Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng
Tụng
Quyển 1
觀世音菩薩本跡感應頌,
卷一
彭澤菩薩戒弟子許止淨述
Phần 2
Bành Trạch
Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh
soạn
Ấn
Quang Đại Sư giám định
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến và Huệ Trang
Từ đây trở đi, tuy biết
các pháp ĺa danh tự, nhưng nói các pháp như huyễn,
như nắng gợn[1], chúng
sanh vô tướng, nhưng độ chúng sanh như mộng,
như bóng (Từ đây trở
đi là phần ca tụng sự phát tâm thọ kư của
Quán Âm Đại Sĩ được nói trong kinh Bi Hoa, gồm
hai đoạn).
Phẩm
Hiền Thủ kinh Hoa Nghiêm chép: “Linh tri chúng sanh tánh không tịch, nhất thiết
chư pháp vô sở hữu, diễn thuyết chư pháp
không, vô chủ, như huyễn, như diệm, thủy
trung nguyệt, năi chí do như mộng, ảnh, tượng.
Thị cố, đắc thành thử quang minh” (Khiến cho biết tánh của chúng sanh
là rỗng lặng, hết thảy các pháp không có sở hữu,
diễn nói các pháp không, vô chủ, như huyễn, như
bóng nắng dợn, như trăng in h́nh trong nước,
cho đến giống như mộng, bóng, h́nh. V́ thế,
được thành quang minh này). Kinh Duy Ma chép: “Pháp vô danh
tự, ngôn ngữ đoạn cố” (Pháp không có danh tự v́
ngôn ngữ dứt bặt). Phẩm Phát Tâm Công Đức
kinh Hoa Nghiêm có đoạn: “Tuy
quán chư pháp nhi bất thủ, hằng cứu chúng sanh vô
sở độ. Tri không, vô tướng, vô chân thật, nhi
hành kỳ tâm bất giải thoái” (Tuy quán các pháp nhưng
chẳng giữ lấy, luôn cứu chúng sanh nhưng không thấy
có kẻ được độ. Biết là không, vô tướng,
không chân thật, nhưng hành cái tâm ấy chẳng lười
nhác, lui sụt).
Bởi vậy, trong kiếp
Thiện Tŕ, Phật hiệu là Bảo Tạng. Trong thuở
ấy, Di Đà có hiệu là Ly Tịnh, Bồ Tát làm Thái Tử,
mang cái tên hư giả là Bất Thuấn. Đại thần
Phạm Chí phổ độ trọn khắp các hàng trời
rồng. Các tiểu vương tử phát nguyện cầu
thoát khỏi tay ma. Khi ấy, do Đồng Sự, Ái Ngữ,
Đại Sĩ thị hiện thuộc địa vị
phàm phu, cầu giàu có, cầu sanh lên cơi trời, chẳng biết
đến Duyên Giác. Sống chết ŕnh ngó cái thân, nghiễm
nhiên như sói, hổ, đền thân nợ mạng, truyền
măi cái vỏ là người, là dê.
Khi ấy, ngài Hải Tế đại
bi lại khuyên họ hăy phát tâm. Đức Di Đà
được thọ kư thành Chánh Giác trước tiên.
Đại Sĩ cúng dường [Bảo Tạng Phật]
trong chín mươi ngày, hồi hướng Bồ Đề.
Tư duy suốt bảy năm để chọn lấy
cơi tịnh. Cảm khái lục đạo xoay vần, tam
đồ dễ đọa, thoái thất chánh pháp, hết sạch
thiện căn, thâu giữ hạnh tà, phần nhiều v́ bạn
ác [xúi giục], Ngài bèn nguyện khi hành Bồ Tát đạo,
sẽ xa ĺa những sự sợ hăi. Không nơi
nương tựa, không nơi an trụ, chúng sanh phiền
năo lắm đường; dù thấy, hay nghe, nguyện của
ta rộng sâu như biển. Sanh tâm đại bi cứu khổ,
bèn hiệu là Quán Âm. Kế thừa Vô Lượng Thọ
thành Phật, lại có hiệu là Thức Đức. Đấy
là Đại Sĩ suất lănh một trăm ức người
cùng phát đại tâm. V́ thế, trong các cơi mười
phương, lại được chư Phật thọ
kư.
Theo kinh
Bi Hoa, xưa kia, trong số A-tăng-kỳ kiếp nhiều
như cát sông Hằng, có một kiếp tên là Thiện Tŕ.
Chuyển Luân Thánh Vương tên là Vô Tránh Niệm, vua có một
ngàn người con. Thái Tử thứ nhất tên là Bất Thuấn,
suốt trong ba tháng cúng dường Bảo Tạng Như
Lai, ai nấy đều phát tâm, nguyện làm Đao Lợi
thiên vương, hoặc Phạm Vương, Ma
Vương, Chuyển Luân Vương, hoặc nguyện
giàu to, hoặc cầu làm Thanh Văn, không một ai cầu
thành Duyên Giác, huống hồ cầu Đại Thừa! Khi
ấy, đại thần là Bảo Hải phạm-chí[2],
khuyên khắp nam nữ trong thế giới và trời, rồng,
quỷ thần v.v... hăy phát Bồ Đề tâm. Ông mộng
thấy mặt vua và các vương tử hoặc là như
mặt lợn, hoặc như mặt sư tử, cáo, sói,
báo v.v... ăn các loại trùng. Lại có vô lượng chúng
sanh đến ăn thịt chúng, nhiều lượt thọ
thân cũng giống như vậy. Do vậy, khuyên họ
hăy cùng phát Bồ Đề tâm.
Thái Tử tư duy tu
tập đủ mọi thứ trang nghiêm hợp thành thế
giới Phật của chính ḿnh. Trong bảy năm, tâm không
ham muốn, cho đến không có ư tưởng nghĩ nhớ
hương, vị, xúc. V́ thế, bèn nói: “Ta xem thấy địa ngục nhiều sự khổ
năo, trong cơi trời người, lắm phen đọa tam
ác đạo. Các chúng sanh này do thân cận ác tri thức nên
thoái thất chánh pháp, dứt hết các thiện căn, thâu
giữ đủ mọi tà kiến che lấp cái tâm, hành
theo tà đạo. Nguyện khi ta hành Bồ Tát đạo,
chúng sanh nào hứng chịu các thứ khổ năo, sợ hăi,
không ai cứu vớt, che chở, không nơi nương tựa,
không chốn nương náu, nhưng nếu kẻ ấy có
thể nghĩ tới ta, xưng danh hiệu ta th́ ta do thiên
nhĩ nghe tiếng, do thiên nhăn trông thấy những chúng
sanh ấy mà nếu chẳng cứu họ thoát khỏi những
khổ năo ấy, ta trọn chẳng thành A Nậu Bồ
Đề (Vô Thượng Chánh Giác).
Bảo Tạng Phật
thọ kư rằng:
- Ông quán sát trời, người, và hết
thảy chúng sanh trong tam ác đạo, sanh tâm đại bi,
muốn dứt các sự khổ năo của chúng sanh, muốn
chúng sanh an trụ trong an lạc, nên nay ta sẽ đặt
tên cho ông là Quán Thế Âm. Khi Vô Lượng Thọ Phật
nhập Niết Bàn th́ cơi ấy sẽ đổi tên là thế
giới Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu, thế
giới An Lạc chẳng sánh bằng được tất
cả các thứ trang nghiêm vô lượng vô biên [trong cơi Nhất
Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu]! Trong khoảng một
niệm, ông thành Đẳng Chánh Giác, hiệu là Biến Xuất
Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương
Như Lai.
Đức Phật
nói kệ rằng:
- Bậc đại bi công đức, nay
hăy dấy khởi lên, chư Phật trong mười
phương, đă thọ kư cho ông, ông sẽ được
thành Phật, cho nên hăy hoan hỷ”.
Kinh Phân Đà Lợi
lại dịch chữ Vô Tránh Niệm thành Ly Tịnh, dịch
Bảo Hải thành Hải Tế. [Theo kinh Bi Hoa, ngài Quán Âm
thành Phật có hiệu là] Biến Xuất Nhất Thiết
Quang Minh Công Đức Sơn, [kinh Phân Đà Lợi] dịch
là Quang Minh Phổ Chí Tôn Thức Đức Vương.
Bố thí, ái ngữ,
lợi hành, đồng sự được gọi là Tứ
Nhiếp Pháp. Lăng Nghiêm Kinh: “Dĩ
nhân thực dương, dương tử vi nhân, nhân tử
vi dương. Như thị năi chí thập sanh chi loại,
tử tử, sanh sanh, hỗ tương lai đạm”
(Do người ăn dê, dê chết thành người, người
chết thành dê. Như thế cho đến mười loại
chúng sanh, chết chết, sống sống, ăn nuốt lẫn
nhau). Kinh c̣n dạy: “Nhữ phụ
ngă mạng, ngă hoàn nhữ trái, dĩ thị nhân duyên, kinh
bách thiên kiếp, thường tại sanh tử”
(Ngươi nợ mạng ta, ta đ̣i nợ ngươi, do
nhân duyên ấy, trải trăm ngàn kiếp, thường ở
trong sanh tử). Kinh Pháp Hoa chép: “Hoằng
thệ thâm như hải, lịch kiếp bất tư nghị”
(Thệ rộng sâu như biển, trải kiếp chẳng
nghĩ bàn). Bi Hoa Kinh: “Nhĩ thời
hữu cửu thập nhị ức chúng sanh, diệc các
phát nguyện, thủ chủng chủng trang nghiêm thắng
diệu Phật độ” (Khi ấy, có chín mươi
hai ức chúng sanh cũng đều phát nguyện, giữ lấy
các thứ cơi Phật trang nghiêm thù thắng nhiệm mầu).
Đến
khi đức Phật Năng Nhân ta, giáng thần cơi Kham Nhẫn,
là minh quân Oai Đức, nay thành đấng Chánh Giác, Ngài
chính là Phạm Chí đại bi. Đă sớm có nhân duyên, nên
Đại Sĩ hóa làm Bồ Tát, người theo học đông
như cát sông Hằng, giúp Phật độ chúng sanh, hiện
thân càng trọn khắp (Từ đây trở đi là phần ca tụng
chương hai mươi bảy trong phần Thiện Tài
tham học của kinh Hoa Nghiêm, gồm năm đoạn).
Thích Ca
Mâu Ni (Śākyamuni) dịch nghĩa là Năng Nhân Tịch
Mặc. Chữ Kham Nhẫn xin coi trong phần trước.
Thọ Kư Kinh: “Phật ngôn: - Oai
Đức Vương, ngă thân thị dă” (Phật nói: -
Oai Đức Vương là thân ta đấy). Bi Hoa Kinh: “Phật ngôn: - Nhĩ thời,
đại bi Phạm Chí tắc ngă thân thị” (Đức
Phật nói: - Vị Phạm Chí đại bi khi ấy chính
là thân ta). Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của
kinh Hoa Nghiêm có chép: “Bát giả,
thường tùy Phật học” (Điều thứ tám
là thường học theo Phật).
1. Trước
hết, diễn nói Hoa Nghiêm, đồng quy pháp giới.
2. Thiện
Tài hỏi đạo, đă đến thành Thiện Độ.
Hàm Nhiếp thôi thăng[3], riêng chỉ bày biển Phạm Âm.
3. Bèn có
núi hiệu Bạch Hoa, đất do các báu hợp thành.
4. Suối
chảy, ao chuôm, nước công đức thường
đầy ắp. Hoa quả, rừng cây, hương giáo
hóa tỏa trọn (Ca
tụng sự khen ngợi phẩm đức, đề
cao [Quán Âm Đại Sĩ] của [cư sĩ] Bệ Sắt
Chi La [trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm].
Do Bồ Tát đại bi nên tôi đặc biệt thêm vào một
đoạn tán tụng).
(1) Đức
Như Lai lúc mới thành đạo, hiện Báo Thân viên măn
Lô Xá Na, trong hai mươi mốt ngày, diễn nói kinh Hoa
Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm lấy pháp giới chẳng thể
nghĩ bàn làm tông[4],
gồm mười hội thuyết pháp. Cuối cùng là phẩm
Nhập Pháp Giới. Đó gọi là “không ǵ chẳng từ pháp giới này lưu xuất,
không ǵ chẳng trở về pháp giới này”.
(2) Thiện
Tài đi về phương
(3 & 4)
Theo kinh Hoa Nghiêm, cư sĩ dạy Thiện Tài như sau: “Ư thử Nam phương hữu
sơn, danh Bổ Đát Lạc Ca, bỉ hữu Bồ Tát,
danh Quán Tự Tại. Tức tụng viết: - Hải
thượng hữu sơn đa thánh hiền, chúng bảo
sở thành cực thanh tịnh, hoa quả thụ mộc
giai biến măn, tuyền lưu tŕ chiểu tất cụ
túc. Dũng mănh trượng phu Quán Tự Tại, vị lợi
chúng sanh trụ thử sơn. Nhữ ưng văng vấn
chư công đức, bỉ đương thị nhữ
đại phương tiện” (Ở phương
1. Thấy
hang đá trong rừng, trên tảng đá Kim Cang.
2. Có
trượng phu dũng mănh, tức bậc thánh từ bi.
3. Đuốc
trí vô tận, làm quang minh trong đêm tối. Hết thảy
mây pháp, che chở, tăng trưởng mầm phước
(Ca tụng Thiện
Tài vừa thấy Đại Sĩ, trong tâm bèn tán thán)
(1) Hoa
Nghiêm Kinh: “Thiện Tài chí ư
bỉ sơn, cầu mịch thử Đại Bồ Tát,
kiến Tây diện nham cốc chi trung, thụ lâm ông úc,
hương thảo nhu nhuyễn, hữu toàn bố địa.
Quán Tự Tại Bồ Tát, ư Kim Cang thạch thượng,
kết già phu tọa” (Thiện Tài đến núi ấy t́m
kiếm vị Đại Bồ Tát ấy, thấy trong vùng
hang đá ở phía Tây, rừng cây xanh tươi, cỏ
thơm mềm mại phủ khắp đất, mọc
xoay về bên phải, Quán Tự Tại Bồ Tát ngồi xếp
bằng trên tảng đá Kim Cang).
(2) Xem chữ
“dũng mănh trượng phu”
trong phần trước.
(3) [Cũng
theo kinh Hoa Nghiêm], Thiện Tài trông thấy, hoan hỷ, hớn
hở, nghĩ như thế này: Thiện tri thức là mây
pháp của hết thảy. Thiện tri thức là đuốc
trí vô tận. Thiện tri thức là rễ mầm phước
đức.
Đại
Sĩ thuộc địa vị Tùy Thuận Chúng Sanh Hồi
Hướng, nói hạnh môn Đại Bi Giải Thoát, hiện
đang hành Tứ Nhiếp, chẳng giống ba mươi
lăm thân. Phát nguyện ở trong cơi Đồng Cư, nhằm
dứt trừ vĩnh viễn mười tám thứ sợ
hăi, khiến cho những ai xưng danh, nh́n mặt Ngài đều
quay về môn phương tiện, sám quả, tu nhân, rốt
cuộc vào nẻo Bồ Đề (Ca tụng Đại Sĩ giảng
cho Thiện Tài pháp môn Đại Bi Giải Thoát)
Đại Sĩ là vị thiện
tri thức thứ hai mươi bảy trong chuyến
đi về phương
Kinh chép: “Ngă dĩ thử Bồ Tát Đại
Bi hạnh môn, b́nh đẳng giáo hóa nhất thiết chúng
sanh, tương tục bất đoạn. Thiện nam tử!
Ngă trụ thử Đại Bi hạnh môn, thường tại
nhất thiết chư Như Lai sở, phổ hiện nhất
thiết chúng sanh chi tiền. Hoặc dĩ bố thí, nhiếp
thủ chúng sanh; hoặc dĩ ái ngữ, hoặc dĩ lợi
hành, hoặc dĩ đồng sự nhiếp thủ chúng
sanh. Hoặc hiện sắc thân nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc
hiện chủng chủng bất tư nghị sắc, tịnh
quang minh vơng nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc dĩ âm thanh,
hoặc dĩ oai nghi, hoặc vị thuyết pháp, hoặc
hiện thần biến, linh kỳ tâm ngộ nhi đắc
thành thục. Hoặc vị hóa hiện đồng loại
chi h́nh, dữ kỳ cộng cư, nhi thành thục chi.
Thiện nam tử! Ngă tu hành thử Đại
Bi hạnh môn, nguyện thường cứu hộ nhất
thiết chúng sanh. Nguyện nhất thiết chúng sanh ly hiểm
đạo bố, ly nhiệt năo bố, ly mê hoặc bố,
ly hệ phược bố, ly sát hại bố, ly bần
cùng bố, ly bất hoạt bố, ly ác danh bố, ly ư
tử bố, ly đại chúng bố, ly ác thú bố , ly hắc
ám bố, ly thiên di bố, ly ái biệt bố, ly oán hội
bố, ly bức bách thân bố, ly bức bách tâm bố, ly
ưu bi bố. Phục nguyện chư chúng sanh, nhược
niệm ư ngă, nhược xưng ngă danh, nhược kiến
ngă thân, giai đắc miễn ly nhất thiết bố úy.
Thiện nam tử! Ngă dĩ thử
phương tiện linh chư chúng sanh, ly bố úy dĩ,
phục giáo linh phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề tâm, vĩnh bất thoái chuyển”
(Ta dùng hạnh môn
Đại Bi này của bậc Bồ Tát để b́nh
đẳng giáo hóa hết thảy chúng sanh liên tục chẳng
dứt.
Này thiện nam tử!
Ta trụ trong hạnh môn Đại Bi này, thường ở
nơi hết thảy Như Lai, hiện trước khắp
hết thảy chúng sanh, hoặc dùng bố thí để nhiếp
thủ chúng sanh, hoặc dùng ái ngữ, hoặc dùng lợi
hành, hoặc dùng đồng sự để nhiếp thủ
chúng sanh, hoặc hiện sắc thân để nhiếp thủ
chúng sanh. Hoặc hiện lưới quang minh trong sạch
có các thứ sắc chẳng thể nghĩ bàn để
nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai
nghi, hoặc v́ họ thuyết pháp, hoặc hiện thần
thông biến hóa, khiến cho tâm họ ngộ, được
thành thục. Hoặc v́ họ hiện thân h́nh giống
như họ, cùng ở chung với họ để thành thục
họ.
Này thiện nam tử!
Ta tu hành hạnh môn Đại Bi này, nguyện thường
cứu vớt, che chở hết thảy chúng sanh. Nguyện
hết thảy chúng sanh ĺa nỗi sợ nơi đường
hiểm, ĺa nỗi sợ nhiệt năo, ĺa nỗi sợ mê
hoặc, ĺa nỗi sợ trói buộc, ĺa nỗi sợ sát
hại, ĺa nỗi sợ nghèo túng, ĺa nỗi sợ chẳng
sống sót, ĺa nỗi sợ tiếng ác, ĺa nỗi sợ
chết chóc, ĺa nỗi sợ đại chúng, ĺa nỗi sợ
[bị đọa] đường ác, ĺa nỗi sợ tối
tăm, ĺa nỗi sợ dời chuyển, ĺa nỗi sợ
yêu thương mà phải chia ĺa, ĺa nỗi sợ oán ghét phải
gặp gỡ, ĺa nỗi sợ thân bị bức bách, ĺa nỗi
sợ tâm bị bức bách, ĺa nỗi sợ lo buồn. Lại
nguyện các chúng sanh hoặc nghĩ tới ta, hoặc
xưng danh ta, hoặc thấy thân ta, đều được
tránh ĺa hết thảy sợ hăi.
Này thiện nam tử!
Ta dùng phương tiện này khiến cho các chúng sanh ĺa sợ
hăi xong, lại dạy họ phát tâm Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, vĩnh viễn không lui sụt)
Ngài Thanh Lương
giảng: “Từ chữ bố
thí trở đi nói về ư nghĩa ‘phổ hiện’ (hiện
trọn khắp). So với ba mươi lăm ứng thân
được nói trong kinh Pháp Hoa th́ mới thoạt nh́n [những
sự ứng hóa nói trong đoạn kinh văn này] dường
như ít ỏi, nhưng về ư nghĩa lại nhiều.
Ba mươi lăm ứng thân ấy chỉ là các thứ sắc
thân thị hiện và sự thuyết pháp [đă được
nói] trong đoạn này”.
1. Thật đúng là: Chúng sanh
ví như cội rễ, chư Phật chính là hoa quả.
2. Phụng
sự mười hai loại chúng sanh giống như cha mẹ,
tam thế chư Phật mới đắc Bồ Đề.
3. Ấy
là v́: Tự và Tha chẳng ngăn cách mảy lông, chúng sanh và
Phật vốn không sai biệt.
4. V́ thế,
trưởng tử Phổ Hiền khởi đủ vạn
hạnh, con thứ Văn Thù viên thành Chủng Trí. Chẳng
lên cửa Đại Sĩ, khó nhập biển Tỳ Lô! (Ca tụng địa vị Tùy
Thuận Chúng Sanh Hồi Hướng của Đại
Sĩ)
(1) Phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: “Thí như khoáng dă, hữu đại thụ
vương, nhược căn đắc thủy, chi, diệp,
hoa, quả tất giai phồn mậu. Sanh tử khoáng dă Bồ
Đề thụ vương, diệc phục như thị.
Nhất thiết chúng sanh nhi vi thụ căn, chư Phật,
Bồ Tát nhi vi hoa quả. Dĩ đại bi thủy, nhiêu
ích chúng sanh, tắc năng thành tựu chư Phật, Bồ
Tát trí huệ hoa quả” (Ví như nơi đồng
hoang có một cây chúa[6],
nếu rễ của nó được nước thấm
nhuần th́ cành, lá, hoa, quả thảy đều xum xuê. Cây
chúa Bồ Đề trong đồng hoang sanh tử cũng
giống như vậy. Hết thảy chúng sanh là rễ
cây, chư Phật, Bồ Tát là hoa quả. Dùng nước
Đại Bi làm lợi ích chúng sanh th́ sẽ có thể thành
tựu hoa quả trí huệ Phật, Bồ Tát).
(2) Kinh
c̣n chép: “Sở vị, noăn sanh,
thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, vô túc, nhị túc, tứ túc,
đa túc, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô
tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng,
như thị đẳng loại, ngă giai ư bỉ tùy thuận
nhi chuyển. Chủng chủng thừa sự, chủng chủng
cúng dường, như kính phụ mẫu, như phụng
sư trưởng, cập A La Hán, năi chí Như Lai, đẳng
vô hữu dị” (Đó là noăn sanh, thai sanh, thấp sanh,
hóa sanh, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có sắc,
không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng phải
có tưởng, chẳng phải không tưởng, đối
với những loài như vậy, ta đều tùy thuận
chuyển hóa họ. Các thứ hầu hạ, các thứ cúng
dường, như kính cha mẹ, như thờ sư
trưởng, và A La Hán cho đến Như Lai, giống hệt
không khác).
Kinh c̣n
chép: “Nhược chư Bồ
Tát dĩ đại bi thủy, nhiêu ích chúng sanh, tắc
năng thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. Thị cố Bồ Đề thuộc ư
chúng sanh” (Nếu các Bồ Tát dùng nước Đại
Bi tạo lợi ích cho chúng sanh th́ sẽ có thể thành tựu
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. V́ vậy, Bồ
Đề thuộc về chúng sanh).
(3) Phẩm
Dạ Ma Kệ Tán của kinh Hoa Nghiêm có đoạn: “Như tâm, Phật diệc
nhĩ. Như Phật, chúng sanh nhiên. Tâm, Phật, dữ
chúng sanh. Thị tam vô sai biệt” (Như tâm, Phật
cũng thế. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật
và chúng sanh, cả ba không sai biệt).
(4) Sách [Hoa
Nghiêm] Hợp Luận viết: “Trưởng
tử [của chư Như Lai] là Phổ Hiền nêu quả
đức nơi Tạng thân, con thứ là Văn Thù,
khơi mở cho kẻ tối tăm về thế giới
Kim Sắc”. Sách c̣n viết: “Phổ
Hiền biểu thị Hạnh, Văn Thù biểu thị
Trí, Quán Âm biểu thị Bi. Ba pháp thuộc vào một
người, đầy đủ, trọn khắp, nên gọi
là Tỳ Lô Giá Na. Không có Thập Hồi Hướng, sẽ
không có Bồ Tát thành Phật đạo”.
1.
Nhưng Viên Giáo, Đốn Giáo, chỉ độ bậc
đại căn, c̣n với hạng điếc câm th́ vẫn
hành đạo nhỏ.
2. Ấy
là v́: Nh́n thấy bóng trong gương, vô cớ phát cuồng.
Chẳng biết: Trong chéo áo giấu châu, vốn chưa từng
mất (Từ
đây trở đi ca tụng Tâm Kinh, gồm hai đoạn).
(1) Ngài Hiền
Thủ phán định giáo pháp:
- Một là Tiểu Thừa
Giáo.
- Hai là Đại Thừa
Thỉ Giáo.
- Ba là Đại Thừa
Chung Giáo.
- Bốn là Đốn
Giáo.
- Năm là Viên Giáo.
Kinh Hoa Nghiêm thuộc
Đốn Viên. Hoa Nghiêm lấy hàng phàm phu đại căn
làm đương cơ. Phẩm Nhập Pháp Giới có
đoạn: “Ư thị
thượng thủ chư đại Thanh Văn, Xá Lợi
Phất đẳng tại Thệ Đa lâm, giai tất bất
kiến Như Lai thần lực dĩ chí bất khả
tư nghị Bồ Tát cảnh giới. Hà dĩ cố?
Chư đệ tử y Thanh Văn thừa nhi cầu xuất
ly cố” (Khi ấy, các bậc thượng thủ trong
hàng đại Thanh Văn như Xá Lợi Phất v.v... ở
trong rừng Thệ Đa[7] đều chẳng thấy được
thần lực của Như Lai cho đến cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát. V́ sao vậy? V́
các đệ tử nương theo Thanh Văn thừa để
cầu xuất ly). [Hoa Nghiêm Kinh] Sớ Sao giảng: “Hoa Nghiêm hiển thị trực
tiếp Nhất Thật sâu huyền, mà họ lại dùng
Quyền Trí để nhận biết nên như câm điếc”.
(2) Lăng
Nghiêm Kinh: “Thất La thành trung,
Diễn Nhă Đạt Đa, hốt ư thần triêu,
dĩ kính chiếu diện, ái kính trung đầu, my mục
khả kiến, sân trách kỷ đầu, bất kiến
diện mục, dĩ vi si mị, vô trạng cuồng tẩu”
(Trong thành Thất La (Śrāvastī, tức thành Xá Vệ),
chàng Diễn Nhă Đạt Đa (Yajñadatta) buổi sáng chợt
soi gương, yêu mến cái đầu [hiện bóng] trong
gương v́ nó có lông mày và mắt có thể nh́n thấy
được, giận trách cái đầu của chính ḿnh sao
chẳng thấy được vẻ mặt, cho nó là yêu
quái, vô duyên cớ điên cuồng chạy quàng).
Kinh c̣n chép: “Thí như hữu nhân, ư tự
y trung, hệ Như Ư châu, bất tự giác tri, cùng lộ
tha phương, khất thực tŕ tẩu. Tuy thật bần
cùng, châu bất tằng thất” (Ví như có kẻ ở
trong áo ḿnh buộc châu Như Ư mà không hay biết, túng quẫn
nơi quê người, lê la ăn xin. Tuy thật bần
cùng, nhưng châu chưa từng mất).
1. Đại
Sĩ động ḷng thương xót sâu xa, chỉ bày Bát
Nhă.
2. Voi chúa
xoay ḿnh đoái trông, kêu tên Thu Tử.
3. Sắc
chính là Không, Không chính là Sắc, chẳng cần phải chia
chẻ đến lân hư trần. Bất sanh, bất diệt,
chớ nh́n lầm nước sông Hằng.
4. Phá được
Ngũ Ấm, tướng mười tám giới[8]
đều tiêu. Tứ Đế chẳng làm, mười
hai duyên liền dứt.
5. Đến
lúc ấy, thân chứa mười phương, miệng nuốt
ba đời.
6. Chẳng
thấy Phật nơi Niết Bàn, tâm c̣n do đâu vướng
mắc?
7. Như
xướng Kim Cang tự mẫu đă qua khỏi môn chữ
Trà; đấy là Bát Nhă tổng tŕ, bèn nói chú Ba La, ḥng độ
khắp lợi độn, mà cũng là nhằm khiến Bi
lẫn Trí viên dung.
Bị
chú của người dịch: Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh không chú thích cho câu
thứ nhất trong đoạn này.
(2) Phẩm Nhập
Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm có chép: “Văn Thù Sư Lợi như tượng
vương hồi, quán chư tỳ-kheo” (Ngài Văn Thù
Sư Lợi như voi chúa quay ḿnh, nh́n các tỳ-kheo). Xá Lợi
Tử (Śāriputra), cơi này dịch là Thu Tử, do gọi
theo tên mẹ[9].
(3) Tâm Kinh: “Sắc bất dị Không, Không bất
dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị
Sắc”. Lăng Nghiêm Kinh: “Thô
vi đại địa, tế vi vi trần. Chí lân hư trần,
tích bỉ cực vi sắc biên tế tương thất
phần sở thành. Cánh tích lân hư, tức thật không
tánh” (Thô là đại địa, nhỏ nhặt là vi trần.
C̣n như lân hư trần là do chia cực vi sắc biên tế
ra bảy phần mà thành. Lại chia chẻ lân hư trần
th́ nó thật sự là tánh Không). Tâm Kinh: “Thị chư pháp Không tướng, bất sanh, bất
diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng, bất
giảm” (Tướng Không của các pháp chẳng sanh, chẳng
diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng
tăng, chẳng giảm).
Lăng Nghiêm Kinh: “Phật cáo Nặc vương: -
Ngă kim thị nhữ bất sanh diệt tánh. Nhữ niên kỷ
thời kiến Hằng hà thủy? Vương ngôn: - Ngă
sanh tam tuế, kinh quá thử lưu, tức tri thị Hằng
hà thủy. Phật ngôn: - Nhữ thuyết nhị thập
chi thời, suy ư thập tuế, năi chí lục thập,
nhật nguyệt tuế thời, niệm niệm thiên biến.
Tắc nhữ tam tuế, kiến thử hà thời, chí niên
thập tam, kỳ thủy vân hà? Vương ngôn: - Như
tam tuế thời, uyển nhiên vô dị, năi chí ư kim niên
lục thập nhị, diệc vô hữu dị! Phật
ngôn: - Nhữ kim tự thương phát bạch diện trứu.
Nhữ diện tuy trứu, nhi thử kiến tinh tánh vị
tằng trứu. Trứu giả vi biến, bất trứu
phi biến. Biến giả thọ diệt, bỉ bất
biến giả nguyên vô sanh diệt, vân hà ư trung thọ
nhữ sanh tử?” (Phật bảo vua Ba Tư Nặc[10]:
- Nay ta chỉ cho ông tánh không sanh diệt. Ông thấy nước
sông Hằng lúc mấy tuổi? Vua thưa: - Khi con ba tuổi
đi qua ḍng sông ấy, liền biết nước sông Hằng.
Phật nói: - Ngươi nói xem: Từ lúc hai mươi tuổi,
già suy hơn lúc mười tuổi, cho đến sáu
mươi, ngày giờ năm tháng, niệm niệm đổi
đời, như vậy th́ từ lúc ngươi ba tuổi
trông thấy sông ấy cho đến năm mười ba
tuổi, nước sông ra sao? Vua đáp: - Giống như
thuở ba tuổi, y hệt không khác ǵ, thậm chí đến
nay con được sáu mươi hai tuổi, cũng chẳng
khác ǵ! Phật dạy: - Ông nay tự xót xa đầu bạc,
mặt nhăn. Mặt ông tuy nhăn, nhưng cái tánh thấy
trong trẻo ấy chưa từng bị nhăn. Nhăn là
biến đổi, không nhăn là chẳng biến đổi.
Hễ biến đổi sẽ bị diệt, c̣n cái không
biến đổi vốn chẳng sanh diệt, cớ sao
ông lại phải chịu sanh tử?)
(4) Tâm Kinh: “Chiếu kiến Ngũ Uẩn
giai không” (Soi thấy năm Uẩn đều không). C̣n
nói: “Vô nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ư, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vô nhăn giới,
năi chí vô ư thức giới” (Không có mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ư, không sắc,
thanh, hương, vị xúc pháp. Không có nhăn giới cho đến
không có ư thức giới). Tứ Đế là Khổ, Tập,
Diệt, Đạo. Ngài Thanh Nguyên Hành Tư nói: “Thánh Đế cũng chẳng
làm”.
Tâm Kinh: “Vô vô minh, diệc vô vô minh tận,
năi chí vô lăo tử, diệc vô lăo tử tận” (Không có vô
minh, cũng chẳng có hết vô minh, cho đến không có
già chết mà cũng không có hết già chết), đấy
chính là mười hai pháp duyên sanh.
(5) Lăng Nghiêm Kinh: “Tâm tinh biến viên, hàm lư thập
phương” (Cái tâm trong trẻo trọn khắp, chứa
đựng mười phương). Lại chép: “Thân hàm thập phương vô tận
hư không” (Thân chứa mười phương vô tận
hư không). Ngài Nam Nhạc Huệ Tư nói: “Tam thế chư Phật bị ta một miệng nuốt
sạch”.
(6) Tâm Kinh: “Bồ Đề Tát Đỏa y
Bát Nhă Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại
cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo
mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn” (Do Bồ
Tát nương vào Bát Nhă Ba La Mật Đa nên tâm không vướng
mắc. Do không vướng mắc nên không sợ hăi, xa ĺa mộng
tưởng điên đảo, chứng rốt ráo Niết
Bàn). Lăng Già Kinh: “Nhất thiết
vô Niết Bàn, vô hữu Niết Bàn Phật, vô hữu Phật
Niết Bàn, viễn ly giác, sở giác” (Hết thảy
không có Niết Bàn. Không có Phật nơi Niết Bàn, mà
cũng chẳng có Niết Bàn của Phật, xa ĺa giác lẫn
sở giác).
Kinh Viên Giác lại
nói: “Nhất thiết Như Lai
diệu viên giác tâm, bổn vô Bồ Đề cập dữ
Niết Bàn, diệc vô thành Phật cập bất thành Phật”
(Tâm diệu viên giác của hết thảy Như Lai vốn
không có Bồ Đề và Niết Bàn, cũng chẳng có thành
Phật lẫn không thành Phật).
(7) Trong bốn
mươi hai tự mẫu[11]
của kinh Bát Nhă, chữ cuối
cùng là chữ Trà (ksa); v́ thế, sách Ma Ha Chỉ Quán viết:
“Qua khỏi chữ Trà không thể
nói nữa”. Gọi là Kim Cang [tự mẫu] v́ đây
chính là thân Kim Cang được chứng bởi Như Lai,
nghĩa ấy có thể thấy từ kinh Niết Bàn. Tâm
Kinh: “Cố tri Bát Nhă Ba La Mật
Đa thị đại thần chú, thị đại minh
chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng
chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất
hư. Cố thuyết Bát Nhă Ba La Mật Đa Chú” (V́ vậy,
biết Bát Nhă Ba La Mật Đa là đại thần chú, là
đại minh chú, là chú không chi hơn, là chú không ǵ sánh bằng,
trừ hết thảy khổ, chân thật chẳng dối.
Do vậy, nói Bát Nhă Ba La Mật Đa Chú). Chú, tiếng Phạn
là Đà La Ni (Dhāranī), dịch nghĩa là Tổng Tŕ.
1. Người học ngầm
tu Huệ sâu, v́ vào cửa ṭa nhà lộng lẫy. Kẻ chỉ
mới đắc Văn Huân, cũng gieo thành hạt giống
Kim Cang.
2. Quư ở chỗ chí thành, cung
kính, như thân cận oai trời! Đừng vọng
tưởng tư duy, uổng công đốt lửa đom
đóm mà thôi! (Từ
đây trở đi ca tụng pháp thức tŕ tụng thần
chú, gồm hai đoạn. Trước hết, riêng nêu công
đức tŕ kinh).
(1) Trong Lăng Nghiêm
Kinh, ngài A Nan nói: “Ngă kim do
như lữ bạc chi nhân, hốt mông thiên vương tứ
dữ hoa ốc, tuy hoạch đại trạch, yếu
nhân môn nhập” (Tôi nay giống như lữ khách lênh
đênh, chợt được thiên vương ban cho
căn nhà lộng lẫy. Tuy đă được căn
nhà to lớn, vẫn phải theo cửa để vào). Phẩm
Xuất Hiện kinh Hoa Nghiêm có câu: “Thực thiểu kim cang, chung cánh bất tiêu”
(Ăn chút kim cang, trọn chẳng tiêu được).
(2) Tổ Ấn Quang
nói: “Phàm tụng kinh ắt phải
chí thành, khẩn thiết như đối trước
thánh dung, đích thân nghe viên âm, từ đầu đến
cuối, một mực đọc qua, dù văn hay nghĩa
nhất loạt chẳng gắng tâm thấu hiểu. Xem
kinh như thế, kẻ lợi căn sẽ có thể ngộ
được hai pháp Không (Ngă Không và Pháp Không), chứng lư
Thật Tướng. Ngay như kẻ độn căn
cũng có thể tiêu trừ nghiệp chướng, tăng
trưởng phước huệ. Nếu một đằng
xem, một đằng phân biệt, sẽ hoàn toàn thuộc
về phàm t́nh vọng tưởng, phỏng đoán, suy
lường, làm sao có thể ngầm hợp ư Phật,
tăng phước huệ, tiêu nghiệp chướng cho
được?”
Ngài c̣n nói: “Muốn được lợi
ích thật sự nơi Phật pháp, cần phải cầu
từ nơi cung kính. Có một phần cung kính, sẽ tiêu
được một phần nghiệp chướng,
tăng một phần phước huệ. Có mười
phần cung kính, sẽ tiêu được mười phần
nghiệp chướng, tăng mười phần phước
huệ”.
Viên Giác Kinh: “Dĩ hữu tư duy tâm, trắc
độ Như Lai viên giác cảnh giới, như thủ
huỳnh hỏa, thiêu Tu Di sơn, chung bất năng trước”
(Dùng cái tâm có tư duy để suy lường cảnh giới
viên giác của Như Lai th́ giống như đem lửa
đom đóm thiêu núi Tu Di, trọn chẳng thể làm
được).
1. Chỉ v́: Chúng sanh thiếu
Huệ, tâm thiên trọng lắm nỗi phân biệt. Ngă Kiến
dễ tăng, nghe quá nhiều [mà không thấu hiểu] sẽ
thành lầm lỗi.
2. Tranh căi đoán ṃ màu sữa,
lời càng thốt lắm càng sai. Chưa nh́n thấu suốt
da trâu, Lư bị chướng ngăn chẳng thấy. [Do vậy,
Đại Sĩ] mở môn bí mật, dùng con đường
lấp chặt tư duy (Đây là trước khi ca tụng thần chú, nêu ra lư
do v́ sao chú ngữ không dịch nghĩa. V́ vậy, cổ
đức nói: “Chú viên măn, kiến giải thiên lệch. Hễ
nẩy sanh kiến giải th́ chú ngữ mất sạch ư
nghĩa”).
(1) Viên Giác Kinh: “Chúng sanh vô huệ mục”
(Chúng sanh không có con mắt huệ). Khởi Tín Luận: “Như Lai thiện xảo
phương tiện, nhờ vào ngôn ngữ để hướng
dẫn chúng sanh, khiến họ bỏ văn tự, nhập
chân thật. Nếu dựa theo lời nói, chấp vào ư
nghĩa, sẽ tăng trưởng phân biệt lầm lạc,
chẳng sanh Thật Trí, chẳng đắc Niết Bàn”.
Viên Giác Kinh: “Duy ích đa văn, tăng
trưởng Ngă Kiến” (Chỉ [chú trọng] nghe cho nhiều
sẽ tăng trưởng Ngă Kiến). Lăng Nghiêm Kinh: “Súc văn thành quá ngộ” (Nghe
quá nhiều trở thành lỗi lầm).
(2) Niết Bàn Kinh: “Như sanh manh nhân, bất thức
nhũ sắc, tiện vấn hà tự? Nhân ngôn: Bạch
như bối. Vấn: Như bối thanh da? Đáp ngôn: Bất
dă! Vấn: Bối sắc hà tự? Viết: Như mễ mạt.
Vấn: Nhu nhuyễn như mễ mạt da? Mễ mạt
phục hà tự? Viết: Như tuyết. Phục vấn:
Lănh như tuyết da? Tuyết phục hà tự? Thị
sanh manh nhân, tuy văn chủng chủng thí dụ, chung bất
năng thức nhũ chân sắc” (Như kẻ mù từ
lúc lọt ḷng, chẳng biết sữa màu ǵ, liền hỏi
giống như thế nào? Người ta nói: Trắng
như vỏ ốc. Liền hỏi: Như tiếng ốc
(tù và) thổi phải không? Đáp: Không phải! Hỏi: Màu
của vỏ ốc giống như thế nào? Đáp:
Như bột gạo. Hỏi: Mềm mịn như bột
gạo ư? Bột gạo lại giống như thế
nào? Đáp: Như tuyết. Lại hỏi: Lạnh như
tuyết ư? Tuyết lại giống như thế nào? Kẻ
mù từ lúc lọt ḷng ấy tuy nghe các thứ thí dụ, trọn
chẳng biết được màu sắc thật sự của
sữa).
Tăng sĩ hỏi
ngài Dược Sơn Nghiễm: “Ḥa
thượng chẳng cho người khác xem kinh, sao lại
tự ḿnh xem?” Ngài Dược Sơn bảo: “Ta chỉ che mắt”. Tăng
hỏi: “Như vậy th́
người học cũng bắt chước Ngài được
chăng?” Ngài Dược Sơn bảo: “Nếu ông xem th́ da trâu cũng bị xuyên thủng”.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng: “Xem kinh nào phải lọt da trâu”.
1. Khi ấy, đức Phật
ta ngự tại đạo tràng Trúc Duẫn, đại hội
xiển dương không ngăn che, Đại Sĩ làm Liên
Hoa Bộ Chủ[12], thống lănh các vị thần tiên tŕ
chú.
2. Nói ra chú tâm Thập Nhất
Diện, trọn khắp oai lực Tứ Tất Đàn.
3. Nhớ tại nơi Liên Hoa
Nhăn thuở trước, ở chỗ ngài Mỹ Âm
Hương.
4. Hoặc làm tiên nhân đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn, hoặc làm cư sĩ đạt Đại
Bi trí tạng.
5. Do tụng tŕ trăm lẻ
tám biến, vượt thoát bốn vạn kiếp sanh tử.
6. Mười thứ lợi
ích thù thắng, đă hưởng phước trong thuở
sanh tiền. Bốn thứ công năng, càng hiệu nghiệm
sau khi đă khuất.
7. Chỉ cần chí tâm tụng
niệm, Cực Lạc ắt sẽ sanh về. Nếu tu
hành đúng pháp, Bồ Đề nắm chắc trong tay (Đoạn này ca tụng Thập
Nhất Diện Chú Kinh. Do khi tŕ chú này, Ngài là tiên nhân hoặc
là cư sĩ, nên xếp vào trước phần này).
(1) Thập Nhất Diện
Chú Kinh: “Phật tại Thất
La Phiệt Trúc Duẫn đạo tràng” (Đức Phật
ở tại đạo tràng Măng Tre nơi thành Thất
La Phiệt). Lăng Nghiêm Kinh: “Khai
xiển vô giá, độ chư nghi báng” (Khai thị, xiển
dương, không ngăn che, để độ những kẻ
nghi ngờ, hủy báng). Mật Tông chia ra năm bộ,
Đại Sĩ là bộ chủ của Liên Hoa Bộ. Thập
Nhất Diện Chú Kinh: “Quán Tự
Tại Bồ Tát dữ vô lượng câu-chi na-dữu-đa
bách thiên tŕ chú thần tiên, đáo dĩ, đảnh lễ
Phật túc” (Quán Tự Tại Bồ Tát và vô lượng
câu-chi na-do-tha[13] trăm ngàn thần tiên tŕ chú đến
nơi rồi bèn lễ dưới chân Phật).
(2) Thập Nhất Diện
Chú Kinh[14]:
“Bạch Phật ngôn: - Ngă hữu
thần chú tâm, danh Thập Nhất Diện, cụ đại
oai lực” ([Quán Thế Âm Bồ Tát] bạch Phật rằng:
- Con có chú tâm[15]
tên là Thập Nhất Diện, đầy đủ oai lực).
Tứ Tất Đàn th́ một là thế giới Tất
Đàn, hai là vị nhân Tất Đàn, ba là đối trị
Tất Đàn, bốn là đệ nhất nghĩa Tất
Đàn. Tất Đàn (Siddhanta) nghĩa là “thí trọn khắp”.
(3 & 4 & 5) Kinh
chép: “Ngă ức quá khứ hằng
hà sa kiếp tiền, hữu Phật danh Bách Liên Hoa Nhăn. Ngă
thời tác đại tiên nhân, thọ đắc thử
chú, ứng thời chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Hựu
quá khứ quá hằng hà sa kiếp, hữu Phật danh Mỹ
Âm Hương, ngă thân tác đại cư sĩ, thọ
đắc thử chú, tiện ư sanh tử siêu tứ vạn
kiếp. Tụng tŕ thử chú, phục đắc chư Phật
đại bi trí tạng, nhất thiết Bồ Tát giải
thoát pháp môn” (Tôi nhớ hằng hà sa kiếp trước
trong quá khứ, có Phật hiệu Bách Liên Hoa Nhăn. Khi ấy,
tôi làm đại tiên nhân nhận lănh chú này, ngay khi ấy chứng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Lại qua khỏi hằng hà
sa kiếp về quá khứ, có Phật hiệu là Mỹ Âm
Hương, tôi làm thân đại cư sĩ, được
nhận lănh chú này, liền vượt thoát bốn vạn
kiếp sanh tử. Tụng tŕ chú này lại đắc
đại bi trí tạng của chư Phật và hết thảy
pháp môn giải thoát của Bồ Tát).
(6) Thập Nhất Diện
Thần Chú Kinh: “Thị cố
tịnh tín nam nữ, đương cung kính, chí tâm hệ
niệm. Mỗi thần triêu tụng chú nhất bách bát biến,
hiện thân hoạch thập chủng thắng lợi. Nhất
thân thường vô bệnh, nhị chư Phật nhiếp
thọ, tam tài bảo vô tận, tứ năng phục oán
địch, ngũ tôn quư cung kính, lục quỷ độc
bất thương, thất đao trượng bất hại,
bát thủy bất nịch, cửu hỏa bất thiêu, thập
bất hoạnh tử. Phục đắc tứ chủng
công đức thắng lợi: Nhất mạng chung đắc
kiến chư Phật, nhị chung bất đọa ác
thú, tam bất nhân hiểm ách tử, tứ đắc sanh Cực
Lạc thế giới” (Do vậy, kẻ nam người
nữ có ḷng tin trong sạch hăy nên cung kính, chí tâm hệ niệm.
Mỗi sáng sớm tụng chú một
trăm lẻ tám biến th́ nơi thân hiện tại
được mười thứ lợi ích thù thắng: Một
là thân thường không bệnh, hai là chư Phật nhiếp
thọ, ba là của cải vô tận, bốn là hàng phục
oán địch, năm là tôn quư, [được người
khác] cung kính, sáu là quỷ mị, chất độc không hại
được, bảy là đao gậy không hại
được, tám là nước chẳng nhấn ch́m, chín
là lửa chẳng đốt được, mười
là chẳng chết ngang trái. Lại c̣n được bốn
thứ công đức lợi ích thù thắng: Một là mạng
chung được thấy chư Phật, hai là trọn chẳng
đọa vào đường ác, ba là chẳng chết v́
nguy hiểm, tai ách, bốn là được sanh về thế
giới Cực Lạc).
(7) Thập Nhất Diện
Kinh Chú: “Ư ngă sở thuyết
thần chú, thọ tŕ, độc tụng, như thuyết
tu hành, thị nhân ư vô thượng Bồ Đề lănh
thọ như tại chưởng trung” (Đối với
thần chú do ta đă nói mà thọ tŕ, đọc tụng,
tu hành đúng như lời dạy th́ người ấy sẽ
nhận lănh Vô Thượng Bồ Đề như đang
cầm trong tay).
1. Kế tiếp là Phật ngự
trong vườn Am La, khắp thành Tỳ Xá mắc bệnh.
2. Dạ Xoa mến giữ, [thầy
thuốc] đă bó tay chẳng thể chữa lành, Nguyệt
Cái nặng ḷng, bèn thỉnh cầu đức Phật
thương xót.
3. Do thấy đời ngũ
trược khó thể ở lâu dài, Phật dạy hăy chú
tâm nơi Tịnh Độ. Sáu thức hăy gấp nên chuyển
biến, thỉnh Quán Âm là bậc trí chiếu soi.
4. [Đức Phật] dặn
ḍ [Nguyệt Cái] hăy cầu bậc Năng Thí cơi Cực Lạc
phóng tịnh quang trọn khắp, diệt tối, trừ
si, tiêu tai, ngừa ách.
5. Vốn là cha mẹ từ bi, Đại
Sĩ nói tâm ấn trừ phiền năo. Do ḷng lân mẫn chúng
sanh, Thế Tôn thỉnh Đà La Ni phá ác.
6. Muốn
được Ngài hiện thân, nên biết pháp Sổ Tức.
7. Chương
cú Lục Tự, nhất định cát tường,
năm môn Thiền Quán, càng tăng Định lực.
8. V́ thế, ĺa ác như mây trôi
gặp gió, thấy Phật dường lũ trút khe ng̣i.
9. Vị đẫm cam lộ,
nhỏ giọt từ cành dương liễu. Miệng
phóng quang như thể ráng chiều, lưỡi hoa sen khen
ngợi trọn khắp.
10. V́ thế, chư thiên cúng
dường, hầu hạ, như tôn cha kính mẹ. Được
nghe tựa đề kinh, cũng sanh về Tịnh Độ
(Đoạn này ca tụng
Tiêu Phục Độc Hại Chú Kinh[16]).
1. Tiêu Phục
Độc Hại Chú Kinh: “Phật
trụ Tỳ Xá Ly Am La thụ viên Đại Lâm tinh xá. Thời
Tỳ Xá Ly quốc nhân, ngộ đại ác bệnh”
(Đức Phật ngự tại tinh xá Đại Lâm trong
vườn cây Am La (Ambāla-vana) thành Tỳ Xá Ly[17].
Khi ấy, dân nước Tỳ Xá Ly mắc bệnh ngặt
nghèo).
2. Kinh
chép: “Hữu ngũ dạ-xoa, hấp
nhân tinh khí. Lương y Kỳ Bà, tận kỳ đạo
thuật, bất năng cứu. Hữu nhất trưởng
giả danh Nguyệt Cái, nghệ Phật bạch ngôn: ‘Nguyện
Thế Tôn từ mẫn nhất thiết, cứu tế bệnh
khổ” (Có năm dạ-xoa[18] hút tinh khí của con người.
Lương y Kỳ Bà[19] dốc hết khả năng y thuật
vẫn chẳng thể chữa lành. Có một trưởng
giả tên là Nguyệt Cái đến chỗ Phật bạch
rằng: ‘Xin đức Thế Tôn từ bi thương xót hết
thảy, cứu chữa bệnh khổ). Ngài Trí Giả sớ
giải: “Những người
tu hành thuộc về Phần Đoạn sanh tử,
chưa đoạn Hoặc, hễ tâm vừa dấy lên ư niệm
th́ luôn bị ái kiến mê hoặc đến nỗi sáu trần
làm tổn thương sáu căn tạo thành bệnh. Do xét
theo Lư nên gọi Ngũ Căn là năm dạ-xoa v́ chúng sanh
ra năm thứ Kiến vậy”.
(3). Kinh
chép: “Phật ngôn: - Khứ thử
bất viễn, chánh lập Tây phương, hữu Phật
danh Vô Lượng Thọ, Bồ Tát danh Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí, hằng dĩ đại bi cứu tế khổ
ách. Nhữ đương tác lễ, thiêu hương, hệ
niệm, sổ tức, linh tâm bất tán, kinh thập niệm
khoảnh, vị chúng sanh thỉnh bỉ Phật, Bồ
Tát” (Phật dạy: - Cách đây chẳng xa, ngay nơi
phương Tây có Phật hiệu là Vô Lượng Thọ,
có Bồ Tát tên là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí,
thường đem ḷng đại bi cứu giúp khổ ách.
Ông hăy nên làm lễ, hệ niệm, đếm hơi thở
sao cho tâm chẳng tán loạn trong ṿng mười niệm,
v́ chúng sanh thỉnh đức Phật và các vị Bồ
Tát ấy). [Ngài Trí Khải] chú giải: “Chúng sanh cơi uế do thấy Kiến Hoặc, Tư
Hoặc độc hại, nên muốn nhờ vào Tịnh
Độ để phá bệnh ấy. Hơn nữa, Quán
Âm biểu thị trí Chánh Quán Trung Đạo, nhằm đối
trị các thứ độc. V́ thế, thỉnh một ḿnh
Quán Âm nói ra thần chú”.
(4) Kinh
chép: “Phổ phóng tịnh quang
minh, diệt trừ si ám minh” (Phóng khắp quang minh sạch,
trừ diệt tối si ám). Lại chép: “Tất lai chí ngă sở, thí ngă đại an lạc”
(Ắt đến chỗ của ta, ban cho đại an lạc).
(5) Kinh
chép: “Ngă kim tự quy y, thế
gian từ bi phụ” (Con nay tự quy y, thế gian từ
bi phụ). Lời sớ giải ghi: “Ba bài chú trong kinh này trừ tam chướng. Chú thứ
nhất trừ độc phiền năo, chú thứ hai phá ác
nghiệp độc, chú cuối cùng, phá được quả
báo độc”.
Kinh dạy: “Nhĩ thời Thế Tôn, lân mẫn
chúng sanh, trùng thỉnh Quán Thế Âm Bồ tát thuyết Tiêu Phục
Độc Hại Chú. Quán Thế Âm đại bi huân tâm, nhi
thuyết Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục Độc
Hại đà-la-ni chú” (Khi ấy, đức Thế Tôn
thương xót chúng sanh lại thỉnh Quán Thế Âm Bồ
Tát hăy nói Tiêu Phục Độc Hại Chú. Quán Thế Âm
đại bi hun đúc nơi ḷng, bèn nói Phá Ác Nghiệp
Chướng Tiêu Phục Độc Hại đà-la-ni chú).
(6) Kinh
chép: “Vân hà đắc kiến
Quán Thế Âm Bồ Tát, cập thập phương Phật?
Nhược dục đắc kiến, đoan thân chánh tâm,
sử tâm bất động, linh tức điều quân, bất
thô, bất tán, an tường từ sổ, tùng nhất chí
thập, thành tựu tức niệm, vô phân tán ư. Khí bất
ngoại hướng, bất sáp, bất hoạt, điều
ḥa đắc trung, linh tâm minh tịnh” (Làm thế nào
để thấy Quán Thế Âm và mười phương
Phật? Nếu muốn được thấy, hăy đoan
thân, chánh tâm, khiến cho tâm bất động, khiến cho
hơi thở điều ḥa, quân b́nh, chẳng thô, chẳng
tán loạn, an tường thong thả đếm từ một
đến mười, thành tựu ư niệm chú tâm nơi
hơi thở, ư không phân tán. Khí chẳng hướng ra
ngoài, chẳng thô rít, chẳng quá nhanh, điều ḥa
đúng mực, khiến cho tâm sáng lặng).
(7) Kinh
chép: “Thị lục tự
chương cú tất định cát tường, chân thật
bất hư” (Chương cú sáu chữ này nhất định
là tốt lành, chân thật, chẳng dối). Sớ giải
ghi: “Có nhiều cách giải
thích từ ngữ ‘chương cú sáu chữ’ khác nhau. Có thuyết
cho rằng: Tam Bảo là ba chữ, Quán Thế Âm là ba chữ
nữa cho tiện tụng tŕ, tức là như kinh chép: ‘Nam-mô
Phật, nam-mô Pháp, nam-mô Tăng, nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Ma Ha Tát”.
Kinh lại chép: “Phật cáo chư tỳ-kheo: - Nhữ
đẳng dục phục cam lộ vô thượng pháp vị,
tu ngũ môn Thiền, đương tự quán thân, tùng
đầu chí túc, nhất nhất tiết gian, giai linh hệ
niệm, đ́nh trụ bất tán, đế quán chúng tiết
như ba tiêu thụ, nội ngoại câu không.
Đương tri Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
diệc phục như thị” (Phật bảo các tỳ-kheo:
- Các ông muốn uống cam lộ vô thượng pháp vị,
tu năm môn Thiền, hăy tự quán tâm từ đầu
đến chân, trong mỗi lóng đốt đều hệ
niệm ǵn giữ cho chẳng tán loạn, xem kỹ các lóng
giống như cây chuối, trong và ngoài đều rỗng
không. Hăy nên biết Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
cũng giống như vậy).
(8) Kinh
chép: “Dĩ thử sổ tức
tâm định lực cố, như sử thủy lưu,
tất tật đắc kiến Quán Thế Âm Bồ Tát cập
thập phương Phật” (Do phép đếm hơi thở
này, tâm có định lực giống như nước chảy
mạnh, ắt nhanh chóng được thấy Quán Thế
Âm Bồ Tát và mười phương Phật). Kinh c̣n chép:
“Nhược hữu túc thế
tội nghiệp nhân duyên, cập hiện sở tạo cực
trọng ác hạnh, mộng trung đắc kiến Quán Thế
Âm Bồ Tát như đại mănh phong xuy ư trùng vân giai tất
tứ tán, đắc ly ác nghiệp, sanh chư Phật tiền”
(Nếu có tội nghiệp nhân duyên trong đời
trước và những hạnh ác cực nặng trót tạo
trong đời này, trong mộng sẽ được thấy
Quán Thế Âm Bồ Tát như cơn gió to mạnh thổi những
tầng mây bay tứ tán, được ĺa ác nghiệp, sanh
về trước các đức Phật). Theo Thiên Lộc Các
Ngoại Sử đời Hán: “Nếu
mây trôi gặp phải trận gió sẽ bị cuốn vùn vụt
về nơi hang hốc, không ai có thể ngăn được!”
(9) Tiêu Phục
Độc Hại Chú Kinh: “Tỳ
Xá Ly nhân, tức cụ dương chi tịnh thủy, thọ
dữ Quán Thế Âm Bồ Tát” (Người nước
Tỳ Xá Ly bèn chuẩn bị cành dương, nước sạch,
trao cho Quán Thế Âm Bồ Tát). Kinh c̣n chép: “Nhất thiết Phật hưng thế, an lạc
chúng sanh cố. Dị khẩu, các các thân, đoan tọa Kim
Cang ṭa, khẩu xuất ngũ sắc quang, liên hoa diệp
h́nh thiệt, tán thán đại bi giả, điều ngự
sư tử pháp” (Hết thảy Phật ra đời,
nhằm an lạc chúng sanh. Mỗi vị thân miệng khác,
ngồi trên ṭa Kim Cang, miệng tỏa quang năm sắc,
lưỡi như cánh hoa sen, khen ngợi bậc Đại
Bi, pháp điều ngự sư tử).
(10) Kinh
chép: “Từ tâm ủng hộ
tŕ kinh giả, cung kính cúng dường tiếp túc lễ.
Thí như chư thiên phụng Đế Thích, diệc
như hiếu tử kính phụ mẫu” (Từ tâm ủng
hộ người tŕ kinh, cung kính, cúng dường, lễ
dưới chân, ví như chư thiên thờ Đế Thích,
cũng như con hiếu kính cha mẹ).
Kinh c̣n chép: “Nhược thiện nam tử nữ
nhân, đắc văn thử kinh thủ đề danh tự,
thường đắc kiến Phật, cập chư Bồ
Tát, cụ túc thiện căn, sanh tịnh Phật quốc”
(Nếu thiện nam tử, nữ nhân nào được
nghe danh tự nơi tựa đề kinh này sẽ thường
được thấy Phật và các Bồ Tát, đầy
đủ thiện căn, sanh về cơi Phật thanh tịnh).
1. Lại
từ trong điện Trang Nghiêm nơi núi Bố Đát.
2. Bậc
Diệu Giác Thế Tôn giáng xuống, nhóm hội Bồ Tát
đại bi.
3. Bèn
tuyên nói thần châu Như Ư, có tên là Bất Không Quyến
Sách.
4. Trao cho
các thế chủ[20], ḥng dạy khắp trời người.
5. Mười
ức số diệu trí hiện tiền, hai mươi thứ
đại lợi thành tựu.
6. Lại
thêm tám pháp, Tịnh Độ tùy nguyện văng sanh, được
nhập Chánh Định, chư thiên thường đến
ủng hộ.
7. Dù tội
khó sám hối, ghẻ lở cũng được tiêu trừ,
dẫu vờ vĩnh thọ tŕ, tự đượm mùi hương
trầm, xạ.
8. Muốn
thành tựu nghiệp tối thắng, thân tự tại
càng trang nghiêm.
9. Búi tóc
xoắn ốc xoay theo chiều phải, đầu đội
măo hoa, khoác tấm da hươu trên vai bên trái, tóc xanh buông rủ.
10. Anh lạc
để trang nghiêm, hương hoa dâng cúng dường.
11. Tâm tin
sẽ cảm Phật, nên khiến thân có quang minh. Tượng
vẽ chẳng khác chân thân, bởi đó, thỏa măn các nguyện
(Đoạn này ca tụng
Bất Không Quyến Sách Kinh[21])
(1) Bất
Không Quyến Sách Kinh: “Phật
tại Bố Đát Lạc Ca sơn, Quán Tự Tại cung
điện. Kỳ địa hữu vô lượng bảo
thụ, châu táp trang nghiêm” (Phật ngự tại núi Bố
Đát Lạc Ca, trong cung điện của ngài Quán Tự
Tại. Nơi cuộc đất ấy có vô lượng
cây báu vây quanh trang nghiêm).
(3) Trong lời
tựa cuối kinh Bất Không Quyến Sách có đoạn: “Các nước trong xứ Ấn
Độ đều gọi kinh này là viên thần châu Như
Ư”.
(4 & 5) Kinh chép: “Văng tích hữu Phật, hiệu Thế Chủ
Vương Như Lai, ngă tùng bỉ Phật, thọ thử
chú tâm, giáo hóa vô lượng bách thiên thiên tử, linh thú Bồ
Đề. Dĩ thị công đức, hoạch thập ức
tam-ma-địa bất không diệu trí” (Thuở xưa
có Phật hiệu là Thế Chủ Vương Như Lai,
ta nhận lănh chú tâm này từ nơi đức Phật ấy,
giáo hóa vô lượng trăm ngàn thiên tử, khiến họ
tiến nhập Bồ Đề. Do công đức ấy,
đạt được mười ức tam-ma-địa,
bất không diệu trí).
Kinh c̣n
chép: “Nhược nhân ư nguyệt
bát nhật, chuyên tâm trai giới, bất tạp dư ngữ,
tụng chú thất biến, hiện tại đắc nhị
thập chủng thù thắng lợi ích” (Nếu có
người trong ngày mồng Tám mỗi tháng, dốc ḷng trai
giới, chẳng xen tạp những lời nào khác, tụng
chú này bảy biến th́ trong hiện tại sẽ đạt
được hai mươi thứ lợi ích thù thắng).
(6) Kinh
chép: “Phục hoạch bát pháp:
Nhất giả, lâm chung kiến Quán Tự Tại Bồ
Tát, tác tỳ-kheo tượng, hiện tiền ủy dụ...
Bát giả, mạng chung tùy nguyện văng sanh chư Phật
Tịnh Độ” (Lại đạt được
tám pháp: Một là lâm chung thấy Quán Tự Tại Bồ
Tát hiện thân tướng tỳ-kheo ở trước mặt
vỗ về, khuyên nhủ... Tám là mạng chung, tùy theo ư nguyện
văng sanh Tịnh Độ của chư Phật).
Kinh c̣n chép: “Hữu thử chú xứ, tức
hữu thập nhị ức chư thiên ủng hộ”
(Chỗ nào có chú này th́ chỗ ấy liền có mười
hai ức chư thiên ủng hộ).
(7) Kinh
chép: “Nhược nhân tạo
chư trọng tội, hủy nhục thánh hiền, phỉ
báng chánh pháp, đương đọa Vô Gián địa ngục,
thọ chư kịch khổ, chư Phật, Bồ Tát diệc
bất năng cứu. Nhược văn thử chú, nhất
nhật dạ, thọ tŕ trai giới, tụng thử chú
tâm, sở tác tội nghiệp, hiện thế khinh thọ,
hoặc tao hàn nhiệt, cập chư tiễn giới, bất
phục đương đọa địa ngục. Sở
tạo tội nghiệp tất đắc tiêu trừ” (Nếu
có người tạo các trọng tội, hủy báng, nhục
mạ thánh hiền, phỉ báng chánh pháp, sẽ đọa
vào địa ngục Vô Gián, chịu các nỗi khổ dữ
dội, chư Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể cứu,
mà nếu nghe chú này, thọ tŕ trai giới một ngày một
đêm, tụng chú tâm này th́ các tội nghiệp đă tạo
sẽ chuyển thành báo nhẹ trong đời này, hoặc
bị bệnh hàn, bệnh nhiệt và các thứ ghẻ lở,
chẳng c̣n đọa vào địa ngục, tội nghiệp
đă tạo đều được tiêu trừ).
Kinh c̣n chép: “Nhược chúng sanh văn thử
chú tâm, trá hiện thọ tŕ, diệc sanh thắng phước.
Như nhân thủ chiên đàn, trầm, xạ, dụng đồ
kỳ thân, tuy mạ lỵ, hủy tư, nhi bỉ
hương đẳng, chung bất vị thử nhân hủy
ngă, lận kỳ hương khí, nhi bất dữ chi” (Nếu
chúng sanh nghe chú tâm này, giả vờ thọ tŕ, cũng sanh
phước thù thắng. Như người lấy chiên
đàn, trầm, xạ bôi lên thân ḿnh, tuy chửi mắng, rủa
xả, nhưng những thứ hương ấy trọn
chẳng nói ‘kẻ này hủy nhục ta’ mà tiếc rẻ
mùi hương chẳng ban cho hắn).
(8 & 9 & 10) Kinh
chép: “Thử thần chú thành tựu
như thị tối thắng sự nghiệp. Vị thành
biện giả, dĩ tố điệp họa Phật
tượng, ư hữu biên họa Quán Tự Tại Bồ
Tát tượng. Kỳ thân hoàng bạch, đảnh hữu
loa kế, cám phát thùy hạ, thủ quan hoa quan, phi lộc b́
phú tả kiên thượng. Tự dư thân phần, anh lạc,
hoàn, xuyến, nhi vi trang nghiêm. Đàn nội tán bạch hoa,
dĩ bát tịnh b́nh thịnh hương hoa thủy an bát
phương” (Thần chú này thành tựu sự nghiệp
tối thắng như thế. Kẻ nào chưa thành tựu
th́ hăy dùng vải điệp trắng vẽ tượng Phật.
Ở bên phải [tượng Phật], vẽ tượng
Quán Tự Tại Bồ Tát. Thân Ngài màu vàng pha sắc trắng,
đảnh đầu có búi tóc xoắn ốc, tóc xanh biếc
rủ xuống, đầu đội măo hoa, khoác da
hươu bên vai trái. Những phần thân thể khác trang
nghiêm bằng anh lạc, ṿng, xuyến. Trong đàn rải
hoa trắng, dùng tám cái b́nh thanh tịnh đựng nước
cắm hoa, ḥa chất thơm đặt ở tám
phương).
(11) Kinh chép: “Chí thành tụng chú, măn bát thiên biến,
hành giả tự kiến kỳ thân biến phóng quang minh.
Quán Tự Tại tiện hiện kỳ tiền, tùy sở
nguyện cầu, giai linh măn túc” (Chí thành tụng chú trọn
tám ngàn biến, hành giả tự thấy khắp thân tượng
Ngài phóng quang minh. Quán Tự Tại liền hiện ra
trước mặt, tùy theo nguyện cầu của hành nhân
sẽ đều làm cho được thỏa măn).
1. Chỉ v́ Đại Sĩ
nhận lănh pháp môn bí mật, số lượng vốn
như vi trần, nhiếp khắp các đà-la-ni diệu ngữ,
một hội há tuyên nói trọn!
2. V́ thế, đức Phật
lại giáng lâm, phàm thánh bèn tái nhóm.
3. Sắp nói thần chú Đại
Bi, ngầm phóng quang minh thần thông (Từ đây ca tụng Đại
Bi Chú Kinh[22],
gồm năm đoạn)
(1) Lăng Nghiêm Kinh: “Thừa thuận thập
phương vi trần Như Lai bí mật pháp môn, thọ
lănh vô thất” (Vâng theo pháp môn bí mật của mười
phương vi trần Như Lai, nhận lănh không mất).
Đại Bi Chú Kinh: “Thị diệu pháp tạng phổ
nhiếp nhất thiết chư đà-la-ni môn. Hựu thị
diệu ngữ tạng, khẩu trung đà-la-ni âm vô đoạn
tuyệt cố” (Đây là diệu pháp tạng, nhiếp
khắp hết thảy các môn đà-la-ni, lại là diệu
ngữ tạng v́ trong miệng âm thanh đà-la-ni không đoạn
tuyệt).
(2) Kinh chép: “Phật tại Bổ Đà Lạc
Ca sơn, Quán Thế Âm cung điện, dữ vô ương
số Bồ Tát, Thanh Văn, dĩ chí thiên, long, dạ-xoa,
nhân, phi nhân đẳng, giai lai tập hội” (Đức
Phật ở núi Bổ Đà Lạc Ca trong cung điện
của ngài Quán Thế Âm, cùng vô ương số Bồ Tát,
Thanh Văn, cho đến trời, rồng, dạ-xoa,
người, phi nhân đều cùng đến nhóm hội).
(3) Kinh chép: “Quán Thế Âm Bồ Tát mật
phóng thần thông quang minh, chiếu diệu thập
phương sát độ, giai tác kim sắc, nhật nguyệt
chi quang giai tất bất hiện. Quán Thế Âm Bồ Tát bạch
Phật ngôn: - Ngă hữu Đại Bi Tâm đà la ni chú, kim
đương dục thuyết” (Quán Thế Âm Bồ
Tát ngầm phóng quang minh thần thông, chiếu sáng ngời
mười phương cơi nước đều biến
thành sắc vàng, ánh sáng của mặt trời, mặt
trăng đều [bị che lấp] chẳng hiện. Quán
Thế Âm Bồ Tát bạch Phật: - Con có Đại Bi Tâm
đà-la-ni chú, nay con muốn nói).
Ấy là v́: Từ vô lượng
kiếp trước, nơi Thiên Quang Vương Phật,
nhận lănh vô ngại đà-la-ni này, v́ vị lai tạo lợi
lạc trọn khắp. Ngàn mắt, ngàn tay trong một niệm
liền trọn đủ, vượt ngay lên Bát Địa,
mười phương chư Phật đều phóng quang
minh, đồng thời đến chứng minh.
Đại Bi Chú Kinh: “Ngă niệm quá khứ vô lượng
ức kiếp, hữu Phật danh Thiên Quang Vương
Tĩnh Trụ Như Lai. Bỉ Phật lân ngă cập nhất
thiết chúng sanh, thuyết Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại
Đại Bi Tâm Đà-la-ni. Dĩ kim thủ ma ngă đảnh,
ngôn: - Nhữ đương tŕ thử tâm chú, phổ vị
vị lai ác thế nhất thiết chúng sanh, tác đại
lợi lạc. Ngă ư thị thời, thỉ trụ
Sơ Địa, nhất văn thử chú, siêu Đệ
Bát Địa. Ngă phát thệ ngôn: - Nhược ngă
đương lai năng lợi lạc nhất thiết
chúng sanh giả, linh ngă thân thiên thủ thiên nhăn cụ túc.
Phát thị nguyện dĩ, ứng thời cụ túc. Thập
phương Phật tất phóng quang minh, chiếu xúc ngă
thân” (Tôi nhớ trong quá khứ vô lượng ức kiếp,
có Phật hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ
Như Lai. Đức Phật ấy thương tôi và hết
thảy chúng sanh, nói Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại
Đại Bi Tâm đà-la-ni, dùng cánh tay sắc vàng xoa đầu
tôi, nói: ‘Ông nên tŕ tâm chú này, v́ khắp hết thảy chúng
sanh trong đời ác mai sau mà làm lợi lạc’. Khi ấy,
tôi mới trụ Sơ Địa, vừa nghe chú này liền
vượt lên Bát Địa. Tôi thốt lời thề: ‘Nếu
trong tương lai con có thể lợi lạc hết thảy
chúng sanh th́ khiến cho thân con đầy đủ ngàn mắt,
ngàn tay’. Phát lời nguyện ấy xong, ngay lập tức
bèn đầy đủ. Mười phương chư Phật
đều phóng quang minh chiếu chạm thân tôi).
1. Phàm là người học Phật,
hăy nên phát thệ nguyện rộng lớn.
2. Trước hết, mở
mười nguyện, rộng phát Bồ Đề, lại
trở vào tam đồ, giải thoát trọn khắp.
3. Xưa lễ Không
Vương Phật, nhân chẳng khác quả, nay xưng danh
Đại Sĩ, thoạt đầu, lúc cuối chẳng
hai.
(1 & 2) Đại
Bi Chú Kinh: “Dục tụng tŕ giả,
ư chúng sanh khởi từ bi tâm, tiên đương tùng
ngă phát nguyện” (Người muốn tụng tŕ, hăy khởi
tâm từ bi đối với chúng sanh, trước hết
hăy theo ta phát nguyện). Mười nguyện chính là nguyện
tôi sớm biết hết thảy pháp, nguyện tôi sớm
đắc mắt trí huệ, nguyện tôi mau độ hết
thảy chúng sanh, nguyện tôi sớm đắc
phương tiện khéo, nguyện tôi mau ngồi thuyền
Bát Nhă, nguyện tôi sớm được thoát biển khổ,
nguyện tôi mau đắc đạo giới định,
nguyện tôi sớm lên non Niết Bàn, nguyện tôi mau về
nhà vô vi, nguyện tôi sớm cùng chứng thân pháp tánh.
Kinh c̣n chép: “Ngă nhược hướng
đao sơn, đao sơn tự tồi chiết. Ngă
nhược hướng hỏa thang, hỏa thang tự
tiêu diệt. Ngă nhược hướng địa ngục,
địa ngục tự khô kiệt. Ngă nhược hướng
ngạ quỷ, ngạ quỷ tự băo măn. Ngă nhược
hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục. Ngă
nhược hướng súc sanh, tự đắc đại
trí tuệ” (Nếu ta hướng về núi đao, núi
đao tự sụp vỡ. Nếu ta hướng về ḷ
lửa, vạc sôi, ḷ lửa, vạc sôi tự tiêu diệt.
Nếu ta hướng về địa ngục, địa
ngục tự khô cạn. Nếu ta hướng về ngạ
quỷ, ngạ quỷ tự no đủ. Nếu ta hướng
về Tu-la, ác tâm tự điều phục. Nếu ta
hướng về súc sanh, tự đắc đại trí
huệ).
(3) Hoằng Mănh Hải
Huệ Kinh: “Tích Diêm Phù Đề
hữu vương danh Thiện Thủ, hữu ngũ bách
vương tử. Đệ nhất thái tử danh Thiện
Quang, trị Không Vương Quán Thế Âm Phật, năi phát
thập nguyện. Nhất nguyện tri nhất thiết
pháp, nhị nguyện thừa Bát Nhă thuyền, tam nguyện
đắc trí huệ phong, tứ nguyện đắc thiện
phương tiện, ngũ nguyện độ nhất thiết
nhân, lục nguyện siêu sanh tử hải” (Xưa kia,
trong Diêm Phù Đề có vua tên là Thiện Thủ, có năm
trăm vương tử. Thái tử thứ nhất tên là
Thiện Quang, gặp đức Không Vương Quán Thế
Âm Phật, bèn phát ra mười nguyện. Nguyện thứ
nhất là biết hết thảy pháp, nguyện thứ hai
là ngồi thuyền Bát Nhă, nguyện thứ ba là được
gió trí huệ, nguyện thứ tư là đắc
phương tiện khéo, nguyện thứ năm là độ
hết thảy mọi người, nguyện thứ sáu là
vượt biển sanh tử). Bốn nguyện c̣n lại
giống như phần kinh văn đă dẫn ở trên.
Hơn nữa, trước mỗi câu nguyện trong mười
nguyện của Đại Bi Chú Kinh, đều có câu “Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm”,
c̣n trong đoạn văn nói về mười nguyện ấy
[của kinh Hoằng Mănh Hải Huệ], trước mỗi
câu nguyện chỉ thiếu hai chữ Nam Mô.
1. Lại niệm Bổn
Sư, rồi mới tŕ thần chú.
2. Khi ấy, diệt trọng
tội trong một ức vạn kiếp, tùy nguyện văng
sanh, đắc mười lăm thứ sống tốt
lành, lại không chết thảm.
3. Dẫu là độn căn,
vẫn đắc tiểu quả, thành tựu huệ thân,
chẳng do ai giác ngộ.
(1 & 2) Kinh chép: “Phát nguyện dĩ, chí tâm
xưng niệm ngă chi danh tự, diệc ưng chuyên niệm
ngă Bổn Sư A Di Đà Như Lai, nhiên hậu tụng
chú, nhất túc măn ngũ biến, trừ diệt thân trung
bách thiên vạn ức kiếp sanh tử trọng tội.
Nhược chư nhân thiên tụng tŕ Đại Bi
chương cú giả, lâm mạng chung thời, thập
phương chư Phật giai lai thọ thủ, dục
sanh hà quốc, tùy nguyện văng sinh. Tụng tŕ Đại
Bi thần chú, nhược bất sanh chư Phật quốc
giả, ngă thệ bất thành chánh giác. Tụng tŕ Đại
Bi thần chú, ư hiện sanh trung, nhất thiết sở
cầu bất quả toại giả, bất đắc vi
Đại Bi Tâm đà-la-ni dă. Duy trừ bất thiện, trừ
bất chí thành” (Phát nguyện xong, hăy chí tâm xưng niệm
danh hiệu ta, cũng nên chuyên niệm Bổn Sư của
ta là A Di Đà Như Lai rồi mới tụng chú. Một
đêm tụng đủ năm biến, sẽ trừ diệt
trọng tội trong trăm ngàn vạn ức kiếp sanh tử.
Nếu các trời người tŕ tụng chương cú
Đại Bi th́ lúc lâm chung, mười phương chư
Phật đều đến x̣e tay tiếp dẫn. Muốn
sanh về cơi nào, sẽ tùy theo ḷng mong, sanh về cơi ấy.
Tụng tŕ thần chú Đại Bi mà nếu chẳng sanh về
các cơi Phật th́ ta thề chẳng thành Chánh Giác. Tụng
tŕ thần chú Đại Bi mà trong đời này hết thảy
sở cầu chẳng được toại nguyện th́
chẳng đáng gọi là Đại Bi Tâm đà-la-ni, chỉ
trừ kẻ chẳng lành, hoặc chẳng chí thành)
Lại nữa,
người tụng tŕ tâm chú Đại Bi được
mười lăm thứ sanh tốt lành, chẳng bị
mười lăm thứ chết thảm. Một là chẳng
bị chết v́ đói khát khốn khổ. Hai là chẳng bị
chết v́ xiềng xích, giam cầm, đánh đập. Ba là
chẳng bị oán gia cừu nhân hại chết. Bốn là
chẳng bị chết trong chiến trận. Năm là chẳng
bị chết v́ ác thú tàn hại. Sáu là chẳng bị rắn
rết cắn chết. Bảy là chẳng bị chết v́
nước trôi, lửa cháy. Tám là chẳng bị chết v́
trúng thuốc độc. Chín là chẳng chết v́ trùng
độc làm hại. Mười là chẳng điên loạn,
mất trí mà chết. Mười một là chẳng chết
v́ rơi té từ núi, cây, vách đá. Mười hai là chẳng
chết v́ bị kẻ ác ếm đối, quỷ mị.
Mười ba là chẳng chết v́ tà thần, ác quỷ thừa
dịp hăm hại. Mười bốn là chẳng chết v́
bệnh ngặt dây dưa. Mười lăm là chẳng tự
hại chết trái lẽ.
[Mười lăm chỗ
sanh tốt lành là]: Một là thường sanh về nơi
có vua tốt lành. Hai là thường sanh vào nước tốt
lành. Ba là thường gặp thời tốt lành. Bốn là
thường gặp bạn lành. Năm là thân căn đầy
đủ. Sáu là đạo tâm thuần thục. Bảy là
chẳng phạm giới cấm. Tám là tất cả quyến
thuộc đều nghĩ đến nhân nghĩa, ḥa thuận.
Chín là của cải đầy đủ. Mười là
thường được người khác cung kính, nâng
đỡ. Mười một là tất cả của cải
không bị kẻ khác cướp đoạt. Mười
hai là những điều mong mỏi đều được
vừa ḷng. Mười ba là long thiên, thiện thần luôn
thường ủng hộ, bảo vệ. Mười bốn
là tại chỗ sanh về thường thấy Phật,
nghe pháp. Mười lăm là được nghe chánh pháp, có
thể ngộ được nghĩa rất sâu).
(3). Kinh chép: “Nhược năng tinh thành dụng
tâm, trai giới sám hối, khẩu trung ngập ngập tụng
thử đà-la-ni, thanh thanh bất tuyệt giả, tứ
Sa-môn quả, thử sanh tức chứng. Kỳ lợi
căn hữu huệ quán giả, Thập Địa quả
vị, khắc hoạch bất nan” (Nếu có thể dụng
tâm tinh thành trai giới, sám hối, trong miệng luôn ra rả
tụng tŕ đà-la-ni này chẳng ngớt tiếng th́ sẽ
chứng bốn quả Sa Môn ngay trong đời này. Những
người lợi căn có huệ quán th́ sẽ đạt
được quả vị Thập Địa chẳng khó).
Kinh c̣n chép: “Bồ Tát vị giai Sơ Trụ
giả, tốc linh đắc cố, hựu linh đắc
đáo Phật địa cố. Tự nhiên thành tựu tam
thập nhị tướng, bát thập tùy h́nh hảo” (Sẽ
làm cho Bồ Tát nhanh chóng đạt được địa
vị Sơ Trụ, lại c̣n làm cho đạt đến
địa vị Phật. Tự nhiên thành tựu ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ vẻ
đẹp phụ). Phẩm Phạm Hạnh của kinh Hoa Nghiêm
nói: “Tri nhất thiết pháp tức
tâm tự tánh. Thành tựu huệ thân, bất do tha ngộ”
(Biết hết thảy pháp chính là tự tánh của cái tâm.
Thành tựu huệ thân, chẳng do người khác giác ngộ).
1. Chạm gió thổi thân
người tŕ chú, thường sanh trước Phật.
Dính nước tắm từ thân người ấy, cùng về
Tịnh Độ.
2. Khen ngợi công đức,
mười hai tạng rộng lớn chưa thể bao
trùm. Xưng dương, cầu nguyện, bốn
mươi tay cùng làm, há nào trọn hết.
3. Cầu biệt tướng
Đại Bi, phải đủ mười tâm. Tổng tŕ
thần chú này, tuyên dương chín hiệu.
4. Sức oai thần như thế,
trước Bồ Tát, quả chưa từng nghe [có ai giống
vậy]! Kinh văn rộng lớn, dẫu Như Lai
cũng sẽ tùy hỷ.
(1) Đại
Bi Chú Kinh: “Nhược chư
nhân thiên tụng tŕ thử đà-la-ni, kỳ nhân nhược
tại giang, hà, đại hải trung mộc dục, kỳ
trung chúng sanh, đắc thử nhân dục thân chi thủy,
triêm trước kỳ thân, nhất thiết ác nghiệp, tất
giai tiêu diệt, tức đắc chuyển sanh tha
phương tịnh độ, liên hoa hóa sanh, bất thọ
thai thân, thấp noăn chi thân. Hà huống thọ tŕ, độc
tụng giả? Nhược tụng tŕ giả, hành ư
đạo lộ, đại phong lai thời, xuy thử
nhân thân mao, phát, y phục, dư phong hạ quá, chư loại
chúng sanh đắc kỳ nhân phiêu thân phong xuy trước
thân giả, nhất thiết ác nghiệp tịnh giai diệt
tận, bất thọ tam ác đạo báo, thường
sanh Phật tiền. Đương tri thọ tŕ giả,
phước đức quả báo bất khả tư nghị”
(Nếu các trời người tụng tŕ đà-la-ni này, nếu
như người ấy tắm gội trong sông, rạch,
biển cả, những chúng sanh ở trong ấy được
nước tắm của người ấy dính vào thân th́
hết thảy ác nghiệp đều được tiêu
diệt, liền được sanh về Tịnh Độ
trong những phương khác, hóa sanh trong hoa sen, chẳng
c̣n phải mang những thân thai, noăn, thấp sanh. Huống hồ
kẻ thọ tŕ, đọc tụng? Nếu người tụng
tŕ đi trên đường sá, khi trận gió lớn lùa tới,
thổi qua lông, tóc, y phục trên thân người ấy, các
loại chúng sanh do được hơi gió thừa sau khi
đă thổi qua thân người ấy chạm vào thân th́ hết
thảy ác nghiệp đều tiêu diệt sạch, chẳng
mắc báo đọa trong ba đường ác, thường
sanh trước Phật. Hăy nên biết quả báo, phước
đức của người thọ tŕ chẳng thể
nghĩ bàn).
(2) Mười
hai tạng là: 1) Phật tạng 2) Quang minh tạng 3) Từ
bi tạng 4) Diệu pháp tạng 5) Thiền định tạng
6) Hư không tạng 7) Vô úy tạng 8) Diệu ngữ tạng
9) Thường trụ tạng 10) Giải thoát tạng 11)
Dược vương tạng 12) Thần thông tạng. Bốn
mươi tay[23]:
Kinh văn quá rườm rà nên không sao lục.
(3)
Đại Bi Chú Kinh: “Đại
Phạm thiên vương bạch Bồ Tát ngôn: - Duy nguyện
Đại Sĩ, vị ngă thuyết thử đà-la-ni h́nh
mạo trạng tướng. Quán Thế Âm Bồ Tát ngôn: -
Đại từ bi tâm thị, b́nh đẳng tâm thị,
vô vi tâm thị, vô nhiễm trước tâm thị, không quán
tâm thị, cung kính tâm thị, ty hạ tâm thị, vô tạp
loạn tâm thị, vô kiến thủ tâm thị, vô thượng
Bồ Đề tâm thị” (Đại Phạm thiên
vương bạch Bồ Tát rằng: “Kính xin Đại
Sĩ hăy v́ con nói h́nh mạo, tướng trạng của
đà-la-ni này”. Quán Thế Âm Bồ Tát nói: “Tâm đại từ
bi, tâm b́nh đẳng, tâm vô vi, tâm không nhiễm trước,
tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm hạ, tâm không tạp loạn,
tâm chẳng chấp vào kiến giải, tâm vô thượng
Bồ Đề chính là h́nh mạo, tướng trạng [của
chú Đại Bi]”).
Lại nữa, trong
kinh này, đức Phật bảo A Nan: “Như thị thần chú danh Quảng Đại Viên
Măn, danh Vô Ngại Đại Bi, danh Cứu Khổ, danh Diên Thọ,
danh Diệt Ác Thú, danh Phá Ác Nghiệp Chướng, danh Măn Nguyện,
danh Tùy Tâm Tự Tại, danh Tốc Siêu Thượng Địa
Đẳng đà-la-ni” (Thần chú như thế này tên
là Viên Măn Rộng Lớn, tên là Vô Ngại Đại Bi, tên
là Cứu Khổ, tên là Kéo Dài Tuổi Thọ, tên là Diệt
Đường Ác, tên là Phá Nghiệp Chướng Ác, tên là Thỏa
Nguyện, tên là Tùy Theo Tâm Nguyện Mà Tự Tại, tên là Đà-la-ni
Giúp Hành Nhân Nhanh Chóng Vượt Lên Địa Vị Cao
Hơn). Tổng cộng gồm chín tên.
(4)
Đại Bi Chú Kinh chép: “A
1. Ngoài những
thứ tối thắng trong ba đời ấy, Ngài c̣n diễn
nói mười lăm loại chân ngôn, hết thảy tùy
tâm, nêu cặn kẽ bốn mươi tám ấn pháp.
2. Trên
đảnh Tu Di, thân hóa hiện minh phi[24]. Cơi
trời Tịnh Cư, mắt xuất hiện diệu nữ.
3. Bao trùm Liên Hoa Bộ, có chú
tâm bảy chữ. Khoác lầm tràng hoa, được Phật
thỉnh ba lượt.
4. Nhận
lời Kim Cang cầu khẩn, từng hiện thân Diệp
Y. Trọn khắp pháp giới được xông, hương
ấn càng phong phú.
5. Trang
nghiêm địa ngục, nói nhân duyên nhiều kiếp. Đảnh
sen bí mật, giống Như Ư thần châu.
6. Đảnh
hiện La Sát, hiệu Nhất Kế Tôn. Đầu hiện
Mă Vương, ấn tôn Thiên Chuyển.
7. Câu tâm
chú sáu chữ, Như Lai c̣n phải t́m cầu. Đà La Ni
ngàn tay, người dịch từng mong thánh chứng.
8. Thanh tịnh phụng thỉnh,
trời lạy Bạch Y. Viên măn từ bi, tướng tôn
Thanh Cảnh.
9. Nói danh hiệu Như Lai, phá
ác, sanh thiên. Tu quán hạnh Bồ Tát, đem thân làm Phật.
10. Vô biên thần chú như vậy,
diệu dung thật nhiều.
11. Không
ǵ chẳng nhằm đặt các con ngồi yên trên xe, chỉ
đường phẳng phiu dẫn đến đạo
tràng.
12. Làm Phật
sự lớn lao, phù hợp lời Bảo Tạng dự
ghi. Viên măn quả Bồ Đề, đáng hưởng Phật
Thích Ca huyền kư (Đoạn
này ca tụng những bộ chú kinh khác)
(1) Trong Kim
Cang Khủng Bố Tập Hội Phương Quảng Nghi
Quỹ Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng
Tâm Minh Vương Kinh, Đại Sĩ nói tâm chân ngôn và những
bài chân ngôn đầu, đảnh, nhăn[25] v.v..., tổng cộng là mười
lăm chân ngôn. Trong Quán Tự Tại Bồ Tát Đát Phạ
Đa Lị Tùy Tâm Đà La Ni Kinh, Đại Sĩ nói thần
chú và bốn mươi tám ấn pháp.
(2) Theo Nhất
Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa
Hiện Chứng Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh,
đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai lên đảnh núi Tu Di,
nhập các tam-muội, xuất sanh mười sáu Kim Cang
đại Bồ Tát[26] và bốn vị Như Lai là A Súc, Bảo
Sanh, Quán Tự Tại Vương, Bất Không Thành Tựu.
Mỗi vị Như Lai ấy cũng hiện ra các h́nh
tượng Kim Cang. Đức Tỳ Lô Giá Na lại nhập
bốn môn tam-muội, xuất sanh bốn vị đại
minh phi. Bốn vị Như Lai cũng xuất sanh bốn vị
đại minh phi[27].
Theo Đại
Phương Quảng Mạn Thù Thất Lợi Kinh và Quán Tự
Tại Bồ Tát Nghi Quỹ Kinh, đức Thế Tôn xem khắp
Tịnh Cư thiên cung, tán thán Quán Tự Tại Bồ Tát,
thọ kư Ngài sẽ thành Phật. Đại Sĩ trở về
chỗ ngồi, nhập Phổ Quang Minh Đa La tam-muội,
từ tṛng mắt phải phóng ra ánh sáng, hiện thành diệu
nữ[28].
[Vị diệu nữ ấy] bảo khắp các chúng sanh: “Thề vượt khổ hải,
dạo khắp các thế giới”, trở về chỗ
Phật, lễ Quán Tự Tại, cầm hoa sen xanh, đứng
chiêm ngưỡng.
(3) Theo A
Lỗ Lực Kinh, Quán Thế Âm Bồ Tát nói [chân ngôn]: “Án, a lỗ lực ca sa phạ
ha” (Aum, arolik, svaha). Đây chính là tâm chú của hết thảy
[những thần chú] trong Liên Hoa Bộ. Người tŕ tâm
chú này sẽ sanh về Cực Lạc.
Theo Quảng Đại
Liên Hoa Trang Nghiêm Mạn Noa La Diệt Nhất Thiết Tội
Chú Kinh, do quốc vương Phạm Thọ ngẫu nhiên
đến chùa, vị Tăng trong chùa dùng tràng hoa đang khoác
trên đảnh tượng Phật để đón vua.
Vua đeo vào liền bị nhức đầu, em gái vua
khuyên hăy đến gặp Phật. Phật nói sử dụng
vật của thường trụ th́ quả báo là quyết
định đọa địa ngục. Vua lại hỏi
phương cách cứu vớt như thế nào, Phật
bèn ba lần thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát nói thần chú.
(4) Theo Diệp
Y[29]
Quán Tự Tại Kinh, đức Phật ở tại thế
giới Cực Lạc, ngài Kim Cang Thủ thỉnh Quán Tự
Tại Bồ Tát hăy nói Diệp Y Quán Tự Tại Bồ
Tát Chú và các phương pháp tŕ tụng, cầu nguyện.
Trong Tục Tạng của
Nhật Bản, có Quán Tự Tại Bồ Tát Đại Bi
Trí Ấn Châu Biến Pháp Giới Lợi Ích Chúng Sanh Huân Chân
Như Diệu Hương Ấn Pháp (một quyển) do
ngài Bất Không dịch vào đời Đường.
(5) Theo
Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, từ
dưới địa ngục hiện ra đại quang
minh chiếu khắp nước Xá Vệ, hiện sự
đại trang nghiêm. Trừ Cái Chướng Bồ Tát hỏi
là nhân duyên ǵ, Phật bèn v́ Ngài nói những chuyện cứu
khổ trong nhiều kiếp của Thánh Quán Tự Tại
Bồ Tát. Trong Như Ư Luân Đà La Ni Kinh, Quán Tự Tại
Bồ Tát bạch Phật: “Con
có Đại Liên Hoa Phong Kim Cang Bí Mật Như Ư Luân Chú,
như châu Ma Ni, khiến cho chúng sanh được măn sở
nguyện”.
(6) Theo Nhất
Kế Tôn Đà La Ni Kinh, Quán Tự Tại Bồ Tát từ
trên đảnh hóa ra một La Sát vương[30],
nói chú hàng phục các quỷ thần ác.
Trong Đà La Ni Tập
Kinh có pháp ấn chú của Mă Đầu Quán Âm[31]
và tâm ấn chú của Thiên Chuyển Quán Âm[32].
(7) Theo [Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo
Vương Kinh], hết thảy Như Lai chẳng biết
t́m đại minh chú sáu chữ của đức Quán Âm ở
đâu, bèn trải qua bao kiếp t́m cầu bài chú sáu chữ
ấy. Đấy chính là câu chú “Án,
ma-ni bát-di hồng” (Aum, mani padme hum).
Theo Thiên Nhăn Thiên Tư
Quán Thế Âm Bồ Tát Thần Chú Kinh th́ [bài chú nói trong kinh ấy]
có thể diệt tội, trị bệnh, thỏa măn những
điều mong cầu, khác với Đại Bi Tâm Chú. Ngài
Trí Thông đời Đường dịch xong kinh ấy,
khẩn cầu Bồ Tát ứng hiện, liền cảm
được Bồ Tát chứng minh.
(8) Trong
Thanh Tịnh Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Hiền Đà La
Ni Kinh, Đại Sĩ nói chú Phụng Thỉnh, chú Kết Giới,
chú Căn Bản. Có thiên nữ mặc áo trắng, quỳ
hướng về Bồ Tát.
Trong Tục Tạng của
Nhật Bản có Đại Từ Bi Viên Măn Vô Ngại Thanh
Cảnh Đại Bi Tâm Chú Ấn, một quyển, do ngài Bất
Không dịch vào đời Đường.
(9) Theo Nhất
Thiết Như Lai Danh Hiệu Chú Kinh, lúc Phật mới
thành đạo, ngài Quán Tự Tại nói chú này, người
thọ tŕ chẳng đọa ác đạo, sanh lên trời,
thành Phật.
Theo Thánh Quán Tự Tại
Bồ Tát Tâm Chân Ngôn Du Già Quán Hạnh Nghi Quỹ; trước
hết, hăy quán thân của Bổn Tôn là Quán Tự Tại cho
được thành tựu, tu các chú, ấn. Kế đó,
quán tưởng cách sắp xếp các chủng tự trong
thần chú [trên thân hành giả] (Bố Tự Pháp) khiến
cho thân ḿnh và thân của Bổn Tôn như h́nh hiện bóng
trong gương, chẳng một, chẳng khác.
(10) Lăng
Nghiêm Kinh: “Ngă năng hiện
chúng đa diệu dung, năng thuyết vô biên thần chú”
(Ta có thể hiện rất nhiều thân tướng nhiệm
mầu, nói vô biên thần chú).
(11) Lời
tựa ở phía sau bộ Bất Không Quyến Sách Chú Kinh
có đoạn: “Đây chính là lời
chí lư về Chủng Trí trong ba đời, là chỗ tiến
nhập cùng cực ḥng chứng Chân trong Thập Địa,
chuyển các con lên ngồi yên trên xe, chỉ đường
phẳng phiu dẫn đến đạo tràng”.
(12) Trong
kinh Bi Hoa, Bảo Tạng Phật thọ kư [cho Quán Thế
Âm Bồ Tát]: “Nhữ vi Bồ
Tát thời, dĩ năng đại tác Phật sự”
(Trong lúc làm Bồ Tát, ông đă có thể thực hiện Phật
sự lớn lao).
Lăng Nghiêm Kinh: “Viên măn Bồ Đề, quy vô sở
đắc” (Viên măn Bồ Đề, trở về chỗ
không có ǵ để đạt được).
1. Do vậy,
trong vườn tiên nhân thành Ba La Nại, Hoa Đức Tạng
Bồ Tát thưa rằng:
2. Muốn
phổ độ chúng sanh, hăy nên đắc Như Huyễn
tam-muội.
3. Sao buổi
sớm lưa thưa, cảm khái Đông Độ khó bề
gặp gỡ, khảy ngón tay vượt thoát, ngưỡng
mộ sự vô lượng cơi
4. Cầu
Thế Tôn phóng bạch hào quang, tiến thẳng về An Lạc.
Đại Sĩ hiện thân tướng tử kim, sang trụ
cơi Diêm Phù (Từ
đây trở đi ca tụng kinh Thọ Kư, gồm ba
đoạn)
(1 & 2) Theo Quán Thế Âm Thọ
Kư Kinh[33],
Phật ở tại Vườn Nai (Lộc Uyển) của
tiên nhân trong thành Ba La Nại, Hoa Đức Tạng Bồ
Tát bạch Phật: - Làm thế nào để được
bất thoái nơi Bồ Đề và năm thứ thần
thông, đắc Như Huyễn tam-muội, có thể hóa hiện
thân h́nh tùy theo từng loại chúng sanh ḥng thành thục thiện
căn cho họ, v́ họ thuyết pháp khiến họ
đắc Bồ Đề?
(3) Kinh
chép: “Ư thử chúng trung, hữu
đắc thị tam muội giả hồ? Phật ngôn: -
Di Lặc, Văn Thù đẳng, lục thập Chánh Sĩ.
Tha phương hữu Bồ Tát thành tựu như thị
tam-muội giả hồ? Phật ngôn: - Tây Phương An Lạc
thế giới, Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế
đắc thị tam-muội. Phục thứ, nhược
Bồ Tát tùng bỉ Chánh Sĩ, thất nhật thất dạ,
thính thọ thị pháp, tiện đắc Như Huyễn
tam-muội. Đức Tạng ngôn: - Bỉ quốc ưng
hữu vô lượng Bồ Tát đắc thị tam-muội.
Phật ngôn: - Như thị, như thị, hữu vô lượng
A-tăng-kỳ Bồ Tát đắc thị tam-muội”
(Trong đại chúng đây, có vị nào đắc tam-muội
ấy hay không? Phật nói: “Di Lặc, Văn Thù, sáu
mươi vị Chánh Sĩ”. Phương khác có Bồ Tát
thành tựu tam-muội như thế hay chăng? Phật
nói: “Tây Phương An Lạc thế giới có Quán Thế
Âm, Đắc Đại Thế đắc tam-muội ấy.
Lại nữa, nếu có Bồ Tát trong bảy ngày bảy
đêm nghe nhận pháp này từ vị Chánh Sĩ ấy th́ sẽ
đắc Như Huyễn tam-muội”. Đức Tạng
nói: “Trong cơi ấy phải có vô lượng Bồ Tát đắc
tam-muội này”. Phật nói: “Đúng như vậy, đúng
như thế, có vô lượng A-tăng-kỳ Bồ Tát
đắc tam-muội này”).
(4) Kinh
chép: “Hoa Đức Tạng bạch
Phật ngôn: - Nguyện linh bỉ Chánh Sĩ, chí thử thế
giới. Thế Tôn tức phóng mi gian Bạch Hào tướng
quang, chí An Lạc thế giới” (Hoa Đức Tạng
bạch Phật rằng: - Xin hăy làm cho vị Chánh Sĩ ấy
đến thế giới này. Thế Tôn liền phóng quang
minh từ tướng Bạch Hào giữa chặng mày chiếu
đến thế giới An Lạc). Quán Kinh: “Quán Thế Âm Bồ Tát thân tử
kim sắc” (Quán Thế Âm Bồ Tát thân màu vàng tía).
1. Đại Sĩ liền cung kính bạch
A Di Đà Phật, dẫn ngài Thế Chí đi theo.
2. Suất
lănh bốn mươi ức quyến thuộc quy y, hóa hiện
đài báu lớn mười hai do-tuần.
3. Bảy
tầng trân bảo, trọn đủ trang nghiêm, hoa sen bốn
màu, đua chen tỏa sáng.
4. Tám vạn
bốn ngàn ngọc nữ, chia nhau cầm quả, nâng hoa. Như
Lai ba mươi hai tướng, dâng b́nh, hiến
hương cúng dường.
5. Ao báu, cây báu, gió Cực Lạc
nghiễm nhiên. Diệu nhạc, diệu âm, trời Dạ
Ma diễn tấu đâu bằng!
6. Chẳng
đi mà đến, phô vẻ diệu dung thù đặc. Vô
vi mà thành, hiện trang nghiêm nơi đời trược.
7. Nhất
niệm, nhất thời, chiếu khắp Phật hội,
vô pháp, vô đắc, thọ kư Bồ Đề.
(1 & 2)
Quán Thế Âm Thọ Kư Kinh: “Nhĩ
thời, Quán Thế Âm cập Đắc Đại Thế,
bạch bỉ Phật ngôn: ‘Ngă đẳng dục nghệ
Sa Bà thế giới, lễ bái, cúng dường Thích Ca Mâu Ni
Phật’. Phục cáo tứ thập ức Bồ Tát quyến
thuộc cộng văng thính pháp. Dĩ thần thông lực, các
vị quyến thuộc, hóa tác tứ thập ức trang
nghiêm bảo đài, tung quảng thập nhị do-tuần”
(Khi ấy, Quán Thế Âm và Đắc Đại Thế Bồ
Tát bạch với đức Phật cơi ấy rằng:
“Chúng con muốn sang thế giới Sa Bà lễ bái, cúng
dường Thích Ca Mâu Ni”. Lại bảo bốn mươi
ức Bồ Tát quyến thuộc hăy cùng đi nghe pháp. Ngài
dùng sức thần thông, v́ mỗi một quyến thuộc,
hóa ra bốn mươi ức đài báu trang nghiêm, mỗi
đài có kích thước là mười hai do-tuần).
(3) Các
đài báu ấy do vàng, bạc, lưu ly, xích châu, xa cừ,
mă năo hợp thành. Lại dùng xích châu, chiên đàn, các thứ
hoa sen xanh, đỏ, vàng, trắng để trang nghiêm. Văng
Sanh Luận: “Gió nhẹ lay hoa
lá, ánh sáng chen lẫn chuyển biến”.
(4) Trên
đài lại hóa ra tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, hoặc
cầm hoa sen bốn màu đứng nghiễm nhiên, hoặc
cầm hết thảy hoa quả đứng nghiễm
nhiên. Trên đài có ṭa sư tử trang nghiêm bằng các báu,
trên mỗi ṭa đều có hóa Phật [trọn đủ] ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo
để tự trang nghiêm thân. Mỗi đài lại có tám vạn
bốn ngàn b́nh bằng các thứ báu nhiệm mầu, đựng
đầy hương bột bày ở trên đó.
(5) Trên mỗi
đài đều có tám vạn bốn ngàn các cây báu đẹp
đẽ, giữa các cây báu là ao bảy báu, nước tám
công đức đầy ắp trong đó. Các hoa sen bằng
nhiều chất báu, màu sắc, ánh sáng chiếu rực. Gió
nhẹ lay động các hàng cây báu, phát ra âm thanh vi diệu.
Âm thanh ấy ḥa nhă, vượt xa nhạc trời.
(6) Kinh
chép: “Nhĩ thời, Quán Thế
Âm, Đắc Đại Thế, dữ kỳ quyến thuộc
bát thập ức chúng Bồ Tát, như lực sĩ khuất
thân tư khoảnh, tùng bỉ quốc một, chí thử thế
giới. Dĩ thần thông lực, linh thử thế giới
địa b́nh như thủy. Dữ bát thập ức Bồ
Tát tiền hậu vi nhiễu, dĩ đại công đức
trang nghiêm thành tựu, đoan nghiêm thù đặc, vô khả
vi dụ” (Khi ấy, Quán Thế Âm và Đại Thế
Chí Bồ Tát cùng với quyến thuộc là tám mươi ức[34]
các vị Bồ Tát, như trong khoảng lực sĩ co duỗi
cánh tay, biến mất nơi nước kia, đến thế
giới này. Do sức thần thông khiến cho thế giới
này mặt đất bằng phẳng như nước.
[Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát] cùng với
tám mươi ức Bồ Tát vây quanh trước sau, dùng
đại công đức trang nghiêm thành tựu, đoan
nghiêm thù thắng đặc biệt không thể tỷ dụ
được).
Phần Hệ Từ
Truyện trong sách Châu Dịch lại viết: “Vô tật nhi tốc, bất hành
nhi chí” (Chẳng nhanh mà lẹ, chẳng đi mà đến).
Sách Trung Dung có câu: “Bất kiến
nhi chương, vô động nhi biến, vô vi nhi thành” (Chẳng
thấy mà hiện bày, chẳng động mà biến, không
làm mà thành).
(7) Văng Sanh Luận: “Ánh sáng vô cấu trang nghiêm, trong một
niệm và một thời chiếu khắp các hội Phật,
lợi ích các chúng sanh”.
Kim Cang Kinh: “Dĩ thật vô hữu pháp,
đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Thị cố, Nhiên Đăng Phật dữ ngă thọ kư,
tác thị ngôn: - Nhữ ư lai thế, đương
đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni” (Do thật sự
không có pháp để đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, cho nên Nhiên Đăng Phật thọ kư cho ta, nói
như thế này: - Trong đời mai sau, ông sẽ thành Phật
hiệu là Thích Ca Mâu Ni)
1. Lúc
đó, Thế Tôn truy từ nhân quá khứ, nhằm chỉ dạy
quả vị lai.
2. Trong
cơi Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm, có danh hiệu tôn
quư là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương.
3. Cơi An Lạc
Đức Tụ khó thể sánh bằng. Hàng Duyên Giác, Thanh
Văn thảy đều lui gót.
4. Cơi chủng
tánh Đại Thừa, vĩnh viễn dứt gièm báng. Thọ
mạng thuận ḷng muốn, há c̣n luận thời kiếp?
Ấy là Đại Sĩ trong khi tu hạnh Bồ Tát, thệ
nguyện cực sâu, nên lúc thành Như Lai, sự trang nghiêm hết
sức tuyệt diệu.
(1 & 2)
Về nhân duyên trong thuở xưa, xin xem trong phần
trước. Quả vị lai là theo như Quán Thế Âm Thọ
Kư Kinh: Trong kiếp lâu xa chẳng thể tính toán trong
tương lai, khi Chánh Pháp của A Di Đà Như Lai diệt,
Quán Thế Âm Bồ Tát thành Đẳng Chánh Giác, hiệu là
Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, cơi
nước tên là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm. Sự
trang nghiêm trong cơi nước ấy, dẫu chư Phật
giảng nói trong hằng sa kiếp vẫn chẳng thể
hết được!
(3) An Lạc
Đức Tụ chính là cơi nước của Kim Quang
Sư Tử Du Hư Phật. Kinh chép: “Kim Quang Sư Tử quốc độ trang nghiêm,
phương ư Công Đức Sơn Vương quốc
độ, toán số sở bất năng cập” (Đem
so sự trang nghiêm trong cơi nước của Kim Quang Sư
Tử Phật với cơi Công Đức Sơn Vương Phật
th́ dùng toán số cũng không thể sánh bằng được).
Kinh c̣n nói: “Kỳ Phật quốc
độ, vô hữu Thanh Văn, Duyên Giác chi danh; thuần
chư Bồ Tát sung măn kỳ quốc” (Cơi nước Phật
ấy không có danh từ Thanh Văn, Duyên Giác, thuần là các
Bồ Tát đầy ắp trong nước ấy). Trong Pháp
Hoa Kinh có đoạn văn nói năm ngàn vị [Thanh Văn,
Duyên Giác] rời chỗ rút lui [khi đức Phật chấp
nhận lời thỉnh cầu của ngài Xá Lợi Phật
giảng về đạo Nhất Thừa].
(4) Văng
Sanh Luận: “Cơi căn tánh
Đại Thừa b́nh đẳng, không có danh từ
đáng bị chê gièm như nữ nhân và thiếu căn, chủng
tánh Nhị Thừa chẳng thể sanh về cơi ấy”.
Quán Thế Âm Thọ Kư Kinh: “Phổ
Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, tùy kỳ
thọ mạng” (Phổ Quang Công Đức Sơn
Vương Như Lai, thọ mạng tùy theo ư muốn).
Hơn nữa,
Như Lai tại thế, nhờ vào Phật lực gia tŕ.
Đức Phật nhập Niết Bàn, cảm thương
quần sanh, truyền trao chỗ quy ngưỡng, tựa
nương. Lại mở môn quán tưởng, khéo nói pháp
tư duy (Từ
đây trở đi là ca tụng phần kinh văn giảng
về phép quán hoa ṭa và quán tưởng thân tướng
Đại Sĩ trong Quán Kinh, tổng cộng bốn đoạn).
Trong Quán
Kinh, bà Vy Đề Hy bạch Phật: “Như ngă kim giả, dĩ Phật lực cố, kiến
bỉ quốc độ. Nhược Phật diệt hậu,
chư chúng sanh đẳng, trược ác bất thiện,
ngũ khổ sở bức, vân hà đắc kiến A Di
Đà Phật Cực Lạc thế giới” (Như con hiện
nay do nhờ Phật lực, được thấy cơi
nước kia. Nếu sau khi Phật diệt độ, các
hàng chúng sanh trược ác chẳng lành, bị năm nỗi
khổ bức bách, phải làm sao để thấy thế
giới Cực Lạc của A Di Đà Phật?). Lại
nói: “Duy nguyện Thế Tôn,
giáo ngă tư duy” (Kính xin đức Thế Tôn hăy dạy
con cách tư duy).
1. Rộng
bày y báo, chánh báo, đă thấy Di Đà, quán trọn sắc
thân, lại nghĩ tới Bồ Tát.
2. Đứng
bên trái Như Lai, tưởng đặt ṭa Bồ Tát.
3. Sen hiện
tám vạn bốn ngàn cánh, ánh sáng báu tỏa ngời, rộng
hai trăm năm mươi do-tuần, những đường gân trên cánh hoa hệt như nét vẽ
cơi trời.
4. Trăm
ức châu vương, phóng quang như lọng. Tám vạn
kim bảo, trang hoàng làm đài.
5. Trên
đảnh Tu Di, bảo tràng cao lớn khó bề chiêm
ngưỡng . Cung trời Dạ Ma, sánh với màn che [trên
tràng] đành kém trang nghiêm.
6. Bảo
châu lóa mắt, có vô lượng quang minh. Mây rợp sắc
vàng, làm Phật sự mười phương.
(1) Trong
Quán Kinh, phép quán thứ bảy là Hoa Ṭa Tưởng, phép quán
thứ tám là Tượng Tưởng, phép quán thứ chín là
Biến Quán Nhất Thiết Sắc Thân Tướng (quán trọn
khắp hết thảy tướng nơi sắc thân), phép
quán thứ mười là quán tướng sắc thân chân thật
của Quán Thế Âm Bồ Tát.
(2) Kinh
chép: “Phục đương
cánh tác nhất đại liên hoa, tại Phật tả
biên, như tiền liên hoa, đẳng vô hữu dị.
Tưởng nhất Quán Thế Âm Bồ Tát tượng, tọa
tả hoa ṭa, diệc tác kim sắc, như tiền vô dị”
(Lại nên tưởng một hoa sen lớn ở bên trái
đức Phật, giống hệt như hoa sen được
nói trong phần trước (tức là phần nói về ṭa
sen của A Di Đà Phật), trọn chẳng khác ǵ. Tưởng
một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi trên ṭa
sen bên trái, cũng là sắc vàng giống như trong phần
trước chẳng khác).
(3 & 4)
Kinh chép: “Ư thất bảo
tŕ thượng, tác liên hoa tưởng, linh kỳ liên hoa,
nhất nhất diệp thượng, tác bách bảo sắc,
hữu bát vạn tứ thiên mạch, do như thiên họa.
Hoa diệp tiểu giả, tung quảng nhị bách ngũ
thập do-tuần. Như thị liên hoa, hữu bát vạn
tứ thiên diệp. Nhất nhất diệp gian, hữu
bách ức Ma Ni châu vương, dĩ vi ánh sức. Nhất
nhất châu, phóng thiên quang minh. Kỳ quang như cái, thất
bảo hợp thành, biến phú địa thượng.
Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo, dĩ vi kỳ đài.
Đài hữu bát vạn Kim Cang Chân Thúc Ca bảo, diệu
chân châu vơng, dĩ vi hiệu sức” (Trên ao bảy báu,
tưởng có hoa sen. Tưởng trên mỗi cánh của
đóa sen ấy đều có màu sắc của trăm thứ
báu, có tám vạn bốn ngàn đường gân giống
như nét vẽ cơi trời. Hoa sen như vậy có tám vạn
bốn ngàn cánh. Trong mỗi một cánh có trăm ức Ma Ni
châu vương trang hoàng chói ngời. Mỗi một viên châu
tỏa ngàn quang minh. Quang minh ấy như cái lọng do bảy
báu hợp thành, che khắp trên mặt đất. Chất
báu Thích Ca Tỳ Lăng Già dùng làm đài hoa. Trên đài có tám
vạn báu Kim Cang Chân Thúc Ca, lưới kết bằng chân
châu đẹp đẽ để trang hoàng). Thích Ca Tỳ
Lăng Già (Sakrā-bhilagna-mani-ratna), cơi này dịch là Năng
Thắng. Chân Thúc Ca (Kimśuka) cơi này dịch là Xích Sắc.
(5 & 6)
Trên đài có bốn trụ tràng báu, như trăm ngàn vạn
ức núi Tu Di. Trên tràng treo màn báu như cung trời Dạ
Ma. Năm trăm ức bảo châu vi diệu trang hoàng chói
ngời. Mỗi viên châu có tám vạn bốn ngàn tia sáng, mỗi
tia sáng bao gồm tám vạn bốn ngàn thứ sắc vàng ṛng
khác nhau. Mỗi một sắc vàng chiếu khắp cơi báu,
chỗ nào cũng biến hóa thành đài Kim Cang, thành lưới
chân châu, thành mây các loại hoa, thực hiện Phật sự
trong mười phương.
1. Mặt
Đại Sĩ như vàng Diêm Phù Đàn, đảnh đầu
lộ nhục kế.
2. Thân sắc
vàng tía, hiện bóng chúng sanh trong năm đường. Măo
trời Ma Ni, hóa Phật cao ngàn dặm đứng trên
đó.
3. Trong
viên quang, chư thánh giáng lâm, nơi hào tướng bảy
báu gồm đủ.
4. Lưu
xuất vô lượng Như Lai, trọn khắp mười
phương thế giới.
5. Cánh tay
như sen thắm, bàn tay dường hoa b́nh[35].
6. Quang
minh, anh lạc, hiện khắp trang nghiêm, nét ấn nhu nhuyễn,
phóng quang chuyển vần.
7. Tuy
đủ ba mươi hai tướng đại nhân, đảnh
đầu vẫn kém Thế Tôn, dạo bước năm
trăm ức đài đỡ gót, khác ǵ đức Phật.
8. Chỉ
nghe danh hiệu, được phước há biết bến
bờ. Nếu được nh́n kỹ, trừ chướng
chẳng c̣n dư sót.
(1) Theo
Quán Kinh, mặt Bồ Tát như sắc vàng Diêm Phù Đàn,
trên đảnh có nhục kế.
(2) Kinh
chép: “Thân tử kim sắc, cử
thân quang trung. Ngũ đạo chúng sanh, nhất thiết sắc
tướng, giai ư trung hiện. Đảnh thượng
Tỳ Lăng Già Ma Ni bảo, dĩ vi thiên quan. Quan trung nhất
lập hóa Phật, cao nhị thập ngũ do-tuần” (Thân
màu vàng tía, khắp thân phủ trong ánh sáng. Hết thảy sắc
tướng của chúng sanh trong năm đường
đều hiện trong quang minh ấy. Trên đảnh có
măo trời bằng chất báu Tỳ Lăng Già Ma Ni, trong
măo có một vị hóa Phật đứng, cao hai
mươi lăm do-tuần). Một do-tuần bằng bốn
mươi dặm cơi này.
(3 & 4)
Quán Kinh: “Đảnh hữu viên
quang, diện các bách thiên do-tuần. Viên quang trung hữu
ngũ bách hóa Phật, nhất nhất hóa Phật, hữu
ngũ bách hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên, dĩ vi
thị giả. Hựu my gian hào tướng, bị thất
bảo sắc, lưu xuất bát vạn tứ thiên chủng
quang minh. Nhất nhất quang minh, hữu vô lượng vô
số hóa Phật. Nhất nhất hóa Phật, hữu vô số
hóa Bồ Tát, dĩ vi thị giả, biến hiện tự
tại măn thập phương giới” (Trên đảnh
có viên quang, mỗi phía chiếu xa tới trăm ngàn do-tuần.
Trong viên quang có năm trăm hóa Phật, mỗi một hóa
Phật có năm trăm hóa Bồ Tát và vô lượng
chư thiên làm thị giả. Lại nữa, tướng bạch
hào giữa hai mày có đủ màu của bảy báu, tỏa
ra tám vạn bốn ngàn thứ quang minh. Trong mỗi một
quang minh có vô lượng vô số hóa Phật. Mỗi một
hóa Phật, có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả, biến
hiện tự tại trọn khắp các cơi trong mười
phương). Trong kinh Lăng Nghiêm, Di Lặc Bồ Tát nói: “Thức tánh lưu xuất vô
lượng Như Lai”.
(5 & 6)
Quán Kinh: “Tư như hồng liên
hoa sắc, hữu bát thập ức vi diệu quang minh,
dĩ vi anh lạc. Kỳ anh lạc trung, phổ hiện nhất
thiết chư trang nghiêm sự. Thủ chưởng tác
ngũ bách ức tạp liên hoa sắc. Thủ thập chỉ
đoan, nhất nhất hữu bách vạn tứ thiên hoạch,
do như ấn văn. Nhất nhất hoạch, hữu bát
vạn tứ thiên sắc. Nhất nhất sắc, hữu
bát vạn tứ thiên quang. Kỳ quang nhu nhuyễn, phổ
chiếu nhất thiết” (Cánh tay như màu hoa sen hồng,
có tám mươi ức quang minh vi diệu để làm anh lạc.
Trong các chuỗi anh lạc, hiện khắp hết thảy
các sự trang nghiêm. Ḷng bàn tay có màu của năm trăm ức
hoa sen nhiều màu. Mười đầu ngón tay, mỗi ngón
đều có tám vạn bốn ngàn đường vân giống
như nét khắc trên ấn. Mỗi một đường
vân có tám vạn bốn ngàn sắc. Mỗi một sắc có
tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Ánh sáng ấy mềm mại,
chiếu khắp hết thảy). Văng Sanh Luận lại
ghi: “Mềm mại xoay tṛn chung quanh”. Lăng Nghiêm Kinh: “Như Lai tùng luân chưởng
trung, phi nhất bảo quang, tại A
(7) Theo
Quán Kinh, các thân tướng khác [của Quán Thế Âm Bồ
Tát] đều có trọn đủ các thứ hảo, giống
như Phật chẳng khác; chỉ có nhục kế trên
đảnh và Vô Kiến Đảnh Tướng là chẳng
bằng Thế Tôn. Kinh c̣n nói khi Ngài giở chân lên, dưới
chân có tướng bánh xe ngàn căm, tự nhiên hóa thành
năm trăm ức đài quang minh.
(8) Quán
Kinh: “Như thử Bồ Tát,
đản văn kỳ danh, hoạch vô lượng phước,
hà huống đế quán, tác thị quán giả, tịnh trừ
nghiệp chướng, trừ vô số kiếp sanh tử
chi tội” (Vị Bồ Tát như vậy, chỉ nghe
danh hiệu Ngài sẽ được vô lượng phước,
huống là quán sát kỹ. Người quán tưởng Ngài như
vậy sẽ trừ sạch nghiệp chướng, trừ
tội trong vô số kiếp sanh tử).
1. Là v́: Chúng sanh dễ độ,
chỉ vọng tưởng khó trừ. Phật pháp vô biên, tại
chế tâm một chỗ.
2. Nhưng khởi, diệt
không ngừng, quả thật do tâm, mắt lỗi lầm.
3. Muốn
khuất phục Kiến Hoặc, Tư Hoặc, không ǵ bằng
đổ công quán tưởng.
4. Tuy Dụng
quy về ư thức, tâm sanh tử vẫn hệt như
xưa, huân nhập A Lại Da Thức, có thể chấp
tŕ thành chủng tử.
5. Hệt
như ở chung quanh, dường thấy nơi canh,
tường.
6. Chẳng
phải là chí thành cảm thánh, th́ cũng là tâm này làm Phật!
(1) Lục
Tổ Đàn Kinh: “Nhân tánh bổn
tịnh, do vọng niệm cố, cái phú Chân Như, đản
vô vọng tưởng, tánh tự thanh tịnh” (Tánh của
con người vốn tịnh, do vọng niệm che lấp
Chân Như. Chỉ cần không có vọng tưởng th́
tánh tự thanh tịnh). Trong Tứ Hoằng Thệ có “pháp môn vô lượng thệ nguyện
học”. Di Giáo Kinh: “Chế
tâm nhất xứ, vô sự bất biện” (Chế ngự
tâm vào một chỗ th́ không chuyện ǵ chẳng hoàn thành).
(2) Lăng
Nghiêm Kinh: “Sử nhữ lưu
chuyển, tâm mục vi cữu” (Khiến cho ông bị
lưu chuyển là do lỗi của tâm và mắt).
(3) Niệm
Phật có bốn cách: Tŕ danh, quán tượng, quán tưởng
và Thật Tướng.
(4) Sách
Đại Thừa Chỉ Quán giảng: “Lấy ư thức nương tựa cái tâm này để
tu Chỉ Quán, niệm niệm huân tập bổn thức, sức
giải tánh được tăng thêm, ư thức càng thêm
sáng suốt, nhạy bén. Huân tập cái tâm lâu ngày, cho nên giải
tánh viên minh, soi rơ cái Thể của chính ḿnh chỉ là Chân và
Tịch, ư thức liền dứt bặt”. Bổn thức
chính là A Lại Da Chủng Tử Thức.
(5) Sách
Trung Dung có câu: “Như tại kỳ
thượng, như tại kỳ tả hữu” (Như
là ở trên đó, như là ở hai bên đó). Trong tiểu
truyện của ông Lư Cố đời Hậu Hán có nói vua
Thuấn khi ăn th́ thấy vua Nghiêu hiện trong canh, khi ngồi
th́ thấy vua Nghiêu hiện nơi tường.
(6) Quán
Kinh: “Thị tâm tác Phật, thị
tâm thị Phật” (Tâm này làm Phật, tâm này là Phật).
Sách Đại Thừa Chỉ Quán có đoạn viết: “Nhờ vào tưởng để
huân tập cái tâm th́ chư Phật ở ngay trong tâm đều
hiển hiện. Có thể thấy rằng đức Phật
được thấy đó chính là vị Phật chân thật
xuất thế. Hết thảy chư Phật là do tâm tạo
ra”.
1. Vàng, bạc,
cùng các báu, nào phải châu trong búi tóc; sữa, lạc, hai thứ
tô, hương vị vẫn kém Đề Hồ.
2. Cảm
khái diệu quán khó thành, chẳng ǵ bằng lễ kính. Than
thở tụng kinh bị chuyển, không chi hơn tŕ danh.
3. Giơ
tay, cúi đầu đều thành Phật đạo. Danh tự
rốt ráo, Nhị Tức viên dung. Pháp giản dị
nhưng cao rộng, môn phổ cập càng nhiệm mầu (Đoạn này ca tụng sự
lễ kính, tŕ danh. Dựa theo sự phán định của
ngài Thiên Thai đối với phẩm Phổ Môn th́: “Xưng
danh trừ được bảy tai nạn, lễ bái măn
hai nguyện”. Trong Văng Sanh Luận, ngài Thiên Thân đưa lễ
kính vào môn thứ nhất, tŕ danh vào môn thứ ba. V́ thế,
trước khi ca tụng kinh Pháp Hoa, đem lời khuyên niệm
đặt trước phần ca tụng).
(1) Phẩm An Lạc
Hạnh kinh Pháp Hoa có đoạn: “Như Chuyển Luân Vương, kiến binh chúng chiến
hữu công giả, tùy công thưởng tứ, dữ chủng
chủng trân bảo kim ngân đẳng, duy kế trung minh
châu, bất dĩ dữ chi” (Như vua Chuyển Luân thấy
các quân lính chiến đấu có công bèn tùy theo công mà ban
thưởng, ban cho những thứ như vật quư báu,
vàng, bạc v.v... chỉ có viên minh châu trong búi tóc là chẳng
ban cho).
Ngài Thiên Thai phán giáo,
đem năm vị đối ứng với năm thời:
Thứ nhất là kinh Hoa Nghiêm, giống như từ ḅ sanh
ra sữa. Tiếp đó là Tam Tạng Giáo (Tạng Giáo) chuyển
phàm thành thánh, giống như chuyển sữa thành lạc.
Kế đến là thời Phương Đẳng, bài
xích, quở trách Thanh Văn, hạ thấp Tiểu Thừa,
ngưỡng mộ Đại Thừa, như chuyển lạc
thành sanh tô. Tiếp đó là thời Bát Nhă, vâng lời Phật
sắc truyền, lần lượt dạy nhau, tâm dần
dần thông thái, như chuyển sanh tô thành thục tô. Kế
đó là thời Pháp Hoa, được thọ kư thành Phật,
như chuyển thục tô thành Đề Hồ[37].
(2) Ngài Thiện Đạo
nói: “Chúng sanh chướng nặng,
cảnh tế, tâm thô, quán khó thành tựu”. Đàn Kinh: “Tâm mê, Pháp Hoa chuyển; tâm ngộ,
chuyển Pháp Hoa. Tụng kinh lâu chẳng hiểu, bèn đối
với nghĩa kinh, trở thành kẻ oán cừu”.
(3) Pháp Hoa Kinh: “Hoặc hữu nhân lễ bái, hoặc
phục đản hiệp chưởng, năi chí cử nhất
thủ, hoặc phục tiểu đê đầu. Dĩ thử
cúng dường tượng, tiệm kiến vô lượng
Phật, tự thành vô thượng đạo” (Hoặc
có người lễ bái, hoặc lại chỉ chắp
tay, thậm chí giơ một tay, hoặc lại khẽ cúi
đầu. Dùng đấy cúng dường tượng, dần
thấy vô lượng Phật, tự thành đạo vô
thượng). Kinh c̣n chép: “Nhược
nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất
xưng
Ngài Thiên Thai dùng Lục
Tức để luận Phật:
1) Lư tức
2) Danh tự tức
3) Quán hạnh tức
4) Tương tự
tức
5) Phần chứng tức
6) Cứu cánh tức.
Nhưng Hàng Bố[38]
chẳng ngại Viên Dung, Viên Dung chẳng ngại Hàng Bố.
[Nhị Tức] được nói ở đây chính là Danh Tự
Tức và Phần Chứng Tức, Nhị Tức dung thông,
chẳng nói đến Lư Tức, bởi lẽ, Lư Tức
chỉ gồm Lư tánh chưa khởi Sự tu.
1. Do nhập lưu tướng,
Đại Sĩ phát khởi môn Diệu Nhĩ.
2. Ngũ Quán viên dung, bốn âm
thù thắng.
3. V́ vậy, trong kinh Phật
Đảnh, A Nan Đà thỉnh cầu phương tiện,
nơi hội Pháp Hoa, Vô Tận Ư khải vấn nhân duyên.
4. Diệu Đức đă tự
tuyên nói, thần lực càng được Phật khen.
5. Nếu có thể niệm niệm
tín tâm, sẽ khế hợp quán quán diệu giác.
6. Dẫu bị xô rớt hầm
lửa, lửa biến thành ao nước mát trong. Tuy trôi giạt
biển khơi, nước hóa thành trưởng dưỡng.
7. Thuyền giạt nước
quỷ, thành sắt bỗng hóa ra ṿ vàng. Thân ngă đầu
non, dường Tu Di khẽ rơi hạt cải.
8. Đi qua đường hiểm,
giặc dấy ḷng Từ, phép vua xử tội, đao
như cắt nước.
9. Trong chốn giam cầm nhốt
kín, vạch đất nhọc công. Ếm, rủa, độc
dược xảy tới, khạc trời, tự bẩn.
10. Gặp gỡ thú dữ,
độc xà, ḷng thành cảm hóa vật. Tiêu tan sấm rền,
chớp giật, sức chuyển được trời.
11. Ĺa sân, ĺa dục, ba độc
trọn tiêu. Cầu con trai, mong sanh gái, đôi ḷng cầu
đều được thỏa nguyền.
12. Làm bậc lương y, tự
đạt thượng thọ. Diệt trừ phiền
năo, quyết chứng tam-ma.
13. Hễ niệm Ngài đều
chẳng uổng công, phước đức chẳng hề
luống mất.
14. Không ǵ chẳng một dạ
v́ chúng sanh, nên Bồ Tát cảm được thập phổ
(Đoạn này ca tụng
phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa và mười bốn
thứ Vô Úy được nói trong chương Viên Thông của
kinh Lăng Nghiêm, nhưng lấy bài kệ trong [phẩm Phổ
Môn của] kinh Pháp Hoa làm chủ, nhằm nói lên những
điều ứng nghiệm nhỏ nhặt của người
lễ kính, tŕ danh [Bồ Tát]).
(1) Lăng Nghiêm Kinh: “Nhân nhập lưu tướng,
đắc Tam-ma-đề” (Do nhập vào trong tướng
lưu xuất [của tánh Nghe] nên đắc Chánh Định).
Kinh c̣n chép: “Do ngă sở đắc
viên thông bổn căn, phát diệu nhĩ môn” (Do ta đắc
được sự viên thông tận gốc rễ của
Căn nên phát sanh môn Nghe mầu nhiệm).
(2) Pháp Hoa Kinh: “Chân quán, thanh tịnh quán, quảng
đại trí huệ quán, bi quán, cập từ quán, thường
nguyện, thường chiêm ngưỡng” (Chân quán, thanh
tịnh quán, trí huệ quán rộng lớn, bi quán và từ
quán, thường nguyện, thường chiêm ngưỡng).
Kinh c̣n chép: “Diệu âm, quán thế
âm, phạm âm, hải triều âm, thắng bỉ thế
gian âm, thị cố thường tu niệm” (Tiếng
diệu, tiếng xét đời, phạm âm, tiếng sóng biển,
trỗi vượt tiếng thế gian, cho nên hăy thường
niệm).
(4) Lăng Nghiêm Kinh: “Ngă hựu hoạch thị viên
thông tu chứng vô thượng đạo cố, hựu
năng thiện hoạch tứ bất tư nghị vô tác
diệu đức” (Ta lại đạt được
viên thông này, tu chứng đạo vô thượng, lại
có thể khéo đạt được bốn thứ diệu
đức vô tác chẳng thể nghĩ bàn). Pháp Hoa Kinh: “Quán Thế Âm Bồ Tát hữu
như thị đẳng đại oai thần lực,
đa sở nhiêu ích” (Quán Thế Âm Bồ Tát có những
sức oai thần to lớn như thế, tạo nhiều
lợi ích)
(5) Pháp Hoa Kinh: “Niệm niệm vật sanh nghi”
(Niệm niệm đừng sanh ḷng nghi). Lăng Nghiêm Kinh: “Do ngă bất tự quán âm, dĩ
quán quán giả” (Do chính tôi không quán âm thanh, mà quán nơi tự
tánh của phép quán)[39].
Kinh c̣n chép: “Thượng hợp
thập phương chư Phật bổn diệu giác tâm”
(Trên là hợp với tâm diệu giác sẵn có của mười
phương chư Phật).
(6) Pháp Hoa Kinh: “Giả sử hưng hại ư,
thôi lạc đại hỏa khanh, niệm bỉ Quán Âm lực,
hỏa khanh biến thành tŕ” (Giả sử nẩy ḷng hại,
xô té hầm lửa lớn, do sức niệm Quán Âm, hầm
lửa biến thành ao). Phẩm Thập Hạnh của kinh
Hoa Nghiêm có đoạn: “Bồ
Tát vị thế gian nhất thiết thiên nhân tác thanh
lương tŕ” (Bồ Tát làm ao trong mát cho hết thảy
trời người trong thế gian). Pháp Hoa Kinh: “Hoặc phiêu lưu cự hải,
long, ngư, chư quỷ nạn, niệm bỉ Quán Âm lực,
ba lăng bất năng một” (Hoặc trôi giạt biển
cả, các nạn rồng, cá, quỷ, do sức niệm Quán
Âm, sóng ṃi chẳng ch́m được). [Trong cơi Cực Lạc]
nước có tám công đức th́ điều thứ tám là
trưởng dưỡng các căn, chẳng giống với
nước trong cơi này tổn hoại các căn, gây thêm bệnh,
chết ch́m.
(7) Pháp Hoa Kinh: “Giả sử hắc phong xuy kỳ
thuyền phưởng, phiêu đọa La Sát quỷ quốc,
kỳ trung nhược hữu nhất nhân xưng Quán Thế
Âm Bồ Tát danh giả, thị chư nhân đẳng giai
đắc giải thoát La Sát chi nạn” (Giả sử cuồng
phong thổi giạt thuyền bè vào nước quỷ La
Sát, trong ấy nếu có một người xưng danh Quán
Thế Âm Bồ Tát, th́ những người ấy đều
được thoát khỏi nạn La Sát). Phật Bổn Hạnh
Tập Kinh: “Tích hữu ngũ
bách thương nhân, nhập hải thái bảo, hốt trị
ác phong, xuy thuyền phưởng chí La Sát quốc.
Kinh Hiền Ngu Nhân
Duyên cũng chép: “Hữu
bà-la-môn phụ thọ Bát Quan Trai. Thời vương dạ
phần, di nhân tống thực văng khoáng dă, đạo
đa La Sát, vô cảm văng. Thử phụ tín tŕ Bát Quan giả,
quỷ bất năng hại, toại văng. La Sát nữ dục
thực bất cảm, tặng nhất phủ kim. Phục
tiền phùng kỳ muội, kỳ đệ, giai tặng
nhất phủ kim” (Có một phụ nữ Bà-la-môn thọ
Bát Quan Trai. Khi ấy, vào ban đêm, vua sai người
đưa đồ ăn qua chỗ quỷ Khoáng Dă, trên
đường có nhiều La Sát, [người ấy] không
dám đi. Phụ nữ đó tin quỷ chẳng thể hại
được người tŕ Bát Quan Trai, bèn đi. La Sát nữ
muốn ăn thịt bà ta nhưng không dám, bèn tặng cho bà
ta một ṿ vàng. Trước đó, bà ta lại gặp em
gái và em trai [của La Sát nữ ấy], mỗi người
đều tặng một ṿ vàng).
Pháp Hoa Kinh: “Hoặc tại Tu Di phong, vị
nhân sở thôi đọa, niệm bỉ Quán Âm lực,
như nhật hư không trụ. Hoặc bị ác nhân trục,
đọa lạc Kim Cang sơn, niệm bỉ Quán Âm lực,
bất năng tổn nhất mao” (Hoặc trên chót Tu Di,
bị người đẩy té xuống, do sức niệm
Quán Âm, như mặt trời trên không. Hoặc bị kẻ
ác đuổi, rớt xuống núi Kim Cang, do sức niệm
Quán Âm, chẳng tổn hại mảy lông).
Duy Ma Kinh: “Dĩ Tu Di chi cao quảng, nội
giới tử trung, vô sở tăng giảm. Tu Di sơn
vương, bổn tướng như cố” (Lấy
núi Tu Di cao rộng bỏ vào trong hạt cải, chẳng có
tăng giảm. Tướng sẵn có của núi Tu Di vẫn
y hệt như cũ).
(8) Pháp Hoa Kinh: “Hoặc trị oán tặc nhiễu,
các chấp đao gia hại, niệm bỉ Quán Âm lực,
hàm tức khởi từ tâm” (Hoặc gặp oán tặc
vây, đều cầm đao toan hại, do sức niệm
Quán Âm, chúng liền khởi ḷng Từ). Kinh Hoa Nghiêm cũng
nói: “Năng linh chúng sanh kinh quá
hiểm lộ, tặc bất năng kiếp” (Có thể
làm cho chúng sanh đi qua đường hiểm mà giặc
chẳng thể cướp bóc).
Pháp Hoa Kinh: “Hoặc tao vương nạn khổ,
lâm h́nh dục thọ chung, niệm bỉ Quán Âm lực,
đao tầm đoạn đoạn hại” (Gặp nạn
vua gây khổ, sắp bị xử tử h́nh, do sức niệm
Quán Âm, đao liền găy từng đoạn). Lăng Nghiêm
Kinh: “Sử kỳ binh qua, do
như cát thủy, diệc như xuy quang, tánh vô dao động”
(Khiến cho vũ khí của chúng giống như cắt
nước, cũng giống như thổi ánh sáng, tánh không
dao động).
(9) Pháp Hoa Kinh: “Hoặc nhân cấm già tỏa, thủ
túc bị nữu giới, niệm bỉ Quán Âm lực, thích
nhiên đắc giải thoát” (Hoặc do bị gông cùm,
chân tay bị xiềng xích, do sức niệm Quán Âm, tháo gỡ,
được giải thoát). Lăng Nghiêm Kinh: “Năng linh chúng sanh cấm hệ
già tỏa, sở bất năng trước” (Có thể
làm cho chúng sanh bị giam cầm mà gông xiềng không trói buộc
được). Thời cổ, người ta vạch
đất làm nhà tù.
Pháp Hoa Kinh: “Chú trớ, chư độc
dược, sở dục hại thân giả, niệm bỉ
Quán Âm lực, hoàn trước ư bổn nhân” (Nguyền
rủa, các thuốc độc, muốn làm hại đến
thân, do sức niệm Quán Âm, trở ngược kẻ làm
hại). Ngài Liên Tŕ giải thích: “Như
ngậm máu phun lên trời, lại bẩn chính ḿnh”.
Tứ Thập Nhị
Chương Kinh: “Ác nhân hại
hiền giả, do ngưỡng thiên nhi thóa, thóa bất chí
thiên, hoàn tùng kỷ đọa” (Kẻ ác hại người
hiền, giống như ngửa mặt nhổ lên trời,
nhổ chẳng tới trời lại rơi xuống chính
ḿnh).
(10) Pháp Hoa Kinh: “Nhược ác thú vi nhiễu, lợi
nha trảo khả bố, niệm bỉ Quán Âm lực, tật
tẩu vô biên phương. Ngoan xà cập phúc yết, khí
độc yên hỏa nhiên, niệm bỉ Quán Âm lực, tầm
thanh tự hồi khứ” (Nếu ác thú vây quanh, nanh vuốt
bén đáng sợ, do sức niệm Quán Âm, chúng bỏ chạy
mất tích. Rắn độc, ḅ cạp, rết, phun
hơi độc mịt mù, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng
lui chạy hết). Lại chép: “Vân
lôi cổ, xiết điển, giáng bạc chú đại
vũ, niệm bỉ Quán Âm lực, ứng thời đắc
tiêu tán” (Trời nổi sấm, nháng chớp, tuôn mưa
đá, mưa to, do sức niệm Quán Âm, ngay lập tức
tan mất).
Trong Mật Bộ có
Tiêu Trừ Nhất Thiết Thiểm Điển Chướng
Nạn Kinh, Quán Tự Tại Bồ Tát có nói thần chú [dứt
trừ những tai nạn mưa giông, sấm sét].
(11) Pháp Hoa Kinh: “Nhược hữu chúng sanh,
đa ư dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế
Âm Bồ Tát, tiện đắc ly dục. Nhược
đa sân khuể, thường niệm cung kính Quán Thế
Âm Bồ Tát, tiện đắc ly sân. Nhược đa ngu
si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện
đắc ly si” (Nếu có chúng sanh lắm dâm dục,
thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ
được ĺa dục. Nếu lắm nóng giận,
thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ
được ĺa giận. Nếu lắm ngu si, thường
niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được
ĺa si).
Lại nói: “Nhược hữu nữ nhân,
thiết dục cầu nam, lễ bái cúng dường Quán Thế
Âm Bồ Tát, tiện sanh phước đức, trí huệ
chi nam, thiết dục cầu nữ, tiện sanh đoan
chánh hữu tướng chi nữ, túc thực đức bổn,
chúng nhân ái kính” (Nếu có nữ nhân muốn sanh con trai, lễ
bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh con
trai phước đức, trí huệ. Nếu muốn cầu
con gái, liền sanh con gái có tướng đoan chánh, đă
gieo cội đức từ kiếp trước,
được mọi người yêu mến, kính trọng).
(12) Lăng Nghiêm Kinh: “Cầu tam-muội đắc
tam-muội, cầu trường thọ đắc trường
thọ”. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có
đoạn nói: “Ư chư bệnh
khổ vị tác lương y” (Làm lương y cho những
kẻ bệnh tật khổ sở).
Pháp Hoa Kinh: “Bi thể giới lôi chấn, từ
ư diệu đại vân, chú cam lộ pháp vũ, diệt trừ
phiền năo diệm” (Thể bi răn như sấm, ư từ
diệu dường mây, tuôn mưa pháp cam lộ, diệt trừ
lửa phiền năo). Tam-ma là tam-muội.
(13) Pháp Hoa Kinh: “Văn danh cập kiến thân,
tâm niệm bất không quá, năng diệt chư hữu khổ”
(Nghe tên và thấy thân, tâm niệm chẳng luống uổng,
diệt khổ trong các cơi). Lại chép: “Nhược hữu chúng sanh, cung kính, lễ bái Quán Thế
Âm Bồ Tát, phước bất đường quyên” (Nếu
có chúng sanh cung kính, lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát, phước
chẳng luống uổng). “Đường
quyên” c̣n nói là bỏ phí.
(14) Pháp Hoa Kinh: “Nhữ đẳng ưng
đương nhất tâm cúng dường Quán Thế Âm Bồ
Tát” (Các ông hăy nên nhất tâm cúng dường Quán Thế
Âm Bồ Tát).
Ngài Thiên Thai sớ giải
phẩm Phổ Môn nói có mười loại phổ: 1) Từ
bi phổ 2) Hoằng thệ phổ 3) Tu hành phổ 4) Ly hoặc
phổ 5) Nhập pháp môn phổ 6) Thần thông phổ 7)
Phương tiện phổ 8) Thuyết pháp phổ 9) Thành tựu
chúng sanh phổ 10) Cúng dường chư Phật phổ.
Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích
Cảm Ứng Tụng
Quyển 1, phần 2 hết
[1] Nguyên văn “dương
diệm” (mirage) là một loại ảo ảnh. Khi trời
nắng gắt, những chỗ bị nắng chiếu xuống,
nh́n xa trông lấp loáng như nước th́ gọi là “dương
diệm”.
[2] Phạm
Chí (Brahmacarin) có
nghĩa là “có chí hướng cầu sanh lên cơi trời của
Đại Phạm Vương”, được sử dụng
với hai nghĩa:
1. Chữ Phạm (Brahma) chỉ hàng Bà La Môn như phần nói về ngoại đạo trong sách Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập đă giảng: “Chủng tánh Bà La Môn tự xưng là từ miệng Phạm Thiên sanh ra, cao quư nhất trong bốn chủng tánh, riêng dùng chữ Phạm để đặt tên cho chủng tánh của ḿnh. Chỉ riêng năm xứ Thiên Trúc có chủng tánh này, các nước khác không có. Chữ Phạm Chí dùng trong các kinh có cùng ư nghĩa với danh từ này”.
2.
Phạm Chí là tiếng gọi chung những hàng ngoại
đạo xuất gia ở Ấn Độ. Đại
Trí Độ Luận, quyển 56 giảng: “Phạm Chí là hết thảy ngoại đạo xuất
gia. Nếu có kẻ nào vâng thờ pháp của bọn họ
th́ cũng gọi là Phạm Chí”.
[3] Thôi thăng (推升): Đây là từ ngữ được
dùng bởi đại sư Thanh Lương trong Hoa Nghiêm
Kinh Sớ khi viết khoa phán nhằm phân chia mỗi
chương tham học của Thiện Tài đồng tử
thành các tiểu đoạn. “Thôi
thăng” là sau khi mỗi vị thiện hữu đă dạy
cho Thiện Tài hiểu biết cảnh giới của pháp
môn do chính ḿnh tu học, bèn nói “ta chỉ biết một pháp
môn, không thể biết trọn hết Bồ Tát hạnh. Vị
thiện hữu kế tiếp tốt đẹp hơn ta,
sẽ dạy cho ngươi biết rơ về Bồ Tát hạnh”
(đó gọi là Thôi, tức đề cao) với ngụ ư
là thể hiện ư khiêm hư, đề cao cảnh giới
của địa vị kế tiếp nhằm thúc đẩy
Thiện Tài dũng mănh tu tập, tiến lên địa vị
cao hơn (Thăng) trong năm mươi hai địa vị
Bồ Tát.
[4] Tông ở đây là giáo nghĩa chủ yếu,
chánh yếu của một bộ kinh.
[5] Xin lưu ư đây cũng là sự thị
hiện nhằm dạy pháp, chứ không phải thật sự
đức Quán Thế Âm Bồ Tát chưa chứng Thập
Địa, vẫn c̣n thuộc địa vị Tùy Thuận
Nhất Thiết Chúng Sanh Hồi Hướng.
[6] Cây to nhất trong các cây xung quanh th́
được tôn là “thụ vương” (cây vua, cây chúa).
[7] Thệ Đa lâm (Jetavāna),
thường được biết dưới danh
xưng phổ biến hơn là Kỳ Viên hoặc Kỳ
Hoàn tịnh xá. Khu rừng này vốn là hoa viên của thái tử
Kỳ Đà (Jetakumāra)
do ông Cấp Cô Độc (Anāthapindika) dâng cúng. Trong các kinh
Đại Thừa thường gọi khu rừng này là Kỳ
Thụ Cấp Cô Độc Viên (Jetavane Anāthapindikassa
Ārāma).
[8] Thập Bát Giới là sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư) phối hợp với sáu trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) và sáu thức. Mười tám giới biểu thị toàn bộ sự nhận thức của con người đối với hiện tượng và sự vật chung quanh. Do vậy, ta có nhăn giới, nhĩ giới, tỷ giới, cho đến ư giới, sắc giới cho đến pháp giới, nhăn thức giới cho đến ư thức giới. Dùng trí huệ Bát Nhă để quán chiếu, mười tám giới này chỉ là phân biệt, vọng tưởng, chấp trước tạo ra, bản tánh của chúng là Không, cho nên Tâm Kinh mới bảo “vô nhăn giới, năi chí vô ư thức giới” (không có nhăn giới, cho đến không có ư thức giới).
[9] Śāri là một loại chim,
thường được dịch là Thu Lộ, cặp mắt
rất đẹp và trong vắt. Phong tục Ấn Độ
thời ấy hay gọi tên con theo tên mẹ. Mẹ của
ngài Xá Lợi Phất tên là Śāri nên Ngài được
gọi là Śāriputra (con của bà Xá Lợi, con bà Thu Lộ).
[10] Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit, dịch
nghĩa là Thắng Quân, hay Thắng Quang) là vua nước
Kiều Tát La (Kosala), thuộc vương triều
Aiksvāka, là một vị cư sĩ hộ pháp nổi tiếng
thời ấy. Thoạt đầu, vua không tin Phật, do
thấy trưởng giả Cấp Cô Độc (Tu Đạt
Đa) không tiếc của trải vàng để mua bằng
được rừng Thệ Đa dâng lên Phật làm tinh
xá, vua bèn thống lănh các đại thần đến
thăm Phật. Vua đến tinh xá với vẻ hống
hách ta là chủ một nước, coi Phật như một
tu sĩ khổ hạnh toan đến kiếm chác lợi
dưỡng trong xứ Kiều Tát La, huênh hoang nói: “Ta nghe
nói có một vị đại giác ngộ tên là Phật Đà,
nhưng ta không hiểu! Có nhiều người tu hành khổ
hạnh trong núi sâu rừng thẳm mấy chục năm
cho đến khi già lụm cụm vẫn chưa giác ngộ,
làm sao người trẻ tuổi này lại giác ngộ cho
được?” Đức Phật ngồi yên trong thất,
trả lời: “Đại
Vương! Đa số khinh người trẻ tuổi,
nhưng thế gian có bốn sự không thể coi thường.
Một là vương tử trẻ tuổi, hai là rồng
con mới sanh, ba là đốm lửa nhỏ tí, bốn là
tăng lữ trẻ tuổi. Vương tử tuy nhỏ
mai sau cũng là vua một nước, rồng con rồi sẽ
trưởng thành, phun mưa, vẫy gió, đốm lửa
nhỏ tí cũng đốt cháy cả cánh đồng,
tăng lữ trẻ tuổi chỉ cần vâng giữ
đạo nghiệp, sẵn ḷng cứu độ chúng sanh,
chẳng phân biệt đều có thể chứng vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Chớ nên ác khẩu, kẻo mắc
tội chướng”. Vua nghe nói, ngỡ ngàng nín lặng,
v́ từ trước đến nay, chưa ai dám căi vua. Phật
lại từ tốn thuyết pháp khiến cho vua giải
ngộ, chí thành quy hướng, thề trọn đời ủng
hộ Tam Bảo.
[11] Bốn mươi hai tự mẫu này
chính là bốn mươi hai chữ cái trong một loại
tiếng Phạn cổ, gọi là Tất Đàm (Siddham). Ba
kinh Bát Nhă, Niết Bàn và Hoa Nghiêm đều giảng về
những pháp, những ư nghĩa được biểu thị
bởi bốn mươi hai chữ ấy. Phật môn Trung
Hoa có riêng một nghi thức xướng tụng bốn
mươi hai chữ này, gọi là Hoa Nghiêm Tự Mẫu
Xướng Tụng (theo ngu ư, tại Việt Nam thuở trước
cũng có nhiều nơi tụng đọc nghi thức này
v́ nhà xuất bản Sen Vàng có in nghi thức Hoa Nghiêm Tự
Mẫu do Ḥa Thượng Thiện Hoa phiên âm).
[12] Liên Hoa Bộ là một trong năm bộ của Kim Cang Giới (Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Bảo Bộ, Kim Cang Bộ, Yết Ma Bộ), hoặc một trong ba bộ của Thai Tạng Giới (Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ). Nếu hiểu một cách nông cạn th́ trong Thai Tạng Giới, những chú ngữ của Phật thuộc về Phật Bộ, chú ngữ của Bồ Tát thuộc Liên Hoa Bộ, chú ngữ của quỷ thần thuộc về Kim Cang Bộ. Hiểu theo Kim Cang Giới, năm bộ chính là Ngũ Trí của Như Lai từ Đại Viên Kính Trí của Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật lưu xuất. Liên Hoa Bộ tượng trưng cho tâm Bồ Đề thanh tịnh sẵn có của chúng sanh, vừa tiêu biểu cho tâm đại bi của mười phương Như Lai. Dù bị lưu chuyển trong sanh tử, tâm Bồ Đề thanh tịnh sẵn có của chúng sanh vẫn chẳng hoen ố, như hoa sen mọc trong bùn nên gọi là Liên Hoa Bộ. Ở đây, cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh nói Quán Thế Âm Bồ Tát làm bộ chủ Liên Hoa Bộ là dựa theo quan điểm Thai Tạng Giới. Trong Thai Tạng Giới Mạn Đồ La, hai viện Quán Âm và viện Địa Tạng đều thuộc Liên Hoa Bộ, tôn Mă Đầu Quán Âm làm Bộ Chủ, Bạch Y Quán Âm làm Bộ Mẫu. Nếu nói theo Kim Cang Giới th́ Liên Hoa Bộ Chủ là A Di Đà Phật, Kim Cang Pháp Ba La Mật Bồ Tát (Kim Cang mật hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát) là Bộ Mẫu.
[13] Na-dữu-đa là cách phiên âm khác của
chữ Na-do-tha (Nayuta). Một Na-do-tha là một ngàn ức.
[14] Thập Nhất Diện
Quán Âm (Ekādaśa Mukhānām Avalokiteśvara) là một
trong sáu hóa thân được tôn sùng nhất của ngài Quán
Âm. Với hóa thân này, Ngài đặc biệt cứu vớt
chúng sanh trong loài A Tu La, ban bố lợi ích trừ bệnh,
diệt tội, tăng phước trong đời hiện
tại. Hiện thời, trong Đại Tạng có ba bộ
kinh nói về hóa thân này là Thập Nhất Diện Quán Âm Thần
Chú Kinh do ngài Da Xá Quật Đa dịch vào năm Bảo
Định thứ 4 (564) đời Bắc Châu và quyển
thứ tư trong bộ Đà La Ni Tập Kinh do ngài A Địa
Cù Đa dịch vào năm Vĩnh Huy thứ 4 (653) đời
Đường. Ngài Huyền Trang cũng dịch Thập
Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh vào năm Hiển Khánh
nguyên niên (656) đời Đường. Thật ra, cả
ba bản này đều là bản dịch khác nhau của một
hội trong bộ Đại Kim Cang Đạo Tràng Kinh.
Ngài Bất Không có dịch một nghi quỹ niệm tụng
là Thập Nhất Diện Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Mật
Ngôn Niệm Tụng Nghi Quỹ. Bản kinh này giảng rơ
các nghi thức niệm tụng, kết giới, cách vẽ
tượng, các phương pháp cúng dường v.v... Theo
các sớ giải, với hóa thân này, Đại Sĩ có
mười một mặt, mười mặt phía dưới
được xếp thành ba tầng tượng trưng
cho mười phương và ba đời, đồng thời
biểu thị Đại Sĩ đă vượt khỏi
Thập Địa, một mặt trên cùng là mặt A Di
Đà Phật, biểu thị Đại Sĩ đă thật
sự chứng Phật quả. Thân tượng Thập Nhất
Diện có nhiều tay, cầm tịnh b́nh, cành dương
liễu, Nhật Tinh Ma Ni, bảo châu, chĩa ba, bảo bát,
xâu chuỗi, dây quyến sách, hoa sen, gậy đầu lâu, kết
các ấn như Thí Vô Úy, Dữ Nguyện v.v... Đa phần
các tượng Thiên Thủ Thiên Nhăn được thờ
hiện thời đă kết hợp giữa tượng
ngàn mắt ngàn tay và Thập Nhất Diện này.
[15] Phần cốt tủy của một
bài thần chú được gọi là Chú Tâm. Chẳng hạn
phần lớn chú Lăng Nghiêm là danh xưng của chư
Phật, Bồ Tát, chư thiên, quỷ thần, phần
chính thức của bài chú bắt đầu bằng chữ
Án (
[16] Kinh này có tên gọi đầy đủ
là Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Độc Hại
Đà La Ni Chú Kinh (1 quyển), do cư sĩ Trúc Nan Đề
(Pháp Hỷ) dịch vào thời Đông Tấn.
[17] Tỳ Xá Ly (Vaishali, Vesali, Visálá): C̣n phiên
âm là Duy Da Ly, là vương thành của thị tộc
Licchavi (kinh thường gọi là “Ly Xa chủng tánh” hoặc
“Ly Xa tộc tử”). Thành này được đặt tên
theo vua Vishal của thời cổ Ấn Độ. Đức
Phật giảng kinh ở đây khá nhiều lần. Hội
nghị kết tập kinh điển lần thứ hai
cũng được tổ chức tại kinh thành này. Am
La (Am Ba La, Yêm Ma La) chính là quả xoài.
[18] Dạ-xoa (Yaksha), c̣n phiên âm là Dược Xoa, dịch nghĩa là Tiệp Tật Quỷ (quỷ nhanh lẹ), Khinh Tiệp (nhẹ nhàng, nhanh chóng), Dũng Kiện (mạnh mẽ) là một loài quỷ trong tám bộ quỷ thần (thiên long bát bộ). Loài quỷ này dưới quyền thống lănh của Bắc Phương Tỳ Sa Môn thiên vương. Dạ-xoa thân h́nh đen đúa, mặt mũi hung ác, đầu không có tóc, tay cầm chĩa sắt, gồm ba loại: Địa hành dạ-xoa, hư không dạ-xoa và thiên dạ-xoa. Theo Đại Nhật Kinh Sớ, dưới quyền Tỳ Sa Môn thiên vương (Mật giáo thường được gọi là tài thần Kumbera – Câu Tỳ La), có tám vị Dạ Xoa đại tướng rất nhiệt tâm hộ tŕ Phật pháp. Tên của họ là Ma Ni Bạt Đà La (Bảo Hiền), Bố Lỗ Bạt Đà La (Măn Hiền), Bán Chỉ Ca (Tán Chi đại tướng), Sa Đa Kỳ Lư, Hê Ma Phược Đa, Tỳ Sái Ca, A Tra Phạ Ca và Bán Già La.
[19] Kỳ Bà
(Jivakajiva), c̣n phiên âm là Kỳ Vực hoặc Thời Phược
Ca, dịch nghĩa là Cố Hoạt hay Năng Hoạt (cứu
sống), ông là con của B́nh Sa Vương (Tần Bà Sa La)
và bà Nại Nữ, là một vị thần y nổi tiếng
nhất Ấn Độ thời đức Phật. Trong
Quán Kinh, chính Kỳ Bà đă can ngăn A Xà Thế đừng
giết mẹ khi bà Vy Đề Hy lén lút đem thức
ăn vào ngục để duy tŕ mạng sống của
vua Tần Bà Sa La.
[20] Thế chủ: Các vị chúa tể trong
cơi đời, chỉ chư thiên, chư thần quản
lănh, chẳng hạn như Tứ Thiên Vương, Đao Lợi
Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Chủ
Dạ Thần, Chủ Hải Thần, Chủ Không Thần,
Chủ Phong Thần v.v...
[21] Trong Đại Tạng,
có rất nhiều bản kinh nói về Bất Không Quyến
Sách Quán Âm như Bất Không Quyến Sách Chú Kinh do ngài Xà Na
Quật Đa dịch vào đời Tùy, Bất Không Quyến
Sách Tâm Chú Vương Kinh do ngài Bảo Tư Duy dịch vào
đời Đường, Bất Không Quyến Sách Thần
Biến Chân Ngôn Kinh do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch
cũng vào đời Đường, Bất Không Quyến
Sách Thần Chú Tâm Kinh do ngài Huyền Trang dịch vào đời
Đường, Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Bất
Không Vương Bí Mật Tâm Đà La Ni do ngài Thi Hộ dịch
vào đời Tống v.v... Trong các bản đó, bản Bất
Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn Kinh của ngài Bồ
Đề Lưu Chi đầy đủ nhất.
Bất
Không Quyến Sách Quán Âm (Amogha-pasa Avalokiteśvara), c̣n gọi
là Bất Không Quảng Đại Minh Vương Quán Thế
Âm Bồ Tát, hoặc Bất Không Tất Địa
Vương Quán Thế Âm Bồ Tát, mật hiệu là Đẳng
Dẫn Kim Cang. Bất Không có nghĩa là “không ǵ chẳng
thành tựu”. Dây Quyến Sách vốn là sợi dây thừng
để quăng bắt thú của thợ săn (gần
giống như dây lasso của các chàng chăn ḅ ở châu Mỹ),
hàm ư Bồ Tát dùng ḷng từ bi trói lôi chúng sanh ĺa bỏ
ác nghiệp, dẫn về chánh đạo. Bất Không Quán
Âm Bồ Tát thường được tạc tượng
đầu đội măo báu có hóa Phật đứng ở
giữa măo, một mặt, bốn tay, vẻ mặt
tươi cười, hai tay phía trên lần lượt cầm
hoa sen và xâu chuỗi, hai tay phía dưới
kết ấn Thí Vô Úy, hoặc là một mặt ba mắt, cầm
hoa sen, chĩa ba, dây Quyến Sách và kết ấn Thí Vô Úy,
vai trái khoác da hươu, ngồi xếp bằng trên ṭa sen.
[22] Trong
Đại Tạng, cũng có rất nhiều bản kinh về
chú Đại Bi như Thiên Nhăn Thiên Tư Quán Thế Âm Bồ
Tát Đà La Ni Thần Chú (Trí Thông dịch), Thiên Thủ Thiên
Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thân Kinh (Bồ Đề
Lưu Chí dịch), Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Tự Tại Bồ
Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm
Đà La Ni Chú Bản (Kim Cang Trí dịch), Kim Cang Đảnh
Du Già Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu Hành
Nghi Quỹ (Bất Không dịch) v.v... Bản đầy
đủ và găy gọn nhất là bản Thiên Thủ Thiên
Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Đại
Bi Tâm Đà La Ni Kinh do ngài Già Phạm Đạt Mạ dịch
dưới đời Đường nên Ḥa Thượng
Thiền Tâm dùng bản này để dịch sang tiếng Việt.
Thần chú Đại Bi được lưu hành trong Phật
môn hiện thời cũng dựa theo cách phiên âm trong bản
dịch của ngài Già Phạm Đạt Mạ.
[23] Bốn mươi tay (đúng ra là bốn
mươi hai tay) ở đây chính là bốn mươi cánh
tay của Bồ Tát được nói trong kinh Đại
Bi, mỗi cánh tay cầm một thứ pháp khí, có bài thần
chú tương ứng nhằm thỏa một nguyện
đặc biệt của hành nhân, chẳng hạn như: “Nếu muốn văng sanh thập
phương Tịnh Độ th́ hăy nên cầu nơi tay cầm
hoa sen xanh, chú rằng: - Án, phạ nhật ra, đạt ma,
nĩnh la bát nạp ma, ốt bệ đa, bột đà
vĩ sái dĩnh, sa phạ hạ”.
[24] Minh
phi (Vidyā-rājñī): Minh (Vidyā) là
một danh xưng khác của Đà La Ni. Do đà-la-ni có công
năng diệt trừ tối tăm phiền năo nên gọi
là Minh (sáng). Do có công năng tăng trưởng hết thảy
công đức nên gọi là Phi (Rājñī). Đại Nhật
Kinh Sớ, quyển 9, giảng: “Minh
là đại huệ quang minh, Phi, tiếng Phạn là La Thệ
(rājñī),
là danh xưng giống cái của chữ Vương (Raja).
Phi có nghĩa là tam-muội, tức là Đại Bi Thai Tạng
tam-muội vậy”. Do Đà La Ni có công năng sanh trưởng hết thảy
pháp công đức nên dùng Phi (nữ nhân) để biểu
thị. Hơn nữa, trong Mật Giáo, trí huệ được
coi là tĩnh, c̣n phương tiện là động, cho nên
dùng nữ để biểu trưng trí huệ, nam biểu
trưng phương tiện. V́ thế, mỗi một bài
chú thường có minh vương và minh phi xuất hiện
để biểu thị lực dụng trí và hạnh của
chân tâm bổn giác cùng hành, cũng như biểu thị sự
từ bi, nhu thuận cứu khổ của trí huệ.
[25] Trong một bài kinh dạy về thần
chú trong Mật Tông, nhất là trong những kinh điển
thuộc hệ thống Kim Cang Giới luôn gồm nhiều
thần chú nhằm thể hiện lực dụng vô biên của
bổn tôn (vị tôn thánh nói ra bài chú ấy), ngoài chánh chú,
c̣n có tâm chú (chú cốt lơi), đảnh chú, nha chú, nhăn chú
v.v... cũng như rất nhiều bài chú nhằm giúp cho
hành giả thanh tịnh thân tâm, chánh tâm nhập định
quán tưởng như chú kết giới, chú giáp trụ,
chú sái tịnh v.v...
[26] Mười sáu vị Kim Cang Đại Bồ Tát là 1) Kim Cang Tát Đỏa (Phổ Hiền Bồ Tát, ngài c̣n có mật hiệu là Kim Cang Thủ) 2) Kim Cang Vương (Diệu Bất Không Vương Bồ Tát, c̣n có mật hiệu là Kim Cang Câu) 3) Kim Cang Ái (Ma La Bồ Tát, vị này c̣n có mật hiệu là Kim Cang Cung) 4) Kim Cang Hỷ (Cực Hỷ Vương Bồ Tát) 5) Kim Cang Bảo (Hư Không Tạng Bồ Tát) 6) Kim Cang Quang (Đại Oai Quang Bồ Tát) 7) Kim Cang Tràng (Bảo Tràng Bồ Tát) 8) Kim Cang Tiếu (Thường Hoan Hỷ Căn Bồ Tát) 9) Kim Cang Pháp (Quán Tự Tại Bồ Tát, c̣n có mật hiệu là Kim Cang Nhăn) 10) Kim Cang Lợi (Diệu Cát Tường, tức Văn Thù Bồ Tát, c̣n có mật hiệu là Kim Cang Huệ) 11) Kim Cang Nhân (Khởi B́nh Đẳng Tâm Chuyển Pháp Luân Bồ Tát, mật hiệu là Kim Cang Trường) 12) Kim Cang Ngữ (Vô Ngôn Bồ Tát) 13) Kim Cang Nghiệp (Nhất Thiết Như Lai Xảo Nghiệp Bồ Tát) 14) Kim Cang Hộ (Cực Nan Địch Tinh Tấn Bồ Tát, c̣n có mật hiệu là Kim Cang Từ Hữu) 15) Kim Cang Nha (Tồi Chư Ma Bồ Tát, c̣n có mật hiệu là Kim Cang Bạo Nộ) 16) Kim Cang Quyền (Nhất Thiết Như Lai Quyền Bồ Tát).
[27] Tỳ Lô Giá Na Phật xuất sanh bốn
vị minh phi: Kim Cang Hỷ Hoan Đại Minh Phi, Kim Cang Man
Đại Minh Phi, Kim Cang Diệu Ca Đại Minh Phi, Kim
Cang Vũ Đại Minh Phi. A Súc Phật xuất sanh Kim Cang
Hương Đại Minh Phi, Bảo Sanh Phật xuất
sanh Kim Cang Hoa Đại Minh Phi, Quán Tự Tại
Vương Phật xuất sanh Kim Cang Đăng Đại
Minh Phi, Bất Không Thành Tựu Phật xuất sanh Kim Cang
Đồ Hương Đại Minh Phi.
[28] Vị diệu nữ này chính là Đa La
Bồ Tát (Ārya
[29] Theo như kinh chép, Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát (Parna-Savari) có h́nh dạng như thiên nữ, trên đầu đội măo báu, trên măo có Vô Lượng Thọ Phật ngồi. Thân Bồ Tát có bốn tay, trang nghiêm bằng anh lạc, ṿng vàng, xuyến vàng, cánh tay thứ nhất bên phải đặt ngang ngực cầm quả Cát Tường, cánh tay phải thứ hai kết ấn Thí Nguyện, cánh tay trái thứ nhất cầm búa, cánh tay trái thứ hai cầm dây Quyến Sách, ngồi trên hoa sen, ngang hông quấn y kết bằng lá cây (do vậy gọi là Diệp Y).
[30] Vị La Sát Vương này chính là Nhất Kế Tôn La Sát. Sở dĩ gọi là Nhất Kế (Ekajati: một búi tóc) v́ tượng Ngài mang thân h́nh La Sát nữ, thân màu xanh pha sắc đen, hoặc nâu hồng, chỉ có một mắt ở chính giữa trán, miệng có một răng nanh chĩa ra ngoài, vểnh lên trên, tóc kết thành búi nhọn hoắt trên đỉnh đầu, đội măo năm nhánh, ḿnh trần, chỉ có một vú nằm chính giữa ngực, tay phải nâng xác người, tay trái cầm tim của Ma và xác sói, khoác da người, vận quần da hổ, cổ đeo chuỗi tràng hạt làm bằng năm mươi ba đầu người c̣n tươi, một chân co, một chân duỗi, đứng trên xác người đặt trên ṭa hoa sen (những điều này đều nhằm biểu thị pháp; chẳng hạn năm mươi ba đầu người c̣n tươi tượng trưng cho năm mươi ba Tâm Sở, đầu người c̣n tươi tượng trưng cho vận dụng tâm sở một cách hoạt bát, uyển chuyển. Sợ quá rườm rà nên không sao chép vào đây).
[31] Mă Đầu Quán Âm (Hayagriva ) c̣n
gọi là Mă Đầu Minh Vương, Mă Đầu Kim Cang
Minh Vương, hoặc Sư Tử Vô Úy Quán Thế Âm, là một
hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát khi nói ra bài chú Ha Gia Yết
Lị Bà. Theo Phật Học Đại
Từ Điển, trên đầu của Bồ Tát có h́nh
đầu ngựa nhằm biểu thị Chuyển Luân
Thánh Vương có bảo mă có thể du hóa khắp nơi tự
tại, xuất nhập biển sanh tử vô ngại. Đầu
ngựa c̣n biểu thị sự ăn nuốt vô minh trọng
chướng một cách vô ngại. Đại Nhật Kinh
Sớ, quyển 5, viết: “Ha
Da Yết Lị Bà, dịch là Mă Đầu, thân màu chẳng
phải vàng, chẳng phải đỏ, như màu mặt
trời vừa mới mọc, dùng hoa sen màu trắng làm anh
lạc để trang nghiêm thân. Khắp thân tuôn lửa mạnh
hừng hực, chói ngời như tràng hoa, móng tay dài bén, hai
nanh chĩa ngược lên trên, tóc trên đầu trông
như bờm sư tử, hiện tướng cực phẫn
nộ. Đây chính là Phẫn Nộ Tŕ Minh Vương của
Liên Hoa Bộ”. Ngài hiện thân phẫn nộ nhằm
hàng phục những kẻ tâm sân nộ, cống cao, ngă mạn,
cũng như trấn nhiếp những thiên ma toan phá hoại
Phật pháp.
[32] Thiên Chuyển Quán Âm là danh hiệu gọi theo tên bộ kinh Thiên Chuyển Đà La Ni Quán Thế Âm Bồ Tát Chú Kinh do ngài Trí Thông dịch vào đời Đường (ngài Huyền Trang cũng dịch bài chú này trong Chú Ngũ Thủ Kinh, một tên gọi khác của kinh này là Năng Diệt Chúng Tội Thiên Chuyển Đà La Ni Kinh). Theo như kinh văn: “Nghiệp chướng tụ tập trong ngàn kiếp, nhất thời niệm tụng đều tiêu diệt sạch, đạt được thiện căn của một ngàn đức Phật tụ tập, vượt khỏi giới hạn lưu chuyển sanh lăo bệnh tử trong ngàn kiếp. Sau khi bỏ thân liền thấy một ngàn vị Chuyển Luân Thánh Vương”.
[33] Bài kinh này có tên đầy đủ là
Quán Thế Âm Bồ Tát Đắc Đại Thế Bồ
Tát Thọ Kư Kinh, 1 quyển, do ngài Đàm Vô Kiệt dịch
vào thời Lưu Tống.
[34] Nguyên văn chép đoạn này là “tứ thập ức Bồ Tát”,
vậy th́ tại sao đến đoạn sau lại nói là
tám mươi ức. Kiểm trong chánh kinh, chúng tôi thấy
v́ lời kinh trong lời tụng và chú giải của cư
sĩ Hứa Chỉ Tịnh đă bị trích lược dễ
gây hiểu lầm. Theo chánh kinh, Quán Thế Âm, Đại Thế
Chí, mỗi vị có bốn mươi ức Bồ Tát làm
quyến thuộc. Do vậy, có đến tám mươi ức
Bồ Tát theo hai Ngài đến thế giới Sa Bà.
[35] Hoa b́nh: Cái b́nh đẹp lộng lẫy,
rực rỡ.
[36] Giữa ḷng bàn tay và bàn chân của đức
Phật có h́nh bánh xe ngàn căm.
[37] Không rơ thời ấy, những thứ
này được dùng theo nghĩa nào, chứ nếu căn
cứ theo hiện thời th́ Lạc chính là lớp kem sữa,
váng sữa, ngưng đọng khi đem thắng (cô đặc)
sữa, hoặc sữa chế thành gia-ua (yogurt). Sanh Tô là phần
chất béo của sữa kết đông lại, Thục Tô
là Sanh Tô đă khử nước, c̣n Đề Hồ chính
là phó-mát (cheese).
[38] Hàng Bố nói đầy đủ là Thứ Đệ Hàng Bố Môn. Hàng là Hàng Liệt (để theo từng dăy), Bố là Bố Trí (xếp đặt). Đây là một thuật ngữ nhằm diễn tả từng giai đoạn địa vị tu tập của Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm cho đến khi chứng được Phật Quả. Hàng Bố đối lập với Viên Dung. Theo ngài Thanh Lương, từ địa vị Bồ Tát tiến đến Phật quả gồm hai môn:
1) Sơ Hậu Tương Tức (đầu tiên và sau rốt không sai, không khác): Nghĩa là lúc mới phát tâm th́ đă thành Chánh Giác (đây là nói trên mặt Lư, giống như Lư Tức Phật trong tông Thiên Thai). Đó gọi là Viên Dung Môn.
2) Sơ Hậu Thứ Đệ (Đầu tiên và sau rốt theo thứ tự): Tức là năm mươi hai địa vị tu chứng từ Thập Tín, Thập Trụ… cho đến địa vị Đẳng Giác (Thập Tín chưa được kể là Pháp Thân đại sĩ, nên thường nói là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, tức là những địa vị từ Thập Trụ cho đến Đẳng Giác Bồ Tát). Phải theo thứ tự mà lần lượt tấn tu nên gọi là Hàng Bố Môn.
[39] Trong bộ Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, pháp sư Viên Anh
đă giảng như sau: “Câu
này nói về sự tự tu: Do phép quán của tôi chẳng lấy
âm thanh làm đối tượng để quán. Chữ Quán
trong câu thứ hai chính là nói về trí Năng Quán. Nghĩa là
trí quang chẳng chiếu ra ngoài, nên nói ‘chẳng tự quán
âm thanh của thế gian’. Do vậy, câu thứ nhất là
ĺa khỏi trần cảnh, câu dưới là nói về chiếu
tánh, trái trần, hiệp giác”.