Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng
Tụng
Quyển 2
觀世音菩薩本跡感應頌,
卷二
彭澤菩薩戒弟子許止淨述
Phần 2
Bành Trạch
Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh
soạn
Ấn
Quang Đại Sư giám định
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến và Huệ Trang
1. Lại
càng từ bi nh́n chúng sanh, tương lân, đồng bệnh.
2. V́ thế,
phóng quang gia tŕ b́nh nước, đủ dứt bệnh trầm
kha, ḷng Thành chiêu cảm suối thiêng, nhằm chữa hết
bệnh tật.
3. Kinh truyền Bồ Tát, sớm
tạo phước xứ Tây Hà. Tiên nhân giáng cơ, truyền
ḷng Từ nơi Đông Việt.
4. Ngọc Khê, Bành Lễ, tật
dịch chẳng phải di dân. Nhà họ Trần,
Phương, che chở chớ ngờ mộng bệnh.
5. Ông Du khuyên nên tin tưởng,
quyến thuộc đều hưởng tốt lành. Họ
Đàm hoằng dương kinh điển, lợi đẫm
người cùng chí hướng.
6. Thiên Thai tu sám, cứu
Vĩnh Dương Vương ngă ngựa lâm nguy. Bôi Độ
trở về, ấm ḷng Thiệu Tín buồn không ai hỏi.
7. Uông huynh thật hiếm có,
chợt thấy phẩy phất trần. Họ Lư
thương con thơ, sẻ ngậm châu linh ứng.
8. Tŕ kinh, vợ tiêu trừ nạn;
lễ khấn, chồng tăng tuổi trời.
9. Mở cửa cam lộ,
chúng sanh đều hưởng thanh lương. Ngự núi
Quang Minh, con thơ thảy chẳng yểu thọ.
10. Trị bằng đạo
thuật, thánh thần công xảo, há thể suy lường?
Uống thuốc Già Đà, hàn, nhiệt, khí, phong, bệnh ắt
khỏi hẳn.
11. Phải biết: Tấm ḷng
có thể cảm thông, đừng sầu lâm thời ắt
ứng (Đây là ca tụng sự cứu chữa
các bệnh, chữa lành các bệnh tật khác)
(1) Pháp Hoa Kinh: “Từ nhăn thị chúng sanh” (Mắt
từ nh́n chúng sanh). Ngũ Tử Tư nói: “Đồng bệnh tương lân, đồng
ưu tương cứu” (Cùng bệnh bèn thương
nhau, cùng nỗi lo bèn cứu nhau). Duy Ma Kinh: “Dĩ nhất thiết chúng sanh bệnh, thị cố
ngă bệnh” (Do hết thảy chúng sanh bệnh cho nên ta bệnh).
(2) Theo Thiện Nữ
Nhân Truyện, Lă Ngô Thị kiền thành thờ Quán Âm, tŕ chú
Đại Bi, gia tŕ b́nh nước, quán tưởng Đại
Sĩ phóng quang vào b́nh. Người bệnh uống nước
ấy phần nhiều được lành.
Theo bia tháp Bảo Quang
th́ sư Pháp Thông đời Đường muốn trùng tu
tháp cũ ở núi Cung Công, thầm niệm Quán Âm, không
ăn nhiều ngày, cảm suối thiêng phun ra, người
gù, kẻ bệnh uống vào liền hết sạch bệnh
tật.
(3) Theo Pháp Hoa Truyện
Kư, Hà Tây Vương là Thư Cừ Mông Tốn[1] quy y chánh pháp, mắc bệnh. Y Ba Lặc
Bồ Tát bảo Quán Thế Âm Bồ Tát có nhân duyên với
cơi này, dạy vua tụng phẩm Phổ Môn, [vua làm theo] liền
lành bệnh. Do vậy, cho khắc in riêng lưu hành phẩm
này ở Hà Tây, gọi là Quán Thế Âm Kinh. Xét ra, Cao Tăng
Truyện chép thêm rằng: Bồ Tát Địa Tŕ Kinh là do Y
Ba Lặc Bồ Tát truyền đến cơi này, nhưng [kinh
này] do ngài Đàm Vô Sấm[2] dịch, cho nên ngờ ngài Đàm Vô Sấm
chính là Y Ba Lặc Bồ Tát.
Trong Cao Vương Chứng
Nghiệm, Châu Trung Thừa nói: “Nhà
họ Tiết [cầu cơ] có tiên giáng đàn, nói: ‘Xứ
Lănh Nam có nhiều cướp biển, Châu Giang lại có
chuyện thuyền hoa[3], dâm dật,
tàn sát ngày càng thậm tệ, khiến ḷng trời nổi giận,
Phật sanh ḷng từ bi, sai ta khuyên dụ các chúng sanh, kiền
thành tụng Cao Vương Quán Âm Kinh một vạn biến,
sẽ giải được hắc nghiệp’. Do vậy,
khắc in, lưu hành, khiến cho kẻ thấy người
nghe đều vĩnh viễn đoạn dâm, sát”.
(4) Theo Cao Vương
Chứng Nghiệm, đời Thanh, Trương Tào Thị
người xứ Đồng Hương, nhà ở trấn
Ngọc Khê, kiền thành tụng Cao Vương Kinh. Hai
mươi mấy nhà cùng sống ở nơi đó đều
bắt chước làm theo. Chỉ có ḿnh nhà họ X... là
không tin Phật, c̣n cười nhạo. Năm Càn Long 20 (1755)
xảy ra trận dịch lớn, những nhà tụng kinh
đều không sao, c̣n cả nhà ông X... dậy không nổi.
Theo Bạch Y Kinh Cận
Nghiệm, tại khu Tây Hương mới xây dựng có
hơn một ngàn nhà họ Lư, bị dịch đậu mùa,
mười phần chết mất tám, chín, chỉ một
nhà b́nh an. Hỏi nguyên cớ, họ nói: “Trong nhà kiền
thành thờ Quán Âm Đại Sĩ, hứa thí tặng một
ngàn quyển kinh Bạch Y”. Do vậy, mọi người
đều bắt chước, có bị lên đậu
cũng không sao.
Theo Quán Âm Linh Nghiệm,
Vương Nhật Quang ở Cửu Giang đem Quán Âm Kinh
thờ trong khám, dâng cúng hương đèn. Khi ấy, ôn dịch
lan truyền, những nhà hàng xóm đều bị nhiễm
bệnh, riêng một nhà Nhật Quang vô sự. Mộng thấy
Đại Sĩ dạy: “Ta
thương xót đất này bị kiếp nạn,
ngươi hăy mau đem quyển kinh này thí tặng mỗi
nhà một quyển, ôn dịch sẽ tự trừ”. Tỉnh
giấc, bèn chia ra tặng, [người trong vùng] đều
sống sót chẳng thể tính kể được.
Sách Châu Lễ có câu: “Đại trát, tắc linh bang quốc
di dân” (Tật dịch khiến cho nước nhà phải
di dân). Chú thích: “Đại trát”
(大札) là tật dịch, “di dân” nhằm tránh né tai nạn.
Theo Hải Nam Nhất
Chước, Trần Thị ở Huy Châu mắc bệnh
nguy cấp, hứa thí tặng một ngàn quyển kinh Cao
Vương. Đêm ấy mộng thấy hai vị Tăng
hộ tŕ, c̣n nói: “Bà thành tâm thí kinh, bệnh sẽ được
lành”. Quả nhiên lành bệnh.
Lại nữa, mẹ
ông Phương Khải Thuần ở Phù Lương bị
bệnh bèn thí kinh, cũng nằm mộng thấy hai Tăng
nhân ủng hộ.
Theo Tả Truyện,
vua Tấn bị bệnh, nằm mộng thấy hai “thụ tử” (hai đứa
bé con)[4].
(5) Theo Nam Hải Từ
Hàng, vào đời Thanh, Du Nguyên ở Phủ Châu, cha bệnh
lao, mẹ bị bệnh khí chất chứa gây nghẹn, chính
ông Nguyên th́ bị choáng váng, hai mắt bị thương tổn,
vợ đẻ con nhưng chẳng nuôi được.
Trong niên hiệu Càn Long, ông ta bèn khuyên cả nhà phát tâm thờ
Đại Sĩ, thành kính, khiết tịnh tụng kinh, sám
lỗi, hướng lành. Thế rồi cha mẹ không uống
thuốc mà lành bệnh, mắt ông Nguyên lành lặn như
cũ, sanh được một đứa con. Mẹ ông
ta tám mươi tuổi bị bệnh ho ra máu. Ông Nguyên khóc
lóc cầu Đại Sĩ; bà mẹ mơ màng thấy một
bà cụ bảo: “Không sao cả! Ta bảo vệ
ngươi, chẳng mấy bữa sẽ lành”. Từ
đấy, thí kinh không ngớt.
Lại nữa, Đàm
Dụng Hàng ở Hành Dương thuở nhỏ lắm bệnh,
nhiều lần chết ngất. Do vậy, phát nguyện
biên tập Quán Âm kinh chú và các câu cách ngôn, các toa thuốc cấp
cứu thần diệu thành một quyển, mời những
người cùng chí hướng khắc in, lưu truyền
rộng răi. Những người trong hội [in sách ấy]
hoặc cầu có con nối ḍng, hoặc
cầu danh lợi, hoặc [cầu khỏi] tật bệnh,
tai nạn nguy hiểm. Phàm có khổ năo ǵ, đều
được giải thoát.
(6) Theo Cao
Tăng Truyện, tập Hai, vào đời Trần, do
Vĩnh Dương Vương
Bá Trí té ngựa sắp chết, ngài Thiên Thai Trí Giả bèn
đích thân lănh chúng tu tập Quán Âm sám pháp. Không lâu sau,
vương hơi tỉnh lại, ngồi tựa vào ghế,
thấy một vị Phạm tăng cầm ḷ xoay quanh vương
một ṿng, đột nhiên hết đau nhức.
Lại nữa, vào
đời Lưu Tống, Thiệu Tín ở huyện Ngô
Hưng, tu tập bị bệnh, không ai dám đến
thăm, bèn buồn khóc niệm Quán Âm. Chợt có một vị
tăng đến xưng là đệ tử của ngài Bôi
Độ[5], bảo: “Đừng buồn, gia sư
sắp đến thăm ông”. Sư Thiệu Tín nói: “Ngài Bôi
Độ đă mất, làm sao đến được?”
Tăng bảo: “Trở lại khó khăn chi?” rồi liền
dùng y trùm đầu [Thiệu Tín], lấy ra vị thuốc
Hợp Hứa Tán cho Thiệu Tín uống, liền khỏi bệnh.
(7) Theo Hưu Ninh Tân
Chí, Uông Cư Kính năm lên mười tuổi bị bệnh
đậu nguy ngập, thầy lang nói: “Không chữa
được!” Anh là Cư Nhân bèn đối trước
tượng Đại Sĩ, thắp hương, quỳ niệm
thánh hiệu. Cư Kính chợt thấy có người mặc
áo trắng cầm phất trần phẩy quanh thân ḿnh,
không thuốc thang mà bệnh lành.
Theo Quán Âm Linh Nghiệm
Kư, trong lời tựa của H́nh Bộ Chủ Sự Lư Ấn
Vạn có nói: “Đứa con
thơ của tôi mới sanh được sáu tháng, bị bịnh
đậu, nhưng đậu mọc ngược [vào
trong], không dậy được. Khi ấy, lũ chim sẻ
kêu cuồng lên, ta mộng thấy có người bảo: ‘Chim
sẻ báo tin vui, ngậm châu trao cho con của ngươi,
đừng lo nữa!’ Thức
dậy th́ đậu đă trổ toàn thân đứa con,
nên bèn chế tấm biển có bốn chữ Linh Ứng
Hàm Châu để nêu rơ sự gia hộ linh cảm”.
(8) Theo Cảm Ứng
Truyện, Trương Khánh đời Tống làm cai ngục,
quét dọn nhà giam sạch sẽ. Trong những tháng nắng
càng siêng năng [dọn dẹp], thức ăn, thức uống,
thuốc men, đồ trải nằm càng thêm sạch sẽ.
Ông thường tŕ kinh Pháp Hoa, hễ thấy tù nhân bị xử
tử ắt sẽ ăn chay, tụng kinh cho người ấy
một tháng. Vợ là Viên Thị, bị nhiễm bệnh dịch
chết, ba ngày sau sống lại, nói: “Thoạt đầu,
tôi tới một chỗ dơ bẩn, chợt thấy Bạch
Y Đại Sĩ bảo: ‘Chồng bà nhiều âm đức,
con cháu ắt hưng vượng, nay c̣n chưa có con nối
dơi’, bèn nắm tay tôi dẫn ra, tôi liền tỉnh lại”.
Lại nữa, Phan Loan
Pha ở Ngô Giang, thành kính tụng Cao Vương Kinh, vợ
là Vương Thị bị bệnh nguy ngập, chồng tụng
kinh ấy ngàn biến, vợ liền được lành bệnh.
Không lâu sau, bà ta bị sản hậu, do kiền thành cầu
nguyện mà được khỏi bệnh.
Theo Tŕ Nghiệm Kư, vợ
ông Đào Hành Phong là Tống Thị sùng phụng Đại
Sĩ, tụng tŕ nghiêm tịnh. Năm ông Hành Phong tám
mươi mốt tuổi bị bệnh nguy ngập. Bà Tống
ban đêm cầu đảo Đại Sĩ, nguyện giảm
tuổi thọ một kỷ để tăng thọ cho
chồng, bệnh liền lành, mười hai năm sau, Hành
Phong mới mất.
Theo Kính Tín Lục,
Đới Nhữ Quỳ bệnh nguy ngập, vợ là
Hoàng Thị đă thờ phụng Đại Sĩ từ
trước, bèn quỳ tụng Cao Vương Kinh và in biếu
một ngàn quyển, chồng được lành bệnh.
(9) Theo Tŕ Nghiệm Kư,
vợ ông Đào Hành Phong là Tống Thị, ngoài bảy
mươi mấy tuổi, vùng Giang Nam bị trận dịch
lớn. Tống Thị bệnh t́nh nguy ngập, hoảng hốt
ra khỏi cửa, thấy có người bảo:
“Ngươi đáng mắc tai kiếp này”. Bà Tống xin gặp
Đại Sĩ, liền được dẫn tới một
chỗ, bảo: “Đại Sĩ ở trong đó”. Bà Tống
liền thấy hai người mặc áo măo theo lối cổ,
bèn phủ phục, nghe vị ngồi bên trái nói: “Nếu bà
này mắc tai kiếp th́ c̣n ai có ḷng tin hướng thiện
nữa!” Liền bảo bà ta hăy trở về. Giật ḿnh
tỉnh giấc th́ đă hết bệnh, chỉ có
xương cổ là c̣n đau. Một đêm mộng thấy
có người cầm đồ đựng búp trà, bảo:
“Vâng theo lệnh Đại Sĩ, chữa xương cổ
cho nhà ngươi. Hăy uống thứ này sẽ lành bệnh”.
Uống vào thấy ngon ngọt, cổ liền lành.
Theo Từ Thị Đ́nh
Huấn, đời Minh, Từ Minh Phủ chăm học
siêng hành, lễ Đại Sĩ cực kiền thành, con là
Khoáng lúc bé mắc bệnh nguy ngập, vợ chồng sáng tối
lễ bái, cầu khẩn. Đến ngày thứ bảy, mộng
thấy Đại Sĩ bảo: “Đừng lo, ngày mai con
các ngươi sẽ ngồi dậy được”. Chợt
có âm thanh khiến cho cái kỷ thờ bị rung động,
những thứ vật cúng đặt trên đĩa đựng
trái cây đều rơi xuống đất, nhưng không bị
hư hỏng ǵ. Đứa con lẩm bẩm: “Bồ Tát cứu
con”. Vặn hỏi th́ nó nói: “Đang trong lúc con ngất
đi, Bồ Tát đến bảo: ‘Ta cứu ngươi’,
trao cho một lọ nước bảo uống. Vị
nước trong mát thấu tận xương, khắp thân
toát mồ hôi bèn lành bệnh”. Sau này, Khoáng đỗ Tiến
Sĩ dưới thời Vạn Lịch.
Theo Linh Nghiệm Kư, trong
niên hiệu Thuần Hy đời Tống, Tuần Kiểm[6] xứ
Nhiêu Châu là La Sanh tránh nạn lụt nên đến ở nhờ
nhà Vương Tú Tài. Có đứa tớ gái bị ḷa đă
lâu lại c̣n bị đau đớn, mộng thấy có vị
Tăng đem lọ nước cho uống, hai mắt sáng
lại. Hỏi: ‘Thầy là người ở đâu?’
Đáp: ‘Ta ở trong nhà ngươi đă lâu! Nghe
ngươi kêu khổ, ḷng thương xót nên cứu giúp’. Sáng
hôm sau, mắt người tớ gái sáng ngời, mà cũng
hết đau đớn. Kể lại duyên cớ, mẹ
ông Vương nói: “Đấy là Đại Sĩ! Nhà ta kính
thờ Ngài mấy năm, linh ứng như tiếng vang”.
Đời Tống, Thị
Lang Biên Tri Bạch đi đường bị cảm nắng,
mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ dùng nước
rửa, từ đảnh đầu tới gót chân mát
rượi; do vậy bèn soạn Cảm Ứng Tập.
Theo Đậu Liệu
Định Luận, đời Tống, các con ông
Vương Đán đều bị bịnh đậu chết,
đứa con út vừa sanh liền bị bệnh đậu.
Có người tiến cử thần y có thể chủng
ngừa bệnh đậu. Thần y là một bà cụ,
ngay từ bé đă trường trai niệm Phật, vân du
đến Nga Mi, có ba nữ đệ tử, họ bèn thay
mặt bà cụ chủng đậu cho con ông Đán, [nhờ
đó, con ông Đán tuy lên đậu nhưng] không sao cả.
Ông Đán bèn đem vàng, lụa tạ ơn, bà cụ nói:
“Ta là người tu hành, không cần những thứ này! Nếu
ông trong là khen ngợi đức hạnh của chủ, ngoài
là làm gương cho đồng liêu, giữ ǵn bờ cơi khiến
đạt đến thái b́nh th́ ta chịu ơn ông nhiều
lắm”. Bà cụ bèn trở về Nga Mi. Sau đấy, bà cụ
nói với ba người đệ tử: “Ta là từ bi Quán Thế Âm, nhằm chăm nom cho trẻ
thơ trong thiên hạ không bị chết yểu, nên truyền
dạy pháp để hóa độ”. Xét ra, núi Nga My theo tương
truyền chính là Quang Minh Sơn trong kinh Hoa Nghiêm.
Theo Nam Hải Từ
Hàng, Hồ Đức Xương kính phụng Tam Bảo từ
trước, hiếu thảo với cha mẹ, phóng sanh, nằm
mộng thấy thần ban cho đứa con họ Đào,
nên đặt tên cho con là Kế Đào. Đứa con bị
bệnh đậu đă nguy ngập, [vợ chồng ông Hồ]
ấn tống Quán Âm Kinh một ngàn quyển, con liền lành
bệnh.
Theo Quán Âm Linh Nghiệm
Kư, vào đời Thanh, Dương Bái Luân, trong niên hiệu Càn
Long, đứa con bị bệnh đậu nguy ngập. Bà
vợ thắp hương, tụng kinh, tiếp đó khóc
lóc, mộng thấy bà cụ áo trắng vào pḥng vén màn, tay
trái cầm cái thưng, tay phải cầm cái chổi nhỏ,
hướng về phía đầu, mặt, ngực, bụng
đứa con, quét đậu vào thưng. Quét xong, bảo: “Đứa
nhỏ không c̣n đáng lo nữa”, bà Dương bèn ngủ
thiếp đi. Đứa con liền khỏi bệnh đậu.
Theo Kính Tín Lục,
Đới Nhữ Quỳ, vợ là Hoàng Thị, con lên đậu
gần chết, đích thân thấy Đại Sĩ thổi
hơi vào thóp (mỏ ác) ba lượt, bệnh liền nhẹ
đi rồi lành hẳn.
Theo Cao Vương Chứng
Nghiệm, trong niên hiệu Càn Long nhà Thanh, con ông Lư Thái lên
đậu, sắp nguy hiểm tới tánh mạng, ông bèn cực
lực cầu đảo Đại Sĩ, nguyện thí một
trăm quyển kinh, con liền được sống sót.
Theo Nam Hải Từ
Hàng, hai đứa con quan Ngự Sử Châu Hoa Khanh đều
bị bệnh đậu nguy ngập. Ông bà nội đau
đớn khóc lóc, bảo nếu cháu chết sẽ chết
theo. Đến đêm, ông Châu mộng thấy một vị
Tăng bảo: “In tặng một tạng kinh Quán Âm sẽ
bảo đảm không sao!” Liền phát thệ sửa lỗi,
làm lành, khắc kinh in tặng, cả hai cháu đều khỏi
bệnh đậu, về sau cùng đỗ đạt.
Con gái bé của ông
Chương Tông Triều ở Cối Kê bị mắc bệnh
đậu đă tới lúc nguy ngập, lập đàn tụng
Đại Bi Chú mấy ngàn lượt, bé không sao cả.
(10) Sách Ngụy Tử[7] có
câu: “Đợi Biển Thước[8] đến
trị bệnh, suốt đời chẳng lành. Dùng đạo
thuật th́ không ǵ chẳng trị được”. Theo Nạn Kinh[9], nh́n mà biết th́ gọi là Thần, nghe
mà biết th́ gọi là Thánh, hỏi mà biết th́ gọi là
Công, chẩn mạch mà biết th́ gọi là Xảo.
Theo Quán Âm Kinh Linh Nghiệm,
trong thời Thuận Trị nhà Thanh, Châu Sĩ Nguyên bị
bệnh nguy cấp, mộng thấy một vị Tăng cầm
quyển sách chỉ dạy: “Đây
là chân kinh của Bạch Y Đại Sĩ. Nếu kiền
thành tụng sẽ trừ được bệnh. Nếu
khắc in lại càng tăng tuổi thọ”. Liền cho
khắc in biếu tặng rộng răi, bệnh lập tức
lành.
Đời Thanh, ông Phố
X... nhiễm bệnh thời khí sắp nguy đến tánh mạng,
hứa in bốn trăm quyển Quán Âm Kinh, ngày hôm sau lành bệnh.
Vợ ông Cừu Tấn
là Mậu Thị, sau khi có thai, mộng thấy đến một
nơi, trên đầu cửa đề “Hồng Y Thất”.
Bên trong treo quần áo bằng giấy đỏ và một cỗ
quan tài trống. Người bên cạnh bảo: “Những
thứ này dành cho sản phụ”, bà Mậu hoảng sợ
tỉnh dậy, bèn in tặng một ngàn quyển Quán Âm
Kinh. Về sau, sanh con gái b́nh yên, tốt lành, ông Tấn càng
thêm tin tưởng, ngưỡng mộ.
Theo Bạch Y Kinh Ứng
Nghiệm, trong niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, con dâu ông Uông Phác
Trai là Trần Thị bị sản hậu băng huyết,
t́nh thế rất nguy ngập; do nhà nghèo, bèn hứa in Bạch
Y Kinh, Cao Vương Kinh mỗi thứ một trăm quyển,
liền lành bệnh.
Tạ Trọng Hoa tuổi
đă già chỉ có một gái, nó bị nhiễm bệnh dịch
rất nguy ngập. Ông Tạ cầu đảo Đại
Sĩ, in tặng một ngàn quyển Quán Âm Kinh, con gái lành bệnh
ngay trong hôm ấy.
Theo Kính Tín Lục, vào
đời Thanh, Ngô Thiện Đường ở Hưu
Ninh trong niên hiệu Càn Long bị bệnh nằm li b́, thầy
thuốc đều từ chối không chữa được.
Trong lúc mê mệt, vẫn thầm cầu nguyện Đại
Sĩ, hứa in tặng Cao Vương Kinh một tạng,
bệnh liền giảm. Thầy thuốc đến khám bệnh
nói: “Bệnh chuyển biến rồi”, ông lành bệnh mau
chóng.
Thái Thú đất
Tương Dương là Trương Dung bị bệnh
hàn, bủn rủn không dậy được, lập nguyện
tụng Cao Vương Kinh trong một thời gian dài, liền
lành bệnh.
Cấp Gián Trần
Trung Phù làm quan coi thi ở Điền
Vào niên hiện Càn Long
đời Thanh, Hà Thế Kiệt ở Sơn Âm bị
trúng độc, bà mẹ hứa tụng một ngàn biến
Cao Vương Kinh, in một ngàn hai trăm quyển, mấy
ngày sau, bệnh cũ dây dưa hoàn toàn khỏi hẳn.
Uông Trân Bính ở An Huy
bệnh đă lâu không lành, kiền thành phát tâm tặng
năm trăm quyển Cao Vương Kinh, liền lành.
Vào đời Thanh, Thí
Đ́nh Phương ở Lâu Huyện, trong niên hiệu Càn
Long mắc bệnh, mỗi đêm lúc đi ngủ, ngực
đau không thể ngủ được. Hứa tụng
Cao Vương Kinh một tạng, biếu tặng một
ngàn quyển, liền hết bệnh.
Tŕnh Nghi Hiến ở
Thái Cốc mắc bệnh thương hàn đă hơn hai
tháng, bỗng nhiên bị thêm thủy tả[10], đă ba lần bị tắt hơi.
Người nhà thay ông ta lạy Đại Sĩ, hứa in
một ngàn quyển Quán Âm Kinh, chưa đầy một hôm
đă khỏi.
Ngô Thủ Phương
ở Thái Hưng bị bệnh máu, phát tâm vẽ tượng
Đại Sĩ, in một ngàn hai trăm quyển Bạch
Y Thần Chú, liền khỏi bệnh.
Theo Giản Nam Cư
Sĩ Tự Kư, trong đời Thanh, dưới triều
vua Càn Long, vợ ông Giản bệnh nguy cấp, thuốc
men vô hiệu. Ông bèn v́ vợ tụng Cao Vương Kinh và
nguyện in kinh lưu truyền trong cơi đời, bệnh
giảm nhanh chóng.
Đời Thanh, vào
năm Đạo Quang thứ ba
(1823), ông Phó Húc Giai ở Lâm Xuyên bị bỏng v́ thuốc nổ,
thuốc thang không chữa được, bèn phát tâm ăn
chay, tụng Cao Vương Kinh, trong một tháng liền dần
dần khỏi bệnh. Cháu nội ông ta ngă bệnh, chẳng
biết là bệnh ở chỗ nào, bèn cầu đảo
Đại Sĩ, mới biết là chân nổi nhọt đầu
đinh, đắp thuốc liền lành.
Trương Học Tảo
ở Lâm Xuyên, tự chép: “Con
gái tôi lên đậu, thổ tả (ói mửa, tiêu chảy) không
ngừng, tánh mạng đếm từng hơi thở. Mẹ
nó bèn quỳ cầu nguyện Đại Sĩ, tụng chú
Quán Âm, và hứa in một trăm bộ Quán Âm Kinh. Ngày hôm
sau liền lành bệnh”.
Trương Chánh Tâm
năm hai mươi tuổi, nổi ung nhọt lạ, tính
mạng mất c̣n trong sớm tối, bèn phát tâm làm lành, kiền
thành tụng Cao Vương Kinh một ngàn biến, được
lành bệnh, thọ chín mươi sáu tuổi.
Càn Đột bị bệnh
thủy thũng[11], chữa trị trăm cách vô hiệu,
muốn tŕ Cao Vương Kinh nhưng bệnh nặng quá
không thể đọc được. Đêm mộng thấy
Đại Sĩ bảo: “Chẳng
đọc được th́ in tặng, công đức
cũng chẳng nhỏ”. Ngày hôm sau liền hứa nguyện,
chưa được một tháng đă hết bệnh.
Ông Phố X... trong đời
Thanh do vợ sanh nở lâm nguy, thệ nguyện in năm
trăm quyển Quán Âm Kinh, mẹ con b́nh yên. Bản in ấy
c̣n giữ tại miếu Huyền Đế[12] ở trấn Tân Hưng.
Theo Trầm Đỉnh
Nam Hải Kư, vợ góa ông X... ở Đông Việt ăn
chay, niệm Phật, ham làm lành, thích bố thí. Con dâu sanh nở
khó khăn, Đại Sĩ hiện thân lăo ni, trao cho phù chú,
chẳng những dễ sanh mà c̣n chuyển nữ thành nam,
nhưng Bồ Tát răn kiêng thịt những loài trâu, chó,
cá chạch, tôm, ếch, chim chóc v.v... và thường niệm
Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quán Tự Tại Vương Phật,
hoặc Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ
Tát. Lại dặn: “Phù chú này chẳng
chỉ trị sản phụ [sanh khó] mà c̣n trị
được hết thảy ác chứng. Phàm những loại
bệnh chứng kỳ quái, hăy viết phù chú này, dùng mộc
hương, thù du, hết thảy loại nước
thơm để nuốt, th́ không ǵ chẳng được
lành”. Năm ấy, con dâu sanh, mẹ con vuông tṛn. Đem truyền
[phù chú] cho mọi người đều ứng nghiệm.
Theo sách Dậu
Dương Tạp Trở, đời Đường, tại
chùa Vân Hoa ở Trường An có Quán Âm Đường. Cuối
niên hiệu Đại Trung, Khuất Nham bị ghẻ
độc, chết ngất, mộng thấy Bồ Tát xoa
lên chỗ ghẻ bảo: “Ta ở Vân Hoa Tự”. Ông Nham giật
ḿnh tỉnh dậy, vết ghẻ đă lành. Đến
chùa thấy tượng Đại Sĩ giống hệt
như chính ḿnh đă thấy [trong giấc mộng].
Theo Khuyến Giới
Loại Sao, trong niên hiệu Khang Hy nhà Thanh, Tưởng Thị
ở Ngô Môn bị ung loét ở eo, chết ngất một
đêm, bỗng thấy một bà cụ nói: “Ngươi hăy
kiền thành tụng chú Bạch Y Đại Sĩ một vạn
hai ngàn biến, khắc in, đem thí rộng răi, bệnh sẽ
lành”. Họ Tưởng lạy vâng lời, tỉnh giấc,
bèn kiền thành tụng đủ số, liền lành bệnh.
Theo Kính Tín Lục,
Vương Trác Nhiên làm quan vơ đứng đầu xứ
Thuần Hóa, bị bệnh bao tử đă bốn năm. Hằng
ngày, ông Vương tụng Cao Vương Kinh và in tặng
một ngàn quyển, bèn ói ra hơn một đấu huyết
đă tích tụ rồi lành bệnh.
Tống Bang Bảo ở
Việt Tây bị bệnh trĩ, in tặng Cao Vương
Kinh năm trăm quyển, liền hết bệnh trĩ.
Vợ ông Hầu Thuần
Hiếu ở Phần Dương bị mất trí đă
hai năm. Chính ông ta lại bị bệnh mắt, cầu
đảo Đại Sĩ, hứa in một trăm cuốn
Quán Âm Kinh, hai vợ chồng đều lành.
Theo Báo Ứng Lục,
đời Đường, Ngô X... làm lính đi đánh dân
thiểu số, nấu con rùa trắng ăn, bị mọc
ghẻ lở loét, rụng lông mày, ngón chân, ngón tay đều
rụng, đi ăn xin ở chợ An Nam. Có vị Tăng
bảo: “Nếu ngươi niệm Quán Âm Đại Bi Chân
Ngôn ắt sẽ được thiện báo” rồi truyền
dạy [chú Đại Bi]. Người lính ấy nhất tâm
niệm tụng, vết thương dần dần lành,
ngón chân, ngón tay lại mọc ra, bèn [xuất gia] làm tăng,
hiệu là Trí Ích. A Già Đà (Agada) là tên một món thuốc ở
phương Tây có thể trị hết thảy bệnh.
Sách Quốc Sử chép
thêm rằng: Vương Ngạn Bá tự khoe y thuật rất
giỏi, bày ba bốn cái ḷ, nấu thuốc khắp sân, già
trẻ đứng chật cổng để thỉnh. Ngạn
Bá chỉ trỏ: “Người bệnh nhiệt uống loại
này, người bệnh hàn uống loại kia, người
bệnh phong uống loại đó, người bệnh khí
uống loại nọ”, không ǵ chẳng hiệu nghiệm.
Theo Bạch Y Kinh Ứng
Nghiệm, vợ ông Tôn Lâm ở Trường Sa bị sản
nạn, sanh con phần nhiều không nuôi được, kiền
thành tụng Bạch Y Kinh. Về sau, trong đêm lâm bồn,
mộng thấy Đại Sĩ trao cho viên thuốc hồng
bảo nuốt, nói: “Khỏi tai ách sanh nở, mẹ con
đều yên ổn”. Liền khắc kinh để rộng
thí.
Theo Linh Nghiệm Kư, vào
đời Tống, tượng Đại Sĩ ở chùa
An Quốc tại Nhiêu Châu linh thiêng nhất. Trong niên hiệu
Khánh Nguyên, vợ ông Hứa Hồi là Tôn Thị mắc sản
nạn, thầm cầu đảo Quán Âm, sai con đem một
chén dầu thắp đèn [trước tượng ấy].
Trưởng lăo Liễu Bái chúc: “Nhà bà vững như tường,
dầu tuy ít nhưng tâm chí thành, mong Đại Sĩ từ
bi xót thương”. Chúc xong, do mệt mỏi bà Tôn đi nằm,
mộng thấy một phụ nữ khoác áo lông trắng ôm
một con rồng gỗ sắc vàng trao cho, liền sanh ra
con trai, đặt tên là Long.
Theo Tây Phương Công
Cứ, cư sĩ Vương Nhật Hưu đời Tống
mượn bản kinh Di Đà chép tay từ chùa Kim Sơn,
muốn giảo chánh, khắc ván theo bản đó để
lưu truyền rộng răi. Ngón tay bên phải chợt rung,
viết chữ bất tiện, bèn giơ ngón tay niệm A
Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu xin hết
bệnh phong ḥng thành tựu tâm nguyện. Cầu nguyện
xong, ngón tay liền không rung nữa, liền ngộ Phật,
Bồ Tát ở ngay trước mắt, chỉ v́ ḷng tin của
người đời không chân thật mà thôi!
(11) Trong lời tựa
cho bộ Nam Hải Từ Hàng, Trữ Cảnh Hiền viết:
“Hiền trước đây
thường nghĩ tụng kinh được phước
là chuyện bịa. Cưới vợ tám năm, không sanh nở.
Bố vợ bảo in kinh Quán Âm, tŕ Quán Âm Trai thường
được ứng nghiệm rơ rệt. Vợ tôi vâng lời
làm theo, nằm mộng thấy điềm lành. Lúc sắp
sanh, lại mộng thấy có bà cụ trao cho đứa
con, bèn đặt tên cho nó là Tích. Đến khi sanh, do phù hợp
với giấc mộng, bèn đặt tên như vậy, tôi
vẫn cười cợt, chẳng tin. Về sau trong khi bệnh
tật nguy nan, thường thấy sự linh dị, nên nửa
tin nửa ngờ.
Sau đấy, đứa con thứ bị bệnh thổ
tả, không có cơ hội sống sót, tôi đau xót cầu
đảo Đại Sĩ, thề biên tập bộ Nam Hải
Từ Hàng, sửa lỗi, làm lành. Vừa mới cầu
đảo, bệnh thổ tả dứt ngay lập tức,
con có thể bú sữa được. Lạ nhất
là vợ tôi vốn thiếu sữa, lại thêm lo lắng
v́ con bệnh, bỏ ăn bỏ ngủ mấy ngày, sữa
không có được nửa giọt. Sau khi cầu đảo,
sữa chợt vọt ra. Tôi tự nghĩ ḿnh đức bạc,
rốt cuộc là do mang ư niệm khuyến hóa rộng răi
nên Đại Sĩ động ḷng xót thương. Tụng
kinh được phước, rành rành chẳng dối! Do
vậy, bèn ghi lại để tŕnh lên độc giả”.
Con ông Từ Lai Thái ở
Đô Xương bị bệnh ngặt nghèo, có người
khuyên hăy tụng Quán Âm Kinh, ông Từ bảo: “Thường
ngày chưa thể tích lũy âm đức rộng răi, đến
lúc ngặt mới cầu Phật, làm sao ứng được?”
Tiếp đó, do người ấy vẫn cực lực
khuyên nhủ, bèn phát nguyện suốt đời tŕ tụng,
in kinh một ngàn quyển, con dần dần lành bệnh.
1. Chắc v́ bệnh chưa
đến nỗi chết, chỉ đành sót tiếng gièm
chê căn khuyết, nhưng chưa khỏi tự tổn
thương, tàn phế, ắt phải nuôi dưỡng con người.
2. Tụng câu kệ của Xử
Thao, mắt lại được sáng; truyền già-đà nơi
Hoài Điện, chân lại vững vàng.
3. Truyền nuốt mắt dê,
liền chiêm ngưỡng đóa sen tươi. Tự đếm
hoa tay, thỏa ḷng già khi xế bóng.
4. Mở am Tồn Tế, ghi
chuyện linh ứng Dương Châu. Tăng hiệu Bán
Nhai, bàn luận măi sự hay Sơn Tả.
5. Thần cao tục đoạn,
kham chữa tổn thương do thầy thuốc gây nên.
Cam lộ chạm mắt, cứu chữa nạn tai do quỷ
sứ trừng phạt.
6. Thị dân găy chân, may
được truyền cách chữa lành xương. Cụ
Hạ đứt tay, ư nghĩa kiếm Hàm Quang chợt hiểu.
7. Nước suối Triều
Âm, được mang hiệu Quang Minh. Nhật tinh ma-ni, thuận
ḷng người quán tưởng.
8. Than ôi! Chín lần găy, thành
nghề y, vẫn thiếu tài y thuật Hoa Đà. Nhất
tâm xưng niệm tên ta, may mắn c̣n lưu danh Huệ Tập.
9. Tuy ḷa điếc, què quặt,
túc nghiệp vốn đă nặng sâu, nhưng diệt ác, thỏa
cầu, bi tâm đáng nơi nương cậy.
10. Cẩn thận, đừng
trả bài cho xong chuyện, oán kinh chẳng linh, lại chẳng
ngă mạn, kiêu căng, lâm nguy bất biến.
Đấy là sự cứu khổ thứ sáu của Đại
Sĩ vậy (Đoạn này kiêm ca tụng cả sự
chữa lành cho người bị bệnh tật tàn phế).
(1) Sách Tả Truyện
có câu: “Bệnh vị cập tử,
ngô tử miễn chi” (Bệnh chưa đến chết
th́ ta c̣n phải cố gắng). Văng Sanh Luận: “Cơi thiện căn Đại Thừa,
trọn không tên gièm báng, nữ nhân và căn khuyết, giống
Nhị Thừa chẳng sanh”.
Lễ Kư: “Kẻ bệnh tật tàn phế
không được nuôi dưỡng là do một người
(tức hoàng đế) chẳng noi theo lẽ chánh”.
Quản Tử: “Nước nào cũng đều
nuôi người tàn tật. Điếc, mù, câm, ngọng, thọt
chân, khô đét là những kẻ chẳng thể tự sống
th́ nhà cầm quyền sẽ nhận về, nuôi dưỡng.
Bộ Hộ ra lệnh: một là mù mắt, hai là tai điếc,
thiếu ngón, bị phù thũng th́ là tàn tật; c̣n những
kẻ si khờ, câm, mất một chi là phế tật”.
(2) Theo sách Đồ
Thuyết, Tăng Xử Thao người Thai Châu, mắc bệnh
mắt, thường tụng chú Đại Bi, mộng thấy
Đại Sĩ truyền dạy bài kệ, mỗi sáng lấy
một chén nước sạch, niệm bảy biến [rồi
dùng nước ấy] để rửa mắt, không ai chẳng
được lành. Kệ rằng: “Cứu khổ Quán Thế Âm, cho con đại an lạc,
và ban đại phương tiện, diệt trừ ngu si
ám, Hiền kiếp các chướng ngại, các tội ác vô
minh, ra khỏi nhà tăm tối, khiến con thấy ánh sáng.
Tôi nay nói cách rửa, sám hối, gỡ tội mắt, khắp
phóng quang minh sạch, nguyện thấy tướng vi diệu”.
[Bài kệ này được] truyền tụng, [những
người làm theo] phần nhiều đều linh nghiệm.
Theo Thiện Dư
Đường Bút Thừa, đời Tống,
Trương Hiếu Thuần có đứa cháu nội
năm tuổi không đi được, nghe có người
kể chuyện một nông phu ở Hoài Điện có tật
ở chân đă lâu, chỉ tŕ danh hiệu Quán Âm cảm
được Đại Sĩ dạy bốn câu kệ: “Đại trí phát từ tâm, trong
tâm vô sở ngại, thành tựu nhất thiết nghĩa,
không xưa cũng chẳng nay”. Nông phu tụng bài kệ
này một trăm ngày bèn lành bệnh. Hiếu Thuần liền
dạy cháu nội và nhũ mẫu hăy trai giới tŕ tụng.
Quả nhiên, ba tháng sau, cháu bước đi như thường.
Phàm trẻ nhỏ bị bệnh nơi chân, hễ tụng
bài kệ ấy đều lành.
Theo Tăng Bảo Truyện,
sư Tự Nghiêm đời Tống do có một sa-di tánh
t́nh cẩn thận nhưng ngu độn, liền viết bốn
câu kệ này bảo [sa-di] hăy tụng. Thế là đối
với câu chữ thế gian, chú sa-di ấy đều có thể
nói được. Tự Nghiêm c̣n có hiệu là Bạch Y Bồ
Tát; do vậy biết bốn câu kệ này chẳng phải
chỉ trị lành bệnh chân mà c̣n có thể tăng trí huệ.
(3) Theo Duyện Châu Chí, đời Trần, Dương
Sanh Hoa ở Ích Tu do thấy bọn Hồi Hồi muốn
phá miếu Quan Đế để vun vén cho Thanh Chân Tự[13] của
bọn chúng, bèn đi thưa, khiến cho việc ấy phải
đ́nh lại. Về sau, gặp lúc giặc khởi loạn,
Sanh Hoa bị chết giữa đường, lại c̣n bị
khoét hai mắt. Hồn thấy Quan Đế an ủi rằng:
“Ta vốn chẳng ở nơi miếu ấy, hiềm rằng
ngươi do hảo tâm mà mất mạng, ta sẽ thỉnh
Quán Âm Đại Sĩ đến ban mắt cho ngươi”.
Liền bay lên không trung, nh́n lại, thấy Đại
Sĩ mặc áo trắng, trọn đủ tướng hảo
vô cùng. Quan Đế thay Hoa Sanh xin Bồ Tát hăy ban cho mắt.
Đại Sĩ liền hướng trên không hô một tiếng,
liền thấy đồng tử xách giỏ đậy bằng
hoa sen tới. Mở ra th́ thấy toàn là tṛng mắt dê. Bồ
Tát bèn nhặt lấy hai tṛng, ban cho, bảo nuốt. Hai mắt
sáng lại. Quan Đế bảo: “Không lâu nữa đại
binh sẽ kéo tới, đối với bọn này th́ không
ǵ có thể sống sót được. Sau năm tới,
ngươi sẽ được tin chiến thắng”, bèn
tỉnh lại. Quả nhiên về sau đều ứng
nghiệm.
Theo Tŕ Nghiệm Kư, Đinh
Truyền người đời Thanh cho biết: “Bà nội hai mắt mất ánh
sáng đă hai mươi năm, vào thời Càn Long, ngẫu
nhiên bảo tôi: ‘Chỉ mong mắt thấy được một
tấc ánh sáng th́ ư nguyện tuổi bóng dâu xế chiều
đă được thỏa’. Truyền thưa: ‘Chuyên tụng
thánh hiệu Quán Âm th́ mắt sẽ sáng lại’. Đấy
cũng là lời an ủi nỗi u uất của cụ mà
thôi. Bà nội tin là thật, ngày đêm niệm tụng không
ngớt. Chưa đầy một tháng, một mắt chợt
sáng, tự đếm được hoa tay. Lại bảo
người nhà họp lại cho cụ nh́n, bảo khi vợ
của hai đứa cháu nội được cưới
về, cụ trọn chẳng biết mặt, nay cũng
thấy mặt đứa chắt, nếu không nhờ Phật
lực sẽ chẳng thể nào được như vậy.
Do vậy, tôi ghi thêm chuyện này sau sách Tây Phương Công
Cứ để giúp chứng tín”.
(4) Theo Giác Thế Kinh
Thuyết Chứng, ở Dương Châu có một người
bại liệt đă mấy chục năm. Một hôm, ṃ
được một tượng Quán Âm bằng sành trong
ao, đem thờ trong nhà, lễ bái suốt năm năm, mộng
thấy một bà cụ xoa bóp thân thể, bảo hăy đứng
dậy. Người ấy thưa: “Con làm sao đứng dậy
được?” Bà cụ bảo: “Nay có thể đi được
rồi đấy!” Lúc tỉnh giấc bèn đi đứng
như thường. Mẹ quan huyện lệnh Giang Đô
bèn tặng tiền xây cất Tồn Tế Am, hiện
đang thờ tượng Đại Sĩ trong ấy.
Theo Kỷ Cầu
Thư, trong niên hiệu Sùng Trinh đời Minh, trên
đường có một người bại liệt xứ
Sơn Đông ăn mày ở chợ, tánh khá nóng nảy.
Sư Thủy Cốc khuyên ông ta xuất gia, ông ta bèn ăn
chay. Nếu có ai chửi bới, ông ta đều yên lặng
nhịn chịu. Ngài Thủy Cốc lại dạy ông ta niệm
thánh hiệu Đại Sĩ và chú Chuẩn Đề. Thọ
tŕ hai năm, mộng thấy một bà cụ hô “đứng
dậy” và túm lấy hai chân ông ta, chân liền thẳng ra,
không quặp nữa. Sáng dậy, nghiễm nhiên là một vị
Đầu Đà đĩnh đạc, hiệu là Bán Nhai.
(5) Theo Hải Nam Nhất
Chước, mẹ ông Đới Hồng Trạch ở Vụ
Nguyên lễ kính Đại Sĩ, thường chế cao cứu
khổ để tặng cho người khác. Trong niên hiệu
Đạo Quang, đứa cháu họ bên nội lên đậu,
bị biến chứng, mắt trái đă ḷa. Mẹ nó mộng
thấy một bà lăo, bảo: “Ta
là Quán Âm ở tại nhà Hồng Trạch đă ba năm. Ngươi
hăy nên qua đấy xin thần cao, dán vào huyệt Thái
Dương bên trái”. Bà mẹ tỉnh giấc, đi ngay. Thầy
thuốc chê là chuyện bịa đặt, dùng lửa
đèn để trị con mắt ḷa [của đứa
bé], đến nỗi tṛng mắt nó lọt ra, chỉ c̣n
dính những sợi gân nên chưa rớt hẳn, [thầy
thuốc] bèn trốn mất. Mẹ nó cầu khẩn Đại
Sĩ, niệm Tâm Kinh hai ngàn biến rồi dán thuốc cao,
tṛng mắt trái từ từ thụt vào, mắt ḷa lại
được sáng, bệnh đậu cũng lành.
Đời Minh,
Vương Lập Cốc tự ghi lại bài kư về chuyện
sống lại như sau: “Tôi mộng
thấy cha tôi là quan Trung Thừa [Vương] Sĩ Tánh
khuyên: ‘Trong mười năm, ngươi phải chết
năm lượt, hăy nên vun trồng đức để
diệt tai nạn’. Do vậy, lập thệ ăn chay, tŕ
giới kiêng giết, trộm, dâm, dối. Về sau, làm huyện
lệnh Tân Cam, bèn thôi không giữ những điều ấy.
Sau đấy, tôi lên miền Bắc chầu vua, một
đêm, đang ngồi thuyền, bị người áo xanh
bắt đi. Vua cơi âm quở mắng: ‘Mạng ngươi
kể như đă hết từ lâu, được kéo dài đến
nay là nhờ vào sức trai giới, cớ sao lại bỏ?’
Vua sai tống tôi vào ngục. Người ngồi bên trái xin
vua hăy xét sổ sách ghi chép những chuyện tôi đă làm sau
khi phá giới, th́ chuyện của mỗi ngày đều
được ghi rơ trong từng thẻ riêng, và những giấy
tờ tôi ngẫu nhiên viết lách cũng đều giữ
đủ cả. Trên mỗi thứ đều có hơi bốc
lên ngùn ngụt, xanh, trắng, đỏ, đen khác nhau. [Các
viên nha lại trong cơi âm] bèn dựa theo màu sắc để
kiểm th́ với sắc đỏ, rực rỡ nhất
là đă khắc Kim Cang Kinh, Hiếu Sanh Thiên. Vẻ mặt
vua hơi dịu đi, phán: ‘Có thể
giữ nguyên tánh mạng, nhưng phải khoét mắt để
trừng phạt’, bèn sai người khoét mắt, rồi tôi
tỉnh lại, thấy người nhà vây quanh khóc lóc, bảo
đă đổ thuốc bảy lượt rồi. Đêm
hôm ấy, lại mộng thấy quỷ đóng đinh vào
mắt, liền ḷa. Do vậy, bèn bỏ nhà, tu Tịnh nghiệp,
lễ sám ở U Khê, mộng thấy Đại Sĩ dùng
cành dương rẩy cam lộ vào mắt. Sáng dậy, hai
mắt sáng lại, sống được mười hai
năm nữa, hiệu là Bích Như”.
(6) Theo Nam Hải Từ
Hàng, một thị dân[14] tụng Quán Âm Kinh hết sức kiền
thành. Đi đường bị găy một chân, đau buồn
kêu tên Bồ Tát không ngừng; mộng thấy một vị
Tăng truyền cho toa thuốc: Dùng bột đậu xanh,
sao trong cái ấm mới cho đến khi bột đậu
ngả sang màu tía, ḥa với nước giếng, bọc giấy
cho dày để bó [bột ấy] vào chân, dùng gỗ Sam[15] nẹp cứng, rất thần hiệu!
Theo Cảm Ứng Linh
Nghiệm Kư, đời Thanh, Hạ Chi Hoàng kể chuyện
ông cố của ông ta, vào cuối đời Minh gặp nhằm
bọn cướp, bị chúng chặt đứt tay trái
nhưng chẳng biết đau khổ, chỉ kinh hoảng
bất tỉnh nhân sự. Sau đấy, về đến
nhà, tay liền lành lặn như cũ. Người ta kinh
ngạc hỏi han, nói là do tụng Cao Vương Kinh, đến
già không suy yếu. Ai nấy đều khen là được
Bồ Tát rủ ḷng gia hộ.
Sách Liệt Tử có
câu: “Hàm Quang chi kiếm, vận
chi bất tri hữu; kỳ sở dung, mẫn nhiên vô tế,
kinh vật nhi vật bất giác” (Kiếm Hàm Quang, sử
dụng mà chẳng biết là có kiếm, nó ḥa lẫn với
chung quanh chẳng thấy có dấu vết, không ngằn mé,
chém qua muôn vật mà muôn vật chẳng hề hay biết).
(7) Theo Phổ Đà
Chí, tại động Triều Âm có ao Quang Minh, tức là Huệ
Tuyền (suối trí huệ) vậy. Trong niên hiệu Chánh
Đức đời Minh, Thái Hậu sai sứ cầu
đảo [tại nơi đây], được chữa lành
bệnh mắt nên ban cho cái tên ấy.
Mẹ của sư
Thích Hữu Nghiêm đời Tống mắc bệnh mắt,
đối trước thánh tượng Quán Âm, tưởng
nơi tay cầm Nhật Tinh Ma Ni [của tượng Thiên
Thủ Thiên Nhăn], kiền thành tŕ tụng chân ngôn, mộng thấy
Đại Sĩ nâng vầng mặt trời, mắt liền
sáng.
(8) Trong Sở Từ[16] có câu: “Cửu
chiết tư nhi thành y” (Chín lần găy tay thành thầy thuốc).
Phó Đại Sĩ thường nói: “Huệ Tập là Quán Âm”. Có người teo chân, cho
biết đă bị chứng ấy bốn mươi
năm, xin chữa trị. Huệ Tập[17] bảo: “Chỉ
nhất tâm niệm ta”. Người teo chân nghe theo, trong một
thời gian ngắn, bèn có thể đi lại được.
Lại có một người điếc, nói đă bị
điếc nhiều năm, sư bảo: “Hăy nhất tâm niệm ta”, niệm rồi lại
gọi tên, th́ ba lần kêu bèn khỏi hẳn. Lại có những
người bị bệnh tật đă lâu, bạch lại[18], điên cuồng, sư đều dạy
“niệm ta”. Ai niệm cũng đều khỏi bệnh.
(9) Pháp Hoa Kinh: “Tỏa lậu luyến tích, manh
lung bối ủ, báng tư kinh cố, hoạch tội
như thị” (Lùn, xấu, c̣ng, vẹo. Ḷa, điếc,
lưng gù, do báng kinh này, mắc tội như thế). Đại
Bi Chú Kinh: “Trừ diệt nhất
thiết ác nghiệp trọng tội cố, măn túc nhất
thiết chư hy cầu cố” (Do trừ diệt hết
thảy tội nặng ác nghiệp, do thỏa măn trọn
đủ hết thảy mong cầu).
(10) Theo Quán Âm Kinh Linh
Nghiệm, Giang Lăng Vương đi đường, té
xuống vách đá găy lưng, điều trị măi chẳng
lành. Vương tụng Bạch Y Kinh suốt một
năm vẫn chưa lành, nghĩ kinh không ứng nghiệm
bèn bỏ dở giữa chừng. Đêm mộng thấy thần
quở mắng: “Ngươi tụng kinh coi như trả
bài cho xong chuyện, lại ngược ngạo oán kinh chẳng
linh ư?” Vương bèn rửa ḷng, gột chí, kiền
thành tụng niệm. Sau ba tháng, lại mộng thấy vị
thần trước kia đưa tay vỗ vào lưng, giật
ḿnh tỉnh giấc, lưng đă duỗi thẳng như
thường.
Đời Tống, Ngô
Khắc Kỷ thường khổ v́ bệnh mắt. Nếu
có ai khuyên hăy tŕ thánh hiệu Đại Sĩ bèn nói: “Lâm nguy
bất biến mới thật sự là trượng phu”.
Có người nói: “Ông chưa đọc sách Phật, sao biết
là chẳng bằng Khổng - Mạnh?” Bèn thử làm theo, được
lành bệnh, bèn tin Phật sâu đậm.
Ghi thêm: Theo
Tuyên Nghiệm Kư, Sử Huề tài học siêu quần, không
tin Phật, thường nói: “Phật là vị thần nhỏ
nhoi, chẳng đáng để thờ!” Về sau, cả
hai chân đều bị co quắp, chẳng bước xuống
giường được. Thuốc men, khấn vái vô hiệu.
Bạn bè bảo: “Chẳng cậy vào sức đại từ
bi, chẳng thể cứu được! Hăy phát tâm tạo
tượng Quán Âm, cầu khẩn sẽ ứng nghiệm”.
Ông Huề do bệnh nguy ngập, theo đúng lời khuyên tạo
tượng. Tượng đúc xong, mộng thấy Đại
Sĩ giáng xuống nhà ḿnh, quả nhiên được lành.
Do vậy, hối lỗi đă chẳng tin Phật.
Vào đời Tống,
vợ của Tri Châu xứ Tùy Châu là Thạch Thị khổ
sở v́ tay bị đau, thuốc men vô hiệu, phát nguyện
tu bổ trọn khắp những tượng Phật,
tượng Quán Âm cũ đă bị sứt mẻ, bệnh
liền khỏi.
Theo Bạch Y Kinh Cận
Nghiệm, mẹ của Sử Tuấn ở Phiêu
Dương là Hứa Thị bị bệnh phong, loạng
choạng khó đi lại. Ông Tuấn bèn cầu khẩn
Đại Sĩ, hứa sẽ rộng thí kinh Bạch Y.
Sau một năm, mẹ khỏe mạnh đi lại
như thường.
Theo Linh Nghiệm Kư,
đời Thanh, Hoa Đ́nh Tướng nói: “Thím tôi là Vương Thị tuổi đă bảy
mươi. Trong thời Càn Long, bước lên thuyền, sảy
chân ngă xuống sông, xương hai chân đều bị tổn
hoại, điều trị không khỏi. Thấy tôi cầu
đảo, tụng Cao Vương Kinh được lành bệnh,
các cô con dâu của bà ta mỗi người đều kiền
thành tụng một ngàn quyển cho mẹ chồng. Chưa
đầy năm ngày, cụ liền có thể đi
được”.
Lại nói: “Cháu tôi là Tam Anh, làm quan coi ngục,
một mắt chợt lồi ra, tối đen không có ánh
sáng. Quyến thuộc tụng kinh cho nó, vừa được
ba ngàn biến th́ mắt lại sáng như cũ”.
Vương X... ở
Tuyền Châu mắt gần mù, có vị Tăng khuyên hăy tụng
chú Bạch Y một vạn biến, [anh ta làm theo] bèn lành. Về
sau, bị vu hăm vào một vụ án nghiêm trọng, do siêng
năng tŕ tụng mà được thoát.
Theo Cư Dị Lục,
trong thời Khang Hy nhà Thanh, các học tṛ ở vùng Bảo Để như Vương Kính Tổ, cả
mười bảy người bị mất ánh sáng, kiền
thành tŕ tụng chú Bạch Y. Họ mộng thấy Đại
Sĩ dùng ḱm nhỏ rút hai sợi gân máu ra, mắt bèn sáng lại,
thấy rơ ràng.
Hạ Huấn
Tuyên ở Sùng Nhân bị bệnh mắt. Một bữa nọ
thấy kinh Quán Âm, bèn trai giới phụng hành. Năm
năm sau, mắt lành.
Theo Cao
Vương Ứng Nghiệm, vào đời Thanh, Phan Loan Pha
ở Ngô Giang, trong thời Gia Khánh, té ngựa, gần găy
xương sống, trai giới tụng Cao Vương Kinh
một ngàn biến, b́nh phục như cũ.
2.2.2.7. Trừ
tà quái
1.
Bèn có: Trải y Già Lê nơi Đại Lư, đem thân trấn
cơi La Sát. Kết am tranh trên ngọn Nam Đài, hoằng pháp
trong hang rồng độc.
2. Nơi
quán trọ, Đạo Dung khiến lũ quỷ binh dựa
ṭa khiếp sợ. Ẩn trong núi, Trí Khải khiến bọn
nữ quỷ nắm y hàng phục.
3. Thân hiện
lưng trời, cáo chẳng trốn khỏi gia h́nh. Mộng
giáng giữa mây, quỷ mị thảy đều biệt
tích.
4. Huyền
Trang cầu kinh, chẳng hề bị ác quỷ quấy nhiễu.
Vương Kỳ lắm bệnh, nhiều phen trị lũ
ma khinh nhờn.
5 Kẻ hầu trao thuốc, bệnh
tật ĺa thân; bản lănh thiên sứ, hai trẻ rời nhà.
6. Âm Thiên
xe ngựa, khó lên được núi Thái Hoa. Hành Bệnh Quỷ
Vương, chẳng vào được nước Kế
Tân.
7. Ánh sáng
bay ra bắn chết măng xà, gái đất Việt tài giỏi
trở thành vương phi. [Vung gươm] chém rắn chắn
lối giữa đường, Lê Thần hào hùng như con
trai Xích Đế.
8. Đứa tớ gái Tân
Phường tụng kinh siêu độ ma dân. Cô gái vùng Giang Hạ
giáng quỷ, được chiêm ngưỡng thánh tượng.
9. Ban vô úy cho ông Lư; trị bệnh
cuồng cho cô Triệu.
10. Âu
Dương trông thấy quái vật to chạy trốn. Huệ
Giản mặc kệ gă đen đúa thử tài.
11. Toan kiếm
chác thức ăn, phi đao khó chịu đựng;
đưa em gái trở về, bởi thần chú chẳng vừa!
12. Cạnh
miếu Tỷ Phảng, gă dân bướng thoát cơn trách
phạt. Giữa rừng gai góc, kẻ lạc lối bèn
được chỉ đường.
13. Xá
Nhân, Gián Nghị, mau trừ yêu quái nơi nhà họ
Vương. Uông tử, Trương Thành, cùng thoát khỏi quỷ
A Ni.
14. Lệ
quỷ từ đầu đến chân toàn là đèn, lui chạy
vào nhà dân. Gă khổng lồ áo măo trắng toát, chẳng hại
người tin Phật.
15.
Đúc đỉnh có h́nh tượng quái vật, chỉ
mong dân khỏi gặp chúng nơi núi đầm; tŕ chú tụng
kinh, tự có thần linh ủng hộ. Đấy là sự
cứu khổ thứ bảy của Đại Sĩ vậy.
1.
Theo Nhĩ Hải Tùng Đàm, Đại Lư Phủ thoạt
đầu là chỗ La Sát chiếm cứ. Đại Sĩ
đến ngồi xếp bằng nơi ấy, nay vẫn
c̣n tảng đá Bàn Đà, rồi hướng về La Sát
xin một khoảnh đất bằng tấm ca-sa. La Sát bằng
ḷng. Đại Sĩ liền mở y Tăng-già-lê[19], phủ khắp ngàn dặm. La Sát xin chừa
một khoảng đất để nương náu, Bồ
Tát bèn chấp thuận cho chúng dời lên sống trên đảnh
núi, nay tức là cuộc đất có cái ao Hắc Bạch
Nhị Long vậy. Có thuyết nói Đại Sĩ nhốt
La Sát trong thạch động.
Theo Nam Ngũ Đài
Sơn Thị Tích Kư, vào niên hiệu Nhân Thọ đời
Tùy, trong núi có rồng độc, biến làm đạo
sĩ bán thuốc ở kinh đô, [rêu rao ai mua thuốc] uống
vào sẽ lập tức bay lên trời. Thật ra, là nó dùng
thần thông của loài yêu quái, đem họ bỏ vào trong
hang rồng trên núi để ăn thịt. Chợt có một
vị Tăng đến đó, kết lều tranh trên
đỉnh núi, chế phục thần thông của loài yêu
quái, khiến nó ở yên trong hang động, dân được
che chở, người theo đạo đông đảo.
Sư bèn nhập diệt vào ngày Mười Chín tháng Sáu
năm sau. Đến lúc trà-tỳ, phía Đông đỉnh
núi hiện ra chiếc cầu vàng, các vị trời đứng
thành hàng, âm nhạc, hoa trời, mùi hương lạ sực
nức. Trên ngọn
(2)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Lương,
sư Đạo Dung du hóa vùng Giang Lăng, phá hủy miếu
thờ tà thần. Trở về nghỉ tại quán trọ, một đêm Sư thấy
quỷ binh rất đông. Một gă mặc giáp, ôm đao,
ngồi dựa trên chiếc giường theo kiểu Hồ,
quát ngài Đạo Dung: “Ngươi cho là quỷ thần chẳng
linh hả? Hăy mau lôi nó xuống đất!” Bọn quỷ
sắp nắm lấy tay, ngài Đạo Dung liền thầm
niệm Quán Thế Âm. Âm thanh chưa dứt liền thấy
một vị thiên tướng cao hơn một trượng
dùng kim cang xử gạt ra, bọn quỷ hoảng sợ
chạy tứ tán.
Theo Pháp Uyển Châu Lâm,
vào đời Đường, Đỗ Trí Khải ẩn
cư tại Thái Sơn, tŕ Quán Âm Kinh không gián đoạn.
Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư đang bị bệnh nguy ngập,
lấy áo ca-sa đắp thân, mơ màng như đang nằm
mộng, thấy mấy chục phụ nữ già trẻ
đến quấy nhiễu, bảo nhau lôi Trí Khải
đi, quăng xuống khe suối phía Bắc. Có kẻ nắm
phải tấm y ca-sa, đột nhiên cùng nhau niệm Phật,
lui bước sám hối, xin Sư hăy v́ họ mà tạo
tượng Phật Di Đà, niệm danh hiệu Quán Âm ba
ngàn biến. Sư liền tỉnh giấc, toát mồ hôi
đầm đ́a rồi lành bệnh.
(3) Theo Dị
Đàm Khả Tín Lục, trong niên hiệu Khang Hy đời
Thanh, em gái của Trịnh Quốc Tướng huyện Tiền
Đường bị hồ ly quấy nhiễu đến
nỗi choáng váng, chết ngất. Khi ấy, Quốc Tướng
tụng Tâm Kinh, cô ta mới tỉnh. Quốc Tướng liền
cầu đảo Đại Sĩ, nguyện thí hai ngàn quyển
kinh để trừ yêu quái cứu em gái. Đang trong lúc
nguy cấp, Đại Sĩ hiện thân trên không trung, hô:
“Nghiệt súc! Sao lại đến nơi này?” Lũ hồ
thưa: “Do đói khát nên tới kiếm ăn”. Đại
Sĩ đưa tay chỉ, yêu quái bay vọt lên không rồi
chẳng thấy nữa. Mọi người nghe mùi
hương lạ ngập nhà. Về sau, người em gái
mộng thấy có người dùng thương chống vào
một cái đầu đầy lông lá, nói: “Phủ của
Hồ Tam Giao chân nhân đă bị tru lục rồi!”
Theo Nam Hải Từ
Hàng, vào đời Minh, vợ của Vu Ngọc Bệ ở
Tiền Đường bị yêu quái quấy nhiễu
đă ba năm. Một đêm, mộng thấy Đại
Sĩ giáng xuống, ngự trên đám mây, quang minh chói rực
hư không, quỷ mị trốn biệt, bèn lễ Liên Tŕ
đại sư, bệnh trầm kha liền lành.
(4) Theo
Đường Tam Tạng Truyện, thoạt đầu,
ngài Huyền Trang ở đất Thục (Tứ Xuyên), thấy
có một người bệnh, thân lở loét hôi thối, bẩn
thỉu, quần áo rách rưới, dơ dáy, Sư
thương xót, tặng cho quần áo, thức ăn.
Người bệnh dạy cho Sư bài Tâm Kinh. Do vậy,
Sư thường tụng đọc. Khi đến
Lưu Sa, trên con đường hơn tám trăm dặm, ác
quỷ, dị loại vây quanh quấy nhiễu con người.
Niệm danh hiệu Quán Âm chẳng đuổi hết
được; Sư bèn tụng kinh này, vừa đọc
lên, chúng nó tiêu tan hết.
Theo Quảng Dị Kư, đầu
niên hiệu Đại Lịch đời Đường,
Vương Kỳ thích tŕ Quán Âm Kinh, nhiều lần bị
bệnh nặng, hễ tụng kinh th́ không bệnh ǵ chẳng
lành. Thường có loài quỷ kỳ lạ đến quấy
nhiễu nhưng chẳng dám xâm phạm, chúng bèn tự tiêu
diệt. Chuyện như vậy chẳng thể ghi chép xuể!
(5) Theo Thiên Hậu Chí,
trong niên hiệu Hồng Vũ đời Minh, Lă Đức
ra trấn giữ vùng biển, ngă bệnh bèn cầu đảo
Thiên Hậu[20]. Mộng thấy một vị nữ thần
mặc áo lông biếc, bông tai sáng ngời, bảo đứa
hầu cầm hoàn thuốc, sáng lấp lánh như hổ
phách trong suốt, bảo: “Uống thuốc này sẽ trừ
được bệnh”. Vừa mới qua khỏi cổ,
liền tỉnh giấc, mùi hương vẫn chưa tan.
Khát nước quá bèn uống vào, liền ói ra hai vật, liền
cảm thấy thần khí sảng khoái, b́nh phục như
thường. Về sau, mộng thấy Thiên Hậu bảo:
“Đấng từ bi cứu
ngươi đêm qua chính là đức từ bi Quán Thế
Âm, từ nay hăy nên kính phụng Ngài”. Ông Đức bèn dựng
Quán Âm Đường ở Mỵ Dự[21].
Theo Cao Vương Kinh
Chứng Nghiệm, vào đời Thanh, Ngô Quốc Năi ở
Sơn Âm thường tụng Cao Vương Kinh. Trong niên
hiệu Càn Long, ngẫu nhiên ngủ trưa, chợt thấy
hai đứa bé bước vào trong nhà, rồi lại trở
ra ngay, bèn hỏi: “Ai đó?” Trên không trung có tiếng đáp:
“Là thần gây dịch đậu mùa. Do ông thành kính tụng
Quán Âm Kinh nên bọn chúng tránh né”. Không lâu sau đó, con cái của
ông Ngô đều lên đậu, nhưng vô sự.
Theo Tống Thư, Tôn
Pháp Tông khổ sở v́ đau đầu. Ban đêm mộng
thấy có nữ nhân đến bảo: “Ta là thiên sứ
đến tạ lỗi, bản lănh vốn chẳng sánh bằng
thiện nhân, mà sứ giả cứ tưởng lầm là
bằng nhau”. Nhân đấy, trao truyền phương thuốc,
ông Tôn liền lành bệnh.
(6) Theo Kư Văn, vào
đời Đường, Hàn Quang Tộ [được
bổ làm quan ở ngoài kinh đô], dẫn gia đ́nh tới
nhiệm sở. Đường đi ngang qua Hoa Sơn, vào
miếu lễ bái. Người thiếp yêu quư bị chết
đột ngột, bèn vời đồng cốt đến
hỏi. Bà đồng nói: “Tam lang muốn cưới
người thiếp của ông, nay tuy đă cầu
được [tam lang] tha cho [sống lại], nhưng khi đến
huyện, rốt cuộc [tam lang] cũng sẽ đoạt
lấy”. Quang Tộ đến nhiệm sở, bèn v́ người
thiếp đúc tượng Quán Âm bằng vàng, cầu thoát
nạn. Năm ngày sau, người thiếp lại chết
đột ngột cả nửa ngày rồi mới tỉnh
lại, kể: “Hoa Sơn phủ quân đă chuẩn bị
xe ngựa đến đón. Ra khỏi cửa, thấy một
vị tăng sắc vàng ṛng chặn đằng trước,
kỵ binh sợ hăi, chạy tán loạn”. Ông Tộ do vậy
càng thêm tin vào nội giáo[22].
Theo thiên Xiển Vi trong
sách Chân Cáo[23], trong số cung điện quỷ thần
ở núi La Phong, cung thứ nhất có tên là Trụ Tuyệt
Âm Thiên. Phàm những người mới chết đều
đến cung này để chịu phán định.
Vị tăng nước
Kế Tân[24] là
Chân Đế[25] tụng chú Đại Bi khiến cho bệnh
dịch trong cả nước đều tiêu tan, Hành Bệnh
quỷ vương phải bỏ ra khỏi nước ấy.
(7) Theo Đàm Tẩu,
đời Tống, Lại Tỉnh Can dùng yêu thuật giết
người để tế quỷ. Hắn mua những cô
gái mười mấy tuổi từ vùng Chiết Giang để
cúng quỷ. Mẹ của một cô [trong số những cô
gái ấy] thờ phụng Đại Sĩ, cô bèn theo mẹ
tập niệm Tâm Kinh. Khi tới đàn tế, cô được
tắm gội, trang điểm, rồi bị xiềng
trong căn nhà trống. Cô gái nghĩ số phận ắt
phải chết bèn nhất tâm tụng kinh. Nửa đêm,
có một vật từ cửa sổ trên trần rơi xuống,
sáng ḷe như ánh chớp. Cô vội tụng chú Yết Đế,
từ trong miệng chợt phóng ra ánh sáng. Vật ấy
toan tiến đến lại lùi. Ánh sáng từ miệng cô
gái lớn dần, bắn vào vật ấy vang ra tiếng
leng keng, nó ngă nhào xuống đất. Khi có người tuần
đêm đi qua, cô bèn kêu: “Sát nhân”. Tuần cảnh phá vách
cho cô ra, thấy một con bạch măng xà to kềnh đă chết
cứng, bèn bắt họ Lại và người nhà trừng
trị theo đúng luật.
Theo Sưu Thần Kư,
trong vùng Dung Lănh xứ Đông Việt, có con rắn to, thích
ăn trẻ gái. Mỗi tháng Tám, người ta thường
cúng tế, đưa trẻ gái đến hang rắn, rắn
liền nuốt ngay. Khi ấy, Lư Đản có đứa
con gái tên Kư, nhận lời tuyển mộ ra đi, cầm
gươm, mang theo con chồn ăn rắn (mongoose). Cô nấu
mấy hộc chất mật dính, đổ vào hang rắn.
Rắn ḅ ra, đầu to như cái bồ, mắt như
cái gương to hai thước. Trước hết, nó liếm
mật dính. Cô Kư liền thả chồn ra, dùng gươm
chém, giết chết rắn. Việt Vương bèn rước
cô Kư về làm vợ.
Theo Linh Nghiệm Kư,
trong niên hiệu Thiệu Hưng đời Tống, vợ
người họ Châu ở Dư Can đi đường
gặp ba con rắn chắn lối, bà ta bèn nhảy qua. Rắn
đuổi theo, chợt biến thành ba gă trai, nhằm
đúng lúc người làng là Cung Lê Thần đi tới, thấy
con rắn to vờn quanh người đàn bà mấy ṿng khiến
cô ta ngă nằm sơng xoài trên đất. Ông Cung bèn lớn tiếng
niệm chú Đại Bi, dũng mănh quát rắn, rắn bèn tháo
lui.
Theo Hán Thư, Cao Tổ
(Lưu Bang) ban đêm đi qua cái đầm, có con rắn
to chắn lối, bèn vung gươm chém chết. Sau đấy,
có người tới chỗ rắn, thấy một bà cụ
ban đêm khóc lóc: “Con ta là con Bạch
Đế hóa làm rắn, nay bị con của Xích Đế
chém mất rồi”.
(8) Theo Thủ Nhất
Trai Bút Kư, đứa tớ gái nhà Trần Hữu Nham chợt
nổi cuồng, nói: “Ta là Hồ tam gia, đâu phải là
đứa tớ gái mà dám mạo phạm ta?” Trong khoảnh
khắc, lại nói giọng đất Ngô[26], xưng là họ Dương, là đầy
tớ của Hồ Tam. Ông Trần cầu khẩn trăm
cách, [vong linh] vẫn chẳng bằng ḷng. Ông xin tụng Tâm
Kinh siêu độ, nó liền gật đầu ưng chịu.
Cả nhà kiền thành tụng niệm, đứa tớ
gái trừng mắt quát to: “Thằng X... tụng kinh vô ích, nó
vừa mới ăn canh thịt viên”. Hỏi ra đúng
như vậy. Tụng đủ một ngàn biến, họ
Dương bằng ḷng ra đi. Đưa đến
dưới cầu Tân Phường th́ đứa tớ gái
tỉnh lại.
Theo Dạ Đàm Tùy Lục,
nhà ông X... ở vùng Giang Hạ lập đàn cúng, có bé gái ban
đêm đi qua đó xem. Chợt có một con quỷ to lớn
lôi nhốt trong buồng. Bé gào khóc, nhưng không ai nghe tiếng.
Đến lúc tống tiễn, quỷ mang bé gái đi theo,
chợt thấy ánh sáng hồng thấp thoáng, quỷ hoảng
sợ bỏ chạy. Trong khoảnh khắc, ánh sáng đến
gần, người theo hầu đông như mây; giữa
đó có một người đeo chuỗi anh lạc khắp
thân, hỏi han bé từ đâu đến, lại nói: “Ta là
Nam Hải Đại Sĩ, ngươi có thể đi theo!”
Trong khoảnh khắc đến một chỗ, lầu gác
thăm thẳm, khác xa cảnh phàm! Đại Sĩ ngó kẻ
hầu dặn ḍ. Không lâu sau, người hầu xách con quỷ
to lớn đến, sai thần kim giáp vứt đi. Lại
có một người đội măo vàng đến khấu
đầu bái yết Đại Sĩ và thưa: “Mẹ cô
bé này ăn chay trường thờ Phật”. Đại
Sĩ bảo: “Mẹ của con thiện hạnh đáng
khen” rồi bảo hăy theo người măo vàng quay về. Cô
nhắm mắt bay trên không, trong khoảnh khắc thấy mẹ
ngồi bên giường của một người giống
hệt như ḿnh, chợt như tỉnh mộng. Ấy là
từ khi ngất đi cho đến lúc này đă hơn một
tháng. Tỉnh dậy liền ăn chay trường, tŕ Quán
Âm Kinh.
Trong Thỉnh Quán Âm
Kinh, đức Phật nói: Trong thành Vương xá có nữ
nhân bị ác quỷ dựa, ta dạy người nữ ấy
xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Do sức oai thần
của Bồ Tát, ác quỷ tiêu mất, được thấy
thân sắc tướng khôn sánh của ta.
(9) Lư Ngạc ở Tứ
Minh hay sợ hăi, đêm ngủ liền bị ác mộng, thấy
những h́nh dạng quỷ quái kỳ lạ. Về sau, niệm
danh hiệu Quán Âm, tŕ chú Chuẩn Đề, hết ác mộng,
tâm không sợ hăi.
Đời Tống,
Thích Bảo Thông tụng Đại Bi đà-la-ni đă lâu
năm, có cô gái họ Triệu bị quỷ mị dựa,
phát cuồng. Sư tụng chú, quỷ liền bỏ trốn,
cô Triệu bèn hết điên.
(10) Theo Ngọc
Đường Nhàn Thoại, đời Đường,
Âu Dương Xán chuyên tŕ chú Đại Bi. Ngẫu nhiên
đi đêm gặp mưa, từ trong hang thẳm giữa
rừng rậm xông ra một vật dài hơn cả trượng
chặn đằng trước. Ông Xán hoảng sợ, muốn
tŕ chú Đại Bi, nhưng cứng miệng chẳng thể
thốt ra tiếng, bèn niệm thầm mấy biến rồi
mới có thể tụng rơ ra tiếng,
quái vật bèn ẩn trốn.
Theo Cao Tăng
Truyện, tập Hai, đời Lương, ngài Huệ Giản giới nghiệp cao rộng.
Phía Đông ṭa sảnh sự xứ Kinh Châu có căn nhà biệt
lập, có lắm chuyện quỷ quái. Khi ấy,
Vương Kiến Vũ đến cai trị nơi ấy,
thờ Huệ Giản làm thầy, cậy Sư đến
ở nơi đó. Sư thấy một người
đen kịt không mắt, từ vách bước ra, Sư
chỉ thầm niệm Quán Âm. Quỷ nói: “Nghe nói ngài tinh tấn
nên đến thử xem. Nay thần sắc chẳng động,
há c̣n bức bách nữa ư?” Lại trở vào vách; từ
đấy, không c̣n thấy chuyện quỷ quái nữa!
(11) Theo Chất Trực
Đàm, trong niên hiệu Càn Long đời Thanh, vợ ông
Dư Tông chợt bị cảm lạnh, nói sảng: “Mẹ
chồng, con dâu ta đi qua đây, đói lắm, ắt phải
đem rượu thịt cho ta xơi”. Ông Dư mời
Tăng tụng Tâm Kinh, Đại Bi Chú, Kim Cang Kinh. Vừa
mới tụng một lượt, liền nghe người
bệnh trách móc: “Thoạt đầu con đâu chịu vô,
mà mẹ cứ muốn tới. Nay khắp thân con bị dao
đâm, đau đớn khó thể chịu đựng
được, hăy mau đi thôi!” Bệnh liền lành.
Theo Quảng Dị Kư,
đời Đường, Lư Hân tŕ chú Đại Bi. Có
người bị bệnh sốt rét, ông Hân tŕ chú, quỷ
nói: “Vốn muốn làm khó ngươi, nay sợ Lư Thập
Tứ Lang, chẳng dám đến nữa!” Ông Hân sang sống
trọ ở Hà
(12) Theo Linh Nghiệm
Kư, phía Tây thành Định Tương có miếu Tỷ Phảng[27]. Người trong thôn ngẫu nhiên nghỉ
chân nơi ấy, có một người khinh nhờn thần,
đêm mộng thấy quỷ tốt lôi đến đồng
trống, quở trách mấy chục lượt. Chợt
thấy một bà cụ áo trắng đi đến nói:
“Đă quở trách rồi, hăy thả về”. Do vậy,
được tha về. Khắp ḿnh bị thanh thũng[28], ngộ ra nơi ấy gần Quán Âm Các
nên được Đại Sĩ rủ ḷng cứu giúp,
bèn đi chợ mua hương lễ tạ.
Lư Tinh Viên ở Phù
Lương từ nhà ra quán, trăng mờ mông lung, đi
đứng nhiều trở ngại, bèn niệm bài kinh do
Quán Âm truyền trao trong mộng. Vừa mới tụng bảy
biến, mới biết đang đi trong lùm gai. Thường
nghe người ta nói chỗ ấy có yêu quái mê hoặc
người. Nếu không tu tập bài kinh ấy, chẳng
thể nào t́m đường thoát ra được!
(13) Theo Quảng Dị
Kư, đời Đường, vợ ông Vương Kỳ
mắc bệnh dịch. Ông Kỳ tụng Tâm Kinh, thấy
dưới đèn có ba đầu người. Vợ ông
đớ mắt, không nói được, chỉ lấy
tay chỉ chỗ ḿnh thấy. Ông Kỳ bèn cầm đao
hướng về chỗ vợ chỉ chém xuống. Bà vợ
chợt nói: “Trong cửa sổ có yêu quái, mũi dài mấy
thước. Trước giường có hai con vật giống
như lạc đà, đều bị chém tiêu hết rồi”.
Ông Kỳ tụng kinh bốn mươi chín biến, vợ
bèn lành bệnh.
Theo Thanh Minh Đầu
Hạt Lục, có hai con lạc đà nói chuyện, một
con xưng là Xá Nhân, con kia xưng tên là Gián Nghị.
Đời Tống, con
nhà họ Uông ở Kỳ Môn đi đường, bị
mấy người trói lại đem đi, buộc vào cột
của ngôi miếu cổ, thưa rằng: “Xin mời đại
vương tự nhận lấy”. Uông biết là bọn họ
giết người tế quỷ, bèn niệm tụng chú
Đại Bi. Ban đêm, có tiếng gió rít như tiếng sấm,
một con măng xà to mắt sáng như đuốc ḅ tới,
ba lượt tiến lại lùi. Sáng ra, cậu Uông được
người khác cởi trói, liền thoát nạn.
Theo Linh Nghiệm Kư,
Trương Thành ở Cát Thủy, trong niên hiệu Càn Đạo
đời Tống, nghỉ đêm ở vùng ranh giới Lễ
Lăng. Chủ quán tiếp đón trọng thể, rượu
nồng, cỗ đầy, tâm kinh ngạc, lấy làm lạ,
thoái thác không thể uống rượu rồi bỏ
đi ngủ. Hồi lâu, thấy đuốc trong gian nhà chính
thắp sáng, bèn nh́n trộm, thấy chủ quán lạy lục,
khấn trước một bức tranh vẽ, nhiều lần
nhắc tới ông khách họ Trương, biết là hắn
sẽ đem ḿnh tế quỷ. Nh́n sang bức tranh vẽ, thấy
hai tṛng mắt như cái chén, ông Trương vội tŕ chú
Đại Bi. Vừa được mấy biến, thấy
yêu quái từ trong bức vẽ tụt xuống, h́nh dạng
đanh ác, bèn đóng cửa, càng dốc sức tụng chú,
nghe ngoài cửa có tiếng đập phá. Trời vừa
sáng, ông Trương chạy ra, nghe thấy người nhà
chủ quán kêu khóc, đi hai dặm mới tạm nghỉ,
nghe người ta nói: “Chủ quán chết bất ngờ”.
Cật vấn sự t́nh th́ ra nhà ấy ba đời thờ
yêu quái, mỗi năm tế một người. Nếu không
có người ngoài th́ sẽ giáng họa xuống chủ
nhà.
Theo Tùy Thư, đầy
tớ nhà Độc Cô Đà[29] là Từ
A Ni thường thờ quỷ mèo, thường giết
người [để tế quỷ]. Tài vật [của
người bị giết] sẽ nhập vào gia sản của
nhà kẻ thờ quỷ.
(14) Theo Di Kiên Chí,
người trong họ [của tác giả sách ấy] là Hồng
Dương trở về trong đêm, chợt nghe tiếng
động lớn phát ra từ khe núi như mấy chục
cây gỗ to bị đốn ngă, liền tận hết sức
chạy xuống gầm cầu tính t́m chỗ núp, nhưng vật
đó đă đến trước rồi: Thân dài ba trượng
từ đầu đến gót toàn là đèn. Ông
Dương chuyên tŕ Đại Bi Chú nên vội niệm, vật
ấy đứng thẳng, bất động. Ông
Dương sợ vỡ mật, ngă lăn ra đất,
nhưng vẫn tụng chú không ngừng. Vật ấy liền
lùi lại, hô lên: “Ta đi đây!” rồi đi tắt qua
khu nhà dân bên khoảnh ruộng mất dạng. Ông Dương
về nhà ngă bệnh rồi lành, c̣n hai người phu khiêng
kiệu đều chết. Về sau, hỏi thăm những
nhà dân [nơi ấy] th́ một nhà chết v́ bệnh dịch,
mới biết vật ấy chính là lệ quỷ (quỷ
gây ra bệnh dịch).
Theo Dị Đàm Khả
Tín Lục, tại Vương Gia Khẩu ở Ứng
Thành, những kẻ lang thang trong thôn đi trông lúa [thuê cho người
ta]. Vào ban đêm có cơn gió trốt cuốn tới, thế
như xô núi, có h́nh dáng giống như cái tháp, tiếng rền
như sấm, hóa thành một người to lớn, cao hai
trượng, áo măo trắng toát, tay cầm phan trắng
hướng về bọn họ phất một cái rồi
bỏ đi. Mọi người sợ ngất đi, một
lúc lâu sau mới tỉnh lại. Chỉ có một người
tŕ chú Quán Âm và một người nữa không ăn thịt
ḅ là chẳng thấy. Mấy ngày sau, mười mấy
người đều chết, chỉ có hai người ấy
là vô sự.
(15) Sách Tả Truyện
chép: “Đúc đỉnh có h́nh
tượng muôn vật, để dân biết là thần hay
thứ yêu quỷ gian dối, để khi dân đi vào sông,
đầm, núi, rừng, chẳng gặp chuyện không lành”. Các bộ kinh giảng về
thần chú [trong nhà Phật] đều có chép Kim Cang lực
sĩ và các chúng quỷ thần phát nguyện ủng hộ
[người tŕ chú].
Theo Liễu Nhai Ngoại
Biên, vùng Giang
Theo Thủ Nhất Trai
Bút Kư, tiến sĩ Hiếu Cảm Tŕnh Tốc Viên sang dạy
học nơi đất Tần, đêm ngủ nơi cḥi
ngoài đồng. Cảm thấy có vật ǵ đè lên chân,
miệng chẳng thể nói được, thân cũng chẳng
thể cử động được. Dần dần, vật
ấy chuyển tới bụng, liền vội thầm niệm
Tâm Kinh, đến câu “Sắc tức
thị Không”, liền vội lớn tiếng kêu lên, vật
ấy trốn mất.
Theo Dị Đàm Khả
Tín Lục, vào đời Thanh, Trần Quư ở Giang Hạ,
vừa có chí nguyện vừa hiếu thảo.
Trong thời Càn Long, ông qua nhà của người họ hàng
bên ngoại là X... mộng thấy một khối tṛn
đen x́ giống như h́nh người duỗi bàn tay to đùng
kéo ông ra ngoài, đánh không ngừng. Ông hôn mê một lúc lâu mới
tỉnh lại, trở nên điên cuồng, câm bặt không
nói được suốt năm sáu năm. Về sau, mộng
thấy một bà cụ đầu đội lúp trắng,
xách giỏ, bảo hăy nuốt viên thuốc hồng đựng
trong giỏ. Ông Quư muốn giữ lại để dâng cho
mẹ, bà cụ ép nuốt, lấy gậy quật vào
lưng. Ông Quư bèn tỉnh giấc, chẳng c̣n thấy khối
đen tṛn truy đuổi nữa, khỏi ngay bệnh
điên. Ngày hôm sau, thấy ở cạnh miếu có người
xách giỏ, h́nh dáng, ăn mặc giống như người
trong mộng, muốn cảm tạ nhưng không nói
được, bà cụ cũng chợt mất dạng. Đến
buổi chiều, hầu [mẹ ăn] cơm, đột
nhiên nói ra tiếng, cả nhà kinh ngạc, hỏi han. Ông kể
lại những ǵ được thấy trong mộng, [người
ta nói] ấy chính là Ngư Lam Đại Sĩ[31] được
lưu truyền trong cơi đời; do vậy bèn vẽ
tượng cúng dường.
Theo Tĩnh Hàm Bút Kư, trong
niên hiệu Gia Khánh, kỳ nhân[32] là
Văn Hải cùng với anh lập đàn, tập luyện
[binh thư] Vũ Bị Lục[33]. Trong nhà họ đă thờ Quán Âm từ
trước, Bồ Tát bèn giáng đàn khuyên: “Đây không phải là chánh
đạo, tập theo sẽ bất lợi. Cha các
ngươi làm lành rất nhiều, và do bà cố ăn chay,
tin tưởng làm lành, nên được quả báo con cháu là
hạng trâm anh hiển hách nhiều đời. Anh em các
ngươi tập luyện thứ này sẽ có tai họa bất
trắc, cho nên ta đến cứu”. Quán Âm Bồ Tát cho
biết: “Trong ngày Hai
Mươi Mốt tháng Sáu năm nay, Hải sẽ bị
sét đánh”, rồi sai người anh hăy đưa tay viết,
vẽ lên ngực ông Hải. Trong chớp mắt, thấy
con vượn trắng đang vờn quanh thân ḿnh đă bị
thần bắt ném đi. [Văn Hải viết]: “Đến ngày Hai Mươi Mốt
[tháng Sáu năm ấy], sấm sét nổ dữ dội quanh
nhà, nghĩ đến mà run rẩy. Nay được nghe lời
truyền bảo tại vùng Giang Hữu đang khắc sách
Hải
2.2.2.8. Cứu
vớt kẻ đọa lạc
1. Trong hội Vu Lan, dẫn dự
hương trai. Địa ngục rền tiếng, vẩy
rưới tịnh thủy.
2. U Minh coi trọng Quán
Âm Kinh, tháp A Dục cũng nên lễ bái.
3. Da Xá vào đường quỷ
chẳng sợ, Gia Huy người cơng bay lên không.
4. Thôi Quỹ chép kinh hưởng
phước, Lư Huy tạo tượng sanh thiên.
5. Cứu
văn đọa lạc, mừng Lô Sơn đảnh đầu
ấm áp. Oai nghi nghiêm chỉnh, mời Sa-di ngự trên ṭa
vàng.
6. Quận
Quân thầm tụng, điện đường chao đảo.
Ngô Duyệt hô lên, vạc dầu vỡ nát.
7. Tây
Phương tạo phước, khỏi thành lợn dê trên
mặt nước. Nam Hải hoàn hồn, đừng ngắm
chốn tửu lâu xinh đẹp.
8. Tụng
kinh, giữ giới, ông Thang chẳng tới non đao, ĺa tối
vào sáng, họ Hà trốn khỏi gậy sắt.
9. Đệ
tử ngài Hám Sơn, do thầy quán tưởng, được
hưởng thanh lương. Vong huynh sư Tam Quả,
nương lời chúc nguyện, chóng được giải
thoát.
10. Cao
tăng tu sám, mệnh phụ được thăng thiên
cung. Từ mẫu tụng kinh, con đă mất mừng sanh
hoàng thất.
11. Quan phạm
tội Ba La Di, suưt bị phạt làm trâu. Cô gái tŕ kinh Bát Nhă,
khỏi bị đọa làm chó.
12. Dùng
tâm chuyển nghiệp, Bá Thời khỏi sanh vào bụng ngựa.
Nghe dạy sanh thiên, Tông Diễn cứu hầu vương
thoát kiếp.
13. Am Ban
Trúc tu sám, khỏi bị quỷ sứ bắt đi. Vạc
dầu nở hoa sen, may được Vi Đà nâng xử.
14. Húc
Đ́nh, Thiên Trụ, mau giải oan khiên. Lưu Viện, Quế
Dung chẳng đền nợ trước.
15. Rưới
bằng nước tụng chú, thân ngạ quỷ đă hiện
dần tiêu. Vừa mới tụng tựa kinh, sự khổ
địa ngục liền dứt.
16. Mẹ
ông Phạm sanh thiên, hưởng phước; vợ họ
Phương làm con, thành tài.
17. Xây
chùa chẳng đọa tam đồ, hiếu thảo khỏi
đền túc nghiệp.
18. Gỡ
sửa tóc rối, diệt trừ ngũ quỷ trêu ghẹo.
Đau hơn nung, nướng, may được cả nhà
trai giới.
19. Ấy
là v́ Đại Sĩ phát nguyện, vốn trọng tại
tam đồ, nhưng tội tánh vốn không, nên có thể
diệt từ một niệm. Ấy là sự cứu khổ
thứ tám của Đại Sĩ vậy.
(1) Theo Hoạt
Diêm La Đoán Án, ngày Rằm tháng Bảy, khắp thiên hạ
lễ sám, thí thực. Quán Âm Đại Sĩ đích thân dẫn
các tù nhân [trong địa ngục] đến ăn. Lại
c̣n xem xét bốn mươi chín vụ án. Diêm Vương nói:
“[Các ngươi] cũng nên biết người dẫn bọn
ngươi đi ăn là ai, chính là đức từ bi Quán
Thế Âm Bồ Tát. Nếu các ngươi niệm A Di
Đà Phật một tiếng th́ các ngươi sẽ thoát
tội. Cả ngục đều niệm th́ cả ngục
thoát tội. Nếu vạn nhất niệm không được
bốn chữ th́ chỉ niệm một chữ Phật
cũng được thoát tội. Các ngươi có niệm
được một chữ Phật hay không?”
Theo Hiện Quả Tùy
Lục, Vương Kiến ở Ngô Môn chết xuống
cơi âm. [Phán quan] tra án thấy là bắt lầm bèn cho hồi
sanh. Vương Kiến thấy địa ngục lửa
đen ngút trời, tiếng gào khóc như sấm động.
Ba vị lăo tăng ngồi trên ngọn cây to, mỗi lần
trong ngục vang rần tiếng kêu đau đớn bèn rẩy
tịnh thủy xuống, âm thanh ấy liền ngưng bặt.
Hỏi ra th́ đấy là ba vị Đại Sĩ Quán Âm,
Phổ Hiền, và Địa Tạng.
(2) Theo Quán Âm Kinh Linh
Nghiệm, khi Cừu Tấn làm quan tại Tiền
Đường, ở trong nha môn có một vầng ánh sáng
tṛn đưa cô em gái đă mất tới. Hỏi chuyện
cơi âm, cô ta bảo: “Trong cơi u minh trọng Quán Âm Kinh nhất,
Bồ Tát có thể tầm thanh cảm ứng, cứu khổ
giúp nạn; nhưng lễ sám, tụng kinh, hăy nên trai giới,
thành kính th́ mới có thể tiêu tai, được phước.
Quan trọng nhất là đừng như trẻ nít đùa
bỡn, khinh nhờn!”
Theo Dục Vương Chí, trong niên hiệu
Thái Khang đời Tấn, ông Lưu Tát Ha làm nghề
săn bắn, chợt chết bất ngờ. Bảy ngày
sau tỉnh lại, kể đă đến mười tám
địa ngục, đều tùy theo nghiệp nặng hay
nhẹ mà chịu đựng các nỗi đau đớn,
khổ sở. Chợt thấy Quán Thế Âm Bồ Tát bảo:
“Ngươi đáng phải
đọa địa ngục, ta cứu ngươi sống
lại, hăy nên làm sa-môn. Hiện nay, tại hạ lưu sông
Lạc, Tề Thành, Đan Dương, Cối Kê đều
có tháp A Dục Vương, có thể đến những nơi
ấy lễ bái th́ khi mạng chung sẽ chẳng đọa
địa ngục”. Sau khi tỉnh lại, ông xuất
gia, có pháp hiệu là Huệ Đạt. Do vậy, đến
các chỗ như Mậu Sơn, Trường +-, ngài Na Liên Đề Lê Da Xá, hành hóa ở
phía Bắc Tuyết Sơn, thấy giữa nhân đạo
và quỷ đạo th́ nhân đạo vắng vẻ, hiểm
trở, c̣n quỷ đạo th́ thông suốt, tiện lợi.
Một vị Tăng đồng bạn đi nhầm vào
quỷ đạo. Ngài Da Xá miệng tụng Quán Âm thần
chú, c̣n một trăm bước nữa sẽ đuổi
kịp th́ vị ấy đă quỷ bị hại, c̣n chính
Ngài th́ do chú lực nên quỷ không làm ǵ được.
Theo Linh Cảm Phú, đời
Minh, Dương Gia Huy bị bệnh chết, vào cơi âm,
được một người cơng lên núi cao chớn chở,
vội niệm Quán Âm bèn cùng với người cơng ḿnh bay
vọt lên hư không.
(4) Theo
Pháp Uyển Châu Lâm, trong niên hiệu Trinh Quán đời
Đường, con rể của Vương Hoằng Chi là
Thôi Quỹ chết. Về sau, [Thôi Quỹ] thường
đến báo mộng với người khác, khuyên người
ta lễ Phật, lại kể đầy đủ những
chuyện trong địa ngục, xin chép kinh Pháp Hoa, Kim Cang,
Quán Âm mỗi thứ ba bộ. Chép xong, cảm tạ: “Được
giúp phước to lớn, nay xin cáo biệt”.
Theo Thái B́nh Quảng Kư,
Lưu Tử Cống đă chết rồi tạm sống
lại, nói đă gặp bố vợ là Tô Nguyên Tông, bèn hỏi
bố vợ ham làm lành, sao lại ở nơi đây? Ông
đáp: “Do có lỗi nên bị ở lại đây, nay chẳng
bao lâu nữa sẽ sanh lên trời. Con trưởng ta có tín
nguyện, mất đi liền sanh lên trời, con út vừa
trộm cắp, vừa giết chóc, hiện đang ở
địa ngục”. Hàng xóm là Lư Huy nói: “Phiền ông hăy nói với
con tôi, tôi phạm tội bị trói, hăy mau v́ tôi tạo một
tượng Quán Âm và chép một bộ Pháp Hoa th́ tôi sẽ
sanh lên trời”. C̣n cha ông ta th́ dè dặt nói: “Ta bắn chết
cầm thú, hằng ngày thường có quỷ đầu
trâu nung mấy ngàn viên đạn sắt đỏ như lửa,
nhét vào trong thịt ta, khổ chẳng thể nói nổi!”
(5) Theo
Linh Cảm Phú, hai vị Tăng ở Lô Sơn, một vị
tŕ chú Văng Sanh, vị kia tŕ chú Đại Bi cầu sanh Tịnh
Độ. Người tŕ Văng Sanh mất trước, đảnh
đầu ấm. Vị tŕ Đại Bi mất sau, thoạt
đầu thân lạnh, bàn chân nóng như lửa; hồi lâu
sau, đảnh đầu bèn nóng, bàn chân lạnh như
băng, ấy là điềm ứng nghiệm diệt nghiệp
địa ngục, văng sanh Tây Phương vậy.
Theo Pháp Uyển Châu Lâm,
đầu đời Tùy, có vị Tăng ở
Dương Châu tụng kinh Niết Bàn, tự kiêu hănh với
hạnh tu ấy. Một chú Sa-di ở Kỳ Sơn tụng
Quán Âm Kinh. Hai người cùng chết đột ngột.
Đến chỗ Diêm Vương, vua bèn mời chú Sa-di ngồi
ṭa vàng, hết sức kính trọng; mời vị Tăng tụng
kinh Niết Bàn ngồi ṭa bạc, kém phần cung kính
hơn, vị Tăng cả thẹn. Khi cả hai đều
sống lại, vị Tăng đến chỗ chú Sa-di ở
Kỳ Sơn hỏi cặn kẽ nguyên do. Sa-di thưa: “Mỗi
khi con tụng kinh đều mặc áo sạch, đốt
hương thơm, chú nguyện rồi mới tụng”.
Ông Tăng nói: “Tội ta sâu lắm. Khi tụng Niết Bàn,
oai nghi không tề chỉnh, thân miệng chẳng sạch”.
Lăng Nghiêm Kinh: “Nghiêm chỉnh oai nghi, túc cung trai
pháp” (Oai nghi nghiêm chỉnh, cung kính vâng giữ trai pháp).
(6) Theo Cảm
Ứng Thiên Tăng Chú, đời Tống, Lư Quận Quân
đă sẵn có đức hạnh tốt đẹp,
thường tŕ chú Đại Bi. Do bị bệnh, họ Lư
đi vào cơi âm, thấy hai người quyền cao chức
trọng ngồi trên ṭa cao ngất ngưởng, liền thầm
niệm chú Đại Bi, điện đường lay
động, bên trái, bên phải đều muốn đổ
nhào. Người quyền quư bảo: “Đừng tụng nữa,
sẽ thả cho ngươi về. Do lúc c̣n sống từng
nhặt được hạt châu đánh rơi, trả lại
cho người ta, nên tăng thọ hai mươi năm”.
Tỉnh dậy bèn lành bệnh.
Theo Hiện Quả Tùy
Lục, trong thời Khang Hy nhà Thanh, Hiếu Liêm Đới
Ngô Duyệt ở Tô Châu hành vi rất phóng đăng, người
bị hại rất nhiều, bị bộ Công bắt giữ,
chết trong ngục. Đúng lúc ấy, trong thành có người
tên X... bị chết bất ngờ, sống lại, kể:
“Vua cơi âm sai bỏ họ Đới vào vạc dầu. Từ
chỗ đất bằng bỗng trồi lên một vạc
dầu. Quỷ lấy chĩa xiên họ Đới bỏ
vào vạc. Ông Đới hô lên: ‘
(7) Theo
Kim Cang Cảm Ứng, trong niên hiệu Đại Trung đời
Đường, Lư Cư nhiễm bệnh; cảm thấy
gió thổi bay đến một nơi, nước rộng
mênh mông không bờ mé, người và súc vật đứng
trên bờ. Có người mặc áo vàng hỏi đă làm
điều thiện ǵ. Nếu không có th́ sẽ làm lợn,
dê trên mặt nước. Ông Cư nói đă từng tạo
một bức Tây Phương Công Đức ở chùa Tịnh
Chúng, lại chép năm trăm quyển kinh trong Đại
Tạng. Sứ giả dẫn vào một ṭa đại
điện, có vị Tăng bảo nhà vua rằng: “Người
này chí tâm tạo phước, chẳng dối trá”. Vua sai
đưa về. Ông Cư thấy công đức do chính
ḿnh đă tạo được khắc bia, ghi chép phân minh
trong điện, liền sống lại. Thấy Quán Âm Bồ
Tát đứng cười, vợ con vây quanh khóc lóc, bảo
ông đă chết bảy ngày rồi.
Theo Nhân Quả Thực
Lục, trong niên hiệu Gia Khánh đời Thanh,
Chương Khai Nguyên ở Nam Phong thấy sai nha cầm xiềng,
vác côn đến lôi đi. Phía sau chợt có người nắm
lại kêu: “Người này tŕ Quán Âm Kinh rất kiền
thành. Lại c̣n trích những điều dễ phạm nhất
từ Kính Tín Lục để in tặng. Nếu bị
đoản thọ th́ làm sao khuyên kẻ khác làm lành?” Sai nha
không nghe, người kéo lại cũng không buông. Sai nha bỏ
đi, người nắm ông Chương bảo: “Bọn
chúng bỏ đi nhưng ắt sẽ trở lại. Hăy
mau tới Nam Hải cầu Đại Sĩ”. Người
ấy dặn ông Chương hăy chí tâm niệm Nam Mô A Di
Đà Phật và Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ
Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát th́ sẽ tự đến
được. C̣n nói thêm: “Nếu thấy điều ǵ đáng
ưa, hăy cẩn thận đừng động ḷng đến
nỗi đọa ác đạo”. Ông Chương vâng theo lời
dạy, liền bay lên không. Không lâu sau, thấy những quán
rượu đẹp đẽ, tranh nhau chèo kéo. Ông
Chương nhớ kỹ lời dặn, không nḥm ngó tới
th́ không thấy nữa. Sóng bủa tận trời, biển
cả đă hiện ra trước mặt. Trong biển có
đảo, người qua lại đều mặc áo nhà
tu. Ông Chương phục xuống đất, xưng Phật
hiệu, thấy hai ba cụ già tóc bạc, dẫn một
người xuống núi. Người đă kéo ông Chương
[khi trước] bảo: “Đấy chính là hồn của
ngươi, hăy mau lễ tạ Bồ Tát”. Ngài bèn dẫn
đi thăm địa phủ, đi qua khắp hai
đường thiện ác rồi mới tỉnh lại.
(8) Theo
Nhân Quả Thực Lục, Lâm Tự Lân bị [cơi âm] bắt
lầm, sống lại, kể chuyện đă thấy vua
cơi âm phán tội Thang X... ở Hoàng Mai như sau: “Trong quân
ngũ, ngươi quen thói tàn nhẫn, bắt bớ con cái
người khác, tội ác ngập đầu, giải lên
núi đao”. Phán quan bẩm rằng: “Trong hôm phá thành
Dương Châu, họ Thang bắt được hai thiếu
phụ giữ kín nhưng không xâm phạm, đem trả lại
chồng họ, c̣n không nhận lễ tạ. Hơn nữa,
mồng Một, ngày Rằm, hắn ăn chay, tụng Cao
Vương Kinh”. Vua phán: “Có công đức ấy th́ rất
đáng kính, cho làm quan văn thất phẩm, con cháu hai
đời hiển vinh, thọ bảy mươi chín tuổi,
khi chết không bệnh tật ǵ”.
Theo Nhất Hạnh
Cư Tập, trong thời Càn Long nhà Thanh, con bà Hà Thị ở
Nam Hào bệnh nhiệt, thấy người chú đă mất
lơa lồ, xơa tóc, nói: “Lúc sống tạo nhiều oan nghiệt,
chết đi bị nhốt trong ngục Hắc Ám đă
tám năm, hằng ngày bị ác quỷ đập bằng gậy
sắt. Gần đây, Quán Âm Đại Sĩ giáng lâm, ta quỳ
xin Ngài từ bi cứu vớt, chợt được ra khỏi
chốn tối tăm. Đúng lúc ấy, đạo nhân Kính
Trí từ Tây Phương đến, Ngài là thầy của
vua cơi âm, có t́nh thân thiết cũ với nhà ta, xin [cho ta
được] tạm thả về. Hăy gấp v́ ta tu
phước ḥng được sanh vào loài người”.
(9) Đời
Minh, Hám Sơn đại sư có một đệ tử bị
bệnh điên, tự nói đă bị đọa hỏa ngục,
cầu Sư cứu vớt. Sư quán
tưởng Quán Âm, hiện ra ao nước trong mát.
Theo
Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Tùy, ngài Trí Hưng tụng kinh, tŕ luật. Người
anh đă mất của vị Tăng cùng chùa là Tam Quả
báo mộng cho vợ: “Ta đọa địa ngục, nhờ
sư Trí Hưng chùa Thiền Định gơ chuông, tiếng
vang chấn động địa ngục, những người
chịu khổ bèn cùng lúc được giải thoát”. Bà ta
bèn đem mười xấp lụa tạ ơn ngài Trí
Hưng. Ấy là v́ khi gơ chuông, sư Trí Hưng luôn chúc nguyện
Như Lai, Đại Sĩ cùng giáng đạo tràng, ngơ hầu
hết thảy chúng sanh trong các đường ác nghe tiếng
chuông đều ĺa khổ.
(10) Đời Minh, tại
núi Thiên Thai có vị tăng tên Nhất Chỉ, tu Đại
Bi Sám Pháp mấy chục năm. Chi phu nhân ở Côn Sơn
cúng dường Sư mười mấy năm, chưa từng
biết mặt. Bà Chi mất rồi,
sư Nhất Chỉ mộng thấy bà ta đến xin sám
hối. Sư Nhất Chỉ tu sám pháp suốt hai
mươi mốt ngày, đích thân thấy trên hư không
có hai đồng tử cầm phan. Một đồng tử
đứng giữa, cảm tạ: “Nhờ sức sám hối
của Sư, con được sanh lên thiên giới”.
Tạ Thao chôn hai con, vợ
đau buồn, ngă bệnh, mộng thấy hai đứa
đều đeo gông xiềng bằng sắt, khuyên mẹ
hăy tự rộng lượng, làm phước cứu họ
thoát tội. Bà mẹ liền giữ Quán Âm Trai, lễ Quán
Âm Sám, tụng Quán Âm Kinh, lại mộng thấy con nói
đă thác sanh vào cung vua hưởng phước.
(11) Theo Phổ Đà
Chí, vào đời Minh, Quận Thừa xứ Ninh Ba là Long
Đức Phù do xử án, đốt kinh Pháp Hoa, buộc
Tăng dẫm lên. Ông Long chợt ngă xuống đất,
không dậy được. Thấy thần Già Lam vâng lệnh
Đại Sĩ đến luận tội: “Gă quan này phạm
tội Ba La Di[34], nhưng do c̣n yêu dân, chỉ phạt làm
trâu”. Đức Phù đau xót cầu xin, ăn chay trường,
in kinh, trai tăng để chuộc tội. Lại
được Đại Trí thiền sư sám hối
mười lăm ngày. Ông Phù đích thân thấy hai ngọc
nữ cầm phan dẫn đến trước Đại
Sĩ, được tha tội.
Theo Nam Hải Từ
Hàng, con gái Trương Thị là Phật Nhi tụng Quán Âm
Kinh, đột ngột chết đi, sống lại, nói bị
hai tên sai dịch lôi đi. Trước hết, sai dịch dùng
cái mền đen trùm hai người rồi bỏ vào nhà họ
Trần; kế đến dùng cái mền hoa trùm lấy cô
ta, bảo: “Ngươi thiếu hắn một ngàn năm
trăm đồng, nay phải nên trả nợ!” Có người
mặc áo xanh nói: “Cô gái này niệm kinh Bát Nhă, hăy thả ra”.
Do vậy, sảy chân ngă xuống đất, bèn tỉnh lại.
Thưa chuyện với cha, ông bố đi hỏi nhà họ
Trần th́ ra đêm đó có ba con chó sanh trong nhà ấy, hai
con đen, một con vá, con vá chết ngay. Do vậy, bèn
đem tiền trả cho ông Trần. Ông Trần không lấy,
bảo đem quyên tặng để giúp làm việc
nghĩa.
(12) Theo Giác Hổ Tập,
đời Tống, Lư Bá Thời thích vẽ ngựa. Sư
Pháp Tú khuyên nhủ: “Ông là đại phu mà cứ suốt
đời hết kiếp hằng ngày nghĩ đến
h́nh dáng ngựa. Khi nhắm mắt xuôi tay, sẽ lạc vào
thai ngựa không ngờ ǵ nữa!” Bá Thời bái tạ: “Làm
thế nào để gột lỗi?” Sư dạy: “Chỉ
nên vẽ h́nh Quán Thế Âm Bồ Tát”. Từ đấy, những
bức vẽ Đại Sĩ của ông đẹp nhất
thiên hạ.
Đời Tống, thần
rừng hộ sơn chùa Năng Nhân tại Phước
Châu [trước kia] vốn là một con khỉ bị [dân
chúng] bắt sống, trói lại, đắp bùn lên [thành
tượng thờ] gọi là Hầu Vương (vua khỉ).
Lâu ngày nó tác quái, nhiều người bị hại. Trưởng
lăo Tông Diễn thương xót con khỉ oan nghiệt nặng
nề bèn tụng chú Đại Bi độ nó. Ban đêm mộng
thấy có người đàn bà chân khỉ lấm lem máu, dẫn
con khỉ nhỏ buộc bằng xích sắt, đến
bái tạ nói: “Đệ tử là Hầu Vương, nay nhờ
pháp lực giải thoát sanh lên trời. Xin hăy cởi trói cho
con khỉ nhỏ”. Đến sáng mở khám thờ ra xem,
thấy xác khỉ bị xiềng ba ṿng, từng bị bọn
đồng cốt bắn trúng nách trái, bèn phá sạch hết
đi, những chuyện tà quái tuyệt tích.
(13) Vào đời Minh,
sư Thích Không Tuyết tu sám tại am Ban Trúc ở Tân
Xương, đêm lễ Quán Âm. Mộng thấy hai sứ
giả mặt xanh đến bắt. Bên cạnh có cụ
già khuyên hăy ngừng tay. Một cô gái áo trắng nói: “Ông ta tu
hành chân chánh, sao các ngươi lại bắt?” Hai người
mặt xanh liền biến mất.
Đời Minh, Ngô Dịch
Đức bắt chước người chú là Chánh Côn,
ăn chay, lễ Phật, càng thêm tin tưởng sâu đậm.
Chép kinh Đại Bi năm mươi quyển, kinh Kim Cang
ba mươi quyển, chợt chết đột ngột,
tắt hơi, hồn đi vào cơi âm. Do tội đời
trước nên phải vào vạc dầu sôi; chợt Vi
Đà Thiên (Hộ Pháp Vi Đà Bồ Tát) và Quan Đế
đứng trên không trung. Vi Đà Thiên nâng [kim cang] xử;
trong vạc sanh ra hoa sen, ông Ngô bèn tỉnh lại.
(14) Theo Kiến Văn
Tùy Bút, Thái Thú Tông Tương Văn cầu cơ. Cơ dạy:
“Hăy gọi gă giúp việc án từ[35]
là Trầm Húc Đ́nh đến đây”. Ông Trầm đến,
cơ bút vẽ một con dao, viết: “Sẽ giết hắn
để rửa sạch oán thù”. Nhóm ông Tông đều thay
ông Trầm xin giải oan, [oán quỷ giáng cơ] nói: “Chẳng
tham tiền tài, lụa là, chẳng cần trai sám, chỉ muốn
đoạt mạng!” Họ bèn thỉnh thần Thổ
Địa, hỏi đầu đuôi mối oán thù, và xin Thổ
Địa đứng làm trung gian ḥa giải. Thổ Địa
nói: “Quỷ tên là Tào Thiên Hỷ, người xứ Giới
Hưu. Đời trước, ông Trầm làm huyện lệnh
nơi ấy, ăn hối lộ, vu oan, khiến họ Tào
bị giam cầm, bị phạt trượng đến
chết, nên nay đ̣i mạng. Ta đă bẩm với Thành
Hoàng. Thành Hoàng tra thấy họ Trầm đời này không
có tội ǵ, khuyên họ Tào hăy để cho họ Trầm
hằng ngày niệm Tâm Kinh năm mươi lần, lấy
năm tháng làm hạn, kiền thành chép năm mươi quyển
Tâm Kinh đốt đi để cởi gỡ oán thù”. Ông
Trầm tuân lời dạy. Về sau, do bận bịu nên hơi
lười nhác, Thổ Địa giáng đàn bảo: “Trước
kia ta giấu đao của họ Tào, đứng giữa
giàn xếp. Nay ngươi phụ ước, họ Tào lại
đ̣i đao”. Ông Trầm bái tạ sám hối, kiền thành
tụng Tâm Kinh không dám lười nhác.
Đời Minh, Hồ
Thiên Trụ chẳng theo Ngụy Đang [dấy loạn], bỏ
chức quan, xuống tóc, tách họ ra làm tên, đặt hiệu
là Cổ Nguyệt[36], bị vết ghẻ có h́nh mặt
người, nói: “Ta là Lô Chiêu Dung đời Đường,
ông giết chết ta, hơn sáu trăm năm vẫn c̣n làm
quỷ. Hăy nên chép kinh để cứu vớt”. Cổ Nguyệt
nhịn đau chép kinh, c̣n niệm thánh hiệu Quán Âm, vết
ghẻ liền lành.
Theo Minh Báo Lục, con
gái Lăng Tụ Cát ở Hàng Châu bị bệnh, thốt lời
trách mắng. Hỏi tới th́ xưng là oán thù đời
trước, bảo: “Ta là Nghê Thụy Long, người
Dương Châu có năm mươi mẫu đất, bị
cường hào chiếm đoạt. Con gái ngươi
đời trước chính là Lưu X... làm Sát Viện, nhận
tiền của ta mà lại hại ta phải chết trong
ngục, ngậm oan sáu mươi năm, nay đến
đ̣i mạng”. Nói xong, kéo [con gái ông Lăng] xuống địa
phủ, trong miệng ŕ rầm kể chuyện cơi âm: “Thoạt
đầu tối như mực, mất một lúc mới
nhận được mọi vật, Quỷ Môn Quan, Vọng
Hương Đài, Nại Hà Kiều, đều đi qua hết.
Người bị xay, xương cốt vỡ nát từng
miếng, kêu la đau đớn, chia cho trùng kiến. Những
chuyện khác đau đớn chẳng thể nói
được! Lại có một chỗ đèn đuốc
sáng ngời, áo mũ rỡ ràng, là nơi người lành ở.
Lại đến một chỗ, sáng như ban ngày, sen nở
đỏ, trắng, gió thơm lùa ngát mũi, nhà cửa
đều bằng vàng, bằng ngọc, chính là chỗ ở
của bậc chí thiện”. Tụ Cát bảo con gái hăy kiền
thành niệm Quán Âm, mỗi ngày ba ngàn biến để cầu
giải oan. Cô gái thấy quỷ sứ cho biết đă
đến hạn thẩm tra, bèn mê đi. Họ Nghê tố
cáo [trong đời trước] cô
đă ăn hối lộ, khiến ông ta bị chết, cô
gái biện bạch ông ta chết không phải do chính
ḿnh gây ra. Thần phán định: “Ông ta chết là do bị
người nhà hạ độc! Tuy ngươi không biết
nhưng ăn hối lộ một ngàn hai trăm lạng bạc,
cũng không lẽ nào được sống sót!” Cô gái hoảng
sợ, xin tha mạng. Vua nói: “Nghĩ ngươi đă sám hối,
tŕ tụng Quán Âm, nên thả ngươi, nhưng phải tận
lực làm lành để tăng thọ”, vua sai đưa về.
Bèn mời Ẩn Nhai thiền sư làm lễ phóng Diệm
Khẩu. Con rể là Giang X... tận mắt thấy quỷ
có h́nh dáng mặt đen, phun lửa, nói: “Pháp sư đạo
lực sâu dầy, chúng con được ăn, sắp ra
đi vĩnh viễn, xin ông Lưu hăy đưa tiễn”.
Cô gái tự chồm dậy, đến chỗ lập
đàn, bệnh trầm kha liền hết.
Theo Tự Cầu Tập,
ông Thí ở Tô Châu khinh tài trọng nghĩa, đem vàng tu bổ
Đại Sĩ Điện ở Hổ Khâu, nghe có tiếng
khóc, nh́n xem th́ thấy bạn học là Quế X... nói mắc
nợ muốn tự tử, ông bèn đem ba trăm lạng
vàng trao cho. Ông Quế lạy trước Đại Sĩ,
thề: “Nếu đời này chẳng thể trả
được, đời sau sẽ làm chó ngựa báo
đáp”. Ông Thí lại cho ông Quế ở trong vườn
táo. Ông Quế có một gái, ông Thí bèn hứa sẽ cưới
cho con trai của ḿnh tên là Hoàn. Không lâu sau, họ Quế
đào được hơn một ngàn lạng vàng dưới
gốc cây táo, dần dần giàu lên. Trái lại, ông Thí
đâm ra nghèo nàn, vợ chồng kế tiếp nhau mất
đi. Ông Quế rắp tâm bội hôn, dời sang Cối
Kê. Thí Hoàn nạp sính lễ, ông Quế không nhận.
Về sau, ông Quế
lên kinh đô bị lường gạt, tài sản hao hụt
quá nửa. Ngủ trong quán trọ, thấy có một ṭa nhà
to, bên cạnh có lỗ chó, liền nép xuống đất
chui vào, thấy ông Thí bèn chắp tay chào. Ông Thí quát: “Súc sanh sủa
bậy!” Chạy ra sau vườn, thấy vợ và hai con
đều mang h́nh dáng chó, nh́n lại chính thân ḿnh cũng là
chó, kinh hăi hỏi: “Sao lại ra nông nỗi này?” Vợ
đáp: “Ông chẳng nhớ lời thề trước tượng
Đại Sĩ hay sao?” Kinh hăi tỉnh giấc, vội trở
về th́ hai con đă chết, vợ cũng sắp nguy, trợn
mắt, nói giọng đứa con cả: “Vua cơi âm do thấy
nhà ta phụ ơn ông Thí nên phạt chúng ta đều sanh
làm chó [trong nhà ông ta]. Hai con đực là anh em con, c̣n con cái lưng
có bướu là mẹ. Tới mùa Thu cha cũng sẽ sanh
vào đó. Chỉ có em gái con là do có nhân duyên nên được
miễn”.
Ông Quế đang kinh
hăi, đau đớn th́ bị cháy nhà, chẳng c̣n một vật
ǵ, bèn dắt con gái sang t́m con ông Thí. Đến nơi th́ nhà
cửa khang trang, Thí Hoàn đă thi đậu, đă cưới
con gái quan Tham Chánh. Ông Quế hối hận, nhờ người
bày tỏ ḷng hối tiếc và ư muốn xin dâng con gái làm thiếp.
Thí Hoàn không chấp nhận. Ông Quế bước vào nhà, ba
con chó vây quanh sủa ai oán, một con quả thật có
bướu, biết là vợ con ḿnh, đau đớn cùng
cực, hướng về phía Thí Hoàn khóc lóc, lạy lục,
kể lại giấc mộng và lời vợ nói lúc lâm
chung, van nài: “Xin ân nhân mở một mặt lưới, nhận
con gái tôi làm tôi tớ, cho tôi làm nô bộc để tận
lực làm lụng nhằm thay cho quả báo làm chó”. Thí Hoàn
thương cảm nhận lời. Ông Quế đêm mộng
thấy vợ con nói: “May mà ông đă hối tội, chúng tôi
được thoát thân nghiệp chướng”. Đến
sáng, cả ba con chó đều chết, c̣n chính ông ta đến
hết năm cũng không sao.
(15) Đời Tống,
một vị tăng ở Hổ Khâu là Pháp Đạo do bị
bệnh liền biến h́nh thành ngạ quỷ, bụng to,
họng nhỏ. Người ta cho ăn bèn kêu là viên sắt.
Đạo pháp sư tụng chú Đại Bi, đem nước
đă tụng chú rưới lên, [Pháp Đạo] bèn đ̣i
ăn cháo, dần dần khỏi bệnh.
Đời Đường,
Long Đức Minh mất, vào cơi âm. Diêm vương hỏi
lúc sống làm điều lành nào? Thưa: “Tôi tụng Quán Âm
Kinh”. Vua mời lên ṭa, vừa mới đọc tựa
đề kinh, sự khổ trong địa ngục đă
dứt.
(16) Theo Linh Sơn Thắng
Tích, vào đời Tống, mẹ ông Phạm Trọng Yêm mất
được ba tuần, báo mộng, khóc lóc nói: “Mẹ do
nghiệp phải bị giam cầm nơi Thái Sơn Phủ
Quân, chịu phạt không kham nổi. Xin con hăy tụng kinh
Kim Cang một tạng để cứu vớt, xin đừng
chần chừ, nghi hoặc. Nếu mẹ lọt vào địa
ngục sẽ vĩnh viễn chẳng thể siêu sanh”. Ông
Phạm khóc lóc, tỉnh giấc, liền mời Tăng
phúng tụng. Đến hôm thứ sáu, mộng thấy mẹ
bảo: “Nhờ con chí thành, cảm Bạch Y Đại
Sĩ giáng phàm, đọc nửa quyển kinh, mẹ
được sanh lên trời, hăy nên đáp tạ Đại
Sĩ trọng hậu”. Trong ngày tụng kinh viên măn, ông Phạm
bèn cảm tạ chúng tăng; nhân đó, hỏi ai là người
đă tụng nửa quyển kinh. Chúng tăng thất sắc
đáp: “Tụng kinh chẳng thiếu một chữ, há lại
có chuyện chỉ tŕ nửa quyển?” Có một vị
Tăng ở bên cạnh nói: “Ngày hôm qua đại chúng tụng
kinh, sơn tăng đứng bên cạnh yên lặng nh́n,
đến nửa quyển th́ Ngài đến dâng
hương, liền trở về nhà bếp làm việc,
nay Ngài hỏi tới, tôi xin đáp thẳng”. Ông Phạm sụp
xuống lạy, vị Tăng nói: “Mạc, mạc” (đừng,
đừng) rồi bay lên trời, chẳng thấy nữa!
Do vậy, ông Phạm bèn dựng ṭa Mạc Mạc
Đường để kỷ niệm.
Theo Nam Hải Từ
Hàng, Phương Nham Tú ở Huy Châu, vợ chết v́ sanh nở,
mộng thấy vợ bảo với Nham: “Lúc c̣n sống, tội
lỗi đă nhiều, chịu phạt chốn âm tào. Xin hăy
tụng Quán Âm Kinh một ngàn biến, in tặng một ngàn
quyển để mong được siêu sanh”. Ông Nham làm
theo. Về sau, bà vợ kế có mang, chợt thấy
người vợ trước đi vào pḥng. Đứa
con sanh ra đặt tên là Nguyên Hanh, lúc trưởng thành
đậu Tiến Sĩ.
(17) Theo Phổ Đà
Chí, trong bài kư của Cao Sĩ Kỳ có kể: “Vợ tôi là Phó Thị, tin Phật,
ăn chay, bị bệnh ngất đi rồi tỉnh lại,
nói: ‘Nếu tu bổ đại điện Phổ Đà
th́ sẽ tăng thọ’. Mấy hôm sau, vợ mất, tôi
bèn gom góp tiền bạc cùng các thứ trâm, bông tai của vợ
để góp phần sửa chữa đại điện,
mời tăng tụng kinh, thầm nguyện Đại
Sĩ cho vợ báo mộng. Tối hôm ấy, đứa con
lớn mộng thấy có vị Tăng nắm tay áo dẫn
đến Phổ Đà, thấy điện đường
nguy nga, đề biển là Phổ Trang Nghiêm Điện.
Chúng tăng tụng kinh, lại nói: ‘Do công đức sửa
chữa điện, vĩnh viễn chẳng đọa ba
đường ác, sanh trong trời người, hưởng
diệu lạc thù thắng’. Lại thấy mẹ mặc
áo vàng váy trắng, chắp tay ở trước điện,
bảo: ‘Kim Cang Bát Nhă lợi khắp các cơi nhiều như
cát. Ta nương theo Phật lực ghi nhớ chẳng
quên, phát Bồ Đề tâm, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển. Hăy nhắn với
cha con đừng nhớ nhung mẹ nữa’, đứa con
liền tỉnh giấc. Đứa con tánh t́nh thật thà[37], quyết
chẳng phải là bịa chuyện. Do vậy bèn ghi lại.
Áo vàng, váy trắng chính là những thứ đă đốt
cho bà ta”.
Theo Hồ Nhuyên Tạp
Kư, vào đời Thanh, Kim Hoàn ở Thiệu Hưng tánh hiếu
thảo, thương yêu anh em. Trong niên hiệu Khang Hy, mộng
thấy có người bảo: “Vào ngày này năm sau,
ngươi sẽ bị sét đánh”. Hằng ngày Hoàn bèn lễ
Đại Sĩ sám hối tội nghiệp. Năm sau, vào
đúng hôm ấy, trời tối sầm, Hoàn sợ không
tránh khỏi được, kinh động đến mẹ
già, bèn ra ngoài quỳ dưới tháp Phật, sấm sét
đánh ầm ầm chung quanh. Đến khi tạnh mưa
vẫn không sao. Hỏi chuyện, Hoàn nói: “Đúng như
trong mộng, tôi thấy Đại Sĩ dùng cành
dương rưới nước, lại cầm
gương chiếu một cái rồi đi”.
(18) Theo Quái Viên, trong
niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, Chương Tảo
bị bệnh nguy ngập, phát tâm chép kinh, thờ tượng,
liền mộng thấy năm con quỷ ṿ đầu tóc rối
bù, quần áo lam lũ, bắt đi, lột quần áo trao
đổi rồi bỏ đi. Chợt thấy chủ tiệm
bán tượng Phật bảo: “Trang phục của ông
để ở đây”, đi t́m quả nhiên t́m được.
Thấy giường Thiền cao rộng, một vị Phạm
tăng ngồi trên ấy, ông Tảo làm lễ. Thị
đồng bảo: “Pháp Hoa đại sư đấy!”
Đi ra, thấy trong đ́nh có người đàn bà mặc
áo trắng xách giỏ đứng đấy, ông Tảo vái
chào, bà ta dùng cành dương gạt đầu tóc rối bù,
liền tỉnh giấc, biết là Đại Sĩ cứu
vớt.
Theo Pháp Uyển Châu Lâm,
đời Đường, Hứa Nghiễm sống bằng
nghề bắt cá. Về sau mắc bệnh, thân đỏ
như lửa, đau đớn hơn bị nung nướng,
kêu: “Xe lửa đốt thân, tôm cá tranh nhau đến rỉa
rói”. Có người khuyên hăy làm công đức, ông ta bèn đốt
dụng cụ bắt cá, tạo hai bức tượng
Đại Sĩ, cúng dường, sám hối. Cả nhà
ăn chay, kiêng giết và thí Kim Cang Kinh, liền khỏi bệnh.
(19) Với câu trên, xin
coi lại lời chú thích cho đoạn thứ ba, tức đoạn
“nhập tam đồ” trong phần ca tụng chú Đại
Bi.
Trong bài kệ của Tỳ
Bà Thi Phật có câu: “Huyễn
nhân tâm thức bổn lai vô, tội phước giai không vô
sở trụ” (Tâm thức huyễn nhân vốn là không, tội
phước đều không, chẳng hề trụ). Trong
bài kệ của Câu Na Hàm Mâu Ni Phật có câu: “Trí giả năng tri tội tánh
không, thản nhiên bất bố ư sanh tử” (Trí giả
biết tội tánh vốn không, thản nhiên chẳng khiếp
sợ sanh tử).
Tô Đông Pha nói: “Ta tạo vô thỉ nghiệp, vốn
từ một niệm sanh. Đă từ một niệm sanh,
vẫn theo một niệm diệt”.
Than
ôi!
1. Sống
là Phần Đoạn, ai trốn khỏi cực h́nh ngũ
thống, chết bèn trầm luân, lại thọ quả báo
lục giao.
2. Đau
đớn, thảm thiết, xót xa, kệ từ mẫu chẳng
gọi, kiêu căng, phóng túng, hồ nghi, bỏ lương
y chẳng đoái.
3. Tự
chuốc buồn phiền, há chẳng ngu lắm ư?
4. Huống
hồ, thuốc vốn là Vô Úy, không chỉ các nạn trọn
tiêu, châu quả thật Ma Ni, càng mừng sở cầu
như nguyện.
5.
Trần thuật phước báo, nhờ dục kéo lôi. (Trên
đây là tổng kết về sự cứu khổ, tiếp
theo là ca tụng sự ban vui).
(1) Lục đạo
luân hồi đều thuộc về Phần Đoạn Sanh
Tử. Do đời này chẳng biết đến chuyện
thuộc đời khác, nên bảo là Phần Đoạn.
Vô Lượng Thọ
Kinh: “Ngă ư thử thế
gian tác Phật, xử ư ngũ ác, ngũ thống,
ngũ thiêu chi trung, vi tối kịch khổ, giáo hóa quần
sanh, linh xả ngũ ác, linh khử ngũ thống, linh ly ngũ
thiêu” (Ta làm Phật trong thế gian này, ở trong đời
có năm thứ ác, năm thứ đau đớn, năm
thứ thiêu đốt khổ sở nhất, để
giáo hóa quần sanh khiến họ bỏ năm thứ ác,
trừ năm thứ đau đớn, ĺa năm thứ
thiêu đốt).
Lăng Nghiêm Kinh: “Bỉ chư chúng sanh, tự nghiệp
sở cảm, tạo thập tập nhân, thọ lục
giao báo” (Các chúng sanh ấy do nghiệp của chính họ
cảm vời, tạo ra mười nhân tập khí, chịu
quả báo của lục giao). “Lục
giao” chính là sự “thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng
chạm, nghĩ tưởng” nơi sáu căn, cùng hứng
chịu ác báo vậy.
(2) Sử Kư: “Đau đớn, thảm thiết,
xót xa, chưa từng không kêu cha gọi mẹ”. Cũng theo Sử Kư, có
sáu loại bệnh chẳng trị được, thứ
nhất là kiêu căng, phóng túng, thứ sáu là chẳng tin vào
thầy thuốc.
(4) Theo phẩm Nhập Pháp Giới kinh Hoa
Nghiêm: “Như nhân đắc Vô
Úy dược, ly ngũ khủng bố, hỏa bất
năng thiêu, độc bất năng trúng, đao bất
năng thương, thủy bất năng phiêu, yên bất
năng huân” (Như người được món thuốc
Vô Úy, ĺa năm sự sợ hăi: Lửa chẳng thể
đốt, chẳng bị trúng độc, đao chẳng
thể gây tổn thương, nước chẳng thể
cuốn trôi, khói chẳng thể hun).
Trong phần giảng về
Thập Địa, kinh lại có đoạn viết: “Như đại Ma Ni châu,
năng tùy vương ư, vũ chúng bảo vật, như
chúng sanh tâm, sung măn kỳ nguyện” (Giống như châu
đại Ma Ni có thể thuận theo ư vua, tuôn ra các vật
báu vừa ḷng chúng sanh, thỏa măn ư nguyện của họ).
Như Ư Luân Chú Kinh
cũng viết: “Đẳng Ma
Ni châu, năng măn hữu t́nh nhất thiết thắng nguyện”
(Giống như châu Ma Ni có thể thỏa măn hết thảy
nguyện thù thắng của hữu t́nh).
(5) Duy Ma Kinh: “Tiên
dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập Phật trí”
(Trước hết dùng dục để lôi kéo, rồi làm
cho họ nhập Phật trí).
2.2.3. Ban
vui
Trong phần
này chia thành bốn đoạn. Trước hết là ban cho
được mùa, hai là giáng phước, ba là tăng thọ,
bốn là sanh con.
2.2.3.1. Ban
cho được mùa
1.
Bèn có đao đặt trên chậu, thỏa ḷng Lương
đế nguyện cầu, b́nh tưới lên trời, gỡ
mối lo của Đường thất.
2. Kim thân
hiện tướng, thật hợp ḷng Vương Cổ
mong cầu. Dấu thiêng tùy duyên, sự truyền trong bài kư
Lưu Canh.
3. Động
Triều Âm, cầu khẩn thiết tha, hoan hỷ đến
đón. Chốn Tứ Châu vẳng nghe tiếng hát, Đông
Tây trúng mùa.
4. Tưới
nhuần Chiết thủy, há v́ hương mộc mới thiêng?
Phước đẫm Ngô Sơn, kim thân linh dị chẳng
trật!
5. Thiên
Hán trọn nhờ tưới đẫm, Quảng Phong
cũng nhớ ân sâu.
6. Nổi
sấm chớp trừ nạn châu chấu, ngăn ḍng sông
để dứt nước tràn.
7. Cảm
bi nguyện của Đạo Châu, mưa tuyết đúng kỳ;
chép thần thông ngài Vô Úy, hiện tướng thái dương.
8. Nhị
Lâm tụng chú, gom thơ, kư, thành tập Quán Hà. Mạnh Túc
tŕ kinh, lời ca tụng
vang dội Cao Uyển.
9. Gỡ
rối, họ Tŕnh dốc ḷng nơi pháp, thân chẳng chấp
chặt hẹp ḥi. Báo mộng cảnh tỉnh Trung Ư
Vương, tượng Phật ắt cầu thanh tịnh.
10. Như
Bích Chi thọ thực, khắp xứ Ca Bạt ấm no.
Pháp Âm làm vua, trọn cơi Diêm Phù hưởng phước.
Đấy chính là sự ban vui thứ nhất của Đại
Sĩ vậy.
(1) Theo Cao Tăng Truyện,
tập Một, mùa Đông năm Thiên Giám thứ 5 (506) đời
Lương bị hạn hán, ngài Chí Công sai giảng kinh Thắng
Man để cầu mưa. Pháp vừa giảng xong, trời
đổ tuyết lớn. Chí Công bảo đem đặt
thanh đao trên chậu nước, mưa to trút xuống.
Theo Cao Tăng
Truyện, tập Ba, Đường Trung Tông đón đại sĩ Tăng Già vào
cung để cúng dường. Một hôm, vua nói: “Chốn
kinh kỳ mấy tháng không mưa, xin hăy từ bi giải nỗi
lo cho trẫm”. Sư hắt b́nh nước lên không trung,
mưa ngọt ào ào trút xuống. Xét ra, hai vị này đều
là do Đại Sĩ ứng hóa, xem chú thích trong phần sau.
(2) Đời
Tống, Vương Cổ cầu mưa trên núi Mộc
B́nh, Đại Sĩ hiện tướng. Xin coi chuyện
này trong lời chú thích thứ hai cho phần “hiện tướng
ở nơi khác” [trong quyển 1], mưa to ngập đến
chân.
Theo Phổ Đà Chí, học
sĩ đời Nguyên là Lưu Canh chép: “Bảo Đà được sáng lập từ thời
Nguyên Phong; khi ấy, trong những sự tích linh thiêng tùy duyên
thị hiện th́ sự cảm ứng đối với
hạn, lụt, gió, sóng là nhanh chóng nhất”.
(3) Theo Phổ
Đà Chí, trong niên hiệu Thuần Hựu đời Tống,
hạn hán dữ dội mấy năm liền. Người
đứng đầu vùng Chiết Giang là Nhan Di Trọng
đến động Triều Âm cầu đảo, thấy
Đại Sĩ hiện tướng hoan hỷ, mưa ngọt
lập tức trút xuống.
Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, Tăng Già đại
sư đời Đường có tháp thờ ở Tứ
Châu, hiển hiện các thứ thần dị. Trong niên hiệu
Trường Khánh, có lời ca rằng: “Hoài
(4) Theo
Thiên Trúc Chí, năm Hàm B́nh nguyên niên (998) đời Tống,
Trương Khứ Hoa làm quận thú đất Hàng. Trời
hạn hán to, cầu đảo khắp nơi vô hiệu,
bèn rước tượng Đại Sĩ sang chùa Phạm
Thiên để lễ bái, cầu nguyện. Trời liền
mưa to, bốn phía nước ngập đến chân.
Lại nữa, vào
năm Cảnh Thái thứ 6 (1455) đời Minh, vùng Lưỡng
Chiết khổ sở v́ hạn, Trấn Thủ là ông Tôn
bèn trai giới, tắm gội, đi chân không đến
chùa Thiên Trúc, đón tượng về cầu mưa. Ngay
hôm ấy, mây kéo dầy, mưa liên tiếp ba ngày, những
thứ khô khao đều hồi sinh.
Lại nữa, vào
đời Thanh, trong lời tựa cho bộ Cảm Ứng
Tụng của Kim Đ́nh Tử có viết: “Năm Gia Khánh 24 (1819), hạn hán dữ dội, xác chết
khô đầy đồng, cầu đảo khắp
nơi vô hiệu, bèn truyền bọn huyện lệnh không
được ngồi xe, mặc áo trắng, đi chân không
sang chùa Thiên Trúc, đón Đại Sĩ, các vị Tăng
như Huệ Lâm v.v... tụng kinh. Trước hết, họ
dùng b́nh sạch đựng nước cho rỉ ra để
xét nghiệm xem có mưa hay không. Sau một ngày, nước
trong b́nh hơi trào ra, nhỏ tí tách như từng hạt châu, quả nhiên được
mưa lay phay. Ngày hôm sau, nước tuôn ra ào ạt, liền
mưa lớn. Do vậy, soạn bài tụng để nêu
rơ sự ứng nghiệm thần kỳ”.
Theo Hồ Nhuyên Tạp
Kư, tượng Đại Sĩ cũ ở chùa Thiên Trúc bị
người Kim là Ngột Thuật[38] chở lên phía Bắc. Tăng chúng trong
chùa dùng loại gỗ khác khắc lại tượng mới,
nhưng nước lụt, hạn hán, cầu đảo
không ǵ chẳng ứng nghiệm. Tin chắc Ngài do ḷng đại
từ, tùy duyên cư trụ, há có phải xá-lợi mới
hiện oai thần, gỗ lạ mới bày sự dị
thường ư? Câu kế tiếp xin coi lời chú thích 12
trong phần Hiện Thần Biến.
(5) Theo Cảnh
Tâm Lục, tại Tứ Xuyên, nơi giáp ranh giữa Thiên
Bành và Hán Phồn có suối Quán Âm, từ Đạo Bàng chảy
ra. Mùa Hạ gặp trời hạn, nước suối ấy
tưới tắm mấy ngàn mẫu, cả hai ấp
được nhờ.
Theo Hải Nam Nhất
Chước, ngoài cửa Bắc thành Quảng Phong ở
Giang Tây, có suối Quán Âm, gặp năm khô khan, suối vẫn
chẳng cạn, tưới tắm rất rộng.
(6) Theo
Thiên Trúc Chí, năm Tường Phù thứ 9 (1016) đời
Tống, châu chấu bay kín trời, vua sai sứ cầu
đảo Đại Sĩ. Trời đang nắng chang
chang, chợt nổi sấm, nháng chớp,
mưa đá sầm sập trút xuống như bắn tên,
quăng đá, châu chấu hết sạch.
Lại nữa, năm
Khai Bảo thứ 5 (972) đời Tống, mưa to, nước
sông chảy xiết. Vua cầu đảo thiên địa
quỷ thần, mưa càng lớn hơn, bèn sai sứ sang
chùa Thiên Trúc kiền thành cầu đảo. Mấy hôm sau,
trời tạnh ráo, nước sông không dâng lên nữa. Sứ
giả trở về, hỏi ra, th́ quả thật [trời
ngưng mưa] nhằm đúng hôm sứ giả vừa
đến Hàng Châu cầu đảo. Từ đó, hễ nước
lụt, hạn hán, tật dịch đều cầu đảo
ở đấy.
(7) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời
Thạch Tấn[39], Thích Đạo Châu vào núi Hạ Lan,
trích huyết vẽ tượng Đại Bi Thiên Thủ
Thiên Nhăn, tuyệt thực cầu mưa, được cảm
ứng. Ngài lại chặt tay trái, đem đốt cúng
dường tượng Đại Sĩ, nguyện xă tắc
Trung Nguyên sớm dứt đao binh. Nói xong, trời nổi
sấm, gió dậy, mưa to trút xuống. Lại nữa, Sư
từng cắt tai trái để cầu mưa cho dân, nhịn
ăn cầu trời đổ tuyết, đều
được như nguyện.
Hơn nữa, đời
Đường, ngài Thiện Vô Úy[40] cầu mưa ở Trung Thiên Trúc, thấy
Quán Âm [hiện thân] trong vầng mặt trời, cầm tịnh
b́nh xối nước xuống đất, đại chúng
đều vui mừng cảm động.
(8) Theo
Quán Hà Tập, năm Ất Tỵ (1785) đời Càn Long
nhà Thanh, Tô Châu hạn hán, cư sĩ Bành Nhị Lâm (Bành Tế
Thanh) kết giới hai mươi mốt ngày tụng tâm chú
Đại Bi, tŕ thêm thánh hiệu của Tây Phương Phật
(A Di Đà Phật), bỏ ăn trưa. Măn kỳ hạn,
mưa ngập nửa thước. Có thơ rằng: “Hung niên bất đáo liên hoa quốc,
từ tế trường hoài tử trúc lâm, phần đắc
tư nhân cơ bán nhật, chi đầu điểm trích
dă thành lâm” (Cơi hoa sen chẳng
bị mất mùa, rừng trúc biếc ḷng Từ sẵn
giúp, kẻ mọn nhịn ăn chừng nửa buổi,
giọt sương ngọn trúc hóa mưa dầm).
Theo Cư Sĩ Truyện,
đời Minh, Vương Mạnh Túc tên là Tại Công, là
đệ tử ngài Vân Thê (tổ Liên Tŕ), đồng thời
là tri huyện Cao Uyển. Lúc làm quan, ông Vương lễ
Phổ Môn Đại Sĩ, tụng kinh Di Đà. Trời hạn
hán to, cầu đảo ngoài đất trống, trời
liền đổ mưa.
(9) Theo
Lăng Tích Tục Đàm, tại Phước Châu có một
năm mùa Hè bị hạn hán, quan Tư Đạo bèn yết
kiến quan Đốc Bộ Tŕnh Tân Đ́nh, xin quan tối
nay cùng lên Cổ Sơn, đón tượng Quán Âm Đại
Sĩ - tượng này tự nhiên sanh ra trong ḷ gốm - [về
thành] để cầu mưa. Họ Tŕnh mỉm cười
nói: “Đại Sĩ tại Tây Thiên, chẳng ở Cổ
Sơn, các ông tự làm là được rồi”. Đến
khi đă rước tượng vào thành, mời ông Tŕnh
dâng hương, ông Tŕnh lại ngửa mặt lên trời
nói: “Hôm nay, chính mắt thấy trời không mưa rồi,
ngày mai chẳng mưa th́ lại như thế nào đây? Ta
chẳng thể sấp ngửa chạy đôn chạy đáo
được!” Đêm ấy, trời mưa to lai láng suốt
đêm đến tận sáng. Ông Tŕnh bèn lên núi dâng
hương, giữ tượng Đại Sĩ lại, một
ḿnh tụng kinh cả ngày. Ấy là v́ [linh ứng] đến
mức như vậy th́ chẳng thể nào không hồi tâm
quy hướng được!
Theo Thiên Trúc Chí, Tiền
Trung Ư Vương[41] dốc sức trang hoàng điện
đường chùa Thượng Thiên Trúc. Trời đại
hạn, vương cầu mưa, mộng thấy Đại
Sĩ bảo: “Mặt ta chẳng sạch, chẳng thể
thấy ngoài ngàn dặm được!” Ấy là v́ [chất
sơn để tô] mặt tượng có ḥa ḷng trắng
trứng gà. Sửa đổi, trời liền đổ
mưa.
(10) Theo Bồ
Tát Bổn Hạnh Kinh, có vị Bích Chi Phật thấy nhân
dân Diêm Phù Đề đói kém, bèn tới chỗ quốc
vương là Ca Na Ca Bạt khất thực. Vua bảo: “Ta
chỉ có ngần này thức ăn, nhưng dù có chết
cũng sẽ dâng cơm lên Ngài là bậc thần nhân”. Bích
Chi Phật thọ thực xong, hỏi nhà vua ước nguyện
điều ǵ? Vua nói: “Dân trong nước đói kém, mạng
chỉ c̣n trong sớm tối. Mong trừ sự khốn khổ”.
Ngay lập tức gió nổi lên, thổi sạch ô uế,
mưa xuống món ăn trăm vị, y phục, trân bảo,
thảo mộc xum xuê, nhân dân no đủ.
Trong kinh Hoa Nghiêm, đồng
nữ Bảo Quang Minh ca tụng Pháp Âm Viên Măn Vương
như sau: “Tŕ thủy kư doanh
măn, lưu diễn nhất thiết xứ, phổ cập
Diêm Phù địa, mị bất giai triêm hợp” (Ao
đă đầy tràn nước, tràn chảy khắp mọi
nơi, trọn khắp đất Diêm Phù, không đâu chẳng
thấm đẫm).
Ghi thêm: Theo Thiên Trúc Chí, vào
đời Tống, Trần Hiên là quận thú Tiền
Đường, soạn bài văn bia Linh Cảm Quán Âm có
đoạn: “Giữa Hạ và
Thu, mưa dầm mấy tháng không tạnh, thần dẫn
quyến thuộc xông mưa lên núi. Khi trở về, trời
đất tạnh ráo, trời chẳng kéo mây. Đem xe rước
Ngài vào thành làm Phật sự xong th́
mưa tạnh đúng lúc, nhà nông chẳng cáo bệnh, quả
thật là Đại Sĩ gia hộ đất này!”
Theo Cao Tăng
Truyện, tập Bốn, đời Minh, ngài Thiện Học
hiệu là Cổ Đ́nh, trụ tại chùa Đại Từ,
có tượng Quán Âm rất linh thiêng. Trời hạn, Quận
Thủ bèn cầu ngài Thiện Học làm lễ cúng dường,
mưa dầm liền trút xuống.
Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng
Tụng
Quyển 2
Phần 2 hết
[1] Thư Cừ Mông Tốn (368-433) là người sáng lập triều đại Bắc Lương vào thời Nam Bắc Triều cuối đời Tấn, thuộc sắc dân Hung Nô. Thoạt đầu Mông Tốn ủng hộ Lữ Quang ly khai nhà Diêu Tần, lập ra nhà Hậu Lương; sau đó, lại chống Lữ Quang, chiếm lănh miền Cô Tạng, tự xưng là Hà Tây Vương. Về sau, Mông Tốn diệt nhà Hậu Lương, khống chế đường giao thông Tây Vực, trở thành vua một nước hùng mạnh. Thư Cừ Mông Tốn rất tôn sùng Phật giáo, từng thỉnh ngài Đàm Vô Sấm dịch kinh Phương Đẳng, Niết Bàn v.v… Em họ Mông Tốn là Thư Cừ Kinh Thanh (?-464) là một cư sĩ học rộng, từng sang Vu Điền học tiếng Phạn, thông thạo Phạn Văn. Chính Kinh Thanh đă đích thân thỉnh ngài Đàm Vô Sấm đến đất Lương và đích thân dịch các bộ Thiền Yếu Bí Mật Trị Bệnh Kinh, Bát Quan Trai Giới Kinh, Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Kinh v.v…
[2] Đàm Vô Sấm (385-433), tên Phạn ngữ
là Dharma-raksa, đôi khi c̣n phiên là Đàm Ma La Thức, Đàm
Ma Sám, Đàm Mô Sấm, Đàm La Vô Sấm, dịch nghĩa
là Pháp Phong. Ngài xuất thân từ ḍng Bà La Môn tại Trung Ấn
Độ, thoạt đầu tu học Tiểu Thừa.
Sau gặp được Bạch Đầu thiền
sư truyền thụ kinh Đại Niết Bàn bèn phát tâm
học Đại Thừa. Năm hai mươi tuổi
Sư đă thông thạo các kinh Đại Thừa, kiêm hiểu
Mật chú nên được gọi là Đại Chú Sư.
Về sau, Sư mang kinh Đại Bát Niết Bàn, Bồ Tát
Giới Kinh, Bồ Tát Giới Bổn v.v… sang Kế Tân,
đến nước Quy Tư. Do thấy hai xứ này sùng
trọng Tiểu Thừa, bèn sang Đôn Hoàng. Năm Huyền
Thỉ nguyên niên (412) nhà Bắc Lương, Hà Tây
Vương Thư Cừ Mông Tốn sai Thư Cừ Kinh Thanh
cung thỉnh Sư đến Cô Tạng để Sư học
tiếng Hán trong ṿng ba năm, rồi bắt đầu
phiên dịch kinh Đại Bát Niết Bàn, hai vị Huệ
Tung và Đạo Lăng giữ nhiệm vụ Bút Thọ. Do
kinh Niết Bàn Sư mang theo chưa trọn vẹn, Sư
bèn trở về Vu Điền, t́m được một
phần cuối kinh ấy, mang về Cô Tạng tiếp tục
dịch. Nhận lời thỉnh của Huệ Tung và Đạo
Lăng, Sư chủ tŕ công việc phiên dịch các kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập, Kim Quang Minh Kinh,
Bi Hoa Kinh, Bồ Tát Địa Tŕ Kinh, Bồ Tát Giới Bổn…
Do Thái Vũ Đế nhà Bắc Ngụy nghe tin Sư thông
thạo phương thuật, bèn sai sứ sang thỉnh,
Thư Cừ Mông Tốn sợ Sư sẽ sang đất
Ngụy, liền giả vờ sai Sư sang Tây Vực t́m kiếm
phần sau kinh Niết Bàn (phần này về sau được
ngài Nhă Na Bạt Đà La dịch tiếp vào đời
Đường), rồi ngầm sai thích khách giết chết
Sư giữa đường. Bản kinh Đại Bát Niết
Bàn của Sư được gọi là Bắc Bản Niết
Bàn để phân biệt với bản dịch Nê Hoàn Kinh của
ngài Pháp Hiển dịch (thường gọi là Nam Bản
Niết Bàn Kinh).
[3] Nguyên văn “hoa
đĩnh” (thuyền hoa): Thuyền chở gái ăn
sương.
[4] Đây là lời giải thích chữ “mộng thụ” trong nguyên bản của tụng văn: “Trần trạch, Phương môn, hộ vệ mạc nghi mộng thụ” (Nhà họ Trần, Phương, che chở chớ ngờ mộng bệnh): “Mộng thụ” (mộng thấy đứa bé) chính là điển tích vua Tấn bị bệnh, nằm mộng thấy hai đứa bé (tiếng cổ là “thụ tử”) từ trong bụng nhảy ra, bàn với nhau ‘lương y đă đến, hăy trốn kỹ vào phía dưới Cao, phía trên Hoang th́ thầy thuốc không làm ǵ được!’ Khi thầy thuốc đến, bảo bệnh đă nhập Cao Hoang (phần dưới hoành cách mô, phía trên gan) không cách nào trị được!
[5] Bôi Độ là một sư nổi danh
ở kinh đô vào thời Tống, không rơ họ tên, Ngài
thường đạp lên một cái chén để vượt
qua sông nên được gọi là Bôi Độ. Ngài xuất
hiện đầu tiên ở Kư Châu, không giữ oai nghi, thậm
chí không ăn chay, mà ăn thịt, uống rượu, quần
áo tồi tàn lam lũ, không đủ che thân, thần lực
khó đoán. Ngài ra vẻ hỷ nộ bất thường,
nhưng lời lẽ phảng phất huyền cơ sâu
xa. Ngài thường lang thang khắp nơi, tắm trong
băng giá, Những chuyện thần dị của Ngài
được chép trong bộ Lương Cao Tăng Truyện.
Khi Ngài sắp tịch, có ngỏ lời xin một đệ
tử may cho một tấm ca-sa, nói: “Ngày mai ra khỏi cửa sẽ không quay lại nữa”.
Áo chưa may xong th́ Ngài đă đi mất. Cả vùng chợt
nghe mùi hương lạ ngào ngạt, đi t́m thấy Ngài
nằm dưới gộp đá, quấn ḿnh trong tấm ca-sa
rách, đă tịch từ lâu. Từ đầu đến
chân đều trổ hoa sen thơm ngát. Mấy hôm sau, có
người từ phương Bắc về nói thấy
Ngài lang thang tại Bành Thành. Đại chúng hồ nghi, mở
quan tài ra xem th́ thấy chỉ c̣n đôi giày.
[6] Tuần Kiểm là một chức quan vơ
đời Tống trấn nhậm những vùng trọng yếu,
quản hạt châu huyện, huấn luyện binh lính, tuần
pḥng trong địa phương, duy tŕ an ninh, trấn áp phản
loạn.
[7] Ngụy Tử chính là Ngụy Cao, tự Bá Dương, hiệu Vân Nha Tử, một nhà luyện đan nổi tiếng thời Đông Hán, quê ở Cối Kê, đại khái sống vào thời Hán Hoàn Đế (147-167), ưa chuộng Đạo giáo, ham luyện đan, được coi là tác giả của bộ Tham Đồng Khế, là sách gối đầu giường của những kẻ ham mê luyện đan, tin vào chuyện trường sanh bất lăo! Trong câu nói này của họ Ngụy, chữ “Đạo thuật” chỉ cho cách luyện đan nói riêng và những cách luyện tập của Đạo giáo nói chung. Nhưng cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh mượn câu nói này để ca ngợi thần lực chẳng thể nghĩ bàn của Quán Thế Âm Bồ Tát, chứ không hề nhằm ca ngợi Đạo Giáo. Chữ “đạo thuật” trong câu “Trị bằng đạo thuật, thánh thần công xảo há thể suy lường?” hàm nghĩa: Sức thần thông chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát, làm sao có thể đem các tài khéo chữa bệnh của thế gian như Thánh, Thần, Công, Xảo đă nói trong Nạn Kinh, để suy lường lực dụng của Bồ Tát cho được!
[8] Biển Thước vốn họ Tần,
tên Việt Nhân, có hiệu là Lô Y, người đất Trịnh
thuộc Bột Hải (nay là Nhậm Khâu ở Hà Bắc),
không rơ năm sanh và năm mất, phỏng chừng trong khoảng
từ 407 đến 310 trước Công Nguyên, là danh y thời
Xuân Thu Chiến Quốc. Do vậy, người
đương thời gọi ông là Biển Thước
(Biển Thước vốn là tên một vị thần y của
Hoàng Đế trong thần thoại). Ông được coi
là thủy tổ thật sự của y học Trung Hoa,
sáng tạo ra cách coi mạch và chẩn bệnh, lập ra
cơ sở cho cách chữa trị dựa theo biểu hiện
bệnh trạng.
[9] Nạn Kinh là một bộ sách cổ về
y học Trung Hoa, có tên gọi đầy đủ là Hoàng
Đế Bát Thập Nạn Kinh, không rơ được h́nh
thành vào thời kỳ nào. Theo truyền thuyết, sách này do
chính Biển Thước biên soạn, nhằm giải thích
những ư nghĩa khó hiểu, dễ gây vấn nạn trong
bộ Hoàng Đế Nội Kinh, theo h́nh thức vấn
đáp, hệ thống hóa học thuyết kinh lạc, mạch
lư, tạng phủ, chẩn đoán v.v...
[10] Theo Trung Y Dược Điển, Thủy
Tả là chứng bệnh đi tiêu ra rất nhiều
nước khiến người bệnh bị mất
nước nhanh chóng, có thể mất mạng. Có lẽ
đây chính là bệnh dịch tả?
[11] Theo Trung Y Dược Điển, Thủy
Thũng (Edema, dropsy, hay hydropsy) là chứng bệnh chân tay,
thân thể sưng phù, mặt sưng húp, bóp nhẹ sẽ
thấy da lơm xuống, phập phều như khắp thân
được bơm đầy chất khí. Nguyên do là v́ các
chất dịch trong cơ thể sinh ra quá mức, ứ
đọng dưới da.
[12] Huyền Đế có thể hiểu theo nhiều cách:
1. Huyền Đế là thần ở phương Bắc, tên là Chuyên Dĩnh. Do trong thiên Đại Tông Sư của sách Trang Tử có nói Chuyên Dĩnh ở trong cung điện màu đen nên Chuyên Dĩnh được gọi là Huyền Đế. Chuyên Dĩnh là cháu nội của Hoàng Đế, tức là Đế Cao Dương trong cổ sử Trung Hoa. Theo truyền thuyết, Đế Cao Dương thọ đến chín mươi bảy tuổi.
2. Huyền Đế là mỹ hiệu của vua Hạ Vũ. Do Hạ Vũ có công trị thủy, theo Ngũ Hành, nước có màu đen nên Hạ Vũ được gọi là Huyền Đế.
3. Huyền Đế chính là gọi tắt của Huyền Thiên Thượng Đế, tức Chân Vũ Đế Quân, một phân thân của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Đây là cách hiểu phổ biến nhất.
[13] Thanh Chân Tự chính là giáo đường
Hồi Giáo. Đây là cách người Trung Hoa dịch chữ
Masjid (nơi thờ phụng) của tiếng Ả Rập.
Các giáo đường Hồi giáo hiện thời phỏng
theo kiến trúc từ nhà ở cũ của tiên tri Mohamed.
Trong giáo đường Hồi giáo, không được
phép đặt tượng thờ, tranh vẽ hay đồ
cúng, không được vẽ h́nh người. Các câu kinh
Koran hay các họa tiết trang trí được vẽ hay
khắc thẳng lên tường, nhưng thường th́
vách giáo đường để trơn, chỉ khắc
các câu kinh trên đầu các cửa ṿm. Gian pḥng chính giữa
có dấu khắc để chỉ phương hướng
thánh địa
[14] Thị dân: Người sống ở
thành phố lớn, để phân biệt với dân sống
ở các hương trấn hay làng quê.
[15] Sam (Cryptomeria Japonica), c̣n gọi là Liễu Sam, là một loại cây thuộc loài Tùng, thường bị gọi lầm là Japanese Cedar. Cây có thể cao đến 70m, đường kính 4m, lá kim, vỏ cây nâu đỏ, có trái h́nh nón giống thông, gỗ có tinh dầu thơm. Liễu Sam được coi là cây thiêng tại Nhật Bản, chủ yếu trồng quanh các “thần xă” (miếu thờ thần).
[16] Sở Từ nói chung là những tác phẩm thơ ca nơi đất Sở trong thời Chiến Quốc (vua Sở là chư hầu của nhà Châu, nước Sở nằm trong địa bàn hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam hiện thời); nói riêng, Sở Từ là tên một tập sách hợp tuyển những bài thơ ấy, nổi tiếng chỉ kém Thi Kinh. Những tác giả nổi tiếng nhất được giới thiệu trong Sở Từ là Khuất Nguyên, Tống Ngọc v.v...
[17] Theo Phó Đại Sĩ Truyện, Huệ
Tập là học tṛ của Phó Đại Sĩ, nổi tiếng
với tài chữa bệnh và thích phóng sanh. Suốt đời
Sư lo mua lại các loài vật bị đánh bắt để
phóng sanh, không tiếc sức.
[18]
Theo Trung Y Dược Điển, Bạch Lại là một
trong các loại bệnh ma phong (bệnh cùi). Sách trích dẫn
Chư Bệnh Nguyên Hầu Luận, quyển 2, như sau: “Phàm những ai bị bệnh Bạch
Lại th́ tiếng nói rè đục, mắt nh́n không rơ, tứ
chi tê cứng, các khớp viêm đỏ, trong ḷng bức rức,
chân tay bải hoải... có những vết loét kín, da thường
nổi những vết trắng, mắt có cườm”.
[19] Tăng-già-lê (Samghati), dịch nghĩa là Trùng Y, Đại Y hoặc Tạp Toái Y, là một trong ba y của tỳ-kheo. Loại y này chỉ đắp khi đi khất thực, thuyết pháp, hoặc cử hành pháp hội. Thoạt đầu, có đến chín loại y Tăng-già-lê khác nhau:
1. Bậc hạ là gồm chín điều, mười một điều, mười ba điều. Ba loại y này mỗi điều gồm hai miếng dài, một miếng ngắn.
2. Bậc trung gồm mười lăm điều, mười bảy điều, mười chín điều. Loại y này mỗi điều gồm 3 miếng dài, một miếng ngắn.
3. Bậc thượng gồm hai
mươi mốt điều, hai mươi ba điều
và hai mươi lăm điều. Mỗi điều gồm
bốn miếng dài, một miếng ngắn.
Nay chỉ c̣n thịnh hành loại hai
mươi lăm điều. Y được may bằng
những miếng vải ghép lại theo chiều dọc, gọi
là điều. Mỗi một điều lại được
cắt thành những miếng dài ngắn xen kẽ, trông giống
như thửa ruộng, nên các loại y được gọi
chung là Phước Điền Y.
[20] Thiên Hậu, c̣n được gọi
là Thiên Phi, Mỵ Châu Nương Nương, Thiên Phi
Nương Nương, Thiên Hậu Nương
Nương, Thiên Thượng Thánh Mẫu, Ma Tổ (thường
bị đọc trại thành Mă Tổ) v.v... là một vị
nữ thần được dân cư vùng Đông Nam Trung
Quốc sùng bái, nhất là ngư dân. Theo ngọc phổ, bà
có tên thật là Lâm Mặc, không rơ sanh và mất năm nào, chỉ
biết bà đă được phong thần từ thời
Tống, quê quán tại đảo Mỵ Châu, huyện Bồ
Điền, tỉnh Phước Kiến. Tương truyền,
bà lúc c̣n sống có tài tiên tri, dự đoán họa phước
nên được dân chúng tôn sùng, lập miếu thờ sau
khi mất. Bà được tôn lên thành vị thần bảo
hộ cho hàng hải sau khi có chuyện Cấp Sự Trung Lộ
Doăn Địch đi sứ Cao Ly vào năm Nguyên Ḥa thứ
5 (1123) đời Tống Huy Tông, ch́m thuyền, được
bà che chở. Ông Lộ thoát nạn, bèn trùng tu miếu thờ,
triều đ́nh ban tặng biển đề Thuận Tế.
Các triều đại kế tiếp liên tiếp sắc
phong như năm 1156, Tống Cao Tông sắc phong bà là Linh Huệ
Phu Nhân, Tống Quang Tông phong cho bà hiệu Linh Huệ Phi,
năm Chí Nguyên 15 (1278), nhà Nguyên sắc phong cho bà hiệu Hộ
Quốc Minh Trước Linh Huệ Hiệp Chánh Thiện
Khánh Hiển Tế Thiên Phi. Danh xưng Thiên Hậu bắt
đầu từ đời Thanh khi vua Khang Hy gia phong cho bà
mỹ hiệu Hộ Quốc Tỳ Dân Diệu Linh Chiêu Ứng
Nhân Từ Thiên Hậu. Lần sắc phong cuối cùng là do
vua Hàm Phong ban chiếu vào năm Hàm Phong thứ 7 (1857) và
cũng là mỹ hiệu dài nhất Hộ Quốc Tỳ
Dân Diệu Linh Chiêu Ứng Hoằng Nhân Phổ Tế
Phước Hựu Quần Sanh Thành Cảm Hàm Phù Hiển
Thần Tán Thuận Thùy Từ Đốc Hựu An Lan Lợi
Vận Trạch Đàm Hải Ninh Điềm Ba Tuyên Huệ
Đạo Lưu Diễn Khánh Tĩnh Dương Tích Chỉ
Ân Châu Đức Phổ Vệ Tào Bảo Thái Chấn Vũ
Tuy Cương Thiên Hậu Chi Thần, nhằm ca tụng nữ
thần linh ứng, oai linh, nhân từ, dẹp yên sóng gió, tạo
phước lợi, che chở nhân dân, giữ yên bờ cơi.
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu theo chân người Hoa
phổ biến khắp vùng Đông Nam Á. Các nơi được
gọi là “chùa Bà” ở Việt Nam chính là miếu thờ
Thiên Hậu.
[21] Mỵ Dự là tên gọi khác của
đảo Mỵ Châu, quê hương của Thiên Hậu.
[22] Nội giáo chính là đạo Phật. Gọi
như vậy v́ đạo Phật dạy tu tập nơi
chân tâm bản tánh, chứ không phải chú trọng luyện
nơi thần thức hoặc cầu trường sanh bất
lăo.
[23] Chân Cáo là một kinh điển trọng
yếu của phái Thượng Thanh trong Đạo Giáo, do
đạo sĩ Đào Hoằng Cảnh (456-536) biên soạn,
gồm 12 quyển, nội dung nhằm giải thích 64 quẻ
của kinh Dịch, tŕnh bày những giáo nghĩa của
Đạo Giáo. Thiên Xiển Vi có tên gọi đầy đủ
là Xiển U Vi, nhằm giải thích thiên giới và tiên giới
theo quan điểm Đạo Giáo.
[24] Kế Tân là một nước cổ ở Tây Vực, cho đến hiện thời, các nhà nghiên cứu vẫn c̣n chưa xác định dứt khoát vị trí nước này. Nói chung, có ba thuyết:
1. Kế
Tân là phiên âm của chữ Kophen, là danh xưng của sông
2. Kế
Tân chính là quốc gia về sau này được ngài Huyền
Trang gọi là Ca Thấp Di La, tức vùng
3. Kế Tân là phiên âm của chữ
Kapisa, tức vùng b́nh nguyên từ Kafiristan cho đến hạ
lưu sông
[25] Chân Đế (Paramārtha, 499-569), c̣n được dịch âm là Ba La Mạt Đà. Sư là một trong bốn vị thánh tăng được xưng tụng là “tứ đại dịch giả” của Hán Truyền Phật giáo (ba vị kia là Cưu Ma La Thập, Bất Không, Huyền Trang). Sư vốn là người xứ Ưu Thiền Ni ở Thiên Trúc, tu tập chủ yếu theo truyền thống Du Già Hành Phái (tức Duy Thức), được coi là vị học giả có uy tín nhất thời đó về Vô Tướng Duy Thức. Sư đi nhiều nước, do từ Kế Tân vào Trung Quốc, nên thường bị lầm tưởng là người xứ Kế Tân. Sư được Lương Vũ Đế thỉnh đến thành Kiến Nghiệp (Nam Kinh) vào năm Thanh Thái thứ 2 (548). Vừa đến nơi, Hầu Cảnh làm loạn, Lương Vũ Đế băng hà. Sư phải lánh nạn đến đất Tô Hàng, vừa lánh nạn vừa theo đuổi việc dịch thuật. Sư dịch được tất cả 76 bộ kinh luận, trong đó có những bộ hết sức quan trọng như Nhiếp Đại Thừa Luận, Câu Xá Luận, Kim Thất Thập Luận... Tuổi già, Sư cảm khái “hoằng pháp không đúng thời, thường bị trở ngại” bèn ngồi thuyền trở về Ấn Độ vào năm 562, nhưng thuyền lại bị băo giạt vào Quảng Châu. Thứ sử Âu Dương Ngỗi dốc cạn ḷng thành cúng dường, Sư tiếp tục sự nghiệp hoằng pháp, dịch kinh. Ngài vừa dịch thuật vừa giảng dạy không mệt mỏi, lại c̣n viết chú sớ cho những bộ kinh luận đă dịch và soạn sách như Hoằng Minh Tập, Cao Tăng Truyện v.v... Dưới ảnh hưởng của Sư, các tông phái Nhiếp Luận Tông và Câu Xá Tông được thành lập để chuyên nghiên cứu những bộ luận ấy.
[26] Ngô âm hay Ngô ngữ là một loại
phương ngôn phổ biến ở vùng Giang Tô, phía Nam các
tỉnh An Huy, Thượng Hải, Chiết Giang, Tây Bắc
tỉnh Giang Tây, gồm nhiều loại nhỏ hơn (gồm
giọng Thái Hồ, giọng Thai Châu, giọng Đông Âu, giọng
Vụ Châu, giọng Xử Cù, giọng Tuyên Châu). Giọng
nói vùng Tô Châu (tức giọng Thái Hồ) được coi
là giọng đặc trưng nhất của Ngô ngữ.
Ngô ngữ khác biệt tiếng Quan Thoại rất lớn,
nó có âm điệu, nhịp điệu biến đổi
liên tục và c̣n giữ nhiều nhân tố ngữ âm cổ
nên nếu không phải người địa phương
sẽ khó thể hiểu người xứ Ngô nói ǵ, chỉ
cảm thấy âm điệu líu lo, ríu rít, thánh thót mà thôi.
[27] Tỷ Phảng (Fall Armyworm) c̣n gọi
là Niêm Trùng, có tên khoa học là Spodoptera Frugiperda, là một
loài côn trùng hại lúa. Chúng đẻ trứng nở ra sâu,
trông giống sâu róm, to từ 3 đến 5 cm, mầu nâu có
những vạch vàng, ăn hại ngũ cốc rất dữ.
Chúng lột xác biến thành bướm trông giống con ngài
hay con nắc nẻ, đẻ trứng rất nhiều. Sử
Trung Hoa thường chép rất nhiều trận đói do Tỷ
Phảng cắn hại hoa màu.
[28] Thanh thũng là những vết xanh bầm nổi lên dưới da do những mao huyết quản bị vỡ. Có những trường hợp máu c̣n đọng lại thành từng thành đám xanh bầm loang rộng, có thể gây thành nhọt loét.
[29] Độc Cô Đà là con thứ sáu của
Độc Cô Tín (Đại Tư Mă thời Ngụy Văn
Đế), vốn thuộc sắc tộc Tiên Ty. Ḍng họ
Độc Cô này được coi là một trong tám ḍng họ
lớn của nước Ngụy
thời ấy. Độc Cô Tín có ba con gái đều là
hoàng hậu. Cô út có tên là Độc Cô Già La, chính là Văn Hiến
Hoàng Hậu, vợ của Tùy Văn Đế. Theo Tùy
Thư, Độc Cô Đà thường sai Từ A Ni dùng tà
thuật để cướp tiền bạc của
người khác, thậm chí sai Miêu Quỷ ép hoàng hậu
Độc Cô Già La lén lút lấy tiền bạc từ công
khố ban thưởng cho hắn. Về sau sự việc
bị phát giác, vua toan giết Độc Cô Đà, nhưng
nhờ hoàng hậu và các anh là những công thần van xin,
Độc Cô Đà mới được tha chết,
đuổi về làm dân. Vua hạ lệnh hễ ai thờ
Miêu Quỷ sẽ bị xử tử ngay lập tức. Từ
đấy, tục lệ thờ Miêu Quỷ mới chấm
dứt.
[30] “Hồi sát” (回煞) là một thứ tín ngưỡng thông tục trong tang ma Trung Hoa đă có từ
trước thời Tần. Sát (煞) có nghĩa là tính ngày người chết trở về
thăm nhà, mà Sát cũng có nghĩa là các hung thần, tai vạ.
Do vậy, Hồi Sát thường được hiểu
thành “đẩy lùi hung tai, hung thần”. Theo tín ngưỡng
dân gian, linh hồn người chết sẽ quay trở lại
nhà do Sảnh Thần (眚神) dẫn
đường trong một thời gian ngắn sau khi chết.
Ngày giờ ấy thường được giới
đạo sĩ tính ra, gọi là ngày Hồi Sát hay Tiếp
Sảnh (接眚: thường trong ṿng từ bảy ngày
đến mười bốn ngày sau khi chết). Ngày hôm ấy,
phải mời đạo sĩ cử hành cúng tế, yểm
đảo với mục đích ngăn ngừa những
tà thần theo hồn người chết về bắt
người thân chết theo (người Việt thường
gọi là Thần Trùng). Đồng thời thân nhân người
chết đêm ấy phải ăn một số côn trùng
đă hấp và biếu tặng một loại bánh gọi
là bánh Trạng Nguyên (hay Tiếp Bài Cao) cho những hàng xóm
thân thích để họ khỏi bị Thần Trùng quấy
nhiễu. Có những trường hợp theo bói toán, bị
kỵ tuổi quá nặng, đến tối hôm Hồi Sát,
cả nhà phải bỏ trốn đi nơi khác mấy
ngày.
[31] Trong những chuyện ứng hóa của
Đại Sĩ, xin coi lại trong phần Hiện Tướng
Ở Nơi Khác, Đại Sĩ có biến thành một thiếu
nữ xách giỏ bán cá chép vảy vàng óng ánh khiến cho dân
phu đang làm trong mỏ tranh nhau ra coi. Khi mọi người
vừa ra hết th́ núi sụp, cô gái cũng biến mất.
Người ta vẽ lại h́nh tướng này để
thờ, bức tranh ấy thường gọi là Ngư Lam
Đại Sĩ (Đại Sĩ tay xách giỏ cá). Trong Tây
Du Kư, Ngô Thừa Ân đă bịa chuyện con cá chép ở
dưới ao trong núi Phổ Đà nhờ nghe Đại
Sĩ giảng kinh nên có thần thông, thừa dịp Bồ
Tát đi vắng, trốn xuống trần làm yêu quái, vây hăm
thầy tṛ Đường Tăng. Tôn Ngộ Không bèn đến
méc Đại Sĩ. Đại Sĩ vội chặt tre,
đan giỏ bắt cá, không kịp mặc áo khoác, không
trang điểm (?!), xuống trần thâu hồi con cá chép ấy!
[32] Kỳ nhân là người thuộc chế
độ Bát Kỳ thời Măn Thanh. Kỳ (Gūsa), thường
được phiên âm là Cố Sơn, là h́nh thức tổ
chức quân đội của Măn Châu do Nỗ Nhĩ Cáp Xích
(Nurhachi, vua sáng lập nhà Thanh) đặt ra. Tất cả
trai tráng người Măn được chia thành tám Kỳ
(tám màu cờ), thời b́nh th́ canh tác, săn bắn, thời
chiến th́ trưng binh. Tám màu cờ là Hoàng Kỳ, Hồng
Kỳ, Lam Kỳ, Bạch Kỳ (bốn Kỳ này gọi
là Chánh Kỳ), Tương Hoàng Kỳ, Tương Hồng
Kỳ, Tương Lam Kỳ, Tương Bạch Kỳ.
Tương (鑲) là viền, tức là cờ được
viền quanh một nếp vải khác màu, chẳng hạn
Tương Bạch Kỳ là cờ trắng thêu rồng, viền
mép màu đỏ. Trai tráng thuộc Kỳ nào th́ được
điều động bởi vị chỉ huy và quan chức
thuộc sắc cờ đó. Mỗi một Kỳ có từ
13 đến 15 vạn quân. Cho đến nay, một số
gia đ́nh gốc quư tộc Măn Châu vẫn tự xưng là
“kỳ nhân”.
[33] Vũ Bị Lục là một tác phẩm
dạy về cách tập luyện vơ nghệ, điều
binh, đă mất tên tác giả.
[34] Ba La Di (Pārājika) có thể hiểu theo hai cách:
1. Tứ Ba La Di trong Cụ Túc Giới, do tăng sĩ nếu phạm phải bốn giới này th́ không c̣n tư cách tăng sĩ, khiến cho tăng chúng mang tiếng xấu lây nên gọi là Ba La Di (vứt bỏ, tàn hủy).
2. Mười tội Ba La Di theo Phạm
Vơng Bồ Tát Giới: sát sanh, trộm cắp, dâm dục, vọng
ngữ, bán rượu, phô phang tội lỗi của tứ
chúng, khen ḿnh chê người, keo kiệt và nhục mạ
người khác, sân tâm chẳng
nghe lời răn bảo, hủy báng Tam Bảo.
Theo ngữ cảnh trong đoạn này,
chỉ có thể hiểu Ba La Di theo cách thứ hai v́ Long
Đức Phù không phải là tăng sĩ. Hơn nữa, ông
Long đốt kinh Pháp Hoa, bắt Tăng sĩ giẫm lên,
quả thật đă phạm tội hủy báng Tam Bảo.
[35] Nguyên văn “mạc
hữu”, đây là những người không có quan chức,
chuyên giúp việc biên soạn án từ cho các quan.
[36] Chữ Hồ (胡) tách ra thành Cổ (古) và Nguyệt (月).
[37] Nguyên văn “Tử
Dư đốc thực”; đây là một thành ngữ
ca ngợi người tánh t́nh thật thà, chín chắn. Tử
Dư chính là tên tự của Tăng Sâm, là đệ tử
đắc ư của Khổng Tử.
[38] Ngột Thuật (Wanyan Wushu, ?-1148), có khi
ghi là Ngột Truật, hoặc Ô Châu. Ông này họ Hoàn Nhan,
tên là Tông Bật, là đại tướng và là con thứ
tư của Kim Thái Tổ (Hoàn Nhan A Cốt Đả -
Wanyan Aguda). Ông ta giỏi bắn cung, cưỡi ngựa,
thông thạo chiến thuật, sách lược, từng
được phong làm Đô Nguyên Soái, lănh chức Hành
Đài Thượng Thư Sự, đặc trách hành quân
tiêu diệt nhà Tống. Từng bị Hàn Thế Trung và Nhạc
Phi vây đánh tơi tả, nhờ gian thần Tần Cối
mật báo quân t́nh, hăm hại Nhạc Phi và Hàn Thế trung,
Ngột Thuật mới hoàn thành sứ mạng tiêu diệt
sức đề kháng của Nam Tống, buộc vua Tống
xưng thần với nhà Kim. Do vậy, người Hoa rất
căm ghét, tạc tượng vợ chồng Tần Cối
và Ngột Thuật bằng sắt quỳ trước mộ
Nhạc Phi. Người đến lễ bái Nhạc Phi
thường dùng chày sắt đập lên đầu tượng
bọn họ, khạc nhổ, chửi mắng ầm
ĩ. Tuy tượng bằng sắt mà bị dân chúng đập
măi cũng bị hư hoại, phải thay tượng mấy
lần!
[39] Tức nhà Hậu Tấn (936-947) do Thạch
Kính Đường sáng lập, là triều đại ngắn
nhất của Trung Quốc (chỉ tồn tại 11
năm). Gọi là Thạch Tấn để phân biệt với
triều Đông Tấn do Tư Mă Viêm sáng lập, Hậu Tấn
của Tư Mă Duệ (hậu duệ nhà Đông Tấn, bị
mất miền Bắc, phải lui về Nam, lập kinh
đô tại Kiến Khang) và chánh quyền của Tấn
vương Lư Khắc Dụng (cha của Lư Tồn Úc, hoàng
đế khai quốc nhà Hậu Đường).
[40] Thiện Vô Úy (Subhakarasimha, 637-735), c̣n dịch
là Tịnh Sư Tử, là tổ sư của Mật Tông
Trung Hoa, chuyên hoằng truyền Thai Tạng Giới Mạn
Đà La. Cùng với hai vị Bất Không, Kim Cang Trí, Sư
được cơi đời xưng tụng là Khai Nguyên Tam
Đại Sĩ. Sư là người Trung Ấn Độ,
thuộc ḍng Sát-đế-lợi. Năm mười ba tuổi
được truyền ngôi làm vua xứ Ô Trà, nhưng bị
các anh em dấy binh làm phản. Sau khi đánh bại họ,
Sư truyền ngôi cho anh rồi xuất gia. Trước hết,
Sư xuống Nam Ấn Độ, học Pháp Hoa tam-muội
tại một ngôi chùa gần biển, gom cát thành tháp, tu tập
Thiền pháp và học tập rất nhiều kinh luận.
Kế đó, Sư theo học với trưởng lăo Đạt
Ma Cúc Đa (Pháp Hộ - Dharmagupta) ở học viện Na
Lan Đà, được ngài quán đảnh. Ngài có thành tựu,
được danh hiệu Tam Tạng Pháp Sư từ
nơi ấy. Sau khi triều bái các thánh tích, hóa độ các
ngoại đạo tại Ấn Độ. Biết duyên
hóa độ ở Ấn Độ đă xong, Sư theo
đường bộ vượt qua các xứ Đột
Quyết, Thổ Phồn để đến Trung Hoa vào
năm Khai Nguyên thứ 4 (716). Lúc ấy, Sư đă 80 tuổi.
Ngài Thiện Vô Úy được Đường Huyền
Tông tôn làm quốc sư, từng trụ tại các chùa
Hưng Phước, Bồ Đề Viện, Đại
Thánh Thiện v.v... để phiên dịch kinh điển, dạy
dỗ đệ tử. Năm Khai Nguyên thứ 10 (724),
Sư xin về nước, nhưng vua giữ lại. Ngài
thị tịch năm Khai Nguyên 23 (735) tại Lạc
Dương, thọ 99 tuổi, tăng lạp 80 năm. Ngài
dịch những bộ kinh điển trọng yếu nhất
của Mật Tông như Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật
Thần Biến Gia Tŕ Kinh (kinh Đại Nhật), Tô Bà Hô
Đồng Tử Kinh, Tô Tất Địa Yết La Kinh,
Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại
Minh Đà La Ni Kinh, Kim Cang Đảnh Du Già Trung Lược
Xuất Niệm Tụng Pháp, Kim Cang Đảnh Mạn Thù
Thất Lợi Bồ Tát Ngũ Tự Tâm Đà La Ni Phẩm,
Quán Tự Tại Như Ư Luân Bồ Tát Du Già Pháp Yếu.
Đệ tử đắc pháp của ngài là Nhất Hạnh,
Huyền Siêu, Bảo Tư và Diệu Tư.
[41] Tiền Trung Ư Vương (929-988) tên thật
là Tiền Hoằng Thục, vua cuối cùng của xứ
Ngô Việt. Ông là hậu duệ của của Tiền
Vũ Túc Vương (Tiền Liêu). Sau khi Triệu Khuông Dẫn
dẹp tan các nước, thống nhất sơn hà, lập
ra nhà Tống, ông liền quy phục nhà Tống để
tránh cho xứ Ngô Việt khỏi lâm vào cảnh binh đao.