Quán Thế Âm Bồ
Tát
Bổn Tích Cảm Ứng
Tụng
Quyển 1
觀世音菩薩本跡感應頌,
卷一
彭澤菩薩戒弟子許止淨述
Phần 1
Bành Trạch Bồ Tát Giới
đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn
Ấn Quang Đại Sư giám
định
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ
Trang, Vạn Từ và Đức Phong
Tán
dương h́nh tượng ở đầu sách Quán Thế
Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
Tuyệt thay
Đại Sĩ, thệ nguyện khó tuyên, Bi vận Đồng
Thể[1], Từ khởi Vô Duyên[2], tầm thanh cứu khổ, tùy
loại hiện h́nh, hiện khắp sắc thân, t́nh lẫn
vô t́nh. Nếu có chúng sanh gặp các khổ nạn, vừa
xưng danh Ngài, lập tức cứu vớt. Giàu, thọ,
con cái, hễ có mong cầu, lễ bái cúng dường, đều
được thỏa nguyện. V́ sao xưng danh, liền
được cảm thông? Do tâm Bồ Tát đă chứng
Chân Không từ thuở lâu xa. Do tâm “vô tâm” hợp tâm chúng sanh
và hợp tâm Phật, chúng sanh mê trái, chẳng thể thọ
ân. Do gặp tai nạn, hoặc chuyện khẩn cấp, vừa
phát ḷng Thành, cảm ứng đạo giao, như trăng
trong mát, vằng vặc giữa trời, in bóng trong nước,
không đâu chẳng trọn. Nếu như chẳng tin,
không sao cảm được, như nước xao, đục,
bóng trăng chẳng tỏ, lỗi tại nơi nước,
há trăng chẳng chiếu? Nếu nước lặng
trong, liền hiện rạng ngời. Cũng như nắng
Xuân, tăng trưởng mầm mộng, gặp phải
cây khô, càng thêm mục nát; cam lộ tưới khắp, cây
cỏ cùng tươi, nếu cây không rễ, làm sao sanh sôi?
Yếu quyết
nhập đạo: Tín là bậc nhất; muốn gội từ
ân, không tin chẳng được! Tưởng nghĩ Bồ
Tát, v́ sao được vậy? Là v́ gốc xưa, nên thành
như thế. Gốc xưa ra sao? Chứng trọn Tam Giác[3], hiệu Chánh Pháp Minh[4], phước huệ cùng trọn,
tuy trụ Tịch Quang[5], bi nguyện chưa nguôi, lại
hiện Bồ Tát, phù tá Pháp Vương. Hiện thân mười
giới[6], thân nào cũng hiện, xét theo
chiều dọc, suốt khắp ba đời, xét theo chiều
ngang, trọn khắp mười phương, Công đức
Bồ Tát, khó tán dương trọn, nêu bày đại
lược, làm đèn soi sáng trong chốn đêm dài. Riêng cầu
cư sĩ, ở đất Giang Tây, là Hứa Chỉ Tịnh,
đọc khắp kinh điển, soạn lời tán tụng,
kính vẽ thánh tượng, truyền khắp pháp giới,
khiến mọi hàm thức đều được chở
che.
Thường
Tàm Quư Tăng Ấn Quang ḥa-nam[7] kính cẩn soạn.
Lời
đề từ thứ nhất mở đầu sách
Quán
Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng
lớn, ứng theo từng loại chúng sanh mà hiện thân,
tầm thanh cứu khổ. Người đời hễ bị
bệnh tật, hoạn nạn, nếu tâm có thể sửa
lỗi, hướng lành, cung kính chí thành, thường niệm
danh hiệu của Bồ Tát th́ tùy theo ḷng Thành lớn hay nhỏ,
không ai chẳng được Ngài rủ ḷng gia bị. [Ḷng
Thành] nhỏ th́ gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành
hên, [nếu ḷng Thành] lớn th́ nghiệp tiêu, trí rạng,
chướng hết, phước tăng, thậm chí siêu
phàm nhập thánh, liễu thoát sanh tử. Đáng tiếc là
cơi đời phần nhiều không biết; v́ thế,
đặc biệt duyệt khắp kinh điển và các
sách vở, soạn thành tụng văn, ghi thêm chú thích cặn
kẽ, ngơ hầu khắp cơi đời đều biết
Bồ Tát quả thật là thuốc men cho bệnh ngặt,
là gạo thóc trong năm đói kém, là người dẫn
đường nơi nẻo hiểm, là bè báu nơi bến
mê. Kính mong những ai đọc sách này sẽ đều
tùy theo sức ḿnh, lần lượt khuyên dạy lẫn
nhau, in, biếu, lưu truyền khiến cho hết thảy
những người cùng hàng đều được gội
từ ân, cùng được hưởng pháp hóa, ngơ hầu
an ủi ḷng Bi độ sanh của Bồ Tát, thỏa chí
khăng khăng cảm thánh của đương nhân.
Lời
đề từ thứ hai ở đầu sách
Kính
cẩn tŕnh bày phương pháp xem đọc dành cho những
vị chưa từng nghiên cứu Phật học.
Ba
quyển đầu trong bộ tụng văn này được
chia làm hai phần lớn:
1) Từ trang
thứ nhất của quyển Một cho đến ḍng thứ
sáu của trang hai mươi lăm [trong quyển Một]
đều là những bài ca tụng các chuyện thuộc Bổn
hay Tích của Bồ Tát trong kiếp xưa trích theo kinh
điển.
2) Tiếp theo
đó đều là những bài kệ tụng về sự
tùy cơ cảm ứng của Bồ Tát ở phương
này (tức cơi Sa Bà nói chung và Trung Hoa nói riêng – chú thích của
người dịch).
Nếu những
vị nào chưa từng nghiên cứu Phật Học th́ khi
xem, hăy nên đọc trước từ ḍng thứ bảy
trang hai mươi lăm của quyển thứ nhất trở
đi cho đến hết quyển thứ ba, rồi đọc
những phần dẫn kinh văn để chứng minh
trong quyển thứ tư. Đọc phần kinh văn dẫn
chứng xong, lại xem từ trang thứ nhất của
quyển Một th́ sẽ chẳng cảm thấy khó hiểu,
chẳng nẩy sanh ư tưởng không muốn đọc
cho hết, chắc chắn sẽ hớn hở, hoan hỷ,
sanh ḷng cảm kích lớn lao. Đối với những
điều người đời trước đă may mắn
tránh được th́ chính ḿnh cũng muốn tránh. Phàm những
ǵ người xưa đă may mắn đạt được
th́ chính ḿnh cũng muốn đạt được. Bỏ
cái tâm chấp trước của phàm phu, thuận theo hoằng
nguyện của Bồ Tát, tự xót, xót người, tự
thương, thương người. Từ đấy,
thường niệm thánh hiệu của Bồ Tát, lại
c̣n khuyên khắp hết thảy những người cùng
hàng [đều niệm danh hiệu Bồ Tát] để ai
nấy ắt đều tiêu trừ ác nghiệp từ vô thủy,
tăng trưởng thiện căn tối thắng, gần
là hưởng cái nhân “các duyên thuận thảo, không điều
ǵ chẳng tốt lành”, xa là đạt cái quả “siêu phàm
nhập thánh, liễu sanh thoát tử”.
Ấn Quang bạch.
Lời
tựa của bộ Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm
Ứng Tụng
Một
niệm tâm tánh của chúng ta bất biến nhưng tùy
duyên, tùy duyên mà bất biến. Gặp phải duyên mê nhiễm
sẽ trái giác, hợp trần, luân hồi trong lục đạo,
đến mức cùng cực là đọa măi trong địa
ngục A Tỳ, nhưng tâm tánh chẳng giảm. Gặp
duyên ngộ tịnh sẽ bỏ vọng về với
Chân, tiến nhập, chứng đắc tam thừa, tột
bậc là viên thành vô thượng giác đạo, nhưng
tâm tánh chẳng tăng. Trong địa vị phàm phu, nếu
được nghe danh hiệu của Phật và những ư
nghĩa rất sâu trong kinh th́ ngay lúc ấy pháp Bồ Đề
thấm nhuần đă được gieo xuống ruộng
tám thức. Tuy thoạt đầu mịt mờ chẳng tự
hay biết, nhưng nếu có thể chẳng tự ruồng
rẫy, phụ bạc chính ḿnh, cực lực tăng trưởng
[chủng tử ấy] th́ sẽ tiếp tục từ mảy
giọt trở thành ng̣i rănh, dần dần trở thành kinh
rạch[8] cho đến thành sông to sóng cuộn
ngập trời, cuối cùng ắt sẽ vào được
biển Tát Bà Nhă (Nhất Thiết Trí)[9], viên măn Bồ Đề, trở
về chỗ “không thể được”, triệt chứng
tánh Chân Như nhiệm mầu thường trụ bất
biến vốn sẵn có trong tâm, từ đấy, lại
do Bổn mà thị hiện Tích, dùng Quả để hành Nhân,
truyền đăng cho nhau, sáng ngời vô tận. Há chẳng
phải là bậc đại trượng phu vĩ đại
ư?
Kinh
Pháp Hoa dạy: “
Năm Dân Quốc
11 (1922), gói ghém hành trang lên đường, lên núi triều
bái, yết kiến, dâng lên thầy bài Lễ Quán Âm Sớ, rất
mong được thầy hứa khả. Ngài chẳng
đợi tôi thỉnh cầu, đem tặng bộ Văn
Sao mà tôi vốn sẵn ḷng ngưỡng mộ; nếu chẳng
phải do túc duyên xui khiến, há lại có chuyện khế
hợp như thế ư? Ngày hôm sau xuống núi, Sư lại
ủy thác chuyện soạn Đại Sĩ Tụng, tôi
cũng tự quên ḿnh kém hèn, ngây ngô nhận lời. Tu chỉnh,
thêm một thiên Đại Sĩ Tụng vào bộ [Phổ
Đà] Sơn Chí là chuyện thầy đă canh cánh bên ḷng mấy
năm; hiềm v́ tâm độ sanh tha thiết, người
hỏi đạo quá đông, Ngài chưa rảnh rang để
cất bút. Những người cùng học Phật nơi
xứ tôi mấy năm trước đă từng yêu cầu
soạn văn ca tụng sự cảm ứng của phẩm
Phổ Môn, nhưng tôi sợ phải nhọc ḷng nên đă
viện cớ bệnh tật để thoái thác.
Đến
nay, vâng lời thầy dặn ḍ, giao phó, rốt cuộc
dùng văn chương để báo đáp [ân đức] Đại
Sĩ, thỏa ḷng mong mỏi của những người
cùng hàng, nhân duyên ấy há có thể nghĩ bàn được
ư? Trước hết là biên tập kinh văn, đến
phần sự tích cảm ứng, tôi phải than thở [những
sự tích cảm ứng của Quán Thế Âm Bồ Tát]
mênh mang như khói tỏa trên mặt biển, chẳng biết
phải viết từ đâu. Từ những lời thầy
răn như “mong được
lưu thông trọn pháp giới, khiến cho chúng sanh đều
cùng được thấm đượm sự giáo hóa từ
ái”, như “khiến cho chúng
sanh trong pháp giới cùng gieo thiện căn, cùng được
sanh về Tây Phương mới thôi”, như “người đọc sẽ do
sách này mà hoan hỷ, sẽ hưởng lợi ích sanh thiện,
phá ác, thấu hiểu lư”, bất giác đột nhiên ngộ
hiểu lời thầy khuyên chính là [nói về] tấm ḷng
Đại Sĩ. Công đức của Đại Sĩ,
[ngay cả] Phổ Hiền Bồ Tát vẫn chẳng thể
suy lường được một phần bằng sợi
lông th́ làm sao [hạng phàm phu như tôi có thể] ca tụng
được? Xó chợ cùng quê, ngu phu, ngu phụ không ai chẳng
nghe danh Đại Sĩ, sùng phụng Ngài là bậc từ mẫu,
há có thể ca tụng được ư? Lời ca tụng
này, bất quá là nương theo Bổn Tích của Đại
Sĩ để răn đời, giáo hóa cơi tục mà thôi!
Trong tác phẩm
ca tụng này, trước hết là Khế Kinh, kế
đến là sự cảm ứng, [tức là] Bổn
trước, Tích sau[12]. Sự tu chứng được
nói đến trong kinh chính là Bổn của Bổn, c̣n sự
ứng hóa chính là phần Tích của Bổn. Những sự
thị hiện theo từng loại trong phần cảm ứng
chính là từ Bổn hiện Tích; cứu khổ, ban vui,
chính là phần Quyền của Tích. Hoằng pháp, nhiếp
hóa chúng sanh chính là Thật trong Tích. Đoạn nói về mười
tâm trong phần kết luận sau đấy nhằm khuyến
khích hành giả hăy từ Tích trở về Bổn.
Hơn
nữa, sự thị hiện trong loại cảm ứng
đầu tiên chính là v́ chúng ta trái giác hợp trần, làm nô
lệ cho tai mắt đă lâu, phàm những ǵ chúng ta không thể
thấy biết thường coi là hư giả[13], chẳng tin Pháp Thân thường
trụ và [thật sự] có Phật, Bồ Tát, cũng chẳng
tin Pháp Thân lưu chuyển, có nhân quả báo ứng. Nỗi
họa của kiến giải cho rằng “chết rồi
là hết sạch” chẳng thể kể xiết được!
V́ thế, Đại Sĩ thị hiện để
răn nhắc, muốn cho con người đừng cô phụ
ơn Phật, đừng cô phụ tánh linh của chính
ḿnh.
Kế đó,
cứu khổ, ban vui là v́ chúng ta bao kiếp mê vọng, dẫu
biết tâm là chủ nhân, [xả] thân như đổi nhà,
nhưng Ngă Kiến vẫn chẳng thể rỗng không được,
vẫn cứ hướng ra ngoài rong ruổi t́m cầu, vẫn
cứ tạo nghiệp như ôm củi chữa lửa, chỉ
càng thêm tự thiêu thân. Nhất niệm hồi quang, dùng tâm
chuyển nghiệp, h́nh ngay, bóng sẽ thẳng, đấy
gọi là “tự cầu lắm
phước” vậy! Kế đến là kẻ hoằng
pháp, ba cơi không yên ví như nhà lửa, hy sinh những thứ
quư đẹp, cam phận tầm thường mà c̣n tự
hào, dùng Phật pháp để cầu phước báo, dùng
minh châu để ném chim sẻ, người trí tiếc nuối
lắm thay!
V́ thế,
đẩy lùi pháp thế gian, đề cao pháp xuất thế;
nhưng tu hành không ǵ đơn giản bằng tŕ danh, thành
Phật không chi dễ bằng sanh về Tịnh Độ.
Bởi thế, nhiếp hóa chúng sanh, để đến rốt
cuộc họ sẽ quy hướng pháp này. Đấy
chính là ư nhỏ nhiệm khuyên dụ dần dần, mà
điều ấy cũng nhằm đề cao ư chỉ của
chương [Quán Âm] Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm: “Trước hết là thị hiện,
kế đến là cứu khổ, thỏa măn sở cầu,
nhằm [khiến cho chúng sanh đều] quy hướng
đại Niết Bàn”. Chánh văn và phần chú giải
[của bộ Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng
Tụng này] tổng cộng ba quyển, tôi ghép thêm vào sau
sách những đoạn trích dẫn kinh văn để
làm chứng, tạo thành một quyển nữa.
Soạn xong bản
thảo tôi liền tŕnh lên Ấn Quang đại sư giám
định, được Ngài hứa khả rồi mới
dám soạn thành bản hoàn chỉnh. Văn chương tuy
kém cỏi, vụng về, nhưng đối với ư nguyện
muốn nêu bày sự cảm ứng nơi Bổn và Tích của
Đại Sĩ cũng không phải là chẳng giúp được
tí nào! Nguyện Tam Bảo gia bị, ngơ hầu độc
giả đều tin tưởng, hành theo, sẽ về thẳng
Lạc Bang, chẳng lẩn quẩn trong tam giới, triệt
chứng tự tánh, thường trụ Tịch Quang. Kinh
giáo trong Đại Tạng như ngón tay chỉ mặt
trăng, tấm cám thế tục nào đáng cho người
sáng mắt đoái hoài, nhưng thanh luận[14] đă tuyên rơ, Như Lai huyền
kư[15], do ḷng ngưỡng mộ
Đại Sĩ, nên bất đắc dĩ vẫn chẳng
tự xét mà cứ phô trương văn chương phàm tục,
tầm thường. Tôi trước đă có duyên với
Đại Sĩ, sau lại được kết duyên với
Ấn Quang đại sư, rốt cuộc tác phẩm này
có lẽ sẽ được Đại Sĩ tạo duyên
mà lưu thông phổ biến trong thiên hạ mai sau, đèn nối
tiếp đèn, sáng ngời vô tận, ngơ hầu thỏa
nguyện độ sanh của Đại Sĩ, công
khăng khăng soạn thuật cũng chẳng uổng
phí. Đấy chính là điều tôi vẫn sớm tối
thơm thảo cầu chúc vậy.
Đầu Hạ
năm Giáp Tư, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Hứa Chỉ
Tịnh soạn ở Bành Trạch.
Lời
tựa thứ hai
Sự
khổ trong thế giới Sa Bà nhiều nhất, chúng sanh trong
cơi Sa Bà nhĩ căn nhạy bén nhất. Do Quán Âm Đại
Sĩ tâm từ bi tha thiết nên có nhân duyên sâu đậm nhất
đối với thế giới này. Do Ngài tùy loại hiện
thân, tầm thanh cứu khổ, khiến cho chúng sanh nghe
danh, thấy h́nh, luyến mộ, tán thán. Do nhân duyên ấy
khiến cho chúng sanh gần là gieo phước trong cơi trời
người, xa là chứng quả Bồ Đề. Trong hội
Lăng Nghiêm thuở trước, Ngài hiển thị sự
tu nhân nơi bổn địa, từ Văn - Tư - Tu, nhập
Tam Ma Địa, xoay [cái Nghe] trở lại nghe nơi tự
tánh, chứng viên thông chân thường. Tâm diệu giác do Ngài
chứng được nơi bổn địa, trên hợp
với sở chứng rốt ráo của mười
phương chư Phật, dưới hợp với cái tự
tâm sẵn có của chúng sanh mười phương. Do vậy,
Ngài và chư Phật có chung một từ lực, cùng một
niềm bi ngưỡng với chúng sanh. Từ đấy,
hiện thân trong mười pháp giới, dùng ba mươi
hai ứng thân, mười bốn thứ vô úy, bốn thứ
vô tác diệu lực chẳng thể nghĩ bàn độ
thoát chúng sanh, khiến cho họ đều đích thân chứng
được diệu giác chân tâm sẵn có trong tự tâm mới
thôi.
Đức Phật
sai ngài Văn Thù chọn lựa pháp môn khế cơ nhằm
lợi lạc chúng sanh trong đời hiện tại, vị
lai; nhân đấy, đức Văn Thù loại trừ
[pháp Viên Thông của] hai mươi bốn vị thánh, riêng
đề cao [pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của] Quán Âm. Những
kẻ ṃ mẫm mù quáng chẳng hiểu rơ duyên do, liền bảo:
“Quán Âm trúng tuyển, Thế Chí hỏng thi!” Do một lời
này khiến cho những kẻ không hiểu biết miệt
thị pháp môn Niệm Phật, chẳng chịu tu tŕ, chẳng
biết Nhĩ Căn Viên Thông nhằm dành cho bậc
đương cơ là A Nan vốn phạm lỗi đa văn[16] cũng như những kẻ lợi căn
chuyên tham cứu hướng thượng trong đời
sau, c̣n Niệm Phật Viên Thông thích hợp với khắp
mọi căn cơ của hết thảy chúng sanh trong
mười phương ba đời. V́ vậy, bậc chứng
ngang chư Phật vẫn phải hồi hướng văng
sanh, kẻ sắp đọa A Tỳ mười niệm
liền dự vào phẩm cuối.
Quán Âm và Thế
Chí cùng là bậc thượng thủ trong cơi Di Đà, cùng
nhiếp thọ người niệm Phật trong mười
phương sanh về Tịnh Độ; nhưng mỗi Ngài
dạy pháp tu khác biệt đôi chút. Bởi lẽ, một
vị chuyên trọng niệm Tha Phật, nhưng không có Tự
Phật th́ làm sao hiển được Tha Phật? Một
vị chú trọng niệm Tự Phật, nhưng không có
Tha Phật làm sao liễu được Tự Phật? Niệm
Tha Phật dường như thuộc về sự tướng,
nhưng Lư do Sự hiển. Niệm Tự Phật dường
như thuộc về lư tánh, nhưng Sự do Lư thành. Hiểu
rơ điều này th́ Tự và Tha chẳng hai, Sự và Lư như
một, cùng trở về biển Tát Bà Nhă, cùng tiến nhập
Bồ Đề giác đạo, đâu c̣n ǵ để luận
định là giống hay khác!
Hơn nữa,
trong kinh Đại Bi, Đại Sĩ dạy người
tụng chú hăy “chí tâm xưng niệm
danh hiệu ta” mà cũng “hăy
chuyên niệm danh hiệu đức Bổn Sư của ta
là A Di Đà Như Lai, rồi mới tụng chú”. Ngài c̣n
đối trước đức Phật, tự thề rằng:
“Tụng tŕ thần chú Đại
Bi mà nếu chẳng sanh về các cơi Phật th́ con thề
chẳng thành Chánh Giác”. Đấy chính là “ức Phật, niệm Phật, hiện tiền,
tương lai nhất định thấy Phật”
như Đại Thế Chí Bồ Tát đă nói. Cần biết
rằng: Đại Sĩ ứng hóa từ đầu đến
cuối đều lấy Niệm Phật làm pháp chủ yếu.
Trong phẩm Phổ Môn, Phật dạy hết thảy phàm
thánh hăy niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, xét ra có khác ǵ niệm
Phật đâu?
Phổ Đà
Sơn ở phía Đông đất Chiết Giang chính là
đạo tràng ứng hóa của Đại Sĩ, mà
cũng là chỗ Đại Sĩ thuyết pháp cho Thiện
Tài thuở ấy. Pháp sư Ấn Quang đă trụ tích[17] tại núi ấy hơn ba mươi năm,
do thấy Phổ Đà Sơn Chí bản cũ chưa từng
nêu tỏ sự cảm ứng của Đại Sĩ
nơi Bổn và Tích, thật đúng là bỏ gốc lấy
ngọn, mua rương trả châu[18], thật đáng đau tiếc,
tính đem những điều thuộc về Bổn và
Tích của Đại Sĩ trong Đại Tạng và sự
cảm ứng tại phương này soạn thành lời
ca tụng và chú thích ư nghĩa của từng điều một,
lại tập hợp những sự thuộc về Bổn
Tích trong các kinh để làm chứng cứ, ngơ hầu hết
thảy hữu t́nh đều cùng biết đến ân sâu
bao kiếp của Đại Sĩ, sẽ đều
thường niệm, cung kính, đều được
măn nguyện. Do sức không lo xuể, bèn cậy người
bạn thân thiết là cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh
biên soạn. May sao bản thảo đă hoàn thành, muốn sắp
chữ in ra mấy vạn bản ḥng lưu truyền khắp
trong ngoài nước. Do vậy, tôi ghi lại nguyên do để
thưa tŕnh cùng các vị độc giả.
Giữa Hạ
năm Giáp Tư, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Hoàng Khánh Lan
(nguyên quán Thượng Hải) viết tại dinh Đạo
Doăn[19] đất Cối Kê
Lời
tựa thứ ba
Hết thảy các pháp thế gian, xuất thế
gian đều do thời tiết, nhân duyên mà phát khởi. V́
thế, cổ đức nói: “Nếu
thời tiết đến, lư tự tỏ bày”. Thật
đúng là như thế! Quang tầm thường, kém cỏi,
trăm chuyện chẳng làm được một điều
nào, ăn bám chùa Pháp Vũ ở núi Phổ Đà ba
mươi hai năm. Trước kia đọc Phổ
Đà Chí, thấy những điều ghi chép trong ấy
đều thuộc chuyện hưng - phế của đạo
tràng và những chuyện tầm thường như vậy.
C̣n như sự - lư, bổn - tích trong những kiếp
xưa của Quán Âm Đại Sĩ cũng như những
nhân duyên Ngài cảm ứng trong cơi này đều thiếu
sót, sơ sài, khôn ngăn khiến người ta phải thở
dài!
Năm Dân Quốc thứ sáu (1917), ba vị cư
sĩ Vương Thái Thần, Châu Hiếu Hoài, Trần Tích
Châu lên núi t́m gặp. Ông Vương, ông Châu nói:
- Phổ Đà là đạo tràng thánh địa của
Quán Âm Đại Sĩ, trong ngoài nước đều kính
ngưỡng, sao lại băi bỏ giảng ṭa đă lâu, nỡ
để pháp đạo tịch mịch? Xin thầy hăy
phát tâm giảng kinh, chúng con sẽ v́ thầy trù liệu, lo
toan chi phí.
Quang viện cớ ḿnh bệnh tật, kém cỏi,
hết sức từ chối. Ông Tích Châu bèn nói:
- Sơn Chí đă lâu không tu chỉnh,
bản gỗ khắc đă mờ câm. Nếu thầy chịu
sửa chữa, con sẽ khắc in.
Quang nói:
- Chuyện ấy nào phải dễ
dàng! Nếu chiếu theo lệ cũ th́ phải là văn
nhân mới làm nổi. Nếu đem những chuyện tu -
chứng, bổn - tích trong những kiếp xưa kia của
Đại Sĩ và những sự tích cảm ứng trong
phương này, mỗi chuyện đều lược thuật
những nét chánh khiến cho người đọc đều
biết ân Đại Sĩ trọn khắp các cơi số
lượng nhiều như cát, ḷng Từ tế độ
không ngằn mé; từ đấy, phát khởi chánh tín, thân
tâm quy y, gần là hưởng phước trời - người,
xa là chứng quả Bồ Đề, mà không xem khắp
Đại Tạng, tra cứu đủ mọi sách vở
sẽ không thể làm được. Nếu chẳng vạch
rơ các sự - lư, bổn - tích, cảm ứng của Đại
Sĩ th́ chính là bỏ chủ trọng khách, bỏ gốc
theo ngọn, có khác ǵ những sơn kinh thủy chí[20]
tầm thường? Làm sao tỏ rơ Phổ Đà là đạo
tràng ứng hóa của Đại Sĩ, lại sao có thể
tỏ rơ Đại Sĩ là bậc cha mẹ đại từ
bi của pháp giới chúng sanh, có nhân duyên rất sâu đối
với chúng sanh trong cơi Sa Bà cho được? Nhưng Quang
do túc nghiệp đến nỗi tâm không hiểu biết, mắt
gần như mù ḷa, c̣n phải sám hối một hai năm
đợi đến lúc nghiệp tiêu trí rạng, chướng
hết mắt sáng th́ sẽ chẳng tiếc thân mạng gắng
làm cho thành tựu. Nếu như nghiệp nặng chẳng
thể cảm ứng để trừ khử cho hết
[nghiệp chướng] được th́ sẽ qua Giang
Tây, cầu cư sĩ Lê Đoan Phủ thay Quang lo liệu
việc này. Ông ấy học vấn quán thông Nho - Thích,
văn tài xuất chúng, ắt sẽ nêu tỏ tâm hạnh, sự
tích từ bi của Đại Sĩ.
Năm sau, cư sĩ Từ Úy
Như đem Văn Sao ấn hành, khiến cho những ai
không xem xét kỹ, lầm tưởng Quang là bậc tri thức;
từ đấy, thư từ qua lại, ngày càng không rảnh
rỗi để làm. Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ tám (1919),
ông Đoan Phủ quy Tây, cái tâm đă phát trước kia trở
thành chuyện nói xuông! Mùa Xuân năm Dân Quốc 11 (1922), Tri Sự[21]
vùng Định Hải là ông Đào Tại Đông lên núi, bảo:
“Sơn Chí được lưu thông sẽ khiến cho ai nấy
do tin tưởng đều cải ác làm lành, phản vọng
quy chân, quả thật là nhiệm vụ quan trọng để
văn hồi thế đạo nhân tâm, hăy nên gấp rút tu chỉnh”.
Quang thấy tâm ông Đào hộ pháp khẩn thiết, ḷng cứu
thế ân cần, liền thưa với chủ nhân hai chùa
Phổ Tế và Pháp Vũ khẩn khoản xin ông Đào hăy đích
thân đảm nhiệm chuyện này. Ông Đào do bận bịu
việc công, bèn ủy thác vị nhân sĩ trong vùng là ông
Vương Nhă Tam đảm nhiệm. Hết thảy sự
việc th́ ngoài có ông Đào, trong núi có ḥa thượng Khai
Như đă thoái ẩn[22]
cùng thương lượng, châm chước lo liệu,
Quang không rảnh rỗi nên tuyệt chẳng hề hỏi
đến.
Năm sau, ông Đào được thăng chức,
chuyển lên huyện Hàng, nhưng vẫn gởi thư từ
qua lại để bàn bạc, châm chước chuyện
này. Nếu chẳng phải từ xưa đă từng
được Đại Sĩ phó chúc, há có được
như thế hay chăng? Lúc mới vừa bàn bạc chuyện
tu chỉnh Sơn Chí xong xuôi, chưa đầy một tháng
th́ cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh từ huyện Bành Trạch,
tỉnh Giang Tây, đến viếng thăm, vừa gặp
gỡ liền thành [bạn bè] thuận thảo. Quang giăi bày
nỗi niềm ấp ủ khi xưa, đem chuyện soạn
Đại Sĩ Tụng nhờ vả, ông bèn chấp thuận
ngay. Nếu chẳng phải do Đại Sĩ ngầm gia
bị, làm sao có dịp gặp gỡ như vậy cho
được?
Ông Hứa bèn tra cứu khắp
Kinh Tạng và các sách vở, phải mất hai năm mới
hoàn thành bản thảo, soạn thành tụng văn gần
hai vạn chữ. Lại c̣n chú thích những ư nghĩa liên
quan để người đọc biết hết
căn cội; lại c̣n trích lục các kinh để làm chứng
cớ. Tụng Văn gồm ba quyển, dẫn chứng từ
kinh văn gồm một quyển, tổng cộng hơn
ba trăm bảy mươi trang, được gởi
đến [Phổ Đà] vào đầu mùa Hạ. Những
ư nghĩa của Tụng Văn đă được tŕnh
bày trong lời tựa của ông Hứa; ở đây không
nhắc lại nữa. Trước kia, Quang vốn muốn
đặt phần này vào đầu bộ Sơn Chí, nay v́
số quyển quá nhiều, nên đặc biệt cho khắc
in riêng để lưu truyền khắp hậu thế. Nếu
in chung với bộ Sơn Chí ắt khó thể lưu truyền
rộng khắp được.
Đại Sĩ từ vô lượng kiếp
đến nay phân thân trong các cơi nhiều như bụi trần,
bổn - tích cảm ứng của Ngài chỉ ḿnh Phật có
thể biết được nổi. Mấy quyển tụng
văn này chẳng qua chỉ là một hạt bụi
nơi đại địa, một giọt nước
trong biển cả, khiến cho những ai chẳng biết
ḷng Từ sâu xa, ḷng Bi lớn ao của Đại Sĩ sẽ
biết được đại khái. Từ đấy, hổ
thẹn, đột nhiên dũng mănh nói: “Tâm của chúng ta và
tâm của Đại Sĩ không hai, không khác, Đại
Sĩ đă viên thành Phật đạo bao kiếp lâu xa, lại
dùng bi tâm vô tận chẳng ĺa cơi Tịch Quang, thùy tích[23]
trong chín giới hiện đủ mọi sắc thân độ
thoát chúng sanh. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến
nay luân hồi trong sáu nẻo, được hưởng
ân dẹp khổ ban vui của Ngài không biết là bao nhiêu!
Măi cho đến ngày nay, vẫn c̣n là phàm phu. Trên đă phụ
thâm ân Đại Sĩ cứu vớt, dưới phụ bạc
Phật tánh sẵn có của chính ḿnh. Lặng im suy nghĩ,
há không thẹn đến chết ư? Ngài đă là trượng
phu th́ ta cũng thế. Chẳng nên tự khinh để rồi
lui sụt!”
Do vậy, chuyển biến phàm
t́nh, noi theo dấu Thánh, đánh đổ ham muốn xằng
bậy để khôi phục lễ nghĩa, dứt ḷng tà,
giữ ḷng thành, tận lực hành điều thiện thế
gian, kiêm tu Tịnh nghiệp, lâu dần đều
được biến đổi. Bậc thượng th́
ngay trong đời này đoạn Hoặc, chứng Chân, liễu
sanh thoát tử, bậc hạ th́ đến lúc lâm chung cậy
vào Từ lực của Phật văng sanh Tây Phương.
Được như thế th́ ai nấy đều giữ
vẹn lễ nghĩa, ai nấy biết nhân quả, tự
nhiên can qua dứt, tai họa do con người gây ra vĩnh
viễn dứt mất, mưa thuận gió ḥa, quyến thuộc
cơi trời thường đến. Nhiệm vụ trọng
yếu căn bản để văn hồi thế đạo
nhân tâm như ông Đào đă nói chính là chuyện này đó chăng?
Mong sao những ai thấy nghe đều cùng phát tâm kính
ngưỡng Đại Sĩ, gắng sức tu tập th́
may mắn lắm thay!
Giữa Thu
năm Giáp Tư, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Cổ Tân[24] Thường Tàm Quư Tăng Ấn
Quang Thích Thánh Lượng kính soạn
Phụ
Lục - Lời tựa cho bản Phổ Đà Sơn Chí in
theo lối thạch bản[25]
Quán Thế Âm
Bồ Tát từ vô lượng kiếp trước thành Phật
đạo đă lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh, nhưng do ư niệm
độ sanh khẩn thiết, tâm cứu khổ ân cần,
chẳng ĺa Tịch Quang, hiện h́nh trong sáu nẻo. Trong
các cơi Phật nhiều như vi trần ở khắp
mười phương, hiện đủ mọi sắc
thân độ thoát chúng sanh, chứ nào phải chỉ hiện
thân Bồ Tát; c̣n trong Nhị Thừa, lục đạo,
không thân nào chẳng hiện. Kinh Pháp Hoa nói: “Nên dùng thân nào để độ được bèn
hiện thân ấy thuyết pháp”. Tuy vào khắp các cơi Phật
mười phương, nhưng Ngài có nhân duyên rất sâu với
cơi Sa Bà. Tuy hiện thân khắp mười pháp giới,
nhưng căn cứ trên sự ứng tích, người
đời chỉ nói Ngài là Bồ Tát mà thôi. Do Ngài chứng
triệt để duy tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh,
nên vận dụng ḷng Bi đồng thể, khởi ḷng Từ
vô duyên. Do Bổn cao, Thể đại, nên Tích quảng, Dụng
rộng[26]. Tùy loại hiện h́nh, theo tiếng
cứu khổ. Thị hiện hễ có cảm liền ứng,
không nguyện nào chẳng thuận theo, như mặt
trăng vằng vặc giữa trời, hiện bóng trong mọi
nơi có nước. Không chỉ sông, hồ, rạch, biển
đều hiện bóng vẹn toàn, dù chỉ một chước[27], một giọt, không đâu chẳng
đều hiện bóng toàn vẹn.
Lại
nữa, bóng trăng hiện trong sông, hồ, rạch, biển,
một người nh́n vào th́ thấy mặt trăng ấy
đối trước người đó; trăm ngàn vạn
người ở trăm ngàn vạn nơi nh́n vào th́ mỗi
một người đều thấy trăng đối
trước chính ḿnh. Nếu người ấy đi sang
Đông, trăng cũng theo sang Đông; nếu đi sang
Tây, trăng cũng theo sang Tây. Nếu người ấy đứng
yên chẳng động, trăng cũng chẳng ĺa nơi ấy.
Từ một người cho đến trăm ngàn vạn
người đều như vậy. Trong một niệm,
nếu khắp pháp giới cảm, Bồ Tát bèn ứng khắp
pháp giới. Cảm ứng đạo giao, không sai khác chút
nào! Giống như mặt trăng hiện bóng trong mọi
chỗ có nước, người nào, nơi nào cũng
đều thấy trọn vẹn bóng trăng, trọn chẳng
sai khác ǵ! Ấy là do Bồ Tát tâm gồm trọn thái hư,
lượng gồm thâu các cơi nhiều như cát. Do lấy
tâm chúng sanh làm tâm, do lấy cảnh của chúng sanh làm cảnh
[của chính ḿnh], nên chẳng nghĩ tưởng mà hợp,
vô duyên bèn ứng. Há thế trí phàm t́nh ḥng có thể tính
lường được ư?
C̣n
nếu như nước đục, mắt ḷa, th́
trăng chẳng thể hiện, phải đâu trăng
không hiện, mà là do lỗi của nước đục,
mắt ḷa đấy chứ! Xét cảm ứng trên mặt
Tích, th́ có hiển cảm hiển ứng, minh cảm minh ứng
(cảm ngầm, ứng ngầm), minh cảm hiển ứng,
hiển cảm minh ứng, diệc minh diệc hiển cảm
nhi hiển ứng (vừa hiển vừa ngầm cảm
mà lại hiển ứng), diệc minh diệc hiển cảm
nhi minh ứng (vừa ngầm vừa hiển cảm mà lại
ngầm ứng) sai khác (“Hiển
cảm hiển ứng” là ngay trong đời này dốc ḷng thành, cạn
ḷng kính lễ niệm cúng dường th́ sẽ được
gia bị, gặp điều hung trở thành điều
lành, gặp nạn thành may, và nghiệp tiêu chướng tận,
phước tăng, huệ rạng v.v… “Minh cảm minh ứng” là trong đời quá khứ
từng tu những hạnh cạn ḷng thành, tận ḷng kính
lễ niệm, đời này tuy chưa tu tập, nhưng
do thiện căn trong đời trước, được
Ngài gia bị mà không hay không biết, họa diệt, phước
đến, nghiệp tiêu chướng tận v.v… “Minh cảm hiển ứng”
là đời trước từng gieo thiện căn, đời
này được gia bị. “Hiển
cảm minh ứng” là đời này dốc ḷng thành, kiệt
ḷng kính lễ niệm, chẳng thấy được gia
bị, âm thầm được Từ lực gia bị
khiến hung lui, cát (tốt lành) đến, nghiệp tiêu,
chướng tận v.v… “Diệc
hiển diệc minh cảm hiển ứng” là đời
trước đă từng gieo thiện căn, đời
này dốc cạn ḷng thành lễ niệm, được
gia bị rơ ràng, chuyển họa thành phước v.v…
“Diệc hiển diệc minh cảm
minh ứng” là đời trước
từng gieo thiện căn, đời này dốc ḷng thành lễ
niệm, âm thầm được Từ lực gia hộ,
đạt được các thứ lợi ích. Hiểu rơ
điều này sẽ biết công chẳng hư uổng, quả
chẳng tự nhiên mà có. Dẫu cho trọn đời chẳng
thấy dấu hiệu ǵ được gia bị, cũng
chẳng đến nỗi sanh tâm oán vọng, bỏ cuộc
giữa đường. Đạo cảm ứng vi diệu
khó thể nghĩ suy, tạm ghi đại lược
để khơi gợi cho người sáng suốt trong mai sau).
Sự
ứng hiện ấy lớn - nhỏ, hơn - kém là do ḷng
Thành đă đến mức cùng cực hay chưa mà thôi! Dẫu
cho tâm không thể tin chắc, chưa chí thành đến cùng
cực, nhưng nếu có thể nhất niệm dốc
ḷng Thành ắt cũng đạt được lợi
ích. Nhưng tùy theo một niệm chí thành của ḿnh mà chia
ra hơn - kém, lợi ích đạt được sẽ chẳng
thể siêu tuyệt như người dốc cạn ḷng Thành,
tận hết ḷng kính. Giống như trăng vẫn hiện
bóng trong nước đục, nhưng lờ mờ không
rơ. Người mù tuy chẳng thể đích thân thấy
được ánh trăng, nhưng có khi nào chẳng
được ánh trăng chiếu soi? Bồ Tát đại
từ đại bi, làm chỗ nương tựa cho các
chúng sanh trong khắp pháp giới. Do vậy, nhân dân cả
nước ai nấy đều tín phụng, v́ thế mới
thường nói “nhà nhà Quán Thế
Âm”.
Đạo
tràng ứng hóa của Ngài cố nhiên không phải chỉ có
một chỗ. Như Nam Ngũ Đài Sơn, Đại
Hương Sơn ở Thiểm Tây, Thiên Trúc Sơn ở
Chiết Giang v.v… là những nơi cảm ứng rơ ràng,
hương đèn nhộn nhịp, nhưng chỉ có Nam Hải
Phổ Đà Sơn thật là bậc nhất do tên chỗ
này được ghi trong kinh Hoa Nghiêm, năm xưa Thiện
Tài đích thân tham học [tại đây]. Ân trọn khắp
mọi loài, hoàng đế các đời sắc kiến[28], nên được cả cơi
đời sùng kính, các nước ngưỡng mộ.
Tưởng
nghĩ Bồ Tát ứng hóa cho hàng căn cơ Đại
Thừa trong tam thừa thiên tiên, nên trải bao kiếp
thường trụ nơi núi này, chứ nào phải chỉ
dài lâu như trời như đất. Nhưng về phía
thị hiện ứng tích cho phàm phu th́ trong năm Trinh Minh
thứ hai (916) nhà Châu Lương[29] thời Ngũ Đại, Huệ Ngạc[30] đại sư thỉnh tượng Quán Âm
bằng đồng từ núi Ngũ Đài muốn
đưa về Nhật Bản. Đi đến đây,
thuyền bị ách lại không đi được nữa,
mới bèn khai sơn. Đến nay đă hơn một ngàn
năm, sự tích, thi văn được biên soạn
thành tập với tựa đề là Phổ Đà Sơn
Chí.
Tôi thường
hay bệnh nên đối với những sự - lư cảm
ứng chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát thật
khó phát huy. Tính đọc khắp Đại Tạng, xem trọn
các sách, phàm những sự tích Bồ Tát tùy cơ ứng
theo ḷng cảm đều ghi chép đầy đủ, khắc
bản lưu thông, một là để xiển dương
đạo mầu độ sanh của Bồ Tát, hai là khải
phát duyên lành thoát khổ cho chúng sanh; nhưng do bệnh mắt
chưa lành, chưa thể như nguyện.
Cư
sĩ Hà Liêm Thần ở Cối Kê, thấu hiểu tâm tủy
đạo Nho, y thuật được xưng là quốc
thủ[31], chí hạnh cao khiết, tín tâm
thuần chân, từng kêu gọi đồng nhân[32] lập Tang Du Xă[33], với ư nghĩa cảnh chiều
tà không c̣n nhiều, nghĩ cách quay về, đồng tu Tịnh
nghiệp, cầu sanh An Dưỡng. Lại do hết thảy
chúng sanh đắm ch́m trong biển khổ đă lâu, chẳng
nương vào pháp lực th́ không cách nào vượt ra
được, tính đem những sự tích ứng hóa của
Bồ Tát làm thuyền cứu mạng, thả trong biển
khổ, vung tay kêu gấp để dẫn dắt những
kẻ ch́m đắm lên thuyền, ngơ hầu cùng lên
được bờ kia, về thẳng quê nhà, vĩnh viễn
ĺa khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng những
sự vui. Do vậy, bèn cho in thạch bản cuốn Phổ
Đà Sơn Chí để lưu truyền rộng răi ḥng
đền ân Đại Sĩ độ sanh, tạo đường
nẻo cho chúng sanh gieo ḷng Thành. Ông ta bảo tôi viết lời
tựa, tôi khôn ngăn hoan hỷ, quên phứt ḿnh kém hèn, liền
đem những chuyện cảm ứng mầu nhiệm của
Bồ Tát nêu tỏ đại lược. Những sự
tích khác, cố nhiên đă chép trọn vẹn trong sách, cần
ǵ phải dài ḍng nữa!
Mùa Xuân năm
Kỷ Mùi, tức năm Dân Quốc thứ tám (1919), Cổ
Tân Thường Tàm Quư Tăng Ấn Quang Thích Thánh Lượng
kính soạn
Phụ lục - Bài kư về chuyện
Quán Âm Bồ Tát ứng tích tại
(Núi này cách tỉnh thành Thiểm Tây bảy
mươi dặm)
Bài
kư về sự thị hiện ứng tích văn từ
điển nhă, tường thuật sự việc tinh
tường. Tiếc rằng diệu lực vô tác chẳng
thể nghĩ bàn của Bồ Tát c̣n chưa được
nêu tỏ. Quang tôi chẳng nề hà kém tệ, gượng
soạn một bài tán để đặt ở trước,
mong sao sự lư viên dung, Thể lẫn Dụng cùng
được nêu tỏ. Nguyên do chúng sanh có thể cảm,
nguyên do thánh có thể ứng đều được nêu
bày, ngơ hầu người sau đọc đến liền
phát Bồ Đề tâm, thấy người hiền mong
được bằng, lấy tâm của đức Quán Âm
làm tâm ḿnh, lấy việc của ngài Quán Âm làm việc của ḿnh, để rồi
cũng là đức Quán Âm trong đời vị lai. Tuy
văn từ chẳng bóng bảy, trang nhă, nhưng ư
nghĩa cũng đáng chấp nhận được. Tán rằng:
Quán
Âm đại sĩ trong vô lượng kiếp, thành Phật
đă lâu. V́ độ chúng sanh chẳng ĺa Tịch Quang, hiện
thân Bồ Tát. Lại c̣n ứng khắp quần cơ, hiện
h́nh trong lục đạo. Dùng ba mươi hai ứng thân,
mười bốn vô úy, bốn vô tác diệu lực chẳng
thể nghĩ bàn, tầm thanh cứu khổ, độ
thoát quần manh. Nên dùng thân nào để độ
được bèn hiện thân ấy để thuyết
pháp. Khác nào trăng in bóng trên ngàn con sông, mùa Xuân tăng
trưởng muôn cây cỏ. Tuy trọn chẳng tính nghĩ,
nhưng chẳng sai sót mảy may. Ấy là v́ triệt chứng
duy tâm, tỏ trọn tự tánh. Vận ḷng Bi đồng
thể, khởi ḷng Từ vô duyên, lấy niệm của
chúng sanh làm tâm, lấy hết cảnh trong pháp giới làm
lượng. Do vậy biết vô tận pháp giới vô
lượng chúng sanh đều ở trong tâm tịch chiếu
của Bồ Tát. Cho nên được mây bủa
cửa Từ, sóng trào biển
Bi, hễ cảm liền ứng, không nguyện nào chẳng
thỏa!
(Năm Giáp Dần
tức năm Dân Quốc thứ ba (1914), Ấn Quang Thích
Thánh Lượng đảnh lễ kính cẩn viết. Từ
đây trở đi là phần kư về sự thị hiện
ứng tích)
Hang Đại Sơn Nham là chỗ
rồng rắn ở, lâu năm biến thành yêu tinh, mặc
t́nh gieo hung tác nghiệt, ăn nuốt không ngừng, gây họa
lây cho dân chúng, biến ra h́nh thù quái dị bay lên, không ai chế
ngự nổi. Nếu không phải bậc ứng thân Đại
Sĩ, ai có thể cứu tế cho được! Ṿi vọi
thay diệu trí thần lực chẳng thể nghĩ bàn!
Nhưng trong cảnh chẳng nghĩ bàn, gượng dùng
văn từ để ghi chép, thuật lại sự tích,
ngơ hầu gợi ḷng tin sâu xa cho những bậc quân tử
cả ngàn năm sau.
Xưa kia, vào thời Tùy, trong niên hiệu Nhân Thọ
(601-604), núi này có độc long. Do nó có sức thần thông
tạo bởi nghiệp lực, nên biến h́nh thành người
mặc áo lông (đạo sĩ)[34],
cầm đan dược đi bán ở Trường An,
trá xưng tiên thuật để lừa kẻ ngu tục,
bảo thuốc ấy linh lắm, uống vào lập tức
bay lên trời. Ô hô! Người dân vô tri nhẹ dạ tin lời
ấy, phàm kẻ uống thuốc ấy bay lên trời
không biết là bao nhiêu! Nào có biết sẽ bị rớt xuống
sào huyệt của đạo sĩ ấy để thỏa
bụng miệng hắn?
Dân cư một phương vẫn mê chẳng ngộ,
chỉ có đức Đại Sĩ ta do sức bi nguyện,
hiện thân tỳ-kheo, kết cỏ làm am, sống trên
đảnh núi ấy, dùng sức diệu trí hàng phục thần
thông yêu quái ấy, dùng gió thanh tịnh trừ khử nhiệt
năo cho nó. Ư niệm từ bi thấm đến, độc
khí ngầm tiêu, rồng được thanh lương ở
yên trong hang núi. Dân chúng nhờ đức ấy đều
giữ được mạng sống. Chuyện quái dị
xưa kia chẳng c̣n thấy nữa. Do vậy, sự thi
ân linh ứng ấy thấu đến triều đ́nh. V́
Sư có công đối với đất nước, có ân
đối với dân, nên lập chùa trên đảnh núi
để đáp tạ. Đại Sĩ dùng gió Từ,
mưa pháp cứu khắp hàm linh, huệ nhật sáng ngời
thanh tịnh, phá các tối tăm. Do vậy, người
quyền quư[35]
ngưỡng mộ, kẻ b́nh dân khâm phục phong cách, cắt
lưới ái để quy chân, bỏ trâm anh để nhập
đạo. Đại Sĩ thường ngồi trên tảng
đá, vượn núi, thú hoang quây quần bên ṭa, trăm loài
chim tụ họp đông nghịt, đậu lặng lẽ
như đang nghe pháp âm, một lúc lâu sau mới bay đi.
Ô hô! Dựng chùa vừa được một
năm th́ vào ngày Mười Chín tháng Sáu, Đại Sĩ
đột nhiên thị hiện vô thường, điềm
nhiên nhập diệt. Mùi hương lạ ngập thất,
sương sầu phủ kín trời, chim thú kêu ai oán, núi rừng
đổi sắc. Lúc đó, mọi người trong chùa
nghe triều đ́nh sai sứ đem hương ban xuống,
phụng chỉ phúng điếu, phong tặng để
đề cao phước ngầm. Lúc làm lễ trà-tỳ[36],
trời đất tối tăm, trong khoảnh khắc ấy,
[nơi ấy] hóa thành cơi bạc, chợt nghe trên không trung
vang lên tiếng tiêu, tiếng trống, núi non lay động,
mây lành phủ trùm, hương lạ ngào ngạt. Từ
trên ngọn núi phía Đông chợt hiện ra cái cầu vàng,
trên cầu thiên chúng đứng thành hàng, ai nấy cầm
tràng phan và rải hoa vàng phơi phới chẳng rơi xuống
đất. Cuối cùng trên ngọn
Quan Tả Bộc Xạ[38]
là ông Cao tấu tŕnh đầy đủ sự việc.
Hoàng thượng xem tờ biểu, than thở hồi lâu,
thâu thập di cốt lập tháp, đích thân viết biển
đề, ban hiệu là Quán Âm Đài Tự, ban tặng ruộng
đất rừng núi mỗi chiều rộng trăm dặm.
Mỗi năm ban ngự hương để chư
Tăng làm lễ cúng tôn sùng pháp hóa rộng lớn. Đến
năm Đại Lịch thứ sáu (771) đời
Đường, đổi tên chùa thành Nam Ngũ Đài
Sơn Thánh Thọ Tự. Thời Ngũ Đại, chiến
tranh liên miên, điện vũ thuộc các đài đều
bị thiêu hủy, chỉ c̣n tàn tăng, nhà nát ở lẫn
cùng gỗ đá.
Đến mùa Hạ năm Thái B́nh Hưng Quốc
thứ ba (978) đời Tống, trước sau sáu lần
hiện những điềm lành như mây lành có h́nh tṛn
năm màu. Vị Tăng chủ tŕ là Hoài Vĩ tâu tŕnh đầy
đủ lên quan Phủ Doăn, được quan tâu lên triều
đ́nh. Triều đ́nh bèn sắc tứ bảng vàng, đề
là Ngũ Đài Sơn Viên Quang Tự. Do vậy, tu sửa,
xây thêm điện báu, đắp vẽ tượng Bồ
Tát. Ráng khói hương cùng vàng, ngọc đua sáng; nhịp
mơ cùng tiếng gió thổi qua rặng tùng cùng diễn nhiệm
mầu. Nhà cửa trong các đài trên dưới đều
xây dựng mới, trụ tŕ tiếp nối hương
đèn chẳng dứt. Từ quang chiếu sáng, đá
ươm mây lành, mưa pháp thấm đẫm, nước
thành cam lộ.
Cách mấy trăm bước về phía
Ôi! Đại Thánh dùng sức bi nguyện, phước
phủ một phương, mà dân một phương ấy
cũng chẳng quên ân phước từ bi. Mỗi dịp
Thanh Minh và nhằm ngày kỵ cuối Hạ, chẳng ngại
xa xôi trăm dặm, trèo leo khó khăn, hiểm trở,
đều mang tấm ḷng thanh tịnh noi dấu chân lên
đến nơi, nào phải chỉ trăm ngàn vạn? D́u
già, dắt trẻ, đông nghịt đường nẻo,
kéo dài hơn cả tháng. Ai nấy đều dùng
hương hoa, âm nhạc, lọng lụa, tràng phan, vật
dụng cần dùng để cúng dường. Rồi đầu
mặt đảnh lễ, hết sức cung kính chiêm
ngưỡng h́nh tượng, đi nhiễu, tán thán, không
ai chẳng gột tội, được phước, trừ
chướng, đượm ân, nào uổng công bôn ba leo
trèo. Vị Tăng trong chùa là Pháp Nhẫn lo rằng năm
tháng đă lâu, dấu thiêng bị ch́m mất, nên đem các tấm
bia hư vỡ nhờ ghi chép lại, Phổ Minh cố từ
tạ nhưng chẳng được, thật xấu hổ
chẳng phải là tay văn tài. Nếu gặp được
bậc hiền sĩ sửa đổi cho đúng, chẳng
hợp lẽ hơn ư?
Thái Bạch Sơn Thích Phổ Minh kính cẩn soạn
(Đời nhà Nguyên, tháng Giêng năm Chí Nguyên thứ bảy
(1270) lập bia).
Bài tựa
cho bản Phổ Đà Sơn Chí in theo lối thạch bản
đă nêu rơ lư cảm ứng rất tường tận. Bài
kư về sự thị hiện ứng tích tại Nam Ngũ
Đài chính là dấu tích thật sự của chuyện
Đại Sĩ hiện thân tỳ-kheo cứu khổ,
đấy cũng chính là căn nguyên của lễ hội
dâng hương vào ngày Mười Chín tháng Sáu, cho nên tôi sao lục
ngơ hầu độc giả sẽ sanh ḷng chánh tín.
Thích Ấn
Quang kính đề.
Phụ Lục - Lễ Quán Thế
Âm Bồ Tát Sớ
(Đây chính là nguyên nhân soạn cuốn tụng văn
này cho nên sao lục thêm vào đây)
Từng nghe chư Phật
Như Lai lấy đại bi làm Thể, Bồ Đề
Tát Đỏa[39]
nương theo Bát Nhă quán tâm. Tịch diệt hiện tiền,
nên đắc thượng đồng hạ hợp; chân
không vô tướng, bèn có thể cứu khổ tầm
thanh. Bậc Thất Hạnh mới bắt đầu vào
cơi tục độ sanh, ngôi Lục Địa mới dần
dần tu tập đồng sự, ái ngữ. Nếu chẳng
thành Chánh Giác đă lâu, hiện thân Liệt Ứng[40]
để hành hạnh Từ, độ hết chúng sanh rồi
mới hiện rơ tướng thành Phật; ai có được
sức oai thần ṿi vọi như thế hay chăng?
Cung kính tán dương bậc đại từ
đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, trụ trong núi Bổ
Đát Lạc Ca (Potalaka), đắc pháp đại bi giải
thoát, sư thừa Tĩnh Trụ[41],
thị hiện thánh hiệu Chánh Pháp Minh. Bổ xứ Di
Đà, được thọ kư non cao công đức. Bảo
Tạng trụ thế, hồi hướng Bồ Đề[42].
Vườn rừng oai đức, thệ nguyện rộng
sâu. Từ Văn - Tư - Tu, đốn nhập Chánh Định,
đắc viên thông chân thường, mọi chuyện đều
chân thật. Huân tu Kim Cang tam-muội, thanh tịnh bảo
giác viên dung. Mười bốn vô úy, phước trọn
chúng sanh. Ba mươi hai ứng thân, độ khắp muôn
loài đều thành Đẳng Giác. Trọn đủ công
đức đại tự tại, diệu dung liền hiện.
Có đức chẳng thể nghĩ bàn, ban thí cực quả.
V́ thế, niệm danh Ngài một niệm, công đức bằng
với tŕ niệm sáu mươi hai ức danh hiệu các vị
Bồ Tát khác. Hai mươi bốn pháp Viên Thông của các
thánh giả đều phải lui nhường. Một nẻo
Niết Bàn, ba đời học Phật vẫn phải
kính nghe; thị hiện Phổ Môn, tám vạn người phát
Vô Đẳng Đẳng. Đă thế, phù tá Di Đà, tuy ngự
An Dưỡng, nhưng v́ nhiếp hóa chúng sanh, hiện trụ
Sa Bà.
Kim Thành, Hùng Nhĩ, đua nhau thuật chuyện
hóa thân. Ngũ Đài, Tứ Châu, cùng phô thánh tích. Thậm
chí, nơi vỏ ṣ, nghêu, hiện h́nh tượng mầu
nhiệm trang nghiêm; trứng gà, ba ba, thấy dấu tích kim
dung chói rạng. V́ thế biết thâm ân của từ phụ
dẫu đốt thân vẫn khó đáp đền. Ḷng
đau đáu thiết tha, quả thật phải gào than, ứa
lệ! Đệ tử Chỉ Tịnh bỏ cha trốn
đi, đói rách chốn quê người đă lâu ngày[43],
trôi giạt theo nghiệp, càng dùng dằng hết nửa
đời người. Tám năm phụng sự, gánh phân,
bỏ vàng. Ma bệnh trói buộc[44],
nhận bọt sóng quên mất biển cả, tự thẹn
mê cuồng[45],
phát tâm kính lễ dưới chân Đại Sĩ (lễ tượng Tam Thánh tại nhà);
tay lần chuỗi niệm Phật, mỗi ngày ba trăm
lượt. Đảnh lễ, tụng kinh (chỉ kinh Di Đà), mỗi tháng một
trăm lẻ tám quyển, đọc văn Kim Cang, chỉ
cầu làm Phật. Lễ kệ Phổ Hiền, phát nguyện
độ sanh; niệm chú Văng Sanh, đức Phật
thường trụ trên đảnh. Tŕ thần chú Đại
Bi, nước tắm cũng độ được
người[46];
đều cậy vào những nhân duyên đại thiện
như thế, để làm công cứ văng sanh. Vả nữa,
đời này độn căn, ma chướng khó tiêu, túc
thế oan nghiệt sâu nặng, chánh tín dễ lui sụt,
bèn toan gơ cửa Bạch Hoa[47],
kiền thành tham lễ tượng báu. Như Từ Mẫn[48]
sang Tây, mong được thấy thánh dung thật sự;
học Thiện Tài đi về phương
Nay con vẫn c̣n gởi thân nơi đất khách,
chưa được ở yên, xin Ngài ban cho nhà đẹp,
mong được thấu hiểu pháp môn. Lần chuỗi
Lư mẫu, biết trước lúc mất. Ăn khoai
Đ́nh Chương[53],
định ngày về Tây. Ấn sáp ép xuống kim nê, ấn
nát mà nét ấn đă hiện, niệm Phật, Phật bèn
tùy tâm hiện, duỗi cánh tay sen hồng, đón lên đài vàng,
phóng bạch hào quang, đẫn về gác báu, cùng chứng
An Lạc. Chúng sanh và Phật vốn chẳng sai biệt,
cách ngăn. Trở lại Sa Bà, mẹ con chẳng hề xa
cách. Tŕnh tâm nguyện ấy, cúi xin chứng minh. Ngày hôm nay
trên đá kim cang, quy y bậc đạo sư nơi biển
trí, đến năm nào trong tương lai, nơi đóa
hoa Ma Ni, con sẽ được theo hầu vị thiện
hữu thù thắng đội măo trời.
Tiết Xuân năm Nhâm Tuất, tức năm Dân
Quốc 11 (1922), Bành Trạch Hứa Chỉ Tịnh kính soạn
(chữ
Táp (卅) đọc âm giống chữ Tát (薩), nghĩa là ba mươi)
Phàm Lệ[54]
1. Sách gồm bốn quyển, ba quyển đầu
là tụng văn, ca tụng nhân duyên nơi Bổn và Tích của
Quán Âm Bồ Tát trong những kiếp xưa và sự tích cảm
ứng trong phương này. Quyển cuối gồm những
trích dẫn kinh văn nhằm làm chứng, trích dẫn
đại lược mười mấy bộ kinh ngơ hầu
độc giả biết duyên do đại sự của
đức Quán Âm, cũng như chú thích cặn kẽ những
điều thuộc về Bổn và Tích của Ngài trong tụng
văn ở phần trước (trong phần
văn ca tụng Bổn và Tích trong các quyển trước,
dưới mỗi đoạn văn có lời chú thích
đại lược nhưng từ ngữ và ư nghĩa
chưa thể trọn đủ, nên cần phải tham khảo
phần kinh văn dẫn chứng này th́ mới có thể
thông suốt nguyên ủy). Lại kèm thêm một quyển
ca tụng kinh Kim Cang v́ người tŕ tụng kinh này rất
đông nên tôi cũng soạn văn ca tụng để
mong người đọc sẽ được hưởng
lợi ích thật sự. Tuy không phải là cùng một bộ
sách với phần trước, nhưng do muốn
được lưu truyền rộng răi nên tôi kính cẩn
ghép vào cuối bộ sách này.
2. Sách Quán Âm Bổn Tích Tụng
gồm bốn quyển này chính là quyển đầu của
bộ Phổ Đà Sơn Chí. Do số
quyển [của Phổ Đà Sơn Chí] khá nhiều, nên
đem [sách Quán Âm Bổn Tích Tụng này] ấn hành riêng nhằm
mong được lưu truyền rộng răi.
3. Cách phân chia chương mục
trong sách này hết sức giản lược, chẳng câu
nệ theo lệ thường, chỉ nhằm tŕnh bày đại
cương. Hơn nữa, trong phần tụng văn, gặp
chỗ nào cần thiết cũng sẽ tùy nghi diễn giải,
hơi khác với sườn bài. Các chương như các
tướng thị hiện tại Phổ Đà, sẽ
đặc biệt đánh số một, hai v.v... cho tiện
tra cứu.
4. Phàm trích dẫn kinh, luận
và các sách không thuộc nhà Phật đều trích dẫn đại
lược nguyên văn. Danh xưng của nguyên tác
[được trích dẫn] cũng tuân theo cách gọi tắt
(như những sách được
nêu trong phần chú thích, có những danh xưng như Khoáng
Viên, Quái Viên, Hữu Đài Tiên Quán[55]
v.v... đều là tên của những bộ bút kư)
5. Nếu phần chú thích của
tụng văn khá chi ly, chẳng dễ đối chiếu,
th́ đối với mỗi câu tụng văn liên quan đều
ghi những con số 1, 2, 3 v.v... trước mỗi câu
để độc giả có thể dựa theo con số
trước mỗi câu để kiếm phần chú thích
tương ứng sẽ có thể thấy được
ngay. Nếu phần chú thích của tụng văn không quá rắc
rối, dễ đối chiếu, hoặc là lời chú
thích cho cả một đoạn kinh văn, hoặc chú
thích vài ư nghĩa liên quan đến tụng văn, không thể
cắt rời từng phần được th́ không
đánh số.
6. Cách chấm câu: Đối với
mỗi đoạn tụng văn sẽ chia thành hai câu
để người mới học đọc tụng
thuận tiện. C̣n những phần chú thích cho lời tựa
chẳng hạn th́ không tuân theo lệ ấy, cứ mỗi
một đoạn lớn là một câu để lời
văn khỏi bị cắt vụn, tản mạn.
7. Sau khi bản thảo hoàn
thành, giao cho thợ in, ấn loát lưu truyền, có những
chỗ nào chưa thỏa đáng th́ mai sau rảnh rang sẽ
sửa đổi lần nữa cho được hoàn thiện.
Quán Thế Âm Bồ
Tát Bổn Tích
Cảm Ứng Tụng
Quyển 1, phần 1
Bành Trạch Bồ Tát Giới
đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn
Tụng văn chia thành ba phần:
1. Tŕnh bày ư nghĩa.
2. Chánh thức ca tụng.
3. Kết luận, khuyên lơn,
hồi hướng.
I. Tŕnh bày ư nghĩa
Bị
chú của người dịch: Để
độc giả dễ phân biệt phần tụng
văn và phần lược chú của cư sĩ Hứa
Chỉ Tịnh, chúng tôi áp dụng cách thức như sau:
- Phần tụng
văn in chữ đậm và nghiêng, những con số
đánh dấu mỗi đoạn được tŕnh bày
dưới dạng “1.”, “2.” v.v...
- Phần chú thích
của ông Hứa Chỉ Tịnh sẽ được in
b́nh thường, con số tương ứng với mỗi
câu trong phần tụng văn sẽ được bỏ
trong ngoặc.
Nêu rơ duyên khởi soạn tụng
văn. Đây chính là phần mở đầu của toàn bộ
thiên sách, được chia thành bốn đoạn:
* Ca tụng Đại Sĩ bi
trí song tu.
* Ca tụng Đại Sĩ là
bậc cổ Phật ứng thế nên tiếng tăm chấn
động mười phương.
* Ca tụng Ngài sốt sắng
đại bi cứu khổ nên có duyên sâu nặng với cơi
Sa Bà.
* Dựa theo kinh văn để
đính chánh những thuyết sai ngoa nhằm phát khởi
chánh tín, nêu duyên khởi soạn tụng văn.
1.
Thường
nghe chư Phật không thân, nhưng Bát Nhă quả thật là
mẹ chư Phật; Bồ Đề chẳng phải là
cây, nhưng đại bi vốn tự nẩy mầm.
2. V́ thế, Pháp Thân, giải thoát,
thiếu trí huệ chẳng thể viên dung. Bổn trí, vạn
hạnh, chỉ từ bi mới ḥng ḥa hợp.
3.
V́ vậy, Tự Tha bất nhị,
sáng suốt đến cùng cực th́ chính là Như Lai. Nhân
quả đan xen, hạnh sâu xa quả thật chỉ có Bồ
Tát. (Lư Trưởng
Giả chú giải kinh Hoa Nghiêm, cho rằng Quán Âm biểu thị
Bi, Tự Tại biểu thị Trí, mà hai chữ
Bi và Trí đă bao gồm hết thảy các môn Sự và Lư
trong Phật pháp. V́ thế, xếp [hai điều này] vào
đầu[ bài ca tụng])
(1) Trong phẩm
Quang Minh Giác của kinh Hoa Nghiêm có đoạn: “Ngă tánh vị tằng hữu, Ngă
Sở diệc không tịch, vân hà chư Như Lai, nhi đắc
hữu kỳ thân?” (Ngă tánh chưa hề có, Ngă Sở
cũng rỗng lặng, cớ sao các Như Lai, lại có
được thân ấy?). Ngài Di Lặc lại bảo Thiện
Tài: “Bồ Tát dĩ Bát Nhă Ba La
Mật vi mẫu” (Bồ Tát lấy Bát Nhă Ba La Mật làm
mẹ). Lục Tổ có bài kệ như sau: “Bồ Đề bổn vô thụ”
(Bồ Đề vốn chẳng phải là cây). Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm có câu: “Nhân
ư đại bi, sanh Bồ Đề tâm” (Do đại
bi mà sanh tâm Bồ Đề).
(2) Pháp Thân, Giải
Thoát, Bát Nhă như ba điểm của chữ ,
có nghĩa là ba đức viên dung. (
là
chữ Phạn, đọc là Y, biểu thị tam đức
viên dung). Kinh Hoa Nghiêm lấy Văn Thù
tượng trưng cho Căn Bản Trí, lấy Phổ Hiền
tượng trưng cho Sai Biệt Hạnh, Quán Âm biểu
thị tâm từ bi, Ngài ở vào địa vị Thất
Hồi Hướng. Địa vị Thập Hướng
là do từ Thập Trụ và Thập Hạnh [mà có],
nhưng đă dung hội nguyện lực từ bi, hưng
khởi trọn khắp những sự lợi ích to lớn.
(3) Tự giác, giác tha, giác măn th́ gọi là Phật.
Phẩm Nhập Pháp Giới [của kinh Hoa Nghiêm] có câu: “Ly tự tha kiến, tri tùng duyên
khởi cố” (Ĺa cái thấy Tự và Tha, biết là do
duyên khởi mà có). Sách Hợp Luận viết: “Vô biên cơi nước, tự tha
chẳng ngăn cách chừng bằng đầu lông”. Kinh
Lăng Nghiêm dạy: “Minh cực
tức Như Lai” (Sáng suốt đến cùng cực
chính là Như Lai). Lại nữa, [kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn
Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni chép]: “Trong đại hội, Quán Thế Âm Như Lai thọ
kư cho ta thánh hiệu Quán Thế Âm”, chỉ rơ nhân quả
thành tựu lẫn nhau, Thể và Dụng soi tỏ tột
cùng lẫn nhau. Tâm Kinh có câu: “Quán
Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa”.
1. Dẫu
là bậc đă đạt địa vị Hiện Tiền,
c̣n
phải tu hạnh Tứ Nhiếp dần dần. Chứng
địa vị Bất Động, vẫn phải đợi
ba lần gia hộ.
2. Há chẳng
phải là xuất Triền th́ trí chướng dễ sanh,
nguyện vào cơi tục bèn gặp phải nạn vua đó ư?
3. Chỉ
có bậc Đại Sĩ tầm thanh cứu khổ, mang
hiệu Quán Âm, đoạn Hoặc, chứng Chân, được
danh Tự Tại.
4. Danh là Niêm Sách, thật là lời “hễ
được gặp sẽ chẳng luống uổng”. Hiệu
nhằm ứng tiếng, mang ư nghĩa “có cảm bèn thông”.
5. Vốn thành Phật, hiệu Chánh Pháp Minh, nguyên
là thầy của đức Thích Ca. Trọn thành Thiên Quang
Nhăn độ sanh, lại phù tá A Di Đà Phật (Do đây, nêu
ra hai danh hiệu Bi và Trí, thừa dịp, nêu ra các danh hiệu
khác ngơ hầu thế tục biết được Bổn
địa xa xưa của Ngài).
6. Nguyện sâu vô lượng, cùng Tỳ Lô đáng
gọi trượng phu. Đức nêu mảy lông, dẫu Phổ
Hiền chẳng rành ngằn mé!
7. V́ thế, sát-na xưng niệm, giống
xưng danh trăm ngàn ức triệu Như Lai. Ngẫu
nhiên thọ tŕ, hơn niệm hiệu sáu mươi hai hằng
sa Bồ Tát.
8. Tin tưởng danh hiệu tôn quư, khó thể
được nghe. Phạm, Thích, trời, người
đều nên sanh ḷng kính ngưỡng (Đây là theo
kinh Đại Bi, từ hàng Bồ Tát cho đến trời
người đều phải nên sanh ḷng cung kính [Quán Thế
Âm Bồ Tát], dẫn khởi duyên sâu nặng với cơi Sa
Bà).
(1) Theo Hoa Nghiêm, Lục Địa có tên là Hiện
Tiền Địa. Theo Hợp Luận: “Trước khi chứng Lục Địa, đối
với Tứ Nhiếp chưa được tự tại”.
Bát Địa có tên là Bất Động Địa, kinh
văn có nói đến ba lần gia hộ, bảy lần
khuyên lơn. Ba lần gia hộ là:
- Chư Phật hiện thân.
- Ban cho trí huệ.
- Tán thán, xoa đầu.
Kinh c̣n chép: “Nhược
chư Phật bất dữ thử chư Bồ Tát khởi
trí môn giả, bỉ tức nhập cứu cánh Niết Bàn,
khí xả nhất thiết lợi chúng sanh nghiệp” (Nếu
chư Phật chẳng dấy khởi trí môn cho các vị Bồ
Tát ấy, họ liền nhập rốt ráo Niết Bàn,
buông bỏ hết thảy sự nghiệp lợi lạc chúng
sanh).
(2) Trí Chướng là nói về Tịnh Chướng.
Lục Địa Bồ Tát có hai thứ nhiễm nghiệp
và tịnh nghiệp chưa mất, v́ thế c̣n bị phiền
năo trói buộc chưa được tự tại. Phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện nói tới mười nguyện
vương. Phẩm Thập Định có chép: “Chư Bồ Tát ư Phổ Hiền
sở, tâm sanh tôn trọng, khát ngưỡng dục kiến,
tất ư chúng hội, châu biến quán sát, nhi cánh bất
đổ, diệc bất kiến kỳ sở tọa chi
ṭa” (Chư Bồ Tát sanh tâm tôn trọng Phổ Hiền Bồ
Tát, khát ngưỡng muốn được thấy, nên
đều quán sát trọn khắp chúng hội nhưng trọn
chẳng thấy Ngài, cũng chẳng thấy ṭa của
Ngài đang ngồi).
(3) Sách Hoa Nghiêm Hợp Luận viết: “Quan Thế Âm, tiếng Phạn là Quang Thế
Âm, dùng ánh sáng từ bi chiếu thế
gian, nghe khổ liền cứu. Quán Tự Tại có
nghĩa là quán chiếu rơ ràng, thành tựu xuất thế
Bát Nhă”.
(4) Đại Bi Chú Kinh: “Quán Thế Âm c̣n có tên là Niêm Sách”. Niêm Sách (拈索) chính là sợi
dây quyến sách (羂索: dây trói), thợ
săn dùng dây này để bắt thú, thú không thoát được.
[Danh hiệu Niêm Sách] nhằm tỷ dụ nghe danh hiệu và
thấy thân tướng của Đại Sĩ th́ tâm niệm
chẳng luống uổng. Văng Sanh Luận có câu: “Quán Phật bổn nguyện lực,
ngộ vô không quá giả” (Quán sức bổn nguyện của
Phật th́ sẽ là gặp gỡ không luống uổng).
Thiên Địa Bổn Khởi Kinh: “Ứng Thanh Bồ Tát chính là Quán Thế Âm”. Phần
Hệ Từ Truyện trong Châu Dịch có câu: “Cảm chi toại thông thiên hạ
chi cố” (Hễ cảm liền thông khắp nhân gian).
(5) Đại Bi Chú Kinh: “Thử Bồ Tát bất khả tư nghị oai thần
chi lực, quá khứ vô lượng kiếp trung, dĩ tác
Phật cánh, hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai” (Sức oai thần
của vị Bồ Tát này chẳng thể nghĩ bàn, trong
vô lượng kiếp đời quá khứ, Ngài đă thành
Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai). Lại nữa,
Quán Âm Tam Muội Kinh chép: “Thị
Quán Thế Âm, tại ngă tiền thành Phật, danh Chánh Pháp
Minh Như Lai, ngô vi đệ tử dă” (Vị Quán Thế
Âm Bồ Tát này đă thành Phật trước ta, hiệu là
Chánh Pháp Minh Như Lai, ta là đệ tử). Đại Bi
Chú Kinh: “Quán Thế Âm, diệc
danh Thiên Quang Nhăn” (Quán Thế Âm cũng có tên là Thiên Quang
Nhăn).
(6) Đại Giáo Vương Kinh: “Ngũ trượng phu đồng Mạn Thù nguyện,
tức kim ngũ Phật, nhất Tỳ Lô Giá Na Phật, nhị
A Súc Phật, tam Bảo Sanh Phật, tứ Quán Tự Tại
Vương Phật, ngũ Bất Không Thành Tựu Phật”
(Năm vị trượng phu có cùng nguyện với ngài
Văn Thù, nay chính là năm vị Phật, một là Tỳ
Lô Giá Na Phật, hai là A Súc Phật, ba là Bảo Sanh Phật,
bốn là Quán Tự Tại Vương Phật, năm là Bất
Không Thành Tựu Phật). Trong kinh Trang Nghiêm Bảo
Vương, đức Phật nói: “ Quán Tự Tại Bồ Tát, lịch kiếp cứu
khổ, cập trụ chủng chủng tam-muội, thân
chư mao khổng hy hữu công đức, Phổ Hiền
Bồ Tát hành thập nhị niên, bất đắc biên tế”
(Quán Tự Tại Bồ Tát trải nhiều kiếp cứu
khổ và trụ trong các thứ tam-muội, các lỗ chân
lông trên thân đều có công đức hy hữu, Phổ Hiền
Bồ Tát đi [trong một lỗ chân lông] suốt mười
hai năm mà chẳng biết được ngằn mé).
(7) Thập Nhất Diện
Chú Kinh: “Nhược hữu
xưng niệm bách thiên câu-chi na-dữu-đa chư Phật
danh hiệu, phục hữu tạm thời ư ngă danh hiệu,
chí tâm xưng niệm. Bỉ nhị công đức, b́nh
đẳng b́nh đẳng” (Nếu có kẻ nào xưng
niệm danh hiệu của trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa
chư Phật, lại có kẻ tạm thời chí tâm
xưng niệm danh hiệu ta th́ hai công đức ấy
đều b́nh đẳng). Pháp Hoa Kinh: “Nhược hữu nhân thọ tŕ lục thập nhị
ức hằng hà sa Bồ Tát danh tự, phục tận h́nh
cúng dường; nhược phục hữu nhân, thọ
tŕ Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, năi chí nhất thời
lễ bái cúng dường, thị nhị nhân phước,
chánh đẳng vô dị” (Nếu có người thọ
tŕ danh hiệu của sáu mươi hai ức hằng hà sa
Bồ Tát và lại suốt đời cúng dường; rồi
lại có người thọ tŕ danh hiệu của Quán Thế
Âm Bồ Tát, cho đến lễ bái, cúng dường trong một
lúc th́ phước của hai người ấy giống hệt
như nhau không sai khác).
(8) Thập Nhất Diện
Chú Kinh: “Ngă do thử chú, danh hiệu
tôn quư, nan khả đắc văn” (Do chú này mà danh hiệu
của ta tôn quư, khó thể được nghe). Đại
Bi Chú Kinh: “Chánh Pháp Minh Như
Lai đại bi nguyện lực hiện tác Bồ Tát. Nhữ
đẳng chư Bồ Tát, Phạm, Thích, long thần, giai
ưng cung kính, nhất thiết nhân thiên, thường tu
cúng dường” (Chánh Pháp Minh Như Lai do đại bi
nguyện lực thị hiện làm bậc Bồ Tát. Hàng Bồ
Tát các ông, Phạm Vương, Đế Thích, long thần
đều nên cung kính. Hết thảy người trời hăy
thường nên cúng dường).
1. Chỉ v́: Hoa Tạng vô tận,
riêng Sa Bà khổ nhóm cực nhiều. Cực Lạc dễ
sanh, ḷng Bồ Tát từ bi xót thương sâu nhất.
2. V́ thế, hiện thân trong
các cơi nhiều tợ vi trần, nhưng cơi này tôn Ngài là Thí
Vô Úy. [Tuy ở địa vị] Bổ Xứ chốn Liên
Bang, vẫn tới cơi này nhiếp người niệm Phật.
3. Làm tṛng mắt cho thế
gian, thái dương thêm rạng rỡ. Trên biển lắm
thánh hiền, ngự trên đóa bạch hoa.
4. Bởi lẽ, chúng sanh nghiệp
nặng, t́nh ân cần như thương con một.
(1) Kinh Hoa Nghiêm giảng
rơ Hoa Tạng thế giới chủng, trên dưới gồm
tất cả hai mươi tầng. Trong tầng thấp
nhất có một cơi Phật sát vi trần số thế giới
vây quanh. Cứ lên mỗi một tầng trên, lại
tăng thêm một sát trần[56] thế giới. Đến tầng cao
nhất có hai mươi Phật sát vi trần số thế
giới vây quanh. Thế giới Sa Bà nằm ở trung tâm tầng
mười ba. Sa Bà (Sahā), cơi này dịch là Kham Nhẫn,
có nghĩa là chúng sanh có những phiền năo như tham, sân,
si v.v... có thể chịu đựng khổ quả sanh tử.
Lại c̣n dịch là Tạp Hội, có nghĩa là tam ác,
năm đường, các nẻo xen tạp tụ hội.
(2) Pháp Hoa Kinh: “Thập phương chư quốc
độ, vô sát bất hiện thân” (Các cơi nước
mười phương, không cơi nào chẳng hiện thân)
và: “Quán Thế Âm Bồ Tát
ư bố úy cấp nạn chi trung, năng thí vô úy. Thị
cố, thử Sa Bà thế giới giai hiệu chi vi Thí Vô Úy
giả” (Trong khi sợ hăi, tai nạn cấp bách, Quán Thế
Âm Bồ Tát có thể ban cho sự không sợ hăi. V́ thế,
thế giới Sa Bà đều gọi Ngài là bậc Thí Vô Úy).
Vô Lượng Thọ
Kinh: “Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí, hiện cư thử giới, tác đại
nhiêu ích, nhiếp niệm Phật nhân, sanh bỉ Phật quốc”
(Quán Thế Âm, Đại Thế Chí hiện đang trụ
trong thế giới này tạo sự lợi ích lớn, nhiếp
thọ người niệm Phật sanh về cơi Phật
kia).
(3) Thiên Địa Bổn
Khởi Kinh: “Kiếp sơ thời,
thiên hạ vô quang, Di Đà Phật kích kiền chùy tập
chúng, vị: ‘Quá thử bát thập hằng hà sa độ,
hữu Nhẫn độ, thất vu quang minh, thùy kiến
công đức?’ Ứng Thanh Bồ Tát, dữ Cát Tường
Bồ Tát, cộng nghị vi thế tác nhăn mục. Ứng
Thanh tác nhật, Cát Tường tác nguyệt” (Thuở kiếp
sơ, thế gian không có ánh sáng. Phật Di Đà gơ kiền
chùy[57]
nhóm chúng, bảo: ‘Qua khỏi đây tám mươi hằng
hà sa cơi, có cơi Kham Nhẫn, bị mất ánh sáng, ai sẽ lập
công đức?’ Ứng Thanh Bồ Tát và Cát Tường Bồ
Tát cùng nhau bàn bạc làm con mắt cho cơi đời. Ứng
Thanh làm mặt trời, Cát Tường làm mặt trăng).
Bài kệ tụng của
cư sĩ Bệ Sắt Chi La [giới thiệu trụ xứ
của Quán Âm Bồ Tát] trong [phẩm Nhập Pháp Giới của]
kinh Hoa Nghiêm có câu: “Hải
thượng hữu sơn đa thánh hiền” (Trên biển
có núi, trong ấy có nhiều thánh hiền). Bổ Đát Lạc
Ca (Potalaka), cơi này dịch là Tiểu Bạch Hoa v́ trong núi có
nhiều loại ấy. C̣n dịch là Hải Đảo v́
nó ở giữa biển cả, chính là chỗ ứng hóa của
Quán Thế Âm Bồ Tát, tức là Phổ Đà Sơn hiện
nay.
(4) Chiêm Sát Nghiệp
Báo Kinh: “Tuy phục phổ du nhất
thiết sát độ, thường khởi công nghiệp,
nhi ư ngũ trược ác thế, hóa ích thiên đa”
(Tuy vẫn dạo khắp hết thảy cơi nước,
thường tạo sự nghiệp công đức,
nhưng đối với đời ác ngũ trược
lại riêng chú trọng giáo hóa, tạo nhiều lợi ích).
Phẩm Thập Hồi Hướng kinh Hoa Nghiêm có câu: “Bồ Tát đẳng quán nhất
thiết chúng sanh, do như nhất tử” (Hàng Bồ Tát
b́nh đẳng xem hết thảy chúng sanh ví như con một).
1. Thường xả thân và vật
quư báu, vua, quan cung kính, phụng sự, hương hoa cúi lạy,
phụ nữ, trẻ thơ quy y.
2. Được tôn thờ tột
bậc, năm trăm thân có dư, ghi chép sự cảm ứng,
ngàn vạn lời chẳng trọn.
3. Nhưng văn nhân biên chép,
thiện thư đă nhiều, dă sử lưu truyền,
ngoa ngôn cũng lắm.
4. Hoặc nói là công chúa xả
thân, hoặc bảo là thần tiên nuốt gió.
5. Hoặc nghi là bầy tôi
Đế Thích, hoặc lầm tưởng h́nh tượng
Diện Nhiên. Tuy truyền thuật chẳng thiếu ư tôn
sùng, nhưng danh vị quả thật đă bị vu báng.
Bèn dựa theo Khế Kinh, tŕnh bày Bổn Tích đại
lược, ngơ hầu hàng thiện tín cùng được kết
pháp duyên (Đây là v́
Ngài có duyên sâu nặng nên đến nỗi có lắm điều
ngoa truyền, nên tôi đặc biệt dựa vào Khế
Kinh để soạn tụng văn, ngơ hầu người
đọc sanh ḷng chánh tín).
(1) Lăng Nghiêm Kinh: “Sở du thế giới, giai linh
chúng sanh xả thân trân bảo, cầu ngă ai mẫn” (Trong
những thế giới ta đi đến đều khiến
cho chúng sanh xả thân và vật quư báu, cầu ta xót
thương).
(2) Văn bia Phó Đại
Sĩ có câu: “Quán Âm có năm
trăm thân trong cơi Diêm Phù Đề, thị hiện giống
như phàm phu để giáo hóa chúng sanh”, xem trong kinh
Đ́nh Thủy.
(3) Tục truyền
Đại Sĩ là con gái thứ ba của Diệu Trang
Vương, tên là Diệu Thiện, xả tay và mắt
để chữa bệnh ngặt cho cha, bèn hiện h́nh
tượng ngàn mắt ngàn tay. Sách Biên Niên Thông Luận bảo
đó lời của thiên thần nói với Nam Sơn Đạo
Tuyên luật sư. Lại nữa, sách Nhữ Châu Chí chép con
gái thứ ba của Sở Trang Vương tên là Diệu Thiện.
Vua bị bệnh ngặt, thầy lang nói: “Ắt phải có
được tay và mắt của người thân th́ mới
lành bệnh được!” Công chúa bèn cắt tay và mắt
cứu cha lành bệnh. Công chúa cũng tọa hóa (ngồi
qua đời). Thầy lang nói: “Đấy là bậc Bồ
Tát đại bi”, nói xong, không thấy đâu nữa. Trang
Vương liền phong tặng công chúa là Đại Bi Bồ
Tát, dựng chùa ở Hương Sơn, đắp tượng
Thiên Thủ Thiên Nhăn. Hoặc nói: Trang Vương hạ lệnh
đắp tượng “toàn thủ
toàn nhăn” (có đủ mắt và tay), bầy tôi tưởng
lầm là “thiên thủ thiên nhăn”.
Xét ra, lời thiên thần chắc là nói về chuyện kiếp
trước, nhưng Cảm Thông Lục không chép. C̣n như
thuyết của Nhữ Châu Chí là ngoa truyền, sai lầm,
không c̣n nghi ngờ chi nữa!
Sách Kỷ Sử Thông
Giám chép thời Châu Tuyên Vương, Trường Tang Công
nói: “Lăo Quân bảo: - Ta đến
(4) Sách Nam Hải Nhất
Chước chép trong đàn cầu mưa ở phủ Bảo
Ninh, tỉnh Tứ Xuyên, thần tiên hiển hóa giáng cơ
bút có những câu như “Nam Hải
Quán Âm quỳ mọp ở kim khuyết[61] van nài Ngọc Đế”. Đúng là coi Bồ Tát như bầy tôi
của Ngọc Đế, chẳng biết Ngọc Đế
như thế tục tôn xưng chính là Đế Thích trong
kinh Phật, tức Đao Lợi thiên vương. Trong Dục
Giới, ở trên [tầng trời Đao Lợi] c̣n bốn
tầng trời nữa, Sắc Giới có mười tám tầng
trời, Vô Sắc Giới có bốn tầng trời, đều
thuộc về [những cơi c̣n] luân hồi trong tam giới.
Xét đến địa vị của Bồ Tát th́ toán, số,
thí dụ đều chẳng thể tính xuể, làm sao Ngọc
Đế dám nhận sự lễ kính của Quán Âm là bậc
thành Phật đạo đă lâu, thị hiện ở
địa vị Bồ Tát? Cần biết rằng: Bài
văn ấy chính là do linh quỷ giả mạo.
Thế tục làm
đàn chay, thường tạo h́nh tượng Diện
Nhiên Đại Sĩ, điều này vốn phát xuất từ
Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni Kinh,
nên chẳng phải là sai ngoa! Chỉ có điều hễ tạo
tượng Ngài th́ ắt là tai bên phải đeo ṿng, chân phải
c̣n mặc quần của nữ nhân, họ bảo là Đại
Sĩ biến hóa mấy chục lần, nhưng không thể
biến đổi được điều ấy[62],
quê kệch đáng nực cười!
II. Phần
tụng văn chánh thức
Chia làm
hai đoạn:
1. Ca tụng
Bổn Tích trong kiếp xưa nhằm nêu rơ đạo lớn,
đức rộng.
2. Ca tụng
sự cảm ứng trong phương này, nhằm chỉ
rơ bi sâu, nguyện nặng.
2.1. Ca tụng
Bổn Tích trong những kiếp xưa nhằm nêu rơ đạo
lớn, đức rộng
Trong phần này lại
chia làm hai đoạn lớn:
1. Tu chứng
2. Ứng hóa.
2.1.1 Tu Chứng
Trong phần Tu Chứng
lại chia thành hai đoạn:
1. Phát tâm: Ca tụng
nhân duyên xưa kia được thuật trong kinh [Quán Thế
Âm Bồ Tát] Thọ Kư.
2. Chứng thánh: Ca tụng
chương [Nhĩ Căn] Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm.
Trong phần Ứng
Hóa lại chia thành hai đoạn:
1. Sự ứng hóa
trước thời Phật Thích Ca: Ca tụng sự phát
tâm, thọ kư được nói trong kinh Bi Hoa.
2. Sự ứng hóa
phù tá Phật Thích Ca. Trong phần này chia làm sáu tiểu
đoạn:
a. Dạy về Bi: Ca
tụng chương trần thuật lần tham học thứ
hai mươi bảy của Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm.
b. Dạy về Trí:
Ca tụng Tâm Kinh.
c. Thần chú: Ca tụng
Thập Nhất Diện Chú Kinh, Tiêu Phục Độc Hại
Chú Kinh, Bất Không Quyến Sách Kinh, Đại Bi Chú Kinh và
các bộ kinh nói về thần chú khác.
d. Thọ kư: Ca tụng
Thọ Kư Kinh.
e. Quán tưởng: Ca
tụng phép quán về hoa ṭa và quán thân tướng của
Đại Sĩ trong Quán Kinh.
f. Lễ kính, tŕ danh:
Ca tụng phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, mười
bốn món Vô Úy được nói trong chương [Nhĩ
Căn] Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm và đoạn văn
nói về sự tiếp dẫn trong Quán Kinh.
1. Phàm người học
đạo, muốn cầu thành Phật, trước hết
phải chú trọng phát tâm.
2. Chẳng tu nhân rộng lớn,
há đắc quả chân thường?
3. Bồ Đề vừa phát,
chẳng có ngằn mé, phước đức vô lượng.
4. V́ thế, Hoa Tạng đại
chúng nhiều phen than khó thể phát tâm, lại nói văng sanh Tịnh
Độ dễ dàng.
5. Muốn t́m biết sự
phát tâm của Đại Sĩ, phải xét trong kiếp
xưa từ thời Không Vương Phật (Từ đây trở đi là phần
nhân duyên xưa kia được nói trong kinh Thọ Kư, nói về
chuyện Đại Sĩ mới phát Bồ Đề tâm,
gồm có hai đoạn).
(1) Lục
Tổ Đàn Kinh: “Ngũ Tổ
hỏi: Ngươi cầu vật ǵ? Thưa: Chỉ cầu
làm Phật”. Phẩm Phát Tâm Công Đức của kinh Hoa
Nghiêm chép: “Dục tri nhất
thiết chư Phật pháp, nghi ưng tốc phát Bồ
Đề tâm. Thử tâm công đức trung tối thắng,
tất đắc Như Lai vô ngại trí” (Muốn biết
pháp của hết thảy chư Phật, hăy nên mau phát Bồ
Đề tâm. Tâm này có công đức thù thắng nhất
trong các công đức, ắt sẽ đắc Vô Ngại
Trí của Như Lai).
(2) Phẩm Phát Tâm Công Đức [của
kinh Hoa Nghiêm] chép: “Phát tâm vô ngại,
vô tế hạn, dục cầu kỳ lượng bất
khả đắc” (Phát tâm vô ngại, không ngằn mé; muốn
biết đến hạn lượng của nó sẽ
không thể được). Lại chép: “Dĩ chư tam thế nhân trung tôn, giai tùng phát tâm nhi
đắc sanh” (Những bậc Nhân Trung Tôn[63]
trong ba đời, đều do phát tâm mà thành).
(3) Trong phẩm Phát Tâm Công Đức,
Đế Thích hỏi công đức của sự phát tâm
là như thế nào, Pháp Huệ Bồ Tát nói: “
(4) Theo phẩm Nhập Pháp Giới của
kinh Hoa Nghiêm, Văn Thù bảo Thiện Tài: “Nhược hữu chúng sanh, năng phát Bồ Đề
tâm, thị sự thậm nan” (Nếu có chúng sanh có thể
phát tâm Bồ Đề, chuyện ấy rất khó); ngài
Đức Vân lại nói: “Nhữ
dĩ năng phát Bồ Đề tâm, phục năng thỉnh
vấn chư Bồ Tát hạnh, như thị chi sự,
nan trung chi nan” (Ngươi đă có thể phát tâm Bồ
Đề, lại có thể thưa hỏi các hạnh Bồ
Tát, chuyện như vậy là chuyện khó nhất trong những
chuyện khó). Trong kinh Vô Lượng Thọ, ba bậc văng
sanh đều lấy phát Bồ Đề tâm làm chánh nhân
nên nói: “Dị văng nhi vô nhân”
(Dễ đi nhưng không có ai theo).
(5) Tố (溯) là đi ngược ḍng. “Không Vương kiếp” là lời
nói tột bậc về sự lâu xa, bởi lẽ, sự
phát tâm của Đại Sĩ, nếu chẳng phải là
Phật sẽ chẳng thể biết được!
Có một cơi tên là Đức Tụ,
Phật hiệu là Kim Quang, có vị vua sáng suốt tên là Oai
Đức, nghe pháp ấn của Như Lai, đang ở
trong vườn hoa, nhập tam-muội, thấy trong hoa sen
hóa sanh hai đứa bé trai, chứng “hết thảy pháp là
không”, cắt đứt ba đời, danh không chân thật,
nói năng là giả bày, ngẫu nhiên xưng danh là Bảo Ư,
cùng nhau lễ Kim Sư Phật làm thầy, hỏi
hương hoa cúng dường th́ phước đức của
ai là nhiều, biết sự trang nghiêm trong trần sát, Bồ
Đề tối thắng, hiện sư tử hống
trong chúng trời rồng, phát Tứ Hoằng Thệ, than thở
Bổn Tế khó biết. V́ mỗi một chúng sanh, trải
bao kiếp tu hành, đoạn trừ Ngũ Kết, đoạn
trừ cái thân sanh trong nhà lửa, vượt trỗi Nhị
Thừa. Chẳng trụ trong thảo am, nguyện trong vạn
ức kiếp tế độ chúng sanh, nhiếp thủ hạnh
thanh tịnh, trang nghiêm cơi Phật. Đấy chính là lúc
Đại Sĩ sơ phát Bồ Đề tâm, dũng mănh
nhất trong các chúng sanh.
Trong Quán
Âm Thế Chí Thọ Kư Kinh, đức Phật nói: - Trong chẳng
thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp xa xưa, có thế giới tên là Vô Lượng Đức
Tụ An Lạc Thị Hiện, Phật hiệu là Kim Quang
Sư Tử Du Hư. Có vua tên Oai Đức, nghe Phật nói vô
lượng pháp ấn, ở trong vườn hoa, nhập
tam-muội. Hai bên có hai đóa sen từ dưới đất
trồi lên, có hai đồng tử hóa sanh trong ấy. Vua hỏi
tên họ, bé trai bên phải nói kệ rằng:
Hết thảy các
pháp không,
Cớ sao hỏi danh
tự?
Pháp quá khứ đă
diệt,
Pháp tương lai
chưa sanh,
Pháp hiện tại
chẳng trụ,
Nhân giả hỏi
tên ai?
Bé trai bên trái nói kệ rằng:
Tên nào cũng trống
rỗng,
Tên nào cũng chẳng
được!
Muốn cầu tên
chân thật,
Chưa bao giờ thấy
nghe!
Nói danh tự, ngôn ngữ,
Đều là giả
đặt bày.
Tôi tên là Bảo Ư,
Nó tên là Bảo
Thượng.
Nói kệ xong, cùng vua đến chỗ Phật,
đầu mặt lễ dưới chân Phật, đồng
thanh hỏi Phật:
- Cúng dường đấng Vô Thượng
Lưỡng Túc Tôn như thế nào? Hoa, hương, các thứ
âm nhạc, y phục, thuốc men, ngọa cụ[64], cúng
dường những thứ như thế th́ làm sao sẽ
là tối thắng?
Phật dùng kệ đáp lời:
Ví đầy Hằng
sa cơi,
Trân bảo, vật
trang nghiêm,
Dâng hiến lên
Như Lai,
Chẳng bằng
đem ḷng Từ,
Hồi hướng
về Bồ Đề,
Phước ấy
là tối thắng.
Bé trai lại nói kệ:
Chư thiên, long, quỷ
thần,
Nghe ta sư tử hống,
Nay đối
trước Như Lai,
Phát hoằng thệ
Bồ Đề,
Sanh tử vô lượng
kiếp,
Bổn Tế[65] khó thể biết,
V́ mỗi một
chúng sanh,
Trải kiếp số
hành đạo,
Ta từ nay trở
đi,
Nếu khởi tâm
tham dục,
Sân, si, keo, ganh... thảy,
Là lừa dối Thế
Tôn,
Chẳng khởi tâm
Thanh Văn,
Cũng chẳng cầu
Duyên Giác,
Sẽ trong vạn ức
kiếp,
Đại bi độ
chúng sanh,
Như cơi Phật
ngày nay,
Thanh tịnh diệu
trang nghiêm,
Khiến khi ta đắc
đạo,
Vượt trỗi
ức trăm ngàn.
Hai đứa bé trai ấy chính là Quán Âm và Thế
Chí, đối trước đức Phật ấy phát tâm
Bồ Đề lần đầu.
Lại nói:
- Vị Đại Sĩ này trước đó
đă cúng dường Phật, gieo các thiện căn chẳng
thể tính kể. Tuy chưa phát tâm, nhưng đă trang
nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, dũng mănh nhất trong các
chúng sanh.
Ngài Thi Hộ đời Tống lại dịch
như sau: “Hai đồng tử,
một tên là Bảo Nghiêm, chính là Quán Tự Tại hiện
thời. Một tên là Bảo Thượng, là Đại Thế
Chí hiện thời”.
Tứ Hoằng Thệ chính là “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ, phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn,
pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Ngũ Kết tức là tham, sân,
mạn, keo, ganh ghét. “Hỏa trạch”
(nhà lửa) tỷ dụ nỗi khổ luân hồi trong tam
giới. Theo Hoa Nghiêm Kinh: “Thất
Địa Bồ Tát, đại bi lực cố, siêu quá Nhị
Thừa địa” (Thất Địa Bồ Tát do sức
đại bi nên vượt trỗi địa vị Nhị
Thừa). Hàng Nhị Thừa được gọi là “ở trong thảo am”. Vô
Lượng Thọ Kinh có nói tới hạnh tư duy nhiếp
thủ trang nghiêm cơi Phật thanh tịnh.
1. Nhưng chúng sanh vốn sẵn
thành Phật, không ǵ chẳng phải là ước theo Lư
để nói. Bồ Tát phát tâm độ người, há có
phải trọn chẳng mệt nhọc mà đạt
được ư?
2. Tuy sẵn đủ tánh đức,
không có tu đức sẽ chẳng hiện bày trọn vẹn.
Tự giác đă viên, nhưng phải giác tha th́ hai thứ
giác ấy mới viên măn.
3. Chỉ là: Trở về nguồn
th́ chẳng hai, môn phương tiện là như thế nào?
Thánh tánh đều thông, đâu là nẻo Niết Bàn ? (Từ
đây trở xuống là phần ca tụng chương
Quán Thế Âm Bồ Tát Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, gồm
có tám đoạn)
(1) Viên Giác Kinh: “Thủy
tri chúng sanh bổn lai thành Phật” (Mới biết chúng sanh vốn đă thành Phật).
Lời Sớ giảng rằng: “Bổn
chính là bổn giác, tức là Lư Tức Phật của tông
Thiên Thai”. Lăng Nghiêm Kinh: “Tự
vị đắc độ, tiên độ nhân giả, Bồ
Tát phát tâm” (Chưa độ được ḿnh mà đă
độ người khác trước, đấy chính là sự
phát tâm của hàng Bồ Tát).
(2) Khởi Tín Luận: “Bản thể của pháp Chân
Như tuy sáng sạch, đầy đủ công đức,
nhưng bị vô biên khách trần làm nhơ. Giả sử
có người, siêng năng ức niệm, nhưng chẳng
làm các phương tiện, chẳng tu các hạnh, mà muốn
được thanh tịnh th́ trọn chẳng thể nào
có lẽ ấy!” Lăng Nghiêm Kinh: “Tự giác dĩ viên, năng giác tha giả, Như Lai
ứng thế” (Tự giác đă viên măn, lại c̣n có thể
giác ngộ người khác th́ là bậc Như Lai xuất
hiện trong cơi đời).
(3) Lăng Nghiêm Kinh: “Quy nguyên tánh vô nhị,
phương tiện hữu đa môn. Thánh tánh vô bất
thông, thuận nghịch giai phương tiện” (Trở
về nguồn th́ tánh chẳng hai, nhưng phương tiện
có nhiều cửa. Thánh tánh không ǵ chẳng thông, nhưng thuận
tánh hay nghịch tánh đều là phương tiện). Lại
chép: “Thử thị vi trần
Phật, nhất lộ Niết Bàn môn” (Đây là đường
lối Niết Bàn duy nhất của vi trần chư Phật).
1. Do vậy, Đại Sĩ biết:
Tâm sanh diệt chẳng xứng dùng làm tâm tu nhân, cho nên luyện
tập trừ khử ư thức. Trí vô phân biệt mới hợp
với bổn địa giác, cho nên viên chiếu môn Nhĩ
Căn viên thông.
2. Ấy là v́: Mười
phương gióng trống, phô rơ tánh Nghe viên dung. Ba lượt
gơ chuông, chứng minh pháp vị thường trụ.
3. Dẫu trong mộng điên
đảo, ngẫu nhiên lầm mê tiếng chày giă, quyết
định biết giác quán vượt ngoài suy nghĩ, cố
nhiên thân tâm chẳng thể sánh kịp được (Ca tụng Đại Sĩ thoạt đầu
chọn Nhĩ Căn [để tu Viên Thông], chứng ba thứ
chân thật là “viên, thông, thường”)
(1) Lăng Nghiêm Kinh: “Nhữ đẳng nhược
dục tu Bồ Tát thừa, nhập Phật tri kiến,
ưng đương thẩm quán Nhân Địa phát tâm, dữ
Quả Địa giác, vi đồng, vi dị. Nhược
ư nhân địa, dĩ sanh diệt tâm vi bổn tu nhân,
nhi cầu Phật thừa bất sanh, bất diệt, vô hữu
thị xứ!” (Các
ông nếu muốn tu Bồ Tát thừa để nhập
tri kiến Phật, hăy nên xét kỹ sự phát tâm trong lúc tu
nhân là giống hay khác với sự giác ngộ khi chứng
quả. Nếu trong lúc tu nhân mà dùng cái tâm sanh diệt làm gốc
để tu nhân ḥng cầu Phật thừa chẳng sanh chẳng
diệt th́ chẳng thể nào có lẽ ấy được!).
Sách Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch Sớ giảng: “Ư nghĩa
trọng yếu của kinh này là quyết định chẳng
dùng cái tâm ư thức, bởi nó là oán gia của Đại
Định, quyết định dùng tánh của Căn
để tu, bởi tánh của Căn chính là chân tâm, nó chính
là Định sẵn có trong tự tánh vậy”. Tâm sanh diệt là ư thức. Vô phân biệt
trí là tánh của Căn. Kinh c̣n chép: “Ngă tùng nhĩ môn
viên chiếu tam muội” (Ta từ
môn Nhĩ Căn Viên Thông mà chiếu trọn vẹn tam-muội).
(2) Kinh chép: “Thí như nhân tịnh cư, thập
phương câu kích cổ, thập xứ nhất thời
văn, thử tắc Viên chân thật. Cách viên thính âm hưởng,
hà nhĩ câu khả văn, ngũ căn sở bất tề,
thị tắc Thông chân thật” (Ví như người
đang ở nơi yên lặng, mười phương
đều đánh trống, đều cùng một lúc nghe
được tiếng trống cả mười nơi.
Đấy là Viên chân thật. Cách vách vẫn nghe được
tiếng vọng, xa hay gần đều nghe được.
Năm căn kia so với [nhĩ căn] đều không bằng
được! Như vậy, [Nhĩ Căn viên thông] mới
là Thông chân thật).
Phật lại sai La Hầu La gơ chuông, hỏi:
“Có nghe hay không?” Đại chúng thưa: “Dạ nghe!” Khi tiếng
chuông dứt, Phật hỏi: “Có nghe hay chăng?” Đại
chúng thưa: “Không nghe”. Gơ chuông lần thứ ba, hỏi: “Có
tiếng chuông hay không?” Đại chúng thưa: “Có tiếng”.
Đến khi tiếng chuông dứt, hỏi: “Bây giờ có
tiếng chuông ngân hay không?” Đại chúng thưa: “Không có tiếng”.
Phật bảo A Nan: “Tiếng
chuông dứt, không c̣n vang, ông bèn nói là không nghe. Nếu quả
thật là không nghe th́ tánh Nghe đă diệt, giống như
cây khô, dẫu có tiếng chuông gơ đi nữa th́ ông làm sao
nhận biết? Biết có, biết không, chính là Thanh Trần
hoặc có, hoặc không, chứ đâu phải là tánh Nghe của
ông là có hay là không!”
Kinh c̣n chép: “Thanh âm tánh động tĩnh,
văn trung vi hữu vô, vô thanh hiệu vô văn, phi thật
văn vô tánh, thanh vô, kư vô diệt, thanh hữu, diệc phi
sanh. Sanh diệt nhị viên ly, thị tắc thường
chân thật” (Do tánh của âm thanh là động hay tĩnh,
mà nghe thành có hay là không. Không có tiếng th́ gọi là không
nghe, chứ không phải là cái Nghe không có tánh. Không có tiếng
th́ tánh Nghe ấy chẳng diệt, có tiếng th́ tánh Nghe ấy
chẳng sanh. Ĺa trọn vẹn cả hai thứ sanh diệt
th́ chính là thường chân thật). Pháp Hoa Kinh: “Thị pháp trụ
pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (Pháp này trụ trong pháp vị, tướng thế
gian thường trụ).
(3) Kinh chép: “Như trọng thụy nhân, miên
thục sàng chẩm. Kỳ gia hữu nhân đảo luyện
thung mễ, kỳ nhân mộng trung, văn thung đảo
thanh, biệt tác tha vật. Hoặc
vi kích cổ, hoặc vi tràng chung, tự quái kỳ chung vi mộc
thạch hưởng”
(Như người ngủ say, nằm ngủ mê mệt trên
giường. Trong nhà ấy có người giă gạo,
người ấy trong mộng nghe tiếng chày giă lại
ngỡ là vật khác, hoặc ngỡ là đánh trống, hoặc
là gơ chuông, tự lấy làm lạ ‘sao tiếng chuông nghe
như tiếng gỗ giộng vào đá?’). Lại chép: “Túng linh tại mộng
tưởng, bất vị bất tư vô, giác quán xuất
tư duy, thân tâm bất năng cập” (Dẫu đang ở trong mộng, chẳng v́ không
suy nghĩ mà chẳng nghe, sự nhận biết ấy vượt
ngoài suy nghĩ, thân tâm chẳng thể sánh bằng được).
Cho nên mới
có Như Lai trùng tên với Bồ Tát, dạy Ngài dùng Văn
Huân để nhập Thiền Định.
Kinh
Lăng Nghiêm chép: “Ức niệm
ngă tích vô số Hằng hà sa kiếp, ư thời hữu
Phật, xuất hiện ư thế, danh Quán Thế Âm. Ngă
ư bỉ Phật phát Bồ Đề tâm, bỉ Phật
giáo ngă tùng Văn Tư Tu, nhập tam-ma-địa” (Nhớ
nghĩ: Ta trong vô số Hằng sa kiếp xưa, lúc ấy
có Phật xuất hiện trong cơi đời, hiệu là Quán Thế Âm. Ta phát Bồ Đề tâm
ở nơi đức Phật ấy. Đức Phật ấy
dạy ta từ Văn - Tư - Tu nhập tam-ma-địa).
Thiền Định, tức là Tam-ma-địa (Samādhi),
c̣n gọi là tam-muội. Cơi này dịch là Chánh Thọ, hoặc
c̣n dịch là Chánh Định.
1. Xoay
ngược cái Nghe điên đảo, thâm nhập tánh Nghe,
quay về tự tánh, c̣n vọng nào sanh?
2. Nhất
niệm hồi quang, chẳng do Minh mà lập Sở. Hai trần
đều trừ, cũng là vọng t́nh chấp tịnh.
Kinh này (tức
kinh Lăng Nghiêm) dạy: “Sơ
ư văn trung, nhập lưu, vong Sở. Sở nhập
kư tịch, động tĩnh nhị tướng liễu
nhiên bất sanh” (Thoạt đầu từ nơi cái
Nghe, thâm nhập quán sát khả năng nghe được âm
thanh là do đâu mà có, quên mất đối tượng của
cái Nghe. Khi đối tượng của cái Nghe đă vắng
lặng th́ hai tướng động tĩnh trọn chẳng
c̣n sanh)[66].
(1) Kinh
chép: “Toàn nhữ đảo
văn cơ, phản văn văn tự tánh” (Hăy xoay
ngược lại cái Nghe điên đảo của
ngươi để nghe ngược lại nơi tự
tánh). Lại nói: “Toàn lưu hoạch
vô vọng” (Xoay ngược ḍng (tức là quán sát ngược
lại xem khả năng nghe được âm thanh là do
đâu mà có) sẽ không c̣n vọng). Lại nói: “Nhữ đản ư nhất
môn thâm nhập, nhập nhất vô vọng, bỉ lục
tri căn, nhất thời thanh tịnh” (Ngươi chỉ
thâm nhập một môn, hễ nhập được một
môn, không c̣n vọng th́ sáu căn hay biết kia sẽ đồng
thời thanh tịnh).
(2) Trong
bài Định Huệ Ca của ngài Vĩnh Minh có đoạn:
“Nhất niệm hồi quang
chánh trí khai”. Lăng Nghiêm Kinh: “Giác
phi sở minh, nhân minh lập Sở” (Giác chẳng phải
là cái được hiểu rơ, do sự hiểu rơ ấy mà
thấy có đối tượng được hiểu
rơ)[67].
Kinh c̣n nói: “Nguyên minh
chiếu sanh Sở, Sở lập chiếu tánh vong” (Nguyên
minh là bổn minh (tánh sáng suốt vốn sẵn có, tức
chân tâm, chân tánh). Nếu từ diệu dụng chiếu soi
mọi cảnh, mọi sự của tánh bổn minh, mà thấy
có cảnh được chiếu bởi tánh bổn minh ấy,
th́ do đă thấy có đối tượng được
chiếu soi bởi tánh bổn minh (Sở Chiếu, hay c̣n gọi
là vọng cảnh) nên tác dụng chiếu chân thật của
tánh bổn minh ấy không c̣n nữa nên nói là Sở đă
được thành lập th́ tánh của Chiếu không c̣n nữa)[68]. Nhị Trần chính là Động Trần
và Tịnh Trần. Trong Bác Sơn Cảnh Ngữ có câu: “Tu tập công phu, sợ nhất
là đắm chấp tịnh cảnh, khiến cho con
người bị vây hăm trong khô tịch[69], đọa
trong vô tri. Phải đừng chấp vào tịnh cảnh
th́ mới được”.
Nhưng hai thứ Căn và Trần
đều là tỳ vết nơi gương. Tướng
và cái Thấy cùng mất th́ mới chứng nhập địa
vị Nhân Không. Đấy chính là lúc Đại Sĩ chứng
Ngă Không Chân Như, đoạn hết Kiến Tư Hoặc.
Lăng Nghiêm
Kinh: “Ư thị tiệm
tăng, văn sở văn tận” (Do vậy, dần dần
tăng tấn, cái Nghe và cái được Nghe đều chẳng
c̣n). Trong bài Chứng Đạo Ca của ngài Vĩnh Gia có câu:
“Tâm là Căn, pháp là Trần, hai
thứ ấy cùng là tỳ vết hiện nơi
gương”, nhưng chữ Căn mà ngài Vĩnh Gia nói đó
chính là Giác được nói tới trong đoạn văn
kế tiếp, c̣n chữ Trần mà Ngài nói đó chính là Không
trong đoạn văn kế tiếp, khác với kinh Lăng
Nghiêm: Căn chỉ Văn (cái Nghe), Trần chỉ Sở Văn
(đối tượng của cái Nghe, cái được
nghe), tôi chỉ mượn lời Ngài mà thôi! Căn là Kiến
Phần, Trần là Tướng Phần[70]. Kinh dạy: “Căn
kết nhược trừ, trần tướng tự diệt”
(Nếu trừ được Kết (chấp trước,
phân biệt) nơi Căn th́ trần tướng[71] tự
diệt), cho nên nói là “song vong”
(cả hai cùng mất). Kinh c̣n chép: “Thử căn sơ giải, tiên đắc Nhân Không”
(Khi vừa hiểu được căn này th́ trước
hết đắc Nhân Không). [Chánh Mạch] Sớ giảng: “Đây chính là lúc hết sạch
Kiến Tư Hoặc, chứng Ngă Không Chân Như”.
1. Nhưng lông rùa, sừng thỏ,
Sự chướng dễ trừ. Trăng trong nước,
hoa trong gương, Lư ma khó dứt.
2. Chẳng đổ công giồi
mài, khó khỏi công huân mắc đọa, chẳng phải
là huyễn trở thành huyễn, Phật cũng là Trần,
xa lại càng xa, Không càng thêm mất. Đấy là lúc Đại
Sĩ thành tựu pháp giải thoát, bắt đầu dứt
hết Trần Sa Hoặc.
Lăng
Nghiêm Kinh: “Tận văn bất
trụ, giác sở giác không, không giác cực viên, không sở
không diệt”(Chẳng trụ nơi đă dứt hết
cái Nghe và cái được Nghe, Giác và cái được
giác đều không, Không và Giác cực viên th́ Không và Sở Không
cũng diệt).
(1) Trong bộ
Thiền Tông Tập của ngài Vĩnh Gia có đoạn: “Một là Nhân Không Huệ,
nghĩa là hiểu rơ Ấm phi Ngă, tức là trong Ấm không
có Ngă, giống như lông rùa, sừng thỏ. Hai là Pháp Không
Huệ, nghĩa là hiểu rơ các pháp như Ấm v.v... đều
là giả duyên, chẳng thật, như h́nh ảnh trong
gương, như bóng trăng in trong nước”. Lư Ma
chính là Lư chướng, c̣n gọi là Sở Tri Chướng.
Nhà Thiền gọi nó là “quang ảnh
môn biên sự” khó thoát ĺa nhất. V́ thế, ngài Hoàng Bá
nói: “Quên cảnh rất dễ,
quên tâm khó nhất”.
(2) Trong
bài Cảnh Sách của ngài Bác Sơn có đoạn: “Thực hiện công phu tuy đă
đạt đến mức tương ứng với
Pháp Thân, nhưng chưa đoạn mạng căn th́ vẫn
phải dốc toàn thân giồi mài, chẳng để nguy
vong th́ mới được”. Nhà Thiền lập ra
năm địa vị công huân tùy theo mức công phu sâu hay
cạn. Ngài Mật Vân Ngộ nói: “Nơi đất ruộng ẩn mật, kỵ nhất
là công huân bị đọa”.
(3)
Lăng Nghiêm Kinh: “Tự tâm thủ
tự tâm, phi huyễn thành huyễn pháp” (Tự tâm chấp
lấy tự tâm th́ cái chẳng phải huyễn trở
thành huyễn pháp)[72].
Kinh Viên Giác giảng: “Bỉ
quán huyễn giả, phi đồng huyễn cố, phi
đồng huyễn quán, giai thị huyễn cố” (Kẻ
quán huyễn ấy chẳng giống như huyễn, chẳng
giống với huyễn quán, v́ đều là huyễn vậy).
Có một vị
Tăng hỏi ngài Vân Môn: “Khi dứt được Trần
thấy Phật th́ như thế nào?” Ngài Vân Môn đáp: “Phật cũng là Trần”.
Kinh Viên Giác lại dạy: “Nhược
tâm chiếu kiến nhất thiết giác giả, giai vi trần
cấu. Giác sở giác giả, bất ly trần cố”.
(Nếu giác ngộ cái tâm soi thấu suốt hết thảy
th́ đều là trần cấu. Giác và Sở Giác đều
chẳng ĺa nơi trần). Kinh c̣n chép: “Viễn ly vi huyễn, diệc phục viễn ly, ly
viễn ly huyễn, diệc phục viễn ly” (Viễn
ly là huyễn, cũng phải xa ĺa [sự viễn ly ấy],
nhưng ĺa viễn ly cũng lại là huyễn, cũng phải
xa ĺa nó).
Lăng Nghiêm Kinh: “Nhữ đẳng nhất nhân
phát chân quy nguyên, thử thập phương không, giai tất
tiêu vẫn” (Nếu một người trong các ông mà thật
sự phát tâm trở về với nguồn cội th́ tánh
Không của mười phương này đều mất sạch
hết). Ở đây mượn ư ấy để ví dụ
cái Không bị diệt. Kinh Lăng Nghiêm chép: “Không tánh viên minh, thành pháp giải thoát” (Tánh Không
tṛn sáng, thành pháp giải thoát). [Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch]
Sớ giảng: “Đắc
pháp giải thoát, hết Trần Sa Hoặc”.
1. Vốn
đă là không không, cần ǵ phải diệt diệt?
2. Đến
lúc đầu sào tiến thêm bước nữa, chuyển
cơ ở ngoài kiếp.
3. Công
thành bèn lui, thái b́nh chẳng thấy tướng quân. Chết
đi sống lại, đất nước táng vong, ông lăo
chốn quê làm sao yên được?
4. Đốt
củi, khói hết, tro bay. Mài gương, hết nhơ,
sáng hiện.
5. Vô minh
đoạn ngay, tịch diệt hiện tiền. Đấy
chính là lúc Đại Sĩ do tam-ma-địa đắc Vô
Sanh Nhẫn.
Lăng
Nghiêm Kinh: “Sanh diệt kư diệt,
tịch diệt hiện tiền” (Sanh diệt đă diệt,
tịch diệt hiện tiền).
(1) Kinh dạy:
“Giải thoát pháp dĩ, câu không
bất sanh, tức nhân pháp nhị không chi cảnh diệc
không dă” (Đă giải thoát nơi pháp rồi th́ hai thứ
Không vốn sẵn có[73] cũng chẳng sanh, tức là hai cảnh
Nhân Không và Pháp Không cũng là không). Phạm Vơng Kinh: “Nhất thiết không không không”
(Cái không trong hết thảy không là không). Kinh Viên Giác dạy:
“Huyễn trần diệt cố,
huyễn diệt diệc diệt” (Do huyễn trần
đă diệt, nên sự diệt hư huyễn cũng diệt).
(2) Ngài Trường Sa Sầm nói: “Người ngồi nơi đầu
sào trăm thước, tuy thế vẫn chưa thật sự
nhập; đầu sào trăm thước tiến thêm
bước nữa, mười phương thế giới
hiện toàn thân”. Ngài Thiên Đồng Ngộ nói: “Chuyển cơ ngoài kiếp, bắn
tên trước gió”.
(3) Trong
bài tụng của ngài Thiên Đồng có đoạn: “Thái b́nh vốn là do tướng
quân đưa tới, chứ tướng quân đâu chờ
thái b́nh”. Lại nói: “Chết
đi sống lại, dối vua chẳng được.
Gió lùa hang trống, mây phủ trên ao, chẳng lập mảy
trần, nước nhà tan nát th́ ông già quê mùa làm sao yên ổn?”
(4) Viên
Giác Kinh: “Thí như toản hỏa,
lưỡng mộc tương nhân, hỏa xuất, mộc
tận, yên phi, hôi diệt” (Thí như dùi gỗ lấy lửa,
lấy hai miếng gỗ làm nhân, lửa sanh, gỗ diệt,
khói bay, tro hết). C̣n nói: “Thí
như ma kính, cấu tận, minh hiện” (Ví như mài
gương, nhơ hết, sáng hiện).
(5)
Lăng Nghiêm Kinh: “Thị danh Bồ
Tát tùng tam-ma-địa, đắc Vô Sanh Nhẫn” (Đấy
gọi là Bồ Tát do tam-ma-địa đắc Vô Sanh Nhẫn).
1. Xa-ma mật
chiếu, chẳng giống với âm thầm, tăm tối.
Thiền Định sáng thêm, tăng trưởng sáng suốt,
tịch tịch.
2. Hai bánh
xe cùng xoay, tu trọn ba thứ. V́ thế, mười
phương viên minh, hai thứ thù thắng.
3. Do vậy,
Ngũ Uẩn đều không, các căn dùng lẫn cho nhau.
4. Sát-na liền
vượt khỏi Trụ, Hạnh, Hướng, Địa;
giác tâm trọn đủ Thân, Giới, Căn, Trần.
5. Trên giống
như chư Phật, hiện ba mươi hai ứng thân;
dưới hợp cùng chúng sanh, thí mười bốn món Vô
Úy.
6. Trong hội
Pháp Hoa, long nữ chẳng nghe công năng phổ độ;
nơi hội Hoa Nghiêm, Thiện Tài chưa đạt diệu
đức vô tác.
7. Đây
là v́ đă chứng rốt ráo, nên danh hiệu cổ Phật
lưu truyền. Khéo đắc viên thông, nên mới
được thọ kư danh hiệu Quán Âm.
Lăng
Nghiêm Kinh: “Hốt nhiên siêu việt
thế xuất thế gian, thập phương viên minh, hoạch
nhị thù thắng. Nhất giả, thượng hợp thập
phương chư Phật bổn diệu giác tâm, dữ Phật
Như Lai đồng nhất từ lực. Nhị giả,
hạ hợp thập phương nhất thiết lục
đạo chúng sanh, dữ chư chúng sanh đồng nhất
bi ngưỡng” (Đột nhiên vượt thoát thế
gian lẫn xuất thế gian, mười phương viên
minh, đắc hai thứ thù thắng. Một là trên hợp
với bổn giác diệu tâm của mười
phương chư Phật, có cùng một từ lực với
chư Phật Như Lai. Hai là dưới hợp với
mười phương hết thảy chúng sanh trong lục
đạo, cùng với các chúng sanh một ḷng bi ngưỡng
[quả vô thượng Bồ Đề]).
(1) Lăng
Nghiêm Kinh: “Ư Xa-ma-tha, vi mật
quán chiếu” (Đối với Xa-ma-tha, quán chiếu nhỏ
nhiệm). Đạo gia nói: “Chí
đạo chi cực, hôn hôn, mặc mặc” (Chỗ tột
bậc của đạo cao tột th́ tối tăm, lặng
lẽ). Kinh Lăng Nghiêm gọi điều ấy là “pháp trần phân biệt ảnh sự”
(chuyện thuộc về bóng dáng của Pháp Trần phân biệt)[74].
Trong bài tụng của ngài Vĩnh Gia có câu: “Tinh tinh tịch tịch thị, vô kư tịch tịch
phi, tịch tịch tinh tinh thị, loạn tưởng
tinh tinh phi” (Tạm dịch: Thấu hiểu lặng lẽ
đúng, vô tri lặng lẽ sai, lặng lẽ hiểu rơ
đúng, loạn tưởng hiểu rơ sai).[75]
(2) Trong
bài Định Huệ Ca của ngài Vĩnh Minh có đoạn:
“Như trâu trắng kéo xe hai
bánh”. “Ba thứ” [trong câu “tu trọn ba thứ”] là Xa-ma-tha,
Tam-ma, và Thiền-na, ba thứ ấy. Viên Giác Kinh: “Nhược Bồ Tát dĩ viên
giác huệ, viên hợp nhất thiết, danh vi viên tu tam chủng
tự tánh thanh tịnh tùy thuận” (Nếu Bồ Tát
dùng viên giác huệ để phù hợp trọn vẹn với
hết thảy, th́ gọi là tu trọn ba thứ tùy thuận
tự tánh thanh tịnh).
(3) Tâm
Kinh: “Chiếu kiến Ngũ Uẩn
giai không”. Lăng Nghiêm Kinh: “Thức
ấm nhược tận, tắc nhữ hiện tiền
chư căn hỗ dụng” (Nếu thức ấm
đă hết th́ các căn hiện tiền của ông sẽ
có thể dùng lẫn cho nhau).
(4)
Lăng Nghiêm Kinh: “Như thị
năi siêu Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh tâm, Bồ Tát sở
hành Kim Cang Thập Địa, Đẳng Giác viên minh, nhập
ư Như Lai diệu trang nghiêm hải” (Như thế
bèn vượt qua các địa vị Thập Tín, Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ
Gia Hạnh tâm, Kim Cang Thập Địa do Bồ Tát hành,
Đẳng Giác viên minh, vào trong biển diệu trang nghiêm của
Như Lai).
Viên Giác Kinh: “Giác tánh biến măn, thanh tịnh
bất động. Viên vô tế cố, đương tri
lục căn biến măn pháp giới. Căn biến măn cố,
đương tri lục trần biến măn pháp giới.
Trần biến măn cố, đương tri tứ đại
biến măn pháp giới” (Giác tánh tṛn đầy trọn
khắp, thanh tịnh bất động. Do viên măn không ngằn
mé, nên biết sáu căn trọn khắp pháp giới. Do
căn tṛn đầy trọn khắp, nên biết sáu trần
trọn khắp pháp giới. Do các trần tṛn đầy,
trọn khắp, nên biết bốn đại trọn khắp
pháp giới).
(5)
Lăng Nghiêm Kinh: “Ngă đắc
Phật tâm, chứng ư cứu cánh” (Ta đắc Phật
tâm, chứng rốt ráo). Kinh c̣n chép: “Bỉ Phật Như Lai thán ngă thiện đắc
viên thông pháp môn, ư đại hội trung, thọ kư ngă vi
Quán Thế Âm hiệu” (Đức Phật Như Lai ấy
khen tôi khéo đắc pháp môn viên thông, ở trong đại
hội, thọ kư cho tôi hiệu là Quán Thế Âm).
Quán Thế Âm Bồ
Tát Bổn Tích
Cảm Ứng Tụng,
quyển 1, phần 1
hết
[1] Đồng Thể Bi: Coi hết thảy
chúng sanh giống hệt như chính ḿnh, phát ḷng
thương xót khởi tâm cứu độ trừ khổ
năo cho chúng sanh giống như tự cứu độ chính
ḿnh. Nói rộng hơn, do nhận biết hết thảy
chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh của mỗi
một chúng sanh không khác ǵ chính ḿnh, không c̣n phân biệt ta và
người. Do vậy, trừ khổ năo cho chúng sanh chính là
trừ khổ năo của chính ḿnh.
[2] Vô Duyên Từ: Vô Duyên Từ là mức
cao nhất trong ba loại Từ (Chúng Sanh Duyên Từ, Pháp
Duyên Từ và Vô Duyên Từ), tức là ḷng từ bi b́nh đẳng,
không có đối tượng đặc biệt nào để
nương tựa vào, hoàn toàn không c̣n thấy có sự
đối lập giữa ḿnh và người. Đây là thứ
từ bi chân thật tuyệt đối. Trong Trí Độ
Luận, Long Thọ Bồ Tát đă giảng ḷng Từ này
như sau: “
[3] Tam Giác: Tự Giác, Giác Tha, Giác Hạnh
viên măn.
[4] Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Vô Ngại
Đại Bi Tâm Đà La Ni (trong tụng văn thường
gọi tắt là kinh Đại Bi hay
Đại Bi Chú Kinh), Quán Thế Âm Bồ Tát đă thành Phật
từ lâu xa trong quá khứ, hiệu là Chánh Pháp Minh Như
Lai.
[5] Tịch Quang: Thường Tịch
Quang Tịnh Độ.
[6] Mười giới: Tức là
mười pháp giới, gồm Phật, Bồ Tát, Duyên
Giác, Thanh Văn, thiên, nhân, A-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh,
địa ngục.
[7] Ḥa nam (vandanam): Kính lễ
[8] Nguyên văn “phiếm
châu” (có thể bơi thuyền được).
[9] Tát Bà Nhă Trí (Sarvajña): Hiểu
theo nghĩa chung th́ Nhất Thiết Trí đồng nhất
với Nhất Thiết Chủng Trí, là trí huệ rốt
ráo nơi Phật Quả, thông hiểu Thật Tướng
của các pháp. Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhă Ba La Mật
Đa Kinh, quyển Hạ, giảng: “Trọn đủ vô lậu giới, thường tịch
giải thoát thân, tịch diệt chẳng nghĩ bàn, gọi
là Nhất Thiết Trí”. Du Già Sư Địa Luận,
quyển 38, giảng: “Đối
với hết thảy các pháp giới, hết thảy sự,
hết thảy phẩm, hết thảy thời, trí vô ngại
chuyển”. Có nghĩa là: Hiểu rơ đúng theo chân đế
hết thảy pháp giới, sự tướng, hữu vi, chúng
sanh giới, vô vi, nhân quả sai biệt v.v... Đây là quan điểm
của Hoa Nghiêm Kinh Đại Sớ. Nếu hiểu theo
nghĩa riêng, Nhất Thiết Trí chỉ là trí huệ viên măn
của Thanh Văn, Duyên Giác, như Đại Trí Độ
Luận, quyển 27, đă giảng: “Tổng tướng là Nhất Thiết Trí, biệt
tướng là Nhất Thiết Chủng Trí, nhân là Nhất
Thiết Trí, quả là Nhất Thiết Chủng Trí. Nói
đại lược th́ là Nhất Thiết Trí, nói rộng
th́ là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Trí là
phá hết thảy tối tăm vô minh nơi hết thảy
pháp, c̣n Nhất Thiết Chủng Trí phá hết thảy vô
minh trong các pháp môn”.
[10] Lưỡng Túc Tôn: Bậc trọn đủ hai thứ công đức cao quư nhất. Thông thường, Lưỡng Túc Tôn được hiểu là Phước và Huệ trọn đủ, lượng bằng pháp giới; nhưng Lưỡng Túc Tôn có ư nghĩa rộng hơn rất nhiều như trong Pháp Hoa Sớ, quyển 4, ngài Gia Tường giảng: “Lưỡng Túc Tôn: Hoặc lấy Giới Định làm Nhị Túc, hoặc lấy Quyền Thật làm Nhị Túc, hoặc lấy Phước Huệ làm Nhị Túc, hoặc lấy Giải Hạnh làm Nhị Túc, đấy đều là lấy Nội Đức làm Nhị Túc. Đối với ngoại h́nh th́ lấy Thiên Nhân làm Nhị Túc, nghĩa là Phật tôn quư nhất trong cả người lẫn trời”.
[11] Đội mũ (nhược quan): Theo
lệ xưa, ở Trung Hoa khi con trai đến hai
mươi tuổi liền làm lễ Gia Quan (hay Nhược
Quan), búi tóc, đội mũ, không để tóc xơa nữa,
ngụ ư đă đến tuổi trưởng thành. Khi ấy,
cha mẹ hay thầy dạy thường đặt cho thêm
một tên nữa, gọi là Quan Danh (tên đặt khi bắt
đầu đội mũ) với ngụ ư nhắc nhở
người thanh niên ấy hăy thực hiện hoài băo hay ước
vọng của người thân.
[12] Bổn: Sự chứng đắc thật
sự trong Nhất Chân pháp giới. Tích: Sự thị hiện.
Có thể hiểu Bổn như mặt
trăng, c̣n Tích là bóng trăng hiện trong nước. Chẳng
hạn, bổn địa (Bổn) của Quán Thế Âm Bồ
Tát là cổ Phật, đă thành Như Lai cực quả từ
lâu, nhưng để độ sanh, Ngài hiện làm thân Bồ
Tát và ba mươi hai ứng thân khác để phù tá Di
Đà, Thích Ca và mười phương chư Phật hóa
độ chúng sanh. Sự thị hiện ấy chính là Tích.
[13] Nguyên văn “tử
hư ô hữu”. Tử Hư và Ô Hữu là hai nhân vật
hư cấu trong bài Tử Hư Phú của Tư Mă
Tương Như. Trong bài phú ấy, Tử Hư nước
Sở đi sứ nước Tề đă cùng Ô Hữu
tiên sinh đối đáp. Cả hai tên này cùng mang ư nghĩa
phúng thích, Tử Hư (không thật), Ô Hữu (chẳng có).
Do vậy, thành ngữ “tử
hư ô hữu” chỉ những ǵ hoang đường,
giả dụ, không thật sự có.
[14] Thanh luận: Những lời luận
nghị bàn bạc trong Phật giáo. Do cơi này dùng âm thanh để
làm Thể, nhĩ căn của chúng sanh nhạy bén nhất,
nên giáo pháp của Phật thường gọi là “thanh giáo”.
[15] Huyền kư: Những lời dự
đoán về sự việc trong tương lai lâu xa, chẳng
hạn, đức Phật huyền kư sau khi Phật nhập
diệt, sẽ có Bồ Tát Long Thọ ra đời
trung hưng Phật pháp Đại Thừa.
[16] V́ ngài A Nan chỉ chú trọng học rộng
nghe nhiều, nhưng không tu chứng, nên ngài Văn Thù dạy
đương cơ (đối tượng giáo hóa chánh yếu)
trong pháp hội Lăng Nghiêm là ngài A Nan phải biết “xoay
trở lại nghe nơi tự tánh” để chứng nhập
Chân Như, không bị Thanh Trần xoay chuyển.
[17] Trụ Tích, hay c̣n gọi là Trác Tích, Quải
Tích, đều có nghĩa là một vị pháp sư trụ
tại một nơi nào đó tu tập. Tích (錫) ở đây là tích trượng.
[18] Nguyên văn “măi
độc hoàn châu” là một thành ngữ chê trách kẻ
ngu dại, chỉ biết chuộng h́nh thức bề
ngoài, không biết quư thực chất.
[19] Ông Hoàng Khánh Lan (hiệu là Hàm Chi), pháp
danh Trí Hải là người xứ Thượng Hải,
làm Đạo Doăn xứ Ninh Thiệu (tức hai phủ Ninh
Ba và Thiệu Hưng), dinh Đạo Doăn đặt tại
Cối Kê (Giang Tô). Một Đạo gồm nhiều phủ.
Theo quy chế nhà Thanh, toàn quốc chia thành nhiều tỉnh,
mỗi tỉnh gồm nhiều phủ, mỗi phủ gồm
nhiều châu hay huyện. Đạo là cấp quản lư coi
từ hai phủ trở lên. Viên quan cai trị một Đạo
gọi là Đạo Doăn hay Đạo Đài.
[20] Sơn kinh thủy
chí là những cuốn sách tŕnh bày đặc điểm lịch
sử của một vùng núi non, sông ng̣i nào đó.
[21] Tri Sự vào cuối
đời Thanh, nhỏ hơn chức Tri Huyện. Nhưng
tại Đài Loan dưới thời lệ thuộc Nhật
Bản th́ Tri Sự lại lớn hơn Tri Huyện. Tri Sự
ở Trung Hoa lục địa là người đứng
đầu một trấn hay một hạt.
[22] Ḥa thượng
Khai Như trước kia làm Trụ Tŕ chùa Pháp Vũ, sau xin
thôi làm Trụ Tŕ nên gọi là “thoái
cư” (tạm dịch là “thoái ẩn”).
[23] Từ bổn
địa, thị hiện các thân hay sự tướng
để hóa độ gọi là “thùy tích” (lưu dấu). Chẳng hạn như Bồ
Tát Quán Âm đă thùy tích tại Phổ Đà.
[24] Tổ Ấn Quang
quê ở huyện Cáp Dương, tỉnh Thiểm Tây. Do Cáp
Dương có cánh đồng Tân (Sân) Dă
(莘野,thường đọc trại thành Sằn Dă) là nơi
ông Y Doăn cày ruộng trước khi ra giúp vua Thành Thang dựng
nghiệp, nên Cáp Dương thường được gọi
là Cổ Tân.
[25] Thạch ấn
(lithography) là một phương pháp dùng bản in bằng
đá hay kim loại, dùng chất dầu để làm dung
môi cho mực in. Bản in được chia thành hai phần:
Phần hút nước (hydrophilic) thường không thấm
mực in và phần kỵ nước (hydrophobic) có phủ
một lớp chất nhờn sẽ hút mực in.
Phương pháp này do Alois Senfelder sáng chế vào năm 1796
và được sử dụng chủ yếu để
in những tác phẩm nghệ thuật. Khi in một bức
vẽ hay sách theo lối này, người ta chế bản
in sao cho những nét vẽ sẽ là phần kỵ nước
và phần để trắng sẽ là phần hút nước.
Nhúng bản vẽ vào hỗn hợp nước và mực in,
phần kỵ nước sẽ dính mực in, tạo ra
nét chữ và h́nh vẽ khi áp lên giấy. Hiện thời, người
ta không c̣n dùng đá để chế bản mẫu nữa.
H́nh vẽ được tạo bằng chất polymer phủ
lên những tấm nhôm đă được điện cực
hóa để chúng không dính mực in, c̣n phần polymer sẽ
hút mực.
[26] Thể là bản
chất, c̣n Dụng là tác dụng, hoặc Thể là bản
tánh, là thật quả, c̣n Dụng là tác dụng hóa độ,
tùy cơ hiện tướng ứng hóa.
[27] Chước (勺) là đơn vị đo lường dung tích rất nhỏ,
gần bằng 1 ml.
[28] Vua hạ chiếu,
cử quan trông coi xây dựng, hoặc ban tiền bạc
để trùng tu, th́ gọi là “sắc kiến”.
[29] Châu Lương:
Châu Ôn sáng lập nhà Lương vào thời Ngũ Đại
nên sử gọi là Châu Lương hoặc Hậu
Lương để phân biệt với nhà Tiền
Lương của Lương Vũ Đế (Tiêu Diễn)
thuộc thời Nam Bắc Triều.
[30] Huệ Ngạc: Không rơ quê quán, năm sanh và năm mất. Sư là người Nhật,
vâng lệnh Quất Thái Hậu sang Trung Hoa cầu pháp trong
thời đầu niên hiệu Thừa Ḥa (834-847). Sư
theo ngả Nhạn Môn lên núi Ngũ Đài triều bái thánh
tích, rồi sang chùa Linh Tŕ ở Hàng Châu tham yết quốc
sư Tế An, cung thỉnh thiền sư Nghĩa Không sang
Nhật hoằng dương pháp Thiền. Tục truyền,
năm Tế Xung nguyên niên (854), ngài Huệ Ngạc lại
sang Trung Hoa, lên Ngũ Đài Sơn, chiêm lễ, thấy
thánh tượng Quán Âm quá xinh đẹp, không cầm ḷng
được, bèn lén lấy đem về Nhật (Có lẽ
đây là ngoa truyền. Đa số các sách như Phật Tổ
Thống Kỷ, Phổ Đà Sơn Chí v.v... đều ghi
là ngài Huệ Ngạc lễ Phật, xin được
tượng Quán Âm đem về Nhật. Xét ra, Ngài đến
Trung Hoa nhiều lần, lẽ nào không thỉnh được
tượng vừa ư mà phải ăn trộm!). Thuyền
đi đến núi Bổ Đà (ngoài khơi Ninh Ba), thuyền
không đi được nữa, bèn thỉnh thánh tượng
lên bờ th́ thuyền lại đi được. Do vậy,
bèn ở lại đảo, dựng chùa, đặt tên
nơi ấy là Quán Âm Bất Khẳng Khứ (Quán Âm không chịu
đi), gọi đảo là Bổ Đà Lạc Già Sơn
(thánh địa đạo tràng ứng tích của ngài Quán
Thế Âm). Do Bổ Đà Lạc Già c̣n phiên âm là Phổ
Đà, nên hầu như không ai gọi nơi ấy là Bổ
Đà Lạc Già nữa. Núi Phổ Đà, vốn có tên là Mai
Sầm Sơn (v́ theo truyền thuyết, tiên nhân Mai Phước
ẩn cư tu tiên ở núi này), đến đời Tống,
đảo được đổi tên thành Bảo Đà,
nhưng dân cư vẫn quen gọi là Phổ Đà.
[31] Ư nói tài chữa bệnh
rất giỏi. Khi xưa, những người giỏi về
một tài nghệ nào thường được gọi
là “quốc thủ”, chẳng hạn người đánh cờ
vây giỏi cũng được xưng là “vi kỳ quốc thủ”.
[32] Đồng nhân: Những người cùng chí
hướng, cùng căn tánh.
[33] Dựa theo ư câu
thơ cổ: “Nhật lạc
tang du” (Mặt trời lặn bên nương dâu) diễn
tả cảnh chiều tà. Sau này thơ văn thường
dùng chữ “nương dâu” để chỉ tuổi già.
[34] Vũ nhân (người
khoác áo lông vũ, hay người có lông vũ) vốn là thuật
ngữ chỉ thần tiên, về sau thường được
dùng để chỉ Đạo Sĩ v́ họ tự
xưng là người tu tiên. Theo sách Băo Phác Tử, trên thân
thần tiên có lông mịn như nhung màu đen, hai bên ḿnh có
cánh gắn lông vũ, có lúc hiện h́nh
người, đi trên đỉnh núi, hay bay lượn
trên không. V́ thế, gọi thần tiên là “vũ nhân”.
[35] Nguyên văn là “tấn
thân” (縉紳), cắm cái hốt vào đai, mô tả cách
phục sức của quan lại. Do đó, chữ “tấn
thân” được hiểu theo nghĩa rộng là giới
quan lại cũng như con cháu nhà quan.
[36] Trà-tỳ (Jhāpeti): Đôi khi
c̣n phiên âm là Đồ Tỳ, Xà Tỳ, Xa Tỵ, Tà Duy, có
nghĩa là hỏa thiêu, tức là dùng lửa thiêu hủy thi
hài, rồi thâu nhặt di cốt.
[37] Thù y: Thù (殊) là một đơn vị đo lường thời cổ,
bằng 1/24 lạng. Thù y là thứ áo cực nhẹ, trong
kinh Phật thường dùng chữ “thù y” để chỉ
áo của chư thiên v́ nó rất nhẹ.
[38] Tả Bộc Xạ
là một chức quan văn. Thời Hán, chức quan này là
tùy viên của Thượng Thư Lệnh (chuyên coi sóc về
xét duyệt tấu chương, chiếu biểu, có thể
hiểu giống như chức Chánh Thư Kư Văn Pḥng Nội
Các bây giờ). Từ thời Tùy - Đường trở
đi, Bộc Xạ tương đương chức Tể
Tướng, và chia làm Tả Bộc Xạ và Hữu Bộc
Xạ (Hữu Bộc Xạ thấp hơn Tả Bộc Xạ).
[39] Bồ Đề
Tát Đỏa (Boddhisattva) là danh xưng đầy đủ
địa vị Bồ Tát.
[40] Liệt Ứng:
Thân ứng hiện kém hèn, tức là những thân ứng hiện
chỉ tốt đẹp hơn người thế gian
đôi chút. Chẳng hạn như Phật Thích Ca hiện
thân trượng sáu, ba mươi hai tướng đẹp,
tám mươi tùy h́nh, chứ Thắng Ứng Thân của
Ngài có vô lượng tướng, thường được
nói đại lược là ‘sát
hải vi trần tướng’, trong mỗi tướng
lại có vô lượng vi trần sát tùy h́nh hảo.
[41] Theo Thiên Thủ
Thiên Nhăn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quán Thế Âm
Bồ Tát đắc pháp nơi đức Thiên Quang
Vương Tĩnh Trụ Như Lai.
[42] Theo kinh Bi Hoa, khi
vua cha Vô Tránh Niệm (tiền thân của A Di Đà Phật)
nghe theo lời khuyên của đại thần Bảo Hải
(tiền thân của Thích Ca Mâu Ni Phật) đă đến
quy y, nghe pháp với Bảo Tạng Phật, phát tâm Bồ
Đề và các đại nguyện, trưởng tử là
vương tử Bất Thuấn (tiền thân của Quán
Thế Âm), vương tử Ni Ma (tiền thân của Đại
Thế Chí Bồ Tát) và 888 vương tử đă cùng phát Bồ
Đề tâm.
[43] Đây là một
thí dụ trong kinh Pháp Hoa: Con ông trưởng giả tự
bỏ cha lưu lạc quê người, làm thuê làm mướn,
ăn xin nuôi thân, chẳng biết ḿnh là con ruột một
vị trưởng giả giàu có nhất nước.
[44] Nguyên văn “nhị thụ ma triền” (ma bệnh tật trói
buộc). “Nhị thụ” (二豎) là một từ
ngữ chỉ bệnh tật phát xuất từ một câu
chuyện thời Xuân Thu: Theo Tả Truyện, Tấn Cảnh
Công bị bệnh, sai người sang nước Tần mời
danh y Y Hoăn qua trị bệnh. Khi danh y chưa tới, Cảnh
Công mộng thấy hai “thụ tử” (tiếng cổ chỉ
hai đứa bé) nói chuyện: “Thầy thuốc giỏi sẽ
được mời đến, chúng ta phải làm sao?”
Đứa kia nói: “Hăy trốn vào phần trên Hoang, phía dưới
Cao th́ ông ta không thể nào làm ǵ chúng ta được”. Y
Hoăn đến thăm bệnh, nói: “Bệnh không chữa
được, đă nhập Cao Hoang”. Cao Hoang là từ ngữ
chỉ chung phần nằm dưới tim, phía trên hoành cách
mô. Do truyện này mà có hai từ ngữ: “Nhị thụ” chỉ bệnh tật rề rề
và “bệnh nhập Cao Hoang”
(bệnh đă nguy ngập, không c̣n chữa được
nữa).
[45] Nguyên văn “tự quư bố đầu”
(tự thẹn đă sợ hăi cái đầu của ḿnh).
Ông Hứa tự ví ḿnh như anh chàng Diễn Nhă Đạt
Đa trong kinh Lăng Nghiêm, soi gương thấy đầu
ḿnh bèn sợ hăi hóa cuồng. Do vậy, “bố đầu” hàm nghĩa mê cuồng, loạn
mất tâm tánh.
[46] Theo kinh Thiên Thủ
Thiên Nhăn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, người
tŕ chú Đại Bi, nước của người ấy
tắm văng dính vào thân chúng sanh nào, chúng sanh ấy cũng
được giải thoát.
[47] Bạch Hoa là dịch
nghĩa của chữ Phổ Đà (Bổ Đát Lạc
Ca).
[48] Từ Mẫn chính
là ngài Huệ Nhật sống vào thời Đường,
sau khi thọ Cụ Túc Giới đă tham yết ngài
Nghĩa Tịnh, nghe ngài Nghĩa Tịnh kể lại chuyến
đi sang Ấn Độ cầu pháp, liền phát tâm hâm mộ,
nguyện noi theo chí thầy. Trong niên hiệu Vơ Tắc Thiên,
Sư vượt biển, ba năm sau mới đến
được Ấn Độ, tham bái các thánh địa
di tích của Thích Ca Mâu Ni Phật, vừa thu thập các bản
kinh Phật bằng tiếng Phạn. Trong quá tŕnh cầu
pháp, Sư gặp nhiều nỗi nhọc nhằn nên tâm
nhàm chán Sa Bà càng mạnh, tâm hâm mộ Cực Lạc càng cao.
Nghe nói trên quả núi to ở phía Đông Bắc thành Kiện
Đà La (Gandhara), Quán Thế Âm Bồ Tát thường hiện
thân, nên Sư lên đỉnh núi ấy, lễ bái suốt bảy
ngày, nhịn ăn, thệ nguyện đến chết mới
thôi. Đến tối ngày thứ bảy, Quán Thế Âm Bồ
Tát hiện thân tử kim trên không trung, ngồi trên sen bảy
báu, duỗi tay phải xoa đầu
ngài Huệ Nhật, khuyên hăy hoằng dương pháp
môn Tịnh Độ. Pháp sư Huệ Nhật ở lại
Ấn Độ học pháp suốt mười ba năm,
trở về Trung Hoa nhằm thời Đường Huyền
Tông, được vua ban hiệu Từ Mẫn Tam Tạng.
Sư hoằng dương Tịnh Độ, chủ
trương “Giới Tịnh
song tu, Giáo Thiền nhất trí, đem hết thảy công
đức hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ”.
Tư tưởng này được ngài Vĩnh Minh Diên Thọ
kế thừa và bổ sung hoàn chỉnh.
[49] Theo Quán Âm Linh Cảm
Tập, Trương Sứ ở đây chính là Trương
Bồng Sơn, giữ chức Tập Hiền Học
Sĩ thời Nguyên Thành Tông. Ông Trương đến Phổ
Đà tham bái, trông thấy thấy Đại Sĩ hiện
bóng lờ mờ trên vách Triều Âm Động. Đến
động Thiện Tài, chợt Thiện Tài đồng tử
hiện thân trong đám mây lành, lại thấy Đại
Sĩ đeo măo hoa, anh lạc, tay cầm cành dương liễu,
các vị thần hộ pháp chắp tay cung kính đứng
hầu chung quanh. Ông Trương vui sướng, kêu những
người cùng đi kiền thành lễ bái, mây lành ngập
tràn động một hồi lâu sau mới tan.
[50] Theo lời chú của
chính cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh trong phần Hiện
Tướng Ở Phổ Đà của sách này: Vào năm Mậu
Th́n (1158) trong niên hiệu Thiệu Hưng đời Tống
Cao Tông, Sử Hạo và Tŕnh Hưu Phủ đến động
Triều Âm [triều bái] không thấy ǵ. Một vị
Tăng dạy: “Trên đỉnh vách núi có hang báu có thể thấy
được”. Họ nghe theo lời, chợt [Đại
Sĩ] hóa hiện tướng tốt lành, sắc vàng chói ngời,
mày mắt rành rành.
[51] Trí Giác là danh hiệu do Trung Ư
Vương (Tiền Thục) phong tặng cho ngài Vĩnh
Minh Diên Thọ. Trong thời gian tu học tại Thiên Thai
Sơn, trong khi Thiền Quán, đại sư thấy Quán Thế
Âm Bồ Tát dùng cam lộ rưới vào miệng, từ
đó, Ngài đắc biện tài vô ngại.
[52] Theo Quán Âm Từ Lâm Tập, tại núi
Thỉ Ninh có một vị tăng tên là Trúc Pháp Nghĩa nhằm
niên hiệu Hưng Ninh đời Tấn. Sư thông thạo
các kinh điển, đặc biệt là kinh Pháp Hoa. Đến
năm Hàm An thứ hai (372), Sư chợt mắc bệnh hô
hấp, tim cứ đau nhói mỗi khi hít thở, đau
đớn khôn cùng. Sư bền ḷng niệm thánh hiệu
Quán Thế Âm, chợt mộng thấy một người
mổ bụng ḿnh moi ruột ra rửa ráy, khi tỉnh giấc
bệnh đă lành hẳn.
[53] Theo Cư Sĩ
Truyện, cư sĩ Châu Đ́nh Chương, hiệu là Sở
Phong, người tỉnh Vân Nam, sống vào khoảng niên hiệu
Chánh Đức - Gia Tĩnh đời Minh, tánh t́nh thuần
phác, gia cảnh nghèo hèn. Ai mắng nhiếc, chửi bới
ǵ cũng cười mà thôi. Một ḷng tin tưởng Phật
pháp, mỗi sáng đều tụng kinh Kim Cang, Di Đà, Quán
Âm mỗi thứ một biến. Một hôm vào tiết Thanh
Minh, từ biệt cha và vợ nói: “Tôi sắp đi đây,
Di Đà đến đón tôi, Quán Âm cũng đă đến”,
rồi lại nói: “Ngài Quán Âm bảo tôi phải thôi ăn mặn
trong năm ngày th́ mới về Tây được”, bèn mỗi
ngày ăn một bữa cháo, một bữa rau. Đến
thời hạn, liền tắm gội, đội mũ, bảo
con em tụng danh hiệu của bảy đức Như
Lai, tụng kinh xong bèn ngồi ngay ngắn qua đời,
đến hôm sau thân vẫn c̣n tỏa mùi thơm, vẻ mặt
như lúc sống. Theo như pháp sư Đức Sâm đă
viết trong bài kư về sự sanh Tây của cư sĩ Hứa
Chỉ Tịnh (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
quyển 2) th́ khi ông Hứa Chỉ Tịnh dâng bài sớ này
lên tổ Ấn Quang, Tổ Ấn Quang đọc tới
câu này, hiểu ngay là ông Hứa Chỉ hăy c̣n ăn mặn,
liền nghiêm mặt, quở trách: “Thật là tệ! Bậc đại
thông gia như vậy mà vẫn chưa lấy thân làm
gương ăn chay th́ làm sao cảm hóa được
người khác?” Cư sĩ không giận mà c̣n tâm phục,
khẩu phục, hôm sau dâng thư xin biên tập tiếp bộ
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục.
[54] Phàm lệ : Những
quy định, cách tŕnh bày được áp dụng cho một
tác phẩm.
[55] Khoáng Viên gọi
đủ là Khoáng Viên Tạp Chí do Ngô Trần Diễm soạn
vào thời Đồng Trị nhà Thanh. Quái Viên là tác phẩm
của Tiền Hy Ngôn soạn vào đời Minh. Hữu
Đài Tiên Quán Bút Kư là tác phẩm của Du Việt
được soạn dưới thời Đạo Quang
nhà Thanh.
[56] Sát trần: Số
lượng vi trần trong một sát-độ (ksetra: Một
cơi Phật).
[57] Kiền chùy
(Ghanta): Chỉ chung những pháp khí dùng trong nhà Phật làm hiệu
lệnh như chuông, trống, khánh, mơ v.v... Ư nghĩa nguyên
thủy của chữ này chỉ có nghĩa là chuông.
[58] Nữ chân là nói gọn
của Nữ Chân Nhân, chỉ tiên nữ,
thánh nữ hay thánh mẫu trong Đạo Giáo.
[59]
Xương bồ (Sweet Flag, có tên khoa học là Acorus Calamus)
là một loài cỏ mọc trong nước, lá hẹp và
dài, có mùi thơm, thường nở hoa màu vàng vào giữa Hạ.
Do có mùi thơm dễ chịu, nó thường được
dùng làm hương liệu và chữa nhiều bệnh tật.
Đạo giáo gán cho Xương Bồ rất nhiều công
năng nên trong tết Đoan Ngọ người ta vẫn
hái Xương Bồ và lá Ngải đem ngâm rượu uống
nhằm trừ độc khí. Xương Bồ có chứa
chất gây nghiện và tạo ảo giác nếu dùng với
liều cao; có lẽ v́ thế Đạo Giáo mới gán cho
nó nhiều tác dụng thần kỳ.
[60] Theo
truyền thuyết của Đạo Giáo, An Kỳ Sinh tên
thật là An Kỳ, người xứ Lang Nha, sống vào
thời Tần - Hán tại Đông Hải. Họ cho rằng
Đạo giáo được sáng lập bởi Lăo Tử
và Hoàng Đế, truyền cho Hà Thượng Trượng
Nhân, An Kỳ Sinh là học tṛ của Hà Thượng. An Kỳ
Sinh dạy cho Mao Hấp, Mao Hấp dạy cho Nhạc Hà
v.v... Người ta tin An Kỳ Sinh tu tiên ở nhiều
nơi. Thậm chí núi Yên Tử ở Đông Triều, Việt
Nam, cũng được coi là nơi An Kỳ Sinh từng
tu tiên.
[61] Thông thường, Kim Khuyết
có nghĩa là cung điện nơi vua ở, nhưng theo
Đạo Giáo, Kim Khuyết là một trong hai cung điện
của Ngọc Hoàng Thượng Đế trên tầng trời
Đại La.
[62] Đây là sự
đồn đại sai lầm trong dân gian Trung Hoa. Do họ
thấy Bồ Tát thường có h́nh tượng người
nữ, nên cứ nghĩ Bồ Tát là nữ nhân. Khi Bồ
Tát hiện thân Diện Nhiên th́ dù có biến hiện tướng
hung dữ, vẫn không giấu được thân phận
nữ nhân nên tai phải mới đeo ṿng, chân phải c̣n mặc
quần của phụ nữ!
[63] Nhân Trung Tôn: Đấng tôn quư nhất trong loài người,
một mỹ hiệu của Phật.
[64] Ngọa cụ: Nói
chung, ngọa cụ (tọa cụ) là những thứ để
trải ra nằm, kể cả mền, chiếu, nệm;
c̣n nói riêng th́ là tấm Ni-sư-đàn (Nisīdana, tọa cụ) của chư Tăng,
là một tấm trải để ngồi hay nằm với
mục đích tránh các loại côn trùng ḅ lên cắn chích thân
thể và giữ cho ba y khỏi bị lấm dơ. Giống
như ba y, tọa cụ chỉ dùng hoại sắc, tức
những màu úa. Tọa cụ thường may như một
tấm chăn to, dùng vải cũ viền quanh mép, may thành
hai ba lớp, hay được chế từ y cũ. Theo luật
định, kích thước của tọa cụ dài chừng
4 thước tám tấc, rộng ba thước sáu tấc
(thước Tàu). Tuy thế, khi đạo Phật truyền
xuống Nam Ấn, chư Tăng thường dùng tọa cụ
vắt vai, như khi đi khất thực hoặc bố-tát
(tụng giới), chư Tăng sĩ Tích Lan, Thái Lan hiện
nay vẫn khoác chéo tọa cụ lên vai, rồi dùng đai
lưng buộc lại.
[65] Bổn Tế có thể hiểu
theo nhiều nghĩa:
1. Lư Thể tuyệt đối
b́nh đẳng, tức là tên gọi khác của Niết Bàn.
Hiểu theo nghĩa này th́ Bổn Tế c̣n gọi là Chân Tế,
Chân Thật Tế, Chân Như hay Thật Tế. Viên Giác Kinh
giảng: “B́nh đẳng bổn
tế, viên măn mười phương”.
2. Đồng nghĩa với Tiền
Tế, tức trạng thái sẵn có trong quá khứ.
Nghĩa này không thể áp dụng cho ngữ cảnh trong
đoạn văn này được.
3. Bổn Tế:
Căn nguyên, căn bản của chân lư, vạn vật. Trung Quán Luận Sớ, quyển sáu: “Bổn Tế là chỗ khởi
nguồn của Nhân và Pháp”.
[66] Chúng tôi dịch câu
này theo cách diễn giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ trong bài Sơ Ư Văn Trung Lưu Nhập Vong Sở.
Chữ “nhập lưu” được pháp sư Viên Anh giảng
như sau: “Nhập lưu là
tương phản với “xuất lưu”. Xuất lưu
là tánh nghe thay v́ quán chiếu thanh trần hư huyễn, lại
rong ruổi theo thanh trần, đánh mất bản thể
thanh tịnh của tánh nghe. Nay ‘nhập lưu’ là dùng Quán
Trí để nhập, lấy tai làm Sở Nhập, xoay chuyển
căn tai để quán chiếu chân tánh”.
[67] Câu này khá phức tạp,
khó thể dịch cho xuông nên chúng tôi xin dẫn lời giảng
của pháp sư Viên Anh trong bộ Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa như sau: “Giác chính là hai thứ giác (Bổn
Giác và Thỉ Giác) sẵn có trong tánh, là chỗ nương tựa
của Chân. Chân Giác chẳng phải là cảnh được
nhận biết, hiểu rơ, bởi nó sẵn có diệu
minh, chẳng thể coi là Năng hay Sở được.
Nếu cứ muốn thêm sự hiểu rơ vào Giác th́ diệu
minh sẽ dần dần biến thành vô minh của năng
minh, biến chân giác thành vọng giác là đối tượng
nhận biết của minh. Chữ Minh trong ‘nhân minh’ là vô
minh, chữ Sở trong ‘lập sở’ là nghiệp tướng’,
chẳng thể hiểu là cảnh giới được”.
Do lời giải thích này quá cô đọng, chúng tôi xin phép
được diễn giải lần nữa theo ngu kiến
như sau: “Giác trong câu ‘giác phi sở minh’ là diệu giác, tức
sự giác ngộ nơi chân tánh của ta, c̣n ‘sở minh’ là
đối tượng được nhận biết,
được hiểu rơ bởi cái tâm. Hễ nói đến
Sở th́ phải có Năng, tức là có chủ thể nhận
biết (Năng) và đối tượng được
nhận biết (Sở), đấy chính là trở thành
đối đăi, không c̣n phải là sự giác ngộ tuyệt
đối ‘tuy tịch mà chiếu, chiếu nhưng thường
tịch’ nữa, nên Giác chẳng phải là Sở Minh (tức
là cái Giác ấy không có phân biệt, đối đăi, không
thấy có đối tượng được nhận
biết bởi tánh Giác, cho nên không có Sở Minh). Do Giác ở
đây là Diệu Giác, tức là Chân Tánh, Chân Tánh có khả
năng nhận biết rơ ràng sự vật đúng như
thật nhưng không chấp trước vào cảnh (nên
cưỡng gọi là Diệu Minh). Nếu ta chấp có cảnh
để nhận biết, tức là chấp ngoài tâm có cảnh,
ngoài cảnh có tâm, có phân biệt, đối đăi, tức
là có “sở minh”, hay nói cách khác, có đối tượng
được nhận biết bởi Diệu Minh, th́ Diệu
Minh không c̣n là Diệu Minh nữa, mà đă trở thành Vô
Minh, v́ rớt trong phân biệt, chấp trước, vọng
tưởng. V́ thế, Phật nhấn mạnh “Giác chẳng phải là Sở
Minh” tức là diệu giác không hề rớt trong đối
đăi, phân biệt. Câu thứ hai: “Nhân minh lập Sở” th́ Minh này chính là vô minh, không
c̣n là diệu minh nữa, do có thấy đối tượng
được nhận biết. Do vô minh nên khởi lên
đủ thứ phân biệt, chấp trước, do vậy
mới có đối tượng chủ quan (Năng) và
khách quan (Sở).
[68] Chúng tôi dịch và
diễn giải câu này theo sách Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa của pháp sư
Viên Anh.
[69] Khô tịch: Tịch
là nói về bản thể của chân tâm: Trong lặng, bất
biến, giống như gương sáng rỗng rang, chẳng
dính mắc vật ǵ. Do chấp vào sự tịch tĩnh ấy,
không thể hiện khả năng bất biến tùy duyên
nên gọi là Khô Tịch.
[70] Kiến Phần:
Khả năng thấy, chỉ chung cho sự nhận biết
của tâm. Tướng Phần: Đối tượng
được nhận biết của Căn.
[71] Trần tướng :
Tướng trạng của Lục Trần (sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp). Bản thể của những
thứ này là Không, nhưng qua lăng kính ư thức nơi vọng
tâm, chúng trở thành phiền năo dụ hoặc, che lấp
chân tâm nên gọi là Trần (bụi bặm). Đến khi
những phiền năo nơi các Căn (kinh gọi là Căn Kết)
bị trừ, tức là dùng chân tâm để nhận biết
bản thể của sáu trần, không c̣n dùng Thức nữa,
th́ chúng nó không c̣n làm duyên để phiền năo nẩy sanh,
nên mới nói là “trần tướng
tự diệt”. Lúc đó, Lục Trần sẽ
được gọi là Lục Cảnh.
[72] Trong bộ Lăng
Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, pháp sư Viên Anh giảng: “Chữ Tự Tâm trong câu này chỉ vọng tâm trong cái thân
Ngũ Uẩn, tức là cái tâm mang ư thức phân biệt. Nếu
như do cái năng kiến của vọng tâm mà chấp
trước vào cảnh sở kiến, cho nó chẳng phải
là huyễn th́ cái chẳng phải là huyễn ấy cũng
trở thành huyễn”.
[73] Do Nhân Không và Pháp
Không vốn là điều sẵn có trong chân tâm, nên gọi
là Câu Không (cái Không vốn sẵn có), nhưng do vô minh chấp
trước nên mới có Ngă Chấp và Pháp Chấp. Khi Ngă Chấp
và Pháp Chấp đă diệt th́ hai thứ Không này tự
nhiên hiện tiền nên bảo là ‘chẳng sanh’.
[74] Do Đạo Gia không hiểu được
chân tướng của sự vật, coi Đạo là một
cái ǵ u huyền, xa vời, không thể h́nh dung nhận biết
được nên mới diễn tả Đạo là ‘hôn hôn, mặc mặc’. Sự
diễn giải, cảm nhận ấy vẫn là do ư tưởng
suy lường, gần như cảnh giới Phi Tưởng
Phi Vô Tưởng, tức là vẫn thuộc về Pháp Trần
(đối tượng nhận biết của ư thức)
nên kinh Lăng Nghiêm gọi cảnh giới đó là “pháp trần phân biệt ảnh
sự”.
[75] Pháp sư Huệ
Không giảng : Trong đoạn này, ngài Vĩnh Gia nói về
cách tu Chỉ Quán. “Tịch tịnh”
là trạng thái tâm không c̣n hết thảy vọng tưởng,
do vọng tưởng đă bị sức quán chiếu phá
trừ sạch. Tuy thế, ta vẫn c̣n có tri giác, có thần
thức, có giác tánh, nhận biết sự vật đúng
như bản chất của chúng, khả năng đó gọi
là “tinh tinh”. Như vậy,
nhận biết sự vật rơ ràng không phân biệt, không
chấp trước, trong tâm không lưu lại bóng dáng trần
cảnh th́ đó là đúng, tu tập không sai nên mới nói “tinh tinh tịch tịch thị”
(hay nói cách khác là “chiếu mà tịch”).
Nếu không thể nhận biết sự vật, chỉ
đắm chấp nơi tịch tịch th́ đă tu tập
sai (ta thường gọi là “trầm
không trệ tịch”) th́ là sai, nên mới nói “vô kư tịch tịch phi”. Tâm vắng lặng, không vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, nhưng vẫn
có công năng thấu hiểu sự vật rơ ràng (nói cách
khác là “tịch nhưng chiếu”)
th́ là đúng nên mới nói “tịch
tịch tinh tinh thị”. Nếu hiểu biết phát sanh
từ cái tâm loạn tưởng th́ là sai, nên mới nói “loạn tưởng tinh tinh phi”.