Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích

Cảm Ứng Tụng

Quyển 3

觀世音菩薩本跡感應頌,

卷三

彭澤菩薩戒弟子許止淨述

Phần 1

Bành Trạch Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh soạn

Ấn Quang Đại Sư giám định

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang

 

2.4 Hoằng pháp:

 

      Trong phần này chia thành sáu đoạn:

      1. Ứng hóa.

      2. Thuyết pháp.

      3. Ban cho người nối tiếp ḍng pháp.

      4. Hộ pháp.

      5. Khơi mở trí huệ.

      6. Chứng quả

 

2.4.1 Ứng hóa

 

      1. Bèn có: Truyền Phật tâm nơi Hùng Nhĩ[1], Thiền nở đóa hoa năm cánh[2]. Hóa trẻ khóc trong tổ ưng, lưu dấu linh hiển hai triều.

      2. Sa-di làng Quát xứng danh giải thoát, đại sĩ Tứ Châu trọn đủ thần thông.

      3. Trên băi Kim Sa, diệu nữ truyền kinh, trước đền Trung Hiếu, đạo nhân trao quyển.

      4. Đạo lưu hành Nhĩ Hải, tranh nhau truyền bảy lần ứng hiện. Hiện trú động Triều Âm, soạn truyện Nhị Đại Sĩ lưu truyền.

      5. Thế độ Đàm Tạng, biết người kham nhập đạo tuyệt vời. Dạy dỗ Phổ Minh, tin tưởng chí độ sanh rộng lớn.

      6. Giúp Thí Thị hiếu thảo song đường, hai phen Diệu Hải Cung t́m tới. Ấm ḷng ông Ngô t́m mẹ, bên ngọn Đại Dữu ba lượt hiện thân .

      7. Ba năm thường kêu gọi, túc nghiệp rốt cuộc ngầm tiêu. Ngẫu nhiên tŕ nửa quyển, mẹ hiền đă khuất siêu thăng.

      8. Bà lăo cài hoa, dạy vua bố thí. Hồ tăng mắt biếc, răn vua dứt can qua.

      9. Cưỡi mây ra đi, tăng ngưỡng mộ thanh danh Hoa Tử. Chặt đầu chẳng tổn, văn hồi kiếp nạn đám nâu sồng.

      10. Cho cô gái có tháng ăn trên biển, cảnh chẳng ngại tâm. Con hiếu ngủ đầu non, mẹ vốn là Phật.

      11. Dưới nhằm siêu độ quỷ thần, c̣n hiện thân Tiêu Diện. Muốn độ tiểu trùng, thị hiện Diệu Hương Khẩu. Đều là hiện h́nh đồng loại, sống chung nhằm hóa độ. Đấy chính là chuyện hoằng pháp thứ nhất của Đại Sĩ vậy.

 

      (1) Theo Truyền Đăng Lục, Tổ Bồ Đề Đạt Ma đắc chánh pháp nhăn tàng, vượt biển cả đến Nam Hải. Lương Vũ Đế xuống chiếu mời đến Kim Lăng (Nam Kinh), [đối đáp] chẳng khế hợp căn cơ, Sư bèn ngầm qua [lănh thổ của nhà] Bắc Ngụy, ngồi nh́n vách suốt chín năm tại chùa Thiếu Lâm. Về sau, gặp được Huệ Khả, Tổ bèn truyền tâm ấn của Phật, rồi ngồi qua đời, chôn tại núi Hùng Nhĩ. Hai năm sau, sứ giả nhà Ngụy là Tống Vân gặp Sư ở Thông Lănh (Pamir) chỉ quảy một chiếc dép, đi một ḿnh phơi phới. Hỏi Sư đi đâu, Ngài nói về Tây Thiên. Tống Vân trở về tâu lên Ngụy Chúa, vua sai mở quan tài ra xem, chỉ thấy c̣n một chiếc dép. Cơi đời đồn Sư là Quán Âm hóa thân.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập Một, chép truyện Bảo Chí Đại Sĩ đời Lương như sau: Trước kia, có bà Châu ở Đông Dương, Kim Lăng, nghe tiếng trẻ khóc trong tổ chim ưng, bèn trèo lên cây ẵm về nuôi làm con. Sư theo học Thiền với ngài Tăng Kiệm. Đầu niên hiệu Thái Thỉ đời Tống, Sư chợt hiện tướng lạ, treo kéo và gương nơi đầu trượng, hoặc treo lụa. Trong niên hiệu Kiến Nguyên đời Tề, Ngài biến hiện đôi chút thần dị. Những lời Ngài nói với người khác, thoạt đầu khó hiểu, nhưng về sau đều ứng nghiệm. Lương Vũ Đế rất tôn sùng, kính trọng. Trong lời chiếu có những câu như “lửa nước chẳng thể đốt cháy, nhấn ch́m, rắn, cọp chẳng thể xâm hại làm cho sợ hăi, những lời Sư nói đều thuận Phật lư, ắt phải là bậc từ Thanh Văn trở lên” v.v... Vua từng sai Trương Tăng Do vẽ tượng, ngài Bảo Chí liền biến đổi sắc mặt, xuất hiện tướng Quán Âm mười hai mặt, diệu tướng đẹp đẽ khác thường, hoặc từ bi, hoặc oai mănh, Tăng Do chẳng thể vẽ được.

      Lại nữa, cả nhà ông Trần Chinh Lỗ tôn sùng ngài Bảo Chí, Ngài liền v́ nhà họ Trần hiện chân tướng, tướng hảo quang minh giống hệt như Bồ Tát. Những sự tích linh dị khác đều chẳng thể ghi chép trọn.

      (2) Theo Phó Đại Sĩ Ngữ Lục, Đại Sĩ mộng thấy đức Thế Tôn bảo: “Ta sai một sa-di giúp ngươi hoằng dương giáo hóa”, chợt từ trong miệng Phật nhả ra một đứa bé. Sau đấy, có Huệ Tập t́m đến, đấy chính là sa-di được thấy trong mộng vậy. Huệ Tập là người làng Đại Quát, huyện Phú Xuân, Ngô Quận, gặp Phó Đại Sĩ, liền khai ngộ thông suốt pháp môn giải thoát, bèn du hành khắp quận, bố thí, phóng sanh, cứu khổ, trị bệnh, các thứ công đức chẳng thể thuật trọn. Phó Đại Sĩ bảo mọi người: “Huệ Tập là Quán Âm, Phổ Mẫn là Văn Thù”.

      Theo Cao Tăng Truyện tập Ba, đời Đường, Tăng Già Đại Sĩ người nước Bắc Hà ở Thông Lănh, đi khắp nơi, đến miền Giang Hoài, mới tỏ lộ sự thần dị. Ngài từng nằm trong nhà của Hạ Bạt, thân dài hơn giường cả ba thước, hiện h́nh Quán Âm mười một mặt. Họ Hạ liền biến nhà thành chùa. Đường Trung Tông đón Sư vào cung, tôn làm Quốc Sư. Nếu có ai bị bệnh, Sư dùng cành dương phẩy qua, hoặc sai rửa tượng sư tử bằng đá, hoặc quăng b́nh nước, hoặc bảo bắn qua thân, hoặc trừ khử tai họa nơi thân người ấy bằng cách bảo kẻ ấy đi t́m ngựa, hoặc cảnh giác về tai ách gió băo bằng chiếc quạt trắng, hoặc nhận tiền của gă trộm, hoặc kêu to: “Sợi dây đen buộc nơi cổ”, hoặc t́m giếng La Hán, hoặc biết Bùi Thị chết đuối, dự đoán trước trời sẽ đổ tuyết [vào lúc nào], cứu hạn hán bằng cách tuôn mưa. Thần biến khôn ngằn, chẳng thể suy lường được. Vua hỏi Vạn Hồi, Sư nói: “Tăng Già, người nước Hà, chính là Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân vậy”.

      (3) Theo Quán Âm Cảm Ứng Truyện, năm Nguyên Ḥa 12 (817) đời Đường, trên băi Kim Sa ở Thiểm Hữu có một cô gái xinh đẹp xách giỏ bán cá, người ta đua nhau muốn cưới cô ấy. Cô gái nói: “Tôi dạy kinh, ai trong một tối có thể tụng thuộc phẩm Phổ Môn th́ sẽ lấy người đó”. Sáng hôm sau có hai mươi người làm được. Cô gái nói: “Một thân làm sao gả cho nhiều chồng? Xin đổi sang học kinh Kim Cang, theo đúng hạn định như trên”. Người làm được như vậy chỉ c̣n một nửa. Cô lại đổi sang kinh Pháp Hoa, hạn định ba ngày, chỉ có một người họ Mă làm được. Vừa mới đón dâu về, cô gái liền chết ngay. Ngay lập tức, thi thể rữa nát hết, liền đem chôn. Về sau, có vị Tăng cùng chàng họ Mă quật mồ, [thấy trong quan tài] chỉ c̣n lại mảnh xương đ̣n gánh[3] bằng vàng ṛng. Vị Tăng nói: “Đấy là Quán Âm Bồ Tát thị hiện để hóa độ người đời”. Đến hôm trăm ngày, vị Tăng bay lên không đi mất. Cảnh Liêm đời Tống có làm bài tán.

      Theo lời tựa cho bài Dương Trung Mẫn Gia Huấn, ông Trần Quân Tuyển có đứa con bị lao, sang Nam Hải cầu đảo. Giữa đường đi ngang qua Trung Hiếu Từ, nghe có tiếng người gọi tên, ngạc nhiên nh́n th́ thấy có một đạo nhân bảo: “Ông mắc oan khiên đời trước, trả báo nơi con ông. Cầu khẩn Bồ Tát th́ phải thấu hiểu tấm ḷng như cha mẹ của Ngài, giúp đỡ người nghèo khó, tận lực làm lành”, rồi rút ra một quyển sách, bảo: “Đây là mười chín điều gia huấn của Dương Tiêu Sơn, ông nên vâng làm theo th́ bệnh con ông sẽ mau lành. Nếu lưu truyền rộng răi sẽ được phước vô lượng”. Nói xong, chợt biến đâu mất. Ông Tuyển biết đó là Đại Sĩ hóa thân, liền trở về nhà, kể lại chuyện gặp gỡ. Đứa con nghe chuyện vui mừng, bệnh giảm một nửa. Hơn tháng sau lành hẳn, về sau đỗ đạt.

(4) Sách Nhĩ Hải Tùng Đàm có chép bảy lần ứng hóa của đức Quán Âm:

- Lần thứ nhất là trong niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường, Ngài hóa làm ông lăo râu trắng, đội măo cánh sen hồng, khoác ca-sa, cầm bát đến nhà nông dân khất thực.

- Lần thứ hai, hóa thân làm vị Tăng người Ấn Độ, cầm bát đến nhà người đàn bà đưa cơm [cho nông phu ngoài đồng] khất thực.

- Lần thứ ba hóa làm một vị Phạm tăng ngồi ở tảng đá trên núi báu, trước mặt có con trâu xanh, bên trái có con ngựa trắng, bên phải có con voi trắng, chung quanh có mây năm màu che phủ. Trong mây có hai đồng tử, một đồng tử cầm trượng, đứa kia cầm gương, một hồi lâu bèn ẩn.

- Lần thứ tư hóa thành một vị Tăng, cầm trượng, ôm bát, dẫn con chó trắng đi khất thực ở quận Khai Nam. Trong thôn, Sư thường bắt trộm những con chó dữ, [dân làng] bèn bắt vị Tăng ấy, chặt chân tay; trong khoảnh khắc Sư sống lại, họ lại giết chết, đốt xương ra tro, đựng trong ống tre, d́m xuống nước. Trong khoảnh khắc, ống tre vỡ, Sư thoát ra, h́nh thể chẳng bị tổn hại ǵ. Cả thôn kinh sợ, quy y.

- Lần thứ năm hóa thành vị Tăng cầm cành dương, xỏ guốc gỗ bước đi, [người khác] giục ngựa đuổi theo chẳng kịp. Dùng tên bắn th́ những mũi tên đều hóa thành hoa sen. Hiện thời, vùng Nhĩ Đông c̣n nói tới “liên hoa thái” (rau hoa sen).

- Lần thứ sáu hóa thân thành một vị du Tăng, chợt bay lên không, hiện tướng Đại Sĩ, ánh sáng chói ḷa khiến người ta chẳng dám ngửa mặt lên nh́n. Có cụ già đúc tượng theo h́nh tướng ấy để thờ phụng.

- Lần thứ bảy hóa thành vị Tăng tên là Bồ Đề Đà Ha, nói: “Ta là Tây Phương Liên Hoa Bộ Tôn Giả A Tha Da Quán Âm, hành hóa tới phương này, nay ở yên”. Nói xong, bèn tịch. Đấy chính là hóa thân của Đại Sĩ vậy.

      Theo Phổ Đà Chí, trong niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, có một nam, một nữ tới đảnh núi phía Nam động Triều Âm, h́nh dáng như ăn mày, nhưng cách nói năng chẳng thể coi thường được. Hỏi tên họ th́ đáp: “Có tên họ ǵ đâu?” Hỏi đến tuổi tác, đáp: “Có tuổi tác ǵ!” Hỏi là người ở đâu, đáp: “Có nơi chốn nào đâu”. Hỏi đă thấy được đạo nào, đáp: “Mắt thấy biển cả; tai nghe tiếng gió, tiếng mưa, tiếng sóng, tiếng chim”. Hỏi: “Hành công phu nào?” Đáp: “Hễ nghĩ đến Quán Thế Âm bèn niệm mấy tiếng, chẳng có công phu chi cả!” Về sau, người đến xem đông nghẹt bèn nói: “Mỗi người các ông hăy nên an ổn rời đi, hỏi han ta làm chi?”, liền chẳng thấy họ đâu nữa. Thích Chân Nhất viết Nhị Đại Sĩ Truyện để lưu truyền.

      (5) Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Đường, ngài Đàm Tạng năm mười lăm tuổi muốn xuất gia nhưng không có thầy, bèn kính cẩn niệm Quán Âm, liền nghe có tiếng chuông, thấy một ngôi chùa Tăng bèn tới xin xuống tóc. Xuống tóc xong, Sư liền đưa ra khỏi cửa, đi khoảng một trăm bước, nh́n lại đă không thấy chùa đâu nữa! Về sau, ngài Đàm Tạng trở thành đại pháp sư. Đường Thái Tông năm lượt thỉnh Sư thuyết pháp, hai lần mời vào cung.

      Theo lời tựa của Quán Âm Bổn Hạnh Kinh, vào đời Tống, sư Phổ Minh ở xứ Thượng Thiên Trúc thấy một vị lăo tăng bảo: “Ông chỉ tu đạo vô thượng thừa th́ chỉ tiếp độ hàng thượng căn, làm sao có thể cứu vớt trọn khắp? Hăy nên diễn nói, tuyên dương Tam Thừa, hành pháp Đốn lẫn pháp Tiệm, rộng độ hàng trung hạ căn th́ mới là báo ân Phật”. Sư hỏi: “[Pháp nào mới có thể độ người?” Tăng nói: “Cơi này có nhân duyên xa xưa với Quán Thế Âm Bồ Tát, hăy nên đem đầu đuôi hành trạng của Bồ Tát lưu hành trong cơi đời. Kẻ cúng dường, tŕ tụng, phước chẳng luống uổng”. Ngay lúc ấy, do đă nói xong trọn hết nguyên do, vị lăo tăng ấy liền ẩn thân biến mất.

      (6) Theo sách Quái Viên, vào đời Minh, vợ ông Vưu Tích Thụ là Thí Thị hiếu thảo với bố mẹ chồng, chợt bị ung thư thực quản. Có đạo cô bảo: “Ta từ Nam Hải đến, tên là Diệu Hải”, trao cho Thí Thị một viên thuốc màu đen bảo uống. Đạo cô hỏi: “Ngươi đă ăn chay hay chưa?” Thưa: “Có lúc giữ, có lúc không”. Đạo cô bảo: “Ma đấy!” rồi vẽ một đạo bùa trên trán để trấn áp. Ra khỏi cửa, chợt chẳng thấy [đạo cô] đâu nữa! Ngày hôm sau, Thí Thị liền ăn uống được. Năm sau, theo mẹ chồng đến Phổ Đà lạy tạ, thấy ba chữ Diệu Hải Cung càng tin tưởng là Đại Sĩ hiển hóa.

Trở về, lại có một đạo cô đến bảo: “Ta công hạnh đă viên măn, chỉ có tấm ḷng độ người là chưa thỏa”. Lại than thở: “Ngươi có năm tướng ngắn ngủi: Nhật nguyệt, tam quang ngắn ngủi (tuổi thọ ngắn ngủi), gặp gỡ cha mẹ ngắn ngủi, duyên anh em ngắn ngủi, duyên vợ chồng ngắn ngủi, duyên lục thân[4] ngắn ngủi. Ngươi chỉ thọ hai mươi chín tuổi, do bỏ tiền đúc một bức tượng vàng, lại từng thí tiền khắc một bức ván in kinh, lại c̣n tặng cho người đói một thố cơm. Ba điều lành ấy khiến cho ngươi thọ thêm ba năm. Lại gặp được nhục thân Bồ Tát điểm hóa nên chẳng chết yểu ngay”. Thí Thị sụp lạy cầu tiếp độ, đạo cô liền truyền ba giới: “Một, đoạn t́nh chồng vợ; hai, trừ phiền năo; ba, buông bỏ nghiệp duyên tài sản”. Đạo cô lấy ra một cái đỉnh, mùi hương lạ tỏa thơm ngát, cắm bốn thứ hoa: Hạnh, hoa sen, thù du tía[5], hồng mai. Trên hoa có đậu các thứ chim yến non, bướm, mỗi thứ một đôi, bảo: “Đây là món báu trong cung Đâu Suất”. Thí Thị lại sụp lạy, chớp mắt chẳng thấy đâu nữa. Ḷ hương, hoa, chim, đồng thời biến mất.

      Theo Tiên Tâm Lục, vào đời Minh, mẹ của Ngô Chương được tuyển vào nội đ́nh, về sau theo thân vương phi[6] đến Thiều Châu. Ngô Chương bỏ nhà đi t́m mẹ, trong thuyền bày tượng Đại Sĩ, xót xa cầu đảo, khẩn thiết tột bậc, nguyện ắt gặp được mẹ. Vừa đến xứ Thiều, mẹ lại theo vương tới Nhiêu Châu. Ngô Chương bôn ba trên đường cát sỏi, chân đỏ bầm, nứt nẻ, nằm dưới mái hiên chùa. Có đạo nhân tự xưng là họ Tiêu, bó thuốc cho, chân liền lành. Đi qua Dữu Lănh, bị con rắn đen mổ vào chân, đau đớn cùng cực, xây xẩm, ngă lăn ra, lại thấy Tiêu đạo nhân bôi thuốc, hết ngay đau đớn. Vào túp lều tranh trong hoang thôn, gặp một cô gái tuyệt đẹp, Ngô Chương nói: “Tâm tôi như dây mây khô, há c̣n có dâm ư?” Bươn bả ra khỏi cửa th́ lều tranh không thấy nữa.

Tuyết xuống dầy mấy thước, Ngô Chương ́ ạch tiến bước. Nghỉ tại ngôi miếu cổ, lại thấy Tiêu đạo nhân đến, vỗ lưng nói: “V́ mẹ quên thân, quả là chàng trai kiên quyết, trời chẳng phụ nỗi khổ tâm của ngươi, không lâu nữa sẽ gặp mẹ”. [Chàng Ngô] lôi bánh ra gặm, quên ngay nỗi đói lạnh. Ngày hôm sau, họ Ngô t́m đường đến Nhiêu Châu, tâu lên vương, xin đón mẹ về phụng dưỡng suốt đời. Thoạt đầu, vương không chấp nhận. Về sau, mẹ bệnh ngặt nghèo, vương truyền cho vào gặp, mẹ đă hôn mê không nhận được ai. Ngô Chương đốt hương cầu trời, cắt thịt đùi nấu cháo dâng lên. Mẹ tỉnh lại, ôm nhau khóc. Vương khen Ngô Chương là người hiền, thưởng cho vàng lụa, sai đưa mẹ về. Sau này, con là Hồng, cháu là Sơn đều làm quan đến chức Thượng Thư, đỗ đạt không ngớt.

      (7) Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Tùy, sư Hồng Măn lúc chưa xuất gia hai chân co quắp, tụng Quán Âm Kinh ba năm, chợt thấy một vị Tăng đứng trước mặt, hỏi: “Sư từ đâu tới?” Đáp: “Do ngươi thường gọi nên ta tới. Đời trước, ngươi từng bắt trói loài vật, dư ương gây nên như thế. Ngươi nhắm mắt lại, ta sẽ chữa trị cho ngươi”. Hồng Măn cảm thấy trên hai đầu gối vừa được nhổ đi cây đinh dài mấy tấc. Mở mắt ra, vị Tăng đă biến đâu mất, mới biết đấy là Quán Âm.

      Câu dưới xin xem lời chú thứ 16 trong đoạn “cứu vớt sự đọa lạc”. Thêm nữa, trong Kim Cang Linh Ứng cũng chép chuyện này.

      (8) Theo Phổ Đà Chí, năm Khang Hy 28 (1689) đời Thanh, vua tuần du phương Nam, sắp đến Ḥa Thành, chợt thấy một bà cụ giắt một đóa hoa hồng, một ḿnh bơi chiếc thuyền con lướt ngang trước thuyền ngự. Vua hỏi: “Thuyền ǵ thế?” Đáp: “Thuyền chài”. “Có cá không?” Đáp: “Có”. Khoảnh khắc chẳng thấy đâu nữa. Mọi người bảo đó là Đại Sĩ hóa thân, vua bèn ban tiền để tu bổ ngôi chùa báu.

      Theo Phổ Đà Chí, đời Tống, Việt Vương là Sử Hạo cầu đảo tại động Triều Âm, được thấy tướng lành. Ban đêm, có vị Tăng đến thăm, bảo: “Ngài sẽ làm Thái Sư giống như Văn Lộ Công, nhưng quan gia dụng binh phải hết sức cân nhắc. Hai mươi năm sau, tôi sẽ gặp gỡ ngài nơi đất Việt”. Về sau, ông Sử làm tướng trấn giữ đất Việt. Có đạo nhân tự xưng đă từng quen biết với Thừa Tướng, kẻ gác cửa cự tuyệt không cho vào, đạo nhân bèn rút bút viết rằng: “Lộ thừa tướng đầu đen trùi trũi, vẻ vang vạn dặm rạng ngời thêm, Hồ tăng mắt biếc năm xưa ấy, tṛ chuyện cùng nhau suốt một đêm”, rồi bỏ đi. Ông Hạo nhớ lại chuyện ở Phổ Đà đuổi theo th́ đă không thấy đâu nữa!             (9) Trong niên hiệu Gia Tĩnh - Long Khánh đời Minh, có Hoa Tử[7] Quán Âm chẳng biết tên họ là ǵ, thường mặc quần áo lam lũ xin ăn; do vậy, đặt tên là như thế. Ngài thường nằm ngủ dưới chân tượng Kim Cang chùa Thiên Phật ở kinh đô, biết rành chuyện vị lai của người khác. Mỗi lần Ngài đến xin ăn [nơi nào], thần Già Lam sẽ báo mộng trước. Năm Vạn Lịch thứ 9 (1581), Ngài phun ra lửa tự thiêu, cưỡi mây đi mất.

      Theo Kỷ Sử Thông Giám, trong niên hiệu Hồng Vũ đời Minh, những gă dân ương bướng, phạm tội gian dâm, thường ẩn nấp trong đám sư săi. Vua khinh ghét, bắt một trăm gă phạm tội, đào hố chôn thân họ xuống, cứ mỗi hàng là mười lăm tên cho ló đầu lên, dùng búa chém. Mỗi lần chém là mấy cái đầu rơi rụng. Có vị tăng lạ lùng tên là Tự Tại cũng bị ghép vào hàng ấy; nhân đó hiện thần biến, đầu đứt rồi lại mọc đầu khác, suốt mấy lượt, vua bèn tha chết cho những người c̣n lại.

      Lại nữa, theo truyện của ngài Đàm Thỉ đời [Lưu] Tống trong Cao Tăng Truyện, tập Một, khi Hách Liên Bột Bột[8] phá ải, chém giết vô số, ngài Đàm Thỉ cũng thuộc trong số [những người bị hành h́nh ấy], nhưng đao chẳng thể làm tổn thương được. Bột Bột bèn tha hết các sa-môn không giết.      

      Lại nữa, Thác Bạt Đào[9] hủy diệt Phật pháp, sai các đội quân binh chia nhau đi đốt cháy, cướp bóc chùa chiền, bắt Tăng, Ni bỏ đạo. Hễ bắt được kẻ nào lẩn trốn sẽ chém. Khi ấy, ngài Đàm Thỉ chống tích trượng đến cửa cung, Thác Bạt Đào ra lệnh [hành h́nh] theo luật định, chém nhiều lần mà Sư chẳng thương tổn ǵ. Thác Bạt Đào càng nổi giận đùng đùng, tự rút gươm đang đeo ra chém, thân thể Sư vẫn chẳng khác ǵ, họ Thác bèn phục hưng chánh giáo.

      (10) Theo Phổ Đà Chí, tương truyền có em chồng và chị dâu hai người kiền thành tŕ tụng mấy năm, tới núi lễ bái Đại Sĩ. Vừa cập bến, cô em chồng chợt đến kỳ hành kinh, chị dâu nghĩ như vậy là phạm lỗi, cô em chồng cũng tự thẹn ô uế, chẳng dám lên bờ. Trong khoảnh khắc biển dậy sóng, trong thuyền thiếu thức ăn, chợt có một bà cụ ném những viên đá nhỏ xuống nước, đạp trên đó để lên thuyền, xách giỏ cơm cho họ ăn. Cô em chồng lấy làm lạ, chưa dám nói th́ chị dâu đă bảo: “Ta biết là Đại Sĩ hiện thân”. Chị dâu hướng về phía điện thờ lạy tạ, thấy tượng Đại Sĩ áo xống vẫn c̣n ướt.

      Theo Mộng Hoa Tạp Lục, hiếu tử họ Trương làm nghề đồ tể. Mỗi sáng chùi chậu rửa mặt sạch sẽ, dâng cơm nước hầu mẹ xong rồi mới gánh thịt tươi ra chợ, đổi lấy rượu và thức ăn đem về hầu mẹ xơi. Hễ mẹ không vui bèn diễn kịch, bầy tṛ hát xướng. Mẹ vui th́ anh chàng đồ tể cũng vui. Trong làng có người vầy đoàn đi triều bái Nam Hải, chàng đồ tể cũng muốn cầu thọ cho mẹ, xin đi theo. Ban đêm ở trong quán trọ, anh ta chợt kêu ầm lên, đồng bạn hỏi nguyên do, kể: “Trong mộng nghe thấy tiếng mẹ tôi gọi”, mọi người chán ngán chàng ta bèn [lén] bỏ đi mất. Chàng đồ tể đi một ḿnh lạc đường, lọt vào vùng núi non chập chùng, thấy một túp lều tranh, có một cụ già nhắm mắt, ngồi xếp bằng. Chàng đồ tể xin ngủ nhờ một đêm. Cụ già bảo: “Phổ Đà sơn cách đây mấy ngàn dặm, ngươi làm sao tới đó được? Hơn nữa, trong nhà ngươi tự có Phật, không cần phải đến núi thiêng!” Sáng ra, cụ già lay anh ta dậy, tặng hai tấm bánh, kéo ra sau núi, chỉ lối về. Anh chàng đồ tể ăn một tấm bánh, chân khỏe dị thường, đi mấy dặm, thấy bức tường thành thâm thấp, nh́n kỹ th́ là quê cũ. Tự nghĩ: “Đấy chẳng phải là Bồ Tát chỉ điểm ta đó ư?” Anh ta chạy vội về, lấy bánh cho mẹ xơi. Bánh như tre non, thơm ngọt đă miệng. Mẹ sống ngoài chín mươi mới mất, anh chàng đồ tể vào núi, chẳng biết kết cục ra sao!

      Ghi thêm: Theo Mộng Xưởng Tạp Trước, Mẫn Trinh ở Hán Khẩu mồ côi từ bé. Vừa trưởng thành, thấy có người cúng giỗ treo h́nh ảnh cha mẹ, đau ḷng chẳng biết h́nh ảnh của song thân ra sao, bèn học vẽ, đạt đến mức hết sức khéo léo. Anh ta sáng tối cầu đảo Quán Âm, cầu Bồ Tát rủ từ lực khiến cho gặp được người nào có diện mạo giống như cha mẹ của ḿnh để vẽ h́nh. Người ta cười là gă ngốc. Một hôm, có kẻ lừa gạt, bảo: “Hôm qua tôi từng thấy có ông bà cụ xách giỏ, chống gậy, trông rất giống lệnh thân, đi trên đường vào xứ Kinh - Tương”. Mẫn Trinh vội đuổi theo, mỗi ngày đi hơn hai trăm dặm, quả nhiên gặp ông bà cụ ấy, bèn mời quay về. Vẽ xong, không thấy hai người ấy đâu nữa. Những người già cả nh́n vào bức vẽ, bảo tranh vẽ giống hệt như cha mẹ họ Mẫn, than thở hiếu tâm đă cảm động Đại Sĩ.

      (11) Đối với câu trên xin xem ư đă nêu trong lời chú về h́nh tượng Diện Nhiên trong đoạn tư.

      Theo Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, Quán Thế Âm Bồ Tát muốn độ hữu t́nh, bèn hiện làm ong, trong miệng phát ra tiếng “Nam-mô một-đà-dă” (Namo Buddhaya). Các loài trùng kia nghe tiếng xưng niệm đều được văng sanh, do vậy, [con ong ấy] có tên là Diệu Hương Khẩu. Một-đà-dă chính là Phật-đà-da.

 

2.4.2. Thuyết pháp

 

      1. Bèn có: Xoa đầu Huệ Nhật, khuyên niệm hồng danh. Nghiêm trách Bà La, đừng cầu vương vị.

      2. Chỉ dạy Linh Chiếu, Tịnh Độ chẳng xa. Răn bảo Bách Nương, Tây Phương nên lễ.

      3. Vâng thờ Đại Minh Chú Kinh, nên biết trọng đại. Tụng kinh Kim Cang Bát Nhă, phải thật kiền thành.

      4. Đốt hương cầu phước, đừng quăng giấy chữ. Thành kính tŕ kinh, chớ dùng củi bẩn.

      5. Răn cụ Lă ở Giang Ninh, làm điều thiện ắt hưởng tốt lành. Than ông Đồ xứ Tiền Đường, quá nghiêm khắc, thiếu ḷng nhân hậu.

      6. Tŕ kinh ắt phải quỳ, thường phải nên ân cần cung kính. Kiêng giết ắt văng sanh, rộng ban bố giáo hóa từ bi.

      7. Thói đời ngày càng tệ, quỷ thần giám sát càng nghiêm, dốc ḷng hướng về Tây, Bồ Đề tự nhiên bất thoái.

      8. Ấy là v́ Sa Bà quốc độ, dùng thanh luận ḥng giảng rành rành, quần sanh ngu muội, tuy hiện thân, chẳng biết thuyết pháp.

      9. V́ thế: Đích thân dạy bảo trong Định, hoặc truyền trong mộng, vừa thoảng qua tai, liền thành đạo chủng (Gồm hai đoạn).

      (1) Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời Đường, ngài Huệ Nhật cưỡi thuyền sang Thiên Trúc, lễ thánh tích của Như Lai. Tại nước Kiện Đạt La (Gandhāra), trên ngọn núi của phía Đông thành, Sư kiền thành cầu đảo Quán Âm, đích thân thấy Bồ Tát hiện thân, răn dạy: “Hăy chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, phát nguyện văng sanh th́ sẽ thấy Phật và ta, đắc đại lợi ích. Ông nên biết pháp môn Tịnh Độ vượt trỗi các hạnh”. Lúc trở về, Sư được vua ban hiệu là Từ Mẫn Tam Tạng, siêng tu Tịnh Độ, soạn Văng Sanh Tịnh Độ Tập lưu hành trong cơi đời.

      Theo Đường Tam Tạng Truyện, khi ngài Giới Hiền giảng Du Già (Yogācāra: Duy Thức) cho ngài Huyền Trang, có một vị Bà La Môn nói: “Tôi từng ở núi Bố Trách Ca, đối trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát phát nguyện làm vua. Bồ Tát hiện thân quở trách: ‘Đến lúc nọ sẽ có Giới Hiền giảng Du Già cho vị tăng Chi Na, ngươi đến đó nghe, do nghe pháp sẽ thấy Phật, thành vua để làm ǵ?” Quả nhiên là như vậy.

       (2) Theo Phật Tổ Thống Kỷ, đời Tống, ngài Linh Chiếu mở Tịnh Nghiệp Xă, tham dự có hai vạn người, đa phần được ứng nghiệm. Sư thường mộng thấy nghi dung của Tam Thánh, quỳ hỏi: “Chiếu tụng kinh Đại Thừa mong sanh Tịnh Độ, có được thỏa nguyện hay chăng?” Quán Âm chỉ dạy: “Tịnh Độ chẳng xa, hễ có nguyện liền được văng sanh”.

      Theo Di Kiên Chí, vào đời Tống, Vương Bách Nương mồ côi từ bé, đă xuất giá lại góa bụa, sống nhờ nơi dinh quan của cậu. Trong niên hiệu Thiệu Hưng (1131-1162), bà Vương mắc bệnh câm điếc, người cậu dạy bà Vương hăy dốc ḷng thành nơi Quán Âm, bà Vương bèn sáng tối lễ niệm. Mỗi khi nghỉ ngơi, thấy tướng lành trang nghiêm của đức Quán Âm, răn dạy thiết tha, khuyên lễ Tây Phương Di Đà Phật. Bồ Tát truyền kệ rằng: “Nguyện lực châu sa giới, vân hà độc lễ Tây? Đản năng hồi nhất niệm, xúc xứ thị Bồ Đề” (Nguyện lực trọn sa giới, sao chỉ lễ Tây Phương? Chỉ v́ xoay một niệm, đâu đâu cũng Bồ Đề). Lại dạy bà Vương hăy khuyên khắp mọi người tụng niệm. Chưa đầy một tháng, bệnh liền lành, tâm cũng thông sáng.

      (3) Theo Dị Đàm Khả Tín Lục, em gái tướng quốc nước Trịnh bị hồ ly quấy phá, tụng Tâm Kinh bèn thoát nạn. Lại có nữ quỷ dựa thân, tự xưng là Mậu Tam Cô. Tướng quốc hứa tụng ba trăm quyển Tâm Kinh để siêu độ, [quỷ bèn] chắp tay cảm tạ. Về sau, em gái mộng thấy Đại Sĩ dạy: “Họ Mậu được tụng ba trăm quyển kinh nên trở thành địa tiên[10]. Tâm Kinh của ta trọng đại, hăy càng nên cung kính phụng tŕ”. Tâm Kinh c̣n gọi là Đại Minh Chú Kinh do ngài Cưu Ma La Thập dịch.

      Theo Hải Nam Nhất Chước, trong niên hiệu Đạo Quang (1821-1850) đời Thanh, Nghiêm Thụy Năng ở Phù Lương bị bệnh chết. Sai dịch cơi âm bắt đến một dinh thự. [Diêm Vương] vừa mới thẩm tra th́ Đại Sĩ đến, khoác áo choàng hoa sen, có một ông già đen xạm đi theo. Đại Sĩ bảo: “Thụy Năng chưa hết tuổi thọ, sao lại bắt đến?” [Diêm Vương] liền phạt trượng bọn sai dịch. Đại Sĩ lại nói: “Ba đời nhà Thụy Năng không ăn thịt ḅ, thịt chó, cả nhà tŕ Quán Âm Trai, tụng Quán Âm Kinh. Ông già đen xạm này có thể làm chứng”. Dạy xong, dẫn Thụy Năng đi khắp các địa ngục, răn dạy ông ta khi sống lại, hăy bảo người nhà ăn chay, niệm kinh, ai nấy phải chú trọng thành kính. Hơn nữa, kinh Kim Cang công đức chẳng thể nghĩ bàn, người tụng hăy cẩn thận, đừng có đầu không cuối, rồi đưa về nhà, Thụy Năng liền tỉnh lại.

      (4) Theo Tích Tự Biên, tại miếu Quán Âm ở Kim Lăng, trong các tháng Hai, tháng Sáu, tháng Chín, người đến dâng hương đông nghẹt, quăng bừa băi những bao hương bằng giấy có in chữ, mặc cho tín đồ giẫm đạp. Người đất Hoàn (tỉnh An Huy) là Tôn Hữu Mai, cầu đảo mẹ được lành bệnh, mộng thấy Đại Sĩ dạy rằng: “Người đến thắp hương đa số muốn cầu phước mà nếu quăng bỏ giấy chữ th́ đă ngược ngạo tạo lắm tội nghiệp. Ngươi hăy nên kể lại, nhắc nhở mọi người kính tiếc giấy chữ”. Hữu Mai tỉnh giấc bèn kể với người khác, về đến nhà mẹ đă lành bệnh.

      Theo Vấn Tâm Biên, trong niên hiệu Chánh Ḥa (1111-1118) đời Tống, Lư Bát bị bệnh cùi, các thầy thuốc đều nói chẳng chữa được. Họ Lư trước đó tụng đủ ba tạng Quán Âm Kinh. Đến lúc này, có một vị Tăng cho một viên thuốc, ông Lư nhận lấy nhưng chưa uống. Đêm mộng thấy Tăng nói: “Ta là Quán Thế Âm. Thường ngày ngươi ưa dùng củi dơ nấu đồ ăn xúc phạm quỷ thần, nên mắc phải bệnh ấy. Nghĩ ngươi tụng kinh thành kính, nghiêm cẩn, đặc biệt ban cho ngươi một viên cứu khổ đan, sao lại chẳng uống?” Tỉnh giấc, uống ngay, râu, lông mày lại mọc ra.

      (5) Theo Nam Hải Từ Hàng, ông Lă ở Giang Ninh bệnh nguy cấp, mộng thấy Đại Sĩ bảo: “Ngươi do tụng kinh, ham làm lành, nên được tăng thọ. Hăy nên khuyên khắp người đời, làm lành th́ điều lành sẽ giáng xuống, làm ác th́ tai ương sẽ giáng xuống, tơ hào chẳng sai!”

      Vào đời Thanh, Thái Thú Đồ Tiềm Viên bệnh nguy ngập, mộng thấy Đại Sĩ dạy: “Ngươi đời trước làm quan, công b́nh nhưng nghiêm khắc, rất tổn hại ḷng nhân hậu, lại giết nhiều sanh mạng, đáng mắc quả báo đoản thọ. May là trong khi bệnh tật vẫn ôm ḷng làm lợi ích, cứu giúp, thệ nguyện kiên cố, nên có thể tăng tuổi thọ”.

      (6) Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Ngô Thị là vợ ông Trương, ăn chay, tu Tịnh Độ, mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ dạy hăy quỳ niệm; v́ thế, hễ niệm Phật bèn quỳ.

      Đối với câu kế tiếp, hăy xem lời chú trong số hai trong đoạn Lành Bệnh thứ nhất, tức chuyện Vương Ứng Cát.

      (7) Đối với câu trên, xin hăy đọc lời chú thứ bảy trong đoạn thứ ba nơi phần Trường Thọ về chuyện Thang Sính sống lại. Đại Sĩ dạy ông Sính: “Ông gặp sắc chẳng dâm, nên ta đến cứu. Ngày nay ḷng người hiểm ác, gian dối, quỷ thần giám sát cực nghiêm. Như ông X... lẽ ra thi đậu, nhưng do làm chuyện không đoan chánh nên lỡ làng. Ông Y... tu thiện, cho đến khi công lao đầy đủ sẽ được giáng phước. Ông hăy nên có ḷng tin, ưa làm lành”.

      Theo Tây Phương Công Cứ, vợ của Bành Tế Thanh là Phí Thị qua đời. Hoàng Kính Phu lễ bái Phổ Môn Đại Sĩ để hồi hướng cho bà ta, Đại Sĩ dạy: “Một niệm đem hồi hướng, gởi ḷng chốn Tây Phương, công tu tích tụ lâu, trọn chẳng thoái Bồ Đề”.

      (8) Lăng Nghiêm Kinh: “Kim thử Sa Bà quốc, thanh luận đắc tuyên minh” (Nay trong cơi Sa Bà th́ nhờ âm thanh biện luận mà được giảng rơ).

      Theo Quán Âm Cảm Ứng, Đường Văn Tông ăn ṣ, trong ṣ hiện tướng Bồ Tát. Đem hỏi thiền sư Duy Chánh, Sư nói: “[Bồ Tát thị hiện trong] loài vật, chẳng phải ứng hiện xuông, mà là nhằm khơi gợi tín tâm của bệ hạ, hăy bớt tiêu dùng, thương yêu con người. Kinh dạy: Nên dùng thân Bồ Tát để độ được bèn hiện thân Bồ Tát để thuyết pháp”. Vua nói: “Đă hiện thân Bồ Tát nhưng chưa nghe thuyết pháp”. Sư nói: “Bệ hạ có tin hay chăng?” Vua bảo: “Nào dám chẳng tin!” Sư nói: “Bệ hạ đă nghe thuyết pháp rồi đấy”. Vua cả mừng, thôi ăn ṣ, xuống chiếu hạ lệnh các tự viện trong thiên hạ đều tạc tượng Quán Âm.

      (9) Theo Định Huệ Tương Tư Ca: “Vừa nghe pháp, thoảng qua tai, có thể huân tập chủng tử giác ngộ trong tạng thức”.

 

      1. Giống như Nguyên Mô sắp bị giết, truyền mười câu kinh. Kính Đức sắp tử h́nh, Cao Vương linh hiển.

      2. Sơn Đông ngự sử, chú thuật Bạch Y. Yên Chi vương phi, kinh xưng mộng dạy. Chép trong Giản Biên, ứng như dùi vừa gơ trống, liền có tiếng vang. Vốn chẳng phải là sấm truyền của lũ dân ma, dám dựa dẫm, bám víu xằng bậy, cũng chẳng giống như cơ bút của linh quỷ giáng đàn, vờ vĩnh giả danh. Đấy là sự hoằng pháp thứ hai của Đại Sĩ vậy (Trong đoạn này ca tụng cả kinh thế tục).

      (1) Đối với chuyện Vương Nguyên Mô trong Tống Thư, xin xem lời chú thứ nhất trong đoạn thứ nhất của phần “khỏi bị giết chóc”.

      Sách Thái B́nh Quảng Kư chép Nguyên Mô nằm mộng thấy có người dạy tụng Quán Âm Kinh một ngàn biến, ông Mô nói: “Mạng chỉ c̣n trong sáng tối, làm sao tụng một ngàn biến cho được?” Bèn dạy rằng: “Quán Thế Âm, nam mô Phật, có nhân với Phật, có duyên với Phật, có duyên với Phật pháp, thường, lạc, ngă, tịnh, sáng niệm Quán Thế Âm, tối niệm Quán Thế Âm, niệm niệm từ tâm khởi, niệm Phật chẳng ĺa tâm”. Đấy gọi là bài kinh gồm mười câu.

      Sách Pháp Hoa Cảm Thông cũng chép Nguyên Mô mộng thấy có người dạy tụng phẩm Phổ Môn, nhưng một đêm mà tụng một ngàn biến, quả thật cảm thấy chẳng dễ, có lẽ sách Thái B́nh Quảng Kư chép gần sự thật hơn. C̣n như sách Nam Hải Từ Hàng chép [ông Nguyên Mô] tụng Cao Vương Kinh tức là chẳng biết khi Nguyên Mô bị Thác Bạt Đào đánh bại cho đến thời Cao Hoan là đă sớm hơn tám mươi năm[11], thuở ấy, làm ǵ có danh tự Cao Vương Kinh? Cơi đời tụng phẩm Phổ Môn được ứng nghiệm, nhưng truyền tụng sai lầm là kinh Cao Vương, đại để là như vậy đó.

      Đối với chuyện Tôn Kính Đức ở Định Châu chép trong Tề Thư, xin hăy xem lời chú thứ tư trong đoạn thứ nhất của phần “thoát nạn giết chóc”.

      Kinh Cứu Khổ như vừa nói [trong đoạn trên] c̣n được gọi là Cứu Sanh Kinh, hoặc gọi là Thập Cú Kinh, nhưng theo như Tam Bảo Cảm Thông Lục th́ kinh ấy có danh hiệu chư Phật, như vậy th́ kinh được nói trong Tam Bảo Cảm Thông Lục phải là kinh Cao Vương được lưu truyền trong thế tục.

      (2) Đối với câu trên, xin xem lời chú thứ mười hai trong đoạn “khỏi bị hành h́nh”.

      Khi Minh Thành Tổ c̣n là Yên Vương, vợ ông ta trong hôm Nguyên Đán nhập Định, thấy Đại Bi Quán Âm hiện quang minh đủ các màu, tràng phan, anh lạc, lầu gác trang nghiêm, Đại Sĩ bảo: “Phật Thuyết Đệ Nhất Hy Hữu Đại Công Đức Kinh có thể tiêu tai, chứng quả. Ngươi sắp làm mẫu nghi thiên hạ, phước dày, tánh sáng, có thể vâng lănh lời phó chúc, cứu vớt sanh linh”. Bèn dùng cam lộ quán đảnh, [vương phi] thân tâm thanh lương. Tỉnh mộng, trong miệng vương phi có mùi thơm lạ, tŕ tụng kinh chú được truyền trong mộng không sai sót. Trong thời Tĩnh Nạn, trong thành bị vây mấy lần, đều dựa vào sức che chở của kinh này. C̣n những kinh khác như hai thiên trung hạ của Tâm Kinh, Quán Âm Bổn Nguyện v.v... đều là do người đời sau ngụy tạo, trọn chớ nên tin!

 

2.4.3. Ban cho người tiếp nối ḍng pháp

 

      1. Bèn có Bồ Tát Vạn Hồi, danh đề trụ Phật. Thai Tông[12] Tuân Thức, mộng trao minh châu.

      2. Lăo Tăng ngủ nhờ, có Niệm Thường kể lại chuyện xưa. Sao Mai vào bụng, được Từ Tạng hoằng truyền giới luật.

      3. Loa Khê tôn giả, chuyển thành Kế Trung. Bà lăo xách giỏ cá, đưa Nguyên Chánh tới.

      4. Cung kính nhận tượng, Bích Phong quả là chàng trí huệ. Trong tiệc quán tưởng, Quốc Bảo thật xứng ngôi Thái Sư.

      5. Thánh Đạt tướng lạ khôn tầy, Tịnh Chi xương nh́n sáng sạch.

      6. Cầu nơi chùa tháp, Đại Giác chẳng thẹn sư thừa. Mộng chiếu thần quang, Đạo Phi hết ḷng hiếu thảo.

      7. Đại Thông ban hiệu, hiểu sách vở tót vời. Khai Huưnh nhân từ, cứu khắp sanh mạng.

      8. Trao cho chuỗi châu, Tuyết Song đắc đế lư viên dung. Nuốt ánh sáng vàng, Sơ Thạch phá hư không tan nát.

      9. Quán Huyễn lừng danh, từng làm quan Thái Sử. Dịch Đường nối pháp, con thơ thừa kế nghiệp nhà.

      10. Tăng chúng kính như Bắc Đẩu, Hám Sơn thanh danh chói rực. Kim chỉ nam trong biển khổ, Ngẫu Ích đạo đáng tôn sùng.

      11. Cổ Am hiện tướng giữa mây, Chuyên Ngu nhập thai trong mộng.

      12. Da Khê xứng danh “sư tử nhi”, Kư Thiền hợp điềm mộng Mục Công.

      Chư vị đă chói ngời Tăng sử, mừng bậc long tượng xuất hiện đông đầy. Nào có biết những vị nối pháp do Bồ Tát ban tặng, đều nhận lời phó chúc tại Linh Sơn. Đấy là chuyện hoằng pháp thứ ba của Đại Sĩ vậy.

 

      (1) Theo bài Lưỡng Kinh Kư trong Đàm Tân Lục, đời Đường, sư Vạn Hồi, họ ngoài đời là Trương, mẹ cầu nguyện nơi tượng Quán Âm bèn có mang. Lúc sanh ra, Sư giống như ngu ngốc. Do đi sang doanh trại của người anh ở An Tây, sáng đi, tối về, [tính ra] một ngày đi vạn dặm, [người ta] mới hết sức kinh ngạc. Ngài Huyền Trang đến Thiên Trúc, thấy trên trụ Phật có đề: “Bồ Tát Vạn Hồi bị đày sang Văn Hương giáo hóa”. Sư trở về gặp ngài Vạn Hồi, lễ làm thầy. Vơ Tắc Thiên đón sư Vạn Hồi vào triều, Sư nói rất nhiều chuyện linh nghiệm. Vạn Hồi gặp Tăng Già Đại Sĩ, lễ yết rất cung kính. Đại Sư vỗ đầu Vạn Hồi bảo: “Tiểu tử đi được rồi đó”. Đại Sư tịch xong th́ Vạn Hồi cũng mất.

      Theo Liên Tông Bảo Giám, mẹ của sư Tuân Thức đời Tống cầu đảo Quán Âm, mộng thấy cô gái xinh đẹp trao cho viên minh châu bèn sanh ra Sư. Vừa tṛn bảy tháng, Sư đă có thể niệm Quán Âm. Dốc sức học hành đến nỗi ho ra máu, thấy Bạch Y Đại Sĩ duỗi tay chỉ vào miệng, khêu ra mấy con trùng. Từ đầu ngón tay, cam lộ lại tuôn vào miệng, thân tâm thanh lương, bệnh trầm kha từ trước liền khỏi ngay. Sư đảnh tướng cao cả tấc, tay tḥng quá gối, tiếng như hồng chung, được vua ban hiệu là Từ Vân Sám Chủ.

      (2) Theo Từ Lâm Tập, sư Niệm Thường đời Nguyên, hiệu là Mai Ốc. Mẹ cầu đảo Đại Sĩ, mộng thấy có vị lăo tăng lông mày rậm xin ngủ nhờ, bèn có mang Sư. Lúc Sư sanh ra có ánh sáng tốt lành, mùi hương lạ. Xuất gia, Sư nghiên cứu rộng khắp các sách. Vua tôn Sư làm thầy, tôn kính, sủng ái. Sư soạn bộ Phật Tổ Thông Tải Tập lưu hành trong cơi đời, người thời ấy gọi Sư là “Tăng trung ban mă”[13].

      Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, ngài Từ Tạng đời Đường, họ Kim, cha là Vũ Lâm, thuộc hoàng tộc xứ Tân La (Silla). Phụ thân Sư tạo một ngàn bộ kinh Quán Âm để cầu con, bà mẹ mộng thấy ngôi sao lọt vào bụng, sanh ra Từ Tạng. Sư hoằng diễn giới luật, đáng giữ ngôi Tể Tướng, nhưng Sư nhiều lần tránh né không nhận. Vua tức giận, sai sứ vào núi đâm chết. Ngài Từ Tạng nói: “Ta thà giữ giới một ngày rồi chết, chẳng phá giới cả đời để được sống!” Sứ giả bèn tha đi. Sư liền sang Trung Quốc thuyết pháp, tuôn cam lộ, quyến thuộc của nhà vua càng tôn sùng.

      (3) Theo Phật Tổ Thống Kỷ, Thích Kế Trung, tự là Pháp Thần, cha mẹ cầu tự trong miếu Phật, cùng mộng thấy một vị Tăng trao cho đứa con, bảo: “Gởi ngươi nuôi Loa Khê tôn giả”. Sư xuất gia bị bệnh, bèn hành Thỉnh Quán Âm Tam Muội. Đại Sĩ phóng quang, dùng nước tưới đảnh, bệnh liền khỏi ngay. Sư hiểu sâu xa Giáo Quán, ngài Tuyết Đậu Hiển nói: “Đạo của Tứ Minh có người truyền rồi!”

      Theo Phổ Đà Chí, mẹ của Trung Tán[14] Nguyên Chánh cầu đảo Đại Sĩ, mộng thấy bà lăo xách giỏ cá vào cửa, trao cho một con cá chép, bèn có thai. Đêm Nguyên Chánh sanh ra, sáng ngời như ban ngày. Thầy bói bảo: “Mạng không thọ”, do vậy bèn xuất gia, về sau đắc pháp nơi ngài Dịch Đường.

      (4) Theo Kê Cổ Lược, sư Bảo Kim, hiệu là Bích Phong, họ Thạch. Cha mẹ đều thích làm lành. Có một vị Tăng tặng tượng Quán Âm cho mẹ Sư bảo: “Hăy nghiêm cẩn thờ phụng th́ sẽ sanh ra đứa con trai có trí huệ”. Không lâu sau sanh ra Sư, bạch quang chiếu khắp nhà.    

      Thái Sư nhà Nguyên hiệu là Quốc Bảo, tên là An Tạng, hiệu là Long Quan Lăo Nhân. Cha ngài đang ngồi trong tiệc mà nhập Quán Âm Quán, [trong khi quán tưởng] chợt có người ẵm đứa bé đến trao cho, mẹ Sư liền có thai. Đến khi sanh ra ngài, hồng quang ngập nhà. Lúc năm tuổi, Sư có lần ngủ vùi suốt ba ngày đêm, bảo: “Văn Thù thuyết pháp cho con”. Về sau, Sư ngồi qua đời, mùi hương lạ sực nức, viên tướng ngưng đọng trong pḥng, bạch hào quang hướng về Tây rồi chiếu về phương Nam, xá-lợi ngũ sắc vô số.

      (5) Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, sư Chân Quán tự là Thánh Đạt. Phụ mẫu khiết tịnh, trai giới, lập thệ, tụng kinh Dược Sư, Quán Âm, Kim Cang để cầu có đứa con trí huệ. Đến lúc sanh ra, Sư tướng lạ khôn sánh tầy. Chỉ tay trong bàn tay trái hợp thành h́nh chữ Tiên (), chỉ tay trong bàn tay phải hợp thành h́nh chữ Nhân ().

      Lại nữa, cha mẹ ngài Tịnh Chi nghĩ đến điều lành, nhưng không có người nối dơi, cầu đảo khắp nơi nhưng không được toại nguyện, bèn niệm Quán Âm, trong ṿng mười ngày bèn có thai. Đến năm lên tám, Sư ưa thích Di Đà Quán Hạnh, thấy cảnh xinh đẹp, quán xương sáng sạch.

      (6) Theo Thiền Lâm Tăng Bảo Truyện, mẹ ngài Hoài Liên cầu đảo nơi tháp ngài Tứ Châu Tăng Già sanh ra Sư. Trong niên hiệu Hoàng Hựu (1049-1454), Sư được vua ban hiệu là Đại Giác. Sư tŕ luật tinh nghiêm, được vua ban bát thơm bằng gỗ long năo, Sư bèn đốt bát trước mặt sứ giả. Thuở nhỏ, Sư theo học với Hiểu Thuấn thiền sư. Thuấn Thiền Sư bị Quận Sứ đố kỵ, nên phải mặc đồ thường, đến nương náu với ngài Hoài Liên. Ngài Hoài Liên để thầy nghỉ nơi chánh tẩm, giữ lễ đệ tử. Vương công đến thân cận Sư thấy lạ, ngài Hoài Liên đem sự thật tŕnh bày. Tống Nhân Tông bèn cho phép ngài Hiểu Thuấn xuống tóc trở lại.

      Lại nữa, ngài Đạo Phi đời Hậu Châu, mẹ là Hứa Thị tŕ phẩm Phổ Môn cầu con, mộng thấy thần quang chiếu vào thân bèn có mang. Về sau, Sư xuất gia, gặp năm đói kém bèn nhịn ăn nuôi mẹ. Sư đến Hoắc Sơn t́m xương cha, gom các hài cốt tụng kinh, chúc nguyện: “Xương nào chuyển động tức là hài cốt của cha”. Mấy hôm sau, quả nhiên có đầu lâu từ đống xương trồi lên, đến trước Đạo Phi lắc lư một lúc lâu. Đạo Phi khóc lóc, ôm về. Trước hôm Sư về đến nhà một ngày, mẹ Sư mộng thấy chồng quay về nhà.

      (7) Theo Giác Hổ Tập, sư Thiện Bản đời Tống trong niên hiệu Nguyên Phong (1078-1085) được vua ban hiệu là Đại Thông. Mẹ ngài cầu đảo Bạch Y Đại Sĩ mà sanh ra Ngài. Sư thông hiểu sách vở tột bậc, trong Định thấy Phật Di Đà hiện thân sắc vàng.

      Theo Từ Lâm Tập, ngài Khai Huưnh là con nhà họ Trương. Mẹ Sư cầu đảo Đại Sĩ bèn có mang, sanh Sư nhằm đúng ngày Đại Sĩ thành đạo, sáng rực cả nhà. Bà nội Sư có để lại mấy thoi vàng. Gặp năm đói kém, Sư đem thí hết. Thí xong, lại có người đến xin, Sư hận không có ǵ để cứu giúp, phát nguyện xả thân để sanh vào nhà vua chúa. Sư lên Quán Âm Nham gieo thân xuống, rốt cuộc chẳng bị thương tổn ǵ. Biết là Đại Sĩ từ bi che chở, bèn phát nguyện xuất gia. Cha Sư ngăn trở, tới đêm, Sư mộng thấy có người áo trắng lôi đi, cửa ngơ mở toang, bèn trốn ra, được dịp xuống tóc.

      (8) Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, ngài Ngộ Quang đời Nguyên hiệu là Tuyết Song, mẹ ngài cảm Đại Sĩ trao cho chuỗi châu bèn có mang. Đến khi sanh, có điềm lạ như gió mây rạng ngời. Xuất gia, Sư cật lực tham cứu có chỗ tỉnh, Tam Đế[15] viên dung, nhất tâm thấu triệt rạng ngời, được vua ban hiệu là Phật Nhật Viên Minh Phổ Tế Thiền Sư.

      Lại nữa, ngài Trí Hoạch đời Nguyên là người xứ Nhật Bản. Mẹ cầu đảo Đại Sĩ, mộng thấy nuốt ánh sáng vàng bèn có mang. Lúc Sư sanh ra, ánh sáng tốt lành ngập nhà. Trong mộng, Sư thấy ḿnh đi đến ngọn Sơ Nham của Trung Quốc, bèn tự đặt tên là Sơ Thạch. Sư tu sám cảm thần minh hiện giữa không trung. Tham khấu lâu ngày, thân chợt đại ngộ, có những câu như “đẳng gian kích toái hư không cốt” (trong khi b́nh đẳng, đập nát xương hư không).

      (9) Theo Kê Cổ Lược, sư Nguyện Đăng, mẹ họ Đào, cầu đảo Đại Sĩ sanh ra Sư. Xuất gia, trụ tại chùa Thủy Tây, soạn Quán Huyễn Tử Nội Ngoại Thiên, chủ trương Nho Thích nhất quán. Tống Liêm đem tác phẩm ấy dâng lên Minh Thái Tổ, vua bèn phong Sư làm quan Hàn Lâm dự bị.

      Theo Phổ Đà Chí, sư Dịch Đường Minh Tâm, con nhà họ Thiệu, mẹ mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ ẵm đứa bé vào nhà bèn sanh ra Sư. Sư đắc pháp nơi ḥa thượng Triều Âm.

Phẩm Anh Nhi Hạnh của Niết Bàn Kinh có câu: “Chẳng thể đứng, ngồi, lui, tới, nói năng th́ gọi là Anh Nhi Hạnh”[16].

      (10) Theo Nhất Hạnh Cư Tập, ngài Hám Sơn pháp danh là Đức Thanh, họ ngoài đời là Thái. Bà mẹ mộng thấy Đại Sĩ bế đứa trẻ đến trao cho bèn sanh ra Sư. Chín tuổi, Sư đă có thể tụng phẩm Phổ Môn, trước thuật vô cùng phong phú.

      Lại nữa, ngài Ngẫu Ích pháp danh là Trí Húc, con nhà họ Chung ở Ngô Huyện. Cha là Kỳ Trọng, tŕ Bạch Y Chú và Đại Bi Chú mười năm để cầu con, mẹ mộng thấy Đại Sĩ ẵm đứa trẻ đến trao cho, bèn sanh ra Sư. Lúc c̣n sống, Sư soạn thuật hơn bốn mươi loại sách, nhưng Di Đà Yếu Giải là tác phẩm giản yếu, thiết thực nhất.

      (11) Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, ngài Hiển Thị đời Minh, pháp tự là Cổ Am. Bà mẹ mộng thấy Quán Âm hiện giữa mây ngũ sắc bèn có mang Sư. Sư nhiều lần trung hưng Lan Nhă, thanh danh ngày càng tăng. Về sau, Sư chuyên chí Tây Phương, nhiều lượt cảm được điềm lành.

      Lại nữa, ngài Quán Hành đời Minh, pháp tự là Chuyên Ngu. Mẹ Sư mộng thấy Đại Sĩ dắt một bé trai vào nhà, thích quá, ôm lấy, bèn sanh ra Quán Hành. Sư thường niệm thánh hiệu Quán Âm, dáng điệu toát ra vẻ tự tại, tỏ lộ như thế mà Sư chẳng biết. Về sau, vào những đêm có trăng, Sư đi kinh hành, đắc tối thượng chánh giác từ nơi tông chỉ Lăng Nghiêm, soạn Lễ Quán Âm Nghi (một quyển), suất lănh đại chúng huân tu. Những hành giả thật sự chứng đắc gồm 15 người.

      (12) Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, ngài Chí Nhă đời Minh, pháp tự là Da Khê. Mẹ là Yến Thị cầu đảo Bạch Y Đại Sĩ, cầu sanh được đứa con tốt lành. Mộng thấy một vị Tăng chân trần bảo: “Ta ban cho ngươi một đứa con sư tử”, tỉnh giấc bèn sanh ra Chí Nhă. Sư diễn kinh, tọa thiền, được xưng tụng là “nhất đại sư tượng” (bậc thầy cả đời).

      Lại nữa, ngài Kính An đời Thanh, pháp tự là Kư Thiền, biệt hiệu là Bát Chỉ Đầu Đà. Bà mẹ cầu đảo Bạch Y Đại Sĩ, mộng thấy hoa lan bèn sanh ra Sư. Ngài không học mà biết làm thơ, tu ṛng Thiền Định, rắn, hổ chẳng làm hại.

Đối với điển tích “mộng lan”, xin xem lời chú thứ mười trong đoạn thứ nhất của phần “có được con nối dơi” [trong quyển hai].

 

2.4.4. Hộ pháp

 

      1. Bèn có: Giới Nhật nối ngôi, làm minh quân xứ Ấn; Minh Biện lưu thân, sống măi cùng loài Tu La.

      2. Cầu thạo tiếng Hán, Bạt Đà đổi đầu; nhằm biến Tần âm, Tri Huyền thay lưỡi.

      3. Thiên tướng ôm đao, dặn Đạo Quynh nhận hương; thần nhân vác kích, nhắc Từ Ân đường đi.

      4. Pháp Kiều cầu báo, giọng vang ngăn cả mây trôi, Tịnh Ư cảm ân, tâm cảm nhận Phật ngầm phù hộ.

      5. Châu Lư không bị chê ngắc ngứ, Đổng Già ngộ bản lai diện mục.

      6. Nuốt hạt son, giống tiên nuốt thuốc Đạo Gia; chú nát b́nh phong đá, khiến Phật pháp nổi trội kinh thành.

      7. Khởi Chinh phát nguyện, Đạo Nguyên mộng cúng kinh văn. Nguyên Lư thắp hương, ông Mạo liền trao thiện bản[17].

      8. Vách đá hiện bài mật chú, làng trúc truyền dạy ấn quyết.

      9. Liên tục gọi Bồ Tát, khiến Tổng Trấn tâu tŕnh; mộng đến Bổ Đà, Hiếu Tông càng vững ḷng tín ngưỡng.

      10. Nhập mộng Kinh Vương, xin vá áo xiêm. Tới cửa Nghiễm Trai, mong được tượng mới.

      11. Ngạn Tông có điềm mộng trao chén ngọc, Giác Uyển than tượng linh thiêng rớt vào tay .

      12. Trong mộng nhắc đoạt lại thân vàng, gơ xử báo trả lại bảo thạch.

      13. Mua giấy, kinh hồn giấy cắt vụn; tráo nồi bị đ̣i phải bồi hoàn.

      14. B́nh phong trơn lặng lẽ, trừ giùm A Tú hung tàn. Miếu xưa bụi phủ đầy, cứu giúp Vạn Lam ngăn trở.

      15. Thí vàng, mắc hăm, hiện áo trắng giải vây. Ngồi nhờ thuyền bị ch́m, đèn sáng dẫn đường giải cứu.

      16. Đạo Hiến ngă xuống nước, Bồ Tát đến nâng. Dưới chân Duy Tân, nhờ hoa sen đỡ.

      17. Rơi mất y bát, Đạo Uông nhờ mây mù toàn mạng; thân vướng lồng nung, Nguyên Lễ được tăng nhân cứu vớt.

      18. Quan Đế răn đừng cúng đồ mặn; oan hồn tránh né thần hộ giới.

      19. Cử Nguyên Thản [làm Trụ Tŕ] bèn mộng thấy trâu; ghi chuyện Nguyên Đạt được ban áo tía.

      20. Trạm Tu dạy chú, đất không c̣n tai ương cọp dữ. Trinh Biện vững Thiền, thiên ma trọn chẳng dám khinh nhờn.

      21. Ông Châu cảm vật cũ, mang tượng thêu về. Họ Trương phá trai, tượng vẽ hủy mất.

      22. Trên lầu Vạn Thọ, Bát Quái đặt vững Âm Dương. Họ Tŕnh xứ Hiếu Cảm, chỉ rơ năm tốt xấu .

      23. Mây hoa cúng dường, truyền đem cỗ tặng cho người đói. Thê Hà hết lương, dặn tặng gạo cao tăng.

      24. Sách tấn tịnh niệm của Tăng Đoan, Mẫn Dự thoát khỏi ổ dâm. (Gồm ba đoạn)

 

      (1) Theo Đường Tam Tạng Truyện, vua Giới Nhật[18] tánh nhân từ. Đầu thời Trinh Quán, lúc sắp nối ngôi, vua thỉnh ư Quán Âm, Đại Sĩ dạy: “Ngươi đời trước là tỳ-kheo, phước lực đáng làm vua năm xứ Ấn Độ”. Sau khi lên ngôi, vua mấy lượt tổ chức Vô Giá đại hội[19]. Khi ngài Huyền Trang đến, vua lễ kính tột bậc.

      Lại nữa, vị Tăng Ấn Độ tên là Minh Biện, đối trước tượng Quán Âm, nhịn ăn, cầu thỉnh [Bồ Tát chỉ cách để giữ xác thân] đợi Di Lặc Bồ Tát hạ sanh. Đại Sĩ hiện thân, dạy tụng chú Kim Cang ba năm: “Trong quả núi to ở phía Nam thành ấy có cung Tu La. Hăy tụng chú vào hạt cải ném vào vách đá th́ vách đá tách ra liền vào trong ấy đợi khi ngài Di Lặc ra đời, ta sẽ báo cho biết”. Minh Biện đúng pháp làm theo, quả nhiên vách núi tách ra, có sáu người đi theo vào đó, cả vạn người đến xem.

      (2) Theo Cao Tăng Truyện, tập Một, đời Tống, ngài Cầu Na Bạt Đà La được Nam Tiếu Vương thờ làm thầy, thỉnh Sư giảng Hoa Nghiêm, nhưng Sư chưa thông tiếng Hán. Sáng tối lễ sám cầu khẩn Quán Âm để mong được cảm ứng. Đêm mộng thấy thần cầm một đầu người đến đổi. Từ đấy, thông hiểu tiếng Hoa, bèn giảng kinh đến mấy chục lượt, người nghe bội phục. Trong sách khác cũng chép chuyện ngài Đàm Vô Sấm được đổi đầu.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời Đường, ngài Tri Huyền là người đất Thục (Tứ Xuyên), phô diễn kinh luận, Tăng, tục đều kính ngưỡng, nhưng buồn v́ ngữ âm không chỉnh, bèn tụng chú Đại Bi nơi núi Tượng Nhĩ. Sư mộng thấy thần tăng cắt lưỡi trao đổi. Hôm sau bèn nói đúng giọng xứ Tần, được vua ban hiệu là Ngộ Đạt quốc sư[20].

      (3) Theo Pháp Uyển Châu Lâm, trong niên hiệu Nguyên Gia (424-453) đời Tống, Lâm Xuyên Vương trấn giữ Quảng Lăng, thỉnh ngài Đạo Quynh làm lễ Quán Âm Trai mười ngày. Đêm khuya, chúng tăng đều lui về ngủ. Đạo Quynh thức dậy, lễ bái, chợt thấy bốn vách có vô số sa-môn, đều hiện nửa thân. Một vị Phật, búi tóc xoắn ốc phân minh rành rẽ. Một người to lớn tay cầm đao, diện mạo hùng vĩ, cầm hương trao cho Đạo Quynh, Đạo Quynh không nhận. Người trong vách nói: “Quynh công nên nhận hương ḥng che chở, bảo vệ chủ nhân”.

      Theo Đường Tam Tạng Truyện, ngài Huyền Trang trụ tại chùa Từ Ân, v́ thế được gọi là Từ Ân pháp sư. Thoạt đầu, Sư sang Tây Vực, bị khốn đốn ở Lưu Sa, xin xem lời chú thứ nhất trong đoạn thứ hai của phần Thoát Hiểm. Khi ấy, gió mát thổi qua thân, bèn ngủ thiếp đi một chốc, mộng thấy một vị thần cao mấy trượng, cầm kích chỉ, nói: “Chẳng thể không gắng đi”. Pháp sư giật ḿnh tỉnh giấc, đi tiếp, bèn đến được chỗ có cỏ, nước.

      (4) Theo Cao Tăng Truyện, tập Một, đời Tấn, Bạch Pháp Kiều thích đọc tụng, nhưng không có giọng. Do vậy, nhịn ăn sám hối suốt bảy ngày đêm, lễ bái Quán Âm. Ngày thứ bảy, ông cảm thấy cổ họng rỗng rang, tiếng vang xa cả dặm, xa gần than thở kinh ngạc, đều đến xem nghe. Sau đấy, ông tụng kinh suốt ngày đêm, giọng tụng êm nhẹ, uyển chuyển, lay động ḷng người. Đến chín mươi tuổi giọng vẫn không suy.

      Theo Liệt Tử, Tần Thanh vỗ vào miếng tín phù[21], ca ai oán, tiếng hát lay động rừng cây, tiếng vọng khiến mây ngừng trôi.

      Theo Lập Mạng Toàn Thư, vào đời Minh, Du Đô ở Giang Tây, học giỏi, nhưng nhà nghèo, dạy học, năm đứa con trai chết yểu mất bốn. Một đứa con c̣n sót lại th́ dưới bàn chân trái có hai nốt ruồi, cực thông minh, tuấn tú, bị thất lạc. Con gái bốn đứa chết yểu mất ba. Vợ khóc thương con cái, hai mắt ḷa hẳn. Du Đô tự xét ḿnh chẳng phạm lỗi lớn lao nào mà bị trời phạt thê thảm. Mỗi dịp cuối năm đều dâng sớ cầu đảo ông Táo. Đến đêm Trừ Tịch[22] năm bốn mươi bảy tuổi, một cụ già đội khăn xéo, mặc áo dài đen đến hỏi: “Nghe ông buồn rầu than thở nên muốn đến an ủi”. Du Đô kể lại mạng vận trắc trở, đọc sớ, vừa đọc vừa rơi nước mắt. Ông cụ nói:

- Tôi đă sớm biết rồi. Ông phóng sanh nhưng quả thật không có tâm từ bi, v́ người khác mà làm cho xong chuyện đó thôi! Tôm cua thường vào bếp nhà ông, tội lỗi nơi miệng càng nhiều hơn, cơi Âm ghi chép rành rành. Tuy không tà dâm, nhưng thấy sắc tâm động, chỉ không có tà duyên tụ hội mà thôi. Thượng Đế xem sớ, xét thấy ông trọn chẳng có điều lành thật sự nào đáng để ghi chép, mà ư niệm tham dâm, ghen ghét, ư niệm nghĩ ḿnh cao quư, khinh rẻ kẻ khác, ư niệm báo ân, trả thù, chư thần ghi chép ngày càng nhiều. Trốn họa c̣n chẳng xuể, huống là cầu phước ư?

Du Đô khiếp phục nói:

- Ngài đă thông hiểu chuyện u huyền, xin rủ ḷng cứu độ.

Ông cụ nói:

- Từ nay trở đi hăy trừ tuyệt ác niệm, làm lành, chẳng cầu danh, chẳng cầu báo, chẳng so đo lớn, nhỏ, khó, dễ, cứ thật tâm làm. Dẫu sức không kham nổi th́ cũng tán thán, tùy hỷ, khiến cho thiện niệm viên măn, lâu dần sẽ tự ứng nghiệm.

Ông cụ đứng dậy đi xuống bếp rồi biến mất, mới biết ông cụ chính là thần Tư Mạng (Táo Quân)[23]. Do vậy, [Du Đô] đặt biệt hiệu là Tịnh Ư, trừ lỗi, hướng lành, đối trước Quán Âm Đại Sĩ khấu đầu đến nỗi chảy máu, phát thệ cầu thiện niệm chân thật, tinh thuần, mỗi sáng tụng danh hiệu Đại Bi một trăm lần để mong ngầm che chở. Mỗi lời nói, mỗi hành động chẳng dám dối trá, phóng túng, hết thảy chuyện giúp người lợi vật, bất luận là chuyện lớn hay bé, thân nhàn hay bận, người khác biết hay không, có đủ tài lực hay không đều hoan hỷ hành tŕ, thành tựu cặn kẽ. Hễ gặp người khác đều khuyên chỉ, chỉ lo thời gian không đủ. Ba năm như thế, được Tể Tướng Trương Cư Chánh[24] mời về đứng đầu các gia sư, thi đỗ Tiến Sĩ. Từ nhà của Dương Nội Giám, gặp gỡ con trai, dẫn về báo với vợ. Vợ ôm con khóc ṛng, con liếm mắt mẹ, hai mắt liền sáng lại. Do vậy, ông soạn bài văn Ngộ Táo Thần Kư để răn dạy con cháu.

      (5) Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Minh, sư Châu Lư tự là Triệt Dung, nói năng ngắc ngứ, lắp bắp chẳng rơ ràng. Do vậy, lễ tụng Quán Âm ba năm, mộng thấy người áo trắng vào nhà, trao cho ba viên thuốc bảo nuốt. Từ đấy, ăn nói lưu loát.

      Lại nữa, vào đời Minh, Đổng Già hâm mộ Thiền tông từ bé, tŕ chú Đại Bi, cảm Quán Âm thí pháp, ngộ được diện mục sẵn có trước khi cha mẹ sanh ra.

      (6) Theo Từ Lâm Tập, đầu đời Thanh, ni sư Đẳng Linh chuyên tu Tịnh Độ, sáng tối lễ tụng danh hiệu Đại Sĩ chẳng ngớt miệng. Giữa đêm, chợt cảm thấy trong tay có vật ǵ, bỏ vào miệng rồi th́ trong nắm tay vẫn c̣n ba viên khác nữa đỏ như châu sa. Từ đó, tuyệt thực, trọn chẳng đói khát, mà thân thể vẫn b́nh thường, tinh thần khỏe khoắn.

      Lăng Nghiêm Kinh: “Kiên cố phục nhĩ nhi bất hưu tức, thực đạo viên thành, danh Địa Hành Tiên” (Kiên cố ăn nuốt thuốc tiên không ngưng nghỉ, không cần ăn uống th́ gọi là Địa Hành Tiên).[25]

      Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, sư Sùng Huệ là người Hàng Châu, là đệ tử của ngài Kính Sơn Khâm, chuyên tụng chú Phật Đảnh, có vị thần bảo: “Phật pháp ở kinh đô bị ngoại giáo lấn hiếp, đợi Sư đến giải cứu”. Ngài Sùng Huệ sang miền Tây, cùng với đạo sĩ Sử Hoa đi chân trần leo lên thang kết bằng đao nhọn, lại đi vào lửa mạnh, thọc tay vào dầu sôi, ăn lá sắt. Sử Hoa hoảng sợ bỏ trốn. Theo [những bài viết về] hành trạng của ngài Kính Sơn th́ ngài Sùng Huệ tụng chú Câu Chi Quán Âm[26] ở chỗ ngài Kính Sơn Khâm, tụng chú vào tấm b́nh phong bằng đá, b́nh phong bèn vỡ làm ba mảnh.

       (7) Theo lời Bạt của sách Kim Cang Giải Nghĩa, trong niên hiệu Khang Hy đời Thanh, Mă Khởi Chinh tính mời những người cùng chí hướng khắc kinh Kim Cang. Đêm mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ hiện kim thân, La Hán vây quanh chừng như đang tiếp dẫn. Sáng hôm sau, Trương Đạo Nguyên đến bảo: “Hôm qua mộng thấy cùng với ông đến một ngôi chùa cổ, thấy lực sĩ khiêng một cái khăn trùm đầu màu vàng, hương hoa xúm xít vây quanh, giữa khăn đặt kinh văn bằng chữ Phạn. Vị Phạm tăng bảo: ‘Các ông có đại nhân duyên, nay mới gặp gỡ”. Khởi Chinh nêu ư nguyện muốn rủ ông Trương cùng in kinh, ông Trương mới biết nguyên do v́ sao có giấc mộng ấy.

      Trong lời tựa sách Cảm Ứng Thiên, ông Tiền Dưỡng Thứ đời Minh viết: “Tôi lễ ngài Vân Thê, ngoài thời khóa Tịnh Độ, thầy c̣n dạy phụng tŕ Cảm Ứng Thiên. Đau đáu nghĩ đang thời sóng gió, đạo tặc, sách này hết sức linh dị. Vu Nguyên Lư cùng tôi theo học với ngài Vân Thê, được quả báo cũng giống như thế, muốn hợp sức khắc ván để lưu thông, nghe ông Mạo ở Quảng Lăng có bản hoàn chỉnh, khổ rằng chưa thể sang đấy được. Ông Vu bèn đốt hương đối trước Đại Sĩ, đảnh lễ, khẩn cầu. Hơn mười ngày sau, bên Quảng Lăng gởi sách đến. Tính ra hôm ông Mạo sửa chữa bản sách nhằm đúng hôm ông Vu đảnh lễ. Sao mà Đại Sĩ linh cảm đến như thế ấy!”

      (8) Theo Duyệt Vy Thảo Đường Bút Kư: “Đại Học Sĩ Ngũ Di Thái đời Thanh kể: ‘Trước kia ở tại Tây Tạng, tôi thấy trên đá nơi vách núi cheo leo trong ngơ cụt có bài chú Đại Bi của đức Quán Âm bằng chữ Phạn do thiên nhiên tạo thành, chữ nào chữ nấy phân minh. Sức người chẳng thể làm được, mà cũng chẳng t́m được dấu tích của ai’. Ông ta là người suốt đời không nói dối”.

      Theo Linh Cảm Phú, Trúc Lư Lăo Nhân Hà Nhị Như thường tụng chú Đại Bi, con gái và đầy tớ cùng mộng thấy trên đỉnh đầu cha phóng quang. Trong quang minh có người râu đỏ và cô gái xơa tóc, bảo hăy cùng ngồi lên lưng sư tử đi gặp Phật, nói: “Cha ngươi chưa biết ấn quyết, ngươi hăy truyền lại: Tụng chú th́ chắp hai tay lại, hai ngón cái đan vào nhau, ngón cái bên phải bấm vào gốc ngón trỏ bên trái, ngón cái bên trái th́ áp lên đốt ngón trỏ bên phải. Đó gọi là Đại Bi Ấn. Tụng chú đến chữ Sa-bà-ha lần thứ nhất th́ ngón út từ từ tách ra. Từ đó trở đi, mỗi khi tụng đến chữ Sa-bà-ha th́ lần lượt ngón vô danh (ngón đeo nhẫn), ngón giữa, ngón trỏ từ từ tách ra. Đến câu chú kết thúc là “nam-mô hát-ra-đát-na” th́ tréo hai ngón giữa lại, co ngón giữa bên phải gác lên mép ngoài ngón giữa bên trái, ngón giữa bên trái áp lên mép trong ngón giữa bên phải. Tụng đến câu “nam-mô A-rị-da” hai ngón giữa giao nhau, co ngón giữa bên phải gác lên mép ngoài ngón giữa bên trái, ngón giữa bên trái áp lên mép trong ngón giữa bên phải. Tụng đến câu “sa-bà-ha kiết-đế” hai tay chắp chặt lại như lúc ban đầu. Đấy là ấn quyết Đại Bi”.

     (9) Theo Phổ Đà Chí, Thanh Thánh Tổ (Khang Hy) tuần du phương Nam, Tổng Binh Hoàng Đại đến nghênh giá. Ban đêm đang ngủ, kêu ầm lên: “Bồ Tát trở lại!” Ngày hôm sau tâu xin vua tu bổ hai chùa.

      Theo Phổ Đà Chí, trong tháng Bảy năm Long Hưng nguyên niên (1163) đời Tống Hiếu Tông, vua mộng thấy đến chơi Phổ Đà, được điềm lạ, bèn ngự chế bài Quán Thế Âm Bồ Tát Tán.

      (10) Theo Nam Hải Từ Hàng, trong niên hiệu Gia Tĩnh (1522-1566) đời Minh, Kinh Vương mộng thấy có người bảo: “Vá áo xiêm ta th́ ta sẽ ban cho vương con cháu”. Vương hỏi: “Ngài là ai?” Đáp: “Căng mắt sẽ thấy, nghiêng tai sẽ nghe, hăy tự biết lấy”. Vương tỉnh giấc, ngơ ngác. Một hôm, nh́n thấy tượng Quán Âm, vương đột nhiên vỡ lẽ nói: “Căng mắt nh́n là Quán, nghiêng tai nghe là Âm”. Cạnh phủ có Quán Âm Các, vương đến xem, rường mái đă nghiêng ngửa, mục nát, tượng đắp đă long lở, liền dốc sức sai người sửa chữa, khắc bia để ghi lại sự kiện.

      Lại nữa, trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722) đời Thanh, vị Tăng ở am Bảo Xứng là Huệ Như nhân thấy tượng Đại Sĩ hư hoại, đi quyên mộ, hơn cả tháng không ai cúng dường. Một đêm, Sư lén đặt tượng [Đại Sĩ] ở cửa nhà quan Trung Thừa Vương Nghiễm Trai. Viên phu nhân mộng thấy một cô gái áo trắng nói từ Phổ Đà đến xin một chiếc áo. Tỉnh dậy, bà kể lại với quan Trung Thừa th́ ông cũng mộng thấy giống hệt như vậy. Sáng, ra nghe người gác cửa báo tượng Đại Sĩ ở ngoài cửa bèn thắp hương tạ tội, gọi Tăng đến tạc tượng mới, đưa sang Phổ Đà.

      (11) Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Tùy, Ngạn Tông ở trong dinh của Tần Vương, mộng thấy người to lớn sắc vàng cao tới ba trượng, cầm chén lưu ly trao cho. Về sau, Thái Vương sai vẽ tượng Quán Âm, thân lượng được vẽ giống hệt như trong giấc mộng khi trước.

      Theo Linh Cảm Phú, đời Tống, Giác Phạm Hồng mộng thấy một vị Tăng dẫn vào trong nhà, trên vách có h́nh tượng của Bảo Công Bồ Tát (tức tượng ngài Bảo Chí Thiền Sư), chợt rụng vào tay ḿnh, hóa thành Quán Âm mười một mặt. Giác Phạm kinh dị. Ngày hôm ấy, vị Tăng ở Nam Châu là Đức Phùng mời thợ khéo vẽ tượng Quán Âm, gởi thư đến xin ngài Giác Phạm viết bài tán. Do vậy, Sư hết sức cảm thán.

      (12) Đời Minh, vị Tăng ở chùa Bảo Nghiêm tại Ninh Ba mộng thấy tượng Quán Âm bằng đồng trong điện thờ nói: “Ta mắc nạn, hăy mau cứu”. Thức dậy nh́n xem th́ tượng đă bị trộm mất, đuổi theo ba dặm, kẻ cướp sắp hủy tượng. Kẻ cướp sợ hăi, tan chạy, bèn thỉnh tượng về.

      Theo Xuy Ảnh Biên, trên trán tượng Đại Sĩ ở hậu điện Đại Đức Vạn Thọ Tự có gắn viên bảo thạch màu đỏ, đường kính một tấc. Đầu thời Càn Long (1736-1795) nhà Thanh, có kẻ cắp đến ăn trộm, đă cạy ra rồi. Vị Tăng tên Đại Vân vừa mới ngồi Thiền, bị nhức đầu, chợt thấy thần hộ pháp dùng xử đánh vào trán, ḷng biết là có chuyện lạ, đứng dậy lên điện xem, bọn cắp bỏ trốn. Đến nay viên đá báu vẫn c̣n nguyên, chỉ hơi khuyết một góc, tức là dấu vết bị cạy vậy.

      (13) Theo Linh Nghiệm Kư, đời Tống, Châu Thế Hanh phát nguyện chép hai trăm quyển kinh Quán Âm để thí cho người khác tŕ tụng, đem tiền và gạo đưa cho người thợ làm giấy họ Giang, cậy ông ta chế giấy chép kinh. Ông thợ làm giấy họ Giang bèn ra chợ mua giấy [chứ không chịu làm giấy], đến khi lấy giấy ra th́ mỗi một xấp giấy đều bị cắt nát thành sáu bảy đoạn, kinh sợ, quay về, cấp tốc làm giấy giao cho ông Châu.

      Theo Phổ Đà Chí, trong điện Đại Hùng chùa Pháp Vũ có một bức tượng Quán Âm bằng sắt. Đầu bức tượng ấy chính là đầu tượng Phật đă phóng quang ở băi cát Thiên Bộ. Vũ Vân Sơn ở Giang Nam chở đầu ấy sang Kim Lăng, quyên mộ đúc kim thân, có người đưa giùm cái nồi của người hàng xóm đến cúng, ông ta tham cái nồi ấy bèn đem cái nồi đă thủng thế vào. Đến đêm, mộng thấy thần kim giáp đến đ̣i nồi, tỉnh dậy liền ngă bệnh, bèn trả lại nồi, sám hối th́ mới lành bệnh.

      (14) Theo Tiễn Đăng Dư Thoại, đời Nguyên, Thôi Anh dẫn vợ là Vương Thị sang Vĩnh Gia nhậm chức Thái Úy. Cùng nhau uống rượu trong thuyền, đồ uống rượu toàn bằng vàng bạc. Phu thuyền d́m ông Anh xuống nước, giết bọn nữ tỳ, đầy tớ, chừa Vương Thị lại, toan giao cho con trai lấy làm vợ. Vương Thị ẩn nhẫn, gặp tiết Trung Thu, bọn cướp đều say mèm, bèn lên bờ, trốn vào ni am xuất gia, pháp danh là Huệ Viên, hằng ngày lễ Đại Sĩ, thầm khấn những điều ẩn kín trong ḷng. Ngẫu nhiên thấy một bức tranh cuộn vẽ hoa sen, biết là do Thôi Anh vẽ. Do vậy, bèn viết một bài từ theo điệu Lâm Giang Tiên[27] [trên bức vẽ], trong đó có câu: “Tố b́nh tịch mịch bạn khô thiền, kim sanh duyên dĩ đoạn, nguyện kết tái sanh duyên” (Bên b́nh phong trơ trụi, tịch mịch chốn cửa thiền, sống khô héo tháng ngày, đời này duyên đành dứt, kiếp sau nguyền nối duyên). Về sau, bức tranh ấy được bán cho nhà quan Thị Ngự Cao Nạp Lân. Thôi Anh từ bé đă tập bơi lội nên chưa chết, do viết chữ thuê để kiếm sống mà gặp gỡ ông Cao, được ông mời làm gia sư. Vào trong dinh, thấy bức b́nh[28] hoa sen và lời đề từ, liền khóc lóc kể với ông Cao. Ông bảo phu nhân sai người đón Huệ Viên đến, ngầm hỏi ḍ biết tấm b́nh phong do thuyền phu là Cố A Tú tặng cho ni am, bèn vây bắt, xử theo đúng luật lệ, trả tài sản lại cho Thôi Anh. Đưa Vương Thị ra, vợ chồng ôm nhau khóc lóc. Ông Cao tặng cho họ nô tỳ, đưa đến nhiệm sở. Vương Thị cảm kích Đại Sĩ ngầm che chở, ăn chay trường, tŕ Quán Âm Kinh đến khi mất.

      Theo Dị Đàm Khả Tín Lục, Triệu Thiên Tước khi làm huyện lệnh ở Cú Dung, đêm ngủ trong ṭa cổ miếu, mộng thấy bà lăo mặt đóng bụi, bảo: “Vạn Lam chẹn họng ta, hăy mau cứu ta”. Giật ḿnh tỉnh dậy th́ dường như c̣n thấy thấp thoáng. Sáng hôm sau thấy tượng Quán Âm giống hệt như người trong mộng. Hỏi nhà sư: “Ở nơi đây có Vạn Lam hay không?” Sư đáp: “Nhà Vạn Lam ở đằng trước”. Gọi Vạn Lam tới hỏi: “Nhà của ngươi là do tổ tiên để lại ư?” Đáp: “Nhà tôi vốn nằm trên đường ra vào Quán Âm Đường, nhà sư bán cho tôi”. Ông Triệu bèn chuộc về, lại sửa chữa. Về sau, phu nhân mộng thấy một bà cụ ẵm đứa trẻ trao cho, liền sanh được con.

      (15) Theo Huyền Tháp Biên, có thương nhân thấy tượng Quán Âm ở Bạch Y Am tại Ngô Huyện bị mưa dột, hư hoại, bèn bỏ tiền thếp vàng tu bổ. Tăng nhân liếc thấy ông ta lắm vàng, liền phục rượu say, sắp sửa giết, thương nhân ai oán kêu cầu, bèn giam trong mật thất, bức bách thương nhân tự thắt cổ. Khi ấy, tuần cảnh thấy có cô gái áo trắng bước vào chùa, liền theo ŕnh, thấy cô bước vào căn pḥng ngầm, tuần cảnh ập vào th́ thương nhân đă bị thắt cổ gần chết, bèn cởi trói cho thương nhân, trói tăng lại, chẳng thấy cô gái đâu, mới biết là Đại Sĩ hóa thân nhằm dẫn tuần cảnh giải cứu thương nhân vậy.

      Lại nữa, tại Giang Thượng thuộc thôn Xa Cứu (huyện Dư Diêu, tỉnh Chiết Giang), có Tăng nhân quyên mộ tu bổ Đại Sĩ Viện. Thương nhân đi qua đó thí tiền, Tăng liếc trộm thấy ông ta giàu có, bắt giữ, tính giết. Thương nhân xin tự thắt cổ chết, Tăng bèn chấp thuận. Cách Giang Thượng mấy dặm, có thuyền lính, một cô gái áo trắng lên thuyền nói: “Xin chở tôi đến Quán Âm Viện sẽ hậu tạ nhiều vàng”. Họ chở đến chùa th́ thương nhân mới vừa tự thắt cổ, mọi người bắt giữ gă cướp, thả thương nhân, [thương nhân] bèn đền tạ [các binh sĩ] đúng như lời cô gái nói.

      Theo Hàng Trung Phàm, trong thời Vạn Lịch nhà Minh, Tiêu X... ở Giang Âm đi nhận nhiệm sở, có ông Tăng người đất Sở (Hồ Nam) quyên mộ được sáu trăm lạng vàng, đem qua Phổ Đà dựng chùa, ngồi ké trên thuyền xuôi Nam. Một đêm gió dữ, ông Tiêu xô vị Tăng xuống sông, đoạt vàng. Đến sáng, chợt thấy Tăng từ dưới nước ngoi lên đ̣i mạng và vàng. Họ Tiêu kinh hoàng, ngă bệnh, trở về nhà mời tăng và đạo sĩ đến cúng bái, giải hạn, nhưng Tăng chỉ hô “đền mạng ta và vàng để ta đi Nam Hải”. Sư từ trong vách bước ra, chiếm giường, quấy nhiễu không ngừng. Một bữa, người nhà hoảng hốt kêu: “Vị Tăng lại đến”. Họ Tiêu nghe nói, thẹn thùng muốn tự sát, nhưng Tăng đă đến trước giường, nói: “Ta là người, chẳng phải là quỷ. Năm ngoái té xuống nước, chợt thấy Quán Âm Bồ Tát từ trên hư không giáng xuống, cầm một ngọn đèn dẫn vào đám lau lách, gặp thuyền chài được cứu. Nay lại quyên mộ được vàng đến Phổ Đà hoàn nguyện. Qua đây, nghe nói ông mắc bệnh lạ nên đặc biệt đến đây giải trừ mối nghi con rắn trong chén”.[29] Cả nhà sụp lạy, vị Tăng đi rồi, h́nh quỷ cũng mất tăm, nhưng rốt cuộc họ Tiều vẫn chết. Một đứa con của ông ta đang nổi danh văn chương chợt nhảy xuống sông chết. Vị Tăng từ Nam Hải trở về, lại đến thăm, than thở không ngớt.

      (16) Theo Quảng Dị Kư, đời Đường, sư Đạo Hiến do được quan Thứ Sử nhờ vẽ bảy bức tranh Quán Âm, bèn bảo họa sĩ trước hết hăy giữ trai giới, dùng Nhũ Đầu Hương[30] thay cho chất keo, sắp đặt cực trang nghiêm. Về sau, Đạo Hiến qua sông bị té xuống nước, vội niệm Quán Âm, thấy dưới đáy nước có ánh sáng lạ, bảy vị Bồ Tát đă vẽ đứng xung quanh, bảo Sư rằng: “Chỉ niệm A Di Đà Phật”. Đạo Hiến vội vàng niệm, bảy vị Bồ Tát cùng tới đỡ chân, Sư liền trồi khỏi nước, đi hơn bốn mươi dặm, lên được bờ.

      Theo Linh Cảm Phú, Dương Duy Tân ở Tú Thủy tŕ thần chú của Đại Sĩ đă lâu, lên thuyền bị té xuống nước, dưới chân trổ hoa sen, nhờ đó chẳng chết ch́m.

      (17) Theo Cao Tăng Truyện, tập Một, đời Tấn, sư Đạo Uông theo Lô Sơn Viễn Công xuất gia, đi qua Lương Châu, bị người Khương vây bắt, rơi mất y bát. Đạo Uông cùng mấy người đệ tử cùng niệm danh hiệu Quán Âm. Trong khoảnh khắc như có mây mù che khắp thân nhóm ngài Đạo Uông, bọn giặc t́m không thấy nên họ được thoát nạn.

      Trong đời Đường, Lô Nguyên Lễ bị bệnh, chết đi rồi tỉnh lại, nói: “Thấy một trăm cái ḷ, hơi nóng bốc lên nghi ngút, mấy ngàn vạn người ở trong lồng nướng, bèn niệm Cứu Khổ Quán Âm, nguyện đem thân chịu thay cho họ, rồi cởi áo, nhảy vào lửa. Chợt có vị Tăng kéo ra, đưa về”.

      (18) Theo Đồng Sanh Lục, đầu đời Minh, Quan Đế giáng bút như sau: “Ta quy y Phổ Môn Đại Sĩ cùng với Vi Đà tôn giả hộ tŕ chánh pháp. Kẻ tế ta đừng dùng rượu thịt”.

      Theo Quán Cảm Lục, đời Thanh, viên nha lại ở Vô Tích là Vương X... trong niên hiệu Thuận Trị (1643-1661) do chuyện Tiền Cốc mà bị giam vào ngục chết ở Bắc Đô. Về sau, Kim Hán Quang từ kinh đô quay về, trong thuyền nghe có tiếng người hô: “Chở giùm đi, ta là Vương X... đây, oán quỷ đấy! Xin cho ta ở nhờ góc thuyền để theo về Nam”. Đi mấy ngày, trời sắp tối, quỷ xin đậu vào bờ, nói: “Chỗ này thí thực, tôi muốn đến nhận”. Trong khoảnh khắc trở về bảo: “Quán Âm Đại Sĩ chủ đàn, không cho tôi ăn, bảo lúc sống tôi thích ăn nhiều thịt ḅ”. Hán Quang kinh sợ nói: “Tôi cũng ăn thịt ḅ, từ nay sẽ kiêng ăn”. Nói xong, quỷ khóc: “Thần hộ giới cơi trời đă đến rồi, tôi không thể ở được nữa”, bèn rời đi.

      (19) Theo Linh Cảm Phú, đời Tống, sư Nguyên Thản trụ tại chùa Hưng Giáo ở Tuyên Châu làm Thủ Ṭa. Hoài Thiền Sư muốn cử Nguyên Thản làm Trụ Tŕ, nhưng sợ Thái Thú Điêu Cảnh Thuần dị nghị, bèn cầu Quán Âm báo mộng cho họ Điêu. Quả nhiên, ông Điêu mộng thấy có con trâu lên ṭa, bèn hỏi Hoài Thiền Sư [th́ ra] Nguyên Thản họ Ngưu, do vậy, quyết định cử Sư làm Trụ Tŕ.

      Vào đời Tống, sư Nguyên Đạt qua Thiên Trúc lễ Đại Sĩ, thấy cô gái áo trắng từ trong chùa đi ra, bảo với Nguyên Đạt: “Xá Nhân[31] họ Tăng sẽ làm quan Trung Thư, ông cũng sẽ được tôn làm thầy, ban danh hiệu”. Về sau, ông Tăng làm Thừa Tướng, c̣n Nguyên Đạt quả nhiên được ban y ca-sa tía.

      (20) Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, vào đời Thanh, sư Diễn Nghĩa tự là Trạm Tu, thường tŕ chú Đại Bi, nói là có thể trừ nạn hổ. Khi ấy, người đất Tương (Hồ Nam) khổ sở v́ bị hổ làm hại, tự bắt chước làm theo, tiếng tụng chú Đại Bi vang khắp các hẻm núi, cuối cùng hổ tuyệt tích.

      Lại nữa, sư Trinh Biện trích máu vẽ tượng Quán Âm. Có hai thiên nữ đến quấy rối, Trinh Biện thề rằng: “Tâm ta không phải là đá, ta dùng thần chú bắt ngươi, sao c̣n chẳng đi?” Từ đấy ma trọn không c̣n tung tích.

      (21) Theo Thương Túc Am Tùy Bút, đời Thanh, vợ của Minh Phủ Châu Chỉ Tương là Vương Thị, lúc lên mười thêu tượng Bạch Y Đại Sĩ, sáng tối đảnh lễ. Sau khi lấy chồng, tặng tượng cho ni am thờ phụng. Không lâu sau cô ta qua đời. Chỉ Tương nghe nói đến bức tượng ấy, hận chưa được thấy. Về sau, am bị cháy, ni sư đem tượng sang Ngư Đài, Sơn Đông, ông Tương được cử đi thi ở kinh đô trở về[32], đi qua Ngư Đài. Tối hôm trước, ni sư mộng thấy Đại Sĩ nói: “Ta muốn trở về Giang Nam, sáng mai có quan nhân đến, ta sẽ đi theo”. Khi ông Tương đến nơi, ni sư bèn trao tượng cho, ông Tương chẳng biết tượng ấy là do người vợ đă khuất thêu, chỉ cảm thấy mơ hồ như gặp lại vật cũ mà thôi. Đem về, đưa cho mẹ vợ coi, bà ta vừa thấy, liền khóc: “Đây là tác phẩm của đứa con gái đă mất của ta mà!”

      Theo Hải Nam Nhất Chước, trong niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh, Trương X... ở Phù Lương tŕ Quán Âm Trai; gặp đúng ngày ăn chay, hàng xóm là X... rủ ăn uống, bèn thắp đèn trước tượng rồi đi. Trở về, tượng bị cháy sạch, nhưng giấy dán bồi quanh tượng trọn chẳng có vết lửa nào, biết là Bồ Tát cảnh tỉnh ông ta đă không kiền thành tŕ trai.

      (22) Theo Nam Hải Từ Hàng, đời Thanh, Ôn Như Hoàng kính phụng Đại Sĩ, mỗi năm đều thí kinh. Trong thời Càn Long, mọi người do thấy lầu Vạn Thọ bỏ không, tính thờ tượng Đại Sĩ [trên đó]. Ông Hoàng mộng thấy Đại Sĩ nói: “Thờ ta trên lầu là ư rất hay, nhưng cung ấy được lập ra chưa đầy mười năm mà đă chôn hai vị Tăng là v́ h́nh Bát Quái khắc trên cửa đá điên đảo Âm Dương mà ra”. Nói xong, chợt biến mất. Tỉnh giấc nh́n th́ quả nhiên h́nh Bát Quái lầm loạn, bèn xóa đi, rước tượng Đại Sĩ vào.

      Theo Linh Cảm Phú, vào đời Minh nhà họ Tŕnh ở huyện Hiếu Cảm thờ Quán Âm kiền thành. Hễ có chuyện tốt lành th́ tượng hiện dáng điệu vui vẻ, hễ có tang tóc th́ hiện dáng sầu bi. Do vậy, có thể đoán biết là năm ấy tốt hay xấu.

      (23) Theo Dị Đàm Khả Tín Lục, bà ni ở Sáp Hoa Miếu tại Thương Châu, vào ngày khánh đản Đại Sĩ, cúng dường tinh khiết xong, mệt mỏi bèn nằm ngủ, mộng thấy Đại Sĩ dạy: “Ngoài chùa có bốn năm người xin ăn không được, hăy giúp họ, nên dọn cỗ cúng cho họ ăn”. Giật ḿnh tỉnh giấc, ra xem th́ quả đúng như vậy. Từ đấy, hễ dọn cỗ cúng xuống bèn thí cho kẻ ăn mày, bảo là ư của Bồ Tát.

      Đời Minh, pháp sư Tố Am trụ tại chùa Thê Hà ở Kim Lăng, nhằm năm đói kém hết sạch gạo, Sư ngồi yên bảy ngày không ăn. Chúng tăng không một ai rời chỗ. Có họ Hác ở Vu Hồ mộng thấy Đại Sĩ báo tăng chúng ở Thê Hà đói, bèn cúng một trăm hộc[33] gạo, nh́n Sư thấy giống hệt như trong giấc mộng.

      (24) Theo Tỳ Kheo Ni Truyện, ni Tăng Đoan đời Lưu Tống gia đ́nh nhiều đời thờ Phật, chị em thệ nguyện xuất gia, nhưng bà xinh đẹp nổi tiếng trong làng xă, có nhà giàu đă nhờ mai mối xin cưới, mẹ và anh đă bằng ḷng. Trước hôm đón dâu ba ngày, Tăng Đoan trốn vào chùa Phật, tụng kinh Quán Âm, nước mắt đầm đ́a, dập đầu lạy suốt ngày đêm không nghỉ. Ba hôm sau trong khi lễ bái, thấy Phật dạy: “Chàng rể của ngươi đă hết tuổi thọ, ngươi chỉ nên siêng năng, chuyên ṛng, đừng nặng ḷng lo nghĩ”. Ngày hôm sau, chàng rể bị trâu húc chết.

      Theo Dạ Đàm Tùy Lục, Mẫn Dự ở Chiết Tây bị người ta dụ vào quán rượu, bỏ thuốc mê vào rượu, bèn hôn mê bất tỉnh. Khi tỉnh ra th́ đă bị một mụ ni cô dâm đăng giam cầm, nhưng không có cách nào thoát ra được. Trong pḥng có thờ tượng Quán Âm từ trước, Mẫn Dự bèn sáng tối lễ bái, cầu đảo, mong thoát hầm bẫy. Lại nữa, trên bàn có cuốn Quán Âm Chú, Mẫn Dự bèn thành tâm tŕ tụng, trong mộng mị cũng tụng niệm không ngớt. Một tối vừa mới tụng chú th́ một bà lăo kêu tên, bảo: “Mau tới đây, ta đưa ngươi về”. Mẫn Dự khoác áo, đi chân trần theo sau. Bà lăo dùng tay phất qua cửa, cửa tự mở ra. Trên thân bà lại có ánh sáng trắng, chiếu rơ như ban ngày. Qua mấy lớp cửa, hễ vừa đến, cửa liền mở. Đến tầng cửa cuối cùng, bà lăo bảo hăy mau ra, đừng ngó lại, vừa muốn nói lời cảm tạ, đă chẳng thấy tăm tích đâu nữa, mới biết là Đại Sĩ cứu khổ, liền niệm thánh hiệu không dứt. Trở về kể với chú, chú khóc bảo: “Nếu không phải là Đại Sĩ từ bi cảm ứng th́ ngươi muốn sống há có được chăng?”

 

      Ghi thêm: Theo Dạ Đàm Tùy Lục, nhà buôn X... ở Tân An giàu có nhưng dâm đăng, tàn bạo, có đứa con gái xinh đẹp, thông minh, vào núi hái trà, núp mưa dưới vách đá. Chợt trong đá có tiếng nói: “Cha ngươi cưỡng hiếp ô nhục con gái nhà lành đến chết; âm báo lụy đến ngươi. Quán Âm Đại Sĩ nghĩ mẹ ngươi trai giới, tụng kinh mà giải trừ ách nạn cho ngươi, hăy mau quay về”. Cô đuổi kịp đám bạn gái, nhưng lũ thiếu niên xấu ác đă đuổi theo bén gót. Trở về thưa với mẹ, bà mẹ càng thêm kính tín. Thương nhân trở về, bà vợ đem chuyện này cảnh tỉnh chồng. Hắn giận dữ nói: “Nếu có địa ngục, nguyện thân ta sẽ trải khắp các ngục ḥng mở rộng kiến thức”. Hơn tháng sau, hắn ngă bệnh, thấy những cô gái đă bị hắn bức chết dẫn lũ quỷ đến đ̣i mạng, bèn khóc lóc cầu vợ con tụng kinh sám hối. Nói chưa dứt, chợt kêu to: “Ta đi” rồi chết!

     

      1. Như Vô Kiệt cầu kinh, sư tử bảo vệ. Nguyên Khang đắc huệ, tùy ư cưỡi nai.

      2. Thiện Giác tŕ danh, đạo cao, hổ phục. Pháp Hồng phạm pháp, buồn cảm cỡi trâu.

      3. Trước chùa Bạch Tước, nai đến làm lễ. Bên am Liên Hoa, cá chép kính mừng.

      4. Nghỉ trong núi, vẹt lượn lưng trời. Đoạt kinh văn, cá to ngăn lối.

      5. Trứng gà trong bếp vua, từng nghe có tiếng kêu rên. Tuyết Nương trong điện vàng, cũng tha thiết nguyện quy y. Tuy nói mỗi loài đều có tánh linh, nhưng Phật không ǵ chẳng độ (Đoạn này ca tụng sự kiện cảm ứng loài vật).

 

      (1) Theo Cao Tăng Truyện, tập Một, đầu thời Nguyên Gia nhà Tống, ngài Đàm Vô Kiệt (Dharmodgata)[34] và hai mươi mấy đồ đệ đến nước Phật cầu kinh, trải đủ mọi thứ hiểm nạn. Đến được Thiên Trúc th́ giữa đường gặp một bầy voi núi. Đàm Vô Kiệt niệm danh hiệu Quán Âm, có sư tử từ trong rừng xông ra, lũ voi chạy tan tác. Lại có lũ trâu quái dị rống lên chạy ùa tới, toan làm hại, ngài Đàm Vô Kiệt xưng danh như cũ, chợt có một con kên kên to bay tới, lũ trâu kinh sợ, chạy tứ tán, nên thoát nạn.

 

      Chép thêm: Theo Tỳ Kheo Ni Truyện, vào đời Tấn, ni Minh Cảm thoạt đầu bị giặc bắt, thề chẳng chịu nhục, càng phải hứng chịu đủ nỗi khổ sở. Về sau, gặp một tỳ-kheo dạy kinh Quán Âm bèn tập tụng, ngày đêm không nghỉ. Trốn đi, không biết đường, đi vào núi sâu, có hổ dẫn đường. Sau mười ngày đến được Thanh Châu. Sắp vào thôn, liền chẳng thấy hổ đâu nữa.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời Đường, sư Nguyên Khang thường niệm Quán Âm, cầu tăng huệ giải, cảm được một con nai, sừng chia tám nhánh, h́nh dáng hết sức kỳ lạ. Nguyên Khang vỗ về, nai liền vâng phục, bèn nuôi dưỡng. Cưỡi đến nơi xa, nai chẳng lộ vẻ mệt nhọc.

      (2) Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, vào đời Đường, tướng quốc Bùi Hưu đến thăm sư Thiện Giác ở Hoa Lâm, hỏi Sư có thị giả hay chăng? Sư nói: “Hai đứa”, rồi gọi “Đại Không, Tiểu Không”, hai con hổ từ sau am chạy ra. Bùi Hưu kinh hoàng, Sư bảo: “Hễ có khách th́ tránh đi”, hổ gầm gừ bỏ đi. Bùi Hưu hỏi: “Làm cách nào để cảm được như thế?” Sư nâng xâu chuỗi, bảo: “Chỉ niệm Quán Thế Âm”. Lại nữa, sách Đại Tạng Trực Chỉ gọi Sư là Phục Hổ Thiền Sư.

      Về chuyện của sư Pháp Hồng đời Tấn trong Cao Tăng Truyện, tập Một, xin xem lời chú thích trong đoạn tư của phần “thoát hành h́nh”. Khi ấy, Sư sắp bị hành h́nh th́ trâu chạy quàng khiến xe bị hư, do vậy bèn được tha.

      Theo U Minh Lục, vào thời Nguyên Gia nhà Tống, Thứ Sử Ích Châu là Cát Hàn thường cưỡi một con trâu xanh. Đến khi ông mắc bệnh nhiều ngày, trâu cũng không ăn. Khi ông mất, trâu chảy nước mắt đầm đ́a.

      (3) Theo Quái Viên, chùa Bạch Tước ở Ngô Hưng tương truyền là do Lư Thân[35] đời Đường xây. Hiện thời đạo tràng hưng thịnh trở lại, nhang đèn trỗi hơn các nơi khác. Trước điện Quán Âm thường có hổ đến nằm phục, chẳng làm hại ai, nhưng người ta thường kinh sợ, hổ bèn bỏ đi. Từ đấy có con nai đến làm lễ, tợ hồ do hổ sai đến.

      Theo Hải Nam Nhất Chước, ngoài cửa Đông huyện Quảng Phong có Liên Hoa Am. Mỗi năm, nhằm ngày khánh đản Đại Sĩ trong tháng Hai, nước mùa Xuân dâng tràn, ắt có con cá chép to dẫn lũ cá chép bé, ngược ḍng đến ở trước am. V́ thế, từ lâu đă có lời đồn rằng chúng đến triều bái Đại Sĩ. Cá chép to triều bái xong, đột nhiên không thấy nữa. Nếu thôn dân đánh bắt cá chép nhỏ th́ sẽ lập tức ngă bệnh.

      (4) Theo Thiên Trúc Chí, ngày Mười Chín tháng Hai là ngày Khánh Đản Đại Sĩ, những người xa gần trai giới theo đúng kỳ hạn về núi chắc cũng phải đông đến ức vạn người. Trong điện thờ chẳng thể chứa nổi, họ đều ngồi ngoài trời chờ sáng, nên gọi là Túc Sơn. Trong dịp Khánh Đản năm Giáp Dần (1554) thời Gia Tĩnh nhà Minh, trăng sao sáng ngời, chợt thấy con vẹt (két) trắng từ trong điện bay ra, lượn quanh trên không trung. Muôn người nh́n không chớp mắt. Tiếng khen ngợi, niệm Phật náo động cả khu rừng. Biến hiện như thế mấy lần.

      Theo Phổ Đà Chí, trong thời Thuận Trị nhà Thanh, tên cướp biển Nguyễn Tuấn cùng bọn giặc lùn (cướp biển Nhật Bản) toan cướp tạng kinh của chùa Phổ Đà. Vị Tăng tên Chiếu Trung suất lănh mấy trăm người đến Châu Sơn xót xa cầu xin không ngừng. Nguyễn Tuấn giận dữ nói: “Các ngươi muốn lấy lại kinh th́ hăy xin từ nơi long cung, thủy phủ”. [Bọn hắn] giong buồm ra ngoài khơi, chợt có con cá to chặn thuyền, thuyền chẳng đi được suốt mấy ngày, Nguyễn Tuấn hối hận, bèn đem kinh trả lại, chưa đầy nửa ngày đă đến Đạo Đầu[36], bèn cúng bái rồi đi.

      (5) Theo Tuyên Thất Chí, Đường Kính Tông sùng Phật giáo, tăng chúng ngày càng đông đảo. Đường Văn Tông kế vị, có kẻ gièm siểm Phật giáo là sâu mọt của quốc gia, bèn xuống chiếu cấm tăng chúng không được giảng nghĩa trong sách Phật. Lại có kẻ bài xích, xin cấm không được tu tập [Phật pháp]. Vua xuống chiếu, sắp thi hành, viên quan trông nom bếp núc là Hội Thượng luộc trứng gà trong cái đỉnh, chợt nghe trong đỉnh như có tiếng người nói. Lắng nghe th́ chính là tiếng nhiều người kêu cầu Quán Thế Âm Bồ Tát. Tâu lên, Văn Tông xét nghiệm, thấy đúng như vậy, liền bảo: “Đạo Phật có thể được như vậy th́ phải ban chiếu cho những tinh xá trong các quận dựng tượng Quán Âm”.

      Theo Minh Hoàng Tạp Lục, xứ Lănh Nam dâng chim vẹt trắng hiểu tiếng người rành rẽ. Đường Minh Hoàng và Dương Quư Phi đều gọi nó là Tuyết Y Nữ (cô gái áo trắng như tuyết), bọn bầy tôi gọi vẹt là Tuyết Y Nương. Quư Phi dạy nó đọc Tâm Kinh.

     

      1. C̣n như hủy tượng bị chết ch́m, lửa đốt; nung chảy kim thân ắt đọa địa ngục.

      2. Đổi đá chuốc lấy quả khổ; thiêu kinh hăm nhập súc sanh.

      3. Ăn trộm vàng sủa như chó dại; ra khỏi điện bị rắn độc cắn.

      4. Quả báo rành rành, chẳng nỡ kể trọn.

      5. Đấy chẳng phải là Như Lai gây nhân duyên phiền năo, mà là muốn khiến hạng Xiển Đề được an trụ trong chánh pháp. Đây chính là chuyện hoằng pháp thứ tư của Đại Sĩ vậy (Phần này ca tụng kèm thêm sự răn đe điều ác).

 

      (1) Đời Tống, Trầm Tăng Phú ăn trộm tượng Phật, tượng Quán Âm nhỏ bằng đồng từ các chùa tại Sơn Dương để đúc tiền. Sự việc bị phát giác, hắn bị bắt giải lên kinh đô. Lên thuyền, liền tự nói: “Lửa đốt”, kêu gào khó thể chịu đựng được. Chưa đến kinh đô th́ [thân thể] đă trương phù, nứt nẻ như bị đốt chết.

      Châu Thế Tông[37] hủy tượng Phật để đúc tiền. Đại tượng Quán Âm ở Chân Châu linh thiêng nhất, không ai dám hủy. Thế Tông đích thân cầm búa bửa ngực tượng. Về sau, ngực vua nát bấy, lộ cả ngũ tạng rồi chết. Đến thời Khai Bảo (968-976) nhà Tống, có người chết rồi sống lại, [kể chuyện] thấy Thế Tông nằm trong giường sắt, bị ngục tốt cầm búa bửa tay không ngừng, hỏi loại tiền lưu hành đời Châu vẫn c̣n hay chăng? Loại tiền ấy hết rồi th́ [Châu Thế Tông] mới thoát địa ngục. Tâu lên Tống Thái Tổ, vua truyền trong dân gian hễ có loại tiền đời Châu th́ phải đem đúc tượng Phật hết.

      Theo Thái B́nh Quảng Kư, đời Đường, Phó Dịch hủy tượng Quán Âm bằng đá để dùng làm ngói – Phùng Thiếu Phủ chết rồi sống lại, kể Phó Dịch bị tống vào địa ngục. Lại nữa, Thái Sử Phó Nhân Quân chết đi, báo mộng cho Tiết Di cũng gọi Phó Dịch là “nê lê nhân” (người trong địa ngục) – mấy ngày sau chết đột ngột, tướng ác khi chết chẳng thể kể trọn.

      Theo Khuyến Giới Biên, đời Tống, Vương cư sĩ ở Giang Âm t́m được một tượng Quán Âm bằng trầm hương ở dưới nước. Mỗi năm làm lễ kính mừng hai lần, người trong ấp đều tham dự. Có huyện lệnh họ Vương cho người gọi chàng rể (anh này vốn là nha lại) nhưng anh ta không tới, biết là [chàng rể] đă đi dự hội, huyện lệnh giận quá, đem tượng ấy đốt đi, rồi vào chầu cấp trên, nhưng bị tim đau, thân nứt, ḷi ruột, về ngang chùa Quán Âm th́ nhảy xuống sông tự tử.

      Theo Phổ Đà Chí, trong thời Khang Hy nhà Thanh, lũ “phiên lông vàng”[38] đến núi, cướp sạch những thứ như tượng đúc, phan, tràng v.v... đem bán ở Nhật Bản được hơn hai mươi vạn lạng vàng. Chúng sắp trở về nước ḿnh th́ trong thuyền bốc lửa, đều bị chết cháy hay chết ch́m hết sạch.

      Lại nữa, tăng chúng đă dọn vào đất liền, bọn cướp địa phương bèn nung tượng, cháy lan sang điện vũ, bọn giặc không thoát ra được, đều chết cháy.

      Lại nữa, vào đời Minh, có gă Tăng tên Thiên Nhiên ở Hàng Châu, mẹ là ni sư hóa duyên tạo tượng Đại Sĩ, trong ḷng tượng đặt các thứ quư báu. Thiên Nhiên đục lưng tượng ăn trộm vật báu, chợt cầm đao tự cắt cổ. Đầu đă rơi xuống vai vẫn nói ŕ rầm: “Ta nhiều đời làm Tăng, cũng không mắc lỗi lớn lao nào, chẳng ngờ khởi tâm trộm cắp, tạo nghiệp Vô Gián, nay đọa địa ngục A Tỳ” rồi chết.

      Theo Dẫn Am Tỏa Ngữ, vào đời Minh, Trần Kinh Sơn tánh hung bạo, ham cờ bạc. Trong nhà hắn thờ tượng Đại Sĩ. Hễ thắng bạc th́ hương, hoa, lễ bái, hễ thua th́ chửi bới vung vít. Một hôm thua đậm, đem tượng ném vô nhà xí. Đêm Hai Mươi Bảy tháng Tư năm Sùng Trinh 17 (1644), nhà hắn bị hỏa hoạn, Kinh Sơn đă chạy ra, chợt lại chạy vô nhà xí, bị thiêu chết.

      Theo Âm Chất Văn Quảng Nghĩa, đầu thời Khang Hy nhà Thanh, Đàn Hương rất đắt. Tiệm bán hương ở Tô Quận mua được một tượng Đại Sĩ lớn, tính phá ra làm Đàn Hương sẽ kiếm lời gấp mấy lần. Sắp hủy tượng th́ một người làm công sợ tội bèn cực lực ngăn cản. Nhằm lúc đó, chàng rể của chủ tiệm đến đón vợ, quở mắng: “Mày là đứa làm công, việc ǵ đến mày?” Cô gái chợt đau bụng, không thể về nhà chồng được. Ngay đêm ấy, cửa tiệm bốc cháy, cả nhà chết sạch. Người làm công do được người khác mời ép đi nên thoát chết; nhà hàng xóm cũng vô sự.

       (2) Theo Hiện Quả Tùy Lục, chùa Bạch Tước ở Hồ Châu dựng điện Đại Bi. Phan X... cúng tiền mua đá xây bậc thềm. Vị Tăng tên Nhược Am mượn đá ấy để kê nhà cầu. Không lâu sau, Sư chết đi, dựa vào thân người khác nói: “Ta lầm lẫn, khinh nhờn tảng đá vốn được dùng để xây thềm điện Đại Bi nên Diêm phủ dùng đá ấy đè ta, khổ sở chẳng thể nói nổi! Hăy mau v́ ta cậy đá ấy lên, rửa sạch sẽ để làm thềm và tụng kinh Phạm Vơng th́ ta mới có thể thoát khổ”. Làm theo đúng lời, người ấy không c̣n nói giọng quỷ nữa.

      Theo Tích Tự Biên, thầy tṛ tăng chúng chùa Phổ Môn gồm chín người. Lũ học tṛ nhận lời [tín chủ] mời đến làm lễ Diệm Khẩu, liền đốt Tâm Kinh, tro bay khắp đồng. Một tiểu tăng nghĩ làm như vậy là sai, nhưng không nói. Đêm mộng thấy bị bắt xuống Âm Phủ, bảy vị Tăng đều quỳ, nghe quở mắng rằng: “Các ngươi thiêu kinh văn bừa băi, sẽ đọa trong đường súc sanh”. Bảo tiểu tăng rằng: “Chừa ngươi lại để về báo với mọi người: Niệm kinh th́ được, chớ nên thiêu kinh!” Tỉnh giấc th́ mấy hôm sau, bốn ông Tăng bị tường đè chết, hai ông Tăng chết đuối, một ông bị ma hại chết.

      (3) Theo Quả Báo Văn Kiến Lục, trong thời Khang Hy nhà Thanh, một bà ni ở Từ Gia Kiều tích cóp bảy lạng bạc từ tiền mộ duyên để tặng cho cháu trai cưới vợ, mộng thấy Đại Sĩ quở: “Ngươi đem tiền bố thí thanh tịnh để dùng cho tục gia, cơi Âm phạt ngươi làm chó bảy ngày”. Bà ni tỉnh giấc, kể lại với người thân. Đang trong lúc nửa tin nửa ngờ, bỗng bị chó dại cắn. Qua hôm sau, nghe tiếng trống, tiếng bạt[39], bèn đau đớn ngă lăn ra đất, miệng sủa như chó, ủng oẳng bảy ngày rồi chết.

      Theo Phổ Đà Chí, năm Khang Hy 11 (1672) đời Thanh, quân lính đậu thuyền ở Lạc Già, vào điện Đại Sĩ, thấy vẫn thanh tịnh như thường lệ. Vừa ra khỏi cửa, rắn độc ùa tới, há miệng phun nọc. Lại có chó dữ cả bầy xúm lại cắn, tử thương vô số. Xét ra, lúc ấy tăng chúng đă dời hết vào đất liền, cả núi không có một tăng nhân nào, những gă lính ấy ắt đă làm những chuyện như hủy hoại kinh tượng v.v...

      (5) Trong Niết Bàn Kinh, Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Bồ Tát thị chúng sanh, đồng ư tử tưởng, vân hà Như Lai đoạn tuyệt Bà La Môn mạng, hà cố thuyết Đề Bà Đạt Đa si nhân vô tu, linh bỉ sanh sân, xuất Phật thân huyết, Như Lai phục kư đương đọa địa ngục, nhất kiếp thọ tội” (Bồ Tát coi chúng sanh giống như con, cớ sao Như Lai dứt mạng Bà La Môn, v́ sao nói Đề Bà Đạt Đa là gă si không biết hổ thẹn khiến ông ta nổi sân, làm thân Phật chảy máu, Như Lai lại huyền kư ông ta sẽ đọa địa ngục, chịu tội một kiếp). Phật dạy: “Giả linh thủy vi can tướng, hỏa vi lănh tướng, phong vi trụ tướng, Như Lai chung bất vị chúng sanh tác phiền năo nhân duyên. Bồ Tát vị hộ chánh pháp, tiên thát chúng sanh. Báng Đại Thừa giả, hoặc đoạt kỳ mạng, mạng chung đọa A Tỳ địa ngục, tức ư Đại Thừa kinh điển, sanh kính tín tâm, sanh Cam Lộ Cổ Như Lai thế giới”. (Dẫu cho tướng của nước là khô, tướng của lửa là lạnh, tướng của gió là đứng yên, Như Lai trọn chẳng gây nhân duyên phiền năo cho chúng sanh. V́ hộ tŕ chánh pháp mà Bồ Tát đánh đập chúng sanh. Đối với kẻ báng Đại Thừa, hoặc đoạt mạng hắn, kẻ ấy chết đi liền đọa địa ngục A Tỳ, nếu hắn sanh ḷng tin kính đối với kinh điển Đại Thừa th́ sẽ sanh về thế giới của Cam Lộ Cổ Như Lai).

Phật lại nói: “Ngă hóa thân đại lực phục Khoáng Dă quỷ, dĩ mộc đả hộ pháp quỷ, thôi dương đầu quỷ linh đọa sơn hạ, diệc dĩ châm thích tiễn mao quỷ thân, chung bất linh bỉ quỷ thần hữu diệt một giả, trực dục linh bỉ an trụ chánh pháp. Cố thị như thị chủng chủng phương tiện” (Ta hóa thân đại lực hàng phục quỷ Khoáng Dă, dùng gỗ đánh quỷ hộ pháp, cũng dùng kim đâm quỷ lông cứng nhọn như tên, trọn chẳng khiến cho những quỷ thần ấy bị chết mất, mà thật ra là muốn khiến cho họ an trụ trong chánh pháp, cho nên thị hiện các thứ phương tiện như vậy).

 

2.4.5. Khơi mở trí huệ

 

      1. Bèn có thiện nữ xưng danh hiệu Quán Âm, được chiêm ngưỡng chân thân đức Phật; Nghĩa Tịch lên đài Văn Thù, chợt cùng Đại Sĩ đồng thể.

      2. Mổ ngực hiện đầu, Huệ Mục chiếu quang minh; rạch ức thay tim, Ngạn Luân khởi diệu ngộ.

      3. Theo U Khê tu tập sám pháp, Khán Vân đốn ngộ vô sanh. Chỉ bức vẽ của Đạo Tử, Cảnh Huyền đừng ngờ hữu tướng.

      4. Bảo Cung đến học, ngỡ khoảnh khắc thật lâu dài; Pháp Kinh đổi tên, liền rạng danh khắp ba đời.

      5. Nguyên Khang cầu trí, được Tông, Thuyết đều thông; Tiệm Nguyên nghe kinh, biết đạo ĺa sanh tử.

      6. Ba lượt gơ nắp đỉnh, diệu trí hiện tiền; ngẫu nhiên chạm chấn song, ngộ giải viên văn[40].

      7. Hắc phong thổi thuyền, sân tâm vô duyên cớ khởi lên; que cời gơ củi, tánh Nghe vốn chẳng trói buộc.

      8. Mười hai mặt đi về nơi đâu, chẳng cho xoay ḿnh; ba mươi hai tướng tuy đẹp, chẳng mến, sợ hành tà đạo.

9. Quy Tông khảy ngón tay, đúng sai trở về tánh Nghe. Nhân Nhạc tu Quán, chợt như mộng tỉnh.

10. Đêm ṃ mẫm gối, khắp thân nào giống toàn thân? Tay lần xâu chuỗi, cầu người chẳng bằng cầu ḿnh.

11. Ễnh ương, giun đất, giúp ông phát khởi căn cơ; bánh xèo, mạn đầu, khiến người sâu xa tỉnh ngộ.

12. Trọng Hỷ tự vá áo nát, mau đắc biện tài; Huệ Tài được trùm ca-sa, lập tức triệt ngộ.

13. Tách rời tay mắt, Phạm Am liền đắc thanh lương; chẳng chuyển ư căn, Hám Sơn chợt quên thân thế.

14. Hải Ninh thất học, tự biết ngâm thơ; Cốc Thanh tụng kinh, chợt như quen thuộc.

15. Rót nước từ b́nh lưu ly, Tử Anh đắc pháp Viên Thông. Trao lư xưa bằng gỗ, Nhiếp Am sáng bừng tâm địa.

16. Cầm đao mổ xẻ, Độc Quán gội ân thay xương. Đội tượng kinh hành, Vân Cốc ngộ duy tâm yếu chỉ.

17. Xả thân trên biển, Hành Đồng thông hiểu Phạn âm, gột nhơ bến sông, Nguyên Sơ chóng biết đường về.

18. Xoa đầu Tuyết Quan, Thiền Tịnh kiêm tu. Vỗ thân Đại Vân, nhân duyên kiếp xưa sẵn trọn.

19. Ngoài ra, xoa thân họ Vương, văn tài nổi trội. Rửa mắt Oánh Sư, chợt thông Địa Lư. Ấy và v́ Bồ Tát trọn đủ muôn vàn trang nghiêm, cho nên chúng sanh tùy theo căn cơ được hưởng lợi ích. Đây chính là chuyện hoằng pháp thứ năm của Đại Sĩ vậy.

      (1) Đối với chuyện Thỉnh Quán Âm Kinh, xin xem lời chú thứ tám trong phần Trừ Tà Quái.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời Tống, sư Nghĩa Tịch khi ở chùa Dục Vương tại Tứ Minh, mộng thấy lên chùa Quốc Thanh. Phía trên chùa có ṭa trang nghiêm bằng những cái tràng báu, đề bảng Văn Thù Đài, có lập hàng rào mắt cáo ngăn cách. Sư muốn vào nhưng không có cách nào. Trong khoảnh khắc, Quán Âm Đại Sĩ từ trong điện đường bước ra, gạt bỏ “hành mă” (hàng rào) đi, bèn khom ḿnh tiếp đón, chợt cảm thấy thân ḿnh và thân Quán Âm ḥa lẫn với nhau; do vậy, bèn giật ḿnh tỉnh giấc. Từ đấy, nhạo thuyết biện tài vô tận. Người ta cho là Sư đă nhập Phổ Môn Trí. “Hành mă” (行馬) chính là cái hàng rào mắt cáo, tức lan can vậy.

      (2) Pháp sư Vĩnh Gia Huệ Mục, trong điện thờ Quán Âm tỏa ánh sáng, tŕ chú nghe mùi hương lạ. Mộng thấy Bồ Tát dùng tay banh ngực Sư, xuất hiện đầu Phật to như cái sọt, quang minh chiếu sáng rực. Tỉnh dậy, Sư đắc trí huệ, thâm nhập Giáo Quán.

      Theo Phật Tổ Thống Kỷ, Thích Ngạn Luân từng bị mắc bệnh dịch, chữa trị trăm cách không lành, bèn tận lực niệm thánh hiệu Quán Âm. Sư mộng thấy một phụ nữ khoét banh lồng ngực Sư, thay quả tim khác, dùng tay xoa lên, bệnh liền khỏi. Những ǵ đă xem trước kia không ǵ chẳng nhớ thông suốt, cất bút liền thành văn chương, nhưng [lời văn] luôn trang trọng, tao nhă.

      (3) Đời Minh, sư Khán Vân nương theo ngài U Khê, tu Quán Âm Tam Muội bốn mươi chín ngày, được đại sư giảng yếu chỉ của pháp tu sám: Một là tác pháp sám, hai là thủ tướng sám, ba là vô sanh sám. Khán Vân bèn phát sanh trí huệ to lớn.

      Theo Tăng Bảo Truyện, đời Tống, Cảnh Huyền hỏi Quán Thiền Sư: “Vô tướng đạo tràng là như thế nào?” Quán Thiền Sư chỉ vào tượng Quán Âm trên vách nói: “Đây chính là bức vẽ của Ngô Đạo Tử[41]”. Cảnh Huyền toan mở miệng, Quán Thiền Sư chặn ngay: “Đấy chính là hữu tướng, c̣n vô tướng th́ sao?” Cảnh Huyền lănh ngộ, bèn lễ bái.

      (4) Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, sư Bảo Cung năm mười một tuổi theo thầy xuất gia. Thầy muốn thử thần thái của Bảo Cung nên lấy kinh Quán Âm ra tụng. Trong đêm đầu tiên có lúc thầy vừa chỉ [tụng kinh] trong chốc lát mà ngài Bảo Cung tự nhủ ta đă được nghe kinh này suốt cả tháng.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Đường, Thích Phổ Minh vốn có tên là Pháp Kinh, theo ngài Trí Giả trụ tại Đông Lâm, hành Quán Âm Sám dưới căn gác [thờ h́nh tượng Quán Âm] do Đào Khản Thụy [tạo lập]. Sư thấy một vị Tăng bảo: “Tên Pháp Kinh chưa hay, hăy nên đổi thành Phổ Minh. Tên này sẽ rạng ngời, chiếu soi khắp ba đời”. Sư tŕnh lên Tổ Trí Giả, đại sư bảo: “Đấy là lời ngầm dạy, hăy nên bỏ tên cũ, dùng tên mới”.

      (5) Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, pháp sư Nguyên Khang niệm Quán Âm cầu trí huệ. Về sau Sư thông hiểu sâu xa cả Tông lẫn Giáo.

      Theo Truyền Đăng Lục, đời Đường, sư Tiệm Nguyên theo hầu thiền sư Đạo Ngô đi viếng tang. Sư vỗ vào quan tài, nói: “Sống ư? Chết ư?” Ngài Đạo Ngô nói: “Sống cũng chẳng nói, mà chết cũng chẳng nói”. Về đến nửa đường lại hỏi, [ngài Đạo Ngô đáp]: “Vẫn chẳng nói”, cho đến khi bị đánh cũng không nói. Ngài Đạo Ngô bảo [Tiệm Nguyên] hăy ra đi. Ba năm sau, Tiệm Nguyên nghe một bé trai niệm Quán Âm Kinh đến câu “dùng thân tỳ-kheo để đắc độ liền hiện thân tỳ-kheo để thuyết pháp” bỗng nhiên giải ngộ. Thắp hương, vọng về phía thầy, lễ bái: “Thấu hiểu sâu xa lời thầy dặn lại, trọn chẳng nói xuông”. Bèn đến yết kiến ngài Thạch Sương[42], làm chay, sám hối.

      (6) Theo Truyền Đăng Lục, Tăng hỏi ngài Quy Tông: “Huyền chỉ là như thế nào?” Ngài Quy Tông đáp: “Chẳng phải là chỗ dụng tâm của ngươi!” Hỏi: “Há chẳng có môn phương tiện ư?” Quy Tông đáp: “Quán Âm diệu trí lực, thường cứu khổ thế gian”. Hỏi: “Quán Âm diệu trí lực là như thế nào?” Quy Tông gơ lên nắp cái đỉnh ba lần.

      Lại nữa, Hoàng Bá Duy Thắng thiền sư[43], do cái quạt đụng vào chấn song cửa sổ vang ra tiếng, bèn nhớ tới câu “mười phương đều đánh trống, mười chỗ cùng lúc nghe” [trong kinh Lăng Nghiêm], do vậy đại ngộ.

      (7) Theo Truyền Đăng Lục, đời Đường, Lư Văn Công hỏi ngài Dược Sơn: “Thế nào là hắc phong thổi thuyền bè trôi vào nước quỷ”. Sư nói: “Thằng nhóc Lư Cao hỏi chuyện ấy làm chi?” Văn Công giận dữ lộ ra mặt, Sư cười bảo: “Đấy chính là hắc phong thổi thuyền bè giạt vào nước quỷ”.

      Lại có vị Tăng hỏi ḥa thượng Tương Châu Lịch Thôn: “Thế nào là quán sát âm thanh liền được giải thoát?” Ngài Lịch Thôn cầm que cời lửa gơ vào củi, hỏi: “Nghe không?” Đáp: “Nghe ạ!” Ngài Lịch Thôn: “Ai chẳng được giải thoát?”

      (8) Theo Truyền Đăng Lục, Ma Cốc hỏi Lâm Tế: “Quán Âm mười hai mặt, mặt nào là chánh diện?” Lâm Tế bước xuống thiền sàng, nắm chặt Ma Cốc hỏi: “Quán Âm mười hai mặt tới chỗ nào, nói mau, nói mau!” Ma Cốc xoay ḿnh tính ngồi xuống, Lâm Tế liền đánh.

      Theo Nhất Hạnh Cư Tập, đời Minh, con gái của Văn Túc Công Vương Tích Tước là Đàm Dương Đạo Nhân, thờ Quán Âm từ nhỏ. Cô mộng thấy Đại Sĩ dẫn đi xem ṭa sen bảy báu ở Tây Phương. Một hôm, Đại Sĩ hiện ba mươi hai tướng, hỏi: “Đẹp không?” Thưa: “Đẹp ạ!” Hỏi: “Đáng yêu không?” Thưa: “Chẳng yêu”. Hỏi: “Đẹp sao không yêu?” Thưa: “Đệ tử nghe nói: ‘Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà, chẳng thấy được Như Lai”. Đại Sĩ lộ vẻ hoan hỷ.

      (9) Theo Truyền Đăng Lục, ngài Quy Tông thượng đường nói: “Ngươi nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chốn”, [đồ đệ] hỏi: “Thế nào là hạnh Quán Âm?” Quy Tông khảy ngón tay, bảo: “Mọi người c̣n nghe hay chăng?” Thưa: “Nghe ạ!” Quy Tông nói: “Một đoàn người hướng về đây kiếm cái ǵ?” Sư dùng gậy đuổi đại chúng ra.

      Theo Phật Tổ Thống Kỷ, Nhân Nhạc tự là Tiềm Phu, chuyên ṛng tu phép tam-muội trong Thỉnh Quán Âm Kinh, ngồi yên trong tịnh thất, chợt như tỉnh mộng.

      (10) Theo Thung Dung Lục, Vân Nham hỏi Đạo Ngô: “Đại Bi Bồ Tát dùng lắm mắt nhiều tay như thế để làm ǵ?” Đạo Ngô đáp: “Như người trong đêm dùng tay ṃ gối”. Vân Nham thưa: “Con hiểu rồi, khắp thân là tay mắt”. Đạo Ngô bảo: “Chỉ nói được tám phần”. Vân Nham hỏi [ư nghĩa như thế nào], Đạo Ngô bảo: “Toàn thân là tay mắt”. Ngài Thiên Đồng tụng rằng: “Mắt báu thanh tịnh, tay công đức. Khắp thân đâu giống trọn toàn thân!”

      Vua Tống Hiếu Tông hỏi vị tăng Thiên Trúc: “Quán Âm tay cầm xâu chuỗi niệm ai vậy?” Đáp: “Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát”. Hỏi: “Tự niệm danh hiệu của chính ḿnh để làm chi?” Đáp: “Cầu người khác chẳng bằng cầu chính ḿnh”. Vua rất vui vẻ.

      (11) Theo Truyền Đăng Lục, thiền sư Trung Tháp Cầu thượng đường bảo: “Nếu theo cửa Quán Âm để vào th́ hết thảy âm thanh, tiếng vọng ễnh ương, giun đất đều giúp ngươi phát khởi căn cơ”.

      Lại nữa, ngài Vân Môn dạy đại chúng: “Nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc minh tâm”, rồi liền giơ tay nói: “Quán Thế Âm Bồ Tát cầm tiền đến mua bánh xèo bột bắp”[44]. Sư buông tay xuống nói: “Vốn nó là bánh mạn đầu”.

      (12) Theo Kiên Cô Tập[45], trong niên hiệu Hy Ninh (1068-1077) thời Tống, trưởng lăo Trọng Hỷ không biết chữ, hằng ngày niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát không nghỉ chút nào. Một hôm chợt viết kệ: “Địa lô vô hỏa, nhất nang không; tuyết tự dương hoa lạc tuế cùng, khất đắc ninh ma phùng bại nạp, bất tri thân tại tịch liêu trung” (Ḷ đất nguội tanh, túi rỗng tênh. Tuyết như hoa rụng, hết năm rồi, xin được nắm gai chằm áo nát, nào biết thân trong chốn tịch liêu). Ấy là v́ Sư đă đắc trí huệ lực của Quán Âm mà giải ngộ vậy.

      Theo Phật Tổ Thống Kỷ, đời Tống, sư Huệ Tài tự hận tối tăm, chậm lụt, thường tŕ chú Đại Bi, chợt mộng thấy một vị Phạn tăng cao mấy trượng, cởi ca-sa đắp cho. Những ǵ đă nghe được trước kia và sau này đều hiểu thông suốt hết.

      (13) Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Minh, sư Hồng Thượng tự là Phạm Am, đọc Lăng Nghiêm có chỗ tỉnh, bèn kiền thành lễ Quán Âm. Một đêm, trong Định thấy kim thân Bồ Tát, ngàn mắt, ngàn tay, nhóm họp đông nghịt. Đang kinh ngạc th́ Bồ Tát tách một cánh tay và mắt trao cho. Xuất Định, mùi hương lạ ngập thất, tâm địa thanh lương.

      Lại nữa, ngài Hám Sơn Đức Thanh sống trong căn nhà cũ tại Long Môn thuộc Bắc Đài trong mùa băng tuyết phủ khắp muôn núi. Giữa Xuân sang Hạ, các ḍng nước dần dần tan chảy như vạn con ngựa chạy dồn, bèn hỏi ngài Diệu Phong. Sư Diệu Phong bảo: “Cổ nhân ba mươi năm nghe tiếng nước chảy, chẳng chuyển ư căn th́ sẽ chứng pháp Viên Thông của Quán Âm”. Ngài Đức Thanh chấp nhận là đúng, đặt ngang tấm ván trên suối, quỳ ở trên đó, lâu ngày, chợt quên mất cả thân thế, mọi thứ rung động đều lặng bặt.

      (14) Theo Linh Cảm Phú, đời Tống, một vị Tăng chùa Hải Ninh tại Thái Thương, thô lỗ, ngu xuẩn, thất học. Thầy ông ta bèn bảo hăy chuyên lạy Quán Âm. Ông Tăng ấy đột nhiên có thể ngâm thơ, nhưng trọn chẳng biết chữ.

      Theo Nhất Hạnh Cư Tập, thiền sư Cốc Thanh thuở nhỏ học hành, khổ v́ đọc chữ ngắc ngứ, bèn đối trước Quán Âm Đại Sĩ cầu đảo. Trở về mở sách ra, giống như đă đọc quen từ trước. Xuất gia, trụ tại Long Hoa Tự, ban ngày lo thâu thập lương thực cho đại chúng, đêm mở Pháp Hoa Kinh ra, trong khoảnh khắc đă tụng xong. Mỗi lần xuống núi liền tụng kinh một lượt, trở về cũng giống như thế.

      (15) Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Tống, sư Tử Anh, pháp tự Giác Ấn, một hôm mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ, rót nước từ b́nh lưu ly cho uống. [Sư cảm thấy] giống như cam lộ quán đảnh. Từ đấy rỗng rang, đắc pháp nơi ngài Viên Thông Tú.

      Lại nữa, ngài Linh Duệ đời Thanh, pháp tự là Nhiếp Am, tu Đại Bi Sám. Có vị lăo tăng tự xưng là Từ Vân Sám Chủ, đem chiếc lư hương bằng gỗ đă xưa trao cho, chợt chẳng biết Sư đă biến đâu mất. Do vậy, tâm địa sáng tỏ như có thần giúp vậy.

      (16) Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Thanh, ngài Hành Kính, pháp tự là Độc Quan, mộng thấy Đại Sĩ cầm đao mổ xẻ, thay xương cho Sư; mổ đến chỗ chân răng th́ đau quá, tỉnh giấc. Từ đấy trở đi, chỉ thích sự vắng lặng của lẽ Thiền, dứt sạch ngoại duyên.

      Lại nữa, đời Minh, ngài Pháp Hội, pháp tự là Vân Cốc, tham Thiền đắc ngộ, bắt chước ngài Minh Giáo Tung đội tượng Quán Âm, suốt đêm không ngủ, lễ bái, kinh hành, suốt đời không lười. Sư dạy Viên Liễu Phàm ư chỉ “dùng tâm lập mạng”, những người được Sư hóa độ tính đến ngàn vạn kẻ.

      (17) Chuyện Tào Hành Đồng đời Minh vào biển được cứu chép trong sách Quái Viên, xin xem lời chú thứ ba trong đoạn “cứu chết ch́m”. Quay về, ông ta bèn đến chùa Trấn Hải tu tập kinh chú, học thông thạo tiếng Phạn, hiểu rơ ràng ư nghĩa của kinh điển, trở về xứ ḿnh, [trở thành bậc] kiệt xuất trong những người cùng hàng, xa gần đều quy y.

      Theo Cư Sĩ Truyện, đời Minh, Tiết Nguyên Sơ pháp danh là Đại Xuân. Lúc thơ ấu mắc bệnh, liền ŕ rầm niệm danh hiệu Phật. Lên mười đă khéo nói những lư luận phần nhiều phù hợp kinh Phật. Về sau, đọc kinh hoát nhiên tỉnh ngộ, trí huệ đắc Vô Ngại Biện. Đă vậy c̣n mộng thấy Đại Sĩ dẫn đến bến sông, té nước lên gột rửa, bảo: “Sao mà ngươi phủ bụi đến thế này”. Tắm xong, xoa đầu bảo: “Hăy mau t́m đường mà đi”. Rồi ông ta mắc bệnh, liền nói kệ, qua đời.

      (18) Theo Giác Hổ Tập, sư Tuyết Quan Trí Ám thân thể c̣m cơi, đảnh lễ Quán Âm, mộng thấy Đại Sĩ xoa đầu, ḿnh mẩy, xương cốt dần dần mạnh mẽ, coi khắp các sách, thông hiểu cặn kẽ. Tham Thiền có chỗ tỉnh, kiêm tu Tịnh Độ.

      Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Nguyên, [trước khi xuất gia] sư Đại Vân đậu Tiến Sĩ. Trong lúc ở Trường An, mộng thấy Đại Sĩ vỗ vào lưng nói: “Ông có túc duyên to lớn với Không môn”, cảm thấy ánh sáng trắng ngập nhà, mùi thơm phủ khắp người. Do vậy, bèn bỏ quan làm Tăng.

      (19) Vương Mộng Cơ, thuở bé vào học trường huyện, tự thẹn kém tài, tŕ chú suốt bốn mươi ngày đêm, mộng thấy Đại Sĩ xoa khắp xương đốt trên thân, từ đấy văn tài lưu loát.

      Theo Chiết Giang Thông Chí, sư Triệt Oánh tĩnh tu triệt ngộ. Trong Định thấy Đại Sĩ dùng nước cành dương rửa mắt, bảo: “Ngươi chưa đoạn duyên đời, do vậy, hăy cứu độ người đời”. Sư chợt hiểu được yếu quyết Địa Lư. Nói chuyện họa phước đúng răm rắp.

 

Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

Quyển 3, Phần 1 hết

 

 

     



[1] Núi Hùng Nhĩ thuộc tỉnh Hà Nam, là mạch núi nối dài của rặng Tần Lĩnh, ngọn cao nhất cũng có tên là Hùng Nhĩ.

[2] Câu này dựa theo ư bài kệ phó chúc tương truyền là của tổ Đạt Ma theo Pháp Bảo Đàn Kinh: “Ngô bổn lai tư độ, truyền pháp cứu mê t́nh, nhất hoa khai ngũ diệp, kết quả tự nhiên thành” (Ta vốn đến cơi này, truyền pháp cứu mê t́nh, một hoa x̣e năm cánh, kết quả tự nhiên thành). Theo đó, “hoa khai ngũ diệp” là lời dự ngôn: Sau thời Lục Tổ Huệ Năng, Thiền Tông sẽ tách thành năm phái Thiền:

1. Quy Ngưỡng Tông: Do hai vị Quy Sơn Linh Hựu và Ngưỡng Sơn Huệ Tịch khai sáng.

2. Lâm Tế Tông: Do hai vị Hoàng Bá Hy Vận và Lâm Tế Nghĩa Huyền khai sáng. Đến đời Tống, Lâm Tế tông lại tách ra thành hai chi phái là Dương Kỳ và Hoàng Long.

3. Vân Môn Tông: Do ngài Vân Môn Văn Yển khai sáng.

4. Tào Động Tông: Do hai vị Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bổn Tịch khai sáng.

5. Pháp Nhăn Tông: Do ngài Thanh Lương Văn Ích khai sáng.

[3] Xương đ̣n gánh (Clavicle, tỏa cốt, tỏa tử cốt) là một miếng xương nằm ngang nối xương ức với xương bả vai.

[4] Chữ “lục thân” có năm cách hiểu khác nhau:

1. Lục Thân là sáu mối quan hệ thân tộc: Cha con, anh em, anh em con chú con bác, anh em cháu ông chú ông bác (tức ông nội ḿnh và ông nội người ấy là anh em ruột), anh em cháu ông cố bác ông cố chú, anh em cùng họ. Đây là quan điểm của Giả Nghị đời Hán được chép trong bộ Tân Thư.

2. Lục Thân là cha con, anh em, chị em, cậu cháu, chồng vợ, bố mẹ chồng (vợ) và con dâu (con rể). Đây là quan điểm của Tả Truyện.

3. Sách Hán Thư lại coi Lục Thân chỉ là ba mối quan hệ (do trong mỗi quan hệ có 2 đối tượng nên 3x2=6) tức là cha mẹ, anh em, vợ con (trong đây đă gộp mối quan hệ chị em vào anh em).

4. Sách Sử Kư cũng nêu quan điểm tương tự, nhưng hợp lư hơn: Lục Thân là cha con, anh em, vợ chồng.

5. Thiên Quản Án Liệt Truyện sách Sử Kư lại giảng Lục Thân là ông bà nội ngoại, cha mẹ, chị, em, con cái của anh em bên vợ, con cái của mẹ kế, con cái của con gái ḿnh. Hiểu theo cách này th́ lại thiếu mất cháu nội, cũng như con cái của anh em trai ta và con cái của chị em gái ta.

Xét ra, Lục Thân thường được hiểu theo cách thứ ba hay cách thứ tư.

[5] Thù Du (茱萸, Silverberry hoặc Oleaster ), c̣n gọi là Việt Tiêu hay Chi Tử. Thù Du là một loại cây xanh quanh năm, có hoa thơm, tinh dầu có tác dụng khử hàn tiêu độc, nên thường để chữa cảm mạo, có khoảng từ 40 đến 70 loài khác nhau. Loại cây này thường mọc thành bụi thấp, hoa bốn cánh có mùi thơm nhẹ, trái có thịt mọng ăn được nhưng vô vị. Thời cổ, vào tiết Trùng Dương (Trùng Cửu, tức mồng Chín tháng Chín âm lịch), người ta thường lùng hái lá cây này đem về phơi khô làm thuốc hoặc ngâm rượu uống dần.

[6] Thân Vương là tiếng gọi chung những người được mang tước vị cao nhất trong tước Vương. Bắt đầu từ thời Hán, hoàng tử và anh em của hoàng đế được mang tước Vương. Từ thời Ngụy Tấn, tước Vương được chia ra làm hai loại: Thân vương và Quận Vương. Thân Vương chỉ phong cho hoàng tử và anh em của hoàng đế, Quận Vương dành riêng cho Hoàng Thái Tử. Về sau, Quận Vương được phong cho các văn thần quan trọng (như những người giữ chức Tiết Độ Sứ đời Đường), chứ Thái Tử không c̣n được gọi là Quận Vương nữa, và tước Quận Vương đương nhiên có địa vị thấp hơn Thân Vương. Đời Đường, có lệ: Danh xưng của những vị Thân Vương chỉ có một chữ, c̣n Quận Vương danh xưng có hai chữ. Chẳng hạn như trước khi lên ngôi, Đường Duệ Tông mang tước Tương Vương, trong khi ấy, Quách Tử Nghi là quyền thần thời đó, được phong là Phần Dương Vương. Đến đời Minh, Thân Vương được phép có ngọc tỷ và vùng đất được phong sẽ gọi là Quốc. Đời nhà Thanh, các Thân Vương được gọi rơ là Thân Vương trong danh xưng. Chẳng hạn như các hoàng tử thường được gọi là Ḥa Thạc Thân Vương.

[7] Hoa Tử là tiếng gọi đùa những kẻ ăn mày v́ quần áo vá chằng vá đụp nhiều mảnh vải khác màu cũng như thân thể họ thường ghẻ chốc, phải bôi phẩm xanh, phẩm đỏ để chữa ghẻ, trông như “vẽ hoa” nên được gọi là Hoa Tử. Do họ hay kêu gào, xin xỏ nên c̣n gọi là Khiếu Hóa Tử.

[8] Hách Liên Bột Bột (381-425), tự là Quật Kiết, thuộc bộ tộc Thiết Phất của giống Hung Nô, vốn có tên là Lưu Bột Bột, là vua khai sáng nước Hồ Hạ thời Thập Lục Quốc. Sư Đàm Thỉ sống vào thời Lưu Tống của Lưu Dụ (chứ không phải nhà Bắc Tống của Triệu Khuông Dẫn). Câu chuyện này xảy ra khi Lưu Dụ bận bịu truy kích tận diệt nhà Tiền Tần, Hách Liên Bột Bột thừa cơ vây hăm, đoạt lấy Trường An, xưng đế, thụy hiệu là Hạ Thế Tổ.

[9] Thác Bạt Đào (408-453) chính là Ngụy Thế Tổ Thái Vũ Hoàng Đế, là con của Thác Bạt Tự (Ngụy Minh Nguyên Đế), là một ông vua đầy tham vọng, chiến tranh liên miên, diệt các nước Hạ, Bắc Yên, Bắc Lương, kết thúc thời Ngũ Hồ Thập Lục Quốc, thống nhất phương Bắc. Vua ưa sử dụng h́nh phạt tàn nhẫn. Do tham vọng chiếm đoạt tài sản của Phật giáo và độc tôn Đạo giáo, ông đă hạ lệnh phế Phật dữ dội nhất (Sử thường gọi là Tam Vũ Diệt Phật, tức ba ông vua có đế hiệu là Vũ Đế hủy diệt Phật pháp, tức Ngụy Thái Vũ Đế, Châu Vũ Đế và Đường Vũ Tông).

[10] Theo Tiên Kinh của Đạo Giáo th́: “Bậc thượng sĩ bay lên hư không th́ gọi là Thiên Tiên, bậc trung sĩ ngao du các danh sơn th́ gọi là Địa Tiên, bậc hạ sĩ chết đi rồi mới thành tiên th́ gọi là Thi Giải Tiên”. Dựa theo luận điểm này, các Đạo Sĩ đặt ra năm loại tiên (quỷ tiên, nhân tiên, địa tiên, thiên tiên và kim tiên), trong đó là Địa Tiên là những đạo sĩ đă tu luyện đến mức tinh khí thần hợp nhất, đắc năm môn thần thông, có thể hấp thụ tinh khí của nhật, nguyệt, thiên, địa nhằm bổ dưỡng thân mạng, nhục thân bất hoại, không c̣n Ngă Chấp và Pháp Chấp. Họ cũng báng bổ coi Phật chỉ là một trong số những vị Kim Tiên của Đạo Giáo. Nhà Phật gọi chung những thần thánh trong nhân gian là Địa Tiên nhằm phân biệt với chư thiên. Chữ Địa Tiên ở đây cũng có thể hiểu là Địa Hành Tiên, tức là một trong mười loại tiên được nhắc tới trong kinh Thủ Lăng Nghiêm.

[11] Cao Hoan (496-547) là người Tiên Ty được Hán hóa, vốn có tên là Hạ Lục Hồn, là một tay quyền thần thời Bắc Ngụy và Đông Ngụy, từng nắm quyền Thừa Tướng, thâu tóm quyền hành nhà Ngụy, đặt nền móng cho nhà Bắc Tề. Do vậy, đôi chỗ gọi Cao Hoan là Cao Vương, tuy ông ta chưa hề xưng vương. Sách Nam Hải Từ Hàng cho rằng kinh Cao Vương Quán Âm là kinh do Vương Nguyên Mô được Quán Âm Bồ Tát truyền trong mộng, và do ông Nguyên Mô siêng năng tŕ tụng nên khi bị vua Bắc Tề xử tử, đao chém nhiều lần bị găy. V́ Nguyên Mô được vua Bắc Tề (họ Cao) tha tội chết, nên bài kinh đó gọi là Cao Vương Quán Âm. Thật ra, Vương Nguyên Mô sống cùng thời với Thác Bạt Đào (Ngụy Thái Vũ Đế), bị Thác Bạt Đào đánh bại, toan đem ra hành h́nh, và Thác Bạt Đào mất năm 453, trong khi Cao Hoan măi đến năm 496 mới sanh ra, tức là 43 năm sau khi Thác Bạt Đào đă chết. Hơn nữa, Cao Hoan chỉ là người thâu tóm chánh quyền Đông Ngụy, phế vua, lập cơ sở quyền bính cho con là Cao Tường soán ngôi nhà Đông Ngụy lập ra nhà Bắc Tề vào năm 550 (tức 3 năm sau khi Cao Hoan đă chết), chứ chưa bao giờ làm vua. Do vậy, Cao Vương không phải là Cao Hoan mà là Cao Tường. Nếu theo thuyết của Nam Hải Từ Hàng th́ sự việc Nguyên Mô bị hành h́nh đă trễ hơn hơn 80 năm và lúc đó Nguyên Mô đă ngoài trăm tuổi!

[12] Thai Tông: Tông Thiên Thai.

[13] Ban Mă là Ban Cố và Mă Dung là hai văn học gia nổi tiếng. Ban Cố (32-92), tự là Mạnh Kiên, người xứ Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây, là thi nhân, kiêm sử gia thời Hán. Ông là tác giả của bộ sử Hán Thư (Tiền Hán Thư) nổi tiếng gồm 100 thiên. Trong thời gian ông biên soạn bộ này, có kẻ vu báng ông lén lút xuyên tạc quốc sử, nên bị hạ ngục. Em trai ông là Ban Siêu ra sức trần t́nh với Hán Minh Đế nên vua tha tội, phong Ban Cố làm Lan Đài lệnh sử. Ban Cố từng theo Đậu Hiến đánh Hung Nô, đảm nhiệm chức Hành Trung Tướng Sự. Sau khi đại phá Hung Nô, Đậu Hiến sai Ban Cố viết bài minh khắc trên núi Yên Nhiên. Về sau, do Ban Cố không khéo dạy dỗ con cái, gây hiềm khích với quan lại ở Lạc Dương, nên khi họ Đậu thất thế, tự sát, Ban Cố bị vu tội cấu kết bè đảng với Đậu Hiến, bị tống giam và chết trong ngục. Do bộ Hán Thư chưa soạn xong, Hán Ḥa Đế bèn sai em gái ông ta là Ban Chiêu (Tào Đại Gia) soạn tiếp, nhưng chưa xong th́ bà này cũng chết, vua phải sai môn nhân của bà là Mă Tục tiếp tục hoàn thành sự nghiệp biên soạn Hán Thư. Mă Dung (79-166), tự Quư Trưởng, người xứ Hưng B́nh, tỉnh Thiểm Tây, là một nhà kinh học (chuyên viên về các kinh điển Nho gia) thời Hán. Ông tinh thông sách vở thởi ấy, từng chú thích các bộ Chu Dịch, Thượng Thư, Mao Thi, Luận Ngữ, Hiếu Kinh v.v... biên soạn bộ Tam Truyền Dị Đồng Thuyết. Ngoài kinh điển Nho gia, ông c̣n chú thích Đạo Đức Kinh, Hoài Nam Tử, Ly Tao, Liệt Nữ Truyền. Những nhà chú giải kinh sách cổ nổi tiếng như Trịnh Huyền, Lô Thực đều là học tṛ của ông. Do vậy, từ ngữ “tăng trung ban mă” có ư ca ngợi ngài Niệm Thường có tài biên soạn sử liệu, chú giải kinh điển chẳng kém ǵ Ban Cố và Mă Dung.

[14] Trung Tán c̣n gọi là Trung Thừa, được lập ra từ thời Hán, có nhiệm vụ phụ tá Ngự Sử Đại Phu, đặc trách nhiệm vụ giám sát và đàn hặc các quan. Đến thời Minh, chức vụ này bị phế và thay bằng chức Đô Sát Viện. Đến đời Thanh, chức vụ Tuần Phủ thường kiêm nhiệm chức Hữu Phó Đô Ngự Sử của Đô Sát Viện trong một tỉnh nên Tuần Phủ cũng thường gọi là Trung Thừa hay Trung Tán.

[15] Tam Đế: Ba sự thật viên dung theo tông Thiên Thai, tức là Không Đế, Giả Đế, và Trung Đế.

[16] Đây là câu chú thích cho lời ca tụng trong nguyên văn “thống kỷ Dịch Đường, khắc thiệu anh nhi chi hạnh” (Dịch Đường tiếp nối giềng mối, quả nhiên tiếp nối hạnh anh nhi). Kinh Niết Bàn dùng h́nh ảnh Anh Nhi (trẻ thơ) không thể tự đi, lại, ăn, uống, nói năng để h́nh dung bậc chứng đắc đă dứt bặt tạo tác phiền năo, không c̣n suy lường, đắm ch́m trong ngôn từ hư luận hư huyễn.

[17] Thiện bản: Bản văn hoàn chỉnh, chánh xác nhất.

[18] Vua Giới Nhật (Siladitya, 589-674) là vua thứ sáu của triều đại Harsha (c̣n viết là Harshavardhana) ở Ấn Độ, lănh thổ bao gồm vùng Punjab, Gurajat, Bengal, Orissa và phía Bắc vùng b́nh nguyên giữa sông Hằng và sông Narmada. Vua siêng năng chăm lo việc nước, đóng đô tại thành Khúc Nữ (Kanauj).

[19] Vô Giá đại hội: Vô Giá (無遮) có nghĩa là “không ngăn che”. Đây là một trai hội bố thí nhằm kết đại thiện duyên. Không phân biệt sang, hèn, tăng, tục, ngu, trí, thiện, ác đều nhất loạt đối đăi b́nh đẳng. Theo ngài Huyền Trang, tại Ấn Độ cứ năm năm tổ chức Vô Giá đại hội. Ở Trung Quốc, truyền thống này khởi đầu từ thời Lương Vũ Đế.

[20] Đây chính là vị quốc sư đă soạn Từ Bi Tam Muội Thủy Sám Pháp (thường gọi tắt là Thủy Sám). Quốc sư là người xứ Hồng Nhă, My Châu (nay thuộc Tứ Xuyên), pháp danh Tri Huyền, pháp hiệu Hậu Giác, xuất gia với pháp sư Pháp Thái năm 11 tuổi, chuyên nghiên cứu kinh Niết Bàn. Sở học của Sư vượt trỗi, năm 13 tuổi đă được tăng chúng chùa Đại Từ ở Tứ Xuyên cung thỉnh thăng ṭa thuyết pháp, người nghe bội phục, than thở không thôi, thanh danh vang dội đến tận kinh thành tuy Sư mới chỉ là một chú tiểu! Đường Vũ Tông ham mê Đạo giáo, thích luyện đan tu tiên, bèn hạ lệnh Sư phải tranh luận với Đạo Sĩ nhằm hạ nhục Phật giáo. Ngài Tri Huyền biện luận lưu loát, vạch ra những chỗ xằng bậy của lũ Đạo Sĩ, can gián vua không nên mê tín. Sư nói rất thẳng, không nể nang chút nào, suưt mấy lần bị vua và lũ quần thần xu nịnh kết tội. Vua tuy không tin Phật, nhưng tâm gièm pha Phật giáo cũng giảm bớt mấy phần. Đến đời Đường Tuyên Tông, vua triệu ngài Tri Huyền vào cung giảng pháp, khâm phục khôn cùng, ban ca-sa tía, cho phép các chùa từng bị phế bỏ dưới thời Vũ Tông được trùng hưng. Từ đó, Sư du hóa khắp nơi, chấn hưng Phật giáo Trung Quốc. Đến đời Đường Ư Tông, vua tôn Sư làm Quốc Sư, ban ṭa ngồi giảng pháp bằng trầm hương, giữ lễ đệ tử hết sức cung kính. Do vậy, Sư khởi tâm kiêu mạn, bị ghẻ mặt người mọc trên đầu gối, may được Ca Nặc Ca Bồ Tát hóa độ, thuyết pháp, chữa trị. Sư tỉnh ngộ, soạn bộ Từ Bi Tam Muội Thủy Sám Pháp. Do Trường An (nay là Tây An thuộc tỉnh Thiểm Tây) là kinh đô thời ấy, nên giọng đất Tần được coi là giọng chuẩn.

[21] Nguyên văn là “Tiết” là một miếng gỗ hay ngọc, có khắc phù hiệu để làm tin.

[22] Trừ Tịch (c̣n gọi là Đại Niên Dạ, Trừ Dạ, Tuế Trừ, Đại Hối Nhật) là đêm 30 Tết. Trừ () ở đây có nghĩa là chia ra. V́ đêm 30 Tết là đêm phân chia giữa năm cũ và năm mới nên gọi là Trừ Dạ, Trừ Tịch hay Tuế Trừ. Do là ngày kết thúc một năm nên gọi là Đại Niên Dạ. Đêm 30 Tết trời rất tối nên cũng gọi là Đại Hối Nhật (Hối () là tối tăm).

[23] Do Đạo Giáo tôn xưng Táo Quân là Đông Trù Tư Mạng Đế Quân, nên người ta thường gọi tắt ông Táo là thần Tư Mạng, tuy Tư Mạng thường được dùng để chỉ một vị thần thuộc Văn Xương Cung chuyên giám sát thiện ác, họa phước của nhân gian.

[24] Trương Cư Chánh (1525-1582), tự là Thúc Đại, hiệu Thái Nhạc, người xứ Giang Lăng, Hồ Quảng, làm Thủ Phụ (Tể Tướng) từ năm 1572 đến năm 1582 (nhằm niên hiệu Long Khánh của Minh Mục Tông), mất năm Vạn Lịch thứ 10 (1582). Ông đậu Tiến Sĩ năm Gia Tĩnh 26 (1547), được bổ làm Hàn Lâm Viện Biên Tu vào năm ấy. Do sử sách Trung Hoa có thói quen gọi những nhân vật nổi danh theo chức tước cuối cùng của họ nên khó thể biết đích xác Du Đô làm gia sư cho Trương Cư Chánh khi nào (không biết khi ấy Trương Cư Chánh đă làm Tể Tướng hay chưa), ta chỉ có thể phỏng đoán là tối thiểu một vài năm sau khi Trương Cư Chánh đă ra làm quan và tối thiểu phải một vài năm trước khi Cư Chánh mất; v́ vậy, câu chuyện này chỉ có thể xảy ra vào cuối niên hiệu Gia Tĩnh, trong khoảng niên hiệu Long Khánh hoặc vào đầu thời Vạn Lịch.

[25] Sách Lăng Nghiêm Chánh Mạch Sớ giảng câu này như sau: “Chữ Nhĩ () ở đây mang ư nghĩa nung luyện ḥa hợp thành hoàn, thành bánh. Ăn uống những thứ ấy đạt được công hiệu, nên bảo là ‘thực đạo viên thành’. Địa Hành Tiên thân thể khỏe mạnh, tuổi thọ lâu dài, nhưng chưa được nhẹ nhàng để bay lên, nên gọi Địa Hành (đi trên đất)”. Trong Đạo Giáo, “thực đạo viên thành” nghĩa là không cần ăn uống mà vẫn khỏe mạnh.

Do nguyên văn lời tán dương là “thốn lai châu khỏa, đẳng Đạo Gia phục nhĩ chi tiên” (nuốt hạt châu sa đưa tới, giống như vị tiên uống thuốc trong Đạo Gia) nên trong phần chú thích, cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh mới dẫn câu kinh Lăng Nghiêm để chỉ rơ nguồn gốc chữ Phục Nhĩ. Do vậy, chúng tôi chỉ dịch ư: “Nuốt hạt son, giống như tiên nuốt thuốc Đạo Gia”.

[26] Câu Chi Quán Âm là gọt tắt của danh hiệu Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Quán Âm. Do vậy, chú Câu Chi Quán Âm chính là chú Chuẩn Đề.

[27] Lâm Giang Tiên là một điệu hát được các ca nhi dùng trong các tiệc rượu (nhất là trong các cuộc tửu lệnh, nghĩa là ca nhi ôm đàn hát, cứ mỗi một chữ, chén rượu được chuyền sang người bên cạnh. Khi tới chữ nào nằm đúng vần trong lời Từ hoặc khi ca khúc chấm dứt, người cầm chén lúc ấy phải uống cạn). Lời ca được viết theo Từ Điệu, tức là những bài thơ ngắn, không theo thể thức như thơ Đường hoặc các loại thơ khác, mà gieo vần và mẹo luật uyển chuyển hơn nhằm dễ diễn tả cảm xúc. Lâm Giang Tiên c̣n có tên là Tạ Thân Ân, Nhạn Hậu Quy, Họa B́nh Xuân v.v... Bài từ này gồm 58 chữ, chữ dùng phải tuân theo luật bằng trắc nhất định, chia làm hai đoạn, những chữ ăn vần với nhau phải cùng vần bằng. Câu hai, ba, năm, bảy, tám, chín phải vần với nhau. Chẳng hạn, Dương Thận đă viết một bài Lâm Giang Tiên Từ như sau (những chữ in đậm là những chữ ăn vần với nhau): “Cổn cổn Trường Giang đông thệ thủy, lăng hoa đào tận anh hùng, thị phi thành bại chuyển đầu không, thanh sơn y cựu tại, kỷ độ tịch dương hồng, bạch phát ngư tiều giang chử thượng, quán khan thu nguyệt xuân phong, nhất hồ trược tửu hỷ tương phùng, cổ kim đa thiểu sự, đô phó tiếu đàm trung” (Trường Giang cuồn cuộn chảy về Đông, sóng ṃi vùi lấp sạch anh hùng, đúng sai, thành bại hóa thành không, núi xanh c̣n đó y như cũ, mấy độ tà dương rực ánh hồng, bến nước ngư tiều đều bạc tóc, lặng ngắm trăng thu, hóng gió xuân, một bầu rượu đục mừng tao ngộ, bao chuyện xưa nay một trận cười).

[28] Thông thường, B́nh có nghĩa là cái b́nh phong, ở đây chỉ có nghĩa là một trong nhiều bức tranh được treo sát liền nhau với nhiều bức tranh khác tạo thành một mảng lớn trên tường.

[29] Đây là một điển tích thường được gọi là “bôi cung xà ảnh”, thường được coi là xuất phát từ một câu chuyện do Ứng Thiệu chép trong chương Quái Thần của sách Phong Tục Thông Nghĩa. Theo đó, ông nội của Ứng Thiệu là Ứng Lâm làm ấp lệnh đất Cấp. Trong hôm Hạ Chí, Ứng Lâm mời viên Chủ Bạ dưới quyền là Đỗ Tuyên đến thưởng rượu. Khi ấy, trên bức vách phía Bắc của căn pḥng có treo chiếc cung. Bóng cung chiếu vào chén trông như con rắn nhỏ đang duỗi ḿnh. Đỗ Tuyên kinh sợ, nhưng không dám từ chối. Kể từ hôm ấy, ông ta đau bụng dữ dội, luôn cảm thấy rắn ḅ trong bụng, bỏ cả ăn uống, h́nh sắc tiều tụy, chữa chạy đủ cách nhưng không lành được. Sau đấy, Ứng Lâm có việc, đến thăm, hỏi duyên cớ. Đỗ Tuyên kể lại nỗi sợ bị con rắn chui vào bụng. Sau khi nghe Ứng Lâm giải thích, liền sai người chở Đỗ Tuyên đến chỗ cũ, chỉ cho thấy cái cung treo trên vách, và bảo Đỗ Tuyên ngồi đúng chỗ cũ, quả nhiên trong chén hiện bóng con rắn lờ mờ. Đỗ Tuyên vỡ lẽ, khỏi bệnh ngay lập tức. Trong bộ sử Tấn Thư, truyện Lạc Quảng cũng chép tương tự về người khách của Lạc Quảng. Do vậy, đây rất có thể là một câu chuyện ngụ ngôn lưu truyền đă lâu rồi được gán cho những nhân vật nổi danh.

[30] Nhũ Đầu Hương chính là Nhũ Hương (Frankincense hoặc Olibamum) là một loại nhựa cây trích từ những cây thuộc họ Nhũ Hương Mộc (có tên khoa học là Boswellia Thurifera hoặc Boswellia Sacra). Nhũ Hương c̣n được gọi là Huân Lục Hương, Mă Vĩ Hương, Tháp Hương, Tây Hương, Thiên Trạch Hương, Ma Lặc Hương, Đa Già La hương hay Mộc Hương. Loại cây này sống trong những điều kiện rất khắc nghiệt của vùng Trung Đông và cung cấp nhiều nhựa. Nhựa cây này có mùi thơm nhẹ và rất được khối Ả Rập và Tây Phương coi như nhiên liệu quư để dâng hiến trong các nghi lễ tôn giáo. Ở đây, ngài Đạo Hiến bảo thợ dùng Nhũ Hương làm chất keo để giữ cho màu vẽ dính vào giấy thay v́ dùng chất keo chế bằng xương thú (như A Giao chẳng hạn).

[31] Xá Nhân là một chức quan. Thoạt đầu danh xưng này để chỉ người cầm đầu bọn tôi tớ nhà quư tộc, về sau được lập thành một chức quan. Tùy theo từng bộ, doanh hay thự khác nhau mà Xá Nhân có danh xưng, nhiệm vụ, cấp bậc khác nhau, chẳng hạn như Trung Thư Xá Nhân, Thái Tử Trung Xá Nhân, Thái Tử Xá Nhân, Khởi Cư Xá Nhân, Thông Sự Xá Nhân... Nói chung, Xá Nhân là viên quan phụ tá người đứng đầu một cơ quan. Nhan Sư Cổ giảng: “Xá Nhân là tiếng gọi chung những người thân cận”.

[32] Nguyên văn “bạt cống triều khảo”. Bạt Cống là một h́nh thức tuyển sinh viên vào học trường Quốc Tử Giám ở kinh đô dưới thời Thanh. Thoạt đầu, mỗi năm mở khóa thi hai lần, đến thời Càn Long quy định mỗi 12 năm mới mở khóa thi một lần. Quan Học Chánh các tỉnh chọn lựa những người có tài văn chương đă đỗ Cống Sinh (đậu thi Hương) trong tỉnh đưa về kinh đô dự thi, những người ấy được gọi là Bạt Cống Sinh. Khi lên kinh, họ được học ở Quốc Tử Giám rồi dự kỳ thi do triều đ́nh tổ chức (gọi là Triều Khảo). Ai thi đậu hạng đầu sẽ làm quan bậc thất phẩm ở kinh đô, hạng nh́ được cử làm Tri Huyện, hạng ba sẽ bổ làm Giáo Thụ tại các tỉnh. Những người thi rớt sẽ bị đuổi về, gọi là Phế Cống.

[33] Vào đời Minh, một Hộc là 50 lít.

[34] Ngài Đàm Vô Kiệt (dịch là Pháp Dũng), họ Lư, người xứ Hoàng Long, U Châu. Tu khổ hạnh từ lúc c̣n là sa-di, rất được thầy bạn trọng nể. Nghe chuyện ngài Pháp Hiển sang Thiên Trúc cầu pháp, Sư cũng lập thệ xả thân noi theo. Sư chiêu tập những người cùng chí hướng gồm 25 người như các vị Tăng Mănh, Huyền Lăng v.v... sang Thiên Trúc vào năm Vĩnh Sơ nguyên niên (420) đời Lưu Tống. Sư và đồng bạn đi qua các nước Quy Tư, Sa Lặc, Thông Lănh v.v... Sau khi vượt Tuyết Sơn, 12 người mất mạng. Sư đến được nước Kế Tân lễ bái b́nh bát của Phật, học tiếng Phạn, thỉnh được Quán Âm Thọ Kư Kinh, rồi sang xứ Nhục Chi lễ bái xương đỉnh đầu Phật, học giáo pháp Tam Thừa tại chùa Thạch Lưu ở phía Nam núi Đàn Đặc, thọ giới với đại sư Phật Đà Đa La (Giác Cứu). Khi sang Thiên Trúc, 8 người trong đoàn thị tịch, Sư gặp phải voi dữ và trâu hoang trong chuyến đi này. Sau khi đến được Nam Thiên Trúc, Sư mới theo thuyền trở về Quảng Châu. Không rơ Sư mất khi nào.

[35] Lư Thân (772-846), tự Công Thùy, là một thi nhân nổi tiếng giữa đời Đường. Ông là người Hào Châu (tỉnh An Huy). Cùng với Bạch Dị và Nguyên Chẩn, ông được tôn xưng là thủ lănh của lối thơ Tân Nhạc Phủ. Ông từng làm quan đến chức Thượng Thư Hữu Bộc Xạ Môn Hạ Thị Lang, tước Triệu Quốc Công, hai lượt làm Tiết Độ Sứ. Hiện ông c̣n để lại những tác phẩm như Truy Tích Du Thi và Tạp Thi, nhưng nổi tiếng nhất là bài Mẫn Nông (thương nhà nông).

[36] Đạo Đầu là một bến thuyền ở Phổ Đà, cách đảo chừng 30m, có tên gọi đầy đủ là Đoản Cô Đạo Đầu, tức là gộp đá nơi dừng thuyền của chị em cô gái có kinh đă được nhắc đến trong lời chú thứ 10 của phần Ứng Hóa (2.4.1).

[37] Châu Thế Tông tên là Sài Vinh (921-959), do làm con nuôi của Quách Oai nên sử Trung Hoa thường gọi hắn là Quách Vinh. Y xuất thân từ một gia đ́nh buôn trà, tánh t́nh quả cảm, tàn bạo, lắm thủ đoạn. Quách Oai lập ra nhà Hậu Châu chỉ làm vua được bốn năm rồi chết, Sài Vinh kế vị trở thành Châu Thế Tông. Với tham vọng mở rộng lănh thổ, Sài Vinh t́m mọi cách có tiền và tận dụng kim loại để đúc vũ khí và tiền, nên đă hạ lệnh hủy diệt Phật giáo nhằm chiếm đoạt tượng đồng, chuông, khánh cũng như điền sản của nhà chùa để có phương tiện tiến hành chinh phạt, lấn chiếm lân quốc. Hắn ra lệnh nung chảy tượng Phật bằng đồng để đúc tiền Châu Nguyên Thông Bảo. Trong đại nạn Tam Vũ Nhất Tông Chi Nạn (nạn hủy diệt Phật giáo dưới thời ba vua Vũ và một vua Tông, tức Ngụy Thái Vũ Đế, Bắc Châu Vũ Đế, Đường Vũ Tông và Hậu Châu Thế Tông), Sài Vinh là người hủy diệt Phật giáo dữ dội nhất. Do đích thân cầm búa đập tượng Quán Âm, Sài Vinh bị ung loét ở ngực, lộ cả nội tạng ra, ngă bệnh trầm trọng trên đường vây hăm U Châu, đành phải rút lui, chết trên đường về, chỉ thọ 39 tuổi (tức là chỉ làm vua được 5 năm). Ngôi vua trao cho đứa con mới bảy tuổi là Sài Tông Huấn kế vị được vài tháng; rốt cuộc binh quyền bị Triệu Khuông Dẫn cướp sạch, lập ra nhà Bắc Tống, nhà Châu diệt vong!

[38] Chỉ người Ḥa Lan hoặc Bồ Đào Nha. Khi ấy, Nhật Bản đă bị thực dân Tây Phương (chủ yếu là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Ḥa Lan) ép Mạc Phủ (Bafuku: Chính quyền của đại tướng quân (shogun), giống kiểu chúa Trịnh ở Việt Nam) mở cửa giao thông, buôn bán với Tây Phương. Khi chưa chiếm được Trung Hoa, bọn thực dân Tây Phương thường xuất phát từ Nhật Bản tấn công các đảo dọc theo duyên hải miền Hoa Nam.

[39] Bạt (c̣n gọi là Năo Bạt, Đồng Bạt, Đồng Bàn, Đồng Sát - cymbal), ta thường gọi là chập chơa hay chũm chọe, tức là một nhạc cụ giống như hai cái đĩa tṛn hơi khum, ở giữa vun lên như hai cái bát, chính giữa có khoét lỗ để xỏ giây thành quai nắm. Khi đánh, người ta nắm hai giây quai, chập hai mép bạt vào nhau cho vang ra tiếng, hoặc chà xoay tṛn hai mép bạt vào nhau để tạo từng hồi ngân dài (Cách này hầu như chỉ dùng trong các tự viện Chân Ngôn Tông Nhật Bản khi mở đầu lễ Hỏa Cúng). Tùy theo kích thước và vật liệu chế tạo mà có Tiểu Bạt (c̣n gọi là Tiểu Sát), Đại Bạt, Ngân Bạt v.v... Riêng trong các tự viện Phật giáo Trung Hoa, nhất là tại Đài Loan, trong khi tán tụng, thường dùng một loại năo bạt nhỏ, thành mỏng, tiếng ngân không lớn lắm để đệm nhịp, gọi là Kha.

[40] Viên văn: Tánh Nghe viên thông.

[41] Ngô Đạo Tử (685-758) tên thật là Đạo Nguyên, Đạo Tử là tên tự, về sau đổi tên thành Đạo Huyền, là một họa sĩ trứ danh đời Đường, được tôn xưng là Đường Đại Họa Thánh (bậc thánh hội họa đời Đường).

[42] Ngài Thạch Sương được nói tới ở đây chính là ngài Khánh Chư, cao đồ của ngài Đạo Ngô, được nối pháp (pháp tự) của thầy, là sư huynh của ngài Tiệm Nguyên. Ngài Khánh Chư lập ra chùa Thạch Sương, nên người đương thời thường gọi Ngài là thiền sư Thạch Sương Khánh Chư. Truyền Đăng Lục chép truyện Tiệm Nguyên Trọng Hưng Thiền Sư rơ ràng hơn so với phần trích lục trong lời chú thích của cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh, xin lược trích như sau: Khi ngài Tiệm Nguyên làm thị giả cho ngài Đạo Ngô, đến nhà một tín chủ điếu tang, ngài Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi thầy: “Sống ư? Chết ư?” Thầy đáp: “Sống cũng chẳng nói, mà chết cũng chẳng nói”. Tiệm Nguyên hỏi: “V́ sao chẳng nói?” Đạo Ngô đáp: “Chẳng nói, chẳng nói”. Về đến giữa đường, Tiệm Nguyên lại nói: “Ḥa thượng hôm nay phải nói ra cho rơ đầu đuôi. Nếu không nói, con sẽ đánh ḥa thượng”. Đạo Ngô nói: “Đánh th́ cứ việc đánh, nói vẫn chẳng nói”. Tiệm Nguyên liền đánh thầy. Đạo Ngô trở về chùa bảo: “Ngươi phải rời nơi đây, chứ nếu thầy Tri Sự biết chuyện sẽ không tiện”. Tiệm Nguyên bèn từ biệt thầy ra đi, ẩn trong một ngôi chùa trong thôn. Sau khi nghe đồng tử tụng kinh Phổ Môn, tỉnh ngộ, bèn thắp hương hướng về phía thầy khấn: “Con thấu hiểu sâu xa lời thầy dạy, trọn chẳng vô cớ thốt ra. Chỉ v́ con không hiểu nên trước kia oán thầy. Nay thầy đă khuất, chỉ c̣n Thạch Sương là đích tự, ắt con phải nhờ huynh ấy chứng minh”. Bèn qua chỗ ngài Thạch Sương, Thạch Sương trông thấy hỏi: “Sau khi ĺa khỏi chỗ Đạo Ngô, ngươi đến chỗ nào?” Thưa: “Chỉ dừng chân trong chùa làng”. Thạch Sương nói: “Đă hiểu nhân duyên đánh thầy trước kia chưa?” Sư đứng dậy, thưa: “Xin ḥa thượng ban một lời chuyển ngữ”. Thạch Sương nói: “Chẳng thấy đạo th́ sống cũng chẳng nói, chết cũng chẳng nói”. Sư bèn kể lại nhân duyên đắc ngộ trong thôn, rồi lễ bái Thạch Sương, làm chay, sám hối.

[43] Xin đừng lầm vị này với ngài Hoàng Bá Hy Vận. Hoàng Bá Duy Thắng chính là Chân Giác thiền sư, quê ở Thụy Châu, là một trong những vị nối pháp của ngài Hoàng Long Huệ Nam, thuộc đời thứ 12 của tông Lâm Tế. C̣n ngài Hoàng Bá Hy Vận (?-850) là người Phước Châu, thiền sư đời Đường là đệ tử của ngài Bách Trượng Hoài Hải, do trụ tại núi Hoàng Bá (huyện Nghi Phong, tỉnh Giang Tây), nên gọi kèm tên núi theo tên, là thầy của đại sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Ngài Hoàng Bá Hy Vận được coi là sáng tổ của tông Lâm Tế, tuy ngài Lâm Tế mới là người thật sự khai tông.

[44] Nguyên văn “hồ bính” (糊餅) là một món ăn vặt thường thấy tại một số địa phương thuộc Hoa Bắc như Bắc Kinh, Thiên Tân v.v... Người ta đem bột bắp pha nước sôi, thêm muối, bột nêm, ngũ vị hương, hành hoa, ḷng đỏ trứng gà, trộn đều thành một dung dịch như người Việt làm bánh xèo, rồi đổ vào chảo đă tráng một lớp dầu mỏng để làm chín, bỏ thêm hẹ, tôm, mướp Tây (zucchini) vào, nhưng không cuộn lại như bánh xèo. Nói chung, Hồ Bính đổ dầy hơn và do bỏ đặc nghẹt mướp Tây và hẹ nên trông lổn ngổn, xù x́, thô tháp, không đẹp mắt, mịn màng và thanh cảnh như bánh xèo Việt Nam.

[45] Bộ sách này có tên đầy đủ là Bạch Vân Thảo Đường Kiên Cô Tập (Kiên Cô chứ không phải là Kiên Cố). Cô () có nghĩa là thư từ, tài liệu.