Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

Quyển 2

觀世音菩薩本跡感應頌,

卷二

彭澤菩薩戒弟子許止淨述

Phần 3

Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn

Ấn Quang Đại Sư giám định

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang

 

2.2.3.2. Ban phước

 

      1. Bèn có Sơn Đông gấm vóc, ban cho Văn Mục an ninh. Ngăn ranh giới bằng dây lụa, cho Trung Ư Vương quy thuận.

      2. Như Hoàng gặp nạn gấp, có sức thần phù trợ; Nguyên Cát tự trầm ḿnh, ngầm được trời nâng đỡ.

      3. Xe rực rỡ giáng hạ, giúp Văn Giản trổ tài văn chương. Trút bọc ban châu báu, khiến Pháp Tŕnh y thuật kỳ tài.

      4. Trao món ăn chay, Hầu gia có tướng quân khải hoàn. Đảnh lễ liên đài, họ Trương mừng chàng rể vinh quy.

      5. Trương Cảnh tiêu tai, hưởng phước; Nguyên Tướng khéo bán, giàu to.

      6. Lưu Cảnh mừng huynh đệ trùng phùng; Đạo Hiển được vợ con sum họp.

      7. Đứa tiểu tỳ nhà ông Từ, rốt cuộc được Đại Sĩ làm mai. Lư huyện lệnh kết t́nh với ma, cuối cùng thỏa nguyện b́nh sinh.

      8. Mạng do ta tạo, báo tin đậu, mộng bói rành rành. Khéo chẳng bằng vụng, bảy đề thi Phật thưởng đáng gờm.

      9. Thành Thức nhờ vợ giúp, Đoan Phương giúp đỡ bạn (Gồm hai đoạn).

     

      (1) Theo Thiên Trúc Chí, Ngô Việt Vương Nguyên Quán[1] sợ Châu Toàn Trung hung tàn, bèn trai giới một trăm hai mươi ngày, lạy cầu Đại Sĩ ứng mộng; mộng thấy núi rừng khắp cơi đều bọc trong gấm vóc, sáng ngời như ban ngày. Nguyên Quán vui vẻ nói: “Ta có thể kê gối ngủ yên rồi”. Nguyên Quán có thụy hiệu là Văn Mục.

Lại nữa, năm đầu triều đại Tống Thái Tổ, Ngô Việt Vương Tiền Thục[2] chưa biết quyết định hành động như thế nào, bèn khẩn cầu Đại Sĩ đến chỉ dạy. Mộng thấy thần cầm sợi dây lụa màu, chăng dây ngăn ranh giới từ bờ Bắc sông Dương Tử thẳng đến vùng Dự, Chương, Mân Việt mới ngừng, bảo Tiền Thục rằng: “Đây là vật cũ của ngươi!” Lại trao cho áo bào, hốt[3], măo, mũ miện không kể xiết. Tỉnh giấc, Tiền Thục bèn vui vẻ nói: “Ta không sợ hăi ǵ”, bèn chọn ngày dâng biểu chúc mừng vua Tống. Vua Tống vui vẻ, bảo sứ giả rằng: “Hăy về báo với chủ ngươi: Trẫm nhờ ông ta làm phên giậu, giúp đỡ mà đạt đến b́nh trị th́ sẽ chẳng phụ công huân khi trước”. Tiền Thục có thụy hiệu là Trung Ư.

      (2) Theo Nam Hải Từ Hàng, Ôn Như Hoàng làm nghề buôn giấy ở Nhiêu Châu, kính phụng Đại Sĩ, in Quán Âm Kinh, mỗi năm thí hơn ba trăm quyển. Từ đấy về sau, buôn bán ngày càng phát đạt. Mỗi lúc nguy cấp, dường như có thần giúp đỡ.

      Theo Linh Nghiệm Kư, Hứa Nguyên Cát ở Huy Châu nghèo khổ muốn tự trầm. Một cụ già ngăn lại bảo hăy kiền thành tụng chú Bạch Y của Đại Sĩ th́ trời sẽ giáng phước. Ông ta liền tụng chú không ngừng, bèn được giàu to, ấn tống càng rộng. Dời nhà sang Dương Châu, con cháu hiển vinh, thịnh vượng.

      (3) Theo Kỳ Cựu Tục Văn, Tŕnh Văn Giản mỗi ngày vào canh năm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát mấy trăm câu, đến già chẳng lười nhác. Khi đi thi, mộng thấy Đại Sĩ từ trên trời cưỡi cỗ xe rực rỡ giáng hạ. Tỉnh giấc, bèn ghi chép tỉ mỉ những chuyện cờ quạt, xe cộ thành một tập sách cho khỏi quên. Vào thi, thấy đề thi là “đức xa kết tinh phú” (hăy làm bài phú về chuyện đức xa kết cờ tinh)[4] bèn viết văn vun vút.

Theo bộ Y Khuyến của Đường Nghi Chi, vị Tăng đời Minh là Pháp Tŕnh, mù từ bé, ngày đêm niệm danh hiệu Đại Sĩ tổng cộng mười lăm năm, mộng thấy Bồ Tát gọi “hăy bước lại” th́ dường như có vật ǵ buộc vào chân. Đại Sĩ than: “Đời trước ngươi làm thầy châm cứu, lỡ tay làm người ta mù mắt, nay phải chịu quả báo này. Ta thương ngươi thành tâm, sẽ làm cho ngươi cơm áo no đủ”, rồi Ngài tḥ tay vào bọc, bốc châu báu đầy tay ban cho. Tỉnh giấc, Pháp Minh y thuật giỏi giang, kẻ theo học rất đông.

      (4) Theo Địch Phàm Tùy Bút, Hiệp Trấn Hầu Biên tỉnh Chiết Giang, do bọn giáo phỉ[5] quấy rối, phải cầm quân pḥng ngự ở Túc Tùng. Phu nhân hằng ngày rất lo sợ, nhiều lần mộng thấy bà lăo trao cho món ăn chay, lại mộng được dẫn đến một chỗ, thấy ông Biên đang ở trong doanh trại yên ổn. Kể lại giấc mộng với người khác, họ đều nói: “Bà cụ ấy chính là Đại Sĩ, không ǵ chẳng nhằm khuyên phu nhân hăy ăn chay để cầu cho tướng quân sớm được quay về hay sao?” Do vậy, bà cầu đảo Đại Sĩ, mồng Một, ngày Rằm ăn chay. Không đầy nửa năm, ông Biên trở về.

Theo Kính Tín Lục, đời Thanh, Lă Kế Am nhận chức Phủ Thừa xứ Phong Tường (tỉnh Thiểm Tây). Trong niên hiệu Gia Khánh, bọn giặc cướp từ Tứ Xuyên kéo sang Thiểm Tây, ông Lă phải lo lương thực, nhu yếu phẩm cho quân đội, xông pha vào nơi nguy hiểm. Bà vợ họ Trương kiền thành lễ Đại Sĩ, khắc Cao Vương Kinh biếu tặng rộng răi, lại c̣n sớm tối quỳ tụng. Về sau, do có công, ông Lă được cất nhắc lên làm quan ở châu Trực Lệ, cả nhà đều tin tưởng tụng kinh.

      (5) Trong Cao Vương Kinh Cận Trưng, Trương Cảnh nói: “Tôi nửa đời bừa băi, nhiều lần mắc phải nguy hiểm, thề nguyện tụng Cao Vương Kinh, tai nạn tiêu ngay, được hưởng phước quá phận. Hơn nữa, những chuyện sức người chẳng thể văn hồi, mỗi mỗi đều giải quyết trọn vẹn, mới tin kinh có sức rộng lớn. Do vậy, kiền thành chép thêm vào đây”.

Theo Cao Vương Linh Nghiệm, Trương Nguyên Tướng là người đất Chiết Giang quá nghèo, gột ḷng hướng thiện, tŕ Cao Vương Kinh hơn hai năm, có khách bỏ vốn cho ông ta buôn bán. Tính toán không điều ǵ chẳng được toại ư, trở thành giàu to.

      (6) Đời Thanh, [anh em] Lưu Cảnh và Lưu Trí do chiến tranh bị lạc mất nhau, nhờ tụng chú Bạch Y, anh em trùng phùng.

Vào đời Thanh, Trương Đạo Hiển vợ là Lư Thị, con là Kế Phiên, gặp nạn lạc nhau, bèn kiền thành tụng chú Bạch Y suốt hai năm, vợ con trùng phùng.

Lại theo Hàng Trung Phàm, vào thời Gia Tĩnh nhà Minh, Hoàng Ngạn Sĩ và vợ là Nhan Thị tỵ nạn “giặc lùn” (hải tặc Nhật Bản) lạc nhau, bà Nhan xin vào ở trong ni am. Ông Ngạn t́m suốt ba năm không thấy tăm hơi. Ngẫu nhiên trên đường đi, vào nhà xí, thấy trong kẽ cây dương chết khô có vật ǵ đó, moi ra th́ t́m được vàng và một cuốn sổ màu xanh, tự nhủ: “Chớ bảo nhặt được vàng đánh rơi th́ lấy dùng, phải nghĩ là do Tam Bảo mà có”. Do vậy, đợi ở đó. Hai ngày sau, có vị lăo ni khóc: “Phát nguyện tạc tượng Đại Sĩ, quyên mộ được ba chục lạng vàng, do tránh giặc giă nên giấu trong bộng cây, nay đă mất sạch rồi! Ta chết mất thôi”. Ông Hoàng vội trả lại. Ni sư lạy tạ, mời tới am, bảo: “Sẽ đối trước Đại Sĩ bày tỏ đức đẹp của ngài”. Ông Hoàng theo về am, gơ cửa th́ thấy có người thưa rồi ra mở cửa, ấy chính là Nhan Thị, đang cầm nước mắt. Lái buôn muối là X... nghe chuyện, mời ông Hoàng về làm quản lư trong tiệm. Về sau, theo lệ, ông Hoàng được tuyển giữ chức Huyện Thừa, rồi chuyển làm Phủ Phán, sanh được hai con, vợ chồng cùng thượng thọ.

      (7) Trong bộ Tân Tề Hài, Quán Sát Từ Hạo làm bạn với một con hồ ly già. Hồ ly nh́n thấy đứa tiểu tỳ tên Thái Vân bèn nói: “Đứa con gái này có túc căn. Tương lai, nó sẽ được Đại Sĩ làm mai, gả cho Động Đ́nh Quân”. Hỏi ra, biết ông nội nó làm quan Hàn Lâm, ông Từ bèn nhận nó làm cháu nội thứ ba. Về sau, có một vị quan chức lớn, tặng bức trục[6] vẽ Đại Sĩ và tờ thư xin gả cô nương thứ ba cho con trai của Thân Đại Niên là người đất Sở[7]. Do vậy, hôn lễ bèn thành tựu.

Theo Dị Vật Chí, vào đời Đường, Lư Nguyên B́nh, thấy một cô gái ở chùa Đông Dương dường như đă biết từ trước. Cô gái nói: “Em chẳng phải là người. Em từng sanh vào nhà quan Thứ Sử Giang Châu, c̣n chàng khi ấy làm môn lại[8], thần thái rạng ngời, lay động ḷng người. Em v́ không nén được t́nh cảm, bèn thường tŕ chú Thiên Nhăn Quán Âm, phát nguyện đời đời sanh vào nhà phú quư, để được vầy duyên vợ chồng với chàng. Nay sắp thác sanh vào nhà quan Thứ Sử X... Mười sáu năm nữa, chàng sẽ là Huyện Lệnh. Nếu rộng ḷng chấp nhận, xin đừng kết hôn; nhưng chỉ hồng đă buộc, dẫu muốn dứt mối tơ vương, cũng chẳng được đâu!” Về sau, quả nhiên đúng như lời đă nói.

      (8) Theo Bạch Y Chú Trưng Sự, Vương Hành Thiện ở phủ Thuận Thiên, nhiều lượt đi thi không đậu, cầu đảo Đại Sĩ, mộng thấy Đại Sĩ bảo: “Túc căn của ngươi quá mỏng cạn, đường công danh chẳng có phần. Nếu kiền thành tụng chú Bạch Y không lười nhác, có thể hy vọng đậu khoa thi năm nay”. Tỉnh giấc, ông Vương bèn in tặng một ngàn hai trăm quyển, liền thi đỗ. Vân Cốc thiền sư nói: “Mạng do ta tạo, phước do ta cầu”.

Theo Cảm Ứng Thiên Chuế Ngôn, xưa kia có hai người học tṛ cùng lên tỉnh thi. Một người ngu, một người sáng dạ. Kẻ ngu ngày đêm lễ bái, cầu nguyện trước ṭa Quán Âm, cầu Ngài cho biết đề thi. Kẻ sáng dạ bèn lén viết bảy đề thi, dùng hương đốt thành vết chữ, để kẻ ngu tưởng là Phật ban cho rồi ngầm giấu trong lư hương. Kẻ ngu t́m được hết sức mừng rỡ, dốc sức giồi mài nơi bảy đề mục ấy. Vào trường thi, trúng ngay một đề bèn thi đậu. Kẻ sáng dạ bị dầu thắp đèn cháy lan sang quyển thi, nên thi trượt! Lăo Tử nói: “Xảo giả, chuyết chi nô” (Kẻ khéo là đầy tớ của kẻ vụng).

      (9) Theo Bạch Y Kinh Cận Trưng, vào đời Thanh, Vương Thành Thức ở Vũ Tấn, trong niên hiệu Gia Khánh đi thi ở Thuận Thiên. Bà vợ nghe nói chú Bạch Y linh nghiệm bèn v́ chồng kiền thành tụng hết một tạng, ông Thức liền thi đỗ.

Theo Nam Hải Từ Hàng, Từ Đoan Phương nhiều lượt dự thi nhằm được tuyển vào một chức quan ở bộ Lễ, nhưng chẳng đậu, tŕ Quán Âm Kinh một tạng, đậu Tiến Sĩ. Ông bèn dạy cho bạn là Mă Thiệu Nguyên, ông này tụng hơn ba ngàn quyển liền đỗ trong khóa thi mùa Thu.

 

      1. Lại c̣n tích đức, chứa nhân, mới biết như tiếng vang dội lại.

      2. Giữ lại tên Thiên Tích, càng phục Tư Mă phong thái cao vời. Sắc phong cho Lâm Ông, nữ tỳ tán dương phẩm đức Đề Khống.

      3. Tri Khả đỗ giữa Trần, Lâu, y thuật công đức thật nhiều. Tín Chi lơa lồ nào ngại, ḷng thành dễ ǵ có được!

      4. Bảo toàn phẩm tiết phụ nữ, Bệ Cẩm thành đạt công danh. Do khéo thấu hiểu ḷng trời, Như Tân vâng theo lời dạy.

      5. Ông Phùng nhân từ chữa bệnh, nhờ bí phương trở thành giàu sụ. Họ Sầm vốn sẵn thiện duyên, nên địa vị tột cùng vinh hiển.

      6. Đọc bài bạt của Giản Nam, linh ứng chẳng hề dối gạt. Xem bài kư của Thành Tú, công danh có thể mong cầu.

      7. Dẫu thời thế đổi dời, quốc gia băi bỏ chế độ thi cử, nhưng cầu ǵ được nấy, chẳng hề thấy Bồ Tát bỏ lỡ điều nào. Đấy là sự ban vui thứ hai của Đại Sĩ vậy (Đoạn này kiêm ca tụng tu đức được phước)

 

      (2) Theo Âm Chất Văn Tân Biên, trong đời Khang Hy nhà Thanh, Lâm X... chết rồi sống lại, nói: Ở trong cơi âm thấy đưa ra bảng trời. Đến tên của đứa cháu con người chị là Lục Thiên Tích, do mẹ nó phạm lỗi lắm điều, nên [thiên đ́nh] muốn gạch tên đi. Chợt Quán Âm Đại Sĩ đến bảo: “Tuy Lục Lâm Thị[9] lắm điều, nhưng thờ Phật rất kiền thành. Thiên Tích lại thay bạn nộp tiền thuế c̣n thiếu, bù đắp cho chú nó làm huyện lệnh bị thiếu hụt ngân sách, lại c̣n cự tuyệt hạng gái lả lơi!” Diêm vương bảo ông Lâm: “Cháu ngươi do có ba điều lành nên được giữ tên lại, hăy nên gắng tinh tấn, đừng phụ ḷng Đại Sĩ”. Về sau, quả nhiên Thiên Tích thi đỗ.

Theo Hàm Sử, Tư Mă Đán châu cấp cho người gặp cảnh ngặt, có ai nghèo túng chẳng thể tự sống được bèn chia lương tháng ra để giúp đỡ. Người ấy không có ǵ để báo đáp, bèn đem con gái dâng cho ông để làm thiếp. Ông Đán kinh hăi, từ chối, lấy đồ trang sức của vợ để [làm của hồi môn] gả cô gái ấy [vào chỗ đàng hoàng].

Theo Khuyến Giới Loại Sao, vào đời Minh, Lâm Ông là nha lại thuộc bộ H́nh, thương xót, giúp đỡ những người bị tù oan. Ngẫu nhiên có một người bị hạ ngục oan ức, ông Lâm liền sáng chiều cầu nguyện Đại Sĩ, mong chỉ dạy phương cách cứu vớt. Mộng thấy Đại Sĩ dạy: “Hăy dựa vào những chỗ luận tội đáng nghi nhất trong án từ, dựa vào những chỗ phán quan thẩm định chi tiết chưa đích xác để biện bác”. Ông Lâm liền thay người ấy kêu oan, quả nhiên được tha. Người ấy biết do ông Lâm khiếu nại, bèn đem con gái đền ơn, ông Lâm không chấp nhận. Người ấy bèn chuốc rượu cho ông say, bảo con gái ép ông phải lấy. Ông Lâm ba lượt bảo “không được” (bất khả), lánh xa, không đi qua cửa người ấy nữa. Năm ông năm mươi tuổi, sanh ra Đại Khâm. Về sau, Đại Khâm đậu khoa thi Hương, lên kinh đô. Chủ quán trọ mộng thấy Đại Sĩ bảo: “Ngày mai có con của ông Lâm Tam Bất Khả đến trọ, là tân trạng nguyên đấy”. Lúc yết bảng, quả đúng như vậy. Đại Khâm về hỏi mẹ, mới biết đức hạnh ẩn kín của cha.

Theo Bại Sử, viên nha lại ở Thái Thương là Cố X... thấy có ông Giang bị kẻ cắp vu cáo, phải vào tù, bèn kêu oan cho ông Giang được tha. Ông Giang cảm đức, đem con gái tới, xin dâng làm người thiếp hầu hạ. Ông Cố khước từ hai lần. Mấy năm sau, ông Cố chuyển lên kinh đô, làm người hầu lo việc cho quan Thị Lang họ Hàn. Khi phu nhân bước ra, ông toan tránh đi, phu nhân trông thấy kinh ngạc bảo: “Ông chẳng phải là viên Đề Khống[10] họ Cố đấy ư? Tôi là con gái ông Giang, chút mảy may nào cũng đều do ông ban cho”. Bà kể lại với quan Thị Lang, quan bèn tâu lên vua. Hiếu Tông khen ngợi, phong cho ông Cố làm Chủ Sự[11] bộ Lễ.

      (3) Đời Tống, Hứa Tri Khả thi rớt, trở về, trong thuyền mộng thấy một người mặc áo trắng bảo: “Ngươi không có âm đức nên chẳng đậu. Nếu học nghề thuốc sẽ giúp cho ngươi có trí huệ”. Ông Hứa nghe theo, đạt đến chỗ hay khéo của Lô Biển[12]. Về sau, vào trường thi mùa Xuân, mộng thấy người mặc áo trắng bảo: “Thí thuốc công đức to lớn, trong khoảng Trần Lâu”. Về sau thi đỗ, thứ hạng nằm giữa hai người họ Trần và họ Lâu.

Theo Tiên Tâm Lục, trong niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, Bao Tín Chi tŕ Quán Âm Kinh, ngẫu nhiên thấy một ṭa Phật điện đổ nát, tượng Quán Âm bị phơi ra cho mưa dầm bèn dâng cúng tiền bạc, vải vóc. Hiềm rằng chẳng đủ, mới đem bảy bộ áo vừa mới may cúng luôn. Đầy tớ xin giữ áo lại, ông nói: “Chỉ cốt sao thánh tượng được yên ổn, ta tuy lơa lồ cũng nào có thương tổn ǵ?” Vị Tăng ứa nước mắt nói: “Bỏ tiền bạc, quần áo v.v... vẫn chưa phải là chuyện khó, chỉ có một điểm thành tâm ấy dễ ǵ có được?” Về sau, Tín Chi nằm mộng thấy thần Già Lam bảo: “Bồ Tát ban cho ông con cháu hưởng phước lộc thế gian”. Sau này, con ông ta là Biện, cháu là Sanh Phương đều làm quan to.

      (4) Theo Khuyến Giới Loại Sao, vào đời Thanh, Thí Bệ Cẩm ở Ngô Môn lúc c̣n là “chư sanh[13] ngẫu nhiên dính dấp vào chuyện tà niệm. Thấy một phụ nữ mắt hằn ngấn lệ bèn gạn hỏi. Cô ta nói quá nghèo, chẳng cam ḷng làm chuyện chôn vùi liêm sỉ ấy. Ông Thí bèn gọi người chồng ra, bảo dẫn vợ về, lấy mười lạng vàng trao cho, tuyệt không lui tới nhà phụ nữ ấy nữa, nhưng chồng cô ta cảm ân đức, thường lui tới thăm viếng, người ngoài bèn xầm x́ ông Thí dan díu với cô ta. Cô ta nghe được, bèn kiền thành khấn nguyện cùng Đại Sĩ: “Con lập chí không đoan chánh, bị gièm báng chẳng oan uổng ǵ, nhưng chàng Thí bị vu cáo, nguyện đỗ Giải Nguyên để rửa sạch nỗi oan ấy”. Năm Canh Tư (1720) đời Khang Hy, rốt cuộc ông Thí đỗ Giải Nguyên.

      Theo Linh Nghiệm Kư, Bao Như Tân nhiều lần đi thi không đậu, mộng thấy một bà cụ bảo: “Ngươi muốn được trời cho thỏa chí th́ phải khéo hiểu ḷng trời”. Ông Bao tỉnh giấc, bèn nói: “Đấy chẳng phải là Cứu Khổ Đại Sĩ ư?” bèn in Quán Âm Kinh một ngàn quyển và thật ḷng rộng hành chuyện lợi người giúp vật liền đỗ Giải Nguyên ở phủ Thuận Thiên.

      (5) Theo Khuyến Giới Loại Sao, Phùng Sanh ở Gia Định nghèo nhưng ưa làm lành, hằng ngày t́m kiếm những toa thuốc hay, hiệu nghiệm, sao ra, đem dán trên những đường phố lớn. Một hôm, đến dâng hương tại Nam Hải, gió thổi lật thuyền; đột nhiên thấy một người mặc giáp dẫn đến trước mặt Long Vương. Vua khuyên nhủ: “Ông chép toa thuốc cứu người, thiện niệm thấu đến thủy phủ, cho nên ta cứu ông”. Vua trao cho toa thuốc bí mật, bảo nhờ đó có thể làm giàu. Ông Phùng thưa: “Tôi tuy nghèo, đâu đám mong giàu có!” Vua phán: “Giàu nghèo vốn do số mạng, nhưng người có ḷng lành th́ số mạng cũng chẳng thể chi phối được! Như mạng ông gặp phải thủy nạn, nhưng do tâm lành nên không bị hại”. Vua trao cho toa thuốc, sai đưa về. Trong chớp mắt đă lên tới bờ, ḷng biết là Đại Sĩ đă âm thầm sắp đặt, che chở, bèn theo đúng bài thuốc ấy mà cứu người, trở thành giàu có.

Theo Pháp Hoa Cảm Thông, Sầm Văn Bổn tụng phẩm Phổ Môn, thoát khỏi thủy nạn. Một hôm cúng dường trai tăng, có một vị Tăng bảo: “Thiên hạ nhiễu nhương, ông do thiện duyên nên may mắn chẳng gặp nạn, rốt cuộc sẽ hưởng thái b́nh, trở thành phú quư”. Nói xong, chẳng thấy nữa. Về sau, ông Bổn trở thành Trung Thư Lệnh[14].

      (6) Trong lời bạt cho cuốn Quán Âm Kinh, cư sĩ Giản Nam sống vào đời Thanh cho biết: “Trong niên hiệu Càn Long, tôi ở cùng chỗ với Hiếu Liêm Trương Cấn Sơn. Cứ hừng đông là ông Trương tụng kinh. Hỏi ra th́ ông bảo là tụng bài Tâm Kinh này và chú Bạch Y, kinh Cao Vương. ‘Cả ba đời nhà tôi tin tưởng tŕ tụng, nhiều lần được linh nghiệm’. Tôi nghe rồi bèn kiền thành tŕ tụng. Mùa Thu năm nay, anh tôi đậu khoa thi Hương, tôi được nhận vào học tại trường quận, lũ cháu được vào trường huyện. Càng thêm kinh sợ sự linh ứng của Đại Sĩ, Cấn Sơn chẳng lừa tôi!”

Theo Cảm Ứng Thiên Đồ Thuyết, vào đời Thanh, Tào Thành Tú gặp một vị Tăng bảo: “Nếu ngươi có thể kiêng thịt ḅ, thịt chó, sẽ có thể hiển đạt”. Ông Tú nói: “Tôi là hạng bắn cung, cỡi ngựa tầm thường, sao dám mong cầu công danh?” Vị Tăng bảo: “Nếu có thể sáng tối tụng chú Đại Bi, lo ǵ chẳng đạt được phước báo ấy?” Thành Tú bèn giữ giới, tụng chú không gián đoạn. Vào chốn quan trường, dường như có thần giúp, không đầy mấy năm, làm quan đến chức Thiên Tổng[15]. Tự ghi vào năm Càn Long 12 (1747).

      (7) Tả Truyện: “Cải bộ, cải ngọc[16]; sách ấy c̣n viết: “Dư thủ dư cầu, bất nhĩ t́ hà dă” (Tôi nhận lấy những ǵ tôi mong cầu, ông chẳng có lỗi lầm chi cả).

     

2.2.3.3. Trường thọ

 

      1. Bèn có: Tượng vẽ cứu Nhân Thiến thoát vong hữu tiến cử. Chú [Đại Bi] che chở Tâm Dư khỏi làm vua cơi âm.

2. Rộng thí tặng kinh sách, Gia Do thọ hơn bốn mươi mốt tuổi. Năm lượt nói lời lành, Hoằng Nho thoát đại hạn tiết Trùng Dương.

      3. Người bạn khuyên dạy Như Huyễn, nghi dung nhanh chóng đổi thay. Mẹ cầu thọ cho Vô Minh, cam ḷng suốt đời phục dịch.

      4. Cho Lă công tăng thọ hai kỷ, báo ứng chẳng sai, răn họ Uông hăy tận lực hành, tuổi già an hưởng.

      5. Ngầm hành tŕ kinh, tựa như thánh nhân không có tướng. Phóng sanh tăng thọ, chỉ cơi âm mới biết luật này.

      6. Cháu côi cút được thành danh, Thiệu Đ́nh quyết đạt thượng thọ. Con hiếu đón về phụng dưỡng, Sĩ Ngọc càng cao tuổi trời. (Tổng cộng ba đoạn).

 

      (1) Theo Pháp Uyển Châu Lâm, vào đời Đường, Lục Nhân Thiến bị bệnh nguy ngập, biết là v́ người làng là Triệu X... đă tiến cử ḿnh làm quan dưới cơi âm. Công văn đă ban xuống, sắp chết. Nhân Thiến vẽ tượng Quán Âm trên vách chùa, bèn thoát nạn.

Theo Tân Tề Hài, Tưởng Tâm Dư lúc làm quan Trung Hàn, mộng thấy lính lệ cầm thiếp đến mời, bèn theo đến một ṭa miếu, cỡi ngựa đất bay lên không trung. Không lâu sau, ngựa hạ vó dưới thềm một nơi trông rộng lớn như chỗ vua ngự. Tấm biển bên trái ngôi điện ghi là “Thiên Đường”, từng gian sáng ngời. Tấm biển bên phải ngôi điện đề “Địa Ngục”, sâu tối khó lường. Địa ngục có giếng, người ta tự nhảy xuống đó. Vua truyền mời ông Tưởng vào điện, bảo: “Ta hết nhiệm kỳ sẽ ra đi, ông hăy thay ta”. Ông Tưởng thưa: “Tôi c̣n mẹ già con thơ, việc chưa xong làm sao có thể đến [nhậm chức] được?” Vua nói: “Ông có tài đức, tiếng tăm, sao lại chẳng thông đạt đến mức ấy? Chuyện trên đời muốn xong bèn xong. Ta đă tâu lên Thượng Đế, không thể nào văn hồi được đâu!” Ông Tưởng uất quá, tỉnh giấc, mồ hôi thấm ướt mền. Ngồi dậy, lại mộng thấy vào cơi âm. Trên điện bày năm cái ṭa, án từ chất như núi. Nha lại chỉ ṭa thứ năm bảo: “Đây là chỗ của ngài”. Ông Tưởng trông thấy thầy dạy là Phùng Tĩnh Sơn, bèn tŕnh bày t́nh cảnh mẹ già, con thơ. Ông Phùng buồn bă nói: “Tôi vợ dại, con thơ, cũng là kẻ không thể đến [nhậm chức]. Việc đă đến mức này, đừng nói nhiều nữa! Hăy mau lo liệu hậu sự mà thôi!” Tỉnh giấc, ông bèn qua nhà vị quan đứng đầu địa phương là Vương Hưng Ngô chào vĩnh biệt. Ông Vương kinh hăi bảo: “Mặt ông xám như trét than, quỷ khí đầy người”. Ông kể lại giấc mộng, họ Vương khuyên nên tụng chú Đại Bi. Cả nhà bèn trai giới tụng niệm. Đến nửa đêm, ông Tưởng thấy một chiếc kiệu từ trên không trung hạ xuống, có mấy người khiêng kiệu, rơ ràng là kẻ đến đón, bèn tụng chú gấp hơn, họ liền như sương khói tan mất. Ba năm sau, được thăng chức Từ Lâm.

      (2) Theo Khuyến Giới Loại Sao, Tŕnh Gia Do ở Thái Cốc khắc Quán Âm Kinh, Kim Cang Kinh, và Cảm Ứng Thiên v.v... nhưng chưa biếu tặng. Chợt bị bệnh, không ăn uống được, mộng thấy Đại Sĩ khuyên: “Ngươi chỉ thọ bốn mươi mốt tuổi, do khắc các kinh nên thả ngươi về, hăy nên ấn loát lưu truyền ngay”. Ông Tŕnh tỉnh giấc bèn vâng theo lời dạy, bệnh liền khỏi.

      Theo Giác Thế Kinh Hội Toản, vào đời Minh, vợ ông Hàn Hoằng Nho mộng thấy người cô đă mất nói: “Vào ngày Trùng Cửu[17] năm sau, chồng ngươi sẽ bị đại hạn”. Bà vợ kiền thành cầu đảo Đại Sĩ, cầu chồng được tăng tuổi thọ. Ông Hàn ra quán, vợ dặn hăy lưu ư làm những chuyện thuận tiện cho người khác, ông Hàn bằng ḷng. Ông khuyên chủ quán hăy gả chồng cho mấy đứa tớ gái đă trưởng thành, thấy con cháu một vị quan dùng bạc non cân[18] bèn tận lực khuyên họ đừng làm chuyện tổn người lợi ḿnh. Lại thấy đầy tớ của một người có thế lực vu cáo người khác, liền thay cho người ấy kêu oan. Lại khuyên người khác đừng cậy thế, hăy giữ trọn vẹn t́nh nghĩa thân tộc. Có mấy môn sinh thi đậu đến yết kiến, ông liền khuyên họ đừng lấy vợ lẽ, đừng lơ là người quen biết cũ, đừng thuê nhiều người hầu, đừng xa xỉ phí phạm. Đêm ấy, bà vợ mộng thấy Đại Sĩ dạy: “Số chồng ngươi sẽ mất vào tháng Chín, nhưng do năm lượt nói lời tốt lành, tạo phước rộng lớn, nên được thọ thêm hai kỷ (hai mươi bốn năm) nữa”. Ông Hàn về sau đỗ Minh Kinh[19], là một vị Ấp Lệnh hiền từ.

      (3) Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, vào đời Minh, sư Như Huyễn có người bạn là Hạ Trị Thời, thông suốt nội điển. Một hôm, ông Hạ nói với sư Như Huyễn: “Ông môi hớt, răng lộ, chẳng phải là tướng người sống lâu, hăy nên cầu nguyện Quán Âm Đại Sĩ, niệm danh hiệu Ngài để cầu thọ”. Như Huyễn nghe theo, tŕ danh ba năm, dung mạo biến đổi.

Lại nữa, vào đời Nguyên, Thích Nguyên Trưởng tự là Vô Minh, bị bệnh rất nguy ngập. Bà mẹ cầu khẩn Đại Sĩ: “Nếu đứa con không chết, con sẽ suốt đời làm người quét tước, dọn dẹp”. Khấn xong, [Nguyên Trưởng] đổ mồ hôi, lành bệnh.

      (4) Theo Nam Hải Từ Hàng, trong thời Khang Hy nhà Thanh, Lă công ở Giang Ninh phẩm hạnh trong sạch, thuần hậu, mỗi sáng tụng kinh chú của Đại Sĩ một trăm biến. Năm năm mươi hai tuổi bị bệnh nguy cấp, mộng thấy Đại Sĩ nói: “Mạng ngươi sắp chấm dứt, nghĩ ngươi ưa làm lành, tụng kinh, tăng thọ hai kỷ nữa”. Tỉnh giấc, bệnh đă lành, thọ bảy mươi sáu tuổi, không bệnh tật ǵ mà mất.

Theo Phụ Tŕ Nghiệm Kư, trong thời Đạo Quang nhà Thanh, Lưu Dực Đ́nh ở Kim Lăng tự nói: “Tôi mỗi sáng thức dậy ắt đối trước tượng Đại Sĩ tụng bảy biến chú Đại Bi, suốt hai mươi năm không lười nhác. Một bữa trời xẩm tối, có một bà cụ bước vào, bảo: ‘Đến ngày nọ sẽ bị tai nạn, nên cẩn thận’ rồi đi ra. Gọi người nhà dâng trà th́ ai nấy kinh ngạc, chẳng thấy bà cụ đâu nữa! Tới hôm ấy, đêm ngủ, thức dậy đi tiểu, ngă lăn ra đất, chân phải mắc vào trong ghế, đau không thể chịu nổi, thầm tŕ chú Đại Bi, mấy ngày mới lành. Ấy là v́ thờ Đại Sĩ đă lâu, nên được Ngài linh thiêng che chở. Nay tuổi đă sáu mươi tám, quắc thước dị thường, đều là nhờ sức của Đại Sĩ”.

Theo Cao Vương Kinh Linh Ứng, Uông Đức Thành thuở nhỏ mộng thấy một vị lăo tăng nói: “Ngươi chỉ thọ được mười tám tuổi”. Sáng dậy thưa với cha, cha cho là mộng huyễn chẳng đáng tin. Đến khi bệnh sắp chết, cha mộng thấy lăo tăng nói: “Đại hạn của con ngươi đă tới, nếu chẳng có sự lành lớn lao sẽ chẳng thể văn hồi được đâu. Hăy nên làm gấp đi!” Ngày hôm sau, cha liền đối trước Đại Sĩ, lập nguyện cứu giúp rộng răi, khắc kinh in tặng, thí quan tài, châu cấp [cho người nghèo khó], hăng hái lập hạnh. Sau đấy, lại mộng thấy vị lăo tăng nói: “Con ngươi chẳng những không chết yểu mà c̣n có thể mong được vui hưởng tuổi già”. Quả nhiên, [Uông Đức Thành] thọ ngoài chín mươi.

(5) Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời Tống, sư Thích Tông Uyên thuở bé gặp một thầy tướng giỏi, bảo: “Uyên tuổi thọ ngắn ngủi, hăy gắng tŕ phẩm Phổ Môn”, liền kính cẩn vâng lời tŕ tụng, tu tập trong cơi tục chẳng ai sánh bằng. Trong niên hiệu Thái B́nh Hưng Quốc, Sư đoán trước ngày mất, thọ tám mươi ba tuổi.

Trong lời bạt của Văn Trung Lâm Tắc Từ đời Thanh có viết: “Thái Thú Đồ Tiềm Viên bị bệnh nguy ngập, mộng thấy Quán Tự Tại Bồ Tát bảo: ‘Theo luật cơi âm, hễ cứu mạng th́ sẽ tăng tuổi thọ, thêm phước lộc, ông hăy gắng làm đi’. Tỉnh giấc, cả nhà bèn kiêng giết, mua loài vật đem phóng sanh. Mùa Đông năm ấy, [ông Đồ] liên tiếp được bổ làm quan ở Viên Châu rồi đến Cửu Giang, gia cảnh bèn khá lên, bệnh cũng chóng lành. Do vậy, ông Đồ bèn viết một thiên cuối cho cuốn Phóng Sanh Lục để khuyên đời”.

      (6) Theo Cao Vương Kinh Chứng Nghiệm, ông Lư Thiệu Đ́nh ở Đồng Sơn đă bảy mươi, không con cái, nuôi đứa cháu côi cút mới tṛn bốn tuổi th́ nó bị bệnh nguy ngập. Ông Đ́nh sáng chiều tụng kinh và khắc in kinh biếu tặng. Đứa cháu được lành. Ông sanh được một con trai, đến năm mười sáu tuổi, nó cùng với đứa cháu đều vào học trường huyện. Ông Đ́nh thọ đến chín mươi chín tuổi.

      Theo Tứ Hương Thảo Đường Bút Kư, Mao Sĩ Ngọc ở Trường Châu do buôn bán vải thua lỗ, lại trúng sương gió, bị ho rất nặng, bèn phát nguyện tụng chú Đại Bi, liền lành bệnh. Về sau, con là Đỉnh Hanh đón về phụng dưỡng tại kinh đô, thọ tám mươi tư tuổi, không bệnh tật mà mất.

 

      1. Bèn có Thường Cô xẻo đùi, cha thêm tuổi thọ. Kim Thị cắt tay, bố chồng tăng kỷ.

      2. Sơn Anh cầu mẹ hết bệnh, được tặng chén nước tràn đầy. Vân Cô đáp tạ thần ân, khớp mộng ban cho hoàn thuốc.

      3. Tràng phan cùng lay động, ngầm bảo vệ thương thế ông Bành. Hoàn thuốc bôi vết thương, thở dài thương Lưu nhi khổ sở.

      4. Chim ngậm quả son, linh dị hợp mộng trao ngọc phượng. Tụng chú Bạch Y, hồn thoát khỏi Kim Kê triệu vời.

      5. Văn Ngọc cảm ân, xưng tụng Phật pháp vô biên. Cảnh Hiền vâng pháp, tin tưởng linh phù bậc nhất.

      6. Chấn Hỗn, Học Tảo, mẹ đều tuổi hạc tăng cao. Lưu Tễ, Truyền Anh, mẹ cũng thọ thêm mấy tháng.

      7. Ấy là v́: Yêu vật, thương dân, trước hết phải có ḷng hiếu kính. Thỉnh an, hầu bữa, có ǵ ngoài biết tuổi thung huyên.

      8. V́ thế, phàm hiếu tử cầu thọ cho cha mẹ, quyết sẽ được thần linh ngấm ngầm gia hộ (Đoạn này ca tụng sự tăng thọ cho cha mẹ).

 

      (1) Theo Khải Trinh Dă Thừa, vào đời Minh, con gái ông Thường Mang ở Ích Phiên đức tánh chí hiếu, đă hứa gả cho con trai nhà họ Vương, nhưng chàng Vương đă chết sớm. Cô Thường về nhà họ Vương thủ tiết, mặc áo vải thô mộc[20], ăn chay, thêu tượng Đại Sĩ. Sáng dậy tụng phẩm Phổ Môn, chú Đại Bi, tối tụng kinh Di Đà, chú Văng Sanh. Cha bị bệnh nguy ngập, bèn cắt thịt đùi dâng lên. Cha mộng thấy Đại Sĩ bảo: “Do con gái ông hiếu thảo nên được tăng thọ”.

Theo Tự Cầu Tập, bà Tôn Kim Thị ở Vũ Tiến tánh t́nh hiếu thảo. Bố chồng ưa làm lành, bà Kim bán nữ trang, ruộng nương để cung cấp. Bố chồng bệnh ngặt nghèo, muốn ăn bánh ít trần[21]. Bà Kim cắt thịt trên bắp tay để nấu súp và bún. Bố chồng ăn xong, ngủ yên. Thức dậy, bảo vợ: “Tôi vừa thấy Đại Sĩ đến, nói con dâu ông ḷng hiếu chân thành thấu trời, nên cho ông thọ thêm một kỷ”. Cụ lành bệnh, quả nhiên mười hai năm sau cụ mới mất.

      (2) Trong Tín Tâm Lục, Lưu Sơn Anh nói: “Tôi phát tâm quỳ tụng các kinh chú Quán Âm, Chuẩn Đề để cầu cho mẹ được lành bệnh. Thoạt đầu v́ thân thể yếu đuối, gối đau không thể chịu đựng nổi, lén nghĩ mẹ bệnh đàm hỏa[22] đă lâu, chưa chắc tụng kinh sẽ lành ngay, hơi manh nha ư niệm thoái thất. Kế đó, nghĩ tới Khổng Tử đă nói: “Vô hằng vô khả tác vu y” (Người không có ư chí thường hằng sẽ không thể làm đồng cốt hay thầy thuốc được), bèn gắng sức làm. Đối với chuyện giúp người lợi vật đều hoan hỷ phụng hành. Hơn một tháng, trọn chẳng c̣n [cảm thấy] đau khổ ǵ, nhưng bệnh mẹ chợt nguy kịch, bảo tôi: ‘Mẹ bệnh mấy chục năm, có lúc phát bệnh liền lành ngay. Nay con quỳ tụng kinh văn, đâm ra bệnh nặng hơn; chắc là mẹ phước bạc chẳng thể nhận lănh đấy chăng? Hăy ngừng, đừng tụng kinh nữa’. Tôi khóc thưa: ‘Đây là do con chưa đủ ḷng thành, chưa trừ được vọng niệm’. Liền thắp hương, hướng lên trời, dập đầu đến chảy máu, thề trừ vọng niệm ngơ hầu mẹ được khỏi hẳn. Đến đêm, mộng thấy Đại Sĩ kéo mẹ cùng ngồi, trao cho một chén nước màu xanh bảo uống. Ngày hôm sau, bệnh mẹ giảm hẳn một nửa, rồi lành. Bệnh dây dưa suốt ba mươi năm, từ nay vĩnh viễn khỏi hẳn”.

Theo Mộng Viên Tùng Thuyết, Văn Tịnh Hàm Liêm Phỏng khi làm huyện lệnh Nam Xương, do mệt nhọc chồng chất thành bệnh, t́nh thế dần dần suy sụp. Con gái đầu ḷng là Vân Cô kiền thành cầu đảo Đại Sĩ, hứa tụng Cao Vương Kinh một vạn biến. Tụng sắp đủ số, Liêm Phỏng mộng thấy Đại Sĩ trao cho ba hoàn thuốc, ép nuốt, bệnh liền giảm. Buổi chiều, ông vào nhà trong, thấy con gái dâng hương hoa, quỳ trước tượng Phật. Hỏi ra th́ mọi người nói là tụng kinh đă đủ số nên dâng hương hoa cúng dường. Ông thuật lại giấc mộng, càng tin Đại Sĩ linh ứng. Về sau, ông làm đến chức Án Sát đất Lỗ (tỉnh Sơn Đông), thọ bảy mươi hai tuổi.

      (3) Theo Khải Trinh Dă Thừa, vào đời Minh, Bành Hữu Nguyên ở Ích Dương kiền thành tụng Quán Âm Kinh. Cha bị bệnh, ông Nguyên cắt tay để chữa chạy. Mẹ bị bệnh nguy ngập, ông Nguyên khóc lóc cầu đảo Đại Sĩ, nguyện cắt gan cứu mẹ. Trong đêm, chợt thấy phan, tràng dẫn đường cho Đại Sĩ, ông Nguyên bèn đốt hương, đảnh lễ, cầm dao tự mổ. Rạch sáu lần mà tim cứ vọt lên, phải ṃ t́m gan để cắt, đau đớn ngất đi. Tỉnh lại, bảo vợ đem nấu dâng mẹ, bệnh liền lành ngay. Phổi của ông Nguyên tḥ ra ngoài, vết thương không khép miệng được. Mọi người xót xa khẩn cầu Đại Sĩ; đến đêm, mộng thấy Ngài dạy: “Phổi rút vào chẳng khó khăn ǵ. Ta muốn để ở ngoài suốt một trăm ngày để người đời nh́n vào, nhằm dạy họ hiếu thảo”.

Theo Dị Đàm Khả Tín Lục, vào đời Thanh, Lưu Thị ở Vân Huyện, phụng dưỡng mẹ chồng rất hiếu thảo. Mẹ chồng bị bệnh nghẹn hơi, liền cắt thịt đùi ḿnh nấu cháo dâng lên, mẹ liền lành bệnh, nhưng bệnh lại phát ra, lại cắt thịt. Thế nhưng cứ cách tuần, lại lên cơn. Lưu Thị cầu đảo Đại Sĩ, nguyện bị bệnh thay. Thầy lang X... bảo xằng là gan người có thể trừ được gốc bệnh. Lưu Thị tin theo, dùng dao bén chọc dưới sườn, lôi gan ra cắt, ngă lăn ra, ngất đi. Chợt thấy Đại Sĩ vỗ về, bảo: “Con khổ quá!” rồi dùng hoàn thuốc bôi lên vết thương khiến Lưu Thị tỉnh lại, đem nấu miếng gan ấy dâng lên mẹ chồng, bệnh trọn chẳng c̣n phát ra nữa. Về sau, mẹ chồng biết chuyện, hết sức đau ḷng nói: “Con dâu [hiếu thảo] đến mức như thế, ta nỡ ḷng nào” bèn bẩm với quan xin ban thưởng cờ quạt. Đấy là chuyện trong tháng Sáu năm Kỷ Hợi (1779) đời Càn Long.

      (4) Theo Củ Trai Tạp Kư, vào đời Minh, Lư Mộng Khang mộng thấy Đại Sĩ trao cho con phượng bằng ngọc bèn sanh ra con gái. Con gái tṛn bốn tuổi th́ mẹ mất, hết sức đau buồn! Thờ mẹ kế hiếu thảo, cha nghèo, cô dệt vải cho cha bán. Có người ḍng dơi nhà quan mến mộ, xin kết hôn. Cô nói với [cha mẹ]: “Bỏ cha mẹ ḿnh để phụng dưỡng cha mẹ người khác, con không muốn, nguyện suốt đời phụng dưỡng cha”. Cha bệnh, cô xả thân cầu đảo. Sắc thuốc trong sân, có con chim xanh ngậm một quả đỏ chót bỏ vào siêu thuốc. Cha uống vào liền lành bệnh. Năm Sùng Trinh thứ 2 (1629), cô mất năm bốn mươi bảy tuổi, đau ḷng không được thỏa ư nguyện phụng dưỡng cha mẹ suốt đời. Hoàng Đạo Châu đề trên mộ cô ta như sau: “Gia Ḥa hiếu trinh Lư thị nữ” (Cô gái hiếu trinh họ Lư ở Gia Ḥa).

Theo Nhất Hạnh Cư Tập, vào đời Thanh, Bách Vạn An ở Thường Châu thích làm lành không mệt mỏi. Vào thời Càn Long, mẹ ông ta bị bệnh. Ông An từ Tô Châu vội trở về. Mẹ đă tắt hơi, mọi người sắp đặt quan tài, vải liệm. Ông An buồn thương, xót xa, cầu đảo Đại Sĩ, tụng chú Bạch Y một vạn hai ngàn lần, nguyện giảm tuổi thọ của chính ḿnh để tăng thêm thọ mạng cho mẹ, rốt cuộc mẹ tỉnh lại. Cụ bệnh mấy ngày rồi ngồi dậy nói: “Thoạt đầu, ta bị hai viên nha lại [cơi âm] dẫn đi, qua chỗ Thổ Địa, Thành Hoàng rồi mới đến Đông Nhạc. Vua Đông Nhạc nói: - Con của ngươi thành tâm cầu đảo, nhờ Đại Sĩ cứu khỏi chết, nên bèn tha về”. Ông An bèn khuyên mẹ tu Tịnh nghiệp. Về sau cụ được văng sanh Tây Phương.

Theo Bác Vật Chí, [thần núi] Thái Sơn (tức Đông Nhạc Đại Đế) chuyên triệu hồn người ta. Trịnh Huyền lại chú thích: “Kim kê (gà vàng) là tinh linh của Thái Sơn”.

      (5) Theo Thánh Kinh Hội Toản, Vạn Văn Ngọc ở Kinh Sơn tự nói: “Tôi tŕ Đại Bi Chú, Tâm Kinh, linh dị khôn ngăn thuật trọn. Gặp hung hóa cát, khởi tử hồi sanh, quả thật chính thân tôi đă từng chứng nghiệm. Nhớ khi mẹ tôi bị bệnh nguy ngập sắp mất, tôi đau ḷng khóc lóc chảy cả máu, quỳ trước tượng Đại Sĩ, tụng một biến chú Đại Bi, mẹ liền cảm thấy có người dẫn trở lại dương gian, dần dần thở thong thả, nói năng, cử động được, mấy hôm sau là khỏe hẳn. Phật pháp vô biên, quả chẳng phải là lời nói dối”.

Theo Cầu Phước Chỉ Nam, vào đời Thanh, Trữ Cảnh Hiền ở Cao An, trong niên hiệu Đạo Quang, họng mẹ bị liệt, hơn mười ngày không thể uống thứ ǵ được, máu tươi ngập họng, hơi thở như sợi tơ. Ông Hiền hứa sẽ thí tặng bộ Nam Hải Từ Hàng đang khắc và sách Cầu Phước Chỉ Nam mỗi thứ một trăm quyển, kiền thành tụng Tâm Kinh và niệm thánh hiệu Quán Âm. Mẹ ói ra từng khối huyết to như trứng gà rồi bèn uống thuốc được, mấy ngày sau khỏi bệnh. Căn bệnh này giống như gia nghiêm (cha) bị thoát chứng[23], đều cùng gặp nguy được an, càng thêm tin tưởng, tŕ tụng, lưu truyền thánh kinh (kinh Quán Âm, tức phẩm Phổ Môn và Tâm Kinh), quả thật là linh phù (bùa thiêng) bậc nhất để kéo dài mạng sống vậy.

      (6) Theo Quán Âm Kinh Cận Trưng, vào đời Thanh, Hồ Chấn Hỗn ở Hoài Ninh chuyên tụng Quán Âm kinh chú. Trong niên hiệu Gia Khánh, sống nơi đất khách tại Lĩnh Nam, nhận được thư nhà, nghe nói mẹ đang bị bệnh nguy ngập, liền chí tâm sáng tối cầu đảo Đại Sĩ và thí kinh để cầu thọ, mẹ liền khỏi bệnh.

Đời Thanh, mẹ của Trương Học Tảo ở Lâm Xuyên là La Thị, dốc ḷng kính tín Đại Sĩ. Năm Kỷ Hợi (1839) đời Đạo Quang, cụ đă bảy mươi hai tuổi, chợt đầu váng, bụng đau. Ông Tảo quỳ tụng Quán Âm kinh chú một ngàn biến, liền lành.

Theo truyện Lưu Tễ trong bộ Lương Thư[24], mẹ ông Tễ bị bệnh, ông Tễ tụng Quán Âm Kinh đến một vạn biến. Đêm mộng thấy một vị Tăng bảo: “Phu nhân đă tận số, nhưng do ông tinh thành chuyên dốc đến cùng cực, sẽ thọ được mấy chục ngày nữa”. Sáu mươi mấy ngày sau, cụ mất. Ông Tễ cất cḥi bên mộ, có một cặp hạc trắng lượn quanh cḥi.

Theo lời tựa của bộ Nam Hải Từ Hàng, Đặng Truyền Anh ở Cao An nói: “Anh tôi là Nguyên Đống đem hàm Tứ Phẩm do chính ḿnh đă quyên được xin vua chuyển sang phong cho ông bà nội, nhưng bà nội đột nhiên trúng phong không nói được. Tôi liền kiền thành tụng Cao Vương Kinh, cầu cụ sống thêm một thời gian nữa để chờ cáo phong. Ngay hôm ấy, bà nội khỏe dần. Mấy tháng sau, bằng sắc gởi tới th́ mấy hôm sau đấy, bà nội mỉm cười qua đời”.

      (7) Sách Mạnh Tử có câu: “Thân thân nhi nhân dân, nhân dân nhi ái vật” (Có yêu thương người thân th́ mới có ḷng nhân với người khác, có ḷng nhân với người khác th́ mới có thể yêu thương muôn loài). Sách Lễ Kư viết: “Hiếu tử hữu vấn an, thị thiện chi nghĩa” (Người con hiếu th́ có những hành vi hợp đạo nghĩa như hỏi thăm sức khỏe, hầu cơm [cha mẹ]). Luận Ngữ có câu: “Phụ mẫu chi niên, bất khả bất tri dă” (Con cái chẳng thể không biết tuổi của cha mẹ).

      (8) Theo Quán Âm Kinh Cận Trưng, mẹ ông Hoàng Vân Tú ở Tân Kiến bệnh nguy ngập. Ông Hoàng sáng tối kiền thành cầu đảo Đại Sĩ, nguyện in tặng Cao Vương Kinh, mẹ được lành bệnh.

Lại nữa, mẹ của Lư Nhất Minh ở Đồng Hương tuổi đă bảy mươi, mắc bệnh nặng. Do đi mời thầy thuốc, ông Lư đi qua ngôi chùa cổ, trông thấy trên bàn thờ Đại Sĩ có cuốn Cao Vương Kinh, thầm nguyện mẹ được lành bệnh sẽ in tặng một ngàn hai trăm quyển. Ngay đêm ấy, bệnh mẹ giảm quá nửa, liền khắc in ngay trong đêm, chưa đầy nửa tháng bệnh mẹ đă khỏi hẳn.

Theo Bạch Y Kinh Cận Trưng, con gái nhà họ Lư ở Đại Hưng, theo cha đến chỗ làm quan. Cha bệnh nguy ngập, cô ngày đêm cầu khẩn Đại Sĩ, mộng thấy được Bồ Tát khẩu truyền Bạch Y Kinh. Cô niệm đến một vạn hai ngàn biến, cha khỏi bệnh, thọ tám mươi mốt tuổi.

Lại có cô gái họ Dương, cha bị nổi nhọt đinh ở chân, thuốc men vô hiệu. Cô hằng ngày lạy Đại Sĩ, quỳ tụng Bạch Y Kinh và thề nguyện khắc in biếu tặng, chỉ mấy hôm, nhọt đinh đă lành.

Lại c̣n có Châu Khởi Phụng ở Ngô Huyện, mộng thấy thần bảo mẹ sắp hết tuổi thọ, ông Châu liền kiền thành tụng chú Bạch Y một vạn hai ngàn biến, in tặng một ngàn hai trăm quyển, mẹ thọ tới tám mươi mấy tuổi.

Theo Nam Hải Kư, trong niên hiệu Gia Khánh đời Thanh, Túc Khải ở Quế Lâm kể: “Ông nội tôi hai đùi lở loét, gân da rữa nát. Cha tôi hoảng hốt, hằng ngày tụng Quán Âm Chú mấy ngàn biến, in tặng một ngàn hai trăm quyển, bệnh của ông nội không thuốc mà lành. Về sau, cha bị bệnh khí thống, Khải thầm cầu nguyện Đại Sĩ, hứa in tặng Nam Hải Kư, lại c̣n tụng chú không ngớt, chẳng đầy mấy ngày cha khỏi bệnh”.

Theo Linh Nghiệm Kư, Hoa Đ́nh Tướng là người đời Thanh nói: “Trong niên hiệu Càn Long, tôi bị bệnh, tứ chi chẳng thể cử động, ăn uống không nuốt xuống được, khắp thân đau đớn, ngứa ngáy, đầu tóc rụng sạch. Thầy thuốc nói: ‘Sống chẳng quá ba ngày nữa!’ Mấy đứa con bèn kiền thành tụng Cao Vương Kinh một tạng, in năm ngàn quyển, hứa mỗi năm tận hết sức mua loài vật phóng sanh. Ngay trong hôm ấy tôi có thể cử động được, ngứa đau giảm dần, chẳng mấy hôm đă lành bệnh”.

 

      1. Bèn có: Phóng sanh, kiêng giết, Ngưng Cô thoát sản nạn. Kêu cầu, cứu khổ, Đổng Mẫu hối thiện căn.

      2. Triệu Canh soạn Minh Du Xác Kư, Linh Hóa nghe Tâm Địa Quán Kinh.

      3. Tri Kiệm xem sổ ghi tương lai, Soái Thị được tính thêm nửa kỷ.

      4. Tự tu, răn người, Khai Nguyên được thả. Giữ phận sống yên, Dương Lượng hoàn sanh.

      5. Ông Cố làm lễ, được ngắm thân quảng đại. Họ Tào tŕ trai, bèn uống nước thanh lương.

      6. Đấy đều là tên ghi trong sổ quỷ, rốt cuộc cùng Tần điệp[25] hồi sanh. Dẫu chưa soạn Chiêu Hồn Phú, vẫn kể chuyện trong cung nhà Hán.

      7. Cành liễu phe phẩy, biến thành tục mạng thang[26]. Ban bùn Mâu Ni, chính là phản hồn dược. Đây chính là sự ban vui thứ ba của Đại Sĩ vậy (Đoạn này ca tụng việc đă chết rồi sống lại)

 

      (1) Theo Ngọc Lịch Cận Báo, Viên Ngưng Cô ở Dậu Dương bị sản nạn, hồn đến địa phủ. Diêm Vương tra sổ, bảo: “Người đàn bà này phạm lỗi quá nhiều”, sai quỷ giải sang Nhị Điện chịu tội. Một viên quan tŕnh sổ lên, thưa: “Viên thị nhà họ Tiền[27] khuyên bố mẹ chồng đừng đốt trùng kiến ba lần. Lại khuyên chồng in năm ngàn tờ Giới Sát Văn, góp tiền in tặng ba ngàn trương Ngư Lam Quán Âm Phóng Sanh Kinh, Ngọc Đế phê chuẩn cho bà ta thọ thêm ba mươi năm nữa”. Vua đứng dậy chắp tay, khen: “Lành thay! Lành thay!” sai đưa về cơi dương, liền tỉnh lại.

Theo Pháp Hoa Cảm Thông, trong niên hiệu Thuần Hy đời Tống, mẹ ông Đổng là Lư Thị ở Nhiêu Châu mắc bệnh đă chết rồi sống lại, thuật rằng: “Thoạt đầu vào âm phủ, đi trong đồng hoang mấy dặm. Đến thành, nghe tiếng người ầm ĩ, nhưng tối đen như mực, tự nghĩ: ‘Ta tụng phẩm Phổ Môn ba mươi mấy năm, nay lọt sổ quỷ, há Bồ Tát chẳng cứu giúp hay sao?’ Ngay lúc ấy, ta hô to: ‘Cứu Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát’ khoảng trăm lần, chợt có người nắm cánh tay trái ta dẫn đi, dần dần cảm thấy sáng sủa như ban ngày, thấy Đại Sĩ hiện tướng phụ nữ, anh lạc khắp thân, chiếu ngời lóng lánh, mùi hương lạ sực nức, tướng hảo đoan nghiêm. Do vậy, bèn xin Ngài cứu mạng. Đại Sĩ dạy: ‘Số ngươi đă tận, nhờ từ trước đă có thiện căn, nên ta đến cứu giúp. Hăy nên gấp trở về, sáu năm sau sẽ lại gặp gỡ’. Ta lễ tạ th́ Ngài cất bước vọt lên cao, tha thướt bay về Tây Phương. Liếc trông phan, lọng dẫn đường, vàng ngọc sáng ngời, rộn ḷng, chóa mắt, đột nhiên tỉnh lại”. Năm năm sau, cụ không bệnh mà mất.

      (2) Theo Minh Du Xác Kư, vào đời Thanh, Châu Triệu Canh ở Trường Châu, vợ là Tŕnh Thị, vào năm Đạo Quang 12 (1832), bệnh gan bộc phát, liền nói giọng quỷ, khẩn cầu Triệu Canh hăy tụng chú Đại Bi để giúp siêu độ. Do vậy, hỏi quỷ có oán thù đời trước với người bệnh hay không? Đáp: “Không có!” Hỏi: “Bệnh không sao ư?” Đáp: “Chí tâm niệm Phật ắt sẽ được lành”. Tháng Tám năm sau, bệnh lại phát ra, hai mươi mấy ngày chẳng ăn uống ǵ được, bèn niệm Phật không ngớt. Sau đó, bà vợ hôn mê chẳng biết ǵ, hồn đi vào cơi âm, thấy Diêm Vương thẩm tra tù nhân, thiện ác đều rất rơ rệt. Do Tŕnh Thị ăn chay niệm Phật, niệm Kim Cang Kinh, Đại Bi Chú, nên vua bèn thả về. Bà ta bèn kể tỉ mỉ những điều đă thấy, Triệu Canh ghi lại [thành bộ Minh Du Xác Kư] để khuyên đời.

Trong lời chú thích của Quán Âm Linh Cảm Tụng có ghi: Vị Tăng tên Linh Hóa khi chưa xuất gia, chết v́ bệnh dịch, nghe vị cai quản cơi âm giảng Tâm Địa Quán Kinh[28]. Nghe xong, Quán Âm dẫn đường, tỉnh lại, về sau xuất gia trong tông Thiên Thai.

      (3) Theo Triều Dă Thiêm Tải, đời Đường, Mạnh Tri Kiệm lúc nhỏ bị bệnh chết, hồn vào cơi âm, gặp người quen làm nha lại ở đó bảo: “Ngươi vốn không có phước quả, khó thể trở về được”. Kiệm thưa: “Cháu tụng Tâm Kinh, Cao Vương Kinh, ước chừng ba bốn vạn biến”. Nha lại kiểm sổ, tâu lên vua, vua phán thả về. Lại c̣n cầm sổ chỉ cho biết chuyện tương lai, bèn tỉnh lại. Về sau, mọi chuyện đều ứng nghiệm.

Theo Hải Nam Nhất Chước, vào đời Thanh, vợ của quan Tỷ Bộ Kim Quang Đẩu xứ Phụng Tân là Soái Thị thờ Đại Sĩ, lúc sáu mươi mấy tuổi bị bệnh mất, ba ngày sau sống lại, [kể chuyện] vào cơi âm, thấy Đại Sĩ bảo với Diêm vương: “Bà này kiền thành tụng Quán Âm Kinh, lại có công đức in tặng rất nhiều, hăy nên cho thọ thêm nửa kỷ”. Vua cho bà Soái sống lại, được đi khắp địa phủ, tận mắt thấy người thọ khổ đông đúc. Có bầy chim khoét mắt, máu tuôn khắp thân, nói đó là quả báo do giết sanh mạng chim. Lại vỏ ốc chất thành núi, lũ quỷ khoét thịt người dồn vào đó, bảo là quả báo do ăn thịt các loại ốc.

      (4) Về chuyện hoàn hồn của Chương Khai Nguyên xin xem trong lời chú thích thứ bảy trong phần cứu khỏi đọa lạc. Ông ta khi đi khắp địa ngục xong, người cứu nói: “Ông trở về hăy nên tự tu, răn người, đừng lơi lỏng chí ấy” rồi sống lại.

Theo Chuyển Nhân Lục, cuối niên hiệu Thuần Hy nhà Tống, Dương Lượng bị bệnh chết đi, vào cơi âm. Diêm Vương hỏi có công đức ǵ, thưa: “Con niệm Quán Thế Âm Kinh”. Vua hỏi: “Làm chuyện lành nào?” Thưa: “Chẳng có điều lành nào để kể, chỉ giữ phận sống yên mà thôi!” Vua kiểm sổ, thấy đúng như lời nói, bèn cho sống lại.

      (5) Vào đời Minh, Cố Vỹ ở Thường Thục tánh t́nh cẩn thận, trung hậu, chết trong niên hiệu Vạn Lịch. Ba ngày sau sống lại, kể: “Lúc mới chết đích thân thấy h́nh dáng thật sự của Đại Sĩ, giống như tượng Ngài đang đi được thờ tại chùa Hổ Khâu, nhưng thân to lớn hơn, từ trên không trung hạ xuống. Vỹ đầu mặt đảnh lễ. Trong khoảnh khắc, Bồ Tát ẩn h́nh, coi khắp địa ngục rồi tỉnh lại”.

Tào Học Cứu ở Thái Thương chết v́ bệnh dịch, thấy bà cụ mặc áo trắng bảo: “Ngươi tŕ trai, ta cứu ngươi”. Thưa: “Bồ Tát cứu con, con nguyện tŕ trai”. Bà cụ bảo uống nước, tâm cốt thanh lương bèn sống lại; th́ ra đă chết một ngày đêm rồi. Bèn suốt đời ăn chay, thờ phụng Quán Âm.

      (6) Theo Tả Truyện, người nước Tấn bắt được gián điệp của nước Tần, đem giết ở Giáng Thị. Sáu ngày sau, gă gián điệp ấy sống lại.

Thời Chiến Quốc, Tống Ngọc soạn bài Chiêu Hồn Phú. Theo Bác Vật Chí, cuối đời Hán đại loạn, có kẻ quật mồ chôn cung nữ thời Tiền Hán, các cung nữ vẫn c̣n sống, đều đi ra, b́nh phục như cũ. Quách Hậu[29] nhà Ngụy nhận họ làm tay chân, hỏi chuyện trong cung thời Hán, họ đều trả lời rành rọt.

      (7) Với câu trước, xin hăy xem lời chú thích thứ 18 trong phần cứu đọa lạc.

Theo Kiến Văn Lục, vào đời Thanh, Thang Sính ở Phiêu Thủy nhà nghèo, nuôi mẹ có hiếu. Chợt bị bệnh mất đi, hồn đến Đông Nhạc. Ông Sính xót xa xin [Đông Nhạc Đại Đế] hăy thương mẹ ông ta không người hầu hạ, phụng dưỡng. Vua sai đưa sang chỗ Khổng Thánh định đoạt. Trở về gặp Phổ Môn Đại Sĩ, bèn xót xa khẩn cầu cho sống lại. Đại Sĩ bảo: “Đấy là ḷng hiếu thảo. Lại từng cự tuyệt gái lả lơi, tương lai sẽ cao xa, hăy nên cho hoàn hồn gấp”. Quỷ thưa: “Xác đă mục th́ làm thế nào?” Đại Sĩ sai Thiện Tài lấy bùn Mâu Ni, sắc như Chiên Đàn, dùng bùn bọc thây ba lớp, những chỗ hư nát trông hoàn hảo như thường. Hồn từ miệng chui vào [xác], bèn sống lại. Về sau, Thang Sính đỗ Tiến Sĩ thời Thuận Trị, suốt đời trai giới.

Theo Thập Di Kư, trong năm Đ́nh Ḥa nguyên niên (92) đời Hán, nước Nhục Chi tiến cống Phản Hồn Hương. Về sau bị dịch lớn, vua đốt lên, những ai chết chưa quá ba ngày đều sống lại.

 

2.2.3.4. Được con

 

      1. Bèn có: Bảy ngày thân thể biến hóa, kể măi chuyện đẹp Tự Cô. Khoảnh khắc đổi h́nh, ai nấy gọi tên Phật Tứ.

      2. Cúng ngàn vàng dựng gác, sanh liên tiếp anh em. Hứa kỳ hạn sáu ngày, Tín, Trung cùng già cả.

      3. Mây màu vờn quanh, thơm ngát tranh Lư Thanh ẵm trẻ, trăng tṛn, hoa trổ, Phan Chiếu ngâm vịnh nhà thêm người.

      4. Hương ṿng in chữ, ấm ḷng Chương Tảo lúc tàn niên; dương liễu làm con, ứng Tân Trai thiết tha bái vọng.

      5. Họ Cát truyền kinh, quan dân được lợi. Thí chủ Phan công, tăng sĩ sanh đôi.

      6. Chú cháu họ Phó, nối gót quy y. Anh em họ Lư, chen vai tin tưởng.

7. Văn Sản sanh được con trai, cháu vốn giống cậu. Tử Thúy có người nối dơi, cháu phải hầu cô.

      8. Tươi cười ban tặng, đền bù họ Trâu sửa lỗi . Khớp với điềm mừng, ông Hùng trừ sạch đa nghi.

      9. Lương Văn xây dựng Bạch Hoa Am, Long Tướng mộng được trao con đỏ.

      10. Chí Thuần khắc ván, khen ngợi “như vang ứng tiếng”, Đạo Đức mộng lan, may đă cải tà quy chánh.

      11. Mừng được hậu duệ dằng dặc, ca tụng trọn khắp đất Kinh, Hành. Vịnh câu “con cháu đông đầy”, tiếng ngâm rền miền Huy, Vụ (Tổng cộng hai đoạn).

 

      (1) Theo Thuật Dị Kư, cụ Hoàng ở Kinh Châu đă già và góa vợ, dốc ḷng ham làm lành. Có một gái tên là Tự Cô, tuổi vừa mười bốn, học chữ với cha, thông minh, hiền hậu, thêu tượng Bạch Y Đại Sĩ, lễ bái hết sức kiền thành. Một đêm, Tự Cô mộng thấy Đại Sĩ nói: “Cha ngươi hiếu nghĩa, chẳng nên không có ai nối ḍng. Hiềm rằng tuổi đă già [không thể có con được nữa], ta biến ngươi thành con trai”. Bảo cô ta nuốt viên thuốc màu hồng, cô ta cảm thấy một luồng hơi nóng xông thẳng xuống dưới, ngủ mê mệt suốt bảy ngày, tỉnh dậy th́ đă thành thân trai. Nhà chàng rể kinh ngạc cho là dối trá, kiện lên quan để kiểm nghiệm thật hư, người tới xem đông nghịt. Tôn Nguyên Phương đề thơ rằng: “Trong mơ biến hóa sao kỳ lạ, má hồng bỗng chốc biến mày râu”.

Theo Kỷ Cầu Thư, vào đời Minh, Dương Hoàng ở Đương Đồ tận lực học Nho. Gặp lúc quân binh vây làng, chẳng nỡ ĺa phần mộ tổ tiên, giấu thê thiếp và con trai trong rừng sâu, một ḿnh canh mộ. Quân lính kéo đến, bắt được ông, vội đem d́m chết. Đứa con trai lên mười, từ trong rừng thấy cha bị chết đuối, cũng gào khóc chạy ra, gieo ḿnh xuống nước chết. Khi ấy là ngày Mười Sáu tháng Ba năm Bính Tuất (1646) đời Thuận Trị. Đến sáng, hai cái xác ôm nhau nổi lên, ai trông thấy cũng ứa lệ. Vợ ông ta là Lục Thị thôi ăn mặn, thờ tượng Đại Sĩ trong nhà, sáng tối niệm Phật, vừa niệm vừa tuôn nước mắt. Mộng thấy một bà lăo dẫn một đứa nhỏ, bảo “tặng cho ngươi”. Tỉnh dậy, bèn cầu: “Nguyện người thiếp là Trương Thị đang có mang sẽ sanh được con trai th́ là do Bồ Tát ban cho”. Cuối năm, người thiếp sanh con gái, bà Lục khóc lóc: “Nay đă hết rồi!” Đến mùa Xuân, bà mời các vị bề trên trong họ đến nói: “Chồng tôi không có con, tài sản đơn bạc nên chia cho các cháu trai. Tôi xin thâu tô để có cái lo toan cơm áo nuôi con gái”. Nói chưa xong đă đau đớn khóc ṛng. Mọi người bất nhẫn, nói: “Đợi tới giáp năm ông Hoàng, sau khi làm Phật sự xong sẽ bàn định”. Đến kỳ, hội họp thân tộc, ngày hoàn tất trai đàn nhằm đúng hôm Mười Sáu tháng Ba, đứa bé gái khóc oa oa không ngớt, Trương Thị ôm nó đặt lên gối, chợt như bị bóng đè chẳng tỉnh. Bé gái khóc càng dữ. Bà Lục phải kêu ầm lên th́ bà Trương mới tỉnh, bồng con lên th́ nó đă biến thành thân nam, nh́n nhau kinh hăi, ngạc nhiên. Họ hàng xúm lại thấy mặt mũi nó vẫn như cũ, nhưng ở chỗ kín c̣n vằn vện dấu máu, mới biết Bồ Tát báo mộng chẳng sai, rồi đem nó lễ tŕnh trước bàn Phật, đổi tên là Phật Tứ (Phật ban cho). Trương huyện lệnh sai xét nghiệm, tra hỏi tông tộc, phê rằng: “Nếu sự biến hóa của đứa con không thật, lũ cháu trai há chẳng muốn chia điền sản ư?” Hạc Động Tử[30] nói: “Linh cảm đến mức ấy, đá nứt vỡ, trời rúng động vậy”.

      (2) Theo Hiện Báo Tùy Lục, đầu đời Thanh, Đàm Hiến Khanh nhà giàu có nhưng không có con trai, người trong họ ngắm nghé phân chia tài sản. Ông Hiến giận, dùng năm ngàn lạng vàng tổ chức đàn tràng Đại Bi Sám, lễ sám suốt bốn mươi chín ngày, người thiếp bèn sanh con trai, bọc thai trắng tinh. Người vợ cả bèn phát tâm quyên tặng một ngàn lạng vàng để dựng Bạch Y Các; không lâu sau lại sanh con trai, bọc thai cũng trắng như lần trước. Anh và em đều vào học trường huyện.

Theo Trần Hoài Tích Bút Kư, Uông Mậu Huy ở Kỳ Môn không có người nối dơi, bèn niệm và tặng Cao Vương Kinh, rộng làm các thiện sự, mộng thấy Đại Sĩ ẵm một đứa trẻ bảo: “Ngươi hăy khéo đỡ lấy. Sáu ngày sau sẽ đến ẵm đi, sẽ lại ẵm đến một đứa trẻ nữa”. Thế rồi ông sanh liên tiếp hai đứa con trai, trưởng là Nhân Trung, thứ là Nhân Tín. Sau này, Nhân Trung mất năm sáu mươi tuổi, [lúc ấy, người nhà ông Uông] mới hiểu được ẩn ngữ trong giấc mộng.

      (3) Theo Tŕ Nghiệm Kư, vào đời Minh, H́nh Khoa[31] Lư Thanh có một con trai chết v́ bệnh đậu, mẹ nó bèn kiền thành tụng Cao Vương Kinh. Ông Thanh mộng thấy Đại Sĩ ẵm một đứa trẻ đến, bảo: “Như vân, như nguyệt”. Sáng dậy, ông X... tặng cho ông Lư bức tranh thêu Quán Âm ẵm đứa bé giống hệt như trong giấc mộng. Trên bức tranh ấy có bài thơ, [mở đầu bằng câu]: “Thái vân hương nhiễu hải thiên triều” (Mây màu vờn biển thơm trời thẳm). Câu cuối bài thơ là: “Hoàn lai đan quế nguyệt trung phiêu” (Trở về, quế thắm nhẹ lay trăng), phù hợp với hai chữ “vân” và “nguyệt”. Về sau, quả nhiên sanh con trai.

Theo Linh Ứng Kư, Phan Chiếu ở Ngô Giang đốt sớ cầu con trước tượng Đại Sĩ. Năm sau, giữa Xuân, sanh được một trai. Làm thơ kỷ niệm có câu: “U Yên lăo khứ tuyết doanh điên, hỷ kiến hoa sanh nguyệt hựu viên” (U Yên già khọm, tuyết đầy non, mừng thấy hoa đơm, nguyệt lại tṛn).

      (4) Theo Quái Viên, Chương Tảo tuổi gần bảy mươi, không có con trai, lễ Đại Sĩ, mộng thấy trước ṭa của Đại Sĩ, chuỗi hương ṿng in một chữ Tử (con), rồi người thiếp sanh được một trai.

Dương Tâm Trai ở Nhạc Châu, triều bái Phổ Đà, mộng thấy Đại Sĩ bẻ cành liễu trong tịnh b́nh ban cho, bảo: “Cho nó làm con ngươi”. Đứa con trai sanh ra được đặt tên là Tự Liễu.

      (5) Theo Cao Vương Cảm Ứng Kư, đời Đường, Cát Trường Niên ở Hành Dương không người nối dơi. Vị lăo tăng khuyên ông Cát tụng Cao Vương Kinh, bảo: “Sanh con sẽ có điềm lạ là bọc thai kép màu trắng”. Vợ chồng bèn tụng kinh đủ một tạng; về sau, sanh được ba con trai, đều có bọc thai kép màu trắng. Quan Thái Thú chính mắt thấy sự linh nghiệm ấy, bèn cho khắc ván ấn tống. Vợ chồng Giang Tể ở Vũ Dương thọ tŕ kinh cũng được quả báo tốt đẹp.

Theo Khoáng Viên, Phan Hải Tân ở Thuận Thiên không con, nỗ lực làm lành, cúng dường chùa Tăng. Có hai vị lăo tăng cảm kích, thề trước tượng Đại Sĩ, nguyện làm con ông bà để báo đáp. Một hôm, ông Phan đang ngồi trong gian giữa, chợt thấy hai vị Tăng đi vào nhà, vợ bèn sanh đôi hai con trai. Cho người sang chùa hỏi thăm hai vị lăo tăng th́ họ đă viên tịch cùng một lúc.

      (6) Theo Ứng Nghiệm Kư, Phó Quốc Trấn ở Tân Kiến không con, chú là Quảng Nghiêu đông con trai; do vậy, khuyên: “Chú tụng Quán Âm Kinh nhiều năm, sao cháu không bắt chước?” Ông Trấn bèn kiền thành tụng, năm sau sanh con. Thí kinh hai ngàn quyển lại có thêm con, cùng thi đậu làm quan.

Theo Bạch Y Linh Nghiệm, Lư Tá Nghiêu ở Hành Sơn không con, anh là Thọ Nghiêu có được quyển kinh Bạch Y bèn cùng nhau mở trai đường, thờ tượng Đại Sĩ, tụng kinh, thí tặng, mỗi người đều có một con trai.

      (7) Theo Cảm Ứng Kư, Thái Thú Tùng Giang là Phí Vĩnh Niên in tặng Cao Vương Kinh, sanh được một con. Truyền cách này cho cháu là Giang Văn Sản, anh ta cũng sanh được một con trai, năm mười tám tuổi, nó đậu khoa thi Hương.

Theo Nam Hải Từ Hàng, vào đời Minh, Long Tử Huy ở Lô Lăng không người nối dơi, em gái ông ta có được quyển kinh Bạch Y, đọc những chuyện linh ứng do cầu con, bèn khuyên chị dâu tŕ tụng. Chị dâu phát nguyện ăn chay, tụng kinh. Năm sau, sanh được một trai, khôi ngô khác thường.

Theo Tấn Thư, Hà Vô Kỵ[32] tàn ác giống như cậu hắn. Sách Tả Truyện có câu: “Điệt tùng kỳ cô” (Cháu làm bầy tôi cho cô)[33].

      (8) Theo Nam Hải Từ Hàng, vào đời Thanh, Trâu Lỗ ở Lâm Xuyên, trong thời Ung Chánh kiền thành tụng Quán Âm Kinh, sanh được hai con. Tự nhủ: “Chưa chắc đă là sức của Bồ Tát”, tâm liền bê trễ. Hai đứa con chợt chết yểu, bèn kiền thành cầu đảo Đại Sĩ, thệ nguyện thí kinh. Vợ mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ tươi cười, đáng mến, ẵm một đứa bé đặt lên chơng, hôm sau liền sanh con. Hơn một năm sau, lại mộng thấy giống như trước, lại sanh một con.

Lại nữa, Hùng Thiên Ích ở Ích Dương, sáu mươi tuổi, không con, thấy Quán Âm kinh chú linh nghiệm, bèn ăn chay tụng niệm, ấn tống. Vợ nằm mộng thấy gấu[34], vui vẻ kể với chồng, ông vẫn cho là huyễn mộng. Mùa Xuân năm sau, quả nhiên sanh con trai phù hợp giấc mộng.

      (9) Theo Phổ Đà Chí, vào đời Minh, Đô Ty[35] huyện Định Hải là Lương Văn do cầu con được cảm ứng, bèn bỏ tiền cậy vị Tăng trong chùa là Dục Quang dựng Bạch Hoa Am.

Theo Từ Lâm Tập, chư sanh Hà Long Tướng ở Quảng Châu đă năm mươi tuổi nhưng không có người nối dơi, bèn thờ tượng Thiên Thủ Thiên Nhăn, sáng tối kiền thành lễ tụng. Mộng thấy Đại Sĩ trao đứa bé đỏ hỏn, bèn sanh liên tiếp ba con trai.

      (10) Theo lời bạt của Cao Vương Kinh th́ Hồ Chí Thuần ở Phù Lương cùng với vợ họ Uông tụng Cao Vương Kinh. Bà Uông mộng thấy nhiều người đến xin kinh, bèn hứa in ra biếu tặng. Độ một tháng sau có thai, sanh con nhằm đúng ngày khởi công khắc bản in. Trong lời bạt, ông Thuần viết: “Bồ Tát như vang ứng theo tiếng, chẳng thể nghĩ bàn”.

Theo Minh Tường Kư, thời Lưu Tống, Tôn Đạo Đức theo Đạo giáo, làm quan Tế Tửu[36], tuổi đă năm mươi mà không con. Một vị sa-môn khuyên ông Tôn hăy chí tâm lễ tụng Quán Âm Kinh. Ông liền bỏ không theo Đạo giáo nữa, dốc ḷng thành tụng Quán Âm, liền có giấc mộng lạ, vợ sanh được con trai.

Theo Tả Truyện, người thiếp của Trịnh Văn Công là Yến Cật mộng thấy thiên sứ trao cho cành lan, bảo: “Cho nó làm con nhà ngươi”, liền sanh ra [Trịnh] Mục Công, nên đặt tên là Lan.

      (11) Theo Linh Ứng Kư, Giang Liên ở Miện Dương phát nguyện tụng Bạch Y Kinh để cầu con. Mộng thấy Đại Sĩ trao cho đứa bé bảo: “Thưởng cho ngươi dốc ḷng thành tụng kinh”. Qua năm sau bèn sanh con trai.

Theo Cảm Ứng Kư, Kha Thắng Xuân ở Vũ Xương tuổi đă năm mươi, không con, vợ chồng ngày Rằm, mồng Một ăn chay, tụng Cao Vương Kinh trọn đủ tám tạng. Trong ba năm, liên tiếp sanh hai trai, một gái.

Theo Quán Âm Kinh Cận Nghiệm, Tông Duy Viên ở Kinh Quận, vợ họ Trương nhiều lần bị sản nạn, bèn trai giới tụng Bạch Y Kinh, sanh con có bọc thai kép màu trắng, đặt tên là Đại Sĩ Bảo (Đại Sĩ che chở), thông minh, tuấn tú bất phàm.

Đời Thanh, Tả Phiên[37] xứ Hồ Quảng là Lưu Nguyên Bá tu sám hai mươi tám ngày để cầu con. Năm sau sanh con trai cực thông minh.

Quách Vũ Bá ở Hành Sơn đă sáu mươi mà không con, nghe nói Bạch Y Kinh linh nghiệm, bèn phụng tŕ, không lâu sau sanh con.

Trần Tảo Xán ở Miện Dương sanh con nhưng không nuôi được, vợ chồng tŕ tụng Bạch Y Kinh, sanh con nuôi đến trưởng thành.

Hồ Lương Hoảng ở Tân Đề thỉnh kinh, ăn chay tụng niệm, năm sau sanh được con trai.

Bành Tuấn ở Kinh Môn, đă năm mươi tuổi vẫn không có con, tin kinh linh nghiệm, kiền thành tụng niệm bèn có con, đặt tên là Nghiệm Bảo (bảo đảm ứng nghiệm). Năm mười sáu tuổi, nó được vào học trường huyện.

Chương Tuấn ở Miện Dương, nghe chuyện của Bành Tuấn bèn cũng tụng kinh, cũng có con.

Tŕnh Học Tuân ở Huy Châu không con, vợ chồng kiền thành tụng Bạch Y Kinh, lại c̣n in tặng, năm sau sanh con.

Chiêm Hữu Cao ở Vụ Nguyên, vợ đă ngoài ba mươi mà chưa sanh nở, tụng Bạch Y Kinh, bèn sanh con.

Theo Cao Vương Linh Ứng, Trịnh Thuần Lănh ở Vụ Châu đă bốn mươi vẫn chưa có con, hứa thí kinh một tạng, bèn có con.

Trong niên hiệu Khang Hy đời Thanh, Dư Lân Văn ở Vụ Nguyên không người nối dơi, vợ là Đới Thị tŕ Quán Âm Kinh và hứa thí ba ngàn quyển, liền sanh ba con trai. Anh ông ta là Lân Nhân thấy em trai được ứng nghiệm bèn cùng vợ kiền thành tŕ tụng, in tặng và thỉnh Tăng tŕ kinh một ngàn biến, liền sanh con. Người cùng ấp là Dư Tư Lai tŕ Cao Vương Kinh, vào thời Khang Hy sanh được hai con trai, đặt tên là Phật Thành và Phật Chánh.

Uông Trân ở An Huy khắc năm trăm quyển kinh, bèn sanh được con trai.

Trịnh Mỹ Ngọc ở Vụ Châu bốn mươi tuổi vẫn không con, in kinh một tạng, liền sanh con trai. Năm sau lại sanh con gái. Người cùng ấp là Giang Ứng Lâm cùng với vợ tụng kinh, tặng kinh rộng răi, sanh được một trai.

Hoàng Liên Thị ở Hấp Huyện, lưu truyền rộng răi kinh này, sanh đôi hai trai, đặt tên là Phật Trụ, Khánh Nhi.

Mễ Nhuận Cô ở Huy Châu, hứa biếu tặng một ngàn quyển kinh, năm sau sanh con trai.

Vào đời Minh, Thư Uông Thị ở Y Huyện đă bốn mươi vẫn không con, trong niên hiệu Hoằng Trị, tới lễ ở Đông Sơn Am, thỉnh được kinh đem về. Tŕ hơn một năm, sanh con trai.

Trong niên hiệu Sùng Trinh đời Minh, Đổng Khoa ở Vụ Nguyên, vợ là Chúc Thị, kiền thành phụng tŕ kinh này, hứa in một ngàn quyển, người thiếp sanh được hai trai. Người cùng huyện là Dư Mục Trai thí kinh một ngàn quyển, một năm sau sanh con trai.

Phương Nham ở Hấp Huyện, vợ là Hoàng Thị, cũng thí kinh một ngàn quyển, sanh con trai.

 

      1. Lại thêm: Ham thiện, hành từ, ắt sẽ được trước là rạng rỡ, sau là dư dật.

      2. V́ thế, chép kinh, vẽ tượng, Vương Văn Túc trâm anh lừng lẫy thế gian; lợi vật, giúp nghèo, Từ Văn Kính tể tướng suốt cả hai triều.

      3. Thưởng âm đức cho ông Trương, cháu đủ sáu rồng. Tặng họ Phùng đứa bé c̣m, con đeo ba ấn.

      4. Tú Tài tuyệt hảo, sanh trung thần nơi xứ Gia Định. Thượng Đế tưởng thưởng, Thiên Phi giáng hạ cơi Bồ Điền.

      5. Cụ Trầm trải vàng, cháu chắt đông đầy, hưng vượng. Châu Thị chuộng lành, phước thọ dằng dặc dài lâu.

      6. Thương vị tăng nghèo đốt ngón tay, con làm quan tới chức Hàn Lâm. Cự nhũ mẫu giở tṛ hoa nguyệt, ḍng họ thật đông đầy, thịnh vượng.

      7. Thông thạo Phạm âm, vọng bái Vương Thượng Thư đời Tấn, bia khắc Lang Sơn, ghi sự thù thắng nơi điện đ́nh.

      8. Bền ḷng nhân hiếu, kẻ không con rốt cuộc có cháu hiền. Nuôi người tàn phế, hợp ḷng trời, hậu đại ắt hưng long.

      9. Vẫn mong uống nước nhớ nguồn, nguyền hậu duệ đời đời tin Phật. Nếu trót trước siêng, sau nhác, hăy dũng mănh sửa ḿnh đổi mới. Đấy chính là sự ban vui thứ tư của Đại Sĩ vậy (Đoạn này ca tụng cả chuyện sanh ra quư tử)

 

      (1) Theo Hải Nam Nhất Chước, sự linh ứng do tŕ kinh Quán Âm khó thể nào thuật trọn, nhưng ắt cần phải hướng thiện, sửa lỗi, kiêng giết hại sanh mạng loài vật th́ mới được linh ứng như tiếng vang vọng theo âm thanh, [mà quả báo] cũng chẳng phải chỉ là hưởng niềm vui trông thấy con cháu đầy đàn!

      (2) Theo Hiện Quả Tùy Lục, vào đời Minh, Vương Tích Tước, tên thụy là Văn Túc, làm tể tướng thời Minh Thần Tông, sai thợ dùng mực ḥa vàng bạc để vẽ tượng Đại Sĩ, đích thân viết Tâm Kinh lên trên, tặng cho người khác thờ phụng chẳng thể tính được số. Con [trưởng] là Hành đậu Bảng Nhăn, cháu là Thời Mẫn tin thờ Phật pháp, phát chẩn cho dân đói. Có người nằm mộng thấy sáu thạch đậu, một vị Tăng bảo: “Đây là để ghi số những việc thiện do Thời Mẫn đă tích tập vậy”. Con trai là Quỹ thi đậu, con trai [thứ] là Viêm, cháu là Nguyên và Kỳ đều đậu Tiến Sĩ.

Theo Ngọc Lịch Truyền Sao, thái phu nhân của ông Từ Văn Kính hằng ngày niệm thánh hiệu Đại Sĩ một ngàn câu, thích nói chuyện nhân quả, khắc Ngọc Lịch Truyền Sao để khuyên người làm lành. Văn Kính cũng khắc Kính Tín Lục, giúp đỡ trọn khắp thân tộc, nhưng không cậy ḿnh có đức. Con ông là Bổn, làm quan đến Đại Học Sĩ[38], [một người con khác là] Kỷ làm quan Tuần Vũ, cháu là Dĩ Huyễn làm quan Thị Lang[39], Cảnh Đào làm quan Đạo Doăn[40]. Lũ cháu chắt đều liên tiếp đỗ đạt.

      (3) Trong câu trên, đối với chuyện bị chết v́ bệnh dịch rồi sống lại của Viên Thị vợ ông Trương Khánh vào đời Tống xin coi lại lời chú thích thứ tám trong đoạn thứ hai của phần lành bệnh. Đại Sĩ bảo: “Chồng ngươi nhiều âm đức, con cháu ắt sẽ hưng vượng”. Về sau, sanh con là Tử Hanh. Hanh có sáu con trai đều làm quan vinh hiển.

Theo Tấn Thư, sáu anh em Biện Khổn đều lần lượt làm quan tới bậc Tể Phụ, người đời gọi là “Biện Thị Lục Long” (sáu con rồng nhà họ Biện).

Theo Khuyến Giới Loại Sao, họ Phùng ở Đồng Hương đời đời tích đức. Phùng Cẩm làm quan ở Sơn Hữu, không có con, vợ tŕ chú Đại Bi hết sức kiền thành. Vợ người hàng xóm mộng thấy một bà lăo bế hai đứa bé một gầy một béo đến, đỡ lấy đứa béo th́ nó rớt xuống đất chết, lại đỡ lấy đứa gầy th́ bà lăo bảo: “Đứa này sẽ trao cho nhà họ Phùng”. Vợ người hàng xóm sanh con không nuôi được; c̣n Phùng phu nhân sanh ra Hạo, thuở bé gầy c̣m, yếu đuối. Đến lớn, Hạo dần dần trở thành khôi ngô, cao lớn, từ chức quan Hàn Lâm chuyển lên Ngự Sử, không chuyện tốt lành nào chẳng tận lực thực hiện. Nay đă bảy mươi lăm tuổi, hai vợ chồng hạnh phúc, khỏe mạnh, có ba con trai đều đỗ đạt làm quan.

Theo Hán Thư, Dương Bộc đeo ba quả ấn để khoe khoang với xóm làng[41].

      (4) Theo Hiện Báo Tùy Lục, vào đời Minh, cha của Hoàng Uẩn Sanh ở Gia Định, do hiếm hoi bèn tụng Bạch Y Kinh, tận lực làm lành, mộng thấy Đại Sĩ bế một đứa bé trao cho, bảo: “Nghĩ ngươi siêng khổ, tụng kinh, làm lành, ta t́m được một tú tài tuyệt hảo trao cho ngươi”, liền sanh ra Uẩn Sanh. Uẩn Sanh tài văn chương lừng lẫy trong nước, đậu Tiến Sĩ thời Sùng Trinh. Do thời thế biến loạn, cùng với em là Vĩ Cung thắt cổ nơi điện Phật ngoài Bắc Môn.

Theo Thiên Hậu Chí, Thiên Phi là con gái họ Lâm ở Bồ Điền. Cha là người một niềm chân thành, làm quan Đô Tuần[42] đời Tống, làm lành, thích bố thí, lễ Đại Sĩ cầu con trai. Về sau, mẹ mộng thấy Đại Sĩ bảo: “Nhà bà nhiều đời gắng công làm lành, Thượng Đế ban thưởng”, lấy ra hoàn thuốc bảo: “Uống thuốc này sẽ được ban tặng đứa con từ bi, thích cứu giúp”. Mẹ liền mang thai. Lúc sanh ra, ánh sáng có màu sắc như ráng trời chiếu vào nhà, chói ḷa chóa mắt, mùi hương lạ ngào ngạt, suốt cả tháng không khóc nên đặt tên là Mặc. Từ mười tuổi trở đi, tụng kinh, lễ Phật không lười nhác chút nào. Về sau nh́n xuống giếng t́m được bùa, bèn linh thông biến hóa, cưỡi mây vượt biển cả. Mọi người gọi là Thông Hiền Linh Nữ. Năm Ung Hy thứ 4 (987) đời Tống, nhằm tiết Trùng Cửu, cô bay lên trời giữa ban ngày.       (5) Theo Tiên Tâm Lục, vào đời Minh, ông nội của Trầm Kiến Tuyền đi chơi, qua ngôi chùa đổ nát, thấy tượng Quán Âm đầu đội nón cật tre, than thở: “Bồ Tát từ bi, ban cho con người trí huệ, tôi nguyện trùng tu chùa này, cầu cho con cháu có đứa đọc sách”. Không lâu sau, điện đường, pháp tướng, sáng ngời như mới xây. Cháu nội là Nghiêu Trung, chắt là Mộng Đẩu kế tiếp nhau đỗ đạt.

Theo Bạch Y Đồ, Triệu Thế Trân ở Tiền Đường vợ là Châu Thị, không con, đến điện Bạch Y cầu khẩn, tụng chú, in tặng, và thật tâm làm lành. Về sau, sanh được hai trai, đứa lớn đỗ Tiến Sĩ. Bà vợ sống đến chín mươi tám tuổi, chính mắt thấy năm đời sống cùng nhà (ngũ đại đồng đường).

      (6) Theo Hy Triều Tân Ngữ, Cấp Sự Trung Tôn Nhương không có người nối dơi, ngẫu nhiên thấy một vị Tăng đốt ngón tay, nói: “Nguyện có được một cái am tranh thờ tượng Đại Sĩ để ngồi bên cạnh tụng kinh, khỏi phải khổ sở khất thực”. Ông nói: “Tôi sẽ v́ Sư thỏa nguyện này”. Ông dựng am tranh, Sư sống ở đó ba năm. [Một hôm] chợt thấy vị Tăng rảo bước vào buồng trong, liền chạy theo hỏi th́ vợ đă sanh một trai. C̣n đang kinh ngạc th́ từ am báo tin vị Tăng ấy đă viên tịch, nh́n vào tay con th́ vết đốt vẫn c̣n rành rành, bèn đặt tên là Trác, [về sau] đậu Bảng Nhăn.

Theo Thanh Long Yển Nguyệt Đao, Minh Thiện đời Nguyên không có con, thờ Đại Sĩ nghiêm cẩn, sanh con liên tiếp. Ông rước nhũ mẫu đến chăm nom. Có Bạch Thị là người xinh đẹp, ve văn ông Thiện. Ông cự tuyệt, đuổi đi. Về sau, các con trưởng thành đều đông con, trở thành ḍng họ lớn.

      (7) Theo Biện Chánh Luận, vào đời Tấn, Vương Mân không con, vợ khẩn cầu Quán Âm cầu có người nối dơi. Về sau, ông Mân đi đường gặp một vị Tăng người Tây Vực, rất vui vẻ. Vị Tăng nói: “Ta chết sẽ làm con ông”. Không lâu sau, vị Tăng ấy mất, vợ ông Mân có thai. Sanh ra, con đă biết nói, thông hiểu Phạn âm của mười sáu nước tại Tây Vực, thuật những chuyện trong đời trước rành rẽ chánh xác. Đấy chính Thượng Thư Vương Hồng Minh đời Tấn vậy.

Trong đời Thanh, Trương Quư Trực đă bốn mươi mà chưa có con, phu nhân họ Từ cầu khẩn nơi Quán Âm Nham tại Lang Sơn. Một năm sau, bà sanh con trai. Đêm hôm trước [ngày sanh con], bà Từ mộng thấy một bà cụ ẵm đứa bé trao cho, bảo: “Đă xin th́ ta cho ngươi vui ḷng”. Quư Trực chép kinh Quán Âm tặng cho chùa, lại tạo tượng trên đỉnh núi, dựng đ́nh bằng sắt để che, lại c̣n cho khắc bia để ghi lại chuyện này nhằm nêu rơ ḷng Từ của Phật.

      (8) Theo Nam Hải Từ Hàng, Tô Tấn ở Chiết Giang do mẹ bị bệnh, kiền thành tụng Cao Vương Kinh, ăn chay ba năm. Mộng thấy thần bảo: “Ngươi thật là hiếu tử! Ta vâng lệnh Thượng Đế, tăng thọ cho mẹ ngươi một kỷ. Nhưng tổ đức của ngươi mỏng mảnh, lẽ ra không con. Hiện thời tuy sanh được ba đứa con, nhưng chúng đều chẳng thọ. Hăy nên thí một tạng Quán Âm Kinh. Hăy gấp cưới vợ cho đứa con cả, ta sẽ thỉnh cho ngươi một đứa cháu hiền”. Tỉnh giấc, bèn cưới vợ [cho con], năm sau ẵm cháu, các con đều chẳng thọ.

Lại có một nhà giàu nọ ở Sơn Hữu, đă già mà chỉ có một con, một dâu. Dâu chết, con bệnh lao, cha cưới vợ lẽ cho con. Mẹ kinh hăi bảo: “Chẳng phải là ông làm cho nó chóng chết ư?” Ông bảo: “Ta thường cầu có người nối dơi ở chùa Linh Ẩn, mộng thấy Đại Sĩ dạy: ‘Mạng ngươi không có người nối dơi, nhưng v́ đă tặng tiền giúp phát chẩn cứu sống cả ngàn người, nên ban cho ngươi một đứa cháu. V́ thế, phải cưới vợ lẽ cho con gấp”. Chưa đầy ba tháng sau, đứa con chết, người thiếp đă có mang, sanh ra con trai, nối ḍng hương hỏa.

Theo Cảm Ứng Thiên Tăng Chú, vào đời Minh, Nghiêm Đạo Triệt tuổi đă ba mươi nhưng chưa có con, cưới thêm hai người thiếp đều chất phác, thô lậu, vẫn không sanh được con. Về sau, sang nhà họ hàng, thấy một đứa tớ gái bị câm, bèn cưới làm thiếp. Cha là Văn Tĩnh Công bảo: “Con làm chuyện hợp đạo trời, ắt sẽ có người nối dơi”. Ông Triệt trước đó đă tụng chú Bạch Y, giữ vững giới không sát sanh. Về sau, ba người thiếp đều sanh con, có điềm lạ là bọc thai kép. Cháu chắt đông đúc, nối nhau dạo bước thanh vân.

      (9) Theo Tây Quy Trực Chỉ, đời Tống, Lă Mông Chánh thụy hiệu Văn Chánh, mỗi sáng thức dậy, khi lễ Phật, ắt nguyện rằng: “Kẻ chẳng tin Phật đừng sanh vào nhà tôi. Nguyện con cháu tôi là những kẻ ăn lộc trời, ắt sẽ hộ tŕ Tam Bảo”. Sau này, cháu là Di Giản và con của Giản là Công Trước cả hai đều làm Tướng Quốc[43]. [Hậu duệ là] quan Tả Thừa Lă Hảo Vấn và con ông Vấn là Dụng Trung đều tin Phật.

Theo Nam Hải Từ Hàng, vào đời Thanh, Tra Bang Việt ở Vụ Nguyên không con, cháu ông ta khuyên hăy tụng Quán Âm Kinh, lại c̣n dốc sức in tặng sẽ được ứng nghiệm. Trong năm Tân Dậu (1681) đời Khang Hy, vợ chồng bèn cùng tụng, sanh được hai trai, nhưng không nuôi được. Tự hối chưa in tặng, phát nguyện tặng ba ngàn quyển. Sanh con trai đặt tên là Phật Tứ, bèn in kinh đúng như lời nguyện, con được trưởng thành.

Theo Tŕ Nghiệm Kư, trong thời Tuyên Đức nhà Minh, Trương Quư không người nối dơi, phát tâm thí Bạch Y Kinh để cầu con. Sanh được con nhưng không hoàn nguyện in kinh, con chết yểu năm mười hai tuổi. Đau xót, sám hối, kiền thành cầu đảo, thí kinh năm ngàn quyển. Về sau, sanh con b́nh yên.

Theo Cao Vương Ứng Nghiệm, trong thời Khang Hy nhà Thanh, Dư Chấn Trạc ở Vụ Nguyên không có con, thệ nguyện in tặng Cao Vương Kinh, mồng Một, ngày Rằm tŕ tụng. Sanh con rồi cũng không hoàn nguyện, con chết yểu, bèn in tặng bốn trăm quyển, lại sanh con trai.

Theo Bạch Y Cận Nghiệm, vào thời Gia Khánh nhà Thanh, con ông Dương A Trần lắm bệnh, ông nhớ lại lúc chưa sanh được con, đă thầm hứa khắc kinh bốn trăm quyển mà chưa hoàn nguyện bèn sám hối trước tượng Đại Sĩ. Ngay hôm ấy khắc ván để thí tặng, bệnh con liền khỏi ngay.

 

      Ghi thêm: Theo Minh Tường Kư, vào đời Tống, Biện Duyệt Chi không có con, phát nguyện tụng Quán Âm Kinh một ngàn biến, gần đủ số, người thiếp có thai sanh con trai.

Theo Bạch Y Kinh Kỷ Nghiệm, vào đời Nguyên, Lưu Ngọc ở Nam Kinh không người nối dơi, tụng Bạch Y Kinh suốt hai năm. Mẹ vợ ông là bà Lưu mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ đội măo vàng, dẫn một đứa trẻ, bảo: “Đưa Thánh Nô đến”. Ngày hôm sau, [vợ ông Lưu] liền sanh con trai, do có điềm lạ là bọc thai trắng, bèn đặt tên là Thánh Nô, thí kinh năm trăm quyển.

Theo Linh Ứng Kư, mẹ ông Ngô ở Gia Hưng bệnh tật không con, tụng chú Bạch Y không thiếu sót, in tặng không tính xuể, khỏi bệnh, sanh con trai làm quan tới chức Thiếu Tư Nông[44].

Vợ ông Hoa Đôn Tam suốt mười chín năm chẳng sanh nở, cầu đảo Đại Sĩ sụt sùi, nức nở. Mộng thấy Đại Sĩ ẵm một trai, một gái đến, bảo: “Thương ngươi kiền thành nên trao cho ngươi”. Năm sau sanh trai, năm sau nữa sanh gái. Sau đấy, không c̣n sanh nở nữa.

Theo Cảm Ứng Kư, Tiến Sĩ Tiền Phước ở Thuận Thiên không có con, được một vị lăo tăng truyền cho Cao Vương Kinh. Vợ chồng tŕ tụng, khắc thí một tạng, sanh ba con trai, đều vào học trường huyện.

Từ Cửu Đức ở Cừu Châu tạo tượng Đại Sĩ, lễ bái cầu con, tặng một ngàn quyển kinh, sanh con trai.

Đinh Thái ở Hàng Châu, năm mươi tuổi vẫn không con, nghe nói Cao Vương Kinh hễ cầu ắt ứng, liền ngày đêm tŕ tụng, sanh con trai, mười sáu tuổi thi đỗ.

Vương Tấn ở Như Cao đă ngoài năm mươi, vợ cũng ngoài bốn mươi lại lắm bệnh, cầu đảo Đại Sĩ, tụng kinh cầu con. Rốt cuộc vợ sanh con trai, càng thêm tin thờ, lưu truyền rộng răi, lại sanh con trai.

Trong niên hiệu Hồng Vũ đời Minh, Bành Nguyên Chấn ở Quảng Đông hứa in Cao Vương Kinh năm trăm quyển, sanh con trai.

Phương Thị ở Thang Môn, dâu có thai nhiều lần nhưng bị sảy thai, bèn nguyện tụng Quán Âm Kinh một tạng, in tặng hai trăm quyển, về sau sanh được cháu, đặt tên là Âm Bảo.

Vào đời Thanh, Dư Úc Văn ở Bà Dương không con, thí kinh một ngàn quyển, mộng thấy Đại Sĩ tặng con. Thiếp là Lưu Thị cũng mộng thấy Đại Sĩ ẵm đứa bé đến trước giường, liền sanh con trai, đặt tên là Kinh Bảo.

Vào đời Thanh, Trần Thiên Ngự vợ bị tiểu sản (sảy thai), vợ chồng chí thành tŕ tụng kinh chú Quán Âm, lại in tặng rộng răi. Năm sau, mang thai yên ổn, sanh được con.

Du Cửu Vân ở Phong Thành nhiều lượt con bị chết. Do vậy, đắp tượng Phật, sửa chữa cầu đường, thắp đèn ban đêm, thí nước trà, hết thảy việc lợi lạc đều vui vẻ thực hiện, lại tụng Quán Âm Kinh, bèn sanh được con. Đến năm ông Du sáu mươi tuổi, con thành tài.

Trần Triều Đống ở Đồng Thành hiếm muộn, kiền thành tụng Bạch Y Kinh, nhiều lần mộng thấy Đại Sĩ, liền sanh hai trai.

Vào đời Thanh, Lư Chi Phú ở Bảo Để trong niên hiệu Càn Long khắc ba trăm quyển kinh, sanh được con đặt tên là Phật Khánh.

Kim Lợi ở Phong Thành đă năm mươi tuổi mà chưa có con, tụng kinh năm ngàn biến, sanh con có điềm ứng nghiệm là bọc thai màu trắng.

Lưu Thế Long ở Kinh Đông không con, tŕ kinh một vạn hai ngàn biến, sanh được con.

Tô Mỹ Đoan không có con, tụng kinh, lễ bái, sanh hai trai liên tiếp.

Tra Dịch Nam ở Hải Ninh lập nguyện tụng kinh, sanh được con đặt tên là Phật Hựu.

Ngô Thiệu Thành ở Dương Giang tŕ Tâm Kinh, sanh được con.

Chương Cảnh Dương ở Tŕ Dương thấy bạn là Thang Kính Trọng tŕ kinh được ứng nghiệm bèn kiền thành tụng cũng sanh con, đến lớn, con đỗ khoa thi Hương.

Cư sĩ Tế Xuyên ở Nhiêu Châu không có con, khắc kinh thí tặng bèn sanh con.

Vương Triệu Thị ở Giang Lăng mấy lượt gặp cảnh con chết yểu, trong niên hiệu Thiệu Hưng, có được kinh bèn tŕ tụng. Năm sau, sanh được con.

Tín sĩ là Từ Thụ Bách ở Tam Nham, vợ mang thai, bệnh nặng gần như không trị được. Ở trong nhà kiền thành tụng Quán Âm Kinh một ngàn quyển, và in kinh thí tặng, mua loài vật phóng sanh. Về sau, sanh được một trai, mẹ con vô sự, bệnh khỏi hẳn.

Theo Tŕ Nghiệm Kư, Lương Nguyên Chinh ở Hoài An không con, lắm bệnh. Do vậy, phát tâm ăn chay trường, hằng ngày tụng chú Đại Bi, Bạch Y Kinh. Vợ cũng tŕ Chuẩn Đề Trai[45], sáng sớm quỳ tụng kinh. Không lâu sau, ông Chinh khỏi hẳn bệnh, vợ sanh được ba con. Đứa con thứ hai đỗ khoa thi Hương.

Theo Linh Nghiệm Kư, Từ Hy Tải ở Lạc B́nh con chết yểu, hết sức đau đớn. Có vị Tăng tặng thánh tượng Đại Sĩ, khuyên khắc ván in Quán Âm Kinh để biếu tặng [người khác], liền sanh được hai trai.

Hoàng Khuếch Sanh ở Quảng Châu nhà giàu nhưng không con, thọ Ngũ Giới, thôi ăn mặn, thờ Đại Sĩ. Sáng tối kiền thành lễ một trăm lạy, xưng danh không bỏ sót [một ngày nào]. Về sau, vợ và thiếp mỗi người đều sanh một trai, rất thông minh.

Từ Cẩn ở Huy Châu không con, tụng Bạch Y Chú để cầu con. Mộng thấy thần bảo: “Tụng thêm một tạng Cao Vương Kinh sẽ có người nối dơi”. Ông Cẩn theo đúng lời ấy, liền sanh con trai. Lại mộng thấy thần dạy: “Hăy rộng hành phương tiện, thí kinh một tạng th́ con sẽ sang cả”. Ông Cẩn vâng lời, quả nhiên con đỗ đạt.

     

      1. Phàm tránh dữ hướng lành, Châu Dịch nhiều lần đă nhắc, nhưng ban phước, tiêu tai, chính là Bồ Tát hạnh nguyện.

      2. Núi đồng lở, chuông Lạc ngân, Phật tức là tâm. Âm đức hiện, dương báo tới, Lư thành tựu Sự.

      3. Cát Tường thiên nữ khiến cho kẻ niệm toại ḷng, Kiên Lao địa thần cũng khiến hữu t́nh an ổn.

      4. Huống chi Đại Sĩ được chư thiên phụng hành, vạn thần đứng hộ vệ ư? Sở cầu như ư, chớ nên nghi ngờ (Từ đây trở đi là tổng kết chuyện cứu khổ và ban vui, gồm hai đoạn)

 

      (2) Theo Hán Thư, cái chuông trước điện Vị Ương vô duyên cớ tự kêu lên, vua vời Đông Phương Sóc[46] vào hỏi. Sóc thưa: “Đồng là con của núi, núi là mẹ của đồng; sợ rằng sẽ có núi lở”. Ba ngày sau, Nam Quận tâu lên bị núi lở. Phần Càn Truyện (giảng giải quẻ Càn) trong kinh Dịch ghi: “Núi đồng lở, chuông Lạc ngân”.

Quán Kinh: “Tâm này là Phật”. Ngụy Văn Đế hỏi: “Báo là như thế nào?” Ông Quỳ tâu: “Kẻ có âm đức ắt có dương báo”. Trong sách Hoa Nghiêm Pháp Giới Huyền Kính có nói tới Y Lư Thành Sự môn và Chân Lư Tức Sự môn.

      (3) Theo phẩm Đại Cát Tường Thiên Nữ[47] của kinh Kim Quang Minh th́ [Cát Tường thiên nữ có phát nguyện] tùy theo ḷng mong muốn, người niệm [chú Thiện Thiên Nữ] đều được toại nguyện.

Trong phẩm Kiên Lao Địa Thần[48] [của kinh ấy] cũng có nói: “Nếu các hữu t́nh thọ dụng các món ăn uống thù thắng như thế xong, sẽ tăng trưởng thọ mạng, sắc lực, các căn an ổn”.

      (4) Cổ đức nói: “Nhà Nho tôn thờ trời, hành theo, c̣n Phật th́ được chư thiên tôn thờ, làm theo”.

Nguyệt Quang Đồng Tử Kinh: “Phật tọa đạo tràng, vạn thần thị vệ” (Phật ngồi nơi đạo tràng, muôn thần chầu hầu, hộ vệ).

 

      1. Chỉ là y rách, dọn phân, trừ nỗi sợ cho đứa con nghèo, lá vàng, cành dương, dỗ dành con thơ thôi khóc mếu.

      2. Bởi lẽ Thế Đế phù hoa, khó nhập đạo lưu huệ nhăn.

      3. Ấy là v́: Bóng câu qua cửa sổ, mong giàu sang biết đến thuở nào? Đụn đất vàng chôn măi, vợ con an hưởng măi hay chăng?

      4. Huống chi: Béo, nồng, gịn, ngọt, đáng xưng là “thuốc mục ruột”. Răng trắng, mày ngài, đáng gọi là “búa đoạn mạng”.

      5. Làm trâu ngựa cho con, cho cháu, bị người xỏ mũi lôi đi. Bệnh mê tiền đă lậm tâm can, tâm làm tớ cho thân sai sử.

      6. Đă bị các oán xúm vây, c̣n gây chướng ngại nhập đạo.

      7. Gần chết vẫn chẳng ngộ, thật cảm thấy đáng thương.

      8. Chẳng biết: Lo được, lo mất, kẻ mong sang quư cảm nhận khổ năo nhiều phen. Phụ ta, phụ người, kẻ lắm con trai vốn bởi nghiệp chướng nặng nề.

      9. V́ thế, Thích Ca tu đạo, bỏ nước, ĺa ngôi. Đại Sĩ cứu người, bán con, bán vợ.

      10. Chính là nhằm đoạn tuyệt ái căn, bèn nhập Dự Đạo phẩm.

      11. Đối với thân th́ tứ đại giả hợp, cứng chắc chỗ nào? Chín lỗ thường tuôn, càng tăng hôi bẩn!

      12. Dẫu cho trăm năm tuổi thọ, rốt cuộc như tằm trong kén, tuy nói tiên sống ngàn năm, nhưng vẫn là quỷ giữ thây.

      13. Ở tù măi trong thai ngục, kẹt vĩnh viễn trong núi h́nh.

      14. Là nơi cất giữ đại hoạn, người trí há lại ưa sao?

      15. V́ thế, đất Hoa dâng câu chúc tam đa, vua Nghiêu nêu lời tạ tuyệt. Trong Ngũ Phước có chết an lành, Cơ Tử cảm niệm vô thường.

      16. Phàm đang si mê, hăy gấp nên mạnh mẽ tỉnh thức.

      17. Té giếng mật ngọt, thôi đừng như Kiệt Trụ chóng quên! Bỏ vàng gánh gai, chớ cười Bà La Môn u tối!

      18. Huống hồ chẳng tu Tịnh Độ, sao được trường sanh? Chưa đọc Hoa Nghiêm, há biết phú quư? Đây chính là phần nối tiếp đoạn văn nói về sự cứu khổ ban vui, thuật bày sự hoằng pháp độ sanh. (Đây là do bi nguyện của Đại Sĩ thật sự muốn cho hết thảy chúng sanh không ai chẳng thành Phật. Về sự cứu khổ th́ không ǵ chẳng như ngài Vĩnh Gia đă nguyện: Không khổ v́ bệnh, không khổ v́ nghèo, không bị tai nạn, không bị ma năo, mong được thân cận minh sư, tu Phạm hạnh, chuyên tâm Định Huệ, hồi hướng Bồ Đề mà thôi! Về sự ban vui th́ không ǵ chẳng nhằm dùng dục để lôi kéo, khiến cho [chúng sanh] đều nhập Phật trí mà thôi! Nếu chẳng chuyên lấy những điều này làm mục đích, tức là đă phụ bạc bổn hoài vào trong cơi trược [độ sanh] của Đại Sĩ vậy. Do vậy, xóa sạch từng điểm [tham chấp, si mê] ḥng làm cho chúng sanh khởi ḷng hướng về đạo pháp)

 

      (1) Pháp Hoa Kinh: “Ư thời cùng tử, tự niệm vô tội, nhi bị tù chấp, chuyển cánh hoàng bố, muộn tuyệt tịch địa. Hựu trưởng giả tương dục dụ dẫn kỳ tử, nhi thiết phương tiện, cánh trước thô tệ cấu nhị chi y, chấp tŕ trừ phấn chi khí” (Khi ấy đứa con nghèo cùng, tự nghĩ ta vô tội mà nay bị bắt giữ, càng thêm hoảng sợ, ngất xỉu té lăn ra đất. Trưởng giả lại muốn dẫn dụ con ḿnh bèn lập phương tiện, mặc áo thô xấu, bẩn thỉu, tay cầm dụng cụ dọn phân).

Niết Bàn Kinh: “Như anh nhi đế thời, phụ mẫu dĩ dương chi hoàng diệp dữ chi, viết dữ nhữ kim. Anh nhi tác chân kim tưởng, tiện chỉ bất đế” (Như lúc trẻ thơ khóc lóc, cha mẹ dùng lá vàng của cành dương đem cho, bảo: ‘Cho con vàng’. Trẻ thơ ngỡ là vàng thật, liền không khóc nữa).

      (2) Hoa Nghiêm Kinh: “Tu chư thiện nghiệp, nhi bất nguyện cầu thế gian quả báo” (Tu các thiện nghiệp, nhưng chẳng nguyện cầu quả báo thế gian). [Theo kinh Hoa Nghiêm] cái trống trời lại vang ra tiếng nói: “Nhất thiết ngũ dục tất vô thường, như thủy tụ mạt tánh hư ngụy, thế gian sở hữu chúng khổ bổn, nhất thiết thánh nhân giai yếm hoạn. Ngũ dục công đức diệt hoại tánh. Nhữ ưng ái nhạo chân thật pháp” (Hết thảy ngũ dục thảy vô thường, như bọt nước đọng tánh hư ngụy. Tất cả gốc khổ trong thế gian, hết thảy thánh nhân đều chán nhàm. Ngũ dục công đức tánh diệt hoại. Hăy nên vui thích pháp chân thật).

      (3) Theo Sử Kư, Lă Hậu ép Đức Lưu Hầu[49] ăn, bảo: “Đời người trong thế gian như bóng bạch câu[50] vút qua khe hẹp, sao lại khổ đến như thế”.

Đời Hán, Dương Uẩn viết: “Đời người nên hưởng lạc, chứ đợi đến phú quư th́ đến bao giờ”.

Trong bài Khuyến Thế Ca (bài ca khuyên đời) của ông Châu An Sĩ có đoạn: “Bao nhiêu vị trượng phu oanh liệt trong thế gian, đa số thường khổ sở v́ vợ con; rốt cuộc vợ con có ích ǵ? Trong nẻo đường sanh tử chia ĺa, chẳng thể đi cùng nhau được!”

      (4) Trong lời bạt thứ bảy của Mai Thừa có câu: “Răng trắng, mày ngài, mệnh danh là búa chém tánh mạng; ngọt, gịn, béo, nồng, mệnh danh là thuốc làm mục ruột”.

      (5) Trong bài Khuyến Cùng Dân Văn (bài văn khuyên dân nghèo) của Tŕnh Loan có câu: “Người đời nay coi thân và nhà quá thật, coi quyến thuộc quá nặng. Dẫu là người hiền, trí, coi nhẹ công danh, cam phận nghèo hèn, nhưng đối với con cái th́ chắc chắn chẳng thể buông bỏ được, cam tâm chịu khổ làm trâu ngựa”.

Lại nữa, trong bài Pháp Tín Kệ của Phùng phu nhân có đoạn: “Tùy duyên nhậm nghiệp kỷ đa niên, uổng tác canh ngưu thái khả liên, đả điệp thân tâm tảo thoát khứ, miễn tương tỵ khổng bị nhân khiên” (Tùy duyên, kệ nghiệp bấy nhiêu năm, thương quá trâu cày uổng nhọc nhằn, vật vă thân tâm mau sớm thoát, xỏ mũi người lôi mới thoát ṿng).

Theo Tấn Thư, Ḥa Kiều giàu có như bậc vương giả nhưng rất keo kiệt, bị người ta chê là mắc bệnh “nghiện tiền”. Lại nữa, Vương Nhung ruộng, vườn, cối xay chạy bằng sức nước trọn khắp thiên hạ, nhưng bo bo keo kiệt, đối với chính ḿnh cũng chẳng dám dùng, người ta bảo “bệnh đă lậm đến Cao Hoang”.

Trong bài Quy Khứ Lai Từ của Đào Uyên Minh có câu: “Kư tự dĩ tâm vi h́nh dịch” (Đă tự để cho cái tâm bị sai khiến bởi h́nh hài).

      (6) Sơ Quảng đời Hán nói: “Kẻ giàu bị mọi người oán”. Phẩm Thập Hạnh kinh Hoa Nghiêm có câu: “Thử ngũ dục giả, thị chướng đạo pháp” (Năm món dục này gây chướng ngại cho đạo pháp).

      (8) Luận Ngữ: “Kỳ vị đắc chi dă, hoạn đắc chi. Kư đắc chi, hoạn thất chi” (Kẻ chưa có bèn lo sao cho có, kẻ đă có, lại lo mất đi). Lời này rất đúng cho lúc thái b́nh. Nếu nhằm thời loạn, v́ chính ḿnh mà tranh thành giành đất, giết người ngập thành đầy đồng, tạo sát nghiệp trong lúc c̣n sống, chết đi phải thường mạng; kẻ ngu thật sự chẳng nghĩ đến!

Thập Nhị Nhân Duyên Kinh: “Tử dĩ tam nhân duyên sanh, nhất giả phụ mẫu tiên thế phụ tử tiền, nhị giả tử tiên thế phụ phụ mẫu tiền, tam giả oán gia lai tác tử” (Con do có ba nhân duyên mà sanh, một là cha mẹ đời trước thiếu tiền con, hai là con trong đời trước thiếu tiền cha mẹ, ba là oán gia sanh vào làm con).

      (9) Thích Ca Mâu Ni Phật là Thái Tử của vua Tịnh Phạn (Śuddhodana) nước Ca Duy La Vệ (Kapilavastu), năm mười chín tuổi vào núi tu đạo.

Vô Lượng Thọ Kinh: “Khí quốc quyên vương, tuyệt khử tài sắc” (Bỏ nước, vứt ngôi vua, trừ sạch tài sắc).

Theo Phó Đại Sĩ Ngữ Lục, trong niên hiệu Đại Thông đời Lương, bị đói kém, Đại Sĩ khuyên dụ vợ con bán thân để lấy tiền mở đại hội [phát chẩn], phát nguyện: “Kính lạy mười phương ba đời chư Phật, nay con buông xả, bán vợ con để tiêu tai nhóm phước cho khắp các chúng sanh trong tam giới cùng chứng Bồ Đề”

      (11) Niết Bàn Kinh: “Thị thân bất kiên, do như lô vĩ, ba tiêu chi thụ” (Thân này không cứng chắc, giống như cỏ lau, như thân cây chuối).

Di Giáo Kinh: “Thế thực nguy thúy, vô kiên lao giả” (Cơi đời thật nguy ngập, mỏng manh, không bền chắc).

Niết Bàn Kinh: “Thị thân bất tịnh, cửu khổng thường lưu” (Thân này không sạch, chín lỗ thường tuôn chảy).

Kinh c̣n dạy: “Ninh dĩ ngưu tích thịnh đại hải thủy, bất năng cụ thuyết thị thân vô thường bất tịnh xú uế” (Dẫu cho vết chân trâu chứa được nước trong biển cả th́ cũng chẳng thể nói trọn sự vô thường, bất tịnh, hôi nhơ của cái thân này).

      (12) Niết Bàn Kinh: “Phiền năo sở thường lư, do như tàm xử kiển” (Thường ở trong phiền năo như tằm nằm trong kén).

Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên, Lă Động Tân đi chơi Lô Sơn, trên đường đi ngang qua núi Hoàng Long, gặp lúc Hối Cơ thiền sư[51] thượng đường, ông Lă hỏi: “Trong một hạt lúa chứa cả thế giới, trong cái nồi nửa thưng nấu trọn núi sông, hăy nói ư ấy là như thế nào?” Ngài Hoàng Long dạy: “Đấy là con quỷ giữ thây”. Họ Lă nói: “Cớ sao trong đảy có thuốc bất tử ư?” Ngài Hoàng Long bảo: “Dẫu sống lâu tám vạn kiếp, rốt cuộc vẫn rỗng tuếch”. Ông Lă lại lạy, xin Sư hăy dạy cho đường lối để nương về, Sư thốt lời, ông Lă bèn khế cơ.

Lại nữa, ngài Hàn Sơn có thơ như sau: “Nhiêu nhữ tác tiên nhân, kháp tự thủ thi quỷ” (Dẫu cho ông được thành tiên, hệt như con quỷ giữ thây khác ǵ).

      (13) Trong lời tựa đằng sau sách Thập Nghi Luận có câu: “Thai ngục uế trược, há nên thật sự ở?” Trong Triệu Luận có câu: “Có một vật báu ẩn trong núi h́nh”.

      (14) Đạo Đức Kinh: “Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân” (Sở dĩ ta có mối lo lớn là v́ ta có thân).

Niết Bàn Kinh: “Hà hữu trí huệ giả, nhi đương nhạo thị xứ?” (Há kẻ có trí huệ nào sẽ ưa thích chốn này?)

Di Giáo Kinh lại dạy: “Hà hữu trí giả, đắc trừ diệt chi, như sát oán tặc, nhi bất hoan hỷ” (Có kẻ trí nào đă trừ diệt [phiền năo] như giết oán tặc mà chẳng hoan hỷ?)

      (15) Theo Trang Tử, vua Nghiêu đến thăm đất Hoa, người được phong ở đất Hoa chúc tụng: “Mong thánh nhân sống thọ”. Vua Nghiêu từ tạ. [Người đất Hoa chúc tiếp]: “Mong cho thánh nhân giàu”, vua Nghiêu lại từ chối, [họ bèn chúc]: “Mong cho thánh nhân nhiều con trai”. Vua Nghiêu lại từ chối. Người được phong [ở đất Hoa] nói: “Giàu, thọ, đông con trai là những điều người ta mong muốn, sao riêng Ngài chẳng ham, là v́ sao vậy?” Vua Nghiêu đáp: “Lắm con trai bèn lắm sợ hăi. Giàu th́ lắm việc. Thọ bèn lắm nhục. Do ba điều ấy đều chẳng phải để dưỡng đức vậy”.

Kinh Thư chép: “Cơ Tử giảng Hồng Phạm, phước thứ năm là chết an lành”.

      (17) Sách Chú Giải Kinh Duy Ma có viết: “Xưa kia có người mắc tội với vua, vua sai voi say đuổi theo. Người ấy tự nhảy xuống cái giếng cạn, giữa chừng nắm được một búi cỏ mục. Phía dưới có rồng ác phun hơi độc nhắm tới. Phía trên có một cái cây, bên cạnh lại có năm con rắn độc sắp làm hại. Lại có hai con chuột gặm cỏ sắp đứt. Voi lớn sắp đuổi tới phía trên, lại muốn bắt lấy. Phía trên có một cái cây, khi ấy có nước mật rơi vào họng. Do chấp vào vị ngon nên [kẻ ấy] quên nỗi sợ hăi. Giếng ví như sanh tử. Voi ví như vô thường. Rồng độc ví như ác đạo. Năm con rắn độc ví cho Ngũ Ấm. Cỏ mục ví như mạng căn. Chuột ví như năm tháng. Giọt mật ví như ngũ dục”.

Theo sách Khổng Tử Gia Ngữ, Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử: “Quả nhân nghe nói có người rất hay quên, đến nỗi quên cả vợ ḿnh?” Khổng Tử đáp: “Kiệt, Trụ quên cả thân”. Nếu dùng đạo nhăn để nh́n th́ người đời nay đều quên cả thân!

Theo Tế Túc Kinh, có Bà La Môn tên là Tế Túc, bảo với người khác không có đời sau, cũng chẳng có tái sanh, cũng chẳng có thiện báo, ác báo. Đồng nữ Ca Diếp bèn bảo Tế Túc: “Xưa kia có hai người một trí, một ngu, đến một xóm vắng, thấy trên đất có gai bèn lấy đem đi, mỗi người một gánh. Đi tới trước thấy sợi gai, người trí bèn bỏ gai gánh sợi. Kẻ ngu nói: ‘Ta đă lấy gai, chẳng thể bỏ được’. Lại đi tới trước thấy vải, thấy sợi Kiếp Bối[52], thấy bạch điệp[53], thấy đồng, thấy bạc, rồi tới vàng ṛng. Kẻ trí nhiều lượt lấy, nhiều lượt bỏ; dần dần [giá trị của món hàng ông ta gánh đi] tăng cao hơn, kẻ ngu trọn chẳng bỏ gai. Về đến nơi, thân thuộc của kẻ trí vui vẻ đón rước; kẻ ngu càng tăng thêm ưu năo!”

      (18) Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, vào đời Ngụy, ngài Đàm Loan thoạt đầu từ chỗ ẩn cư của họ Đào có được mười quyển tiên kinh, trở về Lạc Hạ, gặp ngài Bồ Đề Lưu Chi, hỏi: “Trong Phật pháp há có pháp trường sanh bất tử trỗi vượt kinh tiên hay chăng?” Ngài Lưu Chi nói: “Trong cơi này, chỗ nào có pháp trường sanh bất tử? Dẫu được khỏi chết trong một thời gian ngắn, rốt cuộc vẫn phải luân chuyển”. Rồi đem Thập Lục Quán Kinh truyền cho, bảo: “Học pháp này th́ tuổi thọ dẫu đem hằng hà sa kiếp thạch[54] vẫn không sánh bằng được!”

Theo Nam Đường Thư, tiểu trưởng lăo thân mặc y bằng lụa hồng đan chỉ vàng, Hậu Chủ[55] chê là quá xa hoa. Đáp: “Bệ hạ chẳng đọc kinh Hoa Nghiêm, làm sao biết được sự phú quư trong nhà Phật?”

 

      Ghi thêm:

      Kim Xương ở Vô Tích, vợ là Trầm Vân Tảo, khá thông hiểu văn lư, bị sản hậu, bệnh nặng, t́nh thế cực nguy hiểm, các thầy thuốc bó tay. Có người bạn khuyên ông Xương hăy cầu đảo Quán Âm Đại Sĩ. Ông Xương nghe theo, bệnh liền chuyển biến. Hơn một tháng, vẫn khó cử động. Người vợ do thấy cầu đảo linh ứng bèn phát nguyện sau khi lành bệnh sẽ thường thờ phụng Đại Sĩ. Một đêm, ông Xương mộng thấy Đại Sĩ diệu tướng trang nghiêm, đứng nh́n về phía ḿnh, hai đứa bé đứng hầu hai bên kêu tên ông Xương. Ông Xương liền lễ bái, chợt giật ḿnh tỉnh giấc. Bà vợ cũng tỉnh giấc, mỗi người kể lại giấc mộng gần giống nhau. Chỉ có điều là vợ mộng thấy một đứa bé cầm cành dương nhúng nước vẩy lên thân, nói kệ rằng: “Khởi tử hồi sanh cam lộ thủy, nhất điểm thiện tâm cảm hóa thành, vững ḷng vàng đá lên Cực Lạc, chỉ sợ trần duyên gỡ chẳng xong”. Thân tâm thanh thản, sảng khoái, bệnh liền lành. Vợ chồng do vậy ăn chay trường niệm Phật và soạn Nhân Quả Lục để khuyên đời.

Phương Tử Trọng ở Trấn Hải mười chín tuổi, chợt ruột sanh khối ung. Thầy thuốc bảo chẳng thể nào không mổ. Cha mẹ không đành ḷng liền không chữa chạy. Bà mẹ thông hiểu văn lư, ăn chay trường niệm Phật, bèn cùng với bạn là bà Du Đức Chương liều mạng niệm kinh Kim Cang và thánh hiệu Di Đà, Quán Âm. Ba ngày sau, khối ung vỡ ra, máu mủ theo đại tiện tuôn ra. Năm ngày sau hoàn toàn khôi phục.

Tôn Duy Tiệp ở Giang Ninh, vợ là Mộ Tây, vợ chồng khá thích làm lành, nhiệt tâm làm chuyện công ích. Mỗi năm thường may hơn một ngàn cái áo bông nhằm thí cho người không có để mặc đỡ rét. Bà vợ ngă bệnh đang độ tuổi khỏe mạnh, ngực đau như kim đâm, bèn dốc cạn ḷng Thành niệm thánh hiệu Quán Âm cầu cứu. Hồi lâu sau, ngủ thiếp đi, mộng thấy một bà lăo xoa ngực, lại nắn bóp khắp nơi, nhổ ra hai cây kim dài hơn một tấc, bảo: “Chẳng lạ ǵ ngươi bị đau đớn, do ngực có kim mà!” Liền cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái, lại tự sờ nắn, nhổ ra được một cây kim nữa, chợt giật ḿnh, tỉnh giấc, trọn chẳng c̣n bệnh khổ nữa. Ba câu chuyện trên đây do chính Ấn Quang chứng kiến.

 

* Tŕnh bày việc quyên mộ in cuốn Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

 

      Trong quá khứ, Quán Thế Âm Bồ Tát đă thành Phật từ lâu trong vô lượng kiếp trước, hiệu là Chánh Pháp Minh, nhưng do tâm từ bi tha thiết, ḷng cứu khổ ân cần, chẳng ĺa Tịch Quang, hiện h́nh trong chín giới, tùy loại hiện thân trong mười phương vô lượng thế giới để độ thoát chúng sanh. Phẩm Phổ Môn nói “nên dùng thân nào để độ được, liền hiện thân ấy để thuyết pháp”. Tuy là mười phương thế giới không cơi nào chẳng hiện thân, nhưng đối với thế giới Sa Bà nhân duyên rất sâu. Tuy những thân trong mười pháp giới không thân nào chẳng hiện, nhưng người đời đều gọi Ngài là Bồ Tát. Tuy những chỗ Ngài ứng hóa trọn khắp hoàn vũ, nhưng Phổ Đà Sơn tại Chiết Giang là nơi rơ ràng nhất.

Ấn Quang được hưởng ân thật lớn, đội ân thật sâu. Thoạt đầu xuất gia tại Nam Ngũ Đài Sơn ở Thiểm Tây, tức là đạo tràng nơi đức Quán Âm hiện thân hàng phục rồng độc. Tiếp đó, sống nhờ ở Phổ Đà trong biển Nam, chính là thánh địa nơi Thiện Tài đi về phương Nam tham học với đức Quán Âm. Thường nghĩ người đời chẳng biết ḷng Từ sâu xa, ḷng Bi rộng lớn của Bồ Tát, muốn sưu tập từ Đại Tạng và các sách vở, phàm những hạnh nguyện nơi bổn địa của Bồ Tát và những sự tích Bồ Tát cảm ứng nơi phương này, soạn thành bài văn ca tụng, lại c̣n chú thích tường tận, để những người cùng hàng trong cơi đời đều biết tấm ḷng đại từ bi của ngài Quán Âm, cũng như thật sự, thật lư “tùy loại hiện h́nh, tầm thanh cứu khổ”, ngơ hầu [ai nấy] sẽ đều cùng tŕ thánh hiệu, cùng tiêu nghiệp chướng, cùng tăng phước huệ, khi sống th́ làm người thân tâm thanh tịnh, khi thác sẽ dự vào hội của liên tŕ hải chúng. Dùng những điều này để uốn nắn ḷng người, văn hồi kiếp vận, ngơ hầu thiên hạ thái b́nh, nhân dân yên vui. Tuy đă phát cái tâm ấy, nhưng do học thức thiển cận, kém hèn, bút mực vụng về, chất phác, chưa thể tiến hành ngay được!

Khéo sao nhà đại văn học tỉnh Giang Tây là cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh lên núi thăm viếng, vừa gặp nhau đă thành bạn thiết; do vậy bèn đem chuyện này gởi gắm. Ông ta liền vui vẻ chấp thuận rồi lắng ḷng soạn thuật suốt cả hai năm ṛng, viết ra bản Tụng Văn đến hơn hai vạn chữ. Đối với sự tích trong mỗi câu đều chú thích sau mỗi đoạn văn để người đọc vừa xem liền hiểu rơ ngay, tổng cộng gồm ba quyển. Lại sao lục những nghĩa trọng yếu trong kinh, đặt tên là Kinh Chứng (những dẫn chứng trích từ kinh điển) gồm một quyển, ghi kèm vào sau Tụng Văn. Lại c̣n có Kim Cang Kinh Công Đức Tụng một quyển cũng ghi kèm vào sau để người tụng kinh, niệm Phật đều biết phương hướng, cốt sao từ phàm tâm thấy được Phật tâm, thỏa măn nguyện độ sanh của Như Lai.

Do vậy, đă cho sắp chữ tạo bản in, hiện thời đă sắp chữ xong, toàn bộ là hai trăm mười trang. Mỗi trang gồm hai mươi sáu ḍng, mỗi ḍng ba mươi lăm chữ. Ruột sách dùng loại giấy Trại Tống, b́a sách dùng loại giấy da sẫm màu một trăm bảng[56] bền nhất để in. Mỗi bộ sách chia làm hai cuốn, dùng loại chỉ vải chắc nhất để đóng sách. In ra hai vạn bộ, mỗi một trang sách giá ba mươi đồng[57]. Mỗi bộ, [tiền công] in chữ nơi b́a sách và phần thư căn tổng cộng là ba xu. Bất luận thỉnh bao nhiêu sách đều gói thành bưu kiện để tiện gởi tặng. Chi phí đóng bưu kiện đă tính gộp trong ấy th́ tính chung mỗi một bộ giá ba cắc bốn xu năm chinh. Do v́ số lẻ khó thể tính toán nên chỉ tính tṛn là ba cắc bốn xu. Nếu muốn in một vạn bộ th́ giao ba ngàn bốn trăm đồng. In một ngàn bộ th́ giao ba trăm bốn mươi đồng. In một trăm bộ th́ giao ba mươi bốn đồng. Hiện thời đă in lần thứ nhất, hiện nay sách đă được người ta bỏ tiền in đến sáu vạn bộ. Cứ mỗi lần đúc bản in sẽ in được một vạn hai ngàn bộ. Sau này, in nhiều lượt th́ cũng có người đứng ra chịu tiền in nhiều lượt, ước chừng trong một năm sẽ xong xuôi. Nếu quyết định in trong tháng Tám th́ tính theo giá này. Nếu cách một thời gian lâu sau, có thể giá giấy sẽ tăng lên. Ai muốn lợi người th́ hăy nên sớm báo tin. Hơn nữa, mỗi lần đúc bản in, chỉ in được một vạn hai ngàn bộ, số sách được bỏ tiền in đă đến sáu vạn cuốn; khi sách in ra, nếu đặt in với số lượng lớn th́ chẳng thể giao hết một lúc được, có lẽ phải chia thành hai ba lần, hạn lượng số sách vừa phải để giao, ngơ hầu mọi người đều được nh́n thấy sách ngay trong lần in đầu tiên.

Hơn nữa, đây là in sách giùm cho thiện tín, chứ không phải là theo thông lệ quyên tiền để tự làm việc thiện. Với những ai đứng ra bỏ tiền in, sẽ chiếu theo số tiền [đă bỏ ra] để giao sách, chẳng khấu trừ một bộ nào! Nếu có ai ủy thác [người đứng in sách] thay mặt làm chuyện thí tặng, chính ḿnh chỉ cần một ít sách th́ xin hăy báo rơ trước, chúng tôi sẽ giao giùm. Nếu không, sẽ giao trọn số sách ấy cho người bỏ tiền in, chẳng khấu trừ tí ti nào! Ở Thượng Hải chẳng phải tốn bưu phí, sẽ giao thẳng đến nhà. Đối với những thành phố khác, nếu là số lượng lớn sẽ có thể nhờ công ty chuyển gởi giùm. Nếu với số lượng ít th́ sẽ giao qua bưu điện, chi phí ấy có thể khấu trừ vào tiền in sách, hoặc gởi bù riêng, đều thuận theo ư của người đứng ra chịu tiền in sách.

Hiện nay, thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống, thế đạo nhân tâm suy hăm đến cùng cực, riêng nhờ vào cuốn sách này để dẫn đường ḥng đẩy lui con sóng cuồng, nâng đỡ thế đạo, cùng lên bậc thánh, cùng chứng Bồ Đề. Nguyện những thiện tín có sức đều cùng bỏ ra tịnh tài, ngơ hầu những người cùng hàng trong khắp cơi đời ai nấy đều được gội từ ân của Quán Âm Bồ Tát, để rồi cùng được đích thân chứng đắc Phật tánh vốn có, viên măn vô thượng giác đạo, một tấm ḷng khăng khăng như thế mà thôi! Phàm những ai muốn bỏ tiền ra in, xin hăy gởi khoản tiền ấy về xưởng ấn loát chính của Trung Hoa Thư Cục ở ngơ Cáp Đồng đường Tịnh An Tự tại Thượng Hải, giao cho hai vị tiên sinh Du Trọng Hoàn và Đường Tử Quyền nhận lănh. Họ nhận được tiền liền gởi biên lai. Khi sách in ra sẽ theo thứ tự giao sách, quyết chẳng đến nỗi nhầm lẫn. Phàm những người đứng ra in với số lượng lớn, đợi khi sách đă giao đầy đủ rồi, xin hăy gởi thư về chùa Pháp Vũ, núi Phổ Đà thuộc huyện Định Hải, tỉnh Chiết Giang, giao cho Ấn Quang, ngơ hầu biết là không bị sai lạc.

Ngày Rằm tháng Giêng năm Bính Dần Âm lịch, tức năm Dân Quốc 15 (1926), Thường Tàm Quư Tăng Thích Ấn Quang kính soạn.

 

Phật pháp rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Nói tới những điều thiển cận th́ phàm phu đều có thể biết được, làm được. Nói tới những chuyện sâu xa, dẫu thánh nhân cũng không biết, không làm được! Những người thông minh trong thế gian nếu có sự hàm dưỡng, từng trải, liền có thể nhập đạo. Nếu không, ắt sẽ do trí huệ nhỏ nhoi mà tự phụ, đến nỗi lầm lạc dùng ư kiến của chính ḿnh để hủy báng Phật pháp. Do vậy, đức Phật xếp Thế Trí Biện Thông vào tám nạn. Sự răn nhắc ấy vừa sâu đậm vừa thiết thực. Gốc bệnh là do dùng tri kiến phàm phu để suy lường cảnh giới của Phật, Bồ Tát. Nếu hạng phàm phu hiểu biết cảnh giới của Phật, Bồ Tát quyết chẳng thể suy lường được th́ sẽ dứt bỏ sự suy lường ấy. Đừng nói là bọn họ chẳng thể suy lường cảnh giới của Phật, Bồ Tát, ngay như những kẻ ấy từ sống đến chết, đối với chủ nhân ông của khởi tâm động niệm, bọn họ có từng thấy biết chút nào hay chăng? Nếu có thể đích thân biết được, thấy được chủ nhân ông của chính ḿnh th́ sẽ có thể dần dần biết được cảnh giới của Phật, Bồ Tát.

Những kẻ trí huệ nhỏ nhoi mà vẫn tự phụ ấy, ví như kẻ mù chẳng thấy được mặt trời, liền bảo là không có. Lũ mù nghe lời, khen là kiến thức cao siêu, là đích xác, không lầm, chẳng biết đấy là tà thuyết tự lầm, lầm người! Há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? V́ thế, xưa nay, phàm là những bậc đại thông gia lỗi lạc, không ai chẳng dùng Phật pháp để giữ yên cơi đời, khiến cho dân hiền thiện, thấu đạt tận cùng gốc lơi của lư và tánh. Những vị lập đại công, dựng đại nghiệp, nêu tỏ những chỗ mầu nhiệm chưa được thánh hiền truyền dạy, đều do học Phật đắc lực mà ra! Những kẻ tự phụ thông minh làm sao xứng đáng biết được điều này! Kẻ bệnh hiểu thầy thuốc, lăng tử cảm thương lữ khách, khôn ngăn cảm khái, bi ca, tŕnh bày những điều này nhằm giăi tỏ nỗi ḷng trung thành. Nếu rộng ḷng dung nạp th́ may mắn lắm thay!

 

* Kính cáo độc giả hăy nên dốc sức nơi chí thành cung kính để tự đạt được lợi ích thật sự

 

      Pháp thế gian và xuất thế gian đều lấy ḷng Thành làm gốc. Hễ có ḷng Thành th́ sẽ cảm được thánh ứng. Không có ḷng Thành sẽ chẳng có cảm, thánh không cách ǵ ứng được! Ví như vầng trăng sáng ngời giữa trời, hiện bóng muôn sông. Nếu nước nhơ đục, xao động, bóng trăng sẽ khó thể hiển hiện. Do nước gây ra, chứ trăng đâu có lỗi! V́ thế nói: Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp, cần phải cầu nơi ḷng cung kính. Có một phần cung kính sẽ tiêu một phần tội nghiệp, tăng một phần phước huệ. Có mười phần cung kính sẽ tiêu mười phần tội nghiệp, tăng mười phần phước huệ. Nếu không cung kính th́ chỉ kết duyên xa, khó được lợi ích thật sự! Nếu lại c̣n khinh nhờn sẽ tạo tội vô lượng.

Hơn nữa, những lời chú cho phần ca tụng khơi mở trí huệ nơi ba trang mười sáu, mười bảy, mười tám trong quyển thứ Ba [của bộ sách này], phần nhiều là Thiền cơ. Những câu ấy chỉ có người thật sự có sở ngộ mới biết ư nghĩa, chớ nên suy đoán, ḍ t́m theo ư nghĩa lời văn. Dẫu cho trí huệ thông minh thiên bẩm vẫn là càng suy lường càng xa! Những câu nói trong nhà Thiền đều giống như thế. Nếu có thể chú trọng ḷng kính, giữ ḷng thành, chấp tŕ thánh hiệu của Bồ Tát th́ một mai nghiệp tiêu trí rạng, tất cả những câu nói Thiền cơ sẽ đều hiểu rơ từng câu một, như mở cửa thấy núi, vẹt mây thấy trăng!

 

Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

Quyển 2 hết

 



[1] Tiền Nguyên Quán (887-941) là vua thứ hai của xứ Ngô Việt (tức Ngô Việt Thế Tông Văn Mục Vương), ông là con trai của Tiền Liêu (tức Ngô Việt Thái Tổ Vũ Túc Vương).

[2] Tiền Thục (tên thoạt đầu là Tiền Hoằng Thục, 929-988) là vua cuối cùng của Ngô Việt. Ông là con Tiền Nguyên Quán, cháu nội của Tiền Liêu và là em của vua Tiền Hoằng Tá (Thành Tông Trung Hiến Vương) và Tiền Hoằng Tông (Trung Tốn Vương). Khi ấy, Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) đă thống nhất sơn hà, dẹp tan hậu duệ của các vua Ngũ Đại, chỉ c̣n xứ Ngô Việt là có thực lực. Vua cho người đến chiêu dụ, Trung Ư Vương Tiền Thục liền quy thuận.

[3] Hốt là một loại thẻ bằng ngà hoặc bằng gỗ dài chừng 35cm, trên to, dưới nhỏ, thường được cầm trong tay khi mặc triều phục. Thoạt đầu, hốt được dùng để ghi chép những điều định tâu bày cho khỏi quên, nhưng về sau chỉ là vật trang sức mỗi khi mặc triều phục. Các quan khi tâu bày thường cầm hốt bằng hai tay, giơ lên trước mặt khi có chuyện cần tâu tŕnh trong buổi chầu. Ngay cả khi vua mặc hoàng bào ngồi trên ngai cho các quan vái lạy cũng cầm hốt ngà đặt trước bụng.

[4] “Đức xa” là danh từ chỉ chung các loại xe bằng gỗ khảm ngọc, khảm vàng của đế vương thời cổ. Do các loại xe này không dùng trong chiến trận nên gọi là “đức xa”. Đề thi trên đây được ra theo một câu nói trong thiên Khúc Lễ của sách Lễ Kư: “Binh xa bất thức, vũ xa tuy tinh, đức xa kết tinh” (Binh xa th́ không trang hoàng, vũ xa th́ buộc cờ tinh, c̣n đức xa th́ cắm cờ tinh). Theo Khổng Dĩnh Đạt, “tinh” là một loại cờ hiệu kết bằng lông chim, về sau được dùng để chỉ chung các loại cờ hiệu nhằm biểu trưng quyền lực. Theo ông Khổng, chỉ cắm cờ tinh trên đức xa với một số lượng ít nhằm thể hiện mỹ đức của vua mà thôi. “Vũ xa” là xe bọc da trâu. Nếu trên xe ấy cắm gươm giáo th́ gọi là “binh xa”. Do vũ xa nhằm biểu hiện oai quyền của đế vương nên buộc thật nhiều cờ tinh quanh xe, c̣n binh xa th́ đă có gươm giáo để thị oai nên không cần buộc cờ tinh nữa.

[5] Giáo phỉ: Bọn phản loạn đội danh tôn giáo. Không rơ trong chuyện này xảy ra vào thời nào, nên khó thể phán đoán giáo phái nào gây loạn, nhưng tại Trung Hoa, loạn quân đội lốt tôn giáo chẳng ngoài giặc Hoàng Cân, Bạch Liên Giáo, Minh Giáo, Thái B́nh Thiên Quốc, Quyền Phỉ v.v...

[6] Bức tranh vẽ theo lối xưa, hai đầu thường gắn trục gỗ để dễ cuộn lại, cũng như khi treo, sẽ kéo thẳng bức tranh, nên những bức tranh vẽ hay thư họa cũng thường gọi là “trục”.

[7] Sở là tên gọi chung hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc. Hồ Động Đ́nh nằm giữa hai tỉnh này, Thái Vân lấy con trai Thân Đại Niên người đất Sở, ứng với lời đoán “sẽ gả cho Động Đ́nh Quân”.

[8] Môn lại: Từ ngữ gọi chung thuộc hạ của một vị quan.

[9] Bà này họ Lâm, lấy chồng họ Lục nên thường gọi gộp cả họ chồng và họ của chính bà ta thành Lục Lâm Thị.

[10] Đề Khống là danh xưng thời Tống Nguyên để gọi thuộc hạ của các quan. Đề Khống c̣n có nghĩa là “h́nh cụ” (dụng cụ) để tra khảo, nên dân gian quen gọi những nha lại của các quan xử án là Đề Khống.

[11] Chủ Sự là một chức quan, trách nhiệm thay đổi tùy theo triều đại. Nói chung, vai tṛ của Chủ Sự giống như chức Chánh Văn Pḥng của các bộ hiện thời, hoặc đối với một số bộ th́ vai tṛ của Chủ Sự chỉ giới hạn trong nhiệm vụ Trưởng Pḥng quản lư văn thư, hồ sơ, chẳng hạn như chức Chủ Sự của Tôn Nhân Phủ đời Thanh chỉ có trách nhiệm quản lư khai sanh, khai tử, phổ hệ của hoàng tộc, cũng như nhắc nhở các hoạn quan và ngự thiện chuẩn bị cỗ bàn cúng tế Thái Miếu trong các ngày kỵ lạp, chứ không có quyền hành ǵ khác.

[12] Danh y Biển Thước thời Chiến Quốc do sống ở nước Lô nên thường được gọi là Lô Biển. “Đắc Lô Biển chi diệu” là thành ngữ khen ngợi người đạt đến y thuật cao minh.

[13] Chư sanh: Thời Minh - Thanh, những người thi đậu vào trường học ở phủ, châu, huyện, chia ra nhiều cấp như Tăng Sanh, Phụ Sanh, Lẫm Sanh, Lệ Sanh vv.... Những người này được gọi là chung là “chư sanh”.

[14] Trung Thư Lệnh là chức quan đă có từ thời Đông Hán. Trung Thư vốn là một cơ cấu do hoạn quan điều hành, có trách nhiệm quản thủ thư pḥng của hoàng đế và những văn kiện riêng tư trong cung. Trung Thư Lệnh là người đứng đầu cơ quan ấy. Do những quan chức thuộc cơ quan này thường xuyên gần gũi hoàng đế và thường được vua hỏi ư kiến, nhưng các hoạn quan thường không đủ kiến thức và tài sức để làm cố vấn, cũng như để tránh t́nh trạng hoạn quan lũng đoạn triều chánh như thời Hán Linh Đế, nên từ thời Ngụy - Tấn trở đi, nhân viên của Trung Thư phải là những vị đại khoa, kiến thức uyên bác. Đến đời Tùy - Đường, do tính chất trọng yếu của cơ cấu này, Trung Thư do Tể Tướng trực tiếp cai quản. Danh xưng Trung Thư đổi thành Trung Thư Tỉnh (hoặc Nội Sứ Tỉnh trong thời Tùy, do kiêng tên húy tể tướng Dương Trung) và chức vụ Trung Thư Lệnh do chính tể tướng đảm nhiệm. Do vậy, Trung Thư Lệnh thời Đường chính là Tể Tướng. Ông Sầm Văn Bổn làm Trung Thư Lệnh dưới thời Đường Thái Tông.

[15] Thiên Tổng là một chức quan của hải quân dưới đời Thanh. Hải quân nhà Thanh được chia thành Bắc Dương Thủy Sư (phụ trách vùng biển từ Sơn Đông trở lên), Nam Dương Thủy Sư (từ Sơn Đông trở xuống đến hết hải phận miền Nam Trung Hoa). Đứng đầu Thủy Sư là Đề Đốc, rồi đến các chức vụ Tổng Binh, Phó Tướng, Tham Tướng, Du Kích, Đô Ty, Thủ Bị, Thiên Tổng, Bả Tổng. Thiên Tổng cai quản từ một trăm quân cho đến tám trăm quân.

[16] “Cải bộ, cải ngọc” là một câu nói xuất xứ từ Tả Truyện: “Lục nguyệt, Quư B́nh Tử hành Đông dă, hoàn, vị chí, Bính Thân, tốt vu pḥng. Dương Hổ tương dĩ Dư Phan liệm, Trọng Lương hoàn, phất dữ, viết: Cải bộ, cải ngọc” (Tháng Sáu, Quư B́nh Tử đi sang miền Đông, quay về, chưa tới nơi th́ ngày Bính Thân chết trong pḥng. Dương Hổ toan lấy ngọc Dư Phan để liệm theo, Trọng Lương giữ lại, không cho, nói: “Đổi bước th́ đổi ngọc”). Theo các sách chú giải, chữ Bộ ở đây chỉ số bước chân tính từ vị trí của người đứng tế đến chỗ kê quan tài người chết. Tùy theo địa vị mà số bước chân quy định khác biệt. Dư Phan là một loại ngọc quư dành cho vua chúa đeo. V́ thế, “cải bộ, cải ngọc” nghĩa là khi địa vị thay đổi th́ loại ngọc để táng theo cũng phải thay đổi, số bước chân giữa người đứng tế và quan tài cũng phải thay đổi. Do vậy, “cải bộ, cải ngọc” được dùng như một thành ngữ chỉ sự thay đổi thời thế, khiến cho mọi quy củ, phép tắc đều thay đổi theo.

[17] Trùng Cửu (c̣n gọi là Trùng Dương) là ngày mồng Chín tháng Chín âm lịch. Do trong Dịch Học, 9 là con số Dương, nên ngày mồng Chín tháng Chín được gọi là Trùng Dương. Người Trung Hoa cho rằng ngày hôm ấy cực Dương nên có lệ cúng tế tổ tiên, lên núi cao chơi, hái thuốc để dành, cũng như uống rượu cúc để cân bằng âm dương.

[18] Bạc non cân: Thuở xưa bạc đúc thành thoi (đĩnh) trên thường khắc chữ ghi trọng lượng như mấy chỉ, mấy lạng v.v... Có những tiệm kim hoàn hoặc tiền trang (cơ sở cho vay tiền) do tham lợi nên đúc những đĩnh bạc nhẹ hơn trọng lượng ghi trên đĩnh bạc, loại này được gọi là “bạc non cân”.

[19] Minh Kinh là một khoa thi nhằm tuyển người làm quan được mở ra từ thời Hán Vũ Đế, đến thời Tống Thần Tông th́ bị băi bỏ. Những người được dự khoa thi này phải thông thạo Kinh Học (tức thông hiểu các kinh điển trọng yếu của Nho Gia). Chương tŕnh thi gồm viết văn giải thích một đoạn kinh sách theo đề đă ra, sau đó là thi vấn đáp mười câu hỏi về ư nghĩa của kinh điển. Tùy theo số lượng kinh điển thông thạo mà định thứ bậc cao thấp. Thông thường, Lễ Kư, Xuân Thu Tả Truyện... được gọi là Đại Kinh; Mao Thi, Châu Lễ, Nghi Lễ... gọi là Trung Kinh; Châu Dịch, Thượng Thư, Xuân Thu Công Dương Truyện, Xuân Thu Cốc Lương Truyện... được gọi là Tiểu Kinh. Tối thiểu, người dự thi phải thông thạo hai bộ kinh. Danh mục kinh điển do người dự thi tự nêu, nhưng bắt buộc phải thông hiểu hai bộ Hiếu Kinh và Luận Ngữ. Người thi đậu nếu thông hiểu năm bộ kinh sẽ được gọi là Minh Kinh Bác Sĩ. Do càng về sau này, người thi Minh Kinh chỉ lo nhai lại những chú giải của cổ nhân, viết văn chương cho bóng bẩy, không chú trọng t́m hiểu ư nghĩa thật sự cũng như dùng những lời nói, chuyện xưa trong các bộ sách ấy để răn ḿnh sửa nết nên khoa thi Minh Kinh mất hẳn ư nghĩa tuyển chọn bậc hiền tài như thuở ban đầu.

[20] Nguyên văn “cảo y” nghĩa là loại vải để trơn, không nhuộm mầu, sợi to thô.

[21] Nguyên văn “mễ đoàn”, gọi đủ là Mễ Đoàn Thang, một loại bánh làm bằng bột ḿ ṿ lẫn với gạo nếp, bọc nhân cà-rốt, củ cải, bắp cải, ớt, thịt v.v... ăn với nước súp hoặc ăn chung với ḿ hay bún. Mễ Đoàn Thang không phải là mằn thắn (tức vân thốn (wonton), thường bị đọc trại thành vằn thắn, hoành thánh) v́ vỏ mằn thắn làm bằng bột ḿ, cũng như không bỏ rau, ớt lẫn vào nhân. Do nó hơi giống với bánh ít trần của người Việt nên chúng tôi tạm dịch là “bánh ít trần” tuy không chính xác; bởi lẽ, bánh ít trần không thả trong nước súp mà cũng không ăn chung với bún.

[22] Theo Y Tông Kim Giám, chất đàm dơ trong cơ thể gặp phải hỏa vượng nung đúc tạo thành chứng Đàm Hỏa. Bệnh nhân thở kḥ khè, ho hen, ḷng hay lo sợ vẩn vơ, chân tay tê lạnh, khí hay xông ngược, lưỡi cứng khó nói, dễ ngất. Do kiến thức quá kém, chúng tôi không biết tiếng Việt gọi là bệnh ǵ nên đành để nguyên chữ không dịch.

[23] Thoát Chứng là một thuật ngữ trong Đông Y, có thể hiểu theo hai cách:

1. Âm Dương, khí huyết, dịch thể bị hao tổn nghiêm trọng gây nên bệnh. Bệnh nhân toát mồ hôi đầm đ́a, chân tay tê lạnh, mắt nhắm, miệng há, tay bắt chuồn chuồn, đái dầm, mạch nhảy rất nhẹ gần như sắp dứt v.v... Các chức năng của nội tạng suy kiệt, không chữa trị sẽ dần dần lả đi rồi chết. Nếu bị ói mửa dữ dội, tiêu chảy, mất máu, hoặc tiết tinh dầm dề th́ gọi là Bạo Thoát.

2. Một trong hai chứng trạng trúng phong. Nếu bệnh là Thực th́ gọi là Bế Chứng, nếu là Hư th́ gọi là Thoát Chứng.

[24] Lương Thư là một bộ sử do Diêu Tư Khiêm soạn dưới đời Đường, hoàn thành vào năm Trinh Quán thứ 10 (636), gồm 46 quyển chép về lịch sử nhà Tiền Lương từ đời vua Lương Vũ Đế (Tiêu Diễn, 464-549) đến khi Lương Kính Đế (Tiêu Phương Trí) mất vào năm 558.

[25] Tần điệp: Gián điệp nước Tần.

[26] Tục mạng thang: Nước hoặc thuốc giúp cho người đă chết được sống lại.

[27] Bà Viên Ngưng Cô lấy chồng họ Tiền nên gọi là “Tiền Viên Thị” (bà Viên nhà họ Tiền).

[28] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Bổn Sanh Tâm Địa Quán Kinh (tám quyển, mười ba phẩm), do ngài Bát Nhă dịch vào đời Đường. Trong kinh này, đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật nơi thành Xá Vệ, giảng cho các vị đại Bồ Tát như Văn Thù v.v... người xuất gia trụ A Lan Nhă nên quán tâm địa, diệt vọng tưởng như thế nào để thành Phật đạo. Đây là một bộ kinh được Pháp Tướng Tông (Duy Thức Tông) đặc biệt coi trọng.

[29] Quách Hậu (184-235) là vợ của Tào Phi (Ngụy Văn Đế), con dâu của Tào Tháo. Bà là con của Nam Quận Thái Thú Quách Vĩnh và Đổng Thị. Lúc sanh ra có hiện tượng lạ, được người khác tán thán. Ông bố khen ngợi: “Đứa con gái này sẽ là vua trong nữ giới” nên đặt tên bà là Nữ Vương. Cha mẹ và anh em bà đều bị loạn quân Hoàng Cân giết chết, phải lênh đênh khổ sở, làm đầy tớ cho nhà Đồng Đề Hầu. Về sau, được Tào Phi mua về làm thiếp. Do thông minh, lanh lợi, thường có những ư kiến nhạy bén, tinh xác, bà giúp cho Tào Phi đoạt lấy địa vị Thái Tử từ Tào Thực (con trưởng Tào Tháo). Khi Tào Phi kế vị làm Ngụy Vương, đă phong cho bà là Phu Nhân. Khi Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, xưng đế, bà được phong làm Quư Tân. Khi vợ cả của Tào Phi là B́nh Lạc ghen tuông quá mức, Tào Phi đă ép B́nh Lạc tự tử chết, rồi phong cho Quách Nữ Vương làm Hoàng Hậu; nhưng vẫn giữ con B́nh Lạc là Tào Duệ làm Thái Tử, bắt Tào Duệ phải coi Quách Hậu như mẹ ruột. Tào Duệ phẫn hận, nhưng ẩn nhẫn chờ thời. Năm 221, Tào Phi chết, Tào Duệ lên ngôi, xưng là Ngụy Minh Đế, tôn Quách Hậu làm Hoàng Thái Hậu, nhưng đến năm 235, Tào Duệ kiếm cớ, ép Quách Hậu tự tử chết, không cho cung nhân được phép đại liệm bà ta, bắt họ để xác bà Quách xơa tóc che mặt, đổ cám vào miệng, mặc quần áo xoàng xĩnh, nhằm trả hờn cho mẹ.

[30] Hạc Động Tử là biệt hiệu của Từ Khiêm (1766-1864), tự Ích Khanh, hiệu Bạch Phảng. tác giả cuốn Hải Nam Nhất Chước. Ông từng làm Hàn Lâm Biên Tu, rồi thăng dần đến chức Triều Nghị Đại Phu, là một vị quan thanh liêm công minh, sống giản dị, thích nghiên cứu thơ văn, nhưng không chịu t́m hiểu đạo Phật đến nơi đến chốn. Do vậy, tác phẩm Hải Nam Nhất Chước của ông từng bị tổ Ấn Quang chê là ngoài công lao sưu tập rộng răi những sự tích linh hiển trong Phật giáo, Từ Khiêm c̣n xen tạp vào đấy không ít những dị thuyết báng bổ Phật giáo của bọn Đạo Sĩ.

[31] H́nh Khoa là một trong sáu khoa được lập ra đời Thanh, chuyên trách xử án, thụ lư hồ sơ điều tra các vụ án lớn. Ở đây, ông Cát Trường Niên giữ một chức vụ trong H́nh Khoa nên gọi luôn là H́nh Khoa, chứ H́nh Khoa không phải là một chức quan.

[32] Hà Vô Kỵ (?-410) là cháu gọi Trấn Bắc Tướng Quân Lưu Lao Chi bằng cậu, tánh t́nh tàn khốc, đă có chí lớn từ nhỏ, rất hợp ư cậu về mặt mưu mẹo lẫn tánh t́nh. Đến khi Hoàn Huyền soán ngôi nhà Tấn, Vô Kỵ theo Lưu Lao Chi cùng với Lưu Dụ (cựu tướng của Lưu Lao Chi) khởi binh chống lại, đánh bại Hoàn Huyền. Do công khôi phục hoàng triều nên được phong làm Khai Quốc Công.

[33] Tấn Hiến Công muốn gả em gái là Bá Cơ cho vua Tần, sai Sử Tô bói quẻ. Sử Tô bảo: “Giữa Tần và Tấn sẽ có chiến tranh, hơn nữa, cháu sẽ làm bầy tôi cho cô”. Quả nhiên về sau, Tần đánh chiếm Tấn, Tấn Huệ Công (con trai Tấn Hiến Công) bị bắt làm tù binh, ứng nghiệm lời đoán “điệt tùng kỳ cô”. Ở đây cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh mượn hai điển tích này để ví von trong hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất là Văn Sản bắt chước cậu là Phí Vĩnh Niên tŕ kinh Cao Vương cầu sanh con trai, trường hợp thứ hai là do em gái của Long Tử Huy khuyên chị dâu tŕ kinh Bạch Y để sanh con, nên đứa cháu đó có thể nói là do cô của nó mà có, v́ vậy mới nói “điệt tùng kỳ cô”. Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh chơi chữ v́ thành ngữ “điệt tùng kỳ cô” trong Tả Truyện có ư nghĩa hoàn toàn khác biệt ư nghĩa được dùng trong lời tán dương này.

[34] Mộng hùng: Theo Thành Ngữ Từ Điển, đây là một từ ngữ phát sinh từ điển tích “phi hùng”. Sách ấy dẫn một câu chuyện trong Sử Kư để giải thích: Văn Vương sắp đi săn, sai quan Thái Sử coi bói; bói rằng: “Phi hổ, phi bi, thiên di nhữ soái dĩ tá xương” (Chẳng phải cọp, chẳng phải gấu, trời ban cho vua tướng soái để phù tá khiến nước nhà hưng thịnh). Chuyến đi ấy, quả nhiên Văn Vương gặp được Khương Tử Nha, rước về phong tướng, đánh bại Trụ Vương, lập ra nhà Châu. Do chữ Bi () là một loài gấu nên người ta thường dùng điển tích Phi Hùng, với ư nghĩa gặp được bậc hiền tài ẩn sĩ chịu ra giúp đời. Chữ “phi” (: chẳng phải) về sau bị viết sai thành “phi” (: bay) nên dân gian mới bịa chuyện Văn Vương mộng thấy một con gấu bay vào trướng, sáng ra gặp được Khương Tử Nha. Từ đó, mới có truyền thuyết ai nằm mơ thấy gấu th́ sẽ sanh con trai.

[35] Đô Ty là gọi tắt của chức Đô Chỉ Huy Sứ Ty, ngạch Tứ Phẩm, tức chức quan nắm quyền chỉ huy quân sự cao nhất tại một địa phương từ cấp huyện trở lên. Chức quan này thuộc quyền quản trị của Ngũ Quân Đô Thống Phủ, chứ không nghe lệnh trực tiếp từ quan địa phương, để tránh t́nh trạng các quan địa phương có thế lực quá lớn. Đến đời Thanh, chức quan này ở dưới các chức Tham Tướng và Du Kích, nhưng trên chức Thủ Bị.

[36] Tế Tửu vốn là một chức quan đă có từ thời Hán, là người đứng đầu các quan Minh Kinh Bác Sĩ, nhưng từ thời Đông Tấn trở đi, chỉ có hiệu trưởng của Quốc Tử Giám mới gọi là Tế Tửu. Theo Triệu Dực người đời Thanh đă viết trong bộ Cai Dư Tùng Khảo th́: “Tế Tửu vốn không phải là một chức quan. Thời cổ khi ăn uống tụ họp, thường có lệ dâng rượu lên thần linh trước, gọi là Tế Tửu. Khi tế rượu thường cử người lớn tuổi hay có địa vị cao nhất trong đám tiến hành, nên về sau những người đứng đầu trong một hạng người cũng thường được gọi là Tế Tửu”. Do vậy, hiện thời, tại Trung Hoa, đôi khi người ta vẫn gọi lănh tụ trong giới học thuật, nghệ thuật hay văn học là Tế Tửu.

[37] Tả Phiên là gọi tắt của Tả Phiên Đài, tức Tả Bố Chánh Sứ. Đời Minh, trừ Nam Kinh và Bắc Kinh ra, cả nước chia thành 13 Thừa Tuyên Bố Chánh Sứ Ty, mỗi ty có hai vị Tả Bố Chánh Sứ và Hữu Bố Chánh Sứ. Khu vực quản hạt của mỗi vị Bố Chánh Sứ gần bằng khu vực quản hạt của chức Tuần Vũ (Tuần Phủ, Phủ Đài, tức tỉnh trưởng) đời Thanh. Quan chế này duy tŕ cho đến đời Thanh, nhưng dần dần địa vị Bố Chánh (Phiên Đài, Phiên Ty) bị hạ thấp hơn Tuần Vũ rất nhiều. Tuần Vũ nắm trọn binh quyền lẫn quyền hành chánh (đôi khi kiêm nhiệm chức Binh Bộ Thị Lang trong triều), Phiên Đài chỉ trông coi hành chánh và trị an.

[38] Đại Học Sĩ c̣n gọi là Nội Các Đại Học Sĩ hay Điện Các Đại Học Sĩ. Chức vụ này được đặt ra từ thời Đường Trung Tông, thoạt đầu chỉ là những văn thần thân cận vua có nhiệm vụ giúp vua phê duyệt tấu chương, soạn thảo chiếu chỉ v.v... Đến khi Minh Thái Tổ lên ngôi, nghi kỵ, giết hại công thần, phế bỏ chức Thừa Tướng, nhưng rồi triều chánh quá bận rộn, giải quyết không xuể, bắt buộc phải cử các văn quan sung chức Điện Các Đại Học Sĩ để làm cố vấn cho nhà vua. Các vị Đại Học Sĩ ấy tham gia nghị sự triều chánh, nhưng không có thực quyền và cũng không nắm binh quyền. Do các quan kiêm chức Đại Học Sĩ thường được vua gọi vào họp ở Văn Uyên Các trong cung nên mới được gọi là Nội Các Đại Học Sĩ. Dần dần, số đại học sĩ tăng lên dần theo nhu cầu triều chánh, nên phải cử người đứng đầu các Đại Học Sĩ, gọi là Thủ Phụ (Do vậy, trên danh nghĩa, không có Tể Tướng nhưng Thủ Phụ vẫn giữ vai tṛ của Tể Tướng, dần dần có thế lực). Từ đời Gia Tĩnh trở đi, chánh sự hỏng dần, Thủ Phụ Đại Học Sĩ phải dựa vào thế lực của hoạn quan mới chấp chánh được! Khi nhà Thanh tiêu diệt nhà Minh, vẫn giữ chế độ Đại Học Sĩ, nhưng các Đại Học Sĩ chỉ có nhiệm vụ tham gia góp ư, chứ không là thành viên của Nội Các như dưới đời Minh. Thời Khang Hy, các đại thần, vương công người Măn Châu phụ chánh giành quyền quyết định chánh sự, vai tṛ của Đại Học Sĩ chỉ c̣n gói gọn trong nhiệm vụ soạn thảo tấu chương, chiếu chỉ theo lệnh các đại thần, cũng như giải thích ư nghĩa các điển tích nếu các đại thần Măn Châu học ít, không thông hiểu). Trong quá tŕnh đấu tranh giành thực lực giữa vua và các quyền thần, các chánh sách được quyết định từ Nam Thư Pḥng của nhà vua, nhưng Nam Thư Pḥng không phải là cơ cấu chánh thức, nên không thể ban hành công văn hay chỉ huy nha môn. Do vậy, dần dần vai tṛ của Đại Học Sĩ lại được nâng cao. Danh xưng Đại Học Sĩ được thêm vào tên các điện để chỉ vai tṛ chuyên biệt trong nghị luận chánh sự như Trung Cực Điện Đại Học Sĩ, Kiến Cực Điện Đại Học Sĩ, Văn Hoa Điện Đại Học Sĩ, Anh Vũ Điện Đại Học Sĩ, Văn Uyên Các Đại Học Sĩ, Đông Các Đại Học Sĩ. Đến đời Càn Long, vua đổi Trung Ḥa Điện Đại Học Sĩ thành Thể Nhân Các Đại Học Sĩ.

[39] Thị Lang là phụ tá của Thượng Thư một bộ, tương đương với Thứ Trưởng hiện thời.

[40] Đạo Doăn là quan đứng đầu một đạo (một đạo gồm nhiều phủ hay huyện). Thời Thanh, cả nước chia ra nhiều tỉnh, mỗi tỉnh chia ra nhiều phủ, mỗi phủ chia ra nhiều huyện. Đôi khi hai ba phủ được gom thành một đạo. Quan đứng đầu một Đạo gọi là Đạo Viên, Đạo Doăn, hay Đạo Đài.

[41] Nguyên văn: “Dương Bộc thùy tam tổ dĩ khoa hương lư”. “Tổ” () là dây thao (dây kết bằng lụa) để đeo quả ấn. Trong Hán Thư, phần Khốc Lại Truyện (truyện những viên quan tàn ác), nơi tiểu truyện Dương Bộc đă viết: “Hoài ngân hoàng, thùy tam tổ, khoa hương lư” (Đeo vàng bạc, ba dây ấn ḷng tḥng để khoe khoang với làng xóm). Nhan Sư Cổ chú giải: “Tước chánh yếu của Dương Bộc là Đô Úy, lại c̣n làm Lâu Thuyền Tướng Quân, kiêm chức Tương Lương Hầu, giữ ba quả ấn, nên gọi là Tam Tổ. Tổ chính là dây đeo ấn”. Do vậy về sau dùng từ ngữ “thùy tam tổ” để phiếm chỉ người kiêm nhiệm nhiều chức tước, quan cao vinh hiển.

[42] Đô Tuần là chức quan giữ nhiệm vụ kiểm soát, tuần tra sông ng̣i, bảo đảm trị an trên đường thủy, tu bổ đê điều, bến cảng.

[43] Tướng Quốc chính là danh xưng khác của chức vụ Tể Tướng. Tùy theo thời đại, danh xưng thay đổi như sau:

1. Từ đời Tần gọi là Thừa Tướng, chia làm Tả Thừa Tướng đứng đầu quan văn; Hữu Thừa Tướng đứng đầu quan vơ; Trung Thừa Tướng đứng đầu hoạn quan.

2. Đời Hán gọi là Tướng Quốc, nhưng dân gian vẫn quen gọi là Thừa Tướng, rồi đổi thành Đại Tư Đồ. Đến thời Đông Hán, bỏ chức Thừa Tướng, nhiệm vụ của Thừa Tướng do Tư Đồ, Tư Không và Thái Úy đảm nhiệm. Đến thời Hán Hiến Đế, lập lại chức Thừa Tướng do Tào Tháo đảm nhiệm.

3. Đến thời Nam Bắc Triều, không có Thừa Tướng, nhiệm vụ của Thừa Tướng do các quan Trung Thư Giám, Trung Thư Lệnh, Thị Trung, Thượng Thư Lệnh, Bộc Xạ hoặc Lộc Thượng Thư Sự đảm nhiệm.

4. Thời Tống, Thừa Tướng được đổi tên là Đồng B́nh Chương Sự, rồi đổi thành Thượng Thư Tả Bộc Xạ kiêm Môn Hạ Thị Lang, rồi đổi thành Thái Tể, cuối cùng lại lập ra Tả Hữu Thừa Tướng, nhưng Tả Thừa Tướng địa vị cao hơn Hữu Thừa Tướng.

5. Đến đời Minh, Minh Thái Tổ phế bỏ Thừa Tướng, lập ra các chức Nội Các Đại Học Sĩ, có nhiệm vụ chỉ chuyên giải quyết văn thư. Cuối cùng, phải lập ra chức Thủ Phụ đứng đầu các Đại Học Sĩ, thực chất là Thừa Tướng.

6. Đời Thanh cũng không lập Thừa Tướng, nhưng chức Quân Cơ Đại Thần có quyền hạn tương đương Thừa Tướng.

Do các Đại Học Sĩ có cơ hội trở thành Thủ Phụ hoặc Quân Cơ Đại Thần nên thời Minh – Thanh, khi một người trở thành Đại Học Sĩ sẽ được gọi là “bái tướng”. Tả Thừa chính là Tả Thừa Tướng.

[44] Thiếu Tư Nông là gọi tắt của chức Tư Nông Thiếu Khanh. Tư Nông Ty (về sau đổi tên là Đại Tư Nông Ty) là một cơ quan được đặt ra dưới thời Nguyên nhằm trông coi việc phát triển nông nghiệp, thủy lợi, pḥng vệ đê điều, đồng thời quản trị “nghĩa thương” (kho lẫm chứa lương thực cứu tế khi có thiên tai xảy ra). Về sau, kiêm thêm nhiệm vụ sưu tập, bảo quản thư tịch nông nghiệp từ thời cổ. Đứng đầu cơ quan Đại Tư Nông Ty là Đại Tư Nông Khanh, kế đến là Tư Nông Thiếu Khanh, Thừa, Kinh Lịch, Đô Sự v.v...

[45] Chuẩn Đề Trai là ăn chay mười ngày trong tháng gồm mồng Một, mồng Tám, Mười Bốn, Rằm, Mười Tám, Hai Mươi Ba, Hai Mươi Bốn, Hai Mươi Tám, Hai Mươi Chín và Ba Mươi.

[46] Vị Ương là cung điện của nhà Tây Hán, do Hán Cao Tổ (Lưu Bang) xây dựng tại Lạc Dương.

Đông Phương Sóc (154-93 trước Công Nguyên), vốn họ Trương, tự là Mạn Thiến, người huyện Khương Thứ, B́nh Nguyên (nay là trấn Thần Đầu huyện Lăng, tỉnh Sơn Đông), nổi tiếng về tài thơ phú. Thời Hán Vũ Đế, ông dâng thư tự đề cử ḿnh. Vua đọc thư, thích thú, triệu vào phong chức Thường Thị Lang. Ông học rộng, nghe nhiều, hoạt kê, lại khéo biết đón ư vua, nói lời ve vuốt, đùa bỡn đúng lúc, nên vua rất ưa thích, thường cho ở bên cạnh để hỏi han này nọ; nhưng vẫn coi ông như một thằng hề để giải sầu, chẳng hề trọng dụng, giao phó cho một nhiệm vụ quan trọng nào. Để giải tỏa nỗi ḷng uất ức, ông viết những tác phẩm Đáp Khách Nạn, Phi Hữu Tiên Sinh Luận và Thần Dị Kinh (ghi chép những chuyện hoang đường). Ông được đời sau tô vẽ, nhất là bọn đạo sĩ thần thánh hóa, coi như một nhà phương thuật đại tài, vốn là tiên trên trời bị giáng trích, có phép biến hóa, chứ thật ra ông chẳng hề dính dáng ǵ tới Đạo giáo.

[47] Đại Cát Tường Thiên Nữ (Śrī-mahā-devī), c̣n dịch là Thiện Thiên Nữ, Ma Ha Thất Lỵ, Thất Lỵ Thiên Nữ, Cát Tường Công Đức Thiên, Bảo Tạng Thiên Nữ, hay Đệ Nhất Oai Đức Thành Tựu Chúng Sự Đại Công Đức Thiên, là một vị thần chủ quản phước đức trong Mật Giáo. Bà là con gái của Đức Xoa Ca Thiên và Quỷ Tử Mẫu, em gái của Tỳ Sa Môn thiên (Vaisrvana), vợ của Na La Diên, mẹ của Ái Dục Thần (Kama). Bà có rất nhiều tên; trong Đại Cát Tường Thiên Nữ Thập Nhị Khế Nhất Bách Bát Danh Vô Cấu Đại Thừa Kinh có nêu ra 108 danh xưng khác nhau. Bà thường được tạc tượng như một thiên nữ xinh đẹp, tay trái cầm châu Như Ư, tay mặt kết ấn Thí Vô Úy. Trong Mật Giáo có riêng một nghi thức sám hối gọi là Cát Tường Thiên Nữ Pháp và có Mandala riêng. Theo kinh Niết Bàn, bà có em gái là Hắc Ám Thiên Nữ thường đi sát với chị để gieo họa cho người đời, ngụ ư: Họa phước thường theo sát nhau. Trong kinh Kim Quang Minh, Đại Cát Tường Thiên Nữ có nói một bài chú, bài chú ấy được đưa vào phần Thập Chú trong khóa tụng buổi sáng của Thiền môn, tức Thiện Thiên Nữ Chú.

[48] Kiên Lao Địa Thần (Prthivi), c̣n dịch là Địa Thiên, hoặc Tŕ Địa Thiên, là một vị Bồ Tát thị hiện thành thần để hộ pháp trong Phật giáo, thuộc về một trong mười hai vị đại thiên quan trọng trong Mật Tông. Kiên Lao nghĩa là kiên cố, vững chắc, không lay động như đất. Do đất rộng lớn, cứng chắc, không bị hủy diệt, có thể dung chứa chuyên chở tất cả, lại sanh thành muôn vật nên Kiên Lao Địa Thần có h́nh dáng nữ nhân xinh đẹp, phúc hậu. Theo Đại Phương Quảng Trang Nghiêm Kinh, khi Thích Ca Mâu Ni sắp thành đạo, ma vương đến quấy nhiễu, đức Phật kết ấn Địa Xúc, Kiên Lao Địa Thần bèn từ dưới đất vọt lên, chứng thực công hạnh của Phật, đồng thời cúng dường đức Thế Tôn b́nh bảy báu đựng đầy hương hoa. Vị này được coi là thống lănh của tất cả các vị Chủ Địa Thần trong mười phương thế giới.

[49] Đức Lưu Hầu chính là Trương Lương (?-186 trước Công Nguyên). Trương Lương tên tự là Tử Pḥng, được phong làm Đức Lưu Hầu, vốn quê ở Thành Phụ nước Hàn (nay là Hào Châu, tỉnh An Huy). Ông là mưu thần bậc nhất của Hán Cao Tổ (Lưu Bang) đă giúp sức dựng nên nhà Hán. Trương Lương cùng với Tiêu Hà và Hàn Tín được gọi là Hán Sơ Tam Kiệt (ba vị hào kiệt đầu đời Hán). Khi Hán Cao Tổ đă lên ngôi hoàng đế, đem ḷng nghi kỵ công thần, giết hại cả những người thân thích như Phàn Khoái, ông liền cáo bệnh, nói thác là học tu tiên, phải tịch cốc (không ăn), xin miễn chầu. Do Hán Cao Tổ rất trọng và nghe theo ư kiến của Trương Lương, Lă Hậu mới ra sức ép Trương Lương ăn uống b́nh thường nhằm lợi dụng Trương Lương trong công cuộc tranh giành quyền lực cho con trai.

Lă Hậu tên thật Lă Trĩ (241-180 trước công nguyên), quê ở Đơn Phụ (nay là Đơn Huyện, tỉnh Sơn Đông), là vợ cả của Hán Cao Tổ. Bà lấy Lưu Bang khi ông ta c̣n là một viên đ́nh trưởng ở đất Bái, sanh hạ một trai, một gái cho Lưu Bang, tức là Hán Huệ Đế (Lưu Doanh) và Lỗ Nguyên Trưởng Công Chúa. Bà tích cực củng cố quyền lực cho nhà Hán. Chính bà đă xúi vua, đồng thời bày kế giết hại Hàn Tín và các vua chư hầu như Anh Bố, Bành Việt v.v... Ngay cả người theo vua từ thuở mới lập nghiệp là Tiêu Hà cũng bị hạ ngục. Do Hán Cao Tổ về già say mê đắm đuối nàng Thích Cơ, toan lập con của Thích Cơ là Lưu Như Ư làm Thái Tử, phế trừ Lưu Doanh, Lă Hậu không tiếc sức kết bè kéo cánh nhằm bảo vệ ngai vàng tương lai cho Lưu Doanh. Đến khi Hán Cao Tổ chết, Lă Hậu hăm hại Thích Cơ, trả thù tàn nhẫn (sử chép Lă Hậu đă cắt chân, cắt tay, khoét mắt Thích Cơ, quăng vào nhà xí, cho sống dở, chết dở trong ấy), giết chết Lưu Như Ư (dù Hán Huệ Đế hết ḷng che chở) đồng thời làm chuyện vô luân là bắt Hán Huệ Đế phải lấy Trương Yên (con gái của Lỗ Nguyên Trưởng Công Chúa) làm Hoàng Hậu (tức là cậu lấy cháu).

[50] “Bạch câu” là con ngựa non lông trắng. Theo Tân Thế Kỷ Hiện Đại Hán Ngữ Từ Điển (do Vương Đồng Ức chủ biên), Câu () là con ngựa non từ hai tuổi trở xuống, cao từ năm thước trở lên, sáu thước (thước Tàu, một thước chừng 30 cm) trở xuống, mạnh mẽ. “Câu” c̣n có nghĩa là tuấn mă.

[51] Hối Cơ chính là pháp hiệu của ngài Hoàng Long, tổ sư ḍng Thiền Hoàng Long. Do Sư trụ tại núi Hoàng Long nên thường gọi là Hoàng Long Hối Cơ, hoặc chỉ gọi là Hoàng Long Thiền Sư.

[52] Kiếp Bối (Karpasa), c̣n phiên âm là Kiếp Ba Dục, Kiếp Ba La, Kiếp Ba Sa, Kiếp Bối Sa, dịch nghĩa là Thời Phần Thụ, là tên một loài cây. Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa giảng: “Kiếp Ba Dục, hoặc nói là Kiếp Bối đều là sai, âm đúng là Ca Ba La, có thể chế vải. Ở phương Nam nước Kế Tân có nhiều loại này, mọc thành cây to. C̣n ở phương Bắc, cây nhỏ hơn, h́nh dáng như Thổ Quỳ. Hoa nó cắt ra có sợi như tơ liễu, có thể se thành sợi để dệt vải”.

[53] Bạch điệp là một loại vải mịn mặt, dệt bằng bông nơn.

[54] “Kiếp thạch” là thành ngữ chỉ kiếp số dài lâu không thể tưởng tượng được. Theo Trí Độ Luận, quyển 5, có tảng đá rộng bốn mươi dặm, có người trường thọ mỗi năm dùng áo mềm phẩy qua tảng đá một lần cho tới khi tảng đá ấy ṃn hết mà kiếp vẫn chưa hết. Do vậy, mới gọi tảng đá ấy là “kiếp thạch”.

[55] Nam Đường Hậu Chủ (937-978) chính là vua cuối cùng của nhà Nam Đường, tên là Lư Dục, tự là Trùng Quang, hiệu là Trọng Sơn Ẩn Sĩ, ông hoàn toàn không quan tâm đến chánh sự, chỉ thích làm thơ, viết văn, vẽ vời.

[56] Tức là loại giấy cứng có thể chịu đựng được sức kéo đến 100g/cm2.

[57] “Giá một trang sách ở đây” được dùng với ư nghĩa: Đem tiền công in cả hai vạn bộ sách, chia cho 210 trang th́ mỗi trang trị giá 30 đồng, chứ không phải để in mỗi trang sách phải tốn tới 30 đồng.