Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích
Cảm Ứng Tụng
Quyển 4
觀世音菩薩本跡感應頌,
卷四
彭澤菩薩戒弟子許止淨述
Phần 1
Bành Trạch
Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh
soạn
Ấn
Quang Đại Sư giám định
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ
Tŕnh bày ư nghĩa của việc trích lục đại
lược kinh văn làm chứng
Trong một vi trần trọn đủ
các kinh trong tam thiên đại thiên thế giới. Trong một
quyển kinh chép các sự việc trong tam thiên đại
thiên thế giới. Một vi trần là như thế, mà
vi trần nào cũng giống như thế. Huống chi trong
vô lượng kiếp trước, đức Quán Âm Đại
Sĩ ta thành Chánh Giác đă lâu, an trụ Tịch Quang,
thường hưởng pháp lạc! Chỉ v́ thệ nguyện
rộng sâu, tâm độ sanh tha thiết, nên lại chẳng
ĺa Tịch Quang, hiện h́nh trong chín giới, trọn khắp
pháp giới, hiện khắp các sắc thân. Sự - Lư Bổn
Tích ấy nếu chẳng phải là Phật sẽ không thể
nào biết được, một kẻ phàm phu nhỏ nhoi
làm sao có thể gom góp, biên soạn ḥng tán tụng được
ư? Nhưng kẻ uống nước biển cả chỉ
cầu no bụng, người đến tiệm bán thuốc
chỉ mong lành bệnh, há cứ phải một miệng hút
cạn [nước biển], uống sạch hết các loại
thuốc th́ mới được hay sao? V́ thế, tôi trích
lục đại lược những chuyện nhằm tỏ
rơ bổn tích của Đại Sĩ từ các kinh Đại
Thừa ghép vào sau phần tụng văn để chứng
tỏ rơ ràng, ngơ hầu người đọc đều
biết ơn Đại Sĩ sâu xa nhất mà cùng sanh ḷng cảm
kích tu tŕ; nhưng Đại Sĩ ứng hiện trọn
khắp căn cơ, chẳng sót một vật nào th́ cố
nhiên trọn đủ các pháp, nhiếp khắp chín giới;
bọn ta tu tập hăy nên theo pháp môn nào? Cần biết rằng:
Thấy đạo quư ở chỗ vạn pháp viên dung, tu
đạo cốt yếu cậy nơi một môn thâm nhập!
Huống chi tôi là kẻ độn căn nghe pháp trễ
tràng, chí khăng khăng Tịnh Độ, chẳng màng đến
chuyện ǵ khác, chỉ niệm đâu nghĩ tại
đó, ngày ngày huân tập, tiêm nhiễm, nào ngờ mỗi
phen đọc một kinh, thấy một pháp, chạm vào mắt
đều là cảnh Tịnh Độ, lọt vào tai đều
là âm thanh nơi Tịnh Độ, những điều chứa
trong ḷng đều là nghĩa Tịnh Độ. V́ thế,
đối với việc biên tập phần kinh chứng
(dẫn kinh văn làm chứng cho tụng văn), vẫn
dùng pháp môn Tịnh Độ để tiến nhập.
Pháp môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba
căn, chẳng sót một vật[1] nào.
Cương tông để tu Tịnh Độ chỉ tại
“đại Bồ Đề tâm bất thoái”. Trong hội
Hoa Nghiêm, Đại Sĩ dạy bảo Thiện Tài, cố
nhiên ư càng chân thật, thiết tha. [Đạt đến] Bồ
Đề bất thoái lại do “xa ĺa ác tri thức, thân cận
thượng thiện nhân”. Hai kinh Bi Hoa và Thọ Kư nói chẳng
cùng tận. Bí quyết tu Tịnh Độ là “sanh ḷng tin, phát nguyện, chấp
tŕ danh hiệu”. Nếu có thể tịnh niệm liên tục
th́ sẽ tự nhiên cảm ứng đạo giao, cậy
vào Phật lực, văng sanh Tây Phương, chứng Vô Sanh
Nhẫn, đạt lên địa vị Bất Thoái, đấy
là sự lư quyết định chẳng thay đổi. V́
thế biết: Một pháp Tŕ Danh đơn giản nhất,
dễ dàng nhất, nhanh chóng nhất, viên măn nhất. Do vậy,
phẩm Phổ Môn mới nói [những ai] xưng danh đức
Quán Âm đều được giải thoát. V́ thế, hai
kinh Thủ Lăng Nghiêm và Thỉnh Quán Âm mới nói “cầu đại Niết Bàn,
đắc đại Niết Bàn”.
Cái nhân để sanh Tịnh Độ là tín nguyện;
tín nguyện được phát khởi do tâm vui thích. V́ thế,
Quán Kinh giảng rộng y báo và chánh báo, kinh Thọ Kư tŕnh
bày tột bậc sự trang nghiêm. [Văng sanh] Tịnh Độ
bị chướng ngại bởi Ái Căn, mà nguồn cội
của Ái Căn là Ngă Chấp. V́ thế, Tâm Kinh dùng Bát Nhă
để quán chiếu cái Không, kinh Thỉnh Quán Âm dùng Thiền
Quán để phá chấp. Lại c̣n cậy vào sức mật
chú gia tŕ để đích thân tiếp nhận ân tiếp dẫn
của Phật Di Đà th́ Đẳng Giác, Sơ Tâm, Thập
Ác, Ngũ Nghịch, cùng theo về một đường,
đều lên chín phẩm.
Pháp môn Tịnh Độ rộng lớn tinh vi,
không pháp nào chẳng trọn, không căn cơ nào chẳng
nhiếp, há chẳng phải là cầm [bảo châu] Ma Ni
để mưa ra các thứ báu, dùng phàm tâm để thành Quả
Giác đó ư? Kính dâng sở đắc ngu muội nhằm
làm tṛng mắt [cho độc giả] đọc kinh. Tên của
những bộ kinh đă dùng để sao lục được
kể ra như sau:
1. Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh (gọi tắt là kinh Hoa Nghiêm),
chương thứ hai mươi bảy, tức phần
Thiện Tài tham học với Quán Tự Tại Bồ Tát
trong phẩm Nhập Pháp Giới (trong quyển sáu
mươi tám).
2. Đại Phật Đảnh
Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ
Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (gọi tắt
là kinh Lăng Nghiêm), chương Quán Thế Âm Bồ Tát Viên
Thông (trong quyển thứ sáu).
3. Lăng Nghiêm Kinh Đại Thế
Chí Bồ Tát Viên Thông Chương (ở cuối quyển
thứ năm. Chép thêm chương này nhằm giảng rơ Tịnh
Độ).
4. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (gọi
tắt là kinh Pháp Hoa), phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ
Môn (trong quyển thứ bảy).
5. Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh
(gọi tắt là Tâm Kinh, ghi thêm chú thích sơ lược và
[trích lục tác phẩm Tâm Kinh] Thích Yếu của tổ Ngẫu
Ích).
6. Quán Thế Âm Bồ Tát Đắc
Đại Thế Bồ Tát Thọ Kư Kinh (gọi tắt
là kinh Thọ Kư. Tần Già Tạng Kinh[2] lại
dựa theo bản cổ của Cao Ly Tạng Kinh mà gọi
kinh này là Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Kư Kinh).
7. Bi Hoa Kinh: Hai phẩm Đại
Thí và Thọ Kư (tức quyển thứ hai và quyển thứ
ba).
8. Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát
Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Kinh (gọi
tắt là Tiêu Phục Độc Hại Chú Kinh).
9. Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh (gọi tắt là Quán Kinh).
10. Thiên Thủ Thiên Nhăn Vô Ngại
Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (gọi tắt là Đại
Bi Chú Kinh).
11. Thập Nhất Diện Thần Chú
Tâm Kinh (gọi tắt là Thập Nhất Diện Chú
Kinh).
12. Bất Không Quyến Sách Chú Tâm
Kinh (gọi tắt là Bất Không Quyến Sách Kinh).
13. Mười sáu loại kinh trong Mật
bộ (tŕnh bày đại lược).
Các kinh Đại Thừa dù Hiển
hay Mật, ghi chép những sự thực nơi Bổn và Tích
của đức Quán Âm và những pháp yếu do Ngài đă
nói nhiều đến nỗi khó thể sao chép trọn hết.
Tôi sao lục vài kinh để tŕnh bày đại khái,
người đọc hăy nên xét rơ.
1. Phẩm Nhập Pháp Giới của kinh
Hoa Nghiêm, chương thứ hai mươi bảy: Thiện
Tài tham học Quán Tự Tại Bồ Tát
Cư sĩ Bệ Sắt Chi La (Hán dịch là Triền Khỏa) bảo
Thiện Tài[3] rằng:
- Thiện nam tử! Phía
Liền nói bài tụng:
Trên
biển có núi, lắm thánh hiền,
Các báu tạo
thành cực thanh tịnh.
Hoa quả
rừng cây đều trọn khắp,
Suối chảy,
ao chuôm đều đầy đủ,
Dũng mănh
trượng phu Quán Tự Tại,
V́ lợi
chúng sanh trụ núi ấy,
Ngươi
nên đến hỏi các công đức,
Ngài sẽ
dạy ngươi đại phương tiện.
Khi ấy, Thiện Tài đồng
tử theo thứ tự du hành từ từ, đến núi ấy,
t́m kiếm vị Bồ Tát ấy khắp nơi. Thấy
trong hang núi nơi phía Tây, suối chảy ṿng quanh, tỏa
sáng, cây cối rậm rạp, cỏ thơm mềm mịn
xoay theo chiều bên phải phủ kín đất. Quán Tự
Tại Bồ Tát ngồi xếp bằng trên đá báu kim cang. Vô lượng
Bồ Tát đều ngồi trên đá báu, cung kính vây quanh,
Ngài v́ họ tuyên nói pháp đại từ bi, dạy họ
nhiếp thọ[4] hết thảy
chúng sanh.
Thiện
Tài thấy rồi, hoan hỷ, hớn hở, chắp tay
nh́n kỹ, mắt chẳng tạm nháy, nghĩ như thế
này:
- Thiện tri thức chính là Như Lai, thiện
tri thức là mây hết thảy pháp, thiện tri thức là kho
chứa các công đức, thiện tri thức khó thể gặp
gỡ, thiện tri thức là nhân báu của Thập Lực,
thiện tri thức là đuốc trí vô tận, thiện tri
thức là rễ mầm phước đức, thiện
tri thức là hết thảy trí môn, thiện tri thức là bậc
dẫn đường trong biển trí, thiện tri thức
là vật trợ đạo cho Nhất Thiết Trí.
Rồi liền đến chỗ Đại Bồ
Tát. Khi ấy, Quán Tự Tại Bồ Tát dơi nh́n Thiện
Tài, bảo rằng:
- Ngươi đến đây hay lắm!
Ngươi đă phát ư Đại Thừa, nhiếp khắp
chúng sanh, khởi tâm chánh trực, chuyên cầu Phật pháp,
đại bi sâu nặng, cứu giúp, che chở hết thảy,
diệu hạnh Phổ Hiền liên tiếp hiện tiền,
đại nguyện thâm tâm viên măn thanh tịnh, siêng cầu
Phật pháp, [pháp nào cũng] đều có thể lănh thọ,
tích tập thiện căn thường chẳng chán đủ,
vâng thuận thiện tri thức chẳng trái nghịch lời
dạy. Ngươi sanh từ biển cả công đức
trí huệ của Văn Thù Sư Lợi, tâm thành thục,
đắc thế lực của Phật, đă đạt
được quang minh tam-muội rộng lớn, dốc
ḷng mong cầu diệu pháp rất sâu, thường thấy
chư Phật, sanh đại hoan hỷ, trí huệ thanh tịnh
giống như hư không; đă tự hiểu rơ, lại v́
người khác nói, an trụ trong quang minh trí huệ của
Như Lai.
Khi ấy, Thiện Tài đồng tử đảnh
lễ dưới chân Quán Tự Tại Bồ Tát, nhiễu
vô số ṿng rồi đứng chắp tay, bạch rằng:
- Thưa thánh giả, con trước đây đă
phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng
chưa biết Bồ Tát học Bồ Tát hạnh như thế
nào, tu Bồ Tát đạo như thế nào? Con nghe nói thánh
giả có thể khéo dạy bảo, xin hăy giảng cho con.
Bồ Tát bảo rằng:
- Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi
đă có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác.
Thiện nam tử! Ta đă thành tựu môn giải
thoát Bồ Tát Đại Bi Hạnh.
Thiện nam tử! Ta dùng hạnh môn Bồ Tát
Đại Bi này để b́nh đẳng giáo hóa hết thảy
chúng sanh liên tục không ngừng.
Thiện nam tử! Ta trụ trong hạnh môn Đại
Bi này, thường ở chỗ hết thảy Như Lai
hiện khắp trước hết thảy chúng sanh, hoặc
dùng Bố Thí để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc
dùng Ái Ngữ, hoặc dùng Lợi Hành, hoặc dùng Đồng
Sự để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc hiện
sắc thân để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc hiện
các thứ lưới quang minh thanh tịnh chẳng thể
nghĩ bàn màu sắc để nhiếp thủ chúng sanh, hoặc
dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi, hoặc v́ họ thuyết
pháp, hoặc hiện thần biến, khiến cho tâm họ
ngộ, được thành thục, hoặc hiện thân
h́nh giống như họ, cùng ở chung với họ
để thành thục họ.
Thiện nam tử! Ta tu hành hạnh môn Đại
Bi này, nguyện thường cứu vớt, che chở hết
thảy chúng sanh, nguyện hết thảy chúng sanh ĺa nỗi
sợ nơi đường hiểm, ĺa nỗi sợ nhiệt
năo, ĺa nỗi sợ mê hoặc, ĺa nỗi sợ trói buộc,
ĺa nỗi sợ sát hại, ĺa nỗi sợ bần cùng, ĺa
nỗi sợ chẳng sống sót, ĺa nỗi sợ tiếng
xấu, ĺa nỗi sợ chết, ĺa nỗi sợ đại
chúng, ĺa nỗi sợ nẻo ác, ĺa nỗi sợ tối tăm,
ĺa nỗi sợ dời chuyển, ĺa nỗi sợ yêu thương
mà phải chia ly, ĺa nỗi sợ oán ghét phải gặp gỡ,
ĺa nỗi sợ bức bách thân, ĺa nỗi sợ bức
bách tâm, ĺa nỗi sợ lo buồn. Lại nguyện như
thế này: Nguyện các chúng sanh nếu nghĩ đến
ta, hoặc xưng danh ta, hoặc thấy thân ta, đều
được tránh khỏi hết thảy sợ hăi.
Thiện nam tử! Ta dùng phương tiện này
để làm cho các chúng sanh ĺa sợ hăi rồi lại dạy
họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
vĩnh viễn chẳng thoái chuyển (Thiện
Tài nghe xong, liền chứng Tùy Thuận Nhất Thiết
Chúng Sanh Hồi Hướng).
Nhận
định: Giáo hóa hết thảy chúng sanh, nhưng
trước hết dạy “phải b́nh đẳng” là v́ lẽ
ǵ? Lời sớ giải viết: “B́nh đẳng là Đồng Thể đại bi”.
Đại Sĩ đă coi chúng sanh b́nh đẳng với
chính ḿnh, đồng thể với chính ḿnh th́ Ngài mong mỏi
bọn chúng sanh ta ắt phải từ bi oai lực, công
đức trang nghiêm, mỗi mỗi đều bằng với
Ngài mới thôi, chứ không phải chỉ ĺa nỗi sợ
hăi là đủ. V́ thế, nói: “Ta
dùng phương tiện này để làm cho các chúng sanh ĺa sợ
hăi rồi lại dạy họ phát Bồ Đề tâm”,
ĺa sợ hăi chỉ là phương tiện nhằm phát tâm!
Ngài thị hiện các thứ nhằm nhiếp thủ
chúng sanh, khiến cho tâm họ lănh ngộ, được
thành thục, tức là thành thục Bồ Đề; nhưng
do chúng sanh nhất định chẳng thể thành thục
ngay trong một đời, cho nên phải mong họ vĩnh
viễn chẳng thoái chuyển. Đọc đến
đây, có thể thấy Đại Sĩ triệt để
v́ con người, ḷng Từ sâu xa, ân tột bực. Chúng ta
trên thấu hiểu ḷng Đại Sĩ, ắt phải
vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, suy sâu, xét kỹ,
khéo tự suy xét. Dẫu cho tự xét ḿnh đời này chẳng
thoái chuyển, nhưng đời sau mờ mịt, biết
làm sao đây? Nếu không niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, c̣n có đường nào khác để cầu
may nữa đây? Do vậy, có thể hiểu [v́ sao] Đại
Sĩ vừa mới phát tâm Bồ Đề bèn mang ḷng giữ
lấy Tịnh Độ sâu xa, người học không
thay đổi đường lối của bậc từ
phụ th́ sẽ an ủi tấm ḷng Đồng Thể của
Ngài vậy.
2. Đại Phật Đảnh Thủ
Lăng Nghiêm Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Viên Thông
Chương
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ
Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng:
- Bạch đức Thế Tôn,
con nghĩ nhớ trong vô số hằng hà sa kiếp xưa,
lúc ấy có đức Phật xuất hiện trong thế
gian, tên là Quán Thế Âm. Con phát Bồ Đề tâm nơi
đức Phật ấy. Đức Phật ấy dạy
con từ Văn - Tư - Tu nhập Tam Ma Địa. Thoạt
đầu từ nơi cái Nghe, nhập lưu[5], quên
đi cái được nghe. Khi cái được nhập (Sở
Nhập) đă vắng lặng rồi th́ hai tướng
động và tịnh hết sạch, chẳng c̣n sanh nữa.
Dần dần tiến lên như thế, cái Nghe và cái
được Nghe[6] đều
hết sạch, chẳng trụ nơi hết sạch cái
Nghe, sự nhận biết (Giác) và đối tượng
nhận biết (Sở Giác) đều không, sự không giác
ấy cực viên, không và sở không[7] đều
diệt. Sanh và diệt đă bị diệt th́ tịch diệt
hiện tiền, đột nhiên vượt thoát thế
gian và xuất thế gian, mười phương viên minh,
đạt được hai thứ thù thắng:
Một là trên hợp với tâm diệu giác sẵn
có của mười phương chư Phật, có cùng một
từ lực với Phật Như Lai.
Hai là dưới hợp với mười
phương hết thảy lục đạo chúng sanh, có
cùng một ḷng bi ngưỡng với các chúng sanh.
Bạch đức Thế Tôn! Do con cúng dường
Quán Âm Như Lai nên được đức Như Lai ấy
truyền cho con Như Huyễn Văn Huân Văn Tu Kim Cang
Tam Muội, do có cùng một từ lực với Phật
Như Lai nên khiến cho thân con thành tựu ba mươi hai
ứng thân vào các cơi nước.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu các Bồ
Tát nhập tam-ma-địa, tấn tu vô lậu, thắng giải
hiện tiền viên măn, con sẽ hiện thân Phật v́ họ
thuyết pháp, khiến cho họ giải thoát. Nếu các vị
hữu học, diệu minh tịch tĩnh, thắng diệu
viên măn hiện tiền[8], con sẽ
ở trước họ hiện thân Độc Giác, v́ họ
thuyết pháp, khiến cho họ giải thoát. Nếu các vị
hữu học, đoạn mười hai duyên, duyên đoạn
thắng tánh, thắng diệu hiện tiền viên măn[9], con sẽ
ở trước họ hiện thân Duyên Giác v́ họ thuyết
pháp, khiến cho họ giải thoát. Nếu các vị hữu
học đắc Tứ Đế Không, tu đạo nhập diệt, thắng tánh hiện
tiền viên măn[10], con sẽ
ở trước họ hiện thân Thanh Văn, v́ họ
thuyết pháp, khiến cho họ giải thoát.
Nếu các chúng sanh ngộ giải rơ ràng dục tâm,
chẳng phạm dục trần, cái thân tham dục ấy đă
được thanh tịnh, con sẽ ở trước họ,
hiện thân Phạm Vương v́ họ thuyết pháp, khiến
cho họ giải thoát. Nếu các chúng sanh, muốn làm chúa tể
cơi trời, thống lănh chư thiên, con sẽ ở trước
họ, hiện thân Đế Thích, v́ họ thuyết pháp,
khiến cho họ thành tựu. Nếu các chúng sanh muốn
thân tự tại, du hành mười phương, con sẽ
ở trước họ hiện thân Tự Tại Thiên[11], v́ họ
thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu chúng
sanh muốn thân tự tại, bay đi trên hư không, con sẽ
ở trước họ hiện thân Đại Tự Tại
Thiên[12], v́ họ
thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các
chúng sanh thích thống lănh quỷ thần, cứu giúp, bảo
vệ cơi nước, con sẽ ở trước họ,
hiện thân Thiên Đại Tướng Quân[13], v́ họ
thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các
chúng sanh thích thống lănh thế giới, bảo vệ
chúng sanh, con sẽ ở trước họ, hiện thân Tứ
Thiên Vương, v́ họ thuyết pháp, khiến cho họ
thành tựu. Nếu các chúng sanh thích sanh vào cung trời, xua đuổi,
sai khiến quỷ thần, con sẽ ở trước họ,
hiện thân Tứ Thiên Vương Quốc Thái Tử[14], v́ họ
thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu.
Nếu các chúng sanh thích làm vua trong loài người,
con sẽ ở trước họ, hiện thân vua trong loài
người, v́ họ thuyết pháp, khiến cho họ thành
tựu. Nếu các chúng sanh thích làm người cầm đầu
những ḍng họ lớn, được thế gian tôn
sùng, đề cao, con sẽ ở trước họ, hiện
thân trưởng giả[15], v́ họ
thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các
chúng sanh thích nói danh ngôn, tự sống thanh tịnh[16], con sẽ
ở trước họ, hiện thân cư sĩ, v́ họ
thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các
chúng sanh thích cai trị cơi nước, phân tích, quyết
đoán mọi chuyện trong bờ cơi, xóm làng, con sẽ ở
trước họ, hiện thân tể quan, v́ họ thuyết
pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu các chúng sanh thích
các môn số thuật, vâng giữ các môn Nhiếp Vệ[17], con sẽ
ở trước họ, hiện thân Bà-la-môn, v́ họ thuyết
pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có nam tử,
thích học xuất gia, tŕ các giới luật, con sẽ ở
trước họ, hiện thân tỳ-kheo, v́ họ thuyết
pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có người nữ
thích học xuất gia, tŕ các cấm giới, con sẽ ở
trước họ, hiện thân tỳ-kheo-ni, v́ họ thuyết
pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có người
nam ưa tŕ Ngũ Giới, con sẽ ở trước họ
hiện thân Ưu-bà-tắc, v́ họ thuyết pháp, khiến
cho họ thành tựu. Nếu có người nữ, sống
theo Ngũ Giới, con sẽ ở trước họ, hiện
thân Ưu-bà-di, v́ họ thuyết pháp, khiến cho họ
thành tựu. Nếu có nữ nhân, dùng nội chánh[18] lập
thân để sửa sang nước nhà, con sẽ ở
trước họ, hiện thân nữ chủ và quốc phu
nhân, mạng phụ, đại gia[19], v́ họ
thuyết pháp khiến cho họ thành tựu. Nếu có chúng
sanh chẳng hư hoại nam căn, con sẽ ở trước
họ hiện thân đồng nam (trẻ trai) v́ họ thuyết
pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có gái trinh, thích tự
giữ ḿnh, chẳng mong bị xâm phạm, bạo hành, con sẽ
ở trước họ, hiện thân đồng nữ, v́
họ thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu.
Nếu có chư thiên thích thoát khỏi kiếp trời,
con sẽ hiện thân trời, v́ họ thuyết pháp, khiến
cho họ thành tựu. Nếu có các loài rồng[20] thích
thoát thân rồng, con sẽ hiện thân rồng, v́ họ
thuyết pháp, khiến cho họ thành tựu. Nếu có Dược
Xoa[21] thích
vượt khỏi loài ḿnh, con sẽ ở trước họ,
hiện thân Dược Xoa, v́ họ thuyết pháp, khiến
cho họ thành tựu. Nếu Càn Thát Bà[22]
thích thoát thân ấy, con sẽ ở trước họ,
hiện thân Càn Thát Bà v́ họ thuyết pháp, khiến cho họ
thành tựu. Nếu A Tu La[23]
thích thoát thân ấy, con sẽ ở trước họ,
hiện thân A Tu La v́ họ thuyết pháp, khiến cho họ
thành tựu. Nếu Khẩn Na La[24]
muốn thoát loài ấy, con sẽ ở trước
họ, hiện thân Khẩn Na La, v́ họ thuyết pháp, khiến
họ thành tựu. Nếu Ma Hô La Già[25] thích
thoát thân ấy, con sẽ ở trước họ, hiện
thân Ma Hô La Già v́ họ thuyết pháp, khiến họ thành tựu.
Nếu các chúng sanh thích làm người, muốn tu thành
người, th́ con sẽ hiện thân người, v́ họ
thuyết pháp, khiến họ thành tựu. Nếu các phi
nhân, hữu h́nh hay vô h́nh, hữu tưởng, vô tưởng,
thích thoát khỏi loài ấy, con sẽ ở trước họ
đều hiện những thân ấy, v́ họ thuyết
pháp, khiến họ thành tựu. Đấy gọi là ba
mươi hai ứng thân mầu nhiệm, trong sạch. Những
thân để vào trong các cơi nước đều là do diệu
lực tam-muội Văn Huân Văn Tu vô tác tự tại thành
tựu[26].
Bạch Thế Tôn! Con lại do vô tác diệu lực
của môn Văn Huân Văn Tu Kim Cang Tam Muội này mà
được hết thảy chúng sanh trong mười
phương tam thế lục đạo có cùng một ḷng
bi ngưỡng, khiến cho các chúng sanh đối với thân
tâm của con liền đạt được mười
bốn thứ công đức vô úy:
Một là do con chẳng tự quán sát âm thanh, mà
quán cái trí năng quán[27]
nên khiến cho những chúng sanh khổ năo trong
mười phương quán âm thanh ấy liền được
giải thoát.
Hai là xoay chuyển sự nhận biết hư vọng
nơi sáu căn, khôi phục chân tánh[28], khiến
các chúng sanh gieo ḿnh vào trong lửa, lửa chẳng thể
đốt được.
Ba
là quán ngược lại tánh nghe, khôi phục cái Nghe chân thật[29], khiến cho các
chúng sanh dù bị nước lớn cuốn trôi, nước
chẳng thể làm chết đuối được!
Bốn
là đoạn diệt vọng tưởng, tâm không sát hại,
khiến cho các chúng sanh vào trong những nước quỷ,
quỷ chẳng thể hại được[30].
Năm
là huân tu Nhĩ Căn, thành tựu tánh Nghe, sáu căn tiêu tan
vọng, khôi phục sự chân thật giống như [sự
tiêu tan vọng, khôi phục chân thật] nơi sự nghe tiếng[31], có thể khiến
cho chúng sanh sắp sửa bị hại, đao găy từng
đoạn, khiến cho binh khí như cắt vào nước,
cũng như thổi ánh sáng, tánh của nó không dao động.
Sáu
là dùng sự Phản Văn để huân tập sự sáng
suốt sẵn có, sự sáng suốt trong trẻo, sẵn
có ấy chiếu sáng trọn khắp pháp giới[32], th́ tánh của
những sự u ám chẳng thể tồn tại
được, có thể khiến cho chúng sanh, Dược
Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà quỷ[33] và Tỳ
Xá Giá[34], Phú Đan
Na[35]
v.v... tuy ở gần sát bên cạnh nhưng mắt
chúng chẳng thể thấy được.
Bảy là tánh động tịnh của âm thanh
tiêu diệt trọn vẹn, xoay trở lại cái Nghe để
ngược ḍng chứng nhập tánh, ĺa các trần vọng[36], có thể
khiến cho chẳng bị vướng mắc bởi giam
cầm, trói buộc, gông cùm.
Tám là âm thanh tiêu diệt, sự Nghe viên măn, sanh ra từ
lực trọn khắp[37], có thể
khiến cho chúng sanh đi qua đường hiểm, giặc
chẳng thể cướp được.
Chín là huân tu tánh Nghe, rời khỏi các Trần, Sắc
chẳng thể cướp đoạt [bản tâm thanh tịnh][38], có thể
khiến cho hết thảy những chúng sanh nhiều dâm dục
sẽ xa ĺa tham dục.
Mười là tánh Nghe thuần nhất, không c̣n các
Trần, Căn và Cảnh (Trần) viên dung, không c̣n sự
nhận biết và đối tượng được
nhận biết[39], có thể
khiến cho hết thảy những chúng sanh phẫn hận
ĺa các sự nóng giận.
Mười một là tiêu trừ vọng trần,
khôi phục sự sáng suốt sẵn có, pháp giới thân tâm
giống như lưu ly, sáng ngời thấu suốt vô ngại[40], có thể
khiến cho hết thảy các A-điên-ca[41] vốn
bị tánh tối tăm, chậm lụt ngăn che sẽ được
vĩnh viễn xa ĺa si ám.
Mười hai là dung hợp huyễn h́nh trở về
với tánh Nghe chân thật, đạo tràng bất động,
dấn ḿnh vào thế gian, chẳng hoại thế giới[42], có thể
trọn khắp mười phương cúng dường chư
Phật Như Lai nhiều như vi trần, đối với
mỗi vị Phật đều làm pháp vương tử,
có thể khiến cho chúng sanh không con trong pháp giới, kẻ
nào muốn cầu con trai th́ sanh con trai phước đức,
trí huệ.
Mười ba là sáu căn viên thông, bản tánh vốn
sẵn sáng suốt (Minh) và tác dụng chiếu soi của tánh
sáng ấy (Chiếu) không hai, chứa đựng mười
phương pháp giới, lập nên Đại Viên Kính Không Như
Lai Tạng, vâng thuận pháp môn bí mật của mười
phương vi trần Như Lai[43], có thể
khiến cho chúng sanh không con trong pháp giới, kẻ nào muốn
cầu con gái sẽ sanh đứa con gái đoan chánh,
phước đức, mềm mỏng, thuận thảo,
được mọi người kính yêu, có tướng tốt.
Mười bốn là trong tam thiên đại thiên
thế giới này, có trăm ức mặt trời, mặt
trăng, có sáu mươi hai ức Hằng hà sa các vị Pháp
Vương Tử hiện đang trụ trong thế gian để
tu hành chánh pháp, nêu gương, giáo hóa chúng sanh, tùy thuận
chúng sanh, mỗi vị có trí huệ và phương tiện khác
biệt. Do con đạt được sự viên thông nơi
bổn căn, phát khởi diệu nhĩ môn, sau đấy
thân tâm vi diệu, chứa đựng, trọn khắp pháp
giới[44], có thể
khiến cho chúng sanh nào tŕ danh hiệu của con và người
tŕ tất cả danh hiệu của sáu mươi hai ức
Hằng hà sa các vị pháp vương tử kia th́ phước
đức của hai người ấy sẽ giống hệt
như nhau chẳng khác.
Bạch Thế Tôn! [Phước đức do tŕ]
danh hiệu của con chẳng khác ǵ [phước đức
do tŕ] danh hiệu của các vị kia số nhiều đến
như thế là do con tu tập, đắc môn viên thông chân
thật vậy. Đấy gọi là mười bốn môn
thí vô úy lực, phước trọn khắp chúng sanh.
Bạch Thế Tôn! Con lại do đạt
được đạo viên thông tu chứng vô thượng
này mà lại có thể khéo đạt được bốn
thứ vô tác diệu đức chẳng thể nghĩ bàn:
Một là do con khi vừa đạt được
chân tâm của tánh nghe, trọn đủ diệu lư và diệu
trí, sự tinh minh nơi tâm không c̣n lệ thuộc vào cái
Nghe nữa, sự thấy nghe hay biết chẳng bị
phân cách, chướng ngại, hợp thành bảo giác viên
dung thanh tịnh. V́ thế, con có thể hiện ra rất nhiều
h́nh dáng kỳ diệu, có thể nói vô biên thần chú bí mật[45]. Trong ấy,
hoặc hiện một đầu, ba đầu, năm
đầu, bảy đầu, chín đầu, mười
một đầu. Như thế cho đến một
trăm lẻ tám đầu, ngàn đầu, vạn đầu,
tám vạn bốn ngàn thước-ca-la[46] đầu,
hai tay, bốn tay, sáu tay, tám tay, mười tay, mười
hai tay, mười bốn, mười sáu, mười tám,
hai mươi, cho đến hai mươi bốn, như
thế cho đến một trăm lẻ tám tay, ngàn tay, vạn
tay, tám vạn bốn ngàn tay mẫu-đà-la[47], hai mắt,
ba mắt, bốn mắt, chín mắt, như thế cho
đến một trăm lẻ tám mắt, ngàn mắt, vạn
mắt, tám vạn bốn ngàn mắt báu thanh tịnh, hoặc
từ, hoặc oai, hoặc Định, hoặc Huệ, cứu
vớt, bảo vệ chúng sanh, đắc đại tự
tại.
Hai là con do Văn Tư thoát khỏi sáu trần,
như âm thanh vượt khỏi tường vách vây quanh,
chẳng thể bị ngăn ngại. V́ thế, con có thể
khéo léo biến hiện mỗi một h́nh tướng, tụng
mỗi một chú, th́ h́nh tướng và chú ấy có thể
ban sự không sợ hăi cho các chúng sanh. V́ thế, vi trần
cơi nước trong mười phương đều gọi
con là bậc Thí Vô Úy.
Ba là con do tu tập Nhĩ Căn thanh tịnh vốn
mầu nhiệm viên thông nên đối với những thế
giới đă đi qua đều có thể khiến cho
chúng sanh bỏ thân mạng, của cải quư báu, xin con xót
thương.
Bốn là con đắc Phật tâm, chứng đến
rốt ráo, có thể dùng các món trân bảo cúng dường
mười phương Như Lai, cũng như thí cho chúng
sanh trong lục đạo của mười pháp giới,
cầu vợ được vợ, cầu con được
con, cầu tam-muội đắc tam-muội, cầu trường
thọ đắc trường thọ. Như thế cho
đến cầu đại Niết Bàn đắc đại
Niết Bàn.
Phật hỏi pháp viên thông, con từ Nhĩ Môn
Viên Chiếu Tam Muội, duyên theo tâm tự tại để
nhập vào tướng lưu chuyển, đắc Tam-ma-đề
(Chánh Định), thành tựu Bồ Đề, ấy là bậc
nhất.
Bạch Thế Tôn, đức Phật Như Lai ấy
khen con khéo đắc pháp môn viên thông, ngay trong đại hội,
thọ kư cho con hiệu là Quán Thế Âm. Do con quán, nghe mười
phương viên minh, nên danh hiệu Quán Âm trọn khắp
mười pháp giới.
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trên ṭa
sư tử, từ năm phần trên thân[48]
cùng phóng ra ánh sáng báu, chiếu rót vào đỉnh đầu
của mười phương vi trần Như Lai và các vị
Bồ Tát pháp vương tử. Các đức Như Lai ấy
cũng từ nơi năm phần trong thân thể cùng phóng
ra ánh sáng báu, từ vi trần phương rót vào đỉnh
Phật và rót vào đỉnh các vị đại Bồ Tát và
A La Hán trong hội [Lăng Nghiêm này]. Rừng cây, ao chuôm
đều vang ra tiếng pháp, ánh sáng đan xen vào nhau, giống
như lưới đan bằng sợi báu. Các đại
chúng ấy đạt được điều chưa từng
có, hết thảy đều đạt được Kim
Cang Tam Muội. Ngay lập tức, trời mưa xuống
các hoa sen bằng trăm chất báu, xanh, vàng, đỏ, trắng,
xen kẽ, phơi phới [rơi xuống]. Mười phương
hư không hóa thành màu như bảy báu. Trong cơi Sa Bà này, đại
địa, núi, sông đều cùng lúc chẳng hiện, chỉ
thấy mười phương vi trần cơi nước hợp
thành một cơi, tiếng phạm bái[49], ca vịnh
tự nhiên trỗi lên. Khi ấy, đức Như Lai bảo
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử:
- Nay ông xem hai mươi lăm vị đại
Bồ Tát và A La Hán vô học[50] này, mỗi
vị nói ra phương tiện thành đạo lúc đầu
của ḿnh, đều nói cách tu tập viên thông chân thật.
Bọn họ tu hành quả thật không có sai biệt
hơn, kém, trước, sau. Nay ta muốn làm cho A Nan khai ngộ
th́ trong hai mươi lăm hạnh ấy, hạnh của
vị nào thích đáng với căn cơ của ông ta,
cũng như sau khi ta diệt độ, chúng sanh trong cơi
này nhập Bồ Tát thừa, cầu vô thượng đạo
th́ sẽ do phương tiện nào mà dễ được
thành tựu nhất?
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử vâng lănh
ư chỉ từ bi của đức Phật, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
dưới chân Phật, nương vào oai thần của
Phật, nói kệ đáp lời Phật:
Tánh biển giác trong
lặng, viên măn,
Tánh giác tṛn lặng
vốn mầu nhiệm,
Tánh nguyên minh chiếu,
sanh ra Sở,
Sở đă lập,
tánh chiếu liền mất[51].
Do mê vọng mà có
hư không,
Nương hư không,
thế giới thành lập.
Tưởng
ngưng lặng biến hiện cơi nước,
Do tri giác mà
có chúng sanh.
Hư không
được sanh trong đại giác,
Giống
như bọt nước trong biển cả,
Các cơi hữu
lậu như vi trần,
Đều
nương hư không mà sanh thành,
Bọt
đă diệt, hư không vốn không,
Lẽ nào
c̣n h́nh tướng ba cơi?
Trở về
nguồn, tánh nào có hai?
Nhưng
phương tiện lại có nhiều cửa,
Không ǵ chẳng
thấu suốt thánh tánh,
Thuận hay
nghịch đều là phương tiện,
Do hàng sơ
tâm nhập tam-muội,
Mau
chóng, chậm chạp chẳng giống nhau,
Sắc
tưởng ngưng kết thành các trần
Tâm chưa
tỏ, chẳng thể thấu triệt,
Làm sao ngay
nơi chẳng thông suốt,
Lại có
thể đắc tánh viên thông?[52]
Âm thanh xen lẫn
với lời nói,
Ư nghĩa hạn
cuộc trong Danh, Cú,
Nếu một
chẳng chứa đựng hết thảy,
Th́ làm sao
đắc tánh viên thông?[53]
Hương chỉ
lúc ngửi mới rơ biết,
Hễ tách ĺa, liền
vốn chẳng có,
Chẳng thể
thường hằng nhận biết được.
Làm sao đạt được tánh viên thông?[54]
Vị: Chẳng phải
tánh sẵn có[55],
Cần phải nếm
mới biết có vị,
Sự cảm nhận
chẳng thường duy nhất,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Xúc do đụng chạm
mới rơ biết
Không chạm vật,
chẳng hiểu rơ Xúc,
Tánh có hợp, rời[56] không nhất định,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
C̣n Pháp th́ được
gọi là Nội Trần,
Do nương ngoại
trần, phải có Sở,
Năng - Sở chẳng
thể duyên trọn khắp,
Làm
sao đạt được tánh viên thông?[57]
Tánh
Thấy tuy vốn sẵn rỗng rang
Chỉ thấy
đằng trước, chẳng thấy sau,
Bốn phương
bàng vẫn thiếu mất nửa,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?[58]
Mũi thở
ra vào tuy thông suốt,
Giữa thở
và hít, có tạm ngừng,
Luận cặn kẽ,
chúng chẳng dung hợp,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?[59]
Lưỡi
hễ không nếm cũng vô dụng[60],
Do Vị mà
sanh ra sự nhận biết,
Vị mất
th́ Lưỡi cũng như không,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Thân giống
như đối tượng đụng chạm[61],
Đều
chẳng thể nào nhận biết trọn,
Hạn
cuộc, chẳng thể ngầm biết được![62]
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Ư căn xen
tạp các loạn tưởng[63],
Tâm
lặng trong, chúng chẳng hiện nữa,
Nếu
không thể thoát các tưởng niệm,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Nhăn thức
xen tạp với Căn, Trần,
Gạn tới
cùng, vốn chẳng có tướng,
Tự thể
vốn đă không nhất định,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?[64]
Tâm nghe thông
suốt khắp mười phương[65],
Phát sanh nhờ
bởi sức đại nhân,
Nhưng
hàng sơ tâm chẳng thể nhập,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Tưởng
nơi chót mũi vốn quyền biến,
Chỉ nhằm
nhiếp tâm cho an trụ,
Tâm trụ biến
thành cảnh sở trụ[66],
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Thuyết
pháp vận dụng tiếng, văn từ[67],
Cần phải
là đă khai ngộ trước,
Danh, cú chẳng
phải là vô lậu,
Làm
sao đạt được tánh viên thông?
Tŕ, phạm
chỉ nhằm trói buộc thân[68],
Ngoài cái
thân, lấy ǵ trói buộc?
Vốn chẳng
trọn khắp hết thảy được!
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Thần
thông do túc nhân mà có[69],
Đâu dính
dáng tới pháp phân biệt,
Niệm
duyên chẳng hề ĺa sự vật,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Nếu
như quán sát tánh Địa Đại[70],
Cứng chắc,
ngăn ngại, chẳng thông suốt,
Hữu vi
há phải là thánh tánh?
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Nếu
như quán sát tánh Thủy Đại[71],
Tưởng
niệm há phải là chân thật?
Nếu
không giác quán đạt như như,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Nếu
như quán sát tánh Hỏa Đại,
Chán tam giới,
chẳng phải thật ĺa,
Sơ tâm chẳng
thể dùng cách này,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?[72]
Nếu
như quán sát tánh Phong Đại,[73]
Động,
tịnh, không ǵ chẳng đối đăi,
Đối
đăi chẳng là vô thượng giác!
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Nếu
như quán sát tánh Không Đại,
Hư không
tối, lụt, chẳng phải giác,
Không giác nào
phải là Bồ Đề,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?[74]
Nếu
như quán sát tánh Thức Đại[75],
Quán thấy
Thức ấy chẳng thường trụ,
Hễ
để tâm liền thành hư vọng,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?
Tất cả
các hành đều vô thường,
Tánh của
tưởng niệm vốn sanh diệt,
Nhân và quả
cảm lấy khác biệt,
Làm sao đạt
được tánh viên thông?[76]
Con nay bạch
với đức Thế Tôn,
Phật xuất
hiện trong cơi Sa Bà,
Giáo thể
chân thật của cơi này,
Thanh tịnh
vốn ở nơi nghe tiếng,
Nếu muốn
tu chứng Tam Ma Đề,
Quả
thật phải do từ nghe tiếng,
Ĺa khỏi
nỗi khổ, đắc giải thoát,
Hay thay ngài
Quán Thế Âm!
Ở trong
hằng hà sa kiếp số,
Vào cơi
nước nhiều như vi trần,
Đạt
sức tự tại rất to lớn,
Ban cho chúng
sanh sự vô úy,
Quán Thế
Âm, âm thanh nhiệm mầu,
Tiếng
trong sạch và tiếng sóng gầm,
Cứu
đời khiến cho được yên ổn,
Xuất thế
gian, đắc quả thường trụ,
Con nay kính bạch
đức Như Lai,
Như lời
ngài Quán Âm đă nói,
Ví như có
người ở yên lặng,
Khắp
mười phương đều cùng đánh trống,
Cùng lúc nghe
tiếng khắp mười chỗ,
Đấy
chính là viên thông chân thật,
Mắt bị
ngăn che sẽ chẳng thấy,
Miệng và
mũi cũng giống như vậy,
Thân phải
tiếp xúc mới nhận biết,
Tâm niệm
lăng xăng không đầu mối,
Cách vách vẫn
nghe được tiếng vang,
Xa gần
đều có thể nghe rơ,
Năm
căn đều chẳng sánh bằng Tai,
Do vậy,
nó thật sự viên thông,
Do tánh âm
thanh có động, tịnh
Mà nghe thành có
tiếng hay không,
Không tiếng
bèn bảo là chẳng nghe,
Chẳng phải
thật sự không tánh nghe,
Không tiếng,
tánh Nghe vẫn chẳng diệt,
Có tiếng,
tánh Nghe cũng chẳng sanh,
Xa ĺa trọn
vẹn sanh và diệt,
Đấy
quả thật là thường chân thật,
Dẫu cho
đang ở trong mộng tưởng
Chẳng v́
không nghĩ mà chẳng nghe,
Tánh Nghe
vượt thoát sự suy nghĩ,
Thân và tâm chẳng
thể sánh bằng,
Nay ở
trong cơi Sa Bà này,
Các
thứ thanh luận[77] được tuyên nói,
Chúng sanh mê
tánh Nghe sẵn có
Đuổi
theo thanh trần nên lưu chuyển,
Dẫu cho
A Nan giỏi ghi nhớ,
Chẳng
tránh khỏi lạc vào tà tưởng,
Sao lại
chẳng từ chỗ ch́m đắm,
Xoay ngược
ḍng để chẳng c̣n vọng?
A
Tôi nay
nương theo oai lực Phật,
Tuyên nói phép
tam-muội chân thật,
Chắc
như Kim Cang vương, như huyễn
Chẳng
nghĩ bàn, sanh ra chư Phật,
Ông nghe hết
thảy môn bí mật,
Số
lượng nhiều như số vi trần,
Mà chẳng
trừ khử dục lậu trước,
Nghe nhiều
chất chứa thành lầm lỗi,
Ông dùng cái
Nghe tŕ Phật pháp,
Sao chẳng
tự nghe nơi cái Nghe?
Cái Nghe há phải
tự nhiên sanh?
Do âm thanh mà
có danh tự,
Xoay cái Nghe
thoát khỏi thanh trần,
Sự thoát
ấy, ai gọi tên được?
Khi một
căn đă trở về nguồn,
Tất cả
sáu căn đều giải thoát,
Thấy
nghe như quáng ḷa hư huyễn,
Tam giới
hệt hoa đốm trên không,
Xoay tánh Nghe,
trừ khử gốc ḷa,
Trần
tướng tiêu, tánh giác viên tịnh,
Cực
thanh tịnh, trí quang thông suốt,
Tịch chiếu
trọn khắp cả hư không,
Trở lại
quán sát việc thế gian,
Giống
như chuyện ở trong giấc mộng,
Nàng Ma
Đăng Già là chiêm bao,
Ai nắm
giữ được thân ông nữa?
Như nhà
huyễn thuật giỏi trong đời,
Huyễn hoặc
hiện ra các nam nữ,
Tuy thấy
các căn của họ động,
Chủ
yếu chỉ do máy điều khiển,
Tắt máy,
tất cả đều yên lặng,
Các huyễn
trở thành chẳng có tánh,
Sáu căn
cũng giống y như thế,
Vốn cùng
nương một tánh tinh minh,
Chia ra thành
sáu thứ ḥa hợp,
Một thứ
đă rời bỏ, quay về,
Th́ sáu công dụng
đều chẳng thành,
Trong một
niệm, trần cấu tiêu trừ,
Ắt liền
thành viên minh tịnh diệu,
Hễ c̣n
Trần th́ c̣n phải học,
Sáng suốt
tột bực, thành Như Lai,
Hỡi này
đại chúng và A Nan,
Hăy xoay lại
cái Nghe điên đảo,
Để
nghe ngược lại nơi tự tánh,
Hiểu tự
tánh, thành đạo vô thượng,
Viên thông thật
sự là như thế,
Đấy
chính là đường nẻo Niết Bàn,
Duy nhất
của vi trần chư Phật,
Các đức
Như Lai trong quá khứ,
Đều
đă thành tựu nơi môn này,
Các vị Bồ
Tát trong hiện tại,
Mỗi vị
đều nhập tánh viên minh,
Những
người tu học trong vị lai,
Cũng sẽ
nương theo pháp thế này,
Tôi cũng
do pháp này mà chứng,
Chứ chẳng
riêng ngài Quán Thế Âm,
Thật
đúng như lời Thế Tôn nói,
Phật hỏi
con các pháp phương tiện,
Nhằm cứu
giúp trong thời mạt kiếp,
Trong những
người cầu thoát thế gian,
Thành tựu
được cái tâm Niết Bàn,
Ngài Quán Thế
Âm là bậc nhất,
C̣n tất
cả những phương tiện khác,
Đều
nhờ vào oai thần của Phật,
Từ ngay
nơi sự, bỏ trần lao,
Không phải
phép tu học lâu dài,
Căn tánh
nông sâu đều giảng được,
Cúi xin đảnh
lễ Như Lai Tạng,
Vô lậu,
không c̣n sự nghĩ suy,
Nguyện
gia bị cho đời vị lai,
Với pháp
môn này, không lầm lẫn,
Phương
tiện này thành tựu dễ dàng,
Đáng
nên đem dạy cho A Nan,
Và kẻ trầm
luân đời vị lai,
Chỉ dùng
Nhĩ Căn để tu tập,
Viên thông
vượt trỗi các pháp khác,
Bởi tâm
chân thật như thế đấy!
Khi ấy A Nan và các đại
chúng thân tâm tỏ rơ, nhận được sự khai thị
to lớn, quán sát Bồ Đề và đại Niết Bàn
của Phật giống hệt như người có việc
đi xa, chưa quay về được, nhưng hiểu
rơ đường lối để trở về nhà của
ḿnh. Đại chúng trong cả hội, thiên long bát bộ,
hàng Nhị Thừa hữu học, và hết thảy các vị
Bồ Tát mới phát tâm số đến mười hằng
hà sa, đều thấu hiểu bổn tâm, xa ĺa trần cấu,
đắc pháp nhăn trong sạch. Bà Tánh tỳ-kheo-ni[78] nghe nói
kệ xong, thành A La Hán, vô lượng chúng sanh đều
phát Vô Đẳng Đẳng A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
Nhận
định: Nếu có người hỏi: Ông biên tập các bài
kinh về Đại Sĩ để làm chứng, muốn
khiến cho người khác tin tưởng, hướng dẫn
người ta tu học, sao chẳng hoằng dương
Nhĩ Căn Viên Thông, lại chỉ đề cao niệm
Phật, há chẳng phải là trái nghịch pháp môn của
Đại Sĩ, chống đối sự chọn lựa
của ngài Văn Thù ư?
Đáp:
Tôi nào có dám! Nhưng ông c̣n chưa suy xét sâu xa chương
kinh này, chẳng hiểu tướng mạo của kinh nên
nghi ngờ đó thôi! Pháp Nhĩ Căn Viên Thông như ông
nghĩ đó làm sao phù hợp với pháp môn trong đời
này?
[Người
ấy] nói: Xoay cái Nghe lại để nghe nơi tự
tánh, hễ vượt thoát liền chứng nhập ngay, đấy
chính là một nghĩa trọng yếu của nhà Thiền.
Đáp:
Các bậc cổ đức của Thiền môn phần nhiều
sẵn đủ túc căn, chẳng cần phải tốn
công tu tập mà tự sanh trí huệ, giống như ngài Tu
Bồ Đề trong hội kinh này. Từ đấy về
sau, căn cơ dần dần chậm lụt hơn, Tổ
Sư nặng ḷng đau đáu, bèn dùng một câu nói chẳng
có ư nghĩa ǵ để chặn lấp cái tâm [suy lường,
phân biệt] của kẻ học, khiến
cho họ phát khởi nghi t́nh, tham cứu sâu xa, chắc thật,
bỗng nhiên dung hợp, phá rỗng toang [kiến chấp],
khế hợp bổn tâm th́ sẽ lại giống như Tất
Lăng do suy xét nỗi đau[79], thân
tâm bỗng nhiên rỗng không, có bao giờ là từ xoay trở
lại tánh Nghe để thâm nhập ư?
[Người ấy] nói: Những vị giải
thích Lăng Nghiêm phần nhiều dùng Tam Chỉ Tam Quán, pháp
Phản Văn (xoay lại cái Nghe) chẳng ĺa Chỉ Quán. Như
vậy th́ điều được tông Thiên Thai đề
xướng há chẳng phải là đă vượt ra ngoài
pháp Niệm Phật do ngài Văn Thù đă chọn ư?
Đáp: Đúng như lời ông nói, pháp Niệm Phật
được ngài Văn Thù chọn lựa, c̣n pháp môn Chỉ
Quán thuộc chương mở đầu của kinh này
chính là pháp được Phật Thích Ca chọn lựa,
đến phần Viên Thông th́ lại chọn pháp Viên Thông của
ngài Quán Âm. V́ sao vậy? Tam Chỉ Tam Quán của tông Thiên
Thai chỉ lấy ư thức làm chủ, đấy chính là
điều bị đức Như Lai quở trách, bị
Đại Sĩ gạt bỏ.
Hỏi: Vậy th́ pháp Niệm Phật làm sao phù hợp
được?
Đáp: Chỉ nh́n bề ngoài th́ không có ǵ phù hợp
khít khao cả, nhưng nếu suy xét sâu đến tận cốt
tủy th́ vạn pháp viên dung, càng thâm nhập sâu phép Phản
Văn th́:
- Một pháp chẳng lập, chính là Thiền Tông.
- Quán chiếu không gián đoạn, chuyển Thức
thành Trí chính là tông Thiên
- Y Tha[80] chẳng
khởi, đốn nhập Viên Thành[81], chính
là Tướng Tông (Duy Thức Tông).
- Ĺa hết thảy tánh, một đạo thanh tịnh,
chính là Luật Tông.
Pháp môn của Đại Sĩ không ǵ chẳng bao
gồm nên gọi là “đắc
chân viên thông” (đạt được sự viên thông
chân thật), nói “thiển thâm
đồng thuyết pháp” (dù căn cơ cạn hay sâu
đều có thể cùng thuyết pháp được) nên
người chọn lựa (ngài Văn Thù) đành phải
hạ thấp ngài Thế Chí, đặc biệt tán
dương Quán Âm, nhưng xét rốt ráo pháp phù hợp với
Đại Sĩ từ đầu đến cuối th́ phải
đề cao Tŕ Danh. V́ vậy, [ngài Văn Thù] đă đề
cao rơ ràng một môn và ngầm chọn một môn. V́ sao nói vậy?
Pháp Tŕ Danh dạy trước hết thanh phải hợp với
tâm, tâm phải hợp với thanh, thanh và tâm dung hợp lẫn
nhau, chẳng phải là từ sự Nghe mà vào trong ḍng Nghe,
cho đến mức Căn và Trần đều mất
đó ư? Lâu ngày thuần thục sẽ không c̣n có tâm
Năng Niệm, không c̣n đức Phật được
niệm, chẳng phải là Giác và Sở Giác đều
không ư? Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm, chẳng
phải là Không lẫn Sở Không đều diệt ư?
Tam-muội hiện tiền, tâm, Phật, chúng sanh cả ba
không sai biệt, chẳng phải là “tịch diệt hiện tiền, thượng đồng,
hạ hợp” ư? Chỉ có pháp môn này khế hợp sự
tu chứng của Đại Sĩ nhất!
Do vậy, pháp Nhĩ Căn của ngài Quán Âm lẽ
ra phải xếp trước [pháp Tỵ Căn Viên Thông] của
ngài Châu Lợi [Bàn Đặc], nhưng lại xếp riêng
vào cuối cùng, [phép Viên Thông] nơi căn thứ sáu của
ngài Thế Chí lẽ ra phải xếp trước phép Viên Thông
của ngài Di Lặc, mà cũng được xếp ra
sau. Hai vị Đại Sĩ chính là bậc lănh đạo
trong Tịnh Độ, mà cũng là hai vị đứng
đầu trong hội Lăng Nghiêm. Ư chỉ nhỏ nhiệm
nằm ngoài ngôn ngữ ấy, há có nên chẳng xét tới
ư?
Lại càng phải nên thấu hiểu sâu xa: Chuyện
trong thiên hạ, người sáng lập cơ nghiệp,
lưu truyền giềng mối th́ khó, chứ kẻ tập
tước[82], thọ
phong th́ dễ. Pháp thế gian đă như thế th́ pháp xuất
thế gian cũng giống như vậy. Đại Sĩ
phát tâm Bồ Đề đầu tiên ở chỗ Kim Quang
Sư Tử Phật, đến khi chứng đắc môn
Viên Thông này, chẳng biết đă trải qua bao nhiêu thời
kiếp. Huống chi trước khi Bồ Tát phát tâm, đức
Phật nói: “Hằng hà sa số
c̣n biết được số, chứ Đại Sĩ
gieo các thiện căn chẳng thể nói kể được”.
V́ thế, pháp môn Nhĩ Căn tuy nói là “thành thánh trong sát-na”, nhưng Ngài đă trải qua
bao kiếp mà tu thành, quả thật chẳng thể nào nói
nổi, chẳng thể diễn tả được! Hiện
nay, chúng sanh đang nhằm thời Mạt có thể làm
được hay chăng? V́ thế, chương này
trước hết nêu bày pháp Nhĩ Căn Viên Thông, ngơ hầu
người có túc căn biết pháp để chọn lựa,
để rồi từ trong vô tác diệu đức, nói “có thể làm cho chúng sanh cầu
đại Niết Bàn đắc đại Niết Bàn”,
ba căn cùng nhiếp, dẫn khắp tất cả trở
về nguồn. Nếu chúng sanh quả thật có thể cậy
vào tự lực để chứng Niết Bàn th́ cần
ǵ phải cầu từ Đại Sĩ? Nói “cầu” chính là nhằm dạy
người ta hăy tŕ danh, lễ bái! Đại Sĩ từ
Nan Hành Đạo (đạo khó hành) mà sáng lập cơ
nghiệp, lưu truyền giềng mối khiến cho
lũ chúng sanh ta đạt được Dị Hành Đạo
(đạo dễ hành), tập tước, thọ phong,
đấy gọi là “diệu
đức chẳng thể nghĩ bàn, căn cơ sâu hay cạn
đều có thể cùng thuyết pháp”. Kẻ đọc
kinh mà không chú ư điều này th́ ḷng từ bi vô lượng
của Đại Sĩ sẽ bị vùi lấp măi măi.
Lại nữa, nếu quả thật Đại
Sĩ chẳng chọn pháp Niệm Phật th́ cớ sao
trong kinh Vô Lượng Thọ chẳng nhiếp độ
người [tu tập theo cách] Phản Văn về Tịnh
Độ, mà lại nhiếp thọ người niệm
Phật. Cớ sao trong kinh Pháp Hoa chẳng dạy chúng sanh
xoay trở lại nghe nơi tự tánh mà lại dạy lễ
kính, xưng danh? Nếu ngài Văn Thù thật sự chẳng
chọn pháp Niệm Phật th́ cớ sao trong [Văn Thù Sở
Thuyết] Bát Nhă Kinh, Ngài lại dạy người ta hăy
chú tâm nơi một đức Phật, chuyên xưng danh hiệu?
Cớ sao trong kinh Quán Phật, Ngài nguyện khi mạng chung
được thấy A Di Đà Phật? Ấy là v́ kinh
này gồm trọn giáo pháp trong suốt cả một đời
[đức Phật], bao gồm trọn khắp hết thảy
pháp môn, tŕnh bày ư nghĩa tột bực tinh vi, hoằng pháp
rộng khắp tột bậc, kẻ chưa có đủ
đạo nhăn thật khó thể t́m được bờ
bến.
Nhưng đọc phần kinh văn nói về sự
chọn lựa, trừ khử vọng thức th́ thấy
“nhất tâm bất loạn” của Niệm Phật đáng
quư, đọc phần kinh văn phô bày trọn vẹn về
tạng tánh th́ y báo và chánh báo của Cực Lạc chẳng
ở ngoài tâm chúng sanh, đọc phần kinh văn nói về
sự thọ sanh trong bảy đường th́ thấy sự
đọa lạc đáng sợ, đọc phần kinh
văn giảng về Ngũ Ấm Ma th́ thấy Thiền
Na khó tu. Chương này là do pháp môn của Đại Sĩ
rộng lớn, chưa thể tôn xưng riêng ḿnh ngài Thế
Chí, nhưng cả bộ kinh từ đầu đến
cuối quả thật chẳng khác ǵ khuyên người ta
hăy chết ḷng niệm Phật.[83] Bọn
chúng ta suy đi xét lại ư nghĩa tường tận th́ sẽ
chẳng đến nỗi biện luận dông dài!
3. Đại Phật Đảnh Thủ
Lăng Nghiêm Kinh Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật
Viên Thông Chương (Phụ lục)
Đại Thế Chí Pháp
Vương Tử cùng với năm mươi hai vị
Bồ Tát đồng hạnh với Ngài liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
dưới chân đức Phật, bạch Phật
rằng:
- Con
nhớ trong hằng hà sa kiếp xưa kia, có đức
Phật xuất thế tên là Vô Lượng Quang.
Mười hai vị Như Lai liên tiếp [xuất
hiện] trong cùng một kiếp. Vị Phật cuối
cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật ấy
dạy con pháp Niệm Phật tam-muội. Ví như có
người, một người chuyên nhớ, một
người chuyên quên. Hai người như thế dù có
gặp nhau mà như chẳng gặp, hoặc có thấy nhau
cũng như không thấy. Hai người nhớ nhau, hai
cái nhớ ấy càng sâu. Như thế cho đến từ
đời này sang đời khác như h́nh và bóng chẳng
hề trái nghịch, sai khác nhau. Mười phương
Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ
con. Nếu con bỏ trốn, dẫu nhớ ích ǵ? Nếu
con nhớ mẹ như khi mẹ nhớ con th́ mẹ con trải
qua nhiều đời chẳng xa cách nhau. Nếu tâm chúng
sanh nhớ Phật, niệm Phật th́ hiện tiền,
tương lai nhất định thấy Phật, cách
Phật chẳng xa, chẳng cần đến
phương tiện, tâm tự được mở mang.
Như người nhiễm hương, thân thường
có mùi hương. Đấy gọi là Hương Quang Trang
Nghiêm. Lúc con tu nhân vốn là dùng tâm niệm Phật
để nhập Vô Sanh Nhẫn. Nay con ở trong thế
giới này, nhiếp người niệm Phật quay
về Tịnh Độ. Phật hỏi pháp nào Viên Thông, con
chẳng chọn lựa. Nhiếp trọn sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa,
đấy là bậc nhất.
Nhận định: Quán Âm và
Thế Chí cùng là pháp vương tử của A Di Đà
Phật, cùng dùng oai đức thần lực ở trong
mười phương pháp giới nhiếp thọ
người niệm Phật văng sanh Tịnh Độ. Pháp
Viên Thông của ngài Quán Âm nhằm để nói với
hạng lợi căn trong thuở ấy và trong đời
Mạt, c̣n pháp Viên Thông của ngài Thế Chí thích hợp
trọn khắp ba căn thượng - trung - hạ, khiến
cho dù thánh hay phàm đều cùng ngay trong đời hiện
tại thoát khỏi cơi Sa Bà này, sanh về cơi Cực Lạc
kia, cho đến đắc đại Niết Bàn, viên
thành Phật đạo. Ngài Quán Âm do đại từ bi bèn
thuận theo từng loại mà hiện thân, tầm thanh
cứu khổ, không ǵ chẳng ngoài muốn dẹp khổ
cho hết thảy chúng sanh, muốn ban vui cho hết
thảy chúng sanh, nhưng văng sanh Tây Phương quả
thật là dẹp khổ rốt ráo, ban vui rốt ráo. Trong
tâm Bồ Tát, chỉ muốn khiến cho các chúng sanh
đắc đại Niết Bàn, nhưng do chúng sanh sở
nguyện bất nhất; v́ thế, Ngài rủ ḷng thuận
theo cơ nghi khiến cho họ đạt được
lợi ích. Cho nên nói: “Cầu
vợ được vợ, cầu con được con,
cầu tam-muội đắc tam-muội, cầu
trường thọ được trường thọ, như
thế cho đến cầu đại Niết Bàn
đắc đại Niết Bàn”. Đại Niết
Bàn chính là thật sự chứng Trí Đoạn rốt ráo,
viên thành Phật đạo. Nếu sanh về Tây
Phương, trong một đời liền đạt địa
vị Bổ Xứ, chính là có thể phần chứng
quả Đại Niết Bàn. So với những kẻ
trải bao kiếp tu hành trong thế giới này để chứng
đắc th́ cố nhiên sự khó - dễ dẫu có nói
hết năm cũng chẳng thể trọn! V́ thế,
sau phần Viên Thông của ngài Quán Âm, chép thêm chương
Viên Thông của ngài Thế Chí để mong hết thảy
Phật tử cùng tu Niệm Phật tam-muội, cùng sanh
về Tịnh Độ, cùng với Quán Âm và Thế Chí thân
cận Di Đà, độ thoát chúng sanh, ngơ hầu
đắc đại Niết Bàn, viên thành Phật
đạo (Cầu vợ, cầu con, cầu
thọ, mỗi chuyện đều có Sự và Lư. Cầu
vợ về mặt Sự chính là cầu được
vợ hiền đức, có thể giúp chồng dạy con
như ba bà Thái đời Châu. Nếu không, cần ǵ
phải hướng về Bồ Tát cầu vợ? Chúng
sanh mong cầu đủ mọi thứ khác nhau, chỉ nêu
lên bốn điều như vợ, con v.v... rồi dùng
bốn chữ “như thế cho đến” để bao
gồm những điều c̣n lại, lấy “đắc
Niết Bàn” để kết thúc, đủ thấy Bồ
Tát hễ có cảm liền ứng, không nguyện ǵ
chẳng thỏa. Nhưng muốn được Bồ Tát
thỏa điều ta mong cầu, ắt phải
đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành,
chí thành khẩn thiết, niệm danh hiệu Bồ Tát th́
sẽ tự được như nguyện. Thích Ấn
Quang kính đề).
4.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn
Phẩm
Lúc
bấy giờ, Vô Tận Ư Bồ Tát liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, trật áo bày vai phải,
chắp tay hướng về Phật, thưa như
thế này:
-
Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên nào mà
tên là Quán Thế Âm?
Phật
bảo Vô Tận Ư Bồ Tát:
- Này
thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn
vạn ức chúng sanh bị các khổ năo, nghe nói tới
vị Quán Thế Âm Bồ Tát này, nhất tâm xưng danh th́ ngay
lập tức Quán Thế Âm Bồ Tát quán sát âm thanh ấy,
[khiến cho họ] đều được giải
thoát. Nếu có ai tŕ danh hiệu của vị Quán Thế Âm
Bồ Tát này th́ giả sử đi vào lửa lớn,
lửa chẳng thể đốt được, do v́
sức oai thần của vị Bồ Tát này vậy.
Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh
hiệu Ngài, liền đến được chỗ
cạn.
Nếu có trăm ngàn
vạn ức chúng sanh v́ cầu các thứ báu như vàng,
bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân châu
v.v... mà vào biển cả, giả sử hắc phong thổi
thuyền bè của họ giạt vào nước quỷ La
Sát, trong ấy nếu có dù chỉ một người
xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát th́ những người
ấy đều được thoát khỏi nạn La Sát.
Do nhân duyên ấy, Ngài có tên là Quán Thế Âm.
Nếu lại có
người sắp bị hại mà xưng danh Quán Thế
Âm Bồ Tát th́ những đao trượng của kẻ
[toan làm hại] ấy đang cầm liền găy từng
đoạn nên [người sắp bị hại ấy] được
giải thoát. Nếu các cơi nước trong tam thiên
đại thiên đầy dẫy Dạ Xoa, La Sát toan
muốn năo hại con người, nhưng nghe xưng danh
Quán Thế Âm Bồ Tát th́ các ác quỷ ấy c̣n chẳng
thể dùng mắt dữ để nh́n, huống là làm
hại!
Nếu
lại có người, dù có tội hay vô tội, gông, cùm,
xiềng, xích trói buộc thân h́nh mà xưng danh Quán Thế Âm
Bồ Tát [th́ những gông cùm ấy] thảy đều
hư nát, liền được giải thoát.
Nếu các cơi
nước trong tam thiên đại thiên đầy dẫy
oán tặc, có một vị thương chủ[84] dẫn các thương nhân đem theo
đồ quư báu nặng nề đi qua đường
hiểm, trong số ấy có một người xướng
lên lời này: “Các thiện nam tử! Chớ nên sợ hăi,
các ông hăy nên một ḷng xưng danh hiệu Quán Thế Âm
Bồ Tát, vị Bồ Tát ấy có thể ban cho chúng sanh
sự không sợ hăi. Nếu các ông xưng danh Ngài th́ sẽ
được giải thoát khỏi bọn oán tặc này”.
Các thương nhân nghe xong, đều cùng thốt lên: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”.
Do xưng danh nên liền được giải thoát.
Vô
Tận Ư! Sức oai thần của Quán Thế Âm Bồ Tát
Ma Ha Tát ṿi vọi như thế. Nếu có chúng sanh lắm
dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm
Bồ Tát liền được ĺa dục. Nếu lắm
nóng giận, thường niệm cung kính Quán Thế Âm
Bồ Tát liền được ĺa giận. Nếu
nhiều ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm
Bồ Tát liền được ĺa si.
Vô
Tận Ư! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần to
lớn như thế, tạo nhiều lợi ích. V́
thế, chúng sanh thường nên tâm niệm. Nếu có
nữ nhân muốn cầu con
trai, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát,
liền sanh con trai phước đức, trí huệ.
Nếu muốn cầu con gái, liền sanh con gái đoan
chánh, tướng tốt, đă trồng cội đức
từ trước, mọi người yêu kính.
Vô
Tận Ư! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức như thế.
Nếu có chúng sanh cung kính lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát
phước chẳng luống uổng. V́ thế, chúng sanh
đều nên thọ tŕ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ
Tát.
Vô
Tận Ư! Nếu có người thọ tŕ danh hiệu
của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát,
lại c̣n suốt đời cúng dường thức
ăn, y phục, đồ nằm, thuốc thang, ư ông
nghĩ sao, thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy
công đức nhiều chăng?
Vô
Tận Ư thưa:
- Bạch
Thế Tôn, rất nhiều!
Phật
dạy:
- Nếu
lại có người thọ tŕ danh hiệu Quán Thế Âm
Bồ Tát, thậm chí lễ bái, công đức một lúc
th́ phước của hai người ấy giống hệt
như nhau không khác. Trong trăm ngàn vạn ức kiếp
chẳng thể cùng tận.
Vô
Tận Ư! Thọ tŕ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát được
lợi ích vô lượng vô biên phước đức
như thế.
Vô
Tận Ư Bồ Tát bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dạo trong
thế giới Sa Bà này như thế nào, v́ chúng sanh
thuyết pháp như thế nào, sức phương tiện
ấy là như thế nào?
Phật bảo Vô
Tận Ư Bồ Tát:
- Thiện
nam tử! Nếu có chúng sanh trong cơi nước nên dùng
Phật thân để họ đắc độ th́ Quán
Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật để
thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Bích Chi Phật để
họ đắc độ, liền hiện thân Bích Chi
Phật để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Thanh
Văn để họ đắc độ, liền
hiện thân Thanh Văn để thuyết pháp cho họ.
Nên dùng thân Phạm Vương để họ đắc
độ, liền hiện thân Phạm Vương
để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Đế Thích
để họ đắc độ, liền hiện thân
Đế Thích để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân
Tự Tại Thiên để họ đắc độ,
liền hiện thân Tự Tại Thiên để thuyết
pháp cho họ. Nên dùng thân Đại Tự Tại Thiên
để họ đắc độ, liền hiện thân
Đại Tự Tại Thiên để thuyết pháp cho
họ. Nên dùng thân Thiên Đại Tướng Quân
để họ đắc độ, liền hiện thân
Thiên Đại Tướng Quân để thuyết pháp cho
họ. Nên dùng thân Tỳ Sa Môn[85] để họ đắc độ,
liền hiện thân Tỳ Sa Môn để thuyết pháp cho
họ. Nên dùng thân tiểu vương để họ đắc
độ, liền hiện thân tiểu vương
để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân trưởng
giả để họ đắc độ, liền
hiện thân trưởng giả để thuyết pháp cho
họ. Nên dùng thân cư sĩ[86] để họ đắc độ,
liền hiện thân cư sĩ để thuyết pháp cho
họ. Nên dùng thân tể quan để họ đắc
độ, liền hiện thân tể quan để
thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Bà La Môn để họ đắc
độ, liền hiện thân Bà La Môn để thuyết
pháp cho họ. Nên dùng thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di để họ đắc
độ, liền hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di để thuyết pháp cho
họ. Nên dùng thân phụ nữ của hàng trưởng
giả, cư sĩ, tể quan, Bà La Môn để họ
đắc độ bèn hiện thân phụ nữ
để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân đồng
nam, đồng nữ để họ đắc
độ, liền hiện thân đồng nam, đồng
nữ để thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân
trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Ca Lâu
La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v... để
họ đắc
độ, liền đều hiện [những thân ấy]
thuyết pháp cho họ. Nên dùng thân Chấp Kim Cang thần[87] để họ đắc độ,
liền hiện thân Chấp Kim Cang thần để
thuyết pháp cho họ.
Vô
Tận Ư! Vị Quán Thế Âm Bồ Tát này thành tựu công
đức như thế, dùng các thứ thân h́nh dạo trong
các cơi nước, độ thoát chúng sanh. V́ thế các ông
hăy nên một ḷng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vị Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát này có thể ban cho
sự không sợ hăi trong khi [chúng sanh] sợ hăi, gặp
nạn cấp bách. V́ vậy, thế giới Sa Bà này
đều gọi Ngài là Thí Vô Úy Giả (đấng ban cho
sự không sợ hăi).
Vô
Tận Ư Bồ Tát bạch Phật ngôn:
- Bạch
Thế Tôn! Con nay sẽ cúng dường Quán Thế Âm
Bồ Tát.
Liền
cởi chuỗi anh lạc kết bằng các thứ
bảo châu đeo nơi cổ, giá trị trăm ngàn
lạng vàng, để tặng cho [Quán Thế Âm Bồ Tát],
nói như sau:
- Thưa
nhân giả! Hăy nhận lấy chuỗi anh lạc pháp thí quư
báu này.
Khi
ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát không chịu nhận. Vô
Tận Ư lại bạch Quán Thế Âm Bồ Tát rằng:
- Nhân
giả hăy v́ thương chúng tôi mà nhận chuỗi anh
lạc này.
Lúc
bấy giờ, đức Phật bảo Quán Thế Âm
Bồ Tát:
- Ông hăy
nên thương xót Vô Tận Ư Bồ Tát và tứ chúng,
trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Ma
Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v... mà nhận chuỗi anh lạc
ấy.
Ngay
lúc đó, Quán Thế Âm Bồ Tát thương hàng tứ
chúng và trời, rồng, nhân, phi nhân v.v... nhận chuỗi
anh lạc ấy, chia làm hai phần: Một phần dâng lên
Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng lên tháp của
Đa Bảo Phật.
- Vô
Tận Ư! Quán Thế Âm Bồ Tát có thần lực tự
tại như vậy, dạo trong thế giới Sa Bà.
Khi
ấy, Vô Tận Ư Bồ Tát dùng kệ hỏi rằng:
- Thế Tôn diệu tướng
trọn,
Con nay lại hỏi Ngài,
Nhân duyên nào Phật tử,
Tên là Quán Thế Âm?
Đấng diệu tướng trọn
vẹn,
Nói kệ đáp Vô Tận:
- Ông nghe hạnh Quán Âm,
Khéo ứng các nơi chốn,
Thệ rộng sâu như
biển,
Trải kiếp chẳng
nghĩ bàn,
Hầu nhiều ngàn ức
Phật,
Phát nguyện lớn thanh
tịnh,
Ta v́ ông nói lược,
Nghe tên và thấy thân,
Tâm niệm chẳng luống
uổng,
Diệt sạch khổ các cơi,
Giả sử dấy ḷng
hại,
Xô lọt hầm lửa
lớn,
Do sức niệm Quán Âm,
Hầm lửa biến thành ao,
Hoặc trôi giạt biển
lớn,
Rồng, cá, các nạn quỷ,
Do sức niệm Quán Âm,
Sóng ṃi chẳng ch́m
được,
Hoặc tại đỉnh Tu
Di,
Bị người xô ngă xuống,
Do sức niệm Quán Âm,
Như mặt trời treo không,
Hoặc bị kẻ ác
đuổi,
Rớt xuống núi Kim Cang,
Do sức niệm Quán Âm,
Chẳng tổn hại mảy
lông,
Hoặc gặp oán tặc vây,
Cầm đao toan làm hại,
Do sức niệm Quán Âm,
Chúng đều dấy tâm
từ,
Hoặc gặp nạn vua
khổ,
Sắp hành h́nh mất mạng,
Do sức niệm Quán Âm,
Đao liền găy từng khúc,
Hoặc tù rạc gông cùm,
Tay chân bị xiềng xích,
Do sức niệm Quán Âm,
Cởi gỡ, được
giải thoát,
Nguyền rủa, các thuốc
độc,
Toan làm hại đến thân,
Do sức niệm Quán Âm,
Trở ngược kẻ làm
hại,
Hoặc gặp ác La Sát,
Rồng độc, các bọn
quỷ,
Do sức niệm Quán Âm,
Chúng đều chẳng dám
hại,
Nếu ác thú vây quanh,
Nanh vuốt nhọn đáng
sợ,
Do sức niệm Quán Âm,
Ùa chạy mất tăm tích,
Rắn độc cùng ḅ
cạp,
Phun hơi độc mù mịt,
Do sức niệm Quán Âm,
Nghe tiếng tự rút chạy,
Mây sấm nháng chớp xẹt,
Mưa đá, tuôn mưa lớn,
Do sức niệm Quán Âm,
Tiêu tan ngay lập tức,
Chúng sanh bị khổn ách,
Vô lượng khổ bức
thân,
Quán Âm diệu trí lực,
Thường cứu khổ
thế gian,
Trọn đủ sức oai
thần,
Rộng tu trí phương
tiện,
Các cơi nước mười
phương,
Không cơi nào chẳng hiện,
Đủ mọi các nẻo ác,
Địa ngục, quỷ, súc
sanh,
Sanh, lăo, bệnh, tử khổ,
Dần dần khiến tiêu
diệt,
Chân quán, thanh tịnh quán,
Trí huệ quán rộng lớn,
Bi quán và từ quán,
Thường nguyện,
thường chiêm ngưỡng,
Thanh tịnh vô cấu quang,
Huệ nhật phá các tối,
Dẹp tai kiếp gió lửa,
Chiếu sáng khắp thế
gian,
Bi thể răn như sấm
Ư từ diệu dường
mây,
Tuôn mưa pháp cam lộ,
Diệt trừ lửa phiền
năo,
Kiện tụng, ra cửa quan,
Trong quân trận sợ hăi,
Do sức niệm Quán Âm,
Các oán đều lui tan,
Diệu Âm, Quán Thế Âm,
Phạm Âm, Hải Triều Âm,
Tiếng trỗi thế gian kia,
Cho nên phải thường
niệm,
Niệm niệm chớ sanh nghi.
Quán Thế Âm tịnh thánh
Trong khổ năo, chết,
nạn,
Thường làm nơi
nương tựa,
Trọn hết thảy công
đức,
Mắt từ nh́n chúng sanh,
Biển phước chứa vô
lượng,
V́ thế nên đảnh lễ.
Khi
ấy, Tŕ Địa Bồ Tát liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, bạch trước
đức Phật rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nghe nghiệp tự tại, sự
phổ môn thị hiện, và sức thần thông trong
phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát này th́ nên biết là
người ấy công đức chẳng ít.
Khi
đức Phật nói phẩm Phổ Môn này, tám vạn
bốn ngàn chúng sanh trong đại chúng đều phát Vô
Đẳng Đẳng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề Tâm.
Nhận định: Phẩm
này hoàn toàn tương đồng với đoạn
văn nói về ba mươi hai ứng thân và mười
bốn món Vô Úy trong chương [Nhĩ Căn] Viên Thông
của kinh Lăng Nghiêm, nhưng chương kinh kia nói
về sự tu chứng, phô bày cả nhân lẫn quả,
c̣n phẩm kinh này chỉ tŕnh bày những công năng
thuộc mặt quả nhằm khuyên người ta hăy tŕ
danh, lễ kính. V́ thế, xưa nay những ai tụng kinh
xưng danh, đều được Bồ Tát ứng hiện
như dùi gơ xuống mặt trống [liền phát ra
tiếng]. Trưởng giả Lư Thông Huyền nói: “Bồ Tát từ bi, quang minh
chiếu thế gian, nghe khổ liền cứu, nhưng
ắt phải đợi [chúng sanh] niệm rồi mới
ứng là có ư làm cho [kẻ niệm] hồi tâm, chuyên duyên
theo thiện pháp, khiến cho công đức, thiện
căn [của người ấy] sâu chắc vậy. Điều
ấy cố nhiên là tấm ḷng Đại Bi, vô tác diệu
đức vô tận”. Trong hội Hoa Nghiêm, Đại
Sĩ bảo Thiện Tài: “Ta
trụ trong hạnh môn Đại Bi này, hiện khắp
trước hết thảy chúng sanh”. Vậy th́ mỗi
lời nói, mỗi hành động của chúng ta ở bất
cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào đều
chẳng ở ngoài thân từ bi của Đại Sĩ.
Chỉ v́ trải bao kiếp hôn mê, như kẻ mù ḷa
từ thuở lọt ḷng, hằng ngày đối
trước ánh mặt trời mà chẳng tự biết,
chợt gặp ách nạn, hết thảy trần lao
vọng tưởng đều bị khuất phục
chẳng khởi, chỉ c̣n một ư niệm cầu cứu
như lửa mạnh cháy bùng, như ḍng lũ chảy
xiết, chẳng ngờ lập tức tương ứng
với Đại Sĩ, thần lực ṿi vọi bèn
hiện ra trọn đủ, thọ dụng vô tận.
Chứ Đại Sĩ có bao giờ là nghe hay chẳng nghe,
cứu hay chẳng cứu đâu?
Người học biết
sâu xa lư này, tin chư Phật, Bồ Tát thường ở
trước mặt, hướng lành, đổi lỗi, chẳng
dám tự dối. Đến lúc tụng kinh càng phải tuân
theo lời dạy của pháp sư Ấn Quang, chí thành
khẩn thiết, như đối trước thánh dung,
đích thân nghe viên âm, chẳng manh nha một niệm
giải đăi, chẳng khởi một niệm phân
biệt. Từ đầu đến cuối kính cẩn
tụng niệm th́ nghiệp chướng tự tiêu,
phước huệ tự tăng vậy!
5. Bát Nhă
Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Đính
kèm lời chú giải sơ lược. Bát Nhă
được cơi này dịch là trí huệ, Ba La Mật
Đa cơi này dịch là Đáo Bỉ Ngạn (đến
bờ kia), nghĩa là dùng trí huệ quán chiếu,
vượt qua biển khổ sanh tử, đến bờ
kia Niết Bàn)
Quán
Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa
thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ
nhất thiết khổ ách.
(Quán Tự Tại
Bồ Tát khi hành sâu xa Bát Nhă Ba La Mật Đa, soi thấy
năm uẩn đều không, vượt hết thảy
khổ ách).
Quán
Tự Tại chính là Quán Thế Âm. Ngài Hiền Thủ
bảo vị Bồ Tát này có đại trí, đối
với cảnh “lư sự vô ngại” đă quán thông
đạt, tự tại. Lại nữa, Ngài có ḷng
đại bi, quán sát căn cơ để đến
cứu tự tại vô ngại, nên có tên như vậy. “Hành thâm” có nghĩa là tu
luyện thành công đă lâu, chẳng phải là điều
kẻ thô tâm hời hợt, vừa mới hiểu biết
nông cạn đă ngừng [tu tập] mà dám mong mỏi. “Ngũ Uẩn” chính là Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chữ Sắc này so
với chữ Sắc trong Lục Trần th́ phạm vi bao
gồm rất rộng, toàn bộ Ngũ Căn và Lục
Trần, tổng cộng mười một pháp,
đều là Sắc cả. Thọ là lănh nạp.
Tưởng là tư tưởng. Hành là tạo tác. Thức
là phân biệt. Thức gọi là Tâm Vương, Thọ,
Tưởng, Hành đều là Tâm Sở. Ngài Tông Lặc nói
Bồ Tát do soi thấy Ngũ Uẩn không tịch, ĺa
khổ sanh tử, lại thương chúng sanh đang mê,
điên đảo làm càn, trái đạo lư, nghịch luân
thường, tạo Thập Ác, Ngũ Nghịch,
đến nỗi hứng chịu các nỗi khổ, bèn
dạy họ dùng trí huệ quán sát ḥng được
giải thoát.
Ngài Hám
Sơn nói: “Nếu chúng ta
biết Ngũ Uẩn vốn là không, Tứ Đại
chẳng có th́ đâu c̣n có nghiệp lụy nào trói buộc, đâu
c̣n nhân ngă, thị phi để tranh căi, đâu c̣n cùng
quẫn, thông suốt, được - mất để so
đo, đâu c̣n giàu sang, nghèo hèn để bận ḷng
nữa ư?” Đoạn kinh văn nói về
mười bốn món Vô Úy trong chương [Nhĩ Căn]
Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm có thể dùng để chú
thích đoạn này.
Xá
Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất
dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức
thị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc
phục như thị.
(Này Xá
Lợi Tử! Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác
Sắc, Sắc chính là Không, Không chính là Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức cũng giống như vậy).
Xá
Lợi Tử chính là Xá Lợi Phất. Chúng sanh chấp
sắc thân là Ngă, khó dẹp trừ nhất, nên nêu Sắc
đầu tiên. Ngài Tông Lặc nói: “Sắc chính là Tứ Đại huyễn sắc,
Không chính là Bát Nhă Chân Không. Chúng sanh mê lầm chân không thành
huyễn sắc, như nước đông thành băng.
Bồ Tát biết huyễn sắc chính là chân không, như
băng tan thành nước. Thể của chúng chẳng khác
nên nói ‘bất dị’. Ấy là ‘sắc bất dị không’
nhằm phá Thường Kiến[88]”. Phàm phu chấp sắc thân là thật,
lầm lạc mong mỏi nó tồn tại thường
hằng, mưu tính sao cho nó tồn tại trăm năm
ngàn đời, chẳng biết thân này niệm niệm đổi
dời, như lửa thành tro, dần dần tiêu mất,
rốt cuộc thành không. Ngoại đạo đề
xướng Kim Đan Giáo[89] muốn dùng cách nuốt nước
miếng, vận chuyển hơi thở, lầm lạc
cầu kết thành tiên đan[90], xuất hồn, chẳng biết các
chất dịch và hơi thở thuộc về Sắc, hít
ra thở vào thuộc về Thọ, chú tâm giữ cho hơi
thở đi theo đúng kinh mạch thuộc về
Tưởng, nung luyện [hỏa hầu] thuộc về
Hành, nguyên thần thuộc về Thức, toàn thể hư
vọng làm sao đạt được chân thường?
V́ thế, dùng câu “bất
dị Không” để cảnh tỉnh.
“Không bất dị Sắc” nhằm phá Đoạn Kiến. Ngoại đạo
chẳng biết thân do nghiệp mà khởi, nghiệp
từ tâm sanh, luân chuyển tuần hoàn, nhân quả
chẳng mất, bảo xằng “con người chết
đi thần hồn cũng phiêu tán, chặt, đốt,
xay, giă lấy đâu để thực hiện!” Chẳng
biết thân chết nhưng tánh chẳng diệt (như
quả hạt của cỏ cây, tuy nung, nướng,
nấu, luộc, hễ tánh của nó là ḥa hoăn th́ [quả
hạt dẫu đă nấu nướng v.v...] vẫn là ḥa
hoăn, có tánh độc th́ vẫn độc, tánh thăng th́
vẫn thăng, tánh giáng th́ vẫn giáng[91].
Loài vô t́nh c̣n như thế, huống hồ con người
ư?) Nhân quả rành rành chẳng
sai. Nếu lại có người bảo “con người
chết rồi sẽ làm người, loài vật chết
đi lại làm loài vật, trời sanh muôn vật nhằm
nuôi dưỡng con người, cho nên sát sanh ăn thịt,
những loài vật ngu ngốc như thế làm sao có
thể đ̣i nợ mạng được?” th́ họ
chẳng biết nghiệp có thăng trầm, tánh không sai
khác, vốn b́nh đẳng, sự lư luân hồi quả
thật đáng làm căn cứ! Đến nỗi hạng
Nhị Thừa tuy y theo đạo để tu tập, nhưng
chẳng thấu đạt “tam
giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, ngỡ chúng là có
thật nên coi tam giới như lao ngục, tránh né chúng
như lánh đồ dơ, chẳng dấy ḷng độ
sanh, nên nói: “Không bất dị
Sắc”. Ấy là v́ Bát Nhă Chân Không như tấm
gương tṛn lớn, hết thảy huyễn sắc
như ảnh hiện trong gương. Nếu biết
“gương chẳng khác ảnh”, sẽ hiểu ư nghĩa
“Không bất dị Sắc”.
Lại sợ chúng sanh
căn độn, vẫn giữ hai kiến chấp
Sắc và Không, nên lại nói trùng điệp dung hội
rằng: “Sắc tức
thị Không, Không tức thị Sắc”, giống như
băng chính là nước, nước chính là băng.
Biết Sắc chẳng khác Không th́ chẳng có thanh,
sắc, của cải, lợi lộc để tham, không có ngũ dục lục trần
để luyến mến, nhanh chóng vượt khỏi
cảnh giới phàm phu (Đây chính là ư nghĩa
của câu “Phú quư phù vân” (phú quư như mây nổi) trong sách Luận
Ngữ và câu “vạn chung hà gia”[92]
(muôn chung có ích ǵ) trong sách Mạnh Tử). Biết Không chẳng khác Sắc th́ chẳng khởi
Diệt Định, mà hiện các oai nghi, chẳng
động bổn tế, thực hiện sự nghiệp
độ sanh, nhanh chóng vượt trỗi ngoại đạo,
Nhị Thừa (Đây chính là ư nghĩa của câu “bất
kiến nhi chương, bất động nhi biến, vô
vi nhi thành, cập vi vật bất nhị, sanh vật
bất trắc” (không
thấy mà biểu lộ, không động
mà biến đổi, không tạo tác mà thành, chẳng khác ǵ
với vật mà sanh thành muôn vật chẳng thể
lường) trong sách Trung Dung).
Biết Sắc và Không b́nh đẳng, giống hệt
như nhau th́ niệm niệm độ sanh, chẳng
thấy có chúng sanh để độ, tâm tâm cầu
Phật, chẳng thấy Phật quả để
cầu, mà nhanh chóng chứng cùng một cảnh với
Phật.
Sắc Uẩn đă
như vậy th́ quán sát bốn Uẩn kia tương
tự. V́ thế nói “Thọ,
Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị”.
Thử dùng chuyện hiện thời để làm chứng
th́ kẻ đắc Thiên Lư Nhăn, núi, rừng, tường
vách chẳng thể ngăn che được, chẳng
phải là “Sắc tức
thị Không” đó ư? Kẻ giỏi thuật Thôi Miên
th́ tâm niệm của người khác, người ấy
đều có thể biết rơ, chẳng phải là Không
tức Sắc đó ư? Cái thân được chưng
diện, nhưng dùng tia X quang để chiếu th́ y
phục lẫn cái thân xác thịt đều như mây tiêu,
khói tan, chẳng phải là Sắc tức Không đó ư?
Mắt huệ quán chúng sanh, cố nhiên là như vậy! Dùng
kính hiển vi để nh́n vào một giọt nước
hay quan sát một kẽ hở trên không trung th́ những loài
động vật bé tí lăng xăng tụ họp chen
chúc trong ấy, đấy chẳng phải là “Không tức là Sắc” hay sao?
Xá
Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất
sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh,
bất tăng, bất giảm.
(Này Xá
Lợi Tử! Tướng Không của các pháp ấy
chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng
sạch, chẳng tăng, chẳng giảm).
“
Thị
cố Không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành,
Thức, vô Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư, vô Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, vô Nhăn Giới, năi chí Vô Ư
Thức Giới.
(V́
thế, trong Không chẳng có Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, chẳng có Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân,
Ư, chẳng có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp,
chẳng có Nhăn Giới, cho đến chẳng có Ư Thức
Giới).
Đoạn
này lần lượt đem cái Không ứng với
những điều c̣n lại giống như cái Không [đă
nói] trong phần Ngũ Uẩn ở trên, tức là Lục Căn
không, Lục Trần không cho đến Thập Bát Giới không.
Thập Bát Giới là sáu căn hợp với sáu trần,
thêm vào sáu Thức để nói.
Kinh Lăng Nghiêm có nói
như người chẳng nháy mắt, mắt nh́n
trừng trừng, phát mệt, sẽ thấy hoa đốm
bay tán loạn trên hư không, và lại có hết thảy
những tướng cuồng loạn chẳng thật. Hăy
nên biết Sắc Ấm cũng giống như thế! Như
người chà hai bàn tay vào nhau, liền hư vọng sanh
ra những tướng rít, trơn, lạnh, nóng. Hăy nên
biết Thọ Ấm cũng giống như thế. Như
người nói đến quả mơ chua, trong miệng
ứa nước, nghĩ đến trèo lên vách đá cheo
leo, ḷng bàn chân nhơm nhớp [mồ hôi], hăy nên biết
Tưởng Ấm cũng giống như vậy. Ví như
ḍng nước chảy xiết, từng con sóng nối
tiếp nhau, lớp trước lớp sau chẳng trái vượt,
hăy nên biết Hành Ấm cũng giống như thế (Ví như
niệm niệm lưu chuyển chẳng ngơi). Như người lấy cái b́nh
Tần Già[93], nút hai lỗ lại, không gian bị
chứa đầy trong đó, đem đi xa ngàn dặm, bù
đắp cho nước khác, hăy nên biết Thức Ấm
cũng giống như vậy (Ví như thức thần theo
nghiệp thọ sanh trong tam giới). Tiếp đó, Lục Nhập, Nhị
Thập Xứ, Thập Bát Giới, mỗi mỗi đều
nói rơ nó là hư vọng, lời văn rườm rà
chẳng thể chép trọn.
Lại
nói: Ĺa tối, ĺa sáng, chẳng có bản thể của cái
Thấy. Ĺa động, ĺa tĩnh, vốn không có tánh
chất Nghe. Không thông, không tắc, tánh Ngửi chẳng
sanh. Chẳng biến đổi, chẳng điềm nhiên,
sự nếm không cách nào xuất hiện được. Chẳng
ĺa, chẳng hợp, giác xúc (sự nhận biết do đụng
chạm) vốn không. Chẳng diệt, chẳng sanh th́
sự hiểu rơ sẽ dựa vào đâu [mà có]? (Điều
này có nghĩa là đă ĺa khỏi Trần th́ Căn và
Thức sẽ chẳng có). Lại
nói: Chúng sanh từ vô thỉ đến nay chạy theo các
thứ sắc, thanh, theo ư niệm lưu chuyển, chưa
từng khai ngộ tánh “tịnh, diệu, thường”. Nếu
bỏ sanh diệt, giữ lấy chân thường th́
thường quang hiện tiền, căn, trần, thức
tâm sẽ ngay lập tức tiêu mất (“Chân
thường” chính là Chân Không bất sanh bất diệt
được nói trong kinh này. “Thường quang hiện
tiền” chính là trí huệ quán chiếu).
Đoạn này chỉ
nói tiếp ư “Sắc tức
thị Không”, nên biết rằng: Nếu hiểu “Không
tức là Sắc” th́ chữ Vô có thể thay bằng chữ
Tức, nghĩa là “Không trung
tức Sắc, tức Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
tức Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư” v.v... Theo kinh
Bi Hoa, ngài Quán Âm trong suốt bảy năm không có dục
tưởng, không có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc
tưởng, liền lấy sự trang nghiêm của vi
trần số cơi Phật trong mười phương tạo
thành sự trang nghiêm cho cơi Phật của chính ḿnh.
Người học có thể rỗng không sự hôi nhơ
nơi sáu căn này th́ sẽ liền có thể đắc Thiên
Nhăn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Thần Túc Thông, Tha Tâm Thông, Túc
Mạng Thông v.v... ba mươi hai tướng đại
nhân, tám mươi vẻ đẹp phụ. Có thể
rỗng không sự xen tạp nhơ bẩn nơi sáu Trần
th́ sẽ đắc Sắc “đất vàng, cát vàng, bảy
báu trang nghiêm” và Thanh “tiếng linh báu, lưới báu xinh
đẹp vượt trỗi nhạc trời”, Hương,
Vị, Xúc, Pháp mỗi mỗi đều tuyệt diệu
chẳng thể diễn tả được, chỉ là
từ trong một chữ Tín mà chuyển dời vậy.
Vô vô
minh, diệc vô vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệc vô
lăo tử tận.
(Không có
vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già
chết, cũng không có hết già chết).
Đây
chính là rỗng không mười hai nhân duyên. Vô Minh là một
niệm vọng động của chúng ta từ vô thỉ
đến nay khiến cho sự sáng suốt nơi tánh
bị mê tối nên gọi là Vô Minh. Vô Minh duyên Hành (Nên
hiểu Duyên là Khởi (dấy lên)), ư nói tạo tác các nghiệp (Hai chi này
(tức Vô Minh và Hành) chính là cái nhân đă tạo trong
đời quá khứ). Hành
duyên Thức, nghĩa là nghiệp lực lôi kéo tám thức
đầu thai. Thức duyên Danh Sắc, nghĩa là hễ
vào trong thai th́ Ngũ Ấm đều đủ, một
thức thuộc về Sắc, bốn thức kia thuộc
về Danh. Danh Sắc duyên Lục Nhập, nghĩa là sáu
căn đă thành, đầy đủ thể chất
để vào đời. Lục Nhập duyên Xúc, nghĩa là
sau khi ra khỏi thai, sáu căn tiếp xúc sáu trần. Xúc
duyên Thọ nghĩa là tiếp nhận những sự
tốt xấu trong thế gian (Năm chi này chính là Quả phải
hứng chịu trong đời hiện tại). Thọ duyên Ái, nghĩa là tham nhiễm
những chuyện như Ngũ Dục v.v... Ái duyên Thủ,
nghĩa là từ nơi cảnh dấy tâm mong giữ
lấy. Thủ duyên Hữu nghĩa đă tạo nhân,
ắt sẽ lại chuốc lấy quả (Ba chi này
chính là nhân trong đời hiện tại). Hữu duyên Sanh, nghĩa là gánh chịu
cái thân trong đời vị lai. Sanh duyên Lăo Tử, nghĩa
là trong vị lai lại quay về nơi biến
đổi, tiêu diệt (Hai chi này là cái quả phải chịu
trong đời vị lai).
Mười hai nhân duyên
này bao trùm nhân quả ba đời, luân chuyển không
ngớt, gọi là Lưu Chuyển Môn. Tu Giới - Định
- Huệ Học, cầu cho Vô Minh hết, Hành hết,
Thức hết, cho đến lăo tử chấm dứt th́
gọi là Hoàn Diệt Môn. Nếu pháp thật sự là có th́
chẳng thể diệt được, [do pháp] có sanh có
diệt nên nó chính là hư vọng, hễ mê th́ đi theo nó
nên có nỗi khổ đọa lạc tam đồ, hễ
ngộ th́ sẽ chuyển nó, nên có niềm vui vượt
lên cơi Phật. Nghiệp lực to lớn nhưng tâm
lực càng to lớn hơn nữa!
Vô
Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
(Không có
Khổ, Tập, Diệt, Đạo)
Đấy
là rỗng không Tứ Đế. Khổ chính là quả
khổ trong thế gian. Tập chính là cái nhân của sự
khổ trong thế gian. Diệt chính là quả vui của
sự xuất thế. Đạo chính là cái nhân của
sự vui xuất thế. [Tứ Đế được
nói ở đây] có cùng một ư nghĩa một đằng
Lưu Chuyển, một đằng Hoàn Diệt như trong
phần [nói về Thập Nhị Nhân Duyên] trên đây.
Hễ hiểu phần trước th́ sẽ ngộ
được phần này.
Vô
trí diệc vô đắc.
(Không trí
mà cũng không đắc).
Hết
thảy đă là không th́ không có trí huệ để
chiếu, mà cũng không có Bồ Đề để
đắc. Đấy chính là cảnh giới của Pháp
Thân.
Dĩ
vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa
y Bát Nhă Ba La Mật Đa Cố, tâm vô quái ngại. Vô quái
ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.
(Do không
có ǵ để được nên Bồ Tát nương theo
Bát Nhă Ba La Mật tâm không vướng mắc. Do không
vướng mắc nên không có sợ hăi, xa ĺa mộng
tưởng điên đảo, rốt ráo Niết Bàn).
Phần
này tiếp nối ư của phần trên nhằm nói “không
đắc mà đắc, đấy mới là chân đắc”.
Bồ Đề Tát Đỏa dịch là Giác Hữu T́nh, tức
là Bồ Tát. Bồ Tát hành Bát Nhă sâu xa, trong tâm thuần là trí
huệ, cho nên không vướng mắc, sợ hăi, chẳng
khởi mộng tưởng điên đảo nơi cảnh,
có nghĩa là tâm diệt th́ mọi pháp diệt. Niết Bàn dịch
là Viên Tịch, không đức nào chẳng trọn là Viên,
không chướng nào chẳng tận là Tịch, tức là Tịch
Quang Tịnh Độ, là cảnh giới tự thọ dụng
của Phật. “Cứu cánh Niết
Bàn” nghĩa là nhập Vô Dư Niết Bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát Nhă
Ba La Mật đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
(Ba đời chư Phật do
nương theo Bát Nhă Ba La Mật nên đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác).
“Tam
thế” là quá khứ, hiện tại, vị lai. A là Vô, Nậu
Đa La là Thượng, Tam Miệu là Chánh Đẳng, Tam Bồ
Đề là Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác là tên của Phật Quả. Tam thế chư Phật
đều từ đây mà tu chứng, v́ thế Bát Nhă là mẹ
của chư Phật.
Cố tri Bát Nhă Ba La Mật thị
đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô
thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú,
năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất
hư. Cố thuyết Bát Nhă Ba La Mật Đa Chú.
(Cho nên biết Bát Nhă Ba La Mật
là đại thần chú, là đại minh chú, là chú không ǵ
hơn, là chú không ǵ có thể sánh bằng, có thể trừ
hết thảy khổ, chân thật không dối. V́ thế,
nói chú Bát Nhă Ba La Mật).
Đoạn này ca tụng công
đức của Bát Nhă. Do có đại thần lực nên
gọi là “đại thần
chú”. Do có đại quang minh nên gọi là “đại minh chú”. Các pháp chẳng thể nào
vượt trội Bát Nhă nên gọi là “vô thượng chú”. Các pháp không thể nào sánh bằng
nên gọi là “vô đẳng
đẳng chú”. Trên đây là phần Hiển Thuyết
nhằm làm cho hành giả sanh huệ, diệt phiền năo
chướng. Tiếp theo là phần Mật Thuyết, khiến
cho người tụng được phước, diệc
ác nghiệp chướng.
Tức thuyết chú viết: “Yết
đế, yết đế, ba la yết đế, ba la
tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”.
(Liền nói chú rằng: “Gate, gate, pāragate, pārasamgate, bodhi
svāhā ”).
“Chú”
là lời bí mật của Phật, Bồ Tát, chỉ nên
thành kính tụng tŕ, chắc chắn sẽ tiêu tai,
được phước, không cần phải giải
thích. Nếu cứ cưỡng giải thích, sẽ đâm
ra chẳng đạt hiệu nghiệm.
(Tâm Kinh văn từ
tuy giản lược, lư cực rộng sâu, giải thích
nông cạn chỉ nhằm lợi ích kẻ sơ cơ. Tác
phẩm Thích Yếu thích hợp ba căn, không c̣n ǵ khéo
hơn. V́ thế, tôi sao chép vào đây để lưu truyền
rộng răi. Thích Ấn Quang ghi).
Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Phụ lục tác phẩm Thích Yếu của tổ
Ngẫu Ích)
Kinh này chỉ thẳng một
niệm tâm nhỏ nhoi hiện tiền của chúng ta chính là
Tam Bát Nhă[94]. Ba thứ
“tâm, Phật, chúng sanh” không sai biệt, nhưng chúng sanh pháp
quá rộng, Phật pháp quá cao, đối với kẻ
sơ tâm chỉ có quán tâm là dễ. V́ thế, đại bộ
(kinh Đại Bát Nhă) gồm hơn sáu trăm quyển
đă dựa theo Phật pháp và chúng sanh pháp để tŕnh
bày Bát Nhă cặn kẽ; c̣n nay kinh này chỉ dựa trực
tiếp trên tâm pháp để hiển thị Bát Nhă. Tuy kinh
Đại Bát Nhă giảng rộng về Phật pháp và chúng
sanh pháp nhưng những điều ấy chưa bao giờ
chẳng phải là tâm pháp. Tuy kinh này giảng thẳng vào
tâm pháp, vẫn chưa hề chẳng trọn đủ Phật
pháp và chúng sanh pháp; v́ thế được gọi là “cả ba không sai biệt”, do một
niệm tâm hiện tiền nhỏ nhoi của chúng ta rỗng
sáng, thấu suốt, thường hiểu biết rành rành,
chẳng ở các nơi “trong, ngoài, trung gian”, mà cũng chẳng
vướng nơi h́nh tích “quá khứ, hiện tại, vị
lai”. Đấy chính là Quán Chiếu Bát Nhă.
Dùng một tâm niệm nhỏ nhoi hiện tiền
của chúng ta để hiện rành rành từ Căn, Thân,
Khí Giới[95] cho
đến các cơi nước giả hay thật trong mười
pháp giới, b́nh đẳng ấn tŕ, không trước,
không sau, đồng thời lập tức đầy đủ,
đấy chính là Văn Tự Bát Nhă. Ấy là v́ núi, sông,
đại địa, sáng, tối, Sắc, Không v.v... tánh của
hết thảy các cảnh giới, không ǵ chẳng phải
là văn tự, chứ không phải chỉ có giấy, mực,
lời nói mới là văn tự!
Do một tâm niệm nhỏ nhoi hiện tiền của
chúng ta, tánh của tất cả tri giác và tánh của cảnh
giới không chia, không tách, không Năng, không Sở, không
đúng, không sai, đều chỉ là một pháp giới thể.
Đấy chính là Thật Tướng Bát Nhă.
Thật Tướng Bát Nhă chẳng phải là bờ
bên này, chẳng phải là bờ bên kia. Do đạt
được Thật Tướng của niệm hiện
tiền nên sanh tử chính là Niết Bàn, đó gọi là Ba
La Mật.
Quán Chiếu Bát Nhă cũng chẳng phải là bờ
bên này, chẳng phải là bờ bên kia; do soi rơ một niệm
hiện tiền này chính là Thật Tướng nên Hoặc
biến thành trí, đó gọi là Ba La Mật.
Văn Tự Bát Nhă cũng chẳng phải là bờ
bên này, chẳng phải là bờ bên kia; do hiển hiện một
niệm hiện tiền chính là Thật Tướng nên kết
nghiệp chính là giải thoát, đó gọi là Ba La Mật.
V́ thế, tâm này chính là Tam Bát Nhă, Tam Bát Nhă chỉ
là một tâm. Lư này thường hằng, chẳng thể
thay đổi, nên gọi là Kinh. Nương theo đấy
để thành hạnh, ba đời chư Phật, Bồ
Tát cùng tuân hành, nên gọi là Kinh. Nói pháp môn này, thiên ma, ngoại
đạo chẳng thể hoại loạn nên gọi là
Kinh.
Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhă Ba La Mật
Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không,
độ nhất thiết khổ ách.
Muốn biết đường
trong núi, phải hỏi người từng trải; v́ thế
nêu ra người quán tâm thành hạnh để làm
gương mẫu. “Quán”
chính là trí năng quán, tức là nhất tâm tam quán, gọi
chung là Quán Chiếu Bát Nhă. Tự Tại là do chứng lư
đế Thật Tướng, được đại
giải thoát đối với các cảnh giới. Bồ
Tát, dịch là Giác Hữu T́nh chính là danh hiệu tự lợi,
lợi tha; trí khế hợp Thật Tướng nên tự
lợi trọn đủ, trí tuyên nói văn tự nên lợi
tha trọn khắp. V́ thế gọi là Bồ Tát. Điều
này nhằm chỉ rơ người có thể hành [phép quán chiếu
này].
“Thâm
Bát Nhă Ba La Mật Đa”: Đắc tam trí nhất tâm, chẳng
giống với Tam Thừa trong Quyền Giáo, v́ thế gọi
là “thâm”. Câu này nói chung về
pháp được hành. “Thời”
là nói ngược lại từ bao kiếp về trước,
từ lúc đă được sự tương ứng ấy
măi cho đến hết đời vị lai, từ đầu
đến cuối chẳng ĺa Bát Nhă sâu xa. “Chiếu kiến” là nói riêng về cái trí dùng để
quán sát (Năng Quán Trí), tức là Quán Chiếu Bát Nhă. “Ngũ Uẩn” là nói riêng về
cảnh được quán, tức Văn Tự Bát Nhă. “Giai không” là nói riêng về
đế lư được hiển lộ [bởi Quán Chiếu
Bát Nhă], đấy chính là Thật Tướng Bát Nhă. Không ấm
nào trong Ngũ Ấm chẳng phải là Không, Giả, Trung,
ĺa trọn bốn câu, bách phi tánh tuyệt, nên cưỡng gọi
là Không. “Độ nhất thiết
khổ ách”: Tự thoát khỏi khổ nhân và khổ quả
của hai thứ tử (Phần Đoạn và Biến Dịch),
mà cũng làm cho chúng sanh trong tam giới cùng thoát khỏi nhân
quả của hai thứ Tử, đấy chính là hiệu
quả của việc hành pháp ấy, đó cũng chính là
Ba La Mật Đa.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị
Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không,
Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức
diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị
chư pháp Không tướng, bất sanh, bất diệt, bất
cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị
cố Không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
vô Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, vô Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp, vô nhăn giới, năi chí vô ư thức
giới, vô Vô Minh, diệc vô Vô Minh tận, năi chí vô Lăo, Tử,
diệc vô Lăo, Tử tận, vô Khổ, Tập, Diệt,
Đạo, vô Trí, diệc vô đắc. Dĩ vô sở
đắc cố.
Đoạn này giải thích rộng
về sự thật nơi cảnh “Ngũ Uẩn đều là Không” quán chiếu tự
tại trong những thứ ấy (tức những cảnh
được quán như Ngũ Uẩn v.v...), bởi lẽ,
nếu chẳng quán chiếu th́ sẽ chẳng thể hiểu
thấu suốt sự thật nơi cảnh này được.
Hễ tâm chẳng khởi lên th́ thôi, chứ tâm vừa móng
lên chút xíu, ắt Căn, Thân, Khí Giới sẽ liền hiện
ngay, đó gọi là Sắc Uẩn; ắt sẽ có nhận
lănh các cảnh khổ hay vui, đó gọi là Thọ Uẩn;
ắt sẽ có chấp vào tướng, đặt bày danh từ,
lời lẽ, đó gọi là Tưởng Uẩn; ắt sẽ
sanh diệt, dời đổi chẳng ngừng, đó gọi
là Hành Uẩn; ắt sẽ phân biệt các pháp rành rành,
đó gọi là Thức Uẩn.
Do vậy biết: Hễ khởi lên một tâm nhỏ
xíu th́ theo lẽ tự nhiên sẽ trọn đủ cả
năm tầng vẩn đục. Nay dùng Bát Nhă rất sâu
để chiếu th́ sẽ biết rơ Sắc chỉ là
Tâm, chứ chẳng có Sắc thật sự nào khác; hết
thảy căn, thân, khí giới đều như hoa đốm
trên không, như vật trong mộng, cho nên Sắc chẳng
khác Không! Không cũng chỉ là tâm, chứ không có cái Không nào
khác. Nếu có một pháp nào vượt khỏi Niết Bàn
th́ ta cũng nói là như huyễn, như mộng, cho nên
Không chẳng khác Sắc. Đă nói “chẳng khác” (bất dị) th́ đă thành ra “tương tức” (chính là lẫn
nhau).
Vẫn sợ kẻ bị mê t́nh phủ lấp,
hiểu bàn tay ngửa khác với bàn tay úp nên lại nói trùng
lặp: “Sắc tức thị
Không, Không tức thị Sắc”. Nghĩa là hễ nhón lấy
một Sắc chừng bằng vi trần th́ Thể của
nó chính là cả pháp giới, theo chiều ngang trọn khắp,
theo chiều dọc tột cùng. V́ vậy, “tức thị Không” hàm ư: Toàn Sự chính là Lư, chẳng
có chút xíu Lư tánh nào chẳng nằm trong Sự ấy, tức
là vi trần trọn đủ toàn bộ Lư chân không, lại
c̣n cùng lúc trọn đủ toàn bộ mọi sự trong pháp
giới, nên chính là Sắc, nên được gọi là “toàn
Sự chính là Lư”. Chẳng có chút xíu sự tướng nào chẳng
nằm trong Lư ấy. Như vậy th́ ở ngay nơi Thể,
dứt bặt sự đối đăi, chẳng có hai vật.
Đă hiểu thấu suốt Thật Tướng nơi Sắc
Uẩn th́ đối với Thọ, Tưởng, Hành, Thức
đều cứ suy theo đó sẽ biết.
Lại sợ kẻ mê chấp cho rằng Thật
Tướng của Ngũ Uẩn do từ chiếu kiến
sanh ra, nên lại chỉ rơ rằng: Bản thể của
các pháp Ngũ Uẩn ấy chính là Thật Tướng của
Chân Không, nó vốn tự như vậy, chứ không phải
là Thật Tướng sanh, Ngũ Uẩn diệt. Bởi lẽ,
Ngũ Uẩn vốn tự chẳng sanh, chẳng diệt,
nên gọi là “Không tướng”.
Lại sợ kẻ mê chấp cho rằng tướng
Không của Ngũ Uẩn tuy chẳng sanh diệt, nhưng
có nhơ, sạch, nghĩa là [tưởng rằng] phàm phu
thuận theo nhiễm duyên mà nhơ, thánh nhân thuận theo tịnh
duyên mà sạch, nên lại chỉ dạy rơ ràng rằng:
Ngũ Uẩn của phàm phu cũng chính là tướng
Không, Ngũ Uẩn của thánh nhân cũng chính là tướng
Không, nào có nhơ, sạch ư?
Lại sợ kẻ mê chấp cho rằng tướng
Không của Ngũ Uẩn tuy chẳng nhơ hay sạch,
nhưng có tăng - giảm, ngỡ rằng phàm phu mê nên sanh
tử khốc liệt, ấy là tăng, đức tướng
ẩn lấp, ấy là giảm; do thánh nhân ngộ nên Chiếu
có công dụng vô tận, đó là tăng, Hoặc nghiệp
tiêu vong, đó là giảm. V́ thế, lại chỉ dạy
rơ ràng rằng: Lúc mê th́ cũng chỉ có tướng Không của
các pháp này, mà lúc ngộ th́ cũng chỉ là tướng
Không của các pháp này, nào có tăng giảm ư?
Đă nêu rơ sự thật mầu nhiệm nơi
Ngũ Uẩn này rồi, liền tiếp tục áp dụng
rộng răi vào hết thảy pháp tướng sai biệt
để dung hội, dứt tuyệt t́nh kiến [phân biệt]
thánh - phàm [sai khác], bèn nói: “Thị
cố Không trung vô Sắc” cho đến “diệc vô đắc”. Thế nhưng, nói “vô sắc” cho đến “vô sở đắc”, há có phải
là đợi sau khi dung hội, dứt tuyệt [những kiến
chấp phân biệt] rồi th́ chúng mới không có hay sao? Ấy
là v́ chúng vốn có ǵ để đạt được!
Do vốn là không có ǵ để đạt được
nên gọi là Đế. Hiểu thấu sự vô đắc
này th́ gọi là Quán, nhưng nói chung “chẳng ĺa Ngũ Uẩn”
là cảnh được quán. Lại nữa, dù là Cảnh,
hay Đế, hay Quán, nói chung đều chẳng rời khỏi
một niệm tâm nhỏ nhoi hiện tiền. Một tâm
rành rành trọn đủ ba nghĩa, Đế chính là Thật
Tướng, Quán chính là Quán Chiếu, Cảnh chính là Văn
Tự, chẳng phân biệt là ngang hay dọc, mà cũng chẳng
phải là một hay khác, v́ thế gọi là “thâm Bát Nhă”.
Bồ Đề Tát Đỏa, y Bát Nhă Ba La Mật
Đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu
khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng,
cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhă Ba
La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Cố tri Bát Nhă Ba La Mật Đa, thị
đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô
thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú,
năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất
hư.
Đoạn này nêu lên trọn khắp chư Phật,
Bồ Tát để làm chứng, nhằm giảng rơ Bát Nhă
sâu xa, thật sự có thể độ thoát hết thảy
khổ ách. Nghĩa là chư Như Lai trong quá khứ đă
thành tựu môn này, chư Bồ Tát trong hiện tại nay mỗi
vị đều nhập viên minh, những người tu học
trong tương lai cũng sẽ y theo pháp như vậy, chứ
chẳng phải chỉ ḿnh ngài Quán Thế Âm.
“Vô quái ngại”: Kết
nghiệp chính là giải thoát, rốt ráo phương tiện
tịnh Niết Bàn.
“Vô khủng bố”: Khổ
quả chính là Pháp Thân, rốt ráo tánh tịnh Niết Bàn.
“Viễn ly điên đảo mộng
tưởng”: Phiền Hoặc chính là trí sáng, rốt ráo
viên tịnh Niết Bàn. Nương vào Thật Tướng
Bát Nhă đắc Chân Tánh Bồ Đề. Nương theo
Quán Chiếu Bát Nhă đắc Thật Trí Bồ Đề.
Nương theo Văn Tự Bát Nhă đắc Phương
Tiện Bồ Đề. Bồ Đề là Như Như
Trí, Trí ắt phải ngầm hợp Lư, Niết Bàn chính là
Như Như Lư, Lư ắt phải khế hợp Trí. V́ thế,
mới nói đại lược nhằm soi rọi lẫn
nhau.
Bát Nhă sâu xa này chính là đại thần chú v́ có
đủ diệu dụng. Nó là đại minh chú v́ trí soi rọi
tướng. Nó là vô thượng chú v́ bản thể là Thật
Tướng. Nó chính là vô đẳng đẳng chú (chú không
có ǵ sánh bằng) v́ không có một pháp nào có thể bằng
được tâm này. Tâm này có thể b́nh đẳng với
hết thảy pháp v́ có thể khiến cho chúng đều quy
về Thật Tướng ấn. Tâm chú này đích thực
có thể trừ các khổ nhân, khổ quả của sự
phân biệt tự tha, Phần Đoạn, Biến Dịch,
chân thật chẳng dối, phải nên tin tưởng chắc
thật vậy.
Cố thuyết Bát Nhă Ba La Mật Đa chú, tức
thuyết chú viết: Yết đế, yết đế,
ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ
Đề tát bà ha.
Nơi phần Hiển Thuyết trong đoạn
trước đă chỉ ra Bát Nhă chính là chú, ở đây là
Mật Thuyết. Cần biết rằng: Chú chính là Bát Nhă,
đă hiển thuyết lại c̣n mật thuyết, Hiển
và Mật đều trọn đủ bốn lợi ích Tất
Đàn[96]. Chẳng
phiên dịch [ư nghĩa của chú] là hay nhất, chớ nên ḍ
dẫm suy lường!
Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
Quyển 4, phần 1 hết
[1] Chữ “vật”
ở đây chỉ cho tất cả chúng sanh trong mười
pháp giới, chứ không phải là đồ vật hay con
vật.
[2] Tần Già Tạng
Kinh (hay chỉ gọi tắt là Tần Già Tạng) là bản
in riêng của tinh xá Tần Già, sử dụng chữ
đúc bằng ch́ để in, ấn hành vào đầu thời
Dân Quốc, vốn có tên đầy đủ là Tần Già
Tinh Xá Giảo Khan Đại Tạng Kinh, được xuất
bản trong khoảng từ năm 1909 đến năm
1913. Bản này gồm có 1.916 bộ, 8.416 quyển, chia thành
414 tập, mỗi tập được đánh số theo
bài Thiên Tự Văn (“thiên
địa huyền hoàng...”), nghĩa là mỗi tập
được gọi theo từng chữ trong bài văn ấy,
như tập thứ 1 là Thiên, tập thứ hai là Địa,
cho đến tập cuối cùng là chữ Sương. Mỗi
trang kinh gồm 40 cột, mỗi cột 45 chữ,
được in vạch mực ở giữa chia mỗi
trang thành hai trang nhỏ. Nội dung chủ yếu dựa
theo bản in Hoằng Ấn Tạng của Nhật Bản,
nhưng lược bỏ toàn bộ những trước
tác của Nhật Bản. Điều này rất hợp lư,
v́ trong tạng kinh Nhật Bản có những bài viết của
sư Nhật Liên (sáng tổ Nhật Liên Tông hay c̣n gọi
là Tân Pháp Hoa Tông) thiên chấp nặng nề, giải thích
giáo nghĩa hẹp ḥi, độc đoán, hung hăng, hoàn
toàn đánh mất những giáo nghĩa tinh vi, cao siêu, đặc
sắc của tông Thiên Thai.
[3] Theo kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới,
Thiện Tài đồng tử (Sudhana Kumāra) một trong năm
trăm đứa con của một vị trưởng giả
tại thành Phước Lâm. Khi cậu bé được
sanh ra, trong nhà tự nhiên trồi lên rất nhiều kho báu.
Do vậy, đặt tên là Thiện Tài. Nhưng Thiện Tài
chỉ một ḷng cầu đạo, đến tham học
với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, được
ngài giảng dạy chứng Căn Bản Trí, rồi tuân
theo lời dạy, tham học với khắp năm
mươi ba vị thiện tri thức (vị đầu
tiên là tỳ-kheo Đức Vân, vị cuối cùng là Phổ
Hiền Bồ Tát) để chứng Hậu Đắc
Trí. Năm mươi ba vị thiện tri thức này lần
lượt dạy Thiện Tài các pháp môn để lần
lượt chứng nhập năm mươi hai địa
vị Bồ Tát trên con đường chứng thành Đẳng
Giác.
[4] Nhiếp thọ, c̣n gọi là “nhiếp
thủ” (Parigraha): C̣n dịch là Nhiếp Hộ, nguyên
nghĩa là tiếp nhận, chăm sóc, quan tâm, thâu tóm, không bỏ
sót. Từ ngữ này thường được dùng để
chỉ sự quan tâm chăm sóc của chư Phật, Bồ
Tát đối với chúng sanh, nhằm hướng dẫn
họ đến con đường giải thoát.
[5] Chữ “nhập lưu” được pháp
sư Viên Anh giảng như sau: “Nhập
lưu là tương phản với “xuất lưu”. Xuất
lưu là tánh nghe thay v́ quán chiếu Thanh Trần hư huyễn,
lại rong ruổi theo Thanh Trần, đánh mất bản
thể thanh tịnh của tánh nghe. Nay ‘nhập lưu’ là
dùng Quán Trí để nhập, lấy tai làm Sở Nhập
(đối tượng để nhập), xoay chuyển
căn tai để quán chiếu chân tánh”.
[6] Cái Nghe (Văn) là
Nhĩ Thức, cái được Nghe (Sở Văn) chính là
đối tượng nhận biết của Nhĩ Thức.
[7] Chữ Không thứ
nhất chỉ cho chủ thể, tức là hành nhân đă
không c̣n thấy có đối tượng để quán chiếu,
thấu hiểu bản chất của các Trần (nói rộng
là tất cả các pháp) là không, tâm quán chiếu ấy
cũng là không. Chữ Sở Không chỉ cho những đối
tượng được quán chiếu là Không bởi sự
quán chiếu ấy.
[8] Trong Thủ
Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, pháp sư Viên Anh giảng:
“Đây là hiện thân Độc
Giác, trong cả ba khoa (tức ba đoạn liên tiếp),
đều nói ‘hữu học’ tức là những người
này chưa đạt đến địa vị Vô Học.
‘Tịnh tĩnh diệu minh’: Trong địa vị tu đạo,
thích ở một ḿnh nơi tốt lành, thanh vắng nên gọi
là Tịch Tĩnh; cầu trí huệ tự nhiên nên gọi
là Diệu Minh. ‘Thắng diệu hiện viên’ là diệu huệ
thù thắng; nghĩa là khi trí huệ tự nhiên sắp hiện
tướng viên măn, như lúc dùi gỗ t́m lửa, đă
được tướng trạng nóng rực, lửa sắp
sanh ra”.
[9] Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng
Nghĩa: “Đây
là hiện thân Duyên Giác. ‘Duyên đoạn thắng tánh’: Thắng
tánh chính là vô sanh lư tánh, do vượt trỗi mọi pháp thế
gian nên nó xứng tánh, tánh ấy ắt phải do đoạn
các duyên (do quán mười hai nhân duyên mà thấu triệt bản
thể các duyên là Không) mà được hiển lộ nên gọi
là Duyên Đoạn Thắng Tánh. ‘Thắng diệu’: Do ngộ
tánh của nhân duyên là Không nên gọi là Thắng Diệu. Khi
sự thắng diệu ấy sắp hiện tiền viên
măn th́ trong lúc chưa măn ấy, ta (Quán Thế Âm Bồ Tát)
đối trước hàng hữu học đó, hiện
thân Duyên Giác nhằm thỏa ḷng mong cầu của họ
để thuyết pháp duyên sanh vô tánh khiến họ giải
thoát Phần Đoạn Sanh Tử, chứng quả Duyên
Giác”.
[10] Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng
Nghĩa: “Đây là hiện thân
Thanh Văn. Nếu có các hàng hữu học thuộc địa
vị Kiến Đạo, dùng tám nhẫn và tám trí (tổng
cộng là mười sáu tâm) đoạn được những
phiền hoặc thuộc phẩm Hạ trong Tứ Đế,
đoạn được Kiến Hoặc th́ gọi là Tứ
Đế Không. Nếu dự vào địa vị Tu Đạo,
đoạn các Tư Hoặc trong tam giới, trong tám mươi mốt phẩm, mỗi
một đều là chứng một phần Trạch Diệt
Vô Vi, nên gọi là ‘tu đạo nhập diệt’. Thắng
tánh ở đây chính là tánh của Diệt Đế Vô Sanh.
Khi tướng viên măn sắp hiện, như trời
chưa mưa nhưng đă kéo mây th́ ta liền ở
trước hàng hữu học ấy, hiện thân Thanh
Văn, thuận theo ḷng họ ưa thích, nói pháp Diệt
Đế Vô Sanh khiến cho họ giải thoát các lậu
trong thế gian, vượt thoát tam giới, chứng
Phương Tiện Hữu Dư Độ Niết Bàn”.
[11] Tự Tại Thiên, gọi
đủ là Tha Hóa Tự Tại Thiên (Paranirmitava
Śavartin), là tầng trời thứ sáu, tức tầng
cao nhất trong Dục Giới. C̣n gọi là Hóa Lạc Thiên
hoặc Hóa Tha Tự Chuyển Thiên. Chư thiên sống trong
cơi này không tự biến hiện sự lạc dục
để hưởng thụ mà lợi dụng sự biến
hóa của người khác nên có tên như vậy. Thiên
vương cơi này cũng như Ma Hê Thủ La Thiên
Vương đều là những ma vương lợi hại
đối với Phật giáo.
[12] Đại Tự Tại Thiên
(Maheśvara), dịch âm là Ma Hê Thủ La Thiên Vương tức
vua của tầng trời cao nhất trong Sắc Giới,
là chúa tể của tam thiên đại thiên thế giới.
Đây là một danh xưng khác của thần Thấp Bà
(Shiva), tức thần hủy diệt trong Ấn Độ
Giáo. Trong kinh điển, vị này vừa là thần hộ
pháp, vừa là Ma Vương lợi hại nhất. Vị
thiên vương này c̣n được biết dưới
các danh xưng như Thương Yết La Thiên, Y Xá Na Thiên
v.v... Bồ Tát hiện thân trời này nhằm hóa độ
những ngoại đạo sùng bái Đại Tự Tại
Thiên, tức những kẻ thường được gọi
là Đồ Thán Ngoại Đạo (ngoại đạo
bôi than hay tro lên thân) hay Tự Tại Ngoại Đạo,
hay Shaivist.
[13] Thiên Đại Tướng
Quân là từ ngữ chỉ chung các vị tướng soái của
các vị thiên vương. Trong Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch,
Pháp sư Giao Quang đă giảng từ ngữ này như
sau: “Tứ Thiên Vương là
chủ soái, mỗi vị có tám đại tướng, Vi
Đà làm Thượng Thủ. Theo Kim Quang Minh Kinh, Tán Chi làm
đại tướng thống lănh hai mươi tám bộ
[quỷ thần] tuần du thế gian”.
[14] Theo Đại Cát
Nghĩa Kinh: “Hộ Thế Tứ
Vương mỗi vị có chín mươi mốt người
con, h́nh mạo, dáng vẻ đoan chánh, có thế lực lớn,
giống như Na Tra vậy”. Sách Quán Đảnh Sớ
cho biết: “Trong niên hiệu
Thiên Bảo đời Đường, năm nước
thuộc Tây Phiên đến cướp phá Tây An, quân nhà
Đường không chống cự được.
Đường Huyền Tông bèn hạ chiếu vời Bất Không Tam Tạng vào cung, tŕ tụng
Hộ Quốc Nhân Vương Đà La Ni. Sư vừa tụng
mười bốn biến, chợt thấy năm trăm
vị thần tướng cầm giáo đứng trước
điện, thưa: ‘Con thứ hai của Bắc
Phương Thiên Vương là Độc Kiện
đến cứu Tây An’. Bọn giặc tấn công Tây An thấy
trên hư không có vô số thiên binh, thiên tướng, kinh sợ
bỏ chạy, lui binh’. Quan tâu lên, vua vui mừng, truyền
mỗi chùa trong các châu phủ lập Thiên Vương Điện
để thờ phụng”.
[15] Theo pháp sư Viên Anh, tại Ấn
Độ, để được gọi là “trưởng
giả” phải hội đủ mười đức:
1. Ḍng dơi sang quư, tức là những
người thuộc những ḍng họ cao quư, giàu mạnh
trong giai cấp Sát-đế-lợi (Ksatriya).
2. Có địa vị cao quư, chẳng
hạn như thừa tướng, lăo thần trong triều.
3. Rất giàu có.
4. Có oai thế, tướng mạo
trang nghiêm, oai hùng, khiến người khác thoạt nh́n
đă kính sợ.
5. Trí sâu: Tâm sáng như mặt trời,
mặt trăng, thông minh, thuần hậu.
6. Tuổi cao.
7. Giới hạnh thanh tịnh,
đáng làm gương mẫu cho người khác.
8. Lễ nghi đầy đủ,
tức là dáng diệu an ḥa, xử sự đúng phép tắc,
khiến cho người khác cảm thấy vinh dự, hoan
hỷ khi được thân cận.
9. Được bề trên khen
ngợi, tức là được các bậc vương giả
ca ngợi.
10. Được
kẻ dưới quy ngưỡng: Được nhân dân,
bầy tôi kính phục.
[16] Pháp sư Viên Anh giảng:
“Thanh tịnh tự cư: Thân
sống trong trần lao nhưng chẳng nhiễm dục lạc
thế gian, tâm luôn thanh tịnh, sống đúng theo lẽ
đạo”.
[17] Pháp sư Viên Anh giảng:
“Thiên văn, địa lư, âm
dương độ số, gọi chung là Số, chữa
bệnh, bói toán, tướng số, họa bùa vào nước
v.v... th́ gọi là Thuật. Chế ngự, thâu liễm thân
tâm, bớt nhọc nhằn để tâm thần thanh tịnh
th́ gọi là Nhiếp. Bảo vệ sanh mạng, giữ
tinh, dưỡng khí gọi là Vệ”.
[18] Pháp sư Viên Anh giảng: “Địa vị chánh đáng của
nữ giới là ở trong gia đ́nh nên gọi là Nội
Chánh. Mọi chuyện trong gia đ́nh do nữ nhân chủ
tŕ, hiếu kính bố mẹ chồng, giáo dục con cái,
đấy là Nội Chánh. Tuy sang cả vẫn siêng năng,
tuy giàu có vẫn tiết kiệm, trinh, tĩnh, kín đáo,
nhàn nhă, dùng những điều ấy để trau giồi
đức hạnh của người nữ nên gọi là
Lập Thân.... Do dùng Nội Chánh để Lập Thân, nên
thân được trau giồi, cảm hóa người trong
gia đ́nh, ảnh hưởng đến toàn bộ quốc
gia. Chữ Gia chỉ chung từ bậc đại phu trở
lên, chữ Quốc chỉ từ bậc chư hầu trở
lên. Nữ nhân có thể dùng Nội Chánh để lập
thân, tu thân th́ đấy chính là cái gốc để tề
gia trị quốc”.
[19] Pháp sư Viên Anh giảng:
“Nữ Chủ: Vợ của
thiên tử (tức hoàng hậu). Quốc phu nhân: Vợ của
các vị đứng đầu các bang, các quận. Mạng
phụ: Những người vợ được nhận
bằng sắc phong tước của triều đ́nh, tức
là những người do chồng làm quan mà vợ
được phong tước. Đại gia: Những bậc
tài lẫn đức cùng trọn đủ, có thể làm thầy
cho các bậc nữ chủ, như vợ của ông Tào Thế
Thục đời Hán, do thường theo con gái của Ban
Siêu vào cung, giảng dạy hoàng hậu và các quư nhân nên cơi
đời gọi bà là Tào Đại Gia”.
[20] Theo ngài Quán Đảnh,
có bốn loại rồng (Naga): Một là rồng bảo vệ
cung trời, hai là rồng chuyên giăng mây xối mưa, ba
là rồng khai ng̣i, khoét sông, bốn là rồng bảo vệ
các kho báu. Do trong quá khứ họ từng tu phước nên
có thần thông biến hóa, phần nhiều hóa hiện h́nh
người, nhưng có năm khoảng thời gian họ
sẽ không thể nào chẳng mang thân giống như rắn:
khi sanh nở, khi ngủ, khi hành dâm, khi sân hận, khi chết.
Kinh Trường A Hàm nói rồng có ba thứ hoạn nạn:
Một là bị cát nóng nung thân, hai là gió phá tan cung điện,
ba là bị Kim Xí Điểu ăn nuốt. Cái nhân biến
thành rồng là do trong kiếp trước tu rất nhiều
phước, nhưng quá sân hận, tâm không ngay thẳng, lại
phạm giới, thích tranh chấp, hơn thua quyết liệt.
[21] Dược Xoa
(Yaksha), c̣n phiên âm là Dạ Xoa, dịch nghĩa là Năng
Đạm Quỷ (quỷ ăn nuốt), Tiệp Tật
Quỷ (quỷ nhanh lẹ), Dũng Kiện (mạnh mẽ),
Khinh Tiệp (nhẹ nhàng, lanh lẹ) v.v... Đây là một
loại quỷ thần (gồm ba loại Địa Hành,
Không Hành và Phi Hành) thuộc Thiên Long Bát Bộ, được
thống lănh bởi Bắc Phương Tỳ Sa Môn thiên
vương. Họ có h́nh mạo giống người,
nhưng dữ tợn, tuy vậy, vẫn có những vị
phát tâm hộ pháp.
[22] Càn Thát Bà (Gandharva), c̣n phiên âm là
Kiện Đạt Bà, Kiện Đạt Phược, Kiện
Thát Bà, Càn Đạp Bà, Ngạn Đạn Phược, Ngạn
Đạt Phạ, hoặc Kiện Đà La, dịch
nghĩa là Khứu Hương (ngửi mùi thơm) hoặc
Hương Thần, là một trong tám bộ quỷ thần,
là thuộc hạ của Đông Phương Đề
Đầu Lại Tra (Dhrtarāstra)
thiên vương. Họ là nhạc thần của Đế
Thích, chuyên tấu nhạc phụng sự chư thiên. Khi
Đế Thích muốn nghe nhạc liền đốt Trầm
Hương, họ ngửi thấy mùi sẽ liền đến
ngay.
[23] A Tu La (Asura), c̣n
phiên âm là A Tố Lạc, A Tô La, hay A Tu Luân, là loài được
coi là nửa thần nửa người trong Phật giáo. Họ
là những người tu tập nhiều thiện căn,
nhưng hay nóng giận, chấp trước, nên thân h́nh họ
thiếu đoan chánh, tuy có thần thông, nhưng phước
báo kém hẳn chư thiên, thường ganh tỵ, hay kéo quân
đánh nhau với chư thiên. Họ sống ở chân núi
Tu Di. Trong kinh Phật, những vị Tu La Vương nổi
tiếng nhất là Bà Trĩ (Dũng Kiện), Khư La Kiển
Giam (tiếng rống như sấm), Tỳ Ma Chất
Đa La (Hoa Hoàn), La Hầu (vị này hay che lấp mặt
trời, mặt trăng).
[24] Khẩn Na La
(Kinnara), c̣n phiên âm là Khẩn Nại Lạc, là một trong
tám bộ quỷ thần, giống người, đầu
có một sừng (do vậy, đôi khi dịch nghĩa là
Nghi Nhân - ngỡ là người nhưng không phải là
người), tiếng ca thánh thót, là nhạc thần cơi trời,
chuyên phụ trách ca hát. Càn Thát Bà tấu nhạc, c̣n Khẩn
Na La chuyên ca vũ.
[25] Ma Hô La Già (Mahoraga)
c̣n phiên âm là Ma Hầu La Già, hoặc Mạc Hô Lạc Già, là
một loài rắn lớn.
[26] Pháp sư Viên Anh giảng:
“Các thân ấy cùng một lúc biến
hiện, ứng theo mỗi loại nên gọi là Diệu, chẳng
chấp vào tướng nên gọi là Tịnh. Hơn nữa,
Diệu là chẳng thể nghĩ bàn, Tịnh là không bị
nhiễm đắm. Tam luân (thân, ngữ, ư) của Đại
Sĩ đều chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là Diệu,
mỗi mỗi đều chẳng đắm nhiễm nên gọi
là Tịnh. Văn Huân Văn Tu: Do tánh Nghe từ trong bổn
giác huân tập bên trong, nên diệu trí nơi Thỉ Giác
được hun đúc để phát khởi. Dùng công phu
tu tập Phản Văn (xoay trở lại để nghe
nơi tánh Nghe) nên luôn luôn nghe nơi tự tánh, nung đốt
tập khí chấp trước, cởi gỡ được
sáu Kết, phá Ngũ Ấm, vọng hết, chân lộ, tịch
diệt hiện tiền. ‘Vô tác diệu lực’: Chẳng cần
phải suy nghĩ mà có lực dụng chẳng thể
nghĩ bàn, không cần phân thân mà hiện khắp, cảm ứng
khắp mọi căn cơ, giống như vầng
trăng trên trời, có cần phải suy nghĩ để
soi bóng trong mọi chỗ có nước ư ?”
[27] Nguyên văn “do ngă bất tự quán âm, dĩ quán quán giả”,
pháp sư Viên Anh giảng: “Chữ
Quán [thứ hai] chỉ trí năng quán (tức trí dùng để
quán sát mọi cảnh), trí quang chẳng chiếu ra ngoài, cho
nên chẳng tự quán âm thanh của thế gian, bởi lẽ
cái người để quán cái trí năng quán ấy là ai vậy?
Câu thứ nhất (‘bất tự quán âm’) là tách rời khỏi
Trần, câu sau (‘dĩ quán quán giả’) là nói đến chiếu
tánh, cũng tức là trái trần hợp giác”.
[28] Nguyên văn là “tri quán toàn phục”, pháp sư Viên Anh giảng: “Hai chữ Tri Quán bao gồm tác dụng
thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm nhận, biết của
sáu căn. Toàn Phục là xoay chuyển (Toàn: 旋) cái vọng,
khôi phục (Phục: 复) lẽ
Chân, xoay chuyển vọng tri, vọng kiến nơi duyên trần
nhằm khôi phục chân tri, chân kiến nơi tự tánh.
Đại Sĩ dùng công phu Phản Văn nơi Nhĩ
Căn để t́m lại nguồn cội của tánh Nghe,
xoay chuyển sự Nghe hư vọng để thoát ĺa
Thanh Trần, chẳng vướng mắc trong Lục Trần.
Một căn đă trở về với nguồn cội
th́ sáu căn đều thành giải thoát. Tri Quán Toàn Phục
tức là lửa lớn nơi sự tri giác bên trong đă tắt
th́ lửa nơi thế gian bên ngoài chẳng thể làm hại
được”.
[29] Nguyên văn “quán thính toàn phục”, pháp sư Viên Anh giảng: “Câu này nói về diệu lực,
câu tiếp theo nói đến đại dụng. Câu này có
nghĩa là quán ngược lại tánh Nghe, xoay chuyển cái
Nghe hư vọng để khôi phục cái Nghe chân thật/
Cái Nghe thuộc về thủy, nên khi những nghiệp
được cái Nghe giao xen th́ sẽ thấy nước
lớn. Nay đă xoay chuyển cái Nghe, khôi phục được
bản tánh chân thật th́ không c̣n nghiệp tạo bởi
cái Nghe nên nước chẳng thể ch́m được”.
[30] Pháp sư Viên Anh giảng: “Vọng tưởng chính là thức
thứ sáu. Trong phần trước, đức Phật
đă cho biết thức chẳng phải là tâm như sau:
‘Đấy không phải là tâm ông mà là tiền trần,
tưởng tượng hư vọng, ví như kẻ giặc
có thể sát hại pháp thân huệ mạng của chúng sanh,
giống như La Sát ăn thịt người rất
đáng sợ hăi’. Ở đây, Đại Sĩ do xoay lại
cái Nghe, nhập vào chân tánh, ngoài chẳng duyên theo các trần,
trong chẳng vướng theo Căn, Căn lẫn Trần
đều không c̣n dính mắc nữa, thức tâm cũng diệt,
nên gọi là ‘đoạn diệt vọng tưởng’. Vọng
tưởng đă diệt th́ tâm không c̣n ư niệm sát hại,
hoàn toàn vượt thoát khỏi tâm hạnh của quỷ
thần. Dùng sức trừ diệt ấy để gia bị
chúng sanh nên khiến cho các chúng sanh ở trong các nước
quỷ La Sát chỉ nhất tâm xưng danh Ngài th́ quỷ chẳng
thể hại được!”
[31] Nguyên văn“huân văn thành văn, lục
căn tiêu phục, đồng ư thanh thính”, pháp sư
Viên Anh giảng: “Huân văn
thành văn: Đại Sĩ xoay lại cái Nghe để
chiếu soi tánh, dùng đó để un đúc cái Nghe hư vọng
khiến cho nó trở thành chân văn (nghe chân thật).
Nhĩ Căn đă tiêu tan vọng, khôi phục Chân như thế,
th́ sáu căn cũng đều tiêu tan vọng, khôi phục
Chân giống như thế. Giống như đối với
Thanh Trần và tánh Nghe, mỗi một cặp tương ứng
đều tiêu vọng, khôi phục sự chân thật giống
như vậy. Trần mất, Căn tận, Căn và Trần
đă tiêu th́ lẽ nào sự giác minh (sự nhận biết
sáng suốt) chẳng được viên măn, mầu nhiệm
ư?”
[32] Nguyên văn “văn huân tinh minh, minh biến
pháp giới”, pháp sư Viên Anh giảng: “Dùng sự xoay lại cái Nghe để huân tu, khôi phục,
tái lập tánh bổn nguyên trong trẻo sáng suốt, khiến
cho sự sáng suốt sẵn có được tỏa rạng.
Tánh sáng suốt chiếu ngời trọn khắp pháp giới.
Quỷ thần chính là sự tối tăm u ám xen nhiễm
nơi tánh, há c̣n tồn tại được
chăng ? Đấy chính là ư nghĩa phá tối vậy”.
[33] Cưu Bàn Trà (Kumbhanda), c̣n phiên
âm là Câu Bàn Đồ, Cứu Bàn Đồ, Cung Bàn Đồ
hoặc Cưu Măn Noa, hay Bàn Tra, dịch nghĩa là Ủng
H́nh Quỷ (quỷ có h́nh giống cái ṿ), Đông Qua Quỷ
(quỷ có thân h́nh trông giống như quả bí), Yểm Mỵ
Quỷ. Loài quỷ này thích ăn tinh khí của con người,
biến hóa khôn cùng, ở trong chốn núi hoang đồng vắng,
là bộ thuộc của Tỳ Lâu Lặc Xoa thiên
vương (Virūdhaka: Tăng
Trưởng thiên vương).
[34] Tỳ Xá Giá (Piśāca) c̣n
phiên âm là Tỳ Xá Xà, dịch nghĩa là Thực Tinh Khí Quỷ,
địa vị thấp hơn loài La Sát, là ác quỷ thích
hại người, là bộ thuộc của Tŕ Quốc
thiên vương (Dhrtarāstra). Loài quỷ này thích ăn tinh
khí và máu thịt của con người. Tuy thế, cũng
có quỷ Tỳ Xá Giá phát tâm hộ pháp.
[35] Loại quỷ này
gọi đủ là Ca Tra Phú Đan Na (Katabhutana), c̣n phiên là Yết
Tra Bố Đát Na, Yết Tra Phú Đan Na, dịch âm là Kư Xú
Quỷ, Cực Xú Quỷ. Theo Hộ Chư Đồng Tử
Đà La Ni Kinh, loài quỷ này có h́nh dáng giống như lợn,
hết sức hôi thối, thường gây hại cho
người và loài vật, nhất là thường làm hại
trẻ con, khiến chúng hay khóc đêm, ốm yếu.
[36] Nguyên văn “âm tánh viên tiêu, quán thính phản nhập,
ly chư trần vọng”, pháp sư Viên Anh giảng: “Âm tánh viên tiêu: Hai tánh động
và tịnh của âm thanh đều tiêu diệt, tức là
hai tướng động và tịnh trọn chẳng c̣n
sanh nên gọi là Viên Tiêu. Quán thính phản nhập: Quán chiếu
tánh Nghe, đi ngược ḍng (tức là xoay trở lại
quán tánh Nghe, không chấp vào đối tượng
được nghe (thanh trần), không
chấp vào Căn, không chấp vào tánh Nghe) nên gọi là Phản
Nhập. Như thế, hễ nhập được một
tánh vô vọng (chứng ngộ một tánh là chân thật,
không c̣n bị vọng kiến, t́nh thức nhiễm trước,
che lấp công năng chân thật của tánh ấy) th́ chẳng
những Thanh Trần tiêu diệt, mà các Trần khác như Sắc,
Hương v.v... đều tiêu diệt, nên gọi là
Ly Chư Trần Vọng. Khi Căn và Trần đă diệt
th́ các sự thấy, nghe v.v... nơi các căn cũng đều
chuyển vọng thành chân, Căn lẫn Trần chẳng
c̣n, dùng diệu lực ấy gia bị chúng sanh, khiến
cho những kẻ bị nạn hễ xưng danh liền
được cảm ứng”.
[37] Nguyên văn “diệt âm viên văn, biến sanh từ lực”,
pháp sư Viên Anh giảng: “Diệt
âm viên văn: Khi Đại Sĩ xoay trở lại cái Nghe,
chứng nhập tánh, th́ âm thanh không c̣n (nên gọi là Diệt
Âm), giải thoát thanh trần, tánh Nghe được tỏ
lộ trọn vẹn, chứng nhập thể tánh của Căn đến mức tột
cùng. Do Trần đă diệt, nên ngoài không c̣n chống đối,
đối kháng; do Căn đă viên nên mọi thứ đều
trở về nhất tâm, có thể sanh ra từ lực trọn
khắp (biến sanh từ lực)”.
[38] Nguyên văn “huân văn ly trần, sắc sở bất kiếp”,
pháp sư Viên Anh giảng: “Tham,
sân, si gọi là Tam Độc, do chúng gây hại cho pháp thân
huệ mạng nên gọi là Tam Độc. Hơn nữa,
Tam Độc là nhân tạo ra Tam Đồ, chúng sanh lắm
sân đọa địa ngục, chúng sanh lắm tham đọa
ngạ quỷ, chúng sanh lắm si đọa súc sanh. Nay nói
không sợ hăi Tam Độc chẳng phải là không sợ
hăi sự ác mà là do tŕ danh nên ĺa Tam Độc, do đại
oai lực [của Đại Sĩ] nên không sợ hăi. Trong
các thứ Tham th́ tham dục nặng nhất. Chỉ có dâm dục
là con người dễ bị vi phạm nhất. Thấy
sắc động ḷng, ắt đọa trong hầm sâu ái
dục. Dục lại khó đoạn nhất, là điều
gây hại lớn nhất. Thường niệm cung kính Quán
Thế Âm Bồ Tát sẽ được ly dục, cậy
vào sức oai thần của Bồ Tát và sức tŕ niệm
danh hiệu của chính ḿnh (đấy là “huân văn ly trần”),
đoạn trừ tam độc (do trong Tam Độc, sắc
dục (thuộc Tham) là nặng nề nhất, nên nói “Sắc
bất sở kiếp” (Sắc chẳng cướp đoạt
được), nghĩa là nêu rơ : Cái mạnh mẽ, tàn
hại nhất đă không thể gây hại người tŕ
niệm th́ Tam Độc đều không thể làm ǵ
người ấy !”
[39] Nguyên văn “thuần âm vô trần, căn cảnh viên dung, vô đối,
sở đối”, pháp sư Viên Anh giảng: “Thuần âm vô trần: Diệu
tánh của sự Nghe âm thanh thuần nhất, không c̣n thấy
có Thanh Trần nào để đối ứng với sự
Nghe ấy nữa, tức là hai tướng động - tịnh
(tức là sự chấp trước thấy có âm thanh vang
lên và âm thanh mất đi) trọn chẳng c̣n sanh nữa.
Đă không c̣n có cảnh đối ứng (Trần) th́
cũng chẳng c̣n cái Căn để nhận biết cái
cảnh ấy nữa nên Căn lẫn Trần cùng mất,
chỉ là sự giác ngộ quư báu, viên dung, thanh tịnh,
trong ngoài giống hệt như nhau, viên dung nhất thể,
không phân biệt, không chướng ngại”.
[40] Nguyên văn “tiêu trần toàn minh, pháp giới,
thân tâm, do như lưu ly, minh lăng vô ngại”, pháp sư
Viên Anh giảng: “Si là do tánh bị
vọng trần che lấp, do vô minh gây chướng ngại.
‘Tiêu trần toàn minh’: Tiêu trừ cảnh sở duyên của
các căn là vọng trần, xoay chuyển, khôi phục lại
sự sáng suốt sẵn có nơi tự tánh, cởi gỡ
dính mắc, trở về với sự nguyên chân, tỏ lộ
sự sáng suốt sẵn có. Do vậy, pháp giới bên ngoài,
thân tâm bên trong giống hệt như báu lưu ly, rỗng
rang, chiếu sáng ngời, trong ngoài thông suốt, không bị
chướng ngại”.
[41] A-điên-ca (Atyantika), c̣n phiên âm
là A Điên Để Ca, dịch nghĩa là Tất Cánh hoặc
Vô Tánh Xiển Đề, tức là một loại hữu
t́nh rốt ráo không thể thành Phật được. Nói
cách khác, A-điên-ca là danh xưng khác của Nhất Xiển
Đề (Icchantika).
Sách Thành Duy Thức Luận Chưởng Trung Khu Yếu, quyển
thượng giảng: “A
Điên Để Ca, dịch là Tất Cánh, tức là rốt
ráo không đạt được Niết Bàn”.
[42] Nguyên văn “dung h́nh phục văn, bất
động đạo tràng, thiệp nhập thế gian, bất
hoại thế giới”, pháp sư Viên Anh giảng: “Hai câu ‘dung h́nh phục văn, bất
động đạo tràng’ nói về lư chứng tu hành. Thân
h́nh Tứ Đại huyễn vọng trọn chẳng c̣n
(tức là không c̣n chấp vào Tứ Đại nên Tứ
Đại không thể khởi tác dụng gây mê hoặc, do
không c̣n tác dụng gây mê hoặc nên gọi là ‘tiêu dung’ (tiêu
trừ, dung hợp). Cái Nghe (Văn) và đối tượng
của cái Nghe (sở văn) đều mất, xoay chuyển
lại, khôi phục tánh Nghe Nhất Chân nên sanh diệt
đă diệt, tịch diệt hiện tiền, chứng nhập
Lư Thể chẳng lay động, nên gọi là ‘bất
động đạo tràng’. ‘Thiệp nhập thế gian,
bất hoại thế giới’: Khởi đại tác dụng
xứng hợp thể tánh, Bồ Tát có thể hiện thân
vào trong vi trần cơi Phật, dùng một thân hiện ra vô
lượng thân, vào trong tất cả các cơi thế gian (hữu
t́nh thế gian lẫn chánh giác thế gian) trong ba đời,
tùy loại hiện thân, chẳng hoại tướng thế
gian, nương vào Lư để thành tựu Sự”.
[43] Nguyên văn “lục căn viên thông, minh chiếu vô nhị, hàm thập
phương giới, lập đại viên kính, không Như
Lai tạng”, pháp sư Viên Anh giảng: “Viên là viên dung, sáu căn có thể sử dụng lẫn
cho nhau. Tức là dùng bất cứ một căn nào đều
có khởi tác dụng thấy, nghe, ngửi, nếm, hay, biết”.
Thông là thông đạt, tức sáu căn chẳng hề bị
ngăn cách. Hai chữ Viên Thông bao trùm hết các câu kế tiếp.
Do thông đạt nên Minh và Chiếu không hai, sáu căn thông lợi,
phát khởi tác dụng của sự Chiếu (nhận biết)
từ bản tánh sáng suốt (Minh), Minh và Chiếu không hai,
không khác. Cho nên chân tâm ví như một tấm gương
tṛn lớn, hay c̣n gọi là Đại Viên Kính Trí v́ nó có thể
tiếp nhận hết thảy pháp môn bí mật của vi
trần Như Lai. Do nó viên dung nên chứa đựng trọn
khắp các cơi trong mười phương, có thể tiếp
nhận các pháp môn của chư Phật, đại, tiểu,
quyền, thật hoàn toàn chẳng bỏ sót chút nào, nên gọi
là Không Tạng (tức là giống như cái kho to lớn
như hư không có thể dung chứa vô tận)”.
[44] Nguyên văn “do ngă sở đắc viên thông bổn căn, phát diệu
nhĩ môn, nhiên hậu thân tâm vi diệu dung hợp, châu biến
pháp giới”, pháp sư Viên Anh giảng: “Do tôi đạt được sự viên thông
nơi Nhĩ Căn, tức là đă đạt được
sự viên thông nơi cái Căn chánh yếu (bổn căn).
Chữ Bổn Căn gồm hai nghĩa:
1.
Nhĩ Căn là căn vốn sẵn lanh lợi nhất
trong Sa Bà, nên muốn đạt Tam Ma Đề th́ phải
từ sự Nghe mà chứng nhập.
2.
Nhĩ Căn Viên Thông là môn chánh yếu trong các môn Viên Thông,
là con đường để vi trần Phật chứng
nhập Niết Bàn.
Nhĩ môn
được gọi là Diệu v́ đức Cổ Phật
Quán Thế Âm trong quá khứ đă do Văn, Tư, Tu,
nương theo diệu lư bất sanh bất diệt của
tánh Nghe mà phát khởi diệu trí “phản văn chiếu
tánh” (xoay trở lại quán sát sự nghe để thấu
hiểu tánh), soi thấu triệt Ngũ Ấm, giải trừ
sáu Kết, chứng bản thể viên thông, phát sanh tác dụng
tự tại. ‘Nhiên hậu thân tâm vi diệu hàm dung, châu biến
pháp giới’: Sau đấy xứng theo Thể, khởi tác
dụng ứng hóa không ngằn mé, đấy là sự vi diệu
nơi thân. Soi xét căn cơ không sai lầm là sự vi diệu
nơi tâm. Chữ ‘hàm dung’ chỉ diệu tâm v́ tâm dung chứa
mười phương và chúng sanh trong vô lượng thế
giới. Chữ “châu biến’ chỉ diệu thân, ư nói thân
trọn khắp thánh, phàm, tịnh, nhiễm”.
[45] Nguyên văn “do ngă sơ hoạch diệu diệu
văn tâm, tâm tinh di văn, kiến, văn, giác, tri, bất
năng phân cách, thành nhất viên dung, thanh tịnh bảo
giác, cố ngă năng hiện chúng đa diệu dung,
năng thuyết vô biên bí mật thần chú”. Pháp sư
Viên Anh giảng: “Xét đến
nguyên do th́ do ta được đức Quán Âm Như Lai dạy
dùng Văn Tư Tu để nhập Tam Ma Địa, nên
thoạt đầu từ nơi cái Nghe trở về nguồn,
quán chiếu cái tánh, từ bổn giác diệu lư khởi lên
Thỉ Giác diệu trí. Dùng diệu trí để chiếu diệu
lư, lư và trí cùng diệu nên gọi là Diệu Diệu Văn
Tâm. Hơn nữa, trong tánh của sáu căn th́ diệu tánh
của Nhĩ Căn vượt trỗi thù thắng hơn
các Căn khác, tức là diệu nhất trong các môn. Lúc mới
đạt được tâm này, dùng nó để tu nhân nên
gọi là ‘sơ hoạch diệu diệu văn tâm’. ‘Tâm
tinh di văn’: Di (遺) có nghĩa là vượt thoát, tức là cái
Nghe và đối tượng bị Nghe đều diệt,
chỉ c̣n một cái tâm tinh minh, vượt thoát Căn lẫn
Trần. Nói ‘thấy, nghe, hay, biết’ là dùng bốn món
để bao gồm cả sáu món tinh minh nơi sáu Căn.
Những điều thấy, nghe v.v... này chẳng bị
phân cách bởi sáu căn do Trần đă mất, Căn chẳng
c̣n, trở về nguồn là một, chẳng khởi tác dụng
phân biệt chấp trước, nên trước hết
đạt được Nhân Không. Chẳng trụ nơi
hóa thành, tăng tấn dần dần, chứng được
Pháp Không. Thẳng măi đến cuối cùng th́ Sanh lẫn
Diệt đều diệt, tịch diệt hiện tiền,
trở về với chân thể cội gốc, trở
thành viên dung vô ngại, vốn sẵn thanh tịnh. Do sáu
căn có thể dùng lẫn cho nhau nên gọi là viên dung, do
các trần chẳng nhiễm nên gọi là thanh tịnh. Chứng
nhập ba Như Lai tạng tâm và bổn giác lư thể ví
như bảo châu Ma ni nên gọi là bảo giác. Bảo giác
chân tâm vốn sẵn thanh tịnh, vốn chẳng có một
pháp nào để đắc, đấy chính là Không Như
Lai Tạng. Như bản thể của châu Ma Ni là thanh tịnh
vô nhiễm, chân tâm tùy duyên, tuy hiện các Sắc, nhưng bản
thể của Châu chẳng thay đổi. Cho nên ta có thể
từ một thân hiện ra nhiều h́nh dáng, chẳng hạn
hiện đầu, hiện tay, hiện mắt. ‘Chú’ có
nghĩa là bí mật, đấy chính là lời lẽ bí mật
của chư thánh, do những địa vị thấp
hơn không thấu hiểu được nên gọi là ‘mật
chú’. Kẻ ở địa vị thấp hơn hễ tŕ
mật chú ấy sẽ đạt được lợi
ích, có trọn đủ lực dụng thần diệu nên
gọi là Thần Chú”.
[46] Thước-ca-la
(Cakra): có nghĩa là Luân, Kim Cang, Kiên Cố Bất Thoái.
[47] Mẫu-đà-la (Mudrā):
Ấn khế. Tay mẫu-đà-la chính là tay kết ấn.
[48] Nguyên văn Ngũ
Thể, chỉ đầu, hai tay và hai chân.
[49] Phạm
bái (Brahmābhasa): Dùng nhạc điệu
để tụng kinh, tán dương, tán thán công đức
của đức Phật. Phạm là thanh tịnh, Bái
(Bhasa) là tán dương. Do những nhạc điệu tán
dương này làm cho người nghe hoan hỷ, tăng
trưởng pháp hỷ, di dưỡng tinh thần, không gây
tham đắm hay khởi lên phiền năo, nên gọi là Phạm
(thanh tịnh).
[50] Vô học (Asaiksa):
Bậc đă đến chỗ cùng cực của chân lư. Do
người nếu chưa đạt đến chỗ
chân lư tột cùng của Phật giáo th́ c̣n phải tu học
để tiến lên, nên những người ấy gọi
là Hữu Học. Trái lại, Vô Học là bậc đă
đạt đến chân lư tột cùng, không c̣n bị
điều ǵ làm cho mê lầm, không c̣n ǵ phải tu học nữa.
Từ ngữ này thường dùng để chỉ bậc
A La Hán.
[51] Nguyên văn “nguyên minh chiếu sanh sở, sở
lập chiếu tánh vong”, pháp sư Viên Anh giảng: “Nguyên minh là chẳng sanh tác dụng
soi chiếu sai lầm, đấy gọi là bổn minh (vốn
sẵn sáng suốt), trọn chẳng có một vật mảy
may nào. Nay từ tánh nguyên minh ấy sanh tác dụng chiếu
soi (nhận biết sự vật) một cách lầm lạc,
nên Chiếu ấy là vọng chiếu! ‘Sanh Sở’: Do vọng
chiếu nên mới có Vọng (mê lầm) được
sanh ra. Do vọng cảnh là đối tượng của
Chiếu đă được tạo lập nên tánh chân chiếu
liền mất (tức là có đối đăi, thấy có
Năng Chiếu và Sở Chiếu), nên mới nói: “Sở lập,
chiếu tánh vong”.
[52] Nguyên văn “sắc tưởng kết thành
trần, tinh liễu bất năng triệt, như hà bất
minh triệt, ư thị hoạch viên thông”, pháp sư
Viên Anh giảng: “Đây là luận
định về môn viên thông Sắc Trần của ngài
Ưu Bà Ni Sa Đà. Ngài do thấy tánh của Sắc là Không
mà nhập viên thông. Ư lời kệ nói: Sắc chỉ dựa
vào vọng tưởng ngưng kết mà thành h́nh, nó là loại
Trần gây chướng lấp tự tâm, nên nếu tâm
đă sáng tỏ th́ lẽ nào chẳng thấu hiểu rốt
ráo Sắc Trần, Sắc Trần đâu c̣n có tác dụng
ngăn lấp nữa ! Nhưng đối với bậc
sơ tâm th́ do họ c̣n chưa thấu suốt sáng tỏ,
thấu triệt Sắc Trần là huyễn vọng th́ làm
sao họ có thể nương vào Sắc Trần để
mau chóng đạt được Viên Thông?”
[53] Nguyên văn “âm thanh tạp ngữ ngôn, đản
y danh cú vị, nhất phi hàm nhất thiết, vân hà hoạch
viên thông?” Pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là môn Thanh Trần Viên Thông của ngài Kiều
Trần Như. Chữ Âm Thanh chỉ cho lời nói thẳng
thắn, chân thật, chữ Ngữ Ngôn chỉ lời nói
tà vạy. Nghĩa là trong một pháp Thanh Trần này,
chưa khỏi xen tạp ngữ ngôn văn tự tà vạy.
Trong câu ‘đản y danh cú vị’, chữ Y (伊) phải hiểu là Bỉ (彼: cái đó). Danh nhằm phô bày tự tánh. Dùng một chữ
để đặt tên th́ gọi là Danh, chẳng hạn
như B́nh (cái b́nh), chứ không nói cụ thể cái b́nh nào.
Cú dùng để chỉ sự sai biệt như nói hai chữ
Hoa B́nh, tức là có mang ư nghĩa biểu thị cụ thể
nên gọi là Cú. Dùng nhiều chữ để kết hợp
th́ là Văn. Nay nói đến Vị tức là nói đến
ư nghĩa của cái lư được phô diễn bởi
Văn. Do vậy, câu ‘đản y danh cú vị’ có nghĩa
là mỗi một câu [trong ngôn ngữ thế gian] chỉ có ư
nghĩa được bao hàm trong Danh và Cú ấy mà
thôi ! Hơn nữa, một Danh chẳng thể dung chứa
trọn khắp hết thảy Danh, một Cú trọn chẳng
thể chứa đựng hết thảy Cú, một
Nghĩa trọn chẳng thể bao gồm hết thảy
Nghĩa, thế th́ kẻ sơ tâm làm sao có thể
nương theo vật chẳng dung thông trọn khắp ấy
để mau chóng đạt Viên Thông cho được?”
[54] Đây là môn
Hương Trần Viên Thông của Hương Nghiêm đồng
tử.
[55] Nói là ‘chẳng sẵn
có’, v́ phải dùng lưỡi để nếm mới biết
có Vị. Đây là môn Vị Trần Viên Thông của Dược
Vương và Dược Thượng Bồ Tát.
[56] Hợp, rời :
Khi thân căn tiếp xúc với vật th́ gọi là Hợp,
khi thân căn không tiếp xúc với vật là Ly (rời).
Đây là môn Xúc Trần Viên Thông của ngài Bạt Đà Bà La.
[57] Nguyên văn: “Pháp xưng vi nội trần, bằng trần tất
hữu sở, năng sở phi biến thiệp, vân hà hoạch
viên thông?” Pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là môn Pháp Trần Viên Thông của ngài Ma Ha Ca Diếp.
Pháp Trần chẳng có thực chất giống như
năm Trần trước mà chỉ là h́nh bóng phản chiếu
của năm Trần, nó phải dựa vào Ư để làm
duyên, phối hợp với năm Trần bên ngoài để
h́nh thành. Như vậy th́ Ngũ Trần bên ngoài là chủ
thể phản chiếu vào Ư, Pháp Trần là cái được
phản chiếu, lưu giữ trong Ư, do thuộc bên trong
nên gọi là Nội Trần. Đó chính là Sở. Nhưng do
ngoại trần có năm món, phản chiếu bóng dáng ắt
có trước sau, nên Nội Trần cũng thành ra năm
thứ, bóng dáng không ǵ chẳng sai khác. Khi khởi ư nghĩ
tưởng th́ Ư chỉ có
thể chuyên nơi một cảnh, Ư bỏ cảnh này,
duyên theo cảnh kia liên tục, tức là Năng (chủ thể
phản chiếu, tức Ngũ Trần bên ngoài) và Sở (Nội
Trần bên trong) không luôn luôn khắng khít với nhau nên làm
sao bậc sơ tâm lại có thể đối với thứ
không thường hằng trọn khắp này mà mau đạt
viên thông cho được?”
[58] Nguyên văn “Kiến tánh tuy đỗng nhiên, minh tiền bất
minh hậu, tứ duy khuy nhất bán, vân hà hoạch viên
thông?” Pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là môn Nhăn Căn Viên Thông của ngài A Na Luật.
Kiến tánh là nói đến tánh của Kiến Căn, Kiến
Căn chính là Nhăn Căn. Tánh ấy tuy có thể thấy thấu
suốt rơ ràng, nhưng nếu luận trên phương diện
trước sau th́ mắt chỉ có thể thấy
được đằng trước, không thể thấy
sau gáy, nếu luận trên bốn phương bàng (Đông
Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc) th́ chỉ thấy
được hai phương bàng phía trước, nên mới
nói ‘tứ duy khuy nhất bán’ (bốn góc, thiếu một nửa)”.
[59] Nguyên văn “Tỵ tức xuất nhập thông, hiện tiền
vô giao khí, chi ly phi thiệp nhập, vân hà hoạch viên
thông?”, pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là môn Tỵ Căn Viên Thông của ngài Châu Lợi
Bàn Đặc. ‘Tỵ tức’ là hơi thở ở nơi
mũi. Thở ra thông thấu bên ngoài, hít vào thông thấu bên
trong nên nói ‘xuất nhập thông’. Khi hơi thở ra đă
hết, không thể hít vào ngay được, khi hít vào hết,
không thở ra ngay được, nên lúc hơi thở tạm
ngừng một chút ấy được gọi là ‘hiện
tiền’. Nếu luận một cách chi ly th́ có những lúc
thở ra không hít vào, hít vào không thở ra (tuy rất ngắn
ngủi). Nếu bàn luận cặn kẽ như vậy th́
hơi thở ra và hít vào chẳng thể dung hợp trọn
khắp lẫn nhau nên làm sao bậc sơ tâm có thể dựa
vào đó để mau chóng đạt được Viên
Thông?”
[60] Đây là môn Thiệt
Căn Viên Thông của ngài Kiều Phạm Bát Đề.
[61] Đây là môn Thân
Căn Viên Thông của ngài Tất Lăng Già Bà Ta. Đối
tượng của Xúc (Sở Xúc) chính là Xúc Trần.
[62] Nguyên văn “nhai lượng bất minh hội”, pháp sư Viên
Anh giảng: “Thân Căn và Xúc Trần
một đằng là Hữu Tri, một đằng là Vô
Tri, mỗi thứ có giới hạn riêng, khi chúng tách rời
nhau th́ Thân chẳng thể nào ngầm cảm nhận Xúc Trần
được”.
[63] Đây là môn Ư
Căn Viên Thông của ngài Tu Bồ Đề.
[64] Nguyên văn “thức kiến tạp tam ḥa, cật bổn xưng
phi tướng, tự thể tiên vô định, vân hà hoạch
viên thông?”, pháp sư Viên Anh giảng: “Đây là môn Nhăn Thức Viên Thông của ngài Xá Lợi
Phất. Chữ ‘thức kiến’ phải hiểu là ‘kiến
thức’ tức Nhăn Thức, ‘Tạp tam ḥa’: Căn và Trần
đối ứng th́ Thức phát sanh trong ấy, tức là
nói Năng và Sở phối hợp với nhau. ‘Cật bổn
xưng phi tướng’: Cái Thức được sanh ra ấy
truy gạn tới tận cội nguồn th́ nó chẳng do
đâu mà có. Một là Thức chẳng do Căn sanh,
nhưng nếu chỉ có Căn không có Trần th́ Thức
chẳng thể tự sanh. Hai là Thức chẳng do Trần
sanh, Sắc Trần không hay biết, chẳng thể làm nhân
sanh ra Thức được. Ba là chẳng phải do
Căn và Trần ḥa hợp mà sanh ra Thức. Căn là hữu
tri, Trần là vô tri, nếu Thức được sanh ra bởi
Căn và Trần th́ nó phải có một phần hữu tri
và vô tri, nhưng Thức chẳng phải vậy. Cho nên toàn
bộ thể tánh của nó là hư vọng, chẳng thật,
nên gọi là ‘phi tướng’. Bản thể của nó
đă không nhất định th́ làm sao kẻ sơ tâm có thể
dựa theo đây để mau chóng đạt được
viên thông?”
[65] Đây là môn Nhĩ
Thức Viên Thông của Phổ Hiền Bồ Tát.
[66] Đây là môn Tỵ Thức Viên
Thông của ngài Tôn Đà La Nan Đà. Câu thứ ba trong bài kệ
này là “trụ thành tâm sở trụ”,
pháp sư Viên Anh giảng: “Đă
có tâm để trụ vào cái tướng trắng trên chót
mũi, đấy là phương tiện quyền biến
nhằm dứt trừ tâm tán loạn. Kẻ sơ tâm sẽ
chấp vào đó nên cái tâm sẽ vướng vào cái cảnh
tạm dùng để làm cho tâm được trụ”.
[67] Đây là môn Thiệt Thức
Viên Thông của ngài Phú Lâu Na. Pháp sư Viên Anh giảng: “Ngài Phú Lâu Na được thành
tựu là nhờ sức biện tài từ bao kiếp, chứ
không phải do công năng của Thiệt Thức chỉ
trong một thời. Bởi lẽ, nếu Danh Thân, Cú Thân,
Văn Thân chẳng tương ứng th́ Thiệt Thức
sẽ thuộc về pháp hữu vi, chẳng phải là pháp
vô lậu. Vậy th́ bậc sơ tâm làm sao mau chóng đạt
được viên thông?”
[68] Đây là môn Thân Thức
Viên Thông của ngài Ưu Ba Ly. Tŕ là giữ giới, Phạm
là phạm giới.
[69] Đây là môn Ư Thức
Viên Thông của ngài Đại Mục Kiền Liên.
[70] Đây là môn Địa
Đại Viên Thông của Tŕ Địa Bồ Tát.
[71] Đây là môn Thủy
Đại Viên Thông của Nguyệt Quang Bồ Tát.
[72] Đây là môn Hỏa Đại
Viên Thông của ngài Ô Sô Sắt Ma (Ucchusma: Uế Tích Kim Cang,
Biến Uế Kim Cang). Pháp sư Viên Anh giảng: “Ngài Ô Sô Sắt Ma chán nhàm tam giới
có lửa dục, cầu ly dục. Nhưng nếu chưa
đạt đến mức ‘thân lẫn tâm đều
đoạn, tánh đoạn cũng chẳng c̣n’ th́ chưa
phải là ly dục thật sự. Nhưng kẻ sơ tâm
chưa đoạn hết được cơ duyên dấy
động sự da dâm, chỉ nhờ vào thiểu dục
hay vô dục th́ làm sao có thể dùng được làm
phương tiện?”
[73] Đây là môn Phong
Đại Viên Thông của Lưu Ly Quang Bồ Tát.
[74] Đây là môn Không
Đại Viên Thông của Hư Không Tạng Bồ Tát. Pháp
sư Viên Anh giảng: “Nếu
lấy hư không làm cảnh để quán, quán sát kỹ
càng Tứ Đại không nơi nương tựa, vọng
tưởng sanh diệt, hư không chẳng hai, Phật quốc
vốn giống nhau. Hư không có tướng tối
tăm, trơ trơ bất động, bản thể của
nó chẳng có tác dụng linh minh giác tri. Nếu không có tác dụng
ấy th́ chẳng phải là Bồ Đề, nay dùng cái
nhân tối tăm, trơ trơ để cầu cái quả
linh minh th́ có khác nào mài băng cầu lửa, làm sao hàng
Sơ Tâm có thể nương vào vật bất giác này
để mau chóng thành tựu viên thông cho được?”
[75] Đây là môn Thức
Đại Viên Thông của Di Lặc Bồ Tát.
[76] Đây là môn Căn Đại
Viên Thông của Đại Thế Chí Bồ Tát. Theo Ấn
Quang đại sư, nếu không chú ư đến sự kiện
Văn Thù Bồ Tát chọn lựa pháp Viên Thông nhằm thích
hợp căn cơ của đại chúng thượng thủ
trong pháp hội này là ngài A Nan thượng căn lợi trí
và những vị Đại Thừa Bồ Tát đă tiến
nhập Bồ Tát thừa, chứ không phải ngài Văn
Thù chọn pháp Viên Thông cho khắp cả ba căn. Do vậy,
Văn Thù Bồ Tát chỉ đề cao pháp Phản Văn
Tự Tánh của đức Quán Âm. Những người
không tự lượng căn tánh của chính ḿnh, không thấu
hiểu điều vi tế này sẽ dễ dàng chê bai, bác
bỏ pháp Căn Đại Viên Thông của Đại Thế
Chí Bồ Tát là thấp hèn. Chúng tôi xin trích nguyên lời giảng
của pháp sư Viên Anh như sau: “Chiếu theo thứ tự của Căn Đại
th́ pháp này lẽ ra phải xếp vào hàng thứ sáu, nay lại
đưa môn Thức Đại của ngài Di Lặc ra
đằng trước, đưa môn Căn Đại của
ngài Thế Chí vào nơi đây, đủ thấy Bồ Tát
(tức ngài Văn Thù) biết rơ: Muốn tu Lăng Nghiêm Đại Định th́ khi
phán định môn Viên Thông, phải lấy pháp của đức
Quán Âm đứng đầu, nhưng nếu cầu lấy
pháp thích hợp khắp ba căn, thâu tóm độn căn lẫn
lợi căn th́ chỉ có một môn Niệm Phật!
Phàm những ǵ thuộc về hành động, dời chuyển
đều thuộc về các hành, đều là vô thường,
nhưng ngài Thế Chí nói: ‘Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối’. Đă là nhiếp trọn th́ thuộc
về Căn Đại. Đủ
thấy niệm Phật chẳng phải là miệng niệm,
chẳng phải là niệm bằng thức thứ sáu trong
tâm, mà là Ư Căn (thức thứ bảy) nhiếp trọn
sáu Căn để niệm. Tuy nói là ‘tịnh niệm’,
nhưng rốt cuộc trở thành hữu niệm. Đă
nói là ‘tiếp nối’ th́ khó tránh khỏi sanh diệt, nên nói
là ‘niệm tánh vốn sanh diệt’. Dùng cách niệm Phật
này để làm nhân nhằm đạt cái quả văng sanh Tịnh
Độ th́ nhân quả phù hợp, vạn người tu,
vạn người về. Nếu
dùng cái nhân sanh diệt này để cầu chứng quả
‘viên thông chẳng sanh diệt’ trong hiện đời th́
nhân trái nghịch quả, cảm ứng đều khác nhau,
nên nói ‘nhân quả nay khác biệt”.
[77] Thanh luận: Các thứ
đàm luận bằng ngôn ngữ. Trong cơi này, Nhĩ Căn
lanh lợi nhất nên Phật phải dùng âm thanh để
giảng giải Phật pháp, v́ thế gọi là thanh luận.
[78] Theo pháp sư Từ Hàng trong tác phẩm Lăng Nghiêm Kinh Đề Chỉ,
bà Tánh tỳ-kheo-ni chính là nàng Ma Đăng Già. Pháp sư giảng:
“Tánh có hai thứ là bổn tánh
và thạch tánh. Bổn tánh chính là Phật tánh, ví như Ma
Đăng Già tuy là gái ca xướng kém hèn, bổn tánh vẫn
chẳng mất. C̣n thạch tánh chính là ái tánh (do tư dục
ngoan cố, trơ ĺ khó xoay chuyển giống như đá
nên gọi là thạch tánh), Ma Đăng Già yêu mê mệt A
Nan chính là thạch tánh chứ không phải bổn tánh. A Nan
và Ma Đăng Già là vợ chồng nhiều kiếp nên mê đắm như đá cứng
chắc. Nếu đức Phật không sai Văn Thù Sư
Lợi dùng chú ngữ cứu ra, A Nan sẽ bị đọa
lạc. Trong kinh này v́ sao lấy A Nan và Ma Đăng Già làm
vai diễn chánh? Là v́ A Nan là em họ bên nội của đức
Phật, từng cùng với Phật đối trước
Không Vương Phật phát tâm. A Nan thích đa văn, chẳng
chuyên tâm tu hành, cho nên chưa thành Phật. Người tu
hành phải tự tu tự chứng, người khác tuyệt
đối chẳng thể làm thay được.... Ma
Đăng Già là nữ nhân hạ tiện nhất, nhưng
gặp Phật tu hành, liền chứng Tam Quả. Cô ta không
có tâm học Phật mà vẫn chứng Tam Quả. Nếu
chúng ta chịu dụng tâm tu hành một chút, chắc chắn
sẽ thành tựu hơn hẳn cô ta. Do vậy, kinh Lăng
Nghiêm dùng hai vị này làm diễn viên chánh!”
[79] Tất Lăng chính là tên gọi tắt của tôn giả Tất Lăng Già Bà Ta (Pilinda-vatsa), dịch nghĩa là Dư Tập. Do Ngài đă năm trăm đời làm Bà La Môn nên c̣n tập khí kiêu mạn rất lớn. Ngài thấy có người đi khất thực phải vượt sông Hằng khổ sở, bèn quát nữ thần sông Hằng : “Tiểu tỳ ! Ngưng chảy đi!”. Nước sông liền tách làm hai cho người ấy đi qua. Nữ thần tức tối đến mách với Phật. Phật bảo ngài Tất Lăng Già Ba Ta hăy sám hối với nữ thần, ngài nói: “Tiểu tỳ! Ta sám hối tạ lỗi với ngươi”. Mọi người hiện diện đều cười: “Đă sám hối tạ lỗi mà c̣n chửi người ta!” Nhân đó, Phật mới cho biết do ngài Tất Lăng năm trăm đời làm Bà La Môn nên tập khí kiêu mạn rất nhiều, thường gọi phụ nữ là “tiểu tỳ” (con hầu nhỏ nhoi) là do thói quen, chứ tâm Ngài không có ư nhục mạ. Trong phần 25 pháp Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, Ngài đă thuật phép quán thân (Thân Căn Viên Thông). Do vừa đi khất thực vừa tư duy những lời giảng của đức Phật về sự thống khổ trong thế gian, bất ngờ đạp phải gai độc, bị thương, đau đớn. Ngài quán sát tánh nhận biết sự đau đớn ấy chính làm giác tâm thanh tịnh, cái biết bị đau chẳng phải là cái bị đau. Như vậy lẽ nào một thân lại có hai tánh biết? Do quán như vậy, thân tâm không tịch, tiêu hết lậu tập, thành A La Hán.
[80] Y Tha Khởi Tánh (Paratantra-svabhāva) là một trong Tam Tánh trong Tướng Tông. Y Tha có nghĩa là hết thảy sự vật đều do các duyên ḥa hợp, do tâm thức biến hiện mà có, hư huyễn không thật. Như vậy, sự vật do nương vào các duyên khác mà sanh khởi nên gọi là Y Tha (nương vào các duyên khác). Một ví dụ cho Y Tha Khởi Tánh là dây thừng. Dây thừng do các sợi dây nhỏ bện lại, mỗi sợi dây là do nhiều tế bào gai (đay) hợp thành v.v....
[81] Viên Thành Thật Tánh (Parinispanna-svabhāva)
là một thuật ngữ khác nhằm chỉ Chân Như
trong Tướng Tông. Viên Thành Thật Tánh gồm ba tánh chất:
1. Viên măn: tướng của các pháp chỉ
hạn cuộc nơi pháp thể của pháp ấy, c̣n diệu
lư Chân Như th́ trùm khắp mọi nơi.
2. Thành tựu: Các pháp là không, vô thường,
vô ngă... c̣n thật thể thường trụ của Chân
Như th́ không sanh diệt.
3. Chân thật: Thể của các pháp là
hư vọng, c̣n tánh của Chân Như th́ thường trụ
và trọn khắp.
[82] Tập tước: Con thừa hưởng
tước hiệu của cha, c̣n gọi là Tập Ấm.
Những người tập ấm ấy thường
được gọi là Ấm Sinh.
[83] Nguyên văn “tử
tâm niệm Phật”, nghĩa là dứt sạch mọi so
đo, tính toán, vọng tưởng, giả dối, tà vạy
để chân thật niệm Phật.
[84] Thương chủ: người dẫn
đầu đoàn lái buôn.
[85] Tỳ Sa Môn Thiên vương (Vaiśravana), c̣n gọi là tài thần Kubera (c̣n viết là Kuvera hoặc Kuber, trong Mật Điển thường phiên âm là Câu Tỳ La Thần), dịch nghĩa là Đa Văn, là một trong bốn vị trời hộ thế (Hộ Thế Tứ Thiên Vương). Do Ngài thống lănh các Dạ Xoa nên đôi khi kinh gọi Ngài là Dạ Xoa Vương tuy Ngài không phải là Dạ Xoa. Ngài quản thủ phương Bắc nên kinh thường gọi là Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương. Trong Ấn Độ Giáo, do có truyền thuyết vị trời này từng thống lănh quân Dạ Xoa đánh bại Ma Vương La Phạ Nă nên Tỳ Sa Môn thiên vương c̣n được gọi là Vũ Thần.
[86] Cư sĩ (Grha-pati): Nguyên gốc là những
người c̣n tại gia, có tài sản, thường thuộc
giới thương nhân, đức cao, trọng vọng.
Kinh Phật thường dùng chữ “cư sĩ” để
chỉ những vị tại gia hành Bồ Tát hạnh, tin
tưởng Đại Thừa, về sau từ ngữ này
thường được dùng để gọi chung tất
cả hàng tại gia Phật tử.
[87] Chấp Kim Cang Thần: Có ba cách hiểu danh xưng này:
1. Chấp Kim Cang Thần (Vajrapani) là một trong những danh xưng khác của Kim Cang Thủ, Kim Cang Dạ Xoa, Kim Cang Lực Sĩ v.v... Đây là vị thần cầm Kim Cang trượng, thủ hộ cung điện của Đế Thích. Khi Phật xuất thế, vị này liền giáng hạ Diêm Phù, thường theo Phật ủng hộ đạo tràng.
2.
Chấp Kim Cang Thần là danh xưng của mười sáu
vị cầm kim cang xử trong Mật Điển, mười
sáu vị này là do tâm Bồ Đề của chư Phật
biến hiện, tức là Hư Không Vô Cấu Kim Cang, Kim
Cang Luân, Kim Cang Nha, Tô Lạt Đa Kim Cang, Danh Xưng Kim
Cang, Đại Phần Kim Cang, Kim Cang Lợi, Tịch Nhiên
Kim Cang, Đại Kim Cang, Thanh Kim Cang, Liên Hoa Kim Cang, Quảng
Nhăn Kim Cang, Chấp Diệu Kim Cang, Kim Cang Kim Cang, Trụ Vô
Hư Luận Kim Cang, Hư Không Vô Biên Du Hư Kim Cang. Theo Xuất
Sanh Nghĩa: “Lại nữa, từ
phương dưới có mười sáu vị Chấp Kim
Cang Thần từ tâm dũng kiện Bồ Đề của
hết thảy Như Lai sanh ra, nhằm minh thị lúc
Như Lai tu hành có vi trần số phiền năo chướng
ngại tâm, Ngài bèn dùng Kim Cang Huệ phá trừ. Sau khi thành tựu
Đại Giác, bèn có vi trần số trí môn là tác dụng của
Kim Cang Huệ. V́ thế, lại hiện ra những thân bạo
ác đáng sợ, vận dụng trí đại oai để
điều phục những kẻ cứng cỏi khó
điều phục, quát tháo chấn động cơi đại
thiên, trấn áp quần ma”.
3. Theo Nhất Thiết Như Lai Chân Thật
Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Tam Muội
Đại Giáo Vương Kinh, Chấp Kim Cang Thần là tên
gọi khác của Kim Cang Thủ Bồ Tát, một thân biến
hiện của Phổ Hiền Bồ Tát, chính là hóa thân của
vô ngại diệu trí lực của hết thảy chư
Phật Như Lai.
Theo pháp sư Diễn Bồi trong Phổ Môn Phẩm Giảng Lục: “Chấp Kim Cang Thần là thần Hộ Pháp của Phật giáo, do Ngài tay thường cầm Kim Cang Bảo Xử, nên mang tên Chấp Kim Cang Thần. Tương truyền, trong quá khứ có Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế, cưới hai phu nhân. Phu nhân thứ nhất sanh một ngàn vương tử, phu nhân thứ hai chỉ sanh được hai vương tử. Một ngàn vương tử của bà phu nhân thứ nhất sau khi tiếp xúc Phật pháp, đều phát khởi đại Bồ Đề tâm, rộng hành Bồ Tát đạo, thành bậc Bồ Tát danh xứng với thật, tương lai đương nhiên sẽ thành Phật, nhưng ai sẽ thành Phật trước? Phụ vương v́ muốn biết rơ điều này, truyền các vương tử phát Bồ Đề tâm rút thăm để định thứ tự thành Phật. Kết quả, đầu tiên là Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda Buddha), cuối cùng là Lâu Chí Như Lai (Rucika Buddha). Thích Ca là vị thành Phật thứ tư. Sở dĩ phải định thứ tự là v́ trong một thế giới, chẳng thể có hai đức Phật cùng xuất hiện trong đời. Hai vị vương tử của phu nhân thứ hai thấy các huynh trưởng đều phát Bồ Đề tâm, tương lai sẽ thành Phật, ngay đó, vị đại vương tử phát nguyện làm Đại Phạm Thiên Vương, khi các anh thành Phật sẽ thỉnh chuyển pháp luân. Vương tử thứ hai phát nguyện làm thần Hộ Pháp, sau khi các anh thành Phật sẽ hộ tŕ Phật pháp. Chấp Kim Cang Thần chính là vị vương tử thứ hai của bà phu nhân thứ hai”.
[88] Thường Kiến (Sasvatadrsti), c̣n gọi
là Thường Tà Kiến, hoặc Thường Luận.
Đây là tà kiến chủ trương thế giới
thường trụ, bất biến, tự ngă của con
người bất diệt, chấp trước các pháp hữu
vi thế gian. Có nhiều loại Thường Kiến, nếu
dựa theo ba đời và hữu tướng, vô tướng
để phối hợp sẽ thành sáu mươi hai món tà
kiến.
[89] Kim Đan Giáo, c̣n được biết
dưới danh xưng Tại Lư Hội hoặc Học Hảo
là một chi phái của Bạch Liên Giáo, do Dương Lai
Như sáng lập tại huyện Tức Mặc, tỉnh
Sơn Đông, rêu rao “dung hợp tam giáo thành một thể”,
chủ trương cấm uống rượu, cấm hút
thuốc phiện, mang tính chất hội kín nhằm lật
đổ Thanh Triều, khôi phục nhà Minh. Năm Quang Tự
17 (1891), lănh tụ Dương Duyệt Xuân đă sách động
quần chúng khởi nghĩa, thiêu hủy giáo đường
Thiên Chúa Giáo, tấn công giáo sĩ, tấn công quân Thanh. Nhà
Thanh phải tốn rất nhiều công sức mới dẹp
yên được.
[90] Theo Nội Đan (nhằm phân biệt với
Ngoại Đan phải dùng đến dược vật),
Đạo Sĩ chủ trương hít thở, nung luyện
tinh khí thần sao cho Tinh - Khí - Thần hợp nhất, tạo
thành thân trường sanh bất tử. Họ chủ
trương quá tŕnh nung luyện ấy gọi là Hỏa Hầu,
tức là điều tiết vận chuyển sức nóng của
nội hỏa phối hợp với 12 giờ Âm
Dương trong một ngày. Theo họ, Nội Hỏa chính
là sức nóng bên trong cơ thể do hấp thụ khí
vũ trụ (Thái Dương chân khí). Mỗi ngày có 12 giờ
(12 thời thần), đi hết một ṿng Giáp Tư là 60 giờ,
tức là một “hầu”. Nói cách khác, luyện Hỏa Hầu
là một quy cách nhằm nắm giữ ư niệm trong thuật
luyện đan, khống chế nội khí trong cơ thể
và mỗi tŕnh độ tu luyện có cách tập Hỏa Hầu
riêng.
[91] Thăng, Giáng là hai trong bốn cách phân chia tác dụng (thăng, giáng, trầm, phù) của từng loại thuốc trong Đông Y. Theo họ, các bệnh tật có thể chia thành bốn loại lớn: Hướng thượng (như ói mửa, ho suyễn v.v...), hướng hạ (như tiêu chảy, băng huyết, ḷi dom v.v...) hoặc hướng ngoại (như đổ mồi hôi trộm), hướng nội (như biểu hiện bệnh t́nh không rơ rệt). Để chữa các căn bệnh đó sẽ dùng các loại thuốc có tác dụng đối trị như Thăng (nâng lên), Giáng (hạ xuống) v.v... Chẳng hạn như với căn bệnh hướng thượng th́ dùng thuốc có tác dụng Giáng, bệnh hướng hạ th́ dùng thuốc có tánh Thăng, bệnh hướng ngoại th́ dùng thuốc có tánh Trầm, bệnh hướng nội th́ dùng thuốc có tánh Phù v.v... Những loại thuốc được coi là Giáng thường có tác dụng khử phong, tán hàn v.v...
[92]
Đây là một câu trong thiên Cáo Tử Thượng của
sách Mạnh Tử: “Vạn
chung tắc bất biện lễ nghĩa nhi thọ chi, vạn
chung ư ngă hà gia yên?” Chung là một đơn vị
đo lường thời cổ, sáu thạch bốn đấu
là một chung. Theo cụ Lư Bỉnh
[93] B́nh Tần Già: Ở Ấn Độ
vào thời cổ, người ta thường làm b́nh có cái
quai chạm thành h́nh chim Ca Lăng Tần Già (Kalavinka), b́nh
này có khoét hai lỗ để đổ chất lỏng
vào.
[94] Trí Độ Luận nêu ra ba thứ Bát
Nhă: Thật Tướng Bát Nhă, Quán Chiếu Bát Nhă và Văn
Tự Bát Nhă.
[95] Khí giới (器界) chỉ
y báo, tức “khí thế gian thế giới”, những cảnh
bên ngoài làm nơi nương tựa cho Căn và Thân (chánh
báo).
[96] Tứ Tất Đàn: Tất Đàn (Siddhānta), có
nghĩa là Thành Tựu. Phương tiện giáo hóa chúng sanh
của Phật có thể chia thành bốn loại:
1. Thế giới Tất Đàn: Thuận
theo phương cách suy nghĩ, khảo sát của thế giới,
dùng văn tự, ngôn ngữ, quan niệm của thế
gian để thuyết minh đạo lư chân thật khiến
cho phàm phu thích nghe pháp, dần dần khế nhập chánh
trí của Phật.
2. Các các vị nhân Tất Đàn: Dùng lập
trường lấy con người làm gốc, nhấn mạnh
trách nhiệm của con người, nhằm xoay chuyển
tập quán phàm phu, kiến lập nhân sinh quan và vũ trụ
quan Phật pháp cho con người. .
3. Đối trị Tất Đàn: Những
pháp được nói theo cách thế giới Tất Đàn
chỉ trừ được ác tướng thô lậu, chẳng
thể trừ dẹp cội rễ và
tướng vi tế của ác nghiệp. Do vậy phải
quán sát từng căn bệnh của chúng sanh để thuyết
pháp phù hợp nhằm giúp họ đối trị phiền
năo, tập khí tận gốc.
4. Đệ nhất nghĩa Tất
Đàn: Khi kiến giải của chúng sanh đă sạch vọng
tưởng, chấp trước bèn dẫn dụ họ
tiến nhập Đệ Nhất Nghĩa Đế, chứng
nhập Chân Như Thật Tướng.