Phật Thuyết

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh

Giảng Kư

Phần 8

佛說觀無量壽佛經講記

Chủ giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)

Khởi giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 36

         

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi mốt, bắt đầu từ hàng thứ ba từ dưới đếm lên. Tôi niệm trước một đoạn kinh văn.

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: “Nhược dục chí tâm sanh Tây Phương giả, tiên đương quán ư nhất trượng lục tượng, tại tŕ thủy thượng”.

()佛告阿難,及韋提希:若欲至心生西方者,先當觀於一丈六像,在池水上。

(Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan và bà Vi Đề Hy: “Nếu là người chí tâm muốn sanh về Tây Phương, hăy nên quán tượng cao một trượng sáu thước ở trên mặt nước trong ao).

 

IV.2.2.14. Phép Quán thứ mười ba, Tạp Minh Phật, Bồ Tát Quán

 

          Hôm nay, nói tới phép Quán thứ mười ba. Trước phép Quán này, đối với y báo trong cơi Tây Phương, tức các thứ trang nghiêm nơi hoàn cảnh, và chánh báo (A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát) đều đă được nói trong những phần kinh văn trước đó. Trong phép Quán thứ mười ba, trước hết, đức Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy hăy quán một bức tượng A Di Đà Phật cao một trượng sáu thước. V́ sao? Chúng ta là những kẻ chưa chứng quả vị, ngay lập tức quán Báo Thân Phật cao lớn dường ấy, có thể nói là chúng ta chẳng thể dụng công được! Ở đây, lại dùng pháp phương tiện, quán nhỏ hơn một chút, tức là [quán tưởng] tượng cao một trượng sáu thước. Phép Quán này hết sức quan trọng đối với người niệm Phật chúng ta. V́ sao? Bọn phàm nhân chúng ta mỗi ngày trông thấy các thứ trạng huống, tai nghe đủ mọi âm thanh, những ǵ sáu căn tiếp xúc đều là các giả tướng phiền năo trong thế gian. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng v.v… chẳng có chuyện ǵ không gây ô nhiễm cho tâm lư của chúng ta. Ô nhiễm tâm lư là từng tầng sanh tử dầy hơn, chẳng thể thoát ly sanh tử luân hồi! Chánh công phu (công phu chánh yếu) của chúng ta là tŕ danh niệm Phật. Ngoài niệm Phật ra, hăy chuyển biến tâm lư, chúng ta hăy nghĩ tới tượng Phật, nhất là đến đạo tràng để ngắm tượng Tây Phương Tam Thánh đang được thờ [tại đó]. Chỉ cần ngắm tượng Tam Thánh, sẽ gieo một chủng tử trong ruộng thức thứ tám. Điều này tốt hơn những phiền năo do mắt thấy, tai nghe [từ cảnh giới] bên ngoài đem lại. Tuy công phu chánh yếu của chúng ta chẳng phải là tu pháp môn Quán Tưởng, nhưng đối với chuyện biến đổi tâm lư, giúp ích cho việc tŕ danh niệm Phật, sẽ hữu ích rất lớn!

          Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật giảng xong phép Quán thứ mười hai; tiếp đó, “Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy”, [nghĩa là] đức Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy: “Nhược dục chí tâm sanh Tây Phương giả, tiên đương quán ư nhất trượng lục tượng, tại tŕ thủy thượng” (Nếu là người chí tâm muốn sanh về Tây Phương, trước hết, hăy nên quán một bức tượng cao một trượng sáu thước ở trên mặt nước ao). Đây là đoạn lớn thứ nhất.

          “Nhược dục chí tâm sanh Tây Phương giả” (Nếu là người muốn chí tâm sanh về Tây Phương), “chí tâm”: Người học Phật phát ra cái tâm chí thành, khẩn thiết, nhất định là khi thọ mạng chấm dứt, sẽ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Người chí tâm muốn sanh về Tây Phương, nhất định là trước hết phải quán một bức tượng Phật cao một trượng sáu thước, chẳng khác chiều cao nơi thân Thích Ca Mâu Ni Phật (Ứng Thân Phật) cho mấy. Do vậy, tâm lượng và nhục nhăn của phàm phu rất dễ quán thấy. Trong phần kinh văn trước đó, đức Phật chẳng cần nói [cặn kẽ], chỉ riêng một tướng Vô Kiến Đảnh (nhục kế) của Bồ Tát là đă tuyệt diệu lắm rồi! Hăy xem tượng Phật trên đỉnh đầu Quán Thế Âm Bồ Tát và b́nh báu [trên đỉnh đầu] của Đại Thế Chí Bồ Tát cao cỡ nào? Đức Phật càng tuyệt diệu hơn nữa! Ba mươi hai tướng của đức Phật, mỗi tướng đều tuyệt diệu cả! Bài kệ Tán Phật có câu: “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di” (Tướng bạch hào cuộn tṛn như năm quả núi Tu Di), năm quả núi Tu Di đấy nhé! Có kẻ nói núi Tu Di chính là núi Hỷ Mă Lạp Nhă trên địa cầu; thật ra, chẳng phải vậy! Bọn phàm phu chúng ta chẳng trông thấy núi Tu Di thật sự, v́ nó quá to! Một sợi bạch hào cuộn lại c̣n to bằng năm quả núi Tu Di. Đừng nói là núi Tu Di hay núi Hỷ Mă Lạp Nhă, dẫu là Ngọc Sơn ở Đài Loan, chúng ta đến Ngọc Sơn, nếu không có ai dẫn đường, chỉ sợ sẽ lạc lối trong ấy, chẳng ra được! V́ thế, quán tưởng thân cao lớn, tâm lư của bọn phàm phu chúng ta chẳng quán được. V́ sao chẳng quán được mà vẫn phải giảng? Căn khí bất đồng! Có những người căn khí của họ có thể quán tưởng được, chứ căn khí b́nh phàm th́ vô dụng! Nhưng chẳng cần biết có thể dụng công hay không, bộ kinh này chủ yếu là giảng về Phật lư. Tuy chẳng thể dụng công, nhưng hiểu lư rất quan trọng! Chẳng có công phu tác quán, nhưng phải liễu giải: Chân thân của đức Phật to lớn dường ấy, nhưng khi chúng ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, [thân thể] của chúng ta cũng to ngần ấy, khiến cho chúng ta liễu giải thân Phật và bản tánh của chúng ta, đấy mới là tự ngă thật sự! Hăy ngẫm xem, đối với chuyện trong thế gian, chúng ta c̣n phải tranh giành, mong cầu để làm ǵ nữa? Hiểu được những lư này, chỉ càng tăng thêm ư nguyện cầu sanh Tây Phương. Ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh nhất định sẽ tăng thêm. V́ vậy, trước hết là phải nêu ra lư. Phép Quán này vừa khéo phù hợp tâm lư của những kẻ b́nh phàm, hết sức thực dụng. Thân [Phật, Bồ Tát] cao lớn, do tâm lượng của chúng ta nhỏ nhoi, chẳng có cách nào quán được, phép Quán này cũng chẳng phải là chánh thức dụng công quán, mà là ngắm tượng Phật. Tâm tư của chúng ta hướng đến tượng ấy để tưởng, công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn!

          “Tiên đương quán ư nhất trượng lục tượng, tại tŕ thủy thượng”: Trước hết, hăy nên quán một bức tượng cao một trượng sáu thước trên mặt ao. “Tŕ thủy” (池水) là nói tới ao bảy báu trong thế giới Cực Lạc, trong ấy, có nước tám công đức. Hễ nói đến ao nước, hăy tưởng những điều đă nói trong phần trước: Ao nước có hoa sen, hoa sen tỏa ra ánh sáng. Trong ánh sáng lại có tượng Phật. Từ tượng cao một trượng sáu cho đến nước trong ao. Hăy quán tưởng toàn thể, cảnh giới trước mắt chúng ta sẽ lập tức chuyển biến. Chẳng tưởng như vậy, cứ nh́n vào hoàn cảnh chung quanh, [ở trong] đạo tràng c̣n đỡ, những người đến đạo tràng toàn là người tu đạo, chứ ở ngoài đường phố, sẽ gặp phải những hạng người như thế nào? Nếu xui xẻo, gặp phải kẻ xấu xa, những tai nạn đột ngột bất cứ lúc nào cũng có. Hoặc là chúng ta hữu ư hay vô t́nh ngó kẻ khác một cái, họ tưởng chúng ta gây bất lợi cho họ, ngay lập tức làm hại chúng ta. Đó là chuyện thường có! Hoàn cảnh trong thế gian này đúng là hết sức tệ ác. Lại như đường cao tốc hiện thời, vừa rộng răi, vừa nhanh chóng, nay đă trở thành những con đường có tốc độ thấp, tốc độ chậm răi! V́ sao? Chúng sanh càng về sau, nghiệp báo càng tệ hơn! Đến thế giới Cực Lạc, há có t́nh huống ấy? Đường sá trong thế giới Cực Lạc rất rộng, chúng sanh đông đảo dường ấy, đôi bên chẳng trở ngại lẫn nhau. Suy tưởng như vậy, tâm chúng ta nghĩ tưởng hoàn cảnh ấy, trước mắt, chúng ta chẳng phải là người trong thế giới Sa Bà. Tâm chúng sanh đặt ở nơi đâu, sẽ là người ở nơi đó. Hễ hiểu tâm pháp sẽ biết ngay! Người niệm Phật chúng ta dấy khởi Phật hiệu, sẽ giúp chúng ta tưởng tượng hoàn cảnh tốt đẹp có tượng Phật trong ao bảy báu, tâm chúng ta sẽ chẳng giống những kẻ b́nh phàm! Nghiên cứu kinh văn đến đây, bất cứ lúc nào cũng suy nghiệm, cũng vận dụng như vậy, điều này sẽ giúp ích cho việc niệm Phật của chúng ta.

          Dưới đây là một đoạn lớn nữa. Phép Quán này chia thành hai đoạn lớn. Đoạn trên đây đă nói xong, bắt đầu nói tới đoạn tiếp theo:

          (Kinh) Như tiên sở thuyết Vô Lượng Thọ Phật, thân lượng vô biên, phi thị phàm phu tâm lực sở cập. Nhiên bỉ Như Lai túc nguyện lực cố, hữu ức tưởng giả, tất đắc thành tựu. Đản tưởng Phật tượng, đắc vô lượng phước, huống phục quán Phật cụ túc thân tướng!

()如先所說無量壽佛,身量無邊,非是凡夫心力所及。然彼如來宿願力故,有憶想者,必得成就。但想佛像,得無量福,況復觀佛具足身相。

(Kinh: Vô Lượng Thọ Phật như đă nói trên đây, thân lượng vô biên, tâm lực của phàm phu chẳng thể tưởng nổi. Nhưng đức Như Lai ấy do nguyện lực từ xưa, hễ có ai tưởng nhớ Ngài, ắt được thành tựu. Chỉ tưởng tượng Phật, đă đạt được phước vô lượng, huống hồ c̣n quán trọn đủ thân tướng của đức Phật).

 

          Đây là một tiểu đoạn trong đoạn lớn thứ hai. Trong tiểu đoạn này, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy (cũng là bảo những người học Phật chúng ta): “Như tiên sở thuyết Vô Lượng Thọ Phật, thân lượng vô biên”: Như trong phần dạy về phép Quán đă nói trong phần trước, thân lượng Vô Lượng Thọ Phật là vô biên, “phi thị phàm phu tâm lực sở cập”: Tâm lực của phàm phu (những người chưa chứng quả vị đều là phàm phu) chẳng thể thấu đạt! “Tâm lực” là ǵ? Người đă chứng quả, tâm tư mở rộng, vô biên trạng huống đều có thể trông thấy. Tâm phàm phu chúng ta bị ràng buộc là v́ trong tâm toàn là chuyện phiền năo trong thế gian, phân biệt những thứ của ta hay của người khác, danh dự, địa vị, tiền tài, những nỗi thị phi giữa con người với nhau, trong tâm chứa đầy dẫy những chuyện ấy! Trong tâm toàn suy nghĩ những chuyện ấy, há c̣n có tâm lượng nào khác để nghĩ tới chuyện khác nữa ư? Trong tâm càng tưởng những chuyện ấy, cái tâm càng hẹp nhỏ, thế giới tâm linh thật sự rộng lớn bị che lấp. Tâm lư phàm phu luôn luôn là như vậy; do vậy, tâm lực phàm phu chẳng đủ sức [quán tưởng thân lượng thật sự và sự trang nghiêm nơi thân Phật, Bồ Tát]. [Thật ra], chẳng phải là tâm lực của phàm phu không đủ sức, mà nói cách khác, chính là do tâm lực phàm phu quá hữu hạn, chẳng trông thấy thân lượng vô biên của đức Phật.

          Tuy cái tâm phàm phu hữu hạn như thế, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật dạy: “Nhiên bỉ Như Lai túc nguyện lực cố, hữu ức tưởng giả, tất đắc thành tựu” (Nhưng do đức Như Lai ấy có nguyện lực từ xưa, hễ có người nhớ tưởng, ắt sẽ được thành tựu). “Bỉ Như Lai” là nói Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. “Túc nguyện lực cố”: Trong quá khứ, A Di Đà Phật phát tâm học Phật, thành Phật. Trong quá khứ, khi c̣n thuộc “nhân địa”, c̣n là tỳ-kheo Pháp Tạng (tu hành phát nguyện, c̣n chưa thành Phật, th́ gọi là “nhân địa”, đă thành Phật là “quả địa”), đă phát ra bốn mươi tám đại nguyện, nên gọi là “túc nguyện” (宿願), tức là nguyện lực trong quá khứ. Trong bốn mươi tám đại nguyện, có lời nguyện: Trong tương lai, sau khi Ngài đă thành Phật, hễ có chúng sanh “hữu ức tưởng giả, tất đắc thành tựu” (hễ có ai nhớ tưởng, ắt sẽ được thành tựu), hết sức từ bi! Những công phu khác chẳng dùng được, chỉ cần nghĩ đến A Di Đà Phật th́ cũng có thể thành tựu. Đă có đại nguyện, lại c̣n có sức mạnh to lớn, tức túc nguyện lực. Về sau, tỳ-kheo Pháp Tạng thành Phật, chính là A Di Đà Phật trong hiện tại. Do có mối quan hệ với nguyện lực trong quá khứ, hễ có ai ức tưởng A Di Đà Phật, tất nhiên là có thể thành tựu.

          “Đản tưởng Phật tượng, đắc vô lượng phước, huống phục quán Phật cụ túc thân tướng” (Chỉ tưởng tượng Phật, đă đạt được vô lượng phước, huống hồ c̣n quán trọn đủ thân tướng của Phật): Chỉ cần người học Phật nghĩ tới tượng Phật, ngắm tượng Phật trong đạo tràng, hoặc nếu không ở trong đạo tràng ngắm tượng Phật, lúc thông thường, trong tâm nhớ tưởng tượng Phật cao một trượng sáu thước trong ao bảy báu, sẽ được vô lượng phước. Đó là chuyện xác thực. Phật là bậc phước huệ song tôn (Lưỡng Túc Tôn), phước báo viên măn, trí huệ cũng viên măn. V́ thế, bọn phàm phu chúng ta chỉ cần đặt tâm niệm nơi tượng Phật, sẽ đạt được vô lượng phước báo. “Huống phục quán Phật cụ túc thân tướng”: Huống hồ lại có thể dụng công quán tưởng thân tướng đầy đủ viên măn của đức Phật (những điều đă nói trong phần trước đều nhằm nói tới những điều ấy), công đức tuyệt diệu lắm! Có thể quán tưởng trọn đủ thân tướng, công đức càng to hơn nữa. Nay nói: Chỉ cần ức tưởng Phật, sẽ có thể đạt được vô lượng phước. Chúng ta c̣n phải liễu giải, “tưởng” [trong đoạn kinh văn này] chỉ là “ức tưởng” (憶想, nghĩ nhớ), đương nhiên chẳng phải là quán trọn đủ. Quán th́ phải chí tâm. Dùng cái tâm chí thành khẩn thiết để quán một bức tượng Phật cao một trượng sáu thước, sẽ giống hệt như quán tượng cao lớn thù thắng đă nói trong phần trước. V́ sao là như nhau? Do sức túc nguyện của A Di Đà Phật. Chẳng hoàn toàn là do sức của chính ḿnh (hoàn toàn là sức của chính ḿnh, đương nhiên là sẽ có cao thấp), c̣n phải thêm vào nguyện lực từ quá khứ của A Di Đà Phật gia bị lũ phàm phu chúng ta. Chúng ta chỉ cần dùng tâm chí thành để tưởng, sẽ đạt được công đức y hệt.

 

          (Kinh) A Di Đà Phật, thần thông như ư, ư thập phương quốc, biến hiện tự tại, hoặc hiện đại thân, măn hư không trung, hoặc hiện tiểu thân, trượng lục bát xích. Sở hiện chi h́nh, giai chân kim sắc, viên quang Hóa Phật, cập bảo liên hoa, như thượng sở thuyết.

()阿彌陀佛,神通如意,於十方國,變現自在。或現大身,滿虛空中。或現小身,丈六八尺。所現之形,皆真金色。圓光化佛,及寶蓮華,如上所說。

(Kinh: A Di Đà Phật thần thông như ư, biến hiện tự tại trong mười phương cơi nước, hoặc hiện thân lớn đầy ắp hư không, hoặc hiện thân nhỏ, cao một trượng sáu hay tám thước. H́nh tướng do Ngài hiện ra đều có màu sắc vàng ṛng, viên quang, Hóa Phật [xuất hiện trong viên quang và thân quang] cùng với hoa sen báu đều như đă nói trong phần trước).

 

          Tiểu đoạn này nói về cách quán tưởng các thứ thân do A Di Đà Phật tự tại biến hóa. Trước hết, phải liễu giải một quan niệm trọng yếu. Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ sợ mọi người sẽ dấy tâm phân biệt. Dấy lên cái tâm phân biệt ǵ vậy? [Đối với cách] quán Tam Thánh trong phần trước, thân [của Phật và Bồ Tát] đều cao lớn thù thắng, c̣n phép Quán này là tượng cao một trượng sáu, sợ rằng [chúng sanh] sẽ so đo, dùng tâm lư phàm phu để so sánh, [cứ nghĩ] tượng cao trượng sáu quá kém cỏi! Công đức do quán tượng nhỏ sẽ thua kém [công đức của những cách Quán] trước đó, hoặc nghĩ thân cao trượng sáu là giả, chẳng chân thật. Những điều phân biệt như vậy đều chẳng đúng. Chiếu theo Phật lư để nói, kinh văn trong phần trước đă có dạy: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, hai câu này đặc biệt quan trọng.

          Chúng ta quán Phật th́ điều quan trọng nhất là phải liễu giải tâm pháp, “vạn pháp duy tâm”. Nếu tâm lượng của chúng ta đủ sức, có thể quán thân cao lớn th́ cũng có thể phỏng theo [những điều được mô tả trong kinh văn để quán tưởng]. Quán vị Phật biến hóa (thân Phật cao một trượng sáu), chúng ta vẫn là phỏng theo đó, nhờ vào tượng Phật cao một trượng sáu để mô phỏng mà quán thành công th́ [công đức quán tưởng] vẫn giống hệt như nhau. Hơn nữa, thân Phật có thể lớn hay nhỏ, do [đức Phật có] năng lực thần thông tự do tự tại. Liễu giải đạo lư này, đối với tượng cao một trượng sáu hoặc tượng càng nhỏ hơn nữa, xét theo Lư, sẽ là hoàn toàn như nhau! Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật mong bọn học nhân chúng ta chớ nên dấy tâm phân biệt. Chẳng dấy tâm phân biệt, công đức mới là như nhau!

          “A Di Đà Phật, thần thông như ư, ư thập phương quốc, biến hiện tự tại” (A Di Đà Phật thần thông như ư, trong mười phương cơi nước, biến hiện tự tại). A Di Đà Phật có thể biến hóa, hiển hiện tự do tự tại trong mười phương quốc độ ngoài thế giới Cực Lạc. Biến hiện như thế nào? “Hoặc hiện đại thân, măn hư không trung. Hoặc hiện tiểu thân, trượng lục, bát xích”: Hoặc hiện ra thân lớn đầy ắp hư không, hoặc hiện thân nhỏ cao một trượng sáu thước, hoặc hiện thân nhỏ hơn một trượng sáu, chỉ có tám thước. Đấy là chỉ rơ: A Di Đà Phật có thể biến hiện tự tại trong mười phương quốc độ, hoặc nhỏ, hoặc lớn, có thể biến hóa thuận theo ư nghĩ của Ngài. V́ sao đức Phật có thể biến hiện tự tại trong mười phương cơi nước? Là do thần thông như ư. Thần thông: Có sáu loại thần thông. Các đại ngoại đạo ở Ấn Độ chỉ có năm loại thần thông, chẳng có môn thần thông cuối cùng là Lậu Tận Thông. Lậu Tận Thông là trừ sạch sành sanh tất cả phiền năo và hết thảy các chướng ngại. Nói cách khác, có những chướng ngại vật gây chướng ngại bản tánh, che lấp bản tánh [là v́] phàm nhân chúng ta hằng ngày trong tâm suy nghĩ toàn là những chuyện loạn tùng phèo, toàn là chướng ngại và phiền năo. Hễ đoạn trừ những chướng ngại và phiền năo ấy, trừ sạch sành sanh, bản tánh sẽ tỏa sáng rạng ngời. A Di Đà Phật có hiệu là Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang. Trừ khử tất cả chướng ngại, chẳng c̣n nữa, th́ gọi là Lậu Tận Thông. Ngoại đạo Ấn Độ chẳng có [môn thần thông này].

          Chúng ta học chánh pháp, tức Phật pháp thuần túy. Hiện thời, ở bên ngoài, ngoại đạo rất nhiều! Ngoại đạo bảo họ có thần thông, biết chuyện quá khứ của quư vị. Kẻ b́nh phàm vừa thấy lũ chúng nó nói chuyện quá khứ rất đúng, bèn tin tưởng chúng nó. Chúng nó lấn thêm một bước, bảo: “Mạng của quư vị chẳng tốt. Trong quá khứ đă tạo rất nhiều nghiệp, nay phải chuyển nghiệp. Chuyển như thế nào? Ta có cách, muốn chuyển th́ phải bỏ tiền ra!” Nếu gặp phải hạng người như vậy, phải ngay lập tức tránh xa, chớ tin tưởng lũ đó. Hạng người ấy có thần thông hay không, rất đáng ngờ! Dẫu có thần thông đi nữa, chúng nó có Lậu Tận Thông hay chăng? Tin theo những tṛ vờ vĩnh của chúng nó để làm ǵ cơ chứ? Chúng ta tin vào thần thông của đức Phật, đắc Lậu Tận, trừ sạch phiền năo, quang minh trí huệ mở rộng thêm một tầng. Điều này đáng tin cậy nhất! Phải liễu giải kèm thêm một tầng này, đừng bị mê hoặc bởi những kẻ bên ngoài!

          Ở đây, [kinh văn] nói tới thần thông như ư của đức Phật. Đức Phật có sáu món thần thông, “như ư” chính là Thần Túc Thông. Nói rộng ra, Như Ư có hai phương diện:

1) Nói theo phía chúng sanh, có thể đúng theo ư của chúng sanh. Chúng sanh mong ǵ, đức Phật bèn có thể thỏa ư chúng sanh. Tâm chúng sanh nghĩ đến đức Phật, đức Phật bèn hiển hiện. Thuận theo tâm lư, năng lực và tŕnh độ học tập của chúng sanh để thỏa ư họ. Chẳng hạn như trong phần trước đă nói cách quán tưởng thân cao lớn, thù thắng, họ chẳng làm được (chẳng quán tưởng được). Ở đây, bèn nói chúng sanh sử dụng cái tâm chí thành, tưởng sanh về Tây Phương. Đấy chính là tâm lư của chúng sanh, đức Phật liền thỏa ư chúng sanh, hiển hiện cho chúng sanh trông thấy.

2) Nói theo phía đức Phật, có thể thỏa ư của chính đức Phật. Đức Phật có Ngũ Nhăn, Lục Thông. Do có Ngũ Nhăn, nên thấy rành rẽ chúng sanh trong các cơi nước trong mười phương. Trạng huống như thế nào, Ngài đều trông thấy rơ ràng, rành rẽ. Do có sáu thứ thần thông, bất cứ chúng sanh nào trong mười phương quốc độ, tâm vừa nghĩ, đức Phật biết ngay.

Do có hai phương diện Như Ư ấy, cho nên đức Phật mới có thể biến hiện tự tại trong mười phương quốc độ!

          Hiện thời, trong thời đại này, có rất nhiều tà thuyết, tà ma ngoại đạo rất lợi hại. Tôi vừa mới nói đến Ngũ Nhăn, chẳng ngại một lần nữa giới thiệu cùng quư vị đôi chút về Ngũ Nhăn. Sau khi đă giới thiệu, sẽ có lợi ích ǵ? Hễ thấy bên ngoài có kẻ nào nói tới chuyện này, chúng ta đă sớm biết, chẳng cần tin tưởng chuyện ấy, có ǵ đáng quư đâu nhỉ? Bản thân chúng ta tu tập, tu đến một mức độ nào đó, tự nhiên sẽ trọn đủ Ngũ Nhăn. Chưa tu đến mức độ ấy, dẫu tin tưởng người khác cũng vô ích!         

1) Nhục Nhăn: Mỗi người chúng ta đều có con mắt thịt, chẳng có ǵ kỳ lạ hết!

2) Thiên Nhăn: Người tu hành thiên đạo thành công, sanh vào Sắc Giới Thiên, sẽ có Thiên Nhăn Thông. Ở trong nhân gian, [nếu] công phu tu Định thành tựu, cũng có thể đắc Thiên Nhăn Thông.

3) Huệ Nhăn: Hàng Nhị Thừa (La Hán và Bích Chi Phật) có Huệ Nhăn. Mắt họ thấy khác với chúng ta. Chúng ta thấy núi, sông, đại địa, ngân hàng, đại tổng thống, hết thảy mọi chuyện đều thật sự tồn tại. Khi chứng đắc La Hán và Bích Chi Phật, sẽ thấy đại tổng thống và kẻ ăn mày như nhau, tiền trong ngân hàng, giấy nát vụn ngoài đồng và rác rưởi là b́nh đẳng. Huệ Nhăn thấy hết thảy đều là những thứ hư giả, chẳng đáng để hâm mộ.

4) Pháp Nhăn: Đại Bồ Tát có Pháp Nhăn, có thể thấy đạo lư trong muôn pháp xuất thế gian, thấy hết thảy mọi chuyện rành mạch, pháp do đâu mà có, h́nh thành như thế nào, trong tương lai sẽ đạt được kết quả ǵ. Vừa nh́n bèn biết rành mạch. Đó là Pháp Nhăn.

5) Phật Nhăn: Hoàn toàn trọn đủ bốn loại mắt trước. Lại c̣n thấy thấu triệt nhất, viên măn nhất. Lúc thầy tại thế, thường nói: “Sau khi đă thành Phật, bao nhiêu hạt mưa, bao nhiêu giọt mưa trong thế giới ở ngoài tam thiên đại thiên thế giới, đức Phật đều thấy rơ ràng, rành rẽ”.

Đó là Ngũ Nhăn của Phật. Sau khi đă hiểu rơ Ngũ Nhăn của Phật rồi, nh́n lại những kẻ bên ngoài đó, họ nói những mắt ǵ? Dẫu nói hay ho cách mấy, chỉ cần quư vị lấy tiền ra, họ muốn quư vị đưa tiền cho họ là xong. Những kẻ đó Nhục Nhăn c̣n chưa nên thân, chúng ta là những kẻ đọc sách b́nh phàm, Nhục Nhăn đều thấy rơ ràng, rành rẽ, đặc biệt là đối với những điều đă nói ở đây, chúng ta có thể nhận biết pháp nào là thuần túy, pháp nào là giả, phải phân biệt rơ ràng!

          Đức Phật có thần thông như ư, cho nên có thể biến hiện tự tại. Chúng ta học Phật chẳng phải là v́ thần thông tự tại mới học Phật, điều quan trọng nhất là nhằm liễu sanh tử thành Phật. Hễ lậu tận, sẽ chẳng có sanh tử, vấn đề sanh tử bèn được giải quyết. Tiến hơn bước nữa là thành Phật, nay chúng ta niệm Phật, đạt đến nhất tâm bất loạn là được rồi. Chẳng đắc nhất tâm bất loạn, đới nghiệp văng sanh cũng được, nhất định có thể đạt được Lậu Tận. Hơn nữa, hễ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ có thần thông. Nếu chẳng có thần thông, sáng sớm trở dậy làm sao có thể đến cúng dường Phật trong mười vạn ức cơi Phật ở ngoài [cơi Cực Lạc]? Chẳng có thần thông, có làm được hay chăng? V́ thế, chúng ta liễu giải những chuyện này, nghe người trong thế gian nói đến thần thông, chúng ta chẳng cần tin vào những điều ấy. Hăy khéo thật thà niệm Phật là đáng tin cậy nhất.

          Nói về sự biến hiện tự tại đă xong; trong phần kinh văn kế đó, c̣n có những lời dặn ḍ hết sức trọng yếu: “Sở hiện chi h́nh, giai chân kim sắc” (H́nh tướng được hiện đều là màu vàng ṛng). Bất luận là đức Phật hiện thân lớn trọn khắp hư không cũng thế, hoặc hiện thân nhỏ cao một trượng sáu, hoặc tám thước cũng thế, h́nh trạng thân thể được hiện ra đều là “chân kim sắc”, tức là màu của vàng ṛng. Điều này giúp cho chúng ta phân biệt, nếu kinh văn chẳng nói như thế, chúng ta thấy tượng Phật sẽ phân biệt bằng cách nào? Trước kia, cũng có người hỏi thầy: “Khi văng sanh, Phật hiện đến, chúng con làm như thế nào để biết là Phật thật sự đến?” Thầy trả lời: “Nguyện trong pháp môn Niệm Phật vốn chẳng giống các pháp môn khác. Những pháp môn khác là ly tướng, chẳng thể chấp tướng. Pháp môn Niệm Phật là phải chấp tướng, mong thấy Phật tướng, thấy Phật tướng là tốt đẹp. Nhưng thấy Phật tướng vẫn phải thâm nhập phân biệt có phải là chân kim sắc hay không? Nhưng trong sát-na văng sanh, chẳng rảnh rang để phân biệt, chỉ cần trông thấy Phật tướng, nhất định là đă cảm ứng Phật hiện đến”. Nhưng trong lúc dụng công quán tưởng thường nhật, khi quán tưởng, sẽ chẳng tránh khỏi trường hợp có thể dụng tâm sai lầm, chẳng quán thấy đức Phật thật. V́ thế, ở đây, kinh Phật bèn dặn ḍ: Phàm những h́nh tướng [do đức Phật] hiện ra, đều là chân kim sắc. Quư vị thấy là màu vàng ṛng, sẽ là chẳng giả, nhất định là chân Phật. Sau khi đă biết, hăy nắm vững điểm trọng yếu này: Thân Phật bất luận lớn hay nhỏ, đều là “chân kim sắc” (màu vàng ṛng). “Viên quang Hóa Phật, cập bảo liên hoa, như thượng sở thuyết”: Những tướng khác như viên quang, Hóa Phật, cùng với hoa sen báu đều như trên đă nói, [tức là] đúng như trong phép Quán trước đă nói, chẳng cần phải nhắc lại. Trên đây chính là một đoạn trung b́nh thứ nhất trong đoạn lớn thứ hai, thuần túy quán tưởng Phật. Phần kinh văn dưới đây nói tới hai vị Bồ Tát:

 

(Kinh) Quán Thế Âm Bồ Tát, cập Đại Thế Chí ư nhất thiết xứ, thân đồng chúng sanh. Đản quán thủ tướng, tri thị Quán Thế Âm, tri thị Đại Thế Chí. Thử nhị Bồ Tát, trợ A Di Đà Phật phổ hóa nhất thiết. Thị vi Tạp Tưởng Quán, danh đệ thập tam Quán.

()觀世音菩薩,及大勢至,於一切處,身同眾生。但觀首相,知是觀世音,知是大勢至。此二菩薩,助阿彌陀佛普化一切。是為雜想觀,名第十三觀。

(Kinh: Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát ở hết thảy các nơi, thân giống như chúng sanh. Chỉ quán tướng đầu, bèn biết là Quán Thế Âm, hay là Đại Thế Chí. Hai vị Bồ Tát này giúp A Di Đà Phật giáo hóa trọn khắp hết thảy. Đây là Tạp Tưởng Quán, gọi là phép Quán thứ mười ba).

 

          “Quán Thế Âm Bồ Tát, cập Đại Thế Chí, ư nhất thiết xứ, thân đồng chúng sanh” (Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát ở hết thảy mọi nơi, thân giống như chúng sanh): Ở hai bên đức Phật, một vị là Quán Thế Âm Bồ Tát, vị kia là Đại Thế Chí Bồ Tát. Hai vị Bồ Tát ấy ở hết thảy mọi nơi, hai Ngài là bậc Đại Bồ Tát đă đạt tới địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ Đẳng Giác, tuyệt diệu thay! Thân các Ngài cũng thù thắng, cao lớn, nhưng ở đây nói “ư nhất thiết xứ”, nghĩa là đến mọi nơi, các Ngài đều làm như thế này: Thân của hai Ngài giống như chúng sanh. Các Ngài hiển hiện thân thể có vóc dáng giống hệt như chúng sanh b́nh phàm. Vào thời Thích Ca Mâu Ni Phật, thông thường, người ta cao tám thước, đức Phật cao hơn một chút, tức là một trượng sáu thước. Hai vị Bồ Tát này thân cao chẳng khác chúng sanh b́nh phàm cho mấy, tức là cao tám thước. V́ sao? Đây cũng là khiến cho chúng sanh dễ thấy rơ ràng, dễ quán tưởng. V́ thế, [các Ngài] hiển hiện thân giống như chúng sanh b́nh phàm. Hai vị Bồ Tát này có nhân duyên hết sức sâu dầy với A Di Đà Phật. V́ thế, ở Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng thế, mà A Di Đà Phật đến các thế giới phương khác để biến hóa cũng thế, hai vị Bồ Tát này đều vĩnh viễn cùng theo Phật đến hóa độ chúng sanh. Chúng sanh niệm Phật trong thế giới Sa Bà đến khi thọ mạng chấm dứt, sắp văng sanh, đương nhiên sẽ thấy rất nhiều vị Bồ Tát, chủ yếu nhất là Tây Phương Tam Thánh tay cầm hoa sen đến tiếp dẫn. Do đó, trong kinh văn, sau khi nói về phép quán tưởng Phật, tiếp đó, bèn dạy về hai vị đại Bồ Tát này. Trong hết thảy mọi nơi, [thân tướng của] các Ngài đều giống như chúng sanh, như vậy th́ sẽ dễ quán!

          Bậc đại Bồ Tát đă đạt tới địa vị này, biểu hiện h́nh tướng tương đồng, giống hệt nhau. Khi chúng ta quán tưởng, phân biệt như thế nào? “Đản quán thủ tướng, tri thị Quán Thế Âm, tri thị Đại Thế Chí” (Chỉ quán tướng đầu, sẽ biết là Quán Thế Âm, hay là Đại Thế Chí Bồ Tát): Khi chúng ta quán tưởng, hai vị Bồ Tát đều có ba mươi hai tướng, điểm khác biệt là: Trên đỉnh đầu Quán Thế Âm Bồ Tát là một bức tượng Phật, trên đỉnh đầu Đại Thế Chí Bồ Tát có một b́nh báu. Xem tướng đầu sẽ phân biệt được. “Thử nhị Bồ Tát, trợ A Di Đà Phật phổ hóa nhất thiết”: Hai vị Bồ Tát này giúp A Di Đà Phật hóa độ trọn khắp hết thảy chúng sanh. “Thị vi Tạp Tưởng Quán, danh đệ thập tam Quán”: Phép Quán này được gọi là Tạp Tưởng v́ quán tưởng Phật cùng với hai vị Bồ Tát, chẳng phải là thuần túy quán tưởng Phật, mà cũng chẳng phải là thuần túy quán tưởng Bồ Tát. Do gộp chung lại để quán, nên gọi là Tạp Tưởng Quán, gọi là phép Quán thứ mười ba.

          Phép Quán thứ mười bốn bắt đầu giảng về phương pháp văng sanh trong ba bậc chín phẩm, hết sức trọng yếu. Hôm nay tôi giảng đến chỗ này th́ ngưng.

 

Tập 37

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ hai mươi hai, bắt đầu từ hàng thứ sáu. Tôi niệm trước một đoạn ngắn trong kinh văn.

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Thượng phẩm thượng sanh giả, nhược hữu chúng sanh, nguyện sanh bỉ quốc giả, phát tam chủng tâm, tức tiện văng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc. Phục hữu tam chủng chúng sanh, đương đắc văng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả, từ tâm bất sát, cụ chư giới hạnh. Nhị giả, độc tụng Đại Thừa Phương Đẳng kinh điển. Tam giả, tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Cụ thử công đức, nhất nhật năi chí thất nhật, tức đắc văng sanh”.

          ()佛告阿難,及韋提希:上品上生者,若有眾生,願生彼國者,發三種心,即便往生。何等為三?一者至誠心,二者深心,三者迴向發願心。具三心者,必生彼國。復有三種眾生,當得往生。何等為三?一者慈心不殺,具諸戒行。二者讀誦大乘方等經典。三者修行六念,迴向發願,願生彼國。具此功德,一日乃至七日,即得往生。

(Kinh: Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Thượng Phẩm Thượng Sanh là nếu có những chúng sanh nguyện sanh về cơi đó, phát ba thứ tâm liền được văng sanh. Những ǵ là ba? Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Có đủ ba tâm ấy, ắt sanh về cơi kia. Lại có ba loại chúng sanh, sẽ được văng sanh. Những ǵ là ba? Một là từ tâm chẳng giết, đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng. Ba là tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh về cơi kia. Trọn đủ công đức này, từ một ngày cho đến bảy ngày, liền được văng sanh”).

 

IV.2.2.15. Thượng Phẩm Thượng Sanh Quán

 

          Quán Kinh có mười sáu phép Quán, trong phần trước đă nói mười ba phép Quán, đoạn kinh văn vừa mới niệm chính là phép Quán thứ mười bốn. Từ chỗ này trở đi, hết sức quan trọng. V́ sao? Chúng ta thường nói “A Di Đà Phật phát ra bốn mươi tám nguyện, có chín phẩm tiếp dẫn chúng sanh về thế giới Cực Lạc”. Người học Tịnh Độ Tông tŕnh độ khác nhau, sanh về thế giới Cực Lạc sẽ có phẩm vị cao hay thấp khác nhau. Chia đại khái, sẽ có chín loại phẩm vị. Hôm nay, bắt đầu nói về phẩm vị. Các thứ phép Quán đă nói trong phần trước là quán y báo và chánh báo trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, [tức là quán tưởng] các thứ hoàn cảnh tốt đẹp, cùng với đấng giáo chủ của thế giới Cực Lạc là A Di Đà Phật. Bên cạnh A Di Đà Phật là Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, phương pháp quán như thế nào đều đă nói. Nếu quán thành công, thảy đều mong cầu văng sanh thế giới Cực Lạc. V́ sao? Trong kinh A Di Đà đă nói rất rơ ràng: Thích Ca Mâu Ni Phật từ phàm phu cho đến thành Phật, trải qua thời gian lâu dài mới tu tập thành công. Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong thế giới Sa Bà tu thành công, lại ở trong thế giới Sa Bà hóa độ chúng sanh, đều hết sức khó khăn. V́ các thứ hoàn cảnh trong thế gian này (nhân tố khách quan) chẳng có thời khắc nào chẳng kéo người tu đạo chúng ta trở lại thế gian, trở ngại chúng ta tu đạo, khiến cho chúng ta chẳng thể thành tựu. Chúng ta muốn thành Phật, liễu sanh tử trong thế giới Sa Bà, chỉ nhằm giải quyết vấn đề sanh tử th́ đă phải trải qua thời gian lâu cỡ nào mới có thể làm xong? Do vậy, phải mong cầu một phương pháp hết sức mau chóng để chúng ta có thể hoàn thành ngay trong một đời này. Bất luận quư vị là một kẻ thông minh cỡ nào, trí huệ đến mức độ nào, đều mong cầu thay đổi hoàn cảnh. Ở trong một hoàn cảnh chẳng mau chóng như vậy (hoàn cảnh trong thế giới Sa Bà), nhất định phải đổi sang thế giới Cực Lạc. V́ thế, các phép Quán đă nói trước đó cho đến phép Quán thứ mười bốn (là phép Quán nói về t́nh huống văng sanh trong chín phẩm) đều nhằm bảo chúng ta phát tâm văng sanh thế giới Cực Lạc.

          Xin xem kinh văn: “Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo vị đại đệ tử là tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy (hai vị này đều là bậc đương cơ của bộ kinh này). Bảo họ những ǵ? Phẩm vị cao nhất trong chín phẩm là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Trước hết, nêu ra danh xưng của phẩm vị. “Thượng Phẩm Thượng Sanh giả”: Người có thể Thượng Phẩm Thượng Sanh th́ phải làm như thế nào mới ḥng đạt được? “Phẩm” () là phẩm vị (品位), nói thông thường sẽ là “giai vị” (階位, tầng cấp, địa vị). Nói chung, chia thành ba bậc thượng, trung, hạ. Trong bậc thượng, lại chia thành ba [bậc chi tiết hơn] là Thượng Thượng, Thượng Trung, Thượng Hạ. Bậc trung lại chia thành Trung Thượng, Trung Trung, Trung Hạ. Bậc hạ lại chia thành Hạ Thượng, Hạ Trung, Hạ Hạ. Gộp chung lại thành ba bậc chín phẩm. Có chín địa vị, mỗi địa vị cần phải trọn đủ những điều kiện khác nhau. Ở đây, bắt đầu nói về những điều kiện phải hội đủ của Thượng Phẩm Thượng Sanh.

          Người niệm Phật chúng ta đều quan tâm hai chuyện:

1) Thông thường, niệm Phật nhằm mục đích đến khi tuổi thọ chấm dứt, sẽ an tường văng sanh, chẳng như những kẻ b́nh phàm trong tâm hết sức hoảng sợ, chẳng biết đi về đâu! Người niệm Phật chúng ta đến khi hết tuổi thọ, chính là lúc phải sanh tâm hoan hỷ. Từ nhiều đời nhiều kiếp tới nay, xa xôi không nói, lấy ngay đời này để nói [mà thôi], chúng ta hứng chịu bao nhiêu nỗi khổ sở trong nhân gian, bao gồm phương diện thân thể và tâm lư tinh thần, nếu tính toán th́ chính ḿnh cũng chẳng tính rơ được. Nay sắp thoát ly thế gian đau khổ để về thế giới Cực Lạc, phải phát tâm hoan hỷ. Đấy chính là điều chúng ta thường mong cầu.

2) Sau khi đă văng sanh thế giới Cực Lạc, rốt cuộc chúng ta sẽ thuộc vào địa vị nào? Ắt phải hiểu rơ chuyện này trước hết.

          Trong bộ kinh này, những điều chúng ta quan tâm sẽ đều được giải đáp. Thứ nhất là phải như thế nào th́ mới có thể văng sanh? Thứ hai là hiểu rơ điều kiện văng sanh. Trong tương lai, phẩm vị của chính ḿnh trong thế giới Cực Lạc là ǵ? Chính ḿnh cũng sẽ biết.

 

IV.2.2.15.1. Chí thành tâm

 

          “Nhược hữu chúng sanh, nguyện sanh bỉ quốc giả” (Nếu có chúng sanh, nguyện sanh về cơi ấy): Chúng sanh học Phật nếu như phát nguyện mong văng sanh cơi ấy, chữ “bỉ quốc” (彼國) chỉ cơi nước của Tây Phương Cực Lạc thế giới của A Di Đà Phật. “Nguyện sanh bỉ quốc giả” chính là người mong văng sanh thế giới Cực Lạc. “Phát tam chủng tâm, tức tiện văng sanh” (Phát ba thứ tâm liền được văng sanh): Nếu phát ba thứ tâm th́ khi thọ mạng chấm dứt, nhất định là có thể văng sanh. “Hà đẳng vi tam”: Ba thứ tâm ấy là ǵ? “Nhất giả chí thành tâm” (Một là chí thành tâm), xin xem biểu đồ của bài giảng. Chí thành là ǵ? Chữ “Thành” () rất trọng yếu. Học vấn của Nho gia cũng nói đến Thành. Thành đến cùng cực là “chí thành” (至誠). “Minh Minh Đức” (明明德, làm sáng tỏ cái đức sáng) như sách Đại Học của Nho gia đă nói chính là “ḷng thành đến mức tột cùng”, Minh Đức sẽ khai phát. Chí thành tâm là chân thật tâm; tổ sư chú giải như thế đó.

          Bọn chúng sanh chúng ta đều có chân tâm, chân tâm là ǵ? Chúng ta có tư tưởng, có ư thức, đó có phải là chân tâm hay không? Thật ra, chẳng đúng! Cái tâm hiện thời của chúng ta tán loạn, chính ḿnh chẳng thể làm chủ, nó là cái tâm hư vọng. Nói theo Duy Thức, đó là cái tâm hư vọng phân biệt. Bất cứ chuyện ǵ trong thế gian cũng đều do thức thứ sáu tức ư thức phân biệt. So sánh phân biệt là cao, là thấp, là tốt, là xấu, là ngươi, là ta v.v… Những điều ấy đều là hư vọng. Trong chân tâm chẳng có t́nh h́nh ấy. Chân tâm là một bầu đại quang minh tạng. V́ thế, kinh A Di Đà đă giải thích ba chữ A Di Đà chính là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ. “Vô lượng quang” hàm ư một bầu quang minh. Hăy nghiên cứu từ chữ này, một bầu quang minh biểu thị trí huệ. Thấy rơ ràng, rành rẽ, những chuyện giả đều ở trong tầm mắt người ấy, vừa nh́n bèn thấy thấu suốt. Giả chẳng c̣n tồn tại, c̣n lấy đâu ra sanh tử? Sanh tử đều là giả tướng. Sở dĩ hiện thời chúng ta có sanh tử, là v́ quang minh trí huệ từ chân tâm chẳng phát ra. Những ǵ chúng ta suy nghĩ và trông thấy đều là hư vọng, phân biệt, chẳng có quang minh thấu lộ từ bản tánh. Ở đây, nói tới chân thật và chí thành tâm, khiến cho chúng ta liễu giải bất cứ chuyện nào trong thế gian, cũng đều là giả pháp, là hư vọng. Kẻ b́nh phàm chẳng hiểu những điều ấy là hư vọng, ngỡ chúng là những thứ chân thật. Bản tánh bị những thứ hư giả che lấp, đời đời kiếp kiếp xoay chuyển trong những thứ hư giả chết rồi sống, sống rồi chết. Hết thảy đều là giả, chớ nên chấp trước, phải buông xuống. Phải thấy thấu suốt, buông xuống! Có như vậy th́ tâm chí thành mới có thể phát xuất. Do vậy, đừng coi nhẹ hai chữ “chí thành”. Tổ sư chú giải “chí thành tâm” là chân thật tâm, tức chân tâm Chân Như bản tánh của chúng ta. Phải phát cái tâm chân thật ấy. Trong biểu đồ bài giảng, phía sau chữ Chí Thành Tâm là lời giải thích để khiến cho người dụng công biết cách phát khởi chí thành tâm như thế nào?

          1) Biện chân ngụy (Biện định chân và ngụy): Đối với hành vi trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, chính ḿnh hăy phân biệt những ǵ là thật, những ǵ là giả? Hành vi thường ngày của chúng ta được biểu hiện bằng ba phần: Một là động tác nơi thân thể. Mỗi động tác nơi thân thể bèn có nghiệp. Nghiệp là nhân. Mỗi hành động của chúng ta đều gieo cái nhân cho vị lai, sẽ kết thành quả trong tương lai. Biểu hiện nơi thân thể được gọi là “thân nghiệp”. Hai là mỗi người chúng ta đều phải nói năng. Hễ nói năng bèn dùng miệng, tức là “khẩu nghiệp”. Ba là thân nghiệp và khẩu nghiệp bị ai chỉ huy? Bị tư tưởng chỉ huy, bị ư thức chỉ huy. Đó là “ư nghiệp”. Ba nghiệp thân, miệng, ư, mỗi người chúng ta có ai hằng ngày đầu óc không nghĩ tới chuyện này, chuyện nọ? Đầu óc dấy lên tư tưởng là ư. Tư tưởng chỉ huy thân, chỉ huy miệng; [do đó], phải tu ba nghiệp. Người chẳng tu đạo ăn nói tùy tiện, hành vi nơi thân thể cũng chẳng thể khống chế, đầu óc mang ư niệm phạm tội (tội ác), trong tương lai sẽ bị hậu quả ǵ, cũng chẳng màng suy xét! Người tu đạo chúng ta phải liễu giải: Nghiệp là nhân, gieo nhân sẽ kết quả. V́ vậy, ba nghiệp của chúng ta đều phải tu. Hăy tu thiện nghiệp, đừng tạo ác nghiệp.

Chúng ta phải liễu giải thiện nghiệp. Kẻ b́nh phàm nói “người nào đó làm chuyện tốt”. Chuyện tốt khá lắm, nhưng phải hiểu phương pháp. Chẳng hiểu phương pháp và đạo lư làm việc thiện, tốt th́ cũng tốt đấy, nhưng công đức chẳng to cho lắm! Xin xem biểu đồ trong bài giảng: “Tam nghiệp tu thiện, thanh tịnh tâm tác”, [nghĩa là] thiện sự phải làm bằng cái tâm thanh tịnh. Miệng nói năng, các thứ biểu hiện qua hành vi nơi thân thể, những chuyện đầu óc suy nghĩ, đều phải phát xuất từ cái tâm thanh tịnh, thuần túy từ bản tánh của chính ḿnh phát xuất, chẳng có mảy may tạp niệm nào! Tạp niệm là ǵ? “Giáp tạp ác tánh, danh tạp độc chi thiện”, [nghĩa là] trong khi ba nghiệp đang tu thiện, nếu trong ấy bị xen lẫn những chuyện ác, sẽ gọi là “tạp độc chi thiện” (điều thiện xen lẫn chất độc). Kẻ chẳng hiểu đạo lư, thoạt nh́n [sẽ tưởng] là đang làm lành, nhưng điều thiện ấy chẳng thuần túy, chẳng làm bằng cái tâm thanh tịnh, có xen lẫn độc tố trong ấy. Giống như ăn thứ chi đó, bất cứ thực phẩm nào, nếu bỏ thuốc độc vào đó, thoạt nh́n dường như là có thể ăn được, nhưng ăn vào sẽ bị hại. Xen tạp những ǵ sẽ là ác tánh? Kẻ chẳng tu đạo sẽ không biết, người tu đạo ắt cần phải dụng công. Thật sự nỗ lực nơi đạo th́ mới có thể suy nghiệm, lănh hội được. Ví như chúng ta giúp đỡ kẻ khác, bất luận bằng tiền tài hay sức lực, hoặc dùng mối quan hệ quen biết… các thứ điều kiện để chiếu cố kẻ khác, trong khi giúp đỡ, trong tâm cũng chớ nên mang ư nghĩ: Trong tương lai, ta sẽ đạt được những điều tốt đẹp nào, hoặc mong cầu người được giúp đỡ trong tương lai sẽ đền đáp. Giống như nhân sĩ hoặc các nhân vật nổi tiếng trong xă hội thường là “nay ta làm chuyện từ thiện, trong tương lai, danh cũng vậy, mà lợi cũng vậy, có thể thu được sự đền đáp rất nhiều!” Hễ có tâm lư ấy, nói theo Phật pháp, sẽ là “hữu lậu thiện”. Chẳng thể nói là không phải thiện, nhưng là hữu lậu thiện, chẳng rốt ráo! Chẳng mang cái tâm mong được đền đáp, vẫn có quả báo. Làm việc thiện, trong tương lai [dẫu chẳng mong cầu] vẫn có đền đáp. Đó là “vô lậu”, vô lậu là rốt ráo!

          Thiện nghiệp hữu lậu và vô lậu khác nhau ở chỗ nào? Thiện nghiệp hữu lậu th́ trong tương lai sẽ đạt được báo ứng tốt đẹp. Hưởng hết báo ứng, nó sẽ chẳng c̣n nữa; nhưng báo ứng vô lậu sẽ là công đức vĩnh viễn tồn tại. Có lợi ích ǵ? Giúp cho chúng ta minh tâm kiến tánh. Người niệm Phật chẳng phải là cầu văng sanh thế giới Cực Lạc ư? [Những thiện nghiệp vô lậu] giúp chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc. Có rất nhiều người sợ lúc lâm chung bị chướng ngại, nếu dùng cái tâm thanh tịnh để làm việc thiện mà chẳng xen tạp những điều mong cầu, trong tương lai, sẽ chẳng có bất cứ chướng ngại nào. Những điều ấy giúp cho chúng ta tu đạo. Chúng ta phát tâm chí thành, điều quan trọng nhất là phải tu đạo, giúp chúng ta thành tựu tịnh nghiệp thanh tịnh. Xen tạp ác tánh, có tâm lư đầu tư, làm việc thiện phô bày cho người khác thấy, trong tương lai, thu hồi một vốn vạn lợi. Không được rồi! Đấy là đă xen tạp ác tánh vào đó, có thứ độc tố ấy tồn tại, tâm chúng ta chẳng thanh tịnh. Đấy chẳng phải là chân thật tâm, mà cũng chẳng phải là chí thành tâm, ắt phải phân biệt rơ ràng chuyện này! Người khác không biết, người tu đạo chúng ta phải thật sự dụng công tu đạo. Nếu mong liễu sanh tử, thật sự nắm vững văng sanh, chúng ta phải dụng công ở nơi đây. Căn cứ để phân biệt chân và ngụy là hai điều này. Sau đấy, khi chúng ta tự ḿnh dụng công, ba nghiệp sẽ biểu hiện rất thuần túy. Điều này giúp cho chúng ta niệm Phật [hữu hiệu].

          2) Minh lưỡng lợi (Hiểu rơ hai điều lợi), tức là tự lợi và lợi tha. Đầu tiên là nói tới chuyện ác, phải “chế xả tự tha chư ác” (chế ngự, buông bỏ những điều ác nơi bản thân và người khác). Trước hết, bản thân chúng ta phải thấy: Chúng ta sống trong thế gian, đừng tưởng thế gian này khá lắm. Thế gian này không nơi nào chẳng phải là hoàn cảnh dẫn khởi kẻ khác phạm tội, hết sức xấu hèn! Phải tự ḿnh phản tỉnh. Nếu chúng ta chẳng có tâm lư phạm tội, hoàn cảnh bên ngoài như thế nào đi nữa, cũng chẳng ảnh hưởng chúng ta! V́ thế, tâm lư, hoàn cảnh bên ngoài có thể dẫn dụ chúng ta phạm tội, chính là v́ trong nội tâm chúng ta đă có ư niệm phạm tội. Suy nghĩ như vậy, bản thân chúng ta phải cảnh giác: Bất luận bên ngoài chẳng tốt đẹp như thế nào đi nữa, hăy khởi đầu từ chính ḿnh, chính ḿnh phải khống chế, ngăn dứt (chế ngự được), phải ĺa bỏ hết thảy những chuyện tội ác. Những chuyện tội ác chẳng thể nói trọn hết! Phải cậy vào công phu của chính ḿnh, thời thời khắc khắc thể nghiệm.

          Thể nghiệm như thế nào? Tăng Tử của Nho gia truyền dạy bộ sách Đại Học. Sách Đại Học có nói “minh Minh Đức” (làm sáng tỏ cái đức sáng). Minh Minh Đức là ǵ? Phải “cách vật trí tri”! Cách vật trí tri (格物致知) là ǵ? Chính là quan sát ư niệm của chính ḿnh. Ngay trong khi bản thân chúng ta dấy khởi ư niệm, hăy luôn liễu giải đó là ư niệm ǵ? Hễ chúng ta dấy lên ư niệm, không ǵ là chẳng nghĩ cho chính ḿnh, nghĩ phải làm chuyện ǵ đó, nghĩ đến các mối quan hệ giữa người khác và ta. Thông thường, kẻ chẳng hiểu đạo và cũng chẳng chịu tu đạo, hễ dấy lên ư niệm, không ǵ chẳng nhằm “tổn người, lợi ḿnh”, thâu tóm quyền lực và của cải của người khác về tay ḿnh, càng nhiều càng hay, toàn là những ư niệm ấy. Người tu đạo chúng ta, đối với đạo Đại Học do Tăng Tử đă truyền, “cách vật” (格物) là thời thời khắc khắc suy xét, gạn lọc ư niệm ấy. Lâu ngày chầy tháng, công phu thành thục, chẳng khởi niệm th́ thôi, hễ khởi niệm bèn là thanh tịnh, lợi ích người khác, chẳng tính toán v́ chính ḿnh. Như vậy th́ mới có thể rạng ngời Minh Đức mà chính ḿnh sẵn có. Nho gia vận dụng công phu này!

          Ở đây, Phật pháp nói “chế xả tự tha chư ác”, nghĩa là khi chúng ta dấy lên bất cứ ư niệm nào, phải quán sát niệm ấy có phải là tổn người lợi ḿnh hay không? Nếu chẳng phải là tổn người lợi ḿnh, trong thế gian, hết thảy các thứ h́nh trạng và màu sắc đẹp đẽ, âm thanh dễ nghe, những âm thanh ồn ào nhức tai, những thứ thân thể tiếp xúc dẫu tốt hay xấu, hết thảy mọi thứ đều ở trong ư niệm của chúng ta. Nếu chúng ta dấy niệm đều vướng mắc nơi những sự vật ấy, hăy ngẫm xem, đạo của chúng ta sẽ đi về đâu? Làm sao chúng ta minh tâm kiến tánh cho được? Trong tương lai, đến khi mạng chung, ư niệm của chúng ta vẫn cứ xoay vần trong đó, chẳng mong văng sanh thế giới Cực Lạc! Đấy là đại chướng ngại. V́ vậy, niệm Phật chẳng đơn giản đâu nhé! Phải chánh trợ song tu: Chánh công phu là tŕ danh, tức là một câu A Di Đà Phật. Trợ công phu là khi chẳng niệm Phật, chẳng có thời khắc nào không nhắc nhở chính ḿnh: Lũ chúng sanh phàm phu chúng ta hễ dấy lên ư niệm, đều là ư niệm tội ác. Chúng ta chớ nên tự tránh né! Nếu chính ḿnh tu đạo th́ phải chí thành khẩn thiết liễu giải tâm niệm của chính ḿnh, khống chế ba nghiệp thân, khẩu, ư. Tiến hơn nữa trừ bỏ ư thức tội ác, trừ khử hết thảy những chuyện tội ác. Nói năng th́ chớ nên thốt lời ác. Hiện thời, các vị biết những lời lẽ bên ngoài đều là tội ác, đều nhằm dẫn dụ chúng ta hướng đến sanh tử, đọa lạc tam đồ! Những chuyện đă làm đều là chuyện đọa lạc. Bản thân chúng ta đừng nên như thế, hăy thời thời khắc khắc kiểm điểm chính ḿnh, vứt bỏ hết thảy các chuyện tội ác. Đó gọi là “chế kỷ chi ác” (chế ngự tội ác của chính ḿnh).

Lại nói đến “tha” (người khác). “Tha” () chẳng phải là nói đến kẻ b́nh phàm, mà là nói tới những vị đă chứng quả vị đại Bồ Tát, như Quán Thế Âm Bồ Tát hoặc Đại Thế Chí Bồ Tát trong phần trước. Các Ngài đều đă trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới đạt đến tŕnh độ ấy. Trong quá khứ, các Ngài đều trừ bỏ hết thảy ác nghiệp. Chẳng trừ bỏ hết thảy ác nghiệp, sẽ chẳng có địa vị như trong hiện thời. Do vậy, phải nghĩ những vị đại Bồ Tát đă có thể làm được, đều là trừ bỏ ác nghiệp rồi mới thành tựu. Chúng ta phải “kiến hiền tư tề’ (見賢思齊, thấy người hiền, mong được bằng như vậy). Trong sách Mạnh Tử, có chép câu nói của Nhan Uyên: “Thuấn hà nhân dă? Dư hà nhân dă? Hữu vi giả, diệc nhược thị” (Vua Thuấn là người như thế nào? Ta là người như thế nào? Hễ gắng sức th́ cũng giống như Ngài vậy). Vua Thuấn là thánh nhân, nhưng Ngài cũng từ con người mà trở thành thánh nhân. Chúng ta cũng là người, cũng có thể trở thành thánh nhân. Trở thành thánh nhân như thế nào? Điều kiện hàng đầu để giống như thánh nhân là đoạn trừ hết thảy tội ác. Điều này gọi là “chế xả tự tha chư ác”, nghĩa là vứt bỏ, khống chế các điều ác của chính ḿnh, chẳng làm nữa. Ngoài ra, c̣n nghĩ đến những người đă thành tựu, ḥng tăng thêm tín tâm cho chính ḿnh.

          Điều thứ hai là “cần tu tự tha phàm thánh đẳng thiện” (siêng tu những điều thiện của ta, người, phàm, thánh v.v…): Siêng năng, khẩn thiết tu thiện nghiệp. Tu những thiện nghiệp nào? Các điều thiện của phàm, thánh v.v… “Phàm thiện” là thiện nghiệp nhân thiên trong thế gian; “thánh thiện” là thiện nghiệp xuất thế gian, đều chẳng ngoài những biểu hiện nơi thân, khẩu, ư. Nói cụ thể hơn, trong tâm suy nghĩ, miệng nói năng, những người tu đạo chúng ta ở cùng với nhau, chớ nên nói chuyện thị phi trong thế gian, hoặc những chuyện rối ren bát nháo tại Quốc Hội! Nói những điều ấy, có ư nghĩa ǵ hay chăng? Chỉ có ảnh hưởng đến tâm lư của chúng ta. Chúng ta nói những lời đó, họ cũng chẳng thể nghe lọt tai. Trong cái nh́n của họ: “Bọn người tu đạo nghèo khó các ngươi đáng kể chi đâu?” Bọn họ chẳng nghe lời chúng ta, nhưng tối thiểu là chúng ta đừng bị họ ảnh hưởng! Chúng ta suy nghĩ, nói năng, bàn luận đạo nghiệp, bàn bạc những thứ tốt đẹp trong thế giới Cực Lạc, hoặc sự trang nghiêm của Phật, Bồ Tát. Trong thường nhật, tư tưởng thường đặt ở nơi ấy. Đồng tu gặp mặt nhau, đàm luận những chuyện này: Tán thán A Di Đà Phật, chư đại Bồ Tát, ao sen bảy báu trong thế giới Cực Lạc, quang minh thuyết pháp, chim, cây diễn pháp v.v… Ca ngợi những chuyện ấy. Đó là thiện, là xuất thế gian thiện. Tâm chúng ta đặt ngay nơi đó, chẳng cần đợi đến khi hết tuổi thọ, mà ngay trong lúc này, chúng ta dứt tuyệt cái duyên đối với những tội ác thế gian. Những nỗi thống khổ, thiên tai nhân họa trong thế gian sẽ chẳng có duyên phận với chúng ta. Chúng ta biết “nhân, duyên, quả”, có nhân, có quả, giữa đó c̣n có duyên. Nếu cắt đứt duyên, giống như dây dẫn điện, có gịng điện, có nguồn điện, nhưng chẳng có duyên, ánh sáng sẽ chẳng phát ra được. Trên thế gian, chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp tới nay đă tạo bao nhiêu tội nghiệp! Mỗi một tội nghiệp đều khiến cho chúng ta một phen sanh tử, đến hứng chịu tai nạn trong lục đạo. Chúng ta hăy nên cắt đứt cái duyên ấy. Mọi người không nói ǵ th́ thôi, hễ nói năng, bèn tán thán y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc, duyên với thế giới Sa Bà sẽ bị cắt đứt. B́nh thường, hăy nên siêng tu như vậy, siêng tu những nghiệp của thánh, phàm v.v… Đến thời, sẽ như nước chảy thành gịng. B́nh thường, tâm chúng ta [đă tập luyện] thành thục như vậy, tới khi thọ mạng chấm dứt, há chẳng phải là nhẹ nhàng quen lối theo đường trở về nhà ư? Có ǵ chướng ngại đâu nhỉ? Siêng tu những điều thiện phàm, thánh của ta và người v.v… Một mặt là chính ḿnh tu tŕ, mặt khác là nh́n xem bậc đại Bồ Tát tu thiện như thế nào: Trong lúc tu nhân địa, trước khi chứng quả, [các Ngài] đă làm các thứ công đức [như thế nào], chúng ta học theo những tấm gương đó. Đối với các điều thiện dù phàm hay thánh, đều phải tu tập rất siêng năng, sốt sắng!

          Trừ điều này ra, “kiến tam nghiệp thiện tất tán thán, ác bất tùy hỷ” (thấy điều thiện nơi ba nghiệp, ắt tán thán. Đối với điều ác, chẳng tùy hỷ). Trong thế gian, c̣n có chẳng ít chúng sanh là người tốt. Ba nghiệp thân, khẩu, ư của họ đều thiện. Chúng ta trông thấy, càng phải thêm tán thán, cổ vũ, khích lệ. [Do vậy], người khác cũng sẽ bắt chước làm theo, sẽ có lợi cho xă hội. Nói ngược lại, những kẻ ác trong xă hội cũng rất nhiều. Người tu đạo chúng ta chẳng cần hễ trông thấy bèn chửi bới hoặc căm ghét họ. Phật pháp luôn ôm ḷng từ bi, thấy kẻ ác [bèn biết] nguyên nhân là do họ chẳng được giáo dục, tập khí ác quá sâu, bị ảnh hưởng bởi toàn thể hoàn cảnh. V́ thế, họ mới tạo ác nghiệp, tương lai chịu ác báo. Đối với họ, phải có ḷng thương xót, nhưng mức độ thấp nhất là chẳng chỉ trích, trách móc, mà cũng chẳng tùy hỷ. [Nếu thấy] kẻ nào đó có biện pháp gây án rất cao minh, rất lợi hại, trong chốc lát bèn mưu mô chiếm đoạt lợi ích to lớn, [liền tán thán]: “Thông minh quá xá! Kẻ ấy tài ba lắm!” Quư vị tán thán như vậy, giống như cổ vũ, khích lệ kẻ ấy dùng thủ đoạn chẳng chánh đáng để làm chuyện mưu đoạt, tổn người lợi ḿnh! Chúng ta không tán thán, mà chỉ ôm ḷng thương xót. Người tu đạo chúng ta phải nên có có thái độ này. Chúng ta liễu giải những chuyện này, sẽ có thể dần dần khơi gợi cái tâm chí thành của chính ḿnh, tức là khơi mở cái tâm chân thật của chính ḿnh.

 

IV.2.2.15.2. Thâm tâm

 

          Thứ hai là thâm tâm. Thâm tâm là ǵ? Tổ sư chú giải thâm tâm là tín tâm, hăy dấy khởi tín tâm của chính ḿnh. Tín tâm quan trọng, học Phật bất luận học theo tông nào, ngay như Thiền Tông nhấn mạnh sự hoài nghi, hoài nghi cũng là một phương pháp. V́ sao hoài nghi? Nếu chẳng có tín tâm mong thành Phật, chịu đựng vất vả tham Thiền để làm ǵ? Do vậy, bất cứ tông nào cũng đều phải có tín tâm! Kinh Phật có dạy: “Tín là nguồn đạo, mẹ công đức”. Hết thảy đạo đức đều sanh từ ḷng tin. V́ thế, tín tâm rất trọng yếu. Do đó, phải phát lên ba thứ tín tâm, trong phần trước, chính là loại thứ nhất, tức chí thành tâm, nay nói tới loại thứ hai là thâm tâm (tín tâm).

           Căn cứ theo chú giải của tổ sư, tín tâm có mấy điều như sau:

          - Một, quyết tín chính ḿnh bị tội ác quấn trói, [nghĩa là] phải tuyệt đối tin tự thân chúng ta bị trói buộc bởi tội ác, chẳng được tự do. Đây là điều phải nhận thức trước hết về tín tâm.

          - Hai, quyết tín luân hồi từ bao kiếp lâu xa, chẳng thể thoát ly. Phải tuyệt đối tin tưởng chúng ta từ nhiều kiếp xa xôi đến nay, sanh sanh tử tử luân hồi trong lục đạo, chẳng thể xuất ly!

          - Ba, quyết tín Di Đà đại nguyện nhiếp thọ đại chúng văng sanh: Phải quyết định tin tưởng bốn mươi tám đại nguyện do A Di Đà Phật đă phát (mỗi nguyện đều là đại nguyện). Do có những nguyện ấy tiếp dẫn chúng sanh, [cho nên chắc chắn sẽ] văng sanh thế giới Cực Lạc.

          - Bốn, quyết tín Thích Tôn thuyết giáo chẳng hư dối: Tuyệt đối tin tưởng đấng giáo chủ của thế giới Sa Bà là Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp tuyệt đối cũng chẳng hư vọng chút nào, hoàn toàn là những lời lẽ chân thật.

          - Năm, quyết tín nỗi khổ tâm chứng khuyến (chứng tín để khuyên lơn) của mười phương chư Phật: Chẳng hạn như trong kinh A Di Đà có nói sáu phương Phật (tức là mười phương chư Phật) hiện tướng lưỡi rộng dài tán thán pháp môn Tịnh Độ [để chứng thực], khuyên mọi người phải tu học pháp môn này. Chúng ta phải tin tưởng mười phương chư Phật đều buốt ḷng dạy dỗ chúng ta thành tựu.

          - Sáu, quyết tín những điều Phật dạy để nên hành, nên bỏ; tùy thuận lời dạy của đức Phật: Phải đặc biệt chú ư chuyện này! Tín tâm là ǵ? Tín tâm là tùy thuận lời dạy của đức Phật, làm theo những điều đức Phật bảo nên hành và nên bỏ. Đức Phật dạy chúng ta sanh về đâu, chúng ta bèn tới đó. Ngài dạy chúng ta làm chuyện ǵ, chúng ta bèn làm theo. Hết thảy đều tùy thuận sự giáo hóa của đức Phật, chớ nên hoài nghi là có đáng tin cậy hay không? [Đừng nên có những hoài nghi như]: “Thích Ca Mâu Ni Phật nói Tây Phương Cực Lạc thế giới xa xôi như vậy, chúng ta có thể đến đó hay không? A Di Đà Phật phát nguyện có hiệu quả hay không?” Chớ nên ôm ḷng hoài nghi! Đức Phật dạy chúng ta tu như vậy, chúng ta bèn tu theo đúng như thế đó. Ngài dạy chúng ta hăy từ thế giới Sa Bà đến thế giới Cực Lạc, chúng ta liền làm theo, chắc chắn chẳng sai! Nếu trong tâm có tí ti hoài nghi, sẽ chẳng có sức mạnh. Có sự tin tưởng như vậy, sẽ có sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn!

          - Bảy, quyết tín trí huệ của Bồ Tát chẳng sánh bằng Phật, [Bồ Tát] thuyết pháp c̣n chẳng liễu nghĩa: Chỉ có bậc đă thành Phật khai Đại Viên Kính Trí, trí huệ mới viên măn. Chưa đạt đến địa vị thành Phật, dẫu là bậc đại Bồ Tát thuyết pháp, hăy c̣n có những chỗ chẳng liễu nghĩa. Điều này có nghĩa là chỉ có nghe đức Phật thuyết pháp [th́ pháp ấy mới là liễu nghĩa]. Kinh A Di Đà, Quán Kinh, kinh Vô Lượng Thọ, ba kinh Tịnh Độ đều do đức Phật nói. Hiện thời, có rất nhiều người coi những cách nói khác là do chính miệng đức Phật nói ra, là liễu nghĩa nhất, rốt ráo nhất. Chúng ta tin tưởng điều này (điều thứ bảy), sẽ chẳng nghe theo những lời lẽ phản đối của kẻ khác.

          - Tám, quyết tín Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đều là các giáo pháp chẳng tương ứng, chẳng hiểu rơ lư văng sanh: Đối với pháp môn văng sanh của Tịnh Độ Tông, mọi người đă nghiên cứu kinh A Di Đà đều biết, ngài Xá Lợi Phất trí huệ dường ấy, nhưng đối với bộ kinh đó, Ngài chẳng nêu ra câu hỏi nào. Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát tham gia pháp hội ấy, cũng chẳng nêu lên một câu hỏi nào! Chỉ có Phật và Phật mới hiểu rơ đạo lư rốt ráo nhất. Ngay cả Bồ Tát, Duyên Giác, và Thanh Văn vẫn đều chưa hiểu lư văng sanh đến mức rốt ráo nhất. Hiện thời, chúng ta thường nghe những kẻ b́nh phàm nói: “Các ngươi học Tịnh Độ Tông chẳng hay bằng pháp môn ta đang học”. Quư vị chớ nên nghe theo lời lẽ ấy!

          - Chín, quyết tín những ǵ khác với kiến giải của Phật đều là ma ngữ, hăy nên xa lánh: Bất luận kẻ đó có địa vị ǵ, có địa vị học thuật cao cả trong thế gian, nghiên cứu Phật pháp, Tam Tạng mười hai bộ đều đọc thông suốt, nhưng nếu ăn nói mâu thuẫn với ba kinh Tịnh Độ (kiến giải của Phật), tức là có kiến giải khác với kiến giải của Phật, sẽ đều là ma ngữ (lời lẽ của tà ma), hăy nên tránh cho xa! Không chỉ là chẳng nên nghe theo, mà c̣n phải lánh xa! Chúng ta biết trong hoàn cảnh hiện thời, kẻ phản đối Niệm Phật rất nhiều. Bọn họ đều tự nhận là những người có học vấn rất rộng. Quư vị hăy xem những lời chú giải của tổ sư [được nhắc đến ở đây th́ sẽ biết ngay]!

          - Mười, quyết tín những kẻ dẫn kinh để chứng minh “không văng sanh” là những kẻ chỉ biết Thông, chẳng biết Biệt: Điều này càng quan trọng hơn nữa! Có những kẻ chẳng phát biểu ư kiến của chính ḿnh, họ trích dẫn kinh điển làm căn cứ để giả thiết: Thích Ca Mâu Ni Phật nói “chẳng cần văng sanh. Chẳng cần văng sanh thế giới Cực Lạc, mà thành Phật ngay trong thế giới này”. Đấy là chỉ biết Thông, chẳng biết Biệt! “Chẳng văng sanh” là pháp môn theo đường lối thông thường. Thích Ca Mâu Ni Phật đối với pháp môn theo đường lối thông thường, bèn nói theo lẽ thông thường. Pháp môn b́nh thường là để nói với những người thuộc căn cơ [thông thường] ấy. Chúng ta tu pháp môn Niệm Phật là pháp môn đặc biệt; pháp môn đặc biệt khác với pháp môn thông thường ở chỗ nào? Pháp môn thông thường cũng nói đến chuyện thành Phật, cũng nói tới chuyện phải liễu sanh tử, bước đầu tiên là liễu sanh tử, bước thứ hai là thành Phật, chúng ta cũng thế. Vấn đề là thời gian để họ liễu sanh tử và thành Phật phải rất lâu xa! Để liễu sanh tử, phải bảy lượt sanh tử trong nhân gian hoặc trên cơi trời; để thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp! C̣n pháp môn đặc biệt của chúng ta th́ có thể hoàn thành ngay trong một đời. Chiếu theo phương pháp này để niệm Phật vài chục năm, sẽ có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hễ văng sanh, sẽ liễu sanh tử, có thể thành Phật rất nhanh chóng. Đấy là pháp môn đặc biệt. Những kinh thông thường sẽ dạy về pháp môn thông thường. Những kẻ dẫn kinh để thốt lời phản đối [pháp môn Tịnh Độ] chính là chỉ biết pháp môn thông thường, chẳng biết tới pháp môn đặc biệt. Chúng ta cũng phải liễu giải điều này.

          Hôm nay, tôi giảng đến chỗ này bèn ngưng, những điều khác sẽ nói trong lần sau.

 

Tập 38

         

Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang thứ hai mươi hai, bắt đầu từ hàng thứ sáu. Tôi niệm trước một đoạn kinh văn.

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Thượng Phẩm Thượng Sanh giả, nhược hữu chúng sanh, nguyện sanh bỉ quốc giả, phát tam chủng tâm, tức tiện văng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc”.

()佛告阿難,及韋提希:上品上生者,若有眾生,願生彼國者,發三種心,即便往生。何等為三?一者至誠心,二者深心,三者迴向發願心。具三心者,必生彼國。

(Kinh: Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Thượng Phẩm Thượng Sanh là nếu có chúng sanh, nguyện sanh về cơi ấy, phát ba thứ tâm, liền được văng sanh. Những ǵ là ba? Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Có đủ ba tâm ấy, ắt sanh về cơi kia”).

 

          Lần trước, tôi đă khởi sự giảng đoạn kinh văn này. Hôm nay, tôi nhắc lại lần phần đầu một lần nữa. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy: “Nếu muốn đạt Thượng Phẩm Thượng Sanh”. Tiếp đó, Ngài bắt đầu nói về những điều kiện của Thượng Phẩm Thượng Sanh. Nếu có chúng sanh muốn văng sanh thế giới Cực Lạc, mà phát ba loại tâm, sẽ tuyệt đối có thể văng sanh. Ba thứ tâm ấy là ǵ vậy?

1) Thứ nhất là chí thành tâm, tức là cái tâm chân thật nhất, phát xuất từ bản tánh.

2) Thứ hai là thâm tâm. Những ǵ đă nói trong lần trước chỉ là “tiêu văn” (消文, giải thích ư nghĩa theo mặt văn tự). Trong biểu đồ bài giảng, tôi đă nêu tổng cộng mười điều. Chúng ta tu pháp môn Tŕ Danh Niệm Phật, đối với mười điều thâm tâm ấy, c̣n phải nói cao hơn một bước nữa. Hôm nay, chúng tôi chọn ra mấy điểm trọng yếu để lại nghiên cứu đôi chút.

          Thâm tâm là nói tới tín tâm. Chúng ta tu pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ Tông, quan trọng nhất là ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh. Tín tâm được kiến lập như thế nào? Tín tâm thông thường vẫn chưa đủ, phải tin rất sâu. Tin rất sâu là như thế nào? Ví như trong điều thứ nhất, mỗi cá nhân tuyệt đối phải tin tưởng bản thân chúng ta bị đủ mọi thứ quấn trói, giống như bị từng sợi dây trói chặt, chẳng được tự do. Đấy là một loại tỷ dụ. Kẻ chẳng liễu giải đạo lư, sẽ nghĩ: “Có ǵ trói buộc chúng ta đâu? Chúng ta muốn nghĩ ǵ, muốn làm ǵ đều tự do tự tại”. Thật ra, họ chẳng liễu giải: Kinh Phật nói, đối với những tội ác do chúng ta đă tạo từ vô thỉ kiếp tới nay, nếu chúng có thể tướng, tận khắp hư không sẽ chẳng thể dung nạp; chứng tỏ chúng ta đă tạo tội ác quá ư là nhiều! Kẻ b́nh phàm đều chẳng liễu giải, nếu quư vị nói họ có rất nhiều tội ác, họ căi lại ngay lập tức: “Tôi có tội ác ǵ chớ? Tôi làm chuyện xấu ǵ chớ?” Người tu đạo mới liễu giải, chính ḿnh phải phản tỉnh, dấy lên ư niệm là tội ác. Đối với những thứ đẹp đẽ bên ngoài, âm thanh dễ nghe, hương vị ngon lành, hễ tâm tư của chúng ta dấy lên ư niệm, tức là đă phan duyên nơi đó. Những điều ấy đều là chuyện tạo nghiệp, kẻ b́nh phàm chẳng thể giác ngộ!

          Chúng ta học pháp môn Niệm Phật phải biết: Kẻ b́nh phàm chẳng thể ngay lập tức sám hối trừ sạch tội ác được! Chẳng sai! Sám hối có thể trừ khử [tội nghiệp], nhưng phải hỏi: “Chúng ta có công phu ấy hay chăng? Có năng lực để sám hối như vậy hay không?” Kinh dạy: “Tội tùng tâm khởi, tương tâm sám” (Tội từ tâm khởi, dùng tâm sám). Phải sám hối bằng chân tâm th́ mới có thể [sám trừ nghiệp chướng], nhưng có mấy ai trong chúng ta có thể dấy khởi chân tâm của chính ḿnh? Kẻ b́nh phàm chẳng liễu giải, v́ sao ắt phải đến Tây Phương Cực Lạc thế giới? [Họ cứ nghĩ] ở trong nhân gian có thể thành Phật, có thể xuất ly lục đạo luân hồi, chẳng biết chính ḿnh có bao nhiêu tội, cũng chẳng biết chính ḿnh có năng lực có thể trừ sạch tội hay không? Do vậy, người học Phật chúng ta phải thời thời khắc khắc phản tỉnh công phu của chính ḿnh, rất hiện thực! Khi chúng ta gặp phiền năo đưa tới, Phật hiệu chẳng đè nén được, có thể suy ra để thấy công phu của chính ḿnh đạt đến mức độ nào! Dùng Phật hiệu mà chẳng đè nén phiền năo được, chúng ta c̣n có thể giải trừ tội ác từ vô thỉ kiếp tới nay hay không? Liễu giải điều này, chúng ta ắt phải mong cầu văng sanh thế giới Cực Lạc, phải đới nghiệp văng sanh. Trong hiện thời, có những kẻ nói “chẳng cần đới nghiệp văng sanh”, hoặc “căn bản là chẳng cầu văng sanh, cứ ở ngay trong thế giới Sa Bà mà thành tựu”. Bản lănh của họ ra sao? Chúng ta không biết, nhưng chúng ta liễu giải chính ḿnh tuyệt đối chẳng đủ sức, phải giác ngộ tầng ư nghĩa này!

          C̣n nữa, điều thứ chín dạy chúng ta phải tin tưởng tuyệt đối: “Những ǵ khác với kiến giải của Phật đều là ma ngữ”. Hễ những kiến giải nào chẳng giống kiến giải của Phật, sẽ đều là ma ngữ, hăy nên tránh xa. Chúng ta học Phật, đức Phật chẳng ở trong thế gian, chúng ta cậy vào đâu? Cậy vào kinh Phật. Nếu có kẻ nói: “Chẳng cần nghe theo lời dạy trong kinh Phật, lời ta nói c̣n cao minh hơn kinh Phật! Kinh Phật do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói từ hơn hai ngàn năm trước, hiện tại là thời đại khoa học, chúng ta phải ăn nói phù hợp khoa học, nói theo kiểu hiện đại th́ mới hữu dụng”. Kẻ nói những lời này, cũng có lẽ học vấn hết sức rộng, của cải và địa vị chánh trị cũng rất cao. Bất luận người ấy có thân phận hoặc địa vị ǵ, chỉ cần kẻ ấy thốt lời bài xích, báng bổ kinh Phật, [những ǵ kẻ đó nói dẫu nghe có vẻ hợp lư đến đâu đi nữa] đều là ma ngữ, đều là những lời lẽ do ma thốt ra, chúng ta chẳng cần nghe theo. Tổ sư cũng nói: “Ly kinh nhất cú, tiện thị ma thuyết” (Ĺa kinh một câu, chính là ma thuyết). Chúng ta thời thời khắc khắc phải ghi nhớ: Chỉ cần bất cứ câu nào chẳng phù hợp kinh văn, sẽ là ma thuyết!

          Lại xem điều thứ mười. Nếu có những kẻ cũng dẫn kinh Phật để nói: “Quư vị nói pháp môn Tịnh Độ, phải văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng trong khá nhiều kinh điển, trọn chẳng nói ‘phải văng sanh Tây Phương’, mà luôn nói ‘phải minh tâm kiến tánh’. Khai phát tự tánh là có thể đoạn phiền năo, thành Phật”. Tuy những kinh đă dẫn cũng toàn là do đức Phật đă nói, nhưng tổ sư nói hay lắm: “Chẳng sai! Kinh đă trích dẫn cũng là do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật nói một bộ kinh ấy [nhằm thích hợp với căn khí của một loại đối tượng nào đó mà thôi]. Quư vị chẳng thể căn cứ trên bộ kinh ấy để phê b́nh, bài bác, phản đối kinh Tịnh Độ Tông”. Rất nhiều kinh giảng về pháp môn thông thường, người dẫn kinh [để phản đối Tịnh Độ] chỉ biết đến pháp môn thông thường! Kinh điển Tịnh Độ Tông là do Thích Ca Mâu Ni Phật dạy về pháp môn đặc biệt, nhất là trong thời kỳ Mạt Pháp, chỉ có pháp môn đặc biệt là thành tựu nhanh chóng nhất. V́ thế, chúng ta tu pháp môn Niệm Phật, hoàn toàn chẳng phải là tất cả các kinh đều nên xem, ắt phải được tổ sư chỉ điểm [những kinh điển nào nên xem ḥng phù hợp với căn khí của chính ḿnh]. Pháp môn đặc biệt là một pháp môn đặc thù, chẳng giống các pháp môn thông thường. Chỉ biết pháp môn b́nh thường mà không biết tới pháp môn đặc biệt, dẫu đọc thông thuộc khắp các kinh điển Đại Thừa, vẫn chẳng hiểu pháp môn đặc biệt! Trong kinh Di Đà, vị đại đệ tử là Xá Lợi Phất trí huệ cỡ nào, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trí huệ cỡ nào, nhưng các vị đại Bồ Tát và đại đệ tử trong suốt bộ kinh ấy chỉ lắng nghe, thậm chí chẳng nêu một câu hỏi nào (chẳng có cách nào hỏi). Có thể suy ra để biết: Pháp môn này chỉ có Phật mới biết, là cảnh giới cao nhất của Phật, những kẻ học Phật b́nh phàm làm sao có thể biết được?

          Sau khi chúng ta liễu giải những điều này, người khác càng xúi giục chúng ta đừng tin lời tổ sư, chúng ta càng phải tăng tấn tín tâm của chính ḿnh. Đấy mới là “tin sâu chẳng nghi”.

 

IV.2.2.15.3. Hồi hướng phát nguyện tâm

 

          Chúng ta đă biết hai loại tâm trước đó, loại thứ ba là hồi hướng phát nguyện tâm: Thệ nguyện nhất định phải văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hồi hướng phát nguyện như thế nào? Có ba điều. Kinh Phật nói đến hồi hướng và phát nguyện rất nhiều. Các pháp môn bất đồng, phải liễu giải ở đây là sự hồi hướng phát nguyện được nói trong Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh của Tịnh Độ Tông, chúng ta phải đặc biệt chú ư (xin xem biểu đồ trong đề cương bài giảng).

          1) “Quá hiện tam nghiệp sở tu thế, xuất thế thiện căn” (Thiện căn thế gian và xuất thế gian đă tu nơi ba nghiệp trong quá khứ và hiện tại): “Quá” () là quá khứ, nhưng chẳng phải là quá khứ của một đời hiện tại này, mà là đời trước của đời trước. Trước đời trước lại có đời trước nữa, đó là “quá khứ”. “Hiện” () là hiện tại, tức là một đời này. “Quá hiện” là thời gian lâu xa từ nhiều đời trong quá khứ cho tới nay, cho đến đời hiện tại này. “Tam nghiệp”: Nghiệp () là tạo tác, những chuyện do kẻ b́nh phàm đă làm được gọi là “sự nghiệp” (事業). Chúng ta nói ba nghiệp là dùng thân thể để biểu hiện, để làm ra các chuyện th́ gọi là “thân nghiệp”, dùng miệng để nói năng, kể cả viết chữ, soạn văn chương, đều gọi là “khẩu nghiệp” (những sự nghiệp được tạo bởi miệng). Ngoài thân và khẩu ra, quan trọng nhất là tư tưởng, tức ư nghiệp. Các thiện căn đă tu, các thiện nghiệp đă tạo nơi ba phần thân, khẩu, ư từ đời quá khứ cho đến đời hiện tại. Có thiện nghiệp th́ mới gieo thiện căn. “Thế” () là thế gian, “xuất thế” (出世) là xuất thế gian, tức vượt ngoài thế gian, có tầng cấp càng cao hơn. Chúng ta học Phật th́ phải học pháp xuất thế gian, v́ trong thế gian đều là chẳng tự do, có sanh tử. Hễ xuất thế gian th́ vấn đề sanh tử đă được giải quyết. Trong đời quá khứ và đời hiện tại, xét theo thiện nghiệp do chúng ta đă tạo nơi thân, khẩu, ư, [sẽ thấy] thiện nghiệp có khi tương ứng với thiện nghiệp thế gian, có khi tương ứng với thiện nghiệp xuất thế gian. Đó là những thiện căn đă gieo trồng.

          Điều thiện thế gian th́ thí dụ như là Ngũ Luân được nói trong văn hóa Trung Hoa: Làm con cái phải trọn hết hiếu đạo đối với cha mẹ. Chính ḿnh trong tương lai, khi khôn lớn, sẽ làm cha mẹ của kẻ khác, có ḷng Từ đối với thế hệ kế tiếp, duy tŕ Ngũ Luân. Thuộc về địa vị nào, bèn ǵn giữ bổn phận thuộc địa vị ấy, trọn hết bổn phận. Đó là thế gian thiện. Xuất thế gian thiện là ngoài những điều thiện thế gian ra, chúng ta nhất định phải cầu đạt được giác ngộ, ĺa khỏi thế gian, mong sao có thể thành tựu thánh nhân. Đó là xuất thế gian thiện. Xuất thế gian thiện hết sức trọng yếu! Thế gian thiện đều chẳng rốt ráo. Tu pháp xuất thế gian, nay chúng ta học Tịnh Độ Tông, tu pháp môn Niệm Phật, một mặt là chính ḿnh niệm Phật, [mặt khác] là cũng khuyên kẻ khác niệm Phật. Trợ công phu là tin nhân quả, làm việc thiện. Đối với nhân quả, ắt phải nói đến nhân quả ba đời, thời thời khắc khắc giữ [ư niệm] “nhân quả ba đời” trong tâm, chính ḿnh tin tưởng sâu xa, làm chuyện ǵ cũng chớ nên trái nghịch nhân quả ba đời. Chúng ta tṛ chuyện với người khác, hăy dạy người ta cũng phải tin sâu nhân quả ba đời. Điều này sẽ giúp cho chúng ta tu xuất thế gian thiện.

          Thiện căn thế gian và xuất thế gian là ǵ? Đối với chữ Căn (), chúng ta đă học rất nhiều điều thiện thế gian và xuất thế gian, do những điều thiện ấy, dần dần vun bồi căn lành ấy. “Căn” có ư nghĩa giống như một cái cây, sanh trưởng rất vững chắc nơi đất, sâu dầy đến nỗi chẳng thể nhổ được. Đấy là một ư nghĩa. Hơn nữa, Căn không chỉ có thể bén rễ vững vàng rất chắc chắn, mà c̣n có thể sanh trưởng. Đă có căn, lại tiếp tục tạo thiện nghiệp. Chúng ta cũng có thể dùng văn hóa Trung Hoa để xem xét điều này. Trong thiên Hồng Phạm của sách Thượng Thư có nói tới Ngũ Phước, trong đó có “du hảo đức”. “Du hảo đức” (攸好德) là [ưa chuộng] thiện căn. Một người gặp được thiện sự hoặc chuyện công đức liền yêu thích thực hiện. V́ sao yêu thích thực hiện? V́ có Căn. Hễ có Căn, sẽ thời thời khắc khắc phát ra ngoài. “Căn” ấy hoàn toàn chẳng phải là ngẫu nhiên, mà là do từ nhiều đời tới nay đă tu thiện nghiệp, sau đấy mới sanh ra cái Căn này. Nói theo ư nghĩa th́ một mặt là cái nhân có thể sanh ra quả, mặt khác cũng là cái quả đă được sanh. V́ thế, trong văn hóa Trung Hoa, “du hảo đức” được thiên Hồng Phạm coi là một phước trong Ngũ Phước. Nếu chẳng từ thiện căn để liễu giải, “du hảo đức” là tạo thiện nghiệp, chính là nhân. V́ sao nó là một phước trong Ngũ Phước? “Phước” là phước báo (quả), v́ sao có thể là quả? Chẳng giải quyết nghi vấn này, đối với văn hóa Trung Hoa, sẽ chẳng thể nói thông suốt được, chẳng hiểu rơ! Bởi lẽ, thiện căn xét theo một mặt th́ là nhân; xét theo mặt khác, nó lại là quả. Căn chẳng phải là rất nông cạn, mỏng manh (làm một ít thiện nghiệp trước mắt sẽ đạt được quả), mà là Căn đă gieo trồng từ nhiều đời đến nay. Trong nền văn hóa chân chánh của Trung Hoa, các bậc đại nho đều tin sâu nhân quả ba đời. V́ thế, khi trả lời thư tín, Ấn Quang đại sư thường nhắc tới Ngũ Phước và Lục Cực[1] trong sách Thượng Thư. Đấy chính là học thuyết “nhân quả ba đời” của Nho gia.

“Thiện căn” là thiện nghiệp thế gian và xuất thế gian do chúng ta đă tu tập, vun bồi nơi ba nghiệp thân, khẩu, ư trong nhiều đời nhiều kiếp và trong một đời này mà thành. Đă có thiện căn, nhất định là có thiện báo và phước báo, nhưng chúng ta phải hồi hướng. Có thiện căn, chớ cầu hưởng phước báo như ngay lập tức được thăng quan, phát tài, hoặc sự nghiệp thuận buồm xuôi gió. Chúng ta hăy hồi hướng thiện căn để sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng cầu hưởng các thứ phước báo trong nhân gian, mà cũng chẳng cầu hưởng phước báo trong cơi trời, người. Sau khi đă hưởng hết phước, sẽ lại chuyển thế, sẽ thọ khổ báo. Chúng ta hăy ngẫm xem: Trong thế gian này, có khá nhiều kẻ hưởng phước mà chẳng giác ngộ. Tiếp đó, sẽ phải chịu khổ báo, thế mà chính họ chẳng biết. V́ thế, người học Phật chúng ta phải liễu giải, hăy hồi hướng thiện căn, phát nguyện. Chúng ta mong cho lúc thọ mạng chấm dứt, sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Hễ sanh về thế giới Cực Lạc, đủ mọi nỗi thống khổ đă hứng chịu từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay trong thế gian sẽ được hoàn toàn giải quyết. Chúng ta chẳng cần nghĩ tới những nỗi khổ trong đời quá khứ, [chỉ cần] hồi tưởng những nỗi đau khổ phải chịu của một kiếp người trong đời này, sẽ cảm thấy đúng là chẳng có dũng khí để đời sau sanh làm người lần nữa! Huống hồ, muốn đời sau vẫn làm người cũng chẳng dễ dàng đâu nhé! Do ác nghiệp đă tạo nơi ba nghiệp thân, khẩu, ư của chúng sanh trong nhân gian hiện thời, chẳng bảo đảm đời sau vẫn được làm thân người! Rất có thể là sẽ vào trong tam đồ. Vào trong tam đồ, lại càng đáng sợ hơn nữa! Suy nghĩ như vậy, chúng ta phải phát nguyện kiên định, đem thiện căn hồi hướng phát nguyện về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hễ có nguyện hồi hướng ấy, trước mắt sẽ là hết thảy đều b́nh an, khi thọ mạng chấm dứt, văng sanh chẳng bị chướng ngại. Đấy là phước báo lớn nhất!

          2) “Tùy hỷ tha nhất thiết tam nghiệp thế, xuất thế thiện căn” (Tùy hỷ hết thảy thiện căn ba đời thế gian và xuất thế gian của người khác): Chúng ta thấy thân khẩu ư của người khác tạo thiện nghiệp. Những thiện nghiệp ấy có những điều phù hợp với thiện nghiệp thế gian. Ví như chúng ta thấy một vị hiếu tử, bèn phát tâm hoan hỷ, giúp cho người ấy thành tựu hiếu đạo. Chúng ta thấy người nào thích giúp đỡ bạn bè, chúng ta có năng lực tùy hỷ, phát tâm hoan hỷ, cũng như có mấy phần năng lực bèn [dốc hết mấy phần năng lực] giúp cho người ấy hoàn thành. Đó là [thiện nghiệp] thế gian. Thiện nghiệp xuất thế gian: Chúng ta thấy người phát tâm học Phật, phát tâm niệm Phật, bèn càng phát tâm hoan hỷ, nghĩ đủ mọi phương pháp giúp đỡ người ấy thành tựu thiện nghiệp xuất thế gian. Đó là hết thảy thiện căn thế gian và xuất thế gian mà người khác đang tu tập, ba nghiệp thân, khẩu, ư của người khác đều đang tu, chúng ta tùy hỷ (vui theo họ). Tùy hỷ có công đức tùy hỷ. Chúng ta dùng công đức tùy hỷ để hồi hướng, hồi hướng phát nguyện. Cậy vào công đức tùy hỷ, trong tương lai cũng có thể giúp chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc.

          3) “Sanh bỉ quốc dĩ, hồi nhập Sa Bà, độ hóa chúng sanh” (Đă sanh về cơi ấy, trở lại Sa Bà hóa độ chúng sanh): Trong tương lai, sau khi chúng ta đă sanh về thế giới Cực Lạc, sẽ trở lại Sa Bà hóa độ chúng sanh. Nay bèn phát nguyện này. Đợi đến trong tương lai, khi thọ mạng đă chấm dứt, sau khi sanh về thế giới Cực Lạc, hoàn toàn chẳng phải là một mực hưởng thụ ở bên đó. Hoàn cảnh [trong cơi Cực Lạc] tuy tốt đẹp, nhưng chẳng cần hưởng thụ tại đó, ta phải quay về. Đến thế giới Cực Lạc giống như cầu học bên đó. Đă cầu được học vấn xuất thế gian tốt đẹp, sức lực của chính ḿnh đă đầy đủ, lại quay về thế giới Sa Bà (tức là thế giới này) để hóa độ chúng sanh. V́ sao trong mười phương thế giới chỉ chọn trở lại thế giới Sa Bà? Một người chẳng thể quên nguồn cội. Đời này, chúng ta do cha mẹ sanh ra; trước đời này cũng là do cha mẹ sanh ra, đời đời kiếp kiếp đều do cha mẹ sanh ra. Trong đời này, chúng ta thấy cha mẹ qua đời, trong tâm đau khổ khôn ngằn, chẳng trọn hết hiếu đạo. Đời quá khứ có bao nhiêu cha mẹ? Mỗi đời mỗi kiếp đều có cha mẹ, đương nhiên là chẳng nhất định ở trong nhân gian; trong quá khứ, chúng ta cũng đă từng ở trong các đường khác. Cha mẹ trong các đường đều có, mà cha mẹ đời quá khứ nay đều đang ở trong lục đạo. Ngoại trừ cha mẹ, c̣n có quyến thuộc, bằng hữu, c̣n có con cái, anh em đều ở trong Sa Bà, hoặc trong lục đạo. Chúng ta đến thế giới Cực Lạc chẳng dễ dàng ǵ, đến hoàn cảnh tốt đẹp nhất, trong tâm vẫn vương vấn có nhiều thân nhân ngần ấy c̣n đang ở trong thế giới Sa Bà, có nhiều ngần ấy chúng sanh hứng chịu căn bản khổ năo ở nơi đây. Do vậy, chúng ta nhất định phải phát nguyện trở lại thế gian này để hóa độ họ.

          Đă tới thế giới Cực Lạc, quay về [Sa Bà] dễ dàng, hiệu quả hóa độ chúng sanh to lớn. Nay tuy chúng ta học pháp môn Niệm Phật, chính ḿnh cũng có tín tâm, nhưng chúng ta khuyên người ta niệm Phật, cũng chẳng thể trọn khắp. [Nếu như] thân thích và bạn bè hữu duyên, chúng ta khuyên họ, họ sẽ tin tưởng. C̣n những người chẳng có duyên với chúng ta, thậm chí họ nghĩ chính họ học vấn rất giỏi, hoặc là địa vị rất cao, chúng ta khuyên họ niệm Phật, sẽ chẳng thể khuyên họ nổi! Những người ấy trong đời quá khứ có lẽ cũng có mối quan hệ thân thích rất mật thiết với chúng ta, nhưng hiện thời, chúng ta chẳng biết thân phận của họ trong đời quá khứ, họ cũng chẳng biết thân phận trong đời quá khứ của chúng ta, sức lực mà chúng ta có thể vận dụng [để hóa độ họ] quá nhỏ bé! Sau khi chúng ta đă đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, quay trở về, bằng lời lẽ, bằng biểu hiện nơi thân, miệng, ư, người ta vừa nghe bèn có thể tin tưởng, sức hóa độ chúng sanh to lớn khôn cùng! Tổ sư Ấn Quang đương nhiên là bậc tái lai, lăo nhân gia chẳng cần giảng kinh, thuyết pháp, ngồi yên nơi đó, trong thuở ấy, quan to bất luận thuộc địa vị cao cỡ nào, vừa gặp Ngài bèn nghiêm túc dấy ḷng tôn kính, bội phục đến mức năm vóc sát đất. Khi đó, những bậc đại học vấn rất đông, gặp Ngài cũng đều cung kính khôn cùng! Do vậy, chúng ta phải phát nguyện, nay chúng ta sức lực rất nhỏ, một là phát nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, hai là phát nguyện sẽ trở về hóa độ cha mẹ, quyến thuộc, anh em, bằng hữu nhiều đời nhiều kiếp trong thế gian này. Đấy là thật sự chẳng quên nguồn cội, thật sự trọn hết ḷng hiếu!

          Đối với “tam tâm”, trong Đại Thừa Khởi Tín Luận cũng có ba tâm. Tổ sư chú giải: Ba tâm trong luận ấy và ba tâm trong kinh này phù hợp. Ba tâm trong Đại Thừa Khởi Tín Luận là:         

1) Trực tâm: Ở đây nói là chí thành tâm. Chí thành tâm và trực tâm nhất trí. Trực tâm là trực tiếp niệm vào Chân Như. Ở đây chúng ta nói “chí thành tâm” th́ cũng là cầu nơi tự tánh, phát tâm chân thật, cho nên [trực tâm và chí thành tâm] như nhau.     

2) Thâm tâm: Đại Thừa Khởi Tín Luận cũng nói là thâm tâm. Thâm tâm là đối với pháp tự tánh Chân Như, càng tin càng sâu, trọn chẳng bị dao động bởi tà tri tà kiến.

3) Từ bi tâm, c̣n gọi là đại bi tâm. Đại bi là Đồng Thể Đại Bi, [tức là] coi tất cả chúng sanh khổ năo trong thế gian đều như chính ḿnh. Đấy vẫn là nói theo phương tiện. Nói tới chân lư thật sự, Chân Như bản tánh của chúng sanh và bản tánh của chúng ta là một Thể (đồng thể). Phát cái tâm Đồng Thể Đại Bi, nay chúng ta tuy vẫn chưa chứng đạo, nhưng chúng ta cũng biết hướng đến đạo để cầu, đă nhận biết phương hướng. C̣n có những kẻ không biết, chúng ta phải phát đại bi tâm, phải làm thế nào để khiến cho họ liễu giải Phật pháp tốt đẹp ngần ấy. Không chỉ là khiến cho họ liễu giải Phật pháp, mà c̣n phải làm cho họ liễu giải pháp đặc biệt, tức là trong mấy chục năm ngắn ngủi của cuộc đời này, có thể lập tức giải quyết vấn đề sanh tử trong nhiều đời nhiều kiếp. Đấy là đại bi tâm. Hồi hướng phát nguyện tâm và đại bi tâm là hoàn toàn nhất trí, chúng ta phát nguyện: “Tôi nhất định phải sanh về thế giới Cực Lạc, nhất định phải trở về hóa độ, dẹp trừ, cứu vớt nỗi đau khổ của chúng sanh”. Đấy là đại bi tâm.

          Ba tâm này tách ra để nói th́ có ba loại. Tổ sư chú giải: Khi chúng ta tu tập, hăy viên dung ba tâm. Tu trong một niệm, viên dung ba tâm thành một niệm. Trong khi khởi tâm động niệm, niệm nào cũng đều là ba loại tâm ấy. Một niệm viên tu, thời thời khắc khắc, tâm tâm niệm niệm đều có ba loại tâm ấy được bao gồm trong đó, cái nhân văng sanh bèn được mười phần đầy đủ. Tu “ba tâm trong một niệm” như thế, chúng ta thường nói ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh. Chí thành tâm là chuyên nói theo bản tánh, c̣n thâm tâm là nói tới Tín, hồi hướng phát nguyện tâm là nói tới Nguyện, vậy th́ Hạnh ở chỗ nào? Tổ sư Tịnh Độ Tông là Thiện Đạo đại sư đă nói trong Tứ Thiếp Sớ như sau: “Hạnh được bao gồm trong thâm tâm và phát nguyện tâm”. Trong chú giải, Ngài rất từ bi, nêu ra phương pháp để dụng công. Khi hành, bèn có Chánh Hạnh và Tạp Hạnh (“tạp” () là không thuần túy); tổ sư đă chia Hạnh thành hai loại ấy.

          Chánh Hạnh là nhất tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Ngoài Chánh Hạnh, bèn có những hạnh khác để giúp đỡ, bao gồm lễ Phật (tức lạy Phật), đọc tụng Tịnh Độ Tam Kinh và các kinh điển Đại Thừa khác. Thường ngày, nếu có thời gian, hăy chuyên môn quán tưởng hoàn cảnh tốt đẹp trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức y báo và chánh báo, như ao bảy báu, trong ao có bao nhiêu hoa sen, bao nhiêu quang, sắc, quang minh v.v… các thứ hoàn cảnh tốt đẹp. Lại c̣n chánh báo trang nghiêm: Phật, Bồ Tát, chư thượng thiện nhân. Chúng ta hễ rảnh rỗi, khi có thời gian, tư tưởng hăy đặt nơi những điều đó, trong tâm tưởng cảnh giới ấy, sẽ kết duyên với thế giới Cực Lạc. Ví như chúng ta ở trong nhân gian mong đến một chỗ nào đó, trước hết, đầu óc nghĩ tới nơi đó; sau đấy, thân thể hành động th́ mới đến đó được. Nếu trước đó, tâm tư chẳng nghĩ tới, làm sao có thể đến đó cho được? Cùng một đạo lư như vậy, trong tâm chúng ta thường nghĩ tới hoàn cảnh trong thế giới Cực Lạc, tương lai sẽ đến nơi ấy. V́ thế, chánh công phu là niệm Phật hiệu, trợ công phu là tâm tư của chúng ta nghĩ tới hoàn cảnh ấy. Tưởng hoàn cảnh ấy th́ có lẽ cũng chưa tưởng hoàn toàn. Hễ có thời gian, bèn đọc tụng ba kinh Tịnh Độ, ḥng khởi lên sự nhận thức rất rơ rệt, quen thuộc với hoàn cảnh. Chánh công phu và trợ công phu đều gọi là Chánh Hạnh.

          Tạp Hạnh là ngoài Chánh Hạnh và Trợ Hạnh ra, chúng ta làm đủ thứ các việc thiện trên thế gian, do thân, khẩu, ư biểu hiện ra: Nói một câu tốt lành hướng dẫn người ta đi theo con đường tốt, chúng ta khuyên kẻ khác niệm Phật, hoặc khi [thấy] người khác sắp lâm chung bèn đến trợ niệm. Kẻ lúc thường ngày chẳng học Phật, khi sắp chết, cảm thấy hoảng sợ, nếu chúng ta có cơ hội, sẽ khuyến cáo người ấy. Dẫu người ấy lúc thường nhật chẳng hề tiếp xúc Phật pháp, chẳng biết có Tây Phương Cực Lạc thế giới, lúc b́nh thường, người ấy chẳng quan tâm, tới khi sắp chết, trong tâm dấy lên nỗi sợ hăi. Khi ấy, nếu chúng ta có cơ hội, phải bảo cho người ấy biết về thế giới Cực Lạc, chỉ bảo phương pháp cho người ấy. Lúc đó, người đó không thể chẳng tin tưởng, nói không chừng, thiện căn của người ấy phát hiện, sẽ lập tức có thể văng sanh. Công đức ấy là điều thiện xuất thế gian, là thiện nghiệp tuyệt diệu. Những thiện nghiệp ấy rất nhiều, chỉ cần có lợi cho người ta, đối với những điều lợi lạc chẳng kèm theo tác dụng phụ, hăy tận hết sức giúp đỡ người ta. Đó đều là thiện nghiệp. Tổ sư phân loại những thiện nghiệp ấy là Tạp Hạnh. Tuy là Tạp Hạnh, chúng cũng tuyệt diệu lắm, cũng có thể giúp chúng ta văng sanh, giúp chúng ta tiêu trừ các thứ chướng ngại. Chẳng có chướng ngại, sẽ nắm chắc văng sanh.

          Ở đây là nói tới Thượng Phẩm Thượng Sanh, sau đó là Thượng Phẩm Trung Sanh, Thượng Phẩm Hạ Sanh, măi cho đến cuối cùng, tổng cộng là chín phẩm. Chín phẩm văng sanh đều phải dựa vào điều này: Hiểu pháp môn Niệm Phật. Pháp môn Niệm Phật chỉ cần nhất tâm chuyên niệm Phật hiệu, những điều khác đều là phụ trợ. Chẳng có Trợ Hạnh, sẽ không được! Ví như vận động viên trên sân vận động, trong khi chạy đua, được người khác cổ vũ, tinh thần bèn hăng hái. Nếu người khác chẳng cổ vũ, hiệu quả chẳng thể tốt đẹp ngần ấy. Thậm chí nghe người khác la ó chê bai, người ấy sẽ nhụt chí. V́ thế, chúng ta học pháp môn Niệm Phật, ngoại trừ công phu chánh yếu là tŕ danh niệm Phật, hăy thường đọc tụng ba kinh Tịnh Độ, lễ Phật, lại thường trao đổi ư kiến với các đồng tu, cùng nhau tu tŕ. Điều này sẽ khích lệ, cổ vũ chúng ta rất lớn. Đó là điều tất yếu đối với chuyện văng sanh của chúng ta. Ngoài nhất tâm xưng danh ra, cũng cần phải thường hành những điều khác. Lại c̣n viên dung ba tâm ấy trong một niệm; khi niệm Phật, tâm tâm niệm niệm nơi Phật hiệu. Lúc chẳng niệm Phật, ba tâm ấy luôn tồn tại trong ư niệm của chúng ta, lẽ nào chúng ta chẳng đạt được nhất tâm bất loạn? Lẽ đâu chẳng văng sanh? Đấy là ḷng từ bi của tổ sư. Các Ngài chú giải như vậy, đă vạch ra một con đường rất rơ ràng cho chúng ta. Chúng ta chẳng nghiên cứu kinh, không căn cứ trên chú giải của tổ sư để làm theo, mà nghe theo những kẻ khác! Kẻ khác dẫu nói hay ho cách mấy, mà nếu chẳng tu pháp môn đặc biệt này, sẽ đều là c̣n cách biệt một tầng, đều là kẻ lơ mơ ngoài ŕa. Chúng ta nghe lời của những kẻ lơ mơ ngoài ŕa để làm ǵ? Chúng ta phải nghe những lời dạy của tổ sư Tịnh Độ Tông. Nghe lời dạy của tổ sư, nghe theo kinh Phật th́ mới là ổn thỏa nhất.

          Hăy xem phần kinh văn kế đó: “Hà đẳng vi tam? Nhất giả chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc” (Những ǵ là ba? Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Trọn đủ ba tâm, ắt sanh về cơi ấy). Thích Ca Mâu Ni Phật nói những lời thực tại, “tất sanh bỉ quốc” là ắt sẽ sanh về cơi ấy, nhất định có thể sanh về thế giới Cực Lạc. Hôm nay, tôi nói đến chỗ này.

 

Tập 39

         

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi hai, bắt đầu từ hàng thứ tám. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn.

 

          (Kinh) Phục hữu tam chủng chúng sanh, đương đắc văng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả từ tâm bất sát, cụ chư giới hạnh. Nhị giả độc tụng Đại Thừa Phương Đẳng kinh điển. Tam giả tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Cụ thử công đức, nhất nhật năi chí thất nhật, tức đắc văng sanh.

        ()復有三種眾生,當得往生。何等為三?一者慈心不殺,具諸戒行。二者讀誦大乘方等經典。三者修行六念,迴向發願,願生彼國。具此功德,一日乃至七日,即得往生。

(Kinh: Lại có ba loại chúng sanh sẽ được văng sanh. Những ǵ là ba? Một là từ tâm chẳng giết, đầy đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng. Ba là tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh về cơi ấy. Trọn đủ công đức ấy, từ một ngày cho đến bảy ngày bèn được văng sanh).

 

          Phép Quán này nói về Thượng Phẩm Thượng Sanh, bắt đầu nói đến người muốn học đạo, trước hết phải phát ba thứ tâm: Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Dựa theo chú giải của tổ sư, ba tâm này được tu tŕ trong cùng một niệm. Nói cách khác, học nhân phải liễu giải:

- Chí thành tâm là cái tâm chân thật phát xuất từ bản tánh.

- Thâm tâm là đầy đủ hết thảy các thiện pháp.

- Hồi hướng phát nguyện tâm là phát đại bi tâm.

Sau khi đă liễu giải ba loại tâm ấy, bèn tu ngay trong một niệm. Tu như thế nào? B́nh thường, chúng ta không khởi niệm th́ thôi; hễ khởi niệm, mỗi niệm trong ư niệm sẽ hợp với ba tâm. Nếu ư niệm trái nghịch ba tâm, chẳng thể coi là tu ba loại tâm ấy! Có thể viên dung ba loại tâm trong một niệm, tu tập tốt đẹp th́ sẽ có thể chứng quả, nhất định là văng sanh chẳng có vấn đề. V́ thế, trong lần trước, tôi đă nói, có đủ ba tâm ấy, ắt sanh về cơi kia. Trong kinh văn, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói rơ ràng, rành mạch. Thông thường, chúng ta nói chánh công phu là Tŕ Danh Niệm Phật, nhưng vẫn phải có trợ công phu. Trợ công phu thường được nói là “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành” đều từ trong tâm của chính ḿnh phát ra. Nơi tâm niệm của chúng ta thời thời khắc khắc ǵn giữ ba loại tâm ấy, trợ công phu sẽ hết sức tốt đẹp. Có trợ công phu tốt đẹp như vậy, lại c̣n cộng thêm tŕ danh niệm Phật, sẽ có thể ở trong thiên tai nhân họa hiện thời, chỗ nào cũng đều gặp dữ hóa lành. Khi thọ mạng chấm dứt, sẽ chẳng có chướng ngại, tuyệt đối có thể nắm chắc văng sanh. Trong kinh Phật, đức Phật đă dạy rơ ràng như thế.

          Xin hăy xem phần kinh văn hôm nay: “Phục hữu tam chủng chúng sanh, đương đắc văng sanh” (Lại có ba loại chúng sanh sẽ được văng sanh). Ba loại tâm đă nói trong phần trước chính là ba loại tâm mà người tu hành cũng như mỗi cá nhân cần phải phát, c̣n ở đây là ba loại chúng sanh tu ba loại pháp. Nói phân biệt, nếu một người chẳng thể đồng thời tu nhiều như vậy, chỉ cần đầy đủ bất cứ loại nào trong ba loại ấy cũng được, ba loại chúng sanh ấy cũng có thể văng sanh. “Hà đẳng vi tam?” (Những ǵ là ba), [ư nói] ba loại chúng sanh ấy tu như thế nào? Dưới đây, sẽ tŕnh bày từng điều một.

          “Nhất giả, từ tâm bất sát, cụ chư giới hạnh” (Một là từ tâm chẳng giết, đủ các giới hạnh). Hai câu này đều nói về giới (“từ tâm bất sát” chính là giới sát sanh). “Từ tâm bất sát” hết sức quan trọng, đặc biệt nêu ra. Sau đấy, câu thứ hai mới nói “thọ tŕ các giới”. “Bất sát” là chẳng sát sanh. Phàm là sanh mạng của loài hữu t́nh (chỉ động vật), [bao gồm] nhân loại và những súc sanh ở ngoài loài người. Trong “súc sanh” có gia súc và những động vật hoang dă, những động vật sống trên không, dưới nước và trong rừng rậm. Kinh Phật có nói, nương theo duyên phận và trạng huống xuất sanh khác nhau:

- Có loài sanh bằng thai, như loài người. Các đại động vật bậc cao có rất nhiều loài sanh bằng thai.

- Noăn sanh (sanh bằng trứng) như gà, vịt, ngỗng v.v… C̣n có rất nhiều loại động vật hoang dă khác sanh bằng trứng.

- Thấp sanh là nhờ vào hơi nước để sanh trưởng th́ gọi là thấp sanh.

- C̣n có hóa sanh[2].

Thai, noăn, thấp, hóa đều là chúng sanh hữu t́nh. Đối tượng chẳng giết bao gồm nhiều loại ngần ấy, đương nhiên là trong các đối tượng ấy, những chúng sanh cùng thuộc loài người [như chúng ta] là trọng yếu nhất. Trước hết, phải biết đối tượng của bất sát: Phàm là chúng sanh có t́nh thức, có sanh mạng, đều phải kiêng giết, chẳng thể sát hại! “Sát” là khiến cho sanh mạng bị đoạn dứt, chẳng thể tiếp tục sống sót. Trên đây là nói về đối tượng của chuyện bất sát.

          Lại nói đến người tạo sát nghiệp. Chúng ta là những người thọ giới, hành Bồ Tát đạo, chẳng sát hại, phải liễu giải phương thức giết chóc. Tổ sư chú giải:

- Có khi là dùng khẩu sát. Chẳng hạn như một kẻ có quyền định đoạt sự sống chết của kẻ khác, chỉ cần ban ra một mệnh lệnh, tự nhiên sẽ có kẻ tuân lệnh làm chuyện giết chóc. Kẻ đó bị ai giết? Là do người hạ lệnh dùng miệng để giết.

- Thứ hai là thân sát, [tức là] tự ḿnh động thủ, sử dụng công cụ hoặc là dùng tay để sát hại đối phương.

- Thứ ba là tâm sát, phải chú ư điều này! Chúng ta chẳng xúi giục người khác giết (khẩu sát), cũng không sát hại sanh mạng của chúng sanh (thân sát), nhưng tạo sát nghiệp chẳng phải là đột nhiên không có mảy may ư thức nào, ngay lập tức giết chết người ta, mà là trong tâm đă sớm lập mưu (vạch ra kế hoạch), đấy là “tâm sát”. Dùng đủ mọi tâm tư để lập kế hoạch giết một ai đó. Sau đấy, làm thế nào để tránh bị pháp luật xử phạt. Đó đều là “tâm sát”. Càng nói vi tế hơn chút nữa, phàm là thấy những kẻ bất hảo trong xă hội, chúng ta đối với họ chẳng vừa ư. Tâm nghĩ “kẻ này bại hoại đến tột cùng, nên sớm chết quách cho xong!” Khởi tâm động niệm muốn cho kẻ ấy chết sớm hơn, hoặc là thấy người ta bị kẻ khác giết chết, trong tâm rất vui thích. Thậm chí hy vọng loại người xấu xa ấy sẽ ngay lập tức bị người khác giết chết. Đấy đều là đă phạm giới “tâm sát”.

Giới là một môn học vấn rất thâm áo, nhất định là chính ḿnh phải thời thời khắc khắc thể nghiệm. Người xấu dẫu xấu xa cách mấy, cũng chẳng cần chúng ta khởi sát tâm, tự nhiên có pháp luật của quốc gia trừng trị họ. Pháp luật của quốc gia chẳng trừng trị họ được, tự nhiên sẽ có nhân quả báo ứng trừng trị họ, họ chẳng thể trốn thoát! Chúng ta là người hành Bồ Tát đạo, nếu dấy lên sát tâm, sẽ là phạm giới. Tổ sư chú giải: Có ba loại sát như vậy, bất luận là thân, khẩu, hay tâm, đều phạm vào sát giới. “Từ tâm bất sát” là khéo khống chế chính ḿnh trong ba phương diện này. Hơn nữa, tâm sát là đáng ngại nhất! Chúng ta thấy trong xă hội hiện thời, kẻ bất măn quá ư là nhiều. Thậm chí lỡ gặp phải hai bên đánh lộn, hoặc xem phim ảnh, khi hai bên thiện ác giao tranh, trong tâm luôn mong mỏi một bên [sẽ thắng], thống khoái ngay lập tức giết chết bên kia! Những kẻ b́nh phàm đều rất dễ dấy lên cái tâm ấy. V́ thế, luôn luôn phải khống chế cái tâm ấy, chớ nên phạm giới!

Trên đây, đặc biệt nói về chuyện “từ tâm bất sát”. V́ sao nhất định phải nói tới từ tâm? Từ (): Chẳng hạn như trong văn hóa Trung Hoa, cha mẹ đối xử với con cái luôn bằng tấm ḷng Từ. Bất luận con thơ tệ hại như thế nào, [cha mẹ] rất sợ con bị thương tổn. Hễ thân thể con có chỗ nào chẳng ổn, bèn quan tâm, yêu thương. Bất luận đứa con thuộc lứa tuổi nào, thậm chí con đă khôn lớn, già nua, chỉ cần cha mẹ c̣n sống, con đă sáu, bảy chục tuổi, cha mẹ chín mươi mấy tuổi, vẫn thấy con cái ḿnh là những đứa bé. Tuy con cháu người ấy đă có cháu chắt, nhưng cha mẹ vẫn quan tâm con cái y hệt, đó là “từ tâm”. Từ tâm chẳng có hạn chế, chẳng bị hạn chế bởi thời gian. Đấy là nói về chuyện hành Bồ Tát đạo. Trong tâm lư của đại Bồ Tát, thấy hết thảy chúng sanh đều như con thơ của chính ḿnh, đó là từ tâm. Đây là giải thích dựa theo mặt văn tự.

Nh́n theo nhân quả lục đạo luân hồi trong ba đời: Trong đời quá khứ, chúng ta có bao nhiêu cha mẹ? Đời quá khứ có bao nhiêu quyến thuộc? Bao nhiêu con cái? Qua qua lại lại trong lục đạo, chuyển tới, chuyển lui, trong bất cứ đường nào cũng đều có người nhà, quyến thuộc trong quá khứ. Súc sanh đạo, quỷ đạo, địa ngục, thiên đạo đều có. Nói theo loài người, đời quá khứ cùng nhau là người nhà hoặc quyến thuộc; đời này đôi bên chẳng nhận biết nhau. Đời quá khứ, bất luận là thân thích, người nhà, thân thuộc, hay bạn bè cũng vậy, đều có hảo duyên phận hoặc ác duyên phận. Hảo duyên phận th́ tuy đôi bên chẳng nhận biết nhau, nhưng vừa gặp mặt bèn có hảo cảm đối với người ấy. Vô duyên vô cớ mà có hảo cảm tức là có hảo duyên phận trong đời quá khứ. Hoặc là trọn chẳng nhận biết nhau, nhưng vừa gặp mặt bèn chẳng có hảo cảm, cũng có thể nói là trong đời quá khứ, ta cùng người ấy đă có nhân duyên, chính là duyên phận chẳng tốt đẹp, nay lại gặp gỡ! Nói chung, nhục nhăn của bọn phàm phu chúng ta chẳng thấy rơ ràng. Tuy chẳng thấy rơ ràng, nhưng dựa trên nhân quả luân hồi đă dạy trong kinh Phật để xét, suy nghĩ theo lư, [sẽ biết]: Chúng sanh thuộc loài người cũng thế, mà chúng sanh thuộc các đường khác cũng thế, đều là có mối quan hệ chặt chẽ với chúng ta. Chẳng phải là cùng một gia tộc th́ cũng là thân thích, hoặc bằng hữu. Nay chúng ta thấy họ vô tri, vô thức, sức lực chẳng bằng chúng ta, [phải dấy lên ḷng Từ]. Nói đến “Từ” có nghĩa là ban cho người khác các thứ vui sướng. Chúng ta mong ban vui cho họ c̣n chẳng xuể, huống hồ c̣n muốn sát hại họ, quá thiếu từ tâm!

          Do vậy, từ tâm bất sát, phát huy từ tâm, thấy hết thảy chúng sanh đều là quyến thuộc, con cái, thân thích, bạn bè của chính ḿnh trong quá khứ. Khi phát ra cái tâm ấy, đó chính là ḷng Nhân như Nho gia đă nói, tức là cái tâm bất nhẫn. Chúng ta thấy chúng sanh đang khổ, có cái tâm bất nhẫn, đó là “từ tâm bất sát”. Nếu hỏi: Quư vị thấy kẻ ác mà chẳng giết kẻ đó, nói theo pháp thế gian sẽ là như thế nào? Tôi vừa mới nói, những kẻ ác xét theo pháp thế gian sẽ có pháp luật của quốc gia xét xử, quản chế họ, có nhân quả khống chế họ. Nếu chúng ta thấy kẻ xấu bèn dấy lên sát tâm, có thể sát hại kẻ xấu hay không là một vấn đề. Trước hết, chính ḿnh đă đánh mất từ tâm. Chẳng có từ tâm th́ người bị hại chính là bản thân chúng ta. Do vậy, điều này đặc biệt trọng yếu đối với người tu đạo.

          Chúng ta học Tŕ Danh Niệm Phật. Tŕ Danh Niệm Phật th́ đương nhiên là thông thường phải niệm tốt đẹp, nhưng quan trọng nhất là khi lâm chung, có thể xác thực nắm chắc văng sanh. Xác thực là có thể nắm chắc văng sanh, th́ phải là chẳng có chướng ngại. V́ sao có chướng ngại? Tạo sát nghiệp là chướng ngại lớn nhất. Không chỉ là chẳng thể văng sanh, nếu sát nghiệp dấy lên hiện hành, tội nặng th́ sẽ đọa địa ngục. Giết chóc chúng sanh thuộc về nhân loại chẳng thể nào không đọa địa ngục! Có mức độ nghiêm trọng như vậy đó! “Từ tâm bất sát” nghĩa là đức Phật dạy người tu học phải dưỡng thành ḷng Từ, kiêng giết hết thảy chúng sanh. Chúng sanh thuộc về loài người càng chẳng thể giết! Văn hóa Trung Hoa gọi điều này là “tâm an lư đắc”. Chỉ cần thời thời khắc khắc vun bồi ḷng Từ của chính ḿnh, đối đăi hết thảy chúng sanh, cảm thấy phải nên chiếu cố họ, phải nên giúp đỡ họ, lẽ nào nhẫn tâm sát hại họ? Không chỉ là chẳng đành ḷng sát hại, mà trông thấy kẻ khác giết chóc chúng sanh, chúng ta c̣n mong mỏi có cách nào cứu văn. Đấy là vun bồi ḷng Từ. Từ tâm phát xuất từ chân lư, lâu ngày chầy tháng, sẽ đạt đến tâm an lư đắc. Một người tâm an lư đắc, lúc b́nh thường chẳng có hết thảy những nỗi kinh hoảng. Ở trong xă hội này, bất luận làm chuyện ǵ, qua lại cùng bất luận kẻ nào, trong tâm chúng ta luôn là “tâm an lư đắc”. Tới khi lâm chung, chẳng có bất cứ chướng ngại nào! Thường nhật làm một người tâm an lư đắc; tới khi lâm chung, sẽ tâm an lư đắc tŕ một câu Phật hiệu văng sanh. V́ thế, từ tâm bất sát có tác dụng to lớn ngần ấy.

          “Cụ chư giới hạnh”, “cụ” () là đầy đủ, “chư” () là các thứ. Giới có tại gia giới và xuất gia giới. Bất luận tại gia hay xuất gia, lại c̣n có Bồ Tát Giới. Chia tỉ mỉ ra, sẽ có rất nhiều thứ. Ở đây, trước hết phải chú ư: Cơ bản nhất chính là phải giữ Ngũ Giới. Bất luận tại gia hay xuất gia, Ngũ Giới là cơ bản nhất. Đương nhiên Ngũ Giới của hàng tại gia và chúng xuất gia có chỗ khác biệt. Như giới dâm, hàng xuất gia là thuần túy dứt tuyệt, tại gia theo chế độ vợ chồng, chẳng được phép tà dâm. Bốn giới trước trong Ngũ Giới, tức giới giết, giới trộm, giới tà dâm (tại gia), và giới nói dối đều thuộc về “tánh giới”. Tánh giới nghiêm trọng nhất. Giới thứ năm [tức giới không] uống rượu thuộc loại giá giới[3]. Trong các giới này, chúng ta phải đặc biệt chú ư giới sát, trong phần trên đă nói [về giới này].

Kế tiếp là “đạo giới” (盜戒, giới không trộm cắp). Không chỉ trộm cắp vật của người khác là phạm giới trộm cắp, mà hễ dấy lên cái tâm trộm cắp, người khác chẳng bằng ḷng cho chúng ta thứ ǵ đó, chúng ta nghĩ thứ đó vặt vănh, tiện tay lấy dùng, th́ đă phạm giới trộm cắp. Chẳng được người ta cho phép, chẳng được chủ nhân và người sở hữu vật đó cho phép, cứ tự động lấy dùng, đó là đă phạm giới trộm cắp. Chúng ta cũng thường dễ phạm giới này. Kẻ tại gia không được phép tà dâm, người đă thọ Ngũ Giới đều biết, chẳng cần phải nói.

          Chúng ta cũng hết sức dễ phạm giới vọng ngữ. Lời lẽ chẳng đúng sự thật, hoặc lừa gạt người khác, đều là vọng ngữ. Trong vọng ngữ, lại chia thành rất nhiều loại:

- Ác khẩu (惡口) là lời lẽ chửi bới người khác, hoặc trong lời lẽ có ư châm chích, khiến cho người nghe trong tâm cảm thấy chịu không nổi, đều thuộc loại này.

- Lưỡng thiệt (兩舌) là kích động thị phi giữa hai bên.

- C̣n có ỷ ngữ (綺語), tức là lời lẽ êm tai, chuyên môn dẫn dụ ḷng người, khiến cho người ta đi theo con đường xấu xa, và lời lẽ lung lạc ḷng người của kẻ xấu, đều là chẳng tốt.

Lại c̣n có tiểu vọng ngữ và đại vọng ngữ. Đối với tiểu vọng ngữ, chúng ta cũng hết sức khó giữ. Trong xă hội hằng ngày, chúng ta nói năng với người khác, làm lụng, hăy nghĩ tới “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” như Nho gia đă nói, hễ trái nghịch Tín th́ là vọng ngữ. Giới điều vọng ngữ này, nếu nói cặn kẽ, cũng hết sức nhiều. Nói “nhiều” là như thế nào? V́ bất cứ lúc nào, chúng ta đều có cơ hội phạm những tội vọng ngữ ấy. V́ thế, mọi người ắt phải liễu giải t́nh h́nh phạm giới, luôn luôn ôn tập th́ mới có thể liễu giải chính ḿnh có phạm giới hay không, và cũng mới có thể khéo dụng công trong ấy.

          Đại vọng ngữ là ǵ? Chẳng phải là tiểu vọng ngữ tầm thường. Đại vọng ngữ là nói theo phía người học Phật. Người học Phật học Phật lư, cũng học rất khá, tổ sư thường nói “chưa đắc mà bảo là đă đắc”, đắc ǵ vậy? Đắc pháp ǵ? “Chưa chứng đă bảo là chứng”, chẳng chứng đắc quả vị mà quư vị nói là đă chứng quả. Đó là đại vọng ngữ. “Chưa đắc” là ǵ? Đắc ǵ vậy? Chẳng hạn như kinh Phật nói tới thần thông, có Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Túc Mạng Thông, Tha Tâm Thông v.v… Nếu chúng ta khoe với người khác chúng ta đă đắc một loại thần thông nào đó, trên thực tế, thứ ǵ ta cũng chẳng thông, nhưng cứ nói với người khác ta đă đắc một loại thần thông chi đó. Đấy là đại vọng ngữ, chưa đắc thần thông mà nói là đă đắc thần thông! V́ sao chưa đắc mà nói là đă đắc? Không ǵ chẳng nhằm mong người khác tôn kính quư vị, nghĩ quư vị là một người lỗi lạc, nhưng quư vị đă phạm giới vọng ngữ! Đối với chứng quả, Tiểu Thừa chứng Sơ Quả ắt phải đoạn Thân Kiến, chớ nên chấp trước thân thể. Thử hỏi trong hiện thời, có ai trong chúng ta chẳng có Thân Kiến? Chỉ cần có Thân Kiến tồn tại, chẳng hạn như nói để thành La Hán, Sơ Quả phải đoạn Kiến Hoặc. Số lượng Kiến Hoặc có bao nhiêu phẩm? Đầu tiên là phải đoạn Thân Kiến, người hiểu học lư đều biết: Nếu có kẻ nào nói họ đă chứng Sơ Quả, Nhị Quả, Tứ Quả La Hán, cho đến nói là Bồ Tát tái lai, chẳng được rồi! Thảy đều là đại vọng ngữ! Phạm đại vọng ngữ là phạm giới luật nghiêm trọng, chúng ta phải đặc biệt chú ư điều này! Bất luận là thần thông cũng thế, mà chứng quả cũng thế; chỉ cần dụng công, công phu đă đạt mức, thần thông sẽ tự nhiên phát hiện. Hễ có công phu định lực, tự nhiên có thần thông. Chẳng có công phu định lực, lấy đâu ra thần thông? Người ta có thần thông cũng chẳng nói! Người đă chứng quả vị cũng chẳng đi khắp nơi khoe “ta đă chứng quả chi đó”, chẳng thể nói chuyện này! Huống hồ chính ḿnh căn bản là chẳng đắc chi hết, chẳng hề chứng, cứ khoe khoang th́ chẳng phải là đă phạm tội đại vọng ngữ ư?

          Những giới khác rất nhiều, chúng tôi chẳng nói cặn kẽ. Giữ ǵn “từ tâm chẳng giết, trọn đủ các giới hạnh”, trọn đủ giới này, giữ rất khá, hễ làm được điều này, những chúng sanh đă làm được th́ văng sanh sẽ chẳng có vấn đề ǵ!

          “Nhị giả độc tụng Đại Thừa Phương Đẳng kinh điển” (Hai là đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng): Có thể đọc tụng những kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng. Kinh điển Phương Đẳng có rất nhiều, trong đó, có tánh chất tiêu biểu nhất là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Nghiên cứu kinh điển Đại Thừa, hoặc thường đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng, tâm lư sẽ phát sanh sự chuyển biến thuận theo kinh điển. Vạn pháp duy tâm, tâm lư chuyển thành tốt đẹp hay xấu xa, duyên rất có quan hệ. Chúng ta thường tiếp xúc người, sự việc, các thứ hoàn cảnh xấu hèn, tâm lư sẽ bị ô nhiễm. Thường xuyên tiếp xúc nhân duyên tốt đẹp, tâm lư sẽ chuyển biến tốt đẹp. Cổ nhân cũng nói: “Dữ ác nhân giao, như nhập băo ngư chi tứ, cửu nhi bất văn kỳ xú” (Chơi với kẻ ác giống như vào trong tiệm cá muối, ở lâu, sẽ chẳng ngửi thấy mùi tanh hôi nữa). Vốn là người tốt, thoạt đầu tiếp xúc với kẻ ác, cảm thấy họ chẳng phải là loại người giống như chúng ta, nhưng thường qua lại với họ, tai mắt dần dần tiêm nhiễm, lâu ngày chầy tháng, nơi hành vi, ngôn ngữ, cách nghĩ, sẽ nhất trí với họ, chẳng cảm thấy có ǵ không tốt, sẽ học theo họ. Ngược lại, giao du với thiện nhân, vừa khởi đầu, bèn cảm thấy quá tốt đẹp, giống như vào trong một căn pḥng có trồng chi lan[4], hương thơm thanh khiết dường ấy! Mới vào bèn cảm thấy một bầu hương thơm thanh khiết, nhưng lâu ngày sẽ chẳng ngửi thấy mùi hương ấy nữa, lâu sau sẽ chẳng cảm thấy nữa. Chính ḿnh và mùi hương đă dung hợp với nhau, nó có tác dụng cảm nhiễm! Từ chỗ này, có thể suy ra: Chúng ta thường xuyên đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng, Tam Tự Kinh cũng có nói: “Khẩu nhi tụng, tâm nhi duy”, [ư nói] miệng đọc, tâm đặt ngay nơi sách. Kinh Phật cũng nói “tùy văn nhập quán”, nghĩa là thuận theo kinh văn, trong tâm dựa trên ư nghĩa được nói trong kinh văn để suy tưởng ư nghĩa đă dạy trong ấy, tâm sẽ chuyển biến thuận theo nghĩa lư của kinh văn, tâm chúng ta chẳng biến đổi tốt lành theo kinh văn ư? Bởi lẽ, pháp do đức Phật đă nói chính là pháp khế cơ. Đối với từ tâm, trong phần trước đă nói là “từ tâm bất sát”. Đối với loại chúng sanh thứ nhất, phương diện tâm lư này rất dễ dẫn phát. Có thể ǵn giữ từ tâm, sẽ dễ dàng thành tựu.

Loại chúng sanh thứ hai rất thích xem sách (duyệt đọc). Chớ nên đọc những sách vở vô ích của thế gian, hăy đọc kinh điển Đại Thừa. Tâm và ư nghĩa của kinh dung hợp nhất trí, huống hồ nói đến chỗ thật sự: Đối với mỗi một bộ kinh Đại Thừa, nếu nói đến phần Thể trong năm tầng huyền nghĩa, do [bất cứ bộ kinh Đại Thừa nào cũng] dùng Thật Tướng để làm Thể, những nghĩa lư đă nói trong kinh chính là bản tánh của chúng ta. Đọc tụng kinh điển Đại Thừa nhằm làm sáng tỏ bản tánh của chúng ta. Loại chúng sanh thứ hai này đọc tụng kinh điển Đại Thừa cũng sẽ được văng sanh, giúp chúng ta niệm Phật ắt được văng sanh.

Thứ ba, “tam giả tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc” (ba là tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh về cơi ấy). Đối với cái gọi là “lục niệm”, ba niệm trước là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Niệm Phật. Tịnh Độ Tông tu pháp môn Niệm Phật, đặc biệt là nói đến chuyện niệm A Di Đà Phật. Niệm Pháp là nói đến pháp môn Niệm Phật trong Tịnh Độ. Chúng ta dựa vào các kinh điển Đại Thừa, bất luận tự ḿnh xem cũng thế, mà giảng cho kẻ khác nghe cũng thế, ắt phải chiếu theo lời dạy của tổ sư Ấn Quang: “Ngàn kinh vạn luận, chốn chốn chỉ quy”, [nghĩa là] bất luận giảng kinh kiểu nào, đều phải hướng dẫn về Tịnh Độ Tông. Tuy ba kinh một luận của Tịnh Độ là cơ bản, về sau, mở rộng thành năm kinh Tịnh Độ; thật ra, chiếu theo lời tổ sư Ấn Quang đă dạy, hành Bồ Tát đạo, tuyên dương Tịnh Độ Tông, bất luận giảng một bộ kinh nào, cũng đều phải chỉ quy Tịnh Độ Tông. Niệm Tăng: Hết thảy những người chánh thức xuất gia có Tăng tướng, đă thọ Cụ Túc Giới th́ là Tăng. Tăng là “ḥa hợp”. Đấy là Biệt Tướng Tam Bảo, [tức là Tam Bảo được] nói phân biệt. C̣n có Nhất Thể Tam Bảo, Nhất Thể Tam Bảo là:

- Phật: Trong tự tánh của chúng ta có Phật.

- Pháp: Thể được nói trong hết thảy các kinh điển Đại Thừa chính là bản tánh. Trong bản tánh có pháp, có vô lượng, vô tận pháp môn.

- Tăng: Tăng trong tự tánh. Ǵn giữ giới chính là tự tánh Tăng.

V́ sao kinh A Di Đà nói “giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng” (thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng)? “Tự nhiên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”, khi đă đạt tới cảnh giới sâu xa ấy, cảnh giới cao sâu là niệm Tự Tánh Tam Bảo. Ba niệm đầu trong lục niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

          Chúng ta nghiên cứu kinh văn, nghiên cứu đến lúc thật sự dụng công, nhất định phải phân biệt, biện định rơ ràng: [Xét theo] Lư, sẽ có Biệt Tướng Tam Bảo, Nhất Thể Tam Bảo, và Tự Tánh Tam Bảo; nhưng chẳng thể nói “ta đă hiểu Tự Tánh Tam Bảo, ta niệm Phật là niệm Tự Tánh Phật, Tự Tánh Di Đà”. Thấy người xuất gia, bèn nói: “Trong tự tánh, ta là người xuất gia”. Chẳng thể nói như vậy! Thật sự học Tịnh Độ Tông, thiện tri thức thường nói như thế này: “Phải thật thà niệm Phật”. Thật thà niệm Phật là ǵ? Thật thà niệm Phật là nói với người có học vấn, đă nghiên cứu Duy Thức Tông, Tam Luận Tông, Hoa Nghiêm, Thiên Thai, hiểu pháp môn rất nhiều, đều biết tới Tự Tánh Tam Bảo. Chúng ta niệm Phật cũng hiểu, bèn niệm theo [Tự Tánh Tam Bảo] đúng như vậy! Chẳng có thành tựu đâu nhé! Niệm như vậy chẳng được! Từ vô thỉ tới nay, tập khí của chúng ta quá sâu, khi nào th́ mới có thể niệm cho ra Tự Tánh Tam Bảo? Niệm chẳng ra! [Vậy th́] ắt phải thật thà niệm Phật, niệm một câu A Di Đà Phật. A Di Đà Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế giới, hăy toàn tâm toàn ư niệm Ngài, cầu cho khi chúng ta lâm chung, A Di Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn chúng ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nay trong hết thảy mọi lúc, bất cứ lúc nào, chúng ta đều niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. Đó là thật thà niệm Phật. Khi niệm, chẳng có cái tâm năng niệm và đức Phật được niệm (sở niệm Phật). Niệm đến khi Năng và Sở ḥa thành một khối, công phu sẽ hiện hành. Chuyện này cần phải cậy vào “thật thà niệm Phật”. Thật thà niệm Phật th́ mới có thể niệm Phật vô phân biệt. Nếu dùng học lư của tông Duy Thức để niệm Phật, niệm cho ra bản tánh của chính ḿnh, công phu ấy cũng chẳng thể dùng được tí nào! Tổ sư Tịnh Độ Tông bảo niệm Phật th́ phải thật thà niệm Phật, niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật.

          Ba niệm đầu trong sáu niệm chính là Phật, Pháp, Tăng, niệm thứ tư là niệm Giới. Trong phần trước, đă nói Giới là “trọn đủ các giới”, phải ǵn giữ giới! Giới rất trọng yếu. Chính ḿnh gặp phải cảnh giới, có dấy lên cái tâm giết chóc hay chăng? Có dấy lên cái tâm trộm cắp hay không? Ngay lập tức nhắc nhở [chính ḿnh] phải giữ giới! Bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến Giới th́ sẽ hữu dụng.

          Thứ năm là niệm Xả, Xả trong “từ, bi, hỷ, xả”. V́ sao chúng ta phải niệm Xả? Hành Bồ Tát đạo là đối với điều khó bỏ mà có thể bỏ. Đối với quyền lực và danh lợi trong thế gian, người ta mong muốn danh, chúng ta chẳng tranh danh với người khác, nhường cho người ta th́ giống như Xả vậy! Người ta tranh quyền, chúng ta cũng chẳng tranh giành với họ. Đó là Xả, tức là vứt bỏ. Phàm những ǵ người ta muốn tranh, chúng ta đều chẳng tranh cùng họ, xả vật ngoài thân. Đó là ngoại xả. Bậc đại Bồ Tát thật sự c̣n có nội xả, người thọ Bồ Tát Giới đều biết: Đốt cánh tay cúng Phật chính là biểu thị sự nội xả. Lương Vũ Đế xả thân vài lượt, buông bỏ địa vị và thân phận vua một nước, ở trong chùa miếu làm nô lệ thay cho người khác. Đó là xả thân. C̣n có những vị đại Bồ Tát vào thời cổ xả thân cho hổ đói ăn. Đấy đều là nội xả. Nhưng tôi phải nhắc nhở mọi người chuyện này: Những khí quan nào đó trên thân thể có cần bỏ hay không? Đấy là vấn đề thuộc về công phu. Công phu chưa đến mức, có mấy ai trong bọn chúng sanh phàm phu chứng quả? Chưa chứng quả, chưa đạt đến địa vị đại Bồ Tát, chẳng thể nói như vậy! Đă đạt tới địa vị đại Bồ Tát, có thể móc mắt ra để thí xả, ngay lập tức, mắt có thể mọc lại, ngay lập tức lại khôi phục, [các vị đại Bồ Tát] có công phu ấy. Phàm phu chẳng có công phu ấy, móc mắt ra, sẽ chẳng có con mắt thứ hai, làm thế nào hóa độ chúng sanh cho được? Hơn nữa, cầu văng sanh là điều quan trọng nhất. Khi văng sanh, đem con mắt móc ra, thân thể bị đau đớn, [do đánh mất chánh niệm] chẳng thể văng sanh! Phải đặc biệt chú ư điều này, hăy tự lượng năng lực của chính ḿnh. Đấy là nói về Xả.

          Thứ sáu là niệm Thiên. Nói nông cạn, [niệm thiên] là niệm Sắc Giới Thiên; vượt lên trên Dục Giới, niệm Sắc Giới Thiên và Vô Sắc Giới Thiên. Nói đến tột cùng, sẽ là Đệ Nhất Nghĩa Thiên. Đệ Nhất Nghĩa là ǵ? Chứng từ Thập Địa Bồ Tát trở lên, sắp thành Phật, bản tánh của chính ḿnh hoàn toàn khai phát. Đấy là Đệ Nhất Nghĩa Thiên. Phải niệm những điều này. Nói cách khác, chúng ta thời thời khắc khắc phải niệm bản tánh của chính ḿnh.

          Đối với sáu niệm, thảy đều phải hồi hướng phát nguyện. Bất luận là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả, niệm thiên, thảy đều hồi hướng, nguyện sanh về thế giới Cực Lạc. Có ba hạng người “cụ thử công đức” (trọn đủ công đức này): Một là từ tâm chẳng giết, đầy đủ các giới hạnh, hai là đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng, ba là tu hành sáu niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh về cơi ấy. “Nhất nhật năi chí thất nhật, tức đắc văng sanh” (Từ một ngày cho đến bảy ngày, liền được văng sanh): Từ một ngày cho đến bảy ngày chính là nguyên tắc, nói theo lúc văng sanh. Có người trong một ngày bèn có thể văng sanh, có người cần phải bảy ngày. Trước khi văng sanh, suốt một đời đều làm như thế, sẽ có thể văng sanh. “Tức đắc văng sanh”: Trọn đủ bất cứ một loại nào trong ba loại ấy, sẽ đều có thể văng sanh. Hôm nay, tôi nói tới đây bèn ngưng.

 

Tập 40

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi ba, bắt đầu từ hàng thứ nhất, tôi đọc trước một đoạn kinh văn:

 

          (Kinh) Sanh bỉ quốc thời, thử nhân tinh tấn dũng mănh cố, A Di Đà Như Lai, dữ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, bách thiên tỳ-kheo, Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, thất bảo cung điện. Quán Thế Âm Bồ Tát, chấp kim cang đài, dữ Đại Thế Chí Bồ Tát, chí hành giả tiền. A Di Đà phật, phóng đại quang minh, chiếu hành giả thân, dữ chư Bồ Tát, thọ thủ nghênh tiếp. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dữ vô số Bồ Tát, tán thán hành giả, khuyến tấn kỳ tâm.

        ()生彼國時,此人精進勇猛故,阿彌陀如來,與觀世音,大勢至,無數化佛,百千比丘,聲聞大眾,無量諸天,七寶宮殿。觀世音菩薩,執金剛臺,與大勢至菩薩,至行者前。阿彌陀佛,放大光明,照行者身。與諸菩薩,授手迎接。觀世音、大勢至,與無數菩薩,讚歎行者,勸進其心。

(Kinh: Khi sanh về cơi ấy, do người ấy tinh tấn, dũng mănh, A Di Đà Như Lai và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn tỳ-kheo, Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, cung điện bảy báu. Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cang, cùng với Đại Thế Chí Bồ Tát tới trước hành giả. A Di Đà Phật phóng đại quang minh, chiếu thân hành giả, cùng với các vị Bồ Tát x̣e tay đón tiếp. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, và vô số Bồ Tát tán thán hành giả, khuyến tấn tâm người ấy).

 

          Phép Quán này vẫn là tiếp tục của phép Quán thứ mười bốn. Bắt đầu từ phép Quán này, [đức Phật] nói về t́nh huống văng sanh trong chín phẩm. Chúng ta tu Tịnh Độ Tông, niệm Phật trong một thời gian dài suốt một đời này, hy vọng trong một đời này, sau khi sanh mạng kết thúc, có thể rất thuận lợi văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́ sao? Ở trong thế gian này, muốn thành Phật, tu Phật pháp, mà tu những pháp môn thông thường khác, muốn thành tựu sẽ hết sức khó khăn. Đừng nói là thành Phật, muốn ĺa khỏi lục đạo luân hồi cũng đă hết sức khó khăn. Nhất là trong hiện thời, chúng ta nh́n vào hoàn cảnh trên toàn thế giới, bất cứ nơi đâu cũng đều khiến cho người ta khó thể chịu đựng! Thiên nhiên bị ô nhiễm rất nhiều, chúng sanh thuộc nhân loại đều tranh tới, tranh lui, người trong thế gian mà! Tranh những ǵ? Bất luận trong nước hay ngoài nước, quư vị xem báo chí, tin tức, khắp nơi đều tràn ngập bạo lực. Bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, cũng đều có thể phát sanh những chuyện như bạo động tập thể, quăng bom, gài bom, nhiễu loạn xă hội! Quư vị hăy ngẫm xem: Hoàn cảnh sống như thế đó! Người tu đạo chúng ta hễ suy nghĩ, [sẽ thấy rơ] hoàn cảnh ấy hết sức xấu xa, hèn tệ. Mong thành tựu đạo nghiệp hoặc thành Phật trong hoàn cảnh ấy, há dễ dàng ư? Phải tới khi nào th́ mới có thể thành tựu? Do vậy, ắt phải mong cầu sanh vào hoàn cảnh thanh tịnh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hễ đạt đến hoàn cảnh thanh tịnh ấy, tự nhiên tất cả mọi người đều thanh tịnh, nhất định là sẽ có thể thành tựu rất nhanh. Cũng giống như vậy, mong cầu văng sanh, phẩm vị sẽ cao, có chín bậc văng sanh. Phẩm vị càng cao, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thời gian thành Phật càng nhanh chóng. V́ thế, chín phẩm văng sanh được nói ở đây, đối với chuyện tŕ danh niệm Phật, chúng ta phải liễu giải sau khi văng sanh, sẽ đạt được phẩm vị ǵ. Đoạn kinh văn này hết sức trọng yếu!

          Đức Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy, người mong văng sanh thế giới Cực Lạc, phải phát ba loại tâm: Thứ nhất là chí thành tâm, thứ hai là thâm tâm, thứ ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Viên dung ba loại tâm ấy trong một niệm, bất cứ niệm nào cũng bao gồm ba loại tâm này. Nói cách khác, chúng ta trong lúc b́nh thường, khi khởi tâm động niệm, một niệm sẽ bao gồm ba loại tâm ấy. Ba loại tâm ấy hết sức trực tiếp, từ bản tánh phát xuất. Lại dùng những tâm ấy để hồi hướng thế giới Cực Lạc, mong sanh về thế giới Cực Lạc. Do vậy, tu tập ba loại tâm ấy đến mức công phu tốt đẹp, có thể đoạn Hoặc, tức là đoạn Kiến Tư Hoặc, đoạn Trần Sa Hoặc. Căn cứ theo lời dạy của tổ sư tông Thiên Thai, đoạn Kiến Tư Hoặc và đoạn Trần Sa Hoặc chính là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Trong ấy, dựa theo sự đoạn Hoặc, cũng chia thành phẩm vị. Chẳng hạn như nói: Do Hoặc của Sơ Địa và Hoặc của Nhị Địa bất đồng, cho nên trong thượng phẩm, lại chia thành ba phẩm. Đă đoạn Hoặc chia thành ba phẩm thượng. Nếu chẳng đoạn Hoặc, có thể đè nén Kiến Tư Hoặc và Trần Sa Hoặc, chẳng để phiền năo dấy lên, khởi hiện hành, đều có thể khuất phục chúng, sau khi văng sanh, phẩm vị sẽ đạt được thuộc về ba phẩm trung, tức Trung Thượng, Trung Trung, và Trung Hạ. Nếu chẳng thể chế ngự Hoặc, tức là thuần túy đới nghiệp văng sanh, phục Hoặc (chế ngự Hoặc) cũng là đới nghiệp. Nếu hoàn toàn chẳng thể chế phục, tức là mang theo nghiệp càng nặng nề hơn, sẽ thuộc vào ba phẩm Hạ, tức Hạ Thượng, Hạ Trung, và Hạ Hạ. Do vậy, tu ba loại tâm được nói ở đây sẽ thông suốt với những phần sau. Tùy thuộc công phu chúng ta tu tập cạn hay sâu mà một mực nói xuyên suốt cho đến những phần sau.

Kế tiếp ngay sau ba tâm ấy, [kinh văn bèn nói] có ba hạng người, tức là: 1) Từ tâm chẳng giết. 2) Đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng. 3) Tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện. Trong phần trước, tôi đă từng nói, hễ tu hành ba loại ấy, tu tốt đẹp, cũng là chiếu theo tŕnh độ như thế nào mà chia thành các phẩm vị Thượng, Trung, Hạ. Đó là những điều đă nói trong hai lần trước, chúng ta hăy nhớ lại đôi chút, sẽ càng dễ hiểu rơ những điều sắp được nói tiếp theo đây.

          Nay chúng ta xem câu “sanh bỉ quốc thời” (khi sanh về cơi ấy). Trong phần trước, đă nói ba loại tâm, lại nói đến ba loại chúng sanh, tu ba loại phương pháp, sau khi đă tu tốt đẹp, lúc thọ mạng đă hết bèn văng sanh. Chữ “bỉ quốc” chỉ Tây Phương Cực Lạc thế giới. Khi sanh về cơi ấy, ngay khi sắp văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, khi sắp ĺa khỏi, nhưng vẫn chưa rời đi, “thử nhân tinh tấn, dũng mănh cố”, [ư nói] sanh mạng đă chấm dứt, đến lúc then chốt khẩn yếu ấy, người đó có thể tinh tấn dũng mănh, tuyệt diệu thay! Lại c̣n ngay trong lúc sắp tắt hơi, nhưng chưa [thật sự] ngừng thở, bèn tinh tấn, dũng mănh, mạnh mẽ hơn công phu lúc b́nh thường chẳng biết bao nhiêu lần. V́ sao? Khi chúng ta dụng công niệm Phật trong lúc thường ngày, luôn cảm thấy ngày tháng c̣n dài, hiện thời ta niệm Phật, tâm có rảo chạy loạn xạ vẫn chẳng sao, chứ lúc then chốt sanh tử, sẽ nguy hiểm lắm! Lúc đó, có một điều kiện tiên quyết: Ngàn vạn phần chẳng thể có bất cứ chướng ngại nào! Nói “bất cứ chướng ngại” là nói đến thân quyến trong nhà khóc lóc, rên rỉ, chẳng nỡ xa ĺa, nhiễu loạn người ấy. Hơn nữa, chính ḿnh lâm vào trạng thái hôn mê. Người đó lúc ấy chẳng có chướng ngại, tâm sáng suốt, có thể tinh tấn, dũng mănh. Nói “tinh tấn, dũng mănh” tức là [nói tới] ba loại tâm trong phần trước, lại c̣n có “từ tâm, chẳng giết, đủ các giới hạnh, đọc kinh điển Phương Đẳng”, cùng với sáu niệm, hiện thời đều có thể nhớ lại, hiện thời [những điều ấy] đều ở ngay trong ư niệm, chẳng nghĩ ǵ khác, nhất tâm đều dung nhập vào pháp, nhất tâm mong cầu sẽ được văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, bất cứ chỗ nào [ngoài Cực Lạc ra] cũng đều chẳng đến. Đó gọi là “tinh tấn, dũng mănh”. “Tinh tấn dũng mănh cố” như vậy, chữ “cố” () nói theo cách hành văn, sẽ là “có điều kiện”. [“Tinh tấn dũng mănh cố” nghĩa là] do v́ người ấy trọn đủ những điều kiện tinh tấn, dũng mănh ấy.

          Tiếp đó là kết luận, “A Di Đà Như Lai, dữ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí”, c̣n có “vô số Hóa Phật”. Bài kệ Tán Phật có câu “quang trung Hóa Phật vô số ức” (trong quang minh có vô số ức Hóa Phật) là nói đến những vị Hóa Phật này, c̣n có “bách thiên tỳ-kheo, Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên” (trăm ngàn tỳ-kheo, đại chúng Thanh Văn, vô lượng chư thiên) đều đến, mang theo “thất bảo cung điện” (cung điện bảy báu) đến để làm ǵ? Chúng ta thường nói Tây Phương Phật đến tiếp dẫn, các Ngài đến tiếp dẫn. Chúng ta thường lo ngại Tây Phương Cực Lạc thế giới xa xôi dường ấy, ở ngoài mười vạn ức cơi Phật, người sắp chết sức lực quá ṃn mỏi, quá yếu ớt, làm sao có thể đến nơi xa xôi ngần ấy? V́ thế, Phật và chư đại Bồ Tát mang theo cung điện bảy báu tới tiếp đón chúng ta, chẳng cần nhọc công chúng ta tự đi, các Ngài đến đón!

          Người tŕ danh niệm Phật chúng ta phải đặc biệt chú ư: Như thế nào th́ mới có thể tinh tấn, dũng mănh trong khi lâm chung, chẳng hôn trầm, không tán loạn, trong tâm sáng suốt, tỉnh táo, chẳng bị chướng ngại mảy may? Mỗi người tu pháp môn Niệm Phật đều hy vọng khi sanh mạng chấm dứt, sẽ đều có thể có hiện tượng tốt lành ấy; nhưng hiện tượng tốt đẹp ấy chẳng phải là ngẫu nhiên mà có, cần phải cậy vào sự dụng công trong thường nhật. Chúng ta biết: Phàm hết thảy mọi chuyện có chướng ngại, đều là do từ trong tâm chúng ta dấy lên. Trong tâm chúng ta khởi chướng ngại, không ǵ chẳng là do “thường coi vạn pháp trong thế gian là thật sự tồn tại”. Vào thời cổ, kẻ làm đại hoàng đế, coi tất cả đất đai, nhân dân, và tài sản trong quốc gia là của chính ḿnh, [thấy những thứ ấy] thật sự tồn tại, chẳng thể đả phá tí ti nào! Những kẻ thấp hơn cũng giống như vậy, kẻ có tài sản cũng thế. Ngoài ra, những kẻ có quyền lực kha khá cũng thế, đều coi [tài sản, quyền lực] là thật sự tồn tại, cũng chẳng thấy thấu suốt tí nào. Do chẳng thấy thấu suốt, cho nên chẳng thể buông bỏ được! Chúng ta niệm Phật thường là ư niệm rong ruổi lung tung, chẳng ruổi đến chỗ này, bèn rong sang chỗ nọ. Những nơi tâm niệm rong ruổi chính là những điều niệm niệm chẳng quên trong cái tâm của chính ḿnh. Không ǵ ra ngoài tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê mà thôi! Niệm Phật kiểu đó làm sao mà chẳng tán loạn cho được? Do vậy, khi sắp mạng chung, để công phu có thể tinh tấn, dũng mănh như vậy, phải luyện tập trong lúc thường ngày. Trong việc niệm Phật thường ngày, cố nhiên phải niệm cho rành rẽ, rơ ràng. Lúc chẳng niệm Phật th́ tu ba tâm. B́nh thường, luôn thời thời khắc khắc ước thúc ba tâm trong một niệm. Chẳng khởi niệm th́ thôi! Hễ khởi niệm, sẽ là ba tâm, sẽ là tịnh niệm tiếp nối. Bất cứ người nào trong bọn chúng ta, có ai chẳng dấy niệm? Tu ba tâm, niệm niệm đều là ba tâm. V́ thế, đến khi lâm chung, chẳng có bất cứ chướng ngại nào! Đến lúc đó, chỉ có một nguyện, dũng mănh, tinh tấn. Nương vào nguyện lực ấy, có thể cảm ứng Phật, Bồ Tát đến tiếp dẫn. Điều này hoàn toàn cậy vào lúc b́nh thường có thể thấy thấu suốt và có thể buông xuống vạn pháp trong thế gian. Dụng công trong lúc b́nh thường đều có thể hồi hướng Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́ thế, đến khi lâm chung, mới có thể nước chảy thành gịng, tự nhiên có thể cảm ứng Phật, Bồ Tát đến tiếp dẫn.

          Một người có thể tinh tấn, dũng mănh, cho nên cảm ứng A Di Đà Phật, cùng với Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát, c̣n có chư thiên, mang theo cung điện bảy báu đến nơi đây. “Quán Thế Âm Bồ Tát, chấp kim cang đài”, [nghĩa là] Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm ṭa hoa sen bằng chất kim cang, “dữ Đại Thế Chí Bồ Tát, chí hành giả tiền”, cùng với Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước người ấy. Nói “hành giả” có nghĩa là ǵ? Người ấy trong lúc b́nh thường có thể dụng công, tới lúc ấy, lại có thể tinh tấn, dũng mănh, nên gọi là “hành giả”, hết sức thật sự dụng công. Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cang đến trước hành giả, bảo hành giả ngồi lên đài kim cang. Sau đấy, ngay khi ấy “A Di Đà Phật, phóng đại quang minh, chiếu hành giả thân”: Bản thân A Di Đà Phật là vô lượng quang. Ngài phóng đại quang minh, chiếu tới thân hành giả, chiếu sáng toàn thân người văng sanh, lại “dữ chư Bồ Tát”, tức là các vị đại Bồ Tát theo A Di Đà Phật cùng đến, kể cả vô số Hóa Phật, hết thảy các vị đại Bồ Tát “thọ thủ nghênh tiếp”: Đồng thời vươn tay ra đón tiếp người văng sanh. “Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dữ vô số Bồ Tát”: Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát là hai vị đại Bồ Tát ở hai bên đức Phật; đồng thời, các vị đại Bồ Tát chẳng biết rơ số lượng, cùng lúc “tán thán hành giả, khuyến tấn kỳ tâm” (khen ngợi hành giả, khuyến tấn tâm người ấy). “Khuyến” () bao gồm tán thán, “tấn” () là tăng tấn. “Kỳ tâm” là nguyện tâm của người ấy. Khiến cho nguyện tâm của người ấy càng tăng tấn. Tâm nguyện càng mạnh, càng kiên định, càng hay! Khuyến tấn cái tâm ấy. Đoạn này nói cặn kẽ hơn kinh Tiểu A Di Đà. Kinh A Di Đà nói: “Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng, hiện tại kỳ tiền” (Khi người ấy lâm chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện trước mặt người ấy), [chỉ nói] A Di Đà Phật và các vị thánh chúng hiện ra trước mặt người ấy. Quư vị thấy kinh văn ở đây giảng cặn kẽ dường ấy. Sau khi chúng ta liễu giải kinh văn, trong tương lai, khi văng sanh, lúc thấy Tây Phương Tam Thánh và Hóa Phật v.v… hiện đến, chúng ta đă sớm biết, tâm bèn an tĩnh, rất tự nhiên văng sanh.

          Ở đây, có những danh từ thuộc về phương diện học lư cần phải giải thích đôi chút. Đoạn lớn này từ “sanh bỉ quốc thời” (khi sanh về cơi ấy) cho đến “khuyến tấn kỳ tâm” (khuyến khích, tăng tấn cái tâm của người ấy) khác với những điều đă nói trong phần trước. Phần trước là từ “nhược hữu chúng sanh, nguyện sanh bỉ quốc giả” (nếu có chúng sanh, nguyện sanh về cơi ấy) cho đến “nhất nhật năi chí thất nhật, tức đắc văng sanh” (từ một ngày cho đến bảy ngày bèn được văng sanh), đoạn ấy nói về cái nhân văng sanh, [nghĩa là] quư vị dựa vào ǵ để có thể văng sanh? Tức là phải gieo nhân ǵ? Đoạn vừa mới nói ở đây (tức đoạn kể từ “sanh bỉ quốc thời”) là nói về duyên. Duyên ǵ vậy? Trong khi văng sanh, cảm ứng Phật, Bồ Tát, và vô lượng chư thiên đến tiếp dẫn. Duyên ấy tuyệt diệu! Vừa khởi đầu, tôi đă thưa cùng chư vị: Chẳng có duyên này, chúng ta làm sao có thể đến chỗ xa xôi ngần ấy? Hễ xem đoạn này sẽ biết, trong tâm chúng ta chẳng cần hoài nghi. Tự nhiên sẽ có duyên thù thắng như vậy, sẽ có thể đến đó rất nhanh chóng. Trong nhiều duyên thù thắng như vậy, có “bách thiên tỳ-kheo, Thanh Văn đại chúng”, mọi người vừa nh́n vào liền biết đấy đều là những người tu Tiểu Thừa. Cớ sao hàng Tiểu Thừa có thể văng sanh thế giới Cực Lạc? Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn Đại Thừa cơ mà! Tổ sư chú giải, đấy là v́ họ vốn tu pháp môn Tiểu Thừa. Tu đến sau này, hồi tiểu hướng đại, đổi sang tu pháp môn Đại Thừa. Tuy hồi tiểu hướng đại, nhưng vốn là tu Tiểu Thừa, công phu tu tŕ đă có, cơ sở tốt đẹp. Do vậy, sau khi văng sanh thế giới Cực Lạc, trước hết là đoạn Kiến Tư Hoặc, trước hết là chứng quả La Hán. Đó là “Thanh Văn đại chúng”, là những người hồi tiểu hướng đại văng sanh thế giới Cực Lạc. Tổ sư đặc biệt chú giải điều này!

          Phần kinh văn tiếp theo là:

 

          (Kinh) Hành giả kiến dĩ, hoan hỷ dũng dược, tự kiến kỳ thân, thừa kim cang đài, tùy tùng Phật hậu, như đàn chỉ khoảnh, văng sanh bỉ quốc.

()行者見已,歡喜踴躍。自見其身,乘金剛臺,隨從佛後,如彈指頃,往生彼國。

(Kinh: Hành giả thấy rồi, hoan hỷ, hớn hở, tự thấy thân ḿnh ngồi đài kim cang theo sau đức Phật, như trong khoảng khảy ngón tay, sanh về cơi kia).

 

          Do nhân duyên [như đă nói] trong phần trước đă đầy đủ, hành giả trông thấy Phật, Bồ Tát, đại chúng đông đảo ngần ấy đều đến. “Hành giả kiến dĩ”, [nghĩa là] sau khi đă thấy Phật, Bồ Tát, bèn “hoan hỷ, dũng dược” (hoan hỷ, hớn hở): Trong tâm nẩy sanh hoan hỷ, hoan hỷ đến mức độ nào? Đến mức có thể hăng hái nhảy nhót. Người sắp văng sanh, sắp tắt hơi, làm sao có thể nhảy lên được? Chẳng thể nào! Đây là nói theo tâm lư, sự cảm nhận trong tâm t́nh! “Dũng dược” (踴躍) là từ ngữ để h́nh dung tâm lư hoan hỷ ấy!

          “Tự kiến kỳ thân, thừa kim cang đài”: Tự ḿnh thấy thân thể của chính ḿnh ngồi lên đài Kim Cang, kim cang làm đài hoa sen. Sau khi đă ngự lên đài hoa sen, “tùy tùng Phật hậu”, [nghĩa là] liền theo sau A Di Đà Phật, vừa lên đài, A Di Đà Phật ở phía trước, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát, hành giả theo sau. Theo sau phải mất bao lâu mới có thể đến nơi? “Như đàn chỉ khoảnh, văng sanh bỉ quốc” (Như trong khoảng khảy ngón tay, sanh về cơi đó), “đàn chỉ” (彈指) là khảy ngón tay một chút, thời gian ngắn ngủi như thế đó! Chưa đến một giây, chúng ta dấy lên ư niệm, một cái khảy ngón tay, trong thời gian hết sức ngắn ngủi, tạm bợ, bèn sanh về cơi ấy. Chúng ta thường nói, từ thế giới này, trong khoảng giữa [hai thế giới], phải trải qua mười vạn ức tam thiên đại thiên thế giới cơi Phật (một tam thiên đại thiên thế giới đă chẳng biết rơ số, huống hồ mười vạn ức tam thiên đại thiên thế giới), đi qua các thế giới nhiều ngần ấy, sau đó mới đến Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          Trong một cái khảy ngón tay mau chóng như vậy, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chính là do A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cang đến tiếp dẫn. Chúng ta cảm tưởng: “Có chuyện ấy ư?” Hiện thời, khoa học tiến bộ, mọi người đều biết: Một người ngồi trên hỏa tiễn, hoặc phi thuyền, hễ bắn hỏa tiễn lên, xuyên qua khí quyển, đến mặt trăng, hoặc đến bất cứ tinh cầu nào, cũng đều rất xa, tuy chẳng xa như thế giới Cực Lạc, chỉ là “thầy đồng hạng xoàng gặp đại phù thủy”, nói theo phía phàm phu chúng ta, cũng là chuyện khó có thể, đáng quư. Chúng ta tự ḿnh đi, khi nào sẽ đến nơi? Đừng nói tới vũ trụ, nếu từ Đài Trung đến Đài Bắc, cũng chẳng phải là trong một thời gian ngắn bèn có thể đến được. Phàm phu chúng ta có thể vào vũ trụ là do có phương tiện giao thông tốt đẹp, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là do Phật, Bồ Tát dùng kim cang đài [tiếp dẫn], tuyệt diệu thay! V́ thế, trong khoảng khảy ngón tay bèn có thể đạt tới!

          Kẻ tu pháp môn thông thường, tuy công phu b́nh thường tốt đẹp, tới lúc thọ mạng chấm dứt, chính ḿnh rất khó làm chủ. Khi ấy, sức lực của chính người đó chẳng đủ, do tu pháp môn khác biệt, chớ nên chấp trước hết thảy các tướng. Tới lúc ấy, người đó cũng rất khó khăn, khó tránh khỏi tay chân cuống quưt. Ấn Quang đại sư cũng nói như thế này: “Rất nhiều kẻ b́nh thường công phu rất tốt đẹp, đến khi lâm chung, đều là tay cuống chân loạn”. Kinh văn lúc b́nh thường đều nói rất hay, đến khi đó, lại chẳng được. V́ sao? Hoàn toàn là pháp môn tự lực, hoàn toàn cậy vào sức của chính ḿnh, chẳng đủ sức!       

Tu pháp môn Niệm Phật là pháp môn Nhị Lực. Tới khi lâm chung, cậy vào công phu b́nh thường tu tập của người ấy, lại c̣n do nguyện lực, cảm ứng duyên như vậy đến tiếp dẫn. Người b́nh phàm khi sắp tắt hơi sẽ đau khổ dường ấy. Quư vị thấy người văng sanh “hoan hỷ dũng dược, tự kiến kỳ thân, thừa kim cang đài” (hoan hỷ, hớn hở, tự thấy thân ḿnh ngồi đài kim cang), giống như lúc b́nh thường bước lên công cụ giao thông. Đă thế, đài kim cang chẳng giống những thứ xe cộ hoặc phi cơ thô thiển, kém cỏi như chúng ta thường thấy. Đối với đài kim cang ấy, [người văng sanh] tự thấy chính ḿnh về căn bản là chẳng có những chuyện như tử vong, tắt hơi, hết sức hoan hỷ, có thể tự ḿnh lên đài, “thừa thượng kim cang đài”, quư vị thấy thoát ly tiêu sái ngần ấy! Đó là do có hai lực (tự lực và Phật lực), có sức của Phật, Bồ Tát, A Di Đà Phật phóng đại quang minh. Phóng đại quang minh để làm ǵ? Nhằm gia bị cho người ấy, khiến cho sức lực của người ấy tăng trưởng, nguyện lực tăng trưởng, mới có thể tự thấy thân ḿnh ngồi đài kim cang. Chúng ta tu đến mức độ ấy sẽ là khá lắm, lúc b́nh thường phải phối hợp ba loại tâm với tŕ danh niệm Phật. Tới lúc văng sanh, nhất định là sẽ có thể đạt được hiện tượng tốt đẹp. Đoạn này nói về chuyện văng sanh. Đoạn [chánh kinh] kế tiếp nói về lợi ích sẽ đạt được sau khi văng sanh.

 

        (Kinh) Sanh bỉ quốc dĩ, kiến Phật sắc thân, chúng tướng cụ túc. Kiến chư Bồ Tát, sắc tướng cụ túc, quang minh, bảo lâm, diễn thuyết diệu pháp. Văn dĩ, tức ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn, kinh tu du gian, lịch sự chư Phật, biến thập phương giới, ư chư Phật tiền, thứ đệ thọ kư, hoàn chí bổn quốc, đắc vô lượng bách thiên đà-la-ni môn.

()生彼國已,見佛色身,眾相具足。見諸菩薩,色相具足。光明寶林,演說妙法。聞已,即悟無生法忍。經須臾間,歷事諸佛,遍十方界,於諸佛前,次第受記。還至本國,得無量百千陀羅尼門。

(Kinh: Đă sanh về cơi ấy, thấy sắc thân của Phật, các tướng trọn đủ. Thấy các Bồ Tát sắc tướng trọn đủ. Quang minh, rừng báu diễn thuyết pháp mầu. Nghe xong, liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trải qua khoảnh khắc, phụng sự khắp chư Phật, trọn khắp mười phương thế giới, ở trước chư Phật lần lượt được thọ kư. Trở về nước ḿnh, đắc vô lượng trăm ngàn môn đà-la-ni).

 

          Đây là nói về lợi ích sẽ đạt được sau khi văng sanh thế giới Cực Lạc. “Sanh bỉ quốc dĩ” nghĩa là sau khi người văng sanh đă sanh về thế giới Cực Lạc. “Kiến Phật sắc thân”, thấy thân tướng trang nghiêm của A Di Đà Phật, tuyệt diệu thay! Trong thế giới Sa Bà, đương nhiên cũng có chuyện cảm ứng thấy A Di Đà Phật, nhưng chẳng phải là A Di Đà Phật trong thế giới Cực Lạc. Sau khi đă tới thế giới Cực Lạc, thấy sắc thân của A Di Đà Phật “chúng tướng cụ túc” (các tướng trọn đủ). Những tướng đă nói trong phép Quán A Di Đà Phật thuộc phần trước đều hoàn toàn trọn đủ. Đừng nói là [trong thế giới Sa Bà] chúng ta chẳng thấy A Di Đà Phật; dẫu thấy, cũng chẳng thấy rơ ràng! A Di Đà Phật duỗi một cánh tay ra; đừng nói là một cánh tay, dẫu Ngài nhấc một đầu ngón tay, chúng ta thấy ngón tay to lớn ấy sẽ sợ chết khiếp! Đó là ǵ vậy? Chúng ta chẳng hiểu rơ. Tâm lư và tầm nh́n của phàm phu nhỏ hẹp đến mức đáng thương! Do vậy, ở trong thế giới này, thật sự là chẳng nh́n thấy A Di Đà Phật hoàn toàn. Ắt là phải sau khi đă đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải đạt đến cảnh giới ấy. Sau khi văng sanh, cảnh giới trong bụng dạ của chúng ta mới mở rộng, [những ǵ thấy, nghe, hiểu biết] sẽ là khôn cùng! Cảnh giới được nâng cao. Khi ấy, sẽ trông thấy rơ ràng toàn bộ nhiều thứ hảo tướng nơi sắc thân Phật. Chính ḿnh chưa đạt tới cảnh giới ấy, làm sao [có thể] thấy cho được? Điều này có thể chứng tỏ: T́nh h́nh sau khi văng sanh chẳng phải là bọn chúng sanh phàm phu như chúng ta có thể tưởng tượng được! Cho đến khi đă tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân thể cũng cao lớn. Tâm lư, những ǵ mắt thấy, hết thảy đều hoàn toàn khác hẳn!

          Ngoài việc thấy trọn đủ các tướng nơi sắc thân Phật ra, c̣n thấy các vị đại Bồ Tát. “Kiến chư Bồ Tát, sắc tướng cụ túc” (Thấy các Bồ Tát, sắc tướng trọn đủ): Đối với sắc tướng của những vị Bồ Tát ấy và sự trang nghiêm trọn đủ nơi toàn thân các Ngài, cũng đều trông thấy rơ ràng, rành rẽ. Ở đây, chúng ta phải chú ư: “Thừa kim cang đài” [như đă nói trong] phần trước chính là ngồi trên đài hoa sen. Sanh về thế giới Cực Lạc, sẽ vào trong búp sen. Sau khi đă tới thế giới Cực Lạc, hoa sen sẽ khép lại. Qua một thời gian sau, hoa sen lại nở. V́ thế, nói là “hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh” (hoa nở, thấy Phật, ngộ Vô Sanh), chúng ta thường niệm điều này. Nhưng kinh văn ở đây nói, sau khi ngồi đài kim cang, theo sau đức Phật, trong khoảng khảy ngón tay, sẽ tới thế giới Cực Lạc. Vừa đến đó, bèn thấy sắc thân Phật và sắc tướng của chư vị Bồ Tát, chẳng nói “hoa khép lại, hoa x̣e ra”. Tuy kinh văn chẳng nói, nhưng phải thấu hiểu ư nghĩa ở ngoài kinh văn. Người Thượng Phẩm Thượng Sanh lỗi lạc thay! Cũng có nghĩa là hoa sen chẳng cần khép lại, x̣e ra, chẳng có quá tŕnh hoa sen khép lại, x̣e ra! Vừa đến nơi ấy, sẽ lập tức thấy Phật, ngay lập tức ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn. Do vậy, trong chín phẩm văng sanh, văng sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh chẳng cần đến quá tŕnh hoa sen khép lại, x̣e ra, mà là lập tức thấy Phật. Hễ thấy Phật, bèn nghe pháp.

          “Quang minh, bảo lâm, diễn thuyết diệu pháp”: Hoàn cảnh ấy quá tốt đẹp, Phật, Bồ Tát thảy đều phóng quang minh. Mỗi bông hoa, mỗi cây cỏ, nước, rừng cây, không chỗ nào chẳng tỏa quang minh. Quang minh có thể thuyết pháp. “Bảo lâm” chính là rừng cây có các hàng cây bảy báu, [những cây ấy] cũng có thể thuyết pháp. Bất luận quang minh hay rừng báu, đều đang diễn thuyết diệu pháp. Trong thế giới Sa Bà, chẳng nghe thấy diệu pháp ấy. Phật pháp mà chúng ta được nghe trong thế giới Sa Bà cũng như Phật pháp mà tâm lư phàm phu có thể liễu giải, [so với] diệu pháp được nghe khi đă đến thế giới Cực Lạc, có mức độ khác biệt rất lớn. Chẳng hạn như: Tuy chúng ta tu Duy Thức, biết Bách Pháp Minh Môn Luận. Trăm pháp th́ mọi người đều kể tên được, cũng biết ư nghĩa của trăm pháp, bao gồm tám tâm vương, năm mươi mốt tâm sở, có bao nhiêu thiện pháp, lại c̣n có vô vi pháp, đó là một trăm pháp. Nhưng phần kinh văn trong các đoạn sau có nói: Sau khi thấy Phật, Bồ Tát, những vị đại Bồ Tát mới giảng cho người văng sanh nghe Bách Pháp Minh Môn, phải chú ư! Bách Pháp Minh Môn do hàng đại Bồ Tát giảng và Bách Pháp Minh Môn do người ấy được nghe trong lúc đó, trọn chẳng phải là Bách Pháp Minh Môn như chúng ta đă nghe và lư giải trong thế giới này. Bách Pháp Minh Môn như chúng ta đă nói [trong thế giới này] chỉ là biết danh từ mà thôi, có mấy ai thật sự hiểu được ư nghĩa bao hàm trong ấy? Chẳng thể nghiệm được. V́ sao? Tâm lư của phàm phu luôn có chướng ngại, khiến cho năng lực thể nghiệm bị chướng ngại, chẳng tin thế giới Cực Lạc tốt đẹp như kinh văn đă nói. Nói với người khác, họ cũng chẳng tin tưởng. V́ sao chẳng tin tưởng? Trong tâm họ có một tầng chướng ngại! Chướng ngại ấy phát xuất từ thành kiến nơi tâm lư của phàm phu trong thế gian. Tiếp nhận những tri thức và thành kiến ấy, khiến cho tâm lư bị chướng lấp. Do loại thành kiến ấy, chỉ biết tranh danh đoạt lợi cùng kẻ khác, cùng người khác cướp đoạt, giành giật nơi phương diện vật chất, chẳng thể mở rộng tâm linh của chính ḿnh. V́ thế, đối với những thứ thật sự tốt đẹp, người ấy chẳng nh́n thấy. Người khác nói ǵ, người ấy cũng chẳng tin tưởng. Do vậy, ắt phải vận dụng công phu như kinh văn đă dạy trong phần trước: Buông bỏ những thành kiến b́nh phàm của người thế gian. Sau khi đă buông bỏ, tâm linh của chúng ta mở rộng mới thấu hiểu: Học nhân học Phật ở đây là tin tưởng pháp môn. Thật sự tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, cảnh giới sẽ tiến hơn cảnh giới hiện thời một bước, sẽ khác hẳn. Do đó, người ấy lư giải Bách Pháp Minh Môn và chúng ta lư giải sẽ khác biệt rất lớn. V́ thế, đối với “diễn thuyết diệu pháp”, chúng ta chỉ là nói suông mà thôi! Chúng ta chẳng thể tượng tưởng nổi [những pháp ấy] “diệu” đến mức độ nào! Phải chờ tới sau khi chúng ta đă đến thế giới Cực Lạc th́ mới thể nghiệm được. Nay chúng ta phải có cách nghĩ như thế này: So với những ǵ chúng ta đă biết, [những ǵ sẽ được thấy nghe trong cơi Cực Lạc] sẽ vượt trỗi không biết bao nhiêu lần!

          “Văn dĩ, tức ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn”, nghĩa là: Sau khi nghe quang minh và rừng báu diễn thuyết diệu pháp, sẽ lập tức ngộ được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trong phần trước, đă có nói về Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tâm người ấy hiểu pháp Vô Sanh. Trên thế gian, ai trong chúng ta cũng đều chẳng hiểu pháp Vô Sanh, ngay cả pháp sanh diệt cũng không hiểu, cứ ngỡ pháp sanh diệt thật sự tồn tại. V́ thế, chúng ta chẳng nh́n thấu, chẳng buông xuống được. Ngay cả pháp sanh diệt mà cũng chẳng hiểu, vậy th́ pháp vô sanh cao hơn một tầng làm sao hiểu được? Cảnh giới này là từng tầng một. Pháp vô sanh là hết thảy các pháp đều vô sanh, chẳng phải là pháp sanh diệt. Pháp nào cũng vốn đều như nhau. Người ấy đă an trụ trong ư niệm ấy, an ổn trụ trong pháp Vô Sanh, sẽ là Nhẫn, [tức là] chẳng bị những pháp khác ảnh hưởng, nhiễu loạn mảy may. Đây là một thứ công phu Định rất sâu. Đối với Vô Sanh Pháp Nhẫn, phải đạt đến tŕnh độ nào th́ mới có thể đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn? Tổ sư chú giải cũng chẳng nhất trí. Theo như Trí Giả đại sư của tông Thiên Thai đă dạy: Nói theo Biệt Giáo, sẽ là Sơ Địa; nói theo Viên Giáo, phải là Sơ Trụ th́ mới chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nói theo một cách khác, Vô Sanh Pháp Nhẫn xét theo Viên Giáo th́ từ Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác đều là Vô Sanh Pháp Nhẫn, tŕnh độ khác nhau. Nói chung, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn đều là khá lắm. Đă đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, “kinh tu du gian, lịch sự chư Phật, biến thập phương giới”, [nghĩa là] trong thời gian hết sức ngắn ngủi, có thể “lịch sự” (cúng dường trọn khắp) mười phương chư Phật. “Lịch sự” (歷事) là hầu hạ, cúng dường từng vị một. Mười phương thế giới có bao nhiêu cơi Phật? Mỗi cơi Phật có một vị Phật, người ấy đều lần lượt phụng sự, đến chỗ từng vị Phật trong mười phương thế giới để hầu hạ, lễ bái, cúng dường v.v…

“Ư chư Phật tiền, thứ đệ thọ kư”: Ở trong mười phương thế giới, đối trước chư Phật, khi lễ Phật, cúng dường Phật, các vị Phật ấy chẳng tùy tiện tiếp nhận sự cúng dường của quư vị. Sau khi đă tiếp nhận, các vị Phật ấy c̣n từng vị đều thọ kư cho quư vị. “Thọ kư” (授記) có nghĩa là cho biết khi nào quư vị sẽ có thể thành Phật, tuyệt diệu thay! “Hoàn chí bổn quốc” (Trở về cơi ḿnh), chữ “bổn quốc” chẳng phải là nói về thế giới Sa Bà, mà là nói tới thế giới Cực Lạc. Người ấy đă văng sanh Tây Phương, là người trong thế giới Cực Lạc. Trong thời gian rất nhanh như vậy, trở về cơi của chính ḿnh, tức thế giới Cực Lạc, “đắc vô lượng bách thiên đà-la-ni môn”: Sau khi trở lại thế giới Cực Lạc, v́ người ấy đối trước trọn khắp chư Phật trong mười phương thế giới, đă được thọ kư, đương nhiên là Phật sẽ dạy cho người ấy rất nhiều pháp môn. Ở trước mỗi vị Phật, học một pháp; trọn khắp các đức Phật trong mười phương thế giới sẽ có bao nhiêu pháp? V́ lẽ đó, sau khi trở lại thế giới Cực Lạc, đạt được vô lượng trăm ngàn đà-la-ni môn. Vô lượng là chẳng biết rơ số lượng, “môn” là pháp môn. Đà-la-ni là ǵ? Đà-la-ni là tổng tŕ. Tổng tŕ những ǵ? Tổng tŕ vô lượng vô biên đạo lư, vô lượng nghĩa lư hoàn toàn được bao hàm trong ấy. Điều này hết sức quan trọng.

          Chúng ta thường nói “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Phật pháp có vô lượng pháp môn. Học Phật pháp trong thế gian, thường nói là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”. Nói theo thực tế, sẽ là vô lượng pháp môn. Người học Phật chúng ta phải nên có chí nguyện, lập vững thệ nguyện mong học. Pháp môn học càng nhiều càng hay, nhưng năng lực của chúng ta hữu hạn, học pháp này qua một thời gian bèn quên mất. Học pháp khác, một thời gian sau lại quên mất, năng lực ghi nhớ của chúng ta hữu hạn! Cổ nhân nói: “Người đọc sách có hai điều kiện trọng yếu:

1) Một là ngộ tánh tốt, [tức là] vừa đọc sách, hoặc nghe người khác giảng. Giảng một ư nghĩa, người ấy bèn lập tức lănh ngộ rất nhiều ư nghĩa. Trong Khổng môn, Nhan Hồi có thể “nghe một, biết mười”. Đó là ngộ tánh tốt đẹp.

2) Hai là trí nhớ tốt. Chính ḿnh đọc sách hoặc nghe đạo lư, có thể ghi nhớ, chẳng quên mất. Hôm nay nhớ một điều, ngày mai nhớ điều khác, lâu ngày chầy tháng, nhớ được nhiều sẽ hữu dụng”.

Nhưng trong chúng ta, người có trí nhớ tốt cũng chẳng nhiều! Phần lớn là chóng quên! Đà-la-ni môn là tổng tŕ. Sau khi đă học hết thảy các pháp, có thể vĩnh viễn ghi nhớ, lúc nào cũng dùng được. Thông thường, chúng ta đọc rất nhiều sách, đến khi muốn sử dụng, chẳng biết dùng như thế nào, nghĩ kiểu nào cũng chẳng thể nhớ ra. Đă đắc đà-la-ni, hết thảy các pháp môn đều ghi nhớ, lại c̣n có thể sử dụng bất cứ lúc nào. V́ thế, vô lượng pháp môn đều có thể tổng tŕ, sẽ có thể thành Phật rất nhanh. Điều này dựa vào đâu? Nhờ vào sau khi đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, cúng mười phương Phật, đắc đà-la-ni môn. Tuy đến Tây Phương Cực Lạc thế giới có thể đắc đà-la-ni môn; trong thế gian này, chúng ta cũng có thể luyện tập, luyện tập ngộ tánh tốt đẹp, trí nhớ tốt đẹp, tốt đẹp dường nào! Chỉ cần đơn thuần, tức là đơn thuần hóa tư tưởng của chúng ta. Thông thường, chớ nên có ư nghĩ phức tạp, chớ nên có nhiều vọng niệm, tâm tâm niệm niệm đều đặt nơi đạo. Tuy sống trên cơi đời, thông thường chúng ta đều phải làm lụng, nhưng thời thời khắc khắc đều có tâm cầu đạo, tư tưởng của chúng ta sẽ đơn thuần hóa. Hễ tư tưởng đơn thuần, ngộ tánh lẫn trí nhớ đều là năng lực sẵn có của chúng ta, năng lực tự nhiên phát hiện.

 

(Kinh) Thị danh Thượng Phẩm Thượng Sanh giả.

()是名上品上生者。

(Kinh: Đây gọi là Thượng Phẩm Thượng Sanh).

 

          Câu “thị danh Thượng Phẩm Thượng Sanh giả” là tổng kết. Đoạn kinh văn trong phép Quán thứ mười bốn này [nói về] Thượng Phẩm Thượng Sanh, đă nói xong. Trong đoạn kế tiếp, sẽ nói về Thượng Phẩm Trung Sanh.

Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư

Phần 8 hết

 

 



[1] Ở đây, người biên tập bản tiếng Hán đă ghi sai chữ Lục Cực (六極) thành Lục Cát (六吉), có lẽ v́ âm đọc khá giống nhau trong tiếng Quan Thoại. Thiên Hồng Phạm ghi rơ Ngũ Phước là Thọ, Phú, Khang Ninh (mạnh khỏe, an ổn), Du Hảo Đức (ham chuộng làm lành) và Khảo Mạng Chung (chết an lành). Lục Cực là Hung Đoản Chiết (gặp chuyện hung hiểm, chết yểu, đổ vỡ), Tật (bệnh tật), Ưu (lo lắng), Bần (nghèo), Ác và Nhược (yếu ớt).

[2] “Hóa sanh” là sanh thẳng vào chỗ sẽ sanh về, không trải qua các giai đoạn trung ấm, hoài thai, sanh trưởng. Chẳng hạn như chư thiên sanh bằng hóa sanh, người đọa địa ngục, hoặc sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là hóa sanh. Khi bỏ thân này bèn sanh ngay trong những cơi ấy, không cần trải qua giai đoạn chuyển tiếp.

[3] Giá giới (遮戒): “Giá” có nghĩa là ngăn chặn. Do giới này dễ dẫn khởi đến việc phạm các giới khác, chẳng hạn như uống rượu say sưa, dễ nổi nóng, mất kiểm soát, dễ đánh lộn, lỡ tay làm thương tổn người khác. Hoặc v́ uống rượu th́ phải có mồi nhắm, dễ nghĩ đủ mọi cách sát hại sanh vật sao cho ăn thật ngon, nhậu thật đă v.v… Khi uống rượu, hơi men bốc lên, dễ ba hoa, khoác lác, bèn phạm giới vọng ngữ. Tánh giới là giới thuộc về tánh, nghĩa là dù có thọ giới hay không, hễ phạm th́ đều có tội.

[4] Chi và Lan là hai loại thảo mộc có mùi thơm thanh nhă. Lan () là địa lan, thường được tôn xưng là “vương giả chi hoa”, do màu sắc thanh khiết, nhă nhặn, hương thơm nhẹ nhàng. Chi () là một loại cỏ thơm.