Phật Thuyết

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh

Giảng Kư

Phần 9

佛說觀無量壽佛經講記

Chủ giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)

Khởi giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 41

         

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi ba, bắt đầu từ hàng thứ hai từ dưới đếm lên. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn:

 

        (Kinh) Thượng Phẩm Trung Sanh giả, bất tất thọ tŕ, độc tụng Phương Đẳng kinh điển, thiện giải nghĩa thú, ư Đệ Nhất Nghĩa, tâm bất kinh động, thâm tín nhân quả, bất báng Đại Thừa. Dĩ thử công đức, hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc.

()上品中生者,不必受持讀誦方等經典。善解義趣,於第一義,心不驚動,深信因果,不謗大乘。以此功德,迴向願求生極樂國。

(Kinh: Thượng Phẩm Trung Sanh là chẳng cần thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Phương Đẳng, khéo hiểu nghĩa thú. Đối với Đệ Nhất Nghĩa, tâm chẳng kinh động, tin sâu nhân quả, chẳng báng Đại Thừa. Dùng công đức này để hồi hướng nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc).

 

          Nay tôi vẫn tiếp tục nói về t́nh h́nh trong chín phẩm văng sanh. Đối với chín phẩm văng sanh, trong lần trước đă nói về Thượng Phẩm Thượng Sanh. Thượng Phẩm Thượng Sanh đạt được lợi ích là: Sau khi đă văng sanh thế giới Cực Lạc, chẳng cần phải trải qua [giai đoạn] hoa sen khép lại. Cũng có nghĩa là vừa đến thế giới Cực Lạc, ngay lập tức trông thấy A Di Đà Phật và các vị thượng thiện nhân, ngay lập tức có thể nghe giảng diệu pháp, ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn. Cuối cùng, đạt được trăm ngàn đà-la-ni môn. Nói tới “đà-la-ni môn”, nếu nói cặn kẽ, sẽ có bốn loại lớn, ở đây, chẳng thể nói chi tiết. Hăy đặc biệt chú trọng [ư nghĩa chánh yếu của đà-la-ni] là “đối với nghĩa lư của diệu pháp, hễ nghe xong sẽ tổng tŕ, chẳng bị quên mất”.

          Hôm nay, tôi nói về Thượng Phẩm Trung Sanh. “Thượng Phẩm Trung Sanh giả, bất tất thọ tŕ, độc tụng Phương Đẳng kinh điển” (Thượng Phẩm Trung Sanh th́ chẳng cần phải thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Phương Đẳng). Thượng Phẩm Thượng Sanh ắt phải đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng, c̣n Thượng Phẩm Trung Sanh không cần thọ tŕ, đọc tụng Phương Đẳng kinh điển. “Bất tất” (不必) là chẳng cần phải giống như trong phần trước đă nói: [Đối với Thượng Phẩm Thượng Sanh] tất cả các kinh điển Phương Đẳng đều đọc tụng, học tập rộng răi. V́ căn khí của học nhân bất đồng, có người thích đọc tụng, có người chẳng ham thích đọc tụng như vậy, chẳng hoàn toàn giống như nhau. Tuy là chẳng cần thọ tŕ, đọc tụng rộng răi, nhưng cũng phải chọn lựa một phần để đọc tụng. “Chẳng cần thọ tŕ, đọc tụng” hoàn toàn chẳng phải là không đọc tụng! Nếu hoàn toàn chẳng đọc tụng, câu kinh văn kế tiếp sẽ chẳng có cách nào nói [cho thông suốt] được! Câu kế đó chính là: “Thiện giải nghĩa thú” (Khéo hiểu nghĩa thú). Nếu hoàn toàn chẳng thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Phương Đẳng, sẽ chẳng có cách nào lư giải Đệ Nhất Nghĩa Đế. Do vậy, ở đây nói “chẳng cần thọ tŕ, đọc tụng” có nghĩa là chỉ đọc tụng một phần, chẳng phải là đọc tụng toàn bộ như trong phần trước. Học nhân gặp được kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng, tuy chẳng thọ tŕ, đọc tụng toàn bộ trọn khắp, nhưng chỉ cần học một phần, thậm chí học một hai câu kinh văn mà có thể khéo hiểu nghĩa thú, tức là có thể lănh ngộ nghĩa lư trong kinh, [tức là lănh ngộ] mục đích sẽ hướng đến, chỗ quy kết của tông chỉ từ những giáo huấn của kinh. Người ấy lănh ngộ những ǵ?

          “Ư Đệ Nhất Nghĩa, tâm bất kinh động” [nghĩa là] người ấy nghe nói về Đệ Nhất Nghĩa, trong tâm chẳng bị kinh hoảng. Đệ Nhất Nghĩa là ǵ? Cái gọi là Đệ Nhất Nghĩa chính là điều được giảng trong các kinh điển Đại Thừa, mà cũng chính là điều các kinh điển Đại Thừa mong chúng ta hiểu rơ: “Bản thân mỗi người chúng ta đều trọn đủ Chân Như bản tánh”. Trong đạo tràng của chúng ta, các vị đều đă nghe nói về Chân Như bản tánh, nhưng chúng ta chẳng thể nói tất cả những ai học Phật vừa khởi đầu học Phật bèn hiểu Chân Như bản tánh, rất khó nói! Rất nhiều người đă học Phật vài chục năm, quư vị hỏi họ: “Chân Như bản tánh là ǵ?” Họ chẳng liễu giải! Chẳng liễu giải th́ vẫn chẳng sao cả! Thật sự nói đến Chân Như bản tánh, họ bèn kinh hoảng, chấn động, cảm thấy sợ hăi. V́ sao? Thật sự nghe chân lư, chẳng thể tiếp nhận được! Thông thường, chúng ta sanh tử, luân chuyển trong lục đạo, cái được tin tưởng nhất, khẳng định nhất chính là giả pháp. Giả pháp sanh sanh diệt diệt, [thế mà] cứ coi pháp sanh diệt là thực tại. Ví như nói đến núi, sông, đại địa trong thiên nhiên, kẻ b́nh phàm đều nghĩ chúng thật sự tồn tại, chẳng giả. Trong xă hội, chúng ta thấy hết thảy mọi người và hết thảy mọi chuyện do mọi người đă làm, những chuyện được đại chúng truyền bá, đều coi chúng là chân thật. Thật ra, những thứ ấy đều là pháp sanh diệt, đều là giả hữu, chẳng chân thật. Nhưng bất cứ phàm phu nào trong bọn chúng ta cũng đều coi chúng nó là chân thật. Do coi giả là thật, coi chúng nó thật sự là thật, họ sẽ chẳng tin tưởng, chẳng hiểu rơ [chúng nó là giả pháp]. V́ sao? V́ trí huệ chân thật của họ đă bị những thứ giả dối che lấp. Do vậy, nếu nghe nghĩa lư Đệ Nhất Nghĩa chân thật, tâm họ sẽ chẳng thể tiếp nhận nổi, rất khủng hoảng. [Ở đây], kẻ học Phật tương ứng với Thượng Phẩm Trung Sanh, tuy chẳng đọc tụng toàn bộ kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng, dẫu chỉ nghe một hai câu kinh văn, do có thể lănh ngộ nghĩa lư Đệ Nhất Nghĩa, trong tâm chẳng sợ hăi, dao động, tuyệt diệu thay!

          Kẻ b́nh phàm nghe nghĩa lư Đệ Nhất Nghĩa, tâm lư sẽ bị kinh động. Chúng tôi nêu một tỷ dụ để nói: Bất luận ai cũng biết, một người hễ có sanh bèn có tử. Các tôn giáo thông thường (ngoại đạo) biết có thiên đường, có địa ngục, có súc sanh v.v... Những thứ ấy đều là “sanh tử, lục đạo”, các tôn giáo thông thường đều biết; nhưng sanh lên thiên đường có phải là “nhất lao vĩnh dật” (一勞永逸, vất vả một lần, an nhàn măi măi) hay không? Có thể vĩnh viễn giải quyết vấn đề hay không? Chẳng phải vậy! Muốn thật sự giải quyết vấn đề sanh tử, chẳng phải cứ nói suông là được đâu nhé, nhất định phải hiểu rơ mỗi người chúng ta đều sẵn có cái Ngă thật sự, tức là Chân Như bản tánh. Trong Chân Như bản tánh, chẳng có giả tướng sanh tử. Nói “có sanh, có tử” th́ sanh là sanh như thế nào? Bất luận nhân loại hay những động vật khác cũng thế, đều do linh hồn của chính ḿnh cộng thêm duyên phận với cha mẹ, nhân duyên ḥa hợp th́ mới có hiện tượng sanh mạng. Tới lúc thọ mạng chấm dứt, khi sắp chết, nhục thể có được từ cha mẹ sẽ dần dần lăo hóa, sanh bệnh, chẳng ổn nữa, linh hồn, thần thức lại phải thay đổi hoàn cảnh. Kẻ b́nh phàm gọi chuyện này là “tử”. Phải giải quyết loại sanh tử ấy như thế nào? Chẳng hiểu tâm tánh của chính ḿnh, từ đầu đến cuối chẳng thể giải quyết. [Đối với chuyện] sanh vào địa ngục hoặc làm súc sanh, đương nhiên là chẳng thể giải quyết. Sanh lên thiên đường, vẫn chẳng thể giải quyết! Bởi lẽ, sanh lên thiên đường th́ vẫn có thọ mạng. Tuy thọ mạng [trong thiên đường] lâu dài hơn [thọ mạng của] loài người chúng ta quá nhiều, nhưng vẫn có lúc kết thúc! Những con đường ấy (địa ngục, súc sanh, thiên đường v.v...) đều là pháp sanh diệt.

          Muốn giải quyết vấn đề sanh tử luân hồi, ắt phải ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh (無生) là chẳng có sanh, chẳng có diệt, hoàn toàn hiểu rơ bản tánh, thấy bản tánh của chính ḿnh, nói xác thực là “chẳng có sanh tử”. Nếu chúng ta chẳng từng bước lănh ngộ lư trong kinh Phật, đột nhiên nói “chẳng có sanh tử”, có những kẻ nghe nói “chẳng có sanh tử” bèn cuồng vọng, chuyện ǵ cũng đều dám làm, các thứ ác nghiệp đều tạo. V́ thế, có những kẻ nghe Đệ Nhất Nghĩa Đế chân chánh, tâm lư bèn phát cuồng. Đấy là chỗ rất khó! Do vậy, trong kinh Kim Cang, Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy: Đối với một người chẳng có phước báo, chẳng có trí huệ, nếu ta nói hoàn toàn cho kẻ ấy biết về đạo lư Đệ Nhất Nghĩa Đế trong kinh Kim Cang, sau khi người ấy nghe xong, tâm lư nhất định sẽ phát cuồng, tức cuồng loạn. V́ thế, nói về Đệ Nhất Nghĩa Đế trong kinh điển Đại Thừa, há dễ dàng ư? Khéo hiểu nghĩa thú, vừa nghe một, hai câu kinh văn, [chẳng hạn] như bốn câu kệ trong kinh Kim Cang, do nghe bốn câu kệ mà có thể lănh ngộ chân lư, trong tâm chẳng kinh hoảng, không có các thứ loạn động. V́ thế, tâm chẳng kinh động. Nếu chúng ta nghe đại pháp, liễu giải đạo lư, trong tâm chẳng kinh động, tuyệt vời thay! Có thể liễu giải phước báo và trí huệ của chính ḿnh th́ cũng chẳng phải là kẻ b́nh phàm. Chúng ta nghiên cứu kinh, nghiên cứu nghĩa lư, có thể dùng kinh văn và những nghĩa lư do đức Phật đă dạy để phản tỉnh, tự ấn chứng chính ḿnh.

Nếu các vị hỏi: “Có thấy kẻ nào đọc tụng kinh điển Đại Thừa rồi cuồng loạn hay không?” Chúng tôi chẳng chú ư. Hiện thời, có những người xem kinh, biết kinh điển nói tới Đệ Nhất Nghĩa Đế, có Chân Như bản tánh, có vô thượng diệu pháp, họ thật sự chẳng hiểu. Sau đấy, cũng chẳng tin nhân quả, hết thảy đều buông lung, làm đủ mọi tội nghiệp. Thậm chí ngay cả kinh văn trong kinh Phật cũng dám sửa đổi, cũng đi khắp nơi giảng giải [để cổ vũ cho kiểu sửa đổi ấy], không được rồi! Đấy là cuồng loạn. Nói “cuồng loạn” hoàn toàn chẳng phải là “phát điên, chửi bới kẻ khác ngoài đường”, mà chẳng tin nhân quả mới chính là cuồng loạn. Nay chúng ta phải hỏi: Kẻ xem kinh Phật ngỡ chính ḿnh đă hiểu; trên thực tế, kẻ đó chẳng tin tưởng nhân quả. Có bao nhiêu kẻ giống như vậy?

          Có thể khéo hiểu nghĩa thú, tâm cũng chẳng kinh động. Do vậy, “thâm tín nhân quả, bất báng Đại Thừa” (tin sâu nhân quả, chẳng báng Đại Thừa): Đối với đạo lư nhân quả, hết sức tin tưởng, tin tưởng hết sức sâu đậm. Bất luận kẻ nào dùng đủ mọi lời lẽ để phá hoại nhân quả, [người Thượng Phẩm Trung Sanh nghe xong] vẫn tin tưởng nhân quả như cũ. Chẳng hạn như tại Trung Hoa trong quá khứ, Tŕnh Tử và Châu Tử của Tống Nho bài xích giáo nghĩa “nhân quả ba đời” của nhà Phật. Về sau, Trung Hoa có bao nhiêu người đọc sách tin tưởng bọn họ. Nếu chúng ta liễu giải rất sâu đạo lư trong kinh Phật, tuy bọn họ (Tŕnh, Châu) là những kẻ có quyền uy trong học thuật như vậy, gần như từ đời Tống, Minh cho đến hiện tại, trong suốt mấy trăm năm, họ trở thành thần tượng trong học thuật Trung Hoa, nhưng chúng ta đă hiểu đạo lư này, vẫn chẳng tin lời bọn họ như cũ, chúng ta cứ tin tưởng nhân quả của Phật pháp. Nếu nói tới người hiện thời, tŕnh độ c̣n thua cả Tŕnh, Châu. Tư tưởng học thuật của người hiện thời chẳng bằng một phần ngàn vạn Tŕnh, Châu, nhưng họ lại bài xích nhân quả c̣n dữ dội hơn Tŕnh, Châu! Do đó, người hiện thời chẳng tin nhân quả quá nhiều! Những kẻ ấy có địa vị trong học thuật, trong pháp thế gian dường ấy, cũng có địa vị trong giới cầm quyền, nhưng nếu chúng ta thật sự hiểu Đệ Nhất Nghĩa Đế, sẽ nhận biết đó là giả pháp thoắt sanh, thoắt diệt, hết thảy đều là giả, tin tưởng những điều đó để làm ǵ? Ngay cả tư tưởng của chính ḿnh mà họ c̣n chẳng thể khống chế được, những lời lẽ họ thốt ra đều là lời lẽ nhằm tuyên truyền hủy báng nhân quả, chúng ta c̣n có thể tin tưởng, c̣n có thể nghe theo ư? Chúng ta cũng sẽ chẳng nghe lời bọn họ. Đó gọi là “thâm tín nhân quả”.

          Chẳng bị ảnh hưởng bởi những lời lẽ chẳng hợp nhân quả của bất cứ thần tượng, hoặc kẻ có địa vị, có quyền lực nào, quư vị tin nhân quả rất sâu. Chúng ta “đối pháp, chẳng đối người”. Nói ngược lại, người nào đó chẳng có bất cứ địa vị ǵ, cũng chẳng có tiền, thứ ǵ cũng đều chẳng có, nhưng nếu người ấy nói phù hợp nhân quả, chúng ta bèn coi người ấy là thiện tri thức, chúng ta tin tưởng. Những lời người ấy nói hoàn toàn nhất trí với kinh điển, chúng ta ta tán thành. Đấy là “thâm tín nhân quả”.

          “Bất báng Đại Thừa”, “báng” () là hủy báng (毀謗). Hủy báng là ǵ? Kinh điển Đại Thừa dạy chúng ta liễu sanh tử như thế nào, thành Phật như thế nào, đối với những đạo lư ấy, ắt phải tin sâu nhân quả th́ mới không hủy báng. V́ sao hủy báng? V́ chẳng thể tin tưởng đạo lư trong kinh điển Đại Thừa, lại c̣n hoài nghi đạo lư được nói trong kinh điển Đại Thừa; đấy gọi là “hủy báng Đại Thừa Phật pháp”. Đă tin sâu nhân quả, đối với đạo lư nhân quả, tin sâu, kiên định chẳng nghi ngờ. Đối với đạo lư đă nói trong kinh điển Đại Thừa cũng tin tưởng sâu xa, chẳng nghi ngờ, chẳng dám hủy báng Đại Thừa Phật pháp.

          “Dĩ thử công đức” (dùng công đức ấy): Do đă tin sâu nhân quả, không báng Đại Thừa, đấy là có công đức. Lại dùng công đức ấy để “hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc” (hồi hướng nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc), đem công đức ấy để hồi hướng. Công đức ấy không nhằm cầu các thứ phước báo trong thế gian (chớ nên mong các thứ đền đáp, đừng cầu hưởng phước), do công đức này mà hy vọng: Nguyện khi ta lâm chung, sẽ có thể sanh về thế giới Cực Lạc, tức là “Cực Lạc quốc”.

          V́ sao nhất định mong cầu sanh về thế giới Cực Lạc? V́ chúng ta muốn liễu sanh tử trong thế gian này, tức là giải quyết vấn đề sanh tử, muốn tiến thêm một bước thành Phật, hăy ngẫm xem: Trong một thời gian ngắn, chúng ta có thể làm được ư? Trong xă hội này, hằng ngày chúng ta có thể thấy: Chẳng phải là căi cọ tại quốc hội, th́ cũng thấy người ta chửi bới ngoài phố, nhiễu loạn trật tự. Trong xă hội, lại c̣n có chuyện con giết mẹ, vợ giết chồng, hoặc con ép chết cha, những chuyện ấy thường thấy trong báo chí. C̣n nữa, chẳng phải là tai nạn giao thông, th́ là tai nạn hàng không, các thứ tai nạn rất nhiều! Hiện thời, toàn cầu đều quan tâm đến vấn đề “xú khí tằng (tầng khí ozone) trong khí quyển bị phá hoại”, càng đáng sợ hơn! Trên địa cầu, người đông như vậy, “ngươi tranh, ta đoạt”, đến khi đó, ai nấy đều chẳng chạy thoát! Tầng khí ozone bị phá hoại, những quang tuyến tử ngoại (ultra violet ray) có hại chiếu tới thân thể con người, sẽ gây ra bệnh tật, chẳng có cách chữa trị. Lại nói đến chuyện mọi người trên thế gian đều cổ vũ chuyện cởi mở. Hết thảy đều phóng túng, khiến cho ai nấy tự bị nguy hiểm, đến khách sạn sử dụng các loại dụng cụ đều cảm thấy lo âu, khiếp hăi. V́ sao? Thoạt đầu, bệnh AIDS là bệnh truyền nhiễm do quan hệ t́nh dục chẳng chánh đáng, nay đă biến thành căn bệnh có thể lan truyền bằng rất nhiều cách, kẻ chẳng may bị hại cũng nhiều khôn xiết. Chỉ cần nghĩ tới chuyện này, chúng ta muốn liễu sanh tử, thành Phật trong thế gian này, khi nào th́ mới có thể làm được? Chẳng phải là Phật pháp không thể thành tựu! Pháp do đức Phật đă nói nhất định là có thể thành tựu, nhưng đối với hoàn cảnh trong hiện tại của chúng ta, sẽ chờ chẳng kịp! Chúng ta mong cầu giải quyết vấn đề trong lúc c̣n sống, trong hoàn cảnh kém ác như thế này, muốn có thể thành tựu đạo nghiệp, th́ phải thay đổi hoàn cảnh, đổi đến chỗ nào? Đổi sang thế giới Cực Lạc! Thế giới Cực Lạc tốt đẹp như thế nào? Trong các phần trước, đă nói về các điều tốt lành ấy. Chúng ta dụng công, căn cứ theo lời Phật dạy, một dạ thành khẩn mong cầu, tất nhiên là có thể đến nơi đó.

          Do vậy, dựa trên đạo lư này, chúng ta hồi hướng công đức, do hoàn cảnh [trong thế giới Sa Bà] chẳng thích hợp, ắt phải đến thế giới Cực Lạc. Tới thế giới Cực Lạc, sanh tử liền lập tức được giải quyết, mà cũng thành Phật rất nhanh chóng!

          Đoạn trên đây nói về nguyên nhân văng sanh thế giới Cực Lạc, cũng là nói: Cậy vào những điều kiện ǵ để có thể Thượng Phẩm Trung Sanh? Có thể hiểu Đệ Nhất Nghĩa, tin sâu nhân quả, chẳng báng Đại Thừa, tất cả các công đức đều hồi hướng. Đấy chính là một đại tiền đề để có thể văng sanh. Phần kinh văn dưới đây nói: Khi văng sanh, sẽ gặp duyên tốt đẹp, vừa có nhân, vừa có duyên! Chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc cũng phải cậy vào nhân duyên.

 

(Kinh) Hành thử hạnh giả, mạng dục chung thời, A Di Đà Phật, dữ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng, quyến thuộc vi nhiễu, tŕ tử kim đài, chí hành giả tiền, tán ngôn: “Pháp tử! Nhữ hành Đại Thừa, giải Đệ Nhất Nghĩa. Thị cố, ngă kim lai nghênh tiếp nhữ”. Dữ thiên Hóa Phật, nhất thời thọ thủ.

()行此行者,命欲終時,阿彌陀佛,與觀世音、大勢至,無量大眾,眷屬圍繞,持紫金臺,至行者前。讚言:法子,汝行大乘,解第一義,是故我今來迎接汝。與千化佛,一時授手。

          (Kinh: Người hành hạnh ấy, khi mạng chung, A Di Đà Phật, cùng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng, quyến thuộc vây quanh, cầm đài tử kim, tới trước hành giả, khen rằng: “Pháp tử! Con hành Đại Thừa, hiểu Đệ Nhất Nghĩa. Do vậy, ta nay đến đón tiếp con”, cùng với một ngàn vị Hóa Phật đồng thời x̣e tay).

 

          Đây là đoạn thứ hai, nói tới lúc văng sanh, sẽ có duyên thù thắng gặp gỡ Phật, Bồ Tát. “Hành thử hạnh giả” là người tu hành pháp ấy, “mạng dục chung thời”, khi thọ mạng sắp kết thúc. Kẻ b́nh phàm đến lúc lâm chung đáng sợ lắm, đúng là tay cuống, chân loạn, trong tâm kinh hoảng. Thông thường, nếu quư vị hỏi: Trong thế gian, những kẻ có tiền, có địa vị, có học vấn, chuyện ǵ cũng đều chẳng phải bận ḷng, muốn ǵ có nấy, thậm chí kẻ làm đại hoàng đế vào thời cổ, ông ta muốn ǵ mà chẳng có, nhưng đến khi lâm chung, bất luận quư vị là đại hoàng đế cũng thế, làm bất cứ chuyện ǵ cũng thế, lúc đó, trong ḷng kinh sợ, rốt cục sẽ phải đi về đâu? Sanh mạng ngay lập tức đi tong! Nhưng người tu hành, hành những hạnh này, đến lúc mạng chung, sẽ thấy cảm ứng. Lúc b́nh thường có công phu, khi ấy, A Di Đà Phật, tức đấng giáo chủ của Tây Phương Cực Lạc thế giới, “dữ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí”, [tức là] cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát (có ai không biết Quán Thế Âm Bồ Tát? Ngài có duyên phận hết sức sâu đậm với chúng ta), Đại Thế Chí Bồ Tát: Hai vị đại Bồ Tát này ở hai bên A Di Đà Phật, gọi chung là Tây Phương Tam Thánh. Ngoài A Di Đà Phật và hai vị đại Bồ Tát ra, c̣n có “vô lượng đại chúng, quyến thuộc vi nhiễu” (vô lượng đại chúng, quyến thuộc vây quanh). “Vô lượng” là chẳng biết rơ số. Đại chúng và quyến thuộc chẳng biết rơ số lượng vây quanh Ngài. “Quyến thuộc” ở đây chẳng phải là quyến thuộc theo kiểu gia đ́nh trong nhân gian chúng ta, mà là những học nhân theo học với các vị đại Bồ Tát th́ gọi là “quyến thuộc”.

          “Tŕ tử kim đài”: Trong tay cầm đài hoa sen bằng chất vàng có màu tía. Tây Phương Cực Lạc thế giới có ao sen bảy báu, trong mỗi ao sen đều có hoa sen. Phật, Bồ Tát hiện đến, tay cầm đài hoa sen bằng vàng có sắc tím. “Chí hành giả tiền” là đến trước mặt người tu hành. “Tán ngôn” là ca ngợi, tán thán rằng: “Pháp tử”. Phật là Pháp Vương. Chỉ cần thành Phật, sẽ đều gọi là Pháp Vương. Đức Phật giảng diệu pháp; do vậy, Phật được gọi là Pháp Vương. Nhưng học pháp th́ phải lập chí nguyện, phải hoằng dương Phật pháp, đó là hành vi của Bồ Tát. Hễ là Bồ Tát, sẽ đều là con của đấng Pháp Vương, cho nên gọi là Pháp Tử. Tu pháp môn này là Đại Thừa Phật pháp. Chẳng phải là Đại Thừa Phật pháp, sẽ chẳng thể văng sanh. Gọi là Đại Thừa Phật pháp th́ chính ḿnh mong thành Phật để liễu sanh tử, cũng mong giúp tất cả mọi người đều thành Phật, liễu sanh tử. Đó là đại pháp, Bồ Tát mới có thể làm như vậy. Hàng Tiểu Thừa chỉ quan tâm tới chính ḿnh, chẳng được rồi! V́ thế, người như vậy mới có thể gọi là Pháp Tử. A Di Đà Phật gọi người ấy là Pháp Tử, cách gọi này hết sức thân thiết. A Di Đà Phật bảo: “Nhữ hành Đại Thừa, giải Đệ Nhất Nghĩa”, [nghĩa là] con ơi! Con đă hành Đại Thừa, cũng liễu giải đạo lư Đệ Nhất Nghĩa. “Thị cố ngă kim lai nghênh tiếp nhữ”: Cho nên, ta nay đích thân đến đón tiếp con. Sau khi nói xong, “dữ thiên Hóa Phật, nhất thời thọ thủ”: A Di Đà Phật và một ngàn vị Phật do biến hóa ra, “nhất thời” là đồng thời, “thọ thủ” (授手) là vươn tay ra, tỏ ư hoan nghênh.

          Ở đây, hơi khác với Thượng Phẩm Thượng Sanh. Thượng Phẩm Thượng Sanh là cầm kim cang đài, Hóa Phật là vô số Hóa Phật. Ở đây là tử kim đài, một ngàn Hóa Phật, kém hơn loại trên đôi chút. Nguyên nhân thua kém đă được nói rơ trong đoạn trước. Dưới đây là nói về t́nh huống văng sanh.

 

          (Kinh) Hành giả tự kiến tọa tử kim đài, hiệp chưởng xoa thủ, tán thán chư Phật. Như nhất niệm khoảnh, tức sanh bỉ quốc thất bảo tŕ trung. Thử tử kim đài, như đại bảo hoa, kinh túc tắc khai.

        ()行者自見坐紫金臺,合掌叉手,讚歎諸佛。如一念頃,即生彼國七寶池中。此紫金臺,如大寶華,經宿則開。

(Kinh: Hành giả tự thấy ḿnh ngồi trên đài hoa tử kim, chắp tay trước ngực, tán thán chư Phật. Như trong một niệm, liền sanh về ao bảy báu trong cơi ấy. Đài tử kim ấy, như đóa hoa báu lớn, qua một đêm sẽ nở).

 

          Đoạn này nói về trạng huống khi văng sanh. “Hành giả tự kiến tọa tử kim đài”: Lúc ấy, người tu hành thấy chính ḿnh ngồi trên đài tử kim, đồng thời “hiệp chưởng xoa thủ” (chắp tay trước ngực), đó là lễ tiết trong nhà Phật, lại c̣n “tán thán chư Phật”, đối với chư Phật đều ca ngợi. “Như nhất niệm khoảnh” (Như trong khoảng một niệm), thời gian rất ngắn! Chúng ta khởi một niệm, [thời gian ấy] rất ngắn ngủi, tạm bợ. Ngay trong khoảnh khắc ngắn ngủi, tạm bợ ấy, “tức sanh bỉ quốc thất bảo tŕ trung”, ngay lập tức sanh vào ao sen bảy báu trong thế giới Cực Lạc. Chúng ta hăy ngẫm xem: Thông thường, chúng ta biết thế giới Cực Lạc cách chúng ta mười vạn ức cơi Phật, xa xôi ngần ấy! Có lẽ, kẻ b́nh phàm sẽ hỏi: “Xa như vậy, chúng ta đến đó bằng cách nào?” Những đạo lư đă nói trong phần trước rất trọng yếu. Nếu liễu giải lư Đệ Nhất Nghĩa, sẽ chẳng có vấn đề ǵ! Liễu giải Đệ Nhất Nghĩa, [sẽ biết] bản tánh của chúng ta bao trùm tất cả hư không pháp giới, hư không pháp giới đều ở trong bản tánh của chúng ta. Liễu giải đạo lư ấy, sẽ có thể lập tức sanh trong ao sen bảy báu. Chẳng liễu giải đạo lư ấy, sẽ rất khó lănh ngộ. V́ thế, hiểu lư là chuyện hết sức quan trọng!

          Sanh trong ao bảy báu, “thử tử kim đài, như đại bảo hoa”, đóa hoa báu lớn ấy to lớn khôn xiết! Một cánh của đóa hoa ấy đặt trong thế giới này sẽ chẳng thấy bờ mé! Đài tử kim ấy giống như một đóa hoa báu lớn. “Kinh túc tắc khai”: Qua một đêm bèn nở, toàn thể đóa hoa báu to ấy nở tung ra. Trước khi nở, hành giả ở trong hoa. Sau khi hoa nở, bèn thoát ra. Đây là chỗ khác với Thượng Phẩm Thượng Sanh. Thượng Phẩm Thượng Sanh th́ hoa sen chẳng hề khép lại, ngay sau khi vừa đến nơi, lập tức thấy Phật. Thượng Phẩm Trung Sanh là sau khi đến nơi, trước hết, hoa khép lại, nhưng thời gian [hoa khép lại] rất ngắn, qua một đêm bèn nở. Đó là chỗ hơi khác biệt!

          Người niệm Phật phát nguyện văng sanh phải chú ư: Thông thường, trước khi tham gia một cuộc điển lễ, hoặc trước khi lănh thưởng, đều phải tập dượt trước. Không tập dượt trước, đến lúc đó, chẳng biết làm như thế nào! Đối với đại sự sanh tử của chúng ta, tới lúc sắp văng sanh, trước hết, chính ḿnh phải chú trọng liễu giải toàn thể trạng huống. Sau khi đă liễu giải, hết thảy đều rất quen thuộc. Tới khi thọ mạng chấm dứt, sắp văng sanh, chính ḿnh đă sớm biết, thấy Phật, thấy đại Bồ Tát, thấy hoa sen to, đă sớm rất thân thuộc, hết sức tự nhiên. Những điều ấy đều phải là đă thường xem kinh th́ mới liễu giải sự thật. Đoạn dưới đây nói đến những lợi ích sau khi đă văng sanh.

 

        (Kinh) Hành giả thân tác tử ma kim sắc, túc hạ diệc hữu thất bảo liên hoa. Phật cập Bồ Tát, câu thời phóng quang, chiếu hành giả thân. Mục tức khai minh, nhân tiền túc tập, phổ văn chúng thanh, thuần thuyết thậm thâm Đệ Nhất Nghĩa Đế. Tức hạ kim đài, lễ Phật hiệp chưởng, tán thán Thế Tôn. Kinh ư thất nhật, ứng thời tức ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đắc bất thoái chuyển. Ứng thời tức năng phi hành biến chí thập phương, lịch sự chư Phật. Ư chư Phật sở, tu chư tam-muội, kinh nhất tiểu kiếp, đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện tiền thọ kư.

()行者身作紫磨金色,足下亦有七寶蓮華。佛及菩薩,俱時放光,照行者身。目即開明,因前宿習,普聞眾聲,純說甚深第一義諦。即下金臺,禮佛合掌,讚歎世尊。經於七日,應時即於阿耨多羅三藐三菩提,得不退轉。應時即能飛行遍至十方,歷事諸佛。於諸佛所,修諸三昧。經一小劫,得無生忍,現前受記。

(Kinh: Thân hành giả có màu như chất vàng tử kim đă được giồi mài, dưới chân cũng có hoa sen bảy báu. Phật và Bồ Tát, đồng thời phóng quang chiếu vào thân hành giả, mắt liền mở sáng. Do sự tu tập từ trước, sẽ nghe khắp các âm thanh, thuần nói về Đệ Nhất Nghĩa Đế rất sâu. Liền bước xuống đài vàng, lễ Phật, chắp tay, tán thán đức Thế Tôn. Trải qua bảy ngày, lập tức đắc Bất Thoái Chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ngay khi ấy, có thể phi hành đến khắp mười phương, lần lượt thừa sự chư Phật. Ở nơi chư Phật, tu các tam-muội. Trải qua một tiểu kiếp, đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện tiền thọ kư).

 

          “Hành giả thân tác tử ma kim sắc”: Người văng sanh khi hoa sen vừa nở, ra khỏi hoa, toàn thân đều có màu của chất vàng tía (tử kim) đă được giồi mài. “Túc hạ diệc hữu thất bảo liên hoa”: Giở chân lên, dưới chân sẽ có hoa sen bảy báu nâng đỡ. “Phật cập Bồ Tát, câu thời phóng quang, chiếu hành giả thân”: A Di Đà Phật cùng với hết thảy các vị đại Bồ Tát, đồng thời đều phóng đại quang minh chiếu sáng ngời thân người văng sanh. “Mục tức khai minh”: Người văng sanh vừa được quang minh chiếu đến, ngay lập tức, mắt bèn mở sáng. Mắt chúng ta cách một tầng giấy sẽ chẳng nh́n xuyên thấu. Hễ văng sanh thế giới Cực Lạc, vừa được quang minh của Phật, Bồ Tát chiếu tới, ngay lập tức sáng mắt. Sau khi được mở sáng, “nhân tiền túc tập”, [nghĩa là] do những điều đă học tập trước kia, “phổ văn chúng thanh”, hết thảy các âm thanh đều có thể nghe thấy, “thuần thuyết thậm thâm Đệ Nhất Nghĩa Đế” (thuần nói Đệ Nhất Nghĩa Đế rất sâu). Trước khi văng sanh, trong thế giới Sa Bà, người ấy cũng đă liễu giải Đệ Nhất Nghĩa Đế, lúc này, nghe hết thảy các âm thanh đều là nói Đệ Nhất Nghĩa Đế rất sâu, càng sâu hơn một tầng nữa, Đệ Nhất Nghĩa Đế ở một cấp độ cao hơn, người ấy đều được nghe.

          “Tức hạ kim đài”, sau khi người văng sanh nghe Đệ Nhất Nghĩa Đế, ngay lập tức, bước xuống đài sen kim sắc, từ đài liên hoa bước xuống, “lễ Phật hiệp chưởng”, lạy Phật, chắp tay. “Tán thán Thế Tôn” chính là tán thán A Di Đà Phật. “Kinh ư thất nhật”: Trải qua bảy ngày, “ứng thời tức ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đắc Bất Thoái Chuyển” (ngay khi đó, được Bất Thoái Chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā-samyak-saṃbodhi) là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “Chánh Đẳng, Chánh Giác chí cao, vô thượng”, tức là Phật. Nói đơn giản nhất, sẽ là “thành Phật”. Trải qua thời gian bảy ngày, sẽ đắc Bất Thoái Chuyển đối với chuyện thành Phật, sẽ chẳng có cơ hội bị thoái chuyển. Cũng có nghĩa là trải qua bảy ngày, đối với chuyện thành Phật, chỉ có tiến chứ không lùi.

          “Kinh ư thất nhật” (Trải qua bảy ngày), “bảy ngày” ở đây là nói tới bảy ngày trong thế gian này, hay là bảy ngày trong thế giới Cực Lạc? Thiện Đạo đại sư đặc biệt chỉ ra, “bảy ngày” ở đây là do Thích Ca Mâu Ni Phật nói theo thế gian của chúng ta (“bảy ngày” trong thế gian so với vô lượng thời gian trong thế giới Cực Lạc bất quá hết sức ngắn ngủi, tạm bợ, gần như trong một niệm vậy). Có thể suy ra: Sau khi văng sanh, đạt Bất Thoái Chuyển rất nhanh chóng.

Bất Thoái Chuyển là ǵ? Chúng ta nghiên cứu kinh A Di Đà đă biết: Có Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái và Niệm Bất Thoái, ba loại cảnh giới. Bất Thoái Chuyển bao gồm cả ba loại ấy. Tâm tâm niệm niệm đặt nơi Phật, hễ dấy niệm sẽ ḥa hợp cùng Phật. Nếu nói tường tận, dựa theo cách nói của tông Thiên Thai, phải tốn rất nhiều thời gian, chúng tôi sẽ chẳng nói chi tiết. Phải biết: Hễ đắc Bất Thoái Chuyển, bất luận loại Bất Thoái Chuyển nào cũng đều tuyệt diệu. Nói ngược lại, hễ tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ tuyệt đối chẳng bị thoái chuyển, thành Phật rất mau chóng.

“Ứng thời tức năng phi hành biến chí thập phương, lịch sự chư Phật” (Ngay khi đó, liền có thể bay đến trọn khắp mười phương, lần lượt phụng sự chư Phật), khi ấy bèn có thể phi hành, chẳng có Thần Túc Thông sẽ chẳng được! Có Thần Túc Thông th́ mới có thể phi hành tự tại. Trong thế gian này, bậc La Hán cũng có thể phi hành, nhưng La Hán phi hành có chừng hạn, c̣n phi hành ở đây là đến trọn khắp mười phương, trong thời gian rất ngắn có thể đến chỗ của chư Phật trong mười phương thế giới. “Lịch sự chư Phật”, nghĩa là lần lượt tới viếng từng vị, hướng về chư Phật thỉnh pháp. “Ư chư Phật sở, tu chư tam-muội”: Ở chỗ chư Phật trong mười phương thế giới, tu học các thứ Phật pháp, tu tam-muội, tức là tu đại định.

          Ở đây có thể biết, có thể phi hành đến chỗ của mười phương thế giới chư Phật, tu các tam-muội ở đó. V́ sao có thể làm như vậy? V́ sau bảy ngày, sẽ đắc Bất Thoái Chuyển. Nếu nói theo địa vị Biệt Giáo trong Thiên Thai Tông, Bất Thoái Chuyển là đă đạt tới địa vị Thập Hồi Hướng. Thập Hồi Hướng tuy c̣n thuộc địa vị Tam Hiền, nhưng hễ đạt tới địa vị Tam Hiền, tu măn Thập Hồi Hướng sẽ đăng địa (chứng Sơ Địa), thuộc vào địa vị ấy, có thể suy ra mà biết! Vốn là vẫn chưa chứng quả, sau khi văng sanh, ngay lập tức đạt tới địa vị bất thoái Bồ Đề, có thể đạt tới địa vị ấy. Ở chỗ chư Phật tu tam-muội, “Kinh nhất tiểu kiếp, đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện tiền thọ kư”: Trải qua thời gian một tiểu kiếp, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, tâm có thể an trụ trong Vô Sanh Pháp Nhẫn, trọn chẳng có nhân tố nào có thể dao động cái tâm đă an ổn của người ấy.

          Nay chúng ta thường nói tới “tu đạo”, nhưng chẳng cảm thấy ǵ. Hễ khi có chuyện, khảo nghiệm chính ḿnh, sẽ biết đă đạt tới tŕnh độ nào. Ngay trong khi đang niệm Nam-mô A Di Đà Phật, một viên kim cương to rơi trước mắt, tối thiểu quư vị cũng nh́n xem nó là thứ ǵ, chẳng được rồi! Kim cương cũng là pháp sanh diệt. Hoặc là nói b́nh thường tu hành, chuyện ǵ cũng chẳng màng, dẫu sao đó là pháp sanh diệt, nhưng người ta muốn quư vị làm Bộ Trưởng, trong tâm quư vị liền dao động, đi làm Bộ Trưởng ngay. Bất cứ lúc nào chúng ta gặp pháp sanh diệt, chính ḿnh sẽ chẳng thể khống chế. Muốn an trụ trong pháp Vô Sanh, há dễ dàng ư? Chúng ta phải liễu giải tŕnh độ của chính ḿnh, bất cứ lúc nào cũng ép chính ḿnh phải làm như thế. Bất luận cảnh giới nào, thuận cảnh hay nghịch cảnh cũng thế, đều phải gắng sức huấn luyện sao cho tâm lư của chính ḿnh bất động, mà cũng dần dần có thể học Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nếu gặp những thuận cảnh hay nghịch cảnh nhỏ nhặt mà đă rất dễ bị ảnh hưởng, sẽ rất khó đạt đến cảnh giới Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trải qua một tiểu kiếp, sẽ đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Hễ đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, ngay trong hiện tại, đức Phật thọ kư cho quư vị, kể cả chuyện trong tương lai sẽ thành Phật như thế nào v.v... đều nói rành rẽ, rơ ràng!

 

          (Kinh) Thị danh Thượng Phẩm Trung Sanh giả.

        ()是名上品中生者。

(Kinh: Đấy gọi là Thượng Phẩm Trung Sanh).

 

Nhân và duyên văng sanh trên đây, cùng với [t́nh huống] khi văng sanh và những lợi ích sẽ đạt được khi văng sanh, đă nói rơ từng điều. Có thành tựu như vậy bèn gọi là Thượng Phẩm Trung Sanh.

          Trong đạo tràng, các vị đă học kinh A Di Đà, lại nghe bộ kinh này, đều là kinh điển Đại Thừa, đă nghe Đệ Nhất Nghĩa Đế, lại c̣n là pháp đặc biệt, tuyệt diệu thay! Chiếu theo như vậy để tu, lại c̣n tin sâu nhân quả, trong tương lai, Thượng Phẩm Trung Sanh há c̣n có vấn đề ư? Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng, tu theo đúng như vậy, nhất định là chẳng có vấn đề ǵ! Hôm nay tôi nói đến chỗ này!

 

Tập 42

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn trang hai mươi bốn, hàng cuối cùng, bắt đầu từ ba chữ cuối. Tôi đọc trước kinh văn một lượt:

 

(Kinh) Thượng Phẩm Hạ Sanh giả, diệc tín nhân quả, bất báng Đại Thừa, đản phát vô thượng đạo tâm, dĩ thử công đức, hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc.

()上品下生者,亦信因果,不謗大乘。但發無上道心,以此功德,迴向願求生極樂國。

(Kinh: Người Thượng Phẩm Hạ Sanh cũng tin nhân quả, chẳng báng Đại Thừa, chỉ phát vô thượng đạo tâm. Dùng công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh về nước Cực Lạc).

 

          Đoạn này vẫn thuộc phép Quán thứ mười bốn, nói về nguyên nhân văng sanh trong Thượng Phẩm và lợi ích sau khi văng sanh. Thượng Phẩm trong phép Quán này có Thượng Sanh, Trung Sanh, và Hạ Sanh. Trong phần trước, Thượng Phẩm Thượng Sanh và Thượng Phẩm Trung Sanh đều đă nói rồi; hôm nay, tôi bắt đầu nói về Thượng Phẩm Hạ Sanh.

          “Thượng Phẩm Hạ Sanh giả”: Trước hết, nêu ra phẩm vị văng sanh. Tiếp đó, “diệc tín nhân quả, bất báng Đại Thừa” (cũng tin nhân quả, chẳng báng Đại Thừa). Đối với Thượng Phẩm Thượng Sanh, phàm là muốn nguyện sanh về cơi ấy (Cực Lạc), phải phát ba loại tâm, [tức là] chí thành tâm, thâm tâm, và hồi hướng phát nguyện tâm, ắt cần phải có những điều kiện ấy. Lại c̣n có ba loại chúng sanh:

1) Từ tâm chẳng giết, đầy đủ các giới hạnh.

2) Đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng.

3) Tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện.

Đó là những điều kiện cần phải trọn đủ của Thượng Phẩm Thượng Sanh. Khi đă đạt tới Thượng Phẩm Trung Sanh, chẳng cần thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Phương Đẳng. [Dẫu] chẳng cần thọ tŕ, nhưng ắt phải khéo hiểu nghĩa thú, đối với Đệ Nhất Nghĩa, tâm chẳng kinh động. Thượng Phẩm Trung Sanh đặc biệt là phải khéo hiểu nghĩa thú. Đối với Đệ Nhất Nghĩa Đế, c̣n phải hoàn toàn có thể liễu giải. Đệ Nhất Nghĩa Đế đă được nói rồi, rất thâm áo. Sau khi đă đối chiếu với hai phẩm trước, hăy xem tới Thượng Phẩm Hạ Sanh.

          “Diệc tín nhân quả, bất báng Đại Thừa”: Người Thượng Phẩm Hạ Sanh đối với nhân quả “diệc tín” (cũng tin). Chữ “diệc” (cũng) này bao gồm rất nhiều ư nghĩa. Trong những phần trước, đều nói là “tin sâu nhân quả”. Đối với đạo lư nhân quả, phải tuyệt đối tin tưởng sâu xa. “Diệc tín nhân quả” là không nhất định, có khi là tin sâu nhân quả, có khi là mức độ tin tưởng khá cạn. Ḷng tin có gián đoạn, tin rồi lại lui sụt, lui sụt rồi lại tin. Thêm vào chữ “diệc”, [tức là] cũng tin nhân quả. Từ ư nghĩa này, có thể thấu hiểu: Ngữ khí “tin tưởng nhân quả” chẳng khẳng định như “tin sâu nhân quả” trong phần trước. Chúng ta phải hiểu rơ điều này. “Bất báng Đại Thừa”: Ở đây, cũng chẳng hề nói phải thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Phương Đẳng, nhưng ắt cần phải “chẳng hủy báng pháp Đại Thừa”. Đối với pháp Đại Thừa do đức Phật đă giảng, nếu hủy báng th́ chẳng được rồi! Điều này đặc biệt quan trọng. So sánh hai câu này với phần trước, kém hơn phần trước, nhưng trong phần tiếp đó, [kinh văn chép] “đản phát vô thượng đạo tâm” (chỉ phát vô thượng đạo tâm). Người học Thượng Phẩm Hạ Sanh, người phát Bồ Đề tâm phải phát vô thượng đạo tâm. Nói cách khác, “vô thượng đạo tâm” trong phẩm này là đặc biệt. Người thuộc Thượng Phẩm Trung Sanh trong phần trước khéo hiểu nghĩa thú, đối với Đệ Nhất Nghĩa Đế, tâm chẳng kinh động. Phải đặc biệt chú ư điều này. Thượng Phẩm Hạ Sanh đặc biệt chú trọng “phát vô thượng đạo tâm”.

          V́ sao “diệc tín nhân quả” chẳng bằng “thâm tín nhân quả” trong phần trước? Học Phật th́ phải tin nhân quả. V́ sao tin nhân quả quan trọng? Lấy ngay chuyện khổ lạc trong thế gian để nói, hiện thời chịu khổ quả, tất nhiên là vốn có cái nhân. Chẳng có nhân, há có quả? Do hành vi trong hiện thời, trong tương lai, tất nhiên cũng kết quả, ắt phải tin tưởng điều này! Thật sự tin sâu nhân quả khổ lạc thế gian, chúng ta làm bất cứ việc ǵ cũng chẳng dám tùy tiện, rất sợ phải gánh chịu trách nhiệm nhân quả. Như vậy th́ tuyệt đối chẳng chịu mà cũng chẳng dám tạo những hành vi tội ác. Những kẻ b́nh phàm trong xă hội dám tạo những tội nghiệp giết, trộm, dâm v.v... là do nguyên nhân nào? Nói theo Phật pháp, chính là do chẳng tin nhân quả, chẳng hiểu rơ nhân quả. So với bất cứ loại học vấn nào trong thế gian, học vấn nhân quả luôn cao minh hơn. Thật sự hiểu rơ nhân, duyên, quả, tự nhiên sẽ thông đạt: Đời trước của một người là ǵ? Hiện thời là ǵ? Tương lai sẽ lại như thế nào? Tất nhiên sẽ liễu giải. Nếu liễu giải rành rẽ, rơ ràng, khi ấy, hành vi của chính ḿnh c̣n dám tùy tiện ư? Chửi người khác cũng thế, mà tranh danh đoạt lợi cũng thế, tuyệt đối chẳng dám! Đấy là nói theo nhân quả khổ lạc trong thế gian.

          Đối với nhân quả khổ lạc trong thế gian, khổ nhất là nỗi khổ sanh tử to lớn. Bất cứ kẻ nào chẳng học Phật cũng đều không liễu giải. Đọc trọn hết sách vở thế gian, [đọc trọn khắp] hết thảy các học thuyết khoa học và triết học, nhưng nếu chẳng hiểu Phật pháp, vẫn chẳng liễu giải nỗi khổ sanh tử! Liễu giải nỗi khổ sanh tử tức là phải liễu giải nhân quả ba đời. Một người bất luận trong đời này có địa vị cao cỡ nào đi nữa, các phương diện đều tốt đẹp, nhưng trong nháy mắt, sanh mạng đă kết thúc, sẽ đến nơi đâu? Mờ mịt vô tri! Nếu hiểu Phật pháp, sẽ biết chuyện này quá nghiêm trọng, vấn đề sanh tử quá to tát! Biết vấn đề sanh tử, đối với ư niệm của chính ḿnh trong hiện thời: Ư niệm của chúng ta thường là qua lại với kẻ khác, hoặc làm bất cứ chuyện ǵ, mắt thấy các loại màu sắc, tai nghe các thứ âm thanh, tiếp xúc với hoàn cảnh bên ngoài, kẻ b́nh phàm hễ gặp thứ tốt đẹp sẽ tham luyến, chấp trước, tham cầu. Gặp thứ chẳng tốt đẹp, bèn ghét bỏ, bài trừ! Người hiểu nỗi khổ sanh tử, bất luận thấy bất cứ tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê đều khiến cho người ta có ḷng tham. Hễ thấy những thứ tốt đẹp, trong tâm tự nhắc nhở chính ḿnh: Thời thời khắc khắc có nhân quả của “nỗi khổ sanh tử” (đại khổ) bày ra trong tâm, ngay lập tức, ư niệm chuyển biến. Hễ ư niệm vừa chuyển biến, tài sản dẫu nhiều đến mấy, dẫu quyền lực, danh vị v.v... nhiều đến mấy đi nữa đều chẳng dám tham cầu, biết: Hễ tham cầu, sẽ đọa lạc; không chỉ là chẳng thể giải quyết vấn đề sanh tử, mà c̣n nhất định tranh đoạt với người khác, ắt cần phải đánh bại kẻ khác, chính ḿnh mới có thể đạt được [danh vọng, quyền lực, tài sản v.v...], đó là tạo nghiệp! Giống như Thái Lan hiện thời phát sanh bạo loạn, là do nguyên nhân ǵ? Vẫn chẳng phải là do mấy người đang nắm quyền tranh quyền đoạt lợi với nhau, lợi dụng bọn thường dân tạo thành cục diện [rối ren], há có lẽ nào chẳng dẫn đến kết quả chết người ư? Đă chết không ít người rồi! V́ mở rộng quyền lợi của chính ḿnh mà sách động quần chúng nhiều ngần ấy cùng tạo nghiệp với họ! Không chỉ là Thái Lan có t́nh h́nh giống như vậy, trên thế giới có khá nhiều quốc gia giống như vậy. Từ xưa tới nay, đều là t́nh h́nh như vậy. Nếu liễu giải nỗi khổ sanh tử, họ có dám hay không? Dẫu giành được địa vị to lớn, tốt đẹp, dẫu giữ chức vị ấy suốt cả một đời, lại sẽ như thế nào? Sau khi đă chết, chẳng thể nào không đọa lạc! Dùng loại thủ đoạn ấy hại chết bao nhiêu người rồi! Khi lại chuyển thế, chẳng vào tam đồ, sẽ tới nơi đâu? V́ thế, nếu người học Phật đă hiểu nỗi khổ sanh tử, có dám tạo nghiệp hay chăng? Tuyệt đối chẳng dám tạo nghiệp! Tin sâu nỗi khổ sanh tử, đặc biệt quan trọng!

          Ngoài việc liễu giải nhân quả về sự khổ vui trong thế giới Sa Bà ra, c̣n phải liễu giải văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là Quả, cái quả do sanh về thế giới Cực Lạc tuyệt vời thay! Kinh Tiểu A Di Đà đă nói: “Kỳ quốc chúng sanh, vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc” (Chúng sanh trong cơi ấy, chẳng có các sự khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên gọi là Cực Lạc). Như thế nào th́ sẽ đạt được quả Cực Lạc? Đương nhiên là phải có nhân, phải tu nhân. Nếu hiểu rơ nhân quả Tịnh Độ, dẫu thế nào đi nữa, chúng ta chẳng bị thoái chuyển. Bất luận như thế nào, trong một đời này, chúng ta ắt phải thành tựu tịnh nghiệp văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Tín nhân quả” bao gồm hai loại lớn:

1) Tin tưởng nhân quả của “khổ, lạc, sanh, tử” trong thế giới này.

2) Tin tưởng nhân quả của chuyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới .

          “Bất báng Đại Thừa”: Đức Phật giảng kinh điển Đại Thừa. Nay chúng ta đang nghiên cứu Quán Kinh chính là kinh điển Đại Thừa. Ba kinh Tịnh Độ đều là kinh điển Đại Thừa. V́ sao hủy báng? Hủy báng là do đối với kinh có chỗ hoài nghi, có chỗ chẳng thể tin tưởng, cho nên mới hủy báng. Từ điều này, chúng ta có thể nghĩ đến người hiện thời thường đứng trên lập trường học thuật để phê b́nh: “Bộ kinh này có đáng tin cậy hay không? Đạo lư được giảng trong bộ kinh kia có đúng hay không?” Dùng tác phong phê phán để phê b́nh kinh điển. Học thuyết thế gian thường là phê phán: “Học thuyết này hay, hoặc học thuyết kia không hay, đáng nên hoài nghi!” Nhưng đối với Phật pháp, nhất là đối với kinh điển Đại Thừa, ngàn muôn phần chớ nên như vậy! Nếu chúng ta mong liễu sanh tử, mong thành Phật, chớ nên học theo những học thuyết b́nh phàm trong thế gian, hoặc [bắt chước tác phong hoài nghi, phê phán của] hàng học giả trong thế gian! Học giả thế gian ngay cả sanh tử cũng chẳng liễu giải, họ làm sao biết được? “Bất báng Đại Thừa” là chớ nên tùy tiện hoài nghi Đại Thừa. Chúng ta nghiên cứu kinh, đương nhiên là kinh văn rất thâm áo, trong ấy, bao hàm rất nhiều ư nghĩa, chúng ta chẳng thể vừa xem liền lập tức hiểu ngay. Xem không hiểu, chẳng sao cả! Xem không hiểu th́ bản thân chúng ta nghiên cứu từ từ. Hơn nữa, ư nghĩa trong Phật pháp cũng hoàn toàn chẳng phải là do thuần túy nghiên cứu mà có thể nghiên cứu sáng tỏ được! Khi nghiên cứu chẳng sáng tỏ, chẳng thể vượt qua nỗi mắc mướu, chính ḿnh phải dốc công phu, vận dụng công phu, có định lực kha khá, có công phu tu tŕ kha khá, rồi lại nghiên cứu nghĩa lư, sẽ vượt qua được mắc mướu ấy. Nếu chẳng biết đổ công dốc sức bằng sự tu tŕ của chính ḿnh, bằng sự vận dụng công phu, hoàn toàn chẳng nói đến chuyện dụng công, chỉ nghiên cứu đạo lư suông, sẽ giống như những học giả b́nh phàm, sẽ nghiên cứu chẳng ra, chẳng thể nghiên cứu đạo lư rất sâu!

          Vào đời Minh, Hám Sơn đại sư, khi chú giải một bộ luận của cổ nhân, chú giải không được, đối với đạo lư có nghi vấn, thế nhưng Ngài chẳng hủy báng, mà bèn nhập Định. Khi ở trong Định, đă chuyển cảnh giới, trong Định bèn suy nghiệm đạo lư do cổ nhân đă nói, hoàn toàn thấu hiểu! Chúng ta trau giồi học vấn, nhất là nghiên cứu kinh Phật, đương nhiên là phải xem xét, phải nghiên cứu. Khi nghiên cứu đến chỗ sâu xa nhất, chẳng thể chuyển được, chính ḿnh phải hạ công phu, vận dụng công phu tu tŕ th́ ư nghĩa mới sáng tỏ. Ngàn muôn phần đừng giống như những kẻ thuộc giới học thuật trong hiện thời: Hễ gặp phần nào không hiểu, bèn hoài nghi kinh văn chẳng đúng, sửa đổi kinh văn! Làm như vậy chính là tạo tội nghiệp to lớn!

          “Đản phát vô thượng đạo tâm”, tức là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, phát tâm thành Phật. Chúng ta hành Bồ Tát đạo theo cách nào? Nếu các vị xem kinh điển Đại Thừa nhiều, sẽ liễu giải cách hành Bồ Tát pháp như thế nào? Nếu không, v́ sao trước đó phải thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng? Ắt phải hiểu kinh điển, chính ḿnh đă hiểu rơ, lại bảo cho người khác biết, đó là hành vi của Bồ Tát. “Cầu pháp Bồ Tát” là cầu ǵ? Thượng cầu hạ hóa: Nói theo phía trên là cầu Phật, cầu đại pháp thành Phật, trên là cầu Phật đạo (đạo để thành Phật). Nói xuống dưới là đối với kẻ b́nh phàm bèn hạ hóa chúng sanh, tức là giáo hóa các chúng sanh b́nh phàm. Khi thượng cầu Phật đạo, chính ḿnh chẳng hiểu lư, Phật đạo sâu dường ấy, rộng răi ngần ấy. Hóa độ chúng sanh, chúng sanh trong thế gian có quá nhiều phẩm loại. Mỗi thứ học thuyết trong thế gian đều có người học. Người chẳng học hành, xét theo tâm lư của họ, ai nấy đều có tâm lư riêng, quá ư là nhiều. Quư vị muốn hóa độ họ, mà chẳng hiểu tâm lư của họ, chẳng biết họ hiểu biết những ǵ, giáo hóa họ bằng cách nào? V́ thế, hành Bồ Tát đạo, thượng cầu hạ hóa rất khó! “Phát vô thượng đạo tâm” là phát cái tâm mong thành Phật, cầu Phật đạo, mong hóa độ chúng sanh.

          Tổ sư dạy rơ ràng: Nếu công phu của chúng ta chẳng đủ, học vấn hiểu biết chẳng đủ, hăy làm như thế nào? Tổ sư bảo “phát tâm”. Nói “phát tâm” th́ đây là một pháp môn đặc biệt, chẳng phải là pháp môn thông thường. Đối với pháp môn thông thường, quư vị phát vô thượng đạo tâm, sẽ chiếu theo đó để làm: Trên là cầu thâm nhập kinh tạng, nghiên cứu kinh Phật; dưới là hóa độ chúng sanh, ắt phải đem Phật pháp nói với những kẻ b́nh phàm. Chẳng làm như vậy, sẽ chẳng chẳng phù hợp Bồ Tát đạo, vậy th́ liễu sanh tử hoặc thành Phật sẽ khó khăn. Nhưng pháp môn Tịnh Độ rất đặc biệt, quư vị phát vô thượng đạo tâm, nay chưa làm được, thậm chí đối với những chữ trong kinh văn ta đều chẳng nhận biết, chẳng sao cả! Chỉ cần nhất tâm bằng ḷng cầu văng sanh. Sau khi đă sanh về thế giới Cực Lạc, hết thảy trí huệ đều đầy đủ, đều thành tựu, ngay lập tức trở vào Sa Bà. Tuy hoàn cảnh trong thế giới Cực Lạc tốt đẹp ngần ấy, nhưng chẳng vĩnh viễn hưởng thụ trong đó. Nay tuy c̣n chưa đi (chưa văng sanh), trong tâm chúng ta nghĩ tưởng: “Ta sang bên đó nhằm thành tựu đạo nghiệp của chính ḿnh”. Chính ḿnh thành tựu trọn đủ các thứ năng lực trí huệ, bèn ngay lập tức trở về thế giới Sa Bà ḥng hóa độ chúng sanh. Phát ra cái nguyện ấy th́ cũng là phát vô thượng đạo tâm. Bất luận kẻ nào cũng đều có thể làm được chuyện này, đều có thể trở thành Đại Thừa Bồ Tát. Đấy là tổ sư đặc biệt nói rơ pháp đặc biệt để phát vô thượng đạo tâm. Trước khi chúng ta có năng lực để văng sanh, đương nhiên là phải thượng cầu hạ hóa, chẳng có đầy đủ năng lực ấy mà vẫn có thể [phát vô thượng đạo tâm].

          “Dĩ thử công đức, hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc” (Dùng công đức này, hồi hướng nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc). Đem những công đức trên đây, [tức là] tin tưởng nhân quả, chẳng báng Đại Thừa, đặc biệt là công đức phát vô thượng đạo tâm, dùng những công đức ấy để hồi hướng, phát nguyện cầu văng sanh thế giới Cực Lạc. Những điều trên đây đă chỉ rơ điều kiện và nguyên nhân của Thượng Phẩm Hạ Sanh. “Hồi hướng” th́ phải biết dụng công, hồi hướng là như thế nào? Hoàn toàn chẳng phải là hồi hướng trong công khóa sáng tối mà thôi, chẳng phải là hồi hướng trong khi tụng niệm công khóa. Thông thường, làm bất cứ thiện sự nào, sẽ đều là công đức, đều phải hồi hướng, thành tựu trong tương lai là có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng đều hồi hướng. Hơn nữa, trong tâm phát khởi vô thượng đạo tâm. Nếu có năng lực, lúc nào, chỗ nào cũng đều có tâm làm như vậy. Nếu chẳng có năng lực, lúc nào cũng giữ tấm ḷng “thừa nguyện tái lai”. Hễ làm công đức nào, cũng đều là vừa mong cầu văng sanh thế giới Cực Lạc, đồng thời cũng bằng ḷng “nương theo nguyện để quay trở lại”. Đấy là hồi hướng nguyện cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Thời thời khắc khắc hồi hướng nơi đó, thời thời khắc khắc nguyện cầu.

          Đoạn kinh văn tiếp theo có kết cấu và sắp xếp giống như trong đoạn trên, nói rơ các thứ duyên thù thắng khi văng sanh như sẽ gặp gỡ, thấy Phật, Bồ Tát v.v… . Đoạn trước là nói về nhân, đoạn này nói về duyên.

 

        (Kinh) Hành giả mạng dục chung thời, A Di Đà Phật, cập Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, dữ chư Bồ Tát, tŕ kim liên hoa, hóa tác ngũ bách Phật, lai nghênh thử nhân. Ngũ bách Hóa Phật, nhất thời thọ thủ, tán ngôn: “Pháp tử! Nhữ kim thanh tịnh, phát vô thượng đạo tâm, ngă lai nghênh nhữ”.

()行者命欲終時,阿彌陀佛,及觀世音、大勢至,與諸菩薩,持金蓮華,化作五百佛,來迎此人。五百化佛,一時授手。讚言:法子,汝今清淨,發無上道心,我來迎汝。

(Kinh: Khi hành giả sắp mạng chung, A Di Đà Phật và Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, cùng với các vị Bồ Tát, cầm hoa sen vàng, hóa thành năm trăm vị Phật đến đón người ấy. Năm trăm vị Hóa Phật cùng lúc x̣e tay, khen rằng: “Pháp tử! Con nay thanh tịnh, phát vô thượng đạo tâm, ta đến đón con”).

 

          “Hành giả” (行者) là nói tới người tu hành, tin tưởng nhân quả, phát vô thượng đạo tâm trong phần trên. “Mạng dục chung thời”: Khi thọ mạng sắp chấm dứt, Tây Phương Tam Thánh, tức A Di Đà Phật dẫn hai vị đại Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí (ở hai bên đức Phật), c̣n có “dữ chư Bồ Tát”, [nghĩa là] c̣n rất nhiều vị Bồ Tát khác. “Tŕ kim liên hoa”: Tay cầm hoa sen kim sắc. Trong phần trên là đài tử kim, hoa sen bảy báu, có chỗ khác biệt. “Hóa tác ngũ bách Phật”: Ngoài ra lại c̣n hóa ra năm trăm vị Phật, “lai nghênh thử nhân” (tới đón người ấy), đến đón tiếp hành giả. “Ngũ bách Hóa Phật, nhất thời thọ thủ”: Năm trăm vị Hóa Phật đồng thời duỗi tay nghênh tiếp người ấy. Khi Thượng Phẩm Trung Sanh, sẽ có một ngàn vị Hóa Phật, Thượng Phẩm Thượng Sanh là vô số Hóa Phật, con số khác nhau. Hoa sen th́ sao? Thượng Phẩm Thượng Sanh là đài kim cang, Thượng Phẩm Trung Sanh là đài tử kim, ở đây là đài sen vàng, phải phân biệt rơ ràng chuyện này! V́ sao có sự bất đồng? Do cái nhân bất đồng, cho nên duyên cũng bất đồng!          

Khi năm trăm vị Hóa Phật đồng thời duỗi tay, kể cả A Di Đà Phật, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát v.v... [đều làm như thế], “tán ngôn”: Khen ngợi. “Pháp tử”: Phàm là những vị Bồ Tát hành pháp Đại Thừa đều gọi là Pháp Tử. “Nhữ kim thanh tịnh”, ư nói khi hành giả sắp mạng chung, đă thanh tịnh. “Thanh tịnh” là ǵ? Hiện thời, kẻ chẳng học Phật trong thế gian, ngay cả kẻ ăn mày cũng thế, mà kẻ làm Đại Tổng Thống cũng thế, những bậc đại học giả được trao giải Nặc Bối Nhĩ (Nobel) cũng thế, thường cảm thấy chính ḿnh vẫn là khá lắm. Hễ tới khi thọ mạng chấm dứt, kẻ địa vị càng cao, học vấn càng nhiều, càng đau khổ! Kẻ ăn mày cảm thấy chẳng sao cả! Dẫu sao, làm ăn mày rất khổ sở, chết th́ chết, trong tâm chẳng có ǵ đau khổ! Nhưng kẻ làm đại tổng thống, hoặc làm đại hoàng đế vào thời cổ, hoặc những bậc đại học vấn trong hiện thời, thường ngày cao cao tại thượng, ai cũng chẳng thể sánh bằng họ, đối diện cái chết, trong tâm hoảng sợ, so với bất cứ ai cũng đều đau khổ hơn, trọn chẳng thanh tịnh! Trong tâm đau khổ, bàng hoàng vô chủ, không biết làm như thế nào! Trong tâm có thanh tịnh hay không? Đấy đều là do đủ mọi thiện nghiệp và ác nghiệp đă tạo từ vô thỉ tới nay cùng lúc phát ra ngoài, nội tâm hỗn loạn khôn cùng, tuyệt đối chẳng thanh tịnh!

          Nhưng “hành giả” b́nh thường tu hành, đến khi thọ mạng chấm dứt, đến thế giới Sa Bà giống như đi xa, du lịch, ngắm cảnh, nay sắp trở về thế giới Cực Lạc, giống như đến chỗ nào đó ngắm cảnh xong, sẽ chuẩn bị trở về nhà, trong tâm hết sức vui sướng. Do cái tâm ấy, hết thảy chuyện lo buồn, khổ năo, hoặc vui sướng trong thế gian thảy đều buông xuống, nhất tâm bất loạn chuẩn bị văng sanh thế giới Cực Lạc. Các thứ phiền năo đều hóa thành chẳng c̣n nữa. Đó là “thanh tịnh”. Nếu không, làm sao nói đến “thanh tịnh” cho được? Khi ấy, đức Phật và các vị đại Bồ Tát, c̣n có Hóa Phật, đồng thời x̣e tay tán thán người ấy: “Nhữ kim thanh tịnh”, quư vị đă thanh tịnh.

          V́ sao thanh tịnh? Thanh tịnh trong khi ấy chính là một hiện tượng tốt lành, tức là thụy tướng văng sanh. Thụy tướng ấy do đâu mà có? V́ “phát vô thượng đạo tâm”. Thông thường, đă phát vô thượng đạo tâm, bao gồm tin tưởng sâu xa thế giới Cực Lạc, tin sâu pháp môn Tịnh Độ, tin sâu sanh tử là nỗi khổ to lớn trong thế gian. V́ vậy, mong liễu sanh tử, mong mỏi sanh về thế giới Cực Lạc. Đồng thời, cũng chẳng phải là Tiểu Thừa, mà là Đại Thừa. Chính ḿnh tin tưởng, phát nguyện, tu hành, cũng khuyên người khác tin tưởng, phát nguyện, tu tŕ. Đấy là “phát vô thượng đạo tâm”. B́nh thường đă phát vô thượng đạo tâm, măi cho đến khi thọ mạng chấm dứt, do vậy, tâm của quư vị thanh tịnh. Do mối quan hệ này, “ngă lai nghênh nhữ” (ta đến đón ngươi): Tâm thanh tịnh, Phật đến đón quư vị, quư vị mới trông thấy. Tâm chẳng thanh tịnh, Phật, Bồ Tát có đến, quư vị cũng không thấy, bị chướng ngại. Bị ai chướng ngại? Bị loạn tâm của chính ḿnh chướng ngại. V́ thế, đối với tầng ư nghĩa này, chúng ta phải đặc biệt chú trọng, chú ư.

          B́nh thường, thời thời khắc khắc tưởng, niệm niệm đều tưởng, ư niệm ấy dấy lên có ảnh hưởng tới lúc ta văng sanh trong tương lai hay không? Có khiến cho chúng ta loạn tâm, phiền năo hay không? Phàm những ǵ đủ để ảnh hưởng, gây chướng ngại cho sự văng sanh của chúng ta trong tương lai, khiến cho tâm chúng ta không thanh tịnh, hăy ngay lập tức tiêu trừ ư niệm ấy. Đó là niệm Phật. Tŕ danh niệm Phật, một câu danh hiệu bao hàm quá nhiều ư nghĩa. Ắt đều phải liễu giải những ư nghĩa ấy. Sau đó, dấy lên một câu A Di Đà Phật. Một câu A Di Đà Phật là pháp môn tổng tŕ, tổng tŕ những ǵ? Bao hàm tất cả đạo lư của Phật pháp trong ấy. Niệm một câu Phật hiệu, tâm pháp là tất cả ư nghĩa đều được bao hàm trong ấy. Niệm một câu Phật hiệu có sức mạnh to lớn chẳng thể nghĩ bàn! B́nh thường niệm như vậy, luyện tập như vậy, tới khi thọ mạng chấm dứt, tâm lư thanh tịnh, chỉ có nhất tâm bất loạn tŕ câu Phật hiệu th́ mới có thể cảm ứng Phật và Bồ Tát đến đón tiếp.

          Đoạn kinh văn dưới đây nói đến sự văng sanh, có nhân, có duyên, sẽ đạt được kết quả văng sanh.

 

          (Kinh) Kiến thử sự thời, tức tự kiến thân tọa kim liên hoa. Tọa dĩ, hoa hợp, tùy Thế Tôn hậu, tức đắc văng sanh thất bảo tŕ trung.

()見此事時,即自見身坐金蓮華。坐已華合,隨世尊後,即得往生七寶池中。

(Kinh: Khi thấy chuyện ấy, liền thấy thân ḿnh ngồi trên hoa sen vàng. Ngồi xong, hoa khép lại, theo sau đức Thế Tôn, liền được sanh vào trong ao bảy báu).

 

          “Kiến thử sự thời” (Khi thấy chuyện ấy). Chữ “thử sự” là nói [những chuyện như] A Di Đà Phật, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, chư Bồ Tát, c̣n có Hóa Phật, khen ngợi v.v... như trong phần trên, người văng sanh đều trông thấy rơ ràng. Lúc đó, nh́n thấy rơ ràng. “Tức tự kiến thân tọa kim liên hoa”: Tức khắc thấy thân thể của chính ḿnh ngồi trên hoa sen vàng. “Tọa dĩ hoa hợp”: Sau khi ngồi xong, hoa sen vàng bèn khép lại, bao lấy thân thể. “Tùy Thế Tôn hậu”: Chữ Thế Tôn chỉ A Di Đà Phật, [người văng sanh] theo sau A Di Đà Phật. “Tức đắc văng sanh thất bảo tŕ trung” (Liền được sanh vào trong ao bảy báu): Có đến hai chữ Tức, một là “tức tự kiến thân tọa kim liên hoa” (liền thấy thân ḿnh ngồi trên hoa sen vàng); chữ kia là “tức đắc văng sanh thất bảo tŕ trung” (liền được văng sanh trong ao bảy báu). “Tức” () là lập tức, ngay trong một niệm. Thông thường, nếu chúng ta hỏi: “Thế giới Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức cơi Phật, xa xôi ngần ấy, [làm sao có thể đến đó cho được]?” Nhưng kinh văn đă nói rất rơ ràng, “tức khắc”. Trong tương lai, khi thọ mạng của chúng ta chấm dứt, sau khi trông thấy Tây Phương Tam Thánh và Hóa Phật, sẽ ngay lập tức thong dong, tự tại, ngồi trên hoa sen. Hoa sen khép lại, trong một niệm liền sanh về ao sen bảy báu trong Tây Phương Cực Lạc, mau chóng như thế đó!

Phật pháp bất luận là tông nào, đều phải hiểu rơ tâm pháp. Cái gọi là “tâm pháp” chính là ǵ? Ắt phải hiểu rơ tâm của mỗi chúng sanh, tức Chân Như bản tánh vô cùng vô tận, không đâu chẳng tồn tại, lớn đến mức chẳng có ngằn mé. Tuyệt đối phải liễu giải đạo lư này! Sau khi đă liễu giải đạo lư này, tâm phải thanh tịnh. Khi thọ mạng chấm dứt, các phiền năo khác chẳng dấy lên, loạn tâm chẳng có, cái tâm thanh tịnh vừa phát sẽ cảm ứng Phật, Bồ Tát tới đón tiếp. Văng sanh chính là cái tâm của chính ḿnh (bản tánh của chính ḿnh) khai triển, phát hiện. Khi bản tánh phát hiện, sẽ liền được văng sanh. Tuy thế giới Cực Lạc xa xôi ngần ấy, chỉ cần khi bản tánh khai phát, phát hiện, dẫu xa cách mấy, cũng giống như trước mắt. Chẳng hiểu rơ tâm pháp th́ làm thế nào cũng chẳng hiểu đạo lư này.

          Thượng Phẩm Thượng Sanh hoa sen chẳng khép lại. Ở đây (Thượng Phẩm Hạ Sanh) là “hoa hợp” (hoa khép lại). Dưới đây là những lợi ích (những điều tốt đẹp) sẽ đạt được sau khi văng sanh. Kinh văn [như sau]:

 

        (Kinh) Nhất nhật nhất dạ, liên hoa năi khai. Thất nhật chi trung, năi đắc kiến Phật. Tuy kiến Phật thân, ư chúng tướng hảo, tâm bất minh liễu. Ư tam thất nhật hậu, năi liễu liễu kiến. Văn chúng âm thanh, giai diễn diệu pháp. Du lịch thập phương, cúng dường chư Phật. Ư chư Phật tiền, văn thậm thâm pháp. Kinh tam tiểu kiếp, đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Địa.

()一日一夜,蓮華乃開。七日之中,乃得見佛。雖見佛身,於眾相好,心不明了。於三七日後,乃了了見。聞眾音聲,皆演妙法。遊歷十方,供養諸佛。於諸佛前,聞甚深法。經三小劫,得百法明門,住歡喜地。

(Kinh: Qua một ngày một đêm, hoa sen mới nở. Trong ṿng bảy ngày, bèn được thấy Phật. Tuy thấy thân Phật, đối với các tướng hảo, tâm chẳng hiểu rơ. Sau hai mươi mốt ngày, mới thấy rành rẽ. Nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp. Dạo khắp mười phương, cúng dường chư Phật. Đối trước chư Phật, nghe pháp rất sâu. Qua ba tiểu kiếp, đắc Bách Pháp Minh Môn, trụ Hoan Hỷ Địa).

 

          Đoạn này nói rơ lợi ích sẽ đạt được sau khi văng sanh. Sanh vào trong ao sen bảy báu, hoa sen bèn khép lại, trải qua thời gian “một ngày một đêm, hoa sen mới nở”. Đối với Thượng Phẩm Trung Sanh trong đoạn trước là qua một đêm mới nở, “kinh túc” (經宿) là nói thời gian trong một đêm, thời gian [hoa sen khép lại trong Thượng Phẩm Trung Sanh so với Thượng Phẩm Hạ Sanh] ngắn hơn một nửa! Thượng Phẩm Thượng Sanh th́ hoa sen chẳng khép lại, thời gian càng nhanh hơn. Do vậy, chẳng nói khi nào hoa sen nở. Hoa sen [trong Thượng Phẩm Thượng Sanh] vốn đă nở. Ở đây nói “một ngày một đêm”, hoa sen bèn nở. “Thất nhật chi trung, năi đắc kiến Phật” (Trong ṿng bảy ngày, bèn được thấy Phật). Nguyên lai là A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, đó là Ứng Hóa Phật đến tiếp đón. Trong ṿng bảy ngày, thấy chánh báo trang nghiêm của A Di Đà Phật. Trong phần trước, [trong phép Quán dạy về] quán thân Phật, đă có nói: Thân Phật cao lớn dường ấy, mắt biếc trong veo như bốn biển cả, có nhiều tướng hảo đẹp đẽ. “Tuy kiến Phật thân” (Tuy thấy thân Phật), nhưng “ư chúng tướng hảo” (đối với các tướng hảo), nói thông thường sẽ là ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo. Thật ra, há có phải chỉ là ba mươi hai tướng và tám mươi tùy h́nh hảo? Tướng hảo nhiều khôn xiết! Cũng chẳng thể biết rơ số! Trong bảy ngày, có thể thấy thân Phật bất cứ lúc nào, trông thấy toàn thể thân tướng. Đối với các thứ tướng, các thứ hảo ấy (“chúng” () nghĩa là rất nhiều), “tâm bất minh liễu” [nghĩa là] chưa thể thấy hoàn toàn phân minh. V́ sao? Khi mới vừa thấy, tâm lư c̣n hoàn toàn chưa mở rộng, chẳng kham hiểu rơ được!

          “Ư tam thất nhật hậu, năi liễu liễu kiến”: Sau hai mươi mốt ngày, mới thấy triệt để rơ ràng, rành rẽ, phân minh. Đối với các tướng và các hảo của đức Phật, đă hoàn toàn thấy rơ ràng. Khi ấy, “văn chúng âm thanh” (nghe các âm thanh). Quang minh, màu sắc, và âm thanh do Phật, Bồ Tát phóng ra, đủ mọi thứ chánh báo và y báo đều phát ra âm thanh. “Giai diễn diệu pháp”: Những âm thanh ấy đều diễn nói Phật pháp vi diệu rất sâu. Sau khi vừa nghe diệu pháp, toàn thân bèn tự tại. “Du lịch thập phương, cúng dường chư Phật”: Có thể đến chơi, đến viếng thăm các thế giới của mười phương chư Phật. Chuyện này hoàn toàn chẳng giống phàm phu b́nh phàm đi chơi. “Cúng dường chư Phật”: Mỗi thế giới trong mười phương thế giới đều có Phật, đến cúng dường chư Phật. “Ư chư Phật tiền, văn thậm thâm pháp” (Ở trước chư Phật, nghe pháp rất sâu): Mỗi vị Phật chẳng tiếp nhận sự cúng dường mà chẳng đền đáp! Bậc chánh nhân quân tử trong thế gian này, khi quư vị tặng họ lễ vật, c̣n biết biếu đáp lại, báo đáp quư vị chút ǵ đó. Quư vị cúng dường Phật, bất luận quư vị cúng dường thứ ǵ, [dẫu là] thứ đạm bạc nhất, ít ỏi nhất cũng thế, mà thứ quư trọng nhất cũng thế, chỉ cần quư vị thành tâm cung kính cúng dường, Phật liền cho quư vị nghe Phật pháp rất sâu. Do vậy, ở trước chư Phật, đều có thể học diệu pháp.

          “Kinh tam tiểu kiếp, đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Địa”: Thượng Phẩm Trung Sanh trong phần trước là trải qua một tiểu kiếp, sẽ đắc Vô Sanh Nhẫn. Ở đây là trải qua ba tiểu kiếp, thời gian dài cỡ nào? Chư vị có thể tự xem. Nếu không hiểu, có thể tra Phật Học Từ Điển. Trải qua ba tiểu kiếp, đắc Bách Pháp Minh Môn. Bách Pháp Minh Môn là một trăm pháp trích từ Du Già Sư Địa Luận. Nói cách khác, một trăm pháp chính là hơn sáu trăm pháp trong Du Già Sư Địa Luận. Sáu trăm pháp trong Du Già Sư Địa Luận tượng trưng cho muôn pháp. Mỗi pháp trong Phật pháp, mở rộng ra, sẽ bao hàm vô cùng, vô tận pháp; gộp lại bèn đơn giản. Quy nạp vạn pháp thành một trăm pháp. Một trăm pháp ấy hết sức đơn giản, quan trọng, nhưng nội dung bao hàm vạn tượng. Thông thường, chúng ta học Bách Pháp Minh Môn chỉ hiểu danh từ có nghĩa là ǵ mà thôi! Thật ra, thâm nhập bất cứ pháp nào trong bách pháp, thật sự lănh ngộ, sẽ là tuyệt diệu. Nay chúng ta chẳng lănh ngộ, nói th́ nói vậy, thấy th́ thấy vậy, chẳng hề lănh ngộ, biết danh xưng mà thôi!

          Nhưng ở đây, nghe các âm thanh diễn nói diệu pháp, lại c̣n ở trước chư Phật trong mười phương thế giới nghe pháp rất sâu, lại c̣n phải trải qua ba tiểu kiếp, mới đắc Bách Pháp Minh Môn. “Minh môn” (明門) là ǵ? Hiểu rơ, thông đạt pháp môn ấy, bất cứ pháp nào trong bách pháp cũng đều có thể thông thấu con đường thành Phật, đều có thể thành Phật. Chữ Minh tuyệt diệu lắm, Phật là Tam Minh Lục Thông. Chúng ta thường nói “đă minh bạch”, minh bạch ở chỗ nào? Thật sự minh bạch, sẽ lập tức buông xuống hết thảy, lập tức thấy thấu suốt. [Hiện thời], chúng ta chẳng minh bạch đâu nhé! Sau khi đă minh bạch, sẽ như nhà Thiền đă nói: “Đại địa trầm luân, hư không phấn toái” (Đại địa ch́m đắm, hư không nát vụn). Trong quan niệm, hư không chẳng c̣n tồn tại. Trong quan niệm, đại địa cũng chẳng tồn tại. Hiện thời, có rất nhiều kẻ đầu cơ đất đai, mua một miếng đất th́ thấm vào đâu? Toàn thể đại địa cầu và hư không đều nát vụn, chẳng tồn tại! Một miếng đất nhỏ nhoi ấy c̣n đáng nói ư? Đấy là chẳng thấy thấu suốt. Thật sự thấy thấu suốt, sẽ lập tức có thể buông xuống!

          Sau khi đắc Bách Pháp Minh Môn, “trụ Hoan Hỷ Địa”: Phá trừ Phiền Năo Chướng. Đă phá phiền năo, bèn có thể đạt lên Sơ Địa, tức là Hoan Hỷ Địa.

 

          (Kinh) Thị danh Thượng Phẩm Hạ Sanh giả. Thị danh thượng bối sanh tưởng, danh đệ thập tứ Quán.

()是名上品下生者。是名上輩生想,名第十四觀。

(Kinh: Đây gọi là Thượng Phẩm Hạ Sanh, là phép quán tưởng về văng sanh trong bậc Thượng, gọi là phép Quán thứ mười bốn).

 

          Nói xong nhân, duyên, quả và lợi ích văng sanh, bèn dặn ḍ một câu “thị danh Thượng Phẩm Hạ Sanh giả”. Tới đây, Thượng Phẩm Thượng Sanh, Thượng Phẩm Trung Sanh, và Thượng Phẩm Hạ Sanh đều đă nói xong, lại kết luận: “Thị danh thượng bối sanh tưởng, danh đệ thập tứ Quán”: Đây là Thượng Phẩm Văng Sanh Quán, gọi là phép Quán thứ mười bốn.

 

Tập 43

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn trang hai mươi lăm, bắt đầu từ ḍng cuối cùng. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn:

 

        (Kinh) Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Trung Phẩm Thượng Sanh giả, nhược hữu chúng sanh, thọ tŕ Ngũ Giới, tŕ Bát Giới Trai, tu hành chư giới, bất tạo Ngũ Nghịch, vô chúng quá hoạn. Dĩ thử thiện căn, hồi hướng nguyện cầu sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới”.

()佛告阿難,及韋提希:中品上生者,若有眾生,受持五戒,持八戒齋,修行諸戒,不造五逆,無眾過患。以此善根,迴向願求生於西方極樂世界。

          (Kinh: Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Trung Phẩm Thượng Sanh là nếu có chúng sanh thọ tŕ Ngũ Giới, tŕ Bát Quan Trai Giới, tu hành các giới, chẳng tạo Ngũ Nghịch, chẳng có các lỗi lầm, sai trái. Dùng thiện căn ấy hồi hướng nguyện cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới”).

 

IV.2.2.16. Phép Quán thứ mười lăm, Trung Phẩm Sanh Quán

 

           Quán Kinh có tất cả mười sáu phép Quán. Nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu phép Quán thứ mười lăm. Mười ba phép Quán trước nói về phương pháp Quán và công phu tu Quán. Bắt đầu từ phép Quán thứ mười bốn, chẳng phải là vận dụng công phu để quán, mà là nói về ba bậc chín phẩm văng sanh, phải phát chí thành tâm, thâm tâm, và hồi hướng phát nguyện tâm, hồi hướng những công đức đă đạt được. Hồi hướng rất quan trọng! B́nh thường, chúng ta làm bất luận công đức nào, nhiều cũng thế, ít cũng thế, đều phải hồi hướng cầu văng sanh thế giới Cực Lạc. Do vậy, từ phép Quán thứ mười bốn bắt đầu giảng về sự hồi hướng phát nguyện, hết sức trọng yếu!

          Phép Quán thứ mười bốn là Thượng Phẩm Thượng Sanh, Thượng Phẩm Trung Sanh, và Thượng Phẩm Hạ Sanh. Hôm nay, bắt đầu nói về Trung Phẩm văng sanh. Trung Phẩm lại chia thành Trung Phẩm Thượng Sanh, Trung Phẩm Trung Sanh, và Trung Phẩm Hạ Sanh. Phép Quán thứ mười sáu là nói về Hạ Phẩm, cũng chia thành ba phẩm giống như vậy. Đối với người tŕ danh niệm Phật chúng ta, chín phẩm văng sanh hết sức trọng yếu! B́nh thường, chúng ta phải vận dụng công phu như thế nào, làm bất cứ việc lành nào cũng đều phải hồi hướng công đức. Kẻ b́nh phàm thường xem nhẹ, cứ nghĩ làm một tí chuyện, há có công đức ǵ? Nhưng phải ghi nhớ: Dẫu công đức nhỏ tới mấy đi nữa, thậm chí việc thiện bị người ta coi là vặt vănh, chẳng đáng nói tới, quư vị đều hồi hướng. Tích lũy lại, sẽ thành công đức to lớn, đến khi đó, sẽ nắm chắc văng sanh! Lại nói từ Thượng Phẩm Thượng Sanh cho đến Hạ Phẩm Hạ Sanh có những t́nh huống ǵ? B́nh thường tu như thế nào? Phẩm vị văng sanh có nhân quả tương ứng như thế nào? Sau khi chúng ta liễu giải, sẽ biết dụng công như thế nào. V́ vậy, chuyện này hết sức trọng yếu đối với chúng ta.

          Mở đầu phép Quán thứ mười lăm, “Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy, “Trung Phẩm Thượng Sanh giả”, kém hơn Thượng Phẩm một bậc. Trung Phẩm Thượng Sanh phải đầy đủ những cái nhân văng sanh nào, đấy cũng là điều kiện để văng sanh. “Nhược hữu chúng sanh” (Nếu có chúng sanh), nói tới những chúng sanh tu hành, “thọ tŕ Ngũ Giới, tŕ Bát Giới Trai, tu hành chư giới” (thọ tŕ Ngũ Giới, tŕ Bát Quan Trai Giới, tu hành các giới), có thể thọ giới. Sau khi thọ giới, lại tŕ giới. Thọ và Tŕ khác nhau. Sau khi chúng ta thọ giới, tŕ như thế nào? Đă thọ rồi, sẽ một mực tŕ măi, thọ tŕ cơ bản là Ngũ Giới. Thêm nữa, tŕ tám giới, tức Bát Quan Trai Giới, sau đấy, tu hành các giới. Các giới có giới tại gia và giới xuất gia. Giới xuất gia lại có giới Sa-di, giới Sa-di-ni, giới Tỳ-kheo, giới Tỳ-kheo-ni, đều thuộc về “chư giới”. C̣n phải “bất tạo Ngũ Nghịch, vô chúng quá hoạn” (chẳng tạo Ngũ Nghịch, không có lầm lỗi, sai trái), ắt phải là như vậy!

          Ngũ Giới th́ mọi người chúng ta đều biết. Ngũ Giới của hàng tại gia:

1) Thứ nhất là không sát sanh. Đối với bất cứ chúng sanh nào, không chỉ là chẳng thể giết các chúng sanh thuộc nhân loại, mà đối với súc sanh thuộc loài động vật, hễ có sanh mạng, có t́nh thức, đều chẳng thể sát hại.

2) Thứ hai, chẳng trộm cắp, phạm vi bao quát rất nhiều. Có tội tế vi, có tội nghiêm trọng. Phàm là những ǵ chẳng nên lấy, hoặc chẳng được sự đồng ư, mà chúng ta tùy tiện lấy đi, sẽ đều là trộm cắp.

3) Thứ ba, chẳng dâm. Đối với xuất gia là không dâm, c̣n tại gia là không tà dâm. Người tại gia thọ Ngũ Giới, chẳng xuất gia, đương nhiên là có gia đ́nh. Vợ chồng trong gia đ́nh là hành vi chánh đáng, cuộc sống vợ chồng được giới luật nhà Phật cho phép. Ngoài vợ chồng ra, chẳng tà dâm. Hễ tà dâm th́ là phạm giới.

4) Thứ tư, chẳng nói dối. Nói cặn kẽ, chúng ta không vọng ngữ chẳng dễ dàng cho lắm! Ắt phải khéo giữ. Hằng ngày chính ḿnh cảnh giác, luôn luôn phản tỉnh: “Ta thốt ra câu nói này có phải là đă phạm vọng ngữ hay không?” Thường xuyên kiểm điểm chính ḿnh nơi phương diện này. Đại vọng ngữ lớn nhất trong giới vọng ngữ [chính là] người học Phật chẳng có công phu, cứ nói chính ḿnh có công phu. Chẳng chứng quả, nói [chính ḿnh] đă chứng quả. Chẳng đạt đến cảnh giới, nói chính ḿnh đă đạt được cảnh giới. Đấy là đại vọng ngữ. Tội lỗi do phạm đại vọng ngữ rất nặng. C̣n như nói những lời không hợp sự thật trong thế gian cũng là vọng ngữ. Khuấy động thị phi giữa người này với người kia cũng là vọng ngữ, bất quá chẳng nghiêm trọng như đại vọng ngữ.

5) Điều cuối cùng là uống rượu. Uống rượu dường như chẳng có hại ǵ đối với chúng sanh, nhưng kẻ ham uống rượu sẽ thường là chẳng thể khống chế chính ḿnh. Sau khi uống rượu, thường sẽ làm những chuyện giết, trộm, dâm, dối, cho nên phạm tội. [Do uống rượu, sẽ đều] chẳng tuân thủ bốn giới trước, đều có thể phạm tội. V́ thế, uống rượu cũng là một giới trong Ngũ Giới.

Ngũ Giới là cơ bản, người tại gia trước tiên là thọ Ngũ Giới. Sau đấy, nếu phát tâm, bèn thọ Bồ Tát Giới. Đương nhiên là phải giữ giới nhiều hơn, nhưng phải thọ Ngũ Giới trọn vẹn rồi mới có thể thọ Bồ Tát Giới.

          “Tŕ Bát Giới Trai” chính là [thọ tŕ] Bát Quan Trai Giới, khác với Ngũ Giới. Chẳng thọ Ngũ Giới th́ thôi; nếu đă thọ, phải tŕ giới suốt đời, chẳng thể phạm. Bát Quan Trai Giới là thọ mỗi ngày. Hôm nay đă thọ là thọ cho đến ngày mai, lấy một ngày làm kỳ hạn tŕ giới. Tŕ Bát Quan Trai Giới có công đức của Bát Quan Trai Giới. Do vậy, trong kinh nói, phàm là người tương ứng với Trung Phẩm Thượng Sanh th́ phải thọ tŕ Ngũ Giới, lại c̣n tŕ thêm Bát Quan Trai Giới, và tu tŕ các giới nhiều hơn nữa. Ngoại trừ tŕ giới, c̣n phải là chẳng tạo Ngũ Nghịch (xin xem biểu đồ). Ngũ Nghịch là:

 

IV.2.2.16.1. Ngũ Nghịch

 

          “Nghịch” () là trái phạm đạo lư thông thường. Kẻ b́nh thường, có ai chẳng tôn kính cha mẹ của chính ḿnh? Bất cứ ai cũng đều biết phải tôn kính hàng xuất gia đă chứng quả La Hán. Đối với Phật, lại càng chẳng cần phải nói nữa! Thế nhưng, Ngũ Nghịch hoàn toàn tương phản.

1) Thứ nhất là “sát phụ”, tức giết chết cha ruột của chính ḿnh. Đấy là đại nghịch.

2) Thứ hai, giết mẹ, lại càng không được!

3) Thứ ba, giết A La Hán. A La Hán là bậc đă chứng quả. Người tu Tiểu Thừa chứng Sơ Quả là đă tuyệt lắm rồi! Sau đấy, lại trải qua bảy phen sanh tử trên cơi trời hoặc trong nhân gian, trải qua Nhị Quả, Tam Quả, đến cuối cùng, chứng Tứ Quả, chứng đắc quả vị, thoát khỏi tam giới. Nói theo Tiểu Thừa, A La Hán là một vị thánh nhân. Quư vị giết chết Ngài, cũng là chuyện đại nghịch bất đạo.

4) Thứ tư, làm thân Phật chảy máu. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, có kẻ ác từ trên núi đẩy một tảng đá to xuống, dự liệu khi đức Phật đi qua, sẽ đè chết Ngài, nhưng bậc đă thành Phật há bị tảng đá đè chết? Gặp phải hộ pháp Bồ Tát từ giữa không trung dùng kim cang xử đập một phát. Vừa đập, tảng đá liền vỡ nát, nhưng có một miếng đá nhỏ văng trúng chân đức Phật, khiến cho chân đức Phật chảy máu. Đó là “xuất Phật thân huyết”. Hiện thời, đức Phật chẳng c̣n trụ trong thế gian, nhưng có tượng Phật, có tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, tượng A Di Đà Phật, các loại tượng của mười phương ba đời chư Phật. Nếu trong tâm chẳng vừa ư đối với Phật, có tâm lư chống đối Phật giáo, muốn phá hoại Phật pháp, hủy bỏ tượng Phật, có tâm lư phá hoại, sẽ coi như là “làm thân Phật chảy máu”, thuộc loại đại nghịch trong Ngũ Nghịch.

5) Thứ năm là “phá ḥa hợp Tăng”. Trong đạo tràng, đại chúng cùng ở một chỗ, gọi là Ḥa Hợp Chúng. Mọi người ở cùng một chỗ v́ tu đạo, v́ hoằng dương Phật pháp, chí đồng đạo hợp cùng nhau tu tŕ. Nếu phá hoại đoàn thể ấy th́ cũng là đại nghịch. Thông thường, “Tăng” chỉ người xuất gia, nhưng nếu hàng tại gia cư sĩ có đạo tràng, cùng nhau tụ lại một chỗ để tu tŕ, đó cũng là “ḥa hợp Tăng”. Phá hoại đạo tràng ấy cũng là đại nghịch!

Phạm năm loại đại nghịch ấy, tội lỗi to hơn bất cứ tội lỗi nào khác!           Người Trung Phẩm Thượng Sanh trừ tu giới ra, c̣n phải chẳng tạo tội Ngũ Nghịch. Đấy là một điều tốt. Trừ tội nghiệp Ngũ Nghịch trọng đại ra, “vô chúng quá hoạn”, tức là chẳng có các thứ “quá hoạn”. “Quá” () là lầm lỗi do vô tâm; “hoạn” () là chuyện chẳng tốt lành. Những lỗi lầm, sai trái đối với người khác cũng như đối với chính ḿnh đều chẳng có kết quả tốt đẹp. Chẳng có những lỗi lầm, sai trái ấy, ắt sẽ là người hội đủ các điều kiện của Trung Phẩm Thượng Sanh.

          Phật pháp có Đại Thừa và Tiểu Thừa. Giới cũng có Bồ Tát Đại Thừa giới và Tiểu Thừa giới. Ở đây là nói về giới Tiểu Thừa. Chẳng thể tạo tội Ngũ Nghịch! Phải có thiện căn th́ mới có thể thọ giới và tŕ giới. Có thể thọ tŕ những giới ấy, đủ để chứng tỏ học nhân ấy có thiện căn. “Dĩ thử thiện căn” chính là dùng thiện căn ấy để “hồi hướng nguyện cầu sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới”, “hồi” () là xoay công đức do chính ḿnh đă tu hành, “hướng” () là hướng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, mong mỏi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta tu tŕ, mục đích trọng yếu nhất là mong cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́ sao? Chúng ta nghiên cứu kinh văn, mỗi khi gặp chữ Nguyện (), đều phải đặc biệt chú trọng, nhất định phải tự hỏi chính ḿnh: “V́ sao phải phát nguyện sanh về thế giới Cực Lạc?” Hăy ngẫm xem, trong thế giới này, vào thời đại của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngũ Nghịch rất ít. Ở Trung Hoa, vào thời đó, kẻ giết cha, giết mẹ cũng không nhiều, hết sức ít ỏi; nhưng hiện thời, các vị xem báo, coi tin tức trên TV, chẳng phải là ở đây con cái giết cha, th́ ở kia là con cái giết mẹ, chồng giết vợ, vợ giết chồng! Thường phát sanh thảm kịch nơi thiên luân, có c̣n coi là nhân gian nữa hay chăng?

Chúng ta học Phật, biết Phật pháp, phải nên tôn kính tượng Phật. Kẻ ở bên ngoài chẳng học Phật mà phá hoại Phật pháp rất nhiều. Sau năm Dân Quốc thứ bảy, thứ tám (1918-1919), sau khi cuộc vận động Ngũ Tứ bắt đầu, tại nội địa, vào thời đó, trước hết là phá hoại Phật pháp, phá hoại văn hóa Trung Hoa, hủy báng Khổng phu tử, hủy báng Thích Ca Mâu Ni Phật, triệt hạ chùa miếu, sửa thành trường học, tạo nghiệp chẳng biết nặng nề đến cỡ nào? Do vậy, sau này, toàn bộ Đại Lục chuốc lấy tai nạn to lớn như vậy. Khi nào th́ mới có thể khôi phục? Thời gian c̣n rất xa xôi! Chúng ta nh́n vào thời đại hiện tại này, chúng ta mong phát tâm học Phật trong thế gian này, hoàn cảnh ở chỗ nào cũng đều lôi kéo khiến cho chúng ta thoái chuyển. Học Phật trong thế gian này quá khó khăn, ắt phải mong cầu sanh về thế giới Cực Lạc. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta phải phát nguyện, cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́ sao? V́ thành tựu trong thế gian này rất khó, ắt phải nhờ vào pháp môn Tịnh Độ để sanh về thế giới Cực Lạc.

          Các pháp môn khác tuy cũng do Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra, cũng nhất định là có thể thành tựu. Nhưng xét theo hoàn cảnh trong thời đại hiện tại, chẳng cho phép chúng ta dùng thời gian dài như vậy để tu tập! Chúng ta mong sẽ thành tựu ngay trong một đời này; v́ thế, kinh văn nói đến đây, phải đặc biệt chú ư điểm này! Ắt phải nghe lời đức Phật khuyên bảo, thời thời khắc khắc tŕ giới, tŕ giới là chuyện tốt đẹp. Lại c̣n bất cứ chuyện ǵ tốt đẹp cũng đều dùng điều đó để hồi hướng phát nguyện văng sanh. Thường hồi hướng như vậy, đến khi thọ mạng chấm dứt, khi văng sanh, sẽ chẳng có mảy may chướng ngại nào! Đoạn này nói về cái nhân văng sanh.

          Đoạn dưới đây nói về cái duyên văng sanh, nhân duyên thành tựu th́ mới có thể văng sanh.

 

          (Kinh) Lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật, dữ chư tỳ-kheo, quyến thuộc vi nhiễu, phóng kim sắc quang, chí kỳ nhân sở, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, tán thán xuất gia, đắc ly chúng khổ.

         ()臨命終時,阿彌陀佛,與諸比丘,眷屬圍繞,放金色光,至其人所。演說苦、空、無常、無我。讚歎出家,得離眾苦。

(Kinh: Khi lâm chung, A Di Đà Phật và các vị tỳ-kheo, quyến thuộc vây quanh, phóng quang minh sắc vàng, tới chỗ người ấy, diễn nói Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, tán thán xuất gia, được ĺa các nỗi khổ).

 

          Đoạn này nói người tu hành khi c̣n sống đă tŕ giới, phát nguyện, đến “lâm mạng chung thời” (khi lâm chung), gặp duyên tốt đẹp. Bất luận người học Phật hoặc không học Phật, đều có lúc thọ mạng chấm dứt. Người chẳng tu hành, đến khi mạng chung, trong tâm hết sức sợ hăi, rốt cuộc sẽ phải đi về đâu? Rất đau khổ! Nhưng người học Phật mà học những pháp môn khác, nếu lúc lâm chung công phu chẳng đủ, trong tâm cũng rất khủng hoảng. Người học Tịnh Độ Tông đến lúc lâm chung, A Di Đà Phật là đấng giáo chủ của thế giới Cực Lạc, là nơi ta thường phát nguyện sanh về. Khi đó, Ngài sẽ đến, không chỉ là một ḿnh Ngài đến [tiếp dẫn].

          “Dữ chư tỳ-kheo”, c̣n có rất nhiều người xuất gia. “Quyến thuộc vi nhiễu”, chữ “quyến thuộc” (眷屬) chỉ những người cùng theo đức Phật đến, vây quanh bốn phía đức Phật. “Phóng kim sắc quang” (Phóng quang minh sắc vàng): Đức Phật và các vị tỳ-kheo, quyến thuộc, đều phóng quang minh có màu vàng ṛng. Trên thế gian này, chúng ta chỉ thấy ánh sáng mặt trời rất đơn giản, là ánh sáng màu trắng, c̣n quang minh ở đây là kim sắc quang. “Chí kỳ nhân sở” (Đến chỗ người ấy), chữ “kỳ nhân” (其人) chỉ học nhân [Tịnh Độ] khi lâm chung. [A Di Đà Phật và các vị tỳ-kheo, quyến thuộc đại chúng] đến trước mặt người ấy để đón tiếp. Chúng ta thường hỏi: “Người niệm Phật khi lâm chung, sẽ đến thế giới Cực Lạc như thế nào?” Chẳng cần phải suy xét, lo âu chuyện này! Tới lúc đó, Phật sẽ tự nhiên đến nghênh tiếp.

          Ở đây, điều phải chú ư là Thượng Phẩm Thượng Sanh, Thượng Phẩm Trung Sanh, và Thượng Phẩm Hạ Sanh, khi lâm chung, A Di Đà Phật dẫn theo rất nhiều vị đại Bồ Tát, rất nhiều Hóa Phật, đương nhiên là do phẩm vị bất đồng mà số lượng [đại chúng theo Phật] cũng chẳng giống nhau, nhưng đều có hàng đại Bồ Tát và Hóa Phật hiện đến. Trong Trung Phẩm, không chỉ là chẳng có Hóa Phật, mà cũng chẳng có đại Bồ Tát. Những vị theo đến đều là tỳ-kheo, tức tăng chúng xuất gia. V́ giới [mà người văng sanh] đă tŕ là giới Tiểu Thừa. V́ sao tỳ-kheo là Tiểu Thừa? Nếu tỳ-kheo chỉ thọ tỳ-kheo giới, chẳng thọ thêm Đại Thừa Bồ Tát Giới, sẽ là tu Tiểu Thừa. “Quyến thuộc” (眷屬) là hàng đệ tử Phật, theo A Di Đà Phật đến [tiếp dẫn]. V́ sao hàng đại Bồ Tát không đến? Tổ sư chú giải rất rơ ràng: V́ người tu lúc thường ngày tu pháp Tiểu Thừa, tới lúc đó, sẽ cảm ứng, sẽ xuất hiện tướng tỳ-kheo đến hoan nghênh. Nhân quả tương xứng! Thật ra, trong thế giới Cực Lạc chẳng có Tiểu Thừa, mà toàn là Đại Thừa Bồ Tát. V́ sao quyến thuộc đến tiếp dẫn Trung Phẩm văng sanh hiện tướng tỳ-kheo (tướng Tiểu Thừa)? Phải nói rơ điểm này! Chẳng nói rơ ràng, sẽ có nghi vấn. Tịnh Độ Tông là Đại Thừa Phật pháp, người học Tiểu Thừa chẳng biết có thế giới ở phương khác, làm sao có thể văng sanh thế giới Cực Lạc cho được? Lại c̣n xa xôi ngần ấy! [Những người] được gọi là Tiểu Thừa ở đây có hai loại t́nh huống:

1) Một là những người vốn tu Đại Thừa Phật pháp, tu về sau này, cảm thấy Đại Thừa Phật pháp khó khăn bèn ngă ḷng, lui về tu pháp Tiểu Thừa.

2) Hai là vốn tu Tiểu Thừa. Về sau, hồi Tiểu hướng Đại, phát đại tâm.

Vốn tu pháp Đại Thừa, về sau tu pháp Tiểu Thừa, sau đó, lại hồi Tiểu hướng Đại, thuộc vào t́nh huống ấy. V́ thế, khi văng sanh hễ hồi hướng, tới khi lâm chung, cảm ứng Phật hiện đến, nhưng do b́nh thời tu tập pháp Tiểu Thừa, đến khi lâm chung phát đại tâm. Do vậy, cảm ứng các vị tỳ-kheo đến đón tiếp người ấy.

A Di Đà Phật dẫn hàng tỳ-kheo quyến thuộc đến trước mặt người ấy, v́ người ấy “diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă”, [nói] các pháp ấy. Chúng ta học Phật đă nhiều năm, chẳng biết khổ! Nếu thật sự liễu giải Khổ Đế, từ Khổ nhập môn, học Phật sẽ có thể thành tựu. Rất nhiều người học Phật đă nhiều năm mà chẳng biết khổ. Hễ gặp chuyện vừa ḷng bèn quên bẵng Phật pháp. Khi gặp phải nghịch cảnh, hứng chịu thống khổ, bèn ơm ḷng oán hận: “Học Phật đă lâu ngần ấy, sao vẫn gặp phải chuyện chẳng tốt đẹp?” Kẻ ấy không biết con người sanh vào thế gian, thế gian là khổ, có chút ít thuận cảnh là do may mắn, c̣n chịu khổ là chuyện đáng phải như vậy! Mọi người hăy suy nghĩ đôi chút, Phật pháp nói tới ba khổ và tám khổ. Sanh, lăo, bệnh, tử th́ ai nấy đều biết, chứ nói đến Ái Biệt Ly và Oán Tắng Hội, từ xưa tới nay, thời đại quân chủ cũng thế, mà thời đại dân chủ cũng thế, đều có chiến tranh, đều có các sự kiện bạo lực to hoặc nhỏ giữa loài người với nhau, kèm thêm những thứ thiên tai, đủ thứ tai nạn. Hễ một cuộc chiến nổ ra, con người v́ tai nạn, v́ thiên tai v.v... bao nhiêu người đă chết? Một người chết đi, liên lụy thân quyến của người ấy, bao nhiêu người bi thương v́ người ấy? Đấy là Ái Biệt Ly (yêu thương mà phải chia ĺa). Trừ cái chết ra, cổ nhân nói: “Sanh ly tử biệt”. Tử là một nỗi đau khổ. Người chẳng chết, [hưởng niềm vui] thiên luân trong gia đ́nh, cha con, anh em có thể cùng tụ hội một chỗ, chẳng phải là rất tốt đẹp ư? Chẳng thể tụ tập cùng một chỗ, mọi người phân tán ở mỗi nơi, Phật pháp nói điều này từ xưa tới nay là một nỗi đau khổ chẳng thể tránh được trong thế gian! Gặp những chuyện thống khổ này bèn oán hận. Oán hận ai? Hễ sanh vào thế gian này, sẽ có những nỗi oán khổ ấy. Sau khi đă liễu giải những nỗi khổ ấy, đă hiểu rơ chân tướng thế gian, chẳng tu đạo sẽ không được, ắt cần phải tu đạo! Người không tu đạo, dẫu là đại hoàng đế cũng rất khổ. Hiện thời, đại tổng thống cũng có những nỗi khổ của riêng ḿnh, ai có thể tránh khỏi?

          Kẻ b́nh phàm tu các giới, tuy đă tu, cũng liễu giải đạo lư này, tới khi sắp văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đức Phật đến nghênh tiếp người ấy. Đức Phật c̣n phải v́ người ấy nói về Khổ, khiến cho người ấy hiểu rơ ai nấy trên thế gian đều phải chịu khổ, đều chẳng thể tránh được, [người lâm chung ấy] bèn ngay lập tức theo Phật đến thế giới Cực Lạc. Hiện thời, có rất nhiều người cứ nghĩ hoàn cảnh rất tốt đẹp, hết thảy đều hài ḷng như ư, trọn chẳng biết hết thảy mọi sự bất luận là tốt hoặc xấu đều là chuyện thống khổ. Người ấy khi lâm chung, đức Phật c̣n phải nói [về Khổ] cho người ấy nghe.

          Ngoài ra, c̣n phải liễu giải Không. Những kẻ b́nh phàm như chúng ta thấy những thứ cụ thể trong thế gian hết sức hiện thực. Thấy một quả núi là một quả núi. Hôm nay thấy là một quả núi, ngày mai vẫn thấy là một quả núi. Người ngoại quốc cũng thấy đó là một quả núi. Mọi người ngỡ nó thật sự tồn tại, nhưng nói theo Phật pháp, thứ ấy rỗng không! Không chỉ là Phật pháp, trong kinh điển của Nho gia Trung Hoa cũng nói: “Kim phù sơn, nhất quyển thạch chi đa” (quả núi trong hiện thời do nhiều ḥn đá hợp thành), nghĩa là phân tích một quả núi, dẫu cao đến mấy đi nữa th́ cũng do nhiều vốc đất [hợp lại]. Bốc một nắm đất lên, bất quá là chút tí, từ chút tí đất ấy cứ tích tụ măi, sau đấy, mới trở thành hiện tượng này. Mọi người biết ở Đài Bắc có núi rác. Rác rưởi của thành phố hằng ngày đổ xuống đó. Lâu ngày chầy tháng, trở thành núi cao. Quư vị nói xem, đó có phải là thật sự tồn tại hay không? Từ rác rưởi tích lũy thành. Núi là như thế, toàn thể đại địa, hết thảy các động vật trên đại địa cũng là như thế. Các thứ sự nghiệp anh hùng sáng tạo trong nhân gian, anh hùng này nọ lỗi lạc lắm! Đều là rỗng tuếch! Bất cứ chuyện ǵ trong thế gian này cũng đều là do nhân duyên ḥa hợp, đều là do bao nhiêu điều kiện hợp lại mới hiện ra giả tướng ấy. Nếu chẳng có những điều kiện đó hợp lại, giả tướng sẽ chẳng có! Người học Phật chúng ta hăy ngẫm xem, đối với bất cứ sự vật cụ thể hay đối với chuyện trừu tượng nào, không ǵ chẳng phải là nhân duyên. Hễ nhân duyên ly tán, c̣n có thể duy tŕ tồn tại hay chăng? Nhân duyên hợp lại với nhau, sẽ tạm thời hiện ra một giả tướng mà thôi. Lấy quốc gia để nói, có quốc gia nào trên thế giới tồn tại vĩnh viễn? Chẳng có chuyện ấy đâu nhé! V́ thế, kinh Phật dạy: “Quốc độ nguy thúy” (國土危脆, cơi nước mong manh). Đại quốc gia cũng thế, tiểu quốc gia cũng thế, đều rất yếu ớt! Từ Đệ Nhị Thế Chiến cho tới gần đây, Liên Sô một mực rất hùng mạnh. Nhất là trong thời kỳ đối đầu với nước Mỹ, có ai chẳng thừa nhận Liên Sô là một đại quốc? Thế mà đến nay, thời gian chưa đầy một năm, nói tan ră bèn tan ră. Hiện thời, đă biến thành rất nhiều quốc gia nhỏ. Nếu chẳng phải là trống không, lẽ ra nó phải tồn tại vĩnh cữu! Hễ nhân duyên biến động, giả tướng sẽ không tồn tại. Do vậy, phải liễu giải chữ Không. Nếu liễu giải chân tướng của vạn sự vạn vật, sẽ chẳng bị phiền năo bởi những chuyện hư giả. Chúng ta luôn bị chuyện hư giả gây phiền năo. Sau khi đă hiểu đạo lư Khổ và Không, chúng ta há c̣n có những chuyện phiền năo ấy? Đạo lư Không cũng hết sức quan trọng; v́ thế, lúc đó, A Di Đà Phật sẽ đối trước người văng sanh diễn nói đạo lư về Không.

          Lại c̣n liễu giải đạo lư vô thường. “Thường” () là vĩnh hằng. Vạn pháp trong thế gian, có chuyện nào tồn tại vĩnh hằng? Đều là vô thường. Vừa chớp mắt, sự t́nh đă biến đổi. B́nh thường, chúng ta thấy thế gian hằng ngày dường như bất biến, đấy là v́ chúng ta chẳng thật sự dụng công quan sát. Nếu vận dụng tâm tư để quan sát, [sẽ thấy bất cứ] thứ ǵ cũng đều đang biến động! Toàn thể địa cầu đang chuyển động trong hư không, rốt cuộc sẽ chuyển tới đâu? Ai biết! Địa cầu và mặt trời cùng một nhóm. Chúng ta chỉ biết các tinh cầu trong Thái Dương Hệ, nhưng nhóm tinh cầu ấy ở trong hư không chẳng có mục tiêu, rốt cuộc sẽ chuyển tới chỗ nào. Ai biết? [Trong số những] người nghiên cứu thiên văn học, ai có thể nghiên cứu được? Chúng ta tỷ dụ hư không như biển cả, đối với các tinh cầu thuộc Thái Dương Hệ, địa cầu là một ngôi sao trong nhóm ấy, chỉ là một tiểu đơn vị bềnh bồng trong toàn thể biển cả, chẳng có mảy may mục tiêu nào, trôi giạt, chẳng có chỗ cố định. Ở trên địa cầu, chúng ta giống như có một nơi để trụ, có một vật kiến trúc (tức nhà cửa); tính toán lâu dài ở đây, tính toán lâu dài cỡ nào? Toàn thể địa cầu, về căn bản, chẳng hề trường cửu, giống như một đám mây nổi trên bầu trời, bềnh bồng khắp nơi, chẳng có gốc rễ. Hăy ngẫm xem: Chuyện ấy có phải là thường hay không? Toàn là vô thường. Rất nhiều người chẳng liễu giải, ngỡ thế gian là vĩnh hằng, vẫn một mực mong trụ măi trong thế gian này. Quư vị khuyên họ văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, họ chẳng tin tưởng: Chẳng thấy thế giới Cực Lạc, ngỡ thế gian này tồn tại vĩnh hằng. Đó là tri kiến điên đảo. Chúng sanh do tri kiến điên đảo, chẳng liễu giải đạo lư này!

          A Di Đà Phật đối trước người văng sanh giảng giải, ngơ hầu người ấy sẽ triệt để liễu giải đạo lư này. Tuy người ấy đă chẳng giống kẻ b́nh phàm, đă biết Khổ, biết Không, nhưng lúc ấy, đức Phật vẫn phải diễn nói đạo lư vô thường một lần nữa cho người ấy.

          “Vô ngă”: Chúng ta phải biết đối với “cái ngă chân chánh”, kinh chú giải là Thật Tướng, là chân tâm, mà cũng là Chân Như bản tánh của chúng ta. Chân Như bản tánh chính là cái Ngă thật sự! Có kẻ b́nh phàm nào biết Chân Như bản tánh? Quư vị giảng Chân Như bản tánh cho họ, họ hỏi Chân Như bản tánh ở chỗ nào? Họ thắc mắc, họ không biết. Giảng cho họ nghe, họ cũng chẳng hiểu được, mà kẻ b́nh phàm như chúng ta cũng chẳng nói nổi. Ắt là phải chính ḿnh đă khai ngộ. Sau khi đă ngộ, c̣n phải chứng. Chẳng trải qua tŕnh tự ấy, chúng ta đều chẳng liễu giải cái Ngă thật sự. Có chân ngă mà chẳng liễu giải, kẻ b́nh phàm đều chẳng biết. Kẻ b́nh phàm biết giả ngă, luôn nghĩ cái thân thể giả tạm, có thể nói năng, có thể tư duy chính là Ngă. Cái Ngă ấy nói theo Phật pháp sẽ là Vô, chẳng phải là chân ngă!

          Chúng ta hăy ngẫm xem, chính ḿnh hăy phân tích, [sẽ thấy] tư tưởng của chúng ta là một thứ rất trừu tượng. Nói theo Duy Thức của Phật pháp, tâm lư chủ yếu có tám món, tức là tám thức. Ngoài ra, c̣n có năm mươi mốt Tâm Sở phụ thuộc tám thức tâm. Rốt cuộc, tâm nào là chân ngă, thuộc về chính ḿnh? Cái nào có thể đại diện cho chính ḿnh? Ngay cả thức thứ tám, tức A Lại Da Thức, cũng chẳng thể đại diện cho chân ngă. Chân ngă th́ lẽ ra chẳng nên sống vài chục năm rồi sanh mạng chấm hết. Hễ sanh mạng kết thúc, sẽ chuyển đến đường nào? Lại sửa đầu thay mặt, sanh trong nhân đạo, sẽ mang diện mạo con người; vào súc sanh đạo, sẽ là diện mạo súc sanh. Nếu thức thứ tám đại diện chân ngă, đáng lẽ chẳng nên như thế! V́ thế, nói đến những cái tâm ấy, chúng đều chẳng phải là “chân ngă”.

          C̣n như thân thể, lại càng không cần phải nói nữa. Từ sau khi chúng ta nhập thai, ở trong thân thể mẹ, hấp thâu Tứ Đại “đất, nước, gió, lửa”, dần dần tụ tập, biến thành một đứa bé, tăng trưởng đến một mức độ nhất định, sẽ được sanh ra. Sau khi được sanh ra, mỗi ngày phải ăn, phải uống, phải hít thở không khí. Thiếu thốn những chuyện ấy, sẽ chẳng thể duy tŕ thân thể. Hấp thụ những thứ từ bên ngoài vào; sau khi đă hấp thụ vào, lại c̣n phải bài tiết ra: Ngoài đại tiện và tiểu tiện, thân thể c̣n phải chảy mồ hôi v.v... Những thứ ấy đều là những sự bài tiết ra ngoài. Thân thể chúng ta luôn hấp thụ vật chất nơi ngoại cảnh, lại c̣n phải luôn bài tiết ra ngoài, thay cũ, đổi mới, cái nào là ta? Chén nước này, trước khi uống cạn, có quan hệ ǵ với thân thể của chúng ta? Sau khi đă uống, nó biến thành một bộ phận của thân thể, thuận theo sự tiểu tiện lại bị loại khỏi thân. Thân thể ấy có phải là Ngă hay không? Kẻ b́nh phàm đều coi thân thể này là ta. Phật pháp nói [quan niệm coi thân thể là ta, đấy chính là] Thân Kiến, Ngă Chấp, chấp trước mănh liệt nhất! Càng chấp trước, càng chẳng thể thoát ly sanh tử. Do vậy, đức Phật dạy “vô ngă”.

          Nếu nói đến chân lư, chúng ta chẳng liễu giải hiện tượng, chấp trước cái thân thể hư giả và vọng tâm (chỉ tám thức và các Tâm Sở) là Ngă. Nếu chúng ta phân tích, sẽ chẳng có một vật nào là chân ngă. Do vậy, gọi là “vô ngă”. Ắt phải thừa nhận vô ngă! Khi chẳng chấp trước giả ngă, mới có thể minh tâm kiến tánh, mới có thể hiển thị chân ngă của chúng ta. V́ thế, trong lúc ấy, A Di Đà Phật phải diễn nói đạo lư vô ngă đối với người văng sanh.

          Sau khi đă nói Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă xong. Tiếp đó, liền “tán thán xuất gia”, [tức là] tán thán sự xuất gia của người văng sanh. Trong chuyện “tu hành chư giới” ở phần trước, c̣n có giới xuất gia, tức các giới Sa-di, giới Sa-di-ni, giới Tỳ-kheo, giới Tỳ-kheo-ni, những giới ấy đều là giới xuất gia. C̣n có hàng tại gia cũng được kể gộp trong ấy. Người tại gia tŕ Bát Quan Trai Giới một ngày. Bát Quan Trai Giới chính là giới xuất gia. Trong Ngũ Giới có giới “chẳng tà dâm”, nhưng “dâm” trong Bát Quan Trai Giới sẽ chẳng phải là “không tà dâm”. Tuy là tại gia, hễ tŕ Bát Quan Trai Giới th́ là xuất gia, vợ chồng chẳng thể ở chung pḥng! Trong ngày hôm ấy, sống cuộc đời xuất gia. Người tại gia tŕ Bát Quan Trai Giới, quan trọng nhất là phải liễu giải: Cái gọi là “gia” chính là “nhà” trong quan niệm của mỗi người. Mọi người đều có “nhà”. Trong quan niệm, tuy là người tại gia, có gia đ́nh, nhưng tâm phải xuất gia, tâm phải thời thời khắc khắc thoát ĺa lục đạo. Muốn thoát ĺa lục đạo mà không xuất gia th́ làm sao được? “Gia” là một loại thiên luân, tức là mối quan hệ giữa người cùng một nhà, có đủ mọi chuyện ràng buộc. Tuy mang tâm lư tại gia, trong tâm chẳng bị những thứ ấy ràng buộc, cũng coi như là xuất gia. V́ thế, [đức Phật] tán thán xuất gia. Công phu tu hành tốt đẹp, bất luận tại gia hay xuất gia, chỉ cần tâm chẳng bị vướng mắc bởi gia đ́nh, sẽ là xuất gia. Do vậy, A Di Đà Phật tán thán: Có thể xuất gia, bèn “đắc ly chúng khổ” (được ĺa các khổ). “Chúng khổ” chính là tám khổ được nói trong Phật pháp. Quan trọng nhất trong tám nỗi khổ chính là sanh tử đại khổ. Hễ văng sanh thế giới Cực Lạc, sẽ vĩnh viễn ĺa khỏi sanh tử đại khổ trong thế gian, hết thảy các nỗi khổ to lớn đều tránh khỏi.

          Đoạn này nói về duyên, trong phần sau, sẽ chánh thức nói về sự văng sanh.

 

Tập 44

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn trang hai mươi sáu, bắt đầu từ ḍng thứ ba ở cuối trang. Tôi đọc trước kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) Hành giả kiến dĩ, tâm đại hoan hỷ, tự kiến kỷ thân, tọa liên hoa đài, trường quỵ, hiệp chưởng, vị Phật tác lễ. Vị cử đầu khoảnh, tức đắc văng sanh Cực Lạc thế giới, liên hoa tầm khai.

          ()行者見已,心大歡喜。自見己身,坐蓮華臺,長跪合掌,為佛作禮。未舉頭頃,即得往生極樂世界,蓮華尋開。

(Kinh: Hành giả đă thấy rồi, tâm đại hoan hỷ, tự thấy thân ḿnh ngồi trên đài hoa sen, quỳ thẳng, chắp tay, kính lễ đức Phật. Trong khi chưa ngẩng đầu lên, liền được văng sanh thế giới Cực Lạc, hoa sen mới nở).

 

Trong phần kinh văn dạy về Trung Phẩm Thượng Sanh, trước hết, nói về cái nhân văng sanh, kế đến, nói về cái duyên văng sanh, đă giảng trong lần trước. Hôm nay, trong đoạn này, chính là nói tới t́nh h́nh văng sanh. Chúng ta hăy nhớ lại đôi chút về nhân duyên văng sanh: Cái nhân của Trung Phẩm Thượng Sanh chủ yếu là có thể thọ tŕ Ngũ Giới và các giới, lấy tŕ giới làm chủ yếu. Đồng thời, chẳng tạo Ngũ Nghịch, chẳng có những lỗi lầm, sai trái khác. Như vậy th́ đương nhiên là có thiện căn. Đem những thiện căn ấy luôn luôn hồi hướng, dùng những thiện căn ấy để hồi hướng phát nguyện: Trong tương lai, khi thọ mạng chấm dứt, sẽ có thể sanh về thế giới Cực Lạc. Đấy là nguyên nhân chủ yếu. Do cái nhân tốt đẹp, tu tŕ hết sức tốt đẹp, cho nên tới khi lâm chung, A Di Đà Phật và các vị tỳ-kheo liền đến nghênh tiếp người ấy. Đó là nói về duyên. Phải đặc biệt chú ư: Đây là do tu pháp Tiểu Thừa. Chúng ta thường nói “Tiểu Thừa chẳng thể văng sanh”. Pháp môn Tịnh Độ là Đại Thừa Phật pháp, v́ sao Tiểu Thừa có thể văng sanh? T́nh huống này là do người ấy vốn học Đại Thừa; về sau, do v́ gặp rất nhiều chướng ngại, ngă ḷng, lại tu Tiểu Thừa. Một t́nh huống khác nữa, vốn là tu Tiểu Thừa, về sau, hồi Tiểu hướng Đại. Hai loại t́nh huống này, đến cuối cùng, khi sắp mạng chung, đều là hồi Tiểu hướng Đại, do vậy, có thể văng sanh. Nếu thuần túy tu Tiểu Thừa, đến cuối cùng chẳng phát tâm Đại Thừa, sẽ chẳng thể văng sanh. Hăy ghi nhớ mấy điểm quan trọng này! Hôm nay, chúng ta xem t́nh h́nh văng sanh được nói trong đoạn này.

          “Hành giả kiến dĩ, tâm đại hoan hỷ”: Chữ “hành giả” chỉ người tu hành tŕ giới, hồi hướng, phát nguyện mong văng sanh, suốt một đời luôn hy vọng có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta biết pháp môn Tịnh Độ khác pháp môn b́nh thường ở chỗ nào? Chủ yếu nhất là lúc thường nhật phải có hai chữ trong tâm:

1) Một là Yếm (), tức là nhàm ĺa, chán ngán thế giới Sa Bà. Hăy ngẫm xem, trong cuộc sống thường ngày nơi thế giới Sa Bà, chúng ta hứng chịu đủ mọi nỗi phiền năo, đau khổ, gần như cảm giác đă chai ĺ! Nếu chúng ta vốn chẳng phải là như vậy, hoàn cảnh đang sống là thanh tịnh, đột nhiên đến sống trong hoàn cảnh này, đơn giản là chỉ một ngày cũng chẳng thể chịu đựng được! Trong thế gian này, hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh nhân loại xă hội, nhất là tâm lư của những kẻ b́nh phàm, tức là tâm lư xấu hèn của bọn chúng sanh phàm phu, nơi nào chúng ta cũng đều cảm nhận nỗi đau khổ ấy. V́ thế, phải nhàm ĺa. Trong thế gian, sanh tử là trọng yếu nhất. Sanh vào nhân gian, trong lúc c̣n sống, tuy đau khổ, có người vẫn mong mỏi sống lâu hơn một chút. Thậm chí hy vọng đời kế tiếp lại sanh làm người trong nhân gian. Đấy là mê hoặc, điên đảo. Suốt một đời này đă chịu đựng thống khổ, đời kế tiếp lại hứng chịu đau khổ. Đối với xă hội này, nếu quư vị biết nhân quả, hiện thời chẳng tốt đẹp, trong tương lai sẽ càng tệ hơn hiện thời. Đó là chuyện nhất định! Nếu lại trải qua bao nhiêu năm, nếu tái sanh vào nhân gian, chỉ sợ ngay cả pháp môn Tịnh Độ thuần túy cũng rất khó được nghe, mong liễu sanh tử càng khó hơn nữa! Huống hồ đời này chẳng thể văng sanh, đời sau nữa có thể sanh trong nhân gian hay không, sẽ là một vấn đề to lớn! Suy nghĩ những vấn đề này, ắt sẽ chán ghét thế gian này!

2) Kế đó là Hân (), tức vui thích, mong mỏi. Vui thích những ǵ? Vừa nghe hoàn cảnh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp ngần ấy. Phật, đại Bồ Tát, đều là các vị thượng thiện nhân, tụ hội một chỗ, trọn chẳng giống như trong thế gian, chúng sanh phàm phu đấu đá lẫn nhau, chẳng hợp ư kiến, hăm hại lẫn nhau! Trong thế giới Cực Lạc, chẳng có hiện tượng ấy. Hễ có cái tâm ấy, sẽ chẳng thể văng sanh. V́ thế, hễ nghĩ đến hoàn cảnh và nhân sự nơi đó, đúng là quá tốt đẹp. Có mối quan hệ này, chúng ta nhất tâm hy vọng, khẩn cầu, vui thích. Hăy nắm chắc chữ Hân này, Hân là hoan hỷ.

          B́nh thường, chúng ta một là Yếm, hai là Hân. Hai chữ Hân và Yếm chính là pháp môn Hân Yếm, hợp lại thành Nguyện. Nguyện lực hết sức trọng yếu. B́nh thường, do phát nguyện như vậy, chán nhàm và vui thích như vậy, “hành giả kiến dĩ”, [nghĩa là] hành giả trông thấy A Di Đà Phật và các vị tỳ-kheo, quyến thuộc vây quanh, đến tán thán người ấy, tiếp đón người ấy. Sau khi trông thấy, “tâm đại hoan hỷ”. B́nh thường, chúng ta phát nguyện, chán nhàm, vui ưa, nhưng vẫn chưa đạt được mục đích; khi ấy, hành giả trông thấy Phật đến, ngay lập tức có thể văng sanh, chẳng phải là sự hoan hỷ tầm thường, mà là đại hoan hỷ! “Tự kiến kỷ thân, tọa liên hoa đài” (Tự thấy thân ḿnh ngồi trên đài hoa sen). Kẻ b́nh phàm đến khi lâm chung, trong tâm khủng hoảng như thế ấy, rốt cuộc sẽ đi về đâu? Người ấy có biết hay chăng? Trong thế gian, làm đại hoàng đế, hoặc làm tổng thống của một quốc gia lớn nhất trên toàn thể thế giới, quyền uy hơn bất cứ người nào, đến khi thọ mạng chấm dứt, sẽ là thống khổ? Hay là vui sướng? Hành giả, tức người văng sanh, trong lúc ấy, tâm sanh đại hoan hỷ, “tự kiến kỷ thân”, [tức là] thấy thân thể của chính ḿnh, “tọa liên hoa đài”, ngự trên đài hoa sen. Đài hoa sen do đức Phật đem tới. “Trường quỵ, hiệp chưởng”: Hướng về đức Phật hành lễ, quỳ thẳng, chắp tay. “Vị Phật tác lễ”: Lễ Phật.

          “Vị cử đầu khoảnh”: Khi lễ Phật, trước tiên là lạy xuống, khi c̣n chưa ngẩng đầu lên, “tức đắc văng sanh thế giới Cực Lạc”. Ngay trong khi c̣n đang lạy xuống, chưa đứng lên, đă văng sanh thế giới Cực Lạc. Trước kia, khi chúng ta nghiên cứu kinh A Di Đà, kinh văn chép: “Tùng thị Tây Phương quá thập vạn ức Phật độ”, [nghĩa là] từ thế giới Sa Bà đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải đi qua mười vạn ức cơi Phật xa xôi ngần ấy! Nhưng khi văng sanh, sẽ dễ dàng như thế đó, lập tức văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́ sao mau chóng ngần ấy? Chúng ta phải nghiên cứu đôi chút.

          Trong bộ Di Đà Yếu Giải, tổ sư Ngẫu Ích đă chú giải rất minh bạch. Chúng ta học pháp môn Tịnh Độ, quan trọng nhất là ba chữ “Tín, Nguyện, Hạnh”, tức ba tư lương. Yếu tố của Tín là tín Sự, tín Lư:

1) Tín Sự là tin ngoài mười vạn ức cơi Phật, đích xác là có thế giới Cực Lạc. Trọn chẳng như kẻ b́nh phàm đă nói: “Địa cầu thật sự tồn tại. Ngoài địa cầu sẽ chẳng thật sự tồn tại”. Đấy thuần túy là tri kiến phàm phu. Có tri kiến ấy, bất luận là học vấn to đến đâu đi nữa, đều là tri kiến phàm phu, chẳng liễu giải mà! Chúng ta tin Sự, tin lời dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật: Ngoài mười vạn ức cơi Phật, xác thực là có thế giới Cực Lạc.

2) Kế đó là “tín Lư”. Lư là “mỗi cá nhân chúng ta, cho đến mỗi chúng sanh, đều có Chân Như bản tánh”. Bản tánh to cỡ nào? Bản tánh bao trùm hết thảy. Ở ngoài mười vạn ức cơi Phật kể từ thế giới Sa Bà, có thế giới Cực Lạc, c̣n có vô cùng vô tận thế giới, đều ở trong bản tánh của chúng ta. Chúng ta phải tin tưởng lư này.

Đă hiểu rơ Lư này, phối hợp Lư với Sự. Khi chúng ta lâm chung, sẽ là cái tâm văng sanh. “Tự thấy thân ḿnh” chính là tâm lư trông thấy thân thể của chính ḿnh. Người khác thấy người nào đó [khi văng sanh], thân chẳng động đậy, giống như đă chết! Chẳng động đậy là do người khác thấy vậy, cảnh giới bất đồng. Người văng sanh đến lúc văng sanh, cảnh giới chẳng giống kẻ b́nh phàm. Lúc đó, người ấy nhất tâm bất loạn, hoan hỷ, ở trong Định, ngồi trên đài hoa sen. Kẻ khác thấy dường như người ấy đă tắt hơi, giống như đă chết, nhưng người văng sanh há có chuyện ấy! Tắt hơi là ǵ? Hơi thở trong thế gian là giả tướng, hít vào thở ra là giả tướng. Nói đến chỗ chân thật, đấy đều là những thứ phập phều, chẳng chân thật. Hội quy vào đại định, khi nhập Diệt Tận Định, hơi thở mỏng manh gần như chẳng nh́n thấy! V́ thế, khi người ấy ở trong Định, tự thấy thân thể của chính ḿnh ngồi trên đài hoa sen, ngay cả lễ Phật, c̣n chưa lễ xong, đă đến thế giới Cực Lạc. Đây là đại cảnh giới “Lư Sự viên dung” hiển hiện, cho nên mới có thể văng sanh. Người thường tâm lư loạn cào cào, làm sao có thể văng sanh cho được?

          B́nh thường, phải luyện tập tâm lư ấy. Luyện tập trong lúc b́nh thường như thế nào? B́nh thường, chúng ta ở trong thế gian, dẫu cảnh giới tốt đẹp cũng thế, mà cảnh giới chẳng tốt đẹp cũng thế, đều coi nó là pháp sanh diệt đang sanh sanh diệt diệt, chẳng cần quan tâm tới nó. Cảnh giới tốt, mời quư vị làm đại tổng thống, tâm quư vị chẳng dao động. Cảnh giới chẳng tốt, thậm chí quư vị thứ ǵ cũng đều chẳng có, hết thảy các nỗi thống khổ đều xảy đến, quư vị cũng chẳng coi là có chuyện ǵ, đều chịu đựng được! Nếu b́nh thường luôn luyện tập như vậy, tâm mới có thể định. Đến khi lâm chung, mới có công phu ấy, mới có thể nước chảy thành gịng!

          Khi ấy, sanh về thế giới Cực Lạc, ngồi trên đài hoa sen. Hễ đến nơi, “liên hoa tầm khai”, [nghĩa là] hoa sen vốn là khép lại, sanh về thế giới Cực Lạc, hoa sen nở ngay lập tức. V́ sao hoa nở mau ngần ấy? Tổ sư chú giải: Thọ tŕ giới luật, tu hành các giới rất nghiêm, tốt đẹp lắm! Cho nên sau khi văng sanh, hoa sen sẽ nở rất nhanh. Trên đây là nói về t́nh huống khi văng sanh; t́nh huống sau khi văng sanh sẽ là như thế nào?

 

          (Kinh) Đương hoa phu thời, văn chúng âm thanh, tán thán Tứ Đế. Ứng thời, tức đắc A La Hán đạo, Tam Minh, Lục Thông, cụ Bát Giải Thoát.

         ()當華敷時,聞眾音聲,讚歎四諦。應時即得阿羅漢道,三明六通,具八解脫。

          (Kinh: Ngay khi hoa nở, nghe các âm thanh tán thán Tứ Đế. Ngay lập tức liền đắc đạo A La Hán, Tam Minh, Lục Thông, đủ tám món giải thoát).

 

          Đoạn này là nói về các lợi ích sẽ đạt được sau khi văng sanh. Sau khi hoa sen vừa nở, “đương hoa phu thời”, “phu” () là nở, [“đương hoa phu thời” nghĩa là] trong khi hoa sen nở, người văng sanh “văn chúng âm thanh” (nghe các âm thanh), nghe các loại âm thanh nói những lời ǵ? “Tán thán Tứ Đế”: Những âm thanh ấy đều đang tán thán pháp Tứ Đế. Nói tới pháp Tứ Đế, dựa theo tông Thiên Thai, căn cứ trên bốn giáo để phân tích, bèn có Tạng, Thông, Biệt, Viên, cảnh giới đều khác nhau. Tạng, Thông, Biệt, Viên đều tu pháp Tứ Đế. Kinh văn trong phần trước có nói đến chuyện hồi Tiểu hướng Đại, nhưng công phu trong thường nhật [của người mới văng sanh ấy] là công phu Tiểu Thừa. V́ vậy, pháp Tứ Đế ứng hợp với pháp môn Tiểu Thừa do người ấy đă tu trong thế giới Sa Bà trước khi văng sanh, nhân quả tương xứng. Ở đây là tán thán Tứ Đế của Nhị Thừa.

          Pháp Tứ Đế của Nhị Thừa, nói thuần túy theo Tiểu Thừa, sẽ là tu Sanh Diệt Tứ Đế. Bích Chi Phật thuộc Trung Thừa, sẽ là Vô Sanh Tứ Đế. Dựa theo bốn giáo để nói, cảnh giới Sanh Diệt Tứ Đế và Vô Sanh Tứ Đế cũng không coi là cao. Dẫu không cao, nhưng chúng ta b́nh thường tuy phát nguyện tu pháp môn Đại Thừa, nhưng nếu muốn thật sự liễu sanh tử văng sanh, ắt phải vun quén nền móng Sanh Diệt Tứ Đế th́ mới có thể nương cậy. Sanh Diệt Tứ Đế là ǵ? Khổ, Tập, Diệt, Đạo, danh từ của Tứ Đế [trong bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên đều là như nhau].

          Khổ Đế có ba khổ, tám khổ v.v... Tập () là ǵ? Khổ () do đâu mà có? Từ Tập mà có. Nay chúng ta hứng chịu đủ mọi nỗi khổ, chớ nên oán trời hờn người! Đều là do trong quá khứ chính ḿnh đă tạo đủ mọi tội nghiệp, mới chuốc lấy đủ mọi khổ quả! Khổ là quả, Tập là nhân. Đấy là hai thứ chân lư trong thế gian. Nếu quư vị nhàm chán thế gian này chẳng tốt đẹp, có sanh và tử là chẳng tốt đẹp! Có chỗ tốt là bất sanh, bất diệt, thành tựu thánh nhân, thành tựu Phật. Đó là ǵ? Diệt () là chuyển cái nhân đau khổ và cái quả đau khổ sanh sanh diệt diệt trong thế gian, mọi thứ đều diệt sạch, sẽ đắc cảnh giới đại an lạc. Đấy là quả. Làm thế nào để đạt đến cái quả ấy? Đạo (), tức tu đạo, ắt phải tu đạo. Đấy là cái nhân xuất thế gian. Diệt và Đạo là nhân và quả xuất thế gian. Đấy là Tứ Đế. Vô Sanh Tứ Đế, chúng ta thật sự chẳng hiểu, chẳng cần phải nói tới. Trên thế gian, hễ chúng ta bị một chút khổ, bèn cảm thấy rất khổ. Vô Sanh Tứ Đế là bất cứ nỗi khổ nào giáng xuống thân đều chẳng thấy khổ, chẳng có ǵ là khổ! Hiện thời, ai có được công phu ấy? Chuyện này vẫn là cảnh giới của bậc Trung Thừa Bích Chi Phật.

          Trước mắt, chúng ta chú trọng Sanh Diệt Tứ Đế. Diệt và Đạo là pháp xuất thế gian. Chúng ta đều biết tu pháp xuất thế gian. Muốn tu pháp xuất thế gian, ắt phải thật sự liễu giải pháp thế gian. Nếu chẳng liễu giải pháp thế gian, chẳng có cách nào tu pháp xuất thế gian. Chúng ta có thừa nhận Khổ trong pháp thế gian hay không? Chúng ta phải giác ngộ Khổ. Toàn thể Phật pháp nói tóm lại là phải giác ngộ. Chúng ta đối với Khổ chẳng chịu giác ngộ, cũng chẳng biết phải giác ngộ. Bao nhiêu kẻ coi khổ là lạc. Trên thế gian, cậy vào một tí thông minh vặt vănh, tận lực làm chuyện tổn người, lợi ḿnh, dùng đủ mọi phương pháp hạ thấp người khác, nâng cao ḿnh lên. Dùng đủ mọi phương pháp để đoạt lấy tiền bạc và quyền lực của người khác, cứ ngỡ chính ḿnh là có trí huệ, rất thông minh. Kẻ đó chẳng biết trong chớp mắt, tiếp theo đó sẽ là đại khổ báo xảy đến, kẻ ấy đâu có hiểu! Chẳng giác ngộ tí nào! Coi khổ là lạc. Do vậy, đây là pháp sanh diệt.

          Đối với Khổ Đế của pháp Sanh Diệt, ắt phải giác ngộ. Phải giác ngộ như thế nào? Bất luận kẻ nào tiền tài nhiều đến mấy, địa vị cao tới mấy đi nữa, nói theo toàn thể, chẳng qua là trong một cái khảy ngón tay ngắn ngủi, tạm bợ, sẽ tiêu mất! Vạn pháp đều là như thế đó. Ở bên sông, Khổng phu tử trông thấy nước chảy, bèn cảm thán: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ” (Qua đi như thế đó, ngày đêm chẳng ngừng). “Thệ giả” (逝者) là nói tới vạn vật trong thiên địa vũ trụ (kể cả nhân sinh) đều giống như nước. Có thể khiến cho ḍng sông ngừng chảy ư? Chẳng làm được! Bất cứ chuyện ǵ trong thế gian cũng đều như gịng nước chảy chẳng ngừng. Đấy là một tướng. Bao nhiêu người liều mạng tranh đoạt, hễ chưa tới tay, bèn nghĩ trọn hết các phương pháp để tranh đoạt. Sau khi đă đoạt được, chẳng có một khắc thời gian nào có thể nắm chặt, nó sẽ ngay lập tức biến mất. Đó là khổ hay lạc? Chẳng hiểu đạo lư này, tức là chẳng hiểu rơ Khổ Đế. Kẻ chẳng hiểu rơ Khổ Đế, quư vị dạy kẻ ấy tu đạo, dẫu rất thông thuộc Tam Tạng mười hai bộ, nhưng nếu chẳng liễu giải Khổ Đế, thảy đều là vô dụng. Thậm chí biến Phật pháp thành pháp thế gian, trộm cắp, buôn bán Phật pháp. V́ vậy, trước hết, phải liễu giải Khổ và Tập trong Sanh Diệt Tứ Đế. Khổ do đâu mà có? Chiêu cảm từ các ác nghiệp do chính ḿnh đă tạo. Tất cả phàm phu đều chẳng hiểu, dẫu là đă học Phật. Chúng ta đừng nghĩ: Học pháp Đại Thừa, sẽ chẳng cần phải nói tới [Tứ Đế]! Không nói tới, sẽ không được đâu nhé! Ắt phải thống thiết đổ công dốc sức [ḥng liễu giải Tứ Đế] th́ mới có thể thật thà niệm Phật. Chẳng thể thật sự nhận thức, chẳng thật sự thấy thấu suốt Khổ và Tập trong pháp thế gian, chúng ta sẽ chẳng thể thật thà niệm Phật. Hiện thời, chẳng thể thật thà niệm Phật, tương lai sẽ chẳng thể văng sanh, nhân quả tương xứng mà! V́ vậy, những loại Tứ Đế khác chẳng cần phải nói tới; v́ chúng ta thật thà niệm Phật, hăy đổ công dốc sức ngay trong Sanh Diệt Tứ Đế!

          Kinh văn chép: “Văn chúng âm thanh, tán thán Tứ Đế” (Nghe các âm thanh, khen ngợi Tứ Đế), “tán thán” (讚歎) là nói tới người văng sanh, khi chưa văng sanh, [người ấy] đă tu tập Sanh Diệt Tứ Đế rất khá. Hoàn toàn chiếu theo những điều đă nói trên đây để tu tập, đă thấy thấu suốt pháp thế gian, và cũng buông xuống. Sau đấy, nhất tâm tu đạo, tu pháp môn Tịnh Độ, phát nguyện cầu sanh, công phu mới thực tiễn, tới lúc đó, mới có thể văng sanh. Khi hoa nở thấy Phật, có nhiều thứ âm thanh là để tán thán sự thành tựu của người ấy. Tán thán khi ấy chẳng nhằm khuyên người ấy tu Tứ Đế. Người ấy đă tu [Tứ Đế] từ lâu, tu đạt được kết quả tốt đẹp như vậy. Do đó, thốt lời tán thán.

          “Ứng thời tức đắc A La Hán đạo”: “Ứng thời” (應時) là ngay trong lúc ấy. Khi nghe các âm thanh tán thán Tứ Đế, sẽ ngay lập tức rất nhanh chóng đắc đạo A La Hán. “A La Hán đạo” là chứng được quả thứ tư, tức quả A La Hán. Văng sanh thế giới Cực Lạc là pháp môn Đại Thừa, [v́ sao] người ấy chứng quả La Hán? Tuy là pháp môn Đại Thừa, nhưng vốn tu tập hạnh Tiểu Thừa, cho nên trước hết sẽ đắc đạo A La Hán. A La Hán đạo là Vô Sanh, tức là diệt trừ sự sanh diệt của hết thảy các pháp, đạt được Vô Sanh thật sự. Pháp này c̣n gọi là Vô Trước (無著), [nghĩa là] đối với hết thảy các giả pháp, đều không chấp trước. Thật sự đạt được A La Hán đạo! A La Hán đạo là giai đoạn ắt phải trải qua để liễu sanh tử. Chúng ta tu pháp Đại Thừa phải liễu sanh tử; để liễu sanh tử, vẫn phải đoạn Kiến Tư Hoặc. Chứng đắc A La Hán đạo, sẽ đoạn hết sạch toàn thể Kiến Tư Hoặc. Đối với pháp môn Đại Thừa, muốn liễu sanh tử, ắt cũng phải trải qua giai đoạn này, người ấy đă đắc A La Hán đạo!

          Đắc A La Hán đạo, sẽ đắc “Tam Minh, Lục Thông”. Xin hăy xem biểu đồ bài giảng.

 

IV.2.2.16.1 Tam Minh

 

          1) Túc Mạng Minh (宿命明): Biết quá khứ gọi là Túc Mạng. Chúng ta biết t́nh h́nh trong một đời này mà thôi. Trước đời này là “tiền sanh” (đời trước), trước tiền sanh c̣n có tiền sanh nữa, chúng ta chẳng biết. Đắc Túc Mạng Minh sẽ có thể hiểu rơ t́nh huống của sanh mạng trong đời quá khứ.

2) Thiên Nhăn Minh (天眼明): Đối với chuyện vị lai, mắt người ấy thấy rất rơ ràng. Thấy rất rơ ràng hoàn cảnh và sanh mạng trong vị lai sẽ là như thế nào, đều có thể liễu giải.

3) Lậu Tận Minh (漏盡明): “Lậu” () chỉ hữu lậu pháp, “tận” () là chấm dứt. Lậu Tận là pháp hữu lậu chẳng c̣n. Lậu Tận Minh cũng là đắc pháp vô lậu, có ư nói tới những chuyện trong hiện tiền. Đối với chuyện trong hiện thời, chúng ta chẳng thấy rơ. Những sự việc đang xảy ra tại trong nước và ngoài nước đều là chuyện trên địa cầu. Chuyện ở ngoài địa cầu, chúng ta càng chẳng liễu giải. Chuyện trên địa cầu chúng ta liễu giải bao nhiêu? Chẳng liễu giải! V́ sao chẳng liễu giải? Chúng ta đều dùng cái tâm hữu lậu để nh́n, nh́n kiểu nào cũng chẳng thấy rơ ràng! Dẫu TV phát ra tin tức, báo chí cũng đăng tải mọi chuyện, chúng ta trông thấy mà chẳng hiểu rơ, chẳng nắm được chân tướng sự thật. Trong ấy bao gồm rất nhiều vấn đề: Do thành kiến chủ quan của chính ḿnh, sự thật khách quan, c̣n có những lời nói của kẻ khác chẳng phù hợp sự thật. Khá nhiều vấn đề chúng ta đều chẳng liễu giải, ắt phải đạt được vô lậu; sau khi vô lậu th́ mới triệt để hiểu rơ. Nói cách khác, tất cả phiền năo đều đoạn sạch sành sanh th́ mới đắc vô lậu, gọi là Lậu Tận Minh. Sau khi đắc vô lậu, chuyện thế gian đều thấy rơ ràng. Thấy rơ ràng chuyện thế gian th́ sẽ dễ thực hiện. Thấy bất cứ chuyện ǵ cũng đều chẳng có phiền năo, thật sự chẳng có phiền năo!

          Lục Thông: Túc Mạng, Thiên Nhăn, Lậu Tận là ba thứ thần thông; lại c̣n Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông và Thần Túc Thông. Thần Túc Thông (神足通) là trên hư không, dưới nước và mặt đất, đều phi hành tự tại. Muốn tới nơi nào, bèn có thể vận dụng thần thông, ngay lập tức đến nơi. Kẻ b́nh phàm chúng ta muốn đến nước Mỹ, phải ngồi máy bay. Có Thần Túc Thông sẽ chẳng cần ngồi máy bay, ngay lập tức đến nơi. Tha Tâm Thông (他心通) là trong tâm người khác dấy lên tâm niệm ǵ, người ấy đều biết. Thiên Nhĩ Thông (天耳通) là âm thanh ở rất xa đều nghe rơ ràng! Những thần thông này gọi chung là Lục Thông.

          Minh và Thông trong “Tam Minh, Lục Thông” có ǵ khác nhau? Trước khi đắc Tam Minh, có thể đắc Lục Thông. “Thông” () là thông đạt, “minh” () là hiểu rơ triệt để. Lấy Túc Mạng Minh và Túc Mạng Thông để nói, sẽ khác nhau. Túc Mạng Thông là biết đời nào trong quá khứ thuộc về đường nào, c̣n [người đắc] Túc Mạng Minh không chỉ liễu giải điều này, mà người ấy c̣n liễu giải [chính ḿnh] đă tạo những nghiệp nào, các thứ t́nh huống đều liễu giải toàn bộ. Minh so với Thông càng liễu giải nhiều hơn, phạm vi càng rộng hơn. Thiên Nhăn Minh và Thiên Nhăn Thông, Lậu Tận Minh và Lậu Tận Thông cũng là như vậy. So với Thông, Minh càng mở rộng hơn!

          Đắc Minh, đắc Thông, đương nhiên là rất tốt, nhưng chúng ta tu đạo chẳng cần chú trọng điều này, niệm Phật là được rồi. Niệm Phật đến thế giới Cực Lạc, tự nhiên đắc Tam Minh, Lục Thông. Nếu chẳng chú trọng niệm Phật, cứ mong cầu thần thông, cầu Minh, những chuyện ấy sẽ chẳng thể làm được. V́ sao? Cái tâm mong cầu Thông và chuyện tu đạo chẳng tương hợp, v́ Thông và Minh do từ đại định, từ công phu định lực mà đắc. Chẳng có công phu định lực, lấy đâu ra Thông? Giống như soi bóng trong nước, nước ắt phải “định” th́ mới có thể phát sanh tác dụng chiếu. Nếu nước chẳng định, cứ lay động, chiếu kiểu nào cũng chẳng hiện bóng! Nếu cái tâm của bọn chúng sanh chúng ta chẳng định, chỉ mong cầu Thông, cái tâm cầu Thông rối beng, mong [chính ḿnh] cao hơn kẻ khác một bậc, mong chính ḿnh vượt trỗi người khác, mong biểu hiện “chính ḿnh có thần thông” giữa mọi người. Hễ có động cơ ấy, sẽ cách xa tu đạo, tu Định, chẳng biết đă trái nghịch bao nhiêu, bao xa! Chúng ta phải liễu giải điều này! Hăy nhất tâm tu đạo, hăy khéo thật thà niệm Phật. Hễ công phu đă đạt, sẽ tự nhiên có [Thông và Minh].

          “Cụ Bát Giải Thoát”: Bát Giải Thoát c̣n gọi là “bát bối xả”. “Bối” () là trái nghịch, “xả” () là vứt bỏ. Trái nghịch điều ǵ? Vứt bỏ điều ǵ? Đối với các giả pháp sanh diệt trong thế gian, bao gồm những vọng tâm trong nội tâm chúng ta, đều phải trái nghịch, trừ bỏ. Đó là “nghịch trần, hợp giác”. Đối với các thứ t́nh huống trong trần gian, đều phải tương phản, chẳng ḥa hợp với chúng, phải ḥa hợp cùng giác và Phật pháp, nên gọi là “bát bối xả”. Bát bối xả là công phu tu tŕ nơi nhân địa, tu đến mức thành công bèn gọi là “Bát Giải Thoát”. Có tám điều nào vậy? (xin xem biểu đồ bài giảng).

 

IV.2.2.16.2. Bát Giải Thoát

 

          1) Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc: Khi tu pháp này, phải phá sắc tướng (sắc pháp). Đối với người tu đạo, phá trừ Thân Kiến hết sức trọng yếu! Bất luận kẻ nào cũng đều coi thân thể là ngă, coi nó như chính ḿnh, coi thân thể của chính ḿnh quư báu hơn bất cứ điều ǵ, thân thể này tốt đẹp hơn bất cứ điều ǵ. Vậy là chẳng được rồi! Không thể thoát ly sanh tử. Dùng công phu này, trước hết là phải đối với nội hữu, quán sát chính ḿnh, quán tưởng sắc thân của chính ḿnh. Đừng nghĩ là trẻ tuổi, từ da dẻ bề ngoài, đầu tóc đen mun, da dẻ rất tươi nhuận, hết thảy đều rất đẹp đẽ, nhưng chẳng lâu dài, tới khi tuổi già sẽ biết: “Nhớ lại từ lúc tuổi trẻ cho đến hiện thời, dường như mới ngày hôm qua!” Chẳng cảm thấy thời gian đă trôi qua bao nhiêu, màu sắc nơi thân thể của chính ḿnh đẹp đẽ dường ấy, chẳng ǵn giữ được. Già cả vẫn chưa thấm vào đâu, sau khi già nua lại c̣n phải chết! Sau khi đă chết, chẳng được mấy hôm, thân thể đă hư nát. Chẳng lâu sau, biến thành một đống xương trắng. Cổ nhân có Bạch Cốt Quán: Tuy thân thể hiện thời có thể hoạt động, chính ḿnh thấy là một đống xương trắng toát. Hành phép quán tưởng này, sẽ chẳng chấp trước thân thể, chẳng coi nó như bảo bối. Tiến hơn nữa, thấy thân thể của người khác cũng chẳng tham luyến. Thấy thân thể của người khác cũng là một giả tướng. V́ thế, để quán ngoại sắc, trước hết phải quán nội sắc, sau đấy mới quán ngoại sắc. Ắt phải vận dụng công phu như vậy!

          2) Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc: Trong phần trước là nội hữu sắc tưởng, dùng Bạch Cốt Quán. Quán đến một mức độ [nhất định], xương trắng tỏa sáng, có quang minh tám màu. Lại sợ [hành nhân] sẽ chấp trước quang minh; v́ thế, học đạo chẳng dễ dàng. Về sau, cũng phải bỏ sạch điều này. Hết thảy đều chẳng có th́ gọi là “nội vô sắc tưởng”. Quán tưởng chính ḿnh thứ ǵ cũng đều chẳng có, sau đấy mới quán ngoại sắc. Sau khi đă quán nội vô sắc tới mức độ sạch sành sanh, [nhận thấy] chúng sanh vẫn chẳng thể liễu sanh tử. Điều nặng nhất của chúng sanh là tham ái, [hay nói cách khác là do có] cái tâm tham cầu. Tuy thân thể đă chẳng có, nhưng vọng tâm hăy c̣n. Hễ có vọng tâm tồn tại, đối với ngoại cảnh vẫn tham cầu. V́ thế, vẫn phải quán ngoại sắc. Lại tiếp tục quán ngoại sắc, quán măi cho đến khi ngoại sắc chẳng c̣n mới thôi. V́ thế, điều này là nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc. Trong giai đoạn này, khi quán ngoại sắc, phải đoạn trừ cái tâm tham cầu và phiền năo. Sau khi hoàn thành giai đoạn này, sẽ tiến nhập giai đoạn thứ ba.

          3) Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ: Tịnh giải thoát (淨解脫) là ǵ? Trong phần trước là “nội quán sắc”, tức là quán nội thân của chính ḿnh. Quán chính ḿnh thành một đống xương trắng. Xương trắng dần dần tỏa ra ánh sáng. Quang minh th́ vẫn chưa phải là tốt, dần dần chuyển biến thành thanh tịnh quang. Quán toàn bộ tám thứ bạch quang trở thành thanh tịnh. Khi ấy, thân thể sẽ chẳng bị ràng buộc tí nào, tâm lư được giải thoát, thân tâm hoàn toàn đạt đến tự tại, thân thể an ổn, tâm lư an lạc, đó là “thân tác chứng” (身作證, thân làm chứng). “Chứng” là bản thân hoàn toàn chứng đắc cảnh giới quán tưởng. “Cụ túc trụ” (具足住) là cảnh giới được quán đă hoàn toàn đầy đủ!

          Ba công phu trên đây đă đạt được rồi, sẽ ở trong giới nào? Hoàn toàn ở trong Sắc Giới Thiên, nhập công phu Thiền Định. Tiến hơn bước nữa là Không Vô Biên Xứ. Từ Sắc Giới Thiên, lại tiến nhập công phu Thiền Định càng sâu hơn. Sắc Giới Thiên c̣n có h́nh sắc, lên cao hơn một tầng nữa là Vô Sắc Giới Thiên. Tầng thứ nhất trong [Vô Sắc Giới Thiên] là Không Vô Biên Xứ, rỗng rang chẳng có ngằn mé, gọi là Không Vô Biên Xứ Định. Nhập đại định này, hết thảy bờ mé đều chẳng có, Định càng sâu hơn Sắc Giới Thiên. Tiến thêm một tầng nữa, bỏ qua Không Vô Biên Xứ Định, lại nhập Thức Vô Biên Xứ Định. Sau khi nhập Thức Vô Biên Xứ Định, lại tiến thêm bước nữa là đạt tới Vô Sở Hữu Xứ Định, là tầng Không Thiên thứ ba. Cuối cùng, đạt đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, là cao nhất, cũng là tầng Không Thiên thứ tư. Từ Không Vô Biên Xứ Định cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định chính là bốn loại Thiền Định lớn trong Vô Sắc Giới.

          Điều cuối cùng, Diệt Thọ Tưởng Định thân tác chứng cụ trụ. Người tu Tiểu Thừa đă vượt khỏi tam giới, chứng quả thứ ba, gọi là quả Bất Hoàn, trụ trong Bất Hoàn Thiên. V́ muốn tạm thời nghỉ ngơi, bèn nhập Diệt Tận Định, gọi là Diệt Thọ Tưởng. Thọ () là tiếp nhận. Bất cứ chuyện ǵ trong thế gian chúng ta đều tiếp nhận. Hễ tiếp nhận bèn có “tưởng”, [tức là] trong tâm có tư tưởng. Những thứ ấy đều là chuyện phiền năo, trong tâm bị tạp loạn. Hễ trong tâm tạp loạn, sẽ là chuyện hết sức khổ sở. Bậc thánh nhân từ Tam Quả trở lên chán ghét những thứ ấy, cho nên Diệt, tức là khiến cho nó ngưng dứt, chẳng để cho nó dấy lên tác dụng. Nhập loại Định ấy gọi là Diệt Tận Định. Sau khi nhập Diệt Tận Định, kẻ b́nh phàm chúng ta có hô hấp, người ấy (người nhập Diệt Tận Định) cũng có hô hấp. Khi người ấy nhập đại định, phàm nhân chúng ta gần như chẳng nh́n thấy người ấy có hô hấp, [hơi thở và ư niệm] vi tế đến mức tột cùng vi tế, trong tâm an tĩnh định trong ấy. Đó là một loại cảnh giới hưởng thụ nhất. Đấy là môn giải thoát thứ tám.

          Diệt Thọ Tưởng Định khác với Vô Tưởng Định của ngoại đạo. Tu Vô Tưởng Định thành công, sẽ sanh lên Vô Tưởng Thiên, [ngoại đạo] ngỡ là rốt ráo nhất, [tưởng là] đă chứng quả rốt ráo. Thật ra, hăy c̣n quá sớm! Thánh nhân Tam Quả biết điều này chẳng phải là rốt ráo, nghỉ ngơi ở nơi đó mà thôi. Hai đằng khác nhau!

          Bát Giải Thoát là do tu Bát Bối Xả mà đắc Thiền Định, đến cuối cùng, thành công, đắc Bát Giải Thoát. Phải biết: Bát Giải Thoát chẳng phải là tu thành trong thế giới Sa Bà trước khi văng sanh, mà là sau khi văng sanh. Nghe các âm thanh tán thán Tứ Đế, sau đấy, đắc đạo A La Hán, đắc Tam Minh, Lục Thông. Sau đấy, đắc Bát Giải Thoát. Sau khi chúng ta liễu giải phần kinh văn này, điều quan trọng nhất là cầu văng sanh. Sau khi văng sanh, đừng nói là Bát Giải Thoát, chúng ta có thể đạt được cảnh giới đại Bồ Tát rất nhanh! Hiện thời, chúng ta không cần học [Tam Minh, Lục Thông, Bát Giải Thoát]. Chẳng phải là [những điều ấy] không tốt, mà là do danh từ khó hiểu, công phu tu tập khó khăn lắm! V́ vậy, chúng ta cầu văng sanh là điều quan trọng nhất. Kế đó là một câu:

 

          (Kinh) Thị danh Trung Phẩm Thượng Sanh giả.

        ()是名中品上生者。

(Kinh: Đó gọi là Trung Phẩm Thượng Sanh).

 

          Phần trên đă nói rành mạch, cuối cùng là lời kết luận, đó gọi là người văng sanh Trung Phẩm Thượng Sanh.

 

Tập 45

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ hai mươi sáu, bắt đầu từ hàng thứ bảy, tôi đọc trước một đoạn kinh văn.

 

          (Kinh) Trung Phẩm Trung Sanh giả: Nhược hữu chúng sanh, nhược nhất nhật nhất dạ tŕ Bát Giới Trai, nhược nhất nhật nhất dạ tŕ Sa-di giới, nhược nhất nhật nhất dạ tŕ Cụ Túc Giới, oai nghi vô khuyết. Dĩ thử công đức, hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc, giới hương huân tu.

        ()中品中生者:若有眾生,若一日一夜持八戒齋,若一日一夜持沙彌戒,若一日一夜持具足戒,威儀無缺。以此功德,迴向願求生極樂國。戒香熏修。

(Kinh: Trung Phẩm Trung Sanh là nếu có chúng sanh hoặc một ngày một đêm tŕ Bát Quan Trai Giới, hoặc một ngày một đêm tŕ Sa Di Giới, hoặc một ngày một đêm tŕ Cụ Túc Giới, chẳng khuyết oai nghi. Dùng công đức này hồi hướng nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc, giới hương huân tu).

 

          Lần trước đă nói về Trung Phẩm Thượng Sanh, lần này nói về Trung Phẩm Trung Sanh. Bất luận nói đến phẩm nào, đều phải đặc biệt chú ư cái nhân để văng sanh. Thượng Phẩm Thượng Sanh có cái nhân của Thượng Phẩm Thượng Sanh, cho đến Trung Phẩm Thượng Sanh có cái nhân của Trung Phẩm Thượng Sanh. Đă có cái nhân ấy, sau đấy, gặp duyên ǵ th́ mới có thể thành tựu văng sanh khéo phù hợp với kết quả của phẩm ấy, tức là nhân quả tương xứng. Câu đầu tiên trong phần kinh văn vừa mới niệm, “Trung Phẩm Trung Sanh giả” nêu bày danh xưng của phẩm này. Kế đó, đoạn kinh văn bắt đầu từ câu thứ hai cho đến “giới hương huân tu” nói về cái nhân của Trung Phẩm Trung Sanh.

          Trung Phẩm Trung Sanh ắt phải đầy đủ những điều kiện nào? Tiếp đó, dựa theo kinh văn để nói về cái nhân văng sanh. “Nhược hữu chúng sanh, nhược nhất nhật nhất dạ tŕ Bát Giới Trai”: Nếu có những chúng sanh tu hành có thể thọ tŕ Bát Quan Trai Giới một ngày một đêm. Bát Giới Trai chính là Bát Quan Trai Giới. Trong phần trước, đă có giải thích: Thọ tŕ Bát Quan Trai Giới là thọ từng lần một, kỳ hạn thọ tŕ là một ngày một đêm. Ví như sáng sớm hôm nay thọ, tŕ đến sáng sớm ngày mai bèn coi là viên măn. Nếu muốn thọ nữa, phải thọ giới lần nữa. Thọ tŕ trong một ngày một đêm như vậy, công đức hết sức to lớn! V́ thọ tŕ thuần túy là giới xuất gia. Người tại gia thọ Bát Quan Trai Giới, trong ngày hôm ấy, từ sáng sớm cho đến tối, thảy đều dựa theo giới điều để làm đúng như vậy. Chẳng hạn như người tại gia thọ Ngũ Giới cũng thế, mà thọ Bồ Tát giới cũng thế, lấy Ngũ Giới làm cơ bản. Trong Ngũ Giới, đối với người tại gia, “chẳng dâm” là cấm tà dâm, nhưng thọ Bát Quan Trai Giới bèn tuyệt đối cấm ngặt dâm (kể cả quan hệ vợ chồng b́nh thường). Do vậy, thọ Bát Quan Trai Giới một ngày một đêm sẽ giống như suốt cả ngày hôm ấy thuần túy tŕ giới luật của hàng xuất gia tu hành.

          “Nhược nhất nhật nhất dạ tŕ Sa Di Giới”: Cũng là một ngày một đêm tŕ giới Sa Di. Giới Sa Di là giới xuất gia. Thọ giới Sa Di là c̣n chưa thọ giới tỳ-kheo, giới tỳ-kheo là Cụ Túc Giới. Xuất gia th́ trước hết là thọ giới Sa Di, giới điều khá ít. Có tất cả mười điều, phải ǵn giữ mười điều giới luật, gọi là Sa Di Giới. Kinh văn nói “Sa Di Giới” chính là [giới luật] thọ tŕ bởi nam chúng xuất gia; nữ chúng xuất gia thọ Sa Di Ni Giới. Ở đây nói “Sa Di Giới” tức là đă bao gồm Sa Di Ni Giới. Mười điều giới [của giới Sa Di] là tám giới [trong Bát Quan Trai Giới], kể thêm hai điều nữa thành mười giới. Thêm vào hai điều nào? Điều thứ nhất, Sa Di xuất gia th́ trong tay chẳng thể giữ tiền bạc, của cải. Tổ sư đă dựa theo kinh văn mà chú giải:

          1) Nói tới “vàng bạc” trong câu “không giữ vàng, bạc” chính là nói tới tiền tài, có nghĩa là: Xuất gia làm Sa Di, sau khi đă thọ giới Sa Di, theo học với vị thầy xuất gia, hết thảy [mọi thứ cần dùng] trong cuộc sống đều dựa vào vị thầy thế độ chăm sóc, toàn tâm theo học với Ngài, chính ḿnh chẳng cần giữ tiền bạc, tài vật. Đó là điều thứ nhất.

          2) Lại c̣n phải tŕ ngọ. “Tŕ ngọ” (持午) là mỗi ngày sau khi giữa trưa, sẽ chẳng thể ăn thứ ǵ nữa. “Tŕ ngọ giới” là quá giữa trưa sẽ chẳng ăn. Trong giới tỳ-kheo cũng là như thế. Đă xuất gia làm Sa Di, thọ Sa Di Giới sẽ tŕ giới “quá giữa trưa không ăn!”

          Hai điều này cộng với tám giới trong phần trước, sẽ thành mười giới Sa Di.

          “Nhược nhất nhật nhất dạ tŕ Cụ Túc Giới, oai nghi vô khuyết” (Nếu một ngày một đêm tŕ Cụ Túc Giới, chẳng khuyết oai nghi): Cụ Túc Giới là sau khi đă thọ giới Sa Di, qua một thời gian, tŕ giới rất khá, sẽ thọ giới tỳ-kheo. Nam chúng là giới tỳ-kheo, đối với nữ chúng là giới tỳ-kheo-ni. Nói Cụ Túc (具足) nghĩa là tất cả các giới điều đều đầy đủ, cho nên gọi là Cụ Túc Giới. Dùng giới tỳ-kheo để nói, giới điều có hai trăm năm mươi điều. Giới tỳ-kheo-ni nhiều hơn, nói thông thường là ba trăm bốn mươi tám điều. Có bản chú giải nói là “năm trăm điều”. Năm trăm điều là nói theo số chung (tính tṛn); nếu liệt kê từng điều, bất quá là ba trăm bốn mươi tám điều mà thôi. Tăng chúng xuất gia ngoài Cụ Túc Giới ra, c̣n phải oai nghi chẳng khuyết. Oai nghi c̣n vi tế hơn giới điều. “Oai” () là oai đức, “nghi” () là nghi biểu (儀表, dáng vẻ biểu hiện đúng mực, hợp lễ, có thể làm gương mẫu cho người khác). Tăng chúng xuất gia sau khi thọ Cụ Túc Giới, c̣n phải dưỡng thành oai đức. Đối với phương diện nghi biểu, chỗ nào cũng đều làm khuôn mẫu cho chúng sanh, chớ nên khiếm khuyết, gọi là “oai nghi vô khuyết”. Oai nghi bao gồm bốn oai nghi, ba ngàn oai nghi, hoặc tám vạn oai nghi, danh xưng chẳng ít! Ba ngàn oai nghi hoàn toàn chẳng phải là ba ngàn điều. Trong pháp số, có người kể ra ba ngàn điều, nhưng có vị tổ sư chẳng chủ trương tính toán như vậy! Ngài cho rằng “ba ngàn” là nói tổng quát nhằm h́nh dung số nhiều mà thôi! Tám vạn oai nghi là gọi tắt của “bát vạn tứ thiên oai nghi”. Tám vạn bốn ngàn oai nghi cũng nhằm h́nh dung oai nghi phải chú ư hết sức nhiều mà thôi!

          Nho gia trong văn hóa Trung Hoa cũng nói đến lễ, sách Trung Dung có câu: “Lễ nghi tam bách, oai nghi tam thiên” (lễ nghi ba trăm, oai nghi ba ngàn). Có nghĩa là: Người tu đạo ngoài việc tuân thủ những giới luật cơ bản ra, ngôn ngữ, hành vi xét theo phương diện vi tế đều phải khéo chú ư. Nói thông thường, bốn oai nghi là ǵ? Là bốn thứ hành vi được biểu hiện ra. Bất luận người nào khi có hành động th́ là Hành, có Trụ tức khi đứng ở chỗ nào đó, hoặc là giữ cho thân thể ở một nơi chốn nhất định chẳng có hành động. Đó là Trụ. Lại c̣n có Tọa, tức là khi ngồi, ngồi ở nơi nào cũng đều ngồi đúng quy củ. Lại c̣n có Ngọa là khi ngủ nghê. Nói thông thường là “hành, trụ, tọa, ngọa”, đi bèn có oai nghi của đi, đứng bèn có oai nghi của đứng, ngồi bèn có oai nghi của ngồi, ngủ nghê có oai nghi trong ngủ nghê, cho nên gọi là “bốn thứ oai nghi”.

          Nói đến bốn oai nghi, không chỉ người đă thọ Cụ Túc Giới phải chú trọng, mà người tại gia b́nh phàm tu đạo cũng đều phải chú trọng. Tôi vừa mới nói Nho gia cũng nói “ba ngàn oai nghi”. Điều này, ngoài việc ǵn giữ oai đức nghi biểu của người tu đạo ra, c̣n giữ cho sắc thân của người tu đạo khỏe mạnh, rất quan trọng! Nói đến chuyện ngồi, các bác sĩ hiện thời cũng thường nói v́ sao xương sống người già thường mọc gai, chèn ép dây thần kinh, gây ra đau nhức. Đây là v́ suốt một thời gian dài chẳng chú ư, tư thế ngồi không đúng. Lúc trẻ, chẳng cảm thấy ǵ; tới lúc già cả, bệnh tật lộ ra. Nói đến oai nghi th́ thời cổ chẳng có ghế dựa, hiện thời có ghế dựa. Chớ nên ngồi ngửa ra, ngồi xa khỏi lưng ghế, lưng dựa vào đằng sau, phần giữa lưng bị lơ lửng, gây nên tổn hại rất lớn đối với cột sống. Đó là một loại [oai nghi] mà thôi. Khi đi, lại c̣n phải chú ư. Ví như người đi lại chẳng chú ư, hễ vấp ngă một cái là thôi rồi! Người cao tuổi hễ vấp ngă sẽ bị găy xương. B́nh thường, dưỡng thành [thói quen] đi, đứng, nằm, ngồi tốt đẹp. Ngủ nghê cũng có tư thế ngủ nghê. Cổ nhân đối với bất luận oai nghi như Phật pháp đă dạy, hoặc oai nghi như Nho gia đă nói, chiếu theo tư thế ấy để ngủ, sẽ có thể bảo tŕ sự vận hành b́nh thường của hệ thống tiêu hóa nội tạng. Vừa phù hợp oai nghi, lại c̣n phù hợp phép vệ sinh về mặt sinh lư. Dưỡng thành thói quen tốt, biểu hiện sẽ tự nhiên hết sức hữu ích cho việc tu đạo. Do vậy, ở đây đặc biệt nói là “oai nghi vô khuyết”. Chú ư oai nghi hết sức tốt đẹp, chẳng có bất cứ khiếm khuyết ǵ. Ngoài giới ra, phải thường chú ư chính ḿnh cho nhiều. Những điều được nói trong đoạn này đều là giới luật oai nghi, đối với mỗi điều giới luật, đều nói “nhược nhất nhật, nhất dạ” (hoặc một ngày một đêm). Một ngày một đêm chính là kinh văn nói đến thời gian ngắn nhất. Trên thực tế, tŕ Sa Di Giới hoặc Cụ Túc Giới, há chỉ là một ngày một đêm ư? Kinh văn có ư nói đến tầm quan trọng của việc tŕ giới, dẫu tŕ một ngày một đêm, công đức cũng rất to, huống hồ là [tŕ trong] một thời gian lâu dài? Hăy hiểu rơ ư nghĩa này!

          “Dĩ thử công đức, hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc” (Dùng công đức này, hồi hướng nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc). Tŕ giới nhấn mạnh oai nghi, công đức đạt được sẽ dùng vào chỗ nào? Hồi hướng Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng dùng vào việc khác, mà nhằm phát nguyện, cầu cho khi thọ mạng chấm dứt, có thể sanh về thế giới Cực Lạc. Đây cũng là một cái nhân chủ yếu để văng sanh Tây Phương. Cái nhân của việc văng sanh trong Trung Phẩm Trung Sanh là tŕ giới. Tŕ giới chia thành nhiều loại như vậy, bất luận loại nào, tại gia tŕ Bát Quan Trai Giới cũng thế, xuất gia tŕ Sa Di Giới, hoặc Cụ Túc Giới cũng thế, hễ tŕ tốt đẹp, tŕ thanh tịnh, th́ như trong câu kế tiếp đă nói: “Giới hương huân tu”. Tŕ giới thanh tịnh, đó là công đức. Công đức ấy được sánh ví như thế nào? Dùng hương để tỷ dụ. Hương có công năng huân tu, huân tập. Dùng hương để huân tập, tâm lư cá nhân tự nhiên ngày càng thêm tiến bộ trên đường đạo. Ở đây phải chú ư, cái gọi là “giới hương” (戒香) chính là tỷ dụ. Trong các kinh khác cũng có nói rơ: Vật chất để làm hương trong thế gian rất nhiều, như đàn hương hoặc các thứ hương liệu khác cũng thế, đều là [tỏa hương] hữu hạn. Chỉ có giới hương là chẳng có hạn chế, nó phổ biến. Giới hương tỏa ra có thể trọn khắp thế gian, chẳng giống bất cứ loại hương nào trong thế gian.   

V́ sao giới hương có thể phổ biến khắp thế gian, chẳng giống các loại hương trong thế gian? Phải từ kinh văn để liễu giải chuyện này. Phật pháp thường nói “tám vạn bốn ngàn pháp môn”, [hàm ư] pháp môn rất nhiều! Phật pháp có khai, có hợp. “Khai” () là mở rộng ra từng điều một. Càng mở rộng, càng triển khai càng nhiều. “Hợp” () là gộp lại, đơn giản hóa, tức là nói gộp lại. Tám vạn bốn ngàn pháp môn nói gộp lại, sẽ là ba thứ: Giới Định Huệ Tam Vô Lậu Học. Tam Vô Lậu Học gồm trọn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Đứng đầu trong Tam Vô Lậu Học là Giới Học, tức tŕ giới. Trong kinh Lăng Nghiêm và các bộ đại kinh khác đều nói: Học Phật phải tŕ giới. Do Giới sanh Định, tức là do tŕ giới sẽ phát sanh công phu định lực. Do Định khai Huệ, tức là sau khi đă có công phu định lực th́ trí huệ mới có thể mở mang. Chẳng có công phu định lực, lấy đâu ra trí huệ? Một người trong tâm rối tung beng, chẳng có Định, lấy đâu ra trí huệ? Ba thứ học vấn Giới Định Huệ khác với học vấn thông thường trong thế gian. Bất cứ loại học vấn nào trong thế gian cũng đều là hữu lậu, chẳng rốt ráo, nhưng ba thứ học vấn này là học vấn rốt ráo, đều nhằm dạy chúng ta tu hành thành Phật. Chúng là học vấn vô lậu. Học vấn vô lậu bao gồm tám vạn bốn ngàn pháp môn, mà trong ba loại này, điều đứng thứ nhất chính là Giới Học. Trung Phẩm Trung Sanh nói đến chuyện tŕ giới, giới là ǵ? Hết thảy những chuyện chẳng hợp lư đều chớ nên làm. Chuyện tốt, việc thiện (việc đáng nên làm) th́ phải làm. Có thể tu lâu dài như vậy, tự tánh của chúng sanh, tức quang minh từ công đức trong bản tánh, sẽ phát ra. Phàm phu trong thế giới Sa Bà thấy sắc, nghe tiếng, thanh, hương, vị, xúc, ngũ trần đều là pháp sanh diệt, chẳng giống như năm trần trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Năm trần trong Tây Phương Cực Lạc thế giới từ bản tánh hiển hiện. “Hương” là hương trần. Giới hương liên quan đến việc thọ giới, chúng ta hiển hiện hương sẵn có từ trong tâm tánh. V́ thế, hương ấy vượt trỗi bất cứ loại hương nào trong thế gian. Nó có thể phổ biến các nơi, nghe trọn khắp hết thảy các giới hương. Hương ấy do tŕ giới mà có. V́ thế, nói đến chuyện “huân tu”: Do chúng ta giữ giới trong một thời gian dài, sẽ có thể phát huy hương này. Dùng loại hương ấy để huân tập chính ḿnh, đấy gọi là “huân tu” (熏修).

          Do huân tu các thứ giới lâu ngày, cái nhân để văng sanh liền đầy đủ. Lại xem đoạn kinh văn thứ hai dưới đây:

 

          (Kinh) Như thử hành giả, mạng dục chung thời, kiến A Di Đà Phật, dữ chư quyến thuộc, phóng kim sắc quang, tŕ thất bảo liên hoa, chí hành giả tiền. Hành giả tự văn không trung hữu thanh, tán ngôn: “Thiện nam tử! Như nhữ thiện nhân, tùy thuận tam thế chư Phật giáo cố, ngă lai nghênh nhữ”.

          ()如此行者,命欲終時,見阿彌陀佛,與諸眷屬,放金色光,持七寶蓮華,至行者前。行者自聞空中有聲,讚言:善男子!如汝善人,隨順三世諸佛教故,我來迎汝。

(Kinh: Hành giả như thế, khi mạng sắp hết, thấy A Di Đà Phật và các quyến thuộc, phóng quang minh sắc vàng, cầm hoa sen bảy báu, đến trước hành giả. Hành giả tự nghe trong hư không có tiếng khen rằng: “Thiện nam tử! Như ông là thiện nhân, tùy thuận lời dạy của chư Phật trong ba đời, ta đến đón ông”).

 

          Đoạn này nói khi văng sanh, [hành giả] sẽ thấy Phật và quyến thuộc đến nghênh tiếp. Đó là cái duyên văng sanh. “Như thử hành giả”: Chỉ người tu hành thọ tŕ các thứ giới đă được nói trong phần kinh văn trước đó. “Mạng dục chung thời”: Thọ mạng của ai cũng đều chẳng thể tồn tại vĩnh cữu, đều nhất định là có lúc mạng chung. Khi sanh mạng sắp kết thúc, “kiến A Di Đà Phật, dữ chư quyến thuộc”, [nghĩa là]: Thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới giáo chủ A Di Đà Phật. Ngoài đức Phật ra, c̣n có các quyến thuộc theo đức Phật cùng đến. “Phóng kim sắc quang”: Thảy đều phóng quang minh có màu vàng ṛng. Quang minh vừa chiếu tới, hành giả khi lâm chung, trông thấy quang minh. Khi văng sanh, nhất định sẽ chiếu rơ ràng; đồng thời, A Di Đà Phật và các quyến thuộc hiện đến, “tŕ thất bảo liên hoa”: Trong tay cầm hoa sen, hoa sen ấy làm bằng bảy báu. “Chí hành giả tiền”: Đến trước người tu hành sắp mạng chung.

          “Hành giả tự văn không trung hữu thanh”: Người tu hành sắp văng sanh, khi ấy, sẽ nghe trên hư không có âm thanh. Trong hư không có âm thanh ǵ? “Tán ngôn” (Khen rằng): Âm thanh ấy là một thứ tán thán, tán thán ai? Kế đó, [kinh văn] chép: “Thiện nam tử”, trước hết khen ngợi người văng sanh, gọi người ấy là “thiện nam tử”. Trong kinh văn chỉ nói “thiện nam tử”, đương nhiên là thiện nữ nhân thuộc nữ chúng tu tŕ niệm Phật cũng được bao gồm trong ấy. “Như nhữ thiện nhân”: Bậc thiện nhân giống như quư vị. Nói “thiện nhân”, tức là nói người ấy b́nh thường hoặc là thọ tŕ một ngày một đêm Bát Quan Trai Giới, hoặc là một ngày một đêm tŕ Sa Di Giới, Cụ Túc Giới v.v... Do những chuyện ấy, đều là “thiện nhân”. Hễ nói đến giới, sẽ nhiều ngần ấy. Nói đơn giản nhất, sẽ là hai câu: Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”. Chư ác mạc tác” (đừng làm các điều ác) là ngăn dứt ác, chớ nên tạo ác nghiệp. “Chúng thiện phụng hành” (vâng làm các điều thiện) là làm những việc lành. V́ vậy, những người tuân giữ những giới trên đây đều được gọi là “thiện nhân”. “Tùy thuận tam thế chư Phật giáo cố” (Do tùy thuận lời dạy của chư Phật trong ba đời): Có thể vâng theo, chiếu theo lời Phật dạy th́ là “tùy thuận”. “Tam thế” là nói tới quá khứ, hiện tại, và vị lai. Do lời dạy của chư Phật trong ba đời, rất nhiều chúng sanh trong vị lai sẽ thành Phật. Quá khứ Phật giáo hóa chúng sanh cũng là giáo hóa như thế, mà hiện tại Phật cũng dạy như thế. Trong tương lai, rất nhiều chúng sanh thành Phật, họ giáo hóa chúng sanh cũng giống như vậy. Người tu hành hoàn toàn tùy thuận sự giáo hóa của tam thế chư Phật, do có duyên ấy, “ngă lai nghênh nhữ”: Cho nên, ta đến nghênh tiếp ông!

          Trong đoạn này, có hai điều mà chúng ta cần phải chú ư đôi chút:

1) Một là “hành giả tự văn không trung hữu thanh”: Âm thanh ấy là lời tán thán [được nêu] trong phần sau. “Tự văn không trung hữu thanh” là trong khi ấy, người tu tŕ đích thân nghe thấy trong hư không có âm thanh tán thán. Cũng có lẽ là người khác vẫn chưa nghe thấy, mà cũng có thể là người khác cũng nghe, chẳng nhất định! Ở đây, kinh văn ghi là “tự văn” (tự ḿnh nghe), [hàm nghĩa] chính người văng sanh nghe thấy. Trong danh từ Phật học, “tự văn”“biệt nghiệp”, cá biệt, đặc biệt, đơn độc. Đấy là do công đức tu tŕ tinh tấn thường nhật, chỉ có bản thân người ấy nghe thấy, nghiệp của người ấy là tịnh nghiệp. Do tu tŕ tịnh nghiệp Tịnh Độ Tông đă thành thục, cho nên chính ḿnh nghe thấy trong hư không có âm thanh ấy. Người khác chẳng đạt đến cảnh giới ấy, lại cũng chẳng phải là lúc mạng chung, cho nên chẳng nghe thấy. Đấy là hiểu theo mặt văn tự trong kinh văn. Nhưng trên sự thật, chúng ta xem Tịnh Độ Thánh Hiền Lục [sẽ thấy]: Vào thời cổ, tại Trung Hoa, có rất nhiều vị cao tăng đại đức và rất nhiều vị tại gia cư sĩ khi văng sanh, ngoại trừ những vị ấy đích thân nghe âm thanh, những người khác đang hiện diện tại đó cũng đều có thể nghe thấy. Có thể nghe chuyện thuộc về người khác, cảnh giới của những người ấy cũng rất tuyệt diệu! Nếu người ấy tâm lư chẳng thanh tịnh, sẽ chẳng nh́n thấy, chẳng nghe thấy. V́ thế, vào thời cổ, rất nhiều người khi văng sanh, chính ḿnh nghe, người khác chẳng nghe, có trường hợp như vậy, mà cũng có trường hợp: Chính người ấy nghe, người khác cũng nghe. Điều này chỉ rơ: Chỉ cần tu tŕ đúng pháp như vậy, đến khi thọ mạng chấm dứt, nhất định là sẽ có sự cảm ứng ấy, hoặc là nghe thấy trong hư không có âm thanh, hoặc là thấy trong hư không có Phật, có Bồ Tát đến nghênh tiếp. Ở đây là nói về duyên. Trước duyên phải có nhân. Bản thân chúng ta trong lúc b́nh thời, ắt phải nắm vững cái nhân văng sanh, chiếu theo cái nhân ấy để nỗ lực tu tŕ, tới khi mạng chung mới có sự cảm ứng như vậy.

2) Điều thứ hai chúng ta cần phải chú ư là “tùy thuận tam thế chư Phật giáo cố” (do tùy thuận giáo huấn của ba đời chư Phật). Tùy thuận sự dạy bảo của ai? Tùy thuận sự dạy bảo của chư Phật trong ba đời. Sự giáo hóa ấy là nói tới sự tương ứng giữa kinh văn trong phần trước và phần sau, tức là thọ tŕ các thứ giới. Giới đều do đức Phật chế định, mà cũng là pháp do đức Phật đă dạy. Bất luận quá khứ chư Phật, hiện tại Phật, hay vị lai chư Phật, hễ các Ngài muốn hóa độ chúng sanh, đều dạy chúng sanh phải tŕ giới. Bất luận vị Phật nào cũng đều là như thế. Điều quan trọng nhất của người học Phật chúng ta là tùy thuận. Dựa vào đâu để tùy thuận? Chính là tin tưởng, tin Phật, tin lời dạy của Phật, tin Phật pháp, tin tưởng Tam Vô Lậu Học như đức Phật đă dạy. Tam Vô Lậu Học là do đức Phật dạy. Tin tưởng Tam Vô Lậu Học, chiếu theo lời đức Phật đă dạy để làm, sẽ nhất định có thể đắc đạo, nhất định là có thể liễu sanh tử thành Phật. Ắt phải có ḷng tin ấy. Có thể tin như vậy, tự nhiên là chúng ta sẽ tùy thuận. Do vậy, đối với người học Phật chúng ta, quan trọng nhất là chính ḿnh có thể hạ quyết tâm, mong giải quyết vấn đề sanh tử. Phải liễu sanh tử. Nếu chẳng quan tâm đến chuyện liễu sanh tử, chúng ta học Phật để làm ǵ? Gạt đại vấn đề sanh tử sang một bên, tức là chẳng nắm được vấn đề căn bản! Mục tiêu cuối cùng là thành Phật. Một đằng là liễu sanh tử, một đằng là thành Phật. Nếu chẳng chú trọng hai vấn đề căn bản quan trọng ấy, học Phật kiểu nào đây? Nắm chắc hai vấn đề ấy, tin tưởng chỉ có phương pháp do đức Phật đă dạy là sẽ có thể đạt tới mục tiêu ấy. Chúng ta triệt để tin Phật, tự nhiên là hết thảy đều tùy thuận sự giáo hóa của Phật. Trong kinh, đức Phật dạy chúng ta làm như thế nào, chúng ta làm đúng như thế ấy, nhất định là sẽ có thể đạt được điều tốt đẹp, đạt được lợi ích. Nếu chẳng làm như vậy, ngoài mặt là học Phật, nhưng việc làm trái nghịch Phật pháp, vô dụng! V́ thế, “tùy thuận” bao hàm sự tín ngưỡng rất sâu đối với Phật pháp. Đă có sự tín ngưỡng như vậy, tự nhiên là hết thảy sẽ thuận theo Phật pháp để tu tŕ. Do vậy, người tu hành ấy khi lâm chung sẽ cảm ứng Phật đến nghênh tiếp. Có nhân, có duyên, nhân và duyên đều chín muồi. Dưới đây là đoạn thứ ba:

 

(Kinh) Hành giả tự kiến tọa liên hoa thượng, liên hoa tức hợp, sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới.

()行者自見坐蓮華上,蓮華即合,生於西方極樂世界。

(Kinh: Hành giả tự thấy ngồi trên hoa sen, hoa sen bèn khép lại, sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới).

 

          Trong đoạn trước, người văng sanh nghe trong hư không có tiếng tán thán. Sau khi nghe xong, đức Phật nói: “Ta đến nghênh tiếp ông”. Đoạn này nói người văng sanh tự thấy chính ḿnh ngồi trên hoa sen bảy báu. “Hành giả tự kiến tọa liên hoa thượng” (Hành giả tự thấy ngồi trên hoa sen), hoa sen bảy báu do đức Phật cầm đến. Ngồi trên hoa sen, “liên hoa tức hợp”, hoa sen ngay lập tức khép lại. Đă khép lại, bèn “sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới”, do đức Phật cầm theo đóa sen đă khép lại ấy, ngay lập tức, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đoạn này chứng thực t́nh huống văng sanh. Đối với mấy câu này, chúng ta hăy ngẫm xem: Kẻ b́nh phàm khi thọ mạng chấm dứt, khi chết sẽ đau khổ lắm! Vị hành giả này rất tự nhiên, chính ḿnh bước lên hoa sen, ngồi trên hoa sen, hoa sen khép lại bèn sanh vào thế giới Cực Lạc. Do những nhân duyên trên đây đă đầy đủ, người khác thấy [hành giả] dường như đă mạng chung, nhưng chính người ấy th́ hết sức tự nhiên, lập tức sanh vào thế giới Cực Lạc. Đoạn dưới đây nói về những lợi ích sẽ đạt được khi sanh về thế giới Cực Lạc. Tôi đọc trước kinh văn:

 

          (Kinh) Tại bảo tŕ trung, kinh ư thất nhật, liên hoa năi phu. Hoa kư phu dĩ, khai mục, hiệp chưởng, tán thán Thế Tôn, văn pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn, kinh bán kiếp dĩ, thành A La Hán.

()在寶池中,經於七日,蓮華乃敷。華既敷已,開目合掌,讚歎世尊。聞法歡喜,得須陀洹。經半劫已,成阿羅漢。

(Kinh: Ở trong ao bảy báu, trải qua bảy ngày, hoa sen mới nở. Hoa đă nở rồi, mở mắt, chắp tay, tán thán Thế Tôn. Nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn. Trải qua nửa kiếp, thành A La Hán).

 

          “Tại bảo tŕ trung, kinh ư thất nhật, liên hoa năi phu” (Ở trong ao báu, trải qua bảy ngày, hoa sen mới nở). Sanh về ao sen bảy báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới; ở đó, trải qua bảy ngày, hoa sen sẽ nở. “Hoa kư phu dĩ, khai mục, hiệp chưởng” (Hoa đă nở, mở mắt, chắp tay): Sau khi hoa sen đă nở, người văng sanh mở mắt, đồng thời chắp tay. “Tán thán Thế Tôn. văn pháp hoan hỷ”: Ở đây, chữ Thế Tôn chỉ A Di Đà Phật. [Hành nhân] liền tán thán A Di Đà Phật. Đồng thời, khi tán thán A Di Đà Phật bèn nghe pháp. Trong kinh A Di Đà cũng có nói các thứ pháp, phần trước của Quán Kinh cũng nói đến chuyện nghe các loại pháp. Ở trong thế giới Cực Lạc, nghe những pháp mầu nhiệm ấy; sau đó, tâm sanh đại hoan hỷ. Ở trong thế gian này, chúng ta nghe Phật pháp cũng phát tâm hoan hỷ, nhưng cái tâm hoan hỷ ấy vẫn chưa đạt đến mức độ thật sự hoan hỷ! Thật sự văng sanh thế giới Cực Lạc, ở trong thế giới Cực Lạc, sau khi nghe diệu pháp, sự hoan hỷ ấy chẳng phải là sự hoan hỷ của kẻ b́nh phàm có thể sánh bằng! V́ sao chẳng sánh bằng? Chúng ta đạt được sự hoan hỷ th́ sau một chặp hoan hỷ, vẫn là phàm phu! Gặp phải kẻ khác vô cớ chửi bới chúng ta, trong tâm chúng ta vẫn bực bội. Nếu tu dưỡng chẳng tốt đẹp, người ta chửi chúng ta, chúng ta liền chửi lại kẻ đó! Hơi có đôi chút tu dưỡng, có thể cảnh giác, nhắc nhở chính ḿnh: “Ta là kẻ tu đạo, ta là người niệm Phật, phải nhường!” “Nhường” là nhường nhịn bề ngoài, chứ trong tâm vẫn khó chịu, đấy là phàm phu! Đă sanh về thế giới Cực Lạc, nghe pháp hoan hỷ, vừa hoan hỷ bèn “đắc Tu Đà Hoàn”, chứng Sơ Quả, tức Tiểu Thừa Sơ Quả, đoạn Kiến Hoặc. Một lượt đoạn trừ Kiến Hoặc th́ mới chứng Sơ Quả. Hăy ngẫm xem, sự hoan hỷ ấy chẳng giống với sự hoan hỷ của chúng ta!

          Tu Đà Hoàn (Srotāpanna) là phiên âm tiếng Ấn Độ, dịch sang nghĩa tiếng Hán: Tu (Sro) là “vô lậu” (vô lậu tương phản với hữu lậu. Bất cứ pháp nào trong thế gian cũng đều là pháp hữu lậu). Đà Hoàn (Tāpanna) là “tu tập”. Tu Đà Hoàn là “tu tập vô lậu”. Vị trí của từ ngữ trong tiếng ngoại quốc và tiếng Hán thường là trước sau khác biệt. Ư nghĩa theo tiếng Hán là “tu tập sự vô lậu”, [tức là] học Vô Lậu Học. Tu Đà Hoàn là chứng Sơ Quả, tức là tu pháp vô lậu. Đó là giải thích danh từ.

Nói đến ư nghĩa, Tu Đà Hoàn là Nhập Lưu hoặc Dự Lưu. Nhập Lưu là ǵ? Nhập () là gia nhập, gia nhập [hàng ngũ] thánh nhân, [dự vào] ḍng thánh đạo. Nghịch lưu: Nghịch () là tương phản, trái nghịch. Lưu () là ḍng sanh tử. Khi chứng đắc Tiểu Thừa Sơ Quả, đă dự vào ḍng thánh nhân, [đă gia nhập] thánh đạo, dần dần thoát ly sanh tử lưu chuyển, gọi là “nghịch sanh tử lưu” (ngược ḍng sanh tử). Do có những ư nghĩa ấy, nên gọi là Tu Đà Hoàn. Trong thế giới Sa Bà, nhất là trong thời đại hiện tại, người tu đạo chúng ta thấy các hiện tượng trong thế gian, chẳng có chỗ nào không khiến cho chúng ta thoái chuyển tín tâm. Tới khi nào mới có thể đạt đến Tu Đà Hoàn? Xa xôi lắm! Người ấy sau khi văng sanh, vừa nghe pháp bèn đắc Sơ Quả.

          Sau khi đắc Sơ Quả, “kinh bán kiếp dĩ, thành A La Hán”: Trải qua thời gian nửa kiếp, chứng đắc A La Hán. Điều này lại khác với Trung Phẩm Thượng Sanh. Trung Phẩm Thượng Sanh là hoa sen nở ngay, c̣n Trung Phẩm Trung Sanh là trải qua bảy ngày, hoa sen mới nở. Trung Phẩm Thượng Sanh vừa nghe pháp Tứ Đế, ngay lập tức đắc A La Hán đạo. Trung Phẩm Trung Sanh trải qua nửa kiếp mới chứng A La Hán, tức quả thứ tư của Tiểu Thừa.

          Trong thế giới Cực Lạc toàn là Đại Thừa Bồ Tát, v́ sao gọi là A La Hán? V́ người ấy trong đời trước đă tu giới luật Tiểu Thừa; do vậy, trước hết người ấy thành A La Hán. Hoàn toàn chẳng phải là chúng ta học pháp Đại Thừa, sẽ chẳng cần thành A La Hán! A La Hán là v́ đoạn Kiến Hoặc, đoạn Tư Hoặc. Đoạn sạch Tư Hoặc th́ là A La Hán. Chúng ta học Đại Thừa Phật pháp, mà nếu chẳng đoạn sạch Tư Hoặc th́ cũng không được! Bất quá học pháp Đại Thừa, trong thế gian này, chúng ta chẳng đoạn sạch Tư Hoặc, sẽ lại tiếp tục trở vào sanh tử, so với việc hành Bồ Tát đạo hơi khác. Người ấy đến thế giới Cực Lạc, trước hết là đoạn sạch Tư Hoặc, trên thực tế, người ấy đă hồi Tiểu hướng Đại, đă là Đại Thừa Bồ Tát. Bất quá, [xét theo] công phu tu hành, trước hết là đoạn Kiến Tư Hoặc, sẽ thành A La Hán.

 

          (Kinh) Thị danh Trung Phẩm Trung Sanh giả.

        ()是名中品中生者。

          (Kinh: Đó gọi là Trung Phẩm Trung Sanh).

 

          Đây là kết luận cuối cùng, những điều trên đây nói về chuyện văng sanh và lợi ích đạt được sau khi văng sanh, được gọi là phẩm vị Trung Phẩm Trung Sanh. Lần sau tôi sẽ nói về Hạ Phẩm.

Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư

Phần 9 hết