Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng
Tụng
Quyển 2
觀世音菩薩本跡感應頌,
卷二
彭澤菩薩戒弟子許止淨述
Phần 1
Bành Trạch
Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh
soạn
Ấn
Quang Đại Sư giám định
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến và Huệ Trang
2.2.2. Cứu
khổ:
Chia thành
tám môn:
- Cứu
lửa thiêu.
- Cứu
nước ch́m.
- Thoát hiểm.
- Thoát giết
chóc.
- Thoát
hành h́nh.
- Lành bệnh.
- Trừ
tà quái.
- Cứu
khỏi đọa lạc.
Xét theo mặt
Sự và mặt Lư của việc cứu khổ th́ như
phẩm Quang Minh Giác của kinh Hoa Nghiêm đă chép: “Chúng sanh lưu chuyển ái dục
hải, vô minh vơng phú đại ưu bách, chí nhân dũng
mănh tất đoạn trừ, thệ diệc đương
nhiên thị kỳ hạnh” (Chúng sanh lưu chuyển
trong biển ái dục bị lưới vô minh che lấp, bức
bách gây lo buồn lớn. Bậc chí nhân dũng mănh ắt phải
đoạn trừ những điều đó,
đương nhiên cũng thề sẽ làm hạnh ấy).
Đấy chính là ư nghĩa của việc cứu lửa
thiêu, nước ch́m, thoát chết, thoát hành h́nh v.v... Chúng
sanh không nơi nương tựa, bệnh tật trói buộc,
thường ch́m đắm trong đường ác, khởi
lên tam độc, ngọn lửa to hừng hực thường
nung đốt, nên phải có hạnh “tịnh tâm độ
họ”. Đấy chính là ư nghĩa của việc lành bệnh,
trừ tà, cứu khỏi rơi ngă, cứu nạn lửa
thiêu v.v... Chúng sanh mê mất chánh đạo, thường
đi theo đường tà vào trong nhà tối, bèn v́ họ
thắp ngọn đèn chánh pháp to lớn chiếu sáng vĩnh
viễn, đấy chính là ư nghĩa của việc thoát hiểm,
trừ tà, cứu họ khỏi đọa lạc v.v...
Chúng sanh trôi giạt, đắm ch́m trong biển các cơi[1], sầu lo, hoạn nạn không bến bờ
nương tựa, bèn thực hiện hạnh “v́ họ tạo
dựng đại pháp thuyền, khiến cho họ đều
đắc độ”. Đấy chính là ư nghĩa của
việc cứu người ch́m đắm. Thấy các chúng
sanh ở trong đường hiểm, bị sự khổ
già, bệnh, chết thường bức bách, bèn thực hiện
hạnh “tu các phương tiện không hạn lượng,
thệ sẽ đều độ trọn hết”. Đấy
chính là ư nghĩa của việc “thoát hiểm, khỏi bị
giết, thoát khỏi hành h́nh” v.v...
Những điều
đă nói trên đây Sự lẫn Lư đều đủ,
nay tôi chỉ chọn khía cạnh thông tục, chuyên ca tụng
theo mặt Sự.
2.2.2.1. Cứu
nạn thiêu đốt
1.
Bèn có: Từ Vân tụng chú, ba phen lửa nóng chẳng thiêu.
Trường Thư tŕ danh, bốn mặt phóng hỏa đều
tắt.
2. Kinh hoảng
bốn mặt lửa cùng ập tới, chỉ chừa khoảnh
đất dung thân. [Kiệt sức]
xưng danh mới vừa một chữ, gió liền đổi
chiều tắt lửa.
3. Lư mẫu
kinh hồn tỉnh mộng, chỉ cháy ḷ sấy áo. Nghe Diệp
Dục Tinh tụng niệm, màn trướng hăy c̣n nguyên.
4. Quốc
Khanh thoát nạn, tự thấy Đại Sĩ dắt
d́u. Pháp Vũ cháy lầu, tự có thần linh ủng hộ.
5. Dốc
ḷng chuyên lễ Phật, tiệm ông Uông hăy c̣n. Tâm chí tín cảm
trời, nhà họ Thái vô sự.
6.
Trên tháp Thiên Hỷ, kinh vàng chẳng tổn. Nơi nhà Tỷ
Bộ, tượng vẽ c̣n nguyên.
7. Một
bản kinh xưa, tiêu tai nạn nhiều phen nơi Thiện
Ấp. Ba gian nhà cũ, cứu đại kiếp vùng phụ
cận Đông Kinh.
8. Nếu
chẳng ban hương Chiên Đàn, ai thoát khỏi khói hôi, lửa
rực? Đấy là sự cứu khổ thứ nhất
của Đại Sĩ vậy.
(1) Theo
Liên Tông Bảo Giám, ngài Tuân Thức đời Tống hiệu
là Từ Vân Sám Chủ, dựng chùa Hạ Thiên Trúc gồm mấy
trăm gian. Mỗi lần bắc một cây kèo, đều
tụng bảy biến chú Đại Bi. Ba lượt giặc
đốt phá chùa, lửa đều tự tắt.
Theo Biện Chánh Luận,
ông Trúc Trường Thư đời Tấn, chuyên dốc
ḷng tụng Quán Âm Kinh, ngụ cư ở đất Ngô. Khi
những nhà xung quanh bị cháy, ông Thư đứng phía
dưới chiều gió, nhất tâm niệm Quán Thế Âm, lửa
cháy đến gần, đột nhiên gió thổi ngược
lại, lửa tắt. Cả ấp kinh dị. Có kẻ ác
nghi ngờ sự linh cảm ấy bèn đợi đến
đêm lúc gió mạnh, đem bó củi đă nhóm lửa ném
vào nhà [ông Trúc], ném khắp bốn mặt đều tắt.
Khi ấy, hắn mới than thở, công nhận thần lực,
khấu đầu tạ tội. Ông Thư nói: “Ta tụng niệm
Quán Thế Âm chẳng biếc nhác, hễ có tai nạn ǵ
đều liền thoát khỏi”.
(2) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Hai, sư
Thích Pháp Trí đời Ngụy, lúc c̣n tại gia, đi
một ḿnh trong vùng đầm lầy. Đột nhiên lửa
dữ bốc cháy đùng đùng, bốn mặt lửa đều
ùa tới, tự nhủ “ta ắt phải chết”, chỉ
chí tâm niệm Quán Thế Âm. Trong khoảnh khắc, lửa
cháy ào qua, không c̣n sót một cọng cỏ nào, chỉ có chỗ
đất nơi Pháp Trí đứng là không sao cả.
Lại nữa, sư
Thích Pháp Lực đời Ngụy, sửa tháp, dựng nhà,
xin được một xe gai, đi qua nơi đầm
lầy, chợt gặp lửa đốt đồng. Nhằm
lúc mệt mỏi, buồn ngủ, lửa đă bén tới,
bèn to tiếng xưng niệm chữ Quán, chưa kịp niệm
tới chữ Thế Âm, theo tiếng niệm, gió đă xoay
chiều, lửa liền tắt.
(3) Trong
sách Linh Nghiệm Kư, ông Lư Ấn Vạn nói: “Mẹ tôi theo lời cha tôi dặn trong thư, trở
về quê. Trong thuyền, hơ quần áo trên lồng ấp[2], nửa
đêm quần áo bén lửa. Mẹ tôi mộng thấy trên
hư không có tiếng hô hoán: ‘Bồ Tát đến rồi’, tiếng
reo ḥ dồn dập. Kinh sợ, tỉnh giấc, lửa
đỏ đă ngập thuyền, lan kín cả mui, vội dập
tắt lửa”.
Theo Ứng Nghiệm
Kư, Diệp Dục Tinh kiền thành tụng Cao Vương
Kinh. Một ngày nọ, trong lúc bạn bè tụ họp, họ
bèn mời ông tụng niệm. Cô em gái c̣n bé nghe tụng kinh bèn
chạy đến nghe, liếc thấy trên lầu có ánh lửa
bèn hô lên. Dập tắt được lửa, mền nệm
đều cháy sạch, nhưng màn treo vẫn c̣n.
(4) Theo
sách Nam Hải Từ Hàng, tại Sơn Âm, ba anh em ông Trần
Quốc Khanh ở cùng một nhà, chỉ riêng Quốc Khanh
ưa làm lành, sáng chiều kiền thành tụng chú Quán Âm. Một
đêm nọ, do không cẩn thận nhà bị bốc cháy,
Quốc Khanh thấy Bạch Y Đại Sĩ cứu vớt
che chở liền thoát được, các em đều bị
chết cháy.
Theo Phổ Đà Chí,
vào năm Càn Long thứ 3 (1738) đời Thanh, lầu trống
chùa Pháp Vũ bị hỏa hoạn, gió rất mạnh, sắp
cháy lan sang những căn lầu như Thủy Nguyệt
v.v... chợt Hỏa Thần thị hiện, gió chuyển
hướng, thổi ra ngoài, các lầu không bị sao cả.
(5) Theo Hiện
Quả Tùy Lục, ông Uông X... đời Minh sống ở
Côn Sơn, ăn chay ba năm, tính sang Phổ Đà dâng
hương. Nhằm hôm Nguyên Đán, ông gói ghém hành trang xuống
thuyền, chợt [những căn phố] bên cạnh cửa
tiệm bốc lửa, [người nhà] vội báo cho ông
hăy về ngay. Ông Uông nói: “Ta dốc ḷng Thành suốt ba
năm rồi mới triều bái Bồ Tát, há v́ một cái
tiệm mà thay đổi chí hướng của ta ư? Dẫu
cháy sạch, cũng không trở về”, rồi cứ
căng buồm ra đi. Dâng hương xong, trở về
Côn Sơn, thấy nhà cửa ở bốn phía tiệm ấy
đều đă cháy tan, chỉ c̣n mỗi cái tiệm của
chính ḿnh.
Theo Tín Tâm Lục, ông
Thái Tư Tương được cử giữ chức
Thôi Tào Vận (kiểm soát vận chuyển đường
thủy), thuê nhà dân để làm công sở, bốn phía không
có tường, ở sát với nhà dân. Chợt hàng xóm bốc
lửa, mọi nhà đều lo cứu đồ đạc,
ông Thái ngồi yên không động đậy. Kẻ hầu
nhiều lần van nài ông Thái hăy lánh nạn, nhưng ông ta chẳng
đoái hoài. Lửa cháy lan tới, vượt qua công sở
của ông Thái, c̣n cháy thêm mấy nhà nữa rồi mới tắt.
Người ta hỏi ông có thuật ǵ, ông đáp: “Tôi kiền
thành tụng chú Đại Bi”. Người ta bảo: “Thần
chú cố nhiên linh nghiệm, lỡ vạn nhất không ứng
nghiệm, th́ há chẳng phải là chết uổng một
mạng ư?” Ông Thái nói: “Nhà tôi nhiều đời tŕ tụng,
những sự tích thoát khỏi những ách nạn đao
binh, nước lửa, nạn gấp v.v... chẳng thể
kể xiết. C̣n như tôi tŕ chú đă hai mươi
năm, phàm gặp phải nạn gấp, hễ cảm
đều thông. Trong thời Càn Long, khi tôi sống ở
kinh đô, nhà hàng xóm ở phía Nam bốc lửa, lại gặp
trận gió nồm, lửa càng cháy mạnh, dọn chạy
đồ đạc không kịp. Tôi tụng chưa xong một
biến chú này, gió đă đổi chiều, lửa cháy
ngược lại phía
Theo sách Liệt Tử,
Trọng Ni nói: “Người có
ḷng tin chí thành sẽ động trời đất, cảm
quỷ thần, ngang dọc khắp trời đất
không trái nghịch”, há phải chỉ là trải nỗi
nguy hiểm, vào trong nước lửa mà thôi!
(6) Theo Mặc
Kư, Lư Hậu Chúa nhà Nam Đường[3] đích
thân chép Tâm Kinh bằng chữ vàng, ban tặng cung nhân Kiều
Thị. Về sau, Kiều Thị bị đưa vào cung
nhà Tống, nghe tin Hậu Chúa đă chết, bèn bỏ cuốn
kinh ấy trong tướng luân[4] của tháp chùa Thiên Hỷ. Về sau, nhà
chùa bị hỏa hoạn, tướng luân bị rơi xuống,
nhưng kinh vẫn c̣n nguyên.
Theo Linh Nghiệm Kư, ông
Lư Vạn Ấn làm quan Tỷ Bộ[5]. Khi cha ông làm quan ở Giang Hữu, có thờ
tượng Đại Sĩ [bằng tranh vẽ]. Tàn
đuốc chợt nổ tung, rơi xuống, những món
đồ thờ đều bị cháy sạch, nhưng cuốn
trục tranh thờ [vẽ h́nh Đại Sĩ] vẫn c̣n
nguyên.
(7) Theo
sách Quán Âm Kinh Cận Nghiệm, vùng Măo Điền ở Thiện
Ấp nhiều lần bị hỏa hoạn, nhưng nhà
Ngu Khải nhiều lần thoát nạn. Lửa cháy đến
gian nhà phụ bên trái nhà họ Ngu đều tự tắt.
Do vậy, họ bèn lục lọi để kiếm xem có
ǵ lạ không th́ từ trên tấm lót trần nhà t́m
được một bản khắc gỗ Quán Âm Kinh
đă cũ, mới biết nguyên do thoát khỏi hỏa hoạn.
V́ thế, nhà nhà khắc kinh này, trai giới tŕ tụng,
đến nay đă ba mươi năm chưa hề bị
hỏa hoạn.
Năm Dân Quốc 11
(1922), Nhật Bản động đất. Đại biểu
của Phật Giáo Phổ Tế Nhật Tai Hội (hội
Phật giáo cứu tế tai nạn tại Nhật Bản)
là các ông Bao Thừa Chí, Dương Thúc Cát v.v... sang Nhật
cứu trợ, gởi thư cho ngài Thích Ấn Quang, [trong ấy
có đoạn]: “Số người
chết ở Nhật Bản lần này ước chừng
hơn ba mươi vạn, hài cốt chất như núi.
Khu Thiển Thảo (Asakusa) ở Đông Kinh gần như
hoàn toàn hủy hoại, công viên, ao nước bị thiêu cạn.
Trong công viên có Quán Âm Đường, gồm ba gian xây theo lối
cũ. Nạn dân bị lửa bao vây, ùa nhau chạy vào
đó ước chừng hơn ba vạn người. Trong
chánh điện và các gian nhà phụ đều đầy ắp
người, cùng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, đều
được thoát nạn ấy, mà cũng chỉ có ngôi
điện đường ấy là c̣n nguyên. Do vậy,
người Nhật ca ngợi không ngớt lời”.
(8) Theo phẩm
Nhập Pháp Giới kinh Hoa Nghiêm, núi Ma La Da[6] sanh
ra loại hương Chiên Đàn, nếu dùng hương ấy
bôi lên thân, gieo ḿnh vào hầm lửa, lửa chẳng thể
đốt được. Phẩm Thí Dụ kinh Pháp Hoa có
câu: “Xú yên bồng bột, tứ
diện sung tắc” (Khói hôi, lửa hực, bốn mặt
ngập tràn).
Ghi thêm: Theo Giác Thế Kinh Thuyết
Chứng, trong niên hiệu Thiên Khải đời Minh, thành
Hàng Châu bị hỏa hoạn lớn, có nhà buôn vùng Giang Hữu
ở trên lầu cao chót vót, tự biết là không sao cứu
được. Người ta thấy Bạch Y Đại
Sĩ rưới nước bên lầu, người theo hộ
vệ rất đông. Lửa tắt, mọi người hỏi
ông ta đă làm điều lành nào? Thương nhân chối
là chẳng làm điều lành nào. Về sau, chú ông ta kể:
“Khi cha nó mất, để lại năm trăm lạng vàng.
Thằng cháu ấy là con vợ cả, đă trưởng
thành, c̣n bốn em trai nó là con vợ kế hăy c̣n thơ ấu.
Thằng cháu ấy buôn bán hai nươi năm, dành dụm
được năm ngàn lượng vàng, tới khi các em
nó đă lập gia đ́nh, bèn chia tài sản thành năm phần,
chia đều cho các em, cả họ đều khen ngợi”.
2.2.2.2. Cứu
nạn ch́m đắm
1.
Bèn có: Huệ Khánh đối mặt cơn lốc, thấp
thoáng thần kim giáp xuất hiện. Cảnh Nhân bị ngă
xuống nước, thoát nạn nhờ tụng phẩm Phổ
Môn.
2. Từ
Vinh hăm trong vực xoáy, ánh lửa rực đầu non. Cụ
Lă lọt nơi nước xiết, ánh đuốc soi rơ bờ.
3. Hành
Đồng nhảy xuống biển, chợt có Tăng nhân
áo nâu sồng xuất hiện. Họ Lưu bị lật
thuyền, bèn được ánh sáng màu hồng chiếu rọi.
4. Cố
Mại vượt sông yên ổn, lắm lượt ngửi
mùi hương lạ. Vạn Thọ quay thuyền trở lại,
cũng thấy ngọn lửa thần kỳ.
5.
Thương nhân lênh đênh trên biển, Tăng chống
tích trượng dẫn đường. Lưu Tế dong
thuyền vượt hồ, hai người kè thuyền
vượt thoát.
6. Tại
Lương Sơn, một bé trai đột nhiên nắm áo.
Hồ Bành Lễ, người khổng lồ hô to ôm gỗ.
7. Lệnh
Tông lánh giặc, nai dẫn đường vượt bến
Mạnh Tân. Lưu sứ lọt thuyền, biển thẳm
cá chở đuổi kịp thuyền.
8. Loan Tuân
ngă xuống nước, như đi trên đất.
Đ́nh Dục lọt xuống sông, sóng chỉ ướt
quần.
9. Nhà thuyền
tŕ trai, quỷ bèn trái lệnh. Nhất Thừa xưng danh,
linh cảm đẩy mui.
10. Pháp
Thuần gặp được bè tiên, Thành Khuê chợt vớ
gỗ nổi.
11. Nhật Húc mộng thấy
có người bảo “hăy gọi tên ta”, Doăn Thăng
được lợi nhờ công hóa độ chúng sanh.
12. Ngầm bảo vệ Tŕnh
Chiêu, vật đến đỡ chân. Dẫn Hy Tải trở
về, hóa cội dâu cột thuyền.
13. Ông Phan vượt biển,
chẳng tin ngu muội như Thương Khâu. Cụ
Vương lướt sóng, chân khác nào bước trên đất
bằng.
14. Ứng nghiệm soạn kư,
ông Túc mừng hai phen sống sót. Đón tôn tượng về,
họ Lâm được báo đáp bồi hoàn.
15. Giản Nam và Thiên Tích, phu thuyền
kinh hăi. Ánh Khuê với Đại Thành, thân riêng sống sót.
16. Xứ Giang Ninh, nữ nhân
nhà cụ Trang toàn mạng. Nơi Nam Việt, nhóm ông Châu ch́m
thuyền được cứu.
17. Âm thầm bảo vệ
thuyền quả phụ, cô nhi. Ngầm hô đẩy thoát họa
lửa rực ao cá.
18. Than ôi! So với sách Nho câu nệ,
nhọc công giữ điều răn “chớ vào vực thẳm”.
Sao bằng quy y Phật pháp, chẳng vướng hung tai tột
bực? Đấy là sự cứu khổ thứ hai của
Đại Sĩ vậy.
(1)
Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm, trong niên hiệu Nguyên Gia đời
Tống, ngài Trúc Huệ Khánh ngồi thuyền sang Lô Sơn,
giữa ḍng chợt nổi gió, thuyền sắp lật. Huệ
Khánh kiền thành tụng Quán Âm Kinh, mọi người dơi
nh́n th́ thấy loáng thoáng có thần nhân mặc giáp bằng
vàng, lôi thuyền xông qua cơn lốc, cắt ngang ḍng tấp
vào bờ.
Theo sách Pháp Hoa Cảm
Thông, Sầm Cảnh Nhân đời Đường tụng
phẩm Phổ Môn từ bé, từng qua đất Ngô, thuyền
lật, bị rơi xuống nước, nghe có người
nói: “Tụng phẩm Phổ Môn th́ phải thoát được
thủy nạn”. Nghe nói như vậy ba lượt, liền
nổi lên mặt nước. Trong khoảnh khắc đă
chạm bờ, những người khác đều chết
đuối.
(2) Theo
Pháp Uyển Châu Lâm, đời Tấn, Từ Vinh ngồi
thuyền qua Định Sơn, bị mắc vào vùng nước
xoáy, bèn vội niệm danh hiệu Quán Thế Âm, dường
như có mấy chục người lôi thuyền ra khỏi
vùng xoáy. Khi ấy, trời sắp tối, gió giật,
mưa to, ông Vinh tụng kinh không ngớt. Chợt đầu
núi có ánh lửa sáng rực chiếu tận trời thẳm,
[phu thuyền] bẻ lái về đó, liền vào được
bờ. Sáng ra, hỏi người trong băi thuyền: “Tối
hôm qua trên đầu núi là lửa ǵ vậy?” Mọi người
ngạc nhiên, bảo: “Mưa gió suốt ngày, làm sao có lửa
được?” Mới biết là do Phật lực ngầm
gia hộ.
Theo Minh Tường Kư,
vào đời Tấn, cha ông Lă Tủng từng bơi thuyền
trên một con suối nước chảy xiết. Trời
tối, mưa gió ập tới, bèn niệm Quán Thế Âm
không ngừng. Trong khoảnh khắc có ánh lửa soi đường
dẫn vào bờ, như có người cầm đuốc
vừa thoáng đằng trước lại vụt ra đằng
sau, thuyền cứ theo ánh đuốc mà đi, bèn được
trở về nhà.
(3) Theo
Quái Viên, vào năm Canh Tuất (1610) niên hiệu Vạn Lịch
đời Minh, Tào Hành Đồng theo bề trên triều
bái Phổ Đà. Ông Đồng thầm khấn Đại
Sĩ, nguyện xả thân. Trở về, tới biển
Liên Hoa, liền chắp tay nhảy xuống biển, [người
trên thuyền] không cách nào vớt được. Hơn ba
tháng sau, ông ta đột nhiên tự trở về, kể:
“Lúc nhảy xuống biển, thấy có một vị
Tăng người Tây Vực, đắp ca-sa bằng vải
nâu sồng, giong thuyền tới vớt tôi lên, đưa về
Châu Sơn, tới một nhà dân chài, rồi vị tăng
Tây Vực ấy chợt biến mất”.
Theo Kỷ Cầu
Thư, năm Kỷ Sửu (1649) đời Thuận Trị
nhà Thanh, ông Lưu X... ở Mạt Lăng triều bái Nam Hải,
ngồi trong thuyền, ḷng phát nguyện được thấy
Bồ Tát. Về sau, chợt gặp sóng gió, thuyền lật.
Họ Lưu rớt xuống nước, trước mặt
thấy ánh sáng đỏ chiếu khắp nơi. Một vị
Tăng nắm tay ông Lưu dẫn đi, trong chớp mắt
đă về đến nhà, vị Tăng biến đâu mất.
Họ Lưu như say, như mộng, uống trà nóng xong rồi
mới tỉnh hồn, kể lại mọi chuyện.
(4) Theo
Minh Tường Kư, trong niên hiệu Nguyên Gia đời Tống,
Cố Mại đi thuyền bị va phải đá ngầm.
Gió rít, sóng nhồi, vội tụng Quán Âm Kinh mười mấy
lượt, gió yên, sóng lặng. Giữa ḍng nhiều lượt
nghe có mùi thơm lạ lùng sực nức, vượt sông
b́nh yên.
Theo Pháp Uyển Châu Lâm,
vào thời Nguyên Gia nhà Tống, Phục Vạn Thọ từng
qua sông vào lúc canh tư, đêm tối, gió dữ, không biết
phương hướng là đâu. Vạn Thọ nhất
tâm quy mạng Quán Thế Âm, niệm danh hiệu Ngài chẳng
ngớt tiếng. Chợt thấy bờ Bắc có ánh lửa,
quay thuyền hướng về đó, trời chưa sáng
đă đến nơi. Hỏi người trên bờ th́
tuyệt nhiên chẳng có ai nhóm lửa!
(5) Vào
đời Tấn, một thương nhân ở Tây Vực,
bơi thuyền trong biển bị lạc lối, xưng
niệm danh hiệu Quán Âm, thấy một vị Tăng cầm
tích trượng, băng ḿnh trên không trung dẫn lối.
Vào đời Tấn,
Lưu Tế vượt hồ gặp gió băo, bèn tụng niệm
Quán Thế Âm, chợt thấy hai người kè thuyền
đưa qua hồ.
(5) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Một, vào
đời Tống, ngài Cầu Na Bạt Đà La[7] được
Nam Tiếu Vương [Lưu] Nghĩa Tuyên tôn kính.
Vương âm mưu dấy loạn, ngài Cầu Na khóc lóc
can ngăn, Vương vẫn không nghe. Sau trận đại
bại ở Lương Sơn, Sư bị té xuống
sông, nhất tâm tụng Quán Thế Âm Bồ Tát, trông thấy
một đứa bé trai lôi áo, bèn hỏi: “Ngươi là
đứa bé con mà làm được như vậy ư?”
Đến bờ, đứa bé biến đâu mất.
Theo lời chú thích tác
phẩm Linh Cảm Phú, vào đời Thanh, Trầm Khởi
Tiềm tự kể: - Vào thời Càn Long, khi qua bến Cửu
Điểu ở Giang Tây bị ngă xuống sông, trôi đến
hồ Bành Lễ, uống no một bụng nước. Chợt
thấy giữa sóng có kim quang tỏa ra cả vạn tia; ở
giữa đó là một người to lớn kêu lên: “Hăy mau
ôm lấy!” Liền quờ tay ôm được một cây gỗ
dài hơn một trượng, bèn thoát chết.
(7) Theo Tỳ
Kheo Ni Truyện, vào đời Tấn, ni sư Lệnh Tông
đi lánh nạn giặc giă ở Kư Châu. Buổi chiều, ni
sư đến bến Mạnh Tân, không có thuyền để
vượt sông liền niệm Phật và danh hiệu Đại
Sĩ, chợt có một con nai trắng lội xuống sông.
Lệnh Tông bèn đi theo, nhưng trọn chẳng bị
ướt. Do vậy, về đến nhà.
Theo Thiện Dư
Dường Bút Thừa, vào đời Minh, Lưu Cốc Hiền
theo Trịnh Ḥa[8] đi sứ ở hải ngoại. Giữa
biển cả, ông Lưu chợt té xuống nước,
trong chớp mắt đă cách xa thuyền mấy chục dặm.
Mọi người trên thuyền chợt thấy họ
Lưu đuổi kịp tới thuyền, bèn kéo ông lên. Có một
con cá dài hơn một trượng rẽ sóng bơi đi.
Ông Lưu bảo: “Con cá ấy chở tôi đến đây.
Tôi ch́m xuống nước mấy lần, con cá ấy liền
dùng vây lưng nâng lên”. Mọi người hỏi ông đă
tích tập thiện quả nào? Đáp: “Chỉ kiền thành
niệm Quán Âm Kinh mà thôi!”
(8) Theo
Minh Tường Kư, vào đời Tấn, huyện lệnh
Phú B́nh là Loan Tuân theo quân đi đánh Lô Tuần bị thua,
chiến thuyền bị đốt cháy. Ông Tuân vội niệm
danh hiệu Quán Thế Âm, trong khoảnh khắc thấy
trong sông có thần nhân đứng sững, eo ngập ngang mặt
nước. Ông Tuân biết xưng danh được cảm
ứng bèn đạp nước lội theo, thân nổi
trên mặt nước, chân như đi trên đất,
được đại quân giong thuyền ra cứu.
Theo Thương Túc Am
Tùy Bút, vào đời Thanh, Thái Thú quận Phổ Nhĩ là Trần
Đ́nh Dục thờ Đại Sĩ hết sức kiền
thành, hằng ngày tụng chú Đại Bi. Trong niên hiệu
Đạo Quang, ông Trần theo ngả Giang Hán về kinh, sảy
chân té xuống sông. Khi ấy, gặp cơn gió mạnh,
trong chớp mắt đă cách thuyền cả dặm,
nhưng nước chỉ ngập tới gối, hai chân
như có vật ǵ nâng đỡ không bị ch́m, chỉ có
áo bào bay phần phật trên mặt sóng mà thôi. Ông bèn vội
tụng chú Đại Bi, chưa được ba lượt,
đă có người đến cứu, phần trên thân trọn
chẳng bị ngấm ướt.
(9) Theo
sách Vạn Thiện Tiên Tư, năm Khang Hy thứ 2 (1663)
đời Thanh, có thuyền chài đậu dưới chân
Tiểu Cô Sơn. Trong đêm, nghe tiếng sơn thần ra
lệnh cho thuộc hạ: “Ngày mai có thuyền chở muối
đi qua đây, hăy mau thâu lấy”. Đến sáng, quả
nhiên có thuyền chở muối căng buồm đi tới.
Sóng gió chợt nổi lên đùng đùng, gần như lật
thuyền mấy lượt. Hồi lâu sau thoát nạn.
Đêm ấy, thuyền chài lại nghe tiếng sơn thần
quở trách bọn quỷ tốt trái mạng, chúng thưa:
“Khi đến tịch thâu, thấy cuối thuyền có Quán
Âm Đại Sĩ, nên chẳng dám đến gần”. Ngày
hôm sau, thuyền chài đuổi theo thuyền muối hỏi
thăm; th́ ra người giữ bánh lái vâng giữ Quán Âm
Trai[9].
Theo Từ
Lâm Tập, vào đời Thanh, Bành Nhất Thừa là người
Nam Hải. Trong niên hiệu Khang Hy, từ Ngũ
Dương trở về nhà, bị băo lốc lật thuyền.
Những người cùng đi giỏi bơi lội đều
bơi vào bờ, c̣n ông Thừa bị kẹt trong khoang thuyền
không ra được, chỉ nhất tâm xưng danh Đại
Sĩ, uống no nửa bụng nước, vừa uống
nước vừa niệm. Chợt cảm thấy có
người kéo tay ra khỏi nước, chụp được
mui thuyền, thuận gió giạt vào bờ. Người
trên bờ cùng thấy một người mặc áo trắng
đẩy cái mui đến chỗ thuyền đang ch́m để
cứu ông ta.
(10) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Một, ngài
Pháp Thuần đời Tấn, giữa hồ gặp băo,
thuyền lại bé, chỉ một ḷng trông cậy Quán Thế
Âm, miệng tụng niệm không ngớt. Trong khoảnh khắc,
thấy một cái thuyền to trôi tới, trèo lên, bèn
được cứu. Đến bờ, không thấy cái
thuyền ấy đâu nữa.
Theo Tập Dị Kư, vào
đời Đường, Thành Khuê do để mất gỗ
xây dựng, bị vu cáo, liền niệm Quán Âm cứu khổ.
Sau khi gông xiềng tuột ra, bèn lặn xuống nước
trốn, gặp một cây gỗ nổi, chính giữa có một
cành mọc thẳng lên. Ông Khuê cưỡi lên gỗ, ôm chặt,
ch́m xuống lại nổi lên, chí tâm niệm danh hiệu
Quán Âm không ngớt tiếng, gỗ giạt vào gần bờ,
thoát nạn.
(11) Theo
sách Cao Vương Kinh Cận Nghiệm, Dư Nhật Húc về
thăm cha mẹ, vượt sông. Mộng thấy có người
áo trắng bảo: “Ngày mai ông gặp đại nạn, kêu
ta liền được thoát”. Đến khi vượt
sông gặp băo, thuyền sắp lật, vội kêu: “Đại
Sĩ cứu con!” liền vượt sông an toàn. Xét ra, chuyện
này được sách Nam Hải Từ Hàng ghi thành chuyện
Du Cửu Vân.
Theo Tịnh Độ
Thánh Hiền Tục Lục, vào đời Thanh, Ngô Doăn
Thăng ở Hổ Khâu, lúc bé, gặp một vị
Tăng bảo: “Ngươi có thiện căn, tiếc là
năm hai mươi chín tuổi sẽ gặp thủy tai.
Chỉ có cách từ nay trở đi hăy kiêng giết, phóng sanh, mỗi ngày kiền thành niệm Phật,
tŕ chú Đại Bi, may ra sẽ thoát được!” Ông
Thăng tin nhận, phụng hành; lại c̣n đem chuyện
này khuyên người khác. Đến năm hai mươi
chín tuổi, từ đất Hàng ngồi thuyền về
thăm nhà, sông nổi sóng rất nguy hiểm, vội chắp
tay niệm Phật. Thuyền lật, rơi xuống
nước, trong lúc mơ màng nghe có tiếng nói: “Ngô Doăn
Thăng có công khuyên người niệm Phật, được
thoát khỏi nạn này”. Mở mắt ra nh́n quanh th́ thân
đă ở trên bờ, đă được dân chài cứu
lên rồi!
(12) Theo Hải
Nam Nhất Chước, vào đời Thanh, Tŕnh Chiêu ở
Phù Lương do có khối u trong bụng, nhờ tụng
Tâm Kinh được lành, nên thường tŕ niệm không
gián đoạn. Trong niên hiệu Đạo Quang, thi trượt
chức vụ Xuân Quan[10], liền trở về, giữa sông, lật
thuyền, trôi giạt mười mấy dặm, nhất
tâm niệm Tâm Kinh. Dường như có vật ǵ đỡ
chân, nhờ vào đó, hơi ngồi được một
chút, thoát nạn.
Theo Di Kiên Chí, vào đời
Tống, Từ Hy Tải, mẹ kính thờ Quán Âm. Trong niên
hiệu Thiệu Hưng, ông Tải dẫn hai đứa
con trở về. Thuyền gặp băo, bèn đốc thúc
người trong thuyền niệm danh hiệu Đại
Sĩ, chợt gặp một cây dâu to, vội cột thuyền
vào đó. Sáng ra th́ thấy thuyền ở trên băi cát, chẳng
thấy cây dâu đâu cả! Về đến nhà, mẹ ra
đón, cười bảo: “Tối hôm qua mộng thấy
có bà lăo dẫn cha con mày trở về. Nay quả nhiên
đúng như vậy”, mới biết là Đại Sĩ rủ
ḷng cứu vớt.
(13) Theo Từ
Lâm Tập, vào đời Thanh, Phan Quốc Chương là
người Quảng Đông. Một hôm trở về quê,
đến Tam Thủy, gặp băo lật thuyền, ông Phan
nhất tâm niệm danh hiệu Đại Sĩ, đạp
ngay xuống đáy biển, liền vững chân bước
đi, nhờ đó vào đến bờ. Tiền cầm
đi đường vẫn c̣n ở trong tay! Ông ta tin
tưởng Đại Sĩ thần lực chẳng thể
nghĩ bàn, bèn xuất gia ở núi Nhật Thân tại Thiều
Thạch, hiệu là Huyền Cầu.
Lại nữa, theo Liệt
Tử, Thương Khâu Khai làm khách trong nhà họ Phạm ở
đất Tấn. Môn đồ của họ Phạm xuồng
să, khinh nhờn, lừa gạt, không tṛ lừa dối nào chẳng
làm, nhưng ông Khai vẫn tin là thật. Một hôm, họ
chỉ khúc sông phủ sương mờ mù mịt bảo:
“Trong ấy có bảo châu, bơi ra đó sẽ lấy
được”. Khai bơi ra đó, quả nhiên được
bảo châu. Trong chốc lát, nhà kho của họ Phạm
cháy to, bảo: “Nếu ai có thể vào trong lửa lấy
được gấm ra, sẽ thưởng cho gấm ấy”.
Ông Khai ra vào lửa, chẳng dính tro, thân chẳng cháy. Mọi
người xúm lại hỏi han. Ông Khai nói: “Tôi chẳng có
bí quyết ǵ! Thoạt đầu, tôi luôn tin lời các ông
là thật. Chỉ sợ ḷng Thành chưa đến mức
cùng cực, làm chưa đến mức cùng cực, chẳng
nghĩ tưởng đến thân h́nh, ḷng chẳng nghĩ
đến lợi hại. Hễ tâm chuyên nhất th́ sự
vật chẳng trái nghịch, chỉ có vậy mà thôi!” Trọng
Ni (Khổng Tử) nói: “Thương
Khâu Khai tin vào lời dối trá, mà sự vật c̣n chẳng
trái nghịch. Huống chi ta đối với người
khác toàn bằng ḷng Thành ư?” Ông Dương Nhân Sơn
chú thích đoạn này, cho rằng câu nói “ta đối với người khác toàn bằng ḷng
Thành” có thể dùng làm chứng cứ thật sự cho
việc niệm Phật văng sanh. Di
Đà đại nguyện tiếp dẫn chúng sanh, đấy
là ḷng Thành của Ngài. Chúng sanh niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, đấy là ḷng Thành của ta.
Thương Khâu Khai tin vào lời nói dối, ḷng Thành c̣n thiếu
một phía mà sự vật c̣n chẳng trái nghịch. Ta với
Phật đều có ḷng Thành, há có lẽ nào chẳng sanh Tịnh
Độ ư? Theo ngu ư, như Hoa Nghiêm Kinh đă dạy: “Nhất thiết duy tâm tạo”
(Hết thảy chỉ do tâm tạo), kinh c̣n dạy: “Tín năng thị hiện nhất
thiết Phật” (Ḷng tin có thể thị hiện hết
thảy Phật). Lại nói: “Nhất
thiết Phật hưng, giai tùng tín khởi” (Hết thảy
chư Phật xuất hiện đều do từ ḷng tin
mà ra), người học hăy nên suy nghĩ kỹ!
Theo Tŕ Nghiệm Kư, bà
lăo họ Vương ở Đông Đài bế cháu nội
vượt sông, sảy chân, ngă xuống nước. Khi ấy,
nước đang dâng tràn, chảy xiết, bà lăo bế
cháu đi trên mặt nước như trên đất bằng.
Thuyền đến vớt đưa lên bờ. Hỏi
thăm, cụ nói: “Chẳng biết đến hiểm nạn,
chỉ tŕ thánh hiệu Quán Âm không ngớt”.
(14) Trong
bài Ứng Nghiệm Kư của Hiếu Liêm Túc Khải có kể:
Cha ông ta làm khách ở Duy Dương, vượt sông, băo lốc
ập tới, cột buồm găy nát, phân nửa những
người ngồi cùng thuyền chết ch́m. Do cha ông ta
chí tâm tụng chú Quán Âm, hứa in tặng một vạn hai
ngàn cuốn, trong khoảnh khắc, gió giạt tới cửa
sông, vô sự. Đến Tết, từ đất Tô trở
về Duy Dương, lúc vượt sông, sóng bủa vào thuyền,
nhà thuyền cực lực chống chọi, c̣n cha ông chỉ
tụng chú Quán Âm, lại được toàn mạng.
Theo Thiện Dư
Đường Bút Thừa, vào đời Minh, chùa Nam
Đài ở Phước Châu đắp tượng Đại
Sĩ, sắp hủy tượng cũ. Thợ đắp
tượng là Lâm X... xin đem tượng cũ về thờ.
Được mấy tháng, vượt biển, thuyền
hư, bị ch́m, vội hô: “Con từng cứu Bồ Tát,
sao nay Bồ Tát chẳng cứu con vậy?” Nói xong, thân chợt
nổi lên, vớ được một tấm gỗ, cỡi
lên, lênh đênh hơn trăm dặm, mới tấp vào một
xóm nhỏ ven bờ, nhặt nhạnh được cả
sọt những vật sót lại [từ chiếc thuyền
vỡ tấp vào], bèn có tiền trở về.
(15) Bài kư
tự thuật của cư sĩ Giản
Theo sách Cao Vương Ứng
Nghiệm, Vương Thiên Tích ở Giang Hữu ngồi
thuyền sang Hán Khẩu, gió lốc ùa tới, tánh mạng mất
c̣n trong khoảnh khắc, cả thuyền kêu khóc. Thiên Tích tụng
Cao Vương Kinh và nguyện khắc in một ngàn quyển,
gió liền dứt.
Theo Bạch Y Ứng
Nghiệm, đời Thanh, Trầm Ánh Khuê lấy một quyển
kinh Bạch Y từ nhà bạn đem về, vượt
sông, bị gió lật thuyền, những người cùng
đi đều mất mạng. Ông Khuê ch́m nổi trong
nước dường như có ai nâng đỡ. Lên
được bờ mới biết là nhờ sức của
quyển kinh mang theo, bèn ăn chay, tụng kinh suốt đời.
Theo Kính Tín Lục, Triệu
Đại Thành ở Nam Xương nghe nói chú Bạch Y linh
nghiệm, bèn thành tâm tŕ tụng. Một hôm vượt sông,
sóng gió ùa tới, cả thuyền đều chết đuối,
chỉ ḿnh ông Triệu c̣n sống.
(16) Theo
Kính Tín Lục, một bà lăo họ Trang xứ Giang Ninh
đem cuốn kinh Quán Âm từ nhà con rể trở về,
bảo đám phụ nữ trong nhà tụng niệm. Về
sau, quân lính chinh phạt phương
Theo Cao Vương Ứng
Nghiệm, ông Chương Tông Triều đời Thanh viết:
“Ông Vũ Đường Châu
Minh Phủ có nói: ‘Khi gặp nạn hăy thầm tụng chú
Đại Bi hoặc Cao Vương Kinh liền thoát được
tai ách’. Tôi cũng thường tụng. Trong niên hiệu Gia
Khánh, cùng đi với ông ta vào tỉnh Quảng Đông, bị
băo lật thuyền. Tôi rơi xuống vực sâu, cảm
thấy dưới nước có người đỡ
chân tôi đẩy lên. Vũ Đường và người
cùng thuyền cũng đều rớt xuống nước,
được cứu. Y phục, văn thư vớt lên
đều bị ngấm ướt. Chỉ có quyển Cao
Vương Kinh, ngoài ướt, trong khô”.
(17) Theo
Khuyến Giới Loại Sao, vào thời Thuận Trị
nhà Thanh, Thí Cứ chết tại nhiệm sở ở Mân
Trung, vợ là Trần Thị hai mươi ba tuổi, dẫn
hai con đưa quan tài về quê. Vượt qua băi Xa Đối
trên ḍng Thanh Hà, thuyền gần ch́m, bà ta kiền thành tụng
chú Quán Âm. Vừa được mấy biến, gió lặng,
qua sông yên ổn. Về đến nơi, ăn chay, thủ
tiết, mất năm bảy mươi hai tuổi. Phạm
Văn Chánh đời Tống làm thơ, có câu: “Đây là thuyền cô nhi quả
phụ”.
Theo sách
Quái Viên, ông cụ Trương ở Tô Châu, trong niên hiệu
Vạn Lịch đời Minh, dẫn đứa cháu nội
tám tuổi đến Phổ Đà lễ Đại
Sĩ. Mới từ đất Hàng [toan] xuống thuyền
ra biển, đứa cháu bảo: “Phu thuyền đều
bị trói chân tay”, lôi áo ông đứng lại. Đổi
sang thuyền khác, nó cũng thấy giống như vậy.
Lại đổi thuyền, mới nói không có ǵ lạ hết;
cụ Trương lần chần, có hai người đứng
trên đầu thuyền hô: “Đáp thuyền này, đừng
lên thuyền khác”, rồi dường như có người
đẩy đằng sau. Đă lên thuyền rồi th́
người hô lẫn kẻ đẩy đều chẳng
thấy đâu. Chiều tối, sóng trắng xóa bủa cao
như núi, hai chiếc thuyền đi trước đều
ch́m; chỉ riêng chiếc thuyền này xuôi ḍng an ổn. Sách
Phong Tục Thông có câu: “Cửa
thành hỏa hoạn, rực sáng cả ao cá”.
(18) Thiên
Khúc Lễ [của sách Lễ Kư] có câu: “Làm phận con, chẳng leo cao, chẳng vào vực
sâu”. Sách Châu Dịch giảng về hào Lục Thượng
trong quẻ Đại Quá như sau: “Quá thiệp tai đảnh, hung” (Tai nạn vượt
quá mức cùng cực, là quẻ xấu)[11].
2.2.2.3.
Thoát hiểm
1.
Bèn có: Mỹ nhân đến tắm suối, cứu dân sống
dưới vách đá. Cô gái rao bán cá, công nhân liền thoát khỏi
hang.
2.
Đơn thân cỡi ngựa tẩu thoát, Tất Giám
được chỉ đường về. Thú dữ
đi qua, mặc kệ Thành Khuê ẩn núp.
3. Thầy
tu vào đất Lạc, người đầu cạo láng
đi theo. Trần công bị tuyệt lương,
được người áo tía gọi dậy.
4. Ông nội
Ngạn Sơn dạy cháu ngừa tai ương nhà sụp.
Cháu nội Sĩ Khải, nhiều phen thoát họa té lầu.
5. Ngoài
biên ải, đồng bạn Cấp Đa đều chịu
ơn. Giữa biển khơi, cả thuyền ngài Na Bạt
được cứu.
6. Thiện
Xung nhờ đuốc hiện dẫn đường, Nho
Tuấn được cỡi ngựa tẩu thoát.
7. Ẩn
núp trong g̣ mả, Chi Khai thoát nạn. Náu ḿnh trên cây khô, Lệnh
Tông khỏi họa.
8. Quân Khương nhốt Đạt
Khai, cọp táp thủng cũi. An Khởi lánh né giặc, sói
ném qua sông.
9. Đạo Tú lạc hẻm
núi, Đại Sĩ hiện chân dung chỉ đường.
Hoài Minh hăm hang giặc, Bồ Tát hóa lửa thần dẫn
về.
10. Ông Trầm trượng
nghĩa, thánh tượng hiện thân dắt d́u. Tớ Hạ
trọn trung, được người to cơng khỏi suối.
11. Những điều
được nói trong kinh Phật, hoàn toàn phù hợp sự
thật (Tổng cộng hai đoạn).
(1)
Theo Dị Đàm Khả Tín Lục, động Bạch Thủy
tại huyện Tu Văn ở Quư Châu có mỏ thủy ngân.
Thợ mỏ hơn một ngàn người, dân sống
dưới vách núi mấy trăm nhà. Trước động
chừng hai dặm có con suối; đột nhiên, một
người đàn bà xinh đẹp đến tắm rửa
nơi đó, vú trễ xuống tận eo. Cư dân bỏ
nhà ùa nhau ra xem. Vừa mới tới gần suối, vách núi
sụp đổ ầm ầm, nhà cửa đều bị
chôn vùi. Người đàn bà đang tắm không c̣n thấy
tung tích đâu nữa, mới biết là Đại Sĩ
hóa thân cứu vớt mọi người.
Theo Quảng Tín Phủ
Chí, vào đời Tống có người vào núi khai thác mỏ
đồng, đào hang sâu không lường được.
Lúc núi sắp sụp, chợt có một cô gái cầm giỏ
đựng một con cá chép vảy vàng óng ánh đến rao
bán. Người trong hang tranh nhau chạy ra coi. Núi sập,
chẳng biết cô gái ở chỗ nào nữa, mới biết
là Đại Sĩ thị hiện.
(2) Theo
Minh Tường Kư, vào đời Tấn, Tất Lăm là
người xứ Đông B́nh, theo Mộ Dung Thùy[12] chinh phạt miền Bắc, [thua trận],
nhưng không bị bắt. Một ḿnh một ngựa trốn
chạy, lạc đường trong núi, niệm Quán Thế
Âm. Nửa đêm thấy một vị Tăng mặc pháp
phục, tay cầm tích trượng chỉ lối, về
đến nhà an ổn.
Theo Tập Dị Kư,
vào đời Đường, Thành Khuê té xuống nước
gặp được cây gỗ bèn thoát nạn. Về sau, ông ta ẩn nấp ở bên bờ lau,
bên sông có thứ dữ đi ngang, liếc nh́n ông ta,
nhưng không làm hại.
(3)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời Đường, ngài Đạo Nhân sang Lạc Trung. Khi ấy,
quy luật nghiêm ngặt, Tăng không có người đi
cùng th́ không được phép du phương. Do vậy,
Sư bèn kiền thành tụng niệm Quán Âm. Chợt có vị
Tăng đầu cạo láng bóng đến xin cùng đi. Tới
Đồng Nhai Kim Địa, chẳng biết [vị sư
ấy] đă biến đâu mất.
Theo phần Ngoại
Thích Truyện (tiểu truyện của những nhân vật
bên vợ vua) không thuộc phần chánh văn của Minh Sử,
vào đời Nguyên, Trần công là người Dương
Châu, là cha của Thuần Hoàng Hậu[13]. Cuối đời nhà Tống, ông Trần
theo Trương Thế Kiệt[14] sung
quân. Sau trận thảm bại ở Nhai Sơn, phải náu
thân trên hải đảo, lương thực đă cạn.
Những người cùng ở trên đảo với ông ta
sắp phải qua núi Độc Lâu ăn thịt ngựa
chết. Ông Trần mộng thấy người áo trắng
căn dặn đừng qua đó ăn. C̣n nói: “Ban đêm
sẽ có thuyền tới, sẽ chở đi”. Ông bèn nằm
ngủ, không đi nữa. Tới đêm, lại mộng thấy
có người áo tía gọi dậy: “Thuyền đến rồi
đó!” Hốt hoảng thức dậy th́ đă nằm
trong thuyền của nguyên soái X... Ấy là vị thống
lănh mà ông vốn đă theo hầu trước đây, nay
đă hàng quân Nguyên, do thương xót ông bèn chở đi.
Sau này, ông quay về Dương Châu, sanh được hai
con gái. Cô út chính là Thuần Hoàng Hậu.
(4) Theo Cảm
Ứng Kư Lược, Trần Ngạn Sơn ở Vụ
Châu mộng thấy có người bảo: “Ta là ông nội
ngươi, ngươi sắp gặp họa tan thân nát
xương, hăy gấp tŕ tụng Quán Âm Cứu Khổ Kinh
và ấn hành lưu truyền trong cơi đời th́ mới
thoát khỏi tai kiếp”. Sáng hôm sau, ông Trần liền quỳ
khấn trước tượng Đại Sĩ, chuyên tụng
niệm không lười nhác. Một hôm ngồi trong thư
trai, nghe có tiếng gơ cửa rất gấp, vội mở
cửa ra nh́n, chợt nghe có tiếng gió xô đổ cây, cây
đè sập nhà, ông Ngạn thoát nạn.
Theo Quán Âm Kinh Cận Trưng,
Ngô Sĩ Khải ở Hà Tây, suốt đời tụng
Quán Âm Kinh. Sau khi cụ mất, kinh cất trên lầu.
Lũ cháu nội trai trèo lên lầu chơi giỡn, thường
bị xảy chân, té xuống nhưng không sao cả. Hỏi
ra th́ chúng nói là thấy một bà cụ mặc áo trắng từ
trên không trung ôm lấy, mới biết là Đại Sĩ cứu
giúp, che chở. Cả nhà bèn lễ tụng, đến nay
thư hương bất tuyệt.
(5) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Hai, vào đời
Tùy, ngài Đạt Ma Cấp Đa[15] đi qua sa mạc, nước
lẫn cỏ đều thiếu, người cùng đi
chăm sóc lẫn nhau, tánh mạng không biết trông cậy
vào đâu. Vượt núi t́m không được nước,
Ngài bèn chuyên niệm chú Quán Âm, ban đêm trời chợt
đổ mưa, thân tâm vui sướng.
Theo Cao Tăng
Truyện, tập Một, vào đời Tống, ngài Cầu Na Bạt Đà La cỡi
thuyền sang xứ này (Trung Hoa), giữa đường
nước ngọt đă cạn, cả thuyền kinh hoảng.
Ngài Bạt Đà nói: “Hăy đồng tâm dốc sức
xưng niệm Quán Thế Âm”, rồi ngầm tụng chú,
khẩn thiết lễ sám. Trong khoảnh khắc, mây
giăng kín, trời đổ mưa, cả thuyền
được cứu.
(6) Theo
Báo Ứng Kư, đời Đường, Thôi Thiện Xung
lúc làm quan ở Huề Châu, các sắc dân thiểu số nổi
loạn. Bọn ông Xung gồm hai mươi mấy người
ban đêm bỏ chạy; muốn chạy về Côn Minh,
nhưng tối tăm chẳng biết đường. Ông
bèn chuyên chú, thành tâm niệm Tâm Kinh. Trong khoảnh khắc,
thấy ánh đuốc đằng trước, đi theo
bèn đến được Côn Minh.
Theo Biện Chánh Luận,
đời Tấn, Lư Nho Tuấn trấn giữ Hổ Lao,
bị quân Ngụy bao vây, ban đêm vượt thành ra ngoài,
thấy giặc nằm ngang dọc khắp nơi. Ông Tuấn
bèn nhất tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, vượt
qua doanh trại giặc, chạy đến đồng trống.
Bọn giặc đuổi theo, ông Tuấn núp trong bụi,
gấp gáp niệm Quán Âm Kinh, chợt bắt được
con ngựa, chạy thoát.
(7) Vào đời Thanh, Đào Chi
Khải ở Tiền Đường, do gặp nạn
nhưng chẳng nỡ bỏ ông nội, bèn núp trong g̣ mả,
phát nguyện ăn chay ba năm, hằng ngày tụng Phổ
Môn Phẩm, lại niệm thánh hiệu Quán Âm, bọn giặc
lùng sục nhưng chẳng t́m thấy.
Theo Tỳ Kheo Ni Truyện,
ni sư Lệnh Tông đời Tấn là người xứ
Cao B́nh, gặp thời loạn bị giặc truy đuổi,
liền tụng phẩm Phổ Môn, vặt trụi lông mày,
giả vờ bị bệnh ngặt, nên được giặc
thả đi. Đến Kư Châu, lại bị giặc
đuổi, ni sư trèo lên cây khô, chuyên dốc ḷng Thành niệm
Quán Âm. Những kẻ đuổi bắt ḍm ngó ra xa,
nhưng trọn chẳng ngước nh́n lên, nên ni sư thoát
nạn.
(9) Theo
Pháp Uyển Châu Lâm, đời Tấn, Thích Khai Đạt
vào đất Lũng (Thiểm Tây) hái cam thảo, bị
người Khương[16] bắt, nhốt vào cũi. Trong cũi
đă nhốt sẵn mười mấy người. Sáng tối,
người Khương lôi từng người ra giết
ăn thịt, đến khi chỉ c̣n ḿnh Khai Đạt,
sáng hôm sau sẽ bị giết. Khai Đạt thầm tụng
Quán Âm Kinh không lười nhác. Trời vừa hừng sáng,
chợt có con hổ to xông đến, người
Khương kinh hăi chạy tứ tán. Hổ cắn cũi
thành lỗ, Khai Đạt sợ nó sẽ làm hại,
nhưng đến khi cũi đă bị cắn thủng
có thể chui lọt th́ hổ bỏ đi, mới biết
là do Đại Sĩ xua nó đến cứu, Sư liền
được thoát thân.
Theo Quán
Âm Huyền Nghĩa Sớ Kư, Bùi An Khởi trở về
phương Nam, đến bên sông, giặc cưỡi ngựa
đuổi tới, vội niệm Quán Âm Bồ Tát, chợt
thấy một con sói trắng chụp lấy, quăng ông
ta sang bờ kia, thoát nạn!
(9) Theo
Minh Tường Kư, đời Tấn, Phan Đạo Tú theo
quân lên đánh phía Bắc, thất bại, bèn chí tâm niệm
Quán Thế Âm. Trong khi mộng mị liền thấy Bồ
Tát khi ở đằng trước, lúc ở đằng
sau. Sau đấy, ông ta chạy xuống phương
Theo Pháp Uyển Châu Lâm,
đời Lưu Tống, H́nh Hoài Minh theo Châu Tuần lên
đánh miền Bắc, bị cầm tù. Trốn thoát, bèn
cùng trốn về
(10) Theo Dị
Đàm Khả Tín Lục, đời Minh, Trầm Văn Tung
khi làm quan ở Triêm Hóa, Sơn Tả, có bạn đồng
liêu là X... mẹ già, không con, sắp phải vâng chiếu
sang Tây Tạng. Ông Trầm khẳng khái đi thay, trải
bao hiểm trở, ba năm sau mới quay về. Người
nghe chuyện đều khen ông là người đầy
nghĩa khí. Trong số những người theo hầu, trung
thành nhất là Hạ Tường. Một hôm, sương
mù mờ mịt, đi đến chỗ vách núi cheo leo, phía
dưới ngầm ẩn khe nước sâu vạn trượng.
Hai tên hầu ngă xuống suối, ngựa của ông Trầm
đă lọt vào chỗ hiểm. Chợt trông lên thấy
Đại Sĩ ở giữa mây mù, tay cầm hoa sen xanh,
hướng về phía ông Trầm chỉ đường.
Trong khoảnh khắc, thân đă vượt qua khe nước
đến chỗ đất bằng. Ông đau xót hai tên hầu
đă chết, hồi lâu sau, ánh sáng chiều tà tắt hẳn,
nghe có tiếng người liền vội hô lên, thấy một
ḿnh Hạ Tường chạy đến, hỏi làm sao
thoát khỏi? Thưa: - Lúc rơi xuống suối, có người
lông xanh cao hơn một trượng, từ dưới khe
suối cơng lên. Chủ tớ ôm nhau khóc ṛng. Cao Văn
Lương Công bèn vẽ tượng Đại Sĩ,
đề ngày tháng để ghi nhớ.
(11) Trong
Thỉnh Quán Âm Kinh, đức Phật bảo A Nan: “Thiện nam tử, thiện nữ
nhân, đắc văn Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, tịnh
thọ tŕ lục tự chương cú, nhược hành
khoáng dă, mê thất đạo kính, Quán Thế Âm Bồ Tát
đại bi huân tâm, hóa vi nhân tượng, thị kỳ
đạo lộ, linh đắc an ổn. Nhược
đương cơ khát, hóa tác tuyền, tỉnh, quả
lơa, ẩm thực, linh đắc bảo măn” (Thiện
nam tử, thiện nữ nhân được nghe danh hiệu
Quán Thế Âm Bồ Tát và thọ tŕ lục tự
chương cú, nếu đi trong đồng hoang, lạc mất
đường lối, Quán Thế Âm Bồ Tát do đại
bi huân ḷng, sẽ hóa thành h́nh người chỉ cho
đường lối, khiến cho người ấy
được an ổn. Nếu bị đói khát, Ngài sẽ
hóa thành suối, giếng, trái quả, thức ăn khiến
cho người ấy được no đủ).
1. Hóa
ao, cỏ giữa Lưu Sa, Tam Tạng c̣n mạng. Bày quán
trà bên bến nước, Tống Khản ngủ đêm.
2. Tôn
xưng thánh hiệu, gặp giặc tự có thần lực.
Trí Hiển ẩn thân, chẳng giống như phương
thuật.
3. Pháp Trí
ẩn lùm gai, mặc người lùng sục. Đậu
Truyền núp trong rừng, nghiễm nhiên an ổn.
4. Trong
hang Hoắc Sơn, lửa đóm tỏa sáng. Giữa lùm cây
rậm, Áp Lan hiện tướng.
5. Ông Từ
ẩn trọn người trong lùm cỏ rậm, Đức
Tổ giấu nửa thân bên cỏ bồng hao.
6. Kỵ
binh truy đuổi vượt qua ông Đạt, da trâu che mắt.
Linh cảm ứng hiện cho Thiện Tài, mơm sói sát mũi.
7. Thấy
Phật quang tỏa bảy tia, đèn họ Xa thắp sáng rành
rành. Hăm trong kẹt đá ba năm, cứ ăn chữ từ
kinh họ Triệu. Do vậy, thấy rằng những
thân, những cảnh đă hiện, không đâu là thật,
mà cũng biết Phật lực không mảy trần nào chẳng
trọn. Đấy là sự cứu khổ thứ ba của
Đại Sĩ vậy. (Phần này ca tụng cảnh giới hiểm nạn
như huyễn).
(1) Theo
Đường Tam Tạng Truyện, ngài Huyền Trang
đi đến vùng Lưu Sa[17], trên con đường dài hơn tám
trăm dặm, trên trời không có chim bay, dưới đất
không có thú chạy. Yêu quái nổi lửa, ánh lửa lập
ḷe như sao sa, Ngài trọn chẳng sợ hăi. Chỉ đến
khi hết nước đă năm ngày, gần chết,
không đi được nữa, nằm trên cát, thầm niệm
Quán Âm, nguyện rằng: “Huyền Trang đi chuyến này,
chuyên v́ vô thượng đạo tâm chánh pháp mà ra đi. Bồ
Tát từ bi nghĩ đến chúng sanh, chuyên cứu khổ,
há chẳng biết con khổ sở ư?” Nửa đêm,
chợt có trận gió mát thổi qua thân, mát mẻ như
được tắm trong nước lạnh, mắt liền
sáng ra, ngựa cũng trỗi dậy được.
Đi tiếp, ngựa chợt đổi hướng, chế
ngự không được, bèn thấy một vùng cỏ
xanh rộng mấy mẫu. Lại có một cái ao, nước
ngọt, trong suốt. Xuống ngựa uống nước,
thân mạng khôi phục. Xét ra chỗ này trước kia vốn
không có, nhất định phải là do Bồ Tát từ bi
hóa hiện.
Theo Báo Ứng Kư, đời
Đường, Tống Khản ngồi thuyền của
người khác qua Tam Môn, gặp trận gió lật thuyền,
nắm được bó sách, lội lên bờ, đến
ngủ đêm tại cḥi tranh của bà lăo bán trà. Phơi
sách, thấy trong ấy có bộ kinh Kim Cang. Bà lăo nói: “Kể
từ sau bữa ông ra đi, vợ ông lễ kinh thành khẩn,
thiết tha, nên cứu được ông”. Trở về hỏi
chuyện, quả nhiên đúng là vợ lễ tụng kinh ấy.
Do vậy, gói ghém trà, lụa đem tạ ơn bà cụ bên
bến sông. Đến nơi lều tranh không c̣n nữa.
Dân địa phương nói: “Nơi ấy nước [lên
xuống] không có ngằn hạn, làm sao có am trà cho được”
mới biết là Đại Sĩ hóa thân.
(2)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Tùy, ngài Na Liên Đề Lê Da Xá[18], Hán dịch là Tôn Xưng, đi
đường gặp bọn giặc núi, chuyên niệm chú
Quán Âm, ở ngay trước mắt giặc mà chúng không thấy.
Về sau, những khi rảnh rỗi trong lúc dịch kinh,
Ngài thường giảng giải thần chú, lập công
cao nhất [trong việc hoằng truyền Mật Tông trong
thời ấy].
Lại nữa, ngài Trí Hiển
đời Đường, đi đường gặp bọn
Đột Quyết[19], mười mấy người đều
bị đuổi bắt, ngài Trí Hiển ẩn thân chẳng
hiện. Hỏi ra, Ngài nói: “Tôi niệm Quán Âm nên chẳng gặp
giặc”.
(3) Theo
Minh Tường Kư, đời Tấn, ngài Thích Pháp Trí tŕ
danh thoát khỏi hỏa hoạn, lại đăng vào lính,
bị vây bắt, phải ẩn quanh trong lùm gai góc bên ng̣i
nước, lại chí tâm niệm Quán Thế Âm. Giặc
đứng cách ng̣i nước hô đám quân phía sau, chỉ trỏ,
ra lệnh giết, nhưng họ lục lọi chẳng
t́m thấy. Pháp Trí thoát nạn bèn trở thành Tăng.
Theo Pháp Uyển Châu Lâm,
đời Tấn, Đậu Truyền do niệm Đại
Sĩ thoát được gông cùm, bèn vượt thành trốn.
Lúc trời sáng, ẩn nấp trong rừng, trong khoảnh khắc,
người ngựa dồn dập kéo tới truy bắt,
đốt rừng, giày xéo cỏ cây, không đâu chẳng lục
kỹ, chỉ có khoảng đất Đậu Truyền
đang nấp là không lục tới.
(4) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Một,
đời Lưu Tống, ngài Đạo Quynh vào Hoắc
Sơn để hái mầm đá. Vào trong hang mấy dặm,
nhảy qua những khúc gỗ để vượt qua
nước, ba người chết đuối, lại
rơi mất đuốc. Đạo Quynh chuyên tụng Pháp
Hoa, chỉ dựa vào nghiệp ấy, lại nghĩ đến
Quán Âm. Một lúc sau, có tia sáng như lửa đom đóm,
đuổi theo không kịp, bèn thoát ra khỏi động.
Về sau, Sư lại cùng bốn người đồng
học cưỡi băng vượt sông, băng vỡ,
ba người chết đuối. Đạo Quynh lại
dốc ḷng thành nơi Quán Âm, cảm thấy dưới
chân như có vật tự nổi. Lại thấy ánh sáng
đằng trước, dơi theo ánh sáng vào được bờ.
Theo Nam Hải Từ
Hàng, vào đời Minh, người đất Mân là Lôi Pháp
Chấn làm nghề đốt than. Trong nhà có cây gỗ Áp
Lan, đường nét tinh tế, muốn khắc thành
tượng Đại Sĩ, nhưng chưa được
toại ư. Một bữa, vào núi đốt than, từ trong
lùm rậm, đột nhiên có con hổ phóng ra chụp. Chợt
có một phụ nữ ẻo lả chặn quát hổ, hổ
liền nem nép, khấu đầu rút lui. Ông Chấn lạy
tạ, hỏi tên tuổi, [người phụ nữ ấy]
bèn nói: “Ta chính là cây gỗ Áp Lan trong nhà ông” rồi không thấy
nữa. Ông Chấn cảm ngộ, bèn chọn ngày lành khắc
tượng, suốt đời ăn chay, đảnh lễ.
(5) Theo
Minh Tường Kư, Từ Nghĩa làm Thượng Thư
trong triều đại Phù Tần, sau bị Mộ Dung
Vĩnh[20] bắt được. Do niệm Đại
Sĩ bèn thoát nạn, trốn thoát trong đêm, núp trong
đám cỏ, kỵ binh đuổi theo đốt đuốc
như sao sáng ngời, nhưng trọn chẳng thấy ông
Từ.
Theo Biện Chánh Luận,
Mao Đức Tổ ở Vinh Dương, theo đường
tắt xuống Giang Nam, gặp bọn giặc cưỡi
ngựa đuổi tới, bèn núp trong đám cỏ bồng
hao[21] bên đường, nửa thân vẫn c̣n
lộ ra, nghĩ chắc phải chết, bèn chí tâm niệm
Quán Âm. Trong khoảnh khắc, trên mây trút mưa xuống, liền
thoát nạn.
(6) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Một,
Thích Siêu Đạt học rộng biết nhiều. Thời
Nguyên Ngụy cấm đồ sấm[22], có người vu cáo, Sư bèn
bị bắt, hạ ngục, buộc bánh xe vào cổ. Siêu Đạt
chuyên niệm Quán Âm, tới
đêm chợt chẳng thấy bánh xe nữa, những
người canh giữ đều ngủ; do vậy, chuồn
ra, nhưng do chân bị trói đă lâu, chẳng đi xa
được. Trời sáng, bốn thớt ngựa truy
binh đuổi theo, Siêu Đạt nằm xoài trong đám cỏ,
kỵ binh giày xéo tan nát mà trọn chẳng thấy. Siêu Đạt
lén ḍm, thấy mặt bọn giặc đều bị da
trâu che mắt, nhờ đó trốn thoát.
Theo Pháp Uyển Châu Lâm,
đời Đường, Từ Thiện Tài bị giết
nhưng sống lại, lại nhặt được áo cừu
bằng da dê, đào, táo, khỏi bị đói khát. Đi
năm mươi dặm, nghỉ lại một chút, ngồi
xếp bằng tụng niệm, không ngờ ngồi ngủ
luôn. Đến canh tư chợt tỉnh, có một con sói
xanh to đùng đang ngồi chồm hổm trước mặt,
đưa mơm chạm mũi ông Tài. Ông Tài thấy rồi, lại
nhắm mắt niệm rằng: “Nếu thật là oan cừu
của ta, hăy ăn ta để đền tội
ương đời trước. Nếu là Đại
Sĩ hiển linh, xin hăy cứu đệ tử được
yên vui”. Niệm xong mở mắt ra, chẳng thấy tông
tích con sói đâu nữa.
(7) Theo
Tuyên Nghiệm Kư, vào đời Tống, Xa Tử Giả do
mắc nạn Lô Lăng Vương tại Thanh Nê, bị
hăm trong trại giặc. Bà mẹ ở nhà thắp bảy
ngọn đèn trước bàn Phật, chuyên tâm niệm Quán
Thế Âm, nguyện con được trở về.
Hơn một năm sau, Xa Tử ban đêm trốn trại,
lạc đường, thường thấy bảy ngọn
lửa sáng trước mặt, ngỡ là thôn xóm, cứ dơi
theo ánh lửa mà đi, nhưng trọn chẳng đến
nơi được. Suốt bảy đêm như thế,
không ngờ đă về đến nhà, thấy mẹ vẫn
c̣n phủ phục trước bàn Phật thỉnh nguyện,
bảy ngọn đèn xen nhau chiếu sáng.
Theo Dị Đàm Khả
Tín Lục, khi vách núi sụp ở huyện Tu Văn, Quư
Châu, có Triệu Nhị Giả bị vùi trong đó, may lọt
nhằm kẽ hở nên không chết. Sau ba năm, có người
đến hái thuốc nơi chỗ sụp, nghe trong đá
có tiếng kêu cứu, hè nhau tận lực đào ra. Ông Triệu
thuật rằng: Khi núi sụp, đang ngủ mê man chẳng
tỉnh. Đến lúc tỉnh lại, thấy bốn phía
đều là đá, không cách ǵ thoát ra được. Lại
khổ sở v́ đói khát, đột nhiên có con chuột trắng
nép sát bên cạnh thân, dài hơn cả thước, mắt
lấp lánh như chớp, soi thấy trên đá có chữ.
Nh́n kỹ th́ ra là kinh Quán Âm. Chuột nhấm chữ làm ra vẻ
ăn nuốt, ông Triệu thử bắt chước làm
theo, bèn đỡ đói. Về sau, mỗi lần nhấm
một chữ, liền no bụng suốt ngày. Đến
nay đă gậm gần hết chữ, chỉ sót lại mấy
hàng. Mọi người thấy trên đá không c̣n dấu chữ
mà cũng chẳng thấy con chuột trắng nào! Đưa
ông ta về nhà, lấy cuốn kinh ông ta đă tụng mở
ra xem, chỉ c̣n mấy hàng cuối, giống hệt như
chữ đă thấy trong kẹt đá.
2.2.2.4. Khỏi
bị giết chóc
1.
Bèn có: Tướng quân Ninh Sóc, sắp bị chém, được
tha. Lính thú Nam Cung, đao phủ bỗng bải hoải.
2. Đạo
Tập tŕ danh, giặc chém nhiều lần, kinh hăi bỏ chạy.
Từ Ân[23] tụng
kinh, gă Hồ rút dao rồi lại nằm.
3. Tên chẳng
thể tổn hại Pháp Thiền, đao không chém
được Trầm Giáp.
4. Quân
Mưu, Du Nhung, cùng phô chuyện lạ ba đao. Lục Huy,
Kính Đức, hai tượng, cổ cùng in vết.
5. Chàng Trương
thuật lời Phật, liền giải oan khiên đời
trước. Họ Tŕnh gọi gă Vương, chuyển thành
sống đời yên vui.
6. Thiện
Tài bị giết, hồi sinh trên cành trong động.
Vương Ất gặp hiểm, đột nhiên trèo lên bờ
cao.
7. Chỉ
Nhất nghe dị tăng răn dạy, giặc bèn hồi
tâm. Cao Tuân xin Bồ Tát xót thương, bị chém chẳng
chết.
8.
Đầy tớ nghe lời chủ dạy, chưa ba
năm đă được tha về. Em bị kẻ xấu
vu hăm, tụng một tạng sạch nỗi oan khiên.
9. Nhà họ
An thờ tượng, đánh vào lưng nghe tợ tiếng
đồng. Ông Trữ Úy tŕ danh, trên đảnh đầu
hào quang tỏa rực.
10. Truyền lời cho quan huyện
lệnh, ba phen cứu chàng buôn gạo. Báo mộng răn
đe Tiếu Vương, Trương Sướng rốt
cuộc sống yên.
11. Giản
Vinh quy mạng, đao bèn găy nát. Đ́nh Ái gặp cướp,
lương vẫn c̣n nguyên.
12. Thoát nạn
như ưng, cắt vụt bay, sắp đi được
két kêu cảnh tỉnh.
13. Đấy
đều là trong khoảnh khắc táng thân mất mạng,
liền nhờ ân khởi tử hoàn sanh. (Gồm ba
đoạn)
(1) Theo
Vương Nguyên Mưu Truyện trong bộ Tống
Thư, ông Mưu làm tướng quân ở Ninh Sóc, vây Hoạt
Đài không đánh thắng được nên bị thượng
tướng đem chém. Ông Mưu mộng thấy có người
bảo: “Tụng Quán Âm Kinh ngàn biến sẽ thoát”. Tỉnh
giấc, liền tụng được một ngàn biến.
Sắp bị chém, chợt có tiếng hô truyền lệnh
ngưng hành h́nh. Ấy là v́ Trầm Khánh can gián nên [cấp
trên] thôi chém.
Theo Minh Tường Kư,
đời Tấn, Nam Cung Tử Ngao, làm lính thú[24] ở Tân B́nh, bị Trường Lạc
Công phá thành, cả thành mấy ngàn người đều bị
xử chém. Tử Ngao chí tâm niệm Quán Thế Âm. Khi đao
phủ chém đến Tử Ngao, các lưỡi đao chém xuống,
hoặc là cao quá, hoặc là thấp quá. Người cầm
đao chợt mỏi mệt, tứ chi bủn rủn.
Trường Lạc Công kinh hăi, tra hỏi. Ông Ngao thưa: “Biết chế yên ngựa”, bèn
được tha. Ông Ngao cũng trọn chẳng biết
v́ sao ḿnh lại trả lời như thế. Về sau, ông
ta tạo một tượng Đại Sĩ nhỏ, hễ
đi bèn đội trên đầu, khi ngưng lại bèn
đảnh lễ.
(2)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Ngụy, ngài
Đạo Tập đi sang Tây Sơn, Thọ Dương,
bị giặc bắt trói vào cây, sắp giết. Đạo Tập bèn niệm Quán Âm không
ngừng, giặc vung đao chém mấy lượt nhưng
Sư trọn chẳng bị tổn thương, bèn sợ
hăi bỏ chạy. Đạo Tập bèn được
thoát.
Theo Đường Tam
Tạng Truyện, ngài Huyền Trang vượt ải Ngọc
Môn, tùy tùng là Thạch Bàn Đà, vốn là người Hồ,
chợt sanh ḷng khác lạ, rút đao ngồi dậy, từ
từ tiến về phía pháp sư. Sư ngồi dậy,
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Gă người Hồ vẫn
thấy vậy, lại nằm xuống, Sư cỡi ngựa
bỏ đi.
(3) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời
Ngụy, sư Pháp Thiền đi đường núi gặp
giặc, chỉ niệm Quán Âm. Giặc buông cung bắn, tên
chẳng thể thương tổn Sư, bèn ném cung xuống
đất, tỏ ḷng quy kính.
Theo Tuyên Nghiệm Kư, Trầm
Giáp ở Ngô Quận bị trói, sắp bị hành h́nh, kiền
thành niệm danh hiệu Quán Âm, mũi đao tự găy. Do vậy
bèn được thả.
(4) Theo
Pháp Uyển Châu Lâm, đời Tống, Huệ Ḥa thoạt
đầu làm Quân Mưu, bị địch quân bắt
được, đem chém. Ông Ḥa tận lực tụng
Quán Âm Kinh, cầu nguyện khẩn thiết tột bực.
Tên lính vung đao, ba lần giơ lên, ba lượt găy nát
bèn kinh hăi, thả đi, ông Ḥa bèn xuất gia.
Đời Thanh, Lă Thiên
Hộ ở Thiểm Tây kiền thành tụng chú Bạch Y, bôi
Đàn Hương lên thân Đại Sĩ, sáng tối cúng
dường. Về sau, ông đảm nhiệm chức Du
Nhung tại Ninh Ba, do lỡ việc, bị luận tội
chém. Lúc bị hành h́nh, đao phủ chém liên tiếp ba
đao đều bị găy, tâu lên, ông Lă bèn được
miễn tội.
Theo Tuyên Nghiệm Kư, Lục
Huy bị giam trong ngục sắp chết, bèn bảo người
nhà tạo tượng Quán Âm. Lúc bị hành h́nh, chém ba
đao đều bị găy. Quan hỏi nguyên cớ, đáp
rằng: “Tôi e rằng đấy là từ lực của
Quán Âm”, nh́n vào tượng th́ cổ tượng có ba vết
đao; do vậy, tâu lên, Lục Huy được miễn
tội.
Theo Tề Thư, Tôn
Kính Đức pḥng ngự biên giới phương Bắc,
tạo tượng Quán Âm, lễ kính, thờ phụng. Về
sau, bị bọn giặc cướp gây liên lụy, [triều
đ́nh] định tội tử h́nh. Đêm ấy, ông lễ
sám, khóc lóc, chợt như trong mộng thấy một sa-môn
dạy hăy tụng Cứu Khổ Quán Âm Kinh một ngàn biến,
sẽ thoát khổ nạn. Kính Đức tụng đến
lúc bị hành h́nh vừa đủ ngàn biến. Đao chém xuống
găy thành ba đoạn; ba lượt thay đao vẫn găy
như cũ. Thừa tướng Cao Hoan dâng biểu xin miễn
hành h́nh. Kính Đức được thả về, thấy
nơi cổ của bức tượng Quán Âm do ḿnh đă
tạo có ba vết đao.
(5) Đời
Tống, Trương công tử ở Lâm An thấy trong ngôi
chùa đổ nát có tượng Quán Âm đă mất chân tay,
bèn thỉnh về, trang nghiêm, cúng dường. Về sau, gặp
giặc, phải nhảy xuống giếng, thấy Đại
Sĩ đến nói: “Ngươi nay sắp chết, ta không
cách nào cứu được. Bởi lẽ, trong đời
trước, ngươi từng giết một người,
tên hắn hiện thời là Đinh Tiểu Đại sẽ
giết ngươi để báo oán”. Ngay lúc đó, có
người thọc mâu xuống giếng, kêu chui ra.
Trương hô lên: “Ông là Đinh Tiểu Đại phải
không?” Kẻ kia kinh hăi hỏi: “Sao ngươi biết?” “Do
Phật bảo tôi”. Họ bèn cùng nhau cởi gỡ oán thù đời
trước rồi bỏ đi.
Theo Kỷ Cầu
Thư, đầu đời Thanh, Tŕnh Bá Lân buôn bán ở
Dương Châu, thờ Đại Sĩ rất kiền
thành. Năm Ất Dậu (1645), quân binh [nhà Thanh] phá thành
Dương Châu[25], ông Tŕnh cầu khẩn Đại
Sĩ cứu giúp. Mộng thấy Đại Sĩ bảo:
“Mười bảy mạng trong nhà ông, mười sáu
người đều được thoát tai kiếp, c̣n
ông không trốn được. Đời trước ông
giết Vương Ma Tử bằng hai mươi sáu nhát
đao, nay phải đền món nợ ấy. Hăy nên bảo
người nhà ở chái Đông, riêng ḿnh ông ở giữa
nhà đợi hắn, đừng làm liên lụy đến
ai”. Ông Tŕnh tin theo. Đến khi binh lính đập cửa,
ông Tŕnh ra đón, hỏi: “Ông có phải là Vương Ma Tử
hay chăng?” Tên lính kinh hăi hỏi v́ sao biết tên họ ta?
Ông Tŕnh kể lại giấc mộng. Tên lính than: “Đời
trước, ngươi giết ta, đời này chịu
báo. Ta nay giết ngươi, há đời sau chẳng lại
bị báo thù hay sao?” Bèn dùng sống đao đập ông
Tŕnh hai mươi sáu lần để xóa nợ. Ông Tŕnh
bèn dẫn quyến thuộc sang Kim Lăng, sống yên ổn
nhiều đời.
(6) Theo
Minh Tường Kư, trong niên hiệu Vũ Đức thời
Đường, Từ Thiện Tài thường giữ
trai giới, tụng Quán Thế Âm Kinh. Về sau bị giặc
bắt, có một ngàn một trăm người cùng bị
bắt, cùng bị đem tới Hồng Nhai rồi lần
lượt giết chết. Ông Tài chí tâm niệm Quán Âm Kinh,
trong lúc bị giết trọn chẳng biết ǵ. Đến
đêm mới biết thân ḿnh đang nằm trên cành cây mọc
de trên con suối sâu, cách vách đá độ hơn ba
trăm thước. Lấy tay sờ cổ, chỉ thấy
hơi đau, nhưng không thương tổn ǵ. Trèo xuống
khỏi cây, đi dọc theo khe suối, nhặt được
áo ấm bằng lông dê, đào, táo v.v... Coi chuyện này trong
phần trước.
Đời Đường,
Vương Ất lúc nhỏ tŕ chú Như Ư Luân[26]. Đầu thời Khai Nguyên, cùng bè bạn
sang Hà Bắc, liếc thấy phu chèo thuyền có vẻ khác
lạ, bèn cầm đuốc niệm chú. Nửa đêm, phu
chèo thuyền cầm búa chặt đầu hai đứa
đầy tớ, lại chém hai người bạn, rồi
tới chỗ Ất. Vương Ất nằm phục xuống
đất, đuốc chợt tắt, bị chém ba búa.
Đột nhiên, sau lưng có hai người nâng
Vương Ất đưa lên bờ. Máu chảy khắp
ḿnh, nhưng không đau đớn lắm. Sau đó, thấy
[từ thuyền lên bờ] cao mấy chục trượng
mới biết là sức của thần chú.
(7) Theo Pháp
Hoa Cảm Thông, đời Thanh, Thích Chỉ Nhất thuở
nhỏ gặp một vị Tăng kỳ lạ, răn dạy:
“Con sắp gặp phải đại nạn, nếu có thể
tŕ thánh hiệu Đại Bi th́ sẽ thoát nạn”. Sư bèn
dốc ḷng thọ tŕ. Trong niên hiệu Sùng Trinh, Hiến tặc[27] phá Quang Sơn, giết đến
Sư, đao bỗng tự găy. Giặc lấy làm lạ
nên [tha cho] Sư khỏi chết, Sư liền xuất gia.
Theo Tuyên Nghiệm Kư,
Cao Tuân niệm Đại Sĩ, gông xiềng tự tháo. Cai
ngục kinh dị, bảo Tuân rằng: “Nếu Bồ Tát
thương ông th́ chém cũng chẳng chết”. Lúc xử tử
h́nh, đao vung lên liền găy, [quan giám trảm] tâu lên trên, ông
Cao liền được thả.
(8) Theo
Quán Âm Cảm Ứng, vào thời Vạn Lịch nhà Minh,
đầy tớ quan Thượng Thư Lục Ngũ
Đài đánh lộn gây chết người, cầu cứu
chủ nhân. Ông bảo: “Theo quốc pháp, giết người
phải đền tội, ta làm sao xin tha cho ngươi
được? Ngươi vào ngục hăy chuyên niệm danh
hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, sau ba năm, Ngài sẽ tự
đến cứu ngươi”. Đầy tớ nghe lời
dạy, niệm Bồ Tát không lười nhác, một
năm sau được thả.
Theo Cao Vương Ứng
Nghiệm, vào đời Minh, Khương Thiện bị
anh là Liêm do chiếm núi không được bèn vu cáo
Khương Thiện hại mạng người, Khương
Thiện bị kết thành tội nặng. Trong thời Vạn
Lịch, Khương Thiện bị chuyển đến
nhà giam trên phủ, có được cuốn kinh Cao
Vương bèn ngày đêm lễ tụng, mấy lượt
tụng đủ một tạng[28], liền được cứu.
(9) Theo
Linh Ứng Lục, đời Đường, An Định
là người Sơn Tây. Bà mẹ hái dâu nhặt được
tượng Quán Âm bằng đồng, bèn lễ bái, cúng
dường. Về sau An Định đi lính, bị ngă
trong đám cỏ, cảm thấy sau lưng bị chém liên
tiếp ba nhát, [nghe vang ra tiếng] như chặt vào đồ
bằng đồng, thân thể không bị vết
thương nào.
Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Đường,
một người Mạt Hạt[29] là Đế Thị Giai trốn
vào Cao Ly, nhặt được tượng đồng cao chừng hai tấc, chẳng biết
là vị thần nào, bỏ trong túi da, hễ ăn uống
rượu thịt đều dâng cúng [tượng thần].
Người Cao Ly nghi anh ta là gián điệp bèn đem chém,
chém ba đao vẫn không bị thương. Lôi tượng
ra th́ lưng tượng có ba vết đao. Họ nói:
“Đây là tượng Phật, có thể sang Đường
quốc (Trung Hoa) hỏi thăm”. Ông Giai bèn xuất gia tại
U Châu, hơi giống như chuyện trên đây.
Lại nữa, sách Trà
Hương Thất Tùng Sao có viết: “Do bà lăo họ An [trong câu chuyện thứ nhất]
cũng dùng thịt cá cúng dường [tượng Phật]
th́ biết rằng thờ Phật cốt ở nhất tâm.
Nếu tâm chí thành, cá thịt cũng đem cúng dường
Quán Âm được!” Quyết chớ nên nghe theo lời
ấy! Phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện có nói: “
Hiện Quả Tùy Lục
có chép truyện một viên Hiếu Liêm[30] ở Ma Thành đùa bỡn đem thịt
cúng cho Bồ Tát, liền ngă xuống đất chết
tươi, đọa thẳng vào địa ngục, khắp
thân bị nung nứt nẻ. Trong câu chuyện của bà lăo
họ An, Bồ Tát đặc biệt thương xót bà ta
ngu dại nên không truy tới, há đáng lấy cách thức ấy
làm khuôn phép, khiến cho chúng sanh bị lầm lạc ư?
Trong sách Vạn Thiện Tiên Tư, câu hỏi: “Làm lành lấy lập tâm làm chánh
yếu. Nếu tâm địa đă lành th́ sao lại phải
kiêng giết” đă bị tiên sinh An Sĩ quở trách thống
thiết, thật giống như vấn đề đang
được nói tới ở đây.
Theo Di Kiên Chí, Trữ Úy
ở Vu Hồ bị Khấu Lục Đức bắt
trói, sắp đem chém, thấy trên đảnh ông Trữ có
ba đạo hào quang, bèn thả ra, sai giữ chức Chủ
Ấp. Về sau lại v́ chuyện này, xét công huân, thăng
quan cho ông ta. Ông Trữ hằng ngày niệm danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ Tát một ngàn câu, tụng một bộ
Viên Giác, cho nên được quả báo ấy.
(9) Theo
Sư Tán Hiên Tùng Đàm, một người buôn gạo ở
vùng Thượng Ngu mộng thấy Đại Sĩ dặn:
“Gặp cầu chớ dừng
thuyền, gặp dầu bôi lên đầu, đấu thóc
ba thưng gạo, nhặng xanh nâng đầu bút”. Về
sau, thuyền gặp mưa, vừa qua một cây cầu, cầu
liền sập. Trở về nhà lạy tạ Đại
Sĩ, đột nhiên chiếc đèn thờ trước
tượng rơi xuống, dầu chảy lênh láng khắp
đất. Anh ta liền bôi dầu lên đầu. Đêm ấy,
bà vợ bị giết chết trên giường. Ấy là
v́ người vợ tằng tịu với gă hàng xóm, hắn
nghe chàng buôn gạo trở về liền đến giết.
Trong đêm tối, hắn vén màn, ngửi thấy đầu
anh lái buôn có mùi dầu ngỡ là bà vợ liền chuyển
sang giết anh lái buôn, nào ngờ giết nhầm bà vợ.
Bố vợ ngờ anh ta giết vợ bèn đi thưa.
Anh lái buôn bị ép nhận tội. Lúc ghi biên bản cung
khai, chợt có nhặng xanh bu đầy đầu bút, đuổi
đi chúng lại bu tiếp, khiến cho quan ngờ có chuyện
ǵ lạ lùng. Lặng lẽ suy nghĩ, chợt anh lái buôn thất
thanh kêu: “Bồ Tát!” Quan liền tra hỏi, anh ta bèn thuật
lại những chuyện nằm mộng, cầu găy, bôi dầu.
Người cố vấn của quan bèn đoán: “Ba thưng
gạo tức là bảy thưng cám, há chẳng phải kẻ
sát nhân là Khang Thất[31] hay sao?” Gă hàng xóm của anh lái buôn chính là
Khang Thất, vừa tra khảo liền nhận tội, quan
lập tức thả anh lái buôn.
Theo sách Đàm Tẩu,
đời Lưu Tống, Trương Sướng phụng
tŕ niệm thánh hiệu Quán Âm. Nam Tiếu Vương[32] dấy loạn, ông Sướng không
theo, sắp bị vương giết, vương mộng
thấy Đại Sĩ bảo: “Chẳng được
giết Sướng”. Nam Tiếu Vương bèn chẳng
dám làm hại!
(11) Trong
niên hiệu Thái Nguyên đời Tấn, Cao Giản Vinh phạm
pháp, lúc sắp bị chém bèn nhất tâm quy mạng Quán Thế
Âm Bồ Tát. [Đao phủ] chém xuống, đao liền
găy.
Theo Linh Nghiệm Kư,
Châu Đ́nh Ái ở Chiết Giang giải lương[33] qua Sơn Đông, gặp giặc cướp,
thủy thủ bị giết sạch, chỉ riêng ḿnh ông
Ái c̣n sống, tiền lương không bị tổn hại.
Ông Ái chuyên tŕ Quán Âm Kinh, lại thí tặng một ngàn hai
trăm quyển. Đ́nh Ái c̣n có tên là Đ́nh Thọ.
(12) Theo
Thỉnh Quán Âm Kinh, nếu có chúng sanh vào trong chiến trận,
lúc sắp bị hại, bèn tụng niệm chú này, xưng
danh hiệu Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ
được giải thoát nhanh chóng như chim ưng, chim
cắt vụt bay. Vào đời Nguyên, Châu Đạo Nhân ở
Giang Lăng tụng Quán Âm Kinh, ước hẹn với mọi
người đi sang quận khác. Lúc sắp đi, con két
kêu ầm lên: “Chớ có đi! Chớ có đi”, liền biết
Bồ Tát hiển linh, bèn thôi, những người ra đi
đều bị cướp giết!
(13) Theo
Quốc Ngữ: “Khởi tử
nhân, nhi nhục bạch cốt” (Làm người chết
sống dậy, khiến cho xương trắng sanh thịt).
1. Lại
như hiện tướng trong mây, hai phen phù hộ Tống
thất. Không trung vang tiếng, Tiền Liêu nhiều lần
đuổi giặc.
2. Sắp
được thăng lên tước vương, ngăn
Vũ Túc chớ động binh. Giặc sợ có thần
giúp đỡ, cản Sĩ Thành đừng giết bậy.
3. Thỏa
bi nguyện của Trương Sùng, đá nứt, vợ chồng
đoàn tụ. Cảm ḷng Lưu Độ tinh thành, kinh
rơi, cả thành khỏi chết.
4. Bà lăo
cơng đá to, ngăn địch quân đánh úp Điền
5. Tuy là trời giáng họa giết
chóc, giỏ sắt khó che, nhưng Phật mở ra cơi thọ,
trống vàng xưng tụng
(Câu
này ca tụng cả chuyện dứt đao binh).
(1) Theo
Thiên Trúc Chí, Tống Thái Tông do thấy Tào Bân đánh quân Khiết
Đan[34] bị
thua, bèn sai sứ sang chùa Thượng Thiên Trúc cầu Đại
Sĩ ngầm gia hộ. Trương Tế Hiền thắng
trận Đại Châu.
Lại nữa, Lưu
Dự cùng giặc Kim vào [đất Tống] cướp
phá, Tống Cao Tông đích thân đến Đại Sĩ Điện
cầu đảo, xin được ngầm che chở. Sau
đấy, Hàn Thế Trung đánh bại quân Kim - Tề[35] ở Nhuận Châu. Trong lúc đối
địch, bọn giặc thấy phía trên trận quân Tống
có mấy chục vị thần mặc giáp bằng vàng,
thân cao hai trượng, ánh mắt tóe lửa, đứng
trên chót mây. Bọn giặc biết [quân Tống] có thần
che chở, chẳng đánh mà tự tan, thua trận thật
lớn. Khi Hàn Thế Trung làm lễ hiến phù[36], có nghe [quân lính] kể chuyện này.
Theo Thiên Trúc Chí, Hoàng Sào[37] dấy loạn, chém giết tại những
nơi hắn kéo quân qua. [Tin truyền] đến đất
Hàng, già trẻ mấy trăm vạn, khóc lóc lạy Đại
Sĩ, xin Ngài rủ ḷng Từ che chở. Đến khi
Hoàng Sào cùng Tiền Liêu giao chiến, nghe trên không trung có tiếng
niệm Phật, ngó lên thấy cờ quạt, lọng báu
trên mây, vây quanh Đại Sĩ. Các vị Hỏa Thủ
Kim Cang, trời, rồng, Tu-la v.v... theo hầu không thể
tính được. Quân Tiền Liêu trông thấy, dũng khí
tăng gấp trăm lần. Sào bảo: “Nước Phật
mà!” bèn rút lui.
Lại nữa, Ngô Việt
Vương là Tiền Liêu xuất thân từ chốn quê mùa,
thề giữ yên miền Đông
(2) Theo
Thiên Trúc Chí, Tiền Liêu muốn đánh Châu Toàn Trung[39], mộng thấy Đại Sĩ bảo:
“Chớ nên làm càn! Ông cứu được trăm vạn
dân đen th́ chẳng đầy mười ngày sẽ
được phong tước làm vương”. Họ Tiền
bèn thôi, quả nhiên như thế.
Hơn nữa,
Trương Sĩ Thành[40] chiếm cứ Tô Châu, dung túng cho binh lính
đốt phá, cướp bóc, sắp tiến vào Phật Quốc
Sơn, vừa đi trên Xuân Kiều, chợt có suối từ
Lưu Hồng ồ ạt tuôn ra, nước cao cả
trượng, sụp núi, lấp hang, thế nước ầm
vang như sấm sét. Bọn giặc hoảng sợ, [cho rằng]
nơi ấy có sức thần giúp đỡ nên rút lui. Do vậy,
chúng chẳng dám giết chóc bừa băi nữa!
(3) Theo
Pháp Uyển Châu Lâm, đời Tấn, Trương Sùng tôn
sùng Phật pháp từ bé. Khi Phù Kiên đă bại trận,
Sùng chạy xuống phương
Theo Minh
Tường Kư, đời Tống, Lưu Độ là
người Liêu Thành, cùng ấp có hơn một ngàn nhà cùng
thờ Quán Âm, tụng kinh, lễ bái. Cuối đời Tống,
những kẻ trốn lánh thường ẩn nấp trong
thành khiến thành ấy bị [quân Nguyên] giận lây, cả
thành sắp bị tàn sát. Ông Độ bèn hướng dẫn
mọi người dập đầu cầu khẩn trước
tượng Đại Sĩ, nhất tâm lễ tụng. Tù
phương[41] đang xét việc, thấy từ trên
không trung có một vật rơi xuống, nhiễu quanh cột
nhà, kinh hoảng nh́n xem th́ ra là phẩm Phổ Môn. Cầm lấy
đọc xong, tù trưởng hoan hỷ, cả thành khỏi
bị tàn sát.
(4) Theo Hữu
Đài Tiên Quán, Quán Âm Các ở phía Nam thành Đại Lư Phủ
được xây trên đỉnh một tảng đá lớn.
Phủ chí có chép chuyện một phụ nữ cơng tảng
đá ấy. Tương truyền, thuở xưa có quân
địch [kéo đến] đánh úp Đại Lư, thấy
một bà lăo, vừa đi vừa cơng tảng đá này.
Địch kinh ngạc, bà cụ nói: “Người xứ
này mạnh lắm. Ta là đàn bà, vừa già vừa bệnh,
chẳng thể mang nặng được!” Địch sợ
quá, bèn rút. Bà cụ bỏ tảng đá ở chỗ ấy,
chẳng biết đi đâu mất. Người ta biết
là Quán Âm hóa thân, bèn dựng Quán Âm Các trên đá.
Tăng nhân chùa Thiếu
Lâm từng thấy thần nhân hai chân nhảy từ núi Thái
Thất sang Thiếu Thất, cầm gậy quất giặc,
giặc hoảng sợ bỏ chạy. Họ bèn nói chắc
là Quán Âm hóa thân.
(5) Theo
Tăng Nhất A Hàm Kinh, Lưu Ly Vương[42] tấn
công ḍng họ Thích, ngài Mục Liên bạch Phật: “Kính xin
Ngài cho phép con dùng giỏ sắt úp lên thành”. Phật nói: “Ḍng họ Thích có oán thù [với Lưu
Ly Vương] từ đời trước, ông đậy
giỏ được sao?”
Kim Quang Minh Kinh: “Đắc văn kim cổ phát
diệu hưởng, giai mông ly khổ đắc giải
thoát” (được nghe cái trống vàng vang tiếng nhiệm
mầu, đều được ĺa khổ, giải
thoát). Kinh c̣n chép: “Sở hữu
khổ năo, năi chí uổng tử, tất giai viễn ly,
thường mông Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát đại
bi oai quang chi sở hộ niệm” (Tất cả khổ
năo cho đến chết oan uổng đều được
xa ĺa, thường được đại bi oai quang của
Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát hộ niệm).
1. C̣n
như: Hữu Môn tŕ chú, c̣ diệc thoát lưới rập.
Thế Thuần chép kinh, chim quạ thoát khỏi tên găm.
2. Xót
thương ốc, ba ba, ông Cố được phán “phóng
sanh”; ném chết bồ câu non, họ Tŕnh chỉ được
gia hạn.
3. Vào
trường thi phải gỡ oán cho mèo; toan nhận con
thường bị ḅ cản trở.
4. Tụng
chú Đại Minh, mặt lưới mở tung. Niệm
danh Bồ Tát, oán quỷ đắc độ. Chẳng chỉ
mở rộng ḷng nhân đến muôn loài, mà c̣n dứt tai kiếp
trong vị lai. Ấy là sự cứu khổ thứ tư
của Đại Sĩ vậy (Trong phần
này, ca tụng cả sự cứu vớt loài vật).
(1) Vào
đời Minh, sư Hữu Môn đắc Đại Bi
tam-muội, đi dạo chơi nơi ruộng đồng
vùng Phụng Hóa, thấy mấy trăm con c̣, con diệc bị
người ta giăng bẫy, thầm niệm chú, chúng liền
bay thoát.
Theo Linh Nghiệm Kư,
đời Tống, Châu Thế Thuần thờ Đại
Sĩ nghiêm cẩn, phát nguyện tả kinh để thí cho
người khác tŕ tụng. Khi chép kinh, chợt có bầy quạ
kêu rầm rĩ trên nóc nhà. Ra nh́n th́ thấy có một con quạ
bị trúng tên chảy máu, lũ quạ nhổ không
được cho nên kêu rầm rĩ. Ông Châu ngửa mặt
lên trời niệm danh hiệu Bảo Thắng Như Lai, Cứu
Khổ Quán Âm, dùng bút chỉ vào quạ. Mũi tên liền rớt
ra, từ giếng trời[43] rơi xuống bên cạnh khám thờ Phật,
quạ bay mất.
(2) Theo
Đệ Nhất Công Đức Lục, nhà ông Cố
Vĩ Đông có đứa cháu bị bệnh đậu
nguy ngập. Đêm nghe tiếng quỷ gào, ông Đông bèn hướng
dẫn hai đứa con trai cầu nguyện trước
tượng Đại Sĩ. Trong khoảnh khắc, đứa
con út ngă lăn ra đất, [khi tỉnh lại kể: ‘Con
thấy] có vị thần bảo: ‘Đây là điện
Đại Sĩ’. Do vậy, rạp đầu lạy, nghe
bên trong có tiếng hô: “Cho Đậu thần và đứa
con út cùng vào”. Đậu thần h́nh dáng như đứa
bé trai, dâng sổ lên, trên đó đă ghi ngày đó giờ
đó sẽ chết. Đại Sĩ phê hai chữ Phóng
Sanh vào sổ. Thần đi ra, có hai người đội
măo nhọn, mấy trăm người mặc áo xanh, buồn
bă hướng về phía đậu thần xin hăy che chở.
Thần nói: “Đă phán!” Đứa con út tỉnh lại, bệnh
đậu đă lành. Trước đó, vào buổi sáng, ông
Đông ra cửa thấy có người bán ốc xanh ước
chừng mấy trăm con, trong ấy có hai con ba ba, [động
ḷng] xót thương bèn mua đem thả. V́ thế,
được quả báo này.
Theo Kiến Văn Lục,
Tŕnh Tư cùng anh em đi bẫy chim bồ câu, thấy có ba
con. Anh em bắt đem đi, Kim Tư tức giận bèn
ném chết hết. Đêm mộng thấy hai người mặc
áo xanh đến bắt, Kim Tư bèn trốn vào cửa
Đại Sĩ, th́ Đại Sĩ đă nghiễm nhiên ở
đó. Kim Tư kêu chưa giết người, người
áo xanh bảo: “Ba con bồ câu tố cáo”. Kim Tư nói: “Con
chim nhỏ nhoi sao đáng phải thường mạng?”
Đại Sĩ dạy: “Xét về lư th́ phải đền
mạng, nhưng nghĩ ngươi nhỏ tuổi, có thể
gia hạn, mười hai năm sau sẽ lại bắt”.
Kim Tư tỉnh giấc, mười hai năm sau bèn chết
đứng dưới chân cầu.
(3) Theo Thủ
Nhất Trai Kư, Trần Thái Ḥa đi thi Hương mắc bệnh,
mộng thấy hai con mèo, ba con chuột, tám con ễnh
ương đ̣i mạng. Họ Trần hứa tụng
Tâm Kinh để siêu độ cho chúng. Có viên công sai nói: “[Để
ta] bẩm lên quan rồi phúc đáp”. Về sau, lại mộng
thấy công sai nói: “Thoạt đầu, Văn Xương
Đế Quân bảo: ‘Trần mỗ đỗ Giải
Nguyên[44] khoa này, sao lại bạo ác dường
ấy. Nếu thoát khỏi phận dân hèn, há hắn chẳng
tàn độc sanh linh ư? Cho hắn vào trường thi là
đă khoan dung lắm rồi!’ Bổn quan lại bốn
lượt thỉnh cầu ‘hắn đă sửa đổi’,
Ngài bèn phán rằng: ‘Trời đất hiếu sanh, noăn,
thai, thấp, hóa khác ǵ nhau! Thánh hiền ưa điều
lành, há dung thói bạo tàn, xằng bậy!” [Ông Trần] bèn hứa
tụng Tâm Kinh năm vạn quyển để siêu độ
mười ba mạng oán cừu. Ấy là v́ lúc nhỏ cậy
là con quan, sai nô tỳ đánh mèo, chuột v.v... giống
như kẻ tra hạch phạm nhân đến chết. Do
v́ lúc bé vô tâm phạm lỗi, chẳng ngờ trong cơi Âm giám
sát nghiêm ngặt như thế ấy!
Theo Chuyển Kiếp
Luân, đời Tống, Địch Tiếp vẽ h́nh
Đại Sĩ, kiền thành cầu đảo có con. Vợ
mộng thấy có bà lăo mặc áo trắng tặng cho một
đứa con, toan đỡ lấy, chợt có một con
ḅ chặn ngang ở giữa. Đă sanh con nhưng không nuôi
được. Người giải mộng bảo: “Hăy
kiêng ăn thịt ḅ!” Ông Tiếp bèn lập thệ cả
nhà ăn chay, lại dựng một cây cầu. [Vợ ông
Tiếp] lại mộng thấy bà lăo lần trước tặng
cho đứa bé, bèn bồng lấy. Sanh con ra bèn đặt
tên là Kiều. Ông Tiếp thọ chín mươi ba tuổi,
các cháu đến nay vẫn c̣n đỗ đạt.
Theo Liễu Nhai Ngoại
Biên, Phùng Như Kinh giữ chức Quán Sát[45] ở Tây Ninh, dẹp yên dân làm loạn,
tướng quân muốn giết chết hết [những kẻ
làm loạn]. Ông Kinh đem tánh mạng cả nhà ḿnh ra bảo
đảm, xin tội cho dân. Do vậy, quan chỉ giết
vài người. Đến đêm mộng thấy Đại
Sĩ giáng lâm, [bế] một đứa bé quấn trong cái
địu thêu, bảo: “Ban cho ngươi”. Toan tiếp lấy,
nhưng bị một con ḅ cản trở. Đại
Sĩ bảo: “Cả nhà hăy nên kiêng thịt ḅ”, bèn phát nguyện
chẳng ăn thịt ḅ, liền đỡ được
đứa con. Đứa con sanh ra chính là quan Cấp Gián[46] Vân Tục.
(4) Mặc Khách Tục
Huy Tŕ hễ thấy người ta giăng lưới, thả
câu, bèn chí tâm tụng chú Yết Đế bảy biến,
có thể khiến cho người ấy suốt ngày chẳng
bắt được ǵ.
Theo Long Thư Tịnh
Độ Văn, vào đời Đường, quan Quân
Điển của Nhiêu Châu là Trịnh Lân chết rồi
vào cơi âm. Tra sổ th́ ra bắt lầm, bèn được
thả về. Vua (Diêm La Vương) khuyên nhủ: “Ngươi sống lại hăy gắng
sức làm lành. Thấy người khác sát sanh, chỉ nhất
tâm niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát th́
con vật ấy được thọ sanh mà ngươi
cũng được phước”.
2.2.2.5. Thoát hành h́nh
1. Bèn có:
Quách Tuyên cảm mộng, tự biết ḿnh mạng lớn
chẳng lo. Vương Hăn chịu ơn, hối trót cười
mê muội dị đoan.
2. Đổng
Hùng hai lượt tuột xiềng, chốt khóa vẫn c̣n
nguyên. Trương Sướng bị cùm chặt hơn,
gông găy tan từng tấc.
3. Bạch
hạc lượn quanh Tử Kiều, phảng phất điềm
lành thời Viêm Hán. Nhặng xanh cứu chàng buôn gạo, càng
tỏ sự lạ triều Phù Tần.
4. Tượng
đúc chùa Ngơa Quan tự giáng lâm xoa đầu; nhốt trong
ngục Tấn Dương, nhờ Phổ Môn được
cứu.
5. Đậu
Truyền được Ngài che chở, nh́n đồng bọn
khóc cười. Bà Trương đêm trường bôn tẩu,
quỳ dài gặp gỡ chồng.
6.
Tăng Bao thương sáu tên cướp, thuyết pháp, gông
cùm tự tháo. Tăng Lăng suất lănh đồng môn,
xưng danh, dập đầu trên đá.
7. Thỉnh
Tăng lễ tụng Phổ Môn, Khả Minh hiện điềm
lành sắc lạ. Cai trị nhân từ khoan dung, Thúc Đạt
nhận phẩm kinh Quang Minh.
8. Từ
Nghĩa giật ḿnh tỉnh mộng, tóc gỡ, thân tự
do. Cái Hộ được quang minh chiếu tới, cửa
mở, thoát gông xiềng.
9. Chú gây liên
lụy, xiềng ông Vi như đá nổ tan. Khổ bởi
tham quan, gông ông Khuê chân cầu tự tháo.
10.
Tăng Minh bị vu báng, dây trói lỏng dần.
Trương Đạt tự sửa ḿnh, gông không c̣ng
được.
11. Tâm
Kinh ngầm gia hộ, ấm ḷng cô trung quan Cấp Gián. Thiền
Định chẳng thương tổn, chàng Hiếu Liêm gột
sạch tiếng oan.
12.
Tăng Quang bị giam trong ngục, chiêm ngưỡng tôn
dung, thoát ngục. Ngự Sử bị đày làm lính, có hy vọng
trở về.
13. Nguyện
xả ác hướng lành, hăy phát tâm nối gót Cao Tuân. Thoát tội,
làm công đức, chớ trái nguyện giống như Xử
Mậu. Đấy là sự cứu khổ thứ năm của
Đại Sĩ vậy.
(1) Theo Biện
Chánh Luận, đời Tấn, Quách Tuyên, Văn Xử Mậu
và Dương Thâu Kính là bạn bè với nhau. Ông Kính phạm
tội khiến cho ông Tuyên và ông Mậu cũng bị cùm. Ông
Tuyên niệm Quán Thế Âm, mười ngày sau, mộng thấy
Bồ Tát an ủi, bảo “mạng lớn, chẳng lo”.
Trong khoảnh khắc, gông cùm tự gỡ, đeo vào lại
tuột ra. Ba người phát nguyện nếu thoát tội,
ai nấy sẽ bỏ ra mười vạn đồng làm
công đức. Không lâu sau cả ba đều được
tha.
Theo Pháp
Uyển Châu Lâm, đời Đường, Vương Hăn
và Đổng Hùng cùng bị hạ ngục. Thoạt đầu,
ông Hăn không tin Phật, bà vợ tụng kinh, ông bèn cười
rằng: “Sao lại dị đoan mê muội thế?” Đến
khi thấy Đổng Hùng tụng phẩm Phổ Môn, xiềng
tự tháo gỡ, mới biết Phật lực rộng lớn,
hối trách sâu xa đă phạm lỗi chẳng tin, kiền
thành niệm danh hiệu tám vị Bồ Tát, đủ số
ba vạn, xiềng cũng tự tháo gỡ chẳng khác ǵ
ông Hùng. Khi ấy, trong ngoài ngục nghe chuyện đều
lấy làm lạ. Những tù nhân cùng bị nhốt đều
được thoát tội.
(2) Theo
Pháp Uyển Châu Lâm, đời Đường, trong niên hiệu
Trinh Quán, Đổng Hùng làm Đại Lư Thừa[47], thờ Phật, ăn chay từ bé, do
dính vào chuyện của Lư Tiên Đồng bèn cùng với
mười mấy người như Vương Hăn v.v...
đều bị tống vào ngục. Ông Hùng chuyên niệm
phẩm Phổ Môn, xiềng tự tuột ra rớt trên
đất, nhưng chốt khóa vẫn chưa mở. [Cai
ngục] liền báo với Ngự Sử Trương
Thủ Nhất đến xem xét, [ông Trương] kinh ngạc
một lúc lâu, rồi khóa chặt, niêm phong, bỏ đi. Ông
Hùng vẫn tụng niệm, xiềng lại tuột ra, rớt
xuống đất vang ra tiếng, dấu niêm phong vẫn
như cũ. Nhờ đó, những người cùng bị
nhốt đều được thả.
Theo sách Đàm Tẩu,
đời Tống, Trương Sướng thường
phụng tŕ Quán Âm. Do không theo Nam Tiếu Vương dấy
loạn, bị Vương giam vào ngục, bèn tụng Quán
Âm Kinh ngàn biến, xiềng găy thành từng tấc. Cai ngục
thay xiềng mới lại bị găy, ông bèn được
thả.
(3) Theo
Pháp Uyển Châu Lâm, đời Tề, Bành Tử Kiều hằng
ngày tụng Quán Thế Âm Kinh. Đầu niên hiệu Kiến
Nguyên, bị bắt, Thái Thú Trầm Văn Long muốn giết
chết, giam cùm, canh giữ thật nghiêm ngặt. Ông Kiều
tụng niệm hồi lâu mệt mỏi ngủ thiếp
đi. Mọi người thấy con hạc trắng bay đến
bên ông Kiều, trông phảng phất như một người
xinh đẹp, gông cùm của ông Kiều liền tuột
ra, rồi riêng ḿnh ông ta được thả.
Theo Hán Thư, vua xuống
chiếu rằng: “Trẫm tuần
du biên giới phương Bắc, thấy bầy hạc
đậu tại đây và thấy cảnh sắc
tươi sáng, liền xá tội cho thiên hạ”.
Về chuyện nhặng
xanh, xin hăy xem lời chú thứ Mười
trong đoạn thứ nhất của phần “khỏi
bị giết chóc”. Đời Tần, Phù Kiên ban chỉ xá
tội, Vương Mănh dâng bút mực, có con nhặng xanh to
kêu vo vo rất lớn, bám vào đầu bút, đuổi
đi nó lại bám vào. Trong khoảnh khắc, ở Trường
An có đứa bé áo xanh kêu lên ở chợ, bảo là “triều
đ́nh đă hạ lệnh ân xá”.
(4) Theo Biện
Chánh Luận, vào đời Tấn, có vị Tăng tên Pháp
Hồng sống ở chùa Ngơa Quan, lén đúc một tượng
vàng trượng sáu. Khi ấy, do quan cấm đúc kim loại
nên Pháp Hồng bị tống giam. Pháp Hồng chí tâm niệm
Quán Âm, mộng thấy bức tượng do chính ḿnh đă
đúc vào trong ngục, xoa đỉnh đầu, bảo:
“Đừng lo, sẽ thoát khỏi tai ách”. Trước ngực
tượng ấy phóng ra ánh sáng [chiếu xa] trong khoảng
một thước vuông, rực rỡ như màu đồng.
Trong ṿng mười ngày, Sư bèn được thả. Phá
khuôn ra, thấy tượng ấy giống hệt như bức
tượng chính ḿnh đă nằm mộng thấy.
Theo Pháp Hoa Cảm Thông,
đời Ngụy, Lô Cảnh Dũ bị bắt giam vào ngục
ở Tấn Dương. Ông Lô chí tâm tụng phẩm Phổ
Môn, trong khoảnh khắc tự thoát khỏi gông, riêng ông được tha.
Lại nữa,
theo Cao Tăng Truyện tập Bốn, đời Thanh,
Thư Trinh do gây hiềm khích với Pḥng Biện, mấy
lượt mắc họa ương lạ lùng. Do hằng ngày tŕ tụng Phổ Môn Phẩm
và Đại Bi Chú nên những cạm bẫy đều
thoát khỏi.
(5) Theo
Pháp Uyển Châu Lâm, đời Tấn, Đậu Truyền
làm thuộc hạ của Cao Xương, bị Lă Hộ Phù
bắt giữ, đem giam trong ngục với bảy
người đồng bạn, chờ ngày xử chém. Ông
Truyền chuyên tâm niệm Quán Thế Âm suốt ba ngày
đêm, xiềng gông găy nát, rời khỏi thân. Ông Truyền
nói: “Nay con được Bồ Tát xót thương che chở,
nhưng đồng bạn c̣n nhiều, nỡ nào bỏ
đi một ḿnh? Mong Đại Sĩ hăy cứu vớt trọn
hết”. Nói xong, kéo đẩy các bạn tù, họ đều
lần lượt thoát khỏi xiềng, bèn thừa dịp
ban đêm mở cửa trốn đi.
Sách Châu Dịch có câu: “Đồng nhân, tiên hiệu đào
nhi hậu tiếu” (Quẻ Đồng Nhân, trước
khóc lóc sau cười)[48].
Theo Minh Tường Kư,
đời Tống, do giặc phao tin đồn Trương
Hưng đă đầu hàng, vợ ông ta bị [triều đ́nh
nhà Tống] bắt giam vào ngục. Bà vợ hằng ngày niệm
kinh Quán Thế Âm. Mười mấy hôm sau, mộng thấy
một vị Tăng lay dậy, th́ gông cùm, xiềng xích
đều đă tuột cả rồi, nhưng do cửa bị
khóa không thoát ra được, bèn tự đeo cùm vào, nằm
ngủ tiếp. Lại mộng thấy có người kêu:
“Cửa mở rồi đó”, liền thức dậy chạy
ra. Giữa đêm đen, thảng thốt va phải một
người, bà ta kinh hoảng khụy xuống đất.
Hỏi ra th́ chính là chồng. Nâng nhau dậy, buồn vui lẫn
lộn, đều cùng được miễn tội.
Thơ cổ: “Trường quỵ
vấn cố phu” (Quỳ dài hỏi chồng cũ).
(6) Theo
Cao Tăng Truyện, tập đầu, vào đời Tống,
Tăng Bao đi đường thấy sáu tên cướp
sắp bị tru lục, Sư bèn thuyết pháp cho chúng,
khuyên hăy niệm Quán Âm. Bọn cướp đang lúc gặp
nguy, bèn niệm niệm khẩn thiết. Trong chốc lát,
người áp tải uống rượu say mèm, bọn
cướp liền tháo gông bỏ trốn.
Theo Cao Tăng
Truyện, tập Hai, vào đời Ngụy, Tăng Lăng bị
cướp bắt, nhốt trong trướng [nơi
sơn trại]. Tăng Lăng và bạn
đồng học muốn trốn, nhưng bọn chúng
canh pḥng nghiêm ngặt, không chạy đâu được. Phía
Đông, phía Tây, vách núi cao ngất, chẳng biết nông sâu
ra sao. Có cái cây to nghiêng ḿnh bên vách đá, liền buộc
thang dây dưới thân cây. Khi đó, trời tối âm u,
dưới đáy vực thuần là gai góc, không chỗ
đặt chân. Sư nắm giây treo ḿnh lơ lửng, nói:
“Nguy đến nơi rồi, chỉ niệm Quán Âm mà thôi!”
Lấy đầu cụng vào đá để niệm, trong
khoảnh khắc ánh sáng chiếu khắp trời đất,
thấy trong rừng gai có chỗ đặt chân được.
Xuống đến đất, trời lại tối om. Chợt
có con cọp to xuất hiện trước mặt, mọi
người đều sợ phải vào miệng cọp.
Tăng Lăng nói: “Bọn ta đă cảm được ánh
sáng hiện ra th́ con hổ này chẳng phải là do thánh nhân
sai tới chỉ lối hay sao? Hăy mau đi theo hổ!”
Đi được một chút, hổ cũng tạm ngừng
bước. Đến sáng, t́m được đường
th́ hổ cũng biến đâu mất.
(7) Theo Từ
Lâm Tập, vào đời Thanh, con một nhà giàu vùng Đông
Hoàn là Hoàng Khả Minh bị giặc bắt được,
đem về sào huyệt, trói ngay vào cánh cửa, sai vợ hắn
canh giữ. Nhà ông Minh thỉnh tăng lễ tụng phẩm
Phổ Môn. Đêm ấy, nơi thân ông Minh có ánh sáng tốt
lành, màu sắc lạ lùng, thầm biết là được
sự che chở thần dị. Đợi đến khi vợ
tên cướp ṃ sang hàng xóm, [ông Minh] bèn cơng cả cánh cửa
bỏ trốn, gặp được tiều phu phá giùm
cánh cửa, cởi xiềng, thoát về.
Theo Pháp Uyển Châu Lâm,
đời Tống, Vương Cầu tự là Thúc Đạt,
làm Thái Thú xứ Phù Lăng, do để mất quận hạt
nên bị tống vào ngục. Ông Cầu tin Phật, yêu dân,
chia sẻ thức ăn cho bạn tù. Lại chí tâm niệm
Quán Âm, đêm mộng thấy lên ṭa cao, một vị
Tăng trao cho cuốn kinh, đề tên là Quang Minh Án Hành Phẩm,
trong ấy có tên các vị Bồ Tát, vị thứ hai là Quán
Âm, vị thứ ba là Thế Chí. Tỉnh giấc, xiềng
tự găy, ba ngày sau được tha.
(8) Theo
Minh Tường Kư, đời Tấn, Từ Nghĩa bị
Mộ Dung Vĩnh bắt, chôn ngập hai chân, buộc tóc vào
cây. Ông Nghĩa chuyên niệm Quán Âm, đêm mộng thấy
có người bảo: “Sự đă gấp lắm rồi,
c̣n thảnh thơi ngủ nghê hay sao?” Giật ḿnh tỉnh dậy,
tay lẫn chân tóc đă được gỡ ra, chân cũng
được tự do, bèn trốn đi.
Cái Hộ là người
Sơn Dương, bị giam sắp chết, xưng niệm
Quán Thế Âm suốt ba ngày ba đêm không gián đoạn, thấy
Đại Sĩ phóng quang chiếu soi, xiềng tuột, cửa
mở, liền được thả ra.
(9) Trong
đời Lưu Tống, chú của Hàn Vi giữ việc
binh ở phủ Tương. Trưởng Sứ đất
Tương nghi ngờ người chú phản nghịch,
bèn giết chết người chú, giam Vi vào ngục, ḱm kẹp,
gông cùm rất nghiêm ngặt. Ông Vi tụng Quán Âm Kinh đến
mấy trăm biến, xiềng chợt vang ra tiếng nghe
như tiếng đá bị nung vỡ ra, hư nát, tự rớt
xuống. [Cai ngục] báo lên Trưởng Sứ, bèn cho
đóng thêm nẹp và đinh thật chặt. Ông Vi lại tụng
kinh, xiềng lại vang ra tiếng rồi tuột ra giống
như trước. Do vậy, Trưởng Sứ bèn thả
đi.
Theo Tập Dị Kư, nhằm
thời Thiên Bảo đời Đường, Thành Khuê lo
liệu việc dựng cầu ở Hà
(10) Theo Cao
Tăng Truyện, tập Hai, vào đời Ngụy, Tăng Minh làm chủ chùa Thạch Quật ở
Bắc Đài. Khi ấy, vua Ngụy thường ngờ
tăng nhân là giặc, bắt mấy trăm tăng nhân giam
cầm, bảo Tăng Minh là đầu lănh, càng trói chặt
hơn nữa, đợi sáng ra sẽ chém. Tăng Minh nhất
tâm niệm Quán Âm, đến nửa đêm dây lỏng ra,
đến sáng dây đứt tung, liền trốn đi. Cai
ngục tâu lên, vua thả cả bọn.
Theo Thái B́nh Quảng Kư,
Trương Đạt có tội, bị giam, bị phân xử
đáng tội chết, bèn chuyên niệm Quán Âm, gông xiềng
tự tuột ra, liền được tha, bèn suốt
đời ăn chay giữ giới.
(11) Theo
Ngư Sơn Thặng Cảo, vào đời Minh, Hùng Ngư
Sơn làm quan Cấp Gián, do khắc tác phẩm của Châu
Đ́nh Nho[49] nên bị giam trong ngục Cẩm Y[50]. Trong ngục, ông đem Phật pháp cảm
hóa bạn tù, lễ tụng không thiếu sót. Lại giảng
Tâm Kinh cho bạn tù, chép lại Tâm Kinh để lưu truyền.
Lúc bị phạt trượng, ông thầm tụng bảo
hiệu (danh hiệu quư báu) của Đại Sĩ, không bị
nát thịt, chảy máu, chẳng thấy đau đớn,
biết là được Đại Sĩ ngầm che chở.
Theo Tŕ Nghiệm Kư, Hiếu
Liêm Ngu Thứ Nhan đă thờ Đại Sĩ từ
trước, mỗi sáng lễ Đại Bi Sám, tụng
kinh Kim Cang. Lại c̣n khắc Quán Âm Kinh đem tặng,
khuyên người khác tŕ tụng để tránh tai kiếp.
Về sau, bị kẻ thù vu hăm, đưa về giam trong
ngục Giang Ninh. Thứ Nhan thầm tŕ kinh sám, tuy nếm
đủ mùi thảm độc mà như nhập Thiền
Định, lại được rửa oan.
(12) Đời
Thanh, Châu Tăng Quang bị giam vào ngục, mộng thấy
Bạch Y Đại Sĩ truyền dạy bài chú, niệm
một vạn hai ngàn biến, in một ngàn hai trăm quyển,
được thả.
Theo Kính Tín Lục, Thị
Ngự Châu Kế Khanh ở Sơn Tả bị đày làm
lính thú ở Ḥa Lâm[51], mộng thấy Đại Sĩ truyền
dạy chú Bạch Y, bảo niệm một vạn hai ngàn
biến và khắc in lưu truyền, sẽ được
vua cho trở về. Kế Khanh vâng lời, làm theo,
được tha tội cho trở về.
(13) Theo
Tuyên Nghiệm Kư, Cao Tuân giết người, bị bắt,
xiềng dưới hầm. Người cùng bị giam
khuyên hăy niệm Quán Âm, Tuân nói: “Tội tôi rất nặng,
làm sao thoát?” Người kia tận lực khuyên, Tuân bèn phát
tâm bỏ ác làm lành, chuyên niệm danh hiệu Quán Âm, dụng
tâm thành khẩn, xiềng tự tháo.
Theo Biện Chánh Luận,
vào đời Tấn, Văn Xử Mậu đă cùng Quách
Tuyên phát nguyện sau khi thoát tội sẽ bỏ ra mười
vạn đồng làm công đức. Về sau, xiềng tuột,
được tha; ông Tuyên đă làm tṛn lời nguyện,
c̣n ông Mậu trái lời thề, chẳng làm. Đến khi
Lô Tuần[52] hưng binh, ông Mậu
bị trúng tên, bèn nói: “Ta phạm tội nặng”. Nói xong bèn
chết.
2.2.2.5. Lành bệnh
1. Bèn có: Giới Hiền thọ
kư, hiện sắc biếc như chất lưu ly. Xử
Bá quy y, thấy thể chất dường như vàng rọi.
2. Như
Am, Thùy Kế được tưới cam lộ nhiều
phen. Ứng Cát, Cánh Lăng, cùng hưởng đề hồ
rưới đảnh.
3. Huệ
Cung trọn kính, gà bèn chặn mèo. Đàm Dĩnh thành tâm, rắn
đến nuốt chuột.
4. Hai
lượt gọi tên Hoằng Nguyên, Bạch Y hiện thân.
Ba phen xoa thân Huyền Tảo, tượng vàng chợt tới.
5. Sanh bệnh
phù chân, chuột gặm đùi Vô Lậu. Họa khởi Trầm,
Thai, họ Lư mộng thấy trâu.
6. Thịnh Minh đau bụng, nhức
đầu, thần châm khỏi bệnh. Vương tử
ung nhọt lở loét, tự hưởng cối thuốc.
7. Miệng
sùi dăi trắng, Pháp Thông mộng xơi gân lạc đà,
đảnh phóng tia chớp, Tào Ngọc trừ hết sạch
trùng lao.
8. Thệ
nguyện, nhọt thịt liền trừ, dán kinh, họng
tiêu bướu thịt.
9.
Được hiện tướng, Trí Đàn lành bệnh
trầm kha; do xả thân, Dă Mục chẳng cần uống
thuốc.
10. Phan mẫu,
ông Vu, cùng được ban linh dược; bà Tiết, bà
Trầm, cùng được thí thần thang.
11. Bà Bành
thắp tâm hương, [thân] nhẹ như lá táo; bà Trần
trừ nghiệp chướng, cành hoa sen khẽ phẩy.
12. Trừ
bệnh phong, khỏi sốt rét, đâu cần khoe “văn
chương hữu thần”. Mổ toang bụng, rửa sạch
ruột, tự sẵn có thần cao bôi
đắp (Tổng cộng ba đoạn).
(1) Theo Đường Tam Tạng Truyện,
ngài Chánh Pháp Tạng Giới Hiền thuộc chùa Na Lan
Đà ở Ấn Độ bị bệnh phong. Mỗi lần
lên cơn, chân tay co quắp, đau đớn như lửa
đốt, dao cắt, muốn nhịn ăn để chết.
Sư mộng thấy có ba người: Một người
sắc vàng ṛng, một người màu lưu ly, một
người màu bạch ngân, bảo: “Trong quá khứ, ông từng
làm quốc vương, nhiều phen năo hại chúng sanh, cho
nên hứng chịu quả báo này. Hăy nên chí thành sám hối,
siêng năng tuyên giảng kinh luận, bệnh sẽ tự
tiêu diệt”. Người sắc vàng chỉ người sắc
biếc nói: “Đây là Quán Thế Âm, người sắc bạc
là Từ Thị”, tự bảo ḿnh là Văn Thù, cho biết
sẽ có vị Tăng Trung Hoa đến đây, “ông hăy nên
dạy dỗ”. Ngài Giới Hiền thưa “xin vâng lời dạy”,
từ đấy lành bệnh.
Theo Minh Tường Kư,
đời Tống, Mă Xử Bá tin Phật pháp từ bé.
Trong niên hiệu Nguyên Gia, mộng thấy ba người ở
lưng trời, cao hơn hai trượng, dáng vẻ nghiêm
trang, đứng trên mây nh́n xuống, các thứ âm nhạc cơi
trời vang rền hư không. Về sau, bị bệnh ngặt
nghèo, nh́n xa xa thấy phương Tây có ba người
đi, cao hơn hai trượng. Đằng trước
là một người mặc áo kép, tóc mai buông rủ, đảnh
đầu có hào quang. Hai người phía sau tư chất
như vàng chói lọi, dáng vẻ trang nghiêm, chính là ba vị
thánh đă từng thấy trong mộng trước kia, liền
khỏi bệnh.
Theo Sơn Am Tạp Lục,
vào đời Minh, vị sư giữ chức Liêu Nguyên tên
là Chiếu ở chùa Thiên Đồng, mắc bệnh ngặt
trong niên hiệu Hồng Vũ, hằng ngày niệm thánh hiệu
Quán Âm một vạn tiếng. Sau đấy, tự nghĩ:
“Chẳng bao lâu nữa ta sẽ chết, sao bằng đổi
sang tŕ niệm danh hiệu A Di Đà Phật”. Vừa mới
khởi lên ư niệm ấy, chợt thấy một phụ
nữ xinh đẹp, mặc áo lục thù[53], cầm tịnh b́nh, từ ngoài cửa
bước vào; sư Chiếu kinh hăi không biết làm thế
nào. Lắng ḷng nh́n kỹ th́ chính là Bồ Tát hiện tướng,
sư Chiếu khóc lóc cầu xin thương xót, liền chẳng
thấy nữa. Năm ngày sau hoàn toàn khỏi bệnh.
(2) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Bốn, vào
đời Nguyên, Chân Tịnh tự là Như Am, bị
bệnh khổ, mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ
cầm b́nh rót nước vào miệng, bảo: “Lành bệnh!”
Theo Tŕ Nghiệm Kư, vào
đời Minh, vị tăng tên Thùy Kế bị đau
sườn, chẳng thể ăn uống đă hơn một
tháng. Có người bảo: “Sư thường khuyên
người khác niệm Quán Âm ḥng cứu khổ, nay sao chẳng
tự niệm”. Đang mê mệt, Sư nghe nói bèn tỉnh ngay,
vội vàng chuẩn bị đèn hương, lớn tiếng
tŕ danh hiệu Đại Sĩ không ngừng. Đến
canh tư nghe im tiếng, mọi người sợ Sư
đă tắt hơi, đến xem, thấy đang ngủ
li b́. Trưa hôm sau đ̣i ăn, có thể đứng dậy
đi lại được. Mọi người hỏi
sao lành bệnh nhanh thế? Sư đáp: “Lúc mới xưng
danh, bèn đau như cắt. Lâu sau, trên không trung hiện ra
đám mây lành, Đại Sĩ lấy cam lộ trong b́nh
rưới lên đỉnh đầu tôi, mát mẻ thấm
tận tim gan, bệnh liền khỏi hẳn”.
Trong bài Linh Giới Sát
Trung Ngôn của bộ Vương Ứng Cát Bút Kư, cho biết:
“Trong thời Vạn Lịch
nhà Minh, Cát phụng mạng đi sứ, tiện đường
trở về quê, chợt bị bệnh nặng, hoảng
hốt sai người khiêng tôi đi. Chợt rơi xuống
nước, thấy các loài có vảy, có mai ở trước
mặt, tự nghĩ trước kia ta ăn những thứ
này nên nay gặp nạn. Chợt có người đỡ
lên bờ, thấy Đại Sĩ ngồi dựa vào vách
đá, Thiện Tài, Long Nữ đứng hai bên. Tôi khấu
bái, Đại Sĩ dạy: ‘Ngươi vốn là thiện
tri thức chuyển thân, dốc ḷng thành kính thờ ta. Nay
v́ sát sanh nên bị bệnh này. Nếu kiêng giết sẽ
lành’. Tôi kính cẩn, vâng theo lời dạy. Đại
Sĩ ban Đề Hồ, màu vàng pha biếc. Uống vào vị
trong ngần, bèn tỉnh giấc. Hương thừa vẫn
c̣n đọng trên môi mép. Dần dần lành bệnh, bèn
kiêng giết, quy y”.
Theo Biện Chánh Luận,
Cánh Lăng Vương đời Tề tin nội điển[54], bị bệnh nhiệt sắp chết,
mộng thấy Đại Sĩ đích thân rưới
nước thần bèn lành bệnh.
(3) Theo
Báo Ứng Lục, vị tăng đời Nguyên là Huệ
Cung bị bệnh bao tử, không ăn uống được.
Đêm mộng thấy một con mèo chui vào bụng, bệnh
ngày càng nặng, thèm ăn cá. Tự biết là nghiệp báo,
phát tâm niệm thánh hiệu Đại Sĩ trăm vạn
câu, hằng ngày tŕ chú Đại Bi 108 biến. Về sau, mộng
thấy đồng tử áo xanh xách giỏ đựng một
con gà tới, con mèo bèn từ miệng sư Huệ Cung vọt
ra. Sư kinh hăi tỉnh giấc th́
đă lành bệnh.
Theo Cao Tăng
Truyện, tập Một, ngài Đàm Dĩnh đời Tống bị bệnh ghẻ, lễ
Quán Âm cầu lành bệnh. Một hôm có con rắn ḅ men theo vách
trèo lên nóc. Trong khoảnh khắc có một con chuột rớt
xuống, sùi bọt đầy thân. Sư trước kia
đă từng nghe nói những con chuột bị rắn nuốt
có thể trị lành ghẻ lở, bèn gạt lấy bọt
xoa lên ghẻ, con chuột xoay ḿnh chạy trốn. Qua hôm sau
bệnh liền lành, mới biết rắn và chuột ấy
đều là ḷng thành cầu đảo cảm nên. Do vậy,
nổi danh xa gần, được quốc vương cúng
dường.
(4) Theo Cảm
Ứng Thiên Chú, Trương Hoằng Nguyên mộng thấy
thần bảo: “Ngươi có thiện căn nhưng
phước lực cạn, hăy nên tu đức, tập tánh
hiền lành”. Do vậy, bèn quy y Đại Sĩ, và ghi chú
đại lược bộ Cảm Ứng Thiên đem khắc
in. Chợt mắc phải căn bệnh lạ, thấy có
người áo trắng vén màn, kêu tên ḿnh hai lượt, bệnh
liền khỏi ngay, mới biết là Đại Sĩ hóa
thân.
Theo Tỳ Kheo Ni Truyện,
vào đời Tống, ni sư Huyền Tảo thuở nhỏ
bị bệnh nặng, không sao chữa được, bèn
bày tượng Đại Sĩ, trai giới thanh khiết,
lễ bái, chuyên niệm liên tục. Sau bảy ngày, thấy
tượng vàng cao chừng một thước, ba lượt
xoa trên thân ni sư từ đầu đến chân, liền
cảm thấy căn bệnh trầm kha khỏi hẳn, bèn xuất gia.
(5)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, sư Vô Lậu đời Đường, là
vương tử xứ Tân La, từ Trung Quốc đến
Thông Lănh[55], nghe trong chùa có tượng Quán Âm, cầu
đảo không điều ǵ chẳng ứng nghiệm.
Sư bèn đứng trước tượng, thề nhập
Định bốn mươi chín ngày. Chưa hết hạn,
thân đă mắc bệnh hư thũng[56]. Chợt có con chuột to bằng viên
đạn, cắn vào bắp chân, mủ chảy ra chừng
một đấu, bèn lành bệnh.
Tả Truyện có câu: “Dân sầu tắc điệp ải,
ư thị hồ hữu trầm nịch, trọng trùy chi
tật” (Dân buồn bă sẽ gầy ṃn, héo hon, do vậy,
bèn có những chứng bệnh nặng nề, phù chân). Chú
thích: “Trọng trùy” (重膇) là phù chân.
Đời Tống, Lư
Thương Lăo do sửa chữa mà cuộc đất bị
xung phạm, cả nhà mắc bệnh thũng, bèn cầu khấn
Đại Sĩ, tụng chú Tiêu Tai suốt bảy ngày, mộng
thấy người mặc áo trắng cưỡi trâu
đi, ngày hôm sau [cả nhà] đều khỏi bệnh.
Theo Tả Truyện,
Thúc Hướng hỏi Tử Sản[57]: “Quả quân[58] tật bệnh, bói được quẻ:
‘Thật Trầm, Đài Thai tác
quái’, dám hỏi ngài, Trầm, Thai là thần nào vậy?” Tử
Sản đáp: “Thật Trầm là thần sông Sâm, Đài
Thai là thần sông Phần. Như thân vua bệnh là do ra vào,
ăn uống, vui buồn mà ra, chứ thần núi, sông, tinh
tú há làm ǵ được?”
(6) Theo Miễn
Giới Thiết Yếu, Dương Thịnh Minh thích làm
lành, chuộng bố thí, lại càng khăng khăng ngưỡng
mộ Quán Âm Đại Sĩ. Chợt bị bệnh
trướng, bụng nổi gân xanh, châm cứu, thuốc
thang đủ mọi cách vẫn vô hiệu. Chợt mộng
thấy một bà tiên già, tay cầm một cái kim nói: “Bệnh
ngươi khó khỏe lắm, để ta thay ngươi
trừ đi”. Bà dùng kim chọc từ bụng dần dần
cho đến ót, cổ, dường như cắt từng
đoạn, [ông Dương] gào lên đau đớn, tỉnh
giấc. Sáng ra, gân xanh biến mất, lành bệnh.
Sách Lă Thị Xuân Thu có
câu: “Thân tận phủ chủng”
(Khắp cả thân đau bụng, đau đầu). Chú
thích: Phủ (府) là đau bụng, Chủng
(種) là đau đầu.
Theo Cảm Ứng Truyện,
đời Tề, Kiến An Vương bị ghẻ lở,
niệm Quán Âm không ngừng. Đêm mộng thấy Đại
Sĩ chính tay đắp thuốc cho. Sáng hôm sau liền khỏi
bệnh.
Trong lời tựa của
bộ Quỷ Di Phương (những toa thuốc do quỷ
truyền lại) có ghi: Lưu Quyên Tử bắn trúng một
vật, chợt không thấy đâu. T́m theo dấu đến
núi, nghe có tiếng giă thuốc. [Ông Lưu bước tới],
có ba người bỏ chạy để lại toa thuốc
trị bệnh ung loét và một cối thuốc; do vậy,
soạn ra sách Quỷ Di Phương gồm mười quyển.
(7) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Hai, sư
Pháp Thông đời Đường cực yếu
đuối, chuyên niệm Quán Âm. Về nhà, thân cận mẹ,
một đêm nằm ngủ, trong miệng ọc ra ba
thưng dăi trắng. Mẹ kinh hăi, hỏi v́ sao. Đáp: Con
mộng thấy có người tặng cho ba sợi gân lạc
đà, vừa mới ăn một sợi, liền bị
lay tỉnh. Thân bèn khỏe mạnh. Từ Nam Sơn đội
cái cối đá nặng hơn năm trăm cân đến
chùa ḿnh ở kinh đô để cúng dường cho
Tăng chúng sử dụng.
Đời Nam Tề,
Tào Giác xuất gia từ bé. Về sau, do trong nhà nhiều
đời bị bệnh truyền thi[59] [mất sớm], không ai thờ phụng
[tổ tông] bèn hoàn tục. Sau đấy, ông ta cũng bị
bệnh nguy cấp, tụng chú Đại Bi đến một
vạn biến, cảm thấy ba con trùng từ trong thân ḅ
ra. Trên đỉnh đầu tỏa chớp, ba con trùng chạy
trốn.
(8) Theo
Kính Tín Lục, vào đời Gia Khánh nhà Thanh, Ngô Cơ cổ
họng chợt sanh bướu thịt, châm, khêu càng nguy kịch
hơn, dần dần [cái bướu] to bằng trứng
chim sẻ, ăn uống rất khổ. Ông ta bèn nguyện
khắc thí một ngàn hai trăm quyển kinh Cao Vương và quỳ tụng suốt ba
năm. Tụng chưa đầy một trăm biến,
bướu thịt tự rụng.
Lại nữa,
theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Đường,
sư Thích Tĩnh Chi chùa Tây Minh lúc nhỏ mũi bị nghẹt
v́ bướu thịt, chữa trị trăm cách vô hiệu.
Về sau, tụng Tâm Kinh năm ngàn biến, bướu thịt
liền rụng.
Theo Từ Lâm Tập,
vào thời Khang Hy nhà Thanh, con dâu ông Đặng Thừa Chiếu
ở Quảng Đông là Hoàng Thị trong họng sanh ra hai
bướu thịt, ăn uống khó khăn. Mời thầy
phá bướu, sưng phồng, đau đớn càng dữ,
tính mạng kể trong sáng chiều. [Ông Đặng] bèn dạy
cô ta niệm mười câu kinh do Đại Sĩ đă
truyền dạy trong giấc mộng và dán kinh bên giường.
Người bệnh ban đêm thấy những chữ ấy
to cả tấc, nửa đêm vết thương lành miệng,
nói: “Tôi lành bệnh rồi!” Xin nước súc miệng, lễ
Đại Sĩ, b́nh phục như cũ.
(9) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Bốn, vào
đời Thanh, Trí Đàn mắc bệnh nhiệt, cảm
Đại Sĩ hiện tướng, quỳ mọp lễ
bái liền lành bệnh.
Lại nữa, vào
đời Thanh, Hồng Kiến tự là Dă Mục, sanh được
ba ngày, mẹ mộng thấy con nói: “Con sanh lầm vào nhà mẹ,
ư muốn bỏ đi”. Mẹ kinh hăi tỉnh giấc, thấy
quả nhiên con đă sanh bệnh, không bú sữa. Mẹ cầu
đảo Đại Sĩ, nguyện cho con làm Tăng,
không thuốc thang mà tự lành.
(10) Vào
đời Minh, mẹ ông Hoàng Nham Phan tŕ Quán Âm Trai, bệnh
t́nh sắp nguy ngập, mộng thấy có người áo trắng
cho một hoàn thuốc, liền lành bệnh.
Theo Nam Hải Từ Hàng, Vu Ngọc Giai ở Tiền
Đường vào niên hiệu Sùng Trinh bị bệnh gần
chết, mộng thấy Đại Sĩ trao cho linh dược,
ngũ tạng thanh lương, bệnh lành, ngồi dậy
được.
Lại theo Cao
Tăng Truyện, tập Bốn, ngài Đạo Siêu đời
Minh bị bệnh lao nguy ngập, cầu đảo Quán Âm,
mộng thấy có người áo trắng trao cho hoàn thuốc
màu đỏ bảo nuốt. Ngày hôm sau có cụ già đến,
chữa trị liền lành.
Đời Tống, ở
Giang Lăng có ông Tiết Quán Âm Nô, do kính thờ Đại
Sĩ mà mang tên ấy, hằng ngày tụng tôn kinh không thiếu
sót. Bà vợ bị bệnh, chữa trị trăm cách vô hiệu,
đêm mộng thấy một phụ nữ áo trắng bảo:
“Chồng người kiền thành, khẩn thiết nên trừ
được túc nghiệp” rồi cho uống nước
trong b́nh, miệng thoảng mùi hương lạ, bệnh
liền lành.
Theo Linh Cảm Phú, vào
đời Thanh, vợ ông Trầm Khởi Tiềm là Hồ
Thị, vợ chồng ăn chay trường thờ Phật.
Trong thời Gia Khánh, bà Hồ bị bệnh lỵ, tánh mạng
đếm từng hơi thở. Mộng thấy một
bà cụ cầm một chén nước, bảo: “Ta là Quán Âm.
Do ngươi rất kiền thành, nên đem cam lộ cho
ngươi, uống vào sẽ hết bệnh”. Tỉnh giấc, miệng vẫn c̣n mùi hương, dần
dần lành bệnh.
Lại nữa,
theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, vào đời Thanh,
Minh Trí bị bệnh gần như không ḅ dậy được,
lễ danh hiệu Đại Sĩ, sáng tối không gián đoạn. Lâu ngày, mộng thấy
có người áo trắng ban cho một chén nước sạch.
Uống vào, trong khoảnh khắc cảm thấy thân tâm
thanh lương.
(11) Theo
Nhất Hạnh Cư Tập, vào đời Thanh, vợ
Bành Hy Tăng là Diêu Thị bụng nổi báng bèn phát tâm tŕ
chú Đại Bi. Một đêm nọ, mộng thấy một
bà lăo trao cho một cành hoa bèn vui vẻ nhận lấy, chợt
cảm thấy thân nhẹ như chiếc lá, bệnh liền
khỏi. Diêu Thị làm thơ như sau: “Toan hướng Không Vương sám túc khiên, tâm
hương sớm kết Lạc Ca duyên”.
Theo Ấn Quang Văn
Sao, vợ ông Trần Tích Châu là Hồ Thị lễ Phật
tụng kinh rất kiền thành, mang thai sắp sanh, chợt
bệnh nặng, thân nóng như lửa, cấm khẩu, cứng
ḿnh, chẳng thể uống nước trong suốt hai
mươi chín ngày. Chợt mộng thấy một bà cụ
cầm hoa sen đến, bảo: “Ngươi do túc nghiệp
phải hứng chịu căn bệnh hiểm nghèo này. May
nhờ gieo thiện căn sâu đậm, ta từ Nam Hải
đến an ủi ngươi”. Liền dùng hoa sen phẩy
lên thân, bảo: “Phẩy đi nghiệp chướng, hăy
khéo sanh đứa con tốt lành”. Tỉnh dậy đă hạ
sốt, thân an, ngày hôm sau sanh con.
(12) Theo
Quán Âm Kinh Chú, Mạc Xuân Huy và Mạc Nhật Huy cùng tụng
Quán Âm Chú. Về sau, vợ là Trương Thị bị
trúng phong, gần chết. Ông Huy hứa khắc kinh lưu
truyền, chân tay liền có thể cử động
được.
Theo Cao Vương Chứng
Nghiệm, vào đời Thanh, mẹ ông Chương Tông Triều
ở Cối Kê trong niên hiệu Gia Khánh bị phong viêm, bệnh
t́nh nguy ngập. Ông Triều cầu đảo Đại
Sĩ, hứa niệm Cao Vương Kinh, bệnh dần dần
khỏi.
Lại nữa, theo Cao
Vương Ứng Nghiệm, vợ ông Chung Bằng ở
Thư Thành là Châu Thị bị sản hậu kinh phong, thầy
thuốc chẳng dám kê toa. [Ông Chung] bèn lạy cầu Đại
Sĩ, hứa in một ngàn cuốn Cao Vương Kinh, vợ
lập tức khỏi bệnh.
Quan Trung Thừa đời
Thanh là Diệp Kiện Am kể: Lúc tuổi chừng hai
mươi, bị bệnh sốt rét rất nặng, thầy
thuốc bảo: “Lần sau bệnh càng nặng hơn!” Chợt
thấy trong tủ sách có một cuốn Đại Bi Chú,
muốn mau diệt bệnh khổ nên ngày hôm sau liền cầu
nguyện trước bàn Phật, thắp hương kiền
thành tụng, bệnh sốt rét liền dứt ngay trong hôm ấy.
Tụng liên tiếp mấy ngày, bệnh sốt rét trọn
chẳng phát. V́ thế, tŕ tụng suốt đời.
Đời Ngụy, Tào
Tháo đọc lời hịch của Trần Lâm, bảo:
“Càng khiến cho ta đầu óc choáng váng”. Theo sách Thi Thoại,
có người bị sốt rét, Đỗ Tử Mỹ bảo
đọc những câu như “Tử
Chương độc lâu huyết mô hồ, thủ đề
trịch hoàn Thôi đại phu” (Xương sọ Tử
Chương máu lờ mờ, tay xách quăng cho Thôi đại
phu), quả nhiên hết sốt rét. Lại
nữa, thơ Tử Mỹ có câu: “Văn chương hữu thần, giao hữu đạo”
(văn chương có thần, kết giao hợp đạo
lư).
Theo Cao Tăng
Truyện, tập Một, ngài Trúc Pháp Nghĩa đời Tấn chợt cảm thấy
hơi xông lên ngực đau nhói, thường niệm Quán
Âm, bèn mộng thấy có người mổ banh bụng rửa
ruột, thức giấc liền lành bệnh. Thượng
Thư Phó Lương soạn sự tích của Sư,
thường nói: “Cha tôi chơi với ngài Pháp Nghĩa, hễ
nghe nói tới sự thần dị của Quán Âm, không chuyện
lớn nhỏ nào mà chẳng nghiêm túc [lắng nghe]”.
Theo Linh Nghiệm Kư, Trần
Thanh Vân ở Huy Châu thuở nhỏ mắc bệnh, dần
dần không dậy được, hứa in thí Quán Âm Kinh một
ngàn quyển. Mộng thấy một vị thần cầm
một chậu nước tắm, một vị thần khác
mổ banh bụng [Thanh Vân] để rửa, kinh hoảng,
thức dậy, toát mồ hôi liền lành bệnh. Từ
đấy béo tốt, minh mẫn, không c̣n yếu ớt
như xưa nữa!
Theo Ngụy Chí, Trần
Khuê thông thạo thuốc men, có thể mổ toang bụng,
lưng, lôi ra cắt bỏ những thứ tích tụ. Nếu
là [bệnh trong] ruột, bao tử th́ cắt xén, rửa
ráy, trừ khử những thứ ô uế do bệnh tật
sanh ra rồi may lại, đắp thuốc cao thần diệu.
Sau bốn năm ngày, vết thương bèn lành.
Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng
Tụng
Quyển 2, phần 1 hết
[1] Nguyên văn “chư
hữu hải”. Hữu là tên gọi khác của tam giới,
do tam giới có phiền năo, vọng tưởng, chấp
trước, vô minh, nên gọi là Hữu. Do có vi trần số
thế giới, tam giới trong những thế giới ấy
vô lượng vô biên nên gọi chung là Chư Hữu Hải.
[2] Nguyên văn “hỏa lam” (火籃), là
một cái giỏ đan bằng cật tre chắc chắn,
bên trong có đặt chậu
hoặc vỉ sắt đốt than để sưởi
cho ấm trong mùa Đông.
[3] Nam Đường (937-975) là một triều
đại tồn tại rất ngắn ngủi, chỉ
có 39 năm, do Lư Biện sáng lập sau khi nhà Đường
mất ngôi, các tướng quân phiệt nổi lên chia cắt
Trung Hoa thành mười nước (sử gọi là thời
kỳ Ngũ Đại Thập Quốc). Hậu Chúa nhà
[4] Tướng luân là cái chóp bằng kim loại
thường đặt trên đỉnh những ngọn
tháp năm tầng, thường có h́nh trụ tṛn, trừ
hai khối kim loại tṛn (gọi tương ứng là Bảo
Châu và Long Xa) ở đầu, phần c̣n lại là những
khối kim loại có h́nh như cái lọng. Theo thứ tự
từ trên xuống dưới, tướng luân được
chia thành Bảo Châu, Long Xa, Thủy Yên, Cửu Luân, Thọ
Hoa (Tinh Hoa), Phục Bát, Lộ Bàn. Đây chính là một h́nh
thức rút gọn của những cấu trúc h́nh lọng
13 tầng thường che trên các tháp thờ (stupa) tại Ấn
Độ. Phần quan trọng nhất là Bảo Châu, bên
trong thường chứa xá-lợi.
[5] Tỷ
Bộ là một chức quan thuộc hạ của quan
Thượng Thư đă có từ thời Ngụy - Tấn,
dưới chức Thượng Thư năm cấp, có
trách nhiệm quản thủ sổ sách, đặc trách quản
trị thuế khóa, kinh phí, tu bổ công sở, thu chi lương
hướng, ban thưởng, mua sắm v.v.. cho các quan
Thượng Thư. Về sau, đến đời
Đường, Tỷ Bộ là danh từ chỉ chung một
ty thuộc bốn ty của bộ H́nh, và được
dùng để chỉ chung các chức vụ Lang Trung, Viên Ngoại
Lang, Chủ Sự v.v... Chức vụ này bị phế bỏ
dưới các triều Kim và Nguyên.
[6] Ma La Da sơn (Malaya), c̣n phiên âm là Mạt
Lạt Da, hoặc Ma La Diên, chính là rặng Cardamon ở Nam Ấn
Độ. Núi nổi tiếng với các loại gỗ
thơm. Đại luận sư Thanh Biện (Bhāvaviveka) của
tông Trung Quán xuất sanh từ núi này.
[7] Cầu
Na Bạt Đà La (Gunabhadra, 394-468), dịch
nghĩa là Công Đức Hiền, người Trung Thiên
Trúc, thuộc ḍng Bà La Môn, do đọc A Tỳ Đàm Tạp
Tâm Luận có chỗ ngộ bèn quy hướng Phật pháp.
Thoạt đầu, ngài học Tiểu Thừa, về sau
thâm nhập Đại Thừa, người thời ấy
xưng tụng Ngài bằng danh hiệu Ma Ha Diễn. Năm
Nguyên Gia 12 (435) đời Lưu Tống, Sư đến
Quảng Châu, trụ tại chùa Vân Phong trên núi Vân Phong. Thứ
sử Quảng Châu tâu lên Tống Văn Đế. Vua sai
người thỉnh Sư sang Nam Kinh, trụ tại chùa Kỳ
Hoàn. Sư được danh sĩ và thiền đức
đương thời hết sức kính ngưỡng,
đặc biệt hai vị vương gia Nam Tiếu
Vương Lưu Nghĩa Tuyên và Bành Thành Vương Lưu
Nghĩa Khang cùng tôn Sư làm thầy. Ngài phiên dịch các bộ
Tạp A Hàm Kinh, Đại Pháp Cổ Kinh, Tương Tục
Giải Thoát Kinh, Thắng Man Kinh, Ương Quật Ma La
Kinh, Lăng Già Kinh, Vô Ưu Vương Kinh, Bát Cát Tường
Kinh, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh, Đại
Phương Quảng Bảo Khiếp Kinh, Bồ Tát Hạnh
Phương Tiện Cảnh Giới Thần Thông Biến
Hóa Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh (cuốn này đă bị
thất lạc), Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng
Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Thần Chú
v.v...
[8] Trịnh Ḥa (1371-1433) vốn tên là Mă Tam
Bảo, người làng Bảo Sơn, thuộc Côn
Dương, tỉnh Vân Nam, là một hoạn quan, vừa là
một nhà ngoại giao tài ba, vừa là một nhà hàng hải
lừng danh đời Minh. Ông vốn là hậu duệ của
Sayyid Ajjal Shams al-Din Omar, thuộc
ḍng dơi quư tộc, hậu duệ của quốc
vương Mohamed xứ Buxoro (những người theo
đạo Hồi có tên Mohamed, Muhamad, Mahmud v.v... đều bị
Hán hóa thành họ Mă hay Mộc), di cư đến Vân
[9] Quán Âm Trai là ngoài ngày trai kỳ cố
định ra, mỗi tháng ăn chay thêm một vài ngày nhất
định theo một bảng liệt kê riêng gọi là Quán
Âm Trai Biểu, chẳng hạn tháng Giêng ăn chay ngày mồng
Tám, tháng Hai ăn chay ba ngày mồng Bảy, mồng Chín,
Mười Chín, tháng Ba ăn chay trong ngày mồng Ba, mồng
Sáu, Mười Ba v.v...
[10] Xuân Quan là một chức quan quản trị
việc lễ nghi, tế tự, thường trực thuộc
bộ Lễ.
[11] Chúng tôi dịch câu này theo cách giải
thích trong sách Châu Dịch Chánh Nghĩa của Khổng
Dĩnh Đạt, Hàn Khang Bá và Vương Bật. Theo
đó, quẻ Đại Quá trên là quẻ Đoài, dưới
là quẻ Tốn, tượng trưng cho sự vượt
quá mức lẽ thường, nên phạm lầm lỗi.
Quẻ này gồm sáu vạch nên vạch trên cùng được
gọi là Lục Thượng. Câu nói trên đây được
trích từ phần Hào Từ của sách Châu Dịch.
[12] Mộ Dung Thùy (326-396), vốn có tên là Mộ
Dung Bá (Phách), tự Minh Đạo, thuộc sắc dân Tiên
Ty, là con thứ năm của Mộ Dung Hoảng (vua sáng lập
nhà Tiền Yên). Mộ Dung Thùy sáng lập nhà Hậu Yên vào
năm 384, xưng hiệu là Thành Vũ hoàng đế.
[13] Thuần Hoàng Hậu chính là mẹ
của Minh Thái Tổ Châu Nguyên Chương, không rơ bà tên thật là ǵ, chỉ biết bà là vợ
của Châu Thế Trân (Châu Thế Trân được Minh Thái Tổ truy tặng là
Minh Thế Tổ tuy ông ta chẳng làm vua ngày nào). Bà có bốn
người con với ông Châu, tức là Châu Hưng Long, Châu Hưng Thịnh, Châu Hưng Tổ và Châu
Nguyên Chương (Minh Thái Tổ).
Bà được truy tặng Thuần Hoàng Hậu vào năm Hồng Vũ nguyên niên (1368) dưới đời Minh Thái Tổ.
[14] Trương Thế Kiệt (?-1279) là
đại tướng nhà Tống. Khi kinh đô Lâm An của
nhà Nam Tống thất thủ, Tống Cung Đế mới
5 tuổi bị quân Nguyên cầm tù, ông đă cùng Lục Tú
Phu pḥ hai vương gia Triệu Thỉ (Tống Đoan
Tông) và Triệu Bỉnh (Tống Vệ Vương) đào
tẩu. Khi Tống Đoan Tông bị chết đuối,
Triệu Bỉnh được đưa lên làm vua, ông vừa
phải lo liệu việc quân, việc cai trị, đồng
thời dạy Tống Vệ Vương học chữ.
Năm Tường Hưng thứ 2 (1297), quân Nguyên mở cuộc
đại tấn công nhằm tiêu diệt triều đ́nh
nhà Tống lưu vong, quân Tống đại bại tại
Nhai Sơn. Ông Trương tổ chức tử chiến,
nào ngờ Thừa Tướng Lục Tú Phu đă cơng ấu
chúa Tống Vệ Vương nhảy xuống biển tự
tử. Ông than thở áo năo rồi tự tử, khiến
cho các thuộc hạ phải chạy ra hải đảo
lánh nạn.
[15] Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta
?-619), dịch nghĩa là Pháp Tạng hoặc Pháp Mật,
người xứ La La, Nam Ấn, thuộc ḍng Bà La Môn, xuất
gia năm 23 tuổi, sở học rộng khắp. Sư
nghe nói Phật giáo Đại Thừa thịnh hành tại
Trung Hoa, bèn đến Trung Nguyên vào năm Khai Hoàng thứ 10
(590). Tùy Văn Đế thỉnh vua lên kinh đô, trụ tại
chùa Đại Hưng Thiện, lo dịch kinh. Ngài dịch
các bộ Vô Sở Hữu Bồ Tát Kinh, Hộ Quốc Bồ
Tát Kinh, Phật Hoa Nghiêm Nhập Như Lai Bất Tư Nghị
Cảnh Giới Kinh, Đại Tập Thí Dụ
Vương Kinh, Đông Phương Tối Thắng
Đăng Vương Như Lai Kinh, Di Thức Kinh, Đại
Thừa Tam Tụ Sám Hối Kinh, Đại Phương
Đẳng Đại Vân Thỉnh Vũ Kinh v.v... Cùng với
ngài Xà Na Quật Đa, Sư dịch các bộ Đại Tập
Niệm Phật Tam Muội Kinh, Nhiếp Đại Thừa
Luận Thích v.v...
[16] Khương (c̣n gọi là Nhĩ Mă) là một
sắc dân thiểu số ở Trung Hoa, chủ yếu sống
tại Tứ Xuyên và Thiểm Tây. Sử sách đă ghi nhận
sự tồn tại của người Khương kể
từ nhà Thương. Diêu Trành (vua sáng lập nhà Hậu Tần
thời Ngũ Hồ loạn Hoa) cũng là người
Khương. Cho đến nay người Khương vẫn
theo chế độ mẫu hệ, tin theo đa thần,
coi những viên đá trắng như hóa thân của thần
linh, họ tôn sùng thần núi nhất.
[17] Lưu Sa chính là sa mạc Taklamakan (c̣n gọi là Taklimakan) hiện thời, là sa mạc lớn thứ 17 trên thế giới, thuộc Tân Cương, được bao quanh bởi các rặng Côn Luân, Pamir và Thiên Sơn. Ư nghĩa của tên sa mạc này thường được giải thích là “vùng đất bỏ hoang” hoặc “đi vào sẽ không bao giờ ra được”.
[18] Ngài Na Liên Đề Lê Da Xá (Narendrayaśas, 490-589), là người nước Ô
Trành, thuộc ḍng Thích Ca. Sư xuất gia năm 17 tuổi,
thông hiểu Đại, Tiểu Thừa, đi khắp các
nước chiêm bái thánh tích. Khi đến nước Nhuế
Nhuế, gặp giặc cướp, Sư không c̣n ư định
trở về nước mà đến Bắc Tề. Bấy
giờ Sư đă 40 tuổi, nhận lời thỉnh của
Tề Văn Tuyên Đế, Sư dịch 5 bộ kinh
như Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh v.v... Khi Châu
Vũ Đế diệt Phật, Sư ẩn cư, sống
lẫn với thế tục. Đến khi nhà Tùy hưng
thịnh, năm Khai Hoàng thứ 2 (582), Sư nhận lời
thỉnh của Tùy Văn Đế trụ tại chùa
Đạo Hưng Thiện, chủ tŕ đạo tràng dịch
kinh. Sư cùng với hai vị Xà Na Quật Đa và Đạt
Ma Cấp Đa hợp tác dịch nhiều bộ kinh, nên ba
vị này được người đương thời
tôn xưng là Khai Hoàng Tam Đại Sĩ.
[19] Đột Quyết (Göktürk)
là một từ ngữ chỉ chung các sắc dân Thổ
Nhĩ Kỳ,
[20] Phù Tần tức là nhà Tiền Tần (350-394), một trong mười sáu nước được thành lập ở Trung Hoa vào cuối nhà Tấn, do Phù Hồng, tù trưởng của sắc dân Đê, sáng lập, nhưng chỉ đến đời con là Phù Kiện mới chính thức xưng đế. Thoạt đầu nhà Tiền Tần chiếm cứ vùng Quan Trung, về sau diệt các nhà Tiền Yên, Tiền Lương và nước Đại, thống nhất phương Bắc Trung Hoa. Dưới đời vua Phù Sùng (chắt của Phù Kiên, Phù Kiên là cháu nội của Phù Hồng, gọi Phù Kiện bằng bác), nhà Tiền Tần bị Diêu Trành (vua sáng lập triều đại Hậu Tần) tiêu diệt.
Mộ Dung Vĩnh (?-394) chính là vua nước
Tây Yên, tộc người Tiên Tỵ, là cháu nội của
Mộ Dung Vận (anh em con chú con bác của Mộ Dung Hoảng,
vua Tiền Yên). Năm 370, nhà Tiền Yên bị nhà Tiền Tần
diệt, nên bộ tộc Mộ Dung bị đưa về
an trí tại Quan Trung. Do đói nghèo, Mộ Dung Vĩnh và vợ
con phải khâu giày để sống qua ngày tại Trường
An. Khi Mộ Dung Xung (con trai Mộ Dung Tuấn, cháu nội Mộ
Dung Hoảng) khởi nghĩa vào năm 385 nhằm tái lập
nhà Yên, Mộ Dung Vĩnh theo về và được cử
làm tướng quân, lần lượt giữ các chức
Thái Úy và Thượng Thư Lệnh. Khi Mộ Dung Xung bị
giết, Mộ Dung Vĩnh được tôn làm Đại
Đô Đốc, Đại Thiền Vu, Hà Đông
Vương, tạm thần phục Mộ Dung Thùy (con thứ
năm của Mộ Dung Hoảng) nhà Hậu Yên, rồi tự
xưng đế vào năm 393, lập ra nhà Tây Yên. Về
sau, Hậu Yên diệt Tây Yên vào năm 394, Mộ Dung Vĩnh
bị giết chết.
[21] Bồng Hao: Nếu hiểu theo nghĩa
hiện thời th́ Bồng Hao chính là rau Húng Quế,
nhưng xét theo ngữ cảnh ở đây, có lẽ ở
đây Bồng Hao chỉ là tiếng chỉ chung các loại
cỏ dại như trong cổ văn thường dùng
(theo Thành Ngữ Từ Điển). Trong cổ văn, Bồng
Hao c̣n là từ ngữ phiếm chỉ nơi hoang dă,
nhưng nghĩa này xét ra không thích hợp với đoạn
này cho lắm.
[22] Đồ sấm: Các sách vở do các
đạo sĩ hoặc nho sĩ biên soạn luận bàn về
những điềm trời báo trước thọ mạng
của đế vương hay sự hưng suy của một
triều đại. Đa phần những sách này gồm
những bài thơ chứa đựng những ẩn ngữ,
dự ngôn. Ta thường gọi là sấm truyền,
như kiểu sấm Trạng Tŕnh chẳng hạn.
Nguyên Ngụy (c̣n gọi là Bắc Ngụy,
Hậu Ngụy hay Thác Bạt Ngụy) là một
vương triều của Trung Hoa từ năm 386-534, do
Thác Bạt Khuê sáng lập. Đến đời Ngụy Hiếu
Văn Hoàng Đế (Thác Bạt Hoằng) đổi họ
Thác Bạt thành Nguyên, nên Sử thường gọi
vương triều này là Nguyên Ngụy để phân biệt
với quá nhiều nhà Ngụy trong lịch sử Trung Hoa.
[23] Từ Ân ở đây chính là ngài
Đường Tam Tạng pháp sư Huyền Trang. Do Ngài trụ
tại chùa Từ Ân nên thường được gọi
là Từ Ân đại sư.
[24] “Thú” (戍) là lính canh giữ biên pḥng hay những vùng xa xôi. Có tội bị đầy ra làm lính thú th́ được gọi là “trích thú”.
[25] Sự kiện này được sử
gọi là “Dương Châu Thập Nhật” xảy ra vào
năm Thuận Trị thứ hai, tức năm Ất Dậu
(1645). Khi ấy, Sử Khả Pháp là Lễ Bộ Thượng
Thư kiêm Đông Các Đại Học Sĩ nhà Nam Minh tổ
chức nghĩa quân quyết tử chống lại cuộc
tấn công nhằm tận diệt nhà Minh của quân Thanh do
Dự Thân Vương Đa Đạc chỉ huy. Ngày 24
tháng Tư, Đa Đạc tập trung đại bác bắn
vào Dương Châu, đến ngày 25 phá được
thành, nhưng dân quân chống cự quyết liệt từng
góc phố, quân Thanh phải vất vả lắm mới chiếm
được cả thành. Do vậy, để trả thù,
Đa Đạc hành h́nh Sử Khả Pháp tàn nhẫn và hạ
lệnh đại tàn sát nhân dân Dương Châu suốt
mười ngày. Số người chết lên đến
mười vạn người.
[26] Bài chú này c̣n gọi là Như Ư Bảo
Luân Vương Đà La Ni (Cintāmani-cakra Dhāranī),
trích từ Như Ư Luân Đà La Ni Kinh (tên gọi đầy
đủ là Đại Liên Hoa Phong Kim Cang Bí Mật Như Ư
Luân Chú), là một trong mười bài tiểu chú trong công phu
sáng của Thiền môn. Trong Mật Tông, Như Ư Luân Quán Âm
là một trong sáu thân tướng Quán Âm chánh yếu của
Thai Tạng Giới. Nghi quỹ Quán Tự Tại Như Ư
Luân Bồ Tát Du Già mô tả: “Tay
cầm báu Như Ư, sáu tay, thân sắc vàng ṛng, búi tóc trên
đầu trang hoàng bằng các thứ báu, trên măo có đức
Tự Tại Vương ngồi, hiện tướng thuyết
pháp.
[27] Hiến tặc là quân giặc
Trương Hiến Trung (1606-1647), lănh tụ “khởi
nghĩa nông dân” cuối thời Minh, từng kết hợp
với Lư Tự Thành tấn công nhà Minh, tàn sát nhiều dân
lành vô tội. Hắn gây nên hai cuộc tàn sát lớn nhất
ở Phụng Dương (tỉnh An Huy, giết mấy vạn
người) và tại Thành Đô (Tứ Xuyên, giết nhiều
đến nỗi dân chúng Thành Đô đang từ 40 vạn
người chỉ c̣n 20 vạn người).
[28] Một Tạng là 5.048 quyển hay 5.048 lần.
[29] Mạt Hạt (Malgal, Mogher) là một bộ
tộc cổ ở Măn Châu, được coi là tổ tiên
của người Nữ Chân (Jurchen, bộ tộc của
tổ tiên nhà Thanh) và người Măn Châu hiện thời.
Thoạt đầu, họ sống tại lưu vực
Liêu Giang và di cư dần dần đến phía
[30] Hiếu Liêm: Thoạt đầu đời
Hán Vũ Đế, hạ lệnh các quận huyện công
cử những người hiếu thuận cha mẹ, liêm
khiết, chánh trực để tuyển làm quan. Những
người ấy được gọi là Hiếu Liêm.
Đến đời Minh - Thanh, Hiếu Liêm trở thành một
tên gọi khác của Cử Nhân (người trúng tuyển
khoa thi Hương).
[31] Khang (糠) là cám, đồng âm với họ Khang (康).
[32] Nam
Tiếu Vương là vương tước của
Lưu Nghĩa Tuyên (415-454), con thứ sáu của Tống
Vũ Đế (Lưu Dụ), là em trai của Tống Thiếu
Đế và Tống Văn Đế. Khi Thái Tử Lưu
Thiệu giết cha là Tống Văn Đế soán ngôi, con
thứ ba của Văn Đế là Lưu Tuấn bèn khởi
binh đánh dẹp, được Nghĩa Tuyên phái quân ủng
hộ. Khi Lưu Tuấn lên ngôi, lấy hiệu là Tống
Hiếu Vũ Đế, Nghĩa Tuyên được phong
làm Trung Thư Giám, kiêm đô đốc Dương Châu và Dự
Châu. Sẵn binh hùng tướng mạnh, thái ấp trù phú,
Nghĩa Tuyên nảy sanh ư chuyên quyền, coi thường
vua. Lại thêm Tạng Chất xúi giục, Nam Tiếu
Vương dấy quân làm loạn, nhưng bị tướng
Vương Huyền Mô của nhà Lưu Tống đánh bại.
Nghĩa Tuyên bị bắt giam. Không chịu được
khổ cực, Nghĩa Tuyên bèn tự tử chết trong ngục.
[33] Giải lương: Chuyên chở
lương thực cho quân đội. Do thời cổ,
thường có trộm đạo, sơn tặc, hải tặc
cướp lương nên thường phải có vơ tướng
đi theo bảo vệ.
[34] Khiết
Đan (Khất Đan, Khế Đan) là những cách đọc
khác nhau của chữ Khitan (đôi khi c̣n viết là Khitai, hoặc
Kidan, là hậu duệ của bộ tộc Nhu Nhiên (Ruran,
c̣n phiên âm là Lâu Lan) thuộc sắc dân Tiên Ty (thuộc nhóm du
mục Đông Hồ thời cổ). Sau khi bị bộ tộc
của họ Thác Bạt (tổ tiên nhà Bắc Ngụy)
đánh bại, họ phải chuyển sang sống chủ
yếu ở ngoài rặng Hưng An. Theo truyền thuyết,
người Khiết Đan chính là tổ tiên của bộ
tộc Mông Cổ Thất Vĩ hiện thời. Họ là một
sắc dân du mục, thiện chiến, thường hay giao
chiến với các triều đại của Trung Hoa, nhất
là dưới đời nhà Tống. Tiếng nói của họ
thuộc ngữ tộc Mông Cổ của ngữ hệ
Altaic. Người Khiết Đan gồm có tám bộ tộc
chính, trong đó bộ tộc Niết Lư là thủy tổ của
người Liêu sau này. Ngoài ra c̣n có những bộ tộc
nhỏ sống lẫn lộn với các sắc dân Kazakh,
Naiman v.v... khắp Trung Á. Tù trưởng người Khiết
Đan gọi là Khan (sử Trung Hoa thường phiên âm thành
Khả Hăn), được bầu ba năm một lần.
Đến thời Da Luật A Bảo Cơ (Yelü Abaoji), danh xưng này mới
được đổi thành Hoàng Đế, xưng quốc
hiệu là Liêu, chiếm cứ miền Bắc Trung Hoa cho
đến khi bị nhà Nguyên diệt.
[35] Lưu Dự (1073-1416) là người Phụ
Thành, Cảnh Châu (nay thuộc Hà Bắc), từng đỗ
Tiến Sĩ dưới đời Tống Triết Tông,
làm đến chức Thị Ngự Sử dưới thời
Tống Huy Tông. Khi quân Kim tấn công Tế
[36] Hiến phù (đúng ra phải đọc
là Hiến Phu): Mỗi khi đại quân thắng trận khải
hoàn, vị đại tướng cầm quân sẽ làm lễ
giao nộp lên hoàng đế những tù binh bắt
được (Phu: 俘) và những
chiến lợi phẩm trước cửa Ngọ Môn. Nghi
lễ ấy gọi là Hiến Phù.
[37] Hoàng Sào (?-884) là người xứ Oan Cú, Tào Châu (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), xuất thân là dân buôn muối, chuyên cầm đầu bọn buôn muối lậu. Do đi thi không đậu nên phẫn uất, mượn cớ “thế thiên hành đạo” bảo vệ dân nghèo chống lại tham quan và kỷ cương mục nát cuối đời Đường để dấy loạn (sử Hoa Lục thường gọi hoa mỹ là “phong trào nông dân khởi nghĩa”) vào năm Càn Phù thứ 2 (875). Thanh thế rất lớn, gây nên những trận chiến dai dẳng, tàn sát dân vô tội rất nhiều. Về sau, Hoàng Sào bị Châu Ôn đánh bại ở bến Vương Măn (thuộc tỉnh Hà Bắc), các thủ hạ thân tín như Cát Tùng Châu, Dương Năng, Hoắc Tồn, Trương Quy Hậu v.v... đều theo hàng Châu Ôn. Thế cùng lực kiệt, Hoàng Sào trốn qua sông, lại bị Lư Khắc Dụng truy sát, phải bôn tẩu không ngừng Cuối cùng, chỉ c̣n một ngàn quân, lương hết, thế cô, lại bị Lư Sư Duyệt dẫn một vạn quây vây đuổi, Hoàng Sào bị bộ hạ là Lâm Ngôn giết chết tại Lang Hổ Cốc (Sơn Đông).
[38] Tiền Liêu (852-932) là người xứ Đại Quan Sơn, huyện Lâm An, vốn là con nhà thuyền chài. Cũng theo nghề buôn muối, giỏi vơ nghệ, thích phiêu lưu, nhưng bẩm tánh hiền lương, trọng nhân nghĩa. Thoạt đầu theo Chỉ Huy Sứ Thạch Trấn là Đổng Xương ngăn chặn loạn quân Hoàng Sào, ông chỉ huy đội Bát Đô Quân nhằm bảo vệ cho dân cư trong tám huyện thuộc vùng Giang Tô, chống lại các tướng quân phiệt lăm le chia năm xẻ bảy cương vực nhà Đường thời ấy. Đến khi Đổng Xương bộc lộ dă tâm xưng vương, ông diệt trừ Đổng Xương, vẫn giữ ḷng trung với nhà Đường, tận hết sức b́nh định, bảo vệ vùng Giang Chiết. Ông được phong làm Việt Vương vào năm 902. Khi nhà Đường sắp mất ngôi, vào năm 907, nghe theo lời khuyên của thuộc hạ, nhằm danh chính ngôn thuận, ông xưng là Ngô Việt Vương, hiệu là Ngô Việt Thái Tổ Vũ Túc Vương, để bảo vệ mười bốn châu vùng Giang Chiết và một phần phía Bắc tỉnh Phước Kiến hiện thời. Ngôi vua của ông truyền qua nhiều đời cho đến 978 khi Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) thống nhất Trung Hoa th́ chắt của Tiền Liêu là Tiền Hoằng Thục xưng thần, quy thuận Tống Thái Tổ. Sở dĩ Thiên Trúc Chí chép lời Bồ Tát dạy: “Trung Nguyên thiên tử đổi họ năm phen” là v́ từ khi Tiền Liêu xưng vương cho đến khi nhà Tống thống nhất Trung Hoa đă có năm triều đại kế tiếp nhau là Hậu Lương (do Châu Toàn Trung sáng lập), Hậu Đường (Lư Tồn Úc sáng lập), Hậu Tấn (Thạch Kính Đường sáng lập), Hậu Hán (Lưu Tri Viễn sáng lập) và Hậu Châu (Quách Oai sáng lập).
[39] Châu Toàn Trung (852-912) là vua sáng lập triều đại Hậu Lương (907-923). Vốn có tên là Châu Ôn, được vua Đường ban tên là Toàn Trung. Đến khi xưng đế, lại đổi tên thành Châu Hoảng. Châu Ôn quê quán ở Đăng Sơn, Tống Châu (nay là huyện Đăng Sơn, tỉnh Hà Bắc). Ông ta xuất thân từ một gia đ́nh Nho học, mồ côi cha từ nhỏ, mẹ phải đi ở cho nhà Lưu Sùng ở Túc Huyện. Ông ta có sức mạnh, tánh t́nh tàn bạo, thâm hiểm, khiến người làng rất khiếp sợ. Khi trưởng thành, theo Hoàng Sào làm phản, trở thành đại tướng quân, từng đánh vào kinh đô nhà Đường. Sau đấy lại phản Hoàng Sào, theo Tiết Độ Sứ Vương Trọng Vinh đánh lại Hoàng Sào, được Đường Hy Tông phong làm Kim Ngô Vệ Đại Tướng Quân, ban tên là Toàn Trung. Về sau, chính Châu Ôn đă đánh bại Hoàng Sào, dẹp tan dư đảng của hắn là Tần Tông Quyền, nên được vua phong làm Đông B́nh Vương, rồi Lương Vương. Khi ấy, nhà Đường chỉ c̣n hư vị, các tiết độ sứ nắm binh quyền, dấy loạn lung tung. Năm Thiên Phục nguyên niên (901), Đường Chiêu Tông bị hoạn quan Hàn Toàn Hối giam giữ, tể tướng Thôi Dẫn gọi Châu Ôn về cứu giá. Sau khi dẹp loạn và ḥa giải với các Tiết Độ Sứ có chức quyền thời ấy, họ Châu trở thành quyền thần bậc nhất trong triều. Sau khi giải toán lực lượng Thiên Sách Quân của nhà vua, Châu Ôn khống chế hoàng tộc, giết chết Thôi Dẫn, ép Chiêu Tông phải dời đô về Lạc Dương. Năm Khai B́nh nguyên niên (907), Châu Ôn phế Đường Ai Tông, tự xưng đế, lập ra nhà Hậu Lương, mở đầu thời Ngũ Đại.
[40] Trương Sĩ Thành (1321-1367) là một
tướng quân phiệt cuối đời Nguyên, đầu
đời Minh, người xứ Bạch Câu Trường,
Thái Châu (nay thuộc tỉnh Giang Tô), xuất thân là phu gánh muối.
Do bất măn với bọn quan đánh thuế muối nên tụ
tập đồ đảng làm loạn vào năm Chí Chánh
13 (1353), dần dần trở thành một tướng quân
phiệt có thế lực hùng mạnh, nhiều phen
đương đầu với Châu Nguyên Chương
(Minh Thái Tổ), cho đến khi nhà Minh bắt được,
đem treo cổ tại Ứng Thiên (Kim Lăng). Họ
Trương tính t́nh xa xỉ, kiêu căng, dâm dật, hiếu
sát, tàn nhẫn.
[41] Tù phương: Tướng lănh chỉ
huy của dân Liêu, Kim, hoặc Mông Cổ thường bị
người Tống gọi miệt thị là Tù
Phương (Tù phương có nghĩa là tay sai của các tù
trưởng. V́ đối với người Trung Hoa, vua
của các sắc dân ngoài biên ải chỉ được
coi là Tù Trưởng dù họ có xưng đế, xưng
vương như thế nào đi nữa). Ở đây, chữ
Tù Phương được dùng lẫn lộn với chữ
Tù Trưởng.
[42] Lưu Ly Vương (gọi đủ
là Tỳ Lưu Ly – Virudhaka), dịch nghĩa là Ác Sanh
Vương, con của vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) xứ Câu
Tát La (Kosala) và phu nhân Mạt Lợi (Mallika). Do quư kính đức
Phật, vua Ba Tư Nặc xin cầu hôn với ḍng họ
Thích Ca, nhưng hoàng tộc Thích Ca tự cho ḿnh là huyết
thống cao quư, không thể xen tạp với ḍng họ khác,
nhưng không thể không gả v́ thế lực của Ba Tư
Nặc quá mạnh. Cuối cùng, vương gia Ma Ha Nam gợi
ư đem Mạt Lợi là cô tỳ nữ xinh đẹp, thông
minh nhất của chính ḿnh, giả làm công chúa ḍng họ
Thích Ca, gả cho Ba Tư Nặc. Mạt Lợi sanh ra Tỳ
Lưu Ly. Khi Tỳ Lưu Ly tám tuổi, về quê ngoại
học bắn cung. Lúc bấy giờ, ḍng họ Thích vừa
xây xong một ngôi giảng đường để thỉnh
Như Lai và các vị thánh tăng đến cúng dường.
Tỳ Lưu Ly cùng năm trăm đứa trẻ vào giảng
đường, trèo lên ṭa sư tử chơi, bị họ
Thích mắng là “kẻ nô tỳ” và đuổi ra khỏi cửa.
Tỳ Lưu Ly vô cùng căm tức, lại được
đại thần Khổ Mẫu (Dīgha Chārāyana) xui xiểm,
nên đă thừa cơ đoạt ngôi vua cha khi Ba Tư Nặc
viễn du. Ba Tư Nặc chạy sang cầu viện A Xà
Thế giúp đỡ, nhưng bị bệnh chết trên đường
lưu vong. Nghe tin cha chết, Tỳ Lưu Ly liền đem
binh tiến đánh thành Ca Tỳ La Vệ (dù Phật Thích Ca
đă ba lần hiện thân khuyên can). Chiếm được
thành, Tỳ Lưu Ly tàn sát tận diệt ḍng họ Thích Ca,
máu chảy thành sông.
[43] Giếng trời (thiên tỉnh, courtyard):
Khoảng sân trống giữa các khu nhà xây quanh bốn phía, nhằm
mục đích tạo sự thoáng khí và lấy ánh sáng chiếu
vào nhà.
[44] Vào thời Đường, người
đỗ đầu kỳ thi Hương gọi là Giải
Nguyên, đến đời Tống gọi là Giải Đầu.
Từ thời Minh, Thanh, trở đi, những người
đỗ khoa thi Hương được gọi chung là
Cử Nhân, nhưng dân gian vẫn quen gọi là Hiếu Liêm.
Người đỗ đầu khoa thi Hương vẫn
gọi là Giải Nguyên như thời Đường.
[45] Quán Sát là một chức quan cầm
đầu quân sự tại một châu, gọi đủ
là Quán Sát Xử Trí Sứ.
[46] Cấp Gián là danh xưng gọi chung hai
chức vụ Cấp Sự Trung và Gián Nghị Đại
Phu.
[47] Thừa là một chức quan, là thuộc
cấp của Thái Úy. Đại Lư Tự là cơ quan chủ
quản tư pháp, chuyên quản trị những vụ kiện
tụng h́nh sự, được đặt ra dưới
thời Bắc Tề, đứng đầu là Đại
Lư Khanh, phó là Đại Lư Thiếu Khanh. Những nhân viên cấp
nhỏ hơn gọi là Đại Lư Thừa.
[48] Theo Châu Dịch Chỉ Yếu, Đồng
Nhân là quẻ thứ 13 trong sáu mươi bốn quẻ, có
tên đầy đủ là Thiên Hạ Đồng Nhân do hai
quẻ Càn và Ly ghép lại (trên Càn dưới Ly), hàm
nghĩa “thượng hạ đồng thuận”, tượng
trưng cho “trước gian nan, sau thuận lợi”. Câu nói
trên đây trích từ phần Tượng Truyện giải
thích về ư nghĩa của hào thứ năm trong quẻ
này.
[49] Châu Đ́nh Nho (1593-1644), tự là Ngọc
Thằng, hiệu Ấp Tề, người làng Nghi Thành,
huyện Nghi Hưng, tỉnh Giang Tô, làm đến chức
Đông Các Đại Học Sĩ dưới thời Sùng
Trinh. Ông ta thông minh, văn tài hoạt bát, được coi
là thần đồng, rất thông minh, mẫn tiệp, giỏi
đoán ư người khác, là lănh tụ của nhóm Phục
Xă, từng làm cố vấn thân tín của vua Sùng Trinh. Năm Sùng Trinh 16 (1643),
quân Thanh vượt quan ải tấn công Trung Nguyên, kinh
thành rúng động. Châu Đ́nh Nho vâng lệnh dẫn quân
ra ngoài thành đối địch, nhưng đóng ĺ tại
Thông Châu, không dám tiến lên, chỉ lo nhậu nhẹt, ca
hát cùng thuộc hạ, ngụy tạo chiến công, nên
được nhà Minh thăng lên làm Thái Sư cho đến
khi Cẩm Y Vệ Chỉ Huy Sứ Lạc Dưỡng Tánh
dâng sớ hạch tội, chân tướng mới lộ
ra. Vua cả giận bắt Châu Đ́nh Nho tự tử vào
năm Sùng Trinh 17 (1644); do vậy, những người khắc
in văn chương của Châu Đ́nh Nho trước
đó đều bị vạ lây.
[50] Cẩm Y Vệ là cơ quan đặc vụ
kiêm t́nh báo quân sự thời Minh, có tên gọi đầy
đủ là Cẩm Y Thân Quân Đô Chỉ Huy Sứ Ty. Tiền
thân của nó chính là Ngự Dụng Củng Vệ Ty
(được thành lập vào thời Minh Thái Tổ).
Cơ quan này trực tiếp nhận lệnh từ nhà vua,
có thể bắt cứ ai (chỉ trừ hoàng đế) kể
cả hoàng thân quốc thích, có thể xử tử không cần
xét xử công khai. Đồng thời nó có nhiệm vụ
thu thập tin tức t́nh báo quân sự.
[51] Ḥa Lâm là tên gọi tắt của Cáp Lạp
Ḥa Lâm (Karakorum), vốn là kinh đô cũ đế quốc
Mông Cổ, nhưng đến đời Thanh th́ đă trở
thành nơi hoang phế. Thành phố này nay nằm ở Tây Bắc
tỉnh Övörkhangai của Mông Cổ.
[52] Lô Tuần (?-411) thuộc một ḍng họ
lớn ở Phạm Dương (nay thuộc Hà Bắc) vào
thời Đông Tấn, là chồng của em gái Tôn Ân người
xứ Lang Tà (tỉnh Sơn Đông). Khi Tôn Ân chết trận,
Lô Tuần trở thành thủ lănh của đám quư tộc
vùng Lang Tà, có tham vọng lật đổ nhà Tấn, từng
hưng binh đánh chiếm nhiều phen, giết các thái thú
những châu huyện quan trọng. Lô Tuần từng nhiều
lần đánh xuống Quảng Đông, Hợp Phố,
Giao Châu, khiến nhà Tấn chao đảo, cho đến
khi bị Đỗ Huệ Độ đánh bại, phải
tự giết vợ con rồi nhảy xuống sông tự
sát.
[53] Thù là đơn vị trọng lượng thời cổ, một thù bằng 1/24 của một lượng. Áo lục thù chính là áo cơi trời, rất nhẹ, nói một cách ước lượng là lục thù (sáu thù), chứ sáu thù th́ vẫn c̣n nặng hơn áo cơi trời rất nhiều!
[54] Nội điển: Kinh sách nhà Phật.
[55] Thông Lănh chính là vùng cao nguyên
[56] Theo Trung Y Dược Điển, Hư
Thũng (Thủy Thũng) là một chứng bịnh do Thận
hư (Thận khí suy hụt), đến nỗi Hàn xâm nhập,
khiến cho cơ thể sưng phù v́ nước đọng
dưới da. Trước tiên là phù thũng ở bên ngoài,
rồi đến sưng to các nội tạng nên gọi là
Hư, nước tiểu có cặn trắng ánh xanh, thường
bị tiêu chảy, vẻ mặt tái xanh, mệt mỏi, tiếng
nói nhỏ yếu. Khi nặng, chất dịch dưới
da có thể biến thành mủ.
[57] Thúc Hướng tên thật là
Dương Thiệt Hật (Thúc Hướng là tên tự),
vốn là một chính trị gia lẫy lừng của
nước Tấn thời Xuân Thu. Ông làm quan khắp ba triều
vua Tấn Điệu Công, Tấn B́nh Công, Tấn Chiêu Công
và từng đạt được hiệp ước
liên minh quân sự với nước Sở. C̣n Tử Sản
(?-522 trước Công Nguyên), tên thật là Cơ Kiều, tự
là Tử Sản, c̣n có tên tự là Tử Mỹ, thường
được nước Trịnh gọi là Công Tôn Kiều
(v́ Tử Sản vốn là cháu nội của Trịnh
Văn Công, nên thay v́ gọi theo họ, người ta gọi
theo quan hệ với hoàng tộc thành họ Công Tôn), vốn
là một nhà tư tưởng và chính trị gia lỗi lạc
thời ấy. Ông làm Khanh Đại Phu (giống như Tể
Tướng) nước Trịnh, chấp chánh suốt hai
mươi ba năm
[58] Quả quân: Tiếng các quan đại
phu của các nước chư hầu gọi vua nước
ḿnh. Chữ Quả Quân ở đây chỉ vua nước Tấn.
[59] Truyền Thi là từ ngữ cổ
để gọi bệnh lao kết hạch ở phổi.
Truyện này trích từ phần Xí Thịnh Quang Chú trong bộ
Di Kiên Giáp Chí của Hồng Mại đời Tống.