tu học Phật pháp chẳng nên khởi sân, ngay cả những người b́nh phàm cũng chẳng nên khởi sân. Nếu lúc sân khuể phát động, quư vị lập tức xưng niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ ĺa xa được sân ấy. Liên quan đến vấn đề này, có một câu chuyện thực như sau:

Trong quá khứ, ở Trung Hoa có tiên sinh Cao Phiên, thông duệ, học giỏi vô cùng. Năm mười bốn tuổi đă đậu Tú Tài. Đến tuổi nhược quan (20 tuổi), cưới cô họ Phàn, tên là Giang Thành làm vợ. Cô này tuy xinh đẹp như hoa, nhưng tánh t́nh bạo ác. Bởi thế, chàng Tú Tài có phần sợ hăi cô ta, mang nỗi khổ chẳng nói ra được, đến nỗi thân thể ngày càng suy nhược. Về sau, bà mẹ vợ biết được, chẳng chịu nổi hành vi con gái ḿnh, rất thông cảm với chàng rể, nhưng không có cách nào khác, chỉ đành cầu khẩn Quán Âm Bồ Tát.

Do nhạc mẫu kiền thành, một đêm Bồ Tát báo mộng cho bà:

- Kiếp trước con gái bà là con chuột Trường Sanh được tăng nhân nuôi trong một ngôi chùa. Đời trước con rể bà từng đọc sách ở chùa đó, lỡ tay đùa bỡn làm chết con chuột Trường Sanh đó, nên đời này phải báo ứng, con bà chẳng hành hạ chàng rể héo hắt th́ chẳng thôi, không có cách nào cứu được. Nếu thật sự muốn cứu con rể bà chỉ có cách chân thành niệm phẩm Phổ Môn.

Nhạc mẫu được chỉ dạy như thế, chẳng những tự ḿnh chân thành niệm, lại c̣n bảo cha mẹ chàng rể và cả nhà tŕ niệm. Thế nhưng kiền thành tụng niệm đă hơn một tháng, chẳng thấy cảm ứng mảy may; tuy vậy, nhạc mẫu tín tâm rất kiên định, chẳng những chính ḿnh không ngừng niệm, c̣n buộc chàng rể phát tâm cùng niệm.

Oan nghiệp của chính ḿnh th́ chính ḿnh tự tiêu, do chàng Tú Tài cũng tham gia xưng niệm, chẳng lâu sau, chợt có một vị lăo tăng đi đến. Vị lăo tăng này chẳng những hiểu rơ nhân quả, lại c̣n tinh thông thuật xem tướng; bởi thế, rất nhiều người làng đến thưa hỏi lăo tăng. Nàng Phàn Thị vợ chàng Tú Tài cũng đến hỏi lăo tăng chỉ điểm bến mê cho nàng, lăo tăng bèn lập tức bảo nàng: “Chớ có sân! Chớ có sân! Đời trước đă chẳng giả, đời này cũng chẳng chân! Hừm! Chuột mau rút đầu lại, chớ để mèo kiếm ra!” Nói xong sáu câu đó, lại dùng chén nước phun vào mặt cô ta. Người làng đều biết Phàn Thị chua ngoa, bây giờ thấy lăo tăng làm như thế, mọi người đều lo cho lăo tăng toát mồ hôi, bởi lẽ Phàn Thị nhất định nổi giận lôi đ́nh. Thế nhưng kỳ quái sao, Phàn Thị nghe xong dường có điều ngộ ra, chẳng những không nổi nóng, lại c̣n thay biến đổi tánh nóng, trở thành hiền thê lương mẫu. Đủ thấy niệm Quán Thế Âm Bồ Tát có thể xa ĺa được sân khuể.

Nếu lại có một loại chúng sanh ngu si rất nặng, đặc biệt là nhiều ngu si. Ngu si là mê hoặc, ngu muội, chẳng hiểu rơ sự lư. Người chẳng hiểu rơ sự lư chẳng nhất định là kẻ hoàn toàn không có trí thức, có kẻ thậm chí trí thức quảng bác, học vấn cao thâm, nhưng v́ chẳng tin thiện ác, nhân quả, th́ nhà Phật gọi là ngu si. Trái lại, có hạng người tuy chẳng có học thức ǵ, nhưng chân thành thiết tha tin sâu nhân quả, nhà Phật cũng gọi là có trí huệ. Là ngu si hay không th́ chẳng v́ có hay không có tri thức, mà là do có tin nhân quả hay không. Tin sâu nhân quả là người có trí huệ, chẳng tin nhân quả là kẻ ngu si. Bởi thế, trong nhà Phật, tin nhân quả thật rất trọng yếu.

Có người do chẳng thấy biết nên chẳng tin, nào biết nhân quả nói trong Phật pháp thông suốt ba đời, chẳng thể v́ không thấy được nhân mà xóa sạch sự tồn tại của nó. Có người hiện làm ác rất nhiều, bề ngoài thấy họ hưởng thụ rất sướng, nhưng nỗi khổ lớn đang chờ họ sau này. Chúng ta bất tất phải ngưỡng mộ họ, cũng đừng bắt chước làm theo họ. Có người hiện tại rộng làm thiện nghiệp, nhưng sống trong hoàn cảnh vô cùng xấu kém; hoặc có người v́ làm lành chẳng được báo tốt. Thật ra, quả báo khoái lạc đang ở tương lai, quyết chẳng hư uổng. Chúng ta đừng v́ đó thoái tâm, mà càng phải bắt chước họ thích làm lành, ưa bố thí.

Hiểu rơ nhân quả ba đời chẳng sai mảy may, tự nhiên quư vị sẽ chẳng dám làm ác, sẽ hành thiện. Đáng tiếc người đời chẳng thường hiểu đạo lư này, cứ nghĩ Phật pháp chẳng linh, hoặc là oán trời trách người. Nói theo Phật pháp, như vậy là ngu si. Đă có ngu si tồn tại, th́ phải làm cách nào? Nếu có thể tu Nhân Duyên Quán th́ tốt nhất là tu Nhân Duyên Quán. Chẳng thể tu Nhân Duyên Quán th́ nếu có thể “thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ĺa si”.

Niệm Quán Âm Bồ Tát có thể ĺa si, đắc trí huệ, trong giới Phật giáo Trung Quốc, là một niềm tin sâu xa rất phổ biến. Như trong quá khứ, các chú tiểu trong các chùa miếu Trung Quốc được sư phụ dạy bài học đầu tiên là trước khi ngủ, lễ Quán Âm Bồ Tát hết một cây hương, miệng đọc như thế này: “Đệ tử tên là… cầu thông minh, mẫn tiệp, kính lễ đấng trí huệ, quảng đại linh cảm, đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”. Niệm một lần, lễ một lần. Lễ bái lâu dài như thế, được Bồ Tát cảm ứng rất nhiều. Rất nhiều kẻ vốn rất ngu độn, sau này thành thông duệ, mẫn tiệp. Bây giờ, tôi chẳng ngại ǵ không kể chuyện thực về sự cảm ứng của việc lễ bái Quán Âm như sau:

Trong quá khứ có một chú tiểu sa-di mới xuất gia, vốn cực kỳ ngu xuẩn. Lăo ḥa thượng dạy chú niệm kinh, bất luận dụng công cách nào, chú vẫn không cách ǵ nhớ nổi. Vị thầy vô kế khả thi, liền dạy chú ngày ngày lễ niệm Quán Âm, cầu trừ nghiệp chướng khai trí huệ. Mỗi ngày quy định thời gian lễ là một cây hương, đến hết giờ sư phụ lắc linh làm hiệu, chưa nghe tiếng linh chẳng được nghỉ, đi ngủ. Chẳng gián đoạn như thế, lẩm rẩm chú tiểu lễ suốt ba năm.

Có một ngày, chú tiểu lễ niệm Quán Âm như thường lệ, sư phụ quên lắc linh, thế nhưng linh không ai động đến cũng tự kêu. Chú tiểu nghe tiếng linh, đương nhiên là đi ngủ, nhưng sau đó sư phụ quở trách chú: “Chưa nghe tiếng linh đă đi ngủ, mày cố ư biếng nhác!” Chú tiểu thưa cùng thầy: “Con chẳng lười đâu, con nghe tiếng linh mới đi ngủ”. Lúc đó, sư phụ thầm nghĩ: “Ḿnh chẳng lắc linh, làm sao có tiếng linh cho được? Không biết có phải thằng nhỏ này đă được Bồ Tát cảm ứng hay không?” V́ muốn thí nghiệm coi có đúng là linh nghiệm hay không, tối hôm sau sư phụ cố ư không lắc linh, coi xem có tiếng linh hay không? Lạ lùng thay, hôm sau chú tiểu lễ xong một cây hương, tiếng linh lại tự nhiên vang lên. Sư phụ biết ḷng thành đă được cảm ứng, bèn chẳng quy định thời gian lễ bái nữa, nhưng từ đó chú tiểu niệm kinh chẳng những mắt nh́n qua chẳng quên, mà c̣n hiểu rơ ư, trở thành một vị pháp sư giảng kinh hữu danh.

Bởi vậy, nếu có chúng sanh biết ḿnh ngu si, thường niệm thánh hiệu Quán Âm, tất nhiên được trí huệ. Vấn đề là người trong thế gian, đa phần cho ḿnh là thông minh, mẫn tiệp, chẳng chịu thừa nhận ḿnh vốn ngu si, bởi thế quư vị muốn họ niệm Quán Âm, chẳng khỏi trở thành vấn đề. Làm người tốt nhất đừng tự nghĩ ḿnh thông minh, mẫn tiệp, mà phải thừa nhận ḿnh trí huệ có hạn, thỉnh cầu Quán Âm Bồ Tát gia bị, càng niệm nhiều thánh hiệu Quán Âm, xác tín Quán Âm Bồ Tát ban cho trí huệ, khiến cho ta xa ĺa ngu si. Ngu si che lấp trí huệ, học Phật là truy cầu trí huệ. Bởi thế, mỗi một người học Phật, đều phải nên đột phá vô minh hắc ám, sống trong quang minh trí huệ.

 

1.1.2.2.2.2. Kết quy thần lực

 

Chánh kinh:

Vô Tận Ư! Quán Thế Âm Bồ Tát hữu như thị đẳng đại oai thần lực, đa sở nhiêu ích, thị cố chúng sanh thường ưng tâm niệm.

無盡意。觀世音菩薩。有如是等大威神力。多所饒益。是故眾生。常應心念

(Này Vô Tận Ư! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần lớn lao như thế, hay làm lợi ích. V́ thế, chúng sanh nên thường tâm niệm)

 

Phật nói đến đây, lại kêu Vô Tận Ư Bồ Tát bảo: “Quán Thế Âm Bồ Tát hữu như thị đẳng đại oai thần lực” (Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần lớn lao như thế), bởi thế đối với chúng sanh trong thế giới, Ngài làm lợi ích rất nhiều như làm cho chúng sanh xa ĺa dâm dục, xa ĺa sân khuể, xa ĺa ngu si, đấy chẳng phải là nhiêu ích hay sao? Tam Độc c̣n gọi là Tam Bất Thiện Căn, bây giờ chỉ do xưng niệm thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát bèn có thể chuyển tham dục thành vô tham tịnh định, chuyển sân khuể thành từ bi vô sân, chuyển ngu si thành trí huệ vô si, dẹp trừ ba bất thiện căn ác độc, gộp thành ba thiện căn đức hạnh, đạt đến mức phát triển hài ḥa, quân b́nh. Nếu chẳng phải do sức oai thần lớn lao của Bồ Tát gia bị, thử hỏi làm sao đạt được như vậy?

Chúng sanh trong thế gian có cùng một tâm lư, hễ chuyện ǵ chẳng có lợi ích cho chính ḿnh bèn chẳng thể sốt sắng tự nguyện làm, nếu chuyện ǵ có lợi cho chính ḿnh bèn rất ưa thích làm ngay. Đức Quán Âm đầy đủ đại oai đức, thần thông lực, có đại lợi ích đối với chúng sanh, nên ở đây, đức Phật đặc biệt khuyến cáo: “Thị cố chúng sanh thường ưng tâm niệm” (V́ thế, chúng sanh phải thường tâm niệm).

Trong phần kinh văn này, đáng chú ư nhất là hai chữ “tâm niệm”. B́nh thường mọi người niệm thánh hiệu Quán Âm đều là khẩu niệm, nếu lúc niệm mà tâm tương ứng với miệng sẽ tự nhiên rất tốt. Nếu như miệng niệm thánh hiệu, tâm suy Đông nghĩ Tây, tuy chẳng thể nói là hoàn toàn vô ích, nhưng công đức đạt được rất nhỏ, muốn có cảm ứng rất khó. Chẳng lạ ǵ người niệm Quán Âm rất nhiều, nhưng người được Bồ Tát cảm ứng rất ít.

Nên biết là miệng niệm, nhưng tâm chẳng đặt nơi thánh hiệu, chẳng duyên nơi sức công đức oai thần của Bồ Tát th́ muốn có cảm ứng chẳng thể được. Bởi thế, hai chữ “tâm niệm” ở đây trọng yếu phi thường. Chẳng những tâm niệm mà c̣n phải thường niệm. Nếu lúc cao hứng th́ niệm, lúc chẳng cao hứng không niệm th́ vẫn là chẳng đúng; tất yếu là phải thường niệm. Lúc niệm, miệng niệm, tai nghe, tâm tưởng, th́ mới có thể cảm ứng oai đức thần lực của Bồ Tát vậy.

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

PHỔ MÔN PHẨM GIẢNG KƯ

(phần 2 hết)

 



[1] Một đấu là mười thưng, nay một đấu chỉ có ba thưng, tức là c̣n bảy (thất) thưng chưa kể. Chỉ có ba thưng gạo, tức bảy thưng kia phải là cám (tiếng Hán là Khang , đồng âm với họ Khang ). Ghép hai chữ này thành Khang Thất hoặc Thất Khang.

[2] Đài Phong: một loại băo dữ dội ở vùng cận nhiệt đới Thái B́nh Dương, ta thường gọi là băo nhiệt đới. Có lẽ chữ “typhoon” chỉ cơn băo nhiệt đới trong vùng Thái B́nh Dương là do người Anh mượn âm từ chữ này.

[3] Bản tử: Một loại thước to bản, dẹp, dùng để đánh tội nhân.

[4] Phẫn năo: Ư niệm phẫn nộ, năo loạn tâm địa của chính ḿnh.