Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn
Tích
Cảm Ứng Tụng
Quyển 4
觀世音菩薩本跡感應頌,
卷四
彭澤菩薩戒弟子許止淨述
Phần
2
Bành
Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ
Tịnh soạn
Ấn
Quang Đại Sư giám định
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến và Huệ Trang
6. Quán Thế Âm Bồ Tát Đắc
Đại Thế Bồ Tát Thọ Kư Kinh (Trích lục)
Một
thời, Phật ngự trong Tiên Nhân Lộc Uyển tại
thành Ba La Nại, cùng với hai vạn đại tỳ-kheo,
một vạn hai ngàn vị Bồ Tát nhóm họp. Hoa Đức
Tạng Bồ Tát bạch Phật:
- Làm thế
nào để chẳng thoái chuyển nơi Bồ Đề
và năm thứ thần thông, đắc Như Huyễn
tam-muội, dùng phương tiện khéo để hóa thành
các thân tùy theo từng loại chúng sanh nhằm thành tựu
thiện căn cho họ, v́ họ thuyết pháp, khiến cho
họ đắc Bồ Đề?
Phật
dạy:
- Thành tựu
một pháp sẽ đắc Như Huyễn tam-muội. Một
pháp là ǵ? Chính là không nương tựa: Chẳng
nương vào tam giới, cũng chẳng nương vào
bên trong, lại chẳng nương vào bên ngoài, từ vô sở
y (không có ǵ để nương tựa) mà đạt
được sự quán sát chánh đáng. Đă quán sát chánh
đáng rồi, liền đắc chánh tận (sự dứt
diệt đúng thật), nhưng tri giác chẳng bị tổn
giảm. Do tâm không giảm, ắt
sẽ đạt đến chánh huệ. Nghĩa là: Hết
thảy pháp từ duyên mà khởi. Nếu không có nhân duyên th́
chẳng có pháp được sanh. Tuy hết thảy pháp từ
nhân duyên mà sanh, nhưng không có ǵ được sanh. Khéo hiểu
sâu xa ư nghĩa như vậy rồi th́ sẽ biết hết
thảy các pháp như huyễn, chỉ là ức tưởng
ngôn ngữ, là pháp được tạo tác, biến hóa mà
thôi. [Thấu hiểu] các pháp được tạo tác rốt
ráo đều là không, sẽ đắc Như Huyễn
tam-muội, có thể hóa hiện thân h́nh, tùy theo thiện
căn của chúng sanh mà thuyết pháp cho họ.
Hoa Đức
Tạng Bồ Tát bạch Phật:
- Trong
đại chúng đây, có Bồ Tát nào đắc tam-muội
ấy hay chăng?
Phật
bảo:
- Di Lặc
Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi v.v... sáu mươi vị
Chánh Sĩ.
Lại bạch
rằng:
- Nơi
phương khác lại có Bồ Tát nào thành tựu tam-muội
như thế hay chăng?
Phật
dạy:
- Trong thế
giới An Lạc ở phương Tây có Bồ Tát, một
là Quán Thế Âm, hai là Đắc Đại Thế đắc
tam-muội này. Lại nữa, nếu có Bồ Tát nào từ
nơi vị Chánh Sĩ ấy, trong bảy ngày bảy
đêm, nghe nhận pháp này, liền đắc Như Huyễn
tam-muội.
[Hoa] Đức
Tạng nói:
- Cơi ấy
ắt có vô lượng Bồ Tát đắc tam-muội này,
v́ cớ sao? Người sanh về cơi ấy đều sẽ
đến chỗ vị Chánh Sĩ ấy, nghe nhận pháp
này.
Phật
nói:
- Đúng
như vậy! Đúng như thế. Có vô lượng A-tăng-kỳ
Bồ Tát từ nơi vị Chánh Sĩ ấy đắc
tam-muội này.
[Hoa] Đức
Tạng bạch Phật:
- Xin hăy
làm cho vị Chánh Sĩ ấy đến thế giới này
ḥng những kẻ thiện căn đă chín muồi
được nghe thuyết pháp, đắc tam-muội này.
Lại nguyện thấy A Di Đà Phật, khiến cho thiện
nam tử, thiện nữ nhân phát Bồ Đề tâm, nguyện
sanh về cơi ấy. Sanh về cơi ấy rồi sẽ trọn
chẳng thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
Khi ấy,
đức Thế Tôn liền phóng quang từ tướng bạch
hào giữa mày chiếu đến thế giới An Lạc.
Đại chúng trong hội này đều thấy A Di Đà
Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, quyến thuộc vây quanh,
chói ngời như núi báu, cao rạng đặc biệt thù
thắng, oai quang rực rỡ, chiếu khắp các cơi. Khi ấy,
trong đại chúng này có tám vạn bốn ngàn chúng sanh phát
Bồ Đề tâm. Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm và
Đắc Đại Thế bạch với đức Phật
ấy rằng:
- Chúng con
nay muốn đến thế giới Sa Bà, lễ bái, cúng dường
Thích Ca Mâu Ni Phật.
Lại bảo
với bốn mươi ức Bồ Tát quyến thuộc
hăy cùng qua nghe pháp. Do sức thần thông, mỗi vị
đều v́ quyến thuộc hóa ra bốn mươi ức
đài báu trang nghiêm. Các đài báu ấy ngang dọc mười
hai do-tuần, vàng, bạc, lưu ly, xích châu, xa cừ, mă năo
hợp thành. Lại dùng xích châu, chiên-đàn, hoa sen xanh, đỏ,
vàng, trắng để trang nghiêm, tuôn các thứ hoa. Trên
đài có tám vạn bốn ngàn hóa ngọc nữ, cầm nhạc
khí, hương, hoa. Phía trên có hóa Phật, ba mươi hai
tướng, tám mươi vẻ đẹp. Lại treo những
chuỗi bằng các thứ chân châu, bày các b́nh báu xinh đẹp,
đựng đầy hương bột. Các lọng báu
xinh đẹp, giăng che phía trên, trồng cây bằng chất
báu mầu nhiệm. Tám vạn bốn ngàn linh báu và lưới
báu giăng phủ bên trên. Giữa các cây có ao bảy báu,
nước tám công đức đầy ắp trong ấy,
hoa sen bằng các thứ báu, ánh sáng và màu sắc chiếu ngời
tươi tắn. Gió nhẹ lay động các hàng cây báu,
phát ra âm thanh vi diệu vượt trỗi thiên nhạc. Mỗi
một đài báu quang minh chiếu sáng rực tám vạn bốn
ngàn do-tuần.
Khi ấy,
Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế và các quyến
thuộc như trong khoảng lực sĩ co duỗi cánh
tay liền đến thế giới này. Dùng sức thần
thông khiến cho thế giới này đất bằng phẳng
như nước, và tám mươi ức Bồ Tát trước
sau vây quanh. Do đại công đức, trang nghiêm thành tựu,
đoan nghiêm đặc biệt thù thắng chẳng thể
ví dụ được, quang minh chiếu khắp thế
giới Sa Bà.
Hoa Đức
Tạng nói:
- Nay trong
thế giới Sa Bà này, các đài báu mầu nhiệm trang
nghiêm như thế là do thần lực của ai?
Phật
dạy:
- Là do sức
thần thông của Quán Thế Âm và Đắc Đại
Thế. Ông hăy quán hằng hà sa thế giới ở
phương Đông, thấy trước mỗi vị Phật
ấy đều có Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế
trang nghiêm giống như trên đây.
Hoa Đức
Tạng nói:
- Rất
lạ, bạch Thế Tôn! Vị Đại Sĩ này có thể
thành tựu tam-muội như thế. Hai vị Chánh Sĩ
này đă phát Bồ Đề tâm nơi đức Phật
nào?
Phật
dạy:
- Trong vô
lượng chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp
rất lâu xa trong quá khứ, có thế giới tên là Vô Lượng
Đức Tụ An Lạc Thị Hiện, Phật hiệu
là Kim Quang Sư Tử Du Hư, quốc độ trang hoàng thanh
tịnh, so với sự trang nghiêm của [cơi nước] A
Di Đà Phật th́ [sự trang nghiêm trong cơi Cực Lạc]
giống như nước dính trên đầu sợi lông,
c̣n [sự trang nghiêm trong] cơi Kim Quang Sư Tử Phật
như nước trong biển cả. Khi ấy, có vua tên là
Oai Đức phụng sự Như Lai. Phật v́ vua diễn
nói vô lượng pháp ấn, như là thương xót chúng
sanh vô lượng, trang nghiêm Tịnh Độ vô lượng,
cho đến một niệm thiện căn đều nên
hồi hướng vô lượng. Vua ở nơi đ́nh đài
trong vườn, nhập tam-muội, hai bên vua có hoa sen từ
dưới đất trồi lên, hai đồng tử (bé
trai) hóa sanh trong ấy. Vua dùng kệ hỏi hai đồng
tử, yêu cầu họ nói ra danh hiệu. Đồng tử
bên phải nói kệ đáp:
Hết thảy các pháp không,
Cớ sao hỏi danh tự?
Pháp quá khứ đă diệt,
Pháp tương lai chưa sanh,
Pháp hiện tại chẳng trụ,
Nhân giả hỏi tên ai?
Đồng
tử bên trái nói kệ đáp:
Tên nào cũng đều không,
Tên nào cũng chẳng được,
Muốn cầu tên chân thật,
Chưa bao giờ thấy nghe,
Nói danh tự, ngữ ngôn,
Đều là giả đặt
bày,
Tôi tên là Bảo Ư,
Hắn tên là Bảo Thượng.
Lúc ấy,
[hai đồng tử] cùng vua đi đến chỗ Phật.
Hai đứa trẻ dùng kệ hỏi Phật:
Làm thế nào cúng dường,
Vô thượng Lưỡng Túc Tôn,
Hoa, hương, các âm nhạc,
Thức ăn, thuốc, đồ
nằm,
Các cúng dường như thế,
Thế nào là tối thắng?
Phật
nói kệ đáp:
Nên phát tâm Bồ Đề,
Rộng giúp các quần sanh,
Ví trọn hằng sa kiếp,
Dâng cúng các Như Lai,
Đồ quư đẹp trang nghiêm,
Và hoan hỷ vâng đội,
Chẳng bằng dùng từ tâm,
Hồi hướng nơi Bồ
Đề,
Phước ấy là tối thắng,
Cúng thứ khác chẳng bằng!
Vượt trội chẳng thể
tính,
Ắt thành Đẳng Chánh Giác.
Hai đứa
trẻ lại nói kệ rằng:
Chư thiên, long, quỷ thần,
Nghe tôi sư tử hống,
Nay đối trước
Như Lai,
Hoằng thệ phát Bồ Đề,
Sanh tử vô lượng kiếp,
Bổn Tế chẳng thể
biết,
Do v́ một chúng sanh,
Trải số kiếp hành đạo,
Huống trong các kiếp ấy,
Độ thoát vô lượng
chúng,
Tu hành đạo Bồ Đề,
Mà sanh ḷng mỏi mệt,
Nếu từ nay trở đi,
Tôi khởi tâm tham dục,
Sân, si, keo, ganh thảy,
Chính là lừa Thế Tôn,
Chẳng khởi tâm Thanh Văn,
Cũng chẳng cầu Duyên
Giác,
Sẽ trong vạn ức kiếp,
Đại bi độ chúng
sanh,
Như cơi Phật ngày nay,
Thanh tịnh diệu trang nghiêm,
Đến khi con đắc
đạo,
Vượt trỗi ức
trăm ngàn.
Phật
bảo Hoa Đức Tạng:
- Vua Oai
Đức thuở ấy chính là thân ta, hai đồng tử
là Quán Âm và Thế Chí. Ở nơi đức Phật ấy,
họ phát Bồ Đề tâm đầu tiên.
Hoa Đức
Tạng thưa:
- Khi họ
chưa phát tâm đă thành tựu trí huệ rất sâu, liễu
đạt danh tự bất khả đắc.
Phật
nói:
- Cát trong
sông Hằng có thể biết được số, c̣n vị
Đại Sĩ này trước kia cúng dường Phật,
gieo các thiện căn th́ chẳng thể tính kể
được! Tuy chưa phát tâm mà đă trang nghiêm chẳng
thể nghĩ bàn, ở trong các chúng sanh là bậc dũng
mănh nhất. Trong tương lai chẳng thể tính đếm
kiếp lâu xa, sau khi A Di Đà Phật nhập Niết Bàn, nếu
có chúng sanh chẳng thấy Phật, có các Bồ Tát đắc
Niệm Phật tam-muội th́ thường thấy A Di
Đà Phật. Sau khi Phật diệt độ, hết thảy
bảo vật, ao tắm, hoa sen, các hàng cây báu thường
diễn pháp âm chẳng khác ǵ Phật. Khi chánh pháp diệt,
sau nửa đêm, lúc tướng sáng xuất hiện, Quán
Thế Âm Bồ Tát thành Đẳng Chánh Giác, hiệu là Phổ
Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai. Sự trang
nghiêm nơi cơi nước của đức Phật ấy
th́ trong hằng sa kiếp chư Phật nói chẳng thể
tận. Đem so sự trang nghiêm trong cơi nước của
Kim Quang Sư Tử Phật với cơi nước của
Công Đức Sơn Vương Phật th́ chẳng thể
dùng toán số để sánh được. Cơi nước
Phật ấy không có danh từ Thanh Văn, Duyên Giác, thuần
là các Bồ Tát đầy ắp trong ấy, có tên là Chúng Bảo
Phổ Tập Trang Nghiêm, thọ mạng của Như Lai
cũng như vậy.
Khi ấy,
Quán Thế Âm Bồ Tát dùng sức thần thông khiến cho
chúng hội này cùng thấy mười phương vô số
chư Phật Thế Tôn đều thọ kư cho họ.
7. Bi Hoa Kinh, phẩm Đại Thí và phẩm
Thọ Kư (Trích lục)
Phật
bảo Tịch Ư Bồ Tát:
- Xưa
kia, qua khỏi các A-tăng-kỳ kiếp nhiều như
cát sông Hằng, thế giới Phật này có tên là San Đề
Lam. Đại kiếp khi ấy có tên là Thiện Tŕ, Chuyển
Luân Thánh Vương tên là Vô Tránh Niệm. Vua có một ngàn
con trai, Thái Tử thứ nhất tên là Bất Thuấn (Vị thứ hai là Đắc
Đại Thế, thứ ba là Văn Thù, thứ tư là
Kim Cang Trí, thứ năm là Hư Không Ấn, thứ sáu là
Hư Không Nhật, thứ bảy là Sư Tử
Hương, thứ tám là Phổ Hiền, thứ chín là A
Súc, thứ mười là Hương Thủ). Suốt trọn ba tháng, cúng dường
Bảo Tạng Như Lai và các tỳ-kheo tăng, dâng lên những
thứ giúp họ an trụ giống hệt như thánh
vương. Một ngàn người con như vậy, mỗi
vị đều cúng Phật giống như vị Thái Tử
thứ nhất, mỗi vị đều phát tâm, hoặc
nguyện làm Đao Lợi thiên vương, hoặc cầu
làm Phạm Vương, hoặc cầu làm Ma Vương, hoặc
cầu làm Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc nguyện
giàu to, hoặc cầu làm Thanh Văn. Trong các vị
vương tử ấy, thậm chí chẳng có một vị
cầu chứng Duyên Giác, huống hồ cầu Đại
Thừa!
Khi ấy
Chuyển Luân Vương do bố thí nên lại cầu
đạt địa vị Chuyển Luân Vương. Lúc bấy
giờ, đại thần là Bảo Hải Phạm Chí,
đi trọn khắp chỗ của hết thảy mọi
người trong cơi Diêm Phù Đề, xin những thứ cần
dùng, trước hết muốn làm cho thí
chủ quy y Tam Bảo, phát Bồ Đề tâm. Lại c̣n
khuyên dụ trời, rồng, quỷ thần v.v... phát Bồ
Đề tâm. Khi đó, hết thảy chúng sanh không một
ai chẳng nghe theo Phạm Chí phát Bồ Đề tâm. Phạm
Chí trong khi ngủ say thấy mười phương Hằng
hà sa Phật, mỗi vị đều trao cho hoa sen xinh
đẹp. Trên mỗi đài hoa hiện h́nh tượng nhật
luân (vầng mặt trời), trong mỗi nhật luân đều
tỏa ra sáu mươi ức ánh sáng chui vào miệng Phạm
Chí. Thấy trong bụng có sáu mươi ức na-do-tha
trăm ngàn Bồ Tát ngồi xếp bằng trên hoa sen. Lại
thấy vua ấy (tức vua Vô Tránh Niệm) huyết bẩn
cả thân, ruổi chạy bốn phương, đầu
mặt giống lợn, ăn các thứ trùng. Đă ăn
trùng xong bèn có vô lượng chúng sanh đến ăn thân vua,
thọ thân nhiều lần cũng đều giống
như vậy. Lại thấy các vương tử: Hoặc
là mặt lợn, hoặc là mặt voi, hoặc là mặt
trâu, hoặc mặt sư tử, hoặc mặt cáo, sói,
báo, hoặc mặt khỉ vượn, thân lấm bẩn
máu, cũng đều ăn vô lượng chúng sanh. Lại
có vô lượng
chúng sanh đến ăn thân họ, thọ thân nhiều
lượt cũng giống như thế. Phạm Chí bèn
hướng về đức Phật kể lại đầy
đủ, Phật dạy:
-
Trong mộng, ông thấy thân người mặt lợn cho đến nhiều lượt thọ
thân là v́ có những kẻ si, trụ trong tam phước. Những
người như vậy sẽ sanh làm ma hay trời, chịu
nỗi khổ lui sụt, mất mát. Nếu sanh trong loài
người sẽ hứng chịu nỗi khổ v́ sanh, già,
bệnh, chết, ưu bi, áo năo, khổ v́ yêu thương
mà bị chia ĺa, khổ v́ oán ghét mà phải gặp gỡ,
khổ v́ mong cầu chẳng thỏa. Sanh trong ngạ quỷ
sẽ phải chịu khổ đói khát. Sanh trong súc sanh sẽ
vô minh tối tăm, khổ v́ bị đứt đầu.
Sanh trong địa ngục, chịu các thứ khổ.
Khi ấy,
Bảo Hải Phạm Chí khuyên Chuyển Luân Vương
phát Bồ Đề tâm xong, lại bạch Thái Tử hăy hồi
hướng Bồ Đề. Thái Tử đáp rằng:
- Ta trở
về cung trước, ngồi ngay ngắn tư duy, rồi
trở lại chỗ Phật, nhất định phát tâm,
nguyện giữ lấy các thứ cơi Phật tịnh diệu.
Lễ Phật
lui ra, đến cung điện của chính ḿnh, ở chỗ
riêng biệt, tư duy tu tập các thứ trang nghiêm cho thế
giới Phật của chính ḿnh. Trong bảy năm ấy,
tâm [Thái Tử] không ham muốn, cho đến không có ư tưởng
hương, vị, xúc, pháp, được thấy mười
phương thế giới. Trong mỗi một
phương, đối với tất cả sự trang
nghiêm trong các thế giới Phật nhiều như số
vi trần trong một vạn cơi Phật, tùy theo những điều
đă thấy mà chọn lấy [điều ḿnh ưa
thích]. Bảy năm sau, Chuyển Luân Thánh Vương
được thọ kư làm Phật, hiệu là Vô Lượng
Thọ. Thái Tử nói:
- Con nay
quán chúng sanh trong địa ngục chịu nhiều khổ
năo, trong chúng trời người, ắt có kẻ tâm có trần
cấu. Do tâm có trần cấu, nhiều phen bị đọa
trong ba ác đạo. Con lại nghĩ như thế này: Các
chúng sanh ấy do thân cận ác tri thức nên thoái thất
chánh pháp, đọa trong chỗ tối tăm to lớn, hết
sạch các thiện căn, thâu giữ các thứ tà kiến
v.v... tâm bị che lấp, đi nơi đường tà.
Bạch
Thế Tôn! Con nay dùng đại âm thanh bảo các chúng sanh: ‘Tất
cả hết thảy thiện căn của tôi hồi
hướng hết về A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. Nguyện khi tôi hành Bồ Tát đạo, nếu
có chúng sanh gặp phải những chuyện khổ năo, sợ
hăi v.v... lui sụt chánh pháp, đọa vào chỗ tối
tăm to lớn, ưu sầu, trơ trọi, cùng quẫn,
không ai cứu giúp, che chở, không nơi nương tựa,
không nơi nương ở, mà nếu có thể nghĩ nhớ
đến tôi, xưng danh tự của tôi, nếu
được thiên nhĩ của tôi nghe thấy, thiên nhăn
trông thấy, mà các chúng sanh ấy nếu chẳng thoát khỏi
những khổ năo đó, tôi sẽ trọn chẳng thành A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề’.
Lại bạch
Phật rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Con nay sẽ lại v́ chúng sanh mà phát nguyện
thù thắng, cao trỗi.
Bạch Thế Tôn! Như
con nay chính ḿnh đă có thể mau chóng được lợi
lạc, nguyện cho Chuyển Luân Thánh Vương sau khi hết
các A-tăng-kỳ kiếp nhiều như cát một sông Hằng
thứ nhất rồi, vừa mới bước vào A-tăng-kỳ
kiếp nhiều như cát sông Hằng thứ hai, thế giới
khi ấy tên là An Lạc. Đại vương thành Phật
hiệu là Vô Lượng Thọ, thế giới trang nghiêm,
chúng sanh thanh tịnh, làm vị vua chánh pháp. Đức Phật
Thế Tôn ấy trong vô lượng kiếp làm Phật sự
đă xong, việc làm đă hoàn tất, nhập Vô Dư Niết
Bàn, cho đến khi chánh pháp c̣n tồn tại, th́ trong thời
gian ấy, con tu Bồ Tát đạo, ngay trong khi ấy, hay
làm Phật sự. Chánh pháp của đức Phật ấy
diệt vào đầu đêm th́ liền ngay cuối đêm,
con liền thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Bảo Tạng
Phật liền thọ kư rằng:
- Này thiện
nam tử! Ông quán trời người và hết thảy
chúng sanh trong ba ác đạo, sanh tâm đại bi, v́ muốn
đoạn các khổ năo của chúng sanh, v́ muốn làm cho
chúng sanh trụ trong an lạc.
Này thiện
nam tử! Ta nay đặt tên cho ông là Quán Thế Âm. Khi ông
hành Bồ Tát đạo đă có trăm ngàn vô lượng ức
na-do-tha chúng sanh được ĺa khổ năo. Khi ông làm Bồ
Tát đă có thể làm Phật sự lớn lao. Lúc Vô Lượng
Thọ Phật bát Niết Bàn rồi, khi chánh pháp diệt sạch,
cơi ấy sẽ đổi tên thành Nhất Thiết Trân Bảo
Sở Thành Tựu Thế Giới. Tất cả các thứ
trang nghiêm vô lượng vô biên, thế giới An Lạc chẳng
thể bằng được! Ông vào cuối đêm, trên
ṭa Kim Cang dưới cội Bồ Đề, trong khoảng
một niệm, thành Đẳng Chánh Giác, hiệu là Biến
Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn
Vương Như Lai. Thọ mạng của vị Phật
ấy là chín mươi sáu ức na-do-tha trăm ngàn kiếp.
Khi Ngài bát Niết Bàn rồi, chánh pháp trụ thế sáu
mươi ba ức kiếp.
Quán Thế
Âm Bồ Tát bạch Phật rằng:
- Nếu
sở nguyện của con được thành tựu th́
nay trong lúc con lễ Phật, sẽ khiến cho chư Phật
trong mười phương nhiều như cát sông Hằng,
mỗi vị đều thọ kư cho con, cũng khiến
cho các thế giới trong mười phương nhiều
như cát sông Hằng chấn động sáu cách.
Khi ấy,
mười phương thế giới chấn động
sáu cách[1], các vị Phật trong ấy đều
thọ kư cho [Quán Thế Âm Bồ Tát]. Lúc đó, Bảo Tạng
Như Lai v́ Quán Thế Âm Bồ Tát nói kệ rằng:
Bậc đại bi công đức,
Nay hăy nên đứng dậy,
Đất chấn động
sáu cách,
Và trong các cơi Phật,
Mười phương các
đức Phật
Đă thọ kư cho ông,
Ông sẽ thành Phật đạo,
V́ thế nên hoan hỷ.
Nhận định: Trong kinh Đại
Bi, đức Phật bảo A Nan: “Quán Thế Âm Bồ Tát trong vô lượng kiếp
trước đă thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh
Như Lai”. Sự thọ kư trong kinh này chính là trong vô
lượng kiếp sau, kế thừa ngôi vị của
đức Di Đà, hiệu là Công Đức Sơn
Vương Như Lai, chính là thị tích[2], chẳng c̣n ngờ chi nữa! Cổ Phật
thùy tích, chính là nhằm dạy bảo kẻ chẳng biết
phát Bồ Đề tâm, lại cầu làm thiên vương,
ma vương, Chuyển Luân thánh vương, hay mong được
giàu to, đến nỗi đầu mặt giống như
lợn, bị các loài trùng ăn, nhiều lượt thọ
thân chẳng có thuở thoát ra. Bậc Đại Bi Bồ
Tát cảnh tỉnh kẻ si mê, xả thân thành loài vật, há
chẳng mổ tim vẩy máu, chấn động đất
trời ư? Than ôi! Kẻ đọc đến đây chẳng
biết cảm kích ân đức, ứa lệ th́ đáng gọi
là kẻ chẳng có tánh người!
Thế nhưng cảm
ân đâu khó, báo ân mới khó! Báo ân như thế nào? Chính là
phát Bồ Đề tâm vậy! Bồ Đề tâm nếu
nói rộng th́ như trong phẩm Phạm Hạnh, nói đại
lược th́ là Tứ Hoằng Thệ, tách ra th́ là mười
đại nguyện vương, nói hợp lại th́ chính
là cầu sanh Tịnh Độ. Nhưng nếu như có kẻ
riêng đối với một câu cuối cùng lại nghi ngờ,
bảo: Bồ Đề tâm chân không, vô tướng, c̣n cầu
sanh Tịnh Độ th́ vui thích, hâm mộ sự trang nghiêm,
chưa khỏi chấp tướng! Bồ Đề tâm lấy
đại bi làm gốc, [vậy th́] cầu sanh Tịnh
Độ chán ĺa đời ác, quá thiếu đại bi! Đối
với những cái nh́n nông cạn, thô lậu như thế,
há cần phải nói rộng răi những ư nghĩa cao xa, chỉ
hỏi những kẻ tu tập vô tướng hiện thời,
há có thể trong suốt bảy năm không ham muốn cho
đến không nghĩ đến hương, vị, xúc
hay chăng?
Nhưng
Đại Sĩ đă chứng cảnh giới này, v́ sao lại
nh́n khắp vi trần sự trang nghiêm để tùy ư chọn
lấy, lại hỏi những kẻ phát nguyện độ
sanh hiện thời, có thể khiến cho những ai
xưng danh ḿnh liền được giải thoát hay
chăng? Đại Sĩ trọn đủ đạo lực
này, cớ sao làm bậc Bổ Xứ trong thế giới Cực
Lạc, được Như Lai thọ kư, lại ban cho
danh hiệu Đại Bi? Đại để, những
điều này đều là v́ Đại Sĩ thấy thấu
triệt chúng sanh trong đời Mạt chướng nặng,
nguyện nhẹ, nghiệp sâu, trí cạn; đại chúng
đông đảo nói chung đều cầu đời này
phú quư, đời sau sang cả. Lại v́ có những kẻ
tà trí hâm mộ thần tiên ngoài biển, cung tiên trên trời,
v́ thế chẳng thoát khỏi luân hồi, dễ đọa
vào ác đạo, [cho nên Bồ Tát] cảnh tỉnh họ,
khuyên họ phát Bồ Đề tâm, biết Bồ Đề
đáng quư.
Lại v́ có lắm kẻ
hiểu lầm Bát Nhă, vứt Có, chấp Không, hoặc chẳng
suy xét tự lực, [chính ḿnh c̣n đang mắc kẹt] dưới
giếng [mà toan] cứu người. V́ chúng sanh thân cận
ác tri thức, lui sụt, đánh mất chánh pháp, đọa
trong chỗ tối tăm to lớn, tâm bị tà kiến che
lấp mà cảnh tỉnh họ, nguyện cầu sanh Tịnh
Độ. Bởi lẽ, sanh về Tịnh Độ chính
là [sanh về] chốn vui sướng được ở
cùng một chỗ với các vị thượng thiện
nhân, không có bạn ác, chim quư, cây báu thường nói pháp âm,
không tà kiến nào có thể chen vào được, đắc
bất thoái chuyển nơi Bồ Đề, đại
nguyện dễ thành tựu. Giáo hóa chúng sanh th́ phải lấy
thân làm gương, đấy chính là lư do “ưa tịnh,
chán nhơ”. Lại c̣n tận t́nh thổ lộ, nhưng
người dạy th́ ra rả, kẻ nghe lại rẻ rúng,
cũng là phụ bạc ân sâu rủ ḷng thị tích của
bậc cổ Phật lắm thay!
Nếu có kẻ lại
bảo: Cớ sao đức Thích Ca Mâu Ni Phật khi làm Phạm
Chí phát tâm bèn giữ lấy cơi nhơ? Đáp: Như Lai
đại giác, ĺa hết thảy tánh, há có sạch hay nhơ?
Giữ lấy tịnh, hay giữ lấy cấu, đều
là thuận theo ngôn ngữ của thế tục, nhằm thực
hiện sự nghiệp độ sanh đó thôi! Nhưng chúng
sanh có muôn loại khác nhau, v́ thế thị tích khó thể
theo cùng một đường lối. Nếu không có Phật
Thích Ca th́ danh tự Tịnh Độ c̣n chưa thể
được nghe th́ lấy đâu để niệm Phật
cầu sanh? Nếu chẳng có Quán Âm, th́ kẻ Kiến Hoặc,
Tư Hoặc chưa đoạn sạch c̣n mong chi mau chứng
lên Bất Thoái? Nếu nói cứ phải giữ lấy tịnh
chẳng giữ lấy cấu th́ đức Thích Ca giáng
sanh, hiện kim thân sai khác, Quán Âm ứng hóa, hiện thân h́nh
giống với chúng sanh, từ trong cấu hiện tịnh,
trong tịnh hiện cấu, phải nói như thế nào
đây? Chúng ta là chúng sanh khổ năo, hăy nên chuyên nghĩ “sanh tử là chuyện lớn, vô
thường nhanh chóng”, há có nên lầm lạc sanh phân biệt
đối với sự ứng hóa của Phật, Bồ
Tát ư? Cố nhiên, Đại Sĩ khuyên người bỏ
trược lấy tịnh, Như Lai thuyết pháp bốn
mươi chín năm, chỗ nào cũng tán dương Tịnh
Độ, khuyên con người hăy nên phát nguyện văng sanh.
[Chúng ta] chẳng thấu hiểu thánh tâm, chẳng vâng theo lời
Phật, há chẳng những là cô phụ tấm ḷng cứu
độ của Đại Sĩ mà cũng là trên phụ
ân Phật, dưới phụ tánh linh của chính ḿnh đó
vậy!
8. Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục
Độc Hại Đà La Ni Kinh (Trích lục)
Một
thời, đức Phật ngự trong Đại Lâm Tinh
Xá ở vườn cây Am La tại thành Tỳ Xá Ly cùng với
một ngàn hai trăm năm mươi tỳ-kheo, hai vạn
vị Bồ Tát nhóm họp. Khi ấy, nhân dân trong nước
Tỳ Xá Ly mắc phải chứng bệnh ngặt nghèo to
lớn: Một là mắt đỏ như máu, hai là hai tai chảy
mủ, ba là mũi ứa máu, bốn là đớ lưỡi
không nói được, năm là những thứ ăn vào
hóa ra thô rít, sáu thức bế tắc giống như người
say. Có năm Dạ Xoa mặt đen như mực, nhưng
có năm mắt, răng nanh cong vểnh lên, hút tinh khí của
con người.
Trong thành
có một trưởng giả tên là Nguyệt Cái đến
chỗ Phật bạch rằng:
- Nước
này gặp phải bệnh ác, lương y Kỳ Bà tận
hết đạo thuật mà chẳng thể cứu, kính
mong đức Thế Tôn thương xót hết thảy, cứu
vớt bệnh khổ.
Đức
Thế Tôn bảo rằng:
- Cách
đây không xa, ở ngay tại Tây Phương có đức
Phật tên là Vô Lượng Thọ, có các Bồ Tát tên là
Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thường do đại
bi mà thương xót hết thảy, cứu vớt khổ
ách. Ông nên năm vóc gieo sát đất, hướng về
các Ngài làm lễ, đốt hương, rải hoa, hệ
niệm, đếm hơi thở, khiến cho tâm chẳng
tán loạn trong khoảng mười niệm, v́ chúng sanh mà
thỉnh đức Phật ấy và hai vị Bồ Tát.
Lúc đức
Phật nói lời ấy, từ trong quang minh của đức
Phật, được thấy Vô Lượng Thọ Phật
và hai vị Bồ Tát. Do thần lực của Như Lai,
đức Phật và Bồ Tát đều cùng đến
cơi này, trụ trên khung cửa thành, phóng quang minh lớn, chiếu
cả thành Tỳ Xá Ly đều biến thành sắc vàng, Người
dân Tỳ Xá Ly liền sắp đặt cành dương,
nước sạch, dâng cho Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức
Đại Bi Quán Thế Âm xót thương, cứu giúp, bảo
vệ hết thảy chúng sanh nói như thế này:
- Các
ngươi nên nhất tâm xưng Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp,
Nam Mô Tăng, Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, đại
bi, đại danh xưng, cứu giúp, che chở kẻ khổ
ách. Xưng niệm Tam Bảo ba lượt, xưng danh Quán
Thế Âm ba lượt như thế, năm vóc gieo xuống
đất, hướng về phương Tây, nhất tâm
nhất ư giữ cho hơi thở được định,
chắp tay, nói kệ rằng:
Nguyện cứu con khổ ách,
Đại bi che hết thảy,
Phóng trọn quang minh sạch,
Diệt trừ tối si ám,
Được thoát khổ
độc hại,
Phiền năo và các bệnh,
Ắt đến chỗ của
con,
Ban con đại an lạc,
Con nay cúi đầu lễ,
Nghe tên đấng cứu nạn,
Con nay tự quy y,
Thế gian từ bi phụ,
Kính mong nhất định tới,
Cứu khỏi khổ ba độc,
Ban sự vui đời này,
Cùng với đại Niết
Bàn,
Liền
bạch Phật rằng:
- Thần
chú như vậy nhất định cát tường.
Người nghe thần chú này vĩnh viễn hết sạch
các khổ, đắc Niệm Phật Định, hiện
tiền thấy Phật. Con nay nói ra thần chú “cứu
giúp, che chở chúng sanh” của mười phương
chư Phật.
Nói chú[3] xong,
người thành Tỳ Xá Ly b́nh phục như cũ. Khi ấy,
đức Thế Tôn thương xót chúng sanh, lại thỉnh
Quán Thế Âm Bồ Tát nói Tiêu Phục Độc Hại Chú[4]. Quán Thế Âm đại bi huân tâm, thuyết
Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục Độc Hại
Chú. Phật bảo A Nan:
- Thần
chú này tên là Ban Cho Hết Thảy Chúng Sanh Thuốc Cam Lộ
Mầu Nhiệm, Không Sợ Hăi Bệnh Tật, Sợ Chết
Ngang Trái, Sợ Trói Buộc, Sợ Tham Dục, Sân Khuể,
Ngu Si Ba Độc. V́ vậy, thế giới Sa Bà này đều
gọi Quán Thế Âm Bồ Tát là Đấng Thí Vô Úy.
Thành
Vương Xá có nữ nhân bị ác quỷ dựa, ta dạy
người nữ ấy niệm Quán Thế Âm Bồ Tát,
thiện tâm tiếp nối, nhập cảnh giới lành.
Nên biết sức oai thần của vị Bồ Tát này khuất
phục, dẹp tan quỷ thần, được thấy
sắc tượng khôn sánh nơi
thân ta. Lúc ấy, nơi mỗi một lỗ chân lông của
ta sanh ra hoa sen báu, vô số hóa Phật khác miệng cùng tiếng
ca ngợi đấng Đại Bi Thí Vô Úy.
Đức
Thế Tôn nói kệ rằng:
Đại bi, đại danh
xưng,
Bậc cát tường, an lạc,
Thường nói câu cát tường,
Cứu giúp kẻ rất khổ,
Nếu chúng sanh nghe tên,
Ĺa khổ, được giải
thoát,
Cũng dạo chơi địa
ngục,
Đại bi chịu khổ
thay,
Hoặc ở trong súc sanh,
Hóa thân h́nh súc sanh,
Dạy chúng đại trí huệ,
Khiến phát vô thượng tâm,
Hiện ra thân ngạ quỷ,
Tay tuôn sữa thơm đẹp,
Thí kẻ đói khát ngặt,
Khiến cho được no
đủ.
Đại từ, đại bi
tâm,
Dạo chơi trong năm
đường,
Thường dùng thiện tập
huệ,
Phương tiện khéo vô
thượng
Dạy khắp hết thảy
chúng,
Khiến ĺa sanh tử khổ,
Thường đến nơi
an lạc,
Đến bờ đại Niết
Bàn.
Đức Phật bảo
A Nan:
- Chương cú sáu chữ
này nhất định cát tường. Nếu có ai nghe, sẽ
được đại thiện lợi, đắc vô
lượng công đức.
Trong thành Vương Xá
có tỳ-kheo tên Ưu Ba Tư Na ở trong chốn rừng
lạnh nói với đại chúng:
- Xưa
kia, tôi sát sanh vô lượng, nghe chương cú sáu chữ của
Quán Thế Âm Bồ Tát, chánh niệm tư duy, quán sát tâm và tâm
mạch, hệ niệm một chỗ, thấy Quán Thế
Âm Bồ Tát liền được giải thoát, thành A La
Hán. Làm thế nào để thấy được Quán Thế
Âm Bồ Tát và mười phương Phật? Hăy giữ
cho thân ngay ngắn, tâm ngay thẳng, khiến cho tâm bất
động. Dùng bàn tay trái đặt trên bàn tay phải, cong
lưỡi cho chạm ṿm họng, giữ cho hơi thở
điều ḥa, quân b́nh, chẳng thô, chẳng tán, an tường
thong thả đếm từng hơi thở từ một
đến mười, ư chẳng phân tán, khiến cho tâm
sáng sạch. Do sức định tâm bằng cách đếm
hơi thở ấy, như thuận theo ḍng nước chảy,
sẽ mau thấy được Quán Thế Âm và mười
phương Phật.
Phật
bảo các tỳ-kheo:
- Các ông
muốn uống pháp vị cam lộ vô thượng th́ hăy
nên tự nhiếp thân, ngồi ngay ngắn, chánh thọ, ư
chẳng hướng ra ngoài, quán Khổ, Không, Vô Thường
bại hoại, ṃn diệt, chẳng lâu dài, tu năm môn Thiền.
Hăy nên tự quán thân: Từ đầu đến chân, đối
với mỗi đốt lóng đều hệ niệm,
ngưng trụ chẳng tán, quán sát kỹ càng các lóng giống
như cây chuối, trong ngoài đều rỗng không. Nên biết
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống
như thế.
Khi ấy, Ưu Ba
Tư Na hỏi ngài Xá Lợi Phất:
- Nhăn và Nhăn Thức
tương ứng với Sắc, nhiếp trụ như
thế nào? Nhĩ và Nhĩ Thức tương ứng với
Thanh, Tỵ và Tỵ Thức tương ứng với
Hương, Thiệt và Thiệt Thức tương ứng
với Vị, Ư và Ư Thức tương ứng với phan
duyên, nhiếp trụ như thế nào? Giặc Thức
như khỉ vượn, đùa bỡn sáu căn, duyên khắp
các pháp, nhiếp trụ như thế nào?
Ngài Xá Lợi Phất
nói:
- Hăy nên quán Địa
Đại, đất không có tánh cứng. Thủy Đại
th́ tánh nước chẳng trụ. Phong Đại th́ tánh
gió vô ngại, do điên đảo mà có. Hỏa Đại
th́ tánh lửa chẳng thật, nhờ vào nhân duyên mà sanh. Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, mỗi một tánh đều
giống nhau.
Ưu Ba Tư Na bỗng
nhiên thấu hiểu, nhập Bát Niết Bàn. Phật bảo
Xá Lợi Phất:
- Nếu ai có tội
nghiệp từ đời trước và những ác hạnh
cực nặng đă tạo trong đời này, trong mộng
được thấy Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ
như cơn gió mạnh thổi qua mây đóng thành tầng,
mây đều trôi tứ tán, [được ĺa trọng tội,
ác nghiệp], sanh trước chư Phật. Ta nay v́ kẻ
thọ tŕ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và
chương cú Tiêu Phục Độc Hại vô thượng
mà nói kệ tán thán:
Nếu ai được nghe danh hiệu ta,
Cũng nghe Đại Bi Quán Thế Âm,
Tụng tŕ chú này ĺa các ác,
Chẳng đọa địa ngục và súc sanh,
Hoa sen hóa sanh làm cha mẹ,
Tâm tịnh mềm mại, không
trần cấu,
Ắt nghe vô thượng đại
huệ minh,
Tâm định như đất
chẳng thể động,
Hết thảy Phật xuất
hiện trong đời,
V́ nhằm an lạc các chúng sanh,
Thân mỗi một vị, tuy
khác miệng,
Ngồi ngay ngắn trên ṭa Kim
Cang,
Miệng phóng quang minh đủ
năm màu,
Lưỡi có h́nh như cánh hoa
sen,
Tán thán ca ngợi bậc Đại
Bi,
Đấng sư tử điều
ngự các pháp,
Quán Thế Âm bảo vệ cơi
đời,
Nhất định tiêu tan các
độc hại,
Dẹp trừ sạch hết
ba độc căn,
Thành tựu Phật đạo
chẳng c̣n ngờ,
Thiện
nam tử, thiện nữ nhân được nghe danh tự
tựa đề kinh này sẽ thường được
thấy Phật, trọn đủ thiện căn, sanh về
cơi Phật thanh tịnh.
Nhận định: Đây là
Như Lai muốn cho con người hướng về, hâm
mộ Tây Phương, nên rủ ḷng ban truyền kinh tiếp
dẫn này. Như trong kinh Bi Hoa, Phật Di Đà và đức
Quán Âm thị hiện làm hạng độn căn nhằm
cảnh tỉnh con người hăy cầu sanh Tịnh Độ,
dụng ư giống hệt. Ấy là v́ mười
phương Như Lai đều cùng từ một biển
diệu trang nghiêm, ngược ḍng thoát ra, bất luận
phô bày Bổn hay thị hiện Tích, hiện tịnh hay hiện
trược, oai lực từ bi, công đức, thần
thông, mỗi mỗi đều vô lượng, quyết chẳng
có hơn hay kém. Như thế th́ đối với tai nạn
bệnh khổ của hết thảy chúng sanh, bất luận
thuộc Sự hay Lư, tự chẳng có lẽ nào chỉ riêng
đức Quán Âm mới có thể trị được,
chứ Phật Thích Ca chẳng thể trị được!
Nhưng trong lúc đức Phật và Văn Thù, Di Lặc,
hai vạn vị đại Bồ Tát nhóm họp, chẳng
trị bệnh cho người trong nước ấy, mà lại
dạy họ hăy dốc ḷng Thành nơi Tam Thánh, thiết tha
thỉnh cầu Quán Âm. Ư nghĩa của việc dẫn dụ
con người hâm mộ ưa thích Tịnh Độ, quy mạng
Đại Sĩ là như thế nào vậy? Kinh này lấy
“buộc tâm niệm Phật” làm Tông, lấy “hiện tiền
được thấy Quán Thế Âm Bồ Tát và mười
phương Phật” làm Thú[5]. Các pháp như Sổ Tức, quán nhân
duyên v.v... đều là trợ hạnh của niệm Phật
!
(Nếu có kẻ nghi “nên lấy
tŕ chú làm Tông” tức là chẳng biết tŕ chú hay tŕ danh nói
chung đều quy về niệm Phật, mà tŕ danh càng thiết
yếu hơn. Bởi lẽ, kẻ tŕ chú ắt phải
kiêm tŕ danh, nhưng người tŕ danh chẳng cần phải
kiêm tŕ chú. Hơn nữa, trong kinh nhiều lần nhắc tới
chuyện “xưng niệm chương cú sáu chữ”, ngài
Thiên Thai tuy giải thích là chú lực, nhưng cũng dùng kèm
thêm thuyết “Phật, Pháp, Tăng,
Quán Thế Âm” là sáu chữ. V́ thế, biết tŕ danh càng thiết
yếu.
Hoặc lại có
kẻ nghi kinh đặt nặng pháp Sổ Tức (đếm
hơi thở) và quán nhân duyên, phải coi những pháp ấy
là Tông, tức là chẳng biết Tông là nhân, c̣n Thú là quả.
Nhân và quả ắt phải tương ứng, tướng
trạng của sự chứng đắc nơi phép Sổ
Tức chẳng qua là tâm nhăn sáng suốt, thấu tỏ, thấy
được vật ở trong thân. Tướng trạng
chứng đắc của phép quán nhân duyên chẳng qua là thấy
mười hai nhân duyên và không Nhân, không Ngă, đều chẳng
thể thấy Phật trong hiện tiền! V́ thế, [kinh
này] lấy niệm Phật làm Tông).
Người học hăy
nhất tâm niệm Phật, chẳng cần phải tham nhiều,
chuộng rộng, phạm phải điều răn “chớ
tạp tu”. Nếu tập khí phiền năo quá nặng, cầu
tịnh tâm trong chốc lát chẳng được th́ hăy chọn
lựa một pháp để đối trị, làm tiền
phương tiện cho nhất tâm bất loạn, cố
nhiên không ǵ là chẳng được! Do chọn lựa
kinh luận nên tôi chép lại mấy điều luận rơ
về tướng trạng của kinh này ghép vào ngay sau đoạn
này để giúp cho việc tu tập.
Năm
môn Thiền c̣n gọi là Ngũ Đ́nh Tâm Quán: Sổ Tức
nhằm trị tán loạn, Nhân Duyên Quán nhằm đối
trị ngu si, Bất Tịnh Quán trị dâm dục, Từ
Tâm Quán trị sân khuể, Niệm Phật trị chung các bệnh,
cho nên gọi là vua của các tam-muội.
Sách Tiểu
Chỉ Quán viết: “Khi mới nhập Thiền, giữ cho thân yên
ổn, tháo đai lưng, dùng chân trái đè lên chân phải,
kéo sát gần thân, tay trái đặt trên tay phải, chồng khít lên nhau. Tiếp đó, giữ
thân ngay ngắn khiến cho xương sống đừng
cong, đừng ưỡn, mũi ngang với rốn, mặt
giữ ngay ngắn, môi và răng tựa vào nhau, lưỡi
hướng lên ṿm họng, nhắm mắt để khỏi
thấy ánh sáng bên ngoài. Tiếp đó, điều ḥa hơi
thở sao cho thở ra hít vào không nghe tiếng, như c̣n,
như mất. Tưởng hơi thở ra vào không chướng
ngại nơi trọn khắp lỗ chân lông trên thân. Khi tâm
đă yên, nếu bị hôn ám th́ chú tâm nơi chót mũi
để trị hôn trầm. Nếu tâm chao động th́
chú tâm nơi rốn để trị phập phều, tán
loạn (Niệm Phật
th́ dùng niệm lớn tiếng tụng rơ để trị
hôn trầm, dùng từng chữ phân minh, từng tiếng
tương ứng với tâm để trị phập phều,
tán loạn, so với cách này càng tuyệt hơn). Như thế
th́ sẽ có thể trừ được những tật
cũ, có thể đạt được Định
đạo”.
Nhân Duyên Quán
có nghĩa là các pháp không có tự tánh, cũng chẳng từ
cái khác sanh, chẳng cùng chung, nhưng chẳng phải là
không có nhân. V́ thế nói là “vô sanh”, chứ không phải chỉ
nói riêng về mười hai nhân duyên. Tùy Tự Ư Tam Muội
chép: “Trước hết, quán
hơi thở ra vào khắp thân, dần dần cảm thấy
thân này: Da, thịt, gân, xương có những lỗ hổng
trọn khắp, giống như cây chuối. Quán lâu sẽ
càng thêm rỗng sáng giống như bọt nước, dần
dần mỏng như bong bóng nước, dần dần mờ
nhạt như h́nh bóng, cuối cùng giống hệt như
hư không. Thân này ví như bóng mây, như mây trôi trên không, soi
bóng trên mặt đất. Mây ví cho nghiệp đă qua, bóng
ví cho thân hiện tại. Mây tan th́ bóng chẳng c̣n, nghiệp
tận th́ thân cũng thế, thân vốn không có thể, vô sắc
lẫn vô h́nh, nghiệp đă qua và bóng dáng của thân vốn
sẵn thường vắng lặng”.
Bất Tịnh
Quán th́ như sách Tọa Thiền Tam Muội viết: “Thoạt đầu quán tóc, lông,
móng, răng, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy,
gan, phổi, tim, lá lách, thận, bao tử, ruột già, ruột
non, phân, tiểu, mũi, răi, mỡ, năo, màng bọc, các thứ
bất tịnh như thế. Kế đến quán tướng
xanh bầm, ph́nh trương, máu thịt hư nát, nước
hôi chảy ṛng ṛng, gịi bọ đục khoét, coi sắc
đẹp như cái túi da thối, sẽ tự chẳng
tham đắm”.
Từ
Tâm Quán là như sách [Tọa Thiền] Tam Muội nói: “Hành giả thoạt đầu
nghĩ tới các thứ cảnh vui như kẻ lạnh
được áo, người nóng được mát, kẻ
đói khát được ăn uống, kẻ nghèo hèn
được phú quư v.v... Nguyện những người
thân yêu đều đạt được [những sự
vui sướng ấy], buộc tâm nơi ḷng Từ, chẳng
có ư niệm khác. Dần dần nghĩ đến mọi
người, coi hết thảy mọi người đều
như kẻ thân yêu, đều nguyện cho họ
được vui sướng. Lại nghĩ đến
những kẻ oán ghét, tuy họ với ta thù oán, há họ
chẳng có điều lành khác đáng kể ư? Chẳng
thể do một điều oán mà mất sạch những
điều tốt lành khác! Lại nữa, trong đời
quá khứ, có thể họ là người thân yêu của ta,
chẳng thể kết oán với người thân! Lại
nghĩ: Nhân từ có công đức khó lường, quả
báo của sân độc đáng sợ, khiến cho vô lượng
chúng sanh trong khắp thế giới đều được
vui sướng th́ tâm ta mới vui vẻ, đấy là Từ
Tâm tam-muội”.
Nhân Duyên
Quán và Bất Tịnh Quán trị chung ba độc tham - sân
- si, như phẩm Thánh Hạnh trong kinh [Đại Bát] Niết
Bàn đă dạy:
“Quán sát thân này từ đầu đến chân, tóc,
lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, lá lách, thận,
tim, phổi, gan, mật, ruột, bao tử, mạng mỡ,
óc, màng bọc, tủy xương, mủ, máu, ai là ta?
Xương là Ngă ư?
Xương như vậy là từ nhân duyên sanh, do bàn chân tựa
vào xương cổ chân, do xương cổ chân tựa
vào xương ống chân, xương ống chân chống
vào đầu gối, đầu gối chống vào
đùi, đùi chống vào xương chậu, xương
chậu chống vào eo, eo tựa vào xương sống,
xương sống đỡ xương sườn,
xương sườn nâng xương cổ, xương
cổ đỡ xương má, cho đến xương sọ.
Lại do cổ đỡ xương bả vai, bả vai
đỡ cánh tay, cánh tay đỡ cổ tay, cổ tay nối
bàn tay, bàn tay đỡ ngón. Nếu hết thảy tất cả
xương trên thân tách ĺa th́ [thân thể sẽ không c̣n tồn
tại nữa, hành giả] sẽ đoạn được
ba thứ ham muốn nơi h́nh mạo, tư thái, sự
đụng chạm mềm mịn. Thân như vậy là do
nhân duyên bất tịnh cùng nhau ḥa hợp tạo thành, v́ sao
có thể ngồi, đứng dậy, đi, ở, co, duỗi,
cúi, ngửa, nh́n, nháy, hít, thở, buồn khóc, vui cười.
Trong ấy không có chủ, ai khiến cho nó như thế?
Hoặc Thức là Ngă ư? Lại quán Thức này, lần
lượt sanh diệt giống như ḍng nước chảy,
cũng chẳng phải là Ngă. Hoặc hơi thở ra vào
là Ngă ư? Lại quán hơi thở này, đúng là tánh của
gió, tánh của đất chẳng phải là Ngă, tánh của
gió, nước, lửa cũng chẳng phải là Ngă. Thân
này hết thảy vô ngă, chỉ có gió tâm, nhân duyên ḥa hợp
mà thị hiện các thứ. Ví như do sức của thần
chú mà biến hiện huyễn thuật, cũng như
đàn Không Hầu[6] tùy ư vang
ra tiếng th́ sẽ ở nơi đâu mà sanh tham dục? Nếu
bị nhục mạ th́ lại ở nơi đâu mà sanh
nóng giận? Ba mươi sáu vật trên thân này bất tịnh,
hôi thối, từ chỗ nào mà có kẻ nhục mạ? Nếu
người ta đến đánh th́ cũng nên tư duy
như vậy, chớ nên nổi giận. Quán như thế
rồi sẽ trụ trong địa vị Kham Nhẫn”.
9. Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh (Lược trích)
Vy Đề
Hy bạch Phật:
- Chúng
sanh đời vị lai nên quán Vô Lượng Thọ Phật
và hai vị Bồ Tát như thế nào?
Phật
dạy:
- Hăy nên
tưởng hoa sen trên ao bảy báu. Trên mỗi một cánh
hoa ấy tưởng có màu của trăm thứ báu, có tám
vạn bốn ngàn đường gân giống như nét vẽ
cơi trời, mỗi đường gân có tám vạn bốn
ngàn ánh sáng. Cánh hoa nhỏ có kích thước là hai trăm
năm mươi do-tuần. Hoa sen như vậy có đủ
tám vạn bốn ngàn cánh, trong mỗi một cánh có trăm ức
Ma Ni châu vương chiếu sáng ngời. Mỗi một
viên Ma Ni châu phóng ra một ngàn tia quang minh. Ánh sáng ấy
như cái lọng do bảy báu hợp thành phủ khắp mặt
đất. Báu Thích Ca Tỳ Lăng Già dùng để làm
đài, tám vạn báu Kim Cang Chân Thúc Ca và báu Phạm Ma Ni,
lưới chân châu đẹp đẽ dùng để trang
hoàng. Trên đài có bốn trụ tràng báu, như trăm ngàn
vạn ức núi Tu Di. Trên tràng giăng lưới báu
như cung trời Dạ Ma, có năm trăm ức bảo
châu vi diệu chiếu sáng ngời. Mỗi một viên châu
có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, mỗi một ánh sáng tỏa
ra tám vạn bốn ngàn sắc vàng khác nhau. Mỗi một sắc
vàng trọn khắp cơi báu, biến hóa khắp nơi, mỗi
sắc vàng đều biến hiện h́nh tướng khác
biệt, hoặc hiện thành đài Kim Cang, hoặc thành
lưới chân châu, hoặc là mây gồm nhiều loại
hoa để làm Phật sự trong mười
phương.
Kế đó, hăy nên
tưởng Phật, v́ sao vậy? Chư Phật Như Lai
là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng của hết thảy
chúng sanh. V́ vậy, khi tâm các ngươi tưởng Phật
th́ tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám
mươi vẻ đẹp tùy h́nh, tâm ấy làm Phật
th́ tâm ấy là Phật. Biển Chánh Biến Tri của
chư Phật từ tâm tưởng sanh. V́ thế, hăy nên một
ḷng hệ niệm, quán kỹ đức Phật ấy.
A
Quán Vô Lượng Thọ
Phật từ một tướng hảo để nhập
quán, chỉ quán tướng bạch hào giữa hai mày cho thật
rơ ràng. Thấy được tướng bạch hào giữa
hai mày th́ tám vạn bốn ngàn tướng hảo sẽ tự
nhiên hiện. Thấy Vô Lượng Thọ Phật chính là
thấy mười phương vô lượng chư Phật.
Do được thấy vô lượng chư Phật nên
chư Phật hiện tiền thọ kư.
Kế đó, lại
nên quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Vị Bồ Tát này thân cao tám
mươi vạn ức na-do-tha do-tuần, thân màu vàng tía, đỉnh
đầu có nhục kế, cổ có viên quang, mỗi phía
đều tỏa rộng đến trăm ngàn do-tuần.
Trong viên quang ấy có năm trăm hóa Phật giống
như Thích Ca Mâu Ni Phật. Mỗi một hóa Phật có
năm trăm hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên để
làm thị giả. Trong ánh sáng tỏa khắp quanh thân, chúng
sanh trong năm đường, hết thảy sắc
tướng đều hiện trong ấy. Trên đỉnh
đầu dùng báu Tỳ Lăng Già Ma Ni để làm măo trời,
trong măo trời có một vị hóa Phật đứng, cao
hai mươi lăm do-tuần.
Quán Thế Âm Bồ Tát
sắc mặt như vàng Diêm Phù Đàn, tướng bạch
hào giữa hai mày có đủ màu của bảy thứ báu,
tỏa ra tám vạn bốn ngàn thứ quang minh. Mỗi một
quang minh có vô lượng vô số trăm ngàn hóa Phật. Mỗi
một hóa Phật có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả,
biến hiện tự tại đầy khắp mười
phương thế giới. Tay Bồ Tát có màu như hoa sen
hồng, có tám mươi ức quang minh vi diệu dùng làm
chuỗi ngọc. Trong những chuỗi ngọc ấy, hiện
khắp hết thảy các sự trang nghiêm. Ḷng bàn tay có màu
của năm trăm ức hoa sen nhiều màu. Mười
đầu ngón tay, mỗi một đầu ngón có tám vạn
bốn ngàn đường vân giống như nét ấn. Mỗi
một vạch có tám vạn bốn ngàn màu. Mỗi một
màu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy mềm mại,
chiếu khắp hết thảy. Bồ Tát dùng tay báu ấy
để tiếp dẫn chúng sanh.
Khi Ngài giở chân lên,
dưới chân có tướng bánh xe ngàn căm, tự nhiên
hóa thành năm trăm ức đài quang minh. Khi đặt
chân xuống, có hoa Kim Cang Ma Ni rải rắc hết thảy,
không đâu chẳng trọn khắp. Nơi những thân tướng
khác, các thứ hảo trọn đủ giống như Phật
chẳng khác biệt, chỉ có nhục kế trên đỉnh
đầu và Vô Kiến Đảnh Tướng là chẳng
bằng Phật. Người quán như vậy chẳng gặp
các họa, tịnh trừ nghiệp chướng, trừ tội
trong vô số kiếp sanh tử. Vị Bồ Tát như vậy
chỉ nghe tên Ngài đă được vô lượng
phước, huống hồ quán kỹ! Nếu muốn quán
tưởng, trước hết hăy quán nhục kế, rồi
quán măo trời, những tướng khác cũng theo thứ
tự mà quán.
Kế
đó, quán Đại Thế Chí Bồ Tát. Vị Bồ Tát
thân lượng lớn nhỏ cũng như Quán Thế Âm,
viên quang mỗi phía rộng một trăm hai mươi
lăm do-tuần, chiếu xa hai trăm năm mươi
do-tuần, quang minh khắp thân chiếu thấu các cơi trong
mười phương, [các cơi ấy đều hóa] thành
màu vàng tía, chúng sanh hữu duyên thảy đều được
thấy. Chỉ thấy được ánh sáng nơi một
lỗ chân lông của vị Bồ Tát th́ sẽ liền thấy
quang minh tịnh diệu của mười phương vô
lượng chư Phật. V́ thế, vị Bồ Tát này
tên là Vô Biên Quang. Ngài dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp hết
thảy, khiến cho ĺa tam đồ, đắc vô thượng
lực. V́ thế, vị Bồ Tát này có hiệu là Đại
Thế Chí. Măo trời của vị Bồ Tát này có năm
trăm hoa báu; mỗi một hoa báu có năm trăm đài
báu. Trong mỗi một đài, tướng cơi nước tịnh
diệu rộng lớn của mười phương
chư Phật đều hiện trong ấy. Nhục kế
trên đỉnh giống như hoa Bát-đầu-ma[7]. Trên nhục kế có một b́nh báu chứa
đầy quang minh, hiện khắp các Phật sự. Những
tướng khác nơi thân giống hệt như Quán Thế
Âm chẳng khác ǵ.
Khi vị Bồ Tát này
đi, mười phương thế giới hết thảy
chấn động. Trong lúc cơi đất lay động,
có năm trăm ức hoa báu, mỗi một hoa báu trang
nghiêm cao rộng rơ ràng như thế giới Cực Lạc.
Khi vị Bồ Tát này ngồi, các cơi nước bảy báu
cùng lúc lay động từ cơi Kim Quang Phật ở
phương dưới cho đến cơi Quang Minh
Vương Phật ở phương trên. Trong khoảng ấy,
vô lượng vi trần số phân thân của Vô Lượng
Thọ Phật, phân thân của Quán Thế Âm Bồ Tát và
Đại Thế Chí Bồ Tát đều vân tập về
cơi nước Cực Lạc, đầy nghẹt không
trung, ngồi trên ṭa hoa sen, diễn nói diệu pháp độ
chúng sanh khổ.
Người quán như
thế sẽ trừ tội trong vô số kiếp A Tăng
Kỳ sanh tử, chẳng ở trong thai bào, thường dạo
nơi các cơi nước tịnh diệu của chư Phật.
Nếu ai chí tâm, muốn sanh về Tây Phương th́
trước hết hăy quán tượng Vô Lượng Thọ
Phật cao một trượng sáu đứng trên mặt
nước ao. Như đă nói trong phần trên, thân lượng
[của A Di Đà Phật] vô biên, tâm lực của phàm phu
chẳng thể quán được. Nhưng do sức túc
nguyện của đức Như Lai ấy, hễ có ai nhớ
tưởng ắt sẽ được thành tựu. Chỉ
tưởng Phật tượng sẽ được vô
lượng phước, huống hồ lại quán thân
tướng đầy đủ của Phật. A Di
Đà Phật thần thông như ư, trong mười
phương cơi biến hiện tự tại. Hoặc hiện
thân lớn đầy chật hư không, hoặc hiện
thân nhỏ một trượng sáu, tám thước. Những
thân h́nh được hiện đều là sắc vàng
ṛng. Hóa Phật trong viên quang và các hoa sen báu như trong phần
trên đă nói. Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế
Chí Bồ Tát hết thảy chỗ nơi thân giống hệt
nhau, chúng sanh chỉ quán tướng nơi đầu sẽ
biết là Quán Thế Âm hoặc biết là Đại Thế
Chí. Hai vị Bồ Tát này giúp A Di Đà Phật giáo hóa khắp
hết thảy.
Thượng
Phẩm Thượng Sanh là nếu có chúng sanh nguyện sanh
về cơi ấy, phát ba thứ tâm, liền được
văng sanh: Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng
phát nguyện tâm. Người đầy đủ ba tâm này
ắt sanh về cơi ấy. Lại có ba loại chúng sanh sẽ
được văng sanh. Một là từ tâm không giết,
đủ các giới hạnh; hai là đọc tụng kinh
điển Đại Thừa Phương Đẳng, ba
là tu hành sáu niệm[8], hồi hướng, phát nguyện, nguyện
sanh về cơi ấy. Đủ các công đức này từ
một ngày cho đến bảy ngày th́ liền được
văng sanh. Khi sanh về cơi ấy, do người này tinh tấn,
dũng mănh, A Di Đà Như Lai và Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn tỳ-kheo, Thanh
Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, cung điện
bảy báu. Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài Kim Cang cùng
Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành
giả. A Di Đà Phật phóng đại quang minh, chiếu
vào thân hành giả, và các vị Bồ Tát đều
đưa tay nghênh tiếp. Quán Thế Âm, Đại Thế
Chí và vô số Bồ Tát khen ngợi hành giả, khuyến tấn
tâm người ấy. Hành giả thấy rồi, hoan hỷ,
hớn hở, tự thấy thân ḿnh ngồi trên đài Kim
Cang, theo sau đức Phật như trong khoảng khảy
ngón tay sanh về cơi kia. Sanh về cơi kia rồi, thấy sắc
thân của Phật, các tướng trọn đủ, thấy
các Bồ Tát sắc tướng trọn đủ, quang
minh, rừng báu, diễn nói diệu pháp. Nghe rồi liền
ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn, trong khoảnh khắc, phụng sự
khắp chư Phật, trong trọn khắp mười
phương, ở trước chư Phật lần
lượt được thọ kư, trở về nước
ḿnh, đắc vô lượng trăm ngàn môn đà-la-ni.
Người
Thượng Phẩm Trung Sanh khéo hiểu nghĩa thú, chẳng
cần thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Phương
Đẳng, đối với Đệ Nhất Nghĩa,
tâm chẳng kinh sợ, tin sâu nhân quả[9], chẳng báng Đại Thừa. Dùng
công đức ấy hồi hướng nguyện cầu
sanh về cơi Cực Lạc. Người hành hạnh này lúc
lâm chung, A Di Đà Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế
Chí, vô lượng đại chúng, quyến thuộc vây
quanh, cầm đài tử kim (vàng tía) đến trước
hành giả, khen rằng: “Pháp tử! Ngươi hành Đại
Thừa, hiểu Đệ Nhất Nghĩa. V́ thế, nay
ta đến đón ngươi”, Ngài cùng với một ngàn
vị hóa Phật, cùng lúc x̣e tay [tiếp dẫn]. Hành giả
tự thấy ngồi trên đài tử kim, chắp tay, khen
ngợi chư Phật, như trong khoảng một niệm
liền sanh trong ao bảy báu nơi cơi kia. Đài tử kim ấy
như hoa sen to, qua một đêm mới nở. Hành giả
thân có màu như vàng tía được trau giồi, dưới
chân có hoa bảy báu, Phật và Bồ Tát đều cùng lúc
phóng quang chiếu vào thân hành giả, mắt [người ấy]
liền được mở sáng. Do những điều
tu tập từ trước, nghe khắp các âm thanh thuần
nói về Đệ Nhất Nghĩa Đế rất sâu,
liền từ đài vàng bước xuống, lễ Phật,
chắp tay, khen ngợi Thế Tôn. Sau bảy ngày, ngay lập
tức liền được đắc Bất Thoái Chuyển
nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ngay
lập tức liền có thể bay đi, đến khắp
mười phương, phụng sự khắp chư Phật.
Ở chỗ chư Phật, tu các tam-muội, trải qua một
tiểu kiếp đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện tiền
thọ kư.
Người
Thượng Phẩm Hạ Sanh cũng tin nhân quả, chẳng
báng Đại Thừa, nhưng chỉ phát vô thượng
đạo tâm, dùng công đức ấy hồi hướng
nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc. Khi hành giả
lâm chung, A Di Đà Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế
Chí cùng với các vị Bồ Tát cầm hoa sen vàng, hóa ra
năm trăm vị Phật, đến đón người
ấy. Năm trăm vị hóa Phật cùng lúc đưa tay
nghênh đón, khen rằng: “Pháp tử! Ngươi nay thanh tịnh
phát vô thượng đạo tâm, ta đến đón
ngươi”. Khi thấy việc này, người ấy liền
thấy thân ḿnh ngồi trên hoa sen vàng. Ngồi xong, hoa khép lại,
theo sau Thế Tôn, liền được sanh vào ao bảy
báu. Qua một ngày một đêm, hoa sen mới nở. Trong
ṿng bảy ngày, bèn được thấy Phật. Tuy thấy
thân Phật, nhưng tâm chẳng hiểu rơ các tướng
hảo. Sau hai mươi mốt ngày mới thấy rơ ràng,
nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp, trải khắp
mười phương, cúng dường chư Phật. Ở
trước chư Phật nghe pháp rất sâu. Trải qua ba
tiểu kiếp đắc bách pháp minh môn[10], trụ Hoan Hỷ Địa.
Hạng Trung
Phẩm Thượng Sanh là nếu có chúng sanh thọ tŕ
Ngũ Giới, tŕ Bát Giới Trai (Bát Quan Trai Giới), tu
hành các giới, chẳng tạo Ngũ Nghịch, không có các
lầm lỗi. Đem thiện căn ấy hồi hướng
nguyện cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Khi lâm chung, A Di Đà Phật và các tỳ-kheo
quyến thuộc vây quanh, phóng ánh sáng sắc vàng, đến
chỗ người ấy, diễn thuyết Khổ, Không,
Vô Thường, Vô Ngă, khen ngợi xuất gia được
ĺa các khổ. Hành giả thấy rồi, tâm hết sức
hoan hỷ, tự thấy thân ḿnh ngồi đài hoa sen, quỳ
dài[11] chắp tay, lễ Phật. Trong khi
chưa ngẩng đầu lên, liền được sanh
về thế giới Cực Lạc. Hoa sen liền nở.
Trong khi hoa nở, nghe các thứ âm thanh khen ngợi Tứ
Đế, ngay lập tức liền đắc đạo
A La Hán, Tam Minh, Lục Thông, đủ tám giải thoát.
Trung Phẩm
Trung Sanh là nếu có chúng sanh trong một ngày một đêm,
tŕ tám trai giới, hoặc một ngày một đêm giữ
giới Sa Di[12], hoặc một ngày một đêm giữ
Cụ Túc Giới[13], oai nghi không thiếu. Dùng công đức
ấy hồi hướng phát nguyện cầu sanh về
cơi Cực Lạc, giới hương huân tu. Hành giả
như thế lúc lâm chung, thấy A Di Đà Phật và các quyến
thuộc phóng ánh sáng sắc vàng, cầm hoa sen bảy báu, đến
trước hành giả. Hành giả tự nghe trên hư
không có tiếng khen ngợi: “Thiện nam tử! Như
ngươi là người lành, do tùy thuận lời dạy
của tam thế chư Phật nên ta đến đón
ngươi”. Hành giả thấy ngồi trên hoa sen, hoa sen liền
khép lại, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới ở trong ao báu. Sau bảy ngày hoa mới nở. Hoa
đă nở rồi, mở mắt, chắp tay, khen ngợi
Thế Tôn, nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn. Nửa
kiếp sau thành A La Hán.
Trung Phẩm
Hạ Sanh là nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân hiếu dưỡng cha mẹ, hành hạnh nhân từ của
thế gian. Người ấy khi lâm chung gặp thiện
tri thức v́ người ấy rộng nói những sự
vui trong cơi A Di Đà Phật, cũng nói bốn mươi
tám nguyện của tỳ-kheo Pháp Tạng. Nghe chuyện ấy
xong liền mạng chung, ví như trong khoảng tráng sĩ
co duỗi cánh tay, liền sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Sau bảy ngày gặp Quán Thế Âm
và Đại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu
Đà Hoàn. Qua một tiểu kiếp thành A La Hán.
Hạ Phẩm
Thượng Sanh là nếu có chúng sanh làm các nghiệp ác, tuy
chẳng phỉ báng kinh điển Phương Đẳng,
nhưng người ngu như thế tạo nhiều pháp
ác, chẳng hề hổ thẹn. Lúc lâm chung, gặp thiện
tri thức, v́ người ấy nói danh hiệu tựa
đề của mười hai bộ kinh Đại Thừa.
Do nghe danh hiệu các kinh như thế, trừ khử ác nghiệp
cực nặng trong ngàn kiếp. Bậc trí lại dạy
người ấy chắp tay, xưng “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Do xưng danh hiệu Phật, trừ tội trong năm
mươi ức kiếp sanh tử. Lúc bấy giờ,
đức Phật ấy liền sai hóa Phật, hóa Quán Thế
Âm, hóa Đại Thế Chí, đến trước hành giả,
khen rằng: “Này thiện nam tử! Do ngươi xưng
danh hiệu Phật, các tội tiêu diệt, ta đến
đón ngươi”. Nói lời ấy xong, hành giả liền
thấy quang minh của hóa Phật trọn khắp trong
pḥng. Thấy xong hoan hỷ liền mạng chung, cưỡi
hoa sen báu, theo sau hóa Phật, sanh trong ao báu. Trải qua bốn
mươi chín ngày, hoa sen bèn nở. Trong khi hoa nở, Đại
Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát
phóng đại quang minh, ở trước người ấy,
v́ họ nói mười hai bộ kinh rất sâu. Nghe xong tin
hiểu, phát vô thượng đạo tâm. Sau mười
tiểu kiếp, trọn đủ bách pháp minh môn, được
nhập Sơ Địa.
Hạ Phẩm
Trung Sanh là nếu chúng sanh hủy phạm Ngũ Giới,
Bát Giới và Cụ Túc Giới. Kẻ ngu như thế trộm
vật Tăng Kỳ[14], ăn cắp vật của hiện tiền
tăng, thuyết pháp bất tịnh, chẳng hề hổ
thẹn, dùng các ác nghiệp để tự trang nghiêm. Tội
nhân như thế do v́ ác nghiệp đáng đọa địa
ngục. Lúc mạng sắp hết, các thứ lửa địa
ngục cùng lúc hiện đến, gặp thiện tri thức
do ḷng đại từ bi v́ kẻ ấy khen nói thập lực
oai đức của A Di Đà Phật, khen ngợi rộng
răi quang minh, thần lực của đức Phật ấy,
cũng như khen ngợi Giới, Định, Huệ, Giải
Thoát, Giải Thoát Tri Kiến. Người ấy nghe xong, trừ
được tội trong tám mươi ức kiếp
sanh tử. Lửa mạnh địa ngục hóa thành gió nhẹ
mát rượi, thổi các hoa trời, trên mỗi hoa đều
có hóa Phật, hóa Bồ Tát đón tiếp người ấy.
Như trong khoảng một niệm, liền được
sanh vào trong ao bảy báu, ở trong hoa sen trải qua sáu kiếp
hoa sen mới nở. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí
dùng tiếng Phạm âm an ủi người ấy, v́
người ấy nói kinh điển Đại Thừa rất
sâu. Nghe pháp ấy xong, ngay lập tức liền phát vô
thượng đạo tâm.
Hạ Phẩm
Hạ Sanh là nếu có chúng sanh chẳng làm thiện nghiệp,
[mà tạo] Ngũ Nghịch, Thập Ác, trọn đủ
các điều bất thiện. Kẻ ngu như thế do
ác nghiệp nên đáng đọa vào ác đạo trải
qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng. Người ngu
như thế tới lúc lâm chung gặp thiện tri thức
an ủi nhiều cách, v́ kẻ ấy nói diệu pháp, dạy
kẻ ấy niệm Phật[15]. Kẻ ấy bị sự khổ bức
bách, chẳng thể niệm Phật, thiện hữu bảo
rằng: “Nếu ngươi chẳng thể yên định
niệm đức Phật ấy th́ hăy nên xưng danh Vô
Lượng Thọ Phật. Chí tâm như thế khiến
cho tiếng niệm chẳng dứt, đầy đủ
mười niệm xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Do
xưng danh hiệu Phật, trong mỗi một niệm, trừ
được tội trong tám mươi ức kiếp
sanh tử. Khi mạng chung, thấy hoa sen vàng giống
như vầng mặt trời, ở trước người
ấy. Như trong khoảng một niệm, liền
được văng sanh thế giới Cực Lạc. Ở
trong hoa sen, đủ mười hai đại kiếp, hoa
sen mới nở. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng âm
thanh đại bi, v́ kẻ ấy rộng nói Thật Tướng
của các pháp và cách trừ diệt tội. Nghe xong hoan hỷ,
ngay lập tức phát tâm Bồ Đề. Thiện nam tử,
thiện nữ nhân chỉ nghe danh hiệu Phật và danh hiệu
hai vị Bồ Tát liền trừ tội trong vô lượng
kiếp sanh tử, huống là ức niệm! Nếu là
người niệm Phật th́ Quán Thế Âm và Đại
Thế Chí là bạn thù thắng, sẽ ngồi nơi đạo
tràng, sanh trong nhà chư Phật.
Nhận định: Quán Âm
Đại Sĩ phân thân trong các cơi số nhiều như vi
trần, tầm thanh cứu khổ. Tuy mỗi loài mong cầu
khác nhau, nhưng Ngà́ đều khiến cho được
măn nguyện; quả thật chỉ muốn làm cho hết
thảy chúng sanh đắc đại Niết Bàn, viên thành
Phật đạo mà thôi! Nhưng do chúng sanh căn khí bất
nhất, chẳng thể khế hợp trực tiếp
điều Ngài mong mỏi nên chẳng thể không dùng Dục
để lôi kéo họ trước, rồi mới khiến
cho họ nhập Phật trí. Văng sanh Tây Phương chính là
con đường trọng yếu thẳng chóng để
đắc đại Niết Bàn. V́ thế, Ngài phù tá Phật
Di Đà tiếp dẫn chúng sanh, khiến cho thượng
thánh hạ phàm đều cùng trong đời này thoát cơi Sa
Bà đây, sanh sang cơi Cực Lạc kia nhằm thỏa bổn
nguyện độ sanh. Nay sao lục kinh ḥng dẫn chứng,
riêng phần Cửu Phẩm trong Quán Kinh là sao lục cặn
kẽ nhất để mong cho hết thảy những
người cùng hàng hiểu cặn kẽ oai đức, thần
lực của Tam Thánh, nhân hiện tại và quả mai sau của
chín phẩm [văng sanh], ḥng phát tâm vô thượng, tạo chí
hướng văng sanh mạnh mẽ, hăm hở. Biết
như thế th́ sẽ an ủi được tấm ḷng
đau đáu đại bi cứu khổ triệt để
của Đại Sĩ, mà cũng chẳng phụ thiên chân
Phật tánh vốn sẵn có ở ngay trong tâm của chúng
ta.
10. Thiên Thủ
Thiên Nhăn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (Lược trích)
Một
thời, đức Phật ngự tại núi Bổ Đà
Lạc Ca, trong đạo tràng Bảo Trang Nghiêm nơi cung
điện của Quán Thế Âm cùng với
vô ương số[16] Bồ Tát, vô lượng đại
Thanh Văn, vô lượng thiên, long bát bộ thần v.v... đều đến nhóm họp.
Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát ngầm phóng quang
minh thần thông, chiếu sáng rực mười
phương cơi nước đều biến thành sắc
vàng. Ánh sáng của mặt trời và mặt trăng đều
chẳng hiện. Tổng Tŕ Vương Bồ Tát thấy
vậy, ngạc nhiên cho là điều chưa từng có, hỏi
Phật:
- Tướng thần
thông như thế là do ai phóng ra?
Phật dạy:
- Nay trong hội này có Bồ
Tát tên là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng
kiếp đến nay, thành tựu đại từ đại
bi, khéo có thể tu tập vô lượng môn đà-la-ni, v́ muốn
an lạc các chúng sanh nên ngầm hiện sức đại
thần thông như thế.
Quán Thế Âm Bồ Tát
bạch Phật rằng:
- Con có Đại Bi Tâm
Đà La Ni Chú, nay con muốn nói. Do v́ làm cho các chúng sanh
được an lạc, v́ được thọ mạng,
v́ được giàu có, dư dật, v́ trừ diệt hết
thảy ác nghiệp tội nặng, v́ tăng trưởng
các công đức của hết thảy bạch pháp, v́ mau
có thể trọn đủ hết thảy các thứ mong cầu.
Kính xin Thế Tôn xót thương cho phép.
Phật nói:
- Ông đại từ
bi an lạc chúng sanh, muốn nói thần chú, Như Lai tùy hỷ.
Quán Thế Âm nói:
- Con nhớ vô lượng
ức kiếp trong quá khứ có Phật hiệu là Thiên Quang
Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Đức Phật ấy
thương con và hết thảy chúng sanh, nói Quảng Đại
Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, dùng cánh tay sắc
vàng xoa đỉnh đầu con bảo: “Ông nên tŕ tâm chú này,
v́ khắp hết thảy chúng sanh đời ác trong tương
lai mà tạo đại lợi lạc”. Con trong khi ấy chỉ
mới trụ Sơ Địa, do vừa nghe chú này bèn
vượt lên Đệ Bát Địa, liền phát thệ
rằng: “Nếu trong tương lai con có thể tạo lợi
ích an lạc cho hết thảy chúng sanh th́ khiến cho thân
con trọn đủ ngàn mắt, ngàn tay”. Nguyện như
thế xong, ngay lập tức trọn đủ. Ngàn vị
Phật trong mười phương đều phóng quang
minh, chiếu chạm thân con và mười phương vô
biên thế giới. Kẻ nào muốn tụng tŕ th́ phải
khởi tâm từ bi đối với chúng sanh, trước
hết hăy nên phát nguyện theo con:
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau biết hết thảy pháp,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm được mắt trí huệ,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau độ hết thảy chúng,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đắc thiện phương
tiện,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con mau ngồi thuyền Bát Nhă,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm vượt được biển
khổ,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đắc Giới Định
đạo,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm lên núi Niết Bàn,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm về nhà vô vi,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm,
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh,
Nếu con hướng núi đao,
Núi đao tự găy sụp,
Nếu con hướng vạc lửa,
Vạc lửa tự tiêu diệt,
Nếu con hướng địa ngục,
Địa ngục tự khô cạn,
Nếu con hướng ngạ quỷ,
Ngạ quỷ tự no đủ,
Nếu con hướng Tu La,
Ác tâm tự điều phục,
Nếu con hướng súc sanh,
Tự đắc đại trí huệ,
Phát nguyện ấy
xong, chí tâm xưng niệm danh hiệu của con, cũng nên
chuyên niệm Bổn Sư của con là A Di Đà Như Lai,
rồi mới tụng chú. Một đêm tụng đủ
bảy biến sẽ trừ được trọng tội
trong trăm ngàn vạn ức kiếp sanh tử nơi thân.
Nếu các trời người tụng tŕ chương cú
Đại Bi th́ khi lâm chung, mười phương chư
Phật đều đến đưa tay [tiếp dẫn],
muốn sanh cơi Phật như thế nào sẽ đều
tùy theo ḷng mong mà được văng sanh. Kẻ tụng tŕ
thần chú Đại Bi mà đọa trong ba ác đạo
th́ con thề chẳng thành Chánh Giác. Ai tụng tŕ thần
chú Đại Bi mà chẳng sanh về các cơi nước Phật
th́ con thề chẳng thành Chánh Giác. Ai tụng tŕ thần
chú Đại Bi mà trong đời này hết thảy điều
mong cầu chẳng được toại
nguyện th́ chẳng được gọi là Đại
Bi Tâm Đà La Ni. Chỉ trừ chẳng lành, trừ chẳng
chí thành, hết thảy Thập Ác, Ngũ Nghịch, báng
người, báng pháp, phá giới, phá trai, phá tháp, hoại
chùa, trộm Tăng Kỳ vật, ô uế phạm hạnh
thanh tịnh, hết thảy ác nghiệp tội nặng
như thế đều trừ sạch, chỉ trừ một
chuyện: Sanh ḷng nghi đối với chú này.
Lại nữa, người
tụng Đại Bi Tâm Chú được mười
lăm thứ sanh tốt lành, chẳng hứng chịu
mười lăm thứ chết xấu ác. Một là chẳng
bị chết v́ đói khát, khốn khổ; hai là chẳng
bị chết v́ gông xiềng, đánh đập; ba là chẳng
bị chết v́ oán gia, cừu thù; bốn là chẳng bị
chết trong trận mạc; năm là chẳng bị chết
v́ cọp, sói, ác thú tàn hại; sáu chẳng chết v́ bị
rắn độc, bọ cạp cắn; bảy là chẳng
chết v́ nước ch́m, lửa đốt; tám là chẳng
chết v́ trúng thuốc độc; chín là chẳng bị cổ
độc hại chết; mười là chẳng bị cuồng
loạn, mất trí mà chết; mười một là chẳng
bị chết v́ rơi té nơi rừng núi, vách đá; mười
hai là chẳng chết v́ kẻ ác, ma mị; mười ba
là chẳng chết v́ tà thần ác quỷ thừa dịp
làm hại; mười bốn là chẳng bị chết v́
bệnh ngặt dây dưa; mười lăm là chẳng chết
v́ tự hại trái phận.
[Mười lăm thứ
sanh tốt lành]: Một là nơi chỗ sanh về, thường
gặp vua tốt lành; hai là thường sanh nơi nước
tốt lành; ba là thường gặp thời tốt lành; bốn
là thường gặp bạn lành; năm là thân căn
thường được đầy đủ; sáu là
đạo tâm thuần thục; bảy là chẳng phạm
giới cấm; tám là tất cả quyến thuộc ân
nghĩa, ḥa thuận; chín là tài sản dồi dào; mười
là thường được người khác cung kính, nâng
đỡ; mười một là tất cả của cải
không bị kẻ khác cướp đoạt; mười
hai là những điều mong muốn đều được
toại ư; mười ba là long, thiên, thiện thần thường
luôn ủng hộ, bảo vệ; mười bốn là sanh
vào nơi được thấy Phật, nghe pháp; mười
lăm là nghe chánh pháp, ngộ ư nghĩa sâu. Hết thảy
trời, người hăy nên thường tụng tŕ, đừng
sanh biếng nhác.
Quán Thế Âm Bồ Tát
nói lời ấy xong liền nói Quảng Đại Viên Măn
Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Đà La Ni Thần Diệu
Chương Cú như thế này:
Nói chú này xong, đại
địa sáu lượt chấn động, trời
mưa hoa báu. Mười phương chư Phật đều
cùng hoan hỷ, thiên ma ngoại đạo hoảng sợ
lông dựng cả lên. Hết thảy đại chúng trong hội
đều được chứng quả, hoặc đắc
Tứ Quả cho đến Thập Địa. Vô lượng
chúng sanh phát Bồ Đề tâm. Đại Phạm thiên
vương bạch cùng Bồ Tát rằng:
- Kính mong Đại
Sĩ v́ con nói h́nh mạo, tướng trạng của
đà-la-ni này.
Quán Thế Âm Bồ Tát
nói:
- Tâm đại từ
bi, tâm b́nh đẳng, tâm vô vi, tâm không nhiễm đắm,
tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm hạ, tâm vô tạp loạn,
tâm không kiến thủ, tâm vô thượng Bồ Đề
là [h́nh mạo, tướng trạng của đà-la-ni này]. Ông
hăy nên y theo đây để tu hành. Đà-la-ni này do chín
mươi chín ức hằng hà sa chư Phật trong quá khứ
nói ra, nhằm làm cho những người tu hành Lục
Độ mau được trọn đủ, nhằm làm
cho người chưa phát tâm Bồ Đề sẽ mau
phát, nhằm làm cho hàng Bồ Tát chưa đạt đến
Sơ Trụ sẽ mau đạt được. Lại
làm cho họ đạt được Phật địa,
tự nhiên thành tựu ba mươi hai tướng, tám
mươi thứ tùy h́nh hảo, có thể làm cho nước
trong bốn đại hải trào dâng, có thể làm cho núi Tu
Di, núi Thiết Vy nát như vi trần.
Nếu các trời, người tŕ tụng đà-la-ni này mà
tắm gội trong sông ng̣i, biển cả, những chúng
sanh trong ấy được dính nước tắm từ
nơi thân người ấy th́ hết thảy ác nghiệp
trọng tội đều tiêu diệt, liền được
chuyển sanh vào Tịnh Độ nơi phương khác,
liên hoa hóa sanh, chẳng nhận lănh thân sanh từ bào thai hoặc
thân thấp sanh, noăn sanh; huống hồ người thọ
tŕ, đọc tụng. Nếu người tụng tŕ
đi trên đường sá, khi gió lớn thổi tới,
lùa qua lông, tóc, y phục trên thân người ấy rồi
phớt qua những loài chúng sanh th́ hết thảy trọng
chướng ác nghiệp của những kẻ được
cơn gió thừa thổi chạm vào thân sẽ đều
cùng diệt sạch, chẳng c̣n phải hứng chịu quả
báo trong ba đường ác, thường sanh trước
Phật.
Hăy nên biết: Quả
báo, phước đức của người thọ tŕ
chẳng thể nghĩ bàn, trời, rồng, quỷ thần
đều dấy ḷng cung kính người ấy, tôn trọng
như Phật. Hăy nên biết người ấy là Phật
thân tạng v́ được chín mươi chín ức hằng
hà sa Phật yêu mến, là quang minh tạng v́ được
quang minh của hết thảy Như Lai chiếu tới,
là từ bi tạng v́ thường dùng đà-la-ni cứu
chúng sanh, là diệu pháp tạng v́ nhiếp khắp hết
thảy các môn đà-la-ni, là thiền định tạng v́
trăm ngàn tam-muội thường hiện tiền, là
hư không tạng v́ thường dùng Không Huệ để
quán chúng sanh, là vô úy tạng v́ long, thiên, thiện thần
thường hộ tŕ, là diệu ngữ tạng v́ tiếng
đà-la-ni nơi miệng chẳng đoạn tuyệt, là
thường trụ tạng v́ tam tai ác nghiệp chẳng
thể hoại, là giải thoát tạng v́ thiên ma ngoại
đạo chẳng thể níu giữ, là dược
vương tạng v́ thường dùng đà-la-ni trị bệnh
cho chúng sanh, là thần thông tạng v́ dạo chơi các cơi
Phật, đắc tự tại. Nếu ai có thể v́ các
chúng sanh dẹp trừ khổ nạn, đúng pháp tụng
tŕ, th́ nên biết người ấy chính là người
đầy đủ đại bi, chẳng bao lâu sẽ thành
Phật, sẽ chứng Tứ Sa Môn Quả ngay trong đời
này. Bậc lợi căn có huệ quán th́ quả vị Thập
Địa quyết sẽ đạt được, chẳng
khó; huống hồ những phước
báo nhỏ nhặt trong thế gian ư? Tất cả những
mong cầu không ǵ chẳng được toại nguyện.
Phật bảo A Nan:
- Thần chú như thế
có tên là Quảng Đại Viên Măn, một tên khác là Vô Ngại
Đại Bi, tên khác nữa là Cứu Khổ Đà La Ni, tên
nữa là Diên Thọ Đà La Ni, tên nữa là Diệt Ác Thú
Đà La Ni, tên nữa là Phá Ác Nghiệp Chướng Đà
La Ni, tên nữa là Măn Nguyện Đà La Ni, tên nữa là Tùy
Tâm Tự Tại Đà La Ni, tên nữa là Tốc Siêu Thượng
Địa Đà La Ni.
A
- Vị Bồ Tát này có
danh hiệu như thế nào mà có thể khéo tuyên thuyết
đà-la-ni như vậy?
Phật nói:
- Vị Bồ Tát này
tên là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Niêm Sách, c̣n có
tên là Thiên Quang Nhăn. Vị Bồ Tát này sức oai thần chẳng
thể nghĩ bàn, từ vô lượng kiếp trong quá khứ
đă thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, do đại
bi nguyện lực v́ muốn phát khởi hết thảy Bồ
Tát, an lạc thành thục các chúng sanh nên hiện làm Bồ
Tát. Đại chúng các ông, các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, Đế
Thích, Phạm Vương, long thần đều nên cung
kính, đừng sanh khinh mạn. Hết thảy trời
người thường phải nên cúng dường, chuyên
xưng niệm danh hiệu [Quán Thế Âm Bồ Tát], đắc
vô lượng phước, diệt vô lượng tội,
mạng chung sẽ văng sanh về cơi Phật A Di Đà.
11. Thập
Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh (Lược trích)
Một
thời, đức Phật ngự tại đạo tràng
Măng Tre ở thành Thất La Phiệt, Quán Tự Tại
Bồ Tát và vô lượng câu-chi na-dữu-đa (na-do-tha) trăm
ngàn thần tiên tŕ chú (Thời
cổ, gọi Phật, Bồ Tát là “nội tiên”, chứ
không phải là tiên nhân của ngoại đạo như
trong thế tục), trước
sau vây quanh. Đến nơi xong, đảnh lễ dưới
chân Phật, bạch rằng:
- Con có thần
chú tâm tên là Thập Nhất Diện[18], trọn đủ oai lực lớn, do
mười một câu-chi chư Phật đă nói. Con nay nói
ra v́ muốn lợi lạc hết thảy hữu t́nh, diệt
hết thảy ác, những điều mong cầu trong tâm
đều được toại ư. Con chẳng thấy
người, trời, ma, Phạm Vương có thể dùng
hết thảy tai ương, hoạn nạn ngang trái, ma
chướng, đao, gậy, độc dược, trù ếm,
nguyền rủa để làm hại người dùng chú
này bảo vệ thân ḿnh, chỉ trừ kẻ ác nghiệp
quyết định đă báo ứng chín muồi. Thế
Tôn chứng biết, chuyện ấy ắt phải như
vậy, chỉ nên tin nhận, chẳng nên phân biệt. Thần
chú tâm này được hết thảy chư Phật cùng
khen ngợi, cùng tùy hỷ.
Con nhớ quá khứ
Căng Già sa kiếp (tức
Hằng hà sa) trước, có Phật
hiệu là Bách Liên Hoa Nhăn Vô Chướng Ngại Đảnh
Xí Thịnh Công Đức Quang Vương Như Lai, khi ấy
con làm đại tiên nhân, từ nơi đức Phật
nhận được thần chú này, thấy mười
phương Phật, ngay lập tức chứng đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn. V́ thế, tịnh tín nam nữ hăy nên cung
kính, chí tâm hệ niệm. Mỗi lúc sáng sớm, tụng chú
này 108 biến th́ nơi thân hiện tại sẽ được
mười thứ lợi ích thù thắng:
- Một là thân thường
không bệnh.
- Hai là mười
phương chư Phật nhiếp thọ.
- Ba là của cải,
cơm áo, thọ dụng vô tận.
- Bốn là có thể
khuất phục oán địch không sợ hăi
- Năm là khiến cho
những kẻ tôn quư cung kính, coi trọng lời nói.
- Sáu là cổ độc,
quỷ mị chẳng thể làm hại.
- Bảy là hết thảy
đao gậy chẳng thể làm hại.
- Tám là nước chẳng
thể ch́m được.
- Chín là lửa chẳng
thể thiêu được.
- Mười là trọn
chẳng chết ngang trái.
Lại được
bốn thứ công đức lợi ích thù thắng:
- Một là khi lâm chung
được thấy chư Phật.
- Hai là trọn chẳng
đọa vào các đường ác.
- Ba là chẳng chết
v́ hiểm nạn, tai ách.
- Bốn là được
sanh về thế giới Cực Lạc.
Lại trong Căng Già
sa kiếp về đời quá khứ, có Phật hiệu
là Mỹ Âm Hương, con làm thân đại cư sĩ, ở
nơi đức Phật nhận được chú này, liền
vượt thoát bốn vạn kiếp sanh tử. Tụng
tŕ chú này lại đắc đại bi trí tạng của
chư Phật, hết thảy pháp môn giải thoát của Bồ
Tát. Nếu tụng chú này một biến liền diệt
được bốn tội căn bản[19] và Ngũ Vô Gián, khiến cho những tội
ấy chẳng c̣n sót. Con do chú này mà danh hiệu tôn quư, khó thể
được nghe. Nếu có ai xưng niệm danh hiệu
của trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa Phật và lại
có kẻ tạm thời chí tâm xưng niệm danh hiệu của
con th́ công đức của hai người ấy b́nh đẳng
như nhau. Những ai xưng danh con đều đắc
địa vị Bất Thoái Chuyển, ĺa hết thảy
bệnh, thoát hết thảy chướng, hết thảy
sợ hăi, diệt trừ điều ác nơi thân - ngữ
- ư, huống hồ thọ tŕ, đọc tụng thần
chú do con đă nói, tu hành đúng như lời dạy, đối
với Vô Thượng Bồ Đề, người ấy
sẽ lănh nhận như đang nắm trong bàn tay.
12. Bất
Không Quyến Sách Chú Tâm Kinh (Lược
trích)
Một
thời, đức Phật ngự tại núi Bố Đát
Lạc Ca, trong cung của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát,
vô lượng cây bằng nhiều chất báu vây quanh trang
nghiêm. Đại tỳ-kheo, Bồ Tát, trời, người
vây quanh. Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát bạch Phật rằng:
- Con có thần
chú tâm tên là Bất Không Quyến Sách. Trong chín mươi mốt
kiếp xưa kia có thế giới tên là Thắng Quán, Phật
hiệu là Thế Chủ Vương Như Lai, con từ
đức Phật nhận lănh chú tâm này, giáo hóa vô lượng
trăm ngàn thiên tử khiến cho họ hướng đến
Bồ Đề. Do công đức này đạt được
mười ức tam-ma-địa, bất không diệu trí
làm thượng thủ.
Bạch
Thế Tôn! Nếu ở chỗ nào có chú tâm này th́ nơi ấy
liền có mười hai ức chư thiên ủng hộ. Nếu
ai trước kia đă tạo ác nghiệp, phỉ báng chánh
pháp và chư Phật, Bồ Tát, quyết định
đáng đọa vào địa ngục Vô Gián, nếu
người ấy nghe chú này mà sanh ḷng hối hận, hổ
thẹn, trong một ngày đêm thọ tŕ trai giới, đọc
thần chú này, liền có thể tiêu diệt hết thảy
tội nghiệp, hoặc chuyển thành quả báo nhẹ
phải hứng chịu trong đời này như bị bệnh
nhiệt, hoặc đau mắt, tai, mũi, lưỡi,
chân tay, lóng đốt v.v... hoặc các loại ghẻ chốc,
bị phỉ báng, nhục mạ và các sự ác khác bức
bách, năo loạn thân tâm và các giấc mộng quái lạ. Do
đă hứng chịu trong đời này nên nghiệp ác vô
gián liền được tiêu diệt.
Nếu có chúng sanh nghe
thần chú này, tuy vẫn chẳng sanh cung kính, hoặc đến
nỗi khinh mạn, hủy báng, chê bai th́ vẫn sanh khởi
phước thù thắng. Như người lấy
hương chiên-đàn, hoặc trầm, xạ v.v... chửi
bới, hủy báng, dè bỉu, nghiền nát, dùng [bột
hương ấy] bôi lên thân, th́ những thứ hương
ấy trọn chẳng nghĩ như thế này: “Kẻ này
hủy báng ta” mà tiếc nuối mùi hương, chẳng
ban cho. Chú này cũng giống như thế! Tuy có những sự
phỉ báng, hủy nhục, chê bai, hoặc kẻ cong vạy
giả vờ biên chép, thọ tŕ, cúng dường, vẫn đều
tạo thành nhân duyên thiện căn. Đời đời
sanh ở chỗ nào cũng thường chẳng ĺa tư
lương giới định trí huệ phước
đức.
Nếu có ai trong ngày mồng
Tám mỗi tháng chuyên tâm trai giới, chẳng xen tạp các lời
nói khác, tụng thần chú này bảy biến th́ nơi thân
hiện tại được hai mươi thứ lợi
ích thù thắng: Một là thân không bệnh tật, hai là do ác
nghiệp trước kia có các tật bệnh, sẽ mau
được tiêu diệt, ba là thân sáng nhuận, da dẻ
mềm mịn, bốn là mọi người yêu kính, giữ
kín các căn, năm là sẽ được của cải,
sáu là chẳng bị trộm cắp cướp đoạt,
bảy là chẳng bị nước ch́m, lửa cháy, tám là
chẳng bị sức vua xâm đoạt, chín là sự nghiệp
đă làm đều khéo hoàn thành, mười là mùa màng gieo trồng
chẳng bị gió cuồng, mưa dữ, sương,
mưa đá, sâu rầy, châu chấu tổn hại, mười
một là tụng chú kết giới, hết thảy nghịch
cảnh đều được tiêu diệt, mười
hai là chẳng bị ác quỷ đoạt mất tinh khí,
mười ba là hết thảy hữu t́nh yêu thích, ưa thấy,
mười bốn là chẳng sợ oán cừu, mười
lăm là nếu có oán thù sẽ mau cởi gỡ, mười
sáu là chẳng sợ bị xâm hại, trù ếm, cổ độc,
tà mị chẳng thể gây hại, mười bảy là
phiền năo triền cấu chẳng thể nhiều phen hiện
hành, mười tám là đao, chất độc, nước,
lửa chẳng thể gây tổn thương, mười
chín là chư thiên thiện thần thường theo hộ vệ,
hai mươi là đời đời chẳng ĺa từ bi
hỷ xả.
Lại đạt
được tám pháp: Một là khi lâm chung, Quán Tự Tại
Bồ Tát hóa h́nh tượng tỳ-kheo hiện đến
trước người ấy, hoan hỷ an ủi, khuyên
nhủ; hai là không có các đau khổ; ba là chánh niệm hiện
tiền; bốn là Tứ Đại an ổn; năm là không
có các thứ ṛ rỉ, bẩn thỉu chẳng sạch; sáu
là nếu như bị bệnh th́ chẳng bị nằm bẹp
nơi giường gối; bảy là đắc vô tận
biện tài; tám là mạng chung sẽ tùy theo ư muốn sanh về
tịnh độ của chư Phật, chẳng ĺa bạn
lành. Con nay v́ an lạc các loài và v́ những kẻ tạo tội,
nguyện nói chú tâm này.
Đức
Thế Tôn bảo Quán Tự Tại Bồ Tát rằng:
- Ta
cũng tùy hỷ thần chú tâm này, [thần chú tâm này] là cha
mẹ của các Bồ Tát trong đời tương lai,
khiến cho các sự nghiệp do Bồ Tát thực hiện
mau được thành tựu, những chuyện sợ hăi
mau được diệt trừ.
Quán Tự Tại Bồ
Tát nói chú[20] xong, thưa:
- Thần chú này thành tựu
sự nghiệp tối thắng như thế. Kẻ
chưa hoàn thành hăy nên dùng vải điệp trắng vẽ
h́nh tượng Phật. Ở bên phải Phật vẽ
tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, thân màu vàng pha trắng,
đỉnh có búi tóc xoắn ốc, tóc xanh rủ xuống,
đầu đội măo hoa, khoác da nai, che bên vai trái, những
thân phần khác được trang nghiêm bởi anh lạc,
ṿng, xuyến. Trong đàn rải hoa trắng, đựng
nước thơm, cúng đồ ăn ngon. Hành giả chí
thành đảnh lễ, chuyên tâm tụng chú đủ tám
ngàn biến, tự thấy khắp thân ḿnh phóng quang minh giống
như ngọn lửa. Quán Tự Tại Bồ Tát liền
hiện trước người ấy, tùy ḷng mong cầu
đều làm cho được trọn đủ.
13. Mười
sáu loại kinh thuộc Mật Bộ (Tŕnh bày đại lược)
* Kim Cang
Khủng Bố Tập Hội Phương Quảng Nghi Quỹ
Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng Tâm
Minh Vương Kinh[21]: Phật ngự tại cung điện trên
Bảo Phong Đại Sơn, Quán Tự Tại Bồ Tát
nói tâm chân ngôn và đầu, đảnh, nhăn v.v.. mười
lăm chân ngôn.
* Quán Tự
Tại Bồ Tát Đát Phạ Đa Rị Tùy Tâm Đà La
Ni Kinh[22]: Phật tại thế giới Cực
Lạc, Quán Thế Âm Bồ Tát nói Tùy Tâm Tự Tại
Vương Chú và bốn mươi tám ấn pháp và đàn
pháp trị hết thảy bệnh.
* Nhất
Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa
Hiện Chứng Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh (Sarva-tathagata-tattva-samgraha-sutra)[23]: Tỳ Lô Giá Na Như Lai ngự trên cung
trời Sắc Cứu Cánh, nói bốn đại minh, đến
đỉnh núi Tu Di, nhập tam-muội, xuất sanh mười
sáu vị Kim Cang đại Bồ Tát. Bốn vị Như
Lai là A Súc, Bảo Sanh, Quán Tự Tại Vương, Bất
Không Thành Tựu mỗi vị cũng nói đại minh, hiện
h́nh tượng Kim Cang. Tỳ Lô Giá Na Phật lại hiện
ra bốn đại minh phi, bốn vị Như Lai cũng
hiện ra bốn vị minh
phi.
* Đại
Phương Quảng Mạn Thù Thất Lợi Quán Tự Tại
Bồ Tát Nghi Quỹ Kinh: Đức Thế Tôn nh́n khắp
cung trời Tịnh Cư, khen ngợi Quán Tự Tại Bồ
Tát, thọ kư [Bồ Tát sẽ] thành Phật. Đại
Sĩ trở về ṭa của ḿnh, nhập Phổ Quang Minh
Đa La tam-muội, từ tṛng mắt phải phóng quang,
lưu xuất một diệu nữ, bảo khắp các chúng
sanh, thề độ biển khổ, dạo khắp thế
giới, trở về chỗ Phật, lễ Quán Tự Tại
Bồ Tát, cầm hoa sen xanh, đứng chiêm ngưỡng.
* A Rô Lực
Kinh[24]: Quán Thế Âm Bồ Tát nói: “Án, a rô lực ca, sa phạ ha”.
Đây là tâm chú của hết thảy Liên Hoa Bộ, người
tŕ chú này sẽ sanh về Cực Lạc.
* Quảng
Đại Liên Hoa Trang Nghiêm Mạn Noa La Diệt Nhất Thiết
Tội Chú Kinh[25]: Đức Phật ngự tại Lộc
Dă, quốc vương Phạm Thọ ngẫu nhiên đến
một ngôi chùa, vị Tăng trong chùa dùng tràng hoa [vốn được]
treo trên đỉnh [tượng] Phật để đón
vua. Vua đeo [tràng hoa ấy] bị nhức đầu, em
gái vua khuyên anh gặp Phật. Phật nói nguyên nhân. Đại
Ư Bồ Tát hỏi về quả báo của việc sử dụng
vật thuộc Thường Trụ Tăng, đức Phật
nói: “Ắt đọa địa ngục!” [Đại Ư Bồ
Tát] lại hỏi cách cứu vớt, đức Phật
bèn ba lượt thỉnh Quán Tự Tại Bồ Tát nói thần
chú.
* Diệp
Y Quán Tự Tại Bồ Tát Kinh[26]: Đức Phật ngự tại thế
giới Cực Lạc, Kim Cang Thủ Bồ Tát thỉnh
Quán Thế Âm Bồ Tát nói Diệp Y Quán Tự Tại Bồ
Tát Chú và các pháp tŕ tụng, cầu nguyện.
* Đại
Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh[27]: Phật ngự tại nước Xá Vệ,
Bồ Tát và [thiên long] bát bộ nhóm họp, từ đại
địa ngục xuất hiện quang minh lớn chiếu
nước Xá Vệ, hiện đại trang nghiêm. Trừ
Cái Chướng Bồ Tát thưa hỏi nhân duyên, Phật
v́ Bồ Tát nói sự cứu khổ nhiều kiếp của
Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát và danh hiệu của các thứ
tam-muội Bồ Tát đă trụ.
* Như
Ư Luân Đà La Ni Kinh[28]: Quán Tự Tại Bồ Tát bạch Phật:
“Con có Đại Liên Hoa Phong Kim
Cang Bí Mật Như Ư Luân Chú, như châu Ma Ni, khiến cho sở
nguyện của chúng sanh đều được trọn
đủ”.
* Phật
Thuyết Nhất Kế Tôn Đà La Ni Kinh[29]: Phật ngự tại Thứu Phong (đỉnh
núi Linh Thứu), Quán Tự Tại Bồ Tát từ đỉnh
đầu hóa ra một La Sát Vương nói thần chú, hàng
phục các quỷ thần ác.
* Trong Phật
Thuyết Đà La Ni Tập Kinh (Dhārani-samuccaya)[30], Quán Thế Âm Bộ, nửa
quyển Ba, có Mă Đầu Quán Âm[31]
pháp ấn chú và Thiên Chuyển Quán Âm[32] tâm ấn
chú.
* Quán Thế
Âm Bồ Tát Lục Tự Đại Minh Chú: Hết thảy
Như Lai đều chẳng biết chỗ nào để
có được chú này, trải cả kiếp để
t́m cầu. Lục Tự chính là “án,
ma ni bát mê hồng”.
* Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Thần Chú Kinh[33]: Có thể diệt tội, trị bệnh, hàng phục ma oán, thỏa măn mong cầu, cầu mưa, dứt mưa, các thứ công đức thù thắng. Có hai mươi lăm thứ ấn, chú pháp, khác với Đại Bi Tâm Chú (Đời Đường, ngài Trí Thông dịch kinh này xong, cảm hiện thánh chứng).
* Thanh Tịnh
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Hiền Đà La Ni Kinh[34]: Phật ngự tại núi Linh Thứu,
Quán Thế Âm Bồ Tát nói chú phụng thỉnh, chú kết
giới, chú căn bản, có thiên nữ mặc áo trắng
quỳ hướng về phía Bồ Tát.
* Nhất
Thiết Như Lai Danh Hiệu Chú Kinh[35]: Đức Phật mới vừa thành
đạo, Quán Tự Tại Bồ Tát nói chú này, người
thọ tŕ chẳng đọa ác đạo, sanh lên trời,
thành Phật.
* Thánh
Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chân Ngôn Du Già Quán Hạnh Nghi
Quỹ: Trước hết quán thành thân của bổn tôn Thánh
Quán Tự Tại Bồ Tát, tu các pháp ấn. Kế đó,
quán hành bố tự pháp[36], khiến cho thân ḿnh và thân bổn tôn giống
như h́nh tượng trong gương, chẳng một, chẳng
khác.
Kim Cang Kinh Công Đức Tụng
Lời tựa của Kim Cang Kinh Công
Đức Tụng
Lục
Độ là pháp trọng yếu để Bồ Tát trên cầu
Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh;
nhưng năm Độ như kẻ ḷa, Bát Nhă như
người dẫn lối. Nếu năm Độ không có
Bát Nhă th́ chẳng thể rốt ráo đạt đến bờ
kia, chẳng thể gọi là Ba La Mật. Bát Nhă như tâm,
năm Độ như thân. Bát Nhă không có năm Độ
th́ cũng chẳng thể rốt ráo đạt đến
bờ kia, chẳng thể gọi là Ba La Mật. Nếu cả
hai điều này đều đủ th́ mỗi một
Độ đều có thể rốt ráo đạt đến
bờ kia, đều đáng gọi là Ba La Mật. Kinh Kim
Cang chính là khuôn phép để phát Bồ Đề tâm, hành Bồ
Tát đạo, tu trọn Lục Độ, nhưng v́ kinh
văn giản lược, chỉ nêu Bố Thí để
làm thí dụ. Nếu chẳng trụ vào Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành những chuyện
như Bố Thí v.v... th́ có thể độ thoát hết thảy
chúng sanh, nhưng chẳng thấy ta là người độ,
và pháp để độ, cũng như chẳng thấy
tướng của chúng sanh được độ th́ bốn
tướng chẳng sanh, tam tâm[37] há được, không trụ vào đâu
mà sanh tâm, không có ǵ để đắc mà thành Phật. V́
thế, người thọ tŕ bốn câu, ba câu, hai câu, một
câu, công đức khó tuyên. Người tŕ trọn bộ
kinh c̣n cần chi phải nói nữa? Do vậy, từ
xưa đến nay, rất nhiều người ta đọc
tụng. Người đốn ngộ tự tánh, triệt
chứng duy tâm, sống dự vào ḍng thánh, thác về cơi An
Dưỡng, kể sao cho xiết. Những kẻ kém
hơn th́ tiêu trừ tội nghiệp, tăng trưởng
thiện căn, chuyển họa thành phước, ngu biến
thành trí càng nhiều hơn nữa!
Cư sĩ Hứa Chỉ
Tịnh chọn lấy những sự tích cảm ứng
được chép trong sách vở xưa nay, phân loại, viết
lời tụng. Bạn ông ta là Lưu Khế Tịnh lại
soạn lời chú thích, ngơ hầu người đọc
đều biết nghĩa lư uyên thâm, công đức rộng
lớn, sanh ḷng chánh tín, gắng sức bắt chước
người xưa tu học, tùy theo công hạnh sâu hay cạn
mà cũng đạt được các thứ lợi ích. Kinh
dạy: “Nhất thiết chư
Phật, cập chư Phật A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề pháp, giai tùng thử kinh xuất” (Hết
thảy chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác của chư Phật đều từ kinh này mà ra).
Nếu có thể phát tâm chí thành, cung kính thọ tŕ sẽ
được dự vào trong số những vị Phật
đời vị lai, nguyện ai nấy đều gắng
lên.
Trung Thu năm Giáp Tư, tức
năm Dân Quốc 13 (1924), Cổ Tân Thường Tàm Quư
Tăng Ấn Quang Thích Thánh Lượng kính soạn.
* Phụ
Lục - Kim Cang Cảm Ứng
Ông Mă Kỳ
Sưởng ở An Huy, tự là Thông Bạch, chính là bậc
đại gia trong văn học hiện thời, trước
thuật hết sức phong phú. Thoạt đầu ông chỉ
nghiên cứu Nho tông, chẳng biết tới Phật pháp.
Mười mấy năm gần đây, mới biết Phật
là bậc đại thánh nhân, giáo pháp của Ngài có những
chuyện chẳng thể nghĩ bàn; do vậy, hằng ngày
tụng kinh Kim Cang kiêm niệm Phật hiệu, cầu sanh
Tây Phương. Cô con gái thứ ba tên là Quân Can gả cho chàng
họ Phương, khá thông minh, thông hiểu văn lư, có
phong cách của bậc liệt nữ thời cổ, Thông Bạch
rất yêu mến. Cô ta đề xướng nữ học
chẳng tiếc sức thừa. Thoạt đầu, cô ta
tốt nghiệp từ trường nữ tư thục Vụ
Bổn ở Thượng Hải, kế đó, nhận lời
mời của Bắc Dương đại thần Viên
công (Viên Thế Khải), mở trường Nữ Sư
Phạm ở Thiên Tân. Về sau, cô ta lại du học ở
Nhật Bản để mở rộng kiến thức,
chỉ có điều là đối với Phật pháp, trọn
chẳng hề tin tưởng.
Tháng
Năm năm Dân Quốc 15 (1926), cô bị sản hậu
thành bệnh, đau khổ khó thể chịu đựng được!
Thông Bạch thương xót, đối trước cô ta niệm
kinh Kim Cang. Cô ta vừa nghe tiếng niệm kinh, thân tâm liền
an vui. Đến khi kinh tụng xong lại cảm thấy
đau khổ. Thông Bạch bèn niệm suốt đêm. Cô ta
chợt ngồi dậy, bảo cha ngưng niệm kinh, giống
như đă khỏe, lại nói: “Đối với những
đạo lư đă nói trong kinh Kim Cang, con đều ngộ
được”. Cô bèn muốn hiện tướng đại
nhân thuyết pháp Vô Sanh, ngơ hầu hết thảy những
ai thấy nghe đều gieo cùng thiện căn, giả vờ
bảo nhà cửa chật chội, muốn đến
dưỡng bệnh trong y viện. Do ông Thông Bạch và con
rể là Phương Thời Giản cùng sống ở kinh
đô, thuê nhà ở chung, nên [nhà cửa] chẳng thể nào
rộng răi, tĩnh lặng được. Thông Bạch thấy
con gái ư chí kiên quyết, bèn bảo chồng cô ta đưa
đến y viện Đức Quốc, chọn lấy
gian pḥng tốt nhất cho cô ta nằm. Cô ta bảo chồng
và nhân viên chăm sóc của y viện hăy tránh đi, rồi
bèn ngồi chắp tay qua đời. Chao ôi! Lạ thay! Chuyện
này giống như chuyện Linh Chiếu, con gái của Bàng
cư sĩ, dùng chuyện nhật thực để gạt
cha rời khỏi ṭa, rồi bèn chiếm lấy ṭa để
ngồi qua đời, nào có khác ǵ? Lư Mộc Công trọn chẳng
tin Phật, nghe Thông Bạch kể nhân duyên này (Mộc Công là môn sinh của Thông
Bạch. Mùa Thu năm Dân Quốc thứ 20[38] (1931), Thông Bạch
về An Huy, đi qua đất
Hỗ, đến nhà Mộc Công bèn kể chuyện này), cả nhà quy y Tam Bảo. Phổ Môn phẩm
có nói “nên dùng thân nào để
độ được bèn hiện thân ấy để
thuyết pháp”, há chẳng đáng tin ư? Nhưng chồng
cô ta là Phương Thời Giản đối với hành
trạng của cô ta lại ngược ngạo bỏ mặc,
tội lỗi ấy quả thật chẳng phải nông cạn!
Thích Ấn Quang ghi
Kim Cang Kinh Công Đức Tụng
Bành Trạch Bồ Tát giới đệ
tử Hứa Chỉ Tịnh soạn,
Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ
tử Lưu Khế Tịnh chú thích
Tụng văn chia làm
ba phần:
1. Trần thuật ư
nghĩa.
2. Phần ca tụng
chánh yếu.
3. Hồi Hướng
I. Trần
thuật ư nghĩa
Đây là phần thứ
nhất, trần thuật ư nghĩa.
Từng nghe tám tạng kết
kinh, Bát Nhă là mẹ của Như Lai.
Chú thích: Theo
Bồ Tát Xử Thai Kinh, ngài Ca Diếp sai A Nan kết tập
các pháp do đức Phật đă nói, từng lời, từng
chữ chẳng để thiếu sót. [Kinh điển
được kết tập, chia thành] Bồ Tát Tạng,
Thanh Văn Tạng, Giới Luật Tạng, mỗi phần
đều gom vào một chỗ. Khi ấy, những kinh do A
Nan nêu ra, được chia thành Thai Hóa Tạng, Trung Ấm
Tạng, Ma Ha Diễn Phương Đẳng Tạng, Giới
Luật Tạng, Thập Trụ Bồ Tát Tạng, Tạp
Tạng, Kim Cang Tạng và Phật Tạng nên gọi là “tám tạng”. Kinh Đại
Bát Nhă chép: “Thậm thâm Bát Nhă Ba
La Mật Đa, năi chư Phật chi mẫu, năng sanh thập
phương nhất thiết chư Phật” (Bát Nhă Ba La
Mật Đa rất sâu là mẹ của chư Phật, v́
có thể sanh ra mười phương hết thảy
chư Phật). Trong kinh này (tức kinh Kim Cang) có nói hết
thảy chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác của chư Phật đều từ kinh này mà
ra.
Tứ phương phân hóa, Kim
Cang được Bồ Tát tôn quư.
Chú thích: Theo Hoa Nghiêm Sớ,
đức Tỳ Lô Giá Na Phật từ bốn trí[39] lưu
xuất tứ phương Như Lai: Đông phương A
Súc, Nam phương Bảo Sanh, Tây phương Vô Lượng
Thọ, Bắc phương Bất Không Thành Tựu. Bốn
vị Như Lai mỗi vị đều có bốn Kim Cang Bồ
Tát và Tứ Nhiếp[40], Bát Cúng Dường Kim Cang Bồ Tát[41]. Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Tùng Càn Huệ Địa, chí Đẳng Giác dĩ” (Từ
Càn Huệ Địa cho đến khi đă đạt
Đẳng Giác), tức là [tiến tŕnh] giác ngộ
được bắt đầu bằng sự chứng
nhập địa vị đầu tiên là Càn Huệ Địa
trong tâm Kim Cang. V́ thế, sách Bát Thức Quy Củ Tụng
viết: “Kim Cang đạo hậu,
dị thục không” (đến khi viên măn Phật quả
th́ thức thứ tám mới rỗng không)[42], câu này nói về địa vị Đẳng
Giác, v́ đă vượt khỏi Thập Địa. Sách Phật
Học Chỉ
V́
thế,
trong vườn Cấp Cô, hiểu Không liền có hiệu Bồ
Đề.
Chú thích: Trong mười vị
đại đệ tử của đức Phật, ngài
Tu Bồ Đề được gọi là bậc Giải
Không đệ nhất.
Trong
cung Đâu Suất, vốn do Di Lặc nói kệ, nhập Nhật
Quang Định, mười tám trụ mới phân.
Chú thích: Theo truyện ngài Bà
Đậu Bàn Tẩu (Vasubandhu: Thiên Thân) và Kim Cang Kinh Vô
Trước Luận th́ Vô Trước Bồ Tát nhập Nhật
Quang Định, lên cung trời Đâu Suất, hỏi Di Lặc
Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát liền nói tám mươi bài kệ
để giảng rơ ư chỉ của kinh. Ngài Vô Trước
tạo luận, lập ra bảy thứ nghĩa cú để
giải thích kinh này. Trong phần thứ ba, giảng về
Hành Sở Trụ Xứ, ngài Vô Trước lại chia ra
mười tám thứ Trụ.
Xử báu đập tan, hai
mươi bảy mối nghi ắt đoạn.
Chú thích:
Trong Kim Cang Kinh Thiên Thân Luận, nơi phần Chánh Tông,
trước hết giải thích về sự hộ niệm,
phó chúc. Kế đó, sau phần “Bồ Tát phải nên
đúng như lời dạy mà trụ” lại chia thành hai
mươi bảy chương, trong mỗi chương
đều có phần giải trừ nghi ngờ khiến
cho [người đọc] sanh chánh tín. V́ thế gọi là
“đoạn nghi sanh tín”. Bát Nhă có thể đoạn
được hết thảy mối nghi, giống như
xử báu Kim Cang[44] của Đế Thích có thể đập
tan hết thảy mọi vật cứng nhất. V́ thế,
dùng xử báu Kim Cang để sánh ví Kim Cang Bát Nhă.
Xiển dương đă trọn
khắp Tây Thiên, công đức lan dần sang Đông Độ.
Cỏ thanh chỉ trổ hiện điềm lành, dịch
giả được tôn là thánh nhân.
Chú thích:
Theo Cao Tăng Truyện, năm Hoằng Thỉ thứ 3
(401) đời Diêu Tần, hành trong vườn Tiêu Dao[45]
đều biến thành cỏ thanh chỉ[46], vua bèn đón ngài Cưu Ma La Thập vào ải,
dịch các kinh như Kim Cang v.v... Người sau tôn xưng
Ngài là thánh sư.
Lời khen bắt nguồn từ
chỗ Hoàng Mai: “Ai ngộ kinh này liền thành Phật, Tổ”.
Chú thích:
Theo Truyền Đăng Lục, vào thời Đường
Cao Tông, Thiền Tông Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trụ tại
chùa Đông Thiền núi Hoàng Mai, thường khuyên người
khác chỉ tŕ kinh Kim Cang sẽ tự kiến tánh, liễu
ngộ [được ư kinh] sẽ thành Phật.
Vung mộc xích rồi liền
xuống ṭa, giảng kinh trong điện nhà Lương.
Chú thích:
Theo Truyền Đăng Lục, Lương Vũ Đế
thỉnh Phó Đại Sĩ giảng kinh Kim Cang. Đại
Sĩ mới thăng ṭa, dùng mộc xích[47] chỉ
xuống bàn một cái rồi liền bước xuống
ṭa, vua ngạc nhiên. Ngài Chí Công nói: “Đại Sĩ đă
giảng kinh xong!”
Tâm
vô trụ mà hay sanh, Tào Khê nối nghiệp tổ.
Chú thích: Theo Truyền
Đăng Lục, vào đời Đường, Ngũ Tổ
giảng kinh Kim Cang cho Lục Tổ Huệ Năng, đến
câu “ưng vô sở trụ nhi
sanh kỳ tâm” (hăy nên chẳng trụ vào đâu để
sanh tâm), Lục Tổ đại ngộ, thưa: “Nào ngờ tự tánh vốn tự
thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
nào ngờ tự tánh vốn tự trọn đủ, nào ngờ
tự tánh có thể sanh ra muôn pháp”. Ngũ Tổ liền
truyền y bát. Lục Tổ bèn quay về Quảng Đông,
về sau, trụ tại Tào Khê thuyết pháp.
Pháp
Nhăn xem kinh, há chẳng phải quyển vàng này.
Chú thích: Theo Truyền
Đăng Lục, vào đời
Đức
Sơn mua bánh, đốt Thanh Long Sớ.
Chú thích: Theo Truyền
Đăng Lục, vào đời Đường, ngài Đức
Sơn Tuyên Giám ở Lăng Châu, trên đường đến
Phong Dương, gặp một bà bán bánh, do vậy, mua bánh để
lót dạ. Bà ta chỉ vào quang gánh của Sư hỏi: “Đây
là văn tự ǵ vậy?” Đáp: “Thanh Long Sớ Sao[49]”. Bà ta hỏi: “Sư giảng kinh ǵ?”
Đáp: “Kinh Kim Cang”. Bà ta nói: “Tôi có một câu hỏi, nếu
Sư đáp được, tôi sẽ tặng món điểm
tâm. Đáp không được th́ hăy đi nơi khác! Kinh
Kim Cang nói ‘tâm quá khứ chẳng thể được, tâm
hiện tại chẳng thể được, tâm vị
lai chẳng thể được’, chưa rơ Thượng
Tọa điểm cái tâm nào?” Ngài Đức Sơn cứng
họng, liền qua chỗ ngài Long Đàm. Sư đă thấu
hiểu chuyện ấy rồi bèn đem bộ sớ giải
đốt đi.
Ấy
là v́ chẳng trụ nơi Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp, bốn tướng đều không. Quán như mộng,
huyễn, bọt, bóng, sương, chớp, ba tâm há
được? V́ thế, đức bố thí, Nam, Tây, Bắc
phương, bốn góc, trên, dưới chẳng thể
lường! Công diễn nói, ngàn vạn ức phần,
toán, số, thí dụ chẳng thể bằng được!
Quả đúng là ai có thể vào năm trăm năm sau sanh
ḷng tin thanh tịnh th́ chính là đă ở chỗ ngàn vạn
đức Phật gieo các thiện căn.
Chú thích: Những điều
trên đây đều xuất phát từ kinh này.
Chỉ
Tịnh thuở trẻ lắm bệnh, sớm biết quy
y, đến già quán Không, tin tưởng, ngưỡng mộ
càng thêm tha thiết. Ngưỡng mong dùng lợi ích do tŕ
kinh của bậc tiên triết làm môn đắc độ
cho phường hậu hiền, mến yêu khuôn phép rộng
lớn, kính cẩn soạn lời tán tụng.
II. Phần
ca tụng chánh yếu
Chia thành
mười phần:
1. Văng
sanh Tịnh Độ.
2. Lâm
chung hiện tướng lành.
3.
Được trường thọ.
4.
Được hồi sinh.
5. Khỏi
tật bệnh.
6. Cứu
thoát khỏi giết chóc.
7. Thoát nạn
hành h́nh, trói buộc, gông xiềng.
8. Cứu
nước, lửa, hiểm nạn.
9. Tiêu tội
báo.
10. Cảm
ứng thần linh.
1. Văng sanh
Tịnh Độ
Bèn
có thanh y dẫn lối, Minh vương gọi Minh Tuấn
là thầy.
Chú thích: Theo sách Kim Cang Tŕ Nghiệm,
vào năm Vĩnh Huy nguyên niên (650) đời Đường,
sư Thích Minh Tuấn chết bất ngờ, thấy hai gă
áo xanh dẫn đến gặp vua cơi âm, hỏi suốt
đời Sư tu tập môn nào? Minh Tuấn đáp: “Chỉ
tụng kinh Kim Cang”. Vua nói: “Lành thay! Nếu tụng mười
vạn biến, năm sau ắt sanh về Tịnh Độ,
đệ tử chẳng được thấy thầy nữa!”
bèn thả về. Minh Tuấn càng thêm tinh tấn. Đến
tháng Ba năm Vĩnh Huy thứ 2 (651), Sư ngồi qua
đời, mọi người đều ngửi thấy
mùi hương lạ.
Áo
hoa đến đón, bạn tiên hỏi Duy Cung ở nơi
nào?
Chú thích: Theo sách Phật Tổ
Thống Kỷ, vào đời Đường, vị
Tăng chùa Pháp Tín ở Kinh Châu là Duy Cung
niệm kinh Kim Cang suốt ba mươi mấy năm. Mỗi
ngày niệm năm mươi biến. Vị tăng cùng
chùa là Linh Khuy ra khỏi chùa một dặm, gặp năm sáu
người, trẻ tuổi, hết sức xinh đẹp,
y phục tinh sạch, ai nấy đều cầm nhạc
khí, hỏi: “Cung thượng nhân ở chỗ nào?” Linh Khuy
bảo cho họ biết chỗ và hỏi họ từ
đâu tới. Đáp: “Từ Tây Phương đến
đón Cung thượng nhân”. Một người lấy hoa
sen từ trong bọc ra, hoa c̣n đang ngậm búp, to như
nắm tay, cánh sen tỏa ánh sáng lạ, họ rảo bước
về hướng chùa. Đến chiều, Duy Cung bèn mất,
cả chùa nghe tiếng đàn sáo.
Tay
ném đao, cân, mừng đồ tể tu hành.
Chú thích: Theo sách Pháp Hoa Tŕ Nghiệm,
vào đời Tống, ở phía
Ngũ thập dư niên ly sát nghiệp.
Thủ phao đao xứng ám tu
hành,
Kim triêu đắc phó Bồ
Đề lộ,
Thủy lư liên hoa hỏa lư sanh.
(Năm
chục năm hơn ĺa sát nghiệp,
Ngấm
ngầm tu tập, vứt cân, đao,
Bồ
Đề nay bước trên đường ấy,
Nước
trổ sen tươi giữa lửa hồng)
Tràng
phan đụng mặt, thấy người hộ tống
phu nhân.
Chú thích: Theo Viên Trung Lang Tập,
vào đời Minh, vợ ông Cung Trọng Thuần ở Công
An là Chúc Thị, được nghe pháp môn Tịnh Độ
từ vị huynh đệ là Viên Hoằng Đạo, tin
tưởng, bèn chuyên tŕ danh hiệu Phật kiêm tụng
kinh Kim Cang. Một hôm, bà bảo các con: “Đức Phật
nói ba hôm sau sẽ đến đón ta”. Đến kỳ hạn,
bà bèn tắm gội ngồi giữa nhà, quyến thuộc
xúm xít, hồi lâu sau, bà tự nói: “Phật đến rồi!
Giữa mày phóng bạch hào quang dài mấy trượng” Lại
nói thấy một vị Tăng tướng hảo trang
nghiêm, tự xưng là Tu Bồ Đề, trong khoảnh khắc,
hóa thành hơn một trăm vị Tăng. Có người
bên cạnh nói: “Trong kinh nói tới một trăm ba
mươi tám vị Tu Bồ Đề, chính là vị này
đấy”. Các quyến thuộc cùng đốt
hương, niệm danh hiệu Phật. Chúc Thị mỉm
cười qua đời. Trong gác có đứa hầu gái mới
chín tuổi, chợt ngă xuống đất, rồi đứng
lên nói thấy mấy người khổng lồ mặc
giáp vàng cầm tràng phan dẫn đường cho phu nhân,
cán tràng chạm vào mặt nên bất ngờ té xuống
đất. Xem kỹ th́ mặt nó c̣n vết trầy rành
rành. Đă liệm xong th́ từ trong quan tài lại tỏa
ra mùi hương lạ.
Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn
TíchCảm
Ứng Tụng
Quyển 4, phần 2 hết
[1] “Lục chủng
chấn động” có ba loại:
1. Lục chủng chấn động là
sáu thời điểm mà đại thiên sẽ chấn
động: Khi Phật nhập thai, xuất thai, xuất
gia, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập Niết Bàn.
2. Lục chủng chấn động là
sáu phương cùng chấn động, tức Đông
phương trồi lên Tây phương hụp xuống,
3. Lục chủng chấn động là
sáu cách chấn động, tức: động (lay động),
dũng (trồi lên), chấn (rung động), kích (va chạm),
hống (rung động phát ra tiếng vang lớn), bộc
(rung động, nứt tách ra). Khi xảy ra các thứ chấn
động này, chúng sanh không thể nhận biết, kinh Phật
ví phàm phu lúc ấy như đứa con nằm trong nôi, dù
nôi đu đưa vẫn ngủ say sưa. Chỉ những
ai đắc Thiên Nhăn Thông mới nhận biết được
sự chấn động này.
[2] Thị Tích (c̣n gọi là Thùy Tích): Biến
hóa nhằm hóa độ một hạng căn cơ nào
đó, giống như vầng trăng in bóng trong ḍng nước,
th́ bóng trăng gọi là Tích.
[3] Thập Phương Chư Phật Cứu
Hộ Chúng Sanh Thần Chú: “Đa
da tha, ô hô nị, mô hô nị, diêm bà nị, đam bà nị,
an trà lỵ, bàn trà lỵ, thủ b́ đế, bát bát trà trà
ra ra, bà tư nị, đa điệt tha, y lê, mị lê,
đề lê, thủ lê, gia ba lê, khư đê đoan kỳ,
chiên đà lê, ma đắng kỳ, lặc xoa, lặc xoa,
tát bà tát đỏa, tát bà bà da b́, sa ha đa trà tha già đế,
già đế, nị già đế, tu lưu tỳ, tu
lưu tỳ, lặc xoa, lặc xoa, tát bà bà da b́, sa ha”.
[4] Tiêu Phục Độc Hại Chú: “Đa điệt tha, đà hô nị,
mô hô nị, diêm bà nị, đam bà nị, a bà hê, mô hô nị,
an trà lê, bàn trà lê, thâu bệ đế, bàn trà ra, bà tư nị,
hưu, hưu, lâu, lâu, an trà lê, đâu, đâu, lâu, lâu, bàn trà
lê, chu chu, lâu lâu, nị bàn trà lê, đậu đậu, phú
phú, bàn trà ra, bà tư nị thẩn tŕ, chẩn tŕ, nị
chẩn tŕ, tát bà a bà da yết đa, tát bà niết bà bà
đà già, a bà da, ty ly đà, bế điện, sa ha”.
[5] Tông là điều được một
bộ kinh đề cao, tức pháp môn chánh yếu,
cương lănh tu hành của bộ kinh đó. Thú là kết
quả sẽ đạt được do thực hiện
tông chỉ được nêu ra bởi Tông.
[6] Không Hầu là một loại đàn của
Tây Vực, số dây không nhất định, tối thiểu
là năm dây, tối đa là hai mươi lăm dây. Đàn
được chia làm hai loại đứng và nằm, thân
đàn có h́nh dáng ṿng cung, đầu đàn thường chạm
thành h́nh chim phượng (Phượng Đầu Không Hầu),
dây đàn căng dọc theo thân đàn giống như dây
cung. Do cấu trúc của nó khá giống với đàn Harp
(Thụ Cầm) hiện thời nên người Hoa cũng
gọi đàn Harp là Không Hầu. Loại đàn này rất
thịnh hành thời cổ nhất là trong các dàn Nhă Nhạc
của cung đ́nh do âm thanh của nó réo rắt, lan xa, tao
nhă. Loại Tiểu Không Hầu (đây chính là loại
đàn thường được vẽ trong các bức cổ
họa mô tả cảnh chư thiên tấu nhạc cúng
dường, nhất là trong các bích họa ở động
Đôn Hoàng) thường được tấu bằng
cách ôm vào ḷng, dùng ngón tay gẩy, c̣n Thụ Không Hầu và Ngọa
Không Hầu phải đặt trên giá.
[7] Bát-đầu-ma (Padma): Hoa sen hồng.
[8] Lục niệm là niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm
Thiên.
[9] Ở chỗ này, Ḥa Thượng Tịnh
Không có một kiến giải hết sức độc
đáo. Trong khi giảng kinh Vô Lượng Thọ, Ngài
đă nhắc đến đoạn kinh văn này và nói: “Đă là đệ tử Phật,
đương nhiên phải tin nhân quả. Nếu không tin
nhân quả th́ làm sao c̣n gọi là Phật tử cho
được? Tin sâu nhân quả trong đoạn này chính là
tin chắc dùng cái nhân niệm Phật để cầu sanh
Tịnh Độ sẽ đắc quả thành Phật”.
[10] Bách Pháp Minh Môn chính là trí huệ môn của
hàng Sơ Địa Bồ Tát. Minh là trí huệ, Môn nghĩa
là tiến nhập. Trí huệ có thể hiểu thấu suốt
chân tánh của trăm môn sai biệt nên gọi là Minh Môn. Chữ
Bách Pháp có hai cách hiểu:
1. Bách pháp là một trăm pháp của
hàng Thập Tín như trong kinh Bồ Tát Anh Lạc đă giảng.
2. Bách pháp là một trăm pháp thuộc về
Ngũ Vị như trong Bách Pháp Minh Môn Luận đă giảng.
Nói chung, người ta thường hiểu
theo cách thứ hai, tức là đối với hết thảy
các pháp trong thế gian được quy nạp thành một
trăm loại lớn (nên gọi là bách pháp). Hiểu theo
cách nào th́ đắc bách pháp minh môn cũng đều có
nghĩa là đă thấu hiểu Thật Tướng của
các pháp.
[11] Nguyên văn “trường
quỵ”: Quỳ thẳng ḿnh, chỉ có đầu gối
và cẳng chân tỳ xuống đất, từ đầu
đến đầu gối giữ cho nằm trên một
đường thẳng.
[12]
Sa Di (Śrāmanera)
là danh xưng để gọi là những hàng xuất gia
nam giới sơ cấp. Chữ Sa Di được dịch
nghĩa là Cần Sách
1. Khu Ô Sa Di (Sa Di đuổi quạ): từ 7 tuổi đến 13 tuổi.
2. Ứng Pháp Sa Di: Từ 14 đến 19 tuổi, do đă có thể thông hiểu, vâng giữ đúng pháp.
3. Danh Tự Sa Di: Những người từ 20 đến 70 tuổi, bởi lẽ, những người này đă có thể thọ giới Cụ Túc, nhưng do chưa thọ Đại Giới, nên tạm gọi là Sa Di.
Riêng đối với nữ nhân, trước
khi được thọ đại giới thành tỳ-kheo-ni
th́ Sa Di Ni lại phải qua một giai đoạn nữa
gọi là Thức Xoa Ma Na (Học Pháp Nữ).
[13] Cụ Túc Giới: Giới của tỳ-kheo
và tỳ-kheo-ni. Thông thường, theo truyền thống Bắc
Tông, Cụ Túc Giới được truyền thừa và
tuân thủ theo như Tứ Phần Luật quy định.
Tỳ-kheo thọ 250 giới, tỳ-kheo-ni thọ 348 giới.
Người thọ Cụ Túc Giới tối thiểu phải
tṛn 20 tuổi, nhưng không được vượt quá
70 tuổi, đă từng thọ Sa Di Giới, không vi phạm
lỗi, không có ác tướng, ẩn tật, và phải
được sự chứng minh và truyền thọ giới
pháp của Tam Sư Thất Chứng.
[14] Tăng Kỳ (Samghika): Có nghĩa là
Đại Chúng. Tăng Kỳ vật là đồ vật
thuộc chúng hiện tiền tăng, thường trụ
tăng.
[15] Chữ “niệm Phật” ở đây chỉ
chung các phép niệm Phật không phải là Tŕ Danh, mà đặc
biệt chỉ cho cách Quán Tưởng Niệm Phật trong
Quán Kinh. Chính từ câu này, Thiện Đạo đại
sư đă nhấn mạnh Quán Kinh quy kết về Tŕ Danh
Niệm Phật.
[16] Vô Ương Số (Asamkhyeyam hoặc
Asankhya) là từ ngữ dịch nghĩa của chữ
A-tăng-kỳ. Ương (央) ở đây là hết, cùng tận. Chữ A-tăng-kỳ
vốn dùng để chỉ một thời gian rất dài,
về sau được dùng để chỉ một con số
rất lớn. Chữ này c̣n được dịch là Vô
Lượng Số. Nếu hiểu là một con số lớn
cụ thể th́ một A-tăng-kỳ là một ngàn vạn
vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn triệu
(tám chữ vạn. Một vạn vạn là một ức,
một vạn ức là một triệu). Đôi khi kinh
điển dùng chữ này để phiếm chỉ con số
rất lớn, chẳng thể đếm được.
Theo ngu ư, trong kinh này, chữ Vô Ương Số dùng với
ư nghĩa phiếm chỉ.
[17] Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh chép
chữ này là “kiếp” (劫),
c̣n những bản lưu hành thường chép là khê (佉, c̣n đọc là
“khư”).
[18] Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bồ
Tát Tâm Chú: “Kính lễ Tam Bảo,
kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm
Vương Như Lai, kính lễ Nhất Thiết Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác, kính lễ Thánh Quán Tự Tại
Bồ Tát Ma Ha Tát Đại Bi giả. Đát điệt
tha, ám, đạt ra, đạt la. Địa rị, địa
rị. Đỗ rô, đỗ rô. Nhất sái phạt sái.
Chiết lệ, chiết lệ. Bát ra chiết lệ, bát ra
chiết lệ. Câu tố mê. Câu tô ma phạt lệ. Nhất
lư, di lư. Chỉ lư, chỉ trưng. Xă ma ba lệ da, tuất
đà tát đỏa. Mạc ha ca rô ni ca, sa ha” (Namo ratna
trayāya. Namah ārya jñāna sagāra vairochana vyuhā
rājāya tathāgatāya arhate samyaksam buddhāya. Namah
sarva tathāgatebhyah, arhadbhyah samyak sambuddhebhyah. Namah ārya
Avalokiteshvarāya bodhisattvāya, mahāsattvāya
mahākārunikāya. Tadyathā: Aum, dhara dhara. Dhiri, dhiri.
Dhuru, dhuru. Itti, vatte. Chale, chale. Prachale, prachale. Kusume. Kusuma
vare.
[19] Bốn tội căn bản chính là Sát,
Đạo, Dâm, Vọng (giết, tội, dâm, nói dối).
[20] Bất Không Quyến Sách Thần Chú: “Đát điệt tha: Ám, chiết
lạc, chiết lạc. Chỉ lư, chỉ lư. Chủ lỗ,
chủ lỗ. Khể thủ cụ đại bi giả.
Tát lạc, tát lạc. Tử lư, tử lư. Chỉ lư, chỉ
lư. Tỵ lư, tỵ lư. Khể thủ đại liên hoa thủ.
Yết la, yết la. Cát lợi, cát lợi. Khuất lộ,
khuất lộ. Khể thủ đại tịnh hữu
t́nh. Bột phược, bột phược. Tha bà, tha bà.
Khẩn ni, khẩn ni. Khể thủ cực tịnh hữu
t́nh. Yết lạc, yết lạc. Chỉ lợi, chỉ
lợi. Củ lỗ, củ lỗ. Khể thủ đắc
đại thế giả. Chiết la, chiết la. San chiết
la, san chiết la. Tỳ chiết la, tỳ chiết la. Y chiết
tra, y chiết tra. Bạt lạc, bạt lạc. Tỵ lợi,
tỵ lợi. Bộ lỗ, bộ lỗ. Ế hế, ế
hế. Khể thủ đại bi đại thú
vương tướng. Đạt lạc, đạt lạc.
Tát lạc, tát lạc. Chiết lạc, chiết lạc. Bát
lạc, bát lạc. Hát lạc, hát lạc. Ha ha. Hế hế.
Hô hô. Ông ca lạc. Khể thủ đại phạm
vương tướng. Đạt lạc, đạt lạc.
Địa rị, địa rị. Đỗ lỗ,
đỗ lỗ. Đát lạc, đát lạc. Tát lạc,
tát lạc. Bát lạc, bát lạc. Phiệt lạc, phiệt
lạc. Khể thủ bách thiên quang trang nghiêm thân. Thập
phiệt la, thập phiệt la. Đáp bá, đáp bá. Bạc
già phạm. Khể thủ nhật nguyệt diêm ma phiệt
lỗ noa cự phệ la thích phạm. Dữ tài đẳng
thiên tiên chúng sở cúng dường chi. Mạt lạc, mạt
lạc. Di lư, di lư. Mẫu lỗ, mẫu lỗ. Tốt lỗ,
tốt lỗ. Chủ lỗ, chủ lỗ. Khể thủ
tát nại đồng tử lỗ đạt la y, tỳ sắt
nộ đạt nại đà, tiên na dược ca, tỳ
na dược ca chúng đa h́nh tướng. Đạt lạc,
đạt lạc. Địa lư, địa lư. Đỗ lỗ,
đỗ lỗ. Thát lạc, thát lạc. Yết lạc, yết
lạc. Bát lạc, bát lạc. Đỗ lạc, đỗ
lạc. Lạt lạc, lạt lạc. Hát lạc, hát lạc.
Mạt lạc, mạt lạc. Phiệt lạc, phiệt lạc.
Khể thủ dữ nguyện phổ quán thắng quán thế
tự tại, đại tự tại. Mẫu hô, mẫu
hô. Mẫu lỗ, mẫu lỗ. Mẫu da, mẫu da. Muộn
giá, muộn giá. Lạc xoa, lạc xoa. Khể thủ
năng linh ngă cập nhất thiết hữu t́nh. Giải
thoát nhất thiết bố úy. Giải thoát nhất thiết
yểm cổ. Giải thoát nhất thiết tai hoạnh. Giải
thoát nhất thiết tật bệnh. Giải thoát nhất
thiết tà mị vơng lượng. Giải thoát nhất thiết
oán gia sát phược khủng hát đỏa đả. Giải thoát nhất thiết
vương nạn, tặc nạn. Giải thoát nhất thiết
thủy hỏa phong nạn. Giải thoát nhất thiết
đao độc đẳng nạn giả. Yết noa, yết
noa. Khẩn ni, khẩn ni. Khuất nữu, khuất nữu.
Chiết lạc, chiết lạc. Khể thủ năng
khai thị nhất thiết căn lực giác chi đạo
chi tứ thánh đế giả. Đáp ma, đáp ma. Táp ma,
táp ma. Mạt sa, mạt sa. Khể thủ năng trừ
chư đại hắc ám. Sanh trưởng măn túc lục
ba la mật đa giả. Di lư, di lư. Trá trá trá trá, trá trá trá
trá. Trí trí trí trí, chú chú chú chú. Khể thủ bị phục
y nê da b́. Cụ đại từ bi, tự tại, đại
tự tại. Năng phá nhất thiết ác quỷ thần
giả. Tốc lai, tốc lai, cứu hộ ngă đẳng.
Cự lô, cự lô. Bát lạc, bát lạc. Tát lạc, tát lạc.
Yết lạc, yết lạc. Yết trá, yết trá. Mạt
trá, mạt trá. Khể thủ trụ tịnh độ cụ
đại bi giả. Thân bội bạch cát tường
lũ. Cảnh đới chúng bảo anh lạc. Thủ
quan hoa man bảo quan. Ư bảo quan trung đương
ư đỉnh thượng hữu nhất thiết trí
tượng. Thủ chấp hy hữu đại bảo
liên hoa. Ư chư tĩnh lự đẳng tŕ giải
thoát chúng diệu công đức, giai bất khuynh động,
thiện năng thành thục nhất thiết hữu t́nh. Cụ
đại từ bi, năng trừ nhất thiết nghiệp
chướng. Năng cứu nhất thiết bệnh khổ.
Phổ năng an ủy nhất thiết hữu t́nh. Ám, hiệt
lợi đát lại lộ ca tỳ đồ da. Án, mộ
già bát xa, hiệt rị đạt da. Án, bát lạt để
hát đa. Án, bái, sa ha. Nạp mạc a mạc già da, sa ha. Nạp
mạc a thị đa da, sa ha. Nạp mạc a bát la để
đa da, sa ha. Nạp mộ phiệt lạc bát lạt
đả da, sa ha. Nạp mộ tát bà yết ma tất
đạt duệ, sa ha. Yểm xă da tráng, sa ha”.
[21] Bản kinh này do ngài Bất Không dịch
vào đời Đường, được đánh số
1033, tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh. Bài chú căn bản do Quán Thế Âm Bồ Tát nói trong
kinh này có tên là Tự Tâm Chân Ngôn (“Nẵng mô ra
đát nẵng ra dạ dă. Nẵng mô a rị dạ phạ
lộ chỉ đế thấp phạ ra dă. Mạo địa
tát đát phạ dă, ma ha tát đát phạ dă. Ma ha ca rô ni ca
dă. Đát nễ dă tha: Bả nạp ma bát nê. Sa ra, sa ra. Ê hệ,
duệ hế. Bà nga văm. Nẵng rị dạ phạ lộ
chỉ đế thấp phạ ra, a rô lực”).
[22] Bài kinh này được đánh số
1103b trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, do ngài
Trí Thông dịch vào đời Đường. Tùy Tâm Tự
Tại Vương Chú: “Nẵng mô ra đát na
đa ra dă da. Nẵng mô a rị da phạ lô chỉ đế
thấp phạ ra da. Mạo địa tát phạ da. Ma ha
đát phạ da. Ma ha ca rô ni ca da. Đát nễ dă tha: Án,
đa rị, đa rị, đốt đa rị. Đốt
đốt đa rị, đốt rị. Sa phạ ha”.
[23] Bản kinh này được đánh số
882 trong tập 18 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh, gồm 3 quyển do ngài Thi Hộ dịch vào đời
Tống.
[24] Bản kinh này có tên gọi đầy
đủ là A Rị Đa La Đà La Ni A Rô Lực Kinh,
được đánh số 1039, xếp vào tập 20 của
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, do ngài Bất
Không dịch vào đời Đường.
[25] Bản kinh này được đánh số 1116, xếp vào tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, do ngài Thi Hộ dịch vào đời Đường. Bài chú trong kinh này cũng có tên là Đại Bi Tâm Đà La Ni: “Nẵng mô ra đát nẵng đát ra dạ dă. Nẵng ma a rị dă phạ lộ kiết đế thấp phạ ra dă, mạo địa tát đát phạ dă. Ma hạ tát đát phạ dă. Ma hạ ca rô ni ca dă. Đát nễ dă tha. Bát nạp mi, bát nạp mi, bát nạp ma, bát ra để sắt sỉ đế, bát nạp mô na ra. Ma hạ mạn noa la dụ hế sa ra, sa ra. Ca ra, ca ra, chỉ rị, chỉ rị, câu rô, câu rô. Ma hạ bà dă tam ma để đỗ. Nẵng đỗ, nẵng vĩ, đỗ nẵng vĩ, đỗ nẵng, hế rị dựng. Ma hạ vĩ nễ duệ, thâu đà dă, thâu đà dă, tát rị phạ, nặc cảm ma ba lăm ba ra ni di. Một đà dă. Một đà dă. Ma hạ nặc noa, nẵng bát ra nĩ bế, sa phạ hạ”.
[26] Bản
kinh này được đánh số 1100 trong tập 20 của
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, do ngài Bất
Không dịch vào đời Đường. Diệp Y Quán Thế
Âm Bồ Tát tâm chú: “Nẵng mô ra đát nẵng đát ra dạ
dă. Nẵng mô a mi đá bà dă, đát tha nghiệt đá dạ,
ra hạ đế tam miệu tam một đà dă. Nẵng
mô a rị dă phạ lộ chỉ đế thấp phạ
ra dă, mạo địa tát đát phạ dă. Ma ha tát đát
phạ dă. Ma hạ ca rô ni ca dă. Nẵng mồ ma hạ sa
tha ma bát ra bả đá dă. Mạo địa tát đát phạ
dă. Ma hạ tát đát phạ dă. Ma hạ ca rô ni ca dă. Phạ
ma ninh đát văm nẵng ma tả mi. Đát văm nẵng ma tả
mi phạ ma ninh. Tỳ xá chỉ bát ra noa xả phạ rị.
Bát ra noa xả phạ rị tỳ xá chỉ. Bà nga phạ
để bả xả bả ra thâu bát xả đà rị
nê. Dạ nĩnh ca, nĩnh chất. Bà dạ nĩnh duật
đáp bả, nễ dă ma nẵng nĩnh duật đáp bả
niên đế. Dạ ca thất chất nễ đa dữu,
dạ ca thất chất đát ma rị dữu. Dạ ca
thất chất, ma hạ ma rị dữu. Duệ kế chất
nỗ bát nại ra phạ. Duệ kế chất nỗ bát
dạ bà. Duệ kế chất nại địa dă bà phạ.
Duệ kế chất nỗ bả tát ngược. Ô bả
tát nga tam măn đà phạ. Ốt bát niên đế. Tát phạ
nĩnh đá nĩnh tát phạ sa đả. Tát phệ
đế phạ ra. Y vũ bát niên đế nẵng. Bán ni
đa sa đa na ninh nẵng tát để duệ. Tát để
dă phạ kế nẵng. Nhạ nhạ nhạ nhạ. Y tỷ
thất chỉ bán ni đá. Địa sắt sỉ đới
mạn đát ra bát năi. Ma ma tát phạ đát phược
nan giả. Ra ca sảng củ rô. Ngu bất tỉnh củ
rô. Bả rị đát ra nẫm củ rô. Bả rị nghiệt
ra đát củ rô. Bả rị nghiệt ra đát củ
rô. Bả rị bát ra nẵng củ rô. Phiến tỉnh củ
rô. Sa rô sa để dă dă nẵng củ rô.
[27] Bản kinh này được đánh số
1050, xếp vào tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại
Tạng Kinh, do ngài Thiên Tức Tai dịch vào đời Tống.
Lục Tự Đại Minh Chú được coi là xuất
phát từ kinh này.
[28] Kinh này do ngài Bồ Đề Lưu Chí
dịch vào năm Cảnh Long thứ 3 (709), được
xếp vào tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại
Tạng Kinh, được coi là một trong những kinh
điển chuyên dùng để tiêu tai cầu phước
trong Mật Giáo. Kinh này c̣n có ba bản dịch khác nữa:
1. Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng
Như Ư Luân Đà La Ni Thần Chú Kinh, do ngài Thật Xoa Nan
Đà dịch vào đời Đường.
2. Quán Thế Âm Bồ Tát Như Ư Ma Ni
Đà La Ni Kinh do ngài Bảo Tư Duy dịch vào đời
Đường.
3. Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ư Tâm
Đà La Ni Chú Kinh do ngài Nghĩa Tịnh dịch vào đời
Đường.
So ra, bản của ngài Bồ Đề
Lưu Chí đầy đủ nhất và lưu loát nhất.
Bài căn bản chú trong kinh này được xếp vào
trong Thập Chú của công phu sáng trong Thiền môn. Trong
Đại Tạng Kinh c̣n có những bản niệm tụng
nghi quỹ dành cho kinh này như Quán Thế Âm Bồ Tát
Như Ư Ma Ni Luân Đà La Ni Niệm Tụng Pháp (do ngài Bảo
Tư Duy dịch), Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ư Luân
Niệm Tụng Nghi Quỹ (do ngài Bất Không dịch), Quán
Tự Tại Bồ Tát Như Ư Luân Du Già (do ngài Bất Không
dịch), Quán Tự Tại Như Ư Luân Bồ Tát Du Già Yếu
Pháp (do ngài Kim Cang Trí dịch) v.v...
[29] Kinh này cũng do ngài Bất Không dịch
vào đời Đường, được đánh số
1110 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, tập
20. Vị La Sát Vương này do có một búi tóc nên gọi
là Nhất Kế (hoặc chỉ phiên âm là Ế Ca Nhạ
Trá, Ekajata). Vị này được đặc biệt tôn
sùng trong ḍng Cổ Mật của Phật Giáo Tây Tạng.
Tâm chân ngôn là: “Án, rô thất ra
da, mẫu niết rị ninh duệ, nhạ tra, nhạ tra
duệ, hồng, hồng, tra, sa phạ ha”. Tùy tâm chân
ngôn: “Ế hế duệ hế.
Ế ca nhạ tra, ma ma mục khư nhạ da, sa phạ
ha”.
[30] Như tên gọi, đây là một tổng
tập nhiều bài kinh nhỏ khác nhau (do nhiều người
dịch) gồm 12 quyển, bao gồm nhiều chú pháp chia
thành năm loại lớn (Phật Bộ, Bồ Tát Bộ,
Kim Cang Bộ, Thiên Bộ, Phổ Tập Hội Đàn
Pháp).
[31] Mă Đầu Quán Âm (Hayagriva) c̣n gọi
là Mă Đầu Kim Cang, Mă Đầu Đại Lực
Sĩ, hoặc Mă Đầu Minh Vương, đôi khi các
nghi quỹ chỉ phiên âm danh hiệu Ngài là Ha Da Yết Rị
Bà, hoặc Hạ Dă Ngật Lư Phạ, là một trong sáu thân
quan trọng của Quán Thế Âm trong Mật Giáo. Do Ngài có
h́nh đầu ngựa ở trên đỉnh nên gọi là Mă
Đầu Quán Âm. Đây chính là thân hộ pháp minh
vương chủ yếu nhằm hóa độ súc sanh
đạo. Ngài thường được tạc tượng
với sắc thân hồng, ba mặt, tám tay, mỗi mặt
có ba mắt to tṛn, nhe nanh, trợn mắt, tóc rối bồng
dựng lên tua tủa. Truyền thống Mật Tông Tây Tạng
thường vẽ h́nh Ngài có hai cánh. H́nh dạng này thường
được gọi là Sư Tử Vô Úy Tướng. Tám
tay biểu thị bi trí song vận, ba mắt phẫn nộ
biểu thị hàng phục ác ma trong tam giới, nanh nhọn
chĩa ra ngoài biểu thị chấn nhiếp hết thảy
ma chướng gây chướng ngại cho người tu học.
Bổn thệ của Ngài là hàng phục La Sát, ác ma, ác thần,
hết thảy ác chướng gây ra bởi tám bộ quỷ
thần, tiêu trừ nghiệp chướng, ôn dịch, bệnh
khổ, dẹp trừ hết thảy tà pháp do ác ma tạo
ra.
[32] Trong bản kinh Thiên Chuyển Đà La Ni
Quán Thế Âm Bồ Tát Chú Kinh có nói: “Nghiệp chướng tụ tập trong ngàn kiếp,
hễ niệm tụng chú này một lúc sẽ đều
tiêu diệt sạch, gieo thiện căn với một ngàn
đức Phật, vượt khỏi sự lưu chuyển
sanh lăo bệnh tử trong một ngàn kiếp. Khi bỏ thân
này liền thấy một ngàn vị Chuyển Luân
Vương”. Dựa theo ư này, vào thời Đường
- Tống, Mật giáo Trung Hoa đă chế ra Thiên Chuyển
Quán Âm Chú Đồ gồm h́nh Quán Thế Âm ngồi giữa,
chung quanh viết thành 5 tầng chú ngữ. Ba tầng đầu
viết theo h́nh tṛn xoay, hai tầng sau viết thành h́nh vuông,
đều xoay theo chiều kim đồng hồ. Tầng
thứ nhất là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Thiên Chuyển
Diệt Tội Đà La Ni, tầng thứ hai là Pháp Thân Duyên
Sanh Kệ, tầng thứ ba là Đại Kim Cang Cát Tường
Phật Nhăn Đà La Ni, tầng thứ tư là Nhất Thiết
Như Lai Tùy Tâm Đà La Ni, và tầng ngoài cùng là Mạn Thù
Thất Lợi Bồ Tát Ngũ Tự Đà La Ni. Xen vào giữa
bốn góc của h́nh tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, tức
là ở giữa tầng ba và tầng tư là chủng tự
của Kim Cang Ca Bồ Tát, Kim Cang Vũ Bồ Tát, Kim Cang Hỷ
Bồ Tát, và Kim Cang Man Bồ Tát.
[33] Bản kinh này có tên gọi đầy
đủ là Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La
Ni Thần Chú Kinh do ngài Trí Thông dịch vào đời
Đường. Kinh này thường được coi là bản
dịch khác của Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ
Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm
Đà La Ni Kinh (do ngài Già Phạm Đạt Ma dịch). Ngoài
ra, kinh này c̣n có một bản dịch khác Thiên Thủ Thiên
Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Mỗ Đà La Ni Thân Kinh (do ngài Bồ
Đề Lưu Chí dịch vào đời Đường).
Hỷ Kiến Chi Phần Đại Diệu Thân Bảo
Tràng Thiên Tư Thiên Nhăn Quán Tự Tại Bồ Tát Đại
Bi Thân Đà La Ni (tức quyển 11 của bộ Thích Giáo Tối
Thượng Thừa Mật Tạng Đà La Ni Tập) là một
dị bản khác của bản dịch này. Trong Đại
Chánh Tân Tu Đại Tạng c̣n có những bản kinh liên
quan đến chú Đại Bi như Kim Cang Đảnh Du
Già Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu Hành
Nghi Quỹ Kinh (do ngài Bất Không dịch), Thiên Thủ Thiên
Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Trị Bệnh Hợp Dược
Kinh (do ngài Già Phạm Đạt Ma dịch), Thiên Thủ
Thiên Nhăn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên
Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Chú Bổn (do ngài
Kim Cang Trí dịch), Thế Tôn Thánh Giả Thiên Nhăn Thiên Thủ
Thiên Túc Thiên Thiệt Thiên Tư Quán Tự Tại Bồ Đề
Tát Đỏa Đát Phạ Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại
Đại Bi Tâm Đà La Ni (mất tên người dịch),
Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm
Đà La Ni (do ngài Bất Không dịch), Thiên Quang Nhăn Quán Tự
Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh (do ngài Tam Muội Tô Phạ
La dịch vào đời Đường), Đại Bi Tâm
Đà La Ni Tu Hành Niệm Lược Nghi (do ngài Bất Không
dịch), Thiên Thủ Quán Âm Tạo Thứ Đệ Pháp
Nghi Quỹ (do ngài Thiện Vô Úy dịch vào đời
Đường) v.v...
[34] Kinh này cũng do ngài Trí Thông dịch vào
đời Đường (được đánh số
1038 và xếp vào tập 20 của Đại Chánh Tân Tu Đại
Tạng Kinh). Một bản dịch khác của kinh này là
Quán Tự Tại Bồ Tát Thuyết Phổ Hiền Đà
La Ni Kinh (do ngài Bất Không dịch vào đời Đường).
[35]
Kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết
Nhất Thiết Như Lai Danh Hiệu Đà La Ni Kinh, do ngài
Pháp Hiền dịch vào đời Tống. Kinh này khá ngắn.
Trước tiên, Quán Thế Âm Bồ Tát nêu lên danh hiệu của
các đức Phật như: Bảo Sư Tử Tự Tại
Như Lai, Bảo Vân Như Lai, Bảo Trang Nghiêm Tạng
Như Lai, Sư Tử Đại Vân Như Lai, Vân Sư Tử
Như Lai, Tu Di Như Lai, Sư Tử Hống Như Lai,
Sư Tử Lợi Như Lai, Phạm Âm Như Lai, Thiện
Ái Như Lai, Liên Hoa Thượng Như Lai, Nhiên Đăng
Như Lai, Liên Hoa Sanh Như Lai, Tốn Na La Như Lai, Tŕ Hoa
Như Lai, Tŕ Bảo Như Lai, Pháp Sanh Như Lai, Nhật
Quang Như Lai, Nhật Chiếu Như Lai, Nguyệt Quang
Như Lai, Vô Lượng Tạng Như Lai, Vô Lượng
Trang Nghiêm Tạng Như Lai, Vô Lượng Quang Như Lai,
Liên Hoa Tạng Như Lai, Thiên Diệu Âm Như Lai, Câu Chỉ
La Âm Như Lai. Rồi nói bài chú như sau: “Đát nễ tha: Tát đổ ra thi đế du nhạ
na thiết đa tát hạ tát ra ni. Nhạ sá bà ra mạt cô
trá lăng hất rị đa. Đà ra ni sa hạ. Tát rị phạ,
đát tha nga đa mẫu lư để đa. Đà ra ni sa hạ.
A phạ lộ kiết đế thuyết ra dă sa hạ.
Tát rị phạ đát tha nga đô ô sắt nị sa.
Đà ra ni sa hạ. Tát rị phạ đát tha nga đa bà
thỉ đa. Đạt rị ma tắc kiến đà.
Đà ra ni sa hạ. Tát rị phạ đá tha nga đa bà thỉ
đa. Táp bát đa đà ra ni sa hạ. Bát nạp ma a bà
nhĩ ca dă sa hạ. A sắt trá ma hạ bạt dă đà ra
ni sa hạ. Thuế đa phạ lan noa dă sa hạ. Tát rị
phạ đát tha nga đa na ma đà ra ni sa hạ. A thi
đế bát nạp ma thiết nhĩ ca dă đát tha nga
đa đà ra ni sa hạ. Bát nạp ma hạ tất đa
dă sa hạ. Tát rị phạ măn đát ra đà ra ni sa hạ”.
[36] Bố tự pháp: Quán tưởng để
đặt các chữ Phạn vào các vị trí tương ứng,
chẳng hạn quán nơi tim ḿnh có hoa sen, bên trên có vầng
mặt trăng chồng lên tầng mặt trời, từ
chính giữa mặt trăng xuất hiện chữ Aum có
màu trắng v.v...
[37] Tam tâm: tâm quá khứ, tâm hiện tại,
tâm vị lai.
[38] Nguyên văn ghi là “mùa Thu năm Dân Quốc
thứ 10 (1921)”, nhưng trong đoạn trên ghi là cô Quân Can
mất vào năm Dân Quốc 15 (1926). Chắc chắn đây
là lỗi ấn loát. Do vậy, chúng tôi sửa thành năm
Dân Quốc 20 cho phù hợp, tuy rất có thể là ông Thông Bạch
trở về An Huy ngay trong năm ấy (tức năm Dân
Quốc 15).
[39] Tứ Trí là do tám thức
chuyển biến thành, chỉ có quả vị Phật mới
trọn đủ Tứ Trí:
1. Từ năm thức đầu (Nhăn,
Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Thức) chuyển thành Thành Sở
Tác Trí.
2. Ư Thức chuyển thành Diệu Quán Sát
Trí.
3. Mạt Na Thức chuyển thành B́nh
Đẳng Tánh Trí.
4. A Lại Da Thức chuyển thành Đại
Viên Kính Trí.
[40] Theo Kim Cang Đảnh Du Già Lược
Xuất Niệm Tụng Kinh, Tứ Nhiếp Bồ Tát biểu
thị sự nhiếp thọ chúng sanh
phát xuất từ trí lực vô tận của Như Lai, gồm:
1. Kim Cang Câu (Vajrankusa): Lôi kéo, chiêu dụ chúng sanh
hướng về Phật đạo.
2. Kim Cang Sách (Vajravesa): Trói buộc,
giữ yên chúng sanh nơi chánh đạo, không thoái chuyển.
3. Kim Cang Tỏa (Vajrasphota): Giữ
cho chúng sanh kiên
định nơi pháp đă chứng, tiến hướng
tăng tấn.
4. Kim Cang Linh (Vajravesa): Chúng sanh an
trụ nơi pháp, hoàn thành sự nghiệp, hoan hỷ, hớn
hở.
Nếu chiếu theo ư nghĩa của
Hiển Giáo, bốn vị Bồ Tát này tương ứng
với hạnh Tứ Nhiếp (Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi
Hành, Đồng Sự).
[41] Bát Cúng Dường Kim Cang Bồ Tát: Gồm
có Nội Cúng Dường và Ngoại Cúng Dường. Nội
Cúng Dường Bồ Tát biểu thị những Chánh
Định Đức do Như Lai đă chứng được,
từ trong chánh định Đại Nhật Như Lai (Tỳ
Lô Giá Na Như Lai) lưu xuất ra bốn vị Nội
Cúng Dường Bồ Tát: Kim Cang Hỷ (thân cận A Súc
Như Lai), Kim Cang Man (thân cận Bảo Sanh Như Lai), Kim
Cang Ca (thân cận A Di Đà Như Lai), Kim Cang Vũ (thân cận
Bất Không Thành Tựu Như Lai). Ngoại Cúng Dường
do bốn vị Như Lai mỗi vị lưu xuất nhằm
cúng dường Đại Nhật Như Lai, tức là A
Súc Như Lai lưu xuất Hương Cúng Dường Bồ
Tát, Bảo Sanh Như Lai lưu xuất Hoa Cúng Dường
Bồ Tát, A Di Đà Như Lai lưu xuất Đăng Cúng
Dường Bồ Tát, Bất Không Thành Tựu lưu xuất
Đồ Hương Bồ Tát.
[42] Trong sách Bát Thức Quy Củ Trực Giải,
tổ Ngẫu Ích đă giảng câu này như sau: “Thức này có nhiều tên gọi.
Tên thứ nhất là A Lại Da Thức, do nó bị thức
thứ bảy chấp là Ngă. Cái tên gọi này măi cho đến
khi chứng được Bất Động Địa
th́ mới vĩnh viễn khuất phục Ngă Chấp, bỏ
được danh xưng này. Tên thứ hai là Dị Thục
Thức. Do thiện nghiệp, ác nghiệp, vô lậu nghiệp
[được chứa trong thức ấy] khi chín muồi
sẽ chiêu cảm lấy quả báo. Tên gọi này măi cho
đến khi viên măn Phật quả nơi đạo Kim
Cang rồi mới bỏ được. Tên thứ ba là Nhất
Thiết Chủng Thức, được sử dụng
cho các địa vị phàm thánh xét về nhân lẫn quả,
măi cho đến khi thành Phật rồi th́ nó mới chỉ
ǵn giữ những hạt giống thiện vô lậu”.
[43] Nguyên văn: “Kim
Cang năi mộc cương chi thần”. Từ ngữ “mộc cương” xuất
phát từ một câu trong Hán Thư: “Châu Xương, mộc cương nhân dă”. Nhan
Sư Cổ chú giải: “Ư nói
người tánh chất cứng cỏi như gỗ đá
vậy”. Từ đó, từ ngữ “mộc cương” dùng để chỉ người
tánh t́nh chất trực, cứng cỏi, đôi khi cũng
dùng để chỉ người cứng cỏi đến
mức ngoan cố. Trong các trước tác trước
đó, do không xét kỹ, ông Đinh Phước Bảo
đă hiểu lầm chữ Kim Cang trong tựa đề
kinh Kim Cang chính là thần Kim Cang hộ pháp thay v́ Kim Cang là một
chất cứng rắn không có ǵ có thể phá hoại
được nó. Khi bị phê b́nh, thay v́ phục thiện
sửa sang, qua tác phẩm Phật Học Chỉ
[44] Xử (Vajra) gọi đủ là Kim Cang
Xử (đôi khi thường được dịch là
“chày Kim Cang”), vốn là vũ khí của Đế Thích làm bằng
chất Kim Cang, không loài nào đương cự được.
Kim Cang cứng rắn nhất, không ǵ có thể phá hủy
hay tiêu hủy được. Kim Cang Xử thường bị
người Tây Phương dịch thành “lưỡi tầm
sét” (thunderbolt), khiến cho ư nghĩa sâu thẳm của Kim
Cang Xử bị hiểu sai lệch khá nhiều!
[45] Vườn Tiêu Dao vốn là Thượng
Uyển của vua Hậu Tần (Diêu Trành và Diêu Hưng), về
sau được dành riêng cho ngài Cưu Ma La Thập ở
để dịch kinh.
[46] Thanh Chỉ là một loại cỏ
thơm, lá xanh non, có lông mịn, nở hoa màu trắng vào mùa
Hạ, quả có h́nh thon tṛn, thuộc họ
Đương Quy, củ có thể dùng để làm thuốc,
thường được chia thành nhiều loại
như Hưng An Chỉ, Xuyên Bạch Chỉ, Hàng Bạch Chỉ
v.v...
[47] Mộc Xích (c̣n gọi là Thủ Xích hay
chỉ gọi gọn là Xích) là một khối gỗ nhỏ
từ hai đến ba tấc, để trơn hoặc
sơn đỏ, trên lưng khắc ba chữ Án Á Hồng.
Trước khi tuyên pháp ngữ trong giảng ṭa hay trong các
pháp hội, vị chủ sám sẽ dùng Xích đập xuống
bàn, tạo sự chú ư. Đôi khi trong các pháp hội, vị
Sám Chủ c̣n dùng Xích để vỗ xuống bàn nhằm tạo
hiệu lệnh cho các kinh sư ḥa tiếng chuyển giọng
khi đổi sang một thể điệu tán tụng mới.
[48] Quyển vàng trục đỏ (hoàng quyển
xích trục) là thuật ngữ để chỉ kinh Phật.
Do thời cổ, kinh thường được in trên giấy
vàng (do tẩm hóa chất nên có màu vàng, thường là chất
hoàng liên, để ngừa mối mọt) dài, cuộn thành
quyển, chứ không xếp thành sách như sau này. Hai đầu
tờ giấy lớn ấy phải gắn trục bằng
gỗ sơn đỏ (vừa để trang trí, vừa dễ
thấy để người đọc nắm hai trục
từ từ mở ra, không làm rách kinh).
Vạch cân (định bàn tinh): Những
vạch khắc trên đ̣n cân để người dùng cân
biết được trọng lượng của vật
đem cân.
[49] Thanh Long Sớ Sao chính là tác phẩm chú
giải kinh Kim Cang của ngài Đức Sơn Tuyên Giám.
Sư tinh thông kinh tạng, thường giảng kinh Kim Cang
nên mới viết bộ Thanh Long Sớ Sao (một trăm
quyển), nổi danh lừng lẫy thuở ấy, đến
nỗi người ta thường gọi Sư là Châu Kim
Cang (do họ ngoài đời của Sư là Châu). Nghe nói Thiền
gia phương Nam chủ trương “chẳng lập văn tự, kiến tánh trực chỉ”,
Sư cảm thấy bất b́nh, cho là lũ cuồng ma ở
phương Nam hoại loạn Phật pháp, quyết đến
cật vấn nhằm khuất phục họ, bèn gánh Thanh
Long Sớ Sao rời đất Thục. Vừa mới
đến Phong Dương th́ gặp bà bán bánh, được
điểm hóa, Sư mới dứt cuồng tâm, dốc
ḷng theo học với ngài Long Đàm thiền sư. Khi
đă liễu ngộ, bèn đối trước Phật
điện, đốt sạch bộ Thanh Long Sớ Sao.
[50] Tức du tăng, do những vị ấy
thường du hóa, không ở nơi nào nhất định,
giống như mây trôi nước chảy tùy duyên tự tại
nên gọi là Vân Thủy Tăng.