Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích
Cảm Ứng Tụng
Quyển 3
觀世音菩薩本跡感應頌,
卷三
彭澤菩薩戒弟子許止淨述
Phần 1
Bành Trạch
Bồ Tát Giới đệ tử Hứa Chỉ Tịnh
soạn
Ấn
Quang Đại Sư giám định
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến và Huệ Trang
2.4 Hoằng
pháp:
Trong phần
này chia thành sáu đoạn:
1. Ứng
hóa.
2. Thuyết
pháp.
3. Ban cho
người nối tiếp ḍng pháp.
4. Hộ
pháp.
5.
Khơi mở trí huệ.
6. Chứng
quả
2.4.1 Ứng
hóa
1.
Bèn có: Truyền Phật tâm nơi Hùng Nhĩ[1], Thiền nở đóa hoa năm cánh[2]. Hóa trẻ khóc trong tổ ưng, lưu
dấu linh hiển hai triều.
2. Sa-di
làng Quát xứng danh giải thoát, đại sĩ Tứ
Châu trọn đủ thần thông.
3. Trên băi
Kim Sa, diệu nữ truyền kinh, trước đền
Trung Hiếu, đạo nhân trao quyển.
4. Đạo
lưu hành Nhĩ Hải, tranh nhau truyền bảy lần ứng
hiện. Hiện trú động Triều Âm, soạn truyện
Nhị Đại Sĩ lưu truyền.
5. Thế
độ Đàm Tạng, biết người kham nhập
đạo tuyệt vời. Dạy dỗ Phổ Minh, tin tưởng
chí độ sanh rộng lớn.
6. Giúp Thí
Thị hiếu thảo song đường, hai phen Diệu
Hải Cung t́m tới. Ấm ḷng ông Ngô t́m mẹ, bên ngọn
Đại Dữu ba lượt hiện thân .
7. Ba
năm thường kêu gọi, túc nghiệp rốt cuộc
ngầm tiêu. Ngẫu nhiên tŕ nửa quyển, mẹ hiền
đă khuất siêu thăng.
8. Bà
lăo cài hoa, dạy vua bố thí. Hồ tăng mắt biếc,
răn vua dứt can qua.
9. Cưỡi
mây ra đi, tăng ngưỡng mộ thanh danh Hoa Tử.
Chặt đầu chẳng tổn, văn hồi kiếp nạn
đám nâu sồng.
10. Cho cô
gái có tháng ăn trên biển, cảnh chẳng ngại tâm.
Con hiếu ngủ đầu non, mẹ vốn là Phật.
11. Dưới
nhằm siêu độ quỷ thần, c̣n hiện thân Tiêu Diện.
Muốn độ tiểu trùng, thị hiện Diệu
Hương Khẩu. Đều là hiện h́nh đồng
loại, sống chung nhằm hóa độ. Đấy chính
là chuyện hoằng pháp thứ nhất của Đại
Sĩ vậy.
(1) Theo
Truyền Đăng Lục, Tổ Bồ Đề Đạt
Ma đắc chánh pháp nhăn tàng, vượt biển cả
đến Nam Hải. Lương Vũ Đế xuống
chiếu mời đến Kim Lăng (Nam Kinh), [đối
đáp] chẳng khế hợp căn cơ, Sư bèn ngầm
qua [lănh thổ của nhà] Bắc Ngụy, ngồi nh́n vách
suốt chín năm tại chùa Thiếu Lâm. Về sau, gặp
được Huệ Khả, Tổ bèn truyền tâm ấn
của Phật, rồi ngồi qua đời, chôn tại núi
Hùng Nhĩ. Hai năm sau, sứ giả nhà Ngụy là Tống
Vân gặp Sư ở Thông Lănh (Pamir) chỉ
quảy một chiếc dép, đi một ḿnh phơi phới.
Hỏi Sư đi đâu, Ngài nói về Tây Thiên. Tống Vân
trở về tâu lên Ngụy Chúa, vua sai mở quan tài ra xem,
chỉ thấy c̣n một chiếc dép. Cơi đời đồn
Sư là Quán Âm hóa thân.
Theo
Cao Tăng Truyện, tập Một, chép truyện Bảo Chí Đại Sĩ đời
Lương như sau: Trước kia, có bà Châu ở
Đông Dương, Kim Lăng, nghe tiếng trẻ khóc trong
tổ chim ưng, bèn trèo lên cây ẵm về nuôi làm con.
Sư theo học Thiền với ngài Tăng Kiệm. Đầu
niên hiệu Thái Thỉ đời Tống, Sư chợt hiện
tướng lạ, treo kéo và gương nơi đầu
trượng, hoặc treo lụa. Trong niên hiệu Kiến Nguyên
đời Tề, Ngài biến hiện đôi chút thần dị.
Những lời Ngài nói với người khác, thoạt
đầu khó hiểu, nhưng về sau đều ứng
nghiệm. Lương Vũ Đế rất tôn sùng, kính trọng.
Trong lời chiếu có những câu như “lửa nước chẳng thể đốt cháy,
nhấn ch́m, rắn, cọp chẳng thể xâm hại làm
cho sợ hăi, những lời Sư nói đều thuận
Phật lư, ắt phải là bậc từ Thanh Văn trở
lên” v.v... Vua từng sai Trương Tăng Do vẽ
tượng, ngài Bảo Chí liền biến đổi sắc
mặt, xuất hiện tướng Quán Âm mười hai mặt,
diệu tướng đẹp đẽ khác thường,
hoặc từ bi, hoặc oai mănh, Tăng Do chẳng thể
vẽ được.
Lại nữa,
cả nhà ông Trần Chinh Lỗ tôn sùng ngài Bảo Chí, Ngài liền
v́ nhà họ Trần hiện chân tướng, tướng hảo
quang minh giống hệt như Bồ Tát. Những sự
tích linh dị khác đều chẳng thể ghi chép trọn.
(2) Theo
Phó Đại Sĩ Ngữ Lục, Đại Sĩ mộng
thấy đức Thế Tôn bảo: “Ta sai một sa-di giúp ngươi hoằng
dương giáo hóa”, chợt từ trong miệng Phật
nhả ra một đứa bé. Sau đấy, có Huệ Tập
t́m đến, đấy chính là sa-di được thấy
trong mộng vậy. Huệ Tập là người làng Đại
Quát, huyện Phú Xuân, Ngô Quận, gặp Phó Đại
Sĩ, liền khai ngộ thông suốt pháp môn giải thoát,
bèn du hành khắp quận, bố thí, phóng sanh, cứu khổ,
trị bệnh, các thứ công đức chẳng thể thuật trọn. Phó Đại Sĩ bảo
mọi người: “Huệ Tập
là Quán Âm, Phổ Mẫn là Văn Thù”.
Theo
Cao Tăng Truyện tập Ba, đời Đường, Tăng
Già Đại Sĩ người nước Bắc Hà ở
Thông Lănh, đi khắp nơi, đến miền Giang Hoài, mới tỏ lộ sự thần
dị. Ngài từng nằm trong nhà của Hạ Bạt,
thân dài hơn giường cả ba thước, hiện
h́nh Quán Âm mười một mặt. Họ Hạ liền
biến nhà thành chùa. Đường Trung Tông đón Sư
vào cung, tôn làm Quốc Sư. Nếu có ai bị bệnh,
Sư dùng cành dương phẩy qua, hoặc sai rửa tượng
sư tử bằng đá, hoặc quăng b́nh nước,
hoặc bảo bắn qua thân, hoặc trừ khử tai họa
nơi thân người ấy bằng cách bảo kẻ ấy
đi t́m ngựa, hoặc cảnh giác về tai ách gió băo bằng
chiếc quạt trắng, hoặc nhận tiền của
gă trộm, hoặc kêu to: “Sợi dây đen buộc nơi cổ”,
hoặc t́m giếng La Hán, hoặc biết Bùi Thị chết
đuối, dự đoán trước trời sẽ đổ
tuyết [vào lúc nào], cứu hạn hán bằng cách tuôn
mưa. Thần biến khôn ngằn, chẳng thể suy
lường được. Vua hỏi Vạn Hồi,
Sư nói: “Tăng Già, người
nước Hà, chính là Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân vậy”.
(3) Theo
Quán Âm Cảm Ứng Truyện, năm Nguyên Ḥa 12 (817) đời
Đường, trên băi Kim Sa ở Thiểm Hữu có một
cô gái xinh đẹp xách giỏ bán cá, người ta đua
nhau muốn cưới cô ấy. Cô gái nói: “Tôi dạy kinh,
ai trong một tối có thể tụng thuộc phẩm Phổ
Môn th́ sẽ lấy người đó”. Sáng hôm sau có hai
mươi người làm được. Cô gái nói: “Một
thân làm sao gả cho nhiều chồng? Xin đổi sang học
kinh Kim Cang, theo đúng hạn định như trên”.
Người làm được như vậy chỉ c̣n một
nửa. Cô lại đổi sang kinh Pháp Hoa, hạn định
ba ngày, chỉ có một người họ Mă làm được.
Vừa mới đón dâu về, cô gái liền chết ngay. Ngay
lập tức, thi thể rữa nát hết, liền đem
chôn. Về sau, có vị Tăng cùng chàng họ Mă quật mồ,
[thấy trong quan tài] chỉ c̣n lại mảnh xương
đ̣n gánh[3] bằng vàng ṛng. Vị Tăng nói: “Đấy
là Quán Âm Bồ Tát thị hiện để hóa độ
người đời”. Đến hôm trăm ngày, vị
Tăng bay lên không đi mất. Cảnh Liêm đời Tống
có làm bài tán.
Theo lời
tựa cho bài Dương Trung Mẫn Gia Huấn, ông Trần
Quân Tuyển có đứa con bị lao, sang Nam Hải cầu
đảo. Giữa đường đi ngang qua Trung Hiếu
Từ, nghe có tiếng người gọi tên, ngạc nhiên
nh́n th́ thấy có một đạo nhân bảo: “Ông mắc
oan khiên đời trước, trả báo nơi con ông. Cầu
khẩn Bồ Tát th́ phải thấu hiểu tấm ḷng
như cha mẹ của Ngài, giúp đỡ người nghèo
khó, tận lực làm lành”, rồi rút ra một quyển
sách, bảo: “Đây là mười chín điều gia huấn
của Dương Tiêu Sơn, ông nên vâng làm theo th́ bệnh
con ông sẽ mau lành. Nếu lưu truyền rộng răi sẽ
được phước vô lượng”. Nói xong, chợt
biến đâu mất. Ông Tuyển biết đó là Đại
Sĩ hóa thân, liền trở về nhà, kể lại chuyện
gặp gỡ. Đứa con nghe chuyện vui mừng, bệnh
giảm một nửa. Hơn tháng sau lành hẳn, về sau
đỗ đạt.
(4) Sách Nhĩ Hải
Tùng Đàm có chép bảy lần ứng hóa của đức
Quán Âm:
- Lần thứ nhất
là trong niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường,
Ngài hóa làm ông lăo râu trắng, đội măo cánh sen hồng,
khoác ca-sa, cầm bát đến nhà nông dân khất thực.
- Lần thứ hai, hóa
thân làm vị Tăng người Ấn Độ, cầm
bát đến nhà người đàn bà đưa cơm [cho
nông phu ngoài đồng] khất thực.
- Lần thứ ba hóa
làm một vị Phạm tăng ngồi ở tảng
đá trên núi báu, trước mặt có con trâu xanh, bên trái có
con ngựa trắng, bên phải có con voi trắng, chung quanh
có mây năm màu che phủ. Trong mây có hai đồng tử, một
đồng tử cầm trượng, đứa kia cầm
gương, một hồi lâu bèn ẩn.
- Lần thứ tư
hóa thành một vị Tăng, cầm trượng, ôm bát, dẫn
con chó trắng đi khất thực ở quận Khai
- Lần thứ năm
hóa thành vị Tăng cầm cành dương, xỏ guốc
gỗ bước đi, [người khác] giục ngựa
đuổi theo chẳng kịp. Dùng tên bắn th́ những mũi
tên đều hóa thành hoa sen. Hiện thời, vùng Nhĩ
Đông c̣n nói tới “liên hoa
thái” (rau hoa sen).
- Lần thứ sáu hóa
thân thành một vị du Tăng, chợt bay lên không, hiện
tướng Đại Sĩ, ánh sáng chói ḷa khiến người
ta chẳng dám ngửa mặt lên nh́n. Có cụ già đúc
tượng theo h́nh tướng ấy để thờ phụng.
- Lần thứ bảy
hóa thành vị Tăng tên là Bồ Đề Đà Ha, nói: “Ta
là Tây Phương Liên Hoa Bộ Tôn Giả A Tha Da Quán Âm, hành
hóa tới phương này, nay ở yên”. Nói xong, bèn tịch.
Đấy chính là hóa thân của Đại Sĩ vậy.
Theo Phổ
Đà Chí, trong niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, có
một nam, một nữ tới đảnh núi phía Nam động
Triều Âm, h́nh dáng như ăn mày, nhưng cách nói năng
chẳng thể coi thường được. Hỏi tên
họ th́ đáp: “Có tên họ ǵ đâu?” Hỏi đến
tuổi tác, đáp: “Có tuổi tác ǵ!” Hỏi là người
ở đâu, đáp: “Có nơi chốn nào đâu”. Hỏi
đă thấy được đạo nào, đáp: “Mắt
thấy biển cả; tai nghe tiếng gió, tiếng mưa,
tiếng sóng, tiếng chim”. Hỏi: “Hành công phu nào?” Đáp:
“Hễ nghĩ đến Quán Thế Âm bèn niệm mấy
tiếng, chẳng có công phu chi cả!” Về sau, người
đến xem đông nghẹt bèn nói: “Mỗi người
các ông hăy nên an ổn rời đi, hỏi
han ta làm chi?”, liền chẳng thấy họ đâu nữa.
Thích Chân Nhất viết Nhị Đại Sĩ Truyện
để lưu truyền.
(5)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Đường,
ngài Đàm Tạng năm mười lăm tuổi muốn
xuất gia nhưng không có thầy, bèn kính cẩn niệm
Quán Âm, liền nghe có tiếng
chuông, thấy một ngôi chùa Tăng bèn tới xin xuống
tóc. Xuống tóc xong, Sư liền đưa ra khỏi cửa,
đi khoảng một trăm bước, nh́n lại
đă không thấy chùa đâu nữa! Về sau, ngài Đàm Tạng
trở thành đại pháp sư. Đường Thái Tông
năm lượt thỉnh Sư thuyết pháp, hai lần mời
vào cung.
Theo lời
tựa của Quán Âm Bổn Hạnh Kinh, vào đời Tống,
sư Phổ Minh ở xứ Thượng Thiên Trúc thấy
một vị lăo tăng bảo: “Ông chỉ tu đạo vô
thượng thừa th́ chỉ tiếp độ hàng
thượng căn, làm sao có thể cứu vớt trọn
khắp? Hăy nên diễn nói, tuyên dương Tam Thừa, hành pháp
Đốn lẫn pháp Tiệm, rộng độ hàng trung hạ
căn th́ mới là báo ân Phật”. Sư hỏi: “[Pháp nào mới
có thể độ người?” Tăng nói: “Cơi này có nhân
duyên xa xưa với Quán Thế Âm Bồ Tát, hăy nên đem đầu
đuôi hành trạng của Bồ Tát lưu hành trong cơi
đời. Kẻ cúng dường, tŕ tụng, phước
chẳng luống uổng”. Ngay lúc ấy, do đă nói xong trọn
hết nguyên do, vị lăo tăng ấy liền ẩn thân
biến mất.
(6) Theo sách
Quái Viên, vào đời Minh, vợ ông Vưu Tích Thụ là Thí
Thị hiếu thảo với bố mẹ chồng, chợt
bị ung thư thực quản. Có đạo cô bảo:
“Ta từ Nam Hải đến, tên là Diệu Hải”, trao
cho Thí Thị một viên thuốc màu đen bảo uống.
Đạo cô hỏi: “Ngươi đă ăn chay hay
chưa?” Thưa: “Có lúc giữ, có lúc không”. Đạo cô bảo:
“Ma đấy!” rồi vẽ một đạo bùa trên trán
để trấn áp. Ra khỏi cửa, chợt chẳng thấy
[đạo cô] đâu nữa! Ngày hôm sau, Thí Thị liền
ăn uống được. Năm sau, theo mẹ chồng
đến Phổ Đà lạy tạ, thấy ba chữ Diệu
Hải Cung càng tin tưởng là Đại Sĩ hiển
hóa.
Trở về, lại
có một đạo cô đến bảo: “Ta công hạnh
đă viên măn, chỉ có tấm ḷng độ người là
chưa thỏa”. Lại than thở: “Ngươi có năm
tướng ngắn ngủi: Nhật nguyệt, tam quang ngắn
ngủi (tuổi thọ ngắn ngủi), gặp gỡ cha
mẹ ngắn ngủi, duyên anh em ngắn ngủi, duyên vợ
chồng ngắn ngủi, duyên lục thân[4] ngắn
ngủi. Ngươi chỉ thọ hai mươi chín tuổi,
do bỏ tiền đúc một bức tượng vàng, lại
từng thí tiền khắc một bức ván in kinh, lại
c̣n tặng cho người đói một thố cơm. Ba
điều lành ấy khiến cho ngươi thọ thêm ba
năm. Lại gặp được nhục thân Bồ Tát
điểm hóa nên chẳng chết yểu
ngay”. Thí Thị sụp lạy cầu tiếp độ,
đạo cô liền truyền ba giới: “Một, đoạn
t́nh chồng vợ; hai, trừ phiền năo; ba, buông bỏ
nghiệp duyên tài sản”. Đạo cô lấy ra một cái
đỉnh, mùi hương lạ tỏa thơm ngát, cắm
bốn thứ hoa: Hạnh, hoa sen, thù du tía[5], hồng mai. Trên hoa có đậu
các thứ chim yến non, bướm, mỗi thứ một đôi, bảo: “Đây là
món báu trong cung Đâu Suất”. Thí Thị lại sụp lạy,
chớp mắt chẳng thấy đâu nữa. Ḷ
hương, hoa, chim, đồng thời biến mất.
Theo Tiên
Tâm Lục, vào đời Minh, mẹ của Ngô Chương
được tuyển vào nội đ́nh, về sau theo
thân vương phi[6] đến Thiều Châu. Ngô Chương
bỏ nhà đi t́m mẹ, trong thuyền bày tượng
Đại Sĩ, xót xa cầu đảo, khẩn thiết
tột bậc, nguyện ắt gặp được mẹ.
Vừa đến xứ Thiều, mẹ lại theo
vương tới Nhiêu Châu. Ngô Chương bôn ba trên
đường cát sỏi, chân đỏ bầm, nứt nẻ,
nằm dưới mái hiên chùa. Có đạo nhân tự
xưng là họ Tiêu, bó thuốc cho, chân liền lành. Đi
qua Dữu Lănh, bị con rắn đen mổ vào chân, đau
đớn cùng cực, xây xẩm, ngă lăn ra, lại thấy
Tiêu đạo nhân bôi thuốc, hết ngay đau đớn.
Vào túp lều tranh trong hoang thôn, gặp một cô gái tuyệt
đẹp, Ngô Chương nói: “Tâm tôi như dây mây khô, há c̣n
có dâm ư?” Bươn bả ra khỏi cửa th́ lều tranh
không thấy nữa.
Tuyết xuống dầy
mấy thước, Ngô Chương ́ ạch tiến bước.
Nghỉ tại ngôi miếu cổ, lại thấy Tiêu đạo
nhân đến, vỗ lưng nói: “V́ mẹ quên thân, quả
là chàng trai kiên quyết, trời chẳng phụ nỗi khổ
tâm của ngươi, không lâu nữa sẽ gặp mẹ”.
[Chàng Ngô] lôi bánh ra gặm, quên ngay nỗi đói lạnh.
Ngày hôm sau, họ Ngô t́m đường đến Nhiêu Châu,
tâu lên vương, xin đón mẹ về phụng dưỡng
suốt đời. Thoạt đầu, vương không chấp
nhận. Về sau, mẹ bệnh ngặt nghèo, vương
truyền cho vào gặp, mẹ đă hôn mê không nhận
được ai. Ngô Chương đốt hương cầu
trời, cắt thịt đùi nấu cháo dâng lên. Mẹ tỉnh
lại, ôm nhau khóc. Vương khen Ngô Chương là người
hiền, thưởng cho vàng lụa, sai đưa mẹ về.
Sau này, con là Hồng, cháu là Sơn đều làm quan đến
chức Thượng Thư, đỗ đạt không ngớt.
(7)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Tùy, sư Hồng
Măn lúc chưa xuất gia hai chân co quắp, tụng Quán Âm
Kinh ba năm, chợt thấy một
vị Tăng đứng trước mặt, hỏi: “Sư
từ đâu tới?” Đáp: “Do ngươi thường gọi
nên ta tới. Đời trước, ngươi từng bắt
trói loài vật, dư ương gây nên như thế.
Ngươi nhắm mắt lại, ta sẽ chữa trị
cho ngươi”. Hồng Măn cảm thấy trên hai đầu
gối vừa được nhổ đi cây đinh dài mấy
tấc. Mở mắt ra, vị Tăng đă biến
đâu mất, mới biết đấy là Quán Âm.
Câu dưới
xin xem lời chú thứ 16 trong đoạn “cứu vớt sự đọa lạc”. Thêm nữa,
trong Kim Cang Linh Ứng cũng chép chuyện này.
(8) Theo Phổ
Đà Chí, năm Khang Hy 28 (1689) đời Thanh, vua tuần
du phương Nam, sắp đến Ḥa Thành, chợt thấy
một bà cụ giắt một đóa hoa hồng, một
ḿnh bơi chiếc thuyền con lướt ngang trước
thuyền ngự. Vua hỏi: “Thuyền ǵ thế?” Đáp:
“Thuyền chài”. “Có cá không?” Đáp: “Có”. Khoảnh khắc chẳng
thấy đâu nữa. Mọi người bảo đó là
Đại Sĩ hóa thân, vua bèn ban tiền để tu bổ
ngôi chùa báu.
Theo Phổ
Đà Chí, đời Tống, Việt Vương là Sử
Hạo cầu đảo tại động Triều Âm,
được thấy tướng lành. Ban
đêm, có vị Tăng đến thăm, bảo: “Ngài sẽ
làm Thái Sư giống như Văn Lộ Công, nhưng quan
gia dụng binh phải hết sức cân nhắc. Hai
mươi năm sau, tôi sẽ gặp gỡ ngài nơi
đất Việt”. Về sau, ông Sử làm tướng trấn
giữ đất Việt. Có đạo nhân tự xưng
đă từng quen biết với Thừa Tướng, kẻ
gác cửa cự tuyệt không cho vào, đạo nhân bèn rút
bút viết rằng: “Lộ
thừa tướng đầu đen trùi trũi, vẻ
vang vạn dặm rạng ngời thêm, Hồ tăng mắt
biếc năm xưa ấy, tṛ chuyện cùng nhau suốt một
đêm”, rồi bỏ đi. Ông Hạo nhớ lại
chuyện ở Phổ Đà đuổi theo th́ đă không
thấy đâu nữa! (9)
Trong niên hiệu Gia Tĩnh - Long Khánh đời Minh, có Hoa Tử[7] Quán
Âm chẳng biết tên họ là ǵ, thường mặc quần
áo lam lũ xin ăn; do vậy, đặt tên là như thế.
Ngài thường nằm ngủ dưới chân tượng
Kim Cang chùa Thiên Phật ở kinh đô, biết rành chuyện
vị lai của người khác. Mỗi lần Ngài đến
xin ăn [nơi nào], thần Già Lam sẽ báo mộng trước.
Năm Vạn Lịch thứ 9 (1581), Ngài phun ra lửa tự
thiêu, cưỡi mây đi mất.
Theo Kỷ
Sử Thông Giám, trong niên hiệu Hồng Vũ đời
Minh, những gă dân ương bướng, phạm tội
gian dâm, thường ẩn nấp trong đám sư săi. Vua
khinh ghét, bắt một trăm gă phạm tội, đào hố
chôn thân họ xuống, cứ mỗi hàng là mười
lăm tên cho ló đầu lên, dùng búa chém. Mỗi lần chém
là mấy cái đầu rơi rụng. Có vị tăng lạ
lùng tên là Tự Tại cũng bị ghép vào hàng ấy; nhân
đó hiện thần biến, đầu đứt rồi
lại mọc đầu khác, suốt mấy lượt, vua
bèn tha chết cho những người
c̣n lại.
Lại
nữa, theo truyện của ngài Đàm Thỉ đời [Lưu]
Tống trong Cao Tăng Truyện, tập Một, khi Hách Liên
Bột Bột[8] phá ải, chém giết vô số, ngài Đàm Thỉ
cũng thuộc trong số [những người bị hành h́nh ấy], nhưng đao chẳng
thể làm tổn thương được. Bột Bột
bèn tha hết các sa-môn không giết.
Lại nữa,
Thác Bạt Đào[9] hủy diệt Phật pháp, sai các đội
quân binh chia nhau đi đốt cháy, cướp bóc chùa chiền,
bắt Tăng, Ni bỏ đạo. Hễ bắt được
kẻ nào lẩn trốn sẽ chém. Khi ấy, ngài Đàm Thỉ
chống tích trượng đến cửa cung, Thác Bạt
Đào ra lệnh [hành h́nh] theo luật định, chém nhiều
lần mà Sư chẳng thương tổn ǵ. Thác Bạt
Đào càng nổi giận đùng đùng, tự rút gươm
đang đeo ra chém, thân thể Sư vẫn chẳng khác
ǵ, họ Thác bèn phục hưng chánh giáo.
(10) Theo
Phổ Đà Chí, tương truyền có em chồng và chị
dâu hai người kiền thành tŕ tụng mấy năm, tới
núi lễ bái Đại Sĩ. Vừa cập bến, cô em
chồng chợt đến kỳ hành kinh, chị dâu
nghĩ như vậy là phạm lỗi, cô em chồng
cũng tự thẹn ô uế, chẳng dám lên bờ. Trong
khoảnh khắc biển dậy sóng, trong thuyền thiếu
thức ăn, chợt có một bà cụ ném những viên
đá nhỏ xuống nước, đạp trên đó để
lên thuyền, xách giỏ cơm cho họ ăn. Cô em chồng
lấy làm lạ, chưa dám nói th́ chị dâu đă bảo: “Ta
biết là Đại Sĩ hiện thân”. Chị dâu hướng
về phía điện thờ lạy tạ, thấy tượng
Đại Sĩ áo xống vẫn c̣n ướt.
Theo Mộng
Hoa Tạp Lục, hiếu tử họ Trương làm nghề
đồ tể. Mỗi sáng chùi chậu rửa mặt sạch
sẽ, dâng cơm nước hầu mẹ xong rồi mới
gánh thịt tươi ra chợ, đổi lấy rượu
và thức ăn đem về hầu mẹ xơi. Hễ mẹ
không vui bèn diễn kịch, bầy tṛ hát xướng. Mẹ
vui th́ anh chàng đồ tể cũng vui. Trong làng có người
vầy đoàn đi triều bái Nam Hải, chàng đồ
tể cũng muốn cầu thọ cho mẹ, xin đi
theo. Ban đêm ở trong quán trọ, anh ta chợt kêu ầm
lên, đồng bạn hỏi nguyên do, kể: “Trong mộng
nghe thấy tiếng mẹ tôi gọi”, mọi người
chán ngán chàng ta bèn [lén] bỏ đi mất. Chàng đồ tể
đi một ḿnh lạc đường, lọt vào vùng núi non
chập chùng, thấy một túp lều tranh, có một cụ
già nhắm mắt, ngồi xếp bằng. Chàng đồ
tể xin ngủ nhờ một đêm. Cụ già bảo: “Phổ
Đà sơn cách đây mấy ngàn dặm, ngươi làm
sao tới đó được? Hơn nữa, trong nhà
ngươi tự có Phật, không cần phải đến
núi thiêng!” Sáng ra, cụ già lay anh ta dậy, tặng hai tấm
bánh, kéo ra sau núi, chỉ lối về. Anh chàng đồ tể
ăn một tấm bánh, chân khỏe dị thường,
đi mấy dặm, thấy bức tường thành thâm
thấp, nh́n kỹ th́ là quê cũ. Tự nghĩ: “Đấy
chẳng phải là Bồ Tát chỉ điểm ta đó
ư?” Anh ta chạy vội về, lấy bánh cho mẹ xơi.
Bánh như tre non, thơm ngọt đă miệng. Mẹ sống
ngoài chín mươi mới mất, anh chàng đồ tể
vào núi, chẳng biết kết cục ra sao!
Ghi thêm: Theo Mộng Xưởng
Tạp Trước, Mẫn Trinh ở Hán Khẩu mồ côi
từ bé. Vừa trưởng thành, thấy có người cúng
giỗ treo h́nh ảnh cha mẹ, đau ḷng chẳng biết
h́nh ảnh của song thân ra sao, bèn học vẽ, đạt
đến mức hết sức khéo léo. Anh ta sáng tối cầu
đảo Quán Âm, cầu Bồ Tát rủ từ lực khiến
cho gặp được người nào có diện mạo
giống như cha mẹ của ḿnh để vẽ h́nh.
Người ta cười là gă ngốc. Một hôm, có kẻ
lừa gạt, bảo: “Hôm qua tôi từng thấy có ông bà cụ
xách giỏ, chống gậy, trông rất giống lệnh
thân, đi trên đường vào xứ Kinh - Tương”.
Mẫn Trinh vội đuổi theo, mỗi ngày đi hơn
hai trăm dặm, quả nhiên gặp ông bà cụ ấy,
bèn mời quay về. Vẽ xong, không thấy hai người
ấy đâu nữa. Những người già cả nh́n vào
bức vẽ, bảo tranh vẽ giống hệt như cha
mẹ họ Mẫn, than thở hiếu tâm đă cảm
động Đại Sĩ.
(11) Đối
với câu trên xin xem ư đă nêu trong lời chú về h́nh
tượng Diện Nhiên trong đoạn
tư.
Theo Đại
Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, Quán Thế Âm Bồ
Tát muốn độ hữu t́nh, bèn hiện làm ong, trong miệng
phát ra tiếng “Nam-mô một-đà-dă”
(Namo Buddhaya). Các loài trùng kia nghe tiếng xưng niệm
đều được văng sanh, do vậy, [con ong ấy]
có tên là Diệu Hương Khẩu. Một-đà-dă chính là
Phật-đà-da.
2.4.2. Thuyết
pháp
1.
Bèn có: Xoa đầu Huệ Nhật, khuyên niệm hồng
danh. Nghiêm trách Bà La, đừng cầu vương vị.
2. Chỉ
dạy Linh Chiếu, Tịnh Độ chẳng xa. Răn bảo
Bách Nương, Tây Phương nên lễ.
3. Vâng thờ
Đại Minh Chú Kinh, nên biết trọng đại. Tụng
kinh Kim Cang Bát Nhă, phải thật kiền thành.
4. Đốt
hương cầu phước, đừng quăng giấy
chữ. Thành kính tŕ kinh, chớ dùng củi bẩn.
5. Răn
cụ Lă ở Giang Ninh, làm điều thiện ắt
hưởng tốt lành. Than ông Đồ xứ Tiền
Đường, quá nghiêm khắc, thiếu ḷng nhân hậu.
6. Tŕ kinh
ắt phải quỳ, thường phải nên ân cần
cung kính. Kiêng giết ắt văng sanh, rộng ban bố giáo
hóa từ bi.
7. Thói đời
ngày càng tệ, quỷ thần giám sát càng nghiêm, dốc ḷng hướng
về Tây, Bồ Đề tự nhiên bất thoái.
8. Ấy
là v́ Sa Bà quốc độ, dùng thanh luận ḥng giảng
rành rành, quần sanh ngu muội, tuy hiện thân, chẳng biết
thuyết pháp.
9. V́ thế:
Đích thân dạy bảo trong Định, hoặc truyền
trong mộng, vừa thoảng qua tai, liền thành đạo chủng (Gồm
hai đoạn).
(1)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời
Đường, ngài Huệ Nhật cưỡi thuyền sang
Thiên Trúc, lễ thánh tích của Như Lai. Tại nước
Kiện Đạt La (Gandhāra),
trên ngọn núi của phía Đông thành, Sư kiền thành cầu
đảo Quán Âm, đích thân thấy Bồ Tát hiện thân,
răn dạy: “Hăy chuyên niệm
Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật,
phát nguyện văng sanh th́ sẽ thấy Phật và ta, đắc
đại lợi ích. Ông nên biết pháp môn Tịnh Độ
vượt trỗi các hạnh”. Lúc trở về, Sư
được vua ban hiệu là Từ Mẫn Tam Tạng,
siêng tu Tịnh Độ, soạn Văng Sanh Tịnh Độ
Tập lưu hành trong cơi đời.
Theo
Đường Tam Tạng Truyện, khi ngài Giới Hiền
giảng Du Già (Yogācāra: Duy Thức) cho ngài Huyền
Trang, có một vị Bà La Môn nói: “Tôi từng ở núi Bố
Trách Ca, đối trước tượng Quán Tự Tại
Bồ Tát phát nguyện làm vua. Bồ Tát hiện thân quở
trách: ‘Đến lúc nọ sẽ có Giới Hiền giảng
Du Già cho vị tăng Chi Na, ngươi đến đó
nghe, do nghe pháp sẽ thấy Phật, thành vua để làm
ǵ?” Quả nhiên là như vậy.
(2) Theo Phật Tổ Thống Kỷ,
đời Tống, ngài Linh Chiếu mở Tịnh Nghiệp
Xă, tham dự có hai vạn người, đa phần
được ứng nghiệm. Sư thường mộng
thấy nghi dung của Tam Thánh, quỳ hỏi: “Chiếu tụng
kinh Đại Thừa mong sanh Tịnh Độ, có
được thỏa nguyện hay chăng?” Quán Âm chỉ
dạy: “Tịnh Độ chẳng
xa, hễ có nguyện liền được văng sanh”.
Theo Di
Kiên Chí, vào đời Tống, Vương Bách Nương mồ
côi từ bé, đă xuất giá lại góa bụa, sống nhờ
nơi dinh quan của cậu. Trong niên hiệu Thiệu
Hưng (1131-1162), bà Vương mắc bệnh câm điếc,
người cậu dạy bà Vương hăy dốc ḷng
thành nơi Quán Âm, bà Vương bèn sáng tối lễ niệm.
Mỗi khi nghỉ ngơi, thấy tướng lành trang
nghiêm của đức Quán Âm, răn dạy thiết tha,
khuyên lễ Tây Phương Di Đà Phật. Bồ Tát truyền
kệ rằng: “Nguyện lực
châu sa giới, vân hà độc lễ Tây? Đản
năng hồi nhất niệm, xúc xứ thị Bồ
Đề” (Nguyện lực trọn sa giới, sao chỉ
lễ Tây Phương? Chỉ v́ xoay một niệm, đâu
đâu cũng Bồ Đề). Lại dạy bà Vương
hăy khuyên khắp mọi người tụng niệm. Chưa
đầy một tháng, bệnh liền lành, tâm cũng thông
sáng.
(3) Theo Dị
Đàm Khả Tín Lục, em gái tướng quốc nước
Trịnh bị hồ ly quấy phá, tụng Tâm Kinh bèn thoát
nạn. Lại có nữ quỷ dựa thân, tự xưng
là Mậu Tam Cô. Tướng quốc hứa tụng ba
trăm quyển Tâm Kinh để siêu độ, [quỷ
bèn] chắp tay cảm tạ. Về sau, em gái mộng thấy
Đại Sĩ dạy: “Họ Mậu được tụng
ba trăm quyển kinh nên trở thành địa tiên[10]. Tâm Kinh của ta trọng đại,
hăy càng nên cung kính phụng tŕ”. Tâm Kinh c̣n gọi là Đại
Minh Chú Kinh do ngài Cưu Ma La Thập dịch.
Theo Hải
Nam Nhất Chước, trong niên hiệu Đạo Quang (1821-1850)
đời Thanh, Nghiêm Thụy Năng ở Phù Lương bị
bệnh chết. Sai dịch cơi âm bắt đến một
dinh thự. [Diêm Vương] vừa mới thẩm tra th́
Đại Sĩ đến, khoác áo choàng hoa sen, có một
ông già đen xạm đi theo. Đại Sĩ bảo: “Thụy
Năng chưa hết tuổi thọ, sao lại bắt
đến?” [Diêm Vương] liền phạt trượng
bọn sai dịch. Đại Sĩ lại nói: “Ba đời
nhà Thụy Năng không ăn thịt ḅ, thịt chó, cả
nhà tŕ Quán Âm Trai, tụng Quán Âm Kinh. Ông già đen xạm này
có thể làm chứng”. Dạy xong, dẫn Thụy Năng
đi khắp các địa ngục, răn dạy ông ta khi
sống lại, hăy bảo người nhà ăn chay, niệm
kinh, ai nấy phải chú trọng thành kính. Hơn nữa,
kinh Kim Cang công đức chẳng thể nghĩ bàn, người
tụng hăy cẩn thận, đừng có đầu không cuối,
rồi đưa về nhà, Thụy Năng liền tỉnh
lại.
(4) Theo
Tích Tự Biên, tại miếu Quán Âm ở Kim Lăng, trong
các tháng Hai, tháng Sáu, tháng Chín, người đến dâng
hương đông nghẹt, quăng bừa băi những bao
hương bằng giấy có in chữ, mặc cho tín đồ
giẫm đạp. Người đất Hoàn (tỉnh An
Huy) là Tôn Hữu Mai, cầu đảo mẹ được
lành bệnh, mộng thấy Đại Sĩ dạy rằng:
“Người đến thắp
hương đa số muốn cầu phước mà nếu
quăng bỏ giấy chữ th́ đă ngược ngạo
tạo lắm tội nghiệp. Ngươi hăy nên kể lại,
nhắc nhở mọi người kính tiếc giấy chữ”.
Hữu Mai tỉnh giấc bèn kể với người
khác, về đến nhà mẹ đă lành bệnh.
Theo Vấn
Tâm Biên, trong niên hiệu Chánh Ḥa (1111-1118) đời Tống,
Lư Bát bị bệnh cùi, các thầy thuốc đều nói
chẳng chữa được. Họ Lư trước
đó tụng đủ ba tạng Quán Âm Kinh. Đến lúc
này, có một vị Tăng cho một viên thuốc, ông Lư nhận
lấy nhưng chưa uống. Đêm mộng thấy
Tăng nói: “Ta là Quán Thế Âm. Thường ngày ngươi
ưa dùng củi dơ nấu đồ ăn xúc phạm
quỷ thần, nên mắc phải bệnh ấy. Nghĩ
ngươi tụng kinh thành kính, nghiêm cẩn, đặc biệt
ban cho ngươi một viên cứu khổ đan, sao lại
chẳng uống?” Tỉnh giấc, uống ngay, râu, lông mày
lại mọc ra.
(5) Theo
Nam Hải Từ Hàng, ông Lă ở Giang Ninh bệnh nguy cấp,
mộng thấy Đại Sĩ bảo: “Ngươi do tụng
kinh, ham làm lành, nên được tăng thọ. Hăy nên
khuyên khắp người đời, làm lành th́ điều
lành sẽ giáng xuống, làm ác th́ tai ương sẽ giáng
xuống, tơ hào chẳng sai!”
Vào đời
Thanh, Thái Thú Đồ Tiềm Viên bệnh nguy ngập, mộng
thấy Đại Sĩ dạy: “Ngươi đời
trước làm quan, công b́nh nhưng nghiêm khắc, rất tổn
hại ḷng nhân hậu, lại giết nhiều sanh mạng,
đáng mắc quả báo đoản thọ. May là trong khi bệnh
tật vẫn ôm ḷng làm lợi ích, cứu giúp, thệ nguyện
kiên cố, nên có thể tăng tuổi thọ”.
(6) Theo Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, Ngô Thị
là vợ ông Trương, ăn chay, tu Tịnh Độ, mộng
thấy Quán Âm Đại Sĩ dạy hăy quỳ niệm;
v́ thế, hễ niệm Phật bèn quỳ.
Đối
với câu kế tiếp, hăy xem lời chú trong số hai
trong đoạn Lành Bệnh thứ nhất, tức chuyện
Vương Ứng Cát.
(7) Đối
với câu trên, xin hăy đọc lời chú thứ bảy
trong đoạn thứ ba nơi phần Trường Thọ
về chuyện Thang Sính sống lại. Đại Sĩ dạy
ông Sính: “Ông gặp sắc chẳng dâm, nên ta đến cứu.
Ngày nay ḷng người hiểm ác, gian dối, quỷ thần
giám sát cực nghiêm. Như ông X... lẽ ra thi đậu,
nhưng do làm chuyện không đoan chánh nên lỡ làng. Ông
Y... tu thiện, cho đến khi công lao đầy đủ
sẽ được giáng phước. Ông hăy nên có ḷng tin, ưa
làm lành”.
Theo Tây
Phương Công Cứ, vợ của Bành Tế Thanh là Phí
Thị qua đời. Hoàng Kính Phu lễ bái Phổ Môn Đại
Sĩ để hồi hướng cho bà ta, Đại
Sĩ dạy: “Một niệm đem hồi hướng, gởi
ḷng chốn Tây Phương, công tu tích tụ lâu, trọn chẳng
thoái Bồ Đề”.
(8) Lăng
Nghiêm Kinh: “Kim thử Sa Bà quốc,
thanh luận đắc tuyên minh” (Nay trong cơi Sa Bà th́ nhờ
âm thanh biện luận mà được giảng rơ).
Theo Quán
Âm Cảm Ứng, Đường Văn Tông ăn ṣ, trong
ṣ hiện tướng Bồ Tát. Đem hỏi thiền
sư Duy Chánh, Sư nói: “[Bồ Tát thị hiện trong] loài
vật, chẳng phải ứng hiện xuông, mà là nhằm
khơi gợi tín tâm của bệ hạ, hăy bớt tiêu
dùng, thương yêu con người. Kinh dạy: Nên dùng thân
Bồ Tát để độ được bèn hiện
thân Bồ Tát để thuyết pháp”. Vua nói: “Đă hiện
thân Bồ Tát nhưng chưa nghe thuyết pháp”. Sư nói: “Bệ
hạ có tin hay chăng?” Vua bảo: “Nào dám chẳng tin!”
Sư nói: “Bệ hạ đă nghe thuyết pháp rồi đấy”.
Vua cả mừng, thôi ăn ṣ, xuống chiếu hạ lệnh
các tự viện trong thiên hạ đều tạc tượng
Quán Âm.
(9) Theo
Định Huệ Tương Tư Ca: “Vừa nghe pháp, thoảng qua tai, có thể huân tập
chủng tử giác ngộ trong tạng thức”.
1. Giống
như Nguyên Mô sắp bị giết, truyền mười
câu kinh. Kính Đức sắp tử h́nh, Cao Vương linh
hiển.
2. Sơn
Đông ngự sử, chú thuật Bạch Y. Yên Chi vương
phi, kinh xưng mộng dạy. Chép trong Giản Biên, ứng
như dùi vừa gơ trống, liền có tiếng vang. Vốn
chẳng phải là sấm truyền của lũ dân ma, dám
dựa dẫm, bám víu xằng bậy, cũng chẳng giống
như cơ bút của linh quỷ giáng
đàn, vờ vĩnh giả danh. Đấy là sự hoằng
pháp thứ hai của Đại Sĩ vậy (Trong
đoạn này ca tụng cả kinh thế tục).
(1)
Đối với chuyện Vương Nguyên Mô trong Tống
Thư, xin xem lời chú thứ nhất trong đoạn thứ
nhất của phần “khỏi
bị giết chóc”.
Sách Thái
B́nh Quảng Kư chép Nguyên Mô nằm mộng thấy có người
dạy tụng Quán Âm Kinh một ngàn biến, ông Mô nói: “Mạng
chỉ c̣n trong sáng tối, làm sao tụng một ngàn biến
cho được?” Bèn dạy rằng: “Quán Thế Âm, nam mô Phật, có nhân với Phật, có
duyên với Phật, có duyên với Phật pháp, thường,
lạc, ngă, tịnh, sáng niệm Quán Thế Âm, tối niệm
Quán Thế Âm, niệm niệm từ tâm khởi, niệm Phật
chẳng ĺa tâm”. Đấy gọi là bài kinh gồm
mười câu.
Sách Pháp
Hoa Cảm Thông cũng chép Nguyên Mô mộng thấy có người
dạy tụng phẩm Phổ Môn, nhưng một đêm mà
tụng một ngàn biến, quả thật cảm thấy
chẳng dễ, có lẽ sách Thái B́nh Quảng Kư chép gần
sự thật hơn. C̣n như sách Nam Hải Từ Hàng
chép [ông Nguyên Mô] tụng Cao Vương Kinh tức là chẳng
biết khi Nguyên Mô bị Thác Bạt Đào đánh bại
cho đến thời Cao Hoan là đă sớm hơn tám
mươi năm[11],
thuở ấy, làm ǵ có danh tự Cao Vương Kinh? Cơi
đời tụng phẩm Phổ Môn được ứng
nghiệm, nhưng truyền tụng sai lầm là kinh Cao
Vương, đại để là như vậy đó.
Đối
với chuyện Tôn Kính Đức ở Định Châu chép
trong Tề Thư, xin hăy xem lời chú thứ tư trong
đoạn thứ nhất của phần “thoát nạn giết chóc”.
Kinh Cứu
Khổ như vừa nói [trong đoạn trên] c̣n được
gọi là Cứu Sanh Kinh, hoặc gọi là Thập Cú Kinh, nhưng theo như Tam Bảo Cảm Thông Lục
th́ kinh ấy có danh hiệu chư Phật, như vậy
th́ kinh được nói trong Tam Bảo Cảm Thông Lục
phải là kinh Cao Vương được lưu truyền
trong thế tục.
(2)
Đối với câu trên, xin xem lời chú thứ mười
hai trong đoạn “khỏi bị hành h́nh”.
Khi Minh
Thành Tổ c̣n là Yên Vương, vợ ông ta trong hôm Nguyên
Đán nhập Định, thấy Đại Bi Quán Âm hiện
quang minh đủ các màu, tràng phan, anh lạc, lầu gác
trang nghiêm, Đại Sĩ bảo: “Phật Thuyết Đệ
Nhất Hy Hữu Đại Công Đức Kinh có thể
tiêu tai, chứng quả. Ngươi sắp làm mẫu nghi
thiên hạ, phước dày, tánh sáng, có thể vâng lănh lời
phó chúc, cứu vớt sanh linh”. Bèn dùng cam lộ quán đảnh,
[vương phi] thân tâm thanh lương. Tỉnh mộng,
trong miệng vương phi có mùi thơm lạ, tŕ tụng
kinh chú được truyền trong mộng không sai sót.
Trong thời Tĩnh Nạn, trong thành bị vây mấy lần,
đều dựa vào sức che chở của kinh này. C̣n những
kinh khác như hai thiên trung hạ của Tâm Kinh, Quán Âm Bổn
Nguyện v.v... đều là do người đời sau ngụy
tạo, trọn chớ nên tin!
2.4.3. Ban cho
người tiếp nối ḍng pháp
1.
Bèn có Bồ Tát Vạn Hồi, danh đề trụ Phật.
Thai Tông[12] Tuân Thức, mộng trao minh châu.
2. Lăo
Tăng ngủ nhờ, có Niệm Thường kể lại
chuyện xưa. Sao Mai vào bụng, được Từ Tạng
hoằng truyền giới luật.
3. Loa Khê
tôn giả, chuyển thành Kế Trung. Bà lăo xách giỏ cá, đưa
Nguyên Chánh tới.
4. Cung
kính nhận tượng, Bích Phong quả là chàng trí huệ.
Trong tiệc quán tưởng, Quốc Bảo thật xứng
ngôi Thái Sư.
5. Thánh
Đạt tướng lạ khôn tầy, Tịnh Chi
xương nh́n sáng sạch.
6. Cầu
nơi chùa tháp, Đại Giác chẳng thẹn sư thừa.
Mộng chiếu thần quang, Đạo Phi hết ḷng hiếu
thảo.
7. Đại
Thông ban hiệu, hiểu sách vở tót vời. Khai Huưnh nhân từ,
cứu khắp sanh mạng.
8. Trao cho
chuỗi châu, Tuyết Song đắc đế lư viên dung. Nuốt
ánh sáng vàng, Sơ Thạch phá hư không tan nát.
9. Quán Huyễn
lừng danh, từng làm quan Thái Sử. Dịch Đường
nối pháp, con thơ thừa kế nghiệp nhà.
10. Tăng
chúng kính như Bắc Đẩu, Hám Sơn thanh danh chói rực.
Kim chỉ nam trong biển khổ, Ngẫu Ích đạo
đáng tôn sùng.
11. Cổ
Am hiện tướng giữa mây, Chuyên Ngu nhập thai trong
mộng.
12. Da Khê xứng
danh “sư tử nhi”, Kư Thiền hợp điềm mộng
Mục Công.
Chư vị
đă chói ngời Tăng sử, mừng bậc long tượng
xuất hiện đông đầy. Nào có biết những vị
nối pháp do Bồ Tát ban tặng, đều nhận lời
phó chúc tại Linh Sơn. Đấy là chuyện hoằng
pháp thứ ba của Đại Sĩ vậy.
(1) Theo bài Lưỡng Kinh Kư trong Đàm
Tân Lục, đời Đường, sư Vạn Hồi,
họ ngoài đời là Trương, mẹ cầu nguyện
nơi tượng Quán Âm bèn có mang. Lúc sanh ra, Sư giống
như ngu ngốc. Do đi sang doanh trại của người
anh ở An Tây, sáng đi, tối về, [tính ra] một ngày
đi vạn dặm, [người ta] mới hết sức
kinh ngạc. Ngài Huyền Trang đến Thiên Trúc, thấy
trên trụ Phật có đề: “Bồ Tát Vạn Hồi bị
đày sang Văn Hương giáo hóa”. Sư trở về gặp
ngài Vạn Hồi, lễ làm thầy. Vơ Tắc Thiên đón sư
Vạn Hồi vào triều, Sư nói rất nhiều chuyện
linh nghiệm. Vạn Hồi gặp Tăng Già Đại
Sĩ, lễ yết rất cung kính. Đại Sư vỗ
đầu Vạn Hồi bảo: “Tiểu tử đi được rồi đó”. Đại
Sư tịch xong th́ Vạn Hồi cũng mất.
Theo Liên
Tông Bảo Giám, mẹ của sư Tuân Thức đời
Tống cầu đảo Quán Âm, mộng thấy cô gái xinh
đẹp trao cho viên minh châu bèn sanh ra Sư. Vừa tṛn bảy
tháng, Sư đă có thể niệm Quán Âm. Dốc sức học
hành đến nỗi ho ra máu, thấy Bạch Y Đại
Sĩ duỗi tay chỉ vào miệng, khêu ra mấy con trùng.
Từ đầu ngón tay, cam lộ lại tuôn vào miệng,
thân tâm thanh lương, bệnh trầm kha từ trước
liền khỏi ngay. Sư đảnh tướng cao cả
tấc, tay tḥng quá gối, tiếng như hồng chung,
được vua ban hiệu là Từ Vân Sám Chủ.
(2) Theo Từ
Lâm Tập, sư Niệm Thường đời Nguyên, hiệu
là Mai Ốc. Mẹ cầu đảo Đại Sĩ, mộng
thấy có vị lăo tăng lông mày rậm xin ngủ nhờ,
bèn có mang Sư. Lúc Sư sanh ra có ánh sáng tốt lành, mùi
hương lạ. Xuất gia, Sư nghiên cứu rộng
khắp các sách. Vua tôn Sư làm thầy, tôn kính, sủng ái.
Sư soạn bộ Phật Tổ Thông Tải Tập
lưu hành trong cơi đời, người thời ấy gọi
Sư là “Tăng trung ban mă”[13].
Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, ngài Từ
Tạng đời Đường, họ Kim, cha là Vũ
Lâm, thuộc hoàng tộc xứ Tân La (Silla). Phụ thân
Sư tạo một ngàn bộ kinh Quán Âm để cầu
con, bà mẹ mộng thấy ngôi sao lọt vào bụng, sanh
ra Từ Tạng. Sư hoằng diễn giới luật,
đáng giữ ngôi Tể Tướng, nhưng Sư nhiều
lần tránh né không nhận. Vua tức giận, sai sứ vào
núi đâm chết. Ngài Từ Tạng nói: “Ta thà giữ giới
một ngày rồi chết, chẳng phá giới cả đời
để được sống!” Sứ giả bèn tha đi.
Sư liền sang Trung Quốc thuyết pháp, tuôn cam lộ,
quyến thuộc của nhà vua càng tôn sùng.
(3) Theo Phật
Tổ Thống Kỷ, Thích Kế Trung, tự là Pháp Thần,
cha mẹ cầu tự trong miếu Phật, cùng mộng thấy
một vị Tăng trao cho đứa con, bảo: “Gởi
ngươi nuôi Loa Khê tôn giả”. Sư xuất gia bị bệnh,
bèn hành Thỉnh Quán Âm Tam Muội. Đại Sĩ phóng
quang, dùng nước tưới đảnh, bệnh liền
khỏi ngay. Sư hiểu sâu xa Giáo Quán, ngài Tuyết Đậu
Hiển nói: “Đạo của
Tứ Minh có người truyền rồi!”
Theo Phổ
Đà Chí, mẹ của Trung Tán[14] Nguyên Chánh cầu đảo Đại
Sĩ, mộng thấy bà lăo xách giỏ cá vào cửa, trao cho
một con cá chép, bèn có thai. Đêm Nguyên Chánh sanh ra, sáng ngời
như ban ngày. Thầy bói bảo: “Mạng không thọ”, do vậy
bèn xuất gia, về sau đắc pháp nơi ngài Dịch
Đường.
(4) Theo Kê
Cổ Lược, sư Bảo Kim, hiệu là Bích Phong, họ
Thạch. Cha mẹ đều thích làm lành. Có một vị
Tăng tặng tượng Quán Âm cho mẹ Sư bảo:
“Hăy nghiêm cẩn thờ phụng th́ sẽ sanh ra đứa
con trai có trí huệ”. Không lâu sau sanh ra Sư, bạch quang chiếu
khắp nhà.
Thái
Sư nhà Nguyên hiệu là Quốc Bảo, tên là An Tạng, hiệu
là Long Quan Lăo Nhân. Cha ngài đang ngồi trong tiệc mà nhập
Quán Âm Quán, [trong khi quán tưởng] chợt có người ẵm
đứa bé đến trao cho, mẹ Sư liền có thai.
Đến khi sanh ra ngài, hồng quang ngập nhà. Lúc năm
tuổi, Sư có lần ngủ vùi suốt ba ngày đêm, bảo:
“Văn Thù thuyết pháp cho con”. Về sau, Sư ngồi qua
đời, mùi hương lạ sực nức, viên tướng
ngưng đọng trong pḥng, bạch hào quang hướng về
Tây rồi chiếu về phương Nam, xá-lợi ngũ
sắc vô số.
(5) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Hai, sư Chân
Quán tự là Thánh Đạt. Phụ mẫu khiết tịnh,
trai giới, lập thệ, tụng kinh Dược Sư,
Quán Âm, Kim Cang để cầu có đứa con trí huệ.
Đến lúc sanh ra, Sư tướng lạ khôn sánh tầy.
Chỉ tay trong bàn tay trái hợp thành h́nh chữ Tiên (仙), chỉ tay trong bàn tay phải hợp
thành h́nh chữ Nhân (人).
Lại nữa,
cha mẹ ngài Tịnh Chi nghĩ đến điều lành,
nhưng không có người nối dơi, cầu đảo khắp
nơi nhưng không được toại nguyện, bèn niệm
Quán Âm, trong ṿng mười ngày bèn có thai. Đến năm
lên tám, Sư ưa thích Di Đà Quán Hạnh, thấy cảnh
xinh đẹp, quán xương sáng sạch.
(6) Theo Thiền
Lâm Tăng Bảo Truyện, mẹ ngài Hoài Liên cầu đảo
nơi tháp ngài Tứ Châu Tăng Già sanh ra Sư. Trong niên hiệu
Hoàng Hựu (1049-1454), Sư được vua ban hiệu là
Đại Giác. Sư tŕ luật tinh nghiêm, được
vua ban bát thơm bằng gỗ long năo, Sư bèn đốt
bát trước mặt sứ giả. Thuở nhỏ,
Sư theo học với Hiểu Thuấn thiền sư.
Thuấn Thiền Sư bị Quận Sứ đố kỵ,
nên phải mặc đồ thường, đến
nương náu với ngài Hoài Liên. Ngài Hoài Liên để thầy
nghỉ nơi chánh tẩm, giữ lễ đệ tử.
Vương công đến thân cận Sư thấy lạ,
ngài Hoài Liên đem sự thật tŕnh bày. Tống Nhân Tông bèn
cho phép ngài Hiểu Thuấn xuống tóc trở lại.
Lại nữa,
ngài Đạo Phi đời Hậu Châu, mẹ là Hứa Thị
tŕ phẩm Phổ Môn cầu con, mộng thấy thần
quang chiếu vào thân bèn có mang. Về sau, Sư xuất gia, gặp
năm đói kém bèn nhịn ăn nuôi mẹ. Sư đến
Hoắc Sơn t́m xương cha, gom các hài cốt tụng
kinh, chúc nguyện: “Xương nào chuyển động tức
là hài cốt của cha”. Mấy hôm sau, quả nhiên có đầu
lâu từ đống xương trồi lên, đến
trước Đạo Phi lắc lư một lúc lâu. Đạo
Phi khóc lóc, ôm về. Trước hôm Sư về đến
nhà một ngày, mẹ Sư mộng thấy chồng quay về
nhà.
(7) Theo
Giác Hổ Tập, sư Thiện Bản đời Tống
trong niên hiệu Nguyên Phong (1078-1085) được vua ban hiệu
là Đại Thông. Mẹ ngài cầu đảo Bạch Y
Đại Sĩ mà sanh ra Ngài. Sư thông hiểu sách vở
tột bậc, trong Định thấy Phật Di Đà hiện
thân sắc vàng.
Theo Từ
Lâm Tập, ngài Khai Huưnh là con nhà họ Trương. Mẹ
Sư cầu đảo Đại Sĩ bèn có mang, sanh
Sư nhằm đúng ngày Đại Sĩ thành đạo,
sáng rực cả nhà. Bà nội Sư có để lại mấy
thoi vàng. Gặp năm đói kém, Sư đem thí hết. Thí
xong, lại có người đến xin, Sư hận không
có ǵ để cứu giúp, phát nguyện xả thân để
sanh vào nhà vua chúa. Sư lên Quán Âm Nham gieo thân xuống, rốt
cuộc chẳng bị thương tổn ǵ. Biết là
Đại Sĩ từ bi che chở, bèn phát nguyện xuất
gia. Cha Sư ngăn trở, tới đêm, Sư mộng thấy
có người áo trắng lôi đi, cửa ngơ mở toang,
bèn trốn ra, được dịp xuống tóc.
(8) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Bốn, ngài
Ngộ Quang đời Nguyên hiệu là Tuyết Song, mẹ
ngài cảm Đại Sĩ trao cho chuỗi châu bèn có mang.
Đến khi sanh, có điềm lạ như gió mây rạng
ngời. Xuất gia, Sư cật lực tham cứu có chỗ
tỉnh, Tam Đế[15]
viên dung, nhất tâm thấu triệt rạng ngời,
được vua ban hiệu là Phật Nhật Viên Minh Phổ
Tế Thiền Sư.
Lại nữa,
ngài Trí Hoạch đời Nguyên là người xứ Nhật
Bản. Mẹ cầu đảo Đại Sĩ, mộng
thấy nuốt ánh sáng vàng bèn có mang. Lúc Sư sanh ra, ánh sáng
tốt lành ngập nhà. Trong mộng, Sư thấy ḿnh
đi đến ngọn Sơ Nham của Trung Quốc, bèn
tự đặt tên là Sơ Thạch. Sư tu sám cảm thần
minh hiện giữa không trung. Tham khấu lâu ngày, thân chợt
đại ngộ, có những câu như “đẳng gian kích toái hư không cốt” (trong khi
b́nh đẳng, đập nát xương hư không).
(9) Theo Kê
Cổ Lược, sư Nguyện Đăng, mẹ họ
Đào, cầu đảo Đại Sĩ sanh ra Sư. Xuất
gia, trụ tại chùa Thủy Tây, soạn Quán Huyễn Tử
Nội Ngoại Thiên, chủ trương Nho Thích nhất
quán. Tống Liêm đem tác phẩm ấy dâng lên Minh Thái Tổ,
vua bèn phong Sư làm quan Hàn Lâm dự bị.
Theo Phổ
Đà Chí, sư Dịch Đường Minh Tâm, con nhà họ
Thiệu, mẹ mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ
ẵm đứa bé vào nhà bèn sanh ra Sư. Sư đắc
pháp nơi ḥa thượng Triều Âm.
Phẩm Anh Nhi Hạnh
của Niết Bàn Kinh có câu: “Chẳng
thể đứng, ngồi, lui, tới, nói năng th́ gọi
là Anh Nhi Hạnh”[16].
(10) Theo
Nhất Hạnh Cư Tập, ngài Hám Sơn pháp danh là Đức
Thanh, họ ngoài đời là Thái. Bà mẹ mộng thấy
Đại Sĩ bế đứa trẻ đến trao
cho bèn sanh ra Sư. Chín tuổi, Sư đă có thể tụng
phẩm Phổ Môn, trước thuật vô cùng phong phú.
Lại nữa,
ngài Ngẫu Ích pháp danh là Trí Húc, con nhà họ Chung ở Ngô
Huyện. Cha là Kỳ Trọng, tŕ Bạch
Y Chú và Đại Bi Chú mười năm để cầu
con, mẹ mộng thấy Đại Sĩ ẵm đứa
trẻ đến trao cho, bèn sanh ra Sư. Lúc c̣n sống,
Sư soạn thuật hơn bốn mươi loại
sách, nhưng Di Đà Yếu Giải là tác phẩm giản yếu,
thiết thực nhất.
(11)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, ngài Hiển Thị đời Minh, pháp tự
là Cổ Am. Bà mẹ mộng thấy Quán Âm hiện giữa
mây ngũ sắc bèn có mang Sư. Sư nhiều lần trung
hưng Lan Nhă, thanh danh ngày càng tăng. Về sau, Sư chuyên
chí Tây Phương, nhiều lượt cảm được
điềm lành.
Lại nữa,
ngài Quán Hành đời Minh, pháp tự là Chuyên Ngu. Mẹ Sư
mộng thấy Đại Sĩ dắt một bé trai vào
nhà, thích quá, ôm lấy, bèn sanh ra Quán Hành. Sư thường
niệm thánh hiệu Quán Âm, dáng điệu toát ra vẻ tự
tại, tỏ lộ như thế mà Sư chẳng biết.
Về sau, vào những đêm có trăng, Sư đi kinh
hành, đắc tối thượng chánh giác từ nơi
tông chỉ Lăng Nghiêm, soạn Lễ Quán Âm Nghi (một
quyển), suất lănh đại chúng huân tu. Những hành giả
thật sự chứng đắc gồm 15 người.
(12)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, ngài Chí Nhă đời
Minh, pháp tự là Da Khê. Mẹ là Yến Thị cầu đảo
Bạch Y Đại Sĩ, cầu sanh được đứa con tốt
lành. Mộng thấy một vị Tăng chân trần bảo:
“Ta ban cho ngươi một đứa con sư tử”, tỉnh
giấc bèn sanh ra Chí Nhă. Sư diễn kinh, tọa thiền,
được xưng tụng là “nhất đại sư tượng” (bậc thầy
cả đời).
Lại nữa,
ngài Kính An đời Thanh, pháp tự là Kư Thiền, biệt
hiệu là Bát Chỉ Đầu Đà. Bà mẹ cầu
đảo Bạch Y Đại Sĩ, mộng thấy hoa
lan bèn sanh ra Sư. Ngài không học mà biết làm thơ, tu ṛng
Thiền Định, rắn, hổ chẳng làm hại.
Đối với
điển tích “mộng lan”,
xin xem lời chú thứ mười trong đoạn thứ
nhất của phần “có được con nối dơi”
[trong quyển hai].
2.4.4. Hộ
pháp
1.
Bèn có: Giới Nhật nối ngôi, làm minh quân xứ Ấn; Minh
Biện lưu thân, sống măi cùng loài
2. Cầu
thạo tiếng Hán, Bạt Đà đổi đầu; nhằm
biến Tần âm, Tri Huyền thay lưỡi.
3. Thiên
tướng ôm đao, dặn Đạo Quynh nhận
hương; thần nhân vác kích, nhắc Từ Ân đường
đi.
4. Pháp Kiều
cầu báo, giọng vang ngăn cả mây trôi, Tịnh Ư cảm
ân, tâm cảm nhận Phật ngầm phù hộ.
5. Châu
Lư không bị chê ngắc ngứ, Đổng Già ngộ bản
lai diện mục.
6. Nuốt
hạt son, giống tiên nuốt thuốc Đạo Gia; chú
nát b́nh phong đá, khiến Phật pháp nổi trội kinh
thành.
7. Khởi
Chinh phát nguyện, Đạo Nguyên mộng cúng kinh văn.
Nguyên Lư thắp hương, ông Mạo liền trao thiện
bản[17].
8. Vách
đá hiện bài mật chú, làng trúc truyền dạy ấn
quyết.
9. Liên tục
gọi Bồ Tát, khiến Tổng Trấn tâu tŕnh; mộng
đến Bổ Đà, Hiếu Tông càng vững ḷng tín
ngưỡng.
10. Nhập
mộng Kinh Vương, xin vá áo xiêm. Tới cửa Nghiễm
Trai, mong được tượng mới.
11. Ngạn
Tông có điềm mộng trao chén ngọc, Giác Uyển than
tượng linh thiêng rớt vào tay .
12. Trong mộng
nhắc đoạt lại thân vàng, gơ xử báo trả lại
bảo thạch.
13. Mua giấy,
kinh hồn giấy cắt vụn; tráo nồi bị đ̣i
phải bồi hoàn.
14. B́nh
phong trơn lặng lẽ, trừ giùm A Tú hung tàn. Miếu
xưa bụi phủ đầy, cứu giúp Vạn Lam
ngăn trở.
15. Thí
vàng, mắc hăm, hiện áo trắng giải vây. Ngồi nhờ
thuyền bị ch́m, đèn sáng dẫn đường giải
cứu.
16. Đạo
Hiến ngă xuống nước, Bồ Tát đến nâng.
Dưới chân Duy Tân, nhờ hoa sen đỡ.
17. Rơi
mất y bát, Đạo Uông nhờ mây mù toàn mạng; thân
vướng lồng nung, Nguyên Lễ được
tăng nhân cứu vớt.
18. Quan
Đế răn đừng cúng đồ mặn; oan hồn
tránh né thần hộ giới.
19. Cử
Nguyên Thản [làm Trụ Tŕ] bèn mộng thấy trâu; ghi chuyện
Nguyên Đạt được ban áo tía.
20. Trạm
Tu dạy chú, đất không c̣n tai ương cọp dữ.
Trinh Biện vững Thiền, thiên ma trọn chẳng dám
khinh nhờn.
21. Ông
Châu cảm vật cũ, mang tượng thêu về. Họ
Trương phá trai, tượng vẽ hủy mất.
22. Trên lầu
Vạn Thọ, Bát Quái đặt vững Âm Dương. Họ
Tŕnh xứ Hiếu Cảm, chỉ rơ năm tốt xấu .
23. Mây hoa
cúng dường, truyền đem cỗ tặng cho người
đói. Thê Hà hết lương, dặn
tặng gạo cao tăng.
24.
Sách tấn tịnh niệm của Tăng Đoan, Mẫn Dự
thoát khỏi ổ dâm. (Gồm ba đoạn)
(1)
Theo Đường Tam Tạng Truyện, vua Giới Nhật[18] tánh nhân từ. Đầu thời Trinh
Quán, lúc sắp nối ngôi, vua thỉnh ư Quán Âm, Đại
Sĩ dạy: “Ngươi đời trước là tỳ-kheo,
phước lực đáng làm vua năm xứ Ấn Độ”.
Sau khi lên ngôi, vua mấy lượt tổ chức Vô Giá
đại hội[19]. Khi ngài Huyền Trang đến, vua lễ
kính tột bậc.
Lại nữa,
vị Tăng Ấn Độ tên là Minh Biện, đối
trước tượng Quán Âm, nhịn ăn, cầu thỉnh
[Bồ Tát chỉ cách để giữ xác thân] đợi
Di Lặc Bồ Tát hạ sanh. Đại Sĩ hiện
thân, dạy tụng chú Kim Cang ba năm: “Trong quả núi to ở
phía
(2) Theo Cao Tăng Truyện, tập Một, đời
Tống, ngài Cầu Na Bạt Đà La được Nam Tiếu
Vương thờ làm thầy, thỉnh Sư giảng Hoa
Nghiêm, nhưng Sư chưa thông tiếng Hán. Sáng tối lễ
sám cầu khẩn Quán Âm để mong được cảm
ứng. Đêm mộng thấy thần cầm một đầu
người đến đổi. Từ đấy, thông
hiểu tiếng Hoa, bèn giảng kinh đến mấy chục
lượt, người nghe bội phục. Trong sách khác
cũng chép chuyện ngài Đàm Vô Sấm được
đổi đầu.
Theo
Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời Đường,
ngài Tri Huyền là người
đất Thục (Tứ Xuyên), phô diễn kinh luận,
Tăng, tục đều kính ngưỡng, nhưng buồn
v́ ngữ âm không chỉnh, bèn tụng chú Đại Bi
nơi núi Tượng Nhĩ. Sư mộng thấy thần
tăng cắt lưỡi trao đổi. Hôm sau bèn nói
đúng giọng xứ Tần, được vua ban hiệu
là Ngộ Đạt quốc sư[20].
(3) Theo
Pháp Uyển Châu Lâm, trong niên hiệu Nguyên Gia (424-453) đời
Tống, Lâm Xuyên Vương trấn giữ Quảng
Lăng, thỉnh ngài Đạo Quynh làm lễ Quán Âm Trai
mười ngày. Đêm khuya, chúng tăng đều lui về
ngủ. Đạo Quynh thức dậy, lễ bái, chợt
thấy bốn vách có vô số sa-môn, đều hiện nửa
thân. Một vị Phật, búi tóc xoắn ốc phân minh rành
rẽ. Một người to lớn tay cầm đao, diện
mạo hùng vĩ, cầm hương trao cho Đạo
Quynh, Đạo Quynh không nhận. Người trong vách nói:
“Quynh công nên nhận hương ḥng che chở, bảo vệ
chủ nhân”.
Theo
Đường Tam Tạng Truyện, ngài Huyền Trang trụ
tại chùa Từ Ân, v́ thế được gọi là Từ
Ân pháp sư. Thoạt đầu, Sư sang Tây Vực, bị
khốn đốn ở Lưu Sa, xin xem lời chú thứ
nhất trong đoạn thứ hai của phần Thoát Hiểm.
Khi ấy, gió mát thổi qua thân, bèn ngủ thiếp đi một
chốc, mộng thấy một vị thần cao mấy trượng, cầm kích chỉ, nói: “Chẳng
thể không gắng đi”. Pháp sư giật ḿnh tỉnh giấc,
đi tiếp, bèn đến được chỗ có cỏ,
nước.
(4)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Một, đời Tấn,
Bạch Pháp Kiều thích đọc tụng, nhưng không có
giọng. Do vậy, nhịn ăn sám hối suốt bảy ngày đêm, lễ bái Quán
Âm. Ngày thứ bảy, ông cảm thấy cổ họng rỗng
rang, tiếng vang xa cả dặm, xa gần than thở kinh
ngạc, đều đến xem nghe. Sau đấy, ông tụng
kinh suốt ngày đêm, giọng tụng êm nhẹ, uyển
chuyển, lay động ḷng người. Đến chín
mươi tuổi giọng vẫn không suy.
Theo Liệt
Tử, Tần Thanh vỗ vào miếng tín phù[21], ca ai oán, tiếng hát lay động rừng
cây, tiếng vọng khiến mây ngừng trôi.
Theo Lập
Mạng Toàn Thư, vào đời Minh, Du Đô ở Giang
Tây, học giỏi, nhưng nhà nghèo, dạy học, năm
đứa con trai chết yểu mất bốn. Một
đứa con c̣n sót lại th́ dưới
bàn chân trái có hai nốt ruồi, cực thông minh, tuấn tú,
bị thất lạc. Con gái bốn đứa chết
yểu mất ba. Vợ khóc thương con cái, hai mắt
ḷa hẳn. Du Đô tự xét ḿnh chẳng phạm lỗi lớn
lao nào mà bị trời phạt thê thảm. Mỗi dịp cuối
năm đều dâng sớ cầu đảo ông Táo. Đến
đêm Trừ Tịch[22] năm bốn
mươi bảy tuổi, một cụ già đội
khăn xéo, mặc áo dài đen đến hỏi: “Nghe ông buồn
rầu than thở nên muốn đến an ủi”. Du
Đô kể lại mạng vận trắc trở, đọc
sớ, vừa đọc vừa rơi nước mắt.
Ông cụ nói:
- Tôi đă sớm biết
rồi. Ông phóng sanh nhưng quả thật không có tâm từ
bi, v́ người khác mà làm cho xong chuyện đó thôi! Tôm cua
thường vào bếp nhà ông, tội lỗi nơi miệng
càng nhiều hơn, cơi Âm ghi chép rành rành. Tuy không tà dâm,
nhưng thấy sắc tâm động, chỉ không có tà
duyên tụ hội mà thôi. Thượng Đế xem sớ,
xét thấy ông trọn chẳng có điều lành thật sự
nào đáng để ghi chép, mà ư niệm tham dâm, ghen ghét, ư niệm
nghĩ ḿnh cao quư, khinh rẻ kẻ khác, ư niệm báo ân, trả
thù, chư thần ghi chép ngày càng nhiều. Trốn họa
c̣n chẳng xuể, huống là cầu phước ư?
Du Đô khiếp phục
nói:
- Ngài đă thông hiểu
chuyện u huyền, xin rủ ḷng cứu độ.
Ông cụ nói:
- Từ nay trở
đi hăy trừ tuyệt ác niệm, làm lành, chẳng cầu
danh, chẳng cầu báo, chẳng so đo lớn, nhỏ,
khó, dễ, cứ thật tâm làm. Dẫu sức không kham nổi
th́ cũng tán thán, tùy hỷ, khiến cho thiện niệm
viên măn, lâu dần sẽ tự ứng nghiệm.
Ông cụ đứng dậy
đi xuống bếp rồi biến mất, mới biết
ông cụ chính là thần Tư Mạng (Táo Quân)[23]. Do vậy, [Du Đô] đặt biệt
hiệu là Tịnh Ư, trừ lỗi, hướng lành, đối
trước Quán Âm Đại Sĩ khấu đầu đến
nỗi chảy máu, phát thệ cầu thiện niệm chân thật,
tinh thuần, mỗi sáng tụng danh hiệu Đại Bi một
trăm lần để mong ngầm che chở. Mỗi lời
nói, mỗi hành động chẳng dám dối trá, phóng túng,
hết thảy chuyện giúp người lợi vật, bất
luận là chuyện lớn hay bé, thân nhàn hay bận, người
khác biết hay không, có đủ tài lực hay không đều
hoan hỷ hành tŕ, thành tựu cặn kẽ. Hễ gặp
người khác đều khuyên chỉ, chỉ lo thời
gian không đủ. Ba năm như thế, được
Tể Tướng Trương Cư Chánh[24] mời về đứng đầu các
gia sư, thi đỗ Tiến Sĩ. Từ nhà của
Dương Nội Giám, gặp gỡ con trai, dẫn về
báo với vợ. Vợ ôm con khóc ṛng, con liếm mắt mẹ,
hai mắt liền sáng lại. Do vậy,
ông soạn bài văn Ngộ Táo Thần Kư để răn
dạy con cháu.
(5)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Minh, sư Châu Lư tự là Triệt Dung, nói năng ngắc
ngứ, lắp bắp chẳng rơ ràng. Do vậy, lễ tụng
Quán Âm ba năm, mộng thấy người áo trắng vào
nhà, trao cho ba viên thuốc bảo nuốt. Từ đấy,
ăn nói lưu loát.
Lại nữa,
vào đời Minh, Đổng Già hâm mộ Thiền tông từ
bé, tŕ chú Đại Bi, cảm Quán Âm thí pháp, ngộ
được diện mục sẵn có trước khi cha
mẹ sanh ra.
(6) Theo Từ
Lâm Tập, đầu đời Thanh, ni sư Đẳng
Linh chuyên tu Tịnh Độ, sáng tối lễ tụng
danh hiệu Đại Sĩ chẳng ngớt miệng. Giữa
đêm, chợt cảm thấy trong tay có vật ǵ, bỏ
vào miệng rồi th́ trong nắm tay vẫn c̣n ba viên khác nữa
đỏ như châu sa. Từ đó, tuyệt thực, trọn
chẳng đói khát, mà thân thể vẫn b́nh thường,
tinh thần khỏe khoắn.
Lăng
Nghiêm Kinh: “Kiên cố phục
nhĩ nhi bất hưu tức, thực đạo viên
thành, danh Địa Hành Tiên” (Kiên cố ăn nuốt thuốc
tiên không ngưng nghỉ, không cần ăn uống th́ gọi là Địa Hành Tiên).[25]
Theo
Cao Tăng Truyện, tập Ba, sư Sùng Huệ là người
Hàng Châu, là đệ tử của ngài Kính Sơn Khâm, chuyên
tụng chú Phật Đảnh,
có vị thần bảo: “Phật pháp ở kinh đô bị
ngoại giáo lấn hiếp, đợi Sư đến giải
cứu”. Ngài Sùng Huệ sang miền Tây, cùng với đạo
sĩ Sử Hoa đi chân trần leo lên thang kết bằng
đao nhọn, lại đi vào lửa mạnh, thọc tay
vào dầu sôi, ăn lá sắt. Sử Hoa hoảng sợ bỏ
trốn. Theo [những bài viết về] hành trạng của
ngài Kính Sơn th́ ngài Sùng Huệ tụng chú Câu Chi Quán Âm[26] ở chỗ ngài Kính Sơn Khâm, tụng
chú vào tấm b́nh phong bằng đá, b́nh phong bèn vỡ làm ba
mảnh.
(7) Theo lời Bạt của sách
Kim Cang Giải Nghĩa, trong niên hiệu Khang Hy đời
Thanh, Mă Khởi Chinh tính mời những người cùng chí
hướng khắc kinh Kim Cang. Đêm mộng thấy Bạch
Y Đại Sĩ hiện kim thân, La Hán vây quanh chừng
như đang tiếp dẫn. Sáng hôm sau, Trương Đạo
Nguyên đến bảo: “Hôm qua mộng thấy cùng với
ông đến một ngôi chùa cổ, thấy lực sĩ
khiêng một cái khăn trùm đầu màu vàng, hương
hoa xúm xít vây quanh, giữa khăn đặt kinh văn bằng
chữ Phạn. Vị Phạm tăng bảo: ‘Các ông có
đại nhân duyên, nay mới gặp gỡ”. Khởi Chinh
nêu ư nguyện muốn rủ ông Trương cùng in kinh, ông
Trương mới biết nguyên do v́ sao có giấc mộng
ấy.
Trong lời
tựa sách Cảm Ứng Thiên, ông Tiền Dưỡng Thứ
đời Minh viết: “Tôi lễ
ngài Vân Thê, ngoài thời khóa Tịnh Độ, thầy c̣n dạy
phụng tŕ Cảm Ứng Thiên. Đau đáu nghĩ
đang thời sóng gió, đạo tặc, sách này hết sức
linh dị. Vu Nguyên Lư cùng tôi theo học với ngài Vân Thê,
được quả báo cũng giống như thế, muốn
hợp sức khắc ván để lưu thông, nghe ông Mạo
ở Quảng Lăng có bản hoàn chỉnh, khổ rằng
chưa thể sang đấy được. Ông Vu bèn đốt
hương đối trước Đại Sĩ, đảnh
lễ, khẩn cầu. Hơn mười ngày sau, bên Quảng
Lăng gởi sách đến. Tính ra hôm ông Mạo sửa chữa
bản sách nhằm đúng hôm ông Vu đảnh lễ. Sao mà
Đại Sĩ linh cảm đến như thế ấy!”
(8) Theo
Duyệt Vy Thảo Đường Bút Kư: “Đại Học Sĩ Ngũ Di Thái đời Thanh
kể: ‘Trước kia ở tại Tây Tạng, tôi thấy
trên đá nơi vách núi cheo leo trong ngơ cụt có bài chú Đại
Bi của đức Quán Âm bằng chữ Phạn do thiên
nhiên tạo thành, chữ nào chữ nấy phân minh. Sức
người chẳng thể làm được, mà cũng
chẳng t́m được dấu tích của ai’. Ông ta là
người suốt đời không nói dối”.
Theo Linh Cảm
Phú, Trúc Lư Lăo Nhân Hà Nhị Như thường tụng chú
Đại Bi, con gái và đầy tớ cùng mộng thấy
trên đỉnh đầu cha phóng quang. Trong quang minh có
người râu đỏ và cô gái xơa tóc, bảo hăy cùng ngồi
lên lưng sư tử đi gặp Phật, nói: “Cha
ngươi chưa biết ấn quyết, ngươi hăy
truyền lại: Tụng chú th́ chắp hai tay lại, hai ngón
cái đan vào nhau, ngón cái bên phải bấm
vào gốc ngón trỏ bên trái, ngón cái bên trái th́ áp lên đốt
ngón trỏ bên phải. Đó gọi là Đại Bi Ấn.
Tụng chú đến chữ Sa-bà-ha lần thứ nhất
th́ ngón út từ từ tách ra. Từ đó trở
đi, mỗi khi tụng đến chữ Sa-bà-ha th́ lần
lượt ngón vô danh (ngón đeo nhẫn), ngón giữa, ngón
trỏ từ từ tách ra. Đến câu chú kết thúc là “nam-mô hát-ra-đát-na” th́ tréo hai
ngón giữa lại, co ngón giữa bên phải gác lên mép ngoài
ngón giữa bên trái, ngón giữa bên trái áp lên mép trong ngón giữa
bên phải. Tụng đến câu “nam-mô A-rị-da” hai ngón giữa giao nhau, co ngón giữa
bên phải gác lên mép ngoài ngón giữa bên trái, ngón giữa bên
trái áp lên mép trong ngón giữa bên phải. Tụng đến
câu “sa-bà-ha kiết-đế”
hai tay chắp chặt lại như lúc ban đầu. Đấy
là ấn quyết Đại Bi”.
(9) Theo Phổ
Đà Chí, Thanh Thánh Tổ (Khang Hy) tuần du phương
Nam, Tổng Binh Hoàng Đại đến nghênh giá. Ban
đêm đang ngủ, kêu ầm lên: “Bồ Tát trở lại!”
Ngày hôm sau tâu xin vua tu bổ hai chùa.
Theo Phổ
Đà Chí, trong tháng Bảy năm Long Hưng nguyên niên (1163)
đời Tống Hiếu Tông, vua mộng thấy đến
chơi Phổ Đà, được điềm lạ, bèn
ngự chế bài Quán Thế Âm Bồ Tát Tán.
(10) Theo
Nam Hải Từ Hàng, trong niên hiệu Gia Tĩnh (1522-1566) đời
Minh, Kinh Vương mộng thấy có người bảo:
“Vá áo xiêm ta th́ ta sẽ ban cho vương con cháu”.
Vương hỏi: “Ngài là ai?” Đáp: “Căng mắt sẽ
thấy, nghiêng tai sẽ nghe, hăy tự biết lấy”.
Vương tỉnh giấc, ngơ ngác. Một hôm, nh́n thấy
tượng Quán Âm, vương đột nhiên vỡ lẽ
nói: “Căng mắt nh́n là Quán, nghiêng tai nghe là Âm”. Cạnh phủ
có Quán Âm Các, vương đến xem, rường mái
đă nghiêng ngửa, mục nát, tượng đắp
đă long lở, liền dốc sức sai người sửa
chữa, khắc bia để ghi lại sự kiện.
Lại nữa,
trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722) đời Thanh, vị
Tăng ở am Bảo Xứng là Huệ Như nhân thấy
tượng Đại Sĩ hư hoại, đi quyên mộ,
hơn cả tháng không ai cúng dường. Một đêm, Sư
lén đặt tượng [Đại Sĩ] ở cửa
nhà quan Trung Thừa Vương Nghiễm Trai. Viên phu nhân mộng
thấy một cô gái áo trắng nói từ Phổ Đà
đến xin một chiếc áo. Tỉnh dậy, bà kể
lại với quan Trung Thừa th́ ông cũng mộng thấy
giống hệt như vậy. Sáng, ra nghe người gác cửa
báo tượng Đại Sĩ ở ngoài cửa bèn thắp
hương tạ tội, gọi Tăng đến tạc
tượng mới, đưa sang Phổ
Đà.
(11)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Tùy, Ngạn
Tông ở trong dinh của Tần
Vương, mộng thấy người to lớn sắc
vàng cao tới ba trượng, cầm chén lưu ly trao cho. Về
sau, Thái Vương sai vẽ tượng Quán Âm, thân lượng
được vẽ giống hệt như trong giấc mộng
khi trước.
Theo Linh Cảm
Phú, đời Tống, Giác Phạm Hồng mộng thấy
một vị Tăng dẫn vào trong nhà, trên vách có h́nh tượng
của Bảo Công Bồ Tát (tức tượng ngài Bảo
Chí Thiền Sư), chợt rụng vào tay ḿnh, hóa thành Quán Âm
mười một mặt. Giác Phạm kinh dị. Ngày hôm ấy,
vị Tăng ở Nam Châu là Đức Phùng mời thợ
khéo vẽ tượng Quán Âm, gởi thư đến xin
ngài Giác Phạm viết bài tán. Do vậy, Sư hết sức
cảm thán.
(12) Đời
Minh, vị Tăng ở chùa Bảo Nghiêm tại Ninh Ba mộng
thấy tượng Quán Âm bằng đồng trong điện
thờ nói: “Ta mắc nạn, hăy mau cứu”. Thức dậy
nh́n xem th́ tượng đă bị trộm mất, đuổi
theo ba dặm, kẻ cướp sắp hủy tượng.
Kẻ cướp sợ hăi, tan chạy, bèn thỉnh tượng
về.
Theo Xuy Ảnh
Biên, trên trán tượng Đại Sĩ ở hậu
điện Đại Đức Vạn Thọ Tự có gắn
viên bảo thạch màu đỏ, đường kính một
tấc. Đầu thời Càn Long (1736-1795) nhà Thanh, có kẻ
cắp đến ăn trộm, đă cạy ra rồi. Vị
Tăng tên Đại Vân vừa mới ngồi Thiền, bị
nhức đầu, chợt thấy thần hộ pháp dùng
xử đánh vào trán, ḷng biết là có chuyện lạ,
đứng dậy lên điện xem, bọn cắp bỏ
trốn. Đến nay viên đá báu vẫn c̣n nguyên, chỉ
hơi khuyết một góc, tức là dấu vết bị
cạy vậy.
(13) Theo
Linh Nghiệm Kư, đời Tống, Châu Thế Hanh phát nguyện
chép hai trăm quyển kinh Quán Âm để thí cho người
khác tŕ tụng, đem tiền và gạo đưa cho
người thợ làm giấy họ Giang, cậy ông ta chế
giấy chép kinh. Ông thợ làm giấy họ Giang bèn ra chợ
mua giấy [chứ không chịu làm giấy], đến khi
lấy giấy ra th́ mỗi một xấp giấy đều
bị cắt nát thành sáu bảy đoạn, kinh sợ, quay
về, cấp tốc làm giấy giao cho ông Châu.
Theo Phổ
Đà Chí, trong điện Đại Hùng chùa Pháp Vũ có một
bức tượng Quán Âm bằng sắt. Đầu bức
tượng ấy chính là đầu tượng Phật
đă phóng quang ở băi cát Thiên Bộ. Vũ Vân Sơn ở
Giang Nam chở đầu ấy sang Kim Lăng, quyên mộ
đúc kim thân, có người đưa giùm cái nồi của
người hàng xóm đến cúng, ông ta
tham cái nồi ấy bèn đem cái nồi đă thủng thế
vào. Đến đêm, mộng thấy thần kim giáp
đến đ̣i nồi, tỉnh dậy liền ngă bệnh,
bèn trả lại nồi, sám hối th́ mới lành bệnh.
(14) Theo
Tiễn Đăng Dư Thoại, đời Nguyên, Thôi Anh
dẫn vợ là Vương Thị sang Vĩnh Gia nhậm
chức Thái Úy. Cùng nhau uống rượu trong thuyền,
đồ uống rượu toàn bằng vàng bạc. Phu
thuyền d́m ông Anh xuống nước, giết bọn nữ
tỳ, đầy tớ, chừa Vương Thị lại,
toan giao cho con trai lấy làm vợ. Vương Thị ẩn
nhẫn, gặp tiết Trung Thu, bọn cướp đều
say mèm, bèn lên bờ, trốn vào ni am xuất gia, pháp danh là Huệ
Viên, hằng ngày lễ Đại Sĩ, thầm khấn những
điều ẩn kín trong ḷng. Ngẫu nhiên thấy một
bức tranh cuộn vẽ hoa sen, biết là do Thôi Anh vẽ.
Do vậy, bèn viết một bài từ theo điệu Lâm
Giang Tiên[27] [trên
bức vẽ], trong đó có câu: “Tố
b́nh tịch mịch bạn khô thiền, kim sanh duyên dĩ
đoạn, nguyện kết tái sanh duyên” (Bên b́nh phong
trơ trụi, tịch mịch chốn cửa thiền, sống
khô héo tháng ngày, đời này duyên đành dứt, kiếp
sau nguyền nối duyên). Về sau, bức tranh ấy được
bán cho nhà quan Thị Ngự Cao Nạp Lân. Thôi Anh từ bé
đă tập bơi lội nên chưa chết, do viết chữ
thuê để kiếm sống mà gặp gỡ ông Cao,
được ông mời làm gia sư. Vào trong dinh, thấy
bức b́nh[28] hoa sen và lời đề từ, liền
khóc lóc kể với ông Cao. Ông bảo phu nhân sai người
đón Huệ Viên đến, ngầm hỏi ḍ biết tấm
b́nh phong do thuyền phu là Cố A Tú tặng cho ni am, bèn vây bắt,
xử theo đúng luật lệ, trả tài sản lại
cho Thôi Anh. Đưa Vương Thị ra, vợ chồng
ôm nhau khóc lóc. Ông Cao tặng cho họ nô tỳ, đưa
đến nhiệm sở. Vương Thị cảm kích
Đại Sĩ ngầm che chở, ăn chay trường,
tŕ Quán Âm Kinh đến khi mất.
Theo Dị
Đàm Khả Tín Lục, Triệu Thiên Tước khi làm huyện
lệnh ở Cú Dung, đêm ngủ trong ṭa cổ miếu, mộng
thấy bà lăo mặt đóng bụi, bảo: “Vạn Lam chẹn
họng ta, hăy mau cứu ta”. Giật ḿnh tỉnh dậy th́
dường như c̣n thấy thấp thoáng. Sáng hôm sau thấy
tượng Quán Âm giống hệt như người trong
mộng. Hỏi nhà sư: “Ở nơi đây có Vạn Lam
hay không?” Sư đáp: “Nhà Vạn Lam ở đằng trước”.
Gọi Vạn Lam tới hỏi: “Nhà của ngươi là
do tổ tiên để lại ư?” Đáp: “Nhà tôi vốn nằm
trên đường ra vào Quán Âm Đường, nhà sư
bán cho tôi”. Ông Triệu bèn chuộc về, lại sửa chữa.
Về sau, phu nhân mộng thấy một bà cụ ẵm
đứa trẻ trao cho, liền sanh được con.
(15) Theo
Huyền Tháp Biên, có thương nhân thấy tượng
Quán Âm ở Bạch Y Am tại Ngô Huyện bị mưa dột,
hư hoại, bèn bỏ tiền thếp vàng tu bổ.
Tăng nhân liếc thấy ông ta lắm vàng, liền phục
rượu say, sắp sửa giết, thương nhân ai
oán kêu cầu, bèn giam trong mật thất, bức bách thương
nhân tự thắt cổ. Khi ấy, tuần cảnh thấy
có cô gái áo trắng bước vào chùa, liền theo ŕnh, thấy
cô bước vào căn pḥng ngầm, tuần cảnh ập
vào th́ thương nhân đă bị thắt cổ gần chết,
bèn cởi trói cho thương nhân, trói tăng lại, chẳng
thấy cô gái đâu, mới biết là Đại Sĩ hóa
thân nhằm dẫn tuần cảnh giải cứu
thương nhân vậy.
Lại nữa,
tại Giang Thượng thuộc thôn Xa Cứu (huyện
Dư Diêu, tỉnh Chiết Giang), có Tăng nhân quyên mộ
tu bổ Đại Sĩ Viện. Thương nhân đi
qua đó thí tiền, Tăng liếc trộm thấy ông ta
giàu có, bắt giữ, tính giết. Thương nhân xin tự
thắt cổ chết, Tăng bèn chấp thuận. Cách
Giang Thượng mấy dặm, có thuyền lính, một cô
gái áo trắng lên thuyền nói: “Xin chở tôi đến Quán
Âm Viện sẽ hậu tạ nhiều vàng”. Họ chở
đến chùa th́ thương nhân mới vừa tự thắt
cổ, mọi người bắt giữ gă cướp, thả
thương nhân, [thương nhân] bèn đền tạ [các
binh sĩ] đúng như lời cô gái nói.
Theo Hàng
Trung Phàm, trong thời Vạn Lịch nhà Minh, Tiêu X... ở
Giang Âm đi nhận nhiệm sở, có ông Tăng người
đất Sở (Hồ Nam) quyên mộ được sáu
trăm lạng vàng, đem qua Phổ Đà dựng chùa, ngồi
ké trên thuyền xuôi Nam. Một đêm gió dữ, ông Tiêu xô vị
Tăng xuống sông, đoạt vàng. Đến sáng, chợt
thấy Tăng từ dưới nước ngoi lên đ̣i
mạng và vàng. Họ Tiêu kinh hoàng, ngă bệnh, trở về
nhà mời tăng và đạo sĩ đến cúng bái, giải
hạn, nhưng Tăng chỉ hô “đền mạng ta và
vàng để ta đi Nam Hải”. Sư từ trong vách
bước ra, chiếm giường, quấy nhiễu không
ngừng. Một bữa, người nhà hoảng hốt
kêu: “Vị Tăng lại đến”. Họ Tiêu nghe nói, thẹn
thùng muốn tự sát, nhưng Tăng đă đến
trước giường, nói: “Ta là người, chẳng
phải là quỷ. Năm ngoái té xuống nước, chợt
thấy Quán Âm Bồ Tát từ trên hư không giáng xuống,
cầm một ngọn đèn dẫn vào đám lau lách, gặp
thuyền chài được cứu. Nay lại quyên mộ
được vàng đến Phổ Đà hoàn nguyện.
Qua đây, nghe nói ông mắc bệnh lạ nên đặc biệt
đến đây giải trừ mối nghi con rắn trong
chén”.[29] Cả
nhà sụp lạy, vị Tăng đi rồi, h́nh quỷ
cũng mất tăm, nhưng rốt cuộc họ Tiều
vẫn chết. Một đứa con của ông ta đang nổi
danh văn chương chợt nhảy xuống sông chết.
Vị Tăng từ Nam Hải trở về, lại đến
thăm, than thở không ngớt.
(16) Theo
Quảng Dị Kư, đời Đường, sư Đạo
Hiến do được quan Thứ Sử nhờ vẽ bảy
bức tranh Quán Âm, bèn bảo họa sĩ trước hết
hăy giữ trai giới, dùng Nhũ Đầu Hương[30] thay cho chất keo, sắp đặt cực
trang nghiêm. Về sau, Đạo Hiến qua sông bị té xuống
nước, vội niệm Quán Âm, thấy dưới
đáy nước có ánh sáng lạ, bảy vị Bồ Tát
đă vẽ đứng xung quanh, bảo Sư rằng: “Chỉ
niệm A Di Đà Phật”. Đạo Hiến vội vàng
niệm, bảy vị Bồ Tát cùng tới đỡ chân,
Sư liền trồi khỏi nước, đi hơn bốn
mươi dặm, lên được bờ.
Theo Linh Cảm
Phú, Dương Duy Tân ở Tú Thủy tŕ thần chú của
Đại Sĩ đă lâu, lên thuyền bị
té xuống nước, dưới chân trổ hoa sen, nhờ
đó chẳng chết ch́m.
(17)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Một, đời Tấn,
sư Đạo Uông theo Lô Sơn Viễn Công xuất gia,
đi qua Lương Châu, bị người Khương vây bắt, rơi mất y bát. Đạo
Uông cùng mấy người đệ tử cùng niệm
danh hiệu Quán Âm. Trong khoảnh khắc như có mây mù che
khắp thân nhóm ngài Đạo Uông, bọn giặc t́m không thấy
nên họ được thoát nạn.
Trong
đời Đường, Lô Nguyên Lễ bị bệnh,
chết đi rồi tỉnh lại, nói: “Thấy một
trăm cái ḷ, hơi nóng bốc lên nghi ngút, mấy ngàn vạn
người ở trong lồng nướng, bèn niệm Cứu
Khổ Quán Âm, nguyện đem thân chịu thay cho họ, rồi
cởi áo, nhảy vào lửa. Chợt có vị Tăng kéo
ra, đưa về”.
(18) Theo
Đồng Sanh Lục, đầu đời Minh, Quan Đế
giáng bút như sau: “Ta quy y Phổ
Môn Đại Sĩ cùng với Vi Đà tôn giả hộ tŕ
chánh pháp. Kẻ tế ta đừng dùng rượu thịt”.
Theo Quán Cảm
Lục, đời Thanh, viên nha lại ở Vô Tích là
Vương X... trong niên hiệu Thuận Trị (1643-1661) do
chuyện Tiền Cốc mà bị giam vào ngục chết ở
Bắc Đô. Về sau, Kim Hán Quang từ kinh đô quay về,
trong thuyền nghe có tiếng người hô: “Chở giùm
đi, ta là Vương X... đây, oán quỷ đấy! Xin
cho ta ở nhờ góc thuyền để theo về
(19) Theo
Linh Cảm Phú, đời Tống, sư Nguyên Thản trụ
tại chùa Hưng Giáo ở Tuyên Châu làm Thủ Ṭa. Hoài Thiền
Sư muốn cử Nguyên Thản làm Trụ Tŕ, nhưng sợ
Thái Thú Điêu Cảnh Thuần dị nghị, bèn cầu
Quán Âm báo mộng cho họ Điêu. Quả nhiên, ông Điêu mộng
thấy có con trâu lên ṭa, bèn hỏi Hoài Thiền Sư [th́ ra]
Nguyên Thản họ Ngưu, do vậy, quyết định
cử Sư làm Trụ Tŕ.
Vào đời
Tống, sư Nguyên Đạt qua Thiên Trúc lễ Đại
Sĩ, thấy cô gái áo trắng từ trong chùa đi ra, bảo
với Nguyên Đạt: “Xá Nhân[31] họ Tăng sẽ làm quan Trung Thư,
ông cũng sẽ được tôn làm thầy, ban danh hiệu”.
Về sau, ông Tăng làm Thừa Tướng, c̣n Nguyên Đạt
quả nhiên được ban y ca-sa tía.
(20) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Bốn, vào
đời Thanh, sư Diễn Nghĩa tự là Trạm Tu,
thường tŕ chú Đại Bi, nói là có thể trừ nạn
hổ. Khi ấy, người đất Tương (Hồ
Lại nữa,
sư Trinh Biện trích máu vẽ tượng Quán Âm. Có hai
thiên nữ đến quấy rối, Trinh Biện thề
rằng: “Tâm ta không phải là đá, ta dùng thần chú bắt
ngươi, sao c̣n chẳng đi?” Từ đấy ma trọn
không c̣n tung tích.
(21) Theo
Thương Túc Am Tùy Bút, đời Thanh, vợ của Minh
Phủ Châu Chỉ Tương là Vương Thị, lúc lên
mười thêu tượng Bạch Y Đại Sĩ, sáng
tối đảnh lễ. Sau khi lấy chồng, tặng
tượng cho ni am thờ phụng. Không lâu sau cô ta qua
đời. Chỉ Tương nghe nói đến bức
tượng ấy, hận chưa được thấy.
Về sau, am bị cháy, ni sư đem tượng sang
Ngư Đài, Sơn Đông, ông Tương được
cử đi thi ở kinh đô trở về[32], đi qua Ngư Đài. Tối hôm trước,
ni sư mộng thấy Đại Sĩ nói: “Ta muốn trở
về Giang
Theo Hải
Nam Nhất Chước, trong niên hiệu Đạo Quang nhà
Thanh, Trương X... ở Phù Lương tŕ Quán Âm Trai; gặp
đúng ngày ăn chay, hàng xóm là X... rủ ăn uống, bèn
thắp đèn trước tượng rồi đi. Trở
về, tượng bị cháy sạch, nhưng giấy dán bồi
quanh tượng trọn chẳng có vết lửa nào, biết
là Bồ Tát cảnh tỉnh ông ta đă không kiền thành tŕ
trai.
(22) Theo
Nam Hải Từ Hàng, đời Thanh, Ôn Như Hoàng kính phụng
Đại Sĩ, mỗi năm đều thí kinh. Trong thời
Càn Long, mọi người do thấy lầu Vạn Thọ
bỏ không, tính thờ tượng Đại Sĩ [trên đó].
Ông Hoàng mộng thấy Đại Sĩ nói: “Thờ ta trên
lầu là ư rất hay, nhưng cung ấy được lập
ra chưa đầy mười năm mà đă chôn hai vị
Tăng là v́ h́nh Bát Quái khắc trên cửa đá điên
đảo Âm Dương mà ra”. Nói xong, chợt biến mất.
Tỉnh giấc nh́n th́ quả nhiên h́nh Bát Quái lầm loạn,
bèn xóa đi, rước tượng Đại Sĩ vào.
Theo Linh Cảm
Phú, vào đời Minh nhà họ Tŕnh ở huyện Hiếu
Cảm thờ Quán Âm kiền thành. Hễ có chuyện tốt
lành th́ tượng hiện dáng điệu vui vẻ, hễ
có tang tóc th́ hiện dáng sầu bi. Do vậy, có thể đoán
biết là năm ấy tốt hay xấu.
(23) Theo Dị
Đàm Khả Tín Lục, bà ni ở Sáp Hoa Miếu tại
Thương Châu, vào ngày khánh đản Đại Sĩ,
cúng dường tinh khiết xong, mệt mỏi bèn nằm ngủ,
mộng thấy Đại Sĩ dạy: “Ngoài chùa có bốn
năm người xin ăn không được, hăy giúp họ,
nên dọn cỗ cúng cho họ ăn”. Giật ḿnh tỉnh giấc,
ra xem th́ quả đúng như vậy. Từ đấy, hễ
dọn cỗ cúng xuống bèn thí cho kẻ ăn mày, bảo
là ư của Bồ Tát.
Đời
Minh, pháp sư Tố Am trụ tại chùa Thê Hà ở Kim
Lăng, nhằm năm đói kém hết sạch gạo,
Sư ngồi yên bảy ngày không ăn. Chúng tăng không một
ai rời chỗ. Có họ Hác ở Vu Hồ mộng thấy
Đại Sĩ báo tăng chúng ở Thê Hà đói, bèn cúng một
trăm hộc[33] gạo, nh́n Sư thấy giống hệt
như trong giấc mộng.
(24) Theo Tỳ
Kheo Ni Truyện, ni Tăng Đoan đời Lưu Tống
gia đ́nh nhiều đời thờ Phật, chị em thệ
nguyện xuất gia, nhưng bà xinh đẹp nổi tiếng
trong làng xă, có nhà giàu đă nhờ mai mối xin cưới,
mẹ và anh đă bằng ḷng. Trước hôm đón dâu ba
ngày, Tăng Đoan trốn vào chùa Phật, tụng kinh Quán
Âm, nước mắt đầm đ́a, dập đầu
lạy suốt ngày đêm không nghỉ. Ba hôm sau trong khi lễ
bái, thấy Phật dạy: “Chàng rể của ngươi
đă hết tuổi thọ, ngươi chỉ nên siêng
năng, chuyên ṛng, đừng nặng ḷng lo nghĩ”. Ngày hôm
sau, chàng rể bị trâu húc chết.
Theo Dạ
Đàm Tùy Lục, Mẫn Dự ở Chiết Tây bị
người ta dụ vào quán rượu, bỏ thuốc mê
vào rượu, bèn hôn mê bất tỉnh. Khi tỉnh ra th́
đă bị một mụ ni cô dâm đăng giam cầm, nhưng
không có cách nào thoát ra được. Trong pḥng có thờ tượng
Quán Âm từ trước, Mẫn Dự bèn sáng tối lễ
bái, cầu đảo, mong thoát hầm bẫy. Lại nữa,
trên bàn có cuốn Quán Âm Chú, Mẫn Dự bèn thành tâm tŕ tụng,
trong mộng mị cũng tụng niệm không ngớt. Một
tối vừa mới tụng chú th́ một bà lăo kêu tên, bảo:
“Mau tới đây, ta đưa ngươi về”. Mẫn
Dự khoác áo, đi chân trần theo sau. Bà lăo dùng tay phất
qua cửa, cửa tự mở ra. Trên thân bà lại có ánh
sáng trắng, chiếu rơ như ban ngày. Qua mấy lớp cửa,
hễ vừa đến, cửa liền mở. Đến
tầng cửa cuối cùng, bà lăo bảo hăy mau ra, đừng
ngó lại, vừa muốn nói lời cảm tạ, đă
chẳng thấy tăm tích đâu nữa, mới biết
là Đại Sĩ cứu khổ, liền niệm thánh hiệu
không dứt. Trở về kể với chú, chú khóc bảo:
“Nếu không phải là Đại Sĩ từ bi cảm ứng
th́ ngươi muốn sống há có được
chăng?”
Ghi thêm: Theo Dạ Đàm Tùy Lục,
nhà buôn X... ở Tân An giàu có nhưng dâm đăng, tàn bạo,
có đứa con gái xinh đẹp, thông minh, vào núi hái trà, núp
mưa dưới vách đá. Chợt trong đá có tiếng
nói: “Cha ngươi cưỡng hiếp ô nhục con gái nhà
lành đến chết; âm báo lụy đến
ngươi. Quán Âm Đại Sĩ nghĩ mẹ
ngươi trai giới, tụng kinh mà giải trừ ách nạn
cho ngươi, hăy mau quay về”. Cô đuổi kịp
đám bạn gái, nhưng lũ thiếu niên xấu ác đă
đuổi theo bén gót. Trở về thưa với mẹ,
bà mẹ càng thêm kính tín. Thương nhân trở về, bà vợ
đem chuyện này cảnh tỉnh chồng. Hắn giận
dữ nói: “Nếu có địa ngục, nguyện thân ta sẽ
trải khắp các ngục ḥng mở rộng kiến thức”.
Hơn tháng sau, hắn ngă bệnh, thấy những cô gái
đă bị hắn bức chết dẫn lũ quỷ
đến đ̣i mạng, bèn khóc lóc cầu vợ con tụng
kinh sám hối. Nói chưa dứt, chợt kêu to: “Ta đi” rồi
chết!
1.
Như Vô Kiệt cầu kinh, sư tử bảo vệ.
Nguyên Khang đắc huệ, tùy ư cưỡi nai.
2. Thiện
Giác tŕ danh, đạo cao, hổ phục. Pháp Hồng phạm
pháp, buồn cảm cỡi trâu.
3. Trước
chùa Bạch Tước, nai đến làm lễ. Bên am Liên
Hoa, cá chép kính mừng.
4. Nghỉ
trong núi, vẹt lượn lưng trời. Đoạt kinh
văn, cá to ngăn lối.
5. Trứng
gà trong bếp vua, từng nghe có tiếng kêu rên. Tuyết Nương
trong điện vàng, cũng tha thiết nguyện
quy y. Tuy nói mỗi loài đều có tánh linh, nhưng Phật
không ǵ chẳng độ (Đoạn này
ca tụng sự kiện cảm ứng loài vật).
(1) Theo
Cao Tăng Truyện, tập Một,
đầu thời Nguyên Gia nhà Tống, ngài Đàm Vô Kiệt
(Dharmodgata)[34] và hai mươi mấy đồ đệ đến nước Phật
cầu kinh, trải đủ mọi thứ hiểm nạn.
Đến được Thiên Trúc th́ giữa đường
gặp một bầy voi núi. Đàm Vô Kiệt niệm danh
hiệu Quán Âm, có sư tử từ trong rừng xông ra,
lũ voi chạy tan tác. Lại có lũ trâu quái dị rống
lên chạy ùa tới, toan làm hại, ngài Đàm Vô Kiệt
xưng danh như cũ, chợt có một con kên kên to bay tới,
lũ trâu kinh sợ, chạy tứ tán, nên thoát nạn.
Chép thêm: Theo Tỳ Kheo Ni Truyện,
vào đời Tấn, ni Minh Cảm thoạt đầu bị
giặc bắt, thề chẳng chịu nhục, càng phải
hứng chịu đủ nỗi khổ sở. Về sau,
gặp một tỳ-kheo dạy kinh Quán Âm bèn tập tụng,
ngày đêm không nghỉ. Trốn đi, không biết
đường, đi vào núi sâu, có hổ dẫn đường.
Sau mười ngày đến được Thanh Châu. Sắp
vào thôn, liền chẳng thấy hổ đâu nữa.
Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời
Đường, sư Nguyên Khang thường niệm Quán
Âm, cầu tăng huệ giải, cảm được một
con nai, sừng chia tám nhánh, h́nh dáng hết sức kỳ lạ.
Nguyên Khang vỗ về, nai liền vâng phục, bèn nuôi
dưỡng. Cưỡi đến nơi xa, nai chẳng lộ
vẻ mệt nhọc.
(2)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, vào đời Đường,
tướng quốc Bùi Hưu đến thăm sư Thiện
Giác ở Hoa Lâm, hỏi Sư có thị giả hay chăng? Sư nói: “Hai đứa”, rồi
gọi “Đại Không, Tiểu Không”, hai con hổ từ
sau am chạy ra. Bùi Hưu kinh hoàng, Sư bảo: “Hễ có
khách th́ tránh đi”, hổ gầm gừ bỏ đi. Bùi
Hưu hỏi: “Làm cách nào để cảm được
như thế?” Sư nâng xâu chuỗi, bảo: “Chỉ niệm
Quán Thế Âm”. Lại nữa, sách Đại Tạng Trực
Chỉ gọi Sư là Phục Hổ Thiền Sư.
Về
chuyện của sư Pháp Hồng đời Tấn trong
Cao Tăng Truyện, tập Một, xin xem lời chú thích
trong đoạn tư của phần “thoát hành h́nh”. Khi ấy,
Sư sắp bị hành h́nh th́ trâu chạy quàng khiến xe bị
hư, do vậy bèn được tha.
Theo U Minh
Lục, vào thời Nguyên Gia nhà Tống, Thứ Sử Ích
Châu là Cát Hàn thường cưỡi một con trâu xanh.
Đến khi ông mắc bệnh nhiều ngày, trâu cũng
không ăn. Khi ông mất, trâu chảy nước mắt
đầm đ́a.
(3) Theo
Quái Viên, chùa Bạch Tước ở Ngô Hưng
tương truyền là do Lư Thân[35] đời Đường xây. Hiện
thời đạo tràng hưng thịnh trở lại,
nhang đèn trỗi hơn các nơi khác. Trước điện
Quán Âm thường có hổ đến nằm phục, chẳng
làm hại ai, nhưng người ta thường kinh sợ,
hổ bèn bỏ đi. Từ đấy có con nai đến
làm lễ, tợ hồ do hổ sai đến.
Theo Hải
Nam Nhất Chước, ngoài cửa Đông huyện Quảng
Phong có Liên Hoa Am. Mỗi năm, nhằm ngày khánh đản
Đại Sĩ trong tháng Hai, nước mùa Xuân dâng tràn, ắt
có con cá chép to dẫn lũ cá chép bé, ngược ḍng đến
ở trước am. V́ thế, từ lâu đă có lời
đồn rằng chúng đến triều bái Đại
Sĩ. Cá chép to triều bái xong, đột nhiên không thấy
nữa. Nếu thôn dân đánh bắt cá chép nhỏ th́ sẽ
lập tức ngă bệnh.
(4) Theo
Thiên Trúc Chí, ngày Mười Chín tháng Hai là ngày Khánh Đản
Đại Sĩ, những người xa gần trai giới
theo đúng kỳ hạn về núi chắc cũng phải đông
đến ức vạn người. Trong điện thờ
chẳng thể chứa nổi, họ đều ngồi
ngoài trời chờ sáng, nên gọi là Túc Sơn. Trong dịp
Khánh Đản năm Giáp Dần (1554) thời Gia Tĩnh
nhà Minh, trăng sao sáng ngời, chợt thấy con vẹt
(két) trắng từ trong điện bay ra, lượn quanh
trên không trung. Muôn người nh́n không chớp mắt. Tiếng
khen ngợi, niệm Phật náo động cả khu rừng.
Biến hiện như thế mấy lần.
Theo Phổ
Đà Chí, trong thời Thuận Trị nhà Thanh, tên cướp
biển Nguyễn Tuấn cùng bọn giặc lùn (cướp
biển Nhật Bản) toan cướp tạng kinh của
chùa Phổ Đà. Vị Tăng tên Chiếu Trung suất
lănh mấy trăm người đến Châu Sơn xót xa cầu
xin không ngừng. Nguyễn Tuấn giận dữ nói: “Các
ngươi muốn lấy lại kinh th́ hăy xin từ
nơi long cung, thủy phủ”. [Bọn hắn] giong buồm
ra ngoài khơi, chợt có con cá to chặn thuyền, thuyền
chẳng đi được suốt mấy ngày, Nguyễn
Tuấn hối hận, bèn đem kinh trả lại,
chưa đầy nửa ngày đă đến Đạo
Đầu[36], bèn cúng bái rồi đi.
(5) Theo
Tuyên Thất Chí, Đường Kính Tông sùng Phật giáo,
tăng chúng ngày càng đông đảo. Đường
Văn Tông kế vị, có kẻ gièm siểm Phật giáo là
sâu mọt của quốc gia, bèn xuống chiếu cấm
tăng chúng không được giảng nghĩa trong sách Phật.
Lại có kẻ bài xích, xin cấm không được tu tập
[Phật pháp]. Vua xuống chiếu, sắp thi hành, viên quan
trông nom bếp núc là Hội Thượng luộc trứng
gà trong cái đỉnh, chợt nghe trong đỉnh như có
tiếng người nói. Lắng nghe th́ chính là tiếng nhiều
người kêu cầu Quán Thế Âm Bồ Tát. Tâu lên,
Văn Tông xét nghiệm, thấy đúng như vậy, liền
bảo: “Đạo Phật có thể được
như vậy th́ phải ban chiếu cho những tinh xá trong
các quận dựng tượng Quán Âm”.
Theo Minh
Hoàng Tạp Lục, xứ Lănh
1. C̣n
như hủy tượng bị chết ch́m, lửa đốt;
nung chảy kim thân ắt đọa địa ngục.
2. Đổi
đá chuốc lấy quả khổ; thiêu kinh hăm nhập
súc sanh.
3. Ăn
trộm vàng sủa như chó dại; ra khỏi điện
bị rắn độc cắn.
4. Quả
báo rành rành, chẳng nỡ kể trọn.
5. Đấy
chẳng phải là Như Lai gây nhân duyên phiền năo, mà là muốn
khiến hạng Xiển Đề được
an trụ trong chánh pháp. Đây chính là chuyện hoằng pháp
thứ tư của Đại Sĩ vậy
(Phần này ca tụng kèm thêm sự răn đe điều
ác).
(1) Đời
Tống, Trầm Tăng Phú ăn trộm tượng Phật,
tượng Quán Âm nhỏ bằng đồng từ các chùa
tại Sơn Dương để đúc tiền. Sự
việc bị phát giác, hắn bị bắt giải lên kinh
đô. Lên thuyền, liền tự nói: “Lửa đốt”,
kêu gào khó thể chịu đựng được.
Chưa đến kinh đô th́ [thân thể] đă
trương phù, nứt nẻ như bị đốt chết.
Châu Thế
Tông[37] hủy tượng Phật để
đúc tiền. Đại tượng Quán Âm ở Chân Châu
linh thiêng nhất, không ai dám hủy. Thế Tông đích thân cầm
búa bửa ngực tượng. Về sau, ngực vua nát bấy,
lộ cả ngũ tạng rồi chết. Đến thời
Khai Bảo (968-976) nhà Tống, có người chết rồi
sống lại, [kể chuyện] thấy Thế Tông nằm
trong giường sắt, bị ngục tốt cầm búa
bửa tay không ngừng, hỏi loại tiền lưu hành
đời Châu vẫn c̣n hay chăng? Loại tiền ấy
hết rồi th́ [Châu Thế Tông] mới thoát địa ngục.
Tâu lên Tống Thái Tổ, vua truyền trong dân gian hễ có
loại tiền đời Châu th́ phải đem đúc
tượng Phật hết.
Theo Thái
B́nh Quảng Kư, đời Đường, Phó Dịch hủy
tượng Quán Âm bằng đá để
dùng làm ngói – Phùng Thiếu Phủ chết rồi sống lại,
kể Phó Dịch bị tống vào địa ngục. Lại
nữa, Thái Sử Phó Nhân Quân chết đi, báo mộng
cho Tiết Di cũng gọi Phó Dịch là “nê lê nhân” (người trong địa ngục) – mấy
ngày sau chết đột ngột, tướng ác khi chết
chẳng thể kể trọn.
Theo Khuyến
Giới Biên, đời Tống, Vương cư sĩ ở
Giang Âm t́m được một tượng Quán Âm bằng
trầm hương ở dưới nước. Mỗi
năm làm lễ kính mừng hai lần, người trong ấp
đều tham dự. Có huyện lệnh họ
Vương cho người gọi chàng rể (anh này vốn
là nha lại) nhưng anh ta không tới, biết là [chàng rể]
đă đi dự hội, huyện lệnh giận quá,
đem tượng ấy đốt đi, rồi vào chầu
cấp trên, nhưng bị tim đau, thân nứt, ḷi ruột,
về ngang chùa Quán Âm th́ nhảy xuống sông tự tử.
Theo Phổ
Đà Chí, trong thời Khang Hy nhà Thanh, lũ “phiên lông vàng”[38] đến núi, cướp sạch những
thứ như tượng đúc, phan, tràng v.v... đem bán ở
Nhật Bản được hơn hai mươi vạn
lạng vàng. Chúng sắp trở về nước ḿnh th́
trong thuyền bốc lửa, đều bị chết cháy
hay chết ch́m hết sạch.
Lại nữa,
tăng chúng đă dọn vào đất liền, bọn cướp
địa phương bèn nung tượng, cháy lan sang
điện vũ, bọn giặc không thoát ra được,
đều chết cháy.
Lại nữa,
vào đời Minh, có gă Tăng tên Thiên Nhiên ở Hàng Châu, mẹ
là ni sư hóa duyên tạo tượng Đại Sĩ, trong
ḷng tượng đặt các thứ quư báu. Thiên Nhiên đục
lưng tượng ăn trộm vật báu, chợt cầm
đao tự cắt cổ. Đầu đă rơi xuống
vai vẫn nói ŕ rầm: “Ta nhiều đời làm Tăng,
cũng không mắc lỗi lớn lao nào, chẳng ngờ khởi
tâm trộm cắp, tạo nghiệp Vô Gián, nay đọa
địa ngục A Tỳ” rồi chết.
Theo Dẫn
Am Tỏa Ngữ, vào đời Minh, Trần Kinh Sơn tánh
hung bạo, ham cờ bạc. Trong nhà hắn thờ tượng
Đại Sĩ. Hễ thắng bạc th́ hương,
hoa, lễ bái, hễ thua th́ chửi bới vung vít. Một
hôm thua đậm, đem tượng ném vô nhà xí. Đêm Hai
Mươi Bảy tháng Tư năm Sùng Trinh 17 (1644), nhà hắn
bị hỏa hoạn, Kinh Sơn đă chạy ra, chợt
lại chạy vô nhà xí, bị thiêu chết.
Theo Âm Chất
Văn Quảng Nghĩa, đầu thời Khang Hy nhà Thanh,
Đàn Hương rất đắt. Tiệm bán
hương ở Tô Quận mua được một
tượng Đại Sĩ lớn, tính phá ra làm Đàn
Hương sẽ kiếm lời gấp mấy lần. Sắp
hủy tượng th́ một người làm công sợ tội
bèn cực lực ngăn cản. Nhằm lúc đó, chàng rể
của chủ tiệm đến đón vợ, quở mắng:
“Mày là đứa làm công, việc ǵ đến mày?” Cô gái chợt
đau bụng, không thể về nhà chồng được.
Ngay đêm ấy, cửa tiệm bốc cháy, cả nhà chết
sạch. Người làm công do được người
khác mời ép đi nên thoát chết; nhà hàng xóm cũng vô sự.
(2) Theo Hiện Quả Tùy Lục,
chùa Bạch Tước ở Hồ Châu dựng điện
Đại Bi. Phan X... cúng tiền mua đá xây bậc thềm.
Vị Tăng tên Nhược Am mượn đá ấy
để kê nhà cầu. Không lâu sau, Sư chết đi, dựa
vào thân người khác nói: “Ta lầm lẫn, khinh nhờn tảng
đá vốn được dùng để xây thềm
điện Đại Bi nên Diêm phủ dùng đá ấy
đè ta, khổ sở chẳng thể nói nổi! Hăy mau v́
ta cậy đá ấy lên, rửa sạch sẽ để
làm thềm và tụng kinh Phạm Vơng th́ ta mới có thể
thoát khổ”. Làm theo đúng lời, người ấy không
c̣n nói giọng quỷ nữa.
Theo Tích Tự
Biên, thầy tṛ tăng chúng chùa Phổ Môn gồm chín người.
Lũ học tṛ nhận lời [tín chủ] mời đến
làm lễ Diệm Khẩu, liền đốt Tâm Kinh, tro bay
khắp đồng. Một tiểu tăng nghĩ làm
như vậy là sai, nhưng không nói. Đêm mộng thấy
bị bắt xuống Âm Phủ, bảy vị Tăng
đều quỳ, nghe quở mắng rằng: “Các
ngươi thiêu kinh văn bừa băi, sẽ đọa
trong đường súc sanh”. Bảo tiểu tăng rằng:
“Chừa ngươi lại để về báo với mọi
người: Niệm kinh th́ được, chớ nên thiêu
kinh!” Tỉnh giấc th́ mấy hôm sau, bốn ông Tăng bị
tường đè chết, hai ông Tăng chết đuối,
một ông bị ma hại chết.
(3) Theo Quả Báo Văn Kiến Lục,
trong thời Khang Hy nhà Thanh, một bà ni ở Từ Gia Kiều
tích cóp bảy lạng bạc từ tiền mộ duyên
để tặng cho cháu trai cưới vợ, mộng thấy
Đại Sĩ quở: “Ngươi đem tiền bố
thí thanh tịnh để dùng cho tục gia, cơi Âm phạt
ngươi làm chó bảy ngày”. Bà ni tỉnh giấc, kể
lại với người thân. Đang trong lúc nửa tin nửa
ngờ, bỗng bị chó dại cắn. Qua hôm sau, nghe tiếng
trống, tiếng bạt[39], bèn đau đớn ngă lăn ra đất,
miệng sủa như chó, ủng oẳng bảy ngày rồi
chết.
Theo Phổ
Đà Chí, năm Khang Hy 11 (1672) đời Thanh, quân lính đậu
thuyền ở Lạc Già, vào điện Đại Sĩ,
thấy vẫn thanh tịnh như thường lệ. Vừa
ra khỏi cửa, rắn độc ùa tới, há miệng
phun nọc. Lại có chó dữ cả bầy xúm lại cắn,
tử thương vô số. Xét ra, lúc ấy tăng chúng
đă dời hết vào đất liền, cả núi không
có một tăng nhân nào, những gă lính ấy ắt đă
làm những chuyện như hủy hoại
kinh tượng v.v...
(5)
Trong Niết Bàn Kinh, Ca Diếp
Bồ Tát bạch Phật: “Bồ
Tát thị chúng sanh, đồng ư tử tưởng, vân
hà Như Lai đoạn tuyệt Bà La Môn mạng, hà cố
thuyết Đề Bà Đạt Đa si nhân vô tu, linh bỉ
sanh sân, xuất Phật thân huyết, Như Lai phục kư
đương đọa địa ngục, nhất kiếp
thọ tội” (Bồ Tát coi chúng sanh giống như con,
cớ sao Như Lai dứt mạng Bà La Môn, v́ sao nói Đề
Bà Đạt Đa là gă si không biết hổ thẹn khiến
ông ta nổi sân, làm thân Phật chảy máu, Như Lai lại
huyền kư ông ta sẽ đọa địa ngục, chịu
tội một kiếp). Phật dạy: “Giả linh thủy vi can tướng, hỏa vi lănh
tướng, phong vi trụ tướng, Như Lai chung bất
vị chúng sanh tác phiền năo nhân duyên. Bồ Tát vị hộ
chánh pháp, tiên thát chúng sanh. Báng Đại Thừa giả, hoặc
đoạt kỳ mạng, mạng chung đọa A Tỳ
địa ngục, tức ư Đại Thừa kinh
điển, sanh kính tín tâm, sanh Cam Lộ Cổ Như Lai thế
giới”. (Dẫu cho tướng của nước là
khô, tướng của lửa là lạnh, tướng của
gió là đứng yên, Như Lai trọn chẳng gây nhân duyên
phiền năo cho chúng sanh. V́ hộ tŕ chánh pháp mà Bồ Tát
đánh đập chúng sanh. Đối với kẻ báng
Đại Thừa, hoặc đoạt mạng hắn, kẻ
ấy chết đi liền đọa địa ngục
A Tỳ, nếu hắn sanh ḷng tin kính đối với
kinh điển Đại Thừa th́ sẽ sanh về thế
giới của Cam Lộ Cổ Như Lai).
Phật lại nói: “Ngă hóa thân đại lực phục
Khoáng Dă quỷ, dĩ mộc đả hộ pháp quỷ,
thôi dương đầu quỷ linh đọa sơn hạ,
diệc dĩ châm thích tiễn mao quỷ thân, chung bất
linh bỉ quỷ thần hữu diệt một giả, trực
dục linh bỉ an trụ chánh pháp. Cố thị như thị
chủng chủng phương tiện” (Ta hóa thân đại
lực hàng phục quỷ Khoáng Dă, dùng gỗ đánh quỷ
hộ pháp, cũng dùng kim đâm quỷ lông cứng nhọn
như tên, trọn chẳng khiến cho những quỷ thần
ấy bị chết mất, mà thật ra là muốn khiến
cho họ an trụ trong chánh pháp, cho nên thị hiện các thứ
phương tiện như vậy).
2.4.5.
Khơi mở trí huệ
1.
Bèn có thiện nữ xưng danh hiệu Quán Âm, được
chiêm ngưỡng chân thân đức Phật; Nghĩa Tịch
lên đài Văn Thù, chợt cùng Đại Sĩ đồng
thể.
2. Mổ
ngực hiện đầu, Huệ Mục chiếu quang
minh; rạch ức thay tim, Ngạn Luân khởi diệu ngộ.
3. Theo U
Khê tu tập sám pháp, Khán Vân đốn ngộ vô sanh. Chỉ
bức vẽ của Đạo Tử, Cảnh Huyền
đừng ngờ hữu tướng.
4. Bảo
Cung đến học, ngỡ khoảnh khắc thật lâu
dài; Pháp Kinh đổi tên, liền rạng danh khắp ba
đời.
5. Nguyên
Khang cầu trí, được Tông, Thuyết đều
thông; Tiệm Nguyên nghe kinh, biết đạo ĺa sanh tử.
6. Ba
lượt gơ nắp đỉnh, diệu trí hiện tiền;
ngẫu nhiên chạm chấn song, ngộ giải viên văn[40].
7. Hắc
phong thổi thuyền, sân tâm vô duyên cớ khởi lên; que cời
gơ củi, tánh Nghe vốn chẳng trói buộc.
8. Mười
hai mặt đi về nơi đâu, chẳng cho xoay ḿnh; ba
mươi hai tướng tuy đẹp, chẳng mến,
sợ hành tà đạo.
9. Quy Tông khảy ngón tay, đúng
sai trở về tánh Nghe. Nhân Nhạc tu Quán, chợt như
mộng tỉnh.
10. Đêm ṃ mẫm gối, khắp
thân nào giống toàn thân? Tay lần xâu chuỗi, cầu
người chẳng bằng cầu ḿnh.
11. Ễnh ương, giun
đất, giúp ông phát khởi căn cơ; bánh xèo, mạn
đầu, khiến người sâu xa tỉnh ngộ.
12. Trọng Hỷ tự vá áo
nát, mau đắc biện tài; Huệ Tài được trùm
ca-sa, lập tức triệt ngộ.
13. Tách rời tay mắt, Phạm
Am liền đắc thanh lương; chẳng chuyển ư
căn, Hám Sơn chợt quên thân thế.
14. Hải Ninh thất học,
tự biết ngâm thơ; Cốc Thanh tụng kinh, chợt
như quen thuộc.
15. Rót nước từ b́nh
lưu ly, Tử Anh đắc pháp Viên Thông. Trao lư xưa
bằng gỗ, Nhiếp Am sáng bừng tâm địa.
16. Cầm đao mổ xẻ,
Độc Quán gội ân thay xương. Đội tượng
kinh hành, Vân Cốc ngộ duy tâm yếu chỉ.
17. Xả thân trên biển, Hành
Đồng thông hiểu Phạn âm, gột nhơ bến
sông, Nguyên Sơ chóng biết đường về.
18. Xoa đầu Tuyết Quan,
Thiền Tịnh kiêm tu. Vỗ thân Đại Vân, nhân duyên kiếp
xưa sẵn trọn.
19. Ngoài ra, xoa thân họ
Vương, văn tài nổi trội. Rửa mắt Oánh Sư,
chợt thông Địa Lư. Ấy và v́ Bồ Tát trọn đủ
muôn vàn trang nghiêm, cho nên chúng sanh tùy theo căn cơ
được hưởng lợi ích. Đây chính là chuyện
hoằng pháp thứ năm của Đại Sĩ vậy.
(1) Đối
với chuyện Thỉnh Quán Âm Kinh, xin xem lời chú thứ
tám trong phần Trừ Tà Quái.
Theo Cao
Tăng Truyện, tập Ba, đời
Tống, sư Nghĩa Tịch khi ở chùa Dục
Vương tại Tứ Minh, mộng thấy lên chùa Quốc
Thanh. Phía trên chùa có ṭa trang nghiêm bằng những cái tràng báu,
đề bảng Văn Thù Đài, có lập hàng rào mắt
cáo ngăn cách. Sư muốn vào nhưng không có cách nào. Trong
khoảnh khắc, Quán Âm Đại Sĩ từ trong điện
đường bước ra, gạt bỏ “hành mă” (hàng
rào) đi, bèn khom ḿnh tiếp đón, chợt cảm thấy
thân ḿnh và thân Quán Âm ḥa lẫn với nhau; do vậy, bèn giật
ḿnh tỉnh giấc. Từ đấy, nhạo thuyết biện
tài vô tận. Người ta cho là Sư đă nhập Phổ
Môn Trí. “Hành mă” (行馬) chính là cái hàng rào mắt cáo, tức lan
can vậy.
(2) Pháp
sư Vĩnh Gia Huệ Mục, trong điện thờ Quán
Âm tỏa ánh sáng, tŕ chú nghe mùi hương lạ. Mộng thấy
Bồ Tát dùng tay banh ngực Sư, xuất hiện đầu
Phật to như cái sọt, quang minh chiếu sáng rực. Tỉnh
dậy, Sư đắc trí huệ, thâm nhập Giáo Quán.
Theo Phật
Tổ Thống Kỷ, Thích Ngạn Luân từng bị mắc
bệnh dịch, chữa trị trăm cách không lành, bèn tận
lực niệm thánh hiệu Quán Âm. Sư mộng thấy một
phụ nữ khoét banh lồng ngực Sư, thay quả tim
khác, dùng tay xoa lên, bệnh liền khỏi. Những ǵ
đă xem trước kia không ǵ chẳng nhớ thông suốt,
cất bút liền thành văn chương, nhưng [lời
văn] luôn trang trọng, tao nhă.
(3) Đời
Minh, sư Khán Vân nương theo ngài U Khê, tu Quán Âm Tam Muội
bốn mươi chín ngày, được đại sư
giảng yếu chỉ của pháp tu sám: Một là tác pháp
sám, hai là thủ tướng sám, ba là vô sanh sám. Khán Vân bèn
phát sanh trí huệ to lớn.
Theo
Tăng Bảo Truyện, đời Tống, Cảnh Huyền
hỏi Quán Thiền Sư: “Vô tướng đạo tràng
là như thế nào?” Quán Thiền Sư chỉ vào tượng
Quán Âm trên vách nói: “Đây chính là bức vẽ của Ngô
Đạo Tử[41]”. Cảnh Huyền toan mở miệng,
Quán Thiền Sư chặn ngay: “Đấy chính là hữu
tướng, c̣n vô tướng th́ sao?” Cảnh Huyền lănh ngộ, bèn lễ bái.
(4)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Hai, sư Bảo Cung năm
mười một tuổi theo thầy xuất gia. Thầy
muốn thử thần thái của Bảo Cung nên lấy
kinh Quán Âm ra tụng. Trong đêm đầu tiên có lúc thầy
vừa chỉ [tụng kinh] trong chốc lát mà ngài Bảo
Cung tự nhủ ta đă được nghe kinh này suốt
cả tháng.
Theo
Cao Tăng Truyện, tập Hai, đời Đường,
Thích Phổ Minh vốn có tên là
Pháp Kinh, theo ngài Trí Giả trụ tại Đông Lâm, hành Quán
Âm Sám dưới căn gác [thờ h́nh tượng Quán Âm]
do Đào Khản Thụy [tạo lập]. Sư thấy một
vị Tăng bảo: “Tên Pháp Kinh chưa hay, hăy nên đổi
thành Phổ Minh. Tên này sẽ rạng ngời,
chiếu soi khắp ba đời”. Sư tŕnh lên Tổ Trí
Giả, đại sư bảo: “Đấy là lời ngầm
dạy, hăy nên bỏ tên cũ, dùng tên mới”.
(5)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, pháp
sư Nguyên Khang niệm Quán Âm cầu trí huệ. Về sau
Sư thông hiểu sâu xa cả Tông lẫn Giáo.
Theo Truyền
Đăng Lục, đời Đường, sư Tiệm
Nguyên theo hầu thiền sư Đạo Ngô đi viếng
tang. Sư vỗ vào quan tài, nói: “Sống ư? Chết
ư?” Ngài Đạo Ngô nói: “Sống cũng chẳng nói, mà
chết cũng chẳng nói”. Về đến nửa
đường lại hỏi, [ngài Đạo Ngô đáp]:
“Vẫn chẳng nói”, cho đến khi bị đánh cũng
không nói. Ngài Đạo Ngô bảo [Tiệm Nguyên] hăy ra
đi. Ba năm sau, Tiệm Nguyên nghe một bé trai niệm
Quán Âm Kinh đến câu “dùng
thân tỳ-kheo để đắc độ liền hiện
thân tỳ-kheo để thuyết pháp” bỗng nhiên giải
ngộ. Thắp hương, vọng về phía thầy, lễ
bái: “Thấu hiểu sâu xa lời thầy dặn lại, trọn
chẳng nói xuông”. Bèn đến yết kiến ngài Thạch
Sương[42], làm chay, sám hối.
(6) Theo
Truyền Đăng Lục, Tăng hỏi ngài Quy Tông: “Huyền
chỉ là như thế nào?” Ngài Quy Tông đáp: “Chẳng phải
là chỗ dụng tâm của ngươi!” Hỏi: “Há chẳng
có môn phương tiện ư?” Quy Tông đáp: “Quán Âm diệu
trí lực, thường cứu khổ thế gian”. Hỏi:
“Quán Âm diệu trí lực là như thế nào?” Quy Tông gơ lên nắp
cái đỉnh ba lần.
Lại nữa,
Hoàng Bá Duy Thắng thiền sư[43], do cái quạt đụng vào chấn
song cửa sổ vang ra tiếng, bèn nhớ tới câu “mười phương đều
đánh trống, mười chỗ cùng lúc nghe” [trong kinh
Lăng Nghiêm], do vậy đại ngộ.
(7) Theo
Truyền Đăng Lục, đời Đường, Lư
Văn Công hỏi ngài Dược Sơn: “Thế nào là hắc
phong thổi thuyền bè trôi vào nước quỷ”. Sư
nói: “Thằng nhóc Lư Cao hỏi chuyện ấy làm chi?”
Văn Công giận dữ lộ ra mặt, Sư cười
bảo: “Đấy chính là hắc phong thổi thuyền bè
giạt vào nước quỷ”.
Lại
có vị Tăng hỏi ḥa thượng Tương Châu Lịch
Thôn: “Thế nào là quán sát âm thanh liền được giải
thoát?” Ngài Lịch Thôn cầm que cời lửa gơ vào củi,
hỏi: “Nghe không?” Đáp: “Nghe ạ!” Ngài Lịch Thôn: “Ai chẳng
được giải thoát?”
(8) Theo
Truyền Đăng Lục, Ma Cốc hỏi Lâm Tế:
“Quán Âm mười hai mặt, mặt nào là chánh diện?” Lâm
Tế bước xuống thiền sàng, nắm chặt Ma
Cốc hỏi: “Quán Âm mười hai mặt tới chỗ
nào, nói mau, nói mau!” Ma Cốc xoay ḿnh tính ngồi xuống, Lâm
Tế liền đánh.
Theo Nhất
Hạnh Cư Tập, đời Minh, con gái của Văn
Túc Công Vương Tích Tước là Đàm Dương
Đạo Nhân, thờ Quán Âm từ nhỏ. Cô mộng thấy
Đại Sĩ dẫn đi xem ṭa sen bảy báu ở Tây
Phương. Một hôm, Đại Sĩ hiện ba
mươi hai tướng, hỏi: “Đẹp không?”
Thưa: “Đẹp ạ!” Hỏi: “Đáng yêu không?”
Thưa: “Chẳng yêu”. Hỏi: “Đẹp sao không yêu?”
Thưa: “Đệ tử nghe nói: ‘Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta,
người ấy hành đạo tà, chẳng thấy
được Như Lai”. Đại Sĩ lộ vẻ
hoan hỷ.
(9) Theo
Truyền Đăng Lục, ngài Quy Tông thượng
đường nói: “Ngươi nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng
các nơi chốn”, [đồ đệ] hỏi: “Thế
nào là hạnh Quán Âm?” Quy Tông khảy ngón tay, bảo: “Mọi
người c̣n nghe hay chăng?” Thưa: “Nghe ạ!” Quy Tông
nói: “Một đoàn người hướng về đây
kiếm cái ǵ?” Sư dùng gậy đuổi đại chúng
ra.
Theo Phật
Tổ Thống Kỷ, Nhân Nhạc tự là Tiềm Phu,
chuyên ṛng tu phép tam-muội trong Thỉnh Quán Âm Kinh, ngồi
yên trong tịnh thất, chợt như tỉnh mộng.
(10) Theo
Thung Dung Lục, Vân Nham hỏi Đạo Ngô: “Đại Bi
Bồ Tát dùng lắm mắt nhiều tay như thế để
làm ǵ?” Đạo Ngô đáp: “Như người trong đêm
dùng tay ṃ gối”. Vân Nham thưa: “Con hiểu rồi, khắp
thân là tay mắt”. Đạo Ngô bảo: “Chỉ nói
được tám phần”. Vân Nham hỏi [ư nghĩa như
thế nào], Đạo Ngô bảo: “Toàn thân là tay mắt”.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng: “Mắt báu thanh tịnh, tay công đức. Khắp
thân đâu giống trọn toàn thân!”
Vua Tống
Hiếu Tông hỏi vị tăng Thiên Trúc: “Quán Âm tay cầm
xâu chuỗi niệm ai vậy?” Đáp: “Niệm Quán Thế
Âm Bồ Tát”. Hỏi: “Tự niệm danh hiệu của
chính ḿnh để làm chi?” Đáp: “Cầu người khác
chẳng bằng cầu chính ḿnh”. Vua rất vui vẻ.
(11) Theo
Truyền Đăng Lục, thiền sư Trung Tháp Cầu
thượng đường bảo: “Nếu theo cửa Quán Âm để vào th́ hết thảy
âm thanh, tiếng vọng ễnh ương, giun đất
đều giúp ngươi phát khởi căn cơ”.
Lại nữa,
ngài Vân Môn dạy đại chúng: “Nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc minh
tâm”, rồi liền giơ tay nói: “Quán Thế Âm Bồ
Tát cầm tiền đến mua bánh xèo bột bắp”[44]. Sư buông tay xuống nói: “Vốn nó là
bánh mạn đầu”.
(12) Theo
Kiên Cô Tập[45], trong niên hiệu Hy Ninh (1068-1077) thời
Tống, trưởng lăo Trọng Hỷ không biết chữ,
hằng ngày niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát không
nghỉ chút nào. Một hôm chợt viết kệ: “Địa lô vô hỏa, nhất
nang không; tuyết tự dương hoa lạc tuế cùng,
khất đắc ninh ma phùng bại nạp, bất tri thân
tại tịch liêu trung” (Ḷ đất nguội tanh, túi rỗng
tênh. Tuyết như hoa rụng, hết năm rồi, xin
được nắm gai chằm áo nát, nào biết thân trong
chốn tịch liêu). Ấy là v́ Sư đă đắc trí
huệ lực của Quán Âm mà giải ngộ vậy.
Theo Phật
Tổ Thống Kỷ, đời Tống, sư Huệ Tài
tự hận tối tăm, chậm lụt, thường
tŕ chú Đại Bi, chợt mộng thấy
một vị Phạn tăng cao mấy trượng, cởi
ca-sa đắp cho. Những ǵ đă nghe được
trước kia và sau này đều hiểu thông suốt hết.
(13)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Minh, sư
Hồng Thượng tự là
Phạm Am, đọc Lăng Nghiêm có chỗ tỉnh, bèn kiền
thành lễ Quán Âm. Một đêm, trong Định thấy
kim thân Bồ Tát, ngàn mắt, ngàn tay, nhóm họp đông nghịt.
Đang kinh ngạc th́ Bồ Tát tách một cánh tay và mắt
trao cho. Xuất Định, mùi hương lạ ngập
thất, tâm địa thanh lương.
Lại nữa,
ngài Hám Sơn Đức Thanh sống trong căn nhà cũ tại
Long Môn thuộc Bắc Đài trong mùa băng tuyết phủ
khắp muôn núi. Giữa Xuân sang Hạ, các ḍng nước dần
dần tan chảy như vạn con ngựa chạy dồn,
bèn hỏi ngài Diệu Phong. Sư Diệu Phong bảo: “Cổ nhân ba mươi năm
nghe tiếng nước chảy, chẳng chuyển ư
căn th́ sẽ chứng pháp Viên Thông của Quán Âm”. Ngài Đức
Thanh chấp nhận là đúng, đặt ngang tấm ván
trên suối, quỳ ở trên đó, lâu ngày, chợt quên mất
cả thân thế, mọi thứ rung động đều
lặng bặt.
(14) Theo
Linh Cảm Phú, đời Tống, một vị Tăng
chùa Hải Ninh tại Thái Thương, thô lỗ, ngu xuẩn,
thất học. Thầy ông ta bèn bảo hăy chuyên lạy Quán
Âm. Ông Tăng ấy đột nhiên có thể ngâm thơ,
nhưng trọn chẳng biết chữ.
Theo Nhất
Hạnh Cư Tập, thiền sư Cốc Thanh thuở nhỏ
học hành, khổ v́ đọc chữ ngắc ngứ, bèn
đối trước Quán Âm Đại Sĩ cầu đảo.
Trở về mở sách ra, giống như đă đọc
quen từ trước. Xuất gia, trụ tại Long Hoa Tự,
ban ngày lo thâu thập lương thực cho đại chúng,
đêm mở Pháp Hoa Kinh ra, trong khoảnh khắc đă tụng
xong. Mỗi lần xuống núi liền
tụng kinh một lượt, trở về cũng giống
như thế.
(15)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Tống,
sư Tử Anh, pháp tự Giác Ấn, một hôm mộng thấy
Bạch Y Đại Sĩ, rót nước từ b́nh lưu
ly cho uống. [Sư cảm thấy] giống như cam lộ
quán đảnh. Từ đấy rỗng rang, đắc
pháp nơi ngài Viên Thông Tú.
Lại
nữa, ngài Linh Duệ đời Thanh, pháp tự là Nhiếp
Am, tu Đại Bi Sám. Có vị lăo tăng tự xưng là Từ
Vân Sám Chủ, đem chiếc lư hương bằng gỗ
đă xưa trao cho, chợt chẳng biết Sư đă biến
đâu mất. Do vậy, tâm địa sáng tỏ như có
thần giúp vậy.
(16)
Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Thanh, ngài Hành Kính, pháp tự là Độc Quan,
mộng thấy Đại Sĩ cầm đao mổ xẻ,
thay xương cho Sư; mổ đến chỗ chân
răng th́ đau quá, tỉnh giấc. Từ đấy trở
đi, chỉ thích sự vắng lặng của lẽ Thiền,
dứt sạch ngoại duyên.
Lại nữa,
đời Minh, ngài Pháp Hội, pháp tự là Vân Cốc, tham
Thiền đắc ngộ, bắt chước ngài Minh Giáo
Tung đội tượng Quán Âm, suốt đêm không ngủ,
lễ bái, kinh hành, suốt đời không lười.
Sư dạy Viên Liễu Phàm ư chỉ “dùng tâm lập mạng”, những người
được Sư hóa độ tính đến ngàn vạn
kẻ.
(17) Chuyện
Tào Hành Đồng đời Minh vào biển được
cứu chép trong sách Quái Viên, xin xem lời chú thứ ba trong
đoạn “cứu chết ch́m”. Quay về, ông ta bèn đến
chùa Trấn Hải tu tập kinh chú, học thông thạo tiếng
Phạn, hiểu rơ ràng ư nghĩa của kinh điển, trở
về xứ ḿnh, [trở thành bậc] kiệt xuất trong
những người cùng hàng, xa gần đều quy y.
Theo
Cư Sĩ Truyện, đời Minh, Tiết Nguyên Sơ
pháp danh là Đại Xuân. Lúc thơ ấu mắc bệnh, liền
ŕ rầm niệm danh hiệu Phật. Lên mười đă
khéo nói những lư luận phần nhiều phù hợp kinh Phật.
Về sau, đọc kinh hoát nhiên tỉnh ngộ, trí huệ
đắc Vô Ngại Biện. Đă vậy c̣n mộng thấy
Đại Sĩ dẫn đến bến sông, té nước
lên gột rửa, bảo: “Sao mà ngươi phủ bụi
đến thế này”. Tắm xong, xoa đầu bảo:
“Hăy mau t́m đường mà đi”. Rồi ông ta mắc bệnh,
liền nói kệ, qua đời.
(18) Theo
Giác Hổ Tập, sư Tuyết Quan Trí
Ám thân thể c̣m cơi, đảnh lễ Quán Âm, mộng thấy
Đại Sĩ xoa đầu, ḿnh mẩy, xương cốt
dần dần mạnh mẽ, coi khắp các sách, thông hiểu
cặn kẽ. Tham Thiền có chỗ tỉnh, kiêm tu Tịnh
Độ.
Theo
Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Nguyên, [trước khi xuất gia] sư Đại Vân đậu
Tiến Sĩ. Trong lúc ở Trường An, mộng thấy
Đại Sĩ vỗ vào lưng nói: “Ông có túc duyên to lớn
với Không môn”, cảm thấy ánh sáng trắng ngập nhà,
mùi thơm phủ khắp người. Do vậy, bèn bỏ
quan làm Tăng.
(19) Vương
Mộng Cơ, thuở bé vào học trường huyện,
tự thẹn kém tài, tŕ chú suốt bốn mươi ngày
đêm, mộng thấy Đại Sĩ xoa khắp
xương đốt trên thân, từ đấy văn tài
lưu loát.
Theo Chiết
Giang Thông Chí, sư Triệt Oánh tĩnh tu triệt ngộ.
Trong Định thấy Đại Sĩ dùng nước
cành dương rửa mắt, bảo: “Ngươi chưa
đoạn duyên đời, do vậy, hăy cứu độ
người đời”. Sư chợt hiểu được
yếu quyết Địa Lư. Nói chuyện họa phước
đúng răm rắp.
Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng
Tụng
Quyển 3, Phần 1 hết
[1] Núi Hùng Nhĩ thuộc tỉnh Hà
[2] Câu này dựa theo ư bài kệ phó chúc tương truyền là của tổ Đạt Ma theo Pháp Bảo Đàn Kinh: “Ngô bổn lai tư độ, truyền pháp cứu mê t́nh, nhất hoa khai ngũ diệp, kết quả tự nhiên thành” (Ta vốn đến cơi này, truyền pháp cứu mê t́nh, một hoa x̣e năm cánh, kết quả tự nhiên thành). Theo đó, “hoa khai ngũ diệp” là lời dự ngôn: Sau thời Lục Tổ Huệ Năng, Thiền Tông sẽ tách thành năm phái Thiền:
1. Quy Ngưỡng Tông: Do hai vị Quy Sơn Linh Hựu và Ngưỡng Sơn Huệ Tịch khai sáng.
2. Lâm Tế Tông: Do hai vị Hoàng Bá Hy Vận và Lâm Tế Nghĩa Huyền khai sáng. Đến đời Tống, Lâm Tế tông lại tách ra thành hai chi phái là Dương Kỳ và Hoàng Long.
3. Vân Môn Tông: Do ngài Vân Môn Văn Yển khai sáng.
4. Tào Động Tông: Do hai vị Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bổn Tịch khai sáng.
5. Pháp Nhăn Tông: Do ngài Thanh Lương
Văn Ích khai sáng.
[3] Xương đ̣n gánh (Clavicle, tỏa cốt,
tỏa tử cốt) là một miếng xương nằm
ngang nối xương ức với xương bả
vai.
[4] Chữ “lục thân” có năm cách hiểu khác nhau:
1. Lục Thân là sáu mối quan hệ thân tộc: Cha con, anh em, anh em con chú con bác, anh em cháu ông chú ông bác (tức ông nội ḿnh và ông nội người ấy là anh em ruột), anh em cháu ông cố bác ông cố chú, anh em cùng họ. Đây là quan điểm của Giả Nghị đời Hán được chép trong bộ Tân Thư.
2. Lục Thân là cha con, anh em, chị em, cậu cháu, chồng vợ, bố mẹ chồng (vợ) và con dâu (con rể). Đây là quan điểm của Tả Truyện.
3. Sách Hán Thư lại coi Lục Thân chỉ là ba mối quan hệ (do trong mỗi quan hệ có 2 đối tượng nên 3x2=6) tức là cha mẹ, anh em, vợ con (trong đây đă gộp mối quan hệ chị em vào anh em).
4. Sách Sử Kư cũng nêu quan điểm tương tự, nhưng hợp lư hơn: Lục Thân là cha con, anh em, vợ chồng.
5. Thiên Quản Án Liệt Truyện sách Sử Kư lại giảng Lục Thân là ông bà nội ngoại, cha mẹ, chị, em, con cái của anh em bên vợ, con cái của mẹ kế, con cái của con gái ḿnh. Hiểu theo cách này th́ lại thiếu mất cháu nội, cũng như con cái của anh em trai ta và con cái của chị em gái ta.
Xét ra, Lục Thân thường được
hiểu theo cách thứ ba hay cách thứ tư.
[5] Thù Du (茱萸, Silverberry hoặc Oleaster ), c̣n gọi là Việt Tiêu hay Chi Tử. Thù Du là một loại cây xanh quanh năm, có hoa thơm, tinh dầu có tác dụng khử hàn tiêu độc, nên thường để chữa cảm mạo, có khoảng từ 40 đến 70 loài khác nhau. Loại cây này thường mọc thành bụi thấp, hoa bốn cánh có mùi thơm nhẹ, trái có thịt mọng ăn được nhưng vô vị. Thời cổ, vào tiết Trùng Dương (Trùng Cửu, tức mồng Chín tháng Chín âm lịch), người ta thường lùng hái lá cây này đem về phơi khô làm thuốc hoặc ngâm rượu uống dần.
[6] Thân Vương là tiếng gọi chung
những người được mang tước vị
cao nhất trong tước Vương. Bắt đầu
từ thời Hán, hoàng tử và anh em của hoàng đế
được mang tước Vương. Từ thời
Ngụy Tấn, tước Vương được chia
ra làm hai loại: Thân vương và Quận Vương. Thân
Vương chỉ phong cho hoàng tử và anh em của hoàng
đế, Quận Vương dành riêng cho Hoàng Thái Tử. Về
sau, Quận Vương được phong cho các văn thần
quan trọng (như những người giữ chức Tiết
Độ Sứ đời Đường), chứ Thái Tử
không c̣n được gọi là Quận Vương nữa,
và tước Quận Vương đương nhiên có
địa vị thấp hơn Thân Vương. Đời
Đường, có lệ: Danh xưng của những vị
Thân Vương chỉ có một chữ, c̣n Quận
Vương danh xưng có hai chữ. Chẳng hạn như
trước khi lên ngôi, Đường Duệ Tông mang
tước Tương Vương, trong khi ấy, Quách Tử
Nghi là quyền thần thời đó, được phong
là Phần Dương Vương. Đến đời
Minh, Thân Vương được phép có ngọc tỷ và
vùng đất được phong sẽ gọi là Quốc.
Đời nhà Thanh, các Thân Vương được gọi
rơ là Thân Vương trong danh xưng. Chẳng hạn như
các hoàng tử thường được gọi là Ḥa Thạc
Thân Vương.
[7] Hoa Tử là tiếng gọi đùa những
kẻ ăn mày v́ quần áo vá chằng vá đụp nhiều
mảnh vải khác màu cũng như thân thể họ
thường ghẻ chốc, phải bôi phẩm xanh, phẩm
đỏ để chữa ghẻ, trông như “vẽ hoa”
nên được gọi là Hoa Tử. Do họ hay kêu gào,
xin xỏ nên c̣n gọi là Khiếu Hóa Tử.
[8] Hách Liên Bột Bột (381-425), tự là Quật Kiết, thuộc bộ tộc Thiết Phất của giống Hung Nô, vốn có tên là Lưu Bột Bột, là vua khai sáng nước Hồ Hạ thời Thập Lục Quốc. Sư Đàm Thỉ sống vào thời Lưu Tống của Lưu Dụ (chứ không phải nhà Bắc Tống của Triệu Khuông Dẫn). Câu chuyện này xảy ra khi Lưu Dụ bận bịu truy kích tận diệt nhà Tiền Tần, Hách Liên Bột Bột thừa cơ vây hăm, đoạt lấy Trường An, xưng đế, thụy hiệu là Hạ Thế Tổ.
[9] Thác Bạt Đào (408-453) chính là Ngụy Thế Tổ Thái Vũ Hoàng Đế, là con của Thác Bạt Tự (Ngụy Minh Nguyên Đế), là một ông vua đầy tham vọng, chiến tranh liên miên, diệt các nước Hạ, Bắc Yên, Bắc Lương, kết thúc thời Ngũ Hồ Thập Lục Quốc, thống nhất phương Bắc. Vua ưa sử dụng h́nh phạt tàn nhẫn. Do tham vọng chiếm đoạt tài sản của Phật giáo và độc tôn Đạo giáo, ông đă hạ lệnh phế Phật dữ dội nhất (Sử thường gọi là Tam Vũ Diệt Phật, tức ba ông vua có đế hiệu là Vũ Đế hủy diệt Phật pháp, tức Ngụy Thái Vũ Đế, Châu Vũ Đế và Đường Vũ Tông).
[10] Theo Tiên Kinh của
Đạo Giáo th́: “Bậc
thượng sĩ bay lên hư không th́ gọi là Thiên Tiên, bậc
trung sĩ ngao du các danh sơn th́ gọi là Địa Tiên, bậc
hạ sĩ chết đi rồi mới thành tiên th́ gọi
là Thi Giải Tiên”. Dựa theo luận điểm này, các
Đạo Sĩ đặt ra năm loại tiên (quỷ
tiên, nhân tiên, địa tiên, thiên tiên và kim tiên), trong đó là
Địa Tiên là những đạo sĩ đă tu luyện
đến mức tinh khí thần hợp nhất, đắc
năm môn thần thông, có thể hấp thụ tinh khí của
nhật, nguyệt, thiên, địa nhằm bổ dưỡng
thân mạng, nhục thân bất hoại, không c̣n Ngă Chấp
và Pháp Chấp. Họ cũng báng bổ coi Phật chỉ
là một trong số những vị Kim Tiên của Đạo
Giáo. Nhà Phật gọi chung những thần thánh trong nhân
gian là Địa Tiên nhằm phân biệt với chư
thiên. Chữ Địa Tiên ở đây cũng có thể hiểu
là Địa Hành Tiên, tức là một trong mười loại
tiên được nhắc tới trong kinh Thủ Lăng
Nghiêm.
[11] Cao Hoan (496-547) là người Tiên Ty được Hán hóa, vốn có tên là Hạ Lục Hồn, là một tay quyền thần thời Bắc Ngụy và Đông Ngụy, từng nắm quyền Thừa Tướng, thâu tóm quyền hành nhà Ngụy, đặt nền móng cho nhà Bắc Tề. Do vậy, đôi chỗ gọi Cao Hoan là Cao Vương, tuy ông ta chưa hề xưng vương. Sách Nam Hải Từ Hàng cho rằng kinh Cao Vương Quán Âm là kinh do Vương Nguyên Mô được Quán Âm Bồ Tát truyền trong mộng, và do ông Nguyên Mô siêng năng tŕ tụng nên khi bị vua Bắc Tề xử tử, đao chém nhiều lần bị găy. V́ Nguyên Mô được vua Bắc Tề (họ Cao) tha tội chết, nên bài kinh đó gọi là Cao Vương Quán Âm. Thật ra, Vương Nguyên Mô sống cùng thời với Thác Bạt Đào (Ngụy Thái Vũ Đế), bị Thác Bạt Đào đánh bại, toan đem ra hành h́nh, và Thác Bạt Đào mất năm 453, trong khi Cao Hoan măi đến năm 496 mới sanh ra, tức là 43 năm sau khi Thác Bạt Đào đă chết. Hơn nữa, Cao Hoan chỉ là người thâu tóm chánh quyền Đông Ngụy, phế vua, lập cơ sở quyền bính cho con là Cao Tường soán ngôi nhà Đông Ngụy lập ra nhà Bắc Tề vào năm 550 (tức 3 năm sau khi Cao Hoan đă chết), chứ chưa bao giờ làm vua. Do vậy, Cao Vương không phải là Cao Hoan mà là Cao Tường. Nếu theo thuyết của Nam Hải Từ Hàng th́ sự việc Nguyên Mô bị hành h́nh đă trễ hơn hơn 80 năm và lúc đó Nguyên Mô đă ngoài trăm tuổi!
[12] Thai Tông: Tông Thiên
[13] Ban Mă là Ban Cố và Mă Dung là hai văn học
gia nổi tiếng. Ban Cố (32-92), tự là Mạnh Kiên, người
xứ Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây, là thi nhân, kiêm sử
gia thời Hán. Ông là tác giả của bộ sử Hán
Thư (Tiền Hán Thư) nổi tiếng gồm 100 thiên. Trong
thời gian ông biên soạn bộ này, có kẻ vu báng ông lén
lút xuyên tạc quốc sử, nên bị hạ ngục. Em
trai ông là Ban Siêu ra sức trần t́nh với Hán Minh Đế
nên vua tha tội, phong Ban Cố làm Lan Đài lệnh sử.
Ban Cố từng theo Đậu Hiến đánh Hung Nô,
đảm nhiệm chức Hành Trung Tướng Sự. Sau
khi đại phá Hung Nô, Đậu Hiến sai Ban Cố viết
bài minh khắc trên núi Yên Nhiên. Về sau, do Ban Cố không
khéo dạy dỗ con cái, gây hiềm khích với quan lại ở
Lạc Dương, nên khi họ Đậu thất thế,
tự sát, Ban Cố bị vu tội cấu kết bè đảng
với Đậu Hiến, bị tống giam và chết
trong ngục. Do bộ Hán Thư chưa soạn xong, Hán Ḥa
Đế bèn sai em gái ông ta là Ban Chiêu (Tào Đại Gia) soạn
tiếp, nhưng chưa xong th́ bà này cũng chết, vua phải
sai môn nhân của bà là Mă Tục tiếp tục hoàn thành sự
nghiệp biên soạn Hán Thư. Mă Dung (79-166), tự Quư
Trưởng, người xứ Hưng B́nh, tỉnh Thiểm
Tây, là một nhà kinh học (chuyên viên về các kinh điển
Nho gia) thời Hán. Ông tinh thông sách vở thởi ấy, từng
chú thích các bộ Chu Dịch, Thượng Thư, Mao Thi, Luận
Ngữ, Hiếu Kinh v.v... biên soạn bộ Tam Truyền Dị
Đồng Thuyết. Ngoài kinh điển Nho gia, ông c̣n chú
thích Đạo Đức Kinh, Hoài Nam Tử, Ly Tao, Liệt
Nữ Truyền. Những nhà chú giải kinh sách cổ nổi
tiếng như Trịnh Huyền, Lô Thực đều là học
tṛ của ông. Do vậy, từ ngữ “tăng trung ban mă” có
ư ca ngợi ngài Niệm Thường có tài biên soạn sử
liệu, chú giải kinh điển chẳng kém ǵ Ban Cố
và Mă Dung.
[14] Trung Tán c̣n gọi là Trung Thừa, được lập ra từ thời Hán, có nhiệm vụ phụ tá Ngự Sử Đại Phu, đặc trách nhiệm vụ giám sát và đàn hặc các quan. Đến thời Minh, chức vụ này bị phế và thay bằng chức Đô Sát Viện. Đến đời Thanh, chức vụ Tuần Phủ thường kiêm nhiệm chức Hữu Phó Đô Ngự Sử của Đô Sát Viện trong một tỉnh nên Tuần Phủ cũng thường gọi là Trung Thừa hay Trung Tán.
[15] Tam Đế: Ba sự thật viên dung
theo tông Thiên Thai, tức là Không Đế, Giả Đế,
và Trung Đế.
[16] Đây là câu chú thích cho lời ca tụng
trong nguyên văn “thống kỷ
Dịch Đường, khắc thiệu anh nhi chi hạnh”
(Dịch Đường tiếp nối giềng mối,
quả nhiên tiếp nối hạnh anh nhi). Kinh Niết Bàn
dùng h́nh ảnh Anh Nhi (trẻ thơ) không thể tự
đi, lại, ăn, uống, nói năng để h́nh dung
bậc chứng đắc đă dứt bặt tạo tác
phiền năo, không c̣n suy lường, đắm ch́m trong ngôn
từ hư luận hư huyễn.
[17] Thiện bản: Bản văn hoàn chỉnh,
chánh xác nhất.
[18] Vua Giới Nhật (Siladitya, 589-674) là vua
thứ sáu của triều đại Harsha (c̣n viết là
Harshavardhana) ở Ấn Độ, lănh thổ bao gồm
vùng Punjab, Gurajat, Bengal, Orissa và phía Bắc vùng b́nh nguyên giữa
sông Hằng và sông Narmada. Vua siêng năng chăm lo việc
nước, đóng đô tại thành Khúc Nữ (Kanauj).
[19] Vô Giá đại hội: Vô Giá (無遮) có nghĩa là “không ngăn che”. Đây là một trai hội bố thí nhằm kết đại thiện duyên. Không phân biệt sang, hèn, tăng, tục, ngu, trí, thiện, ác đều nhất loạt đối đăi b́nh đẳng. Theo ngài Huyền Trang, tại Ấn Độ cứ năm năm tổ chức Vô Giá đại hội. Ở Trung Quốc, truyền thống này khởi đầu từ thời Lương Vũ Đế.
[20] Đây chính là vị quốc sư đă
soạn Từ Bi Tam Muội Thủy Sám Pháp (thường gọi
tắt là Thủy Sám). Quốc sư là người xứ Hồng
Nhă, My Châu (nay thuộc Tứ Xuyên), pháp danh Tri Huyền, pháp
hiệu Hậu Giác, xuất gia với pháp sư Pháp Thái
năm 11 tuổi, chuyên nghiên cứu kinh Niết Bàn. Sở học
của Sư vượt trỗi, năm 13 tuổi đă
được tăng chúng chùa Đại Từ ở Tứ
Xuyên cung thỉnh thăng ṭa thuyết pháp, người nghe
bội phục, than thở không thôi, thanh danh vang dội
đến tận kinh thành tuy Sư mới chỉ là một
chú tiểu! Đường Vũ Tông ham mê Đạo giáo,
thích luyện đan tu tiên, bèn hạ lệnh Sư phải
tranh luận với Đạo Sĩ nhằm hạ nhục
Phật giáo. Ngài Tri Huyền biện luận lưu loát, vạch
ra những chỗ xằng bậy của lũ Đạo
Sĩ, can gián vua không nên mê tín. Sư nói rất thẳng,
không nể nang chút nào, suưt mấy lần bị vua và lũ
quần thần xu nịnh kết tội. Vua tuy không tin Phật,
nhưng tâm gièm pha Phật giáo cũng giảm bớt mấy
phần. Đến đời Đường Tuyên Tông, vua
triệu ngài Tri Huyền vào cung giảng pháp, khâm phục
khôn cùng, ban ca-sa tía, cho phép các chùa từng bị phế bỏ
dưới thời Vũ Tông được trùng hưng. Từ
đó, Sư du hóa khắp nơi, chấn hưng Phật
giáo Trung Quốc. Đến đời Đường Ư
Tông, vua tôn Sư làm Quốc Sư, ban ṭa ngồi giảng
pháp bằng trầm hương, giữ lễ đệ tử
hết sức cung kính. Do vậy, Sư khởi tâm kiêu mạn,
bị ghẻ mặt người mọc trên đầu gối,
may được Ca Nặc Ca Bồ Tát hóa độ, thuyết
pháp, chữa trị. Sư tỉnh ngộ, soạn bộ Từ
Bi Tam Muội Thủy Sám Pháp. Do Trường An (nay là Tây An thuộc tỉnh
Thiểm Tây) là kinh đô thời ấy, nên giọng đất
Tần được coi là giọng chuẩn.
[21] Nguyên văn là “Tiết” là một miếng
gỗ hay ngọc, có khắc phù hiệu để làm tin.
[22] Trừ Tịch (c̣n gọi là Đại Niên Dạ, Trừ Dạ, Tuế Trừ, Đại Hối Nhật) là đêm 30 Tết. Trừ (除) ở đây có nghĩa là chia ra. V́ đêm 30 Tết là đêm phân chia giữa năm cũ và năm mới nên gọi là Trừ Dạ, Trừ Tịch hay Tuế Trừ. Do là ngày kết thúc một năm nên gọi là Đại Niên Dạ. Đêm 30 Tết trời rất tối nên cũng gọi là Đại Hối Nhật (Hối (晦) là tối tăm).
[23] Do Đạo Giáo tôn xưng Táo Quân là
Đông Trù Tư Mạng Đế Quân, nên người ta
thường gọi tắt ông Táo là thần Tư Mạng,
tuy Tư Mạng thường được dùng để
chỉ một vị thần thuộc Văn Xương
Cung chuyên giám sát thiện ác, họa phước của nhân
gian.
[24] Trương Cư Chánh (1525-1582), tự
là Thúc Đại, hiệu Thái Nhạc, người xứ
Giang Lăng, Hồ Quảng, làm Thủ Phụ (Tể
Tướng) từ năm 1572 đến năm 1582 (nhằm
niên hiệu Long Khánh của Minh Mục Tông), mất năm Vạn
Lịch thứ 10 (1582). Ông đậu Tiến Sĩ năm
Gia Tĩnh 26 (1547), được bổ làm Hàn Lâm Viện
Biên Tu vào năm ấy. Do sử sách Trung Hoa có thói quen gọi
những nhân vật nổi danh theo chức tước cuối
cùng của họ nên khó thể biết đích xác Du Đô
làm gia sư cho Trương Cư Chánh khi nào (không biết
khi ấy Trương Cư Chánh đă làm Tể Tướng
hay chưa), ta chỉ có thể phỏng đoán là tối
thiểu một vài năm sau khi Trương Cư Chánh
đă ra làm quan và tối thiểu phải một vài năm
trước khi Cư Chánh mất; v́ vậy, câu chuyện
này chỉ có thể xảy ra vào cuối niên hiệu Gia
Tĩnh, trong khoảng niên hiệu Long Khánh hoặc vào đầu
thời Vạn Lịch.
[25]
Sách Lăng Nghiêm Chánh Mạch Sớ giảng câu này như
sau: “Chữ Nhĩ (餌) ở đây mang ư nghĩa nung luyện ḥa hợp
thành hoàn, thành bánh. Ăn uống những thứ ấy
đạt được công hiệu, nên bảo là ‘thực
đạo viên thành’. Địa
Hành Tiên thân thể khỏe mạnh, tuổi thọ lâu dài,
nhưng chưa được nhẹ nhàng để bay
lên, nên gọi Địa Hành (đi trên đất)”. Trong
Đạo Giáo, “thực đạo
viên thành” nghĩa là không cần ăn uống mà vẫn
khỏe mạnh.
Do nguyên văn lời tán dương là “thốn lai châu khỏa, đẳng Đạo Gia phục nhĩ chi tiên” (nuốt hạt châu sa đưa tới, giống như vị tiên uống thuốc trong Đạo Gia) nên trong phần chú thích, cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh mới dẫn câu kinh Lăng Nghiêm để chỉ rơ nguồn gốc chữ Phục Nhĩ. Do vậy, chúng tôi chỉ dịch ư: “Nuốt hạt son, giống như tiên nuốt thuốc Đạo Gia”.
[26] Câu Chi Quán Âm là gọt tắt của danh
hiệu Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề
Quán Âm. Do vậy, chú Câu Chi Quán Âm chính là chú Chuẩn Đề.
[27] Lâm Giang Tiên là một điệu hát được các ca nhi dùng trong các tiệc rượu (nhất là trong các cuộc tửu lệnh, nghĩa là ca nhi ôm đàn hát, cứ mỗi một chữ, chén rượu được chuyền sang người bên cạnh. Khi tới chữ nào nằm đúng vần trong lời Từ hoặc khi ca khúc chấm dứt, người cầm chén lúc ấy phải uống cạn). Lời ca được viết theo Từ Điệu, tức là những bài thơ ngắn, không theo thể thức như thơ Đường hoặc các loại thơ khác, mà gieo vần và mẹo luật uyển chuyển hơn nhằm dễ diễn tả cảm xúc. Lâm Giang Tiên c̣n có tên là Tạ Thân Ân, Nhạn Hậu Quy, Họa B́nh Xuân v.v... Bài từ này gồm 58 chữ, chữ dùng phải tuân theo luật bằng trắc nhất định, chia làm hai đoạn, những chữ ăn vần với nhau phải cùng vần bằng. Câu hai, ba, năm, bảy, tám, chín phải vần với nhau. Chẳng hạn, Dương Thận đă viết một bài Lâm Giang Tiên Từ như sau (những chữ in đậm là những chữ ăn vần với nhau): “Cổn cổn Trường Giang đông thệ thủy, lăng hoa đào tận anh hùng, thị phi thành bại chuyển đầu không, thanh sơn y cựu tại, kỷ độ tịch dương hồng, bạch phát ngư tiều giang chử thượng, quán khan thu nguyệt xuân phong, nhất hồ trược tửu hỷ tương phùng, cổ kim đa thiểu sự, đô phó tiếu đàm trung” (Trường Giang cuồn cuộn chảy về Đông, sóng ṃi vùi lấp sạch anh hùng, đúng sai, thành bại hóa thành không, núi xanh c̣n đó y như cũ, mấy độ tà dương rực ánh hồng, bến nước ngư tiều đều bạc tóc, lặng ngắm trăng thu, hóng gió xuân, một bầu rượu đục mừng tao ngộ, bao chuyện xưa nay một trận cười).
[28] Thông thường, B́nh có nghĩa là cái
b́nh phong, ở đây chỉ có nghĩa là một trong nhiều
bức tranh được treo sát liền nhau với nhiều
bức tranh khác tạo thành một mảng lớn trên
tường.
[29] Đây là một điển tích thường
được gọi là “bôi
cung xà ảnh”, thường được coi là xuất
phát từ một câu chuyện do Ứng Thiệu chép trong
chương Quái Thần của sách Phong Tục Thông
Nghĩa. Theo đó, ông nội của Ứng Thiệu là Ứng
Lâm làm ấp lệnh đất Cấp. Trong hôm Hạ Chí, Ứng
Lâm mời viên Chủ Bạ dưới quyền là Đỗ
Tuyên đến thưởng rượu. Khi ấy, trên bức
vách phía Bắc của căn pḥng có treo chiếc cung. Bóng
cung chiếu vào chén trông như con rắn nhỏ đang duỗi
ḿnh. Đỗ Tuyên kinh sợ, nhưng không dám từ chối.
Kể từ hôm ấy, ông ta đau bụng dữ dội,
luôn cảm thấy rắn ḅ trong bụng, bỏ cả
ăn uống, h́nh sắc tiều tụy, chữa chạy
đủ cách nhưng không lành được. Sau đấy, Ứng Lâm có việc, đến
thăm, hỏi duyên cớ. Đỗ Tuyên kể lại nỗi
sợ bị con rắn chui vào bụng. Sau khi nghe Ứng Lâm
giải thích, liền sai người chở Đỗ Tuyên
đến chỗ cũ, chỉ cho thấy cái cung treo trên
vách, và bảo Đỗ Tuyên ngồi đúng chỗ cũ,
quả nhiên trong chén hiện bóng con rắn lờ mờ.
Đỗ Tuyên vỡ lẽ, khỏi bệnh ngay lập tức.
Trong bộ sử Tấn Thư, truyện Lạc Quảng
cũng chép tương tự về người khách của
Lạc Quảng. Do vậy, đây rất có thể là một
câu chuyện ngụ ngôn lưu truyền đă lâu rồi
được gán cho những nhân vật nổi danh.
[30] Nhũ Đầu Hương chính là
Nhũ Hương (Frankincense hoặc Olibamum) là một loại
nhựa cây trích từ những cây thuộc họ Nhũ
Hương Mộc (có tên khoa học là Boswellia Thurifera hoặc
Boswellia Sacra). Nhũ Hương c̣n được gọi
là Huân Lục Hương, Mă Vĩ Hương, Tháp
Hương, Tây Hương, Thiên Trạch Hương, Ma Lặc
Hương, Đa Già La hương hay Mộc Hương.
Loại cây này sống trong những điều kiện rất
khắc nghiệt của vùng Trung Đông và cung cấp nhiều
nhựa. Nhựa cây này có mùi thơm nhẹ và rất
được khối Ả Rập và Tây Phương coi
như nhiên liệu quư để dâng hiến trong các nghi lễ
tôn giáo. Ở đây, ngài Đạo Hiến bảo thợ
dùng Nhũ Hương làm chất keo để giữ cho
màu vẽ dính vào giấy thay v́ dùng chất keo chế bằng
xương thú (như A Giao chẳng hạn).
[31]
Xá Nhân là một chức quan. Thoạt đầu danh xưng
này để chỉ người cầm đầu bọn
tôi tớ nhà quư tộc, về sau được lập
thành một chức quan. Tùy theo từng bộ, doanh hay thự
khác nhau mà Xá Nhân có danh xưng, nhiệm vụ, cấp bậc
khác nhau, chẳng hạn như Trung Thư Xá Nhân, Thái Tử
Trung Xá Nhân, Thái Tử Xá Nhân, Khởi Cư Xá Nhân, Thông Sự
Xá Nhân... Nói chung, Xá Nhân là viên quan phụ tá người đứng
đầu một cơ quan. Nhan Sư Cổ giảng: “Xá Nhân là tiếng gọi chung những
người thân cận”.
[32] Nguyên văn “bạt
cống triều khảo”. Bạt Cống là một h́nh
thức tuyển sinh viên vào học trường Quốc Tử
Giám ở kinh đô dưới thời Thanh. Thoạt đầu,
mỗi năm mở khóa thi hai lần, đến thời
Càn Long quy định mỗi 12 năm mới mở khóa thi
một lần. Quan Học Chánh các tỉnh chọn lựa
những người có tài văn chương đă đỗ
Cống Sinh (đậu thi Hương) trong tỉnh
đưa về kinh đô dự thi, những người ấy
được gọi là Bạt Cống Sinh. Khi lên kinh, họ
được học ở Quốc Tử Giám rồi dự
kỳ thi do triều đ́nh tổ chức (gọi là Triều
Khảo). Ai thi đậu hạng đầu sẽ làm quan
bậc thất phẩm ở kinh đô, hạng nh́
được cử làm Tri Huyện, hạng ba sẽ bổ
làm Giáo Thụ tại các tỉnh. Những người thi rớt
sẽ bị đuổi về, gọi là Phế Cống.
[33] Vào đời Minh, một Hộc là 50
lít.
[34] Ngài Đàm Vô Kiệt (dịch là Pháp Dũng), họ Lư, người xứ Hoàng Long, U Châu. Tu khổ hạnh từ lúc c̣n là sa-di, rất được thầy bạn trọng nể. Nghe chuyện ngài Pháp Hiển sang Thiên Trúc cầu pháp, Sư cũng lập thệ xả thân noi theo. Sư chiêu tập những người cùng chí hướng gồm 25 người như các vị Tăng Mănh, Huyền Lăng v.v... sang Thiên Trúc vào năm Vĩnh Sơ nguyên niên (420) đời Lưu Tống. Sư và đồng bạn đi qua các nước Quy Tư, Sa Lặc, Thông Lănh v.v... Sau khi vượt Tuyết Sơn, 12 người mất mạng. Sư đến được nước Kế Tân lễ bái b́nh bát của Phật, học tiếng Phạn, thỉnh được Quán Âm Thọ Kư Kinh, rồi sang xứ Nhục Chi lễ bái xương đỉnh đầu Phật, học giáo pháp Tam Thừa tại chùa Thạch Lưu ở phía Nam núi Đàn Đặc, thọ giới với đại sư Phật Đà Đa La (Giác Cứu). Khi sang Thiên Trúc, 8 người trong đoàn thị tịch, Sư gặp phải voi dữ và trâu hoang trong chuyến đi này. Sau khi đến được Nam Thiên Trúc, Sư mới theo thuyền trở về Quảng Châu. Không rơ Sư mất khi nào.
[35] Lư Thân (772-846), tự Công Thùy, là một
thi nhân nổi tiếng giữa đời Đường.
Ông là người Hào Châu (tỉnh An Huy). Cùng với Bạch
Dị và Nguyên Chẩn, ông được tôn xưng là thủ
lănh của lối thơ Tân Nhạc Phủ. Ông từng làm
quan đến chức Thượng Thư Hữu Bộc Xạ
Môn Hạ Thị Lang, tước Triệu Quốc Công, hai
lượt làm Tiết Độ Sứ. Hiện ông c̣n
để lại những tác phẩm như Truy Tích Du Thi và
Tạp Thi, nhưng nổi tiếng nhất là bài Mẫn
Nông (thương nhà nông).
[36] Đạo Đầu là một bến
thuyền ở Phổ Đà, cách đảo chừng 30m, có
tên gọi đầy đủ là Đoản Cô Đạo
Đầu, tức là gộp đá nơi dừng thuyền
của chị em cô gái có kinh đă được nhắc
đến trong lời chú thứ 10 của phần Ứng
Hóa (2.4.1).
[37] Châu Thế Tông tên là Sài Vinh (921-959), do làm
con nuôi của Quách Oai nên sử Trung Hoa thường gọi
hắn là Quách Vinh. Y xuất thân từ một gia đ́nh
buôn trà, tánh t́nh quả cảm, tàn bạo, lắm thủ
đoạn. Quách Oai lập ra nhà Hậu Châu chỉ làm vua
được bốn năm rồi chết, Sài Vinh kế
vị trở thành Châu Thế Tông. Với tham vọng mở
rộng lănh thổ, Sài Vinh t́m mọi cách có tiền và tận
dụng kim loại để đúc vũ khí và tiền, nên
đă hạ lệnh hủy diệt Phật giáo nhằm chiếm
đoạt tượng đồng, chuông, khánh cũng
như điền sản của nhà chùa để có
phương tiện tiến hành chinh phạt, lấn chiếm
lân quốc. Hắn ra lệnh nung chảy tượng Phật
bằng đồng để đúc tiền Châu Nguyên Thông
Bảo. Trong đại nạn Tam Vũ Nhất Tông Chi Nạn
(nạn hủy diệt Phật giáo dưới thời ba
vua Vũ và một vua Tông, tức Ngụy Thái Vũ Đế,
Bắc Châu Vũ Đế, Đường Vũ Tông và Hậu
Châu Thế Tông), Sài Vinh là người hủy diệt Phật
giáo dữ dội nhất. Do đích thân cầm búa đập
tượng Quán Âm, Sài Vinh bị ung loét ở ngực, lộ
cả nội tạng ra, ngă bệnh trầm trọng trên
đường vây hăm U Châu, đành phải rút lui, chết
trên đường về, chỉ thọ 39 tuổi (tức
là chỉ làm vua được 5 năm). Ngôi vua trao cho đứa
con mới bảy tuổi là Sài Tông Huấn kế vị
được vài tháng; rốt cuộc binh quyền bị
Triệu Khuông Dẫn cướp sạch, lập ra nhà Bắc
Tống, nhà Châu diệt vong!
[38] Chỉ người Ḥa Lan hoặc Bồ
Đào Nha. Khi ấy, Nhật Bản đă bị thực
dân Tây Phương (chủ yếu là Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha và Ḥa Lan) ép Mạc Phủ (Bafuku: Chính
quyền của đại tướng quân (shogun), giống
kiểu chúa Trịnh ở Việt Nam) mở cửa giao
thông, buôn bán với Tây Phương. Khi chưa chiếm
được Trung Hoa, bọn thực dân Tây Phương
thường xuất phát từ Nhật Bản tấn công
các đảo dọc theo duyên hải miền Hoa Nam.
[39] Bạt (c̣n gọi là Năo Bạt, Đồng
Bạt, Đồng Bàn, Đồng Sát - cymbal), ta thường
gọi là chập chơa hay chũm chọe, tức là một
nhạc cụ giống như hai cái đĩa tṛn hơi
khum, ở giữa vun lên như hai cái bát, chính giữa có
khoét lỗ để xỏ giây thành quai nắm. Khi đánh,
người ta nắm hai giây quai, chập hai mép bạt vào
nhau cho vang ra tiếng, hoặc chà xoay tṛn hai mép bạt vào
nhau để tạo từng hồi ngân dài (Cách này hầu
như chỉ dùng trong các tự viện Chân Ngôn Tông Nhật
Bản khi mở đầu lễ Hỏa Cúng). Tùy theo kích
thước và vật liệu chế tạo mà có Tiểu Bạt
(c̣n gọi là Tiểu Sát), Đại Bạt, Ngân Bạt
v.v... Riêng trong các tự viện Phật giáo Trung Hoa, nhất
là tại Đài Loan, trong khi tán tụng, thường dùng một
loại năo bạt nhỏ, thành mỏng, tiếng ngân không lớn
lắm để đệm nhịp, gọi là Kha.
[40] Viên văn: Tánh Nghe viên thông.
[41] Ngô Đạo Tử (685-758) tên thật là Đạo Nguyên, Đạo Tử là tên tự, về sau đổi tên thành Đạo Huyền, là một họa sĩ trứ danh đời Đường, được tôn xưng là Đường Đại Họa Thánh (bậc thánh hội họa đời Đường).
[42] Ngài Thạch Sương được
nói tới ở đây chính là ngài Khánh Chư, cao đồ
của ngài Đạo Ngô, được nối pháp (pháp tự)
của thầy, là sư huynh của ngài Tiệm Nguyên. Ngài
Khánh Chư lập ra chùa Thạch Sương, nên người
đương thời thường gọi Ngài là thiền
sư Thạch Sương Khánh Chư. Truyền Đăng
Lục chép truyện Tiệm Nguyên Trọng Hưng Thiền
Sư rơ ràng hơn so với phần trích lục trong lời
chú thích của cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh, xin lược
trích như sau: Khi ngài Tiệm Nguyên làm thị giả cho ngài
Đạo Ngô, đến nhà một tín chủ điếu
tang, ngài Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi thầy: “Sống
ư? Chết ư?” Thầy đáp: “Sống cũng chẳng
nói, mà chết cũng chẳng nói”. Tiệm Nguyên hỏi: “V́
sao chẳng nói?” Đạo Ngô đáp: “Chẳng nói, chẳng
nói”. Về đến giữa đường, Tiệm
Nguyên lại nói: “Ḥa thượng hôm nay phải nói ra cho rơ
đầu đuôi. Nếu không nói, con sẽ đánh ḥa
thượng”. Đạo Ngô nói: “Đánh th́ cứ việc
đánh, nói vẫn chẳng nói”. Tiệm Nguyên liền
đánh thầy. Đạo Ngô trở về chùa bảo:
“Ngươi phải rời nơi đây, chứ nếu thầy
Tri Sự biết chuyện sẽ không tiện”. Tiệm
Nguyên bèn từ biệt thầy ra đi, ẩn trong một
ngôi chùa trong thôn. Sau khi nghe đồng tử tụng kinh Phổ
Môn, tỉnh ngộ, bèn thắp hương hướng về
phía thầy khấn: “Con thấu hiểu sâu xa lời thầy
dạy, trọn chẳng vô cớ thốt ra. Chỉ v́ con
không hiểu nên trước kia oán thầy. Nay thầy
đă khuất, chỉ c̣n Thạch Sương là đích tự,
ắt con phải nhờ huynh ấy chứng minh”. Bèn qua chỗ
ngài Thạch Sương, Thạch Sương trông thấy
hỏi: “Sau khi ĺa khỏi chỗ Đạo Ngô,
ngươi đến chỗ nào?” Thưa: “Chỉ dừng
chân trong chùa làng”. Thạch Sương nói: “Đă hiểu
nhân duyên đánh thầy trước kia chưa?” Sư đứng
dậy, thưa: “Xin ḥa thượng ban một lời chuyển
ngữ”. Thạch Sương nói: “Chẳng thấy đạo
th́ sống cũng chẳng nói, chết cũng chẳng
nói”. Sư bèn kể lại nhân duyên đắc ngộ trong
thôn, rồi lễ bái Thạch Sương, làm chay, sám hối.
[43] Xin đừng lầm vị này với ngài Hoàng Bá Hy Vận. Hoàng Bá Duy Thắng chính là Chân Giác thiền sư, quê ở Thụy Châu, là một trong những vị nối pháp của ngài Hoàng Long Huệ Nam, thuộc đời thứ 12 của tông Lâm Tế. C̣n ngài Hoàng Bá Hy Vận (?-850) là người Phước Châu, thiền sư đời Đường là đệ tử của ngài Bách Trượng Hoài Hải, do trụ tại núi Hoàng Bá (huyện Nghi Phong, tỉnh Giang Tây), nên gọi kèm tên núi theo tên, là thầy của đại sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Ngài Hoàng Bá Hy Vận được coi là sáng tổ của tông Lâm Tế, tuy ngài Lâm Tế mới là người thật sự khai tông.
[44]
Nguyên văn “hồ bính” (糊餅) là một món ăn vặt thường thấy
tại một số địa phương thuộc Hoa Bắc
như Bắc Kinh, Thiên Tân v.v... Người ta đem bột
bắp pha nước sôi, thêm muối, bột nêm, ngũ vị
hương, hành hoa, ḷng đỏ trứng gà, trộn đều
thành một dung dịch như người Việt làm bánh
xèo, rồi đổ vào chảo đă tráng một lớp dầu
mỏng để làm chín, bỏ thêm hẹ, tôm, mướp
Tây (zucchini) vào, nhưng không cuộn lại như bánh xèo.
Nói chung, Hồ Bính đổ dầy hơn và do bỏ đặc
nghẹt mướp Tây và hẹ nên trông lổn ngổn, xù
x́, thô tháp, không đẹp mắt, mịn màng và thanh cảnh
như bánh xèo Việt
[45] Bộ sách này có tên đầy đủ
là Bạch Vân Thảo Đường Kiên Cô Tập (Kiên Cô
chứ không phải là Kiên Cố). Cô (觚) có nghĩa là thư từ, tài liệu.