Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
Giảng Kư
Phần 8
佛說觀無量壽佛經講記
Chủ
giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)
Khởi
giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập 36
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi mốt,
bắt đầu từ hàng thứ ba từ dưới
đếm lên. Tôi niệm trước một đoạn
kinh văn.
(Kinh) Phật cáo A
(經)佛告阿難,及韋提希:若欲至心生西方者,先當觀於一丈六像,在池水上。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài A
IV.2.2.14. Phép Quán thứ mười
ba, Tạp Minh Phật, Bồ Tát Quán
Hôm
nay, nói tới phép Quán thứ mười ba. Trước
phép Quán này, đối với y báo trong cơi Tây Phương, tức
các thứ trang nghiêm nơi hoàn cảnh, và chánh báo (A Di Đà
Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát) đều đă được nói trong những phần
kinh văn trước đó. Trong phép Quán thứ mười
ba, trước hết, đức Phật
bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy hăy quán một
bức tượng A Di Đà Phật cao một trượng
sáu thước. V́ sao? Chúng ta là những kẻ chưa chứng
quả vị, ngay lập tức quán Báo Thân Phật cao lớn
dường ấy, có thể nói là chúng ta chẳng thể dụng
công được! Ở đây, lại dùng pháp
phương tiện, quán nhỏ hơn một chút, tức là
[quán tưởng] tượng cao một trượng sáu
thước. Phép Quán này hết sức quan trọng đối
với người niệm Phật chúng ta. V́ sao? Bọn
phàm nhân chúng ta mỗi ngày trông thấy các thứ trạng huống,
tai nghe đủ mọi âm thanh, những ǵ sáu căn
tiếp xúc đều là các giả tướng phiền năo
trong thế gian. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng v.v…
chẳng có chuyện ǵ không gây ô nhiễm cho tâm lư của
chúng ta. Ô nhiễm tâm lư là từng tầng sanh tử dầy
hơn, chẳng thể thoát ly sanh tử luân hồi! Chánh
công phu (công phu chánh yếu) của chúng ta là tŕ danh niệm Phật.
Ngoài niệm Phật ra, hăy chuyển biến tâm lư, chúng ta
hăy nghĩ tới tượng Phật, nhất là đến
đạo tràng để ngắm tượng Tây
Phương Tam Thánh đang được thờ [tại đó].
Chỉ cần ngắm tượng Tam Thánh, sẽ gieo một
chủng tử trong ruộng thức thứ tám. Điều
này tốt hơn những phiền năo do mắt thấy, tai
nghe [từ cảnh giới] bên ngoài đem lại. Tuy công
phu chánh yếu của chúng ta chẳng phải là tu pháp môn Quán
Tưởng, nhưng đối với chuyện biến
đổi tâm lư, giúp ích cho việc tŕ danh niệm Phật,
sẽ hữu ích rất lớn!
Sau
khi Thích Ca Mâu Ni Phật giảng xong phép Quán thứ mười
hai; tiếp đó, “Phật cáo A
Nan cập Vi Đề Hy”, [nghĩa là] đức Phật
bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy: “Nhược dục chí tâm sanh Tây
Phương giả, tiên đương quán ư nhất trượng lục tượng,
tại tŕ thủy thượng”
(Nếu là người chí tâm muốn sanh về Tây
Phương, trước hết, hăy nên quán một bức tượng
cao một trượng sáu thước ở trên mặt
nước ao). Đây là đoạn lớn thứ nhất.
“Nhược dục
chí tâm sanh Tây Phương giả” (Nếu là người
muốn chí tâm sanh về Tây Phương), “chí tâm”: Người học Phật phát ra cái tâm chí
thành, khẩn thiết, nhất định là khi thọ mạng
chấm dứt, sẽ sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Người chí tâm muốn sanh về Tây
Phương, nhất định là trước hết phải
quán một bức tượng Phật cao một trượng
sáu thước, chẳng khác chiều cao nơi thân Thích Ca Mâu
Ni Phật (Ứng Thân Phật) cho mấy. Do vậy, tâm lượng
và nhục nhăn của phàm phu rất dễ quán thấy. Trong
phần kinh văn trước đó, đức Phật chẳng
cần nói [cặn kẽ], chỉ riêng một tướng
Vô Kiến Đảnh (nhục kế) của Bồ Tát là
đă tuyệt diệu lắm rồi! Hăy xem tượng Phật
trên đỉnh đầu Quán Thế Âm Bồ Tát và b́nh báu
[trên đỉnh đầu] của Đại Thế Chí Bồ
Tát cao cỡ nào? Đức Phật càng tuyệt diệu
hơn nữa! Ba mươi hai tướng của đức
Phật, mỗi tướng đều tuyệt diệu cả!
Bài kệ Tán Phật có câu: “Bạch
hào uyển chuyển ngũ Tu Di” (Tướng bạch
hào cuộn tṛn như năm quả núi Tu Di), năm quả
núi Tu Di đấy nhé! Có kẻ nói núi Tu Di chính là núi Hỷ
Mă Lạp Nhă trên địa cầu; thật ra, chẳng phải
vậy! Bọn phàm phu chúng ta chẳng trông thấy núi Tu Di
thật sự, v́ nó quá to! Một sợi bạch hào cuộn
lại c̣n to bằng năm quả núi Tu Di. Đừng nói
là núi Tu Di hay núi Hỷ Mă Lạp Nhă, dẫu là Ngọc Sơn
ở Đài Loan, chúng ta đến Ngọc Sơn, nếu
không có ai dẫn đường, chỉ sợ sẽ lạc
lối trong ấy, chẳng ra được! V́ thế, quán
tưởng thân cao lớn, tâm lư của bọn phàm phu chúng
ta chẳng quán được. V́ sao chẳng quán được
mà vẫn phải giảng? Căn khí bất đồng! Có
những người căn khí của họ có thể quán tưởng
được, chứ căn khí b́nh phàm th́ vô dụng! Nhưng
chẳng cần biết có thể dụng công hay không, bộ
kinh này chủ yếu là giảng về Phật lư. Tuy chẳng
thể dụng công, nhưng hiểu lư rất quan trọng!
Chẳng có công phu tác quán, nhưng phải liễu giải: Chân
thân của đức Phật to lớn dường ấy,
nhưng khi chúng ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, [thân thể] của chúng ta cũng to ngần ấy,
khiến cho chúng ta liễu giải thân Phật và bản
tánh của chúng ta, đấy mới là tự ngă thật sự!
Hăy ngẫm xem, đối với chuyện trong thế gian,
chúng ta c̣n phải tranh giành, mong cầu để làm ǵ nữa?
Hiểu được những lư này, chỉ càng tăng
thêm ư nguyện cầu sanh Tây Phương. Ba tư
lương Tín, Nguyện, Hạnh nhất định sẽ
tăng thêm. V́ vậy, trước hết là phải nêu ra
lư. Phép Quán này vừa khéo phù hợp tâm lư của những kẻ
b́nh phàm, hết sức thực dụng. Thân [Phật, Bồ
Tát] cao lớn, do tâm lượng của chúng ta nhỏ nhoi,
chẳng có cách nào quán được, phép Quán này cũng chẳng
phải là chánh thức dụng công quán, mà là ngắm tượng
Phật. Tâm tư của chúng ta hướng đến
tượng ấy để tưởng, công đức ấy
chẳng thể nghĩ bàn!
“Tiên đương quán ư nhất
trượng lục tượng, tại tŕ thủy thượng”:
Trước hết, hăy nên quán một bức tượng
cao một trượng sáu thước trên mặt ao. “Tŕ thủy” (池水) là nói tới
ao bảy báu trong thế giới Cực Lạc, trong ấy,
có nước tám công đức. Hễ nói đến ao
nước, hăy tưởng những điều đă nói
trong phần trước: Ao nước có hoa sen, hoa sen tỏa
ra ánh sáng. Trong ánh sáng lại có tượng Phật. Từ
tượng cao một trượng sáu cho đến nước
trong ao. Hăy quán tưởng toàn thể, cảnh giới trước
mắt chúng ta sẽ lập tức chuyển biến. Chẳng
tưởng như vậy, cứ nh́n vào hoàn cảnh chung
quanh, [ở trong] đạo tràng c̣n đỡ, những
người đến đạo tràng toàn là người tu
đạo, chứ ở ngoài đường phố, sẽ
gặp phải những hạng người như thế
nào? Nếu xui xẻo, gặp phải kẻ xấu xa, những
tai nạn đột ngột bất cứ lúc nào cũng
có. Hoặc là chúng ta hữu ư hay vô t́nh ngó kẻ khác một
cái, họ tưởng chúng ta gây bất lợi cho họ,
ngay lập tức làm hại chúng ta. Đó là chuyện
thường có! Hoàn cảnh trong thế gian này đúng là hết
sức tệ ác. Lại như đường cao tốc
hiện thời, vừa rộng răi, vừa nhanh chóng, nay
đă trở thành những con đường có tốc
độ thấp, tốc độ chậm răi! V́ sao? Chúng
sanh càng về sau, nghiệp báo càng tệ hơn! Đến
thế giới Cực Lạc, há có t́nh huống ấy?
Đường sá trong thế giới Cực Lạc rất
rộng, chúng sanh đông đảo dường ấy,
đôi bên chẳng trở ngại lẫn nhau. Suy tưởng
như vậy, tâm chúng ta nghĩ tưởng hoàn cảnh ấy,
trước mắt, chúng ta chẳng phải là người
trong thế giới Sa Bà. Tâm chúng sanh đặt ở
nơi đâu, sẽ là người ở nơi đó. Hễ
hiểu tâm pháp sẽ biết ngay! Người niệm Phật
chúng ta dấy khởi Phật hiệu, sẽ giúp chúng ta
tưởng tượng hoàn cảnh tốt đẹp có
tượng Phật trong ao bảy báu, tâm chúng ta sẽ chẳng
giống những kẻ b́nh phàm! Nghiên cứu kinh văn
đến đây, bất cứ lúc nào cũng suy nghiệm,
cũng vận dụng như vậy, điều này sẽ
giúp ích cho việc niệm Phật của chúng ta.
Dưới
đây là một đoạn lớn nữa. Phép Quán này chia
thành hai đoạn lớn. Đoạn trên đây đă nói
xong, bắt đầu nói tới đoạn tiếp theo:
(Kinh)
Như tiên sở thuyết Vô Lượng Thọ Phật,
thân lượng vô biên, phi thị phàm phu tâm lực sở cập.
Nhiên bỉ Như Lai túc nguyện lực cố, hữu ức
tưởng giả, tất đắc thành tựu. Đản
tưởng Phật tượng, đắc vô lượng
phước, huống phục quán Phật cụ túc thân
tướng!
(經)如先所說無量壽佛,身量無邊,非是凡夫心力所及。然彼如來宿願力故,有憶想者,必得成就。但想佛像,得無量福,況復觀佛具足身相。
(Kinh: Vô
Lượng Thọ Phật như đă nói trên đây, thân
lượng vô biên, tâm lực của phàm phu chẳng thể
tưởng nổi. Nhưng đức Như Lai ấy do
nguyện lực từ xưa, hễ có ai tưởng nhớ
Ngài, ắt được thành tựu. Chỉ tưởng
tượng Phật, đă đạt được
phước vô lượng, huống hồ c̣n quán trọn
đủ thân tướng của đức Phật).
Đây
là một tiểu đoạn trong đoạn lớn thứ
hai. Trong tiểu đoạn này, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo
tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy (cũng là bảo những
người học Phật chúng ta): “Như tiên sở thuyết Vô Lượng Thọ Phật,
thân lượng vô biên”: Như
trong phần dạy về phép Quán đă nói trong phần
trước, thân lượng Vô Lượng Thọ Phật
là vô biên, “phi thị phàm phu tâm lực
sở cập”: Tâm lực của phàm phu (những người
chưa chứng quả vị đều là phàm phu) chẳng
thể thấu đạt! “Tâm
lực” là ǵ? Người đă chứng quả, tâm
tư mở rộng, vô biên trạng huống đều có
thể trông thấy. Tâm phàm phu chúng ta bị ràng buộc là
v́ trong tâm toàn là chuyện phiền năo trong thế gian, phân biệt
những thứ của ta hay của người khác, danh dự,
địa vị, tiền tài, những nỗi thị phi giữa
con người với nhau, trong tâm chứa đầy dẫy
những chuyện ấy! Trong tâm toàn suy nghĩ những chuyện
ấy, há c̣n có tâm lượng nào khác để nghĩ tới
chuyện khác nữa ư? Trong tâm càng tưởng những
chuyện ấy, cái tâm càng hẹp nhỏ, thế giới
tâm linh thật sự rộng lớn bị che lấp. Tâm
lư phàm phu luôn luôn là như vậy; do vậy, tâm lực phàm
phu chẳng đủ sức [quán tưởng thân lượng
thật sự và sự trang nghiêm nơi thân Phật, Bồ
Tát]. [Thật ra], chẳng phải là tâm lực của phàm
phu không đủ sức, mà nói cách khác, chính là do tâm lực phàm
phu quá hữu hạn, chẳng trông thấy thân lượng
vô biên của đức Phật.
Tuy
cái tâm phàm phu hữu hạn như thế, nhưng Thích Ca Mâu
Ni Phật dạy: “Nhiên bỉ Như
Lai túc nguyện lực cố, hữu ức tưởng giả,
tất đắc thành tựu” (Nhưng do đức
Như Lai ấy có nguyện lực từ xưa, hễ có
người nhớ tưởng, ắt sẽ được
thành tựu). “Bỉ Như Lai”
là nói Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di
Đà Phật. “Túc nguyện lực
cố”: Trong quá khứ, A Di Đà Phật phát tâm học Phật,
thành Phật. Trong quá khứ, khi c̣n thuộc “nhân địa”, c̣n là tỳ-kheo Pháp Tạng (tu
hành phát nguyện, c̣n chưa thành Phật, th́ gọi là “nhân địa”, đă thành Phật
là “quả địa”),
đă phát ra bốn mươi tám đại nguyện, nên gọi
là “túc nguyện” (宿願), tức
là
nguyện lực trong quá khứ. Trong bốn mươi tám
đại nguyện, có lời nguyện: Trong tương
lai, sau khi Ngài đă thành Phật, hễ có chúng sanh “hữu ức tưởng giả,
tất đắc thành tựu” (hễ có ai nhớ tưởng,
ắt sẽ được thành tựu), hết sức từ
bi! Những công phu khác chẳng dùng được, chỉ
cần nghĩ đến A Di Đà Phật th́ cũng có thể
thành tựu. Đă có đại nguyện, lại c̣n có sức
mạnh to lớn, tức túc nguyện lực. Về sau, tỳ-kheo
Pháp Tạng thành Phật, chính là A Di Đà Phật trong hiện
tại. Do có mối quan hệ với nguyện lực trong
quá khứ, hễ có ai ức tưởng A Di Đà Phật,
tất nhiên là có thể thành tựu.
“Đản tưởng
Phật tượng, đắc vô lượng phước,
huống phục quán Phật cụ túc thân tướng” (Chỉ tưởng tượng Phật,
đă đạt được vô lượng phước,
huống hồ c̣n quán trọn đủ thân tướng của
Phật): Chỉ cần người học Phật nghĩ
tới tượng Phật, ngắm tượng Phật
trong đạo tràng, hoặc nếu không ở trong đạo
tràng ngắm tượng Phật, lúc thông thường,
trong tâm nhớ tưởng tượng Phật cao một
trượng sáu thước trong ao bảy báu, sẽ
được vô lượng phước. Đó là chuyện
xác thực. Phật là bậc phước huệ song tôn (Lưỡng
Túc Tôn), phước báo viên măn, trí huệ cũng viên măn. V́
thế, bọn phàm phu chúng ta chỉ cần đặt tâm
niệm nơi tượng Phật, sẽ đạt
được vô lượng phước báo. “Huống phục quán Phật cụ
túc thân tướng”: Huống hồ lại có thể dụng
công quán tưởng thân tướng đầy đủ
viên măn của đức Phật (những điều
đă nói trong phần trước đều nhằm nói tới
những điều ấy), công đức tuyệt diệu
lắm! Có thể quán tưởng trọn đủ thân
tướng, công đức càng to hơn nữa. Nay nói: Chỉ
cần ức tưởng Phật, sẽ có thể đạt
được vô lượng phước. Chúng ta c̣n phải
liễu giải, “tưởng”
[trong đoạn kinh văn này] chỉ là “ức tưởng” (憶想, nghĩ nhớ), đương nhiên chẳng
phải là quán trọn đủ. Quán th́ phải chí tâm. Dùng
cái tâm chí thành khẩn thiết để quán một bức
tượng Phật cao một trượng sáu thước,
sẽ giống hệt như quán tượng cao lớn thù
thắng đă nói trong phần trước. V́ sao là như
nhau? Do sức túc nguyện của A Di Đà Phật. Chẳng
hoàn toàn là do sức của chính ḿnh (hoàn toàn là sức của
chính ḿnh, đương nhiên là sẽ có cao thấp), c̣n phải
thêm vào nguyện lực từ quá khứ của A Di Đà Phật
gia bị lũ phàm phu chúng ta. Chúng ta chỉ cần dùng tâm chí
thành để tưởng, sẽ đạt được
công đức y hệt.
(Kinh)
A Di Đà Phật, thần thông như ư, ư thập phương
quốc, biến hiện tự tại, hoặc hiện
đại thân, măn hư không trung, hoặc hiện tiểu
thân, trượng lục bát xích. Sở hiện chi h́nh, giai
chân kim sắc, viên quang Hóa Phật, cập bảo liên hoa,
như thượng sở thuyết.
(經)阿彌陀佛,神通如意,於十方國,變現自在。或現大身,滿虛空中。或現小身,丈六八尺。所現之形,皆真金色。圓光化佛,及寶蓮華,如上所說。
(Kinh: A Di
Đà Phật thần thông như ư, biến hiện tự
tại trong mười phương cơi nước, hoặc
hiện thân lớn đầy ắp hư không, hoặc hiện
thân nhỏ, cao một trượng sáu hay tám thước.
H́nh tướng do Ngài hiện ra đều có màu sắc
vàng ṛng, viên quang, Hóa Phật [xuất hiện trong viên quang
và thân quang] cùng với hoa sen báu đều như đă nói
trong phần trước).
Tiểu
đoạn này nói về cách quán tưởng các thứ thân
do A Di Đà Phật tự tại biến hóa. Trước
hết, phải liễu giải một quan niệm trọng
yếu. Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ sợ mọi người
sẽ dấy tâm phân biệt. Dấy lên cái tâm phân biệt
ǵ vậy? [Đối với cách] quán Tam Thánh trong phần
trước, thân [của Phật và Bồ Tát] đều cao
lớn thù thắng, c̣n phép Quán này là tượng cao một trượng
sáu, sợ rằng [chúng sanh] sẽ so đo, dùng tâm lư phàm phu
để so sánh, [cứ nghĩ] tượng cao trượng
sáu quá kém cỏi! Công đức do quán tượng nhỏ sẽ
thua kém [công đức của những cách Quán] trước
đó, hoặc nghĩ thân cao trượng sáu là giả, chẳng
chân thật. Những điều phân biệt như vậy
đều chẳng đúng. Chiếu theo Phật lư để
nói, kinh văn trong phần trước đă có dạy: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”,
hai câu này đặc biệt quan trọng.
Chúng
ta quán Phật th́ điều quan trọng nhất là phải
liễu giải tâm pháp, “vạn
pháp duy tâm”. Nếu tâm lượng của chúng ta đủ
sức, có thể quán thân cao lớn th́ cũng có thể phỏng
theo [những điều được mô tả trong kinh
văn để quán tưởng]. Quán vị Phật biến
hóa (thân Phật cao một trượng sáu), chúng ta vẫn là
phỏng theo đó, nhờ vào tượng Phật cao một
trượng sáu để mô phỏng mà quán thành công th́ [công
đức quán tưởng] vẫn giống hệt như
nhau. Hơn nữa, thân Phật có thể lớn hay nhỏ,
do [đức Phật có] năng lực thần thông tự
do tự tại. Liễu giải đạo lư này, đối
với tượng cao một trượng sáu hoặc
tượng càng nhỏ hơn nữa, xét theo Lư, sẽ là
hoàn toàn như nhau! Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật mong bọn
học nhân chúng ta chớ nên dấy tâm phân biệt. Chẳng
dấy tâm phân biệt, công đức mới là như nhau!
“A Di Đà Phật, thần thông
như ư, ư thập phương quốc, biến hiện
tự tại” (A Di Đà Phật thần thông như ư, trong mười phương
cơi nước, biến hiện tự tại). A Di Đà Phật
có thể biến hóa, hiển hiện tự do tự tại
trong mười phương quốc độ ngoài thế
giới Cực Lạc. Biến hiện như thế nào? “Hoặc hiện đại thân,
măn hư không trung. Hoặc hiện tiểu thân, trượng
lục, bát xích”: Hoặc hiện ra thân lớn đầy
ắp hư không, hoặc hiện thân nhỏ cao một
trượng sáu thước, hoặc hiện thân nhỏ
hơn một trượng sáu, chỉ có tám thước. Đấy
là chỉ rơ: A Di Đà Phật có thể biến hiện tự
tại trong mười phương quốc độ, hoặc
nhỏ, hoặc lớn, có thể biến hóa thuận theo ư
nghĩ của Ngài. V́ sao đức Phật có thể biến
hiện tự tại trong mười phương cơi
nước? Là do thần thông như ư. Thần thông: Có sáu loại
thần thông. Các đại ngoại đạo ở Ấn
Độ chỉ có năm loại thần thông, chẳng có
môn thần thông cuối cùng là Lậu Tận Thông. Lậu Tận
Thông là trừ sạch sành sanh tất cả phiền năo và hết
thảy các chướng ngại. Nói cách khác, có những
chướng ngại vật gây chướng ngại bản
tánh, che lấp bản tánh [là v́] phàm nhân chúng ta hằng ngày
trong tâm suy nghĩ toàn là những chuyện loạn tùng phèo,
toàn là chướng ngại và phiền năo. Hễ đoạn
trừ những chướng ngại và phiền năo ấy,
trừ sạch sành sanh, bản tánh sẽ tỏa sáng rạng
ngời. A Di Đà Phật có hiệu là Vô Lượng Thọ
và Vô Lượng Quang. Trừ khử tất cả chướng
ngại, chẳng c̣n nữa, th́ gọi là Lậu Tận
Thông. Ngoại đạo Ấn Độ chẳng có [môn thần
thông này].
Chúng
ta học chánh pháp, tức Phật pháp thuần túy. Hiện
thời, ở bên ngoài, ngoại đạo rất nhiều!
Ngoại đạo bảo họ có thần thông, biết chuyện
quá khứ của quư vị. Kẻ b́nh phàm vừa thấy
lũ chúng nó nói chuyện quá khứ rất đúng, bèn tin
tưởng chúng nó. Chúng nó lấn thêm một bước, bảo:
“Mạng của quư vị chẳng tốt. Trong quá khứ đă
tạo rất nhiều nghiệp, nay phải chuyển nghiệp.
Chuyển như thế nào? Ta có cách, muốn chuyển th́ phải
bỏ tiền ra!” Nếu gặp phải hạng người
như vậy, phải ngay lập tức tránh xa, chớ tin
tưởng lũ đó. Hạng người ấy có thần
thông hay không, rất đáng ngờ! Dẫu có thần thông
đi nữa, chúng nó có Lậu Tận Thông hay chăng? Tin
theo những tṛ vờ vĩnh của chúng nó để làm ǵ
cơ chứ? Chúng ta tin vào thần thông của đức
Phật, đắc Lậu Tận, trừ sạch phiền
năo, quang minh trí huệ mở rộng thêm một tầng.
Điều này đáng tin cậy nhất! Phải liễu
giải kèm thêm một tầng này, đừng bị mê hoặc
bởi những kẻ bên ngoài!
Ở
đây, [kinh văn] nói tới thần thông như ư của
đức Phật. Đức Phật có sáu món thần
thông, “như ư” chính là Thần
Túc Thông. Nói rộng ra, Như Ư có hai phương diện:
1) Nói theo
phía chúng sanh, có thể đúng theo ư của chúng sanh. Chúng sanh
mong ǵ, đức Phật bèn có thể thỏa ư chúng sanh.
Tâm chúng sanh nghĩ đến đức Phật, đức
Phật bèn hiển hiện. Thuận theo tâm lư, năng lực
và tŕnh độ học tập của chúng sanh để
thỏa ư họ. Chẳng hạn như trong phần trước
đă nói cách quán tưởng thân cao lớn, thù thắng, họ
chẳng làm được (chẳng quán tưởng
được). Ở đây, bèn nói chúng sanh sử dụng
cái tâm chí thành, tưởng sanh về Tây Phương. Đấy
chính là tâm lư của chúng sanh, đức Phật liền thỏa
ư chúng sanh, hiển hiện cho chúng sanh trông thấy.
2) Nói theo
phía đức Phật, có thể thỏa ư của chính
đức Phật. Đức Phật có Ngũ Nhăn, Lục
Thông. Do có Ngũ Nhăn, nên thấy rành rẽ chúng sanh trong các cơi
nước trong mười phương. Trạng huống
như thế nào, Ngài đều trông thấy rơ ràng, rành rẽ.
Do có sáu thứ thần thông, bất cứ chúng sanh nào trong mười
phương quốc độ, tâm vừa nghĩ, đức
Phật biết ngay.
Do có hai
phương diện Như Ư ấy, cho nên đức Phật
mới có thể biến hiện tự tại trong mười
phương quốc độ!
Hiện
thời, trong thời đại này, có rất nhiều tà
thuyết, tà ma ngoại đạo rất lợi hại.
Tôi vừa mới nói đến Ngũ
Nhăn, chẳng ngại một lần nữa giới thiệu
cùng quư vị đôi chút về Ngũ Nhăn. Sau khi đă
giới thiệu, sẽ có lợi ích ǵ? Hễ thấy bên
ngoài có kẻ nào nói tới chuyện này, chúng ta đă sớm
biết, chẳng cần tin tưởng chuyện ấy,
có ǵ đáng quư đâu nhỉ? Bản thân chúng ta tu tập,
tu đến một mức độ nào đó, tự nhiên
sẽ trọn đủ Ngũ Nhăn. Chưa tu đến mức
độ ấy, dẫu tin tưởng người khác
cũng vô ích!
1) Nhục
Nhăn: Mỗi người chúng ta đều có con mắt thịt,
chẳng có ǵ kỳ lạ hết!
2) Thiên Nhăn:
Người tu hành thiên đạo thành công, sanh vào Sắc Giới
Thiên, sẽ có Thiên Nhăn Thông. Ở trong nhân gian, [nếu] công
phu tu Định thành tựu, cũng có thể đắc Thiên
Nhăn Thông.
3) Huệ
Nhăn: Hàng Nhị Thừa (La Hán và Bích Chi Phật) có Huệ Nhăn.
Mắt họ thấy khác với chúng ta. Chúng ta thấy núi,
sông, đại địa, ngân hàng, đại tổng thống,
hết thảy mọi chuyện đều thật sự
tồn tại. Khi chứng đắc La Hán và Bích Chi Phật,
sẽ thấy đại tổng thống và kẻ ăn
mày như nhau, tiền trong ngân hàng, giấy nát vụn ngoài
đồng và rác rưởi là b́nh đẳng. Huệ Nhăn
thấy hết thảy đều là những thứ hư
giả, chẳng đáng để hâm mộ.
4) Pháp Nhăn:
Đại Bồ Tát có Pháp Nhăn, có thể thấy đạo
lư trong muôn pháp xuất thế gian, thấy hết thảy mọi
chuyện rành mạch, pháp do đâu mà có, h́nh thành như thế
nào, trong tương lai sẽ đạt được kết
quả ǵ. Vừa nh́n bèn biết rành mạch. Đó là Pháp Nhăn.
5) Phật
Nhăn: Hoàn toàn trọn đủ bốn loại mắt
trước. Lại c̣n thấy thấu triệt nhất,
viên măn nhất. Lúc thầy tại thế, thường nói:
“Sau khi đă thành Phật, bao
nhiêu hạt mưa, bao nhiêu giọt mưa trong thế giới
ở ngoài tam thiên đại thiên thế giới, đức
Phật đều thấy rơ ràng, rành rẽ”.
Đó là
Ngũ Nhăn của Phật. Sau khi đă hiểu rơ Ngũ Nhăn
của Phật rồi, nh́n lại những kẻ bên ngoài
đó, họ nói những mắt ǵ? Dẫu nói hay ho cách mấy,
chỉ cần quư vị lấy tiền ra, họ muốn
quư vị đưa tiền cho họ là xong. Những kẻ
đó Nhục Nhăn c̣n chưa nên thân, chúng ta là những kẻ
đọc sách b́nh phàm, Nhục Nhăn đều thấy rơ
ràng, rành rẽ, đặc biệt là đối với những
điều đă nói ở đây, chúng ta có thể nhận
biết pháp nào là thuần túy, pháp nào là giả, phải phân
biệt rơ ràng!
Đức
Phật có thần thông như ư, cho nên có thể biến hiện
tự tại. Chúng ta học Phật chẳng phải là v́
thần thông tự tại mới học Phật, điều
quan trọng nhất là nhằm liễu sanh tử thành Phật.
Hễ lậu tận, sẽ chẳng có sanh tử, vấn
đề sanh tử bèn được giải quyết. Tiến
hơn bước nữa là thành Phật, nay chúng ta niệm
Phật, đạt đến nhất tâm bất loạn
là được rồi. Chẳng đắc nhất tâm bất
loạn, đới nghiệp văng sanh cũng được,
nhất định có thể đạt được Lậu
Tận. Hơn nữa, hễ đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới, sẽ có thần thông. Nếu chẳng
có thần thông, sáng sớm trở dậy làm sao có thể
đến cúng dường Phật trong mười vạn
ức cơi Phật ở ngoài [cơi Cực Lạc]? Chẳng có
thần thông, có làm được hay chăng? V́ thế,
chúng ta liễu giải những chuyện này, nghe người
trong thế gian nói đến thần thông, chúng ta chẳng
cần tin vào những điều ấy. Hăy khéo thật thà
niệm Phật là đáng tin cậy nhất.
Nói
về sự biến hiện tự tại đă xong; trong
phần kinh văn kế đó, c̣n có những lời dặn
ḍ hết sức trọng yếu: “Sở hiện chi h́nh, giai chân kim sắc” (H́nh
tướng được hiện đều là màu vàng
ṛng). Bất luận là đức Phật hiện thân lớn
trọn khắp hư không cũng thế, hoặc hiện
thân nhỏ cao một trượng sáu, hoặc tám thước
cũng thế, h́nh trạng thân thể được hiện
ra đều là “chân kim sắc”,
tức là màu của vàng ṛng. Điều này giúp cho chúng ta
phân biệt, nếu kinh văn chẳng nói như thế,
chúng ta thấy tượng Phật sẽ phân biệt bằng
cách nào? Trước kia, cũng có người hỏi thầy:
“Khi văng sanh, Phật hiện đến, chúng con làm như thế
nào để biết là Phật thật sự đến?”
Thầy trả lời: “Nguyện
trong pháp môn Niệm Phật vốn chẳng giống các pháp
môn khác. Những pháp môn khác là ly tướng, chẳng thể
chấp tướng. Pháp môn Niệm Phật là phải chấp
tướng, mong thấy Phật tướng, thấy Phật
tướng là tốt đẹp. Nhưng thấy Phật
tướng vẫn phải thâm nhập phân biệt có phải
là chân kim sắc hay không? Nhưng trong sát-na văng sanh, chẳng
rảnh rang để phân biệt, chỉ cần trông thấy
Phật tướng, nhất định là đă cảm ứng
Phật hiện đến”. Nhưng trong lúc dụng công
quán tưởng thường nhật, khi quán tưởng, sẽ
chẳng tránh khỏi trường hợp có thể dụng
tâm sai lầm, chẳng quán thấy đức Phật thật.
V́ thế, ở đây, kinh Phật bèn dặn ḍ: Phàm những
h́nh tướng [do đức Phật] hiện ra, đều
là chân kim sắc. Quư vị thấy là màu vàng ṛng, sẽ là chẳng
giả, nhất định là chân Phật. Sau khi đă biết,
hăy nắm vững điểm trọng yếu này: Thân Phật
bất luận lớn hay nhỏ, đều là “chân kim sắc” (màu vàng ṛng). “Viên quang Hóa Phật, cập bảo
liên hoa, như thượng sở thuyết”: Những
tướng khác như viên quang, Hóa Phật, cùng với hoa
sen báu đều như trên đă nói, [tức là] đúng như
trong phép Quán trước đă nói, chẳng
cần phải nhắc lại. Trên đây chính là một
đoạn trung b́nh thứ nhất trong đoạn lớn
thứ hai, thuần túy quán tưởng Phật. Phần
kinh văn dưới đây nói tới hai vị Bồ
Tát:
(Kinh) Quán
Thế Âm Bồ Tát, cập Đại Thế Chí ư nhất
thiết xứ, thân đồng chúng sanh. Đản quán thủ
tướng, tri thị Quán Thế Âm, tri thị Đại
Thế Chí. Thử nhị Bồ Tát, trợ A Di Đà Phật
phổ hóa nhất thiết. Thị vi Tạp Tưởng
Quán, danh đệ thập tam Quán.
(經)觀世音菩薩,及大勢至,於一切處,身同眾生。但觀首相,知是觀世音,知是大勢至。此二菩薩,助阿彌陀佛普化一切。是為雜想觀,名第十三觀。
(Kinh: Quán Thế
Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát ở hết
thảy các nơi, thân giống như chúng sanh. Chỉ quán
tướng đầu, bèn biết là Quán Thế Âm, hay là Đại
Thế Chí. Hai vị Bồ Tát này giúp A Di Đà Phật giáo
hóa trọn khắp hết thảy. Đây là Tạp Tưởng
Quán, gọi là phép Quán thứ mười ba).
“Quán Thế Âm Bồ Tát, cập Đại
Thế Chí, ư nhất thiết xứ, thân đồng
chúng sanh” (Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát
ở hết thảy mọi nơi, thân giống như
chúng sanh): Ở hai bên đức Phật, một vị là
Quán Thế Âm Bồ Tát, vị kia là Đại Thế Chí Bồ
Tát. Hai vị Bồ Tát ấy ở hết thảy mọi
nơi, hai Ngài là bậc Đại Bồ Tát đă đạt
tới địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ Đẳng
Giác, tuyệt diệu thay! Thân các Ngài cũng thù thắng, cao
lớn, nhưng ở đây nói “ư
nhất thiết xứ”, nghĩa là đến mọi
nơi, các Ngài đều làm như thế này: Thân của
hai Ngài giống như chúng sanh. Các Ngài hiển
hiện thân thể có vóc dáng giống hệt như chúng sanh
b́nh phàm. Vào thời Thích Ca Mâu Ni Phật, thông thường,
người ta cao tám thước, đức Phật cao
hơn một chút, tức là một trượng sáu thước.
Hai vị Bồ Tát này thân cao chẳng khác chúng sanh b́nh phàm
cho mấy, tức là cao tám thước. V́ sao? Đây
cũng là khiến cho chúng sanh dễ thấy rơ ràng, dễ
quán tưởng. V́ thế, [các Ngài] hiển hiện
thân giống như chúng sanh b́nh phàm. Hai vị Bồ Tát này
có nhân duyên hết sức sâu dầy với A Di Đà Phật.
V́ thế, ở Tây Phương Cực Lạc thế giới
cũng thế, mà A Di Đà Phật đến các thế giới
phương khác để biến hóa cũng thế, hai vị
Bồ Tát này đều vĩnh viễn cùng theo Phật
đến hóa độ chúng sanh. Chúng sanh niệm Phật
trong thế giới Sa Bà đến khi thọ mạng chấm
dứt, sắp văng sanh, đương nhiên sẽ thấy
rất nhiều vị Bồ Tát, chủ yếu nhất là Tây
Phương Tam Thánh tay cầm hoa sen đến tiếp dẫn.
Do đó, trong kinh văn, sau khi nói về phép quán tưởng
Phật, tiếp đó, bèn dạy về hai vị đại
Bồ Tát này. Trong hết thảy mọi nơi, [thân tướng
của] các Ngài đều giống như chúng sanh, như vậy
th́ sẽ dễ quán!
Bậc
đại Bồ Tát đă đạt tới địa vị
này, biểu hiện h́nh tướng tương đồng,
giống hệt nhau. Khi chúng ta quán tưởng, phân biệt
như thế nào? “Đản quán
thủ tướng, tri thị Quán Thế Âm, tri thị Đại
Thế Chí” (Chỉ quán tướng đầu, sẽ biết
là Quán Thế Âm, hay là Đại Thế Chí Bồ Tát): Khi
chúng ta quán tưởng, hai vị Bồ Tát đều có ba
mươi hai tướng, điểm khác biệt là: Trên
đỉnh đầu Quán Thế Âm Bồ Tát là một bức
tượng Phật, trên đỉnh đầu Đại
Thế Chí Bồ Tát có một b́nh báu. Xem tướng đầu
sẽ phân biệt được. “Thử nhị Bồ Tát, trợ A Di Đà Phật phổ
hóa nhất thiết”: Hai vị Bồ Tát này giúp A Di
Đà Phật hóa độ trọn khắp hết thảy
chúng sanh. “Thị vi Tạp Tưởng
Quán, danh đệ thập tam Quán”: Phép Quán này được
gọi là Tạp Tưởng v́ quán tưởng Phật
cùng với hai vị Bồ Tát, chẳng phải là thuần
túy quán tưởng Phật, mà cũng chẳng phải là
thuần túy quán tưởng Bồ Tát. Do gộp chung lại
để quán, nên gọi là Tạp Tưởng Quán, gọi
là phép Quán thứ mười ba.
Phép
Quán thứ mười bốn bắt đầu giảng về
phương pháp văng sanh trong ba bậc chín phẩm, hết sức
trọng yếu. Hôm nay tôi giảng đến chỗ này th́
ngưng.
Tập 37
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ hai mươi
hai, bắt đầu từ hàng thứ sáu. Tôi niệm
trước một đoạn ngắn trong kinh văn.
(Kinh)
Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Thượng phẩm
thượng sanh giả, nhược hữu chúng sanh, nguyện
sanh bỉ quốc giả, phát tam chủng tâm, tức tiện
văng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả chí thành tâm, nhị
giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện
tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc. Phục
hữu tam chủng chúng sanh, đương đắc văng
sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả, từ tâm bất
sát, cụ chư giới hạnh. Nhị giả, độc
tụng Đại Thừa Phương Đẳng kinh
điển. Tam giả, tu hành lục niệm, hồi hướng
phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Cụ thử
công đức, nhất nhật năi chí thất nhật, tức
đắc văng sanh”.
(經)佛告阿難,及韋提希:上品上生者,若有眾生,願生彼國者,發三種心,即便往生。何等為三?一者至誠心,二者深心,三者迴向發願心。具三心者,必生彼國。復有三種眾生,當得往生。何等為三?一者慈心不殺,具諸戒行。二者讀誦大乘方等經典。三者修行六念,迴向發願,願生彼國。具此功德,一日乃至七日,即得往生。
(Kinh: Phật
bảo A
IV.2.2.15. Thượng Phẩm
Thượng Sanh Quán
Quán
Kinh có mười sáu phép Quán, trong phần trước
đă nói mười ba phép Quán, đoạn kinh văn vừa
mới niệm chính là phép Quán thứ mười bốn. Từ
chỗ này trở đi, hết sức quan trọng. V́ sao?
Chúng ta thường nói “A Di
Đà Phật phát ra bốn mươi tám nguyện, có chín
phẩm tiếp dẫn chúng sanh về thế giới Cực
Lạc”. Người học Tịnh Độ Tông tŕnh
độ khác nhau, sanh về thế giới Cực Lạc
sẽ có phẩm vị cao hay thấp khác nhau. Chia đại
khái, sẽ có chín loại phẩm vị. Hôm nay, bắt
đầu nói về phẩm vị. Các thứ phép Quán
đă nói trong phần trước là quán y báo và chánh báo trang
nghiêm của thế giới Cực Lạc, [tức là quán tưởng]
các thứ hoàn cảnh tốt đẹp, cùng với đấng
giáo chủ của thế giới Cực Lạc là A Di
Đà Phật. Bên cạnh A Di Đà Phật là Quán Thế Âm
Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, phương
pháp quán như thế nào đều đă nói. Nếu quán
thành công, thảy đều mong cầu văng sanh thế giới
Cực Lạc. V́ sao? Trong kinh A Di Đà đă nói rất rơ
ràng: Thích Ca Mâu Ni Phật từ phàm phu cho đến thành Phật,
trải qua thời gian lâu dài mới tu tập thành công. Thích
Ca Mâu Ni Phật ở trong thế giới Sa Bà tu thành công, lại
ở trong thế giới Sa Bà hóa độ chúng sanh, đều
hết sức khó khăn. V́ các thứ hoàn cảnh trong thế
gian này (nhân tố khách quan) chẳng có thời khắc nào chẳng
kéo người tu đạo chúng ta trở lại thế
gian, trở ngại chúng ta tu đạo, khiến cho chúng ta
chẳng thể thành tựu. Chúng ta muốn thành Phật, liễu
sanh tử trong thế giới Sa Bà, chỉ nhằm giải
quyết vấn đề sanh tử th́ đă phải trải
qua thời gian lâu cỡ nào mới có thể làm xong? Do vậy,
phải mong cầu một phương pháp hết sức
mau chóng để chúng ta có thể hoàn thành ngay trong một
đời này. Bất luận quư vị là một kẻ
thông minh cỡ nào, trí huệ đến mức độ
nào, đều mong cầu thay đổi hoàn cảnh. Ở
trong một hoàn cảnh chẳng mau chóng như vậy (hoàn
cảnh trong thế giới Sa Bà), nhất định phải
đổi sang thế giới Cực Lạc. V́ thế, các
phép Quán đă nói trước đó cho đến phép Quán thứ
mười bốn (là phép Quán nói về t́nh huống văng sanh
trong chín phẩm) đều nhằm bảo chúng ta phát tâm
văng sanh thế giới Cực Lạc.
Xin
xem kinh văn: “Phật cáo A
Người
niệm Phật chúng ta đều quan tâm hai chuyện:
1) Thông
thường, niệm Phật nhằm mục đích đến
khi tuổi thọ chấm dứt, sẽ an tường văng
sanh, chẳng như những kẻ b́nh phàm trong tâm hết sức
hoảng sợ, chẳng biết đi về đâu!
Người niệm Phật chúng ta đến khi hết tuổi
thọ, chính là lúc phải sanh tâm hoan hỷ. Từ nhiều
đời nhiều kiếp tới nay, xa xôi không nói, lấy
ngay đời này để nói [mà thôi], chúng ta hứng chịu
bao nhiêu nỗi khổ sở trong nhân gian, bao gồm
phương diện thân thể và tâm lư tinh thần, nếu
tính toán th́ chính ḿnh cũng chẳng tính rơ được.
Nay sắp thoát ly thế gian đau khổ để về
thế giới Cực Lạc, phải phát tâm hoan hỷ.
Đấy chính là điều chúng ta thường mong cầu.
2) Sau khi
đă văng sanh thế giới Cực Lạc, rốt cuộc
chúng ta sẽ thuộc vào địa vị nào? Ắt phải
hiểu rơ chuyện này trước hết.
Trong
bộ kinh này, những điều chúng ta quan tâm sẽ
đều được giải đáp. Thứ nhất
là phải như thế nào th́ mới có thể văng sanh? Thứ
hai là hiểu rơ điều kiện văng sanh. Trong
tương lai, phẩm vị của chính ḿnh trong thế
giới Cực Lạc là ǵ? Chính ḿnh cũng sẽ biết.
IV.2.2.15.1. Chí thành tâm
“Nhược hữu chúng sanh, nguyện
sanh bỉ quốc giả” (Nếu có chúng sanh, nguyện
sanh về cơi ấy): Chúng sanh học Phật nếu như
phát nguyện mong văng sanh cơi ấy, chữ “bỉ quốc” (彼國) chỉ
cơi nước của Tây Phương Cực Lạc thế
giới của A Di Đà Phật. “Nguyện sanh bỉ quốc giả” chính là người
mong văng sanh thế giới Cực Lạc. “Phát tam chủng tâm, tức tiện văng sanh” (Phát ba
thứ tâm liền được văng sanh): Nếu phát ba thứ
tâm th́ khi thọ mạng chấm dứt, nhất định
là có thể văng sanh. “Hà đẳng
vi tam”: Ba thứ tâm ấy là ǵ? “Nhất giả chí thành tâm” (Một là chí thành tâm), xin xem biểu đồ của
bài giảng. Chí thành là ǵ? Chữ “Thành”
(誠) rất
trọng yếu. Học vấn của Nho gia cũng nói
đến Thành. Thành đến cùng cực là “chí thành” (至誠). “Minh Minh Đức” (明明德, làm sáng
tỏ cái đức sáng) như sách Đại Học của
Nho gia đă nói chính là “ḷng thành đến mức tột
cùng”, Minh Đức sẽ khai phát. Chí thành tâm là chân thật
tâm; tổ sư chú giải như thế đó.
Bọn
chúng sanh chúng ta đều có chân tâm, chân tâm là ǵ? Chúng ta có
tư tưởng, có ư thức, đó có phải là chân tâm
hay không? Thật ra, chẳng đúng! Cái tâm hiện thời
của chúng ta tán loạn, chính ḿnh chẳng
thể làm chủ, nó là cái tâm hư vọng. Nói theo Duy Thức,
đó là cái tâm hư vọng phân biệt. Bất cứ chuyện
ǵ trong thế gian cũng đều do thức thứ sáu tức
ư thức phân biệt. So sánh phân biệt là cao, là thấp, là
tốt, là xấu, là ngươi, là ta v.v… Những điều
ấy đều là hư vọng. Trong chân tâm chẳng có
t́nh h́nh ấy. Chân tâm là một bầu đại quang minh tạng.
V́ thế, kinh A Di Đà đă giải thích ba chữ A
Di Đà chính là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ.
“Vô lượng quang” hàm ư một
bầu quang minh. Hăy nghiên cứu từ chữ này, một bầu
quang minh biểu thị trí huệ. Thấy rơ ràng, rành rẽ,
những chuyện giả đều ở trong tầm mắt
người ấy, vừa nh́n bèn thấy thấu suốt.
Giả chẳng c̣n tồn tại, c̣n lấy đâu ra sanh tử?
Sanh tử đều là giả tướng. Sở dĩ hiện
thời chúng ta có sanh tử, là v́ quang minh trí huệ từ
chân tâm chẳng phát ra. Những ǵ chúng ta suy nghĩ và trông thấy
đều là hư vọng, phân biệt, chẳng có quang
minh thấu lộ từ bản tánh. Ở đây, nói tới
chân thật và chí thành tâm, khiến cho chúng ta liễu giải
bất cứ chuyện nào trong thế gian, cũng đều
là giả pháp, là hư vọng. Kẻ b́nh phàm chẳng hiểu
những điều ấy là hư vọng, ngỡ chúng là
những thứ chân thật. Bản
tánh bị những thứ hư giả che lấp, đời
đời kiếp kiếp xoay chuyển trong những thứ
hư giả chết rồi sống, sống rồi chết.
Hết thảy đều là giả, chớ nên chấp
trước, phải buông xuống. Phải thấy thấu
suốt, buông xuống! Có như vậy th́ tâm chí thành mới
có thể phát xuất. Do vậy, đừng coi nhẹ hai
chữ “chí thành”. Tổ
sư chú giải “chí thành tâm”
là chân thật tâm, tức chân tâm Chân Như bản tánh của
chúng ta. Phải phát cái tâm chân thật ấy. Trong biểu
đồ bài giảng, phía sau chữ Chí Thành Tâm là lời giải
thích để khiến cho người dụng công biết
cách phát khởi chí thành tâm như thế nào?
1)
Biện
chân ngụy (Biện định chân và ngụy): Đối
với hành vi trong cuộc sống hằng ngày của chúng
ta, chính ḿnh hăy phân biệt những ǵ là thật, những ǵ
là giả? Hành vi thường ngày của chúng ta được
biểu hiện bằng ba phần: Một là động
tác nơi thân thể. Mỗi động tác nơi thân thể
bèn có nghiệp. Nghiệp là nhân. Mỗi hành động của
chúng ta đều gieo cái nhân cho vị lai, sẽ kết thành
quả trong tương lai. Biểu hiện nơi thân thể
được gọi là “thân
nghiệp”. Hai là mỗi người chúng ta đều phải
nói năng. Hễ nói năng bèn dùng miệng, tức là “khẩu nghiệp”. Ba là thân
nghiệp và khẩu nghiệp bị ai chỉ huy? Bị tư
tưởng chỉ huy, bị ư thức chỉ huy. Đó là
“ư nghiệp”. Ba nghiệp
thân, miệng, ư, mỗi người chúng ta có ai hằng ngày
đầu óc không nghĩ tới chuyện này, chuyện nọ?
Đầu óc dấy lên tư tưởng là ư. Tư tưởng
chỉ huy thân, chỉ huy miệng; [do đó], phải tu ba
nghiệp. Người chẳng tu đạo ăn nói tùy tiện,
hành vi nơi thân thể cũng chẳng thể khống chế,
đầu óc mang ư niệm phạm tội (tội ác), trong
tương lai sẽ bị hậu quả ǵ, cũng chẳng
màng suy xét! Người tu đạo chúng ta phải liễu
giải: Nghiệp là nhân, gieo nhân sẽ kết quả. V́ vậy,
ba nghiệp của chúng ta đều phải tu. Hăy tu thiện
nghiệp, đừng tạo ác nghiệp.
Chúng ta phải
liễu giải thiện nghiệp. Kẻ b́nh phàm nói “người
nào đó làm chuyện tốt”. Chuyện tốt khá lắm,
nhưng phải hiểu phương pháp. Chẳng hiểu
phương pháp và đạo lư làm việc
thiện, tốt th́ cũng tốt đấy, nhưng công
đức chẳng to cho lắm! Xin xem biểu đồ trong
bài giảng: “Tam nghiệp tu thiện,
thanh tịnh tâm tác”, [nghĩa là] thiện sự phải
làm bằng cái tâm thanh tịnh. Miệng nói năng, các
thứ biểu hiện qua hành vi nơi thân thể, những
chuyện đầu óc suy nghĩ, đều phải phát xuất
từ cái tâm thanh tịnh, thuần túy từ bản tánh của
chính ḿnh phát xuất, chẳng có mảy may tạp niệm
nào! Tạp niệm là ǵ? “Giáp tạp
ác tánh, danh tạp độc chi thiện”, [nghĩa là]
trong khi ba nghiệp đang tu thiện, nếu trong ấy bị
xen lẫn những chuyện ác, sẽ gọi là “tạp độc chi thiện”
(điều thiện xen lẫn chất độc). Kẻ
chẳng hiểu đạo lư, thoạt nh́n [sẽ tưởng]
là đang làm lành, nhưng điều thiện ấy chẳng
thuần túy, chẳng làm bằng cái tâm thanh tịnh, có xen lẫn
độc tố trong ấy. Giống như ăn thứ
chi đó, bất cứ thực phẩm nào, nếu bỏ
thuốc độc vào đó, thoạt nh́n dường
như là có thể ăn được, nhưng ăn vào sẽ
bị hại. Xen tạp những ǵ sẽ là ác tánh? Kẻ
chẳng tu đạo sẽ không biết, người tu
đạo ắt cần phải dụng công. Thật sự
nỗ lực nơi đạo th́ mới có thể suy nghiệm,
lănh hội được. Ví như chúng ta giúp đỡ kẻ
khác, bất luận bằng tiền tài hay sức lực, hoặc
dùng mối quan hệ quen biết… các thứ điều kiện
để chiếu cố kẻ khác,
trong khi giúp đỡ, trong tâm cũng chớ nên mang ư
nghĩ: Trong tương lai, ta sẽ đạt được
những điều tốt đẹp nào, hoặc mong cầu
người được giúp đỡ trong tương
lai sẽ đền đáp. Giống như nhân sĩ hoặc
các nhân vật nổi tiếng trong xă hội thường
là “nay ta làm chuyện từ thiện, trong tương lai,
danh cũng vậy, mà lợi cũng vậy, có thể thu
được sự đền đáp rất nhiều!” Hễ
có tâm lư ấy, nói theo Phật pháp, sẽ là “hữu lậu thiện”. Chẳng thể nói là
không phải thiện, nhưng là hữu lậu thiện, chẳng
rốt ráo! Chẳng mang cái tâm mong được đền
đáp, vẫn có quả báo. Làm việc thiện, trong
tương lai [dẫu chẳng mong cầu] vẫn có đền
đáp. Đó là “vô lậu”,
vô lậu là rốt ráo!
Thiện
nghiệp hữu lậu và vô lậu khác nhau ở chỗ
nào? Thiện nghiệp hữu lậu th́ trong tương lai
sẽ đạt được báo ứng tốt đẹp.
Hưởng hết báo ứng, nó sẽ chẳng c̣n nữa;
nhưng báo ứng vô lậu sẽ là công đức vĩnh
viễn tồn tại. Có lợi ích ǵ? Giúp cho chúng ta minh tâm
kiến tánh. Người niệm Phật chẳng phải
là cầu văng sanh thế giới Cực Lạc ư? [Những
thiện nghiệp vô lậu] giúp chúng ta văng sanh thế giới
Cực Lạc. Có rất nhiều người sợ lúc lâm
chung bị chướng ngại, nếu dùng cái tâm thanh tịnh
để làm việc thiện mà chẳng xen tạp những
điều mong cầu, trong tương lai, sẽ chẳng
có bất cứ chướng ngại nào. Những điều
ấy giúp cho chúng ta tu đạo. Chúng ta phát tâm chí thành,
điều quan trọng nhất là phải tu đạo, giúp
chúng ta thành tựu tịnh nghiệp thanh tịnh. Xen tạp
ác tánh, có tâm lư đầu tư, làm việc thiện phô bày
cho người khác thấy, trong tương lai, thu hồi
một vốn vạn lợi. Không được rồi!
Đấy là đă xen tạp ác tánh vào đó, có thứ độc
tố ấy tồn tại, tâm chúng ta chẳng thanh tịnh.
Đấy chẳng phải là chân thật tâm, mà cũng chẳng
phải là chí thành tâm, ắt phải phân biệt rơ ràng chuyện
này! Người khác không biết, người tu đạo
chúng ta phải thật sự dụng công tu đạo. Nếu
mong liễu sanh tử, thật sự nắm vững văng
sanh, chúng ta phải dụng công ở nơi đây. Căn cứ
để phân biệt chân và ngụy là hai điều này.
Sau đấy, khi chúng ta tự ḿnh dụng công, ba nghiệp
sẽ biểu hiện rất thuần túy. Điều này
giúp cho chúng ta niệm Phật [hữu hiệu].
2)
Minh
lưỡng lợi (Hiểu rơ hai điều lợi),
tức là tự lợi và lợi tha. Đầu tiên là nói tới
chuyện ác, phải “chế xả
tự tha chư ác” (chế ngự, buông bỏ những
điều ác nơi bản thân và người khác). Trước
hết, bản thân chúng ta phải thấy: Chúng ta sống
trong thế gian, đừng tưởng thế gian này khá lắm.
Thế gian này không nơi nào chẳng phải là hoàn cảnh
dẫn khởi kẻ khác phạm tội, hết sức xấu
hèn! Phải tự ḿnh phản tỉnh. Nếu chúng ta chẳng
có tâm lư phạm tội, hoàn cảnh bên ngoài như thế
nào đi nữa, cũng chẳng ảnh hưởng chúng
ta! V́ thế, tâm lư, hoàn cảnh bên ngoài có thể dẫn dụ
chúng ta phạm tội, chính là v́ trong nội tâm chúng ta đă
có ư niệm phạm tội. Suy nghĩ như vậy, bản
thân chúng ta phải cảnh giác: Bất luận bên ngoài chẳng
tốt đẹp như thế nào đi nữa, hăy khởi
đầu từ chính ḿnh, chính ḿnh phải khống chế,
ngăn dứt (chế ngự được), phải ĺa
bỏ hết thảy những chuyện tội ác. Những
chuyện tội ác chẳng thể nói trọn hết! Phải
cậy vào công phu của chính ḿnh, thời thời khắc
khắc thể nghiệm.
Thể
nghiệm như thế nào? Tăng Tử của Nho gia truyền
dạy bộ sách Đại Học. Sách Đại Học
có nói “minh Minh Đức” (làm
sáng tỏ cái đức sáng). Minh Minh Đức là ǵ? Phải
“cách vật trí tri”! Cách vật
trí tri (格物致知) là ǵ? Chính
là quan sát ư niệm của chính ḿnh. Ngay trong khi bản thân chúng
ta dấy khởi ư niệm, hăy luôn liễu giải đó là
ư niệm ǵ? Hễ chúng ta dấy lên ư niệm, không ǵ là chẳng
nghĩ cho chính ḿnh, nghĩ phải làm chuyện ǵ đó,
nghĩ đến các mối quan hệ giữa người
khác và ta. Thông thường, kẻ chẳng hiểu đạo
và cũng chẳng chịu tu đạo, hễ dấy lên ư
niệm, không ǵ chẳng nhằm “tổn người, lợi
ḿnh”, thâu tóm quyền lực và của cải của người
khác về tay ḿnh, càng nhiều càng hay, toàn là những ư niệm
ấy. Người tu đạo chúng ta, đối với
đạo Đại Học do Tăng Tử đă truyền,
“cách vật” (格物) là thời
thời khắc khắc suy xét, gạn lọc ư niệm ấy.
Lâu ngày chầy tháng, công phu thành thục, chẳng khởi niệm
th́ thôi, hễ khởi niệm bèn là thanh tịnh, lợi ích
người khác, chẳng tính toán v́ chính ḿnh. Như vậy
th́ mới có thể rạng ngời Minh Đức mà chính
ḿnh sẵn có. Nho gia vận dụng công phu này!
Ở
đây, Phật pháp nói “chế
xả tự tha chư ác”, nghĩa là khi chúng ta dấy
lên bất cứ ư niệm nào, phải quán sát niệm ấy
có phải là tổn người lợi ḿnh hay không? Nếu
chẳng phải là tổn người lợi ḿnh, trong thế
gian, hết thảy các thứ h́nh trạng và màu sắc
đẹp đẽ, âm thanh dễ nghe, những âm thanh ồn
ào nhức tai, những thứ thân thể tiếp xúc dẫu
tốt hay xấu, hết thảy mọi thứ đều
ở trong ư niệm của chúng ta. Nếu chúng ta dấy niệm
đều vướng mắc nơi những sự vật
ấy, hăy ngẫm xem, đạo của chúng ta sẽ
đi về đâu? Làm sao chúng ta minh tâm kiến tánh cho
được? Trong tương lai, đến khi mạng
chung, ư niệm của chúng ta vẫn cứ xoay vần trong
đó, chẳng mong văng sanh thế giới Cực Lạc!
Đấy là đại chướng ngại. V́ vậy, niệm
Phật chẳng đơn giản đâu nhé! Phải chánh
trợ song tu: Chánh công phu là tŕ danh, tức là một câu A Di
Đà Phật. Trợ công phu là khi chẳng niệm Phật,
chẳng có thời khắc nào không nhắc nhở chính ḿnh:
Lũ chúng sanh phàm phu chúng ta hễ dấy lên ư niệm,
đều là ư niệm tội ác. Chúng ta chớ nên tự
tránh né! Nếu chính ḿnh tu đạo th́ phải chí thành khẩn
thiết liễu giải tâm niệm của chính ḿnh, khống
chế ba nghiệp thân, khẩu, ư. Tiến hơn nữa trừ
bỏ ư thức tội ác, trừ khử hết thảy những
chuyện tội ác. Nói năng th́ chớ nên thốt lời
ác. Hiện thời, các vị biết những lời lẽ
bên ngoài đều là tội ác, đều nhằm dẫn dụ
chúng ta hướng đến sanh tử, đọa lạc
tam đồ! Những chuyện đă làm đều là chuyện
đọa lạc. Bản thân chúng ta đừng nên như
thế, hăy thời thời khắc khắc kiểm điểm
chính ḿnh, vứt bỏ hết thảy các chuyện tội
ác. Đó gọi là “chế kỷ
chi ác” (chế ngự tội ác của chính ḿnh).
Lại
nói đến “tha” (người
khác). “Tha” (他) chẳng
phải là nói đến kẻ b́nh phàm, mà là nói tới những
vị đă chứng quả vị đại Bồ Tát, như
Quán Thế Âm Bồ Tát hoặc Đại Thế Chí Bồ
Tát trong phần trước. Các Ngài đều đă trải
qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới đạt đến
tŕnh độ ấy. Trong quá khứ, các Ngài đều trừ
bỏ hết thảy ác nghiệp. Chẳng trừ bỏ hết
thảy ác nghiệp, sẽ chẳng có địa vị
như trong hiện thời. Do vậy, phải nghĩ những
vị đại Bồ Tát đă có thể làm được,
đều là trừ bỏ ác nghiệp rồi mới thành
tựu. Chúng ta phải “kiến
hiền tư tề’ (見賢思齊, thấy
người hiền, mong được bằng như vậy).
Trong sách Mạnh Tử, có chép câu nói của Nhan Uyên: “Thuấn hà nhân dă? Dư hà nhân dă?
Hữu vi giả, diệc nhược thị” (Vua Thuấn
là người như thế nào? Ta là người như thế
nào? Hễ gắng sức th́ cũng giống như Ngài vậy).
Vua Thuấn là thánh nhân, nhưng Ngài cũng từ con người
mà trở thành thánh nhân. Chúng ta cũng là người,
cũng có thể trở thành thánh nhân. Trở thành thánh nhân
như thế nào? Điều kiện hàng đầu để
giống như thánh nhân là đoạn trừ hết thảy
tội ác. Điều này gọi là “chế xả tự tha chư ác”, nghĩa là vứt
bỏ, khống chế các điều ác của chính ḿnh, chẳng
làm nữa. Ngoài ra, c̣n nghĩ đến những người
đă thành tựu, ḥng tăng thêm tín tâm cho chính ḿnh.
Điều
thứ hai là “cần tu tự tha
phàm thánh đẳng thiện” (siêng tu những điều
thiện của ta, người, phàm, thánh v.v…): Siêng năng, khẩn thiết tu thiện
nghiệp. Tu những thiện nghiệp nào? Các điều
thiện của phàm, thánh v.v… “Phàm thiện” là thiện nghiệp nhân thiên trong thế
gian; “thánh thiện” là thiện
nghiệp xuất thế gian, đều chẳng ngoài những
biểu hiện nơi thân, khẩu, ư. Nói cụ thể hơn,
trong tâm suy nghĩ, miệng nói năng, những người
tu đạo chúng ta ở cùng với nhau, chớ nên nói chuyện
thị phi trong thế gian, hoặc những chuyện rối
ren bát nháo tại Quốc Hội! Nói những điều ấy,
có ư nghĩa ǵ hay chăng? Chỉ có ảnh hưởng
đến tâm lư của chúng ta. Chúng ta nói những lời
đó, họ cũng chẳng thể nghe lọt tai. Trong cái
nh́n của họ: “Bọn người tu đạo nghèo
khó các ngươi đáng kể chi đâu?” Bọn họ chẳng
nghe lời chúng ta, nhưng tối thiểu là chúng ta đừng
bị họ ảnh hưởng! Chúng ta suy nghĩ, nói
năng, bàn luận đạo nghiệp, bàn bạc những
thứ tốt đẹp trong thế giới Cực Lạc,
hoặc sự trang nghiêm của Phật, Bồ Tát. Trong
thường nhật, tư tưởng thường đặt
ở nơi ấy. Đồng tu gặp mặt nhau, đàm
luận những chuyện này: Tán thán A Di Đà Phật,
chư đại Bồ Tát, ao sen bảy báu trong thế giới
Cực Lạc, quang minh thuyết pháp, chim, cây diễn pháp
v.v… Ca ngợi những chuyện ấy. Đó là thiện,
là xuất thế gian thiện. Tâm chúng ta đặt ngay
nơi đó, chẳng cần đợi đến khi hết
tuổi thọ, mà ngay trong lúc này, chúng ta dứt tuyệt cái
duyên đối với những tội ác thế gian. Những
nỗi thống khổ, thiên tai nhân họa trong thế gian
sẽ chẳng có duyên phận với chúng ta. Chúng ta biết
“nhân, duyên, quả”, có nhân, có quả, giữa đó c̣n có
duyên. Nếu cắt đứt duyên, giống như dây dẫn
điện, có gịng điện, có nguồn điện, nhưng
chẳng có duyên, ánh sáng sẽ chẳng phát ra được.
Trên thế gian, chúng ta từ nhiều đời nhiều
kiếp tới nay đă tạo bao nhiêu tội nghiệp! Mỗi
một tội nghiệp đều khiến cho chúng ta một
phen sanh tử, đến hứng chịu tai nạn trong lục
đạo. Chúng ta hăy nên cắt đứt cái duyên ấy. Mọi
người không nói ǵ th́ thôi, hễ nói năng, bèn tán thán y
báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc,
duyên với thế giới Sa Bà sẽ bị cắt đứt.
B́nh thường, hăy nên siêng tu như vậy, siêng tu những
nghiệp của thánh, phàm v.v… Đến thời, sẽ
như nước chảy thành gịng. B́nh thường, tâm
chúng ta [đă tập luyện] thành thục như vậy, tới
khi thọ mạng chấm dứt, há chẳng phải là nhẹ
nhàng quen lối theo đường trở về nhà ư? Có
ǵ chướng ngại đâu nhỉ? Siêng tu những
điều thiện phàm, thánh của ta và người v.v… Một
mặt là chính ḿnh tu tŕ, mặt khác là nh́n xem bậc đại
Bồ Tát tu thiện như thế nào: Trong lúc tu nhân địa,
trước khi chứng quả, [các Ngài] đă làm các thứ
công đức [như thế nào], chúng ta học theo những
tấm gương đó. Đối với các điều
thiện dù phàm hay thánh, đều phải tu tập rất
siêng năng, sốt sắng!
Trừ
điều này ra, “kiến tam nghiệp
thiện tất tán thán, ác bất tùy hỷ” (thấy
điều thiện nơi ba nghiệp, ắt tán thán. Đối
với điều ác, chẳng tùy hỷ). Trong thế gian,
c̣n có chẳng ít chúng sanh là người tốt. Ba nghiệp
thân, khẩu, ư của họ đều thiện. Chúng ta
trông thấy, càng phải thêm tán thán, cổ vũ, khích lệ.
[Do vậy], người khác cũng sẽ bắt chước
làm theo, sẽ có lợi cho xă hội. Nói ngược lại,
những kẻ ác trong xă hội cũng rất nhiều.
Người tu đạo chúng ta chẳng cần hễ
trông thấy bèn chửi bới hoặc căm ghét họ. Phật
pháp luôn ôm ḷng từ bi, thấy kẻ ác [bèn biết] nguyên
nhân là do họ chẳng được giáo dục, tập
khí ác quá sâu, bị ảnh hưởng bởi toàn thể hoàn
cảnh. V́ thế, họ mới tạo ác nghiệp,
tương lai chịu ác báo. Đối với họ, phải
có ḷng thương xót, nhưng mức độ thấp nhất
là chẳng chỉ trích, trách móc, mà cũng chẳng tùy hỷ.
[Nếu thấy] kẻ nào đó có biện pháp gây án rất
cao minh, rất lợi hại, trong chốc lát bèn mưu mô
chiếm đoạt lợi ích to lớn, [liền tán thán]:
“Thông minh quá xá! Kẻ ấy tài ba lắm!” Quư vị tán thán như
vậy, giống như cổ vũ, khích lệ kẻ ấy
dùng thủ đoạn chẳng chánh đáng để làm
chuyện mưu đoạt, tổn người lợi
ḿnh! Chúng ta không tán thán, mà chỉ ôm ḷng thương xót. Người
tu đạo chúng ta phải nên có có thái độ này. Chúng
ta liễu giải những chuyện này, sẽ có thể dần
dần khơi gợi cái tâm chí thành của chính ḿnh, tức
là khơi mở cái tâm chân thật của chính ḿnh.
IV.2.2.15.2. Thâm tâm
Thứ
hai là thâm tâm. Thâm tâm là ǵ? Tổ sư chú giải thâm tâm là
tín tâm, hăy dấy khởi tín tâm của chính ḿnh. Tín tâm quan trọng,
học Phật bất luận học theo tông nào, ngay
như Thiền Tông nhấn mạnh sự hoài nghi, hoài nghi
cũng là một phương pháp. V́ sao hoài nghi? Nếu chẳng
có tín tâm mong thành Phật, chịu đựng vất vả
tham Thiền để làm ǵ? Do vậy, bất cứ tông
nào cũng đều phải có tín tâm! Kinh Phật có dạy:
“Tín là nguồn đạo, mẹ
công đức”. Hết thảy đạo đức
đều sanh từ ḷng tin. V́ thế, tín tâm rất trọng
yếu. Do đó, phải phát lên ba thứ tín tâm, trong phần
trước, chính là loại thứ nhất, tức chí thành
tâm, nay nói tới loại thứ hai là thâm tâm (tín tâm).
Căn cứ theo chú giải của
tổ sư, tín tâm có mấy điều như sau:
-
Một, quyết tín chính ḿnh bị tội ác quấn trói,
[nghĩa là] phải tuyệt đối tin tự thân chúng
ta bị trói buộc bởi tội ác, chẳng được
tự do. Đây là điều phải nhận thức
trước hết về tín tâm.
-
Hai, quyết tín luân hồi từ bao kiếp lâu xa, chẳng
thể thoát ly. Phải tuyệt đối tin tưởng
chúng ta từ nhiều kiếp xa xôi đến nay, sanh sanh tử
tử luân hồi trong lục đạo, chẳng thể
xuất ly!
-
Ba, quyết tín Di Đà đại nguyện nhiếp thọ
đại chúng văng sanh: Phải quyết định tin
tưởng bốn mươi tám đại nguyện do A
Di Đà Phật đă phát (mỗi nguyện đều là
đại nguyện). Do có những nguyện ấy tiếp
dẫn chúng sanh, [cho nên chắc chắn sẽ] văng sanh thế
giới Cực Lạc.
-
Bốn, quyết tín Thích Tôn thuyết giáo chẳng hư dối:
Tuyệt đối tin tưởng đấng giáo chủ
của thế giới Sa Bà là Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết
pháp tuyệt đối cũng chẳng hư vọng chút nào,
hoàn toàn là những lời lẽ chân thật.
-
Năm, quyết tín nỗi khổ tâm chứng khuyến (chứng
tín để khuyên lơn) của mười phương
chư Phật: Chẳng hạn như trong kinh A Di Đà có
nói sáu phương Phật (tức là mười
phương chư Phật) hiện tướng lưỡi
rộng dài tán thán pháp môn Tịnh Độ [để chứng
thực], khuyên mọi người phải tu học pháp môn
này. Chúng ta phải tin tưởng mười phương
chư Phật đều buốt ḷng dạy dỗ chúng ta thành
tựu.
-
Sáu, quyết tín những điều Phật dạy để
nên hành, nên bỏ; tùy thuận lời dạy của đức
Phật: Phải đặc biệt chú ư chuyện này! Tín
tâm là ǵ? Tín tâm là tùy thuận lời dạy của đức
Phật, làm theo những điều đức Phật bảo
nên hành và nên bỏ. Đức Phật dạy chúng ta sanh về
đâu, chúng ta bèn tới đó. Ngài dạy chúng ta làm chuyện
ǵ, chúng ta bèn làm theo. Hết thảy đều tùy thuận sự
giáo hóa của đức Phật, chớ nên hoài nghi là có
đáng tin cậy hay không? [Đừng nên có những hoài
nghi như]: “Thích Ca Mâu Ni Phật nói Tây Phương Cực
Lạc thế giới xa xôi như vậy, chúng ta có thể
đến đó hay không? A Di Đà Phật phát nguyện có
hiệu quả hay không?” Chớ nên ôm ḷng hoài nghi! Đức
Phật dạy chúng ta tu như vậy, chúng ta bèn tu theo
đúng như thế đó. Ngài dạy chúng ta hăy từ thế
giới Sa Bà đến thế giới Cực Lạc, chúng
ta liền làm theo, chắc chắn chẳng sai! Nếu trong
tâm có tí ti hoài nghi, sẽ chẳng có sức mạnh. Có sự
tin tưởng như vậy, sẽ có sức mạnh chẳng
thể nghĩ bàn!
-
Bảy, quyết tín trí huệ của Bồ Tát chẳng sánh bằng Phật, [Bồ Tát] thuyết
pháp c̣n chẳng liễu nghĩa: Chỉ có bậc đă thành
Phật khai Đại Viên Kính Trí, trí huệ mới viên măn.
Chưa đạt đến địa vị thành Phật,
dẫu là bậc đại Bồ Tát thuyết pháp, hăy c̣n có
những chỗ chẳng liễu nghĩa. Điều này có
nghĩa là chỉ có nghe đức Phật thuyết pháp [th́
pháp ấy mới là liễu nghĩa]. Kinh A Di Đà, Quán Kinh,
kinh Vô Lượng Thọ, ba kinh Tịnh Độ đều
do đức Phật nói. Hiện thời, có rất nhiều
người coi những cách nói khác là do chính miệng đức
Phật nói ra, là liễu nghĩa nhất, rốt ráo nhất.
Chúng ta tin tưởng điều này (điều thứ bảy),
sẽ chẳng nghe theo những lời lẽ phản đối
của kẻ khác.
-
Tám, quyết tín Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đều là
các giáo pháp chẳng tương ứng, chẳng hiểu rơ
lư văng sanh: Đối với pháp môn văng sanh của Tịnh
Độ Tông, mọi người đă nghiên cứu kinh A
Di Đà đều biết, ngài Xá Lợi Phất trí huệ
dường ấy, nhưng đối với bộ kinh đó,
Ngài chẳng nêu ra câu hỏi nào. Văn Thù Sư Lợi
đại Bồ Tát tham gia pháp hội ấy, cũng chẳng
nêu lên một câu hỏi nào! Chỉ có Phật và Phật mới
hiểu rơ đạo lư rốt ráo nhất. Ngay cả Bồ
Tát, Duyên Giác, và Thanh Văn vẫn đều chưa hiểu
lư văng sanh đến mức rốt ráo nhất. Hiện thời,
chúng ta thường nghe những kẻ b́nh phàm nói: “Các
ngươi học Tịnh Độ Tông chẳng hay bằng
pháp môn ta đang học”. Quư vị chớ nên nghe theo lời
lẽ ấy!
-
Chín, quyết tín những ǵ khác với kiến giải của
Phật đều là ma ngữ, hăy nên xa lánh: Bất luận
kẻ đó có địa vị ǵ, có địa vị học
thuật cao cả trong thế gian, nghiên cứu Phật pháp,
Tam Tạng mười hai bộ đều đọc thông
suốt, nhưng nếu ăn nói mâu thuẫn với ba kinh
Tịnh Độ (kiến giải của Phật), tức
là có kiến giải khác với kiến giải của Phật,
sẽ đều là ma ngữ (lời lẽ của tà ma),
hăy nên tránh cho xa! Không chỉ là chẳng nên nghe theo, mà c̣n phải
lánh xa! Chúng ta biết trong hoàn cảnh hiện thời, kẻ
phản đối Niệm Phật rất nhiều. Bọn
họ đều tự nhận là những người có
học vấn rất rộng. Quư vị hăy xem những lời
chú giải của tổ sư [được nhắc
đến ở đây th́ sẽ biết ngay]!
-
Mười, quyết tín những kẻ dẫn kinh để
chứng minh “không văng sanh” là những kẻ chỉ biết
Thông, chẳng biết Biệt: Điều này càng quan trọng
hơn nữa! Có những kẻ chẳng phát biểu ư kiến
của chính ḿnh, họ trích dẫn kinh điển làm
căn cứ để giả thiết: Thích Ca Mâu Ni Phật
nói “chẳng cần văng sanh. Chẳng cần văng sanh thế
giới Cực Lạc, mà thành Phật ngay trong thế giới
này”. Đấy là chỉ biết Thông, chẳng biết Biệt!
“Chẳng văng sanh” là pháp môn theo đường lối thông
thường. Thích Ca Mâu Ni Phật đối với pháp môn
theo đường lối thông thường, bèn nói theo lẽ
thông thường. Pháp môn b́nh thường là để nói với
những người thuộc căn cơ [thông thường]
ấy. Chúng ta tu pháp môn Niệm Phật là pháp môn đặc
biệt; pháp môn đặc biệt khác với pháp môn thông
thường ở chỗ nào? Pháp môn thông thường
cũng nói đến chuyện thành Phật, cũng nói tới
chuyện phải liễu sanh tử, bước
đầu tiên là liễu sanh tử, bước thứ hai
là thành Phật, chúng ta cũng thế. Vấn đề là
thời gian để họ liễu sanh tử và thành Phật
phải rất lâu xa! Để liễu sanh tử, phải
bảy lượt sanh tử trong nhân gian hoặc trên cơi trời;
để thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ
kiếp! C̣n pháp môn đặc biệt của chúng ta th́ có thể
hoàn thành ngay trong một đời. Chiếu theo
phương pháp này để niệm Phật vài chục
năm, sẽ có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Hễ văng sanh, sẽ liễu sanh tử, có
thể thành Phật rất nhanh chóng. Đấy là pháp môn
đặc biệt. Những kinh thông thường sẽ dạy
về pháp môn thông thường. Những kẻ dẫn kinh
để thốt lời phản đối [pháp môn Tịnh
Độ] chính là chỉ biết pháp môn thông thường,
chẳng biết tới pháp môn đặc biệt. Chúng ta
cũng phải liễu giải điều này.
Hôm
nay, tôi giảng đến chỗ này bèn ngưng, những
điều khác sẽ nói trong lần sau.
Tập 38
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang thứ hai
mươi hai, bắt đầu từ hàng thứ sáu. Tôi
niệm trước một đoạn kinh văn.
(Kinh)
Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Thượng Phẩm
Thượng Sanh giả, nhược hữu chúng sanh, nguyện
sanh bỉ quốc giả, phát tam chủng tâm, tức tiện
văng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả chí thành tâm, nhị
giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện
tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc”.
(經)佛告阿難,及韋提希:上品上生者,若有眾生,願生彼國者,發三種心,即便往生。何等為三?一者至誠心,二者深心,三者迴向發願心。具三心者,必生彼國。
(Kinh: Phật
bảo A
Lần
trước, tôi đă khởi sự giảng đoạn
kinh văn này. Hôm nay, tôi nhắc lại lần phần
đầu một lần nữa. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo
tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy: “Nếu muốn đạt Thượng Phẩm Thượng
Sanh”. Tiếp đó, Ngài bắt đầu nói về những
điều kiện của Thượng Phẩm Thượng
Sanh. Nếu có chúng sanh muốn văng sanh thế giới Cực
Lạc, mà phát ba loại tâm, sẽ tuyệt đối có thể
văng sanh. Ba thứ tâm ấy là ǵ vậy?
1) Thứ
nhất là chí thành tâm, tức là cái tâm chân thật nhất,
phát xuất từ bản tánh.
2) Thứ
hai là thâm tâm. Những ǵ đă nói trong lần trước chỉ
là “tiêu văn” (消文, giải
thích ư nghĩa theo mặt văn tự). Trong biểu đồ
bài giảng, tôi đă nêu tổng cộng mười điều.
Chúng ta tu pháp môn Tŕ Danh Niệm Phật, đối với
mười điều thâm tâm ấy, c̣n phải nói cao
hơn một bước nữa. Hôm nay, chúng tôi chọn ra
mấy điểm trọng yếu để lại nghiên
cứu đôi chút.
Thâm
tâm là nói tới tín tâm. Chúng ta tu pháp môn Niệm Phật của
Tịnh Độ Tông, quan trọng nhất là ba tư
lương Tín, Nguyện, Hạnh. Tín tâm được kiến
lập như thế nào? Tín tâm thông thường vẫn chưa
đủ, phải tin rất sâu. Tin rất sâu là như thế
nào? Ví như trong điều thứ nhất, mỗi cá nhân
tuyệt đối phải tin tưởng bản thân chúng
ta bị đủ mọi thứ quấn trói, giống
như bị từng sợi dây trói chặt, chẳng
được tự do. Đấy là một loại tỷ
dụ. Kẻ chẳng liễu giải đạo lư, sẽ
nghĩ: “Có ǵ trói buộc chúng ta đâu? Chúng ta muốn
nghĩ ǵ, muốn làm ǵ đều tự do tự tại”.
Thật ra, họ chẳng liễu giải: Kinh Phật nói,
đối với những tội ác do chúng ta đă tạo
từ vô thỉ kiếp tới nay, nếu chúng có thể
tướng, tận khắp hư không sẽ chẳng thể
dung nạp; chứng tỏ chúng ta đă tạo tội ác
quá ư là nhiều! Kẻ b́nh phàm đều chẳng liễu
giải, nếu quư vị nói họ có rất nhiều tội
ác, họ căi lại ngay lập tức: “Tôi có tội ác ǵ chớ?
Tôi làm chuyện xấu ǵ chớ?” Người tu đạo
mới liễu giải, chính ḿnh phải phản tỉnh, dấy
lên ư niệm là tội ác. Đối với những thứ
đẹp đẽ bên ngoài, âm thanh dễ nghe, hương
vị ngon lành, hễ tâm tư của chúng ta dấy lên ư niệm,
tức là đă phan duyên nơi đó. Những điều ấy
đều là chuyện tạo nghiệp, kẻ b́nh phàm chẳng
thể giác ngộ!
Chúng
ta học pháp môn Niệm Phật phải biết: Kẻ
b́nh phàm chẳng thể ngay lập tức sám hối trừ
sạch tội ác được! Chẳng sai! Sám hối có
thể trừ khử [tội nghiệp], nhưng phải hỏi:
“Chúng ta có công phu ấy hay chăng? Có năng lực để
sám hối như vậy hay không?” Kinh dạy: “Tội tùng tâm khởi,
tương tâm sám” (Tội từ tâm khởi, dùng tâm sám).
Phải sám hối bằng chân tâm th́ mới có thể [sám trừ
nghiệp chướng], nhưng có mấy ai trong chúng ta có thể
dấy khởi chân tâm của chính ḿnh? Kẻ b́nh phàm chẳng
liễu giải, v́ sao ắt phải đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới? [Họ cứ
nghĩ] ở trong nhân gian có thể thành Phật, có thể
xuất ly lục đạo luân hồi, chẳng biết
chính ḿnh có bao nhiêu tội, cũng chẳng biết chính ḿnh
có năng lực có thể trừ sạch tội hay không? Do
vậy, người học Phật chúng ta phải thời
thời khắc khắc phản tỉnh công phu của chính
ḿnh, rất hiện thực! Khi chúng ta gặp phiền năo
đưa tới, Phật hiệu chẳng đè nén
được, có thể suy ra để thấy công phu của
chính ḿnh đạt đến mức độ nào! Dùng Phật
hiệu mà chẳng đè nén phiền năo được, chúng
ta c̣n có thể giải trừ tội ác từ vô thỉ kiếp
tới nay hay không? Liễu giải điều này, chúng ta ắt
phải mong cầu văng sanh thế giới Cực Lạc,
phải đới nghiệp văng sanh. Trong hiện thời,
có những kẻ nói “chẳng cần đới nghiệp văng
sanh”, hoặc “căn bản là chẳng cầu văng sanh, cứ
ở ngay trong thế giới Sa Bà mà thành tựu”. Bản lănh
của họ ra sao? Chúng ta không biết, nhưng chúng ta liễu
giải chính ḿnh tuyệt đối chẳng đủ sức,
phải giác ngộ tầng ư nghĩa này!
C̣n
nữa, điều thứ chín dạy chúng ta phải tin
tưởng tuyệt đối:
“Những ǵ khác với kiến giải của Phật
đều là ma ngữ”. Hễ những kiến giải
nào chẳng giống kiến giải của Phật, sẽ
đều là ma ngữ, hăy nên tránh xa. Chúng ta học Phật,
đức Phật chẳng ở trong thế gian, chúng ta cậy
vào đâu? Cậy vào kinh Phật. Nếu có kẻ nói: “Chẳng
cần nghe theo lời dạy trong kinh Phật, lời ta nói
c̣n cao minh hơn kinh Phật! Kinh Phật do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói từ hơn hai ngàn năm trước, hiện tại
là thời đại khoa học, chúng ta phải ăn nói
phù hợp khoa học, nói theo kiểu hiện đại th́
mới hữu dụng”. Kẻ nói những lời này, cũng
có lẽ học vấn hết sức rộng, của cải
và địa vị chánh trị cũng rất cao. Bất
luận người ấy có thân phận hoặc địa
vị ǵ, chỉ cần kẻ ấy thốt lời bài
xích, báng bổ kinh Phật, [những ǵ kẻ đó nói dẫu
nghe có vẻ hợp lư đến đâu đi nữa] đều
là ma ngữ, đều là những lời lẽ do ma thốt
ra, chúng ta chẳng cần nghe theo. Tổ sư cũng nói: “Ly kinh nhất cú, tiện thị
ma thuyết” (Ĺa kinh một câu, chính là ma thuyết). Chúng
ta thời thời khắc khắc phải ghi nhớ: Chỉ
cần bất cứ câu nào chẳng phù hợp kinh văn, sẽ
là ma thuyết!
Lại
xem điều thứ mười. Nếu có những kẻ
cũng dẫn kinh Phật để nói: “Quư vị nói pháp
môn Tịnh Độ, phải văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, nhưng trong khá nhiều kinh điển,
trọn chẳng nói ‘phải văng sanh Tây Phương’, mà luôn
nói ‘phải minh tâm kiến tánh’. Khai phát tự tánh là có thể
đoạn phiền năo, thành Phật”. Tuy những kinh
đă dẫn cũng toàn là do đức Phật đă nói, nhưng
tổ sư nói hay lắm: “Chẳng sai! Kinh đă trích dẫn
cũng là do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, nhưng Thích Ca Mâu
Ni Phật nói một bộ kinh ấy [nhằm thích hợp
với căn khí của một loại đối tượng
nào đó mà thôi]. Quư vị chẳng thể căn cứ trên
bộ kinh ấy để phê b́nh, bài bác, phản đối
kinh Tịnh Độ Tông”. Rất nhiều kinh giảng về
pháp môn thông thường, người dẫn kinh [để
phản đối Tịnh Độ] chỉ biết đến
pháp môn thông thường! Kinh điển Tịnh Độ
Tông là do Thích Ca Mâu Ni Phật dạy về pháp môn đặc
biệt, nhất là trong thời kỳ Mạt Pháp, chỉ
có pháp môn đặc biệt là thành tựu nhanh chóng nhất.
V́ thế, chúng ta tu pháp môn Niệm Phật, hoàn toàn chẳng
phải là tất cả các kinh đều nên xem, ắt phải
được tổ sư chỉ điểm [những
kinh điển nào nên xem ḥng phù hợp với căn khí của
chính ḿnh]. Pháp môn đặc biệt là một pháp môn đặc
thù, chẳng giống các pháp môn thông thường. Chỉ biết
pháp môn b́nh thường mà không biết tới pháp môn đặc
biệt, dẫu đọc thông thuộc khắp các kinh
điển Đại Thừa, vẫn chẳng hiểu pháp
môn đặc biệt! Trong kinh Di Đà, vị đại
đệ tử là Xá Lợi Phất trí huệ cỡ nào,
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trí huệ cỡ nào,
nhưng các vị đại Bồ Tát và đại đệ
tử trong suốt bộ kinh ấy chỉ lắng nghe, thậm
chí chẳng nêu một câu hỏi nào (chẳng có cách nào hỏi).
Có thể suy ra để biết: Pháp môn này chỉ có Phật
mới biết, là cảnh giới cao nhất của Phật,
những kẻ học Phật b́nh phàm làm sao có thể biết
được?
Sau
khi chúng ta liễu giải những điều này, người
khác càng xúi giục chúng ta đừng tin lời tổ
sư, chúng ta càng phải tăng tấn tín tâm của chính
ḿnh. Đấy mới là “tin
sâu chẳng nghi”.
IV.2.2.15.3. Hồi hướng
phát nguyện tâm
Chúng
ta đă biết hai loại tâm trước đó, loại
thứ ba là hồi hướng phát nguyện tâm: Thệ
nguyện nhất định phải văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Hồi hướng
phát nguyện như thế nào? Có ba điều. Kinh Phật
nói đến hồi hướng và phát nguyện rất
nhiều. Các pháp môn bất đồng, phải liễu giải
ở đây là sự hồi hướng phát nguyện
được nói trong Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh của Tịnh Độ Tông, chúng ta phải
đặc biệt chú ư (xin xem biểu đồ trong đề
cương bài giảng).
1)
“Quá hiện tam nghiệp sở
tu thế, xuất thế thiện căn” (Thiện
căn thế gian và xuất thế gian đă tu nơi ba
nghiệp trong quá khứ và hiện tại): “Quá” (過) là quá khứ, nhưng chẳng phải là
quá khứ của một đời hiện tại này, mà
là đời trước của đời trước. Trước
đời trước lại có đời trước nữa,
đó là “quá khứ”. “Hiện” (現) là hiện
tại, tức là một đời này. “Quá hiện” là thời gian lâu xa từ nhiều
đời trong quá khứ cho tới nay, cho đến đời
hiện tại này. “Tam nghiệp”:
Nghiệp (業) là tạo tác, những chuyện do kẻ
b́nh phàm đă làm được gọi là “sự nghiệp” (事業). Chúng ta
nói ba nghiệp là dùng thân thể để biểu hiện,
để làm ra các chuyện th́ gọi là “thân nghiệp”, dùng miệng để nói năng, kể
cả viết chữ, soạn văn chương, đều
gọi là “khẩu nghiệp”
(những sự nghiệp được tạo bởi miệng).
Ngoài thân và khẩu ra, quan trọng nhất là tư tưởng,
tức ư nghiệp. Các thiện căn đă tu, các thiện
nghiệp đă tạo nơi ba phần thân, khẩu, ư từ
đời quá khứ cho đến đời hiện tại.
Có thiện nghiệp th́ mới gieo thiện căn. “Thế” (世) là thế
gian, “xuất thế” (出世) là xuất
thế gian, tức vượt ngoài thế gian, có tầng cấp
càng cao hơn. Chúng ta học Phật th́ phải học pháp xuất
thế gian, v́ trong thế gian đều là chẳng tự
do, có sanh tử. Hễ xuất thế gian th́ vấn đề
sanh tử đă được giải quyết. Trong đời
quá khứ và đời hiện tại, xét theo thiện nghiệp
do chúng ta đă tạo nơi thân, khẩu, ư, [sẽ thấy]
thiện nghiệp có khi tương ứng với thiện
nghiệp thế gian, có khi tương ứng với thiện
nghiệp xuất thế gian. Đó là những thiện
căn đă gieo trồng.
Điều
thiện thế gian th́ thí dụ như là Ngũ Luân được
nói trong văn hóa Trung Hoa: Làm con cái phải trọn hết
hiếu đạo đối với cha mẹ. Chính ḿnh
trong tương lai, khi khôn lớn, sẽ làm cha mẹ của
kẻ khác, có ḷng Từ đối với thế hệ kế
tiếp, duy tŕ Ngũ Luân. Thuộc về địa vị
nào, bèn ǵn giữ bổn phận thuộc địa vị
ấy, trọn hết bổn phận. Đó là thế gian thiện.
Xuất thế gian thiện là ngoài những điều thiện
thế gian ra, chúng ta nhất định phải cầu đạt
được giác ngộ, ĺa khỏi thế gian, mong sao có
thể thành tựu thánh nhân. Đó là xuất thế gian thiện.
Xuất thế gian thiện hết sức trọng yếu!
Thế gian thiện đều chẳng rốt ráo. Tu pháp xuất
thế gian, nay chúng ta học Tịnh Độ Tông, tu pháp
môn Niệm Phật, một mặt là chính ḿnh niệm Phật,
[mặt khác] là cũng khuyên kẻ khác niệm Phật. Trợ
công phu là tin nhân quả, làm việc thiện. Đối với
nhân quả, ắt phải nói đến nhân quả ba đời,
thời thời khắc khắc giữ [ư niệm] “nhân quả ba đời” trong
tâm, chính ḿnh tin tưởng sâu xa, làm chuyện ǵ cũng chớ
nên trái nghịch nhân quả ba đời. Chúng ta tṛ chuyện
với người khác, hăy dạy người ta cũng phải
tin sâu nhân quả ba đời. Điều này sẽ giúp cho
chúng ta tu xuất thế gian thiện.
Thiện
căn thế gian và xuất thế gian là ǵ? Đối với
chữ Căn (根), chúng ta đă học rất nhiều điều
thiện thế gian và xuất thế gian, do những điều
thiện ấy, dần dần vun bồi căn lành ấy.
“Căn” có ư nghĩa giống
như một cái cây, sanh trưởng rất vững chắc
nơi đất, sâu dầy đến nỗi chẳng thể
nhổ được. Đấy là một ư nghĩa.
Hơn nữa, Căn không chỉ có thể bén rễ vững
vàng rất chắc chắn, mà c̣n có thể sanh trưởng.
Đă có căn, lại tiếp tục tạo thiện nghiệp.
Chúng ta cũng có thể dùng văn hóa Trung Hoa để xem
xét điều này. Trong thiên Hồng Phạm của sách
Thượng Thư có nói tới Ngũ Phước, trong
đó có “du hảo đức”.
“Du hảo đức” (攸好德) là [ưa
chuộng] thiện căn. Một người gặp
được thiện sự hoặc chuyện công đức
liền yêu thích thực hiện. V́ sao yêu thích thực hiện?
V́ có Căn. Hễ có Căn, sẽ thời thời khắc
khắc phát ra ngoài. “Căn” ấy
hoàn toàn chẳng phải là ngẫu nhiên, mà là do từ nhiều
đời tới nay đă tu thiện nghiệp, sau đấy
mới sanh ra cái Căn này. Nói theo ư nghĩa th́ một mặt
là cái nhân có thể sanh ra quả, mặt khác cũng là cái quả
đă được sanh. V́ thế, trong văn hóa Trung Hoa, “du hảo đức”
được thiên Hồng Phạm coi là một phước
trong Ngũ Phước. Nếu chẳng từ thiện
căn để liễu giải, “du hảo đức” là tạo thiện nghiệp,
chính là nhân. V́ sao nó là một phước trong Ngũ Phước?
“Phước” là phước
báo (quả), v́ sao có thể là quả? Chẳng giải quyết
nghi vấn này, đối với văn hóa Trung Hoa, sẽ
chẳng thể nói thông suốt được, chẳng hiểu
rơ! Bởi lẽ, thiện căn xét theo một mặt th́
là nhân; xét theo mặt khác, nó lại là quả. Căn chẳng
phải là rất nông cạn, mỏng manh (làm một ít thiện
nghiệp trước mắt sẽ đạt được
quả), mà là Căn đă gieo trồng từ nhiều đời
đến nay. Trong nền văn hóa chân chánh của Trung
Hoa, các bậc đại nho đều tin sâu nhân quả ba
đời. V́ thế, khi trả lời thư tín, Ấn
Quang đại sư thường nhắc tới Ngũ
Phước và Lục Cực[1]
trong sách Thượng Thư. Đấy chính là học thuyết
“nhân quả ba đời” của
Nho gia.
“Thiện căn” là thiện nghiệp
thế gian và xuất thế gian do chúng ta đă tu tập,
vun bồi nơi ba nghiệp thân, khẩu, ư trong nhiều
đời nhiều kiếp và trong một đời này mà
thành. Đă có thiện căn, nhất định là có thiện
báo và phước báo, nhưng chúng ta phải hồi hướng.
Có thiện căn, chớ cầu hưởng phước
báo như ngay lập tức được thăng quan,
phát tài, hoặc sự nghiệp thuận buồm xuôi gió.
Chúng ta hăy hồi hướng thiện căn để sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng
cầu hưởng các thứ phước báo trong nhân gian, mà
cũng chẳng cầu hưởng phước báo trong cơi
trời, người. Sau khi đă hưởng hết
phước, sẽ lại chuyển thế, sẽ thọ
khổ báo. Chúng ta hăy ngẫm xem: Trong thế gian này, có khá nhiều
kẻ hưởng phước mà chẳng giác ngộ. Tiếp
đó, sẽ phải chịu khổ báo, thế mà chính họ
chẳng biết. V́ thế, người học Phật
chúng ta phải liễu giải, hăy hồi hướng thiện
căn, phát nguyện. Chúng ta mong cho lúc thọ mạng chấm
dứt, sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Hễ
sanh về thế giới Cực Lạc, đủ mọi
nỗi thống khổ đă hứng chịu từ nhiều
đời nhiều kiếp đến nay trong thế gian sẽ
được hoàn toàn giải quyết. Chúng ta chẳng cần
nghĩ tới những nỗi khổ trong đời quá khứ,
[chỉ cần] hồi tưởng những nỗi đau
khổ phải chịu của một kiếp người
trong đời này, sẽ cảm thấy đúng là chẳng
có dũng khí để đời sau sanh làm người lần
nữa! Huống hồ, muốn đời sau vẫn làm
người cũng chẳng dễ dàng đâu nhé! Do ác nghiệp
đă tạo nơi ba nghiệp thân, khẩu, ư của chúng
sanh trong nhân gian hiện thời, chẳng bảo đảm
đời sau vẫn được làm thân người! Rất
có thể là sẽ vào trong tam đồ. Vào trong tam đồ,
lại càng đáng sợ hơn nữa! Suy nghĩ như vậy,
chúng ta phải phát nguyện kiên định, đem thiện
căn hồi hướng phát nguyện về Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Hễ có nguyện
hồi hướng ấy, trước mắt sẽ là hết
thảy đều b́nh an, khi thọ mạng chấm dứt,
văng sanh chẳng bị chướng ngại. Đấy là
phước báo lớn nhất!
2)
“Tùy hỷ tha nhất thiết
tam nghiệp thế, xuất thế thiện căn” (Tùy
hỷ hết thảy thiện căn ba đời thế
gian và xuất thế gian của người khác): Chúng ta thấy
thân khẩu ư của người khác tạo thiện nghiệp.
Những thiện nghiệp ấy có những điều
phù hợp với thiện nghiệp thế gian. Ví như
chúng ta thấy một vị hiếu tử, bèn phát tâm hoan hỷ,
giúp cho người ấy thành tựu hiếu đạo. Chúng
ta thấy người nào thích giúp đỡ bạn bè, chúng
ta có năng lực tùy hỷ, phát tâm hoan hỷ, cũng
như có mấy phần năng lực bèn [dốc hết mấy
phần năng lực] giúp cho người ấy hoàn thành.
Đó là [thiện nghiệp] thế gian. Thiện nghiệp
xuất thế gian: Chúng ta thấy người phát tâm học
Phật, phát tâm niệm Phật, bèn càng phát tâm hoan hỷ,
nghĩ đủ mọi phương pháp giúp đỡ
người ấy thành tựu thiện nghiệp xuất
thế gian. Đó là hết thảy thiện căn thế
gian và xuất thế gian mà người khác đang tu tập,
ba nghiệp thân, khẩu, ư của người khác đều
đang tu, chúng ta tùy hỷ (vui theo họ). Tùy hỷ có công
đức tùy hỷ. Chúng ta dùng công đức tùy hỷ để
hồi hướng, hồi hướng phát nguyện. Cậy
vào công đức tùy hỷ, trong tương lai cũng có thể
giúp chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc.
3)
“Sanh bỉ quốc dĩ, hồi
nhập Sa Bà, độ hóa chúng sanh” (Đă sanh về cơi ấy,
trở lại Sa Bà hóa độ chúng sanh): Trong tương
lai, sau khi chúng ta đă sanh về thế giới Cực Lạc,
sẽ trở lại Sa Bà hóa độ chúng sanh. Nay bèn phát
nguyện này. Đợi đến trong tương lai, khi
thọ mạng đă chấm dứt, sau khi sanh về thế
giới Cực Lạc, hoàn toàn chẳng phải là một mực
hưởng thụ ở bên đó. Hoàn cảnh [trong cơi Cực
Lạc] tuy tốt đẹp, nhưng chẳng cần
hưởng thụ tại đó, ta phải quay về.
Đến thế giới Cực Lạc giống như cầu
học bên đó. Đă cầu được học vấn
xuất thế gian tốt đẹp, sức lực của
chính ḿnh đă đầy đủ, lại quay về thế
giới Sa Bà (tức là thế giới này) để hóa độ
chúng sanh. V́ sao trong mười phương thế giới
chỉ chọn trở lại thế giới Sa Bà? Một
người chẳng thể quên nguồn cội. Đời
này, chúng ta do cha mẹ sanh ra; trước đời này
cũng là do cha mẹ sanh ra, đời đời kiếp
kiếp đều do cha mẹ sanh ra. Trong đời này,
chúng ta thấy cha mẹ qua đời, trong tâm đau khổ
khôn ngằn, chẳng trọn hết hiếu đạo. Đời
quá khứ có bao nhiêu cha mẹ? Mỗi đời mỗi kiếp
đều có cha mẹ, đương nhiên là chẳng nhất
định ở trong nhân gian; trong quá khứ, chúng ta
cũng đă từng ở trong các đường khác. Cha
mẹ trong các đường đều có, mà cha mẹ
đời quá khứ nay đều đang ở trong lục
đạo. Ngoại trừ cha mẹ, c̣n có quyến thuộc,
bằng hữu, c̣n có con cái, anh em đều ở trong Sa
Bà, hoặc trong lục đạo. Chúng ta đến thế
giới Cực Lạc chẳng dễ dàng ǵ, đến
hoàn cảnh tốt đẹp nhất, trong tâm vẫn
vương vấn có nhiều thân nhân ngần ấy c̣n đang
ở trong thế giới Sa Bà, có nhiều ngần ấy chúng
sanh hứng chịu căn bản khổ năo ở nơi
đây. Do vậy, chúng ta nhất định phải phát nguyện
trở lại thế gian này để hóa độ họ.
Đă
tới thế giới Cực Lạc, quay về [Sa Bà] dễ
dàng, hiệu quả hóa độ chúng sanh to lớn. Nay tuy
chúng ta học pháp môn Niệm Phật, chính ḿnh cũng có tín
tâm, nhưng chúng ta khuyên người ta niệm Phật,
cũng chẳng thể trọn khắp. [Nếu như] thân
thích và bạn bè hữu duyên, chúng ta khuyên họ, họ sẽ
tin tưởng. C̣n những người chẳng có duyên với
chúng ta, thậm chí họ nghĩ chính họ học vấn
rất giỏi, hoặc là địa vị rất cao,
chúng ta khuyên họ niệm Phật, sẽ chẳng thể khuyên
họ nổi! Những người ấy trong đời
quá khứ có lẽ cũng có mối quan hệ thân thích rất
mật thiết với chúng ta, nhưng hiện thời,
chúng ta chẳng biết thân phận của họ trong đời
quá khứ, họ cũng chẳng biết thân phận trong
đời quá khứ của chúng ta, sức lực mà chúng
ta có thể vận dụng [để hóa độ họ]
quá nhỏ bé! Sau khi chúng ta đă đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới, quay trở về, bằng lời
lẽ, bằng biểu hiện nơi thân, miệng, ư,
người ta vừa nghe bèn có thể tin tưởng, sức
hóa độ chúng sanh to lớn khôn cùng! Tổ sư Ấn
Quang đương nhiên là bậc tái lai, lăo nhân gia chẳng
cần giảng kinh, thuyết pháp, ngồi yên nơi đó,
trong thuở ấy, quan to bất luận thuộc địa
vị cao cỡ nào, vừa gặp Ngài bèn nghiêm túc dấy
ḷng tôn kính, bội phục đến mức năm vóc sát
đất. Khi đó, những bậc đại học vấn
rất đông, gặp Ngài cũng đều cung kính khôn
cùng! Do vậy, chúng ta phải phát nguyện, nay chúng ta sức
lực rất nhỏ, một là phát nguyện văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, hai là phát nguyện
sẽ trở về hóa độ cha mẹ, quyến thuộc,
anh em, bằng hữu nhiều đời nhiều kiếp
trong thế gian này. Đấy là thật sự chẳng
quên nguồn cội, thật sự trọn hết ḷng hiếu!
Đối
với “tam tâm”, trong Đại
Thừa Khởi Tín Luận cũng có ba tâm. Tổ sư chú
giải: Ba tâm trong luận ấy và ba tâm trong kinh này phù hợp.
Ba tâm trong Đại Thừa Khởi Tín Luận là:
1) Trực
tâm: Ở đây nói là chí thành tâm. Chí thành tâm và trực tâm nhất
trí. Trực tâm là trực tiếp niệm vào Chân Như. Ở
đây chúng ta nói “chí thành tâm” th́ cũng là cầu nơi tự
tánh, phát tâm chân thật, cho nên [trực tâm và chí thành tâm] như
nhau.
2) Thâm
tâm: Đại Thừa Khởi Tín Luận cũng nói là thâm
tâm. Thâm tâm là đối với pháp tự tánh Chân Như,
càng tin càng sâu, trọn chẳng bị dao động bởi
tà tri tà kiến.
3) Từ
bi tâm, c̣n gọi là đại bi tâm. Đại bi là Đồng
Thể Đại Bi, [tức là] coi tất cả chúng sanh khổ
năo trong thế gian đều như chính ḿnh. Đấy vẫn
là nói theo phương tiện. Nói tới chân lư thật sự,
Chân Như bản tánh của chúng sanh và bản tánh của
chúng ta là một Thể (đồng thể). Phát cái tâm Đồng
Thể Đại Bi, nay chúng ta tuy vẫn chưa chứng
đạo, nhưng chúng ta cũng biết hướng
đến đạo để cầu, đă nhận biết
phương hướng. C̣n có những kẻ không biết,
chúng ta phải phát đại bi tâm, phải làm thế nào
để khiến cho họ liễu giải Phật pháp tốt
đẹp ngần ấy. Không chỉ là khiến cho họ
liễu giải Phật pháp, mà c̣n phải làm cho họ liễu
giải pháp đặc biệt, tức là trong mấy chục
năm ngắn ngủi của cuộc đời này, có thể
lập tức giải quyết vấn đề sanh tử
trong nhiều đời nhiều kiếp. Đấy là
đại bi tâm. Hồi hướng phát nguyện tâm và đại
bi tâm là hoàn toàn nhất trí, chúng ta phát nguyện: “Tôi nhất
định phải sanh về thế giới Cực Lạc,
nhất định phải trở về hóa độ, dẹp
trừ, cứu vớt nỗi đau khổ của chúng
sanh”. Đấy là đại bi tâm.
Ba
tâm này tách ra để nói th́ có ba loại. Tổ sư chú giải:
Khi chúng ta tu tập, hăy viên dung ba tâm. Tu trong một niệm,
viên dung ba tâm thành một niệm. Trong khi khởi tâm động
niệm, niệm nào cũng đều là ba loại tâm ấy.
Một niệm viên tu, thời thời khắc khắc, tâm
tâm niệm niệm đều có ba loại tâm ấy
được bao gồm trong đó, cái nhân văng sanh bèn
được mười phần đầy đủ.
Tu “ba tâm trong một niệm” như thế, chúng ta thường
nói ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh. Chí thành tâm là
chuyên nói theo bản tánh, c̣n thâm tâm là nói tới Tín, hồi
hướng phát nguyện tâm là nói tới Nguyện, vậy
th́ Hạnh ở chỗ nào? Tổ sư Tịnh Độ
Tông là Thiện Đạo đại sư đă nói trong Tứ
Thiếp Sớ như sau: “Hạnh
được bao gồm trong thâm tâm và phát nguyện tâm”.
Trong chú giải, Ngài rất từ bi, nêu ra phương pháp
để dụng công. Khi hành, bèn có Chánh Hạnh và Tạp Hạnh
(“tạp” (雜) là không
thuần túy); tổ sư đă chia Hạnh thành hai loại
ấy.
Chánh
Hạnh là nhất tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật.
Ngoài Chánh Hạnh, bèn có những hạnh khác để giúp
đỡ, bao gồm lễ Phật (tức lạy Phật),
đọc tụng Tịnh Độ Tam Kinh và các kinh điển
Đại Thừa khác. Thường ngày, nếu có thời
gian, hăy chuyên môn quán tưởng hoàn cảnh tốt đẹp
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức
y báo và chánh báo, như ao bảy báu, trong ao có bao nhiêu hoa sen,
bao nhiêu quang, sắc, quang minh v.v… các thứ hoàn cảnh tốt
đẹp. Lại c̣n chánh báo trang nghiêm: Phật, Bồ Tát,
chư thượng thiện nhân. Chúng ta hễ rảnh rỗi,
khi có thời gian, tư tưởng hăy đặt nơi những
điều đó, trong tâm tưởng cảnh giới ấy,
sẽ kết duyên với thế giới Cực Lạc. Ví
như chúng ta ở trong nhân gian mong đến một chỗ
nào đó, trước hết, đầu óc nghĩ tới
nơi đó; sau đấy, thân thể hành động th́ mới
đến đó được. Nếu trước
đó, tâm tư chẳng nghĩ tới, làm sao có thể
đến đó cho được? Cùng một đạo
lư như vậy, trong tâm chúng ta thường nghĩ tới
hoàn cảnh trong thế giới Cực Lạc, tương
lai sẽ đến nơi ấy. V́ thế, chánh công phu là niệm
Phật hiệu, trợ công phu là tâm tư của chúng ta
nghĩ tới hoàn cảnh ấy. Tưởng hoàn cảnh ấy
th́ có lẽ cũng chưa tưởng hoàn toàn. Hễ có thời
gian, bèn đọc tụng ba kinh Tịnh Độ, ḥng khởi
lên sự nhận thức rất rơ rệt, quen thuộc với
hoàn cảnh. Chánh công phu và trợ công phu đều gọi là
Chánh Hạnh.
Tạp
Hạnh là ngoài Chánh Hạnh và Trợ Hạnh ra, chúng ta làm
đủ thứ các việc thiện trên thế gian, do
thân, khẩu, ư biểu hiện ra: Nói một câu tốt lành hướng
dẫn người ta đi theo con đường tốt,
chúng ta khuyên kẻ khác niệm Phật, hoặc khi [thấy]
người khác sắp lâm chung bèn đến trợ niệm.
Kẻ lúc thường ngày chẳng học
Phật, khi sắp chết, cảm thấy hoảng sợ,
nếu chúng ta có cơ hội, sẽ khuyến cáo người
ấy. Dẫu người ấy lúc thường nhật
chẳng hề tiếp xúc Phật pháp, chẳng biết có Tây
Phương Cực Lạc thế giới, lúc b́nh thường,
người ấy chẳng quan tâm, tới khi sắp chết,
trong tâm dấy lên nỗi sợ hăi. Khi ấy, nếu chúng
ta có cơ hội, phải bảo cho người ấy biết
về thế giới Cực Lạc, chỉ bảo
phương pháp cho người ấy. Lúc đó, người
đó không thể chẳng tin tưởng, nói không chừng,
thiện căn của người ấy phát hiện, sẽ
lập tức có thể văng sanh. Công đức ấy là
điều thiện xuất thế gian, là thiện
nghiệp tuyệt diệu. Những thiện nghiệp ấy
rất nhiều, chỉ cần có lợi cho người
ta, đối với những điều lợi lạc chẳng
kèm theo tác dụng phụ, hăy tận hết sức giúp
đỡ người ta. Đó đều là thiện nghiệp.
Tổ sư phân loại những thiện nghiệp ấy
là Tạp Hạnh. Tuy là Tạp Hạnh, chúng cũng tuyệt
diệu lắm, cũng có thể giúp chúng ta văng sanh, giúp
chúng ta tiêu trừ các thứ chướng ngại. Chẳng
có chướng ngại, sẽ nắm chắc văng sanh.
Ở
đây là nói tới Thượng Phẩm Thượng Sanh, sau
đó là Thượng Phẩm Trung Sanh, Thượng Phẩm
Hạ Sanh, măi cho đến cuối cùng, tổng cộng là
chín phẩm. Chín phẩm văng sanh đều phải dựa
vào điều này: Hiểu pháp môn Niệm Phật. Pháp môn Niệm
Phật chỉ cần nhất tâm chuyên niệm Phật hiệu,
những điều khác đều là phụ trợ. Chẳng
có Trợ Hạnh, sẽ không được! Ví như vận
động viên trên sân vận động, trong khi chạy
đua, được người khác cổ vũ, tinh thần
bèn hăng hái. Nếu người khác chẳng cổ
vũ, hiệu quả chẳng thể tốt đẹp ngần
ấy. Thậm chí nghe người khác la ó chê bai, người
ấy sẽ nhụt chí. V́ thế, chúng ta học pháp môn Niệm
Phật, ngoại trừ công phu chánh yếu là tŕ danh niệm
Phật, hăy thường đọc tụng ba kinh Tịnh
Độ, lễ Phật, lại thường trao đổi
ư kiến với các đồng tu, cùng nhau tu tŕ. Điều
này sẽ khích lệ, cổ vũ chúng ta rất lớn.
Đó là điều tất yếu đối với chuyện
văng sanh của chúng ta. Ngoài nhất tâm xưng danh ra, cũng
cần phải thường hành những điều khác. Lại
c̣n viên dung ba tâm ấy trong một niệm; khi niệm Phật,
tâm tâm niệm niệm nơi Phật hiệu. Lúc chẳng niệm
Phật, ba tâm ấy luôn tồn tại trong ư niệm của
chúng ta, lẽ nào chúng ta chẳng đạt được
nhất tâm bất loạn? Lẽ đâu chẳng văng sanh? Đấy
là ḷng từ bi của tổ sư. Các Ngài chú giải
như vậy, đă vạch ra một con đường rất
rơ ràng cho chúng ta. Chúng ta chẳng nghiên cứu kinh, không
căn cứ trên chú giải của tổ
sư để làm theo, mà nghe theo những kẻ khác! Kẻ
khác dẫu nói hay ho cách mấy, mà nếu chẳng tu pháp môn
đặc biệt này, sẽ đều là c̣n cách biệt một
tầng, đều là kẻ lơ mơ ngoài ŕa. Chúng ta nghe
lời của những kẻ lơ mơ ngoài ŕa để
làm ǵ? Chúng ta phải nghe những lời dạy của tổ
sư Tịnh Độ Tông. Nghe lời dạy của tổ
sư, nghe theo kinh Phật th́ mới là ổn thỏa nhất.
Hăy xem phần kinh văn kế đó: “Hà đẳng vi tam? Nhất giả
chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi hướng
phát nguyện tâm. Cụ
tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc” (Những
ǵ là ba? Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng
phát nguyện tâm. Trọn đủ ba tâm, ắt sanh về
cơi ấy). Thích Ca Mâu Ni Phật nói những lời thực
tại, “tất sanh bỉ quốc”
là ắt sẽ sanh về cơi ấy, nhất định có
thể sanh về thế giới Cực Lạc. Hôm nay, tôi
nói đến chỗ này.
Tập 39
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi hai,
bắt đầu từ hàng thứ tám. Tôi đọc
trước một đoạn kinh văn.
(Kinh)
Phục hữu tam chủng chúng sanh, đương đắc
văng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả từ tâm bất
sát, cụ chư giới hạnh. Nhị giả độc
tụng Đại Thừa Phương Đẳng kinh
điển. Tam giả tu hành lục niệm, hồi hướng
phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Cụ thử
công đức, nhất nhật năi chí thất nhật, tức
đắc văng sanh.
(經)復有三種眾生,當得往生。何等為三?一者慈心不殺,具諸戒行。二者讀誦大乘方等經典。三者修行六念,迴向發願,願生彼國。具此功德,一日乃至七日,即得往生。
(Kinh: Lại
có ba loại chúng sanh sẽ được văng sanh. Những
ǵ là ba? Một là từ tâm chẳng giết, đầy
đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh
điển Đại Thừa Phương Đẳng. Ba
là tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện,
nguyện sanh về cơi ấy. Trọn đủ công đức
ấy, từ một ngày cho đến bảy ngày bèn
được văng sanh).
Phép
Quán này nói về Thượng Phẩm Thượng Sanh, bắt
đầu nói đến người muốn học đạo,
trước hết phải phát ba thứ tâm: Một là chí
thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện
tâm. Dựa theo chú giải của tổ sư, ba tâm này
được tu tŕ trong cùng một niệm. Nói cách khác, học
nhân phải liễu giải:
- Chí thành
tâm là cái tâm chân thật phát xuất từ bản tánh.
- Thâm tâm
là đầy đủ hết thảy các thiện pháp.
- Hồi
hướng phát nguyện tâm là phát đại bi tâm.
Sau khi
đă liễu giải ba loại tâm ấy, bèn tu ngay trong một
niệm. Tu như thế nào? B́nh thường, chúng ta không
khởi niệm th́ thôi; hễ khởi niệm, mỗi niệm
trong ư niệm sẽ hợp với ba tâm. Nếu ư niệm
trái nghịch ba tâm, chẳng thể coi là tu ba loại tâm ấy!
Có thể viên dung ba loại tâm trong một niệm, tu tập
tốt đẹp th́ sẽ có thể chứng quả, nhất
định là văng sanh chẳng có vấn đề. V́ thế,
trong lần trước, tôi đă nói, có đủ ba tâm ấy,
ắt sanh về cơi kia. Trong kinh văn, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói rơ ràng, rành mạch. Thông thường, chúng ta nói
chánh công phu là Tŕ Danh Niệm Phật, nhưng vẫn phải
có trợ công phu. Trợ công phu thường được
nói là “đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều lành”. “Đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều lành” đều
từ trong tâm của chính ḿnh phát ra. Nơi tâm niệm của
chúng ta thời thời khắc khắc ǵn giữ ba loại
tâm ấy, trợ công phu sẽ hết sức tốt đẹp.
Có trợ công phu tốt đẹp như vậy, lại
c̣n cộng thêm tŕ danh niệm Phật, sẽ có thể ở
trong thiên tai nhân họa hiện thời, chỗ nào cũng
đều gặp dữ hóa lành. Khi thọ mạng chấm
dứt, sẽ chẳng có chướng ngại, tuyệt
đối có thể nắm chắc văng sanh. Trong kinh Phật,
đức Phật đă dạy rơ ràng như thế.
Xin
hăy xem phần kinh văn hôm nay: “Phục
hữu tam chủng chúng sanh, đương đắc văng
sanh” (Lại có ba loại chúng sanh sẽ được
văng sanh). Ba loại tâm đă nói trong phần trước
chính là ba loại tâm mà người tu hành cũng như mỗi
cá nhân cần phải phát, c̣n ở đây là ba loại chúng
sanh tu ba loại pháp. Nói phân biệt, nếu một người
chẳng thể đồng thời tu nhiều như vậy,
chỉ cần đầy đủ bất cứ loại
nào trong ba loại ấy cũng được, ba loại
chúng sanh ấy cũng có thể văng sanh. “Hà đẳng vi tam?” (Những ǵ là ba), [ư nói] ba loại
chúng sanh ấy tu như thế nào? Dưới đây, sẽ
tŕnh bày từng điều một.
“Nhất giả, từ tâm bất
sát, cụ chư giới hạnh” (Một là từ tâm chẳng
giết, đủ các giới hạnh). Hai câu này đều
nói về giới (“từ tâm bất
sát” chính là giới sát sanh). “Từ
tâm bất sát” hết sức quan trọng, đặc biệt
nêu ra. Sau đấy, câu thứ hai mới nói “thọ tŕ các giới”. “Bất
sát” là chẳng sát sanh. Phàm là sanh mạng của loài hữu
t́nh (chỉ động vật), [bao gồm] nhân loại và
những súc sanh ở ngoài loài người. Trong “súc sanh” có gia súc và những
động vật hoang dă, những động vật sống
trên không, dưới nước và trong rừng rậm. Kinh
Phật có nói, nương theo duyên phận và trạng huống
xuất sanh khác nhau:
- Có loài
sanh bằng thai, như loài người. Các đại động
vật bậc cao có rất nhiều loài sanh bằng thai.
- Noăn sanh
(sanh bằng trứng) như gà, vịt, ngỗng v.v… C̣n có rất nhiều loại động
vật hoang dă khác sanh bằng trứng.
-
Thấp sanh là nhờ vào hơi nước để sanh
trưởng th́ gọi là thấp sanh.
-
C̣n có hóa sanh[2].
Thai,
noăn, thấp, hóa đều là chúng sanh hữu t́nh. Đối
tượng chẳng giết bao gồm nhiều loại ngần
ấy, đương nhiên là trong các đối tượng
ấy, những chúng sanh cùng thuộc loài người
[như chúng ta] là trọng yếu nhất. Trước hết,
phải biết đối tượng của bất sát:
Phàm là chúng sanh có t́nh thức, có sanh mạng, đều phải
kiêng giết, chẳng thể sát hại! “Sát” là khiến cho sanh mạng bị đoạn dứt,
chẳng thể tiếp tục sống sót. Trên đây là nói
về đối tượng của chuyện bất sát.
Lại
nói đến người tạo sát nghiệp. Chúng ta là những
người thọ giới, hành Bồ Tát đạo, chẳng
sát hại, phải liễu giải phương thức giết
chóc. Tổ sư chú giải:
- Có khi là
dùng khẩu sát. Chẳng hạn như một kẻ có quyền
định đoạt sự sống chết của kẻ
khác, chỉ cần ban ra một mệnh lệnh, tự
nhiên sẽ có kẻ tuân lệnh làm chuyện giết chóc. Kẻ
đó bị ai giết? Là do người hạ lệnh dùng
miệng để giết.
- Thứ
hai là thân sát, [tức là] tự ḿnh động thủ, sử
dụng công cụ hoặc là dùng tay để sát hại
đối phương.
- Thứ
ba là tâm sát, phải chú ư điều này! Chúng ta chẳng xúi
giục người khác giết (khẩu sát), cũng không sát
hại sanh mạng của chúng sanh (thân sát), nhưng tạo
sát nghiệp chẳng phải là đột nhiên không có mảy
may ư thức nào, ngay lập tức giết chết người
ta, mà là trong tâm đă sớm lập mưu (vạch ra kế
hoạch), đấy là “tâm sát”. Dùng đủ mọi tâm
tư để lập kế hoạch giết một ai
đó. Sau đấy, làm thế nào để tránh bị
pháp luật xử phạt. Đó đều là “tâm sát”. Càng
nói vi tế hơn chút nữa, phàm là thấy những kẻ
bất hảo trong xă hội, chúng ta đối với họ
chẳng vừa ư. Tâm nghĩ “kẻ này bại hoại
đến tột cùng, nên sớm chết quách cho xong!” Khởi
tâm động niệm muốn cho kẻ ấy chết sớm
hơn, hoặc là thấy người ta bị kẻ khác
giết chết, trong tâm rất vui thích. Thậm chí hy vọng
loại người xấu xa ấy sẽ ngay lập tức
bị người khác giết chết. Đấy đều
là đă phạm giới “tâm sát”.
Giới
là một môn học vấn rất thâm áo, nhất định
là chính ḿnh phải thời thời khắc khắc thể
nghiệm. Người xấu dẫu xấu xa cách mấy,
cũng chẳng cần chúng ta khởi sát tâm, tự nhiên có
pháp luật của quốc gia trừng trị họ. Pháp
luật của quốc gia chẳng trừng trị họ
được, tự nhiên sẽ có nhân quả báo ứng
trừng trị họ, họ chẳng thể trốn
thoát! Chúng ta là người hành Bồ Tát đạo, nếu
dấy lên sát tâm, sẽ là phạm giới. Tổ sư chú
giải: Có ba loại sát như vậy, bất luận là
thân, khẩu, hay tâm, đều phạm vào sát giới. “Từ tâm bất sát” là khéo khống
chế chính ḿnh trong ba phương diện này. Hơn nữa,
tâm sát là đáng ngại nhất! Chúng ta thấy trong xă hội
hiện thời, kẻ bất măn quá ư là nhiều. Thậm
chí lỡ gặp phải hai bên đánh lộn, hoặc xem
phim ảnh, khi hai bên thiện ác giao tranh, trong tâm luôn mong mỏi
một bên [sẽ thắng], thống khoái ngay lập tức
giết chết bên kia! Những kẻ b́nh phàm đều rất
dễ dấy lên cái tâm ấy. V́ thế, luôn luôn phải khống
chế cái tâm ấy, chớ nên phạm giới!
Trên
đây, đặc biệt nói về chuyện “từ tâm bất sát”. V́ sao nhất
định phải nói tới từ tâm? Từ (慈): Chẳng
hạn như trong văn hóa Trung Hoa, cha mẹ đối xử
với con cái luôn bằng tấm ḷng Từ. Bất luận
con thơ tệ hại như thế nào, [cha mẹ] rất
sợ con bị thương tổn. Hễ thân thể con
có chỗ nào chẳng ổn, bèn quan tâm, yêu thương. Bất
luận đứa con thuộc lứa tuổi nào, thậm
chí con đă khôn lớn, già nua, chỉ cần cha mẹ c̣n sống,
con đă sáu, bảy chục tuổi, cha mẹ chín
mươi mấy tuổi, vẫn thấy con cái ḿnh là những
đứa bé. Tuy con cháu người ấy đă có cháu chắt,
nhưng cha mẹ vẫn quan tâm con cái y hệt, đó là “từ
tâm”. Từ tâm chẳng có hạn chế, chẳng bị hạn
chế bởi thời gian. Đấy là nói về chuyện
hành Bồ Tát đạo. Trong tâm lư của đại Bồ
Tát, thấy hết thảy chúng sanh đều như con
thơ của chính ḿnh, đó là từ tâm. Đây là giải
thích dựa theo mặt văn tự.
Nh́n theo nhân
quả lục đạo luân hồi trong ba đời: Trong
đời quá khứ, chúng ta có bao nhiêu cha mẹ? Đời
quá khứ có bao nhiêu quyến thuộc? Bao nhiêu con cái? Qua qua
lại lại trong lục đạo, chuyển tới,
chuyển lui, trong bất cứ đường nào cũng
đều có người nhà, quyến thuộc trong quá khứ.
Súc sanh đạo, quỷ đạo, địa ngục,
thiên đạo đều có. Nói theo loài người, đời
quá khứ cùng nhau là người nhà hoặc quyến thuộc;
đời này đôi bên chẳng nhận biết nhau. Đời
quá khứ, bất luận là thân thích, người nhà, thân
thuộc, hay bạn bè cũng vậy, đều có hảo
duyên phận hoặc ác duyên phận. Hảo duyên phận th́
tuy đôi bên chẳng nhận biết nhau, nhưng vừa gặp
mặt bèn có hảo cảm đối với người ấy.
Vô duyên vô cớ mà có hảo cảm tức là có hảo duyên
phận trong đời quá khứ. Hoặc là trọn chẳng
nhận biết nhau, nhưng vừa gặp mặt bèn chẳng
có hảo cảm, cũng có thể nói là trong đời quá
khứ, ta cùng người ấy đă có nhân duyên, chính là
duyên phận chẳng tốt đẹp, nay lại gặp
gỡ! Nói chung, nhục nhăn của bọn phàm phu chúng ta chẳng
thấy rơ ràng. Tuy chẳng thấy rơ ràng, nhưng dựa
trên nhân quả luân hồi đă dạy trong kinh Phật
để xét, suy nghĩ theo lư, [sẽ biết]: Chúng sanh thuộc
loài người cũng thế, mà chúng sanh thuộc các
đường khác cũng thế, đều là có mối
quan hệ chặt chẽ với chúng ta. Chẳng phải
là cùng một gia tộc th́ cũng là thân thích, hoặc bằng
hữu. Nay chúng ta thấy họ vô tri, vô thức, sức lực
chẳng bằng chúng ta, [phải dấy lên ḷng Từ]. Nói đến
“Từ” có nghĩa là ban cho
người khác các thứ vui sướng. Chúng ta mong ban vui
cho họ c̣n chẳng xuể, huống hồ c̣n muốn sát
hại họ, quá thiếu từ tâm!
Do
vậy, từ tâm bất sát, phát huy từ tâm, thấy hết
thảy chúng sanh đều là quyến thuộc, con cái, thân
thích, bạn bè của chính ḿnh trong quá khứ. Khi phát ra cái
tâm ấy, đó chính là ḷng Nhân như Nho gia đă nói, tức
là cái tâm bất nhẫn. Chúng ta thấy chúng sanh đang khổ,
có cái tâm bất nhẫn, đó là “từ
tâm bất sát”. Nếu hỏi: Quư vị thấy kẻ
ác mà chẳng giết kẻ đó, nói theo pháp thế gian sẽ
là như thế nào? Tôi vừa mới nói, những kẻ ác
xét theo pháp thế gian sẽ có pháp luật của quốc
gia xét xử, quản chế họ, có nhân quả khống
chế họ. Nếu chúng ta thấy kẻ xấu bèn dấy
lên sát tâm, có thể sát hại kẻ xấu hay không là một
vấn đề. Trước hết, chính ḿnh đă đánh
mất từ tâm. Chẳng có từ tâm th́ người bị
hại chính là bản thân chúng ta. Do vậy, điều này
đặc biệt trọng yếu đối với
người tu đạo.
Chúng
ta học Tŕ Danh Niệm Phật. Tŕ Danh Niệm Phật th́
đương nhiên là thông thường phải niệm tốt
đẹp, nhưng quan trọng nhất là khi lâm chung, có thể
xác thực nắm chắc văng sanh. Xác thực là có thể nắm
chắc văng sanh, th́ phải là chẳng có chướng ngại.
V́ sao có chướng ngại? Tạo sát nghiệp là chướng
ngại lớn nhất. Không chỉ là chẳng thể văng
sanh, nếu sát nghiệp dấy lên hiện hành, tội nặng
th́ sẽ đọa địa ngục. Giết chóc chúng
sanh thuộc về nhân loại chẳng thể nào không
đọa địa ngục! Có mức độ nghiêm trọng
như vậy đó! “Từ tâm
bất sát” nghĩa là đức Phật dạy người
tu học phải dưỡng thành ḷng Từ, kiêng giết
hết thảy chúng sanh. Chúng sanh thuộc về loài người
càng chẳng thể giết! Văn hóa Trung Hoa gọi điều
này là “tâm an lư đắc”. Chỉ
cần thời thời khắc khắc vun bồi ḷng Từ
của chính ḿnh, đối đăi hết thảy chúng sanh,
cảm thấy phải nên chiếu cố họ, phải nên
giúp đỡ họ, lẽ nào nhẫn tâm sát hại họ?
Không chỉ là chẳng đành ḷng sát hại, mà trông thấy
kẻ khác giết chóc chúng sanh, chúng ta c̣n mong mỏi có cách nào
cứu văn. Đấy là vun bồi ḷng Từ. Từ tâm phát
xuất từ chân lư, lâu ngày chầy tháng, sẽ đạt
đến tâm an lư đắc. Một người tâm an lư
đắc, lúc b́nh thường chẳng có hết thảy
những nỗi kinh hoảng. Ở trong xă hội này, bất
luận làm chuyện ǵ, qua lại cùng bất luận kẻ
nào, trong tâm chúng ta luôn là “tâm an lư đắc”. Tới khi lâm
chung, chẳng có bất cứ chướng ngại nào!
Thường nhật làm một người tâm an lư đắc;
tới khi lâm chung, sẽ tâm an lư đắc tŕ một câu Phật
hiệu văng sanh. V́ thế, từ tâm bất sát có tác dụng
to lớn ngần ấy.
“Cụ chư giới hạnh”, “cụ” (具) là đầy
đủ, “chư” (諸) là các thứ.
Giới có tại gia giới và xuất gia giới. Bất
luận tại gia hay xuất gia, lại c̣n có Bồ Tát Giới.
Chia tỉ mỉ ra, sẽ có rất nhiều thứ. Ở
đây, trước hết phải chú ư: Cơ bản nhất
chính là phải giữ Ngũ Giới. Bất luận tại
gia hay xuất gia, Ngũ Giới là cơ bản nhất.
Đương nhiên Ngũ Giới của hàng tại gia và
chúng xuất gia có chỗ khác biệt. Như giới dâm, hàng
xuất gia là thuần túy dứt tuyệt, tại gia theo chế
độ vợ chồng, chẳng được phép tà
dâm. Bốn giới trước trong Ngũ Giới, tức
giới giết, giới trộm, giới tà dâm (tại
gia), và giới nói dối đều thuộc về “tánh giới”. Tánh giới
nghiêm trọng nhất. Giới thứ năm [tức giới
không] uống rượu thuộc loại giá giới[3].
Trong các giới này, chúng ta phải đặc biệt chú ư
giới sát, trong phần trên đă nói [về giới này].
Kế tiếp
là “đạo giới” (盜戒, giới
không trộm cắp). Không chỉ trộm cắp vật của
người khác là phạm giới trộm cắp, mà hễ
dấy lên cái tâm trộm cắp, người khác chẳng bằng
ḷng cho chúng ta thứ ǵ đó, chúng ta nghĩ thứ đó vặt
vănh, tiện tay lấy dùng, th́ đă phạm giới trộm
cắp. Chẳng được người ta cho phép, chẳng
được chủ nhân và người sở hữu vật
đó cho phép, cứ tự động lấy dùng, đó là
đă phạm giới trộm cắp. Chúng ta cũng thường
dễ phạm giới này. Kẻ tại gia không được
phép tà dâm, người đă thọ Ngũ Giới đều
biết, chẳng cần phải nói.
Chúng
ta cũng hết sức dễ phạm giới vọng ngữ.
Lời lẽ chẳng đúng sự thật, hoặc lừa
gạt người khác, đều là vọng ngữ. Trong
vọng ngữ, lại chia thành rất nhiều loại:
- Ác khẩu
(惡口) là lời
lẽ chửi bới người khác, hoặc trong lời
lẽ có ư châm chích, khiến cho người nghe trong tâm cảm
thấy chịu không nổi, đều thuộc loại
này.
- Lưỡng
thiệt (兩舌) là kích động thị phi giữa hai bên.
- C̣n có ỷ
ngữ (綺語), tức là lời lẽ êm tai, chuyên môn dẫn
dụ ḷng người, khiến cho người ta đi
theo con đường xấu xa, và lời lẽ lung lạc
ḷng người của kẻ xấu, đều là chẳng
tốt.
Lại
c̣n có tiểu vọng ngữ và đại vọng ngữ. Đối
với tiểu vọng ngữ, chúng ta cũng hết sức
khó giữ. Trong xă hội hằng ngày, chúng ta nói năng với
người khác, làm lụng, hăy nghĩ tới “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”
như Nho gia đă nói, hễ trái nghịch Tín th́ là vọng
ngữ. Giới điều vọng ngữ này, nếu nói cặn
kẽ, cũng hết sức nhiều. Nói “nhiều” là như thế nào? V́ bất cứ lúc
nào, chúng ta đều có cơ hội phạm những tội
vọng ngữ ấy. V́ thế, mọi người ắt
phải liễu giải t́nh h́nh phạm giới, luôn luôn ôn
tập th́ mới có thể liễu giải chính ḿnh có phạm
giới hay không, và cũng mới có thể khéo dụng công
trong ấy.
Đại
vọng ngữ là ǵ? Chẳng phải là tiểu vọng ngữ
tầm thường. Đại vọng ngữ là nói theo
phía người học Phật. Người học Phật
học Phật lư, cũng học rất khá, tổ sư
thường nói “chưa đắc
mà bảo là đă đắc”, đắc ǵ vậy?
Đắc pháp ǵ? “Chưa chứng
đă bảo là chứng”, chẳng chứng đắc quả
vị mà quư vị nói là đă chứng quả. Đó là đại
vọng ngữ. “Chưa đắc” là ǵ? Đắc ǵ vậy?
Chẳng hạn như kinh Phật nói tới thần thông, có
Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Túc Mạng Thông, Tha Tâm Thông v.v…
Nếu chúng ta khoe với người khác chúng ta đă đắc
một loại thần thông nào đó, trên thực tế, thứ
ǵ ta cũng chẳng thông, nhưng cứ nói với người
khác ta đă đắc một loại thần thông chi
đó. Đấy là đại vọng ngữ, chưa
đắc thần thông mà nói là đă đắc thần
thông! V́ sao chưa đắc mà nói là đă đắc? Không
ǵ chẳng nhằm mong người khác tôn kính quư vị,
nghĩ quư vị là một người lỗi lạc, nhưng
quư vị đă phạm giới vọng ngữ! Đối
với chứng quả, Tiểu Thừa chứng Sơ Quả
ắt phải đoạn Thân Kiến, chớ nên chấp
trước thân thể. Thử hỏi trong hiện thời,
có ai trong chúng ta chẳng có Thân Kiến? Chỉ cần có Thân
Kiến tồn tại, chẳng hạn như nói để
thành La Hán, Sơ Quả phải đoạn Kiến Hoặc.
Số lượng Kiến Hoặc có bao nhiêu phẩm? Đầu
tiên là phải đoạn Thân Kiến, người hiểu
học lư đều biết: Nếu có kẻ nào nói họ
đă chứng Sơ Quả, Nhị Quả, Tứ Quả La
Hán, cho đến nói là Bồ Tát tái lai, chẳng được
rồi! Thảy đều là đại vọng ngữ! Phạm
đại vọng ngữ là phạm giới luật nghiêm
trọng, chúng ta phải đặc biệt chú ư điều
này! Bất luận là thần thông cũng thế, mà chứng
quả cũng thế; chỉ cần dụng công, công phu đă
đạt mức, thần thông sẽ tự nhiên phát hiện.
Hễ có công phu định lực, tự nhiên có thần
thông. Chẳng có công phu định lực, lấy đâu ra
thần thông? Người ta có thần thông cũng chẳng
nói! Người đă chứng quả vị cũng chẳng
đi khắp nơi khoe “ta đă chứng quả chi
đó”, chẳng thể nói chuyện này! Huống hồ
chính ḿnh căn bản là chẳng đắc chi hết, chẳng
hề chứng, cứ khoe khoang th́ chẳng phải là
đă phạm tội đại vọng ngữ ư?
Những
giới khác rất nhiều, chúng tôi chẳng nói cặn kẽ.
Giữ ǵn “từ tâm chẳng
giết, trọn đủ các giới hạnh”, trọn
đủ giới này, giữ rất khá, hễ làm
được điều này, những chúng sanh đă làm
được th́ văng sanh sẽ chẳng có vấn đề
ǵ!
“Nhị giả độc tụng
Đại Thừa Phương Đẳng kinh điển”
(Hai là đọc tụng kinh điển Đại Thừa
Phương Đẳng): Có thể đọc tụng những
kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng.
Kinh điển Phương Đẳng có rất nhiều,
trong đó, có tánh chất tiêu biểu nhất là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Nghiên cứu kinh
điển Đại Thừa, hoặc thường đọc
tụng kinh điển Đại Thừa Phương
Đẳng, tâm lư sẽ phát sanh sự chuyển biến thuận
theo kinh điển. Vạn pháp duy tâm, tâm lư chuyển thành tốt
đẹp hay xấu xa, duyên rất có quan hệ. Chúng ta
thường tiếp xúc người, sự việc, các thứ
hoàn cảnh xấu hèn, tâm lư sẽ bị ô nhiễm. Thường
xuyên tiếp xúc nhân duyên tốt đẹp, tâm lư sẽ chuyển
biến tốt đẹp. Cổ nhân cũng nói: “Dữ ác nhân giao, như nhập
băo ngư chi tứ, cửu nhi bất văn kỳ xú” (Chơi
với kẻ ác giống như vào trong tiệm cá muối, ở
lâu, sẽ chẳng ngửi thấy mùi tanh hôi nữa). Vốn
là người tốt, thoạt đầu tiếp xúc với
kẻ ác, cảm thấy họ chẳng phải là loại
người giống như chúng ta, nhưng thường
qua lại với họ, tai mắt dần dần tiêm nhiễm,
lâu ngày chầy tháng, nơi hành vi, ngôn ngữ, cách nghĩ, sẽ
nhất trí với họ, chẳng cảm thấy có ǵ không
tốt, sẽ học theo họ. Ngược lại, giao
du với thiện nhân, vừa khởi đầu, bèn cảm
thấy quá tốt đẹp, giống như vào trong một
căn pḥng có trồng chi lan[4],
hương thơm thanh khiết dường ấy! Mới
vào bèn cảm thấy một bầu hương thơm
thanh khiết, nhưng lâu ngày sẽ chẳng ngửi thấy
mùi hương ấy nữa, lâu sau sẽ chẳng cảm
thấy nữa. Chính ḿnh và mùi hương đă dung hợp với
nhau, nó có tác dụng cảm nhiễm! Từ chỗ này, có thể
suy ra: Chúng ta thường xuyên đọc tụng kinh điển
Đại Thừa Phương Đẳng, Tam Tự Kinh
cũng có nói: “Khẩu nhi tụng,
tâm nhi duy”, [ư nói] miệng đọc, tâm đặt ngay
nơi sách. Kinh Phật cũng nói “tùy văn nhập quán”, nghĩa là thuận theo kinh
văn, trong tâm dựa trên ư nghĩa được nói trong
kinh văn để suy tưởng ư nghĩa đă dạy
trong ấy, tâm sẽ chuyển biến thuận theo nghĩa
lư của kinh văn, tâm chúng ta chẳng biến đổi
tốt lành theo kinh văn ư? Bởi lẽ, pháp do đức
Phật đă nói chính là pháp khế cơ. Đối với
từ tâm, trong phần trước đă nói là “từ tâm bất sát”. Đối
với loại chúng sanh thứ nhất, phương diện
tâm lư này rất dễ dẫn phát. Có thể ǵn giữ từ
tâm, sẽ dễ dàng thành tựu.
Loại
chúng sanh thứ hai rất thích xem sách (duyệt đọc).
Chớ nên đọc những sách vở vô ích của thế
gian, hăy đọc kinh điển Đại Thừa. Tâm và
ư nghĩa của kinh dung hợp nhất trí, huống hồ
nói đến chỗ thật sự: Đối với mỗi
một bộ kinh Đại Thừa, nếu nói đến
phần Thể trong năm tầng huyền nghĩa, do [bất
cứ bộ kinh Đại Thừa nào cũng] dùng Thật
Tướng để làm Thể, những nghĩa lư đă
nói trong kinh chính là bản tánh của chúng ta. Đọc tụng
kinh điển Đại Thừa nhằm làm sáng tỏ bản
tánh của chúng ta. Loại chúng sanh thứ hai này đọc
tụng kinh điển Đại Thừa cũng sẽ
được văng sanh, giúp chúng ta niệm Phật ắt
được văng sanh.
Thứ
ba, “tam giả tu hành lục niệm,
hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc”
(ba là tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện,
nguyện sanh về cơi ấy). Đối với cái gọi
là “lục niệm”, ba niệm
trước là niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng. Niệm Phật. Tịnh Độ Tông tu pháp môn Niệm
Phật, đặc biệt là nói đến chuyện niệm
A Di Đà Phật. Niệm Pháp là nói đến pháp môn Niệm
Phật trong Tịnh Độ. Chúng ta dựa vào các kinh
điển Đại Thừa, bất luận tự ḿnh
xem cũng thế, mà giảng cho kẻ khác nghe cũng thế,
ắt phải chiếu theo lời dạy của tổ
sư Ấn Quang: “Ngàn kinh vạn
luận, chốn chốn chỉ quy”, [nghĩa là] bất
luận giảng kinh kiểu nào, đều phải hướng
dẫn về Tịnh Độ Tông. Tuy ba kinh một luận
của Tịnh Độ là cơ bản, về sau, mở
rộng thành năm kinh Tịnh Độ; thật ra, chiếu
theo lời tổ sư Ấn Quang đă dạy, hành Bồ
Tát đạo, tuyên dương Tịnh Độ Tông, bất
luận giảng một bộ kinh nào, cũng đều phải
chỉ quy Tịnh Độ Tông. Niệm Tăng: Hết thảy
những người chánh thức xuất gia có Tăng
tướng, đă thọ Cụ Túc Giới th́ là Tăng.
Tăng là “ḥa hợp”. Đấy
là Biệt Tướng Tam Bảo, [tức là Tam Bảo
được] nói phân biệt. C̣n có Nhất Thể Tam Bảo,
Nhất Thể Tam Bảo là:
- Phật:
Trong tự tánh của chúng ta có Phật.
- Pháp: Thể
được nói trong hết thảy các kinh điển
Đại Thừa chính là bản tánh. Trong bản tánh có
pháp, có vô lượng, vô tận pháp môn.
-
Tăng: Tăng trong tự tánh. Ǵn giữ giới chính là tự
tánh Tăng.
V́ sao kinh
A Di Đà nói “giai tất niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng” (thảy đều
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng)? “Tự nhiên niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng”, khi đă đạt tới cảnh
giới sâu xa ấy, cảnh giới cao sâu là niệm Tự
Tánh Tam Bảo. Ba niệm đầu trong lục niệm là
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Chúng
ta nghiên cứu kinh văn, nghiên cứu đến lúc thật
sự dụng công, nhất định phải phân biệt,
biện định rơ ràng: [Xét theo] Lư, sẽ có Biệt
Tướng Tam Bảo, Nhất Thể Tam Bảo, và Tự
Tánh Tam Bảo; nhưng chẳng thể nói “ta đă hiểu
Tự Tánh Tam Bảo, ta niệm Phật là niệm Tự Tánh
Phật, Tự Tánh Di Đà”. Thấy người xuất
gia, bèn nói: “Trong tự tánh, ta là người xuất gia”. Chẳng
thể nói như vậy! Thật sự học Tịnh
Độ Tông, thiện tri thức thường nói như
thế này: “Phải thật thà
niệm Phật”. Thật thà niệm Phật là ǵ? Thật
thà niệm Phật là nói với người có học vấn,
đă nghiên cứu Duy Thức Tông, Tam Luận Tông, Hoa Nghiêm, Thiên
Thai, hiểu pháp môn rất nhiều, đều biết tới
Tự Tánh Tam Bảo. Chúng ta niệm Phật cũng hiểu,
bèn niệm theo [Tự Tánh Tam Bảo] đúng như vậy!
Chẳng có thành tựu đâu nhé! Niệm như vậy chẳng
được! Từ vô thỉ tới nay, tập khí của
chúng ta quá sâu, khi nào th́ mới có thể niệm cho ra Tự
Tánh Tam Bảo? Niệm chẳng ra! [Vậy th́] ắt phải
thật thà niệm Phật, niệm một câu A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế
giới, hăy toàn tâm toàn ư niệm Ngài, cầu cho khi chúng ta lâm
chung, A Di Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn
chúng ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Nay trong hết thảy mọi lúc, bất cứ lúc nào, chúng
ta đều niệm Tây Phương Cực Lạc thế
giới A Di Đà Phật. Đó là thật thà niệm Phật.
Khi niệm, chẳng có cái tâm năng niệm và đức
Phật được niệm (sở niệm Phật). Niệm
đến khi Năng và Sở ḥa thành một khối, công
phu sẽ hiện hành. Chuyện này cần phải cậy vào
“thật thà niệm Phật”. Thật
thà niệm Phật th́ mới có thể niệm Phật vô
phân biệt. Nếu dùng học lư của tông Duy Thức
để niệm Phật, niệm cho ra bản tánh của
chính ḿnh, công phu ấy cũng chẳng thể dùng được
tí nào! Tổ sư Tịnh Độ Tông bảo niệm Phật
th́ phải thật thà niệm Phật, niệm Tây
Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật.
Ba
niệm đầu trong sáu niệm chính là Phật, Pháp, Tăng,
niệm thứ tư là niệm Giới. Trong phần
trước, đă nói Giới là “trọn đủ các giới”,
phải ǵn giữ giới! Giới rất trọng yếu.
Chính ḿnh gặp phải cảnh giới, có dấy lên cái tâm
giết chóc hay chăng? Có dấy lên cái tâm trộm cắp hay
không? Ngay lập tức nhắc nhở [chính ḿnh] phải giữ
giới! Bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến Giới
th́ sẽ hữu dụng.
Thứ
năm là niệm Xả, Xả trong “từ, bi, hỷ, xả”.
V́ sao chúng ta phải niệm Xả? Hành Bồ Tát đạo
là đối với điều khó bỏ mà có thể bỏ.
Đối với quyền lực và danh lợi trong thế
gian, người ta mong muốn danh, chúng ta chẳng tranh danh
với người khác, nhường cho người ta th́ giống
như Xả vậy! Người ta tranh quyền, chúng ta
cũng chẳng tranh giành với họ. Đó là Xả, tức
là vứt bỏ. Phàm những ǵ người ta muốn
tranh, chúng ta đều chẳng tranh cùng họ, xả vật
ngoài thân. Đó là ngoại xả. Bậc đại Bồ
Tát thật sự c̣n có nội xả, người thọ Bồ
Tát Giới đều biết: Đốt cánh tay cúng Phật
chính là biểu thị sự nội xả. Lương
Vũ Đế xả thân vài lượt, buông bỏ địa
vị và thân phận vua một nước, ở trong chùa
miếu làm nô lệ thay cho người khác. Đó là xả
thân. C̣n có những vị đại Bồ Tát vào thời cổ
xả thân cho hổ đói ăn. Đấy đều là nội
xả. Nhưng tôi phải nhắc nhở mọi người
chuyện này: Những khí quan nào đó trên thân thể có cần
bỏ hay không? Đấy là vấn đề thuộc về
công phu. Công phu chưa đến mức, có mấy ai trong bọn
chúng sanh phàm phu chứng quả? Chưa chứng quả,
chưa đạt đến địa vị đại
Bồ Tát, chẳng thể nói như vậy! Đă đạt
tới địa vị đại Bồ Tát, có thể móc
mắt ra để thí xả, ngay lập tức, mắt có
thể mọc lại, ngay lập tức lại khôi phục,
[các vị đại Bồ Tát] có công phu ấy. Phàm phu chẳng
có công phu ấy, móc mắt ra, sẽ chẳng có con mắt
thứ hai, làm thế nào hóa độ chúng sanh cho được?
Hơn nữa, cầu văng sanh là điều quan trọng nhất.
Khi văng sanh, đem con mắt móc ra, thân thể bị đau đớn,
[do đánh mất chánh niệm] chẳng thể văng sanh! Phải
đặc biệt chú ư điều này, hăy tự lượng
năng lực của chính ḿnh. Đấy là nói về Xả.
Thứ
sáu là niệm Thiên. Nói nông cạn, [niệm thiên] là niệm Sắc
Giới Thiên; vượt lên trên Dục Giới, niệm Sắc
Giới Thiên và Vô Sắc Giới Thiên. Nói đến tột
cùng, sẽ là Đệ Nhất Nghĩa Thiên. Đệ Nhất
Nghĩa là ǵ? Chứng từ Thập Địa Bồ Tát
trở lên, sắp thành Phật, bản tánh của chính ḿnh
hoàn toàn khai phát. Đấy là Đệ Nhất Nghĩa Thiên.
Phải niệm những điều này. Nói cách khác, chúng ta thời
thời khắc khắc phải niệm bản tánh của
chính ḿnh.
Đối
với sáu niệm, thảy đều phải hồi
hướng phát nguyện. Bất luận là niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả,
niệm thiên, thảy đều hồi hướng, nguyện
sanh về thế giới Cực Lạc. Có ba hạng
người “cụ thử công
đức” (trọn đủ công đức này): Một
là từ tâm chẳng giết, đầy đủ các giới
hạnh, hai là đọc tụng kinh điển Đại
Thừa Phương Đẳng, ba là tu hành sáu niệm, hồi
hướng phát nguyện, nguyện sanh về cơi ấy. “Nhất nhật năi chí thất nhật,
tức đắc văng sanh” (Từ một ngày cho đến
bảy ngày, liền được văng sanh): Từ một
ngày cho đến bảy ngày chính là nguyên tắc, nói theo lúc
văng sanh. Có người trong một ngày bèn có thể văng sanh,
có người cần phải bảy ngày. Trước khi
văng sanh, suốt một đời đều làm như thế,
sẽ có thể văng sanh. “Tức
đắc văng sanh”: Trọn đủ bất cứ một
loại nào trong ba loại ấy, sẽ đều có thể
văng sanh. Hôm nay, tôi nói tới đây bèn ngưng.
Tập 40
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi ba, bắt
đầu từ hàng thứ nhất, tôi đọc trước
một đoạn kinh văn:
(Kinh)
Sanh bỉ quốc thời, thử nhân tinh tấn dũng
mănh cố, A Di Đà Như Lai, dữ Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí, vô số Hóa Phật, bách thiên tỳ-kheo, Thanh
Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, thất bảo
cung điện. Quán Thế Âm Bồ Tát, chấp kim cang
đài, dữ Đại Thế Chí Bồ Tát, chí hành giả
tiền. A Di Đà phật, phóng đại quang minh, chiếu
hành giả thân, dữ chư Bồ Tát, thọ thủ nghênh
tiếp. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dữ vô số
Bồ Tát, tán thán hành giả, khuyến tấn kỳ tâm.
(經)生彼國時,此人精進勇猛故,阿彌陀如來,與觀世音,大勢至,無數化佛,百千比丘,聲聞大眾,無量諸天,七寶宮殿。觀世音菩薩,執金剛臺,與大勢至菩薩,至行者前。阿彌陀佛,放大光明,照行者身。與諸菩薩,授手迎接。觀世音、大勢至,與無數菩薩,讚歎行者,勸進其心。
(Kinh: Khi sanh
về cơi ấy, do người ấy tinh tấn, dũng
mănh, A Di Đà Như Lai và Quán Thế Âm, Đại Thế
Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn tỳ-kheo, Thanh Văn đại
chúng, vô lượng chư thiên, cung điện bảy báu.
Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cang, cùng với Đại
Thế Chí Bồ Tát tới trước hành giả. A Di
Đà Phật phóng đại quang minh, chiếu thân hành giả,
cùng với các vị Bồ Tát x̣e tay
đón tiếp. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, và vô số
Bồ Tát tán thán hành giả, khuyến tấn tâm người
ấy).
Phép Quán này vẫn là tiếp tục của
phép Quán thứ mười bốn. Bắt đầu
từ phép Quán này, [đức Phật] nói về t́nh huống
văng sanh trong chín phẩm. Chúng ta tu Tịnh Độ Tông, niệm
Phật trong một thời gian dài suốt một đời
này, hy vọng trong một đời này, sau khi sanh mạng
kết thúc, có thể rất thuận lợi văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. V́ sao? Ở
trong thế gian này, muốn thành Phật, tu Phật pháp, mà
tu những pháp môn thông thường khác, muốn thành tựu
sẽ hết sức khó khăn. Đừng nói là thành Phật,
muốn ĺa khỏi lục đạo luân hồi cũng đă
hết sức khó khăn. Nhất là trong hiện thời,
chúng ta nh́n vào hoàn cảnh trên toàn thế giới, bất cứ
nơi đâu cũng đều khiến cho người ta
khó thể chịu đựng! Thiên nhiên bị ô nhiễm rất
nhiều, chúng sanh thuộc nhân loại đều tranh tới,
tranh lui, người trong thế gian mà! Tranh những ǵ? Bất
luận trong nước hay ngoài nước, quư vị xem báo
chí, tin tức, khắp nơi đều tràn ngập bạo
lực. Bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào,
cũng đều có thể phát sanh những chuyện
như bạo động tập thể, quăng bom, gài
bom, nhiễu loạn xă hội! Quư vị hăy ngẫm xem: Hoàn
cảnh sống như thế đó! Người tu đạo
chúng ta hễ suy nghĩ, [sẽ thấy rơ] hoàn cảnh ấy
hết sức xấu xa, hèn tệ. Mong thành tựu đạo
nghiệp hoặc thành Phật trong hoàn cảnh ấy, há dễ
dàng ư? Phải tới khi nào th́ mới có thể thành tựu?
Do vậy, ắt phải mong cầu sanh vào hoàn cảnh thanh
tịnh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Hễ đạt đến hoàn cảnh thanh tịnh ấy,
tự nhiên tất cả mọi người đều
thanh tịnh, nhất định là sẽ có thể thành tựu
rất nhanh. Cũng giống như vậy, mong cầu văng
sanh, phẩm vị sẽ cao, có chín bậc văng sanh. Phẩm
vị càng cao, đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới, thời gian thành Phật càng nhanh chóng. V́ thế,
chín phẩm văng sanh được nói ở đây, đối
với chuyện tŕ danh niệm Phật, chúng ta phải liễu
giải sau khi văng sanh, sẽ đạt được phẩm
vị ǵ. Đoạn kinh văn này hết sức trọng
yếu!
Đức
Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy, người mong văng
sanh thế giới Cực Lạc, phải phát ba loại
tâm: Thứ nhất là chí thành tâm, thứ hai là thâm tâm, thứ
ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Viên dung ba loại
tâm ấy trong một niệm, bất cứ niệm nào
cũng bao gồm ba loại tâm này. Nói cách khác, chúng ta trong
lúc b́nh thường, khi khởi tâm động niệm, một
niệm sẽ bao gồm ba loại tâm ấy. Ba loại tâm
ấy hết sức trực tiếp, từ bản tánh
phát xuất. Lại dùng những tâm ấy để hồi
hướng thế giới Cực Lạc, mong sanh về thế
giới Cực Lạc. Do vậy, tu tập ba loại tâm ấy đến mức công phu tốt đẹp,
có thể đoạn Hoặc, tức là đoạn Kiến
Tư Hoặc, đoạn Trần Sa Hoặc. Căn cứ
theo lời dạy của tổ sư tông Thiên Thai, đoạn
Kiến Tư Hoặc và đoạn Trần Sa Hoặc chính
là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Trong ấy, dựa
theo sự đoạn Hoặc, cũng chia thành phẩm vị.
Chẳng hạn như nói: Do Hoặc của Sơ Địa
và Hoặc của Nhị Địa bất đồng,
cho nên trong thượng phẩm, lại chia thành ba phẩm.
Đă đoạn Hoặc chia thành ba phẩm thượng. Nếu
chẳng đoạn Hoặc, có thể đè nén Kiến
Tư Hoặc và Trần Sa Hoặc, chẳng để phiền
năo dấy lên, khởi hiện hành, đều có thể khuất
phục chúng, sau khi văng sanh, phẩm vị sẽ đạt
được thuộc về ba phẩm trung, tức Trung Thượng,
Trung Trung, và Trung Hạ. Nếu chẳng thể chế ngự
Hoặc, tức là thuần túy đới nghiệp văng sanh,
phục Hoặc (chế ngự Hoặc) cũng là đới
nghiệp. Nếu hoàn toàn chẳng thể chế phục, tức
là mang theo nghiệp càng nặng nề hơn, sẽ thuộc
vào ba phẩm Hạ, tức Hạ Thượng, Hạ Trung,
và Hạ Hạ. Do vậy, tu ba loại tâm được
nói ở đây sẽ thông suốt với những phần
sau. Tùy thuộc công phu chúng ta tu tập cạn hay sâu mà một
mực nói xuyên suốt cho đến những phần sau.
Kế tiếp
ngay sau ba tâm ấy, [kinh văn bèn nói] có ba hạng người,
tức là: 1) Từ tâm chẳng giết. 2) Đọc tụng
kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng.
3) Tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện.
Trong phần trước, tôi đă từng nói, hễ tu hành
ba loại ấy, tu tốt đẹp, cũng là chiếu
theo tŕnh độ như thế nào mà chia thành các phẩm vị
Thượng, Trung, Hạ. Đó là những điều
đă nói trong hai lần trước, chúng ta hăy nhớ lại
đôi chút, sẽ càng dễ hiểu rơ những điều
sắp được nói tiếp theo đây.
Nay
chúng ta xem câu “sanh bỉ quốc
thời” (khi sanh về cơi ấy). Trong phần trước,
đă nói ba loại tâm, lại nói đến ba loại chúng
sanh, tu ba loại phương pháp, sau khi đă tu tốt
đẹp, lúc thọ mạng đă hết bèn văng sanh. Chữ
“bỉ quốc” chỉ Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Khi sanh về
cơi ấy, ngay khi sắp văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, khi sắp ĺa khỏi, nhưng vẫn
chưa rời đi, “thử
nhân tinh tấn, dũng mănh cố”, [ư nói] sanh mạng
đă chấm dứt, đến lúc then chốt khẩn yếu
ấy, người đó có thể tinh tấn dũng mănh, tuyệt
diệu thay! Lại c̣n ngay trong lúc sắp tắt hơi,
nhưng chưa [thật sự] ngừng thở, bèn tinh tấn,
dũng mănh, mạnh mẽ hơn công phu lúc b́nh thường
chẳng biết bao nhiêu lần. V́ sao? Khi chúng ta dụng
công niệm Phật trong lúc thường ngày, luôn cảm thấy
ngày tháng c̣n dài, hiện thời ta niệm Phật, tâm có rảo
chạy loạn xạ vẫn chẳng sao, chứ lúc then chốt
sanh tử, sẽ nguy hiểm lắm! Lúc đó, có một
điều kiện tiên quyết: Ngàn vạn phần chẳng
thể có bất cứ chướng ngại nào! Nói “bất cứ chướng ngại”
là nói đến thân quyến trong nhà khóc lóc, rên rỉ, chẳng
nỡ xa ĺa, nhiễu loạn người ấy. Hơn nữa,
chính ḿnh lâm vào trạng thái hôn mê. Người đó lúc ấy
chẳng có chướng ngại, tâm sáng suốt, có thể tinh
tấn, dũng mănh. Nói “tinh tấn,
dũng mănh” tức là [nói tới] ba loại tâm trong phần
trước, lại c̣n có “từ
tâm, chẳng giết, đủ các giới hạnh, đọc
kinh điển Phương Đẳng”, cùng với sáu
niệm, hiện thời đều có thể nhớ lại,
hiện thời [những điều ấy] đều ở
ngay trong ư niệm, chẳng nghĩ ǵ khác, nhất tâm đều
dung nhập vào pháp, nhất tâm mong cầu sẽ được
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, bất
cứ chỗ nào [ngoài Cực Lạc ra] cũng đều
chẳng đến. Đó gọi là “tinh tấn, dũng mănh”. “Tinh tấn dũng mănh cố”
như vậy, chữ “cố”
(故) nói theo
cách hành văn, sẽ là “có điều kiện”. [“Tinh tấn dũng mănh cố” nghĩa
là] do v́ người ấy trọn đủ những
điều kiện tinh tấn, dũng mănh ấy.
Tiếp
đó là kết luận, “A Di
Đà Như Lai, dữ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí”,
c̣n có “vô số Hóa Phật”.
Bài kệ Tán Phật có câu “quang
trung Hóa Phật vô số ức” (trong quang minh có vô số
ức Hóa Phật) là nói đến những vị Hóa Phật
này, c̣n có “bách thiên tỳ-kheo,
Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên” (trăm
ngàn tỳ-kheo, đại chúng Thanh Văn, vô lượng
chư thiên) đều đến, mang theo “thất bảo cung điện” (cung điện bảy
báu) đến để làm ǵ? Chúng ta thường nói Tây
Phương Phật đến tiếp dẫn, các Ngài
đến tiếp dẫn. Chúng ta thường lo ngại Tây
Phương Cực Lạc thế giới xa xôi dường
ấy, ở ngoài mười vạn ức cơi Phật,
người sắp chết sức lực quá ṃn mỏi, quá
yếu ớt, làm sao có thể đến nơi xa xôi ngần
ấy? V́ thế, Phật và chư đại Bồ Tát mang
theo cung điện bảy báu tới tiếp đón chúng ta,
chẳng cần nhọc công chúng ta tự đi, các Ngài
đến đón!
Người
tŕ danh niệm Phật chúng ta phải đặc biệt chú
ư: Như thế nào th́ mới có thể tinh tấn, dũng
mănh trong khi lâm chung, chẳng hôn trầm, không tán loạn, trong
tâm sáng suốt, tỉnh táo, chẳng bị chướng ngại
mảy may? Mỗi người tu pháp môn Niệm Phật đều
hy vọng khi sanh mạng chấm dứt, sẽ đều
có thể có hiện tượng tốt lành ấy; nhưng
hiện tượng tốt đẹp ấy chẳng phải
là ngẫu nhiên mà có, cần phải cậy vào sự dụng
công trong thường nhật. Chúng ta biết: Phàm hết thảy
mọi chuyện có chướng ngại, đều là do từ
trong tâm chúng ta dấy lên. Trong tâm chúng ta khởi chướng
ngại, không ǵ chẳng là do “thường coi vạn pháp
trong thế gian là thật sự tồn tại”. Vào thời
cổ, kẻ làm đại hoàng đế, coi tất cả
đất đai, nhân dân, và tài sản trong quốc gia là của
chính ḿnh, [thấy những thứ ấy] thật sự tồn
tại, chẳng thể đả phá tí ti nào! Những kẻ
thấp hơn cũng giống như vậy, kẻ có tài sản
cũng thế. Ngoài ra, những kẻ có quyền lực
kha khá cũng thế, đều coi [tài sản, quyền lực]
là thật sự tồn tại, cũng chẳng thấy thấu
suốt tí nào. Do chẳng thấy thấu suốt, cho nên chẳng
thể buông bỏ được! Chúng ta niệm Phật
thường là ư niệm rong ruổi lung tung, chẳng ruổi
đến chỗ này, bèn rong sang chỗ nọ. Những
nơi tâm niệm rong ruổi chính là những điều niệm
niệm chẳng quên trong cái tâm của chính ḿnh. Không ǵ ra
ngoài tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê mà
thôi! Niệm Phật kiểu đó làm sao mà chẳng tán loạn
cho được? Do vậy, khi sắp mạng chung, để
công phu có thể tinh tấn, dũng mănh như vậy, phải
luyện tập trong lúc thường ngày. Trong việc niệm
Phật thường ngày, cố nhiên phải niệm cho
rành rẽ, rơ ràng. Lúc chẳng niệm Phật th́ tu ba tâm.
B́nh thường, luôn thời thời khắc khắc ước
thúc ba tâm trong một niệm. Chẳng khởi niệm th́
thôi! Hễ khởi niệm, sẽ là ba tâm, sẽ là tịnh
niệm tiếp nối. Bất cứ người nào trong
bọn chúng ta, có ai chẳng dấy niệm? Tu ba tâm, niệm
niệm đều là ba tâm. V́ thế, đến khi lâm
chung, chẳng có bất cứ chướng ngại nào!
Đến lúc đó, chỉ có một nguyện, dũng
mănh, tinh tấn. Nương vào nguyện lực ấy, có
thể cảm ứng Phật, Bồ Tát đến tiếp
dẫn. Điều này hoàn toàn cậy vào lúc b́nh thường
có thể thấy thấu suốt và có thể buông xuống
vạn pháp trong thế gian. Dụng công trong lúc b́nh thường
đều có thể hồi hướng Tây Phương Cực
Lạc thế giới. V́ thế, đến khi lâm chung, mới
có thể nước chảy thành gịng, tự nhiên có thể
cảm ứng Phật, Bồ Tát đến tiếp dẫn.
Một
người có thể tinh tấn, dũng mănh, cho nên cảm
ứng A Di Đà Phật, cùng với Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí Bồ Tát, c̣n có chư thiên, mang theo cung điện
bảy báu đến nơi đây. “Quán Thế Âm Bồ Tát, chấp kim cang đài”, [nghĩa
là] Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm ṭa hoa sen bằng chất
kim cang, “dữ Đại Thế
Chí Bồ Tát, chí hành giả tiền”, cùng với Đại
Thế Chí Bồ Tát đến trước người ấy.
Nói “hành giả” có nghĩa là
ǵ? Người ấy trong lúc b́nh thường có thể dụng
công, tới lúc ấy, lại có thể tinh tấn, dũng
mănh, nên gọi là “hành giả”,
hết sức thật sự dụng công. Quán Thế Âm Bồ
Tát cầm đài kim cang đến trước hành giả,
bảo hành giả ngồi lên đài kim cang. Sau đấy,
ngay khi ấy “A Di Đà Phật,
phóng đại quang minh, chiếu hành giả thân”: Bản
thân A Di Đà Phật là vô lượng quang. Ngài phóng đại
quang minh, chiếu tới thân hành giả, chiếu sáng toàn
thân người văng sanh, lại “dữ
chư Bồ Tát”, tức
là các vị đại Bồ Tát theo A Di Đà Phật cùng
đến, kể cả vô số Hóa Phật, hết thảy
các vị đại Bồ Tát “thọ
thủ nghênh tiếp”: Đồng thời vươn tay
ra đón tiếp người văng sanh. “Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dữ vô số Bồ
Tát”: Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ
Tát là hai vị đại Bồ Tát ở hai bên đức
Phật; đồng thời, các vị đại Bồ
Tát chẳng biết rơ số lượng, cùng lúc “tán thán hành giả, khuyến tấn
kỳ tâm” (khen ngợi hành giả, khuyến tấn tâm
người ấy). “Khuyến”
(勸) bao gồm
tán thán, “tấn” (進) là
tăng tấn. “Kỳ tâm”
là nguyện tâm của người ấy. Khiến cho nguyện
tâm của người ấy càng tăng tấn. Tâm nguyện
càng mạnh, càng kiên định, càng hay! Khuyến tấn
cái tâm ấy. Đoạn này nói cặn kẽ hơn kinh Tiểu
A Di Đà. Kinh A Di Đà nói: “Kỳ
nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư
thánh chúng, hiện tại kỳ tiền” (Khi người
ấy lâm chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện
trước mặt người ấy), [chỉ nói] A Di
Đà Phật và các vị thánh chúng hiện ra trước mặt
người ấy. Quư vị thấy kinh văn ở
đây giảng cặn kẽ dường ấy. Sau khi
chúng ta liễu giải kinh văn, trong tương lai, khi
văng sanh, lúc thấy Tây Phương Tam Thánh và Hóa Phật v.v…
hiện đến, chúng ta đă sớm biết, tâm bèn an
tĩnh, rất tự nhiên văng sanh.
Ở
đây, có những danh từ thuộc về phương diện
học lư cần phải giải thích đôi chút. Đoạn
lớn này từ “sanh bỉ quốc
thời” (khi sanh về cơi ấy) cho đến “khuyến tấn kỳ tâm” (khuyến
khích, tăng tấn cái tâm của người ấy) khác với
những điều đă nói trong phần trước. Phần
trước là từ “nhược
hữu chúng sanh, nguyện sanh bỉ quốc giả” (nếu
có chúng sanh, nguyện sanh về cơi ấy) cho đến “nhất nhật năi chí thất nhật,
tức đắc văng sanh” (từ một ngày cho đến
bảy ngày bèn được văng sanh), đoạn ấy
nói về cái nhân văng sanh, [nghĩa là] quư vị dựa vào ǵ
để có thể văng sanh? Tức là phải gieo nhân ǵ? Đoạn
vừa mới nói ở đây (tức đoạn kể từ
“sanh bỉ quốc thời”)
là nói về duyên. Duyên ǵ vậy? Trong khi văng sanh, cảm ứng
Phật, Bồ Tát, và vô lượng chư thiên đến
tiếp dẫn. Duyên ấy tuyệt diệu! Vừa khởi
đầu, tôi đă thưa cùng chư vị: Chẳng có duyên
này, chúng ta làm sao có thể đến chỗ xa xôi ngần ấy?
Hễ xem đoạn này sẽ biết, trong tâm chúng ta chẳng
cần hoài nghi. Tự nhiên sẽ có duyên thù thắng như
vậy, sẽ có thể đến đó rất nhanh chóng.
Trong nhiều duyên thù thắng như vậy, có “bách thiên tỳ-kheo, Thanh Văn đại
chúng”, mọi người vừa nh́n vào liền biết
đấy đều là những người tu Tiểu Thừa.
Cớ sao hàng Tiểu Thừa có thể văng sanh thế giới
Cực Lạc? Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn Đại
Thừa cơ mà! Tổ sư chú giải, đấy là v́ họ
vốn tu pháp môn Tiểu Thừa. Tu đến sau này, hồi
tiểu hướng đại, đổi sang tu pháp môn
Đại Thừa. Tuy hồi tiểu
hướng đại, nhưng vốn là tu Tiểu Thừa,
công phu tu tŕ đă có, cơ sở tốt đẹp. Do vậy,
sau khi văng sanh thế giới Cực Lạc, trước hết
là đoạn Kiến Tư Hoặc, trước hết là
chứng quả La Hán. Đó là “Thanh
Văn đại chúng”, là những người hồi tiểu
hướng đại văng sanh thế giới Cực Lạc.
Tổ sư đặc biệt chú giải điều này!
Phần
kinh văn tiếp theo là:
(Kinh)
Hành giả kiến dĩ, hoan hỷ dũng dược, tự
kiến kỳ thân, thừa kim cang đài, tùy tùng Phật hậu,
như đàn chỉ khoảnh, văng sanh bỉ quốc.
(經)行者見已,歡喜踴躍。自見其身,乘金剛臺,隨從佛後,如彈指頃,往生彼國。
(Kinh: Hành giả
thấy rồi, hoan hỷ, hớn hở, tự thấy
thân ḿnh ngồi đài kim cang theo sau đức Phật, như
trong khoảng khảy ngón tay, sanh về cơi kia).
Do
nhân duyên [như đă nói] trong phần trước đă
đầy đủ, hành giả trông thấy
Phật, Bồ Tát, đại chúng đông đảo ngần
ấy đều đến. “Hành
giả kiến dĩ”, [nghĩa là] sau khi đă thấy Phật,
Bồ Tát, bèn “hoan hỷ,
dũng dược” (hoan hỷ, hớn hở): Trong tâm nẩy
sanh hoan hỷ, hoan hỷ đến mức độ nào?
Đến mức có thể hăng hái nhảy nhót. Người
sắp văng sanh, sắp tắt hơi, làm sao có thể nhảy
lên được? Chẳng thể nào! Đây là nói
theo tâm lư, sự cảm nhận trong tâm t́nh! “Dũng dược” (踴躍) là từ ngữ để
h́nh dung tâm lư hoan hỷ ấy!
“Tự kiến kỳ thân, thừa
kim cang đài”: Tự ḿnh thấy thân thể của chính
ḿnh ngồi lên đài Kim Cang, kim cang làm đài hoa sen. Sau khi
đă ngự lên đài hoa sen, “tùy
tùng Phật hậu”, [nghĩa là] liền theo sau A Di
Đà Phật, vừa lên đài, A Di Đà Phật ở
phía trước, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ
Tát, hành giả theo sau. Theo sau phải mất bao lâu mới
có thể đến nơi? “Như
đàn chỉ khoảnh, văng sanh bỉ quốc” (Như
trong khoảng khảy ngón tay, sanh về cơi đó), “đàn chỉ” (彈指) là khảy
ngón tay một chút, thời gian ngắn ngủi như thế
đó! Chưa đến một giây, chúng ta dấy lên ư niệm,
một cái khảy ngón tay, trong thời gian hết sức ngắn
ngủi, tạm bợ, bèn sanh về cơi ấy. Chúng ta
thường nói, từ thế giới này, trong khoảng giữa
[hai thế giới], phải trải qua mười vạn
ức tam thiên đại thiên thế giới cơi Phật (một
tam thiên đại thiên thế giới đă chẳng biết
rơ số, huống hồ mười vạn ức tam thiên
đại thiên thế giới), đi qua các thế giới
nhiều ngần ấy, sau đó mới đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
Trong
một cái khảy ngón tay mau chóng như vậy, đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, chính là do A Di
Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cang đến
tiếp dẫn. Chúng ta cảm tưởng: “Có chuyện ấy
ư?” Hiện thời, khoa học tiến bộ, mọi
người đều biết: Một người ngồi
trên hỏa tiễn, hoặc phi thuyền, hễ bắn hỏa
tiễn lên, xuyên qua khí quyển, đến mặt trăng,
hoặc đến bất cứ tinh cầu nào, cũng
đều rất xa, tuy chẳng xa như thế giới Cực
Lạc, chỉ là “thầy đồng hạng xoàng gặp
đại phù thủy”, nói theo phía phàm phu chúng ta, cũng là
chuyện khó có thể, đáng quư. Chúng ta tự ḿnh đi,
khi nào sẽ đến nơi? Đừng nói tới vũ
trụ, nếu từ Đài Trung đến Đài Bắc,
cũng chẳng phải là trong một thời gian ngắn
bèn có thể đến được. Phàm phu chúng ta có thể
vào vũ trụ là do có phương tiện giao thông tốt
đẹp, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
là do Phật, Bồ Tát dùng kim cang đài [tiếp dẫn],
tuyệt diệu thay! V́ thế, trong khoảng khảy ngón
tay bèn có thể đạt tới!
Kẻ
tu pháp môn thông thường, tuy công phu b́nh thường tốt
đẹp, tới lúc thọ mạng chấm dứt, chính
ḿnh rất khó làm chủ. Khi ấy, sức lực của
chính người đó chẳng đủ, do tu pháp môn khác
biệt, chớ nên chấp trước hết thảy các
tướng. Tới lúc ấy, người đó cũng rất
khó khăn, khó tránh khỏi tay chân cuống quưt. Ấn Quang
đại sư cũng nói như thế này: “Rất nhiều kẻ b́nh
thường công phu rất tốt đẹp, đến
khi lâm chung, đều là tay cuống chân loạn”. Kinh
văn lúc b́nh thường đều nói rất hay, đến
khi đó, lại chẳng được. V́ sao? Hoàn toàn là
pháp môn tự lực, hoàn toàn cậy vào sức của chính
ḿnh, chẳng đủ sức!
Tu pháp môn
Niệm Phật là pháp môn Nhị Lực. Tới khi lâm chung,
cậy vào công phu b́nh thường tu tập của người
ấy, lại c̣n do nguyện lực, cảm ứng duyên
như vậy đến tiếp dẫn. Người b́nh
phàm khi sắp tắt hơi sẽ đau khổ dường
ấy. Quư vị thấy người văng sanh “hoan hỷ dũng dược, tự
kiến kỳ thân, thừa kim cang đài” (hoan hỷ, hớn
hở, tự thấy thân ḿnh ngồi đài kim cang), giống
như lúc b́nh thường bước lên công cụ giao
thông. Đă thế, đài kim cang chẳng giống những
thứ xe cộ hoặc phi cơ thô thiển, kém cỏi
như chúng ta thường thấy. Đối với
đài kim cang ấy, [người văng sanh] tự thấy
chính ḿnh về căn bản là chẳng có những chuyện
như tử vong, tắt hơi, hết sức hoan hỷ,
có thể tự ḿnh lên đài, “thừa
thượng kim cang đài”, quư vị thấy thoát ly tiêu
sái ngần ấy! Đó là do có hai lực (tự lực và
Phật lực), có sức của Phật, Bồ Tát, A Di
Đà Phật phóng đại quang minh. Phóng đại quang
minh để làm ǵ? Nhằm gia bị cho người ấy,
khiến cho sức lực của người ấy
tăng trưởng, nguyện lực tăng trưởng,
mới có thể tự thấy thân ḿnh ngồi đài kim
cang. Chúng ta tu đến mức độ ấy sẽ là
khá lắm, lúc b́nh thường phải phối hợp ba loại
tâm với tŕ danh niệm Phật. Tới lúc văng sanh, nhất
định là sẽ có thể đạt được hiện
tượng tốt đẹp. Đoạn này nói về
chuyện văng sanh. Đoạn [chánh kinh] kế tiếp nói về
lợi ích sẽ đạt được sau khi văng sanh.
(Kinh)
Sanh bỉ quốc dĩ, kiến Phật sắc thân, chúng
tướng cụ túc. Kiến chư Bồ Tát, sắc
tướng cụ túc, quang minh, bảo lâm, diễn thuyết
diệu pháp. Văn dĩ, tức ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn,
kinh tu du gian, lịch sự chư Phật, biến thập
phương giới, ư chư Phật tiền, thứ
đệ thọ kư, hoàn chí bổn quốc, đắc vô
lượng bách thiên đà-la-ni môn.
(經)生彼國已,見佛色身,眾相具足。見諸菩薩,色相具足。光明寶林,演說妙法。聞已,即悟無生法忍。經須臾間,歷事諸佛,遍十方界,於諸佛前,次第受記。還至本國,得無量百千陀羅尼門。
(Kinh: Đă
sanh về cơi ấy, thấy sắc thân của Phật, các
tướng trọn đủ. Thấy các Bồ Tát sắc
tướng trọn đủ. Quang minh, rừng báu diễn
thuyết pháp mầu. Nghe xong, liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Trải qua khoảnh khắc, phụng sự khắp
chư Phật, trọn khắp mười phương thế
giới, ở trước chư Phật lần lượt
được thọ kư. Trở về nước ḿnh,
đắc vô lượng trăm ngàn môn đà-la-ni).
Đây
là nói về lợi ích sẽ đạt được sau
khi văng sanh thế giới Cực Lạc. “Sanh bỉ quốc dĩ” nghĩa là sau khi người
văng sanh đă sanh về thế giới Cực Lạc. “Kiến Phật sắc thân”, thấy
thân tướng trang nghiêm của A Di Đà Phật, tuyệt
diệu thay! Trong thế giới Sa Bà, đương nhiên
cũng có chuyện cảm ứng thấy A Di Đà Phật,
nhưng chẳng phải là A Di Đà Phật trong thế giới
Cực Lạc. Sau khi đă tới thế giới Cực Lạc,
thấy sắc thân của A Di Đà Phật “chúng tướng cụ túc”
(các tướng trọn đủ). Những tướng
đă nói trong phép Quán A Di Đà Phật thuộc phần
trước đều hoàn toàn trọn đủ. Đừng
nói là [trong thế giới Sa Bà] chúng ta chẳng thấy A Di
Đà Phật; dẫu thấy, cũng chẳng thấy rơ
ràng! A Di Đà Phật duỗi một cánh tay ra; đừng
nói là một cánh tay, dẫu Ngài nhấc một đầu
ngón tay, chúng ta thấy ngón tay to lớn ấy sẽ sợ
chết khiếp! Đó là ǵ vậy? Chúng ta chẳng hiểu
rơ. Tâm lư và tầm nh́n của phàm phu nhỏ hẹp đến
mức đáng thương! Do vậy, ở trong thế giới
này, thật sự là chẳng nh́n thấy A Di Đà Phật
hoàn toàn. Ắt là phải sau khi đă đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, phải đạt
đến cảnh giới ấy. Sau khi văng sanh, cảnh giới
trong bụng dạ của chúng ta mới mở rộng, [những
ǵ thấy, nghe, hiểu biết] sẽ là khôn cùng! Cảnh
giới được nâng cao. Khi ấy, sẽ trông thấy
rơ ràng toàn bộ nhiều thứ hảo tướng nơi
sắc thân Phật. Chính ḿnh chưa đạt tới cảnh
giới ấy, làm sao [có thể] thấy cho được?
Điều này có thể chứng tỏ: T́nh h́nh sau khi văng
sanh chẳng phải là bọn chúng sanh phàm phu như chúng ta có
thể tưởng tượng được! Cho đến
khi đă tới Tây Phương Cực Lạc thế giới,
thân thể cũng cao lớn. Tâm lư, những ǵ mắt thấy,
hết thảy đều hoàn toàn khác hẳn!
Ngoài
việc thấy trọn đủ các tướng nơi sắc
thân Phật ra, c̣n thấy các vị đại Bồ Tát. “Kiến chư Bồ Tát, sắc
tướng cụ túc” (Thấy các Bồ Tát, sắc
tướng trọn đủ): Đối với sắc
tướng của những vị Bồ Tát ấy và sự
trang nghiêm trọn đủ nơi toàn thân các Ngài, cũng
đều trông thấy rơ ràng, rành rẽ. Ở đây, chúng
ta phải chú ư: “Thừa kim cang
đài” [như đă nói trong] phần trước chính là
ngồi trên đài hoa sen. Sanh về thế giới Cực
Lạc, sẽ vào trong búp sen. Sau khi đă tới thế giới
Cực Lạc, hoa sen sẽ khép lại. Qua một thời
gian sau, hoa sen lại nở. V́ thế, nói là “hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh” (hoa nở,
thấy Phật, ngộ Vô Sanh), chúng ta thường niệm
điều này. Nhưng kinh văn ở đây nói, sau khi ngồi
đài kim cang, theo sau đức Phật, trong khoảng khảy
ngón tay, sẽ tới thế giới Cực Lạc. Vừa
đến đó, bèn thấy sắc thân Phật và sắc
tướng của chư vị Bồ Tát, chẳng nói “hoa
khép lại, hoa x̣e ra”. Tuy kinh văn chẳng nói, nhưng phải
thấu hiểu ư nghĩa ở ngoài kinh văn. Người
Thượng Phẩm Thượng Sanh lỗi lạc thay!
Cũng có nghĩa là hoa sen chẳng cần khép lại, x̣e
ra, chẳng có quá tŕnh hoa sen khép lại, x̣e ra! Vừa đến
nơi ấy, sẽ lập tức thấy Phật, ngay lập
tức ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn. Do vậy, trong chín phẩm
văng sanh, văng sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh
chẳng cần đến quá tŕnh hoa sen khép lại, x̣e ra, mà
là lập tức thấy Phật. Hễ thấy Phật,
bèn nghe pháp.
“Quang minh, bảo lâm, diễn thuyết
diệu pháp”: Hoàn cảnh ấy quá tốt đẹp, Phật,
Bồ Tát thảy đều phóng quang minh. Mỗi bông hoa, mỗi
cây cỏ, nước, rừng cây, không chỗ nào chẳng
tỏa quang minh. Quang minh có thể thuyết pháp. “Bảo lâm” chính là rừng cây
có các hàng cây bảy báu, [những cây ấy] cũng có thể
thuyết pháp. Bất luận quang minh hay rừng báu, đều
đang diễn thuyết diệu pháp. Trong thế giới Sa
Bà, chẳng nghe thấy diệu pháp ấy. Phật pháp mà
chúng ta được nghe trong thế giới Sa Bà cũng
như Phật pháp mà tâm lư phàm phu có thể liễu giải,
[so với] diệu pháp được nghe khi đă đến
thế giới Cực Lạc, có mức độ khác biệt
rất lớn. Chẳng hạn như: Tuy chúng ta tu Duy Thức,
biết Bách Pháp Minh Môn Luận. Trăm pháp th́ mọi người
đều kể tên được, cũng biết ư
nghĩa của trăm pháp, bao gồm tám tâm vương,
năm mươi mốt tâm sở, có bao nhiêu thiện pháp,
lại c̣n có vô vi pháp, đó là một trăm pháp. Nhưng phần
kinh văn trong các đoạn sau có nói: Sau khi thấy Phật,
Bồ Tát, những vị đại Bồ Tát mới giảng
cho người văng sanh nghe Bách Pháp Minh Môn, phải chú ư! Bách
Pháp Minh Môn do hàng đại Bồ Tát giảng và Bách Pháp Minh
Môn do người ấy được nghe trong lúc đó,
trọn chẳng phải là Bách Pháp Minh Môn như chúng ta
đă nghe và lư giải trong thế giới này. Bách Pháp Minh
Môn như chúng ta đă nói [trong thế giới này] chỉ là
biết danh từ mà thôi, có mấy ai thật sự hiểu
được ư nghĩa bao hàm trong ấy? Chẳng thể
nghiệm được. V́ sao? Tâm lư của phàm phu luôn có
chướng ngại, khiến cho năng lực thể
nghiệm bị chướng ngại, chẳng tin thế
giới Cực Lạc tốt đẹp như kinh văn
đă nói. Nói với người khác, họ cũng chẳng
tin tưởng. V́ sao chẳng tin tưởng? Trong tâm họ
có một tầng chướng ngại! Chướng ngại
ấy phát xuất từ thành kiến nơi tâm lư của
phàm phu trong thế gian. Tiếp nhận những tri thức
và thành kiến ấy, khiến cho tâm lư bị chướng
lấp. Do loại thành kiến ấy, chỉ biết tranh
danh đoạt lợi cùng kẻ khác, cùng người khác
cướp đoạt, giành giật nơi phương diện
vật chất, chẳng thể mở rộng tâm linh của
chính ḿnh. V́ thế, đối với những thứ thật
sự tốt đẹp, người ấy chẳng nh́n
thấy. Người khác nói ǵ, người ấy cũng
chẳng tin tưởng. Do vậy, ắt phải vận dụng
công phu như kinh văn đă dạy trong phần trước:
Buông bỏ những thành kiến b́nh phàm của người
thế gian. Sau khi đă buông bỏ, tâm linh của chúng ta mở
rộng mới thấu hiểu: Học nhân học Phật
ở đây là tin tưởng pháp môn. Thật sự tới
Tây Phương Cực Lạc thế giới, cảnh giới
sẽ tiến hơn cảnh giới hiện thời một
bước, sẽ khác hẳn. Do đó, người ấy
lư giải Bách Pháp Minh Môn và chúng ta lư giải sẽ khác biệt
rất lớn. V́ thế, đối với “diễn thuyết diệu pháp”, chúng ta chỉ là nói suông mà
thôi! Chúng ta chẳng thể tượng tưởng nổi
[những pháp ấy] “diệu”
đến mức độ nào! Phải chờ tới sau
khi chúng ta đă đến thế giới Cực Lạc th́
mới thể nghiệm được. Nay chúng ta phải
có cách nghĩ như thế này: So với những ǵ chúng ta
đă biết, [những ǵ sẽ được thấy
nghe trong cơi Cực Lạc] sẽ vượt trỗi không
biết bao nhiêu lần!
“Văn dĩ, tức ngộ Vô
Sanh Pháp Nhẫn”, nghĩa là: Sau khi nghe quang minh và rừng
báu diễn thuyết diệu pháp, sẽ lập tức ngộ
được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trong phần trước,
đă có nói về Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tâm người ấy
hiểu pháp Vô Sanh. Trên thế gian, ai trong chúng ta cũng
đều chẳng hiểu pháp Vô Sanh, ngay cả pháp sanh diệt
cũng không hiểu, cứ ngỡ pháp sanh diệt thật
sự tồn tại. V́ thế, chúng ta chẳng nh́n thấu,
chẳng buông xuống được. Ngay cả pháp sanh diệt
mà cũng chẳng hiểu, vậy th́ pháp vô sanh cao hơn một
tầng làm sao hiểu được? Cảnh giới này
là từng tầng một. Pháp vô sanh là hết thảy các
pháp đều vô sanh, chẳng phải là pháp sanh diệt.
Pháp nào cũng vốn đều như nhau. Người ấy
đă an trụ trong ư niệm ấy, an ổn trụ trong
pháp Vô Sanh, sẽ là Nhẫn, [tức là] chẳng bị những
pháp khác ảnh hưởng, nhiễu loạn mảy may.
Đây là một thứ công phu Định rất sâu. Đối
với Vô Sanh Pháp Nhẫn, phải đạt đến
tŕnh độ nào th́ mới có thể đắc Vô Sanh Pháp
Nhẫn? Tổ sư chú giải cũng chẳng nhất
trí. Theo như Trí Giả đại sư của tông Thiên
Thai đă dạy: Nói theo Biệt Giáo, sẽ là Sơ Địa;
nói theo Viên Giáo, phải là Sơ Trụ th́ mới chứng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nói theo một cách khác, Vô Sanh
Pháp Nhẫn xét theo Viên Giáo th́ từ Sơ Trụ cho đến
Đẳng Giác đều là Vô Sanh Pháp Nhẫn, tŕnh độ
khác nhau. Nói chung, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn đều là khá
lắm. Đă đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, “kinh tu du gian, lịch sự chư Phật, biến
thập phương giới”, [nghĩa là] trong thời
gian hết sức ngắn ngủi, có thể “lịch sự” (cúng dường
trọn khắp) mười phương chư Phật. “Lịch sự” (歷事) là hầu
hạ, cúng dường từng vị một. Mười
phương thế giới có bao nhiêu cơi Phật? Mỗi
cơi Phật có một vị Phật, người ấy
đều lần lượt phụng sự, đến
chỗ từng vị Phật trong mười phương
thế giới để hầu hạ, lễ bái, cúng
dường v.v…
“Ư chư Phật tiền, thứ đệ
thọ kư”: Ở trong mười phương thế
giới, đối trước chư Phật, khi lễ
Phật, cúng dường Phật, các vị Phật ấy
chẳng tùy tiện tiếp nhận sự cúng dường
của quư vị. Sau khi đă tiếp nhận, các vị Phật
ấy c̣n từng vị đều thọ kư cho quư vị. “Thọ kư” (授記) có
nghĩa là cho biết khi nào quư vị sẽ có thể thành
Phật, tuyệt diệu thay! “Hoàn
chí bổn quốc” (Trở về cơi ḿnh), chữ “bổn quốc” chẳng phải
là nói về thế giới Sa Bà, mà là nói tới thế giới
Cực Lạc. Người ấy đă văng sanh Tây
Phương, là người trong thế giới Cực Lạc.
Trong thời gian rất nhanh như vậy, trở về
cơi của chính ḿnh, tức thế giới Cực Lạc, “đắc vô lượng bách
thiên đà-la-ni môn”: Sau khi trở lại thế giới
Cực Lạc, v́ người ấy đối trước
trọn khắp chư Phật trong mười
phương thế giới, đă được thọ
kư, đương nhiên là Phật sẽ dạy cho người
ấy rất nhiều pháp môn. Ở trước mỗi vị
Phật, học một pháp; trọn khắp các đức
Phật trong mười phương thế giới sẽ
có bao nhiêu pháp? V́ lẽ đó, sau khi trở lại thế
giới Cực Lạc, đạt được vô lượng
trăm ngàn đà-la-ni môn. Vô lượng là chẳng biết
rơ số lượng, “môn” là
pháp môn. Đà-la-ni là ǵ? Đà-la-ni là tổng tŕ. Tổng tŕ những
ǵ? Tổng tŕ vô lượng vô biên đạo lư, vô lượng
nghĩa lư hoàn toàn được bao hàm trong ấy. Điều
này hết sức quan trọng.
Chúng
ta thường nói “pháp môn vô
lượng thệ nguyện học”. Phật pháp có vô
lượng pháp môn. Học Phật pháp trong thế gian,
thường nói là “tám vạn bốn
ngàn pháp môn”. Nói theo thực tế, sẽ là vô lượng
pháp môn. Người học Phật chúng ta phải nên có chí
nguyện, lập vững thệ nguyện mong học. Pháp
môn học càng nhiều càng hay, nhưng năng lực của
chúng ta hữu hạn, học pháp này qua một thời gian
bèn quên mất. Học pháp khác, một thời gian sau lại
quên mất, năng lực ghi nhớ của chúng ta hữu
hạn! Cổ nhân nói: “Người đọc sách có hai
điều kiện trọng yếu:
1) Một
là ngộ tánh tốt, [tức là] vừa đọc sách, hoặc
nghe người khác giảng. Giảng một ư nghĩa,
người ấy bèn lập tức lănh ngộ rất nhiều
ư nghĩa. Trong Khổng môn, Nhan Hồi có thể “nghe một, biết mười”.
Đó là ngộ tánh tốt đẹp.
2) Hai là
trí nhớ tốt. Chính ḿnh đọc sách hoặc nghe đạo
lư, có thể ghi nhớ, chẳng quên mất. Hôm nay nhớ một
điều, ngày mai nhớ điều khác, lâu ngày chầy
tháng, nhớ được nhiều sẽ hữu dụng”.
Nhưng
trong chúng ta, người có trí nhớ tốt cũng chẳng
nhiều! Phần lớn là chóng quên! Đà-la-ni môn là tổng
tŕ. Sau khi đă học hết thảy các pháp, có thể
vĩnh viễn ghi nhớ, lúc nào cũng dùng được.
Thông thường, chúng ta đọc rất nhiều sách,
đến khi muốn sử dụng, chẳng biết dùng
như thế nào, nghĩ kiểu nào cũng chẳng thể
nhớ ra. Đă đắc đà-la-ni, hết thảy các pháp
môn đều ghi nhớ, lại c̣n có thể sử dụng
bất cứ lúc nào. V́ thế, vô lượng pháp môn đều
có thể tổng tŕ, sẽ có thể thành Phật rất
nhanh. Điều này dựa vào đâu? Nhờ vào sau khi đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn, cúng mười phương Phật,
đắc đà-la-ni môn. Tuy đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới có thể đắc đà-la-ni môn; trong
thế gian này, chúng ta cũng có thể luyện tập, luyện
tập ngộ tánh tốt đẹp, trí nhớ tốt
đẹp, tốt đẹp dường nào! Chỉ cần
đơn thuần, tức là đơn thuần hóa tư
tưởng của chúng ta. Thông thường, chớ nên có
ư nghĩ phức tạp, chớ nên có nhiều vọng niệm,
tâm tâm niệm niệm đều đặt nơi đạo.
Tuy sống trên cơi đời, thông thường chúng ta đều
phải làm lụng, nhưng thời thời khắc khắc
đều có tâm cầu đạo, tư tưởng của
chúng ta sẽ đơn thuần hóa. Hễ tư tưởng
đơn thuần, ngộ tánh lẫn trí nhớ đều
là năng lực sẵn có của chúng ta, năng lực tự
nhiên phát hiện.
(Kinh) Thị
danh Thượng Phẩm Thượng Sanh giả.
(經)是名上品上生者。
(Kinh: Đây
gọi là Thượng Phẩm Thượng Sanh).
Câu
“thị danh Thượng Phẩm
Thượng Sanh giả” là tổng kết. Đoạn
kinh văn trong phép Quán thứ mười bốn này [nói về]
Thượng Phẩm Thượng Sanh, đă nói xong. Trong
đoạn kế tiếp, sẽ nói về Thượng Phẩm
Trung Sanh.
Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư
Phần
8 hết
[1] Ở đây, người biên tập bản
tiếng Hán đă ghi sai chữ Lục Cực (六極) thành Lục Cát (六吉), có lẽ v́ âm đọc khá giống
nhau trong tiếng Quan Thoại. Thiên Hồng Phạm ghi rơ Ngũ
Phước là Thọ, Phú, Khang Ninh (mạnh khỏe, an ổn),
Du Hảo Đức (ham chuộng làm lành) và Khảo Mạng
Chung (chết an lành). Lục Cực là Hung Đoản Chiết
(gặp chuyện hung hiểm, chết yểu, đổ vỡ),
Tật (bệnh tật), Ưu (lo lắng), Bần (nghèo), Ác
và Nhược (yếu ớt).
[2] “Hóa sanh” là sanh thẳng vào chỗ sẽ
sanh về, không trải qua các giai đoạn trung ấm,
hoài thai, sanh trưởng. Chẳng hạn như chư
thiên sanh bằng hóa sanh, người đọa địa
ngục, hoặc sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới đều là hóa sanh. Khi bỏ thân này bèn sanh
ngay trong những cơi ấy, không cần trải qua giai
đoạn chuyển tiếp.
[3] Giá giới (遮戒): “Giá” có
nghĩa là ngăn chặn. Do giới này dễ dẫn
khởi đến việc phạm các giới khác,
chẳng hạn như uống rượu say sưa,
dễ nổi nóng, mất kiểm soát, dễ đánh
lộn, lỡ tay làm thương tổn người khác.
Hoặc v́ uống rượu th́ phải có mồi
nhắm, dễ nghĩ đủ mọi cách sát hại sanh
vật sao cho ăn thật ngon, nhậu thật đă v.v… Khi
uống rượu, hơi men bốc lên, dễ ba hoa, khoác
lác, bèn phạm giới vọng ngữ. Tánh giới là
giới thuộc về tánh, nghĩa là dù có thọ giới
hay không, hễ phạm th́ đều có tội.
[4] Chi và Lan là hai loại thảo mộc có
mùi thơm thanh nhă. Lan (蘭) là
địa lan, thường được tôn xưng là “vương
giả chi hoa”, do màu
sắc thanh khiết, nhă nhặn, hương thơm
nhẹ nhàng. Chi (芝) là một
loại cỏ thơm.