Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng
Tụng
Quyển 2
觀世音菩薩本跡感應頌,
卷二
彭澤菩薩戒弟子許止淨述
Phần 3
Bành Trạch
Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh
soạn
Ấn
Quang Đại Sư giám định
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến và Huệ Trang
2.2.3.2. Ban phước
1. Bèn có
Sơn Đông gấm vóc, ban cho Văn Mục an ninh. Ngăn
ranh giới bằng dây lụa, cho Trung Ư Vương quy thuận.
2. Như
Hoàng gặp nạn gấp, có sức thần phù trợ;
Nguyên Cát tự trầm ḿnh, ngầm được trời
nâng đỡ.
3. Xe rực
rỡ giáng hạ, giúp Văn Giản trổ tài văn
chương. Trút bọc ban châu báu, khiến Pháp Tŕnh y thuật
kỳ tài.
4. Trao món
ăn chay, Hầu gia có tướng quân khải hoàn. Đảnh lễ liên đài, họ
Trương mừng chàng rể vinh quy.
5.
Trương Cảnh tiêu tai, hưởng phước; Nguyên
Tướng khéo bán, giàu to.
6. Lưu
Cảnh mừng huynh đệ trùng phùng; Đạo Hiển
được vợ con sum họp.
7. Đứa
tiểu tỳ nhà ông Từ, rốt cuộc được
Đại Sĩ làm mai. Lư huyện lệnh kết t́nh với
ma, cuối cùng thỏa nguyện b́nh sinh.
8. Mạng
do ta tạo, báo tin đậu, mộng bói rành rành. Khéo chẳng
bằng vụng, bảy đề thi Phật
thưởng đáng gờm.
9.
Thành Thức nhờ vợ giúp, Đoan Phương giúp
đỡ bạn (Gồm hai đoạn).
(1)
Theo Thiên Trúc Chí, Ngô Việt Vương Nguyên Quán[1] sợ Châu Toàn Trung hung tàn, bèn
trai giới một trăm hai mươi ngày, lạy cầu
Đại Sĩ ứng mộng;
mộng thấy núi rừng khắp cơi đều bọc
trong gấm vóc, sáng ngời như ban ngày. Nguyên Quán vui vẻ
nói: “Ta có thể kê gối ngủ yên rồi”. Nguyên Quán có thụy
hiệu là Văn Mục.
Lại nữa, năm
đầu triều đại Tống Thái Tổ, Ngô Việt
Vương Tiền Thục[2] chưa biết quyết định hành
động như thế nào, bèn khẩn cầu Đại
Sĩ đến chỉ dạy. Mộng thấy thần cầm
sợi dây lụa màu, chăng dây ngăn ranh giới từ
bờ Bắc sông Dương Tử thẳng đến
vùng Dự, Chương, Mân Việt mới ngừng, bảo
Tiền Thục rằng: “Đây là vật cũ của
ngươi!” Lại trao cho áo bào, hốt[3], măo, mũ miện không kể xiết. Tỉnh
giấc, Tiền Thục bèn vui vẻ nói: “Ta không sợ hăi
ǵ”, bèn chọn ngày dâng biểu chúc mừng vua Tống. Vua Tống
vui vẻ, bảo sứ giả rằng: “Hăy về báo với
chủ ngươi: Trẫm nhờ ông ta làm phên giậu,
giúp đỡ mà đạt đến b́nh trị th́ sẽ
chẳng phụ công huân khi trước”. Tiền Thục có
thụy hiệu là Trung Ư.
(2) Theo
Nam Hải Từ Hàng, Ôn Như Hoàng làm nghề buôn giấy ở
Nhiêu Châu, kính phụng Đại Sĩ, in Quán Âm Kinh, mỗi
năm thí hơn ba trăm quyển. Từ đấy về
sau, buôn bán ngày càng phát đạt. Mỗi lúc nguy cấp,
dường như có thần giúp đỡ.
Theo Linh
Nghiệm Kư, Hứa Nguyên Cát ở Huy Châu nghèo khổ muốn
tự trầm. Một cụ già ngăn lại bảo hăy
kiền thành tụng chú Bạch Y của Đại Sĩ
th́ trời sẽ giáng phước. Ông ta liền tụng
chú không ngừng, bèn được giàu to, ấn tống
càng rộng. Dời nhà sang Dương Châu, con cháu hiển
vinh, thịnh vượng.
(3) Theo Kỳ
Cựu Tục Văn, Tŕnh Văn Giản mỗi ngày vào canh
năm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát mấy
trăm câu, đến già chẳng lười nhác. Khi đi
thi, mộng thấy Đại Sĩ từ trên trời
cưỡi cỗ xe rực rỡ giáng hạ. Tỉnh giấc,
bèn ghi chép tỉ mỉ những chuyện cờ quạt, xe
cộ thành một tập sách cho khỏi quên. Vào thi, thấy
đề thi là “đức xa kết
tinh phú” (hăy làm bài phú về chuyện đức xa kết
cờ tinh)[4] bèn viết văn vun vút.
Theo bộ Y Khuyến của
Đường Nghi Chi, vị Tăng đời Minh là Pháp
Tŕnh, mù từ bé, ngày đêm niệm danh hiệu Đại
Sĩ tổng cộng mười lăm năm, mộng thấy
Bồ Tát gọi “hăy bước lại” th́ dường
như có vật ǵ buộc vào chân. Đại Sĩ than:
“Đời trước ngươi làm thầy châm cứu,
lỡ tay làm người ta mù mắt, nay phải chịu quả
báo này. Ta thương ngươi thành tâm, sẽ làm cho
ngươi cơm áo no đủ”, rồi Ngài tḥ tay vào bọc,
bốc châu báu đầy tay ban cho. Tỉnh
giấc, Pháp Minh y thuật giỏi giang, kẻ theo học rất
đông.
(4)
Theo Địch Phàm Tùy Bút, Hiệp
Trấn Hầu Biên tỉnh Chiết Giang, do bọn giáo phỉ[5] quấy rối, phải cầm quân pḥng
ngự ở Túc Tùng. Phu nhân hằng ngày rất lo sợ, nhiều
lần mộng thấy bà lăo trao cho món ăn chay, lại mộng
được dẫn đến một chỗ, thấy
ông Biên đang ở trong doanh trại yên ổn. Kể lại
giấc mộng với người khác, họ đều
nói: “Bà cụ ấy chính là Đại Sĩ, không ǵ chẳng
nhằm khuyên phu nhân hăy ăn chay để cầu cho tướng
quân sớm được quay về hay sao?” Do vậy, bà cầu
đảo Đại Sĩ, mồng Một, ngày Rằm
ăn chay. Không đầy nửa năm, ông Biên trở về.
Theo Kính Tín Lục, đời
Thanh, Lă Kế Am nhận chức Phủ Thừa xứ Phong
Tường (tỉnh Thiểm Tây). Trong niên hiệu Gia Khánh,
bọn giặc cướp từ Tứ Xuyên kéo sang Thiểm
Tây, ông Lă phải lo lương thực, nhu yếu phẩm
cho quân đội, xông pha vào nơi nguy hiểm. Bà vợ họ
Trương kiền thành lễ Đại Sĩ, khắc
Cao Vương Kinh biếu tặng rộng răi, lại c̣n sớm
tối quỳ tụng. Về sau, do có công, ông Lă được
cất nhắc lên làm quan ở châu Trực Lệ, cả
nhà đều tin tưởng tụng kinh.
(5) Trong
Cao Vương Kinh Cận Trưng, Trương Cảnh nói:
“Tôi nửa đời bừa
băi, nhiều lần mắc phải nguy hiểm, thề nguyện
tụng Cao Vương Kinh, tai nạn tiêu ngay, được
hưởng phước quá phận. Hơn nữa, những
chuyện sức người chẳng thể văn hồi, mỗi
mỗi đều giải quyết trọn vẹn, mới
tin kinh có sức rộng lớn. Do vậy, kiền thành chép
thêm vào đây”.
Theo Cao Vương Linh
Nghiệm, Trương Nguyên Tướng là người
đất Chiết Giang quá nghèo, gột ḷng hướng thiện,
tŕ Cao Vương Kinh hơn hai năm, có khách bỏ vốn
cho ông ta buôn bán. Tính toán không điều ǵ chẳng
được toại ư, trở thành giàu to.
(6) Đời
Thanh, [anh em] Lưu Cảnh và Lưu Trí do chiến tranh bị
lạc mất nhau, nhờ tụng chú Bạch Y, anh em trùng
phùng.
Vào đời Thanh,
Trương Đạo Hiển vợ là Lư Thị, con là Kế
Phiên, gặp nạn lạc nhau, bèn kiền thành tụng chú
Bạch Y suốt hai năm, vợ con trùng phùng.
Lại theo Hàng Trung Phàm,
vào thời Gia Tĩnh nhà Minh, Hoàng Ngạn Sĩ và vợ là
Nhan Thị tỵ nạn “giặc lùn” (hải tặc Nhật
Bản) lạc nhau, bà Nhan xin vào ở trong ni am. Ông Ngạn
t́m suốt ba năm không thấy tăm hơi. Ngẫu nhiên
trên đường đi, vào nhà xí, thấy trong kẽ cây
dương chết khô có vật ǵ đó, moi ra th́ t́m
được vàng và một cuốn sổ màu xanh, tự
nhủ: “Chớ bảo nhặt được vàng đánh
rơi th́ lấy dùng, phải nghĩ là do Tam Bảo mà có”.
Do vậy, đợi ở đó. Hai ngày sau, có vị lăo ni
khóc: “Phát nguyện tạc tượng Đại Sĩ,
quyên mộ được ba chục lạng vàng, do tránh giặc
giă nên giấu trong bộng cây, nay đă mất sạch rồi!
Ta chết mất thôi”. Ông Hoàng vội trả lại. Ni
sư lạy tạ, mời tới am, bảo: “Sẽ đối
trước Đại Sĩ bày tỏ đức đẹp
của ngài”. Ông Hoàng theo về am, gơ cửa th́ thấy có người
thưa rồi ra mở cửa, ấy chính là Nhan Thị, đang
cầm nước mắt. Lái buôn muối là X... nghe chuyện,
mời ông Hoàng về làm quản lư trong tiệm. Về sau,
theo lệ, ông Hoàng được tuyển giữ chức Huyện
Thừa, rồi chuyển làm Phủ Phán, sanh được
hai con, vợ chồng cùng thượng thọ.
(7) Trong bộ
Tân Tề Hài, Quán Sát Từ Hạo làm bạn với một
con hồ ly già. Hồ ly nh́n thấy đứa tiểu tỳ
tên Thái Vân bèn nói: “Đứa con gái này có túc căn. Tương
lai, nó sẽ được Đại Sĩ làm mai, gả
cho Động Đ́nh Quân”. Hỏi ra, biết ông nội nó
làm quan Hàn Lâm, ông Từ bèn nhận nó làm cháu nội thứ
ba. Về sau, có một vị quan chức lớn, tặng bức
trục[6] vẽ Đại Sĩ và tờ thư
xin gả cô nương thứ ba cho con trai của Thân Đại
Niên là người đất Sở[7]. Do vậy, hôn lễ bèn thành tựu.
Theo Dị Vật Chí,
vào đời Đường, Lư Nguyên B́nh, thấy một
cô gái ở chùa Đông Dương dường như đă
biết từ trước. Cô gái nói: “Em chẳng phải là
người. Em từng sanh vào nhà quan Thứ Sử Giang
Châu, c̣n chàng khi ấy làm môn lại[8], thần thái rạng ngời, lay động
ḷng người. Em v́ không nén được t́nh cảm, bèn
thường tŕ chú Thiên Nhăn Quán Âm, phát nguyện đời
đời sanh vào nhà phú quư, để được vầy
duyên vợ chồng với chàng. Nay sắp thác sanh vào nhà
quan Thứ Sử X... Mười sáu năm nữa, chàng sẽ
là Huyện Lệnh. Nếu rộng ḷng chấp nhận, xin
đừng kết hôn; nhưng chỉ hồng đă buộc,
dẫu muốn dứt mối tơ vương, cũng chẳng
được đâu!” Về sau, quả nhiên đúng
như lời đă nói.
(8) Theo Bạch
Y Chú Trưng Sự, Vương Hành Thiện ở phủ
Thuận Thiên, nhiều lượt đi thi không đậu,
cầu đảo Đại Sĩ, mộng thấy Đại
Sĩ bảo: “Túc căn của ngươi quá mỏng cạn,
đường công danh chẳng có phần. Nếu kiền
thành tụng chú Bạch Y không lười nhác, có thể hy vọng
đậu khoa thi năm nay”. Tỉnh giấc, ông
Vương bèn in tặng một ngàn hai trăm quyển, liền
thi đỗ. Vân Cốc thiền sư nói: “Mạng do ta tạo, phước do ta cầu”.
Theo Cảm Ứng Thiên
Chuế Ngôn, xưa kia có hai người học tṛ cùng lên tỉnh
thi. Một người ngu, một người sáng dạ.
Kẻ ngu ngày đêm lễ bái, cầu nguyện trước
ṭa Quán Âm, cầu Ngài cho biết đề thi. Kẻ sáng dạ
bèn lén viết bảy đề thi, dùng hương đốt
thành vết chữ, để kẻ ngu tưởng là Phật
ban cho rồi ngầm giấu trong lư hương. Kẻ
ngu t́m được hết sức mừng rỡ, dốc
sức giồi mài nơi bảy đề mục ấy. Vào
trường thi, trúng ngay một đề bèn thi đậu.
Kẻ sáng dạ bị dầu thắp đèn cháy lan sang quyển
thi, nên thi trượt! Lăo Tử nói: “Xảo giả, chuyết chi nô” (Kẻ khéo là đầy
tớ của kẻ vụng).
(9) Theo Bạch
Y Kinh Cận Trưng, vào đời Thanh, Vương Thành Thức
ở Vũ Tấn, trong niên hiệu Gia Khánh đi thi ở
Thuận Thiên. Bà vợ nghe nói chú Bạch Y linh nghiệm bèn
v́ chồng kiền thành tụng hết một tạng, ông
Thức liền thi đỗ.
Theo Nam Hải Từ
Hàng, Từ Đoan Phương nhiều lượt dự thi
nhằm được tuyển vào một chức quan ở
bộ Lễ, nhưng chẳng đậu, tŕ Quán Âm Kinh một
tạng, đậu Tiến Sĩ. Ông bèn dạy cho bạn
là Mă Thiệu Nguyên, ông này tụng hơn ba ngàn quyển liền
đỗ trong khóa thi mùa Thu.
1. Lại
c̣n tích đức, chứa nhân, mới biết như tiếng
vang dội lại.
2. Giữ
lại tên Thiên Tích, càng phục Tư Mă phong thái cao vời. Sắc
phong cho Lâm Ông, nữ tỳ tán dương phẩm đức
Đề Khống.
3. Tri Khả
đỗ giữa Trần, Lâu, y thuật công đức thật
nhiều. Tín Chi lơa lồ nào ngại, ḷng thành dễ ǵ có
được!
4. Bảo
toàn phẩm tiết phụ nữ, Bệ Cẩm thành đạt
công danh. Do khéo thấu hiểu ḷng trời, Như Tân vâng theo
lời dạy.
5. Ông
Phùng nhân từ chữa bệnh, nhờ bí phương trở
thành giàu sụ. Họ Sầm vốn sẵn thiện duyên,
nên địa vị tột cùng vinh hiển.
6. Đọc
bài bạt của Giản Nam, linh ứng chẳng hề dối
gạt. Xem bài kư của Thành Tú, công danh có thể mong cầu.
7. Dẫu
thời thế đổi dời, quốc gia băi bỏ chế
độ thi cử, nhưng cầu ǵ được nấy,
chẳng hề thấy Bồ Tát bỏ lỡ điều
nào. Đấy là sự ban vui thứ hai của Đại
Sĩ vậy (Đoạn
này kiêm ca tụng tu đức được phước)
(2) Theo Âm Chất
Văn Tân Biên, trong đời Khang Hy nhà Thanh, Lâm X... chết
rồi sống lại, nói: Ở trong cơi âm thấy
đưa ra bảng trời. Đến tên của đứa
cháu con người chị là Lục Thiên Tích, do mẹ nó phạm
lỗi lắm điều, nên [thiên đ́nh] muốn gạch
tên đi. Chợt Quán Âm Đại Sĩ đến bảo:
“Tuy Lục Lâm Thị[9] lắm điều, nhưng thờ Phật
rất kiền thành. Thiên Tích lại thay bạn nộp tiền
thuế c̣n thiếu, bù đắp cho chú nó làm huyện lệnh
bị thiếu hụt ngân sách, lại c̣n cự tuyệt hạng
gái lả lơi!” Diêm vương bảo ông Lâm: “Cháu
ngươi do có ba điều lành nên được giữ
tên lại, hăy nên gắng tinh tấn, đừng phụ
ḷng Đại Sĩ”. Về sau, quả nhiên Thiên Tích thi
đỗ.
Theo Hàm Sử, Tư Mă
Đán châu cấp cho người gặp cảnh ngặt,
có ai nghèo túng chẳng thể tự sống được
bèn chia lương tháng ra để giúp đỡ. Người
ấy không có ǵ để báo đáp, bèn đem con gái dâng cho
ông để làm thiếp. Ông Đán kinh hăi, từ chối,
lấy đồ trang sức của vợ để [làm của
hồi môn] gả cô gái ấy [vào chỗ đàng hoàng].
Theo Khuyến Giới
Loại Sao, vào đời Minh, Lâm Ông là nha lại thuộc bộ
H́nh, thương xót, giúp đỡ những người bị
tù oan. Ngẫu nhiên có một người bị hạ ngục
oan ức, ông Lâm liền sáng chiều cầu nguyện Đại
Sĩ, mong chỉ dạy phương cách cứu vớt. Mộng
thấy Đại Sĩ dạy: “Hăy dựa vào những chỗ
luận tội đáng nghi nhất trong án từ, dựa vào
những chỗ phán quan thẩm định chi tiết
chưa đích xác để biện bác”.
Ông Lâm liền thay người ấy kêu oan, quả nhiên
được tha. Người ấy biết do ông Lâm khiếu
nại, bèn đem con gái đền ơn, ông Lâm không chấp
nhận. Người ấy bèn chuốc rượu cho ông
say, bảo con gái ép ông phải lấy. Ông Lâm ba lượt
bảo “không được” (bất khả), lánh xa, không
đi qua cửa người ấy nữa. Năm ông năm
mươi tuổi, sanh ra Đại Khâm. Về sau,
Đại Khâm đậu khoa thi Hương, lên kinh đô.
Chủ quán trọ mộng thấy Đại Sĩ bảo:
“Ngày mai có con của ông Lâm Tam Bất Khả đến trọ,
là tân trạng nguyên đấy”. Lúc yết bảng, quả
đúng như vậy. Đại Khâm về hỏi mẹ,
mới biết đức hạnh ẩn kín của cha.
Theo Bại Sử, viên
nha lại ở Thái Thương là Cố X... thấy có ông
Giang bị kẻ cắp vu cáo, phải vào tù, bèn kêu oan cho
ông Giang được tha. Ông Giang cảm đức,
đem con gái tới, xin dâng làm người thiếp hầu
hạ. Ông Cố khước từ hai lần. Mấy
năm sau, ông Cố chuyển lên kinh đô, làm người
hầu lo việc cho quan Thị Lang họ Hàn. Khi phu nhân
bước ra, ông toan tránh đi, phu nhân trông thấy kinh ngạc
bảo: “Ông chẳng phải là viên Đề Khống[10] họ Cố đấy ư? Tôi là con
gái ông Giang, chút mảy may nào cũng đều do ông ban cho”.
Bà kể lại với quan Thị Lang, quan bèn tâu lên vua. Hiếu
Tông khen ngợi, phong cho ông Cố làm Chủ Sự[11] bộ Lễ.
(3)
Đời Tống, Hứa Tri
Khả thi rớt, trở về, trong thuyền mộng thấy
một người mặc áo trắng bảo: “Ngươi
không có âm đức nên chẳng đậu. Nếu học
nghề thuốc sẽ giúp cho ngươi có trí huệ”. Ông
Hứa nghe theo, đạt đến chỗ hay khéo của
Lô Biển[12]. Về sau, vào trường thi mùa Xuân, mộng
thấy người mặc áo trắng bảo: “Thí thuốc
công đức to lớn, trong khoảng Trần Lâu”. Về
sau thi đỗ, thứ hạng nằm giữa hai người
họ Trần và họ Lâu.
Theo Tiên Tâm Lục, trong
niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, Bao Tín Chi tŕ Quán Âm Kinh, ngẫu
nhiên thấy một ṭa Phật điện đổ nát,
tượng Quán Âm bị phơi ra cho mưa dầm bèn dâng
cúng tiền bạc, vải vóc. Hiềm rằng chẳng đủ,
mới đem bảy bộ áo vừa mới may cúng luôn.
Đầy tớ xin giữ áo lại, ông nói: “Chỉ cốt
sao thánh tượng được yên ổn, ta tuy lơa lồ
cũng nào có thương tổn ǵ?” Vị Tăng ứa
nước mắt nói: “Bỏ tiền bạc, quần áo
v.v... vẫn chưa phải là chuyện khó, chỉ có một
điểm thành tâm ấy dễ ǵ có được?” Về
sau, Tín Chi nằm mộng thấy thần Già Lam bảo: “Bồ
Tát ban cho ông con cháu hưởng phước lộc thế
gian”. Sau này, con ông ta là Biện, cháu là Sanh Phương đều
làm quan to.
(4) Theo Khuyến Giới Loại Sao, vào đời
Thanh, Thí Bệ Cẩm ở Ngô Môn lúc c̣n là “chư sanh”[13] ngẫu nhiên dính dấp vào chuyện tà
niệm. Thấy một phụ nữ mắt hằn ngấn
lệ bèn gạn hỏi. Cô ta nói quá nghèo, chẳng cam ḷng làm
chuyện chôn vùi liêm sỉ ấy. Ông Thí bèn gọi người
chồng ra, bảo dẫn vợ về, lấy mười
lạng vàng trao cho, tuyệt không lui tới nhà phụ nữ
ấy nữa, nhưng chồng cô ta cảm ân đức,
thường lui tới thăm viếng, người ngoài
bèn xầm x́ ông Thí dan díu với cô ta. Cô ta nghe được,
bèn kiền thành khấn nguyện cùng Đại Sĩ: “Con
lập chí không đoan chánh, bị gièm báng chẳng oan uổng
ǵ, nhưng chàng Thí bị vu cáo, nguyện đỗ Giải
Nguyên để rửa sạch nỗi oan ấy”. Năm
Canh Tư (1720) đời Khang Hy, rốt cuộc ông Thí đỗ
Giải Nguyên.
Theo Linh
Nghiệm Kư, Bao Như Tân nhiều lần đi thi không
đậu, mộng thấy một bà cụ bảo:
“Ngươi muốn được trời cho thỏa chí
th́ phải khéo hiểu ḷng trời”. Ông Bao tỉnh giấc,
bèn nói: “Đấy chẳng phải là Cứu Khổ Đại
Sĩ ư?” bèn in Quán Âm Kinh một ngàn quyển và thật
ḷng rộng hành chuyện lợi người
giúp vật liền đỗ Giải Nguyên ở phủ Thuận
Thiên.
(5)
Theo Khuyến Giới Loại Sao,
Phùng Sanh ở Gia Định nghèo nhưng ưa làm lành, hằng
ngày t́m kiếm những toa thuốc hay, hiệu nghiệm,
sao ra, đem dán trên những đường phố lớn.
Một hôm, đến dâng hương tại Nam Hải, gió
thổi lật thuyền; đột nhiên thấy một người
mặc giáp dẫn đến trước mặt Long
Vương. Vua khuyên nhủ: “Ông chép toa thuốc cứu
người, thiện niệm thấu đến thủy
phủ, cho nên ta cứu ông”. Vua trao cho toa thuốc bí mật,
bảo nhờ đó có thể làm giàu. Ông Phùng thưa: “Tôi
tuy nghèo, đâu đám mong giàu có!” Vua phán: “Giàu nghèo vốn do
số mạng, nhưng người có ḷng lành th́ số mạng
cũng chẳng thể chi phối được! Như mạng
ông gặp phải thủy nạn, nhưng do tâm lành nên không
bị hại”. Vua trao cho toa thuốc, sai đưa về.
Trong chớp mắt đă lên tới bờ, ḷng biết là
Đại Sĩ đă âm thầm sắp đặt, che chở,
bèn theo đúng bài thuốc ấy mà cứu người, trở
thành giàu có.
Theo Pháp Hoa Cảm Thông,
Sầm Văn Bổn tụng phẩm Phổ Môn, thoát khỏi
thủy nạn. Một hôm cúng dường trai tăng, có một
vị Tăng bảo: “Thiên hạ nhiễu nhương, ông
do thiện duyên nên may mắn chẳng gặp nạn, rốt
cuộc sẽ hưởng thái b́nh, trở thành phú quư”. Nói
xong, chẳng thấy nữa. Về sau, ông Bổn trở
thành Trung Thư Lệnh[14].
(6)
Trong lời bạt cho cuốn
Quán Âm Kinh, cư sĩ Giản
Theo Cảm Ứng Thiên
Đồ Thuyết, vào đời Thanh, Tào Thành Tú gặp một
vị Tăng bảo: “Nếu ngươi có thể kiêng thịt
ḅ, thịt chó, sẽ có thể hiển đạt”. Ông Tú
nói: “Tôi là hạng bắn cung, cỡi ngựa tầm thường,
sao dám mong cầu công danh?” Vị Tăng bảo: “Nếu có
thể sáng tối tụng chú Đại Bi, lo ǵ chẳng
đạt được phước báo ấy?” Thành Tú
bèn giữ giới, tụng chú không gián đoạn. Vào chốn
quan trường, dường như có thần giúp, không
đầy mấy năm, làm quan đến chức Thiên Tổng[15]. Tự ghi vào năm Càn Long 12 (1747).
(7) Tả Truyện: “Cải bộ, cải ngọc”[16]; sách ấy c̣n viết: “Dư thủ dư cầu, bất nhĩ t́ hà dă”
(Tôi nhận lấy những ǵ tôi mong cầu, ông chẳng có
lỗi lầm chi cả).
2.2.3.3.
Trường thọ
1. Bèn có:
Tượng vẽ cứu Nhân Thiến thoát vong hữu tiến
cử. Chú [Đại Bi] che chở Tâm Dư khỏi làm vua
cơi âm.
2. Rộng thí tặng kinh sách, Gia Do thọ hơn bốn
mươi mốt tuổi. Năm lượt nói lời
lành, Hoằng Nho thoát đại hạn tiết Trùng
Dương.
3. Người
bạn khuyên dạy Như Huyễn, nghi dung nhanh chóng đổi
thay. Mẹ cầu thọ cho Vô Minh, cam ḷng suốt đời
phục dịch.
4. Cho Lă
công tăng thọ hai kỷ, báo ứng chẳng sai, răn họ
Uông hăy tận lực hành, tuổi già an hưởng.
5. Ngầm
hành tŕ kinh, tựa như thánh nhân không có tướng. Phóng
sanh tăng thọ, chỉ cơi âm mới biết luật này.
6.
Cháu côi cút được thành danh, Thiệu Đ́nh quyết
đạt thượng thọ. Con hiếu đón về phụng
dưỡng, Sĩ Ngọc càng cao tuổi
trời. (Tổng cộng ba đoạn).
(1) Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời
Đường, Lục Nhân Thiến bị bệnh nguy ngập,
biết là v́ người làng là Triệu X... đă tiến cử
ḿnh làm quan dưới cơi âm. Công văn đă ban xuống, sắp
chết. Nhân Thiến vẽ tượng Quán Âm trên vách chùa,
bèn thoát nạn.
Theo Tân Tề Hài, Tưởng
Tâm Dư lúc làm quan Trung Hàn, mộng thấy lính lệ cầm
thiếp đến mời, bèn theo đến một ṭa miếu,
cỡi ngựa đất bay lên không trung. Không lâu sau, ngựa
hạ vó dưới thềm một nơi trông rộng lớn
như chỗ vua ngự. Tấm biển bên trái ngôi điện
ghi là “Thiên Đường”, từng gian sáng ngời. Tấm
biển bên phải ngôi điện đề “Địa Ngục”,
sâu tối khó lường. Địa ngục có giếng,
người ta tự nhảy xuống đó. Vua truyền mời
ông Tưởng vào điện, bảo: “Ta hết nhiệm kỳ
sẽ ra đi, ông hăy thay ta”. Ông Tưởng thưa: “Tôi c̣n
mẹ già con thơ, việc chưa xong làm sao có thể
đến [nhậm chức] được?” Vua nói: “Ông có
tài đức, tiếng tăm, sao lại chẳng thông
đạt đến mức ấy? Chuyện trên đời
muốn xong bèn xong. Ta đă tâu lên Thượng Đế,
không thể nào văn hồi được đâu!” Ông Tưởng
uất quá, tỉnh giấc, mồ hôi thấm ướt mền.
Ngồi dậy, lại mộng thấy vào cơi âm. Trên điện
bày năm cái ṭa, án từ chất như
núi. Nha lại chỉ ṭa thứ năm bảo: “Đây là chỗ
của ngài”. Ông Tưởng trông thấy thầy dạy
là Phùng Tĩnh Sơn, bèn tŕnh bày t́nh cảnh mẹ già, con
thơ. Ông Phùng buồn bă nói: “Tôi vợ dại, con thơ,
cũng là kẻ không thể đến [nhậm chức].
Việc đă đến mức này, đừng nói nhiều
nữa! Hăy mau lo liệu hậu sự mà thôi!” Tỉnh giấc,
ông bèn qua nhà vị quan đứng đầu địa phương
là Vương Hưng Ngô chào vĩnh biệt. Ông Vương
kinh hăi bảo: “Mặt ông xám như trét than, quỷ khí đầy
người”. Ông kể lại giấc mộng, họ
Vương khuyên nên tụng chú Đại Bi. Cả nhà bèn
trai giới tụng niệm. Đến nửa đêm, ông
Tưởng thấy một chiếc kiệu từ trên
không trung hạ xuống, có mấy người khiêng kiệu,
rơ ràng là kẻ đến đón, bèn tụng chú gấp
hơn, họ liền như sương khói tan mất. Ba
năm sau, được thăng chức Từ Lâm.
(2) Theo
Khuyến Giới Loại Sao, Tŕnh Gia Do ở Thái Cốc khắc
Quán Âm Kinh, Kim Cang Kinh, và Cảm Ứng Thiên v.v... nhưng
chưa biếu tặng. Chợt bị bệnh, không ăn
uống được, mộng thấy Đại Sĩ
khuyên: “Ngươi chỉ thọ bốn mươi mốt
tuổi, do khắc các kinh nên thả ngươi về, hăy
nên ấn loát lưu truyền ngay”. Ông Tŕnh tỉnh giấc
bèn vâng theo lời dạy, bệnh liền khỏi.
Theo Giác
Thế Kinh Hội Toản, vào đời Minh, vợ ông Hàn
Hoằng Nho mộng thấy người cô đă mất
nói: “Vào ngày Trùng Cửu[17] năm sau, chồng ngươi sẽ bị
đại hạn”. Bà vợ kiền thành cầu đảo
Đại Sĩ, cầu chồng được tăng tuổi
thọ. Ông Hàn ra quán, vợ dặn hăy lưu ư làm những
chuyện thuận tiện cho người khác, ông Hàn bằng
ḷng. Ông khuyên chủ quán hăy gả chồng cho mấy đứa
tớ gái đă trưởng thành, thấy con cháu một vị
quan dùng bạc non cân[18] bèn tận lực khuyên họ đừng
làm chuyện tổn người lợi ḿnh. Lại thấy
đầy tớ của một người có thế lực
vu cáo người khác, liền thay cho người ấy kêu
oan. Lại khuyên người khác đừng cậy thế,
hăy giữ trọn vẹn t́nh nghĩa thân tộc. Có mấy
môn sinh thi đậu đến yết
kiến, ông liền khuyên họ đừng lấy vợ lẽ,
đừng lơ là người quen biết cũ, đừng
thuê nhiều người hầu, đừng xa xỉ phí phạm.
Đêm ấy, bà vợ mộng thấy Đại Sĩ dạy:
“Số chồng ngươi sẽ mất vào tháng Chín,
nhưng do năm lượt nói lời tốt lành, tạo
phước rộng lớn, nên được thọ thêm
hai kỷ (hai mươi bốn năm) nữa”. Ông Hàn về
sau đỗ Minh Kinh[19], là một vị Ấp Lệnh
hiền từ.
(3)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, vào đời Minh, sư Như Huyễn có người bạn
là Hạ Trị Thời, thông suốt nội điển. Một
hôm, ông Hạ nói với sư Như Huyễn: “Ông môi hớt,
răng lộ, chẳng phải là tướng người
sống lâu, hăy nên cầu nguyện Quán Âm Đại Sĩ,
niệm danh hiệu Ngài để cầu thọ”. Như
Huyễn nghe theo, tŕ danh ba năm, dung mạo biến đổi.
Lại nữa, vào
đời Nguyên, Thích Nguyên Trưởng tự là Vô Minh, bị
bệnh rất nguy ngập. Bà mẹ cầu khẩn Đại
Sĩ: “Nếu đứa con không chết, con sẽ suốt
đời làm người quét tước, dọn dẹp”.
Khấn xong, [Nguyên Trưởng] đổ mồ hôi, lành bệnh.
(4) Theo Nam Hải Từ Hàng, trong thời Khang Hy
nhà Thanh, Lă công ở Giang Ninh phẩm hạnh trong sạch,
thuần hậu, mỗi sáng tụng kinh chú của Đại
Sĩ một trăm biến. Năm năm mươi hai tuổi
bị bệnh nguy cấp, mộng thấy Đại
Sĩ nói: “Mạng ngươi sắp chấm dứt,
nghĩ ngươi ưa làm lành, tụng kinh, tăng
thọ hai kỷ nữa”. Tỉnh giấc, bệnh đă
lành, thọ bảy mươi sáu tuổi, không bệnh tật
ǵ mà mất.
Theo Phụ Tŕ Nghiệm
Kư, trong thời Đạo Quang nhà Thanh, Lưu Dực
Đ́nh ở Kim Lăng tự nói: “Tôi mỗi sáng thức dậy ắt đối
trước tượng Đại Sĩ tụng bảy
biến chú Đại Bi, suốt hai mươi năm không
lười nhác. Một bữa trời xẩm tối, có một
bà cụ bước vào, bảo: ‘Đến ngày nọ sẽ
bị tai nạn, nên cẩn thận’ rồi đi ra. Gọi
người nhà dâng trà th́ ai nấy kinh ngạc, chẳng thấy
bà cụ đâu nữa! Tới hôm ấy, đêm ngủ, thức
dậy đi tiểu, ngă lăn ra đất, chân phải mắc
vào trong ghế, đau không thể chịu nổi, thầm
tŕ chú Đại Bi, mấy ngày mới lành. Ấy là v́ thờ
Đại Sĩ đă lâu, nên được Ngài linh thiêng
che chở. Nay tuổi đă sáu mươi tám, quắc
thước dị thường, đều là nhờ sức
của Đại Sĩ”.
Theo Cao Vương Kinh
Linh Ứng, Uông Đức Thành thuở nhỏ mộng thấy
một vị lăo tăng nói: “Ngươi chỉ thọ
được mười tám tuổi”. Sáng dậy thưa
với cha, cha cho là mộng huyễn chẳng đáng tin.
Đến khi bệnh sắp chết, cha mộng thấy
lăo tăng nói: “Đại hạn của con ngươi
đă tới, nếu chẳng có sự lành lớn lao sẽ
chẳng thể văn hồi được đâu. Hăy nên làm
gấp đi!” Ngày hôm sau, cha liền đối trước
Đại Sĩ, lập nguyện cứu giúp rộng răi,
khắc kinh in tặng, thí quan tài, châu cấp [cho người
nghèo khó], hăng hái lập hạnh. Sau đấy, lại mộng
thấy vị lăo tăng nói: “Con ngươi chẳng những
không chết yểu mà c̣n có thể mong được vui
hưởng tuổi già”. Quả nhiên, [Uông Đức Thành]
thọ ngoài chín mươi.
(5) Theo Cao
Tăng Truyện, tập Ba, đời Tống, sư Thích Tông Uyên thuở bé gặp một
thầy tướng giỏi, bảo: “Uyên tuổi thọ
ngắn ngủi, hăy gắng tŕ phẩm Phổ Môn”, liền
kính cẩn vâng lời tŕ tụng, tu tập trong cơi tục
chẳng ai sánh bằng. Trong niên hiệu Thái B́nh Hưng Quốc,
Sư đoán trước ngày mất, thọ tám mươi
ba tuổi.
Trong lời bạt của
Văn Trung Lâm Tắc Từ đời Thanh có viết: “Thái Thú Đồ Tiềm Viên bị
bệnh nguy ngập, mộng thấy Quán Tự Tại Bồ
Tát bảo: ‘Theo luật cơi âm, hễ cứu mạng th́ sẽ
tăng tuổi thọ, thêm phước lộc, ông hăy gắng
làm đi’. Tỉnh giấc, cả nhà bèn kiêng giết, mua
loài vật đem phóng sanh. Mùa Đông năm ấy, [ông Đồ]
liên tiếp được bổ làm quan ở Viên Châu rồi
đến Cửu Giang, gia cảnh bèn khá lên, bệnh cũng
chóng lành. Do vậy, ông Đồ
bèn viết một thiên cuối cho cuốn Phóng Sanh Lục
để khuyên đời”.
(6) Theo
Cao Vương Kinh Chứng Nghiệm, ông Lư Thiệu Đ́nh
ở Đồng Sơn đă bảy mươi, không con
cái, nuôi đứa cháu côi cút mới tṛn bốn tuổi th́
nó bị bệnh nguy ngập. Ông Đ́nh sáng chiều tụng
kinh và khắc in kinh biếu tặng.
Đứa cháu được lành. Ông sanh được một
con trai, đến năm mười sáu tuổi, nó cùng với
đứa cháu đều vào học trường huyện.
Ông Đ́nh thọ đến chín mươi chín tuổi.
Theo Tứ
Hương Thảo Đường Bút Kư, Mao Sĩ Ngọc
ở Trường Châu do buôn bán vải thua lỗ, lại
trúng sương gió, bị ho rất nặng, bèn phát nguyện
tụng chú Đại Bi, liền lành bệnh. Về sau, con
là Đỉnh Hanh đón về phụng dưỡng tại
kinh đô, thọ tám mươi tư tuổi, không bệnh
tật mà mất.
1.
Bèn có Thường Cô xẻo đùi, cha thêm tuổi thọ.
Kim Thị cắt tay, bố chồng tăng kỷ.
2. Sơn
Anh cầu mẹ hết bệnh, được tặng
chén nước tràn đầy. Vân Cô đáp tạ thần
ân, khớp mộng ban cho hoàn thuốc.
3. Tràng
phan cùng lay động, ngầm bảo vệ thương
thế ông Bành. Hoàn thuốc bôi vết thương, thở
dài thương Lưu nhi khổ sở.
4. Chim ngậm
quả son, linh dị hợp mộng trao ngọc phượng.
Tụng chú Bạch Y, hồn thoát khỏi Kim Kê triệu vời.
5. Văn
Ngọc cảm ân, xưng tụng Phật pháp vô biên. Cảnh
Hiền vâng pháp, tin tưởng linh phù bậc nhất.
6. Chấn
Hỗn, Học Tảo, mẹ đều tuổi hạc tăng
cao. Lưu Tễ, Truyền Anh, mẹ cũng thọ thêm mấy
tháng.
7. Ấy
là v́: Yêu vật, thương dân, trước hết phải
có ḷng hiếu kính. Thỉnh an, hầu bữa, có ǵ ngoài biết
tuổi thung huyên.
8. V́ thế,
phàm hiếu tử cầu thọ cho cha mẹ, quyết sẽ
được thần linh ngấm ngầm gia hộ (Đoạn này ca tụng sự
tăng thọ cho cha mẹ).
(1) Theo Khải
Trinh Dă Thừa, vào đời Minh, con gái ông Thường
Mang ở Ích Phiên đức tánh chí hiếu, đă hứa gả
cho con trai nhà họ Vương, nhưng chàng Vương
đă chết sớm. Cô Thường về nhà họ
Vương thủ tiết, mặc áo vải thô mộc[20], ăn chay, thêu tượng Đại
Sĩ. Sáng dậy tụng phẩm Phổ Môn, chú Đại
Bi, tối tụng kinh Di Đà, chú Văng Sanh. Cha bị bệnh
nguy ngập, bèn cắt thịt đùi dâng lên. Cha mộng thấy
Đại Sĩ bảo: “Do con gái ông hiếu thảo nên
được tăng thọ”.
Theo Tự Cầu Tập,
bà Tôn Kim Thị ở Vũ Tiến tánh t́nh hiếu thảo.
Bố chồng ưa làm lành, bà Kim bán nữ trang, ruộng
nương để cung cấp. Bố chồng bệnh
ngặt nghèo, muốn ăn bánh ít trần[21]. Bà Kim cắt thịt trên bắp tay
để nấu súp và bún. Bố chồng ăn xong, ngủ
yên. Thức dậy, bảo vợ: “Tôi vừa thấy Đại
Sĩ đến, nói con dâu ông ḷng hiếu chân thành thấu
trời, nên cho ông thọ thêm một kỷ”. Cụ lành bệnh,
quả nhiên mười hai năm sau cụ mới mất.
(2) Trong
Tín Tâm Lục, Lưu Sơn Anh nói: “Tôi phát tâm quỳ tụng các kinh chú Quán Âm, Chuẩn
Đề để cầu cho mẹ được lành bệnh.
Thoạt đầu v́ thân thể yếu đuối, gối
đau không thể chịu đựng nổi, lén nghĩ mẹ
bệnh đàm hỏa[22] đă lâu,
chưa chắc tụng kinh sẽ lành ngay, hơi manh nha ư niệm
thoái thất. Kế đó, nghĩ tới Khổng Tử
đă nói: “Vô hằng vô khả tác vu y” (Người không có ư
chí thường hằng sẽ không thể làm đồng cốt
hay thầy thuốc được), bèn gắng sức làm.
Đối với chuyện giúp người lợi vật
đều hoan hỷ phụng hành. Hơn một tháng, trọn
chẳng c̣n [cảm thấy] đau khổ ǵ, nhưng bệnh
mẹ chợt nguy kịch, bảo tôi: ‘Mẹ bệnh mấy
chục năm, có lúc phát bệnh liền lành ngay. Nay con quỳ
tụng kinh văn, đâm ra bệnh nặng hơn; chắc
là mẹ phước bạc chẳng thể nhận lănh đấy
chăng? Hăy ngừng, đừng tụng kinh nữa’. Tôi
khóc thưa: ‘Đây là do con chưa đủ ḷng thành,
chưa trừ được vọng niệm’. Liền thắp
hương, hướng lên trời, dập đầu
đến chảy máu, thề trừ vọng niệm ngơ hầu
mẹ được khỏi hẳn. Đến đêm, mộng
thấy Đại Sĩ kéo mẹ cùng ngồi, trao cho một
chén nước màu xanh bảo uống. Ngày hôm sau, bệnh mẹ
giảm hẳn một nửa, rồi lành. Bệnh dây
dưa suốt ba mươi năm, từ nay vĩnh viễn
khỏi hẳn”.
Theo Mộng Viên Tùng Thuyết,
Văn Tịnh Hàm Liêm Phỏng khi làm huyện lệnh Nam
Xương, do mệt nhọc chồng chất thành bệnh,
t́nh thế dần dần suy sụp. Con gái đầu ḷng
là Vân Cô kiền thành cầu đảo Đại Sĩ, hứa
tụng Cao Vương Kinh một vạn biến. Tụng
sắp đủ số, Liêm Phỏng mộng thấy Đại
Sĩ trao cho ba hoàn thuốc, ép nuốt, bệnh liền giảm.
Buổi chiều, ông vào nhà trong, thấy con gái dâng
hương hoa, quỳ trước tượng Phật. Hỏi
ra th́ mọi người nói là tụng kinh đă đủ
số nên dâng hương hoa cúng dường. Ông thuật lại
giấc mộng, càng tin Đại Sĩ linh ứng. Về
sau, ông làm đến chức Án Sát đất Lỗ (tỉnh
Sơn Đông), thọ bảy mươi hai tuổi.
(3) Theo Khải
Trinh Dă Thừa, vào đời Minh, Bành Hữu Nguyên ở Ích
Dương kiền thành tụng Quán Âm Kinh. Cha bị bệnh,
ông Nguyên cắt tay để chữa chạy. Mẹ bị
bệnh nguy ngập, ông Nguyên khóc lóc cầu đảo Đại
Sĩ, nguyện cắt gan cứu mẹ. Trong đêm, chợt
thấy phan, tràng dẫn đường cho Đại
Sĩ, ông Nguyên bèn đốt hương, đảnh lễ,
cầm dao tự mổ. Rạch sáu lần mà tim cứ vọt
lên, phải ṃ t́m gan để cắt, đau đớn ngất
đi. Tỉnh lại, bảo vợ đem nấu dâng mẹ,
bệnh liền lành ngay. Phổi của ông Nguyên tḥ ra ngoài,
vết thương không khép miệng được. Mọi
người xót xa khẩn cầu Đại Sĩ; đến
đêm, mộng thấy Ngài dạy: “Phổi rút vào chẳng
khó khăn ǵ. Ta muốn để ở ngoài suốt một
trăm ngày để người đời nh́n vào, nhằm
dạy họ hiếu thảo”.
Theo Dị Đàm Khả
Tín Lục, vào đời Thanh, Lưu Thị ở Vân Huyện,
phụng dưỡng mẹ chồng rất hiếu thảo.
Mẹ chồng bị bệnh nghẹn hơi, liền cắt
thịt đùi ḿnh nấu cháo dâng lên, mẹ liền lành bệnh,
nhưng bệnh lại phát ra, lại cắt thịt. Thế
nhưng cứ cách tuần, lại lên cơn. Lưu Thị
cầu đảo Đại Sĩ, nguyện bị bệnh
thay. Thầy lang X... bảo xằng là gan người có thể
trừ được gốc bệnh. Lưu Thị tin
theo, dùng dao bén chọc dưới sườn, lôi gan ra cắt,
ngă lăn ra, ngất đi. Chợt thấy Đại
Sĩ vỗ về, bảo: “Con khổ quá!” rồi dùng hoàn
thuốc bôi lên vết thương khiến Lưu Thị tỉnh
lại, đem nấu miếng gan ấy dâng lên mẹ chồng,
bệnh trọn chẳng c̣n phát ra nữa. Về sau, mẹ
chồng biết chuyện, hết sức đau ḷng nói:
“Con dâu [hiếu thảo] đến mức như thế,
ta nỡ ḷng nào” bèn bẩm với quan xin ban thưởng cờ
quạt. Đấy là chuyện trong tháng Sáu năm Kỷ Hợi
(1779) đời Càn Long.
(4) Theo Củ
Trai Tạp Kư, vào đời Minh, Lư Mộng Khang mộng thấy
Đại Sĩ trao cho con phượng bằng ngọc bèn
sanh ra con gái. Con gái tṛn bốn tuổi th́ mẹ mất, hết
sức đau buồn! Thờ mẹ kế hiếu thảo,
cha nghèo, cô dệt vải cho cha bán. Có người ḍng dơi nhà
quan mến mộ, xin kết hôn. Cô nói với [cha mẹ]: “Bỏ
cha mẹ ḿnh để phụng dưỡng cha mẹ
người khác, con không muốn, nguyện suốt đời
phụng dưỡng cha”. Cha bệnh, cô xả thân cầu
đảo. Sắc thuốc trong sân, có con chim xanh ngậm một
quả đỏ chót bỏ vào siêu thuốc. Cha uống vào
liền lành bệnh. Năm Sùng Trinh thứ 2 (1629), cô mất
năm bốn mươi bảy tuổi, đau ḷng không
được thỏa ư nguyện phụng dưỡng cha
mẹ suốt đời. Hoàng Đạo Châu đề
trên mộ cô ta như sau: “Gia
Ḥa hiếu trinh Lư thị nữ” (Cô gái hiếu trinh họ
Lư ở Gia Ḥa).
Theo Nhất Hạnh
Cư Tập, vào đời Thanh, Bách Vạn An ở Thường
Châu thích làm lành không mệt mỏi. Vào thời Càn Long, mẹ
ông ta bị bệnh. Ông An từ Tô Châu vội trở về.
Mẹ đă tắt hơi, mọi người sắp
đặt quan tài, vải liệm. Ông An buồn
thương, xót xa, cầu đảo Đại Sĩ, tụng
chú Bạch Y một vạn hai ngàn lần, nguyện giảm
tuổi thọ của chính ḿnh để tăng thêm thọ
mạng cho mẹ, rốt cuộc mẹ tỉnh lại. Cụ
bệnh mấy ngày rồi ngồi dậy nói: “Thoạt
đầu, ta bị hai viên nha lại [cơi âm] dẫn đi,
qua chỗ Thổ Địa, Thành Hoàng rồi mới đến
Đông Nhạc. Vua Đông Nhạc nói: - Con của
ngươi thành tâm cầu đảo, nhờ Đại
Sĩ cứu khỏi chết, nên bèn tha về”. Ông An bèn
khuyên mẹ tu Tịnh nghiệp. Về sau cụ được
văng sanh Tây Phương.
Theo Bác Vật Chí, [thần
núi] Thái Sơn (tức Đông Nhạc Đại Đế)
chuyên triệu hồn người ta. Trịnh Huyền lại
chú thích: “Kim kê (gà vàng) là tinh linh
của Thái Sơn”.
(5) Theo
Thánh Kinh Hội Toản, Vạn Văn Ngọc ở Kinh
Sơn tự nói: “Tôi tŕ Đại
Bi Chú, Tâm Kinh, linh dị khôn ngăn thuật trọn. Gặp
hung hóa cát, khởi tử hồi sanh, quả thật chính
thân tôi đă từng chứng nghiệm. Nhớ khi mẹ
tôi bị bệnh nguy ngập sắp mất, tôi đau ḷng
khóc lóc chảy cả máu, quỳ trước tượng
Đại Sĩ, tụng một biến chú Đại Bi,
mẹ liền cảm thấy có người dẫn trở
lại dương gian, dần dần thở thong thả,
nói năng, cử động được, mấy hôm sau
là khỏe hẳn. Phật pháp vô biên, quả chẳng phải
là lời nói dối”.
Theo Cầu Phước
Chỉ
(6) Theo
Quán Âm Kinh Cận Trưng, vào đời Thanh, Hồ Chấn
Hỗn ở Hoài Ninh chuyên tụng Quán Âm kinh chú. Trong niên hiệu
Gia Khánh, sống nơi đất khách tại Lĩnh
Đời Thanh, mẹ
của Trương Học Tảo ở Lâm Xuyên là La Thị,
dốc ḷng kính tín Đại Sĩ. Năm Kỷ Hợi (1839)
đời Đạo Quang, cụ đă bảy mươi
hai tuổi, chợt đầu váng, bụng đau. Ông Tảo
quỳ tụng Quán Âm kinh chú một ngàn biến, liền
lành.
Theo truyện Lưu Tễ
trong bộ Lương Thư[24], mẹ ông Tễ bị bệnh, ông Tễ
tụng Quán Âm Kinh đến một vạn biến. Đêm
mộng thấy một vị Tăng bảo: “Phu nhân đă
tận số, nhưng do ông tinh thành chuyên dốc đến
cùng cực, sẽ thọ được mấy chục
ngày nữa”. Sáu mươi mấy ngày sau, cụ mất. Ông
Tễ cất cḥi bên mộ, có một cặp hạc trắng
lượn quanh cḥi.
Theo lời tựa của
bộ Nam Hải Từ Hàng, Đặng Truyền Anh ở
Cao An nói: “Anh tôi là Nguyên Đống
đem hàm Tứ Phẩm do chính ḿnh đă quyên được
xin vua chuyển sang phong cho ông bà nội, nhưng bà nội đột
nhiên trúng phong không nói được. Tôi liền kiền
thành tụng Cao Vương Kinh, cầu cụ sống thêm một
thời gian nữa để chờ cáo phong. Ngay hôm ấy,
bà nội khỏe dần. Mấy tháng sau, bằng sắc gởi
tới th́ mấy hôm sau đấy, bà nội mỉm cười
qua đời”.
(7) Sách Mạnh
Tử có câu: “Thân thân nhi nhân dân,
nhân dân nhi ái vật” (Có yêu thương người thân
th́ mới có ḷng nhân với người khác, có ḷng nhân với
người khác th́ mới có thể yêu thương muôn
loài). Sách Lễ Kư viết: “Hiếu
tử hữu vấn an, thị thiện chi nghĩa”
(Người con hiếu th́ có những hành vi hợp đạo
nghĩa như hỏi thăm sức khỏe, hầu cơm
[cha mẹ]). Luận Ngữ có câu: “Phụ mẫu chi niên, bất khả bất tri dă”
(Con cái chẳng thể không biết tuổi của cha mẹ).
(8) Theo
Quán Âm Kinh Cận Trưng, mẹ ông Hoàng Vân Tú ở Tân Kiến
bệnh nguy ngập. Ông Hoàng sáng tối kiền thành cầu
đảo Đại Sĩ, nguyện in tặng Cao
Vương Kinh, mẹ được lành bệnh.
Lại nữa, mẹ
của Lư Nhất Minh ở Đồng Hương tuổi
đă bảy mươi, mắc bệnh nặng. Do đi mời
thầy thuốc, ông Lư đi qua ngôi chùa cổ, trông thấy
trên bàn thờ Đại Sĩ có cuốn Cao Vương
Kinh, thầm nguyện mẹ được lành bệnh sẽ
in tặng một ngàn hai trăm quyển. Ngay đêm ấy,
bệnh mẹ giảm quá nửa, liền khắc in ngay
trong đêm, chưa đầy nửa tháng bệnh mẹ đă
khỏi hẳn.
Theo Bạch Y Kinh Cận
Trưng, con gái nhà họ Lư ở Đại Hưng, theo cha
đến chỗ làm quan. Cha bệnh nguy ngập, cô ngày
đêm cầu khẩn Đại Sĩ, mộng thấy
được Bồ Tát khẩu truyền Bạch Y Kinh. Cô
niệm đến một vạn hai ngàn biến, cha khỏi
bệnh, thọ tám mươi mốt tuổi.
Lại có cô gái họ
Dương, cha bị nổi nhọt đinh ở chân, thuốc
men vô hiệu. Cô hằng ngày lạy Đại Sĩ, quỳ
tụng Bạch Y Kinh và thề nguyện khắc in biếu
tặng, chỉ mấy hôm, nhọt đinh đă lành.
Lại c̣n có Châu Khởi
Phụng ở Ngô Huyện, mộng thấy thần bảo
mẹ sắp hết tuổi thọ, ông Châu liền kiền
thành tụng chú Bạch Y một vạn hai ngàn biến, in tặng
một ngàn hai trăm quyển, mẹ thọ tới tám mươi
mấy tuổi.
Theo Nam Hải Kư, trong
niên hiệu Gia Khánh đời Thanh, Túc Khải ở Quế
Lâm kể: “Ông nội tôi hai
đùi lở loét, gân da rữa nát. Cha tôi hoảng hốt, hằng
ngày tụng Quán Âm Chú mấy ngàn biến, in tặng một
ngàn hai trăm quyển, bệnh của ông nội không thuốc
mà lành. Về sau, cha bị bệnh khí thống, Khải thầm
cầu nguyện Đại Sĩ, hứa in tặng Nam Hải
Kư, lại c̣n tụng chú không ngớt, chẳng đầy mấy
ngày cha khỏi bệnh”.
Theo Linh Nghiệm Kư, Hoa
Đ́nh Tướng là người đời Thanh nói: “Trong niên hiệu Càn Long, tôi bị
bệnh, tứ chi chẳng thể cử động,
ăn uống không nuốt xuống được, khắp
thân đau đớn, ngứa ngáy, đầu tóc rụng sạch.
Thầy thuốc nói: ‘Sống chẳng quá ba ngày nữa!’ Mấy
đứa con bèn kiền thành tụng Cao Vương Kinh một
tạng, in năm ngàn quyển, hứa mỗi năm tận
hết sức mua loài vật phóng sanh. Ngay trong hôm ấy tôi
có thể cử động được, ngứa đau
giảm dần, chẳng mấy hôm đă lành bệnh”.
1.
Bèn có: Phóng sanh, kiêng giết, Ngưng Cô thoát sản nạn.
Kêu cầu, cứu khổ, Đổng Mẫu hối thiện
căn.
2. Triệu
Canh soạn Minh Du Xác Kư, Linh Hóa nghe Tâm Địa Quán Kinh.
3. Tri Kiệm
xem sổ ghi tương lai, Soái Thị được tính
thêm nửa kỷ.
4. Tự
tu, răn người, Khai Nguyên được thả. Giữ
phận sống yên, Dương Lượng hoàn sanh.
5. Ông Cố
làm lễ, được ngắm thân quảng đại.
Họ Tào tŕ trai, bèn uống nước thanh lương.
6. Đấy
đều là tên ghi trong sổ quỷ, rốt cuộc cùng Tần
điệp[25] hồi sanh. Dẫu chưa soạn Chiêu
Hồn Phú, vẫn kể chuyện trong cung nhà Hán.
7. Cành liễu
phe phẩy, biến thành tục mạng thang[26]. Ban bùn Mâu Ni, chính là phản hồn
dược. Đây chính là sự ban vui thứ ba của
Đại Sĩ vậy (Đoạn
này ca tụng việc đă chết rồi sống lại)
(1) Theo Ngọc
Lịch Cận Báo, Viên Ngưng Cô ở Dậu Dương
bị sản nạn, hồn đến địa phủ.
Diêm Vương tra sổ, bảo: “Người đàn bà này
phạm lỗi quá nhiều”, sai quỷ giải sang Nhị
Điện chịu tội. Một viên quan tŕnh sổ lên,
thưa: “Viên thị nhà họ Tiền[27] khuyên bố mẹ chồng đừng
đốt trùng kiến ba lần. Lại khuyên chồng in
năm ngàn tờ Giới Sát Văn, góp tiền in tặng ba
ngàn trương Ngư Lam Quán Âm Phóng Sanh Kinh, Ngọc Đế
phê chuẩn cho bà ta thọ thêm ba mươi năm nữa”.
Vua đứng dậy chắp tay, khen: “Lành thay! Lành thay!” sai
đưa về cơi dương, liền tỉnh lại.
Theo Pháp Hoa Cảm Thông,
trong niên hiệu Thuần Hy đời Tống, mẹ ông
Đổng là Lư Thị ở Nhiêu Châu mắc bệnh đă
chết rồi sống lại, thuật rằng: “Thoạt đầu vào âm phủ,
đi trong đồng hoang mấy dặm. Đến thành,
nghe tiếng người ầm ĩ, nhưng tối
đen như mực, tự nghĩ: ‘Ta tụng phẩm Phổ
Môn ba mươi mấy năm, nay lọt sổ quỷ, há Bồ
Tát chẳng cứu giúp hay sao?’ Ngay lúc ấy, ta hô to: ‘Cứu
Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát’ khoảng trăm lần, chợt
có người nắm cánh
tay trái ta dẫn đi, dần dần cảm
thấy sáng sủa như ban ngày, thấy Đại Sĩ
hiện tướng phụ nữ, anh lạc khắp thân, chiếu
ngời lóng lánh, mùi hương lạ sực nức, tướng
hảo đoan nghiêm. Do vậy, bèn xin Ngài cứu mạng. Đại
Sĩ dạy: ‘Số ngươi đă tận, nhờ từ
trước đă có thiện căn, nên ta đến cứu
giúp. Hăy nên gấp trở về, sáu năm sau sẽ lại
gặp gỡ’. Ta lễ tạ th́ Ngài cất bước vọt
lên cao, tha thướt bay về Tây Phương. Liếc
trông phan, lọng dẫn đường, vàng ngọc
sáng ngời, rộn ḷng, chóa mắt, đột nhiên tỉnh
lại”. Năm năm sau, cụ không bệnh mà mất.
(2) Theo
Minh Du Xác Kư, vào đời Thanh, Châu Triệu Canh ở
Trường Châu, vợ là Tŕnh Thị, vào năm Đạo
Quang 12 (1832), bệnh gan bộc phát, liền nói giọng quỷ,
khẩn cầu Triệu Canh hăy tụng chú Đại Bi
để giúp siêu độ. Do vậy, hỏi quỷ có oán
thù đời trước với người bệnh hay
không? Đáp: “Không có!” Hỏi: “Bệnh không sao ư?”
Đáp: “Chí tâm niệm Phật ắt sẽ được
lành”. Tháng Tám năm sau, bệnh lại phát ra, hai mươi
mấy ngày chẳng ăn uống ǵ được, bèn niệm
Phật không ngớt. Sau đó, bà vợ hôn mê chẳng biết
ǵ, hồn đi vào cơi âm, thấy Diêm Vương thẩm
tra tù nhân, thiện ác đều rất rơ rệt. Do Tŕnh Thị
ăn chay niệm Phật, niệm Kim Cang Kinh, Đại Bi
Chú, nên vua bèn thả về. Bà ta bèn kể tỉ mỉ những
điều đă thấy, Triệu Canh ghi lại [thành bộ
Minh Du Xác Kư] để khuyên đời.
Trong lời chú thích của
Quán Âm Linh Cảm Tụng có ghi: Vị Tăng tên Linh Hóa khi
chưa xuất gia, chết v́ bệnh dịch, nghe vị
cai quản cơi âm giảng Tâm Địa Quán Kinh[28]. Nghe xong, Quán Âm dẫn đường,
tỉnh lại, về sau xuất gia trong tông Thiên
(3) Theo
Triều Dă Thiêm Tải, đời Đường, Mạnh
Tri Kiệm lúc nhỏ bị bệnh chết, hồn vào cơi
âm, gặp người quen làm nha lại ở đó bảo:
“Ngươi vốn không có phước quả, khó thể
trở về được”. Kiệm thưa: “Cháu tụng
Tâm Kinh, Cao Vương Kinh, ước chừng ba bốn vạn
biến”. Nha lại kiểm sổ, tâu lên vua, vua phán thả
về. Lại c̣n cầm sổ chỉ cho biết chuyện
tương lai, bèn tỉnh lại. Về sau, mọi chuyện
đều ứng nghiệm.
Theo Hải Nam Nhất
Chước, vào đời Thanh, vợ của quan Tỷ Bộ
Kim Quang Đẩu xứ Phụng Tân là Soái Thị thờ
Đại Sĩ, lúc sáu mươi mấy tuổi bị bệnh
mất, ba ngày sau sống lại, [kể chuyện] vào cơi
âm, thấy Đại Sĩ bảo với Diêm vương:
“Bà này kiền thành tụng Quán Âm Kinh, lại có công đức
in tặng rất nhiều, hăy nên cho thọ thêm nửa kỷ”.
Vua cho bà Soái sống lại, được đi khắp
địa phủ, tận mắt thấy người thọ
khổ đông đúc. Có bầy chim khoét mắt, máu tuôn khắp
thân, nói đó là quả báo do giết sanh mạng chim. Lại
vỏ ốc chất thành núi, lũ quỷ khoét thịt
người dồn vào đó, bảo là quả báo do ăn
thịt các loại ốc.
(4) Về
chuyện hoàn hồn của Chương Khai Nguyên xin xem
trong lời chú thích thứ bảy trong phần cứu khỏi
đọa lạc. Ông ta khi đi khắp địa ngục
xong, người cứu nói: “Ông trở về hăy nên tự
tu, răn người, đừng lơi lỏng chí ấy”
rồi sống lại.
Theo Chuyển Nhân Lục,
cuối niên hiệu Thuần Hy nhà Tống, Dương
Lượng bị bệnh chết đi, vào cơi âm. Diêm Vương
hỏi có công đức ǵ, thưa: “Con niệm Quán Thế
Âm Kinh”. Vua hỏi: “Làm chuyện lành nào?” Thưa: “Chẳng
có điều lành nào để kể, chỉ giữ phận
sống yên mà thôi!” Vua kiểm sổ, thấy đúng như
lời nói, bèn cho sống lại.
(5) Vào
đời Minh, Cố Vỹ ở Thường Thục
tánh t́nh cẩn thận, trung hậu, chết trong niên hiệu
Vạn Lịch. Ba ngày sau sống lại, kể: “Lúc mới chết đích thân thấy
h́nh dáng thật sự của Đại Sĩ, giống
như tượng Ngài đang đi được thờ
tại chùa Hổ Khâu, nhưng thân to lớn hơn, từ
trên không trung hạ xuống. Vỹ đầu mặt đảnh
lễ. Trong khoảnh khắc, Bồ Tát ẩn h́nh, coi khắp
địa ngục rồi tỉnh lại”.
Tào Học Cứu ở
Thái Thương chết v́ bệnh dịch, thấy bà cụ
mặc áo trắng bảo: “Ngươi tŕ trai, ta cứu
ngươi”. Thưa: “Bồ Tát cứu con, con nguyện tŕ
trai”. Bà cụ bảo uống nước, tâm cốt thanh
lương bèn sống lại; th́ ra đă chết một
ngày đêm rồi. Bèn suốt đời ăn chay, thờ
phụng Quán Âm.
(6) Theo Tả
Truyện, người nước Tấn bắt được
gián điệp của nước Tần, đem giết ở
Giáng Thị. Sáu ngày sau, gă gián điệp ấy sống lại.
Thời Chiến Quốc,
Tống Ngọc soạn bài Chiêu Hồn Phú. Theo Bác Vật
Chí, cuối đời Hán đại loạn, có kẻ quật
mồ chôn cung nữ thời Tiền Hán, các cung nữ vẫn
c̣n sống, đều đi ra, b́nh phục như cũ.
Quách Hậu[29] nhà Ngụy nhận họ làm tay chân, hỏi
chuyện trong cung thời Hán, họ đều trả lời
rành rọt.
(7) Với
câu trước, xin hăy xem lời chú thích thứ 18 trong phần
cứu đọa lạc.
Theo Kiến Văn Lục,
vào đời Thanh, Thang Sính ở Phiêu Thủy nhà nghèo, nuôi mẹ
có hiếu. Chợt bị bệnh mất đi, hồn
đến Đông Nhạc. Ông Sính xót xa xin [Đông Nhạc Đại
Đế] hăy thương mẹ ông ta không người hầu
hạ, phụng dưỡng. Vua sai đưa sang chỗ Khổng
Thánh định đoạt. Trở về gặp Phổ
Môn Đại Sĩ, bèn xót xa khẩn cầu cho sống lại.
Đại Sĩ bảo: “Đấy là ḷng hiếu thảo.
Lại từng cự tuyệt gái lả lơi,
tương lai sẽ cao xa, hăy nên cho hoàn hồn gấp”. Quỷ
thưa: “Xác đă mục th́ làm thế nào?” Đại
Sĩ sai Thiện Tài lấy bùn Mâu Ni, sắc như Chiên
Đàn, dùng bùn bọc thây ba lớp, những chỗ hư
nát trông hoàn hảo như thường. Hồn từ miệng
chui vào [xác], bèn sống lại. Về sau, Thang Sính đỗ
Tiến Sĩ thời Thuận Trị, suốt đời
trai giới.
Theo Thập Di Kư, trong
năm Đ́nh Ḥa nguyên niên (92) đời Hán, nước Nhục
Chi tiến cống Phản Hồn Hương. Về sau bị
dịch lớn, vua đốt lên, những ai chết
chưa quá ba ngày đều sống lại.
2.2.3.4.
Được con
1.
Bèn có: Bảy ngày thân thể biến hóa, kể măi chuyện
đẹp Tự Cô. Khoảnh khắc đổi h́nh, ai nấy
gọi tên Phật Tứ.
2. Cúng
ngàn vàng dựng gác, sanh liên tiếp anh em. Hứa kỳ hạn
sáu ngày, Tín, Trung cùng già cả.
3.
Mây màu vờn quanh, thơm ngát tranh Lư Thanh ẵm trẻ,
trăng tṛn, hoa trổ, Phan Chiếu ngâm vịnh nhà thêm
người.
4.
Hương ṿng in chữ, ấm ḷng Chương Tảo lúc
tàn niên; dương liễu làm con, ứng Tân Trai thiết
tha bái vọng.
5. Họ
Cát truyền kinh, quan dân được lợi. Thí chủ
Phan công, tăng sĩ sanh đôi.
6. Chú cháu
họ Phó, nối gót quy y. Anh em họ Lư, chen vai tin tưởng.
7. Văn Sản sanh được
con trai, cháu vốn giống cậu. Tử Thúy có người
nối dơi, cháu phải hầu cô.
8. Tươi
cười ban tặng, đền bù họ Trâu sửa lỗi
. Khớp với điềm mừng, ông Hùng trừ sạch
đa nghi.
9.
Lương Văn xây dựng Bạch Hoa Am, Long Tướng
mộng được trao con đỏ.
10. Chí Thuần
khắc ván, khen ngợi “như vang ứng tiếng”, Đạo
Đức mộng lan, may đă cải tà quy chánh.
11. Mừng
được hậu duệ dằng dặc,
ca tụng trọn khắp đất Kinh, Hành. Vịnh câu
“con cháu đông đầy”, tiếng ngâm rền miền Huy,
Vụ (Tổng cộng hai đoạn).
(1) Theo
Thuật Dị Kư, cụ Hoàng ở Kinh Châu đă già và góa vợ,
dốc ḷng ham làm lành. Có một gái tên là Tự Cô, tuổi vừa
mười bốn, học chữ với cha, thông minh, hiền
hậu, thêu tượng Bạch Y Đại Sĩ, lễ
bái hết sức kiền thành. Một đêm, Tự Cô mộng
thấy Đại Sĩ nói: “Cha ngươi hiếu
nghĩa, chẳng nên không có ai nối ḍng. Hiềm rằng
tuổi đă già [không thể có con được nữa],
ta biến ngươi thành con trai”. Bảo cô ta nuốt viên
thuốc màu hồng, cô ta cảm thấy một luồng
hơi nóng xông thẳng xuống dưới, ngủ mê mệt
suốt bảy ngày, tỉnh dậy th́ đă thành thân trai.
Nhà chàng rể kinh ngạc cho là dối trá, kiện lên quan
để kiểm nghiệm thật hư, người tới
xem đông nghịt. Tôn Nguyên Phương đề thơ rằng:
“Trong mơ biến hóa sao kỳ
lạ, má hồng bỗng chốc biến mày râu”.
Theo Kỷ Cầu
Thư, vào đời Minh, Dương Hoàng ở
Đương Đồ tận lực học Nho. Gặp
lúc quân binh vây làng, chẳng nỡ ĺa phần mộ tổ
tiên, giấu thê thiếp và con trai trong rừng sâu, một
ḿnh canh mộ. Quân lính kéo đến, bắt được
ông, vội đem d́m chết. Đứa con trai lên mười,
từ trong rừng thấy cha bị chết đuối,
cũng gào khóc chạy ra, gieo ḿnh xuống nước chết.
Khi ấy là ngày Mười Sáu tháng Ba năm Bính Tuất (1646)
đời Thuận Trị. Đến sáng, hai cái xác ôm nhau
nổi lên, ai trông thấy cũng ứa lệ. Vợ ông ta
là Lục Thị thôi ăn mặn, thờ tượng
Đại Sĩ trong nhà, sáng tối niệm Phật, vừa
niệm vừa tuôn nước mắt. Mộng thấy một
bà lăo dẫn một đứa nhỏ, bảo “tặng cho
ngươi”. Tỉnh dậy, bèn cầu: “Nguyện người
thiếp là Trương Thị đang có mang sẽ sanh
được con trai th́ là do Bồ Tát ban cho”. Cuối năm,
người thiếp sanh con gái, bà Lục khóc lóc: “Nay đă
hết rồi!” Đến mùa Xuân, bà mời các vị bề
trên trong họ đến nói: “Chồng tôi không có con, tài sản
đơn bạc nên chia cho các cháu trai. Tôi xin thâu tô để
có cái lo toan cơm áo nuôi con gái”. Nói chưa xong đă đau
đớn khóc ṛng. Mọi người bất nhẫn, nói:
“Đợi tới giáp năm ông Hoàng, sau khi làm Phật sự
xong sẽ bàn định”. Đến kỳ, hội họp
thân tộc, ngày hoàn tất trai đàn nhằm đúng hôm Mười
Sáu tháng Ba, đứa bé gái khóc oa oa không ngớt,
Trương Thị ôm nó đặt lên gối, chợt
như bị bóng đè chẳng tỉnh. Bé gái khóc càng dữ.
Bà Lục phải kêu ầm lên th́ bà Trương mới tỉnh,
bồng con lên th́ nó đă biến thành thân nam, nh́n nhau kinh
hăi, ngạc nhiên. Họ hàng xúm lại thấy mặt
mũi nó vẫn như cũ, nhưng ở chỗ kín c̣n vằn
vện dấu máu, mới biết Bồ Tát báo mộng chẳng
sai, rồi đem nó lễ tŕnh trước bàn Phật,
đổi tên là Phật Tứ (Phật ban cho).
Trương huyện lệnh sai xét nghiệm, tra hỏi
tông tộc, phê rằng: “Nếu sự biến hóa của
đứa con không thật, lũ cháu trai há chẳng muốn
chia điền sản ư?” Hạc Động Tử[30] nói: “Linh cảm đến mức ấy,
đá nứt vỡ, trời rúng động vậy”.
(2) Theo Hiện
Báo Tùy Lục, đầu đời Thanh, Đàm Hiến
Khanh nhà giàu có nhưng không có con trai, người trong họ
ngắm nghé phân chia tài sản. Ông Hiến giận, dùng
năm ngàn lạng vàng tổ chức đàn tràng Đại
Bi Sám, lễ sám suốt bốn mươi chín ngày, người
thiếp bèn sanh con trai, bọc thai trắng tinh. Người
vợ cả bèn phát tâm quyên tặng một ngàn lạng vàng
để dựng Bạch Y Các; không lâu sau lại sanh con
trai, bọc thai cũng trắng như lần trước.
Anh và em đều vào học trường huyện.
Theo Trần Hoài Tích Bút
Kư, Uông Mậu Huy ở Kỳ Môn không có người nối
dơi, bèn niệm và tặng Cao Vương Kinh, rộng làm các
thiện sự, mộng thấy Đại Sĩ ẵm một
đứa trẻ bảo: “Ngươi hăy khéo đỡ lấy.
Sáu ngày sau sẽ đến ẵm đi, sẽ lại ẵm
đến một đứa trẻ nữa”. Thế rồi
ông sanh liên tiếp hai đứa con trai, trưởng là Nhân
Trung, thứ là Nhân Tín. Sau này, Nhân Trung mất năm sáu
mươi tuổi, [lúc ấy, người nhà ông Uông] mới
hiểu được ẩn ngữ trong giấc mộng.
(3) Theo
Tŕ Nghiệm Kư, vào đời Minh, H́nh Khoa[31] Lư Thanh có một con trai chết v́ bệnh
đậu, mẹ nó bèn kiền thành tụng Cao Vương
Kinh. Ông Thanh mộng thấy Đại Sĩ ẵm một
đứa trẻ đến, bảo: “Như vân, như nguyệt”. Sáng dậy, ông X... tặng
cho ông Lư bức tranh thêu Quán Âm ẵm đứa bé giống
hệt như trong giấc mộng. Trên bức tranh ấy
có bài thơ, [mở đầu bằng câu]: “Thái vân hương nhiễu hải thiên triều”
(Mây màu vờn biển thơm trời thẳm). Câu cuối
bài thơ là: “Hoàn lai đan quế
nguyệt trung phiêu” (Trở về, quế thắm nhẹ
lay trăng), phù hợp với hai chữ “vân” và “nguyệt”.
Về sau, quả nhiên sanh con trai.
Theo Linh Ứng Kư, Phan
Chiếu ở Ngô Giang đốt sớ cầu con trước
tượng Đại Sĩ. Năm sau, giữa Xuân, sanh
được một trai. Làm thơ kỷ niệm có câu: “U Yên lăo khứ tuyết doanh
điên, hỷ kiến hoa sanh nguyệt hựu viên” (U Yên
già khọm, tuyết đầy non, mừng thấy hoa đơm,
nguyệt lại tṛn).
(4) Theo Quái
Viên, Chương Tảo tuổi gần bảy mươi,
không có con trai, lễ Đại Sĩ, mộng thấy
trước ṭa của Đại Sĩ, chuỗi hương
ṿng in một chữ Tử (con), rồi người thiếp
sanh được một trai.
Dương Tâm Trai ở
Nhạc Châu, triều bái Phổ Đà, mộng thấy
Đại Sĩ bẻ cành liễu trong tịnh b́nh ban cho,
bảo: “Cho nó làm con ngươi”. Đứa con trai sanh ra
được đặt tên là Tự Liễu.
(5) Theo
Cao Vương Cảm Ứng Kư, đời Đường,
Cát Trường Niên ở Hành Dương không người
nối dơi. Vị lăo tăng khuyên ông Cát tụng Cao
Vương Kinh, bảo: “Sanh con sẽ có điềm lạ
là bọc thai kép màu trắng”. Vợ chồng bèn tụng
kinh đủ một tạng; về sau, sanh được
ba con trai, đều có bọc thai kép màu trắng. Quan Thái
Thú chính mắt thấy sự linh nghiệm ấy, bèn cho khắc
ván ấn tống. Vợ chồng Giang Tể ở Vũ
Dương thọ tŕ kinh cũng
được quả báo tốt đẹp.
Theo Khoáng Viên, Phan Hải
Tân ở Thuận Thiên không con, nỗ lực làm lành, cúng
dường chùa Tăng. Có hai vị lăo tăng cảm kích,
thề trước tượng Đại Sĩ, nguyện
làm con ông bà để báo đáp. Một hôm, ông Phan đang ngồi
trong gian giữa, chợt thấy hai vị Tăng đi vào
nhà, vợ bèn sanh đôi hai con trai. Cho người sang chùa hỏi
thăm hai vị lăo tăng th́ họ đă viên tịch cùng
một lúc.
(6) Theo Ứng
Nghiệm Kư, Phó Quốc Trấn ở Tân Kiến không con,
chú là Quảng Nghiêu đông con trai; do vậy, khuyên: “Chú tụng
Quán Âm Kinh nhiều năm, sao cháu không bắt chước?”
Ông Trấn bèn kiền thành tụng, năm sau sanh con. Thí kinh
hai ngàn quyển lại có thêm con, cùng thi đậu làm quan.
Theo Bạch Y Linh Nghiệm,
Lư Tá Nghiêu ở Hành Sơn không con, anh là Thọ Nghiêu có
được quyển kinh Bạch Y bèn cùng nhau mở trai
đường, thờ tượng Đại Sĩ, tụng
kinh, thí tặng, mỗi người đều có một
con trai.
(7) Theo Cảm
Ứng Kư, Thái Thú Tùng Giang là Phí Vĩnh Niên in tặng Cao
Vương Kinh, sanh được một con. Truyền
cách này cho cháu là Giang Văn Sản, anh ta cũng sanh
được một con trai, năm mười tám tuổi,
nó đậu khoa thi Hương.
Theo Nam Hải Từ
Hàng, vào đời Minh, Long Tử Huy ở Lô Lăng không
người nối dơi, em gái ông ta có được quyển
kinh Bạch Y, đọc những chuyện linh ứng do cầu
con, bèn khuyên chị dâu tŕ tụng. Chị dâu phát nguyện
ăn chay, tụng kinh. Năm sau, sanh được một
trai, khôi ngô khác thường.
Theo Tấn Thư, Hà Vô
Kỵ[32] tàn ác
giống như cậu hắn. Sách Tả Truyện có câu: “Điệt tùng kỳ cô” (Cháu
làm bầy tôi cho cô)[33].
(8) Theo
Nam Hải Từ Hàng, vào đời Thanh, Trâu Lỗ ở
Lâm Xuyên, trong thời Ung Chánh kiền thành tụng Quán Âm Kinh,
sanh được hai con. Tự nhủ: “Chưa chắc
đă là sức của Bồ Tát”, tâm liền bê trễ. Hai
đứa con chợt chết yểu, bèn kiền thành cầu
đảo Đại Sĩ, thệ nguyện thí kinh. Vợ
mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ tươi
cười, đáng mến, ẵm một đứa bé
đặt lên chơng, hôm sau liền sanh con. Hơn một
năm sau, lại mộng thấy giống như trước,
lại sanh một con.
Lại nữa, Hùng
Thiên Ích ở Ích Dương, sáu mươi tuổi, không
con, thấy Quán Âm kinh chú linh nghiệm, bèn ăn chay tụng
niệm, ấn tống. Vợ nằm mộng thấy gấu[34], vui vẻ kể với chồng, ông vẫn
cho là huyễn mộng. Mùa Xuân năm sau, quả nhiên sanh con
trai phù hợp giấc mộng.
(9) Theo Phổ
Đà Chí, vào đời Minh, Đô Ty[35] huyện Định Hải là
Lương Văn do cầu con được cảm ứng,
bèn bỏ tiền cậy vị Tăng trong chùa là Dục
Quang dựng Bạch Hoa Am.
Theo Từ Lâm Tập,
chư sanh Hà Long Tướng ở Quảng Châu đă
năm mươi tuổi nhưng không có người nối
dơi, bèn thờ tượng Thiên Thủ Thiên Nhăn, sáng tối
kiền thành lễ tụng. Mộng thấy Đại
Sĩ trao đứa bé đỏ hỏn, bèn sanh liên tiếp
ba con trai.
(10) Theo lời
bạt của Cao Vương Kinh th́ Hồ Chí Thuần ở
Phù Lương cùng với vợ họ Uông tụng Cao
Vương Kinh. Bà Uông mộng thấy nhiều người
đến xin kinh, bèn hứa in ra biếu tặng. Độ
một tháng sau có thai, sanh con nhằm đúng ngày khởi công
khắc bản in. Trong lời bạt, ông Thuần viết:
“Bồ Tát như vang ứng
theo tiếng, chẳng thể nghĩ bàn”.
Theo Minh Tường Kư,
thời Lưu Tống, Tôn Đạo Đức theo Đạo
giáo, làm quan Tế Tửu[36], tuổi đă năm mươi mà không
con. Một vị sa-môn khuyên ông Tôn hăy chí tâm lễ tụng
Quán Âm Kinh. Ông liền bỏ không theo Đạo giáo nữa,
dốc ḷng thành tụng Quán Âm, liền có giấc mộng lạ,
vợ sanh được con trai.
Theo Tả Truyện,
người thiếp của Trịnh Văn Công là Yến Cật
mộng thấy thiên sứ trao cho cành lan, bảo: “Cho nó làm
con nhà ngươi”, liền sanh ra [Trịnh] Mục Công, nên
đặt tên là Lan.
(11) Theo Linh
Ứng Kư, Giang Liên ở Miện Dương phát nguyện tụng
Bạch Y Kinh để cầu con. Mộng thấy Đại
Sĩ trao cho đứa bé bảo: “Thưởng cho ngươi
dốc ḷng thành tụng kinh”. Qua năm sau bèn sanh con trai.
Theo Cảm Ứng Kư,
Kha Thắng Xuân ở Vũ Xương tuổi đă
năm mươi, không con, vợ chồng ngày Rằm, mồng
Một ăn chay, tụng Cao Vương Kinh trọn đủ
tám tạng. Trong ba năm, liên tiếp sanh hai trai, một
gái.
Theo Quán Âm Kinh Cận
Nghiệm, Tông Duy Viên ở Kinh Quận, vợ họ
Trương nhiều lần bị sản nạn, bèn trai
giới tụng Bạch Y Kinh, sanh con có bọc thai kép màu trắng,
đặt tên là Đại Sĩ Bảo (Đại Sĩ
che chở), thông minh, tuấn tú bất phàm.
Đời Thanh, Tả
Phiên[37] xứ
Hồ Quảng là Lưu Nguyên Bá tu sám hai mươi tám ngày
để cầu con. Năm sau sanh con trai cực thông minh.
Quách Vũ Bá ở Hành
Sơn đă sáu mươi mà không con, nghe nói Bạch Y Kinh
linh nghiệm, bèn phụng tŕ, không lâu sau sanh con.
Trần Tảo Xán ở
Miện Dương sanh con nhưng không nuôi được,
vợ chồng tŕ tụng Bạch Y Kinh, sanh con nuôi đến
trưởng thành.
Hồ Lương Hoảng
ở Tân Đề thỉnh kinh, ăn chay tụng niệm,
năm sau sanh được con trai.
Bành Tuấn ở Kinh
Môn, đă năm mươi tuổi vẫn không có con, tin
kinh linh nghiệm, kiền thành tụng niệm bèn có con,
đặt tên là Nghiệm Bảo (bảo đảm ứng
nghiệm). Năm mười sáu tuổi, nó được
vào học trường huyện.
Chương Tuấn ở
Miện Dương, nghe chuyện của Bành Tuấn bèn
cũng tụng kinh, cũng có con.
Tŕnh Học Tuân ở
Huy Châu không con, vợ chồng kiền thành tụng Bạch
Y Kinh, lại c̣n in tặng, năm sau sanh con.
Chiêm Hữu Cao ở Vụ
Nguyên, vợ đă ngoài ba mươi mà chưa sanh nở, tụng
Bạch Y Kinh, bèn sanh con.
Theo Cao Vương Linh Ứng,
Trịnh Thuần Lănh ở Vụ Châu đă bốn
mươi vẫn chưa có con, hứa thí kinh một tạng,
bèn có con.
Trong niên hiệu Khang Hy
đời Thanh, Dư Lân Văn ở Vụ Nguyên không
người nối dơi, vợ là Đới Thị tŕ Quán
Âm Kinh và hứa thí ba ngàn quyển, liền sanh ba con trai. Anh
ông ta là Lân Nhân thấy em trai được ứng nghiệm
bèn cùng vợ kiền thành tŕ tụng, in tặng và thỉnh
Tăng tŕ kinh một ngàn biến, liền sanh con. Người
cùng ấp là Dư Tư Lai tŕ Cao Vương Kinh, vào thời
Khang Hy sanh được hai con trai, đặt tên là Phật
Thành và Phật Chánh.
Uông Trân ở An Huy khắc
năm trăm quyển kinh, bèn sanh được con trai.
Trịnh Mỹ Ngọc
ở Vụ Châu bốn mươi tuổi vẫn không con,
in kinh một tạng, liền sanh con trai. Năm sau lại
sanh con gái. Người cùng ấp là Giang Ứng Lâm cùng với
vợ tụng kinh, tặng kinh rộng răi, sanh được
một trai.
Hoàng Liên Thị ở Hấp
Huyện, lưu truyền rộng răi kinh này, sanh đôi hai
trai, đặt tên là Phật Trụ, Khánh Nhi.
Mễ Nhuận Cô ở
Huy Châu, hứa biếu tặng một ngàn quyển kinh,
năm sau sanh con trai.
Vào đời Minh,
Thư Uông Thị ở Y Huyện đă bốn mươi
vẫn không con, trong niên hiệu Hoằng Trị, tới lễ
ở Đông Sơn Am, thỉnh được kinh đem về.
Tŕ hơn một năm, sanh con trai.
Trong niên hiệu Sùng
Trinh đời Minh, Đổng Khoa ở Vụ Nguyên, vợ
là Chúc Thị, kiền thành phụng tŕ kinh này, hứa in một
ngàn quyển, người thiếp sanh được hai
trai. Người cùng huyện là Dư Mục Trai thí kinh một
ngàn quyển, một năm sau sanh con trai.
Phương Nham ở
Hấp Huyện, vợ là Hoàng Thị, cũng thí kinh một
ngàn quyển, sanh con trai.
1. Lại
thêm: Ham thiện, hành từ, ắt sẽ được trước
là rạng rỡ, sau là dư dật.
2. V́ thế,
chép kinh, vẽ tượng, Vương Văn Túc trâm anh lừng
lẫy thế gian; lợi vật, giúp nghèo, Từ Văn
Kính tể tướng suốt cả hai triều.
3. Thưởng
âm đức cho ông Trương, cháu đủ sáu rồng. Tặng
họ Phùng đứa bé c̣m, con đeo ba ấn.
4. Tú Tài
tuyệt hảo, sanh trung thần nơi xứ Gia Định.
Thượng Đế tưởng thưởng, Thiên Phi giáng
hạ cơi Bồ Điền.
5. Cụ
Trầm trải vàng, cháu chắt đông đầy, hưng
vượng. Châu Thị chuộng lành, phước thọ
dằng dặc dài lâu.
6.
Thương vị tăng nghèo đốt ngón tay, con làm quan
tới chức Hàn Lâm. Cự nhũ mẫu giở tṛ hoa
nguyệt, ḍng họ thật đông đầy, thịnh
vượng.
7. Thông thạo
Phạm âm, vọng bái Vương Thượng Thư đời
Tấn, bia khắc Lang Sơn, ghi sự thù thắng nơi
điện đ́nh.
8. Bền
ḷng nhân hiếu, kẻ không con rốt cuộc có cháu hiền.
Nuôi người tàn phế, hợp ḷng trời, hậu
đại ắt hưng long.
9. Vẫn
mong uống nước nhớ nguồn, nguyền hậu
duệ đời đời tin Phật. Nếu trót trước
siêng, sau nhác, hăy dũng mănh sửa ḿnh đổi mới.
Đấy chính là sự ban vui thứ tư của Đại Sĩ vậy (Đoạn này ca tụng cả
chuyện sanh ra quư tử)
(1) Theo Hải
Nam Nhất Chước, sự linh ứng do tŕ kinh Quán Âm
khó thể nào thuật trọn, nhưng ắt cần phải
hướng thiện, sửa lỗi, kiêng giết hại
sanh mạng loài vật th́ mới được linh ứng
như tiếng vang vọng theo âm thanh, [mà quả báo]
cũng chẳng phải chỉ là hưởng niềm vui
trông thấy con cháu đầy đàn!
(2) Theo Hiện
Quả Tùy Lục, vào đời Minh, Vương Tích Tước,
tên thụy là Văn Túc, làm tể tướng thời Minh
Thần Tông, sai thợ dùng mực ḥa vàng bạc để
vẽ tượng Đại Sĩ, đích thân viết Tâm
Kinh lên trên, tặng cho người khác thờ phụng chẳng
thể tính được số. Con [trưởng]
là Hành đậu Bảng Nhăn, cháu là Thời Mẫn tin thờ
Phật pháp, phát chẩn cho dân đói. Có người nằm
mộng thấy sáu thạch đậu, một vị
Tăng bảo: “Đây là để ghi số những việc
thiện do Thời Mẫn đă tích tập vậy”. Con trai
là Quỹ thi đậu, con trai [thứ] là Viêm, cháu là Nguyên
và Kỳ đều đậu Tiến Sĩ.
Theo Ngọc Lịch
Truyền Sao, thái phu nhân của ông Từ Văn Kính hằng
ngày niệm thánh hiệu Đại Sĩ một ngàn câu,
thích nói chuyện nhân quả, khắc Ngọc Lịch Truyền
Sao để khuyên người làm lành. Văn Kính cũng khắc
Kính Tín Lục, giúp đỡ trọn khắp thân tộc, nhưng
không cậy ḿnh có đức. Con ông là Bổn, làm quan đến
Đại Học Sĩ[38], [một người con khác là] Kỷ
làm quan Tuần Vũ, cháu là Dĩ Huyễn làm quan Thị
Lang[39], Cảnh Đào làm quan Đạo Doăn[40]. Lũ cháu chắt đều liên tiếp
đỗ đạt.
(3) Trong
câu trên, đối với chuyện bị chết v́ bệnh
dịch rồi sống lại của Viên Thị vợ ông
Trương Khánh vào đời Tống xin coi lại lời
chú thích thứ tám trong đoạn thứ hai của phần
lành bệnh. Đại Sĩ bảo: “Chồng ngươi
nhiều âm đức, con cháu ắt sẽ hưng vượng”.
Về sau, sanh con là Tử Hanh. Hanh có sáu con trai đều
làm quan vinh hiển.
Theo Tấn Thư, sáu
anh em Biện Khổn đều lần lượt làm quan
tới bậc Tể Phụ, người đời gọi
là “Biện Thị Lục Long” (sáu
con rồng nhà họ Biện).
Theo Khuyến Giới
Loại Sao, họ Phùng ở Đồng Hương đời
đời tích đức. Phùng Cẩm làm quan ở Sơn Hữu,
không có con, vợ tŕ chú Đại Bi hết sức kiền
thành. Vợ người hàng xóm mộng thấy một bà
lăo bế hai đứa bé một gầy một béo đến,
đỡ lấy đứa béo th́ nó rớt xuống đất
chết, lại đỡ lấy đứa gầy th́ bà
lăo bảo: “Đứa này sẽ trao cho nhà họ Phùng”. Vợ
người hàng xóm sanh con không nuôi được; c̣n Phùng
phu nhân sanh ra Hạo, thuở bé gầy c̣m, yếu đuối.
Đến lớn, Hạo dần dần trở thành khôi
ngô, cao lớn, từ chức quan Hàn Lâm chuyển lên Ngự
Sử, không chuyện tốt lành nào chẳng tận lực
thực hiện. Nay đă bảy mươi lăm tuổi,
hai vợ chồng hạnh phúc, khỏe mạnh, có ba con trai
đều đỗ đạt làm quan.
Theo Hán Thư,
Dương Bộc đeo ba quả ấn để khoe
khoang với xóm làng[41].
(4) Theo Hiện
Báo Tùy Lục, vào đời Minh, cha của Hoàng Uẩn Sanh ở
Gia Định, do hiếm hoi bèn tụng Bạch Y Kinh, tận
lực làm lành, mộng thấy Đại Sĩ bế một
đứa bé trao cho, bảo: “Nghĩ ngươi siêng khổ,
tụng kinh, làm lành, ta t́m được một tú tài tuyệt
hảo trao cho ngươi”, liền sanh ra Uẩn Sanh. Uẩn
Sanh tài văn chương lừng lẫy trong nước,
đậu Tiến Sĩ thời Sùng Trinh. Do thời thế
biến loạn, cùng với em là Vĩ Cung thắt cổ
nơi điện Phật ngoài Bắc
Môn.
Theo Thiên Hậu
Chí, Thiên Phi là con gái họ Lâm ở Bồ Điền. Cha là
người một niềm chân thành, làm quan Đô Tuần[42] đời Tống, làm lành,
thích bố thí, lễ Đại Sĩ cầu con trai. Về sau, mẹ mộng thấy Đại
Sĩ bảo: “Nhà bà nhiều đời gắng công làm lành,
Thượng Đế ban thưởng”, lấy ra hoàn thuốc
bảo: “Uống thuốc này sẽ được ban tặng
đứa con từ bi, thích cứu giúp”. Mẹ liền mang
thai. Lúc sanh ra, ánh sáng có màu sắc như ráng trời chiếu
vào nhà, chói ḷa chóa mắt, mùi hương lạ ngào ngạt,
suốt cả tháng không khóc nên đặt tên là Mặc. Từ
mười tuổi trở đi, tụng kinh, lễ Phật
không lười nhác chút nào. Về sau nh́n xuống giếng
t́m được bùa, bèn linh thông biến hóa, cưỡi
mây vượt biển cả. Mọi người gọi
là Thông Hiền Linh Nữ. Năm Ung Hy thứ 4 (987) đời
Tống, nhằm tiết Trùng Cửu, cô bay lên trời giữa
ban ngày. (5) Theo Tiên Tâm Lục,
vào đời Minh, ông nội của Trầm Kiến Tuyền
đi chơi, qua ngôi chùa đổ nát, thấy tượng
Quán Âm đầu đội nón cật tre, than thở: “Bồ
Tát từ bi, ban cho con người trí huệ, tôi nguyện
trùng tu chùa này, cầu cho con cháu có đứa đọc
sách”. Không lâu sau, điện đường, pháp tướng,
sáng ngời như mới xây. Cháu nội là Nghiêu Trung, chắt
là Mộng Đẩu kế tiếp nhau đỗ đạt.
Theo Bạch Y Đồ,
Triệu Thế Trân ở Tiền Đường vợ là
Châu Thị, không con, đến điện Bạch Y cầu
khẩn, tụng chú, in tặng, và thật tâm làm lành. Về
sau, sanh được hai trai, đứa lớn đỗ
Tiến Sĩ. Bà vợ sống đến chín mươi
tám tuổi, chính mắt thấy năm đời sống
cùng nhà (ngũ đại đồng đường).
(6) Theo Hy
Triều Tân Ngữ, Cấp Sự Trung Tôn Nhương không có
người nối dơi, ngẫu nhiên thấy một vị
Tăng đốt ngón tay, nói: “Nguyện có được một
cái am tranh thờ tượng Đại Sĩ để ngồi
bên cạnh tụng kinh, khỏi phải khổ sở khất
thực”. Ông nói: “Tôi sẽ v́ Sư thỏa nguyện này”.
Ông dựng am tranh, Sư sống ở đó ba năm. [Một
hôm] chợt thấy vị Tăng rảo bước vào buồng
trong, liền chạy theo hỏi th́ vợ đă sanh một
trai. C̣n đang kinh ngạc th́ từ am báo tin vị Tăng ấy
đă viên tịch, nh́n vào tay con th́ vết đốt vẫn
c̣n rành rành, bèn đặt tên là Trác, [về sau] đậu Bảng
Nhăn.
Theo Thanh Long Yển Nguyệt
Đao, Minh Thiện đời Nguyên không có con, thờ Đại
Sĩ nghiêm cẩn, sanh con liên tiếp. Ông rước
nhũ mẫu đến chăm nom. Có Bạch Thị là
người xinh đẹp, ve văn ông Thiện. Ông cự tuyệt,
đuổi đi. Về sau, các con trưởng thành đều
đông con, trở thành ḍng họ lớn.
(7) Theo Biện
Chánh Luận, vào đời Tấn, Vương Mân không con,
vợ khẩn cầu Quán Âm cầu có người nối
dơi. Về sau, ông Mân đi đường gặp một vị
Tăng người Tây Vực, rất vui vẻ. Vị
Tăng nói: “Ta chết sẽ làm con ông”. Không lâu sau, vị
Tăng ấy mất, vợ ông Mân có thai. Sanh ra, con đă biết
nói, thông hiểu Phạn âm của mười sáu nước
tại Tây Vực, thuật những chuyện trong đời
trước rành rẽ chánh xác. Đấy chính Thượng
Thư Vương Hồng Minh đời Tấn vậy.
Trong đời Thanh,
Trương Quư Trực đă bốn mươi mà chưa có
con, phu nhân họ Từ cầu khẩn nơi Quán Âm Nham tại
Lang Sơn. Một năm sau, bà sanh con trai. Đêm hôm trước
[ngày sanh con], bà Từ mộng thấy một bà cụ ẵm
đứa bé trao cho, bảo: “Đă xin th́ ta cho ngươi
vui ḷng”. Quư Trực chép kinh Quán Âm tặng cho chùa, lại tạo
tượng trên đỉnh núi, dựng đ́nh bằng sắt
để che, lại c̣n cho khắc bia để ghi lại
chuyện này nhằm nêu rơ ḷng Từ của Phật.
(8) Theo
Nam Hải Từ Hàng, Tô Tấn ở Chiết Giang do mẹ
bị bệnh, kiền thành tụng Cao Vương Kinh,
ăn chay ba năm. Mộng thấy thần bảo:
“Ngươi thật là hiếu tử! Ta vâng lệnh Thượng
Đế, tăng thọ cho mẹ ngươi một kỷ.
Nhưng tổ đức của ngươi mỏng mảnh,
lẽ ra không con. Hiện thời tuy sanh được ba
đứa con, nhưng chúng đều chẳng thọ. Hăy
nên thí một tạng Quán Âm Kinh. Hăy gấp cưới vợ
cho đứa con cả, ta sẽ thỉnh cho ngươi một
đứa cháu hiền”. Tỉnh giấc, bèn cưới vợ
[cho con], năm sau ẵm cháu, các con đều chẳng thọ.
Lại có một nhà
giàu nọ ở Sơn Hữu, đă già mà chỉ có một
con, một dâu. Dâu chết, con bệnh lao, cha cưới vợ
lẽ cho con. Mẹ kinh hăi bảo: “Chẳng phải là ông làm
cho nó chóng chết ư?” Ông bảo: “Ta thường cầu
có người nối dơi ở chùa Linh Ẩn, mộng thấy
Đại Sĩ dạy: ‘Mạng ngươi không có người
nối dơi, nhưng v́ đă tặng tiền giúp phát chẩn
cứu sống cả ngàn người, nên ban cho
ngươi một đứa cháu. V́ thế, phải cưới
vợ lẽ cho con gấp”. Chưa đầy ba tháng sau,
đứa con chết, người thiếp đă có mang,
sanh ra con trai, nối ḍng hương hỏa.
Theo Cảm Ứng Thiên
Tăng Chú, vào đời Minh, Nghiêm Đạo Triệt tuổi
đă ba mươi nhưng chưa có con, cưới thêm hai
người thiếp đều chất phác, thô lậu, vẫn
không sanh được con. Về sau, sang nhà họ hàng, thấy
một đứa tớ gái bị câm, bèn cưới làm thiếp.
Cha là Văn Tĩnh Công bảo: “Con làm chuyện hợp
đạo trời, ắt sẽ có người nối
dơi”. Ông Triệt trước đó đă tụng chú Bạch
Y, giữ vững giới không sát sanh. Về sau, ba người
thiếp đều sanh con, có điềm lạ là bọc
thai kép. Cháu chắt đông đúc, nối nhau dạo bước
thanh vân.
(9) Theo
Tây Quy Trực Chỉ, đời Tống, Lă Mông Chánh thụy
hiệu Văn Chánh, mỗi sáng thức dậy, khi lễ Phật,
ắt nguyện rằng: “Kẻ chẳng tin Phật đừng
sanh vào nhà tôi. Nguyện con cháu tôi là những kẻ ăn lộc
trời, ắt sẽ hộ tŕ Tam Bảo”. Sau này, cháu là Di
Giản và con của Giản là Công Trước cả hai
đều làm Tướng Quốc[43]. [Hậu duệ là] quan Tả Thừa Lă
Hảo Vấn và con ông Vấn là Dụng Trung đều tin
Phật.
Theo Nam Hải Từ
Hàng, vào đời Thanh, Tra Bang Việt ở Vụ Nguyên không
con, cháu ông ta khuyên hăy tụng Quán Âm Kinh, lại c̣n dốc sức
in tặng sẽ được ứng nghiệm. Trong
năm Tân Dậu (1681) đời Khang Hy, vợ chồng bèn
cùng tụng, sanh được hai trai, nhưng không nuôi
được. Tự hối chưa in tặng, phát nguyện
tặng ba ngàn quyển. Sanh con trai đặt tên là Phật
Tứ, bèn in kinh đúng như lời nguyện, con
được trưởng thành.
Theo Tŕ Nghiệm Kư,
trong thời Tuyên Đức nhà Minh, Trương Quư không
người nối dơi, phát tâm thí Bạch Y Kinh để cầu
con. Sanh được con nhưng không hoàn nguyện in kinh,
con chết yểu năm mười hai tuổi. Đau xót,
sám hối, kiền thành cầu đảo, thí kinh năm
ngàn quyển. Về sau, sanh con b́nh yên.
Theo Cao Vương Ứng
Nghiệm, trong thời Khang Hy nhà Thanh, Dư Chấn Trạc
ở Vụ Nguyên không có con, thệ nguyện in tặng Cao
Vương Kinh, mồng Một, ngày Rằm tŕ tụng. Sanh
con rồi cũng không hoàn nguyện, con chết yểu, bèn
in tặng bốn trăm quyển, lại sanh con trai.
Theo Bạch Y Cận
Nghiệm, vào thời Gia Khánh nhà Thanh, con ông Dương A Trần
lắm bệnh, ông nhớ lại lúc chưa sanh được
con, đă thầm hứa khắc kinh bốn trăm quyển
mà chưa hoàn nguyện bèn sám hối trước tượng
Đại Sĩ. Ngay hôm ấy khắc ván để thí tặng,
bệnh con liền khỏi ngay.
Ghi thêm: Theo Minh Tường
Kư, vào đời Tống, Biện Duyệt Chi không có con,
phát nguyện tụng Quán Âm Kinh một ngàn biến, gần
đủ số, người thiếp có thai sanh con trai.
Theo Bạch Y Kinh Kỷ
Nghiệm, vào đời Nguyên, Lưu Ngọc ở Nam Kinh
không người nối dơi, tụng Bạch Y Kinh suốt
hai năm. Mẹ vợ ông là bà Lưu mộng thấy Bạch
Y Đại Sĩ đội măo vàng, dẫn một đứa
trẻ, bảo: “Đưa Thánh Nô đến”. Ngày hôm sau, [vợ
ông Lưu] liền sanh con trai, do có điềm lạ là bọc
thai trắng, bèn đặt tên là Thánh Nô, thí kinh năm
trăm quyển.
Theo Linh Ứng Kư, mẹ
ông Ngô ở Gia Hưng bệnh tật không con, tụng chú Bạch
Y không thiếu sót, in tặng không tính xuể, khỏi bệnh,
sanh con trai làm quan tới chức Thiếu Tư Nông[44].
Vợ ông Hoa Đôn Tam
suốt mười chín năm chẳng sanh nở, cầu
đảo Đại Sĩ sụt sùi, nức nở. Mộng
thấy Đại Sĩ ẵm một trai, một gái đến,
bảo: “Thương ngươi kiền thành nên trao cho
ngươi”. Năm sau sanh trai, năm sau nữa sanh gái. Sau
đấy, không c̣n sanh nở nữa.
Theo Cảm Ứng Kư,
Tiến Sĩ Tiền Phước ở Thuận Thiên không có
con, được một vị lăo tăng truyền cho Cao
Vương Kinh. Vợ chồng tŕ tụng, khắc thí một
tạng, sanh ba con trai, đều vào học trường
huyện.
Từ Cửu Đức
ở Cừu Châu tạo tượng Đại Sĩ, lễ
bái cầu con, tặng một ngàn quyển kinh, sanh con trai.
Đinh Thái ở Hàng
Châu, năm mươi tuổi vẫn không con, nghe nói Cao
Vương Kinh hễ cầu ắt ứng, liền ngày
đêm tŕ tụng, sanh con trai, mười sáu tuổi thi
đỗ.
Vương Tấn ở
Như Cao đă ngoài năm mươi, vợ cũng ngoài bốn
mươi lại lắm bệnh, cầu đảo Đại
Sĩ, tụng kinh cầu con. Rốt cuộc vợ sanh con
trai, càng thêm tin thờ, lưu truyền rộng răi, lại
sanh con trai.
Trong niên hiệu Hồng
Vũ đời Minh, Bành Nguyên Chấn ở Quảng
Đông hứa in Cao Vương Kinh năm trăm quyển,
sanh con trai.
Phương Thị ở
Thang Môn, dâu có thai nhiều lần nhưng bị sảy
thai, bèn nguyện tụng Quán Âm Kinh một tạng, in tặng
hai trăm quyển, về sau sanh được cháu, đặt
tên là Âm Bảo.
Vào đời Thanh,
Dư Úc Văn ở Bà Dương không con, thí kinh một
ngàn quyển, mộng thấy Đại Sĩ tặng con.
Thiếp là Lưu Thị cũng mộng thấy Đại
Sĩ ẵm đứa bé đến trước giường,
liền sanh con trai, đặt tên là Kinh Bảo.
Vào đời Thanh, Trần
Thiên Ngự vợ bị tiểu sản (sảy thai), vợ
chồng chí thành tŕ tụng kinh chú Quán Âm, lại in tặng
rộng răi. Năm sau, mang thai yên ổn, sanh được
con.
Du Cửu Vân ở Phong
Thành nhiều lượt con bị chết. Do vậy, đắp
tượng Phật, sửa chữa cầu đường,
thắp đèn ban đêm, thí nước trà, hết thảy
việc lợi lạc đều vui vẻ thực hiện,
lại tụng Quán Âm Kinh, bèn sanh được con. Đến
năm ông Du sáu mươi tuổi, con thành tài.
Trần Triều Đống
ở Đồng Thành hiếm muộn, kiền thành tụng
Bạch Y Kinh, nhiều lần mộng thấy Đại
Sĩ, liền sanh hai trai.
Vào đời Thanh, Lư
Chi Phú ở Bảo Để trong niên hiệu Càn Long khắc
ba trăm quyển kinh, sanh được con đặt tên
là Phật Khánh.
Kim Lợi ở Phong
Thành đă năm mươi tuổi mà chưa có con, tụng
kinh năm ngàn biến, sanh con có điềm ứng nghiệm
là bọc thai màu trắng.
Lưu Thế Long ở
Kinh Đông không con, tŕ kinh một vạn hai ngàn biến,
sanh được con.
Tô Mỹ Đoan không có
con, tụng kinh, lễ bái, sanh hai trai liên tiếp.
Tra Dịch
Ngô Thiệu Thành ở
Dương Giang tŕ Tâm Kinh, sanh được con.
Chương Cảnh
Dương ở Tŕ Dương thấy bạn là Thang Kính
Trọng tŕ kinh được ứng nghiệm bèn kiền
thành tụng cũng sanh con, đến lớn, con đỗ
khoa thi Hương.
Cư sĩ Tế Xuyên
ở Nhiêu Châu không có con, khắc kinh thí tặng bèn sanh con.
Vương Triệu Thị
ở Giang Lăng mấy lượt gặp cảnh con chết
yểu, trong niên hiệu Thiệu Hưng, có được
kinh bèn tŕ tụng. Năm sau, sanh được con.
Tín sĩ là Từ Thụ
Bách ở Tam Nham, vợ mang thai, bệnh nặng gần
như không trị được. Ở trong nhà kiền
thành tụng Quán Âm Kinh một ngàn quyển, và in kinh thí tặng,
mua loài vật phóng sanh. Về sau, sanh được một
trai, mẹ con vô sự, bệnh khỏi hẳn.
Theo Tŕ Nghiệm Kư,
Lương Nguyên Chinh ở Hoài An không con, lắm bệnh. Do
vậy, phát tâm ăn chay trường, hằng ngày tụng
chú Đại Bi, Bạch Y Kinh. Vợ cũng tŕ Chuẩn Đề
Trai[45], sáng sớm quỳ tụng kinh. Không lâu
sau, ông Chinh khỏi hẳn bệnh, vợ sanh được
ba con. Đứa con thứ hai đỗ khoa thi
Hương.
Theo Linh Nghiệm Kư, Từ
Hy Tải ở Lạc B́nh con chết yểu, hết sức
đau đớn. Có vị Tăng tặng thánh tượng
Đại Sĩ, khuyên khắc ván in Quán Âm Kinh để biếu
tặng [người khác], liền sanh được hai
trai.
Hoàng Khuếch Sanh ở
Quảng Châu nhà giàu nhưng không con, thọ Ngũ Giới,
thôi ăn mặn, thờ Đại Sĩ. Sáng tối kiền
thành lễ một trăm lạy, xưng danh không bỏ sót
[một ngày nào]. Về sau, vợ và thiếp mỗi người
đều sanh một trai, rất thông minh.
Từ Cẩn ở Huy
Châu không con, tụng Bạch Y Chú để cầu con. Mộng
thấy thần bảo: “Tụng thêm một tạng Cao
Vương Kinh sẽ có người nối dơi”. Ông Cẩn
theo đúng lời ấy, liền sanh con trai. Lại mộng
thấy thần dạy: “Hăy rộng hành phương tiện,
thí kinh một tạng th́ con sẽ sang cả”. Ông Cẩn
vâng lời, quả nhiên con đỗ đạt.
1.
Phàm tránh dữ hướng lành, Châu Dịch nhiều lần
đă nhắc, nhưng ban phước, tiêu tai, chính là Bồ
Tát hạnh nguyện.
2. Núi
đồng lở, chuông Lạc ngân, Phật tức là tâm.
Âm đức hiện, dương báo tới, Lư thành tựu
Sự.
3. Cát
Tường thiên nữ khiến cho kẻ niệm toại
ḷng, Kiên Lao địa thần cũng khiến hữu t́nh
an ổn.
4. Huống
chi Đại Sĩ được chư thiên phụng
hành, vạn thần đứng hộ vệ
ư? Sở cầu như ư, chớ nên nghi ngờ (Từ đây trở đi là tổng
kết chuyện cứu khổ và ban vui, gồm hai đoạn)
(2) Theo Hán Thư, cái chuông trước
điện Vị Ương vô duyên cớ tự kêu lên, vua
vời Đông Phương Sóc[46] vào hỏi. Sóc thưa: “Đồng là con
của núi, núi là mẹ của đồng; sợ rằng sẽ
có núi lở”. Ba ngày sau, Nam Quận tâu lên bị núi lở. Phần
Càn Truyện (giảng giải quẻ Càn) trong kinh Dịch
ghi: “Núi đồng lở,
chuông Lạc ngân”.
Quán Kinh: “Tâm này là Phật”. Ngụy
Văn Đế hỏi: “Báo là như thế nào?” Ông Quỳ
tâu: “Kẻ có âm đức ắt có dương báo”. Trong
sách Hoa Nghiêm Pháp Giới Huyền Kính có
nói tới Y Lư Thành Sự môn và Chân Lư Tức Sự môn.
(3)
Theo phẩm Đại Cát Tường Thiên Nữ[47] của kinh Kim Quang Minh th́ [Cát
Tường thiên nữ có phát nguyện] tùy theo ḷng mong muốn,
người niệm [chú Thiện Thiên Nữ] đều
được toại nguyện.
Trong phẩm Kiên Lao
Địa Thần[48] [của kinh ấy] cũng có nói: “Nếu các hữu t́nh thọ dụng
các món ăn uống thù thắng như thế xong, sẽ
tăng trưởng thọ mạng, sắc lực, các
căn an ổn”.
(4) Cổ đức nói: “Nhà Nho tôn thờ trời, hành
theo, c̣n Phật th́ được chư thiên tôn thờ, làm
theo”.
Nguyệt Quang Đồng
Tử Kinh: “Phật tọa
đạo tràng, vạn thần thị vệ” (Phật
ngồi nơi đạo tràng, muôn thần chầu hầu,
hộ vệ).
1. Chỉ
là y rách, dọn phân, trừ nỗi sợ cho đứa con
nghèo, lá vàng, cành dương, dỗ dành con thơ thôi khóc mếu.
2. Bởi
lẽ Thế Đế phù hoa, khó nhập đạo lưu
huệ nhăn.
3. Ấy
là v́: Bóng câu qua cửa sổ, mong giàu sang biết đến
thuở nào? Đụn đất vàng chôn măi, vợ con an
hưởng măi hay chăng?
4. Huống
chi: Béo, nồng, gịn, ngọt, đáng xưng là “thuốc mục
ruột”. Răng trắng, mày ngài, đáng gọi là “búa đoạn
mạng”.
5. Làm trâu
ngựa cho con, cho cháu, bị người xỏ mũi lôi
đi. Bệnh mê tiền đă lậm tâm can, tâm làm tớ
cho thân sai sử.
6. Đă
bị các oán xúm vây, c̣n gây chướng ngại nhập
đạo.
7. Gần
chết vẫn chẳng ngộ, thật cảm thấy
đáng thương.
8. Chẳng
biết: Lo được, lo mất, kẻ mong sang quư cảm
nhận khổ năo nhiều phen. Phụ ta, phụ người,
kẻ lắm con trai vốn bởi nghiệp chướng nặng
nề.
9. V́
thế, Thích Ca tu đạo, bỏ nước, ĺa ngôi.
Đại Sĩ cứu người, bán con, bán vợ.
10. Chính
là nhằm đoạn tuyệt ái căn, bèn nhập Dự
Đạo phẩm.
11.
Đối với thân th́ tứ đại giả hợp,
cứng chắc chỗ nào? Chín lỗ thường tuôn, càng
tăng hôi bẩn!
12. Dẫu
cho trăm năm tuổi thọ, rốt cuộc như tằm
trong kén, tuy nói tiên sống ngàn năm, nhưng vẫn là quỷ
giữ thây.
13. Ở
tù măi trong thai ngục, kẹt vĩnh viễn trong núi h́nh.
14. Là
nơi cất giữ đại hoạn, người trí há
lại ưa sao?
15.
V́ thế, đất Hoa dâng câu chúc tam đa, vua Nghiêu nêu lời
tạ tuyệt. Trong Ngũ Phước có chết an lành,
Cơ Tử cảm niệm vô thường.
16. Phàm
đang si mê, hăy gấp nên mạnh mẽ tỉnh thức.
17. Té giếng
mật ngọt, thôi đừng như Kiệt Trụ chóng
quên! Bỏ vàng gánh gai, chớ cười Bà La Môn u tối!
18. Huống
hồ chẳng tu Tịnh Độ, sao được
trường sanh? Chưa đọc Hoa Nghiêm, há biết phú
quư? Đây chính là phần nối tiếp đoạn văn
nói về sự cứu khổ ban vui, thuật bày sự hoằng
pháp độ sanh. (Đây
là do bi nguyện của Đại Sĩ thật sự muốn
cho hết thảy chúng sanh không ai chẳng thành Phật. Về
sự cứu khổ th́ không ǵ chẳng như ngài Vĩnh
Gia đă nguyện: Không khổ v́ bệnh, không khổ v́
nghèo, không bị tai nạn, không bị ma năo, mong được
thân cận minh sư, tu Phạm hạnh, chuyên tâm Định
Huệ, hồi hướng Bồ Đề mà thôi! Về sự
ban vui th́ không ǵ chẳng nhằm dùng dục để lôi
kéo, khiến cho [chúng sanh] đều nhập Phật trí mà
thôi! Nếu chẳng chuyên lấy những điều này
làm mục đích, tức là đă phụ bạc bổn
hoài vào trong cơi trược [độ sanh] của Đại
Sĩ vậy. Do vậy, xóa sạch từng điểm [tham
chấp, si mê] ḥng làm cho chúng sanh khởi ḷng hướng về
đạo pháp)
(1) Pháp Hoa Kinh: “Ư
thời cùng tử, tự niệm vô tội, nhi bị tù chấp,
chuyển cánh hoàng bố, muộn tuyệt tịch địa.
Hựu trưởng giả tương dục dụ dẫn
kỳ tử, nhi thiết phương tiện, cánh trước
thô tệ cấu nhị chi y, chấp tŕ trừ phấn chi
khí” (Khi ấy đứa con nghèo cùng, tự nghĩ ta vô
tội mà nay bị bắt giữ, càng thêm hoảng sợ,
ngất xỉu té lăn ra đất. Trưởng giả
lại muốn dẫn dụ con ḿnh bèn lập phương
tiện, mặc áo thô xấu, bẩn thỉu, tay cầm dụng
cụ dọn phân).
Niết Bàn Kinh: “Như anh nhi đế thời,
phụ mẫu dĩ dương chi hoàng diệp dữ chi,
viết dữ nhữ kim. Anh nhi tác chân kim tưởng, tiện
chỉ bất đế” (Như lúc trẻ thơ khóc
lóc, cha mẹ dùng lá vàng của cành dương đem cho, bảo:
‘Cho con vàng’. Trẻ thơ ngỡ là vàng thật, liền
không khóc nữa).
(2) Hoa
Nghiêm Kinh: “Tu chư thiện
nghiệp, nhi bất nguyện cầu thế gian quả
báo” (Tu các thiện nghiệp, nhưng chẳng nguyện
cầu quả báo thế gian). [Theo kinh Hoa Nghiêm] cái trống
trời lại vang ra tiếng nói: “Nhất thiết ngũ dục tất vô thường,
như thủy tụ mạt tánh hư ngụy, thế gian
sở hữu chúng khổ bổn, nhất thiết thánh nhân
giai yếm hoạn. Ngũ dục công đức diệt hoại
tánh. Nhữ ưng ái nhạo chân thật pháp” (Hết thảy
ngũ dục thảy vô thường, như bọt nước
đọng tánh hư ngụy. Tất cả gốc khổ
trong thế gian, hết thảy thánh nhân đều chán nhàm.
Ngũ dục công đức tánh diệt hoại. Hăy nên vui thích
pháp chân thật).
(3) Theo Sử
Kư, Lă Hậu ép Đức Lưu Hầu[49] ăn, bảo: “Đời người trong thế gian như bóng bạch
câu[50] vút qua khe
hẹp, sao lại khổ đến như thế”.
Đời Hán,
Dương Uẩn viết: “Đời
người nên hưởng lạc, chứ đợi
đến phú quư th́ đến bao giờ”.
Trong bài Khuyến Thế
Ca (bài ca khuyên đời) của ông Châu An Sĩ có đoạn:
“Bao nhiêu vị trượng phu
oanh liệt trong thế gian, đa số thường khổ
sở v́ vợ con; rốt cuộc vợ con có ích ǵ? Trong nẻo
đường sanh tử chia ĺa, chẳng thể đi
cùng nhau được!”
(4) Trong lời
bạt thứ bảy của Mai Thừa có câu: “Răng trắng, mày ngài, mệnh
danh là búa chém tánh mạng; ngọt, gịn, béo, nồng, mệnh
danh là thuốc làm mục ruột”.
(5) Trong
bài Khuyến Cùng Dân Văn (bài văn khuyên dân nghèo) của
Tŕnh Loan có câu: “Người
đời nay coi thân và nhà quá thật, coi quyến thuộc
quá nặng. Dẫu là người hiền, trí, coi nhẹ
công danh, cam phận nghèo hèn, nhưng đối với con
cái th́ chắc chắn chẳng thể buông bỏ được,
cam tâm chịu khổ làm trâu ngựa”.
Lại nữa, trong bài
Pháp Tín Kệ của Phùng phu nhân có đoạn: “Tùy duyên nhậm nghiệp kỷ
đa niên, uổng tác canh ngưu thái khả liên, đả
điệp thân tâm tảo thoát khứ, miễn tương
tỵ khổng bị nhân khiên” (Tùy duyên, kệ nghiệp
bấy nhiêu năm, thương quá trâu cày uổng nhọc nhằn,
vật vă thân tâm mau sớm thoát, xỏ mũi người
lôi mới thoát ṿng).
Theo Tấn Thư, Ḥa
Kiều giàu có như bậc vương giả nhưng rất
keo kiệt, bị người ta chê là mắc bệnh “nghiện
tiền”. Lại nữa, Vương Nhung ruộng, vườn,
cối xay chạy bằng sức nước trọn khắp
thiên hạ, nhưng bo bo keo kiệt, đối với chính
ḿnh cũng chẳng dám dùng, người ta bảo “bệnh
đă lậm đến Cao Hoang”.
Trong bài Quy Khứ Lai Từ
của Đào Uyên Minh có câu: “Kư
tự dĩ tâm vi h́nh dịch” (Đă tự để
cho cái tâm bị sai khiến bởi h́nh hài).
(6) Sơ
Quảng đời Hán nói: “Kẻ
giàu bị mọi người oán”. Phẩm Thập Hạnh kinh Hoa Nghiêm có câu: “Thử ngũ dục giả, thị chướng
đạo pháp” (Năm món dục này gây chướng ngại
cho đạo pháp).
(8)
Luận Ngữ: “Kỳ vị
đắc chi dă, hoạn đắc chi. Kư đắc chi, hoạn
thất chi” (Kẻ chưa có bèn lo sao cho có, kẻ đă
có, lại lo mất đi). Lời
này rất đúng cho lúc thái b́nh. Nếu nhằm thời loạn,
v́ chính ḿnh mà tranh thành giành đất, giết người
ngập thành đầy đồng, tạo sát nghiệp
trong lúc c̣n sống, chết đi phải thường mạng;
kẻ ngu thật sự chẳng nghĩ đến!
Thập Nhị Nhân
Duyên Kinh: “Tử dĩ tam nhân
duyên sanh, nhất giả phụ mẫu tiên thế phụ tử
tiền, nhị giả tử tiên thế phụ phụ mẫu
tiền, tam giả oán gia lai tác tử” (Con do có ba nhân duyên mà sanh, một là cha mẹ
đời trước thiếu tiền con, hai là con trong
đời trước thiếu tiền cha mẹ, ba là oán
gia sanh vào làm con).
(9)
Thích Ca Mâu Ni Phật là Thái Tử của vua Tịnh Phạn
(Śuddhodana) nước
Ca Duy La Vệ (Kapilavastu),
năm mười chín tuổi vào núi tu đạo.
Vô Lượng
Thọ Kinh: “Khí quốc quyên
vương, tuyệt khử tài sắc” (Bỏ nước,
vứt ngôi vua, trừ sạch tài sắc).
Theo Phó Đại
Sĩ Ngữ Lục, trong niên hiệu Đại Thông đời
Lương, bị đói kém, Đại Sĩ khuyên dụ
vợ con bán thân để lấy tiền mở đại
hội [phát chẩn], phát nguyện: “Kính lạy mười phương ba đời
chư Phật, nay con buông xả, bán vợ con để
tiêu tai nhóm phước cho khắp các chúng sanh trong tam giới
cùng chứng Bồ Đề”
(11)
Niết Bàn Kinh: “Thị thân bất
kiên, do như lô vĩ, ba tiêu chi thụ” (Thân này không cứng chắc, giống
như cỏ lau, như thân cây chuối).
Di Giáo Kinh: “Thế thực nguy thúy, vô kiên lao
giả” (Cơi đời thật nguy ngập, mỏng manh,
không bền chắc).
Niết Bàn Kinh: “Thị thân bất tịnh, cửu
khổng thường lưu” (Thân này không sạch, chín lỗ
thường tuôn chảy).
Kinh c̣n dạy: “Ninh dĩ ngưu tích thịnh
đại hải thủy, bất năng cụ thuyết
thị thân vô thường bất tịnh xú uế” (Dẫu
cho vết chân trâu chứa được nước trong
biển cả th́ cũng chẳng thể nói trọn sự
vô thường, bất tịnh, hôi nhơ của cái thân này).
(12)
Niết Bàn Kinh: “Phiền năo sở
thường lư, do như tàm xử kiển” (Thường
ở trong phiền năo như tằm nằm trong kén).
Theo Ngũ Đăng Hội
Nguyên, Lă Động Tân đi chơi Lô Sơn, trên đường
đi ngang qua núi Hoàng Long, gặp lúc Hối Cơ thiền
sư[51] thượng đường, ông Lă hỏi:
“Trong một hạt lúa chứa cả thế giới, trong
cái nồi nửa thưng nấu trọn núi sông, hăy nói ư ấy
là như thế nào?” Ngài Hoàng Long dạy: “Đấy là con
quỷ giữ thây”. Họ Lă nói: “Cớ sao trong đảy
có thuốc bất tử ư?” Ngài Hoàng Long bảo: “Dẫu sống lâu tám vạn kiếp,
rốt cuộc vẫn rỗng tuếch”. Ông Lă lại lạy,
xin Sư hăy dạy cho đường lối để
nương về, Sư thốt lời, ông Lă bèn khế
cơ.
Lại nữa, ngài Hàn
Sơn có thơ như sau: “Nhiêu
nhữ tác tiên nhân, kháp tự thủ thi quỷ” (Dẫu
cho ông được thành tiên, hệt như con quỷ giữ
thây khác ǵ).
(13) Trong lời tựa đằng sau sách Thập
Nghi Luận có câu: “Thai ngục
uế trược, há nên thật sự ở?” Trong Triệu
Luận có câu: “Có một vật
báu ẩn trong núi h́nh”.
(14)
Đạo Đức Kinh: “Ngô
sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu
thân” (Sở dĩ ta có mối lo lớn là v́ ta có thân).
Niết Bàn
Kinh: “Hà hữu trí huệ giả,
nhi đương nhạo thị xứ?” (Há kẻ có
trí huệ nào sẽ ưa thích chốn này?)
Di Giáo Kinh lại
dạy: “Hà hữu trí giả,
đắc trừ diệt chi, như sát oán tặc, nhi bất
hoan hỷ” (Có kẻ trí nào đă trừ diệt [phiền
năo] như giết oán tặc mà chẳng hoan hỷ?)
(15)
Theo Trang Tử, vua Nghiêu đến
thăm đất Hoa, người được phong ở
đất Hoa chúc tụng: “Mong thánh nhân sống thọ”. Vua
Nghiêu từ tạ. [Người đất Hoa chúc tiếp]:
“Mong cho thánh nhân giàu”, vua Nghiêu lại từ chối, [họ
bèn chúc]: “Mong cho thánh nhân nhiều con trai”. Vua Nghiêu lại từ
chối. Người được phong [ở đất
Hoa] nói: “Giàu, thọ, đông con trai là những điều
người ta mong muốn, sao riêng Ngài chẳng ham, là v́ sao
vậy?” Vua Nghiêu đáp: “Lắm
con trai bèn lắm sợ hăi. Giàu th́ lắm việc. Thọ
bèn lắm nhục. Do ba điều ấy
đều chẳng phải để dưỡng đức
vậy”.
Kinh Thư
chép: “Cơ Tử giảng Hồng
Phạm, phước thứ năm là chết an lành”.
(17)
Sách Chú Giải Kinh Duy Ma có viết: “Xưa kia có người mắc tội với vua,
vua sai voi say đuổi theo. Người ấy tự nhảy
xuống cái giếng cạn, giữa chừng nắm
được một búi cỏ mục. Phía dưới có
rồng ác phun hơi độc nhắm tới. Phía trên có một
cái cây, bên cạnh lại có năm con rắn độc sắp
làm hại. Lại có hai con chuột gặm cỏ sắp
đứt. Voi lớn sắp đuổi tới phía trên, lại
muốn bắt lấy. Phía trên có một cái cây, khi ấy có
nước mật rơi vào họng. Do chấp vào vị
ngon nên [kẻ ấy] quên nỗi sợ hăi. Giếng ví
như sanh tử. Voi ví như vô thường. Rồng độc
ví như ác đạo. Năm con rắn độc ví cho
Ngũ Ấm. Cỏ mục ví như mạng căn. Chuột
ví như năm tháng. Giọt mật ví như ngũ dục”.
Theo sách Khổng Tử
Gia Ngữ, Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử: “Quả nhân
nghe nói có người rất hay quên, đến nỗi quên
cả vợ ḿnh?” Khổng Tử đáp: “Kiệt, Trụ
quên cả thân”. Nếu dùng
đạo nhăn để nh́n th́ người đời nay
đều quên cả thân!
Theo Tế Túc Kinh, có Bà
La Môn tên là Tế Túc, bảo với người khác không có
đời sau, cũng chẳng có tái sanh, cũng chẳng có
thiện báo, ác báo. Đồng nữ Ca Diếp bèn bảo Tế
Túc: “Xưa kia có hai người
một trí, một ngu, đến một xóm vắng, thấy
trên đất có gai bèn lấy đem đi, mỗi người
một gánh. Đi tới trước thấy sợi gai,
người trí bèn bỏ gai gánh sợi. Kẻ ngu nói: ‘Ta
đă lấy gai, chẳng thể bỏ được’. Lại
đi tới trước thấy vải, thấy sợi Kiếp
Bối[52], thấy
bạch điệp[53], thấy
đồng, thấy bạc, rồi tới vàng ṛng. Kẻ trí
nhiều lượt lấy, nhiều lượt bỏ; dần
dần [giá trị của món hàng ông ta gánh đi] tăng cao
hơn, kẻ ngu trọn chẳng bỏ gai. Về đến
nơi, thân thuộc của kẻ trí vui vẻ đón rước;
kẻ ngu càng tăng thêm ưu năo!”
(18) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Hai, vào đời
Ngụy, ngài Đàm Loan thoạt đầu từ chỗ
ẩn cư của họ Đào có được mười
quyển tiên kinh, trở về Lạc Hạ, gặp ngài Bồ
Đề Lưu Chi, hỏi: “Trong Phật pháp há có pháp
trường sanh bất tử trỗi vượt kinh tiên hay
chăng?” Ngài Lưu Chi nói: “Trong cơi này, chỗ nào có pháp
trường sanh bất tử? Dẫu được khỏi
chết trong một thời gian ngắn, rốt cuộc vẫn
phải luân chuyển”. Rồi đem Thập Lục Quán
Kinh truyền cho, bảo: “Học pháp này th́ tuổi thọ
dẫu đem hằng hà sa kiếp thạch[54] vẫn không sánh bằng được!”
Theo Nam Đường
Thư, tiểu trưởng lăo thân mặc y bằng lụa
hồng đan chỉ vàng, Hậu Chủ[55] chê là quá xa hoa. Đáp: “Bệ hạ chẳng
đọc kinh Hoa Nghiêm, làm sao biết được sự
phú quư trong nhà Phật?”
Ghi
thêm:
Kim
Xương ở Vô Tích, vợ là Trầm Vân Tảo, khá
thông hiểu văn lư, bị sản hậu, bệnh nặng,
t́nh thế cực nguy hiểm, các thầy thuốc bó tay. Có
người bạn khuyên ông Xương hăy cầu đảo
Quán Âm Đại Sĩ. Ông Xương nghe theo, bệnh liền
chuyển biến. Hơn một tháng, vẫn khó cử
động. Người vợ do thấy cầu đảo
linh ứng bèn phát nguyện sau khi lành bệnh sẽ thường
thờ phụng Đại Sĩ. Một đêm, ông
Xương mộng thấy Đại Sĩ diệu tướng
trang nghiêm, đứng nh́n về phía ḿnh, hai đứa bé
đứng hầu hai bên kêu tên ông Xương. Ông
Xương liền lễ bái, chợt giật ḿnh tỉnh
giấc. Bà vợ cũng tỉnh giấc, mỗi người
kể lại giấc mộng gần giống nhau. Chỉ
có điều là vợ mộng thấy một đứa
bé cầm cành dương nhúng nước vẩy lên thân, nói
kệ rằng: “Khởi tử
hồi sanh cam lộ thủy, nhất điểm thiện
tâm cảm hóa thành, vững ḷng vàng đá lên Cực Lạc,
chỉ sợ trần duyên gỡ chẳng xong”. Thân tâm
thanh thản, sảng khoái, bệnh liền lành. Vợ chồng
do vậy ăn chay trường niệm Phật và soạn
Nhân Quả Lục để khuyên đời.
Phương Tử Trọng
ở Trấn Hải mười chín tuổi, chợt ruột
sanh khối ung. Thầy thuốc bảo chẳng thể nào
không mổ. Cha mẹ không đành ḷng liền không chữa
chạy. Bà mẹ thông hiểu văn lư, ăn chay trường
niệm Phật, bèn cùng với bạn là bà Du Đức
Chương liều mạng niệm kinh Kim Cang và thánh hiệu
Di Đà, Quán Âm. Ba ngày sau, khối ung vỡ ra, máu mủ theo
đại tiện tuôn ra. Năm ngày sau hoàn toàn khôi phục.
Tôn Duy Tiệp ở Giang
Ninh, vợ là Mộ Tây, vợ chồng khá thích làm lành, nhiệt
tâm làm chuyện công ích. Mỗi năm thường may
hơn một ngàn cái áo bông nhằm thí cho người không
có để mặc đỡ rét. Bà vợ ngă bệnh
đang độ tuổi khỏe mạnh, ngực đau
như kim đâm, bèn dốc cạn ḷng Thành niệm thánh hiệu
Quán Âm cầu cứu. Hồi lâu sau, ngủ thiếp đi,
mộng thấy một bà lăo xoa ngực, lại nắn bóp
khắp nơi, nhổ ra hai cây kim dài hơn một tấc,
bảo: “Chẳng lạ ǵ ngươi bị đau đớn,
do ngực có kim mà!” Liền cảm thấy nhẹ nhàng, thoải
mái, lại tự sờ nắn, nhổ ra được một
cây kim nữa, chợt giật ḿnh, tỉnh giấc, trọn
chẳng c̣n bệnh khổ nữa. Ba câu chuyện trên đây
do chính Ấn Quang chứng kiến.
*
Tŕnh bày việc quyên mộ in cuốn Quán Thế Âm Bồ
Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
Trong quá khứ, Quán Thế Âm Bồ Tát đă thành
Phật từ lâu trong vô lượng kiếp trước,
hiệu là Chánh Pháp Minh, nhưng do tâm từ bi tha thiết,
ḷng cứu khổ ân cần, chẳng ĺa Tịch Quang, hiện
h́nh trong chín giới, tùy loại hiện thân trong mười
phương vô lượng thế giới để độ
thoát chúng sanh. Phẩm Phổ Môn nói “nên dùng thân nào để độ được, liền
hiện thân ấy để thuyết pháp”. Tuy là mười
phương thế giới không cơi nào chẳng hiện
thân, nhưng đối với thế giới Sa Bà nhân duyên
rất sâu. Tuy những thân trong mười pháp giới không
thân nào chẳng hiện, nhưng người đời đều
gọi Ngài là Bồ Tát. Tuy những chỗ Ngài ứng hóa trọn
khắp hoàn vũ, nhưng Phổ Đà Sơn tại Chiết
Giang là nơi rơ ràng nhất.
Ấn Quang
được hưởng ân thật lớn, đội
ân thật sâu. Thoạt đầu xuất gia tại Nam
Ngũ Đài Sơn ở Thiểm Tây, tức là đạo
tràng nơi đức Quán Âm hiện thân hàng phục rồng
độc. Tiếp đó, sống nhờ ở Phổ
Đà trong biển Nam, chính là thánh địa nơi Thiện
Tài đi về phương Nam tham học với đức
Quán Âm. Thường nghĩ người đời chẳng
biết ḷng Từ sâu xa, ḷng Bi rộng lớn của Bồ
Tát, muốn sưu tập từ Đại Tạng và các
sách vở, phàm những hạnh nguyện nơi bổn
địa của Bồ Tát và những sự tích Bồ Tát
cảm ứng nơi phương này, soạn thành bài
văn ca tụng, lại c̣n chú thích tường tận,
để những người cùng hàng trong cơi đời
đều biết tấm ḷng đại từ bi của
ngài Quán Âm, cũng như thật sự, thật lư “tùy loại hiện h́nh, tầm
thanh cứu khổ”, ngơ hầu [ai nấy] sẽ đều
cùng tŕ thánh hiệu, cùng tiêu nghiệp chướng, cùng
tăng phước huệ, khi sống th́ làm người
thân tâm thanh tịnh, khi thác sẽ dự vào hội của
liên tŕ hải chúng. Dùng những điều này để uốn
nắn ḷng người, văn hồi kiếp vận, ngơ hầu
thiên hạ thái b́nh, nhân dân yên vui. Tuy đă phát cái tâm ấy,
nhưng do học thức thiển cận, kém hèn, bút mực
vụng về, chất phác, chưa thể tiến hành ngay
được!
Khéo sao nhà đại
văn học tỉnh Giang Tây là cư sĩ Hứa Chỉ
Tịnh lên núi thăm viếng, vừa gặp nhau đă
thành bạn thiết; do vậy bèn đem chuyện này gởi
gắm. Ông ta liền vui vẻ chấp thuận rồi lắng
ḷng soạn thuật suốt cả hai năm ṛng, viết
ra bản Tụng Văn đến hơn hai vạn chữ.
Đối với sự tích trong mỗi câu đều chú
thích sau mỗi đoạn văn để người
đọc vừa xem liền hiểu rơ ngay, tổng cộng
gồm ba quyển. Lại sao lục những nghĩa trọng
yếu trong kinh, đặt tên là Kinh Chứng (những dẫn
chứng trích từ kinh điển) gồm một quyển,
ghi kèm vào sau Tụng Văn. Lại c̣n có Kim Cang Kinh Công Đức
Tụng một quyển cũng ghi kèm vào sau để
người tụng kinh, niệm Phật đều biết
phương hướng, cốt sao từ phàm tâm thấy
được Phật tâm, thỏa măn nguyện độ
sanh của Như Lai.
Do vậy, đă cho sắp
chữ tạo bản in, hiện thời đă sắp chữ
xong, toàn bộ là hai trăm mười trang. Mỗi trang gồm
hai mươi sáu ḍng, mỗi ḍng ba mươi lăm chữ.
Ruột sách dùng loại giấy Trại Tống, b́a sách dùng
loại giấy da sẫm màu một trăm bảng[56] bền nhất để in. Mỗi bộ
sách chia làm hai cuốn, dùng loại chỉ vải chắc nhất
để đóng sách. In ra hai vạn bộ, mỗi một
trang sách giá ba mươi đồng[57]. Mỗi bộ, [tiền công] in chữ nơi
b́a sách và phần thư căn tổng cộng là ba xu. Bất
luận thỉnh bao nhiêu sách đều gói thành bưu kiện
để tiện gởi tặng. Chi phí đóng bưu kiện
đă tính gộp trong ấy th́ tính chung mỗi một bộ
giá ba cắc bốn xu năm chinh. Do v́ số lẻ khó thể
tính toán nên chỉ tính tṛn là ba cắc bốn xu. Nếu muốn
in một vạn bộ th́ giao ba ngàn bốn trăm đồng.
In một ngàn bộ th́ giao ba trăm bốn mươi đồng.
In một trăm bộ th́ giao ba mươi bốn đồng.
Hiện thời đă in lần thứ nhất, hiện nay
sách đă được người ta bỏ tiền in đến
sáu vạn bộ. Cứ mỗi lần đúc bản in sẽ
in được một vạn hai ngàn bộ. Sau này, in nhiều
lượt th́ cũng có người đứng ra chịu
tiền in nhiều lượt, ước chừng trong một
năm sẽ xong xuôi. Nếu quyết định in trong tháng
Tám th́ tính theo giá này. Nếu cách một thời gian lâu sau, có
thể giá giấy sẽ tăng lên. Ai muốn lợi người
th́ hăy nên sớm báo tin. Hơn nữa, mỗi lần đúc
bản in, chỉ in được một vạn hai ngàn bộ,
số sách được bỏ tiền in đă đến
sáu vạn cuốn; khi sách in ra, nếu đặt in với
số lượng lớn th́ chẳng thể giao hết một
lúc được, có lẽ phải chia thành hai ba lần, hạn
lượng số sách vừa phải để giao, ngơ hầu
mọi người đều được nh́n thấy sách
ngay trong lần in đầu tiên.
Hơn nữa, đây là
in sách giùm cho thiện tín, chứ không phải là theo thông lệ
quyên tiền để tự làm việc thiện. Với
những ai đứng ra bỏ tiền in, sẽ chiếu
theo số tiền [đă bỏ ra] để giao sách, chẳng
khấu trừ một bộ nào! Nếu có ai ủy thác [người
đứng in sách] thay mặt làm chuyện thí tặng, chính
ḿnh chỉ cần một ít sách th́ xin hăy báo rơ trước,
chúng tôi sẽ giao giùm. Nếu không, sẽ giao trọn số
sách ấy cho người bỏ tiền in, chẳng khấu
trừ tí ti nào! Ở Thượng Hải chẳng phải
tốn bưu phí, sẽ giao thẳng đến nhà. Đối
với những thành phố khác, nếu là số lượng
lớn sẽ có thể nhờ công ty chuyển gởi giùm.
Nếu với số lượng ít th́ sẽ giao qua bưu
điện, chi phí ấy có thể khấu trừ vào tiền
in sách, hoặc gởi bù riêng, đều thuận theo ư của
người đứng ra chịu tiền in sách.
Hiện nay, thiên tai nhân
họa liên tiếp giáng xuống, thế đạo nhân tâm
suy hăm đến cùng cực, riêng nhờ vào cuốn sách này
để dẫn đường ḥng đẩy lui con sóng
cuồng, nâng đỡ thế đạo, cùng lên bậc
thánh, cùng chứng Bồ Đề. Nguyện những thiện
tín có sức đều cùng bỏ ra tịnh tài, ngơ hầu
những người cùng hàng trong khắp cơi đời ai nấy
đều được gội từ ân của Quán Âm Bồ
Tát, để rồi cùng được đích thân chứng
đắc Phật tánh vốn có, viên măn vô thượng giác
đạo, một tấm ḷng khăng khăng như thế
mà thôi! Phàm những ai muốn bỏ tiền ra in, xin hăy gởi
khoản tiền ấy về xưởng ấn loát chính của
Trung Hoa Thư Cục ở ngơ Cáp Đồng đường
Tịnh An Tự tại Thượng Hải, giao cho hai vị
tiên sinh Du Trọng Hoàn và Đường Tử Quyền nhận
lănh. Họ nhận được tiền liền gởi
biên lai. Khi sách in ra sẽ theo thứ tự giao sách, quyết
chẳng đến nỗi nhầm lẫn. Phàm những
người đứng ra in với số lượng lớn,
đợi khi sách đă giao đầy đủ rồi,
xin hăy gởi thư về chùa Pháp Vũ, núi Phổ Đà
thuộc huyện Định Hải, tỉnh Chiết
Giang, giao cho Ấn Quang, ngơ hầu biết là không bị sai
lạc.
Ngày Rằm tháng Giêng
năm Bính Dần Âm lịch, tức năm Dân Quốc 15
(1926), Thường Tàm Quư Tăng Thích Ấn Quang kính soạn.
Phật pháp rộng lớn
như pháp giới, rốt ráo như hư không. Nói tới
những điều thiển cận th́ phàm phu đều
có thể biết được, làm được. Nói tới
những chuyện sâu xa, dẫu thánh nhân cũng không biết,
không làm được! Những người thông minh trong
thế gian nếu có sự hàm dưỡng, từng trải,
liền có thể nhập đạo. Nếu không, ắt sẽ
do trí huệ nhỏ nhoi mà tự phụ, đến nỗi
lầm lạc dùng ư kiến của chính ḿnh để hủy
báng Phật pháp. Do vậy, đức Phật xếp Thế
Trí Biện Thông vào tám nạn. Sự răn nhắc ấy vừa
sâu đậm vừa thiết thực. Gốc bệnh là do
dùng tri kiến phàm phu để suy lường cảnh giới
của Phật, Bồ Tát. Nếu hạng phàm phu hiểu biết
cảnh giới của Phật, Bồ Tát quyết chẳng
thể suy lường được th́ sẽ dứt bỏ
sự suy lường ấy. Đừng nói là bọn họ
chẳng thể suy lường cảnh giới của Phật,
Bồ Tát, ngay như những kẻ ấy từ sống
đến chết, đối với chủ nhân ông của
khởi tâm động niệm, bọn họ có từng thấy
biết chút nào hay chăng? Nếu có thể đích thân biết
được, thấy được chủ nhân ông của
chính ḿnh th́ sẽ có thể dần dần biết
được cảnh giới của Phật, Bồ Tát.
Những kẻ trí huệ
nhỏ nhoi mà vẫn tự phụ ấy, ví như kẻ
mù chẳng thấy được mặt trời, liền
bảo là không có. Lũ mù nghe lời, khen là kiến thức
cao siêu, là đích xác, không lầm, chẳng biết đấy
là tà thuyết tự lầm, lầm người! Há chẳng
đáng buồn quá đỗi ư? V́ thế, xưa nay,
phàm là những bậc đại thông gia lỗi lạc,
không ai chẳng dùng Phật pháp để giữ yên cơi
đời, khiến cho dân hiền thiện, thấu đạt
tận cùng gốc lơi của lư và tánh. Những vị lập
đại công, dựng đại nghiệp, nêu tỏ những
chỗ mầu nhiệm chưa được thánh hiền
truyền dạy, đều do học Phật đắc lực
mà ra! Những kẻ tự phụ thông minh làm sao xứng đáng
biết được điều này! Kẻ bệnh hiểu
thầy thuốc, lăng tử cảm thương lữ
khách, khôn ngăn cảm khái, bi ca, tŕnh bày những điều
này nhằm giăi tỏ nỗi ḷng trung thành. Nếu rộng
ḷng dung nạp th́ may mắn lắm thay!
* Kính cáo
độc giả hăy nên dốc sức nơi chí thành cung
kính để tự đạt được lợi ích
thật sự
Pháp thế
gian và xuất thế gian đều lấy ḷng Thành làm gốc.
Hễ có ḷng Thành th́ sẽ cảm được thánh ứng.
Không có ḷng Thành sẽ chẳng có cảm, thánh không cách ǵ ứng
được! Ví như vầng trăng sáng ngời giữa
trời, hiện bóng muôn sông. Nếu nước nhơ
đục, xao động, bóng trăng sẽ khó thể hiển
hiện. Do nước gây ra, chứ trăng đâu có lỗi!
V́ thế nói: Muốn được lợi ích thật sự
nơi Phật pháp, cần phải cầu nơi ḷng cung
kính. Có một phần cung kính sẽ tiêu một phần tội
nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có
mười phần cung kính sẽ tiêu mười phần tội
nghiệp, tăng mười phần phước huệ.
Nếu không cung kính th́ chỉ kết duyên xa, khó được
lợi ích thật sự! Nếu lại c̣n khinh nhờn sẽ tạo tội vô lượng.
Hơn nữa,
những lời chú cho phần ca tụng khơi mở trí
huệ nơi ba trang mười sáu, mười bảy, mười
tám trong quyển thứ Ba [của bộ sách này], phần
nhiều là Thiền cơ. Những câu ấy chỉ có
người thật sự có sở ngộ mới biết
ư nghĩa, chớ nên suy
đoán, ḍ t́m theo ư nghĩa lời văn. Dẫu cho trí huệ
thông minh thiên bẩm vẫn là càng suy lường càng xa! Những
câu nói trong nhà Thiền đều giống như thế. Nếu
có thể chú trọng ḷng kính, giữ ḷng thành, chấp tŕ
thánh hiệu của Bồ Tát th́ một mai nghiệp tiêu trí
rạng, tất cả những câu nói Thiền cơ sẽ
đều hiểu rơ từng câu một, như mở cửa
thấy núi, vẹt mây thấy trăng!
Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng
Tụng
Quyển 2 hết
[1] Tiền Nguyên Quán (887-941) là vua thứ hai
của xứ Ngô Việt (tức Ngô Việt Thế Tông
Văn Mục Vương), ông là con trai của Tiền Liêu
(tức Ngô Việt Thái Tổ Vũ Túc
Vương).
[2] Tiền Thục (tên thoạt đầu
là Tiền Hoằng Thục, 929-988) là vua cuối cùng của
Ngô Việt. Ông là con Tiền Nguyên Quán, cháu nội của Tiền
Liêu và là em của vua Tiền Hoằng Tá (Thành Tông Trung Hiến
Vương) và Tiền Hoằng Tông (Trung Tốn
Vương). Khi ấy, Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn)
đă thống nhất sơn hà, dẹp tan hậu duệ của
các vua Ngũ Đại, chỉ c̣n xứ Ngô Việt là có thực
lực. Vua cho người đến chiêu dụ, Trung Ư
Vương Tiền Thục liền quy thuận.
[3] Hốt là một loại thẻ bằng
ngà hoặc bằng gỗ dài chừng 35cm, trên to, dưới
nhỏ, thường được cầm trong tay khi mặc
triều phục. Thoạt đầu, hốt được
dùng để ghi chép những điều định tâu bày
cho khỏi quên, nhưng về sau chỉ là vật trang sức
mỗi khi mặc triều phục. Các quan khi tâu bày thường
cầm hốt bằng hai tay, giơ lên trước mặt
khi có chuyện cần tâu tŕnh trong buổi chầu. Ngay cả
khi vua mặc hoàng bào ngồi trên ngai cho các quan vái lạy
cũng cầm hốt ngà đặt trước bụng.
[4] “Đức
xa” là danh từ chỉ chung các loại xe bằng gỗ
khảm ngọc, khảm vàng của đế vương
thời cổ. Do các loại xe này không dùng trong chiến trận
nên gọi là “đức xa”.
Đề thi trên đây được ra theo một câu nói
trong thiên Khúc Lễ của sách Lễ Kư: “Binh xa bất thức, vũ xa tuy tinh, đức xa kết
tinh” (Binh xa th́ không trang hoàng, vũ xa th́ buộc cờ
tinh, c̣n đức xa th́ cắm cờ tinh). Theo Khổng
Dĩnh Đạt, “tinh” là một
loại cờ hiệu kết bằng lông chim, về sau
được dùng để chỉ chung các loại cờ
hiệu nhằm biểu trưng quyền lực. Theo ông Khổng,
chỉ cắm cờ tinh trên đức xa với một số
lượng ít nhằm thể hiện mỹ đức của
vua mà thôi. “Vũ xa” là xe bọc
da trâu. Nếu trên xe ấy cắm gươm giáo th́ gọi
là “binh xa”. Do vũ xa nhằm biểu hiện oai quyền của
đế vương nên buộc thật nhiều cờ
tinh quanh xe, c̣n binh xa th́ đă có gươm giáo để thị
oai nên không cần buộc cờ tinh nữa.
[5] Giáo phỉ: Bọn phản loạn
đội danh tôn giáo. Không rơ trong chuyện này xảy ra vào
thời nào, nên khó thể phán đoán giáo phái nào gây loạn,
nhưng tại Trung Hoa, loạn quân đội lốt tôn
giáo chẳng ngoài giặc Hoàng Cân, Bạch Liên Giáo, Minh Giáo,
Thái B́nh Thiên Quốc, Quyền Phỉ v.v...
[6] Bức tranh vẽ theo lối xưa, hai
đầu thường gắn trục gỗ để dễ
cuộn lại, cũng như khi treo, sẽ kéo thẳng bức
tranh, nên những bức tranh vẽ hay thư họa
cũng thường gọi là “trục”.
[7] Sở là tên gọi chung hai tỉnh Hồ
Nam và Hồ Bắc. Hồ Động Đ́nh nằm giữa
hai tỉnh này, Thái Vân lấy con trai Thân Đại Niên
người đất Sở, ứng với lời
đoán “sẽ gả cho Động
Đ́nh Quân”.
[8] Môn lại: Từ ngữ gọi chung thuộc
hạ của một vị quan.
[9] Bà này họ Lâm, lấy chồng họ Lục
nên thường gọi gộp cả họ chồng và họ
của chính bà ta thành Lục Lâm Thị.
[10] Đề Khống là danh xưng thời
Tống Nguyên để gọi thuộc hạ của các
quan. Đề Khống c̣n có nghĩa là “h́nh cụ” (dụng
cụ) để tra khảo, nên dân gian quen gọi những
nha lại của các quan xử án là Đề Khống.
[11] Chủ Sự là một chức quan,
trách nhiệm thay đổi tùy theo triều đại. Nói
chung, vai tṛ của Chủ Sự giống như chức
Chánh Văn Pḥng của các bộ hiện thời, hoặc
đối với một số bộ th́ vai tṛ của Chủ
Sự chỉ giới hạn trong nhiệm vụ Trưởng
Pḥng quản lư văn thư, hồ sơ, chẳng hạn
như chức Chủ Sự của Tôn Nhân Phủ đời
Thanh chỉ có trách nhiệm quản lư khai sanh, khai tử, phổ
hệ của hoàng tộc, cũng như nhắc nhở các
hoạn quan và ngự thiện chuẩn bị cỗ bàn cúng
tế Thái Miếu trong các ngày kỵ lạp, chứ không có
quyền hành ǵ khác.
[12] Danh y Biển Thước thời Chiến
Quốc do sống ở nước Lô nên thường
được gọi là Lô Biển. “Đắc Lô Biển chi diệu” là thành ngữ
khen ngợi người đạt đến y thuật
cao minh.
[13] Chư sanh: Thời Minh - Thanh, những
người thi đậu vào trường học ở phủ,
châu, huyện, chia ra nhiều cấp như Tăng Sanh, Phụ
Sanh, Lẫm Sanh, Lệ Sanh vv.... Những người này
được gọi là chung là “chư
sanh”.
[14] Trung Thư Lệnh là chức quan đă
có từ thời Đông Hán. Trung Thư vốn là một
cơ cấu do hoạn quan điều hành, có trách nhiệm
quản thủ thư pḥng của hoàng đế và những
văn kiện riêng tư trong cung. Trung Thư Lệnh là
người đứng đầu cơ quan ấy. Do những
quan chức thuộc cơ quan này thường xuyên gần
gũi hoàng đế và thường được vua hỏi
ư kiến, nhưng các hoạn quan thường
không đủ kiến thức và tài sức để
làm cố vấn, cũng như để tránh t́nh trạng
hoạn quan lũng đoạn triều chánh như thời
Hán Linh Đế, nên từ thời Ngụy - Tấn trở
đi, nhân viên của Trung Thư phải là những vị
đại khoa, kiến thức uyên bác. Đến đời
Tùy - Đường, do tính chất trọng yếu của
cơ cấu này, Trung Thư do Tể Tướng trực
tiếp cai quản. Danh xưng Trung Thư đổi thành
Trung Thư Tỉnh (hoặc Nội Sứ Tỉnh trong thời
Tùy, do kiêng tên húy tể tướng Dương Trung) và chức
vụ Trung Thư Lệnh do chính tể tướng đảm
nhiệm. Do vậy, Trung Thư Lệnh thời Đường
chính là Tể Tướng. Ông Sầm Văn Bổn làm Trung
Thư Lệnh dưới thời Đường Thái Tông.
[15] Thiên Tổng là một chức quan của
hải quân dưới đời Thanh. Hải quân nhà Thanh
được chia thành Bắc Dương Thủy Sư
(phụ trách vùng biển từ Sơn Đông trở lên),
Nam Dương Thủy Sư (từ Sơn Đông trở
xuống đến hết hải phận miền Nam Trung
Hoa). Đứng đầu Thủy Sư là Đề Đốc,
rồi đến các chức vụ Tổng Binh, Phó Tướng,
Tham Tướng, Du Kích, Đô Ty, Thủ Bị, Thiên Tổng,
Bả Tổng. Thiên Tổng cai quản từ một trăm quân cho
đến tám trăm quân.
[16] “Cải bộ,
cải ngọc” là một câu nói xuất xứ từ Tả
Truyện: “Lục nguyệt,
Quư B́nh Tử hành Đông dă, hoàn, vị chí, Bính Thân, tốt
vu pḥng. Dương Hổ tương dĩ Dư Phan liệm,
Trọng Lương hoàn, phất dữ, viết: Cải bộ,
cải ngọc” (Tháng Sáu, Quư B́nh Tử đi sang miền
Đông, quay về, chưa tới nơi th́ ngày Bính Thân chết
trong pḥng. Dương Hổ toan lấy ngọc Dư Phan
để liệm theo, Trọng Lương giữ lại,
không cho, nói: “Đổi bước
th́ đổi ngọc”). Theo các sách chú giải, chữ Bộ
ở đây chỉ số bước chân tính từ vị
trí của người đứng tế đến chỗ
kê quan tài người chết. Tùy theo địa vị mà số
bước chân quy định khác biệt. Dư Phan là một
loại ngọc quư dành cho vua chúa đeo. V́ thế, “cải bộ, cải ngọc”
nghĩa là khi địa vị thay đổi th́ loại ngọc
để táng theo cũng phải thay đổi, số
bước chân giữa người đứng tế và
quan tài cũng phải thay đổi. Do vậy, “cải bộ, cải ngọc”
được dùng như một thành ngữ chỉ sự
thay đổi thời thế, khiến cho mọi quy củ,
phép tắc đều thay đổi theo.
[17] Trùng Cửu (c̣n gọi là Trùng
Dương) là ngày mồng Chín tháng Chín âm lịch. Do trong Dịch
Học, 9 là con số Dương, nên ngày mồng Chín tháng
Chín được gọi là Trùng Dương. Người
Trung Hoa cho rằng ngày hôm ấy cực Dương nên có lệ
cúng tế tổ tiên, lên núi cao chơi, hái thuốc để
dành, cũng như uống rượu cúc để cân bằng
âm dương.
[18] Bạc non cân: Thuở xưa bạc
đúc thành thoi (đĩnh) trên thường khắc chữ
ghi trọng lượng như mấy chỉ, mấy lạng
v.v... Có những tiệm kim hoàn hoặc tiền trang (cơ
sở cho vay tiền) do tham lợi nên đúc những
đĩnh bạc nhẹ hơn trọng lượng ghi
trên đĩnh bạc, loại này được gọi là
“bạc non cân”.
[19] Minh Kinh là một khoa thi nhằm tuyển
người làm quan được mở ra từ thời
Hán Vũ Đế, đến thời Tống Thần Tông
th́ bị băi bỏ. Những người được dự
khoa thi này phải thông thạo Kinh Học (tức thông hiểu
các kinh điển trọng yếu của Nho Gia).
Chương tŕnh thi gồm viết văn giải thích một
đoạn kinh sách theo đề đă ra, sau đó là thi vấn
đáp mười câu hỏi về ư nghĩa của kinh
điển. Tùy theo số lượng kinh điển thông
thạo mà định thứ bậc cao thấp. Thông
thường, Lễ Kư, Xuân Thu Tả Truyện... được
gọi là Đại Kinh; Mao Thi, Châu Lễ, Nghi Lễ... gọi
là Trung Kinh; Châu Dịch, Thượng Thư, Xuân Thu Công
Dương Truyện, Xuân Thu Cốc Lương Truyện...
được gọi là Tiểu Kinh. Tối thiểu,
người dự thi phải thông thạo hai bộ kinh.
Danh mục kinh điển do người dự thi tự
nêu, nhưng bắt buộc phải thông hiểu hai bộ
Hiếu Kinh và Luận Ngữ. Người thi đậu nếu
thông hiểu năm bộ kinh sẽ được gọi
là Minh Kinh Bác Sĩ. Do càng về sau này, người thi Minh
Kinh chỉ lo nhai lại những chú giải của cổ
nhân, viết văn chương cho bóng bẩy, không chú trọng
t́m hiểu ư nghĩa thật sự cũng như dùng những
lời nói, chuyện xưa trong các bộ sách ấy để
răn ḿnh sửa nết nên khoa thi Minh Kinh mất hẳn ư
nghĩa tuyển chọn bậc hiền tài như thuở
ban đầu.
[20] Nguyên văn “cảo
y” nghĩa là loại vải để trơn, không nhuộm
mầu, sợi to thô.
[21] Nguyên văn “mễ
đoàn”, gọi đủ là Mễ Đoàn Thang, một
loại bánh làm bằng bột ḿ ṿ lẫn với gạo nếp,
bọc nhân cà-rốt, củ cải, bắp cải, ớt,
thịt v.v... ăn với nước súp hoặc ăn
chung với ḿ hay bún. Mễ Đoàn Thang không phải là mằn
thắn (tức vân thốn (wonton), thường bị đọc
trại thành vằn thắn, hoành thánh) v́ vỏ mằn thắn
làm bằng bột ḿ, cũng như không bỏ rau, ớt lẫn
vào nhân. Do nó hơi giống với bánh ít trần của
người Việt nên chúng tôi tạm dịch là “bánh ít trần”
tuy không chính xác; bởi lẽ, bánh ít trần không thả
trong nước súp mà cũng không ăn chung với bún.
[22] Theo Y Tông Kim Giám, chất đàm dơ
trong cơ thể gặp phải hỏa vượng nung
đúc tạo thành chứng Đàm Hỏa. Bệnh nhân thở
kḥ khè, ho hen, ḷng hay lo sợ vẩn vơ, chân tay tê lạnh,
khí hay xông ngược, lưỡi cứng khó nói, dễ ngất.
Do kiến thức quá kém, chúng tôi không biết tiếng Việt
gọi là bệnh ǵ nên đành để nguyên chữ không dịch.
[23] Thoát Chứng là một thuật ngữ trong Đông Y, có thể hiểu theo hai cách:
1. Âm Dương, khí huyết, dịch thể bị hao tổn nghiêm trọng gây nên bệnh. Bệnh nhân toát mồ hôi đầm đ́a, chân tay tê lạnh, mắt nhắm, miệng há, tay bắt chuồn chuồn, đái dầm, mạch nhảy rất nhẹ gần như sắp dứt v.v... Các chức năng của nội tạng suy kiệt, không chữa trị sẽ dần dần lả đi rồi chết. Nếu bị ói mửa dữ dội, tiêu chảy, mất máu, hoặc tiết tinh dầm dề th́ gọi là Bạo Thoát.
2. Một trong hai chứng trạng trúng
phong. Nếu bệnh là Thực th́ gọi là Bế Chứng,
nếu là Hư th́ gọi là Thoát Chứng.
[24] Lương Thư là một bộ sử
do Diêu Tư Khiêm soạn dưới đời Đường,
hoàn thành vào năm Trinh Quán thứ 10 (636), gồm 46 quyển
chép về lịch sử nhà Tiền Lương từ
đời vua Lương Vũ Đế (Tiêu Diễn,
464-549) đến khi Lương Kính Đế (Tiêu
Phương Trí) mất vào năm 558.
[25] Tần điệp: Gián điệp
nước Tần.
[26] Tục mạng thang: Nước hoặc
thuốc giúp cho người đă chết được sống
lại.
[27] Bà Viên Ngưng Cô lấy chồng họ
Tiền nên gọi là “Tiền Viên Thị” (bà Viên nhà họ
Tiền).
[28] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Bổn Sanh Tâm Địa
Quán Kinh (tám quyển, mười ba phẩm), do ngài Bát Nhă dịch
vào đời Đường. Trong kinh này, đức Phật
ngự tại núi Kỳ Xà Quật nơi thành Xá Vệ, giảng
cho các vị đại Bồ Tát như Văn Thù v.v...
người xuất gia trụ A Lan Nhă nên quán tâm địa,
diệt vọng tưởng như thế nào để
thành Phật đạo. Đây là một bộ kinh
được Pháp Tướng Tông (Duy Thức Tông) đặc
biệt coi trọng.
[29] Quách Hậu (184-235) là vợ của Tào
Phi (Ngụy Văn Đế), con dâu của Tào Tháo. Bà là con
của Nam Quận Thái Thú Quách Vĩnh và Đổng Thị.
Lúc sanh ra có hiện tượng lạ, được
người khác tán thán. Ông bố khen ngợi: “Đứa
con gái này sẽ là vua trong nữ giới” nên đặt tên
bà là Nữ Vương. Cha mẹ và anh em bà đều bị
loạn quân Hoàng Cân giết chết, phải lênh đênh khổ
sở, làm đầy tớ cho nhà Đồng Đề Hầu.
Về sau, được Tào Phi mua về làm thiếp. Do
thông minh, lanh lợi, thường có những ư kiến nhạy
bén, tinh xác, bà giúp cho Tào Phi đoạt lấy địa vị
Thái Tử từ Tào Thực (con trưởng Tào Tháo). Khi Tào
Phi kế vị làm Ngụy Vương, đă phong cho bà là
Phu Nhân. Khi Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, xưng đế, bà
được phong làm Quư Tân. Khi vợ cả của Tào Phi
là B́nh Lạc ghen tuông quá mức, Tào Phi đă ép B́nh Lạc tự
tử chết, rồi phong cho Quách Nữ Vương làm
Hoàng Hậu; nhưng vẫn giữ con B́nh Lạc là Tào Duệ
làm Thái Tử, bắt Tào Duệ phải coi Quách Hậu
như mẹ ruột. Tào Duệ phẫn hận, nhưng ẩn
nhẫn chờ thời. Năm 221, Tào Phi chết, Tào Duệ lên ngôi,
xưng là Ngụy Minh Đế, tôn Quách Hậu làm Hoàng Thái
Hậu, nhưng đến năm 235, Tào Duệ kiếm cớ,
ép Quách Hậu tự tử chết, không cho cung nhân
được phép đại liệm bà ta, bắt họ
để xác bà Quách xơa tóc che mặt, đổ cám vào miệng,
mặc quần áo xoàng xĩnh, nhằm trả hờn cho mẹ.
[30] Hạc Động Tử là biệt hiệu
của Từ Khiêm (1766-1864), tự Ích Khanh, hiệu Bạch
Phảng. tác giả cuốn Hải Nam Nhất Chước.
Ông từng làm Hàn Lâm Biên Tu, rồi thăng dần đến
chức Triều Nghị Đại Phu, là một vị
quan thanh liêm công minh, sống giản dị, thích nghiên cứu
thơ văn, nhưng không chịu t́m hiểu đạo Phật
đến nơi đến chốn. Do vậy, tác phẩm
Hải Nam Nhất Chước của ông từng bị tổ
Ấn Quang chê là ngoài công lao sưu tập rộng răi những
sự tích linh hiển trong Phật giáo, Từ Khiêm c̣n xen tạp
vào đấy không ít những dị thuyết báng bổ Phật
giáo của bọn Đạo Sĩ.
[31] H́nh Khoa là một trong sáu khoa được
lập ra đời Thanh, chuyên trách xử án, thụ lư hồ
sơ điều tra các vụ án lớn. Ở đây, ông
Cát Trường Niên giữ một chức vụ trong H́nh
Khoa nên gọi luôn là H́nh Khoa, chứ H́nh Khoa không phải là một
chức quan.
[32] Hà Vô Kỵ (?-410) là cháu gọi Trấn Bắc
Tướng Quân Lưu Lao Chi bằng cậu, tánh t́nh tàn khốc,
đă có chí lớn từ nhỏ, rất hợp ư cậu về
mặt mưu mẹo lẫn tánh t́nh. Đến khi Hoàn Huyền
soán ngôi nhà Tấn, Vô Kỵ theo Lưu Lao Chi cùng với
Lưu Dụ (cựu tướng của Lưu Lao Chi) khởi
binh chống lại, đánh bại Hoàn Huyền. Do công khôi
phục hoàng triều nên được phong làm Khai Quốc
Công.
[33] Tấn Hiến Công muốn gả em gái là Bá Cơ cho vua Tần, sai Sử Tô bói quẻ. Sử Tô bảo: “Giữa Tần và Tấn sẽ có chiến tranh, hơn nữa, cháu sẽ làm bầy tôi cho cô”. Quả nhiên về sau, Tần đánh chiếm Tấn, Tấn Huệ Công (con trai Tấn Hiến Công) bị bắt làm tù binh, ứng nghiệm lời đoán “điệt tùng kỳ cô”. Ở đây cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh mượn hai điển tích này để ví von trong hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất là Văn Sản bắt chước cậu là Phí Vĩnh Niên tŕ kinh Cao Vương cầu sanh con trai, trường hợp thứ hai là do em gái của Long Tử Huy khuyên chị dâu tŕ kinh Bạch Y để sanh con, nên đứa cháu đó có thể nói là do cô của nó mà có, v́ vậy mới nói “điệt tùng kỳ cô”. Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh chơi chữ v́ thành ngữ “điệt tùng kỳ cô” trong Tả Truyện có ư nghĩa hoàn toàn khác biệt ư nghĩa được dùng trong lời tán dương này.
[34] Mộng hùng: Theo Thành Ngữ Từ Điển, đây
là một từ ngữ phát sinh từ điển tích “phi hùng”. Sách ấy dẫn một
câu chuyện trong Sử Kư để giải thích: Văn
Vương sắp đi săn, sai quan Thái Sử coi bói; bói
rằng: “Phi hổ, phi bi, thiên
di nhữ soái dĩ tá xương” (Chẳng phải cọp,
chẳng phải gấu, trời ban cho vua tướng soái
để phù tá khiến nước nhà hưng thịnh).
Chuyến đi ấy, quả nhiên Văn Vương gặp
được Khương Tử Nha, rước về
phong tướng, đánh bại Trụ Vương, lập
ra nhà Châu. Do chữ Bi (羆) là một
loài gấu nên người ta thường dùng điển
tích Phi Hùng, với ư nghĩa gặp được bậc
hiền tài ẩn sĩ chịu ra giúp đời. Chữ
“phi” (非: chẳng phải) về sau bị viết
sai thành “phi” (飛: bay) nên dân gian mới
bịa chuyện Văn Vương mộng thấy một
con gấu bay vào trướng, sáng ra gặp được
Khương Tử Nha. Từ đó, mới có truyền thuyết
ai nằm mơ thấy gấu th́ sẽ sanh con trai.
[35] Đô Ty là gọi tắt của chức Đô Chỉ Huy Sứ Ty, ngạch Tứ Phẩm, tức chức quan nắm quyền chỉ huy quân sự cao nhất tại một địa phương từ cấp huyện trở lên. Chức quan này thuộc quyền quản trị của Ngũ Quân Đô Thống Phủ, chứ không nghe lệnh trực tiếp từ quan địa phương, để tránh t́nh trạng các quan địa phương có thế lực quá lớn. Đến đời Thanh, chức quan này ở dưới các chức Tham Tướng và Du Kích, nhưng trên chức Thủ Bị.
[36] Tế Tửu vốn là một chức
quan đă có từ thời Hán, là người đứng
đầu các quan Minh Kinh Bác Sĩ, nhưng từ thời
Đông Tấn trở đi, chỉ có hiệu trưởng
của Quốc Tử Giám mới gọi là Tế Tửu.
Theo Triệu Dực người đời Thanh đă viết
trong bộ Cai Dư Tùng Khảo th́: “Tế Tửu vốn
không phải là một chức quan. Thời cổ khi ăn
uống tụ họp, thường có lệ dâng rượu
lên thần linh trước, gọi là Tế Tửu. Khi tế
rượu thường cử người lớn tuổi
hay có địa vị cao nhất trong đám tiến hành,
nên về sau những người đứng đầu
trong một hạng người cũng thường
được gọi là Tế Tửu”. Do vậy, hiện
thời, tại Trung Hoa, đôi khi người ta vẫn gọi
lănh tụ trong giới học thuật, nghệ thuật
hay văn học là Tế Tửu.
[37] Tả Phiên là gọi tắt của Tả
Phiên Đài, tức Tả Bố Chánh Sứ. Đời
Minh, trừ Nam Kinh và Bắc Kinh ra, cả nước chia
thành 13 Thừa Tuyên Bố Chánh Sứ Ty, mỗi ty có hai vị
Tả Bố Chánh Sứ và Hữu Bố Chánh Sứ. Khu vực
quản hạt của mỗi vị Bố Chánh Sứ gần
bằng khu vực quản hạt của chức Tuần
Vũ (Tuần Phủ, Phủ Đài, tức tỉnh
trưởng) đời Thanh. Quan chế này duy tŕ cho đến
đời Thanh, nhưng dần dần địa vị Bố
Chánh (Phiên Đài, Phiên Ty) bị hạ thấp hơn Tuần
Vũ rất nhiều. Tuần Vũ nắm trọn binh quyền
lẫn quyền hành chánh (đôi khi kiêm nhiệm chức Binh
Bộ Thị Lang trong triều), Phiên Đài chỉ trông coi
hành chánh và trị an.
[38] Đại Học Sĩ c̣n gọi là Nội
Các Đại Học Sĩ hay Điện Các Đại Học
Sĩ. Chức vụ này được đặt ra từ
thời Đường Trung Tông, thoạt đầu chỉ
là những văn thần thân cận vua có nhiệm vụ
giúp vua phê duyệt tấu chương, soạn thảo chiếu
chỉ v.v... Đến khi Minh Thái Tổ lên ngôi, nghi kỵ,
giết hại công thần, phế bỏ chức Thừa
Tướng, nhưng rồi triều chánh quá bận rộn,
giải quyết không xuể, bắt buộc phải cử
các văn quan sung chức Điện Các Đại Học
Sĩ để làm cố vấn cho nhà vua. Các vị Đại
Học Sĩ ấy tham gia nghị sự triều chánh,
nhưng không có thực quyền và cũng không nắm binh
quyền. Do các quan kiêm chức Đại Học Sĩ
thường được vua gọi vào họp ở
Văn Uyên Các trong cung nên mới được gọi là Nội
Các Đại Học Sĩ. Dần dần, số đại
học sĩ tăng lên dần theo nhu cầu triều chánh,
nên phải cử người đứng đầu các
Đại Học Sĩ, gọi là Thủ Phụ (Do vậy,
trên danh nghĩa, không có Tể Tướng nhưng Thủ
Phụ vẫn giữ vai tṛ của Tể Tướng, dần
dần có thế lực). Từ đời Gia Tĩnh trở
đi, chánh sự hỏng dần, Thủ Phụ Đại
Học Sĩ phải dựa vào thế lực của hoạn
quan mới chấp chánh được! Khi nhà Thanh tiêu diệt
nhà Minh, vẫn giữ chế độ Đại Học
Sĩ, nhưng các Đại Học Sĩ chỉ có nhiệm
vụ tham gia góp ư, chứ không là thành viên của Nội Các
như dưới đời Minh. Thời Khang Hy, các đại
thần, vương công người Măn Châu phụ chánh
giành quyền quyết định chánh sự, vai tṛ của
Đại Học Sĩ chỉ c̣n gói gọn trong nhiệm
vụ soạn thảo tấu chương, chiếu chỉ
theo lệnh các đại thần, cũng như giải
thích ư nghĩa các điển tích nếu các đại thần
Măn Châu học ít, không thông hiểu). Trong quá tŕnh đấu
tranh giành thực lực giữa vua và các quyền thần,
các chánh sách được quyết định từ Nam
Thư Pḥng của nhà vua, nhưng Nam Thư Pḥng không phải
là cơ cấu chánh thức, nên không thể ban hành công
văn hay chỉ huy nha môn. Do vậy, dần dần vai tṛ của
Đại Học Sĩ lại được nâng cao. Danh
xưng Đại Học Sĩ được thêm vào tên
các điện để chỉ vai tṛ chuyên biệt trong nghị
luận chánh sự như Trung Cực Điện Đại
Học Sĩ, Kiến Cực Điện Đại Học
Sĩ, Văn Hoa Điện Đại Học Sĩ, Anh
Vũ Điện Đại Học Sĩ, Văn Uyên Các
Đại Học Sĩ, Đông Các Đại Học
Sĩ. Đến đời Càn Long, vua đổi Trung Ḥa
Điện Đại Học Sĩ thành Thể Nhân Các
Đại Học Sĩ.
[39] Thị Lang là phụ tá của Thượng
Thư một bộ, tương đương với Thứ
Trưởng hiện thời.
[40] Đạo Doăn là quan đứng đầu
một đạo (một đạo gồm nhiều phủ
hay huyện). Thời Thanh, cả nước chia ra nhiều
tỉnh, mỗi tỉnh chia ra nhiều phủ, mỗi phủ
chia ra nhiều huyện. Đôi khi hai ba phủ được
gom thành một đạo. Quan đứng đầu một
Đạo gọi là Đạo Viên, Đạo Doăn, hay
Đạo Đài.
[41] Nguyên văn: “Dương
Bộc thùy tam tổ dĩ khoa hương lư”. “Tổ” (組) là dây thao
(dây kết bằng lụa) để đeo quả ấn.
Trong Hán Thư, phần Khốc Lại Truyện (truyện
những viên quan tàn ác), nơi tiểu truyện Dương
Bộc đă viết: “Hoài ngân
hoàng, thùy tam tổ, khoa hương lư” (Đeo vàng bạc,
ba dây ấn ḷng tḥng để khoe khoang với làng xóm). Nhan
Sư Cổ chú giải: “Tước
chánh yếu của Dương Bộc là Đô Úy, lại
c̣n làm Lâu Thuyền Tướng Quân, kiêm chức Tương
Lương Hầu, giữ ba quả ấn, nên gọi là
Tam Tổ. Tổ chính là dây đeo ấn”. Do vậy về
sau dùng từ ngữ “thùy tam tổ”
để phiếm chỉ người kiêm nhiệm nhiều
chức tước, quan cao vinh hiển.
[42] Đô Tuần là chức quan giữ nhiệm
vụ kiểm soát, tuần tra sông ng̣i, bảo đảm trị
an trên đường thủy, tu bổ đê điều,
bến cảng.
[43]
Tướng Quốc chính là danh xưng khác của chức vụ
Tể Tướng. Tùy theo thời đại, danh xưng
thay đổi như sau:
1. Từ đời Tần gọi là Thừa Tướng, chia làm Tả Thừa Tướng đứng đầu quan văn; Hữu Thừa Tướng đứng đầu quan vơ; Trung Thừa Tướng đứng đầu hoạn quan.
2. Đời Hán gọi là Tướng Quốc, nhưng dân gian vẫn quen gọi là Thừa Tướng, rồi đổi thành Đại Tư Đồ. Đến thời Đông Hán, bỏ chức Thừa Tướng, nhiệm vụ của Thừa Tướng do Tư Đồ, Tư Không và Thái Úy đảm nhiệm. Đến thời Hán Hiến Đế, lập lại chức Thừa Tướng do Tào Tháo đảm nhiệm.
3. Đến thời Nam Bắc Triều, không có Thừa Tướng, nhiệm vụ của Thừa Tướng do các quan Trung Thư Giám, Trung Thư Lệnh, Thị Trung, Thượng Thư Lệnh, Bộc Xạ hoặc Lộc Thượng Thư Sự đảm nhiệm.
4. Thời Tống, Thừa Tướng được đổi tên là Đồng B́nh Chương Sự, rồi đổi thành Thượng Thư Tả Bộc Xạ kiêm Môn Hạ Thị Lang, rồi đổi thành Thái Tể, cuối cùng lại lập ra Tả Hữu Thừa Tướng, nhưng Tả Thừa Tướng địa vị cao hơn Hữu Thừa Tướng.
5. Đến đời Minh, Minh Thái Tổ phế bỏ Thừa Tướng, lập ra các chức Nội Các Đại Học Sĩ, có nhiệm vụ chỉ chuyên giải quyết văn thư. Cuối cùng, phải lập ra chức Thủ Phụ đứng đầu các Đại Học Sĩ, thực chất là Thừa Tướng.
6. Đời Thanh cũng không lập Thừa
Tướng, nhưng chức Quân Cơ Đại Thần
có quyền hạn tương đương Thừa
Tướng.
Do các Đại Học Sĩ có cơ hội
trở thành Thủ Phụ hoặc Quân Cơ Đại Thần
nên thời Minh – Thanh, khi một người trở thành
Đại Học Sĩ sẽ được gọi là “bái tướng”. Tả Thừa
chính là Tả Thừa Tướng.
[44] Thiếu Tư Nông là gọi tắt của chức Tư Nông Thiếu Khanh. Tư Nông Ty (về sau đổi tên là Đại Tư Nông Ty) là một cơ quan được đặt ra dưới thời Nguyên nhằm trông coi việc phát triển nông nghiệp, thủy lợi, pḥng vệ đê điều, đồng thời quản trị “nghĩa thương” (kho lẫm chứa lương thực cứu tế khi có thiên tai xảy ra). Về sau, kiêm thêm nhiệm vụ sưu tập, bảo quản thư tịch nông nghiệp từ thời cổ. Đứng đầu cơ quan Đại Tư Nông Ty là Đại Tư Nông Khanh, kế đến là Tư Nông Thiếu Khanh, Thừa, Kinh Lịch, Đô Sự v.v...
[45] Chuẩn Đề Trai là ăn chay
mười ngày trong tháng gồm mồng Một, mồng
Tám, Mười Bốn, Rằm, Mười Tám, Hai
Mươi Ba, Hai Mươi Bốn, Hai Mươi Tám, Hai
Mươi Chín và Ba Mươi.
[46] Vị Ương là cung điện của
nhà Tây Hán, do Hán Cao Tổ (Lưu Bang) xây dựng tại Lạc
Dương.
Đông Phương Sóc (154-93 trước
Công Nguyên), vốn họ Trương, tự là Mạn Thiến,
người huyện Khương Thứ, B́nh Nguyên (nay là trấn
Thần Đầu huyện Lăng, tỉnh Sơn
Đông), nổi tiếng về tài thơ phú. Thời Hán
Vũ Đế, ông dâng thư tự đề cử ḿnh.
Vua đọc thư, thích thú, triệu vào phong chức
Thường Thị Lang. Ông học rộng, nghe nhiều,
hoạt kê, lại khéo biết đón ư vua, nói lời ve vuốt,
đùa bỡn đúng lúc, nên vua rất ưa thích, thường
cho ở bên cạnh để hỏi han này nọ; nhưng
vẫn coi ông như một thằng hề để giải
sầu, chẳng hề trọng dụng, giao phó cho một
nhiệm vụ quan trọng nào. Để giải tỏa nỗi
ḷng uất ức, ông viết những tác phẩm Đáp
Khách Nạn, Phi Hữu Tiên Sinh Luận và Thần Dị Kinh
(ghi chép những chuyện hoang đường). Ông
được đời sau tô vẽ, nhất là bọn
đạo sĩ thần thánh hóa, coi như một nhà
phương thuật đại tài, vốn là tiên trên trời
bị giáng trích, có phép biến hóa, chứ thật ra ông chẳng
hề dính dáng ǵ tới Đạo giáo.
[47] Đại Cát Tường Thiên Nữ (Śrī-mahā-devī), c̣n dịch là Thiện Thiên Nữ, Ma Ha Thất Lỵ, Thất Lỵ Thiên Nữ, Cát Tường Công Đức Thiên, Bảo Tạng Thiên Nữ, hay Đệ Nhất Oai Đức Thành Tựu Chúng Sự Đại Công Đức Thiên, là một vị thần chủ quản phước đức trong Mật Giáo. Bà là con gái của Đức Xoa Ca Thiên và Quỷ Tử Mẫu, em gái của Tỳ Sa Môn thiên (Vaisrvana), vợ của Na La Diên, mẹ của Ái Dục Thần (Kama). Bà có rất nhiều tên; trong Đại Cát Tường Thiên Nữ Thập Nhị Khế Nhất Bách Bát Danh Vô Cấu Đại Thừa Kinh có nêu ra 108 danh xưng khác nhau. Bà thường được tạc tượng như một thiên nữ xinh đẹp, tay trái cầm châu Như Ư, tay mặt kết ấn Thí Vô Úy. Trong Mật Giáo có riêng một nghi thức sám hối gọi là Cát Tường Thiên Nữ Pháp và có Mandala riêng. Theo kinh Niết Bàn, bà có em gái là Hắc Ám Thiên Nữ thường đi sát với chị để gieo họa cho người đời, ngụ ư: Họa phước thường theo sát nhau. Trong kinh Kim Quang Minh, Đại Cát Tường Thiên Nữ có nói một bài chú, bài chú ấy được đưa vào phần Thập Chú trong khóa tụng buổi sáng của Thiền môn, tức Thiện Thiên Nữ Chú.
[48] Kiên Lao Địa Thần (Prthivi), c̣n dịch
là Địa Thiên, hoặc Tŕ Địa Thiên, là một vị
Bồ Tát thị hiện thành thần để hộ pháp
trong Phật giáo, thuộc về một trong mười hai
vị đại thiên quan trọng trong Mật Tông. Kiên Lao
nghĩa là kiên cố, vững chắc, không lay động
như đất. Do đất rộng lớn, cứng chắc,
không bị hủy diệt, có thể dung chứa chuyên chở
tất cả, lại sanh thành muôn vật nên Kiên Lao Địa
Thần có h́nh dáng nữ nhân xinh đẹp, phúc hậu. Theo
Đại Phương Quảng Trang Nghiêm Kinh, khi Thích Ca Mâu
Ni sắp thành đạo, ma vương đến quấy
nhiễu, đức Phật kết ấn Địa Xúc,
Kiên Lao Địa Thần bèn từ dưới đất
vọt lên, chứng thực công hạnh của Phật,
đồng thời cúng dường đức Thế Tôn
b́nh bảy báu đựng đầy hương hoa. Vị
này được coi là thống lănh của tất cả
các vị Chủ Địa Thần trong mười
phương thế giới.
[49] Đức Lưu Hầu chính là Trương Lương (?-186 trước Công Nguyên). Trương Lương tên tự là Tử Pḥng, được phong làm Đức Lưu Hầu, vốn quê ở Thành Phụ nước Hàn (nay là Hào Châu, tỉnh An Huy). Ông là mưu thần bậc nhất của Hán Cao Tổ (Lưu Bang) đă giúp sức dựng nên nhà Hán. Trương Lương cùng với Tiêu Hà và Hàn Tín được gọi là Hán Sơ Tam Kiệt (ba vị hào kiệt đầu đời Hán). Khi Hán Cao Tổ đă lên ngôi hoàng đế, đem ḷng nghi kỵ công thần, giết hại cả những người thân thích như Phàn Khoái, ông liền cáo bệnh, nói thác là học tu tiên, phải tịch cốc (không ăn), xin miễn chầu. Do Hán Cao Tổ rất trọng và nghe theo ư kiến của Trương Lương, Lă Hậu mới ra sức ép Trương Lương ăn uống b́nh thường nhằm lợi dụng Trương Lương trong công cuộc tranh giành quyền lực cho con trai.
Lă Hậu tên thật Lă Trĩ (241-180
trước công nguyên), quê ở Đơn Phụ (nay là
Đơn Huyện, tỉnh Sơn Đông), là vợ cả
của Hán Cao Tổ. Bà lấy Lưu Bang khi ông ta c̣n là một
viên đ́nh trưởng ở đất Bái, sanh hạ một
trai, một gái cho Lưu Bang, tức là Hán Huệ Đế
(Lưu Doanh) và Lỗ Nguyên Trưởng Công Chúa. Bà tích cực
củng cố quyền lực cho nhà Hán. Chính bà đă xúi
vua, đồng thời bày kế giết hại Hàn Tín và
các vua chư hầu như Anh Bố, Bành Việt v.v... Ngay cả
người theo vua từ thuở mới lập nghiệp
là Tiêu Hà cũng bị hạ ngục. Do Hán Cao Tổ về
già say mê đắm đuối nàng Thích Cơ, toan lập
con của Thích Cơ là Lưu Như Ư làm Thái Tử, phế
trừ Lưu Doanh, Lă Hậu không tiếc sức kết bè
kéo cánh nhằm bảo vệ ngai vàng tương lai cho
Lưu Doanh. Đến khi Hán Cao Tổ chết, Lă Hậu
hăm hại Thích Cơ, trả thù tàn nhẫn (sử chép Lă Hậu
đă cắt chân, cắt tay, khoét mắt Thích Cơ,
quăng vào nhà xí, cho sống dở, chết dở trong ấy),
giết chết Lưu Như Ư (dù Hán Huệ Đế hết
ḷng che chở) đồng thời làm chuyện vô luân là bắt
Hán Huệ Đế phải lấy Trương Yên (con gái
của Lỗ Nguyên Trưởng Công Chúa) làm Hoàng Hậu (tức
là cậu lấy cháu).
[50] “Bạch câu” là con ngựa non lông trắng.
Theo Tân Thế Kỷ Hiện Đại Hán Ngữ Từ
Điển (do Vương Đồng Ức chủ biên),
Câu (駒) là con ngựa non từ hai tuổi trở
xuống, cao từ năm thước trở lên, sáu thước
(thước Tàu, một thước chừng 30 cm) trở
xuống, mạnh mẽ. “Câu”
c̣n có nghĩa là tuấn mă.
[51] Hối Cơ chính là pháp hiệu của
ngài Hoàng Long, tổ sư ḍng Thiền Hoàng Long. Do Sư trụ
tại núi Hoàng Long nên thường gọi là Hoàng Long Hối
Cơ, hoặc chỉ gọi là Hoàng Long Thiền Sư.
[52] Kiếp Bối (Karpasa), c̣n phiên âm là Kiếp Ba Dục, Kiếp Ba La, Kiếp Ba Sa, Kiếp Bối Sa, dịch nghĩa là Thời Phần Thụ, là tên một loài cây. Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa giảng: “Kiếp Ba Dục, hoặc nói là Kiếp Bối đều là sai, âm đúng là Ca Ba La, có thể chế vải. Ở phương Nam nước Kế Tân có nhiều loại này, mọc thành cây to. C̣n ở phương Bắc, cây nhỏ hơn, h́nh dáng như Thổ Quỳ. Hoa nó cắt ra có sợi như tơ liễu, có thể se thành sợi để dệt vải”.
[53] Bạch điệp là một loại vải
mịn mặt, dệt bằng bông nơn.
[54] “Kiếp thạch” là thành ngữ chỉ kiếp số dài lâu không thể tưởng tượng được. Theo Trí Độ Luận, quyển 5, có tảng đá rộng bốn mươi dặm, có người trường thọ mỗi năm dùng áo mềm phẩy qua tảng đá một lần cho tới khi tảng đá ấy ṃn hết mà kiếp vẫn chưa hết. Do vậy, mới gọi tảng đá ấy là “kiếp thạch”.
[55] Nam Đường Hậu Chủ
(937-978) chính là vua cuối cùng của nhà Nam Đường,
tên là Lư Dục, tự là Trùng Quang, hiệu là Trọng
Sơn Ẩn Sĩ, ông hoàn toàn không quan tâm đến chánh sự,
chỉ thích làm thơ, viết văn, vẽ vời.
[56] Tức là loại giấy cứng có thể
chịu đựng được sức kéo đến
100g/cm2.
[57] “Giá một trang sách ở đây”
được dùng với ư nghĩa: Đem tiền công in cả
hai vạn bộ sách, chia cho 210 trang th́ mỗi trang trị
giá 30 đồng, chứ không phải để in mỗi
trang sách phải tốn tới 30 đồng.