Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
Giảng Kư
Phần 9
佛說觀無量壽佛經講記
Chủ
giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)
Khởi
giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập 41
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi ba, bắt
đầu từ hàng thứ hai từ dưới đếm
lên. Tôi đọc trước một đoạn kinh
văn:
(Kinh)
Thượng Phẩm Trung Sanh giả, bất tất thọ
tŕ, độc tụng Phương Đẳng kinh điển,
thiện giải nghĩa thú, ư Đệ Nhất
Nghĩa, tâm bất kinh động, thâm tín nhân quả, bất
báng Đại Thừa. Dĩ thử công đức, hồi
hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc.
(經)上品中生者,不必受持讀誦方等經典。善解義趣,於第一義,心不驚動,深信因果,不謗大乘。以此功德,迴向願求生極樂國。
(Kinh: Thượng
Phẩm Trung Sanh là chẳng cần thọ tŕ, đọc tụng
kinh điển Phương Đẳng, khéo hiểu
nghĩa thú. Đối với Đệ Nhất Nghĩa,
tâm chẳng kinh động, tin sâu nhân quả, chẳng báng Đại
Thừa. Dùng công đức này để hồi hướng
nguyện cầu sanh về cơi Cực Lạc).
Nay
tôi vẫn tiếp tục nói về t́nh h́nh trong chín phẩm
văng sanh. Đối với chín phẩm văng sanh, trong lần
trước đă nói về Thượng Phẩm Thượng
Sanh. Thượng Phẩm Thượng Sanh đạt được
lợi ích là: Sau khi đă văng sanh thế giới Cực Lạc,
chẳng cần phải trải qua [giai đoạn] hoa sen
khép lại. Cũng có nghĩa là vừa đến thế
giới Cực Lạc, ngay lập tức trông thấy A Di
Đà Phật và các vị thượng thiện nhân, ngay lập
tức có thể nghe giảng diệu pháp, ngộ Vô Sanh Pháp
Nhẫn. Cuối cùng, đạt được trăm ngàn
đà-la-ni môn. Nói tới “đà-la-ni
môn”, nếu nói cặn kẽ, sẽ có bốn loại lớn,
ở đây, chẳng thể nói chi tiết. Hăy đặc
biệt chú trọng [ư nghĩa chánh yếu của
đà-la-ni] là “đối với
nghĩa lư của diệu pháp, hễ nghe xong sẽ tổng
tŕ, chẳng bị quên mất”.
Hôm
nay, tôi nói về Thượng Phẩm Trung Sanh. “Thượng Phẩm Trung Sanh giả,
bất tất thọ tŕ, độc tụng Phương
Đẳng kinh điển” (Thượng Phẩm Trung
Sanh th́ chẳng cần phải thọ tŕ, đọc tụng
kinh điển Phương Đẳng). Thượng Phẩm
Thượng Sanh ắt phải đọc tụng kinh
điển Đại Thừa Phương Đẳng, c̣n
Thượng Phẩm Trung Sanh không cần thọ tŕ, đọc
tụng Phương Đẳng kinh điển. “Bất tất” (不必) là chẳng
cần phải giống như trong phần trước
đă nói: [Đối với Thượng Phẩm Thượng
Sanh] tất cả các kinh điển Phương Đẳng
đều đọc tụng, học tập rộng răi.
V́ căn khí của học nhân bất đồng, có người
thích đọc tụng, có người chẳng ham thích đọc
tụng như vậy, chẳng hoàn toàn giống như nhau.
Tuy là chẳng cần thọ tŕ, đọc tụng rộng
răi, nhưng cũng phải chọn lựa một phần
để đọc tụng. “Chẳng
cần thọ tŕ, đọc tụng” hoàn toàn chẳng
phải là không đọc tụng! Nếu hoàn toàn chẳng
đọc tụng, câu kinh văn kế tiếp sẽ chẳng
có cách nào nói [cho thông suốt] được! Câu kế
đó chính là: “Thiện giải
nghĩa thú” (Khéo hiểu nghĩa thú). Nếu hoàn toàn chẳng
thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Phương
Đẳng, sẽ chẳng có cách nào lư giải Đệ
Nhất Nghĩa Đế. Do vậy, ở đây nói “chẳng cần thọ tŕ, đọc
tụng” có nghĩa là chỉ đọc tụng một
phần, chẳng phải là đọc tụng toàn bộ
như trong phần trước. Học nhân gặp
được kinh điển Đại Thừa Phương
Đẳng, tuy chẳng thọ tŕ, đọc tụng toàn
bộ trọn khắp, nhưng chỉ cần học một
phần, thậm chí học một hai câu kinh văn mà có thể
khéo hiểu nghĩa thú, tức là có thể lănh ngộ
nghĩa lư trong kinh, [tức là lănh ngộ] mục đích sẽ
hướng đến, chỗ quy kết của tông chỉ
từ những giáo huấn của kinh. Người ấy
lănh ngộ những ǵ?
“Ư Đệ Nhất Nghĩa,
tâm bất kinh động” [nghĩa là] người ấy
nghe nói về Đệ Nhất Nghĩa, trong tâm chẳng bị
kinh hoảng. Đệ Nhất Nghĩa là ǵ? Cái gọi là
Đệ Nhất Nghĩa chính là điều được
giảng trong các kinh điển Đại Thừa, mà
cũng chính là điều các kinh điển Đại Thừa
mong chúng ta hiểu rơ: “Bản
thân mỗi người chúng ta đều trọn đủ
Chân Như bản tánh”. Trong đạo tràng của chúng
ta, các vị đều đă nghe nói về Chân Như bản
tánh, nhưng chúng ta chẳng thể nói tất cả những
ai học Phật vừa khởi đầu học Phật
bèn hiểu Chân Như bản tánh, rất khó nói! Rất nhiều
người đă học Phật vài chục năm, quư vị
hỏi họ: “Chân Như bản tánh là ǵ?” Họ chẳng
liễu giải! Chẳng liễu giải th́ vẫn chẳng
sao cả! Thật sự nói đến Chân Như bản tánh,
họ bèn kinh hoảng, chấn động, cảm thấy
sợ hăi. V́ sao? Thật sự nghe chân lư, chẳng thể
tiếp nhận được! Thông thường, chúng ta sanh
tử, luân chuyển trong lục đạo, cái được
tin tưởng nhất, khẳng định nhất chính
là giả pháp. Giả pháp sanh sanh diệt diệt, [thế
mà] cứ coi pháp sanh diệt là thực tại. Ví như nói
đến núi, sông, đại địa trong thiên nhiên, kẻ
b́nh phàm đều nghĩ chúng thật sự tồn tại,
chẳng giả. Trong xă hội, chúng ta thấy hết thảy
mọi người và hết thảy mọi chuyện do mọi
người đă làm, những chuyện được
đại chúng truyền bá, đều coi chúng là chân thật.
Thật ra, những thứ ấy đều là pháp sanh diệt,
đều là giả hữu, chẳng chân thật. Nhưng
bất cứ phàm phu nào trong bọn chúng ta cũng đều
coi chúng nó là chân thật. Do coi giả là thật, coi chúng nó
thật sự là thật, họ sẽ chẳng tin tưởng,
chẳng hiểu rơ [chúng nó là giả pháp]. V́ sao? V́ trí huệ
chân thật của họ đă bị những thứ giả
dối che lấp. Do vậy, nếu nghe nghĩa lư Đệ
Nhất Nghĩa chân thật, tâm họ sẽ chẳng thể
tiếp nhận nổi, rất khủng hoảng. [Ở đây],
kẻ học Phật tương ứng với Thượng
Phẩm Trung Sanh, tuy chẳng đọc tụng toàn bộ kinh
điển Đại Thừa Phương Đẳng, dẫu
chỉ nghe một hai câu kinh văn, do có thể lănh ngộ nghĩa
lư Đệ Nhất Nghĩa, trong tâm chẳng sợ hăi, dao
động, tuyệt diệu thay!
Kẻ
b́nh phàm nghe nghĩa lư Đệ Nhất Nghĩa, tâm lư sẽ
bị kinh động. Chúng tôi nêu một tỷ dụ để
nói: Bất luận ai cũng biết, một người hễ
có sanh bèn có tử. Các tôn giáo thông thường (ngoại
đạo) biết có thiên đường, có địa ngục,
có súc sanh v.v... Những thứ ấy đều là “sanh tử,
lục đạo”, các tôn giáo thông thường đều biết;
nhưng sanh lên thiên đường có phải là “nhất lao vĩnh dật” (一勞永逸, vất
vả một lần, an nhàn măi măi) hay không? Có thể vĩnh
viễn giải quyết vấn đề hay không? Chẳng
phải vậy! Muốn thật sự giải quyết vấn
đề sanh tử, chẳng phải cứ nói suông là
được đâu nhé, nhất định phải hiểu
rơ mỗi người chúng ta đều sẵn có cái Ngă thật
sự, tức là Chân Như bản tánh. Trong Chân Như bản
tánh, chẳng có giả tướng sanh tử. Nói “có sanh, có tử” th́ sanh là sanh
như thế nào? Bất luận nhân loại hay những động
vật khác cũng thế, đều do linh hồn của
chính ḿnh cộng thêm duyên phận với cha mẹ, nhân duyên ḥa
hợp th́ mới có hiện tượng sanh mạng. Tới
lúc thọ mạng chấm dứt, khi sắp chết, nhục
thể có được từ cha mẹ sẽ dần dần
lăo hóa, sanh bệnh, chẳng ổn nữa, linh hồn, thần
thức lại phải thay đổi hoàn cảnh. Kẻ
b́nh phàm gọi chuyện này là “tử”.
Phải giải quyết loại sanh tử ấy như thế
nào? Chẳng hiểu tâm tánh của chính ḿnh, từ đầu
đến cuối chẳng thể giải quyết. [Đối
với chuyện] sanh vào địa ngục hoặc làm súc sanh,
đương nhiên là chẳng thể giải quyết.
Sanh lên thiên đường, vẫn chẳng thể giải
quyết! Bởi lẽ, sanh lên thiên đường th́ vẫn
có thọ mạng. Tuy thọ mạng [trong thiên đường]
lâu dài hơn [thọ mạng của] loài người chúng
ta quá nhiều, nhưng vẫn có lúc kết thúc! Những con
đường ấy (địa ngục, súc sanh, thiên
đường v.v...) đều là pháp sanh diệt.
Muốn
giải quyết vấn đề sanh tử luân hồi, ắt
phải ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh (無生) là chẳng có sanh, chẳng có diệt, hoàn
toàn hiểu rơ bản tánh, thấy bản tánh của chính
ḿnh, nói xác thực là “chẳng có sanh tử”. Nếu chúng ta chẳng
từng bước lănh ngộ lư trong kinh Phật, đột
nhiên nói “chẳng có sanh tử”, có những kẻ nghe nói “chẳng
có sanh tử” bèn cuồng vọng, chuyện ǵ cũng đều
dám làm, các thứ ác nghiệp đều tạo. V́ thế,
có những kẻ nghe Đệ Nhất Nghĩa Đế
chân chánh, tâm lư bèn phát cuồng. Đấy là chỗ rất
khó! Do vậy, trong kinh Kim Cang, Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy:
Đối với một người chẳng có phước
báo, chẳng có trí huệ, nếu ta nói hoàn toàn cho kẻ ấy
biết về đạo lư Đệ Nhất Nghĩa
Đế trong kinh Kim Cang, sau khi người ấy nghe xong,
tâm lư nhất định sẽ phát cuồng, tức cuồng
loạn. V́ thế, nói về Đệ Nhất Nghĩa
Đế trong kinh điển Đại Thừa, há dễ
dàng ư? Khéo hiểu nghĩa thú, vừa nghe một, hai câu kinh
văn, [chẳng hạn] như bốn câu kệ trong kinh
Kim Cang, do nghe bốn câu kệ mà có thể lănh ngộ chân
lư, trong tâm chẳng kinh hoảng, không có các thứ loạn
động. V́ thế, tâm chẳng kinh động. Nếu
chúng ta nghe đại pháp, liễu giải đạo lư, trong
tâm chẳng kinh động, tuyệt vời thay! Có thể liễu
giải phước báo và trí huệ của chính ḿnh th́ cũng
chẳng phải là kẻ b́nh phàm. Chúng ta nghiên cứu kinh,
nghiên cứu nghĩa lư, có thể dùng kinh văn và những
nghĩa lư do đức Phật đă dạy để phản
tỉnh, tự ấn chứng chính ḿnh.
Nếu
các vị hỏi: “Có thấy kẻ nào đọc tụng
kinh điển Đại Thừa rồi cuồng loạn
hay không?” Chúng tôi chẳng chú ư. Hiện thời, có những người
xem kinh, biết kinh điển nói tới Đệ Nhất
Nghĩa Đế, có Chân Như bản tánh, có vô thượng
diệu pháp, họ thật sự chẳng hiểu. Sau
đấy, cũng chẳng tin nhân quả, hết thảy đều
buông lung, làm đủ mọi tội nghiệp. Thậm chí ngay
cả kinh văn trong kinh Phật cũng dám sửa đổi,
cũng đi khắp nơi giảng giải [để cổ
vũ cho kiểu sửa đổi ấy], không được
rồi! Đấy là cuồng loạn. Nói “cuồng loạn” hoàn toàn chẳng phải là “phát
điên, chửi bới kẻ khác ngoài đường”, mà chẳng
tin nhân quả mới chính là cuồng loạn. Nay chúng ta phải
hỏi: Kẻ xem kinh Phật ngỡ chính ḿnh đă hiểu;
trên thực tế, kẻ đó chẳng tin tưởng nhân
quả. Có bao nhiêu kẻ giống
như vậy?
Có
thể khéo hiểu nghĩa thú, tâm cũng chẳng kinh động.
Do vậy, “thâm tín nhân quả, bất
báng Đại Thừa” (tin sâu nhân quả, chẳng báng Đại
Thừa): Đối với đạo lư nhân quả, hết
sức tin tưởng, tin tưởng hết sức sâu
đậm. Bất luận kẻ nào dùng đủ mọi
lời lẽ để phá hoại nhân quả, [người
Thượng Phẩm Trung Sanh nghe xong] vẫn tin tưởng
nhân quả như cũ. Chẳng hạn như tại Trung
Hoa trong quá khứ, Tŕnh Tử và Châu Tử của Tống
Nho bài xích giáo nghĩa “nhân quả
ba đời” của nhà Phật. Về sau, Trung Hoa có bao
nhiêu người đọc sách tin tưởng bọn họ.
Nếu chúng ta liễu giải rất sâu đạo lư trong
kinh Phật, tuy bọn họ (Tŕnh, Châu) là những kẻ
có quyền uy trong học thuật như vậy, gần
như từ đời Tống, Minh cho đến hiện
tại, trong suốt mấy trăm năm, họ trở
thành thần tượng trong học thuật Trung Hoa,
nhưng chúng ta đă hiểu đạo lư này, vẫn chẳng
tin lời bọn họ như cũ, chúng ta cứ tin
tưởng nhân quả của Phật pháp. Nếu nói tới
người hiện thời, tŕnh độ c̣n thua cả
Tŕnh, Châu. Tư tưởng học thuật của người
hiện thời chẳng bằng một phần ngàn vạn
Tŕnh, Châu, nhưng họ lại bài xích nhân quả c̣n dữ
dội hơn Tŕnh, Châu! Do đó, người hiện thời
chẳng tin nhân quả quá nhiều! Những kẻ ấy
có địa vị trong học thuật, trong pháp thế
gian dường ấy, cũng có địa vị trong giới
cầm quyền, nhưng nếu chúng ta thật sự hiểu
Đệ Nhất Nghĩa Đế, sẽ nhận biết
đó là giả pháp thoắt sanh, thoắt diệt, hết
thảy đều là giả, tin tưởng những
điều đó để làm ǵ? Ngay cả tư tưởng
của chính ḿnh mà họ c̣n chẳng thể khống chế
được, những lời lẽ họ thốt ra
đều là lời lẽ nhằm tuyên truyền hủy
báng nhân quả, chúng ta c̣n có thể tin tưởng, c̣n có thể
nghe theo ư? Chúng ta cũng sẽ chẳng nghe lời bọn
họ. Đó gọi là “thâm tín
nhân quả”.
Chẳng
bị ảnh hưởng bởi những lời lẽ chẳng
hợp nhân quả của bất cứ thần tượng,
hoặc kẻ có địa vị, có quyền lực nào, quư
vị tin nhân quả rất sâu. Chúng ta “đối pháp, chẳng đối người”.
Nói ngược lại, người nào đó chẳng có bất
cứ địa vị ǵ, cũng chẳng có tiền, thứ
ǵ cũng đều chẳng có, nhưng nếu người
ấy nói phù hợp nhân quả, chúng ta bèn coi người ấy
là thiện tri thức, chúng ta tin tưởng. Những lời
người ấy nói hoàn toàn nhất trí với kinh điển,
chúng ta ta tán thành. Đấy là “thâm
tín nhân quả”.
“Bất báng Đại Thừa”,
“báng” (謗) là hủy
báng (毀謗). Hủy
báng là ǵ? Kinh điển Đại Thừa dạy chúng ta
liễu sanh tử như thế nào, thành Phật như thế
nào, đối với những đạo lư ấy, ắt
phải tin sâu nhân quả th́ mới không hủy báng. V́ sao hủy
báng? V́ chẳng thể tin tưởng đạo lư trong
kinh điển Đại Thừa, lại c̣n hoài nghi đạo
lư được nói trong kinh điển Đại Thừa;
đấy gọi là “hủy
báng Đại Thừa Phật pháp”. Đă tin sâu nhân quả,
đối với đạo lư nhân quả, tin sâu, kiên định
chẳng nghi ngờ. Đối với đạo lư đă
nói trong kinh điển Đại Thừa cũng tin tưởng
sâu xa, chẳng nghi ngờ, chẳng dám hủy báng Đại
Thừa Phật pháp.
“Dĩ thử công đức” (dùng
công đức ấy): Do đă tin sâu nhân quả, không báng Đại
Thừa, đấy là có công đức. Lại dùng công
đức ấy để “hồi
hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc”
(hồi hướng nguyện cầu sanh về cơi Cực
Lạc), đem công đức ấy để hồi
hướng. Công đức ấy không nhằm cầu các
thứ phước báo trong thế gian (chớ nên mong các thứ
đền đáp, đừng cầu hưởng phước),
do công đức này mà hy vọng: Nguyện khi ta lâm chung, sẽ
có thể sanh về thế giới Cực Lạc, tức
là “Cực Lạc quốc”.
V́
sao nhất định mong cầu sanh về thế giới
Cực Lạc? V́ chúng ta muốn liễu sanh tử trong thế
gian này, tức là giải quyết vấn đề sanh tử,
muốn tiến thêm một bước thành Phật, hăy ngẫm
xem: Trong một thời gian ngắn, chúng ta có thể làm
được ư? Trong xă hội này, hằng ngày chúng ta
có thể thấy: Chẳng phải là căi cọ tại quốc
hội, th́ cũng thấy người ta chửi bới
ngoài phố, nhiễu loạn trật tự. Trong xă hội,
lại c̣n có chuyện con giết mẹ, vợ giết chồng,
hoặc con ép chết cha, những chuyện ấy thường
thấy trong báo chí. C̣n nữa, chẳng phải là tai nạn
giao thông, th́ là tai nạn hàng không, các thứ tai nạn rất
nhiều! Hiện thời, toàn cầu đều quan tâm
đến vấn đề “xú khí tằng (tầng khí ozone)
trong khí quyển bị phá hoại”, càng đáng sợ
hơn! Trên địa cầu, người đông như vậy,
“ngươi tranh, ta đoạt”,
đến khi đó, ai nấy đều chẳng chạy
thoát! Tầng khí ozone bị phá hoại, những quang tuyến
tử ngoại (ultra violet ray) có hại chiếu tới thân
thể con người, sẽ gây ra bệnh tật, chẳng
có cách chữa trị. Lại nói đến chuyện mọi
người trên thế gian đều cổ vũ chuyện
cởi mở. Hết thảy đều phóng túng, khiến
cho ai nấy tự bị nguy hiểm, đến khách sạn
sử dụng các loại dụng cụ đều cảm
thấy lo âu, khiếp hăi. V́ sao? Thoạt đầu, bệnh
AIDS là bệnh truyền nhiễm do quan hệ t́nh dục chẳng
chánh đáng, nay đă biến thành căn bệnh có thể
lan truyền bằng rất nhiều cách, kẻ chẳng
may bị hại cũng nhiều khôn xiết. Chỉ cần
nghĩ tới chuyện này, chúng ta muốn liễu sanh tử,
thành Phật trong thế gian này, khi nào th́ mới có thể
làm được? Chẳng phải là Phật pháp không thể
thành tựu! Pháp do đức Phật đă nói nhất
định là có thể thành tựu, nhưng đối với
hoàn cảnh trong hiện tại của chúng ta, sẽ chờ
chẳng kịp! Chúng ta mong cầu giải quyết vấn
đề trong lúc c̣n sống, trong hoàn cảnh kém ác như
thế này, muốn có thể thành tựu đạo nghiệp,
th́ phải thay đổi hoàn cảnh, đổi đến
chỗ nào? Đổi sang thế giới Cực Lạc! Thế
giới Cực Lạc tốt đẹp như thế nào?
Trong các phần trước, đă nói về các điều
tốt lành ấy. Chúng ta dụng công, căn cứ theo lời
Phật dạy, một dạ thành khẩn mong cầu, tất
nhiên là có thể đến nơi đó.
Do
vậy, dựa trên đạo lư này, chúng ta hồi hướng
công đức, do hoàn cảnh [trong thế giới Sa Bà] chẳng
thích hợp, ắt phải đến thế giới Cực
Lạc. Tới thế giới Cực Lạc, sanh tử liền
lập tức được giải quyết, mà cũng
thành Phật rất nhanh chóng!
Đoạn
trên đây nói về nguyên nhân văng sanh thế giới Cực
Lạc, cũng là nói: Cậy vào những điều kiện
ǵ để có thể Thượng Phẩm Trung Sanh? Có thể
hiểu Đệ Nhất Nghĩa, tin sâu nhân quả, chẳng
báng Đại Thừa, tất cả các công đức
đều hồi hướng. Đấy chính là một
đại tiền đề để có thể văng sanh. Phần
kinh văn dưới đây nói: Khi văng sanh, sẽ gặp
duyên tốt đẹp, vừa có nhân, vừa có duyên! Chúng ta
văng sanh thế giới Cực Lạc cũng phải cậy
vào nhân duyên.
(Kinh) Hành thử hạnh giả,
mạng dục chung thời, A Di Đà Phật,
dữ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng
đại chúng, quyến thuộc vi nhiễu, tŕ tử
kim đài, chí hành giả tiền, tán ngôn: “Pháp tử! Nhữ
hành Đại Thừa, giải Đệ Nhất Nghĩa.
Thị cố, ngă kim lai nghênh tiếp nhữ”. Dữ thiên Hóa
Phật, nhất thời thọ thủ.
(經)行此行者,命欲終時,阿彌陀佛,與觀世音、大勢至,無量大眾,眷屬圍繞,持紫金臺,至行者前。讚言:法子,汝行大乘,解第一義,是故我今來迎接汝。與千化佛,一時授手。
(Kinh:
Người hành hạnh ấy, khi mạng chung, A Di Đà Phật,
cùng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng
đại chúng, quyến thuộc vây quanh, cầm đài tử
kim, tới trước hành giả, khen rằng: “Pháp tử!
Con hành Đại Thừa, hiểu Đệ Nhất
Nghĩa. Do vậy, ta nay đến đón tiếp con”, cùng
với một ngàn vị Hóa Phật đồng thời x̣e
tay).
Đây
là đoạn thứ hai, nói tới lúc văng sanh, sẽ có
duyên thù thắng gặp gỡ Phật, Bồ Tát. “Hành thử hạnh giả” là
người tu hành pháp ấy, “mạng
dục chung thời”, khi thọ mạng sắp kết
thúc. Kẻ b́nh phàm đến lúc lâm chung đáng sợ lắm,
đúng là tay cuống, chân loạn, trong tâm kinh hoảng. Thông
thường, nếu quư vị hỏi: Trong thế gian, những
kẻ có tiền, có địa vị, có học vấn,
chuyện ǵ cũng đều chẳng phải bận ḷng,
muốn ǵ có nấy, thậm chí kẻ làm đại hoàng
đế vào thời cổ, ông ta muốn ǵ mà chẳng có,
nhưng đến khi lâm chung, bất luận quư vị là
đại hoàng đế cũng thế, làm bất cứ
chuyện ǵ cũng thế, lúc đó, trong ḷng kinh sợ, rốt
cục sẽ phải đi về đâu? Sanh mạng ngay lập
tức đi tong! Nhưng người tu hành, hành những hạnh
này, đến lúc mạng chung, sẽ thấy cảm ứng.
Lúc b́nh thường có công phu, khi ấy, A Di Đà Phật,
tức đấng giáo chủ của Tây Phương Cực
Lạc thế giới, “dữ
Quán Thế Âm, Đại Thế Chí”, [tức là] cùng với
Quán Thế Âm Bồ Tát (có ai không biết Quán Thế Âm Bồ
Tát? Ngài có duyên phận hết sức sâu đậm với
chúng ta), Đại Thế Chí Bồ Tát: Hai vị đại
Bồ Tát này ở hai bên A Di Đà Phật, gọi chung là Tây
Phương Tam Thánh. Ngoài A Di Đà Phật và hai vị
đại Bồ Tát ra, c̣n có “vô
lượng đại chúng, quyến thuộc vi nhiễu” (vô
lượng đại chúng, quyến thuộc vây quanh). “Vô lượng” là chẳng biết
rơ số. Đại chúng và quyến thuộc chẳng biết
rơ số lượng vây quanh Ngài. “Quyến thuộc” ở đây chẳng phải
là quyến thuộc theo kiểu gia đ́nh trong nhân gian chúng
ta, mà là những học nhân theo học với các vị
đại Bồ Tát th́ gọi là “quyến thuộc”.
“Tŕ tử kim đài”: Trong tay cầm
đài hoa sen bằng chất vàng có màu tía. Tây Phương Cực
Lạc thế giới có ao sen bảy báu, trong mỗi ao sen
đều có hoa sen. Phật, Bồ Tát hiện đến,
tay cầm đài hoa sen bằng vàng có sắc tím. “Chí hành giả tiền” là
đến trước mặt người tu hành. “Tán ngôn” là ca ngợi, tán thán rằng:
“Pháp tử”. Phật là Pháp
Vương. Chỉ cần thành Phật, sẽ đều
gọi là Pháp Vương. Đức Phật giảng diệu
pháp; do vậy, Phật được gọi là Pháp
Vương. Nhưng học pháp th́ phải lập chí nguyện,
phải hoằng dương Phật pháp, đó là hành vi của
Bồ Tát. Hễ là Bồ Tát, sẽ đều là con của
đấng Pháp Vương, cho nên gọi là Pháp Tử. Tu pháp
môn này là Đại Thừa Phật pháp. Chẳng phải là
Đại Thừa Phật pháp, sẽ chẳng thể văng
sanh. Gọi là Đại Thừa Phật pháp th́ chính ḿnh mong
thành Phật để liễu sanh tử, cũng mong giúp tất
cả mọi người đều thành Phật, liễu
sanh tử. Đó là đại pháp, Bồ Tát mới có thể
làm như vậy. Hàng Tiểu Thừa chỉ quan tâm tới
chính ḿnh, chẳng được rồi! V́ thế, người
như vậy mới có thể gọi là Pháp Tử. A Di
Đà Phật gọi người ấy là Pháp Tử, cách gọi
này hết sức thân thiết. A Di Đà Phật bảo: “Nhữ hành Đại Thừa, giải
Đệ Nhất Nghĩa”, [nghĩa là] con ơi! Con
đă hành Đại Thừa, cũng liễu giải đạo
lư Đệ Nhất Nghĩa. “Thị
cố ngă kim lai nghênh tiếp nhữ”: Cho nên, ta nay
đích thân đến đón tiếp con. Sau khi nói xong, “dữ thiên Hóa Phật, nhất
thời thọ thủ”: A Di Đà Phật và một ngàn
vị Phật do biến hóa ra, “nhất
thời” là đồng thời, “thọ thủ” (授手) là
vươn tay ra, tỏ ư hoan nghênh.
Ở
đây, hơi khác với Thượng Phẩm Thượng
Sanh. Thượng Phẩm Thượng Sanh là cầm kim cang
đài, Hóa Phật là vô số Hóa Phật. Ở đây là tử
kim đài, một ngàn Hóa Phật, kém hơn loại trên
đôi chút. Nguyên nhân thua kém đă được nói rơ trong
đoạn trước. Dưới đây là nói về t́nh
huống văng sanh.
(Kinh)
Hành giả tự kiến tọa tử kim đài, hiệp
chưởng xoa thủ, tán thán chư Phật. Như nhất
niệm khoảnh, tức sanh bỉ quốc thất bảo
tŕ trung. Thử tử kim đài, như đại bảo
hoa, kinh túc tắc khai.
(經)行者自見坐紫金臺,合掌叉手,讚歎諸佛。如一念頃,即生彼國七寶池中。此紫金臺,如大寶華,經宿則開。
(Kinh: Hành giả
tự thấy ḿnh ngồi trên đài hoa tử kim, chắp
tay trước ngực, tán thán chư Phật. Như trong một
niệm, liền sanh về ao bảy báu trong cơi ấy. Đài
tử kim ấy, như đóa hoa báu lớn, qua một
đêm sẽ nở).
Đoạn
này nói về trạng huống khi văng sanh. “Hành giả tự kiến tọa tử kim đài”:
Lúc ấy, người tu hành thấy chính ḿnh ngồi trên
đài tử kim, đồng thời “hiệp chưởng xoa thủ” (chắp tay trước
ngực), đó là lễ tiết trong nhà Phật, lại c̣n
“tán thán chư Phật”,
đối với chư Phật đều ca ngợi. “Như nhất niệm khoảnh”
(Như trong khoảng một niệm), thời gian rất
ngắn! Chúng ta khởi một niệm, [thời gian ấy]
rất ngắn ngủi, tạm bợ. Ngay trong khoảnh khắc
ngắn ngủi, tạm bợ ấy, “tức sanh bỉ quốc thất bảo tŕ trung”,
ngay lập tức sanh vào ao sen bảy báu trong thế giới
Cực Lạc. Chúng ta hăy ngẫm xem: Thông thường,
chúng ta biết thế giới Cực Lạc cách chúng ta
mười vạn ức cơi Phật, xa xôi ngần ấy! Có
lẽ, kẻ b́nh phàm sẽ hỏi: “Xa như vậy, chúng
ta đến đó bằng cách nào?” Những đạo lư
đă nói trong phần trước rất trọng yếu.
Nếu liễu giải lư Đệ Nhất Nghĩa, sẽ
chẳng có vấn đề ǵ! Liễu giải Đệ
Nhất Nghĩa, [sẽ biết] bản tánh của chúng ta
bao trùm tất cả hư không pháp giới, hư không pháp
giới đều ở trong bản tánh của chúng ta. Liễu
giải đạo lư ấy, sẽ có thể lập tức
sanh trong ao sen bảy báu. Chẳng liễu giải đạo
lư ấy, sẽ rất khó lănh ngộ. V́ thế, hiểu lư
là chuyện hết sức quan trọng!
Sanh
trong ao bảy báu, “thử tử
kim đài, như đại bảo hoa”, đóa hoa báu lớn
ấy to lớn khôn xiết! Một cánh của đóa hoa ấy
đặt trong thế giới này sẽ chẳng thấy bờ
mé! Đài tử kim ấy giống như một đóa hoa
báu lớn. “Kinh túc tắc khai”:
Qua một đêm bèn nở, toàn thể đóa hoa báu to ấy
nở tung ra. Trước khi nở, hành giả ở trong
hoa. Sau khi hoa nở, bèn thoát ra. Đây là chỗ khác với Thượng
Phẩm Thượng Sanh. Thượng Phẩm Thượng
Sanh th́ hoa sen chẳng hề khép lại, ngay sau khi vừa đến
nơi, lập tức thấy Phật. Thượng Phẩm
Trung Sanh là sau khi đến nơi, trước hết, hoa
khép lại, nhưng thời gian [hoa khép lại] rất ngắn,
qua một đêm bèn nở. Đó là chỗ hơi khác biệt!
Người
niệm Phật phát nguyện văng sanh phải chú ư: Thông
thường, trước khi tham gia một cuộc điển
lễ, hoặc trước khi lănh thưởng, đều
phải tập dượt trước. Không tập dượt
trước, đến lúc đó, chẳng biết làm
như thế nào! Đối với đại sự sanh tử
của chúng ta, tới lúc sắp văng sanh, trước hết,
chính ḿnh phải chú trọng liễu giải toàn thể trạng
huống. Sau khi đă liễu giải, hết thảy đều
rất quen thuộc. Tới khi thọ mạng chấm dứt,
sắp văng sanh, chính ḿnh đă sớm biết, thấy Phật,
thấy đại Bồ Tát, thấy hoa sen to, đă sớm
rất thân thuộc, hết sức tự nhiên. Những
điều ấy đều phải là đă thường
xem kinh th́ mới liễu giải sự thật. Đoạn
dưới đây nói đến những lợi ích sau khi
đă văng sanh.
(Kinh)
Hành giả thân tác tử ma kim sắc, túc hạ diệc hữu
thất bảo liên hoa. Phật cập Bồ Tát, câu thời
phóng quang, chiếu hành giả thân. Mục tức khai minh,
nhân tiền túc tập, phổ văn chúng thanh, thuần thuyết
thậm thâm Đệ Nhất Nghĩa Đế. Tức hạ
kim đài, lễ Phật hiệp chưởng, tán thán Thế
Tôn. Kinh ư thất nhật, ứng thời tức ư A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đắc
bất thoái chuyển. Ứng thời tức năng phi hành
biến chí thập phương, lịch sự chư Phật.
Ư chư Phật sở, tu chư tam-muội, kinh nhất
tiểu kiếp, đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện tiền
thọ kư.
(經)行者身作紫磨金色,足下亦有七寶蓮華。佛及菩薩,俱時放光,照行者身。目即開明,因前宿習,普聞眾聲,純說甚深第一義諦。即下金臺,禮佛合掌,讚歎世尊。經於七日,應時即於阿耨多羅三藐三菩提,得不退轉。應時即能飛行遍至十方,歷事諸佛。於諸佛所,修諸三昧。經一小劫,得無生忍,現前受記。
(Kinh: Thân hành
giả có màu như chất vàng tử kim đă được
giồi mài, dưới chân cũng có hoa sen bảy báu. Phật
và Bồ Tát, đồng thời phóng quang chiếu vào thân hành
giả, mắt liền mở sáng. Do sự tu tập từ
trước, sẽ nghe khắp các âm thanh, thuần nói về
Đệ Nhất Nghĩa Đế rất sâu. Liền
bước xuống đài vàng, lễ Phật, chắp tay,
tán thán đức Thế Tôn. Trải qua bảy ngày, lập
tức đắc Bất Thoái Chuyển nơi A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ngay khi ấy, có thể
phi hành đến khắp mười phương, lần
lượt thừa sự chư Phật. Ở nơi
chư Phật, tu các tam-muội. Trải qua một tiểu
kiếp, đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện tiền thọ
kư).
“Hành giả thân tác tử ma kim sắc”:
Người văng sanh khi hoa sen vừa nở, ra khỏi hoa, toàn
thân đều có màu của chất vàng tía (tử kim) đă
được giồi mài. “Túc
hạ diệc hữu thất bảo liên hoa”: Giở
chân lên, dưới chân sẽ có hoa sen bảy báu nâng đỡ.
“Phật cập Bồ Tát, câu
thời phóng quang, chiếu hành giả thân”: A Di Đà Phật
cùng với hết thảy các vị đại Bồ Tát,
đồng thời đều phóng đại quang minh chiếu
sáng ngời thân người văng sanh. “Mục tức khai minh”: Người văng sanh vừa
được quang minh chiếu đến, ngay lập tức,
mắt bèn mở sáng. Mắt chúng ta cách một tầng giấy
sẽ chẳng nh́n xuyên thấu. Hễ văng sanh thế giới
Cực Lạc, vừa được quang minh của Phật,
Bồ Tát chiếu tới, ngay lập tức sáng mắt.
Sau khi được mở sáng, “nhân
tiền túc tập”, [nghĩa là] do những điều đă
học tập trước kia, “phổ
văn chúng thanh”, hết thảy các âm thanh đều có
thể nghe thấy, “thuần
thuyết thậm thâm Đệ Nhất Nghĩa Đế”
(thuần nói Đệ Nhất Nghĩa Đế rất
sâu). Trước khi văng sanh, trong thế giới Sa Bà,
người ấy cũng đă liễu giải Đệ
Nhất Nghĩa Đế, lúc này, nghe hết thảy các âm
thanh đều là nói Đệ Nhất Nghĩa Đế rất
sâu, càng sâu hơn một tầng nữa, Đệ Nhất
Nghĩa Đế ở một cấp độ cao
hơn, người ấy đều được nghe.
“Tức hạ kim đài”, sau
khi người văng sanh nghe Đệ Nhất Nghĩa Đế,
ngay lập tức, bước xuống đài sen kim sắc,
từ đài liên hoa bước xuống, “lễ Phật hiệp chưởng”, lạy Phật,
chắp tay. “Tán thán Thế Tôn”
chính là tán thán A Di Đà Phật. “Kinh
ư thất nhật”: Trải qua bảy ngày, “ứng thời tức ư A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đắc Bất
Thoái Chuyển” (ngay khi đó, được Bất Thoái
Chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā-samyak-saṃbodhi) là Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, dịch sang nghĩa
tiếng Hán là “Chánh Đẳng, Chánh Giác chí cao, vô thượng”,
tức là Phật. Nói đơn giản nhất, sẽ là “thành Phật”. Trải qua thời
gian bảy ngày, sẽ đắc Bất Thoái Chuyển
đối với chuyện thành Phật, sẽ chẳng có
cơ hội bị thoái chuyển. Cũng có nghĩa là trải
qua bảy ngày, đối với chuyện thành Phật, chỉ
có tiến chứ không lùi.
“Kinh ư thất nhật” (Trải
qua bảy ngày), “bảy ngày”
ở đây là nói tới bảy ngày trong thế gian này, hay
là bảy ngày trong thế giới Cực Lạc? Thiện
Đạo đại sư đặc biệt chỉ ra, “bảy ngày” ở đây là do Thích
Ca Mâu Ni Phật nói theo thế gian của chúng ta (“bảy
ngày” trong thế gian so với vô lượng thời gian
trong thế giới Cực Lạc bất quá hết sức
ngắn ngủi, tạm bợ, gần như trong một
niệm vậy). Có thể suy ra: Sau khi văng sanh, đạt Bất
Thoái Chuyển rất nhanh chóng.
Bất
Thoái Chuyển là ǵ? Chúng ta nghiên cứu kinh A Di Đà đă
biết: Có Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái và Niệm
Bất Thoái, ba loại cảnh giới. Bất Thoái Chuyển
bao gồm cả ba loại ấy. Tâm tâm niệm niệm đặt
nơi Phật, hễ dấy niệm sẽ ḥa hợp cùng
Phật. Nếu nói tường tận, dựa theo cách nói của
tông Thiên Thai, phải tốn rất nhiều thời gian,
chúng tôi sẽ chẳng nói chi tiết. Phải
biết: Hễ đắc Bất Thoái Chuyển, bất luận
loại Bất Thoái Chuyển nào cũng đều tuyệt
diệu. Nói ngược lại, hễ tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sẽ tuyệt
đối chẳng bị thoái chuyển, thành Phật rất
mau chóng.
“Ứng thời tức năng phi hành biến
chí thập phương, lịch sự chư Phật” (Ngay khi
đó, liền có thể bay đến trọn khắp
mười phương, lần lượt phụng sự
chư Phật), khi ấy bèn có thể phi hành, chẳng có Thần
Túc Thông sẽ chẳng được! Có Thần Túc Thông th́
mới có thể phi hành tự tại. Trong thế gian này, bậc
La Hán cũng có thể phi hành, nhưng La Hán phi hành có chừng
hạn, c̣n phi hành ở đây là đến
trọn khắp mười phương, trong thời gian rất
ngắn có thể đến chỗ của chư Phật
trong mười phương thế giới. “Lịch sự chư Phật”,
nghĩa là lần lượt tới viếng từng vị,
hướng về chư Phật thỉnh pháp. “Ư chư Phật sở, tu
chư tam-muội”: Ở chỗ chư Phật trong
mười phương thế giới, tu học các thứ
Phật pháp, tu tam-muội, tức là tu đại định.
Ở
đây có thể biết, có thể phi hành đến chỗ
của mười phương thế giới chư Phật,
tu các tam-muội ở đó. V́ sao có thể làm như vậy?
V́ sau bảy ngày, sẽ đắc Bất Thoái Chuyển. Nếu
nói theo địa vị Biệt Giáo trong Thiên Thai Tông, Bất
Thoái Chuyển là đă đạt tới địa vị Thập
Hồi Hướng. Thập Hồi Hướng tuy c̣n thuộc
địa vị Tam Hiền, nhưng hễ đạt tới
địa vị Tam Hiền, tu măn Thập Hồi Hướng
sẽ đăng địa (chứng Sơ Địa),
thuộc vào địa vị ấy, có thể suy ra mà biết!
Vốn là vẫn chưa chứng quả, sau khi văng sanh, ngay
lập tức đạt tới địa vị bất
thoái Bồ Đề, có thể đạt tới địa
vị ấy. Ở chỗ chư Phật tu tam-muội, “Kinh nhất tiểu kiếp,
đắc Vô Sanh Nhẫn, hiện tiền thọ kư”: Trải
qua thời gian một tiểu kiếp, đắc Vô Sanh
Pháp Nhẫn, tâm có thể an trụ trong Vô Sanh Pháp Nhẫn,
trọn chẳng có nhân tố nào có thể dao động
cái tâm đă an ổn của người ấy.
Nay
chúng ta thường nói tới “tu
đạo”, nhưng chẳng cảm thấy ǵ. Hễ
khi có chuyện, khảo nghiệm chính ḿnh, sẽ biết
đă đạt tới tŕnh độ nào. Ngay trong khi
đang niệm Nam-mô A Di Đà Phật, một viên kim
cương to rơi trước mắt, tối thiểu
quư vị cũng nh́n xem nó là thứ ǵ, chẳng được
rồi! Kim cương cũng là pháp sanh diệt. Hoặc là
nói b́nh thường tu hành, chuyện ǵ cũng chẳng màng,
dẫu sao đó là pháp sanh diệt, nhưng người ta
muốn quư vị làm Bộ Trưởng, trong tâm quư vị
liền dao động, đi làm Bộ Trưởng ngay. Bất
cứ lúc nào chúng ta gặp pháp sanh diệt, chính ḿnh sẽ
chẳng thể khống chế. Muốn an trụ trong pháp
Vô Sanh, há dễ dàng ư? Chúng ta phải liễu giải tŕnh
độ của chính ḿnh, bất cứ lúc nào cũng ép
chính ḿnh phải làm như thế. Bất luận cảnh
giới nào, thuận cảnh hay nghịch cảnh cũng thế,
đều phải gắng sức huấn luyện sao cho
tâm lư của chính ḿnh bất động, mà cũng dần dần
có thể học Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nếu gặp những
thuận cảnh hay nghịch cảnh nhỏ nhặt mà
đă rất dễ bị ảnh hưởng, sẽ rất
khó đạt đến cảnh giới Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Trải qua một tiểu kiếp, sẽ đắc Vô Sanh
Pháp Nhẫn. Hễ đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, ngay trong hiện
tại, đức Phật thọ kư cho quư vị, kể cả
chuyện trong tương lai sẽ thành Phật như thế
nào v.v... đều nói rành rẽ, rơ ràng!
(Kinh)
Thị danh Thượng Phẩm Trung Sanh giả.
(經)是名上品中生者。
(Kinh: Đấy
gọi là Thượng Phẩm Trung Sanh).
Nhân và
duyên văng sanh trên đây, cùng với [t́nh huống] khi văng sanh và
những lợi ích sẽ đạt được khi văng
sanh, đă nói rơ từng điều. Có thành tựu như vậy
bèn gọi là Thượng Phẩm Trung Sanh.
Trong
đạo tràng, các vị đă học kinh A Di Đà, lại
nghe bộ kinh này, đều là kinh điển Đại
Thừa, đă nghe Đệ Nhất Nghĩa Đế, lại
c̣n là pháp đặc biệt, tuyệt diệu thay! Chiếu
theo như vậy để tu, lại c̣n tin sâu nhân quả,
trong tương lai, Thượng Phẩm Trung Sanh há c̣n có vấn
đề ư? Chúng ta phải tuyệt đối tin
tưởng, tu theo đúng như vậy, nhất định
là chẳng có vấn đề ǵ! Hôm nay tôi nói đến chỗ
này!
Tập 42
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn trang hai mươi bốn,
hàng cuối cùng, bắt đầu từ ba chữ cuối.
Tôi đọc trước kinh văn một lượt:
(Kinh) Thượng Phẩm
Hạ Sanh giả, diệc tín nhân quả, bất báng Đại
Thừa, đản phát vô thượng đạo
tâm, dĩ thử công đức, hồi hướng
nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc.
(經)上品下生者,亦信因果,不謗大乘。但發無上道心,以此功德,迴向願求生極樂國。
(Kinh: Người
Thượng Phẩm Hạ Sanh cũng
tin nhân quả, chẳng báng Đại Thừa, chỉ
phát vô thượng đạo tâm. Dùng công đức ấy
hồi hướng nguyện cầu sanh về nước
Cực Lạc).
Đoạn
này vẫn thuộc phép Quán thứ mười bốn, nói về
nguyên nhân văng sanh trong Thượng Phẩm và lợi ích sau
khi văng sanh. Thượng Phẩm trong phép Quán này có Thượng
Sanh, Trung Sanh, và Hạ Sanh. Trong phần trước, Thượng
Phẩm Thượng Sanh và Thượng Phẩm Trung Sanh
đều đă nói rồi; hôm nay, tôi bắt đầu nói
về Thượng Phẩm Hạ Sanh.
“Thượng Phẩm Hạ Sanh giả”:
Trước hết, nêu ra phẩm vị văng sanh. Tiếp
đó, “diệc tín nhân quả,
bất báng Đại Thừa” (cũng tin nhân quả, chẳng
báng Đại Thừa). Đối với Thượng Phẩm
Thượng Sanh, phàm là muốn nguyện sanh về cơi ấy
(Cực Lạc), phải phát ba loại tâm, [tức là] chí
thành tâm, thâm tâm, và hồi hướng phát nguyện tâm, ắt
cần phải có những điều kiện ấy. Lại
c̣n có ba loại chúng sanh:
1) Từ
tâm chẳng giết, đầy đủ các giới hạnh.
2) Đọc
tụng kinh điển Đại Thừa Phương
Đẳng.
3) Tu hành
lục niệm, hồi hướng phát nguyện.
Đó là
những điều kiện cần phải trọn đủ
của Thượng Phẩm Thượng Sanh. Khi đă
đạt tới Thượng Phẩm Trung Sanh, chẳng cần
thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Phương
Đẳng. [Dẫu] chẳng cần thọ tŕ, nhưng ắt
phải khéo hiểu nghĩa thú, đối với Đệ
Nhất Nghĩa, tâm chẳng kinh động. Thượng
Phẩm Trung Sanh đặc biệt là phải khéo hiểu
nghĩa thú. Đối với Đệ Nhất Nghĩa
Đế, c̣n phải hoàn toàn có thể liễu giải. Đệ
Nhất Nghĩa Đế đă được nói rồi,
rất thâm áo. Sau khi đă đối chiếu với hai phẩm
trước, hăy xem tới Thượng Phẩm Hạ Sanh.
“Diệc tín nhân quả, bất
báng Đại Thừa”: Người Thượng Phẩm
Hạ Sanh đối với nhân quả “diệc tín” (cũng tin). Chữ “diệc” (cũng) này bao gồm rất nhiều ư
nghĩa. Trong những phần trước, đều nói
là “tin sâu nhân quả”. Đối
với đạo lư nhân quả, phải tuyệt đối
tin tưởng sâu xa. “Diệc
tín nhân quả” là không nhất định, có khi là tin sâu
nhân quả, có khi là mức độ tin tưởng khá cạn.
Ḷng tin có gián đoạn, tin rồi lại lui sụt, lui sụt
rồi lại tin. Thêm vào chữ “diệc”,
[tức là] cũng tin nhân quả. Từ ư nghĩa này, có thể
thấu hiểu: Ngữ khí “tin
tưởng nhân quả” chẳng khẳng định
như “tin sâu nhân quả” trong
phần trước. Chúng ta phải hiểu rơ điều
này. “Bất báng Đại Thừa”:
Ở đây, cũng chẳng hề nói phải thọ tŕ, đọc
tụng kinh điển Phương Đẳng, nhưng ắt
cần phải “chẳng hủy báng pháp Đại Thừa”.
Đối với pháp Đại Thừa do đức Phật
đă giảng, nếu hủy báng th́ chẳng được
rồi! Điều này đặc biệt quan trọng. So
sánh hai câu này với phần trước, kém hơn phần
trước, nhưng trong phần tiếp đó, [kinh
văn chép] “đản phát vô
thượng đạo tâm” (chỉ phát vô thượng
đạo tâm). Người học Thượng Phẩm Hạ
Sanh, người phát Bồ Đề tâm phải phát vô
thượng đạo tâm. Nói cách khác, “vô thượng đạo tâm” trong phẩm này là đặc
biệt. Người thuộc Thượng Phẩm Trung
Sanh trong phần trước khéo hiểu nghĩa thú, đối
với Đệ Nhất Nghĩa Đế, tâm chẳng kinh
động. Phải đặc biệt chú ư điều này.
Thượng Phẩm Hạ Sanh đặc biệt chú trọng
“phát vô thượng đạo
tâm”.
V́
sao “diệc tín nhân quả”
chẳng bằng “thâm tín nhân quả”
trong phần trước? Học Phật th́ phải tin nhân
quả. V́ sao tin nhân quả quan trọng? Lấy ngay chuyện
khổ lạc trong thế gian để nói, hiện thời
chịu khổ quả, tất nhiên là vốn có cái nhân. Chẳng
có nhân, há có quả? Do hành vi trong hiện thời, trong
tương lai, tất nhiên cũng kết quả, ắt phải
tin tưởng điều này! Thật sự tin sâu nhân quả
khổ lạc thế gian, chúng ta làm bất cứ việc
ǵ cũng chẳng dám tùy tiện, rất sợ phải gánh
chịu trách nhiệm nhân quả. Như vậy th́ tuyệt
đối chẳng chịu mà cũng chẳng dám tạo những
hành vi tội ác. Những kẻ b́nh phàm trong xă hội dám tạo
những tội nghiệp giết, trộm, dâm v.v... là do
nguyên nhân nào? Nói theo Phật pháp, chính là do chẳng tin nhân quả,
chẳng hiểu rơ nhân quả. So với bất cứ loại
học vấn nào trong thế gian, học vấn nhân quả
luôn cao minh hơn. Thật sự hiểu rơ nhân, duyên, quả,
tự nhiên sẽ thông đạt: Đời trước của
một người là ǵ? Hiện thời là ǵ? Tương
lai sẽ lại như thế nào? Tất nhiên sẽ liễu
giải. Nếu liễu giải rành rẽ, rơ ràng, khi ấy,
hành vi của chính ḿnh c̣n dám tùy tiện ư? Chửi người
khác cũng thế, mà tranh danh đoạt lợi cũng thế,
tuyệt đối chẳng dám! Đấy là nói theo nhân quả
khổ lạc trong thế gian.
Đối
với nhân quả khổ lạc trong thế gian, khổ nhất
là nỗi khổ sanh tử to lớn. Bất cứ kẻ
nào chẳng học Phật cũng đều không liễu
giải. Đọc trọn hết sách vở thế gian,
[đọc trọn khắp] hết thảy các học thuyết
khoa học và triết học, nhưng nếu chẳng hiểu
Phật pháp, vẫn chẳng liễu giải nỗi khổ
sanh tử! Liễu giải nỗi khổ sanh tử tức
là phải liễu giải nhân quả ba đời. Một
người bất luận trong đời này có địa
vị cao cỡ nào đi nữa, các phương diện
đều tốt đẹp, nhưng trong nháy mắt, sanh
mạng đă kết thúc, sẽ đến nơi đâu? Mờ
mịt vô tri! Nếu hiểu Phật pháp, sẽ biết
chuyện này quá nghiêm trọng, vấn đề sanh tử
quá to tát! Biết vấn đề sanh tử, đối với
ư niệm của chính ḿnh trong hiện thời: Ư niệm của
chúng ta thường là qua lại với kẻ khác, hoặc
làm bất cứ chuyện ǵ, mắt thấy các loại màu
sắc, tai nghe các thứ âm thanh, tiếp xúc với hoàn cảnh
bên ngoài, kẻ b́nh phàm hễ gặp thứ tốt đẹp
sẽ tham luyến, chấp trước, tham cầu. Gặp
thứ chẳng tốt đẹp, bèn ghét bỏ, bài trừ!
Người hiểu nỗi khổ sanh tử, bất luận
thấy bất cứ tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghê đều khiến cho người ta có ḷng tham.
Hễ thấy những thứ tốt đẹp, trong tâm tự
nhắc nhở chính ḿnh: Thời thời khắc khắc có
nhân quả của “nỗi khổ sanh tử” (đại khổ)
bày ra trong tâm, ngay lập tức, ư niệm chuyển biến.
Hễ ư niệm vừa chuyển biến, tài sản dẫu
nhiều đến mấy, dẫu quyền lực, danh vị
v.v... nhiều đến mấy đi nữa đều chẳng
dám tham cầu, biết: Hễ tham cầu, sẽ đọa
lạc; không chỉ là chẳng thể giải quyết vấn
đề sanh tử, mà c̣n nhất định tranh đoạt
với người khác, ắt cần phải đánh bại
kẻ khác, chính ḿnh mới có thể đạt được
[danh vọng, quyền lực, tài sản v.v...], đó là tạo
nghiệp! Giống như Thái Lan hiện thời phát sanh bạo
loạn, là do nguyên nhân ǵ? Vẫn chẳng phải là do mấy
người đang nắm quyền tranh quyền đoạt
lợi với nhau, lợi dụng bọn thường dân
tạo thành cục diện [rối ren], há có lẽ nào chẳng
dẫn đến kết quả chết người
ư? Đă chết không ít người rồi! V́ mở rộng
quyền lợi của chính ḿnh mà sách động quần
chúng nhiều ngần ấy cùng tạo nghiệp với họ!
Không chỉ là Thái Lan có t́nh h́nh giống như vậy, trên
thế giới có khá nhiều quốc gia giống như vậy.
Từ xưa tới nay, đều là t́nh h́nh như vậy.
Nếu liễu giải nỗi khổ sanh tử, họ có
dám hay không? Dẫu giành được địa vị to
lớn, tốt đẹp, dẫu giữ chức vị ấy
suốt cả một đời, lại sẽ như thế
nào? Sau khi đă chết, chẳng thể nào không đọa
lạc! Dùng loại thủ đoạn ấy hại chết
bao nhiêu người rồi! Khi lại chuyển thế, chẳng
vào tam đồ, sẽ tới nơi đâu? V́ thế, nếu
người học Phật đă hiểu nỗi khổ sanh
tử, có dám tạo nghiệp hay chăng? Tuyệt đối
chẳng dám tạo nghiệp! Tin sâu nỗi khổ sanh tử,
đặc biệt quan trọng!
Ngoài
việc liễu giải nhân quả về sự khổ vui
trong thế giới Sa Bà ra, c̣n phải liễu giải văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là Quả,
cái quả do sanh về thế giới Cực Lạc tuyệt
vời thay! Kinh Tiểu A Di Đà đă nói: “Kỳ quốc chúng sanh, vô hữu chúng khổ, đản
thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc” (Chúng
sanh trong cơi ấy, chẳng có các sự
khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên gọi là Cực
Lạc). Như thế nào th́ sẽ đạt được
quả Cực Lạc? Đương nhiên là phải có nhân,
phải tu nhân. Nếu hiểu rơ nhân quả Tịnh Độ,
dẫu thế nào đi nữa, chúng ta chẳng bị thoái
chuyển. Bất luận như thế nào, trong một
đời này, chúng ta ắt phải thành tựu tịnh
nghiệp văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới. “Tín nhân quả” bao
gồm hai loại lớn:
1) Tin
tưởng nhân quả của “khổ, lạc, sanh, tử”
trong thế giới này.
2) Tin
tưởng nhân quả của chuyện văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới .
“Bất báng Đại Thừa”:
Đức Phật giảng kinh điển Đại Thừa.
Nay chúng ta đang nghiên cứu Quán Kinh chính là kinh điển
Đại Thừa. Ba kinh Tịnh Độ đều là
kinh điển Đại Thừa. V́ sao hủy báng? Hủy
báng là do đối với kinh có chỗ hoài nghi, có chỗ
chẳng thể tin tưởng, cho nên mới hủy báng. Từ
điều này, chúng ta có thể nghĩ đến người
hiện thời thường đứng trên lập trường
học thuật để phê b́nh: “Bộ kinh này có đáng
tin cậy hay không? Đạo lư được giảng
trong bộ kinh kia có đúng hay không?” Dùng tác phong phê phán để
phê b́nh kinh điển. Học thuyết thế gian thường
là phê phán: “Học thuyết này hay, hoặc học thuyết
kia không hay, đáng nên hoài nghi!” Nhưng đối với Phật
pháp, nhất là đối với kinh điển Đại
Thừa, ngàn muôn phần chớ nên như vậy! Nếu
chúng ta mong liễu sanh tử, mong thành Phật, chớ nên học
theo những học thuyết b́nh phàm trong thế gian, hoặc
[bắt chước tác phong hoài nghi, phê phán của] hàng học
giả trong thế gian! Học giả thế gian ngay cả
sanh tử cũng chẳng liễu giải, họ làm sao biết
được? “Bất báng Đại
Thừa” là chớ nên tùy tiện hoài nghi Đại Thừa.
Chúng ta nghiên cứu kinh, đương nhiên là kinh văn rất
thâm áo, trong ấy, bao hàm rất nhiều ư nghĩa, chúng ta
chẳng thể vừa xem liền lập tức hiểu
ngay. Xem không hiểu, chẳng sao cả! Xem không hiểu th́
bản thân chúng ta nghiên cứu từ từ. Hơn nữa,
ư nghĩa trong Phật pháp cũng hoàn toàn chẳng phải
là do thuần túy nghiên cứu mà có thể nghiên cứu sáng tỏ
được! Khi nghiên cứu chẳng sáng tỏ, chẳng
thể vượt qua nỗi mắc mướu, chính ḿnh
phải dốc công phu, vận dụng công phu, có định
lực kha khá, có công phu tu tŕ kha khá, rồi lại nghiên cứu
nghĩa lư, sẽ vượt qua được mắc mướu
ấy. Nếu chẳng biết đổ công dốc sức
bằng sự tu tŕ của chính ḿnh, bằng sự vận
dụng công phu, hoàn toàn chẳng nói đến chuyện dụng
công, chỉ nghiên cứu đạo lư suông, sẽ giống
như những học giả b́nh phàm, sẽ nghiên cứu chẳng
ra, chẳng thể nghiên cứu đạo lư rất sâu!
Vào
đời Minh, Hám Sơn đại sư, khi chú giải một
bộ luận của cổ nhân, chú giải không được,
đối với đạo lư có nghi vấn, thế nhưng
Ngài chẳng hủy báng, mà bèn nhập Định. Khi ở
trong Định, đă chuyển cảnh giới, trong Định
bèn suy nghiệm đạo lư do cổ nhân đă nói, hoàn toàn
thấu hiểu! Chúng ta trau giồi học vấn, nhất
là nghiên cứu kinh Phật, đương nhiên là phải
xem xét, phải nghiên cứu. Khi nghiên cứu đến chỗ
sâu xa nhất, chẳng thể chuyển được, chính
ḿnh phải hạ công phu, vận dụng công phu tu tŕ th́ ư
nghĩa mới sáng tỏ. Ngàn muôn phần đừng giống
như những kẻ thuộc giới học thuật
trong hiện thời: Hễ gặp phần nào không hiểu,
bèn hoài nghi kinh văn chẳng đúng, sửa đổi
kinh văn! Làm như vậy chính là tạo tội nghiệp
to lớn!
“Đản phát vô thượng đạo
tâm”, tức là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm,
phát tâm thành Phật. Chúng ta hành Bồ Tát đạo theo cách
nào? Nếu các vị xem kinh điển Đại Thừa
nhiều, sẽ liễu giải cách hành Bồ Tát pháp
như thế nào? Nếu không, v́ sao trước đó phải
thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Đại Thừa
Phương Đẳng? Ắt phải hiểu kinh điển,
chính ḿnh đă hiểu rơ, lại bảo cho người khác
biết, đó là hành vi của Bồ Tát. “Cầu pháp Bồ Tát” là cầu ǵ? Thượng cầu
hạ hóa: Nói theo phía trên là cầu Phật, cầu đại
pháp thành Phật, trên là cầu Phật đạo (đạo
để thành Phật). Nói xuống dưới là đối
với kẻ b́nh phàm bèn hạ hóa chúng sanh, tức là giáo hóa
các chúng sanh b́nh phàm. Khi thượng cầu Phật đạo,
chính ḿnh chẳng hiểu lư, Phật đạo sâu dường
ấy, rộng răi ngần ấy. Hóa độ chúng sanh,
chúng sanh trong thế gian có quá nhiều phẩm loại. Mỗi
thứ học thuyết trong thế gian đều có người
học. Người chẳng học hành, xét theo tâm lư của
họ, ai nấy đều có tâm lư riêng, quá ư là nhiều.
Quư vị muốn hóa độ họ, mà chẳng hiểu
tâm lư của họ, chẳng biết họ hiểu biết
những ǵ, giáo hóa họ bằng cách nào? V́ thế, hành Bồ
Tát đạo, thượng cầu hạ hóa rất khó! “Phát vô thượng đạo
tâm” là phát cái tâm mong thành Phật, cầu Phật đạo,
mong hóa độ chúng sanh.
Tổ
sư dạy rơ ràng: Nếu công phu của chúng ta chẳng đủ,
học vấn hiểu biết chẳng đủ, hăy làm
như thế nào? Tổ sư bảo “phát tâm”. Nói “phát tâm” th́
đây là một pháp môn đặc biệt, chẳng phải
là pháp môn thông thường. Đối với pháp môn thông thường,
quư vị phát vô thượng đạo tâm, sẽ chiếu
theo đó để làm: Trên là cầu thâm nhập kinh tạng,
nghiên cứu kinh Phật; dưới là hóa độ chúng
sanh, ắt phải đem Phật pháp nói với những kẻ
b́nh phàm. Chẳng làm như vậy, sẽ chẳng chẳng
phù hợp Bồ Tát đạo, vậy th́ liễu sanh tử
hoặc thành Phật sẽ khó khăn. Nhưng pháp môn Tịnh
Độ rất đặc biệt, quư vị phát vô
thượng đạo tâm, nay chưa làm được,
thậm chí đối với những chữ trong kinh
văn ta đều chẳng nhận biết, chẳng sao cả!
Chỉ cần nhất tâm bằng ḷng cầu văng sanh. Sau khi
đă sanh về thế giới Cực Lạc, hết thảy
trí huệ đều đầy đủ, đều thành
tựu, ngay lập tức trở vào Sa Bà. Tuy hoàn cảnh
trong thế giới Cực Lạc tốt đẹp ngần
ấy, nhưng chẳng vĩnh viễn hưởng thụ
trong đó. Nay tuy c̣n chưa đi (chưa văng sanh), trong tâm
chúng ta nghĩ tưởng: “Ta sang bên đó nhằm thành tựu
đạo nghiệp của chính ḿnh”. Chính ḿnh thành tựu
trọn đủ các thứ năng lực trí huệ, bèn
ngay lập tức trở về thế giới Sa Bà ḥng hóa
độ chúng sanh. Phát ra cái nguyện ấy th́ cũng là phát
vô thượng đạo tâm. Bất luận kẻ nào cũng
đều có thể làm được chuyện này, đều
có thể trở thành Đại Thừa Bồ Tát. Đấy
là tổ sư đặc biệt nói rơ pháp đặc biệt
để phát vô thượng đạo tâm. Trước
khi chúng ta có năng lực để văng sanh,
đương nhiên là phải thượng cầu hạ
hóa, chẳng có đầy đủ năng lực ấy
mà vẫn có thể [phát vô thượng đạo tâm].
“Dĩ thử công đức, hồi
hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc” (Dùng
công đức này, hồi hướng nguyện cầu sanh
về cơi Cực Lạc). Đem những công đức
trên đây, [tức là] tin tưởng nhân quả, chẳng
báng Đại Thừa, đặc biệt là công đức
phát vô thượng đạo tâm, dùng những công đức
ấy để hồi hướng, phát nguyện cầu văng
sanh thế giới Cực Lạc. Những điều trên
đây đă chỉ rơ điều kiện và nguyên nhân của
Thượng Phẩm Hạ Sanh. “Hồi
hướng” th́ phải biết dụng công, hồi
hướng là như thế nào? Hoàn toàn chẳng phải là
hồi hướng trong công khóa sáng tối mà thôi, chẳng
phải là hồi hướng trong khi tụng niệm công
khóa. Thông thường, làm bất cứ thiện sự nào,
sẽ đều là công đức, đều phải hồi
hướng, thành tựu trong tương lai là có thể văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bất cứ
lúc nào chúng ta cũng đều hồi hướng. Hơn
nữa, trong tâm phát khởi vô thượng đạo tâm. Nếu
có năng lực, lúc nào, chỗ nào cũng đều có tâm
làm như vậy. Nếu chẳng có năng lực, lúc nào
cũng giữ tấm ḷng “thừa
nguyện tái lai”. Hễ làm công đức nào, cũng
đều là vừa mong cầu văng sanh thế giới Cực
Lạc, đồng thời cũng bằng ḷng “nương
theo nguyện để quay trở lại”. Đấy là hồi
hướng nguyện cầu sanh về thế giới Cực
Lạc. Thời thời khắc khắc hồi hướng
nơi đó, thời thời khắc khắc nguyện cầu.
Đoạn
kinh văn tiếp theo có kết cấu và sắp xếp giống
như trong đoạn trên, nói rơ các thứ duyên thù thắng
khi văng sanh như sẽ gặp gỡ, thấy Phật, Bồ
Tát v.v… . Đoạn trước là nói về nhân, đoạn
này nói về duyên.
(Kinh)
Hành giả mạng dục chung thời, A Di Đà Phật, cập Quán Thế Âm, Đại Thế
Chí, dữ chư Bồ Tát, tŕ kim liên hoa, hóa tác ngũ bách Phật,
lai nghênh thử nhân. Ngũ bách Hóa Phật, nhất thời
thọ thủ, tán ngôn: “Pháp tử! Nhữ kim thanh tịnh,
phát vô thượng đạo tâm, ngă lai nghênh nhữ”.
(經)行者命欲終時,阿彌陀佛,及觀世音、大勢至,與諸菩薩,持金蓮華,化作五百佛,來迎此人。五百化佛,一時授手。讚言:法子,汝今清淨,發無上道心,我來迎汝。
(Kinh: Khi hành
giả sắp mạng chung, A Di Đà Phật và Quán Thế
Âm, Đại Thế Chí, cùng với các vị Bồ Tát, cầm
hoa sen vàng, hóa thành năm trăm vị Phật đến
đón người ấy. Năm trăm vị Hóa Phật
cùng lúc x̣e tay, khen rằng: “Pháp tử! Con nay thanh tịnh,
phát vô thượng đạo tâm, ta đến đón con”).
“Hành giả” (行者) là nói tới
người tu hành, tin tưởng nhân quả, phát vô thượng
đạo tâm trong phần trên. “Mạng
dục chung thời”: Khi thọ mạng sắp chấm
dứt, Tây Phương Tam Thánh, tức A Di Đà Phật dẫn
hai vị đại Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế
Chí (ở hai bên đức Phật), c̣n có “dữ chư Bồ Tát”, [nghĩa là] c̣n rất nhiều
vị Bồ Tát khác. “Tŕ kim liên
hoa”:
Khi
năm trăm vị Hóa Phật đồng thời duỗi
tay, kể cả A Di Đà Phật, Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí Bồ Tát v.v... [đều làm như thế], “tán ngôn”: Khen ngợi. “Pháp tử”: Phàm là những vị
Bồ Tát hành pháp Đại Thừa đều gọi là
Pháp Tử. “Nhữ kim thanh tịnh”,
ư nói khi hành giả sắp mạng chung, đă thanh tịnh. “Thanh tịnh” là ǵ? Hiện thời,
kẻ chẳng học Phật trong thế gian, ngay cả kẻ
ăn mày cũng thế, mà kẻ làm Đại Tổng Thống
cũng thế, những bậc đại học giả
được trao giải Nặc Bối Nhĩ (Nobel)
cũng thế, thường cảm thấy chính ḿnh vẫn
là khá lắm. Hễ tới khi thọ mạng chấm dứt,
kẻ địa vị càng cao, học vấn càng nhiều,
càng đau khổ! Kẻ ăn mày cảm thấy chẳng
sao cả! Dẫu sao, làm ăn mày rất khổ sở, chết
th́ chết, trong tâm chẳng có ǵ đau khổ! Nhưng kẻ
làm đại tổng thống, hoặc làm đại hoàng
đế vào thời cổ, hoặc những bậc đại
học vấn trong hiện thời, thường ngày cao cao
tại thượng, ai cũng chẳng thể sánh bằng
họ, đối diện cái chết, trong tâm hoảng sợ,
so với bất cứ ai cũng đều đau khổ
hơn, trọn chẳng thanh tịnh! Trong tâm đau khổ,
bàng hoàng vô chủ, không biết làm như thế nào! Trong tâm
có thanh tịnh hay không? Đấy đều là do đủ
mọi thiện nghiệp và ác nghiệp đă tạo từ
vô thỉ tới nay cùng lúc phát ra ngoài, nội tâm hỗn loạn
khôn cùng, tuyệt đối chẳng thanh tịnh!
Nhưng
“hành giả” b́nh thường
tu hành, đến khi thọ mạng chấm dứt, đến
thế giới Sa Bà giống như đi xa, du lịch, ngắm
cảnh, nay sắp trở về thế giới Cực Lạc,
giống như đến chỗ nào đó ngắm cảnh
xong, sẽ chuẩn bị trở về nhà, trong tâm hết
sức vui sướng. Do cái tâm ấy, hết thảy chuyện
lo buồn, khổ năo, hoặc vui sướng trong thế
gian thảy đều buông xuống, nhất tâm bất loạn
chuẩn bị văng sanh thế giới Cực Lạc. Các thứ
phiền năo đều hóa thành chẳng c̣n nữa. Đó là “thanh tịnh”. Nếu không, làm
sao nói đến “thanh tịnh”
cho được? Khi ấy, đức Phật và các vị
đại Bồ Tát, c̣n có Hóa Phật, đồng thời x̣e
tay tán thán người ấy: “Nhữ
kim thanh tịnh”, quư vị đă thanh tịnh.
V́
sao thanh tịnh? Thanh tịnh trong khi ấy chính là một hiện
tượng tốt lành, tức là thụy tướng văng
sanh. Thụy tướng ấy do đâu mà có? V́ “phát vô thượng đạo
tâm”. Thông thường, đă phát vô thượng đạo
tâm, bao gồm tin tưởng sâu xa thế giới Cực Lạc,
tin sâu pháp môn Tịnh Độ, tin sâu sanh tử là nỗi
khổ to lớn trong thế gian. V́ vậy, mong liễu sanh
tử, mong mỏi sanh về thế giới Cực Lạc.
Đồng thời, cũng chẳng phải là Tiểu Thừa,
mà là Đại Thừa. Chính ḿnh tin tưởng, phát nguyện,
tu hành, cũng khuyên người khác tin tưởng, phát nguyện,
tu tŕ. Đấy là “phát vô
thượng đạo tâm”. B́nh thường đă phát vô
thượng đạo tâm, măi cho đến khi thọ mạng
chấm dứt, do vậy, tâm của quư vị thanh tịnh.
Do mối quan hệ này, “ngă lai
nghênh nhữ” (ta đến đón ngươi): Tâm thanh tịnh,
Phật đến đón quư vị, quư vị mới trông
thấy. Tâm chẳng thanh tịnh,
Phật, Bồ Tát có đến, quư vị cũng không thấy,
bị chướng ngại. Bị ai chướng ngại?
Bị loạn tâm của chính ḿnh chướng ngại. V́
thế, đối với tầng ư nghĩa này, chúng ta phải
đặc biệt chú trọng, chú ư.
B́nh
thường, thời thời khắc khắc tưởng,
niệm niệm đều tưởng, ư niệm ấy dấy
lên có ảnh hưởng tới lúc ta văng sanh trong
tương lai hay không? Có khiến cho chúng ta loạn tâm, phiền
năo hay không? Phàm những ǵ đủ để ảnh
hưởng, gây chướng ngại cho sự văng sanh của
chúng ta trong tương lai, khiến cho tâm chúng ta không thanh tịnh,
hăy ngay lập tức tiêu trừ ư niệm ấy. Đó là
niệm Phật. Tŕ danh niệm Phật, một câu danh hiệu
bao hàm quá nhiều ư nghĩa. Ắt đều phải liễu
giải những ư nghĩa ấy. Sau đó, dấy lên một
câu A Di Đà Phật. Một câu A Di Đà Phật là pháp môn tổng
tŕ, tổng tŕ những ǵ? Bao hàm tất
cả đạo lư của Phật pháp trong ấy. Niệm
một câu Phật hiệu, tâm pháp là tất cả ư nghĩa đều được
bao hàm trong ấy. Niệm một câu Phật hiệu có sức
mạnh to lớn chẳng thể nghĩ bàn! B́nh thường
niệm như vậy, luyện tập như vậy, tới
khi thọ mạng chấm dứt, tâm lư thanh tịnh, chỉ
có nhất tâm bất loạn tŕ câu Phật hiệu th́ mới
có thể cảm ứng Phật và Bồ Tát đến
đón tiếp.
Đoạn
kinh văn dưới đây nói đến sự văng sanh,
có nhân, có duyên, sẽ đạt được kết quả
văng sanh.
(Kinh)
Kiến thử sự thời, tức tự kiến thân tọa
kim liên hoa. Tọa dĩ, hoa hợp, tùy Thế Tôn hậu, tức
đắc văng sanh thất bảo tŕ trung.
(經)見此事時,即自見身坐金蓮華。坐已華合,隨世尊後,即得往生七寶池中。
(Kinh: Khi thấy
chuyện ấy, liền thấy thân ḿnh ngồi trên hoa sen
vàng. Ngồi xong, hoa khép lại, theo sau đức Thế
Tôn, liền được sanh vào trong ao bảy báu).
“Kiến thử sự thời”
(Khi thấy chuyện ấy). Chữ “thử sự” là nói [những chuyện như] A
Di Đà Phật, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí,
chư Bồ Tát, c̣n có Hóa Phật, khen ngợi v.v... như
trong phần trên, người văng sanh đều trông thấy
rơ ràng. Lúc đó, nh́n thấy rơ ràng. “Tức tự kiến thân tọa kim liên hoa”: Tức
khắc thấy thân thể của chính ḿnh ngồi trên hoa
sen vàng. “Tọa dĩ hoa hợp”:
Sau khi ngồi xong, hoa sen vàng bèn khép lại, bao lấy thân thể.
“Tùy Thế Tôn hậu”: Chữ
Thế Tôn chỉ A Di Đà Phật, [người văng sanh]
theo sau A Di Đà Phật. “Tức
đắc văng sanh thất bảo tŕ trung” (Liền
được sanh vào trong ao bảy báu): Có đến hai chữ
Tức, một là “tức tự
kiến thân tọa kim liên hoa” (liền thấy thân ḿnh ngồi
trên hoa sen vàng); chữ kia là “tức
đắc văng sanh thất bảo tŕ trung” (liền được
văng sanh trong ao bảy báu). “Tức” (即) là lập
tức, ngay trong một niệm. Thông thường, nếu
chúng ta hỏi: “Thế giới Cực Lạc ở ngoài
mười vạn ức cơi Phật, xa xôi ngần ấy,
[làm sao có thể đến đó cho được]?” Nhưng
kinh văn đă nói rất rơ ràng, “tức khắc”. Trong tương lai, khi thọ mạng
của chúng ta chấm dứt, sau khi trông thấy Tây
Phương Tam Thánh và Hóa Phật, sẽ ngay lập tức
thong dong, tự tại, ngồi trên hoa sen. Hoa sen khép lại,
trong một niệm liền sanh về ao sen bảy báu trong
Tây Phương Cực Lạc, mau chóng như thế đó!
Phật
pháp bất luận là tông nào, đều phải hiểu rơ tâm
pháp. Cái gọi là “tâm pháp”
chính là ǵ? Ắt phải hiểu rơ tâm của mỗi chúng sanh,
tức Chân Như bản tánh vô cùng vô tận, không đâu chẳng
tồn tại, lớn đến mức chẳng có ngằn
mé. Tuyệt đối phải liễu giải đạo
lư này! Sau khi đă liễu giải đạo lư này, tâm phải
thanh tịnh. Khi thọ mạng chấm dứt, các phiền
năo khác chẳng dấy lên, loạn tâm chẳng có, cái tâm
thanh tịnh vừa phát sẽ cảm ứng Phật, Bồ
Tát tới đón tiếp. Văng sanh chính là cái tâm của chính
ḿnh (bản tánh của chính ḿnh) khai triển, phát hiện. Khi
bản tánh phát hiện, sẽ liền được văng
sanh. Tuy thế giới Cực Lạc xa xôi ngần ấy,
chỉ cần khi bản tánh khai phát, phát hiện, dẫu xa
cách mấy, cũng giống như trước mắt. Chẳng
hiểu rơ tâm pháp th́ làm thế nào cũng chẳng hiểu
đạo lư này.
Thượng
Phẩm Thượng Sanh hoa sen chẳng khép lại. Ở
đây (Thượng Phẩm Hạ Sanh) là “hoa hợp” (hoa khép lại). Dưới đây là
những lợi ích (những điều tốt đẹp)
sẽ đạt được sau khi văng sanh. Kinh văn
[như sau]:
(Kinh)
Nhất nhật nhất dạ, liên hoa năi khai. Thất nhật
chi trung, năi đắc kiến Phật. Tuy kiến Phật
thân, ư chúng tướng hảo, tâm bất minh liễu.
Ư tam thất nhật hậu, năi liễu liễu kiến.
Văn chúng âm thanh, giai diễn diệu pháp. Du lịch thập
phương, cúng dường chư Phật. Ư chư Phật
tiền, văn thậm thâm pháp. Kinh tam tiểu kiếp,
đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Địa.
(經)一日一夜,蓮華乃開。七日之中,乃得見佛。雖見佛身,於眾相好,心不明了。於三七日後,乃了了見。聞眾音聲,皆演妙法。遊歷十方,供養諸佛。於諸佛前,聞甚深法。經三小劫,得百法明門,住歡喜地。
(Kinh: Qua một
ngày một đêm, hoa sen mới nở. Trong ṿng bảy ngày,
bèn được thấy Phật. Tuy thấy thân Phật,
đối với các tướng hảo, tâm chẳng hiểu
rơ. Sau hai mươi mốt ngày, mới thấy rành rẽ.
Nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp. Dạo khắp
mười phương, cúng dường chư Phật.
Đối trước chư Phật, nghe pháp rất sâu.
Qua ba tiểu kiếp, đắc Bách Pháp Minh Môn, trụ Hoan
Hỷ Địa).
Đoạn
này nói rơ lợi ích sẽ đạt được sau khi văng
sanh. Sanh vào trong ao sen bảy báu, hoa sen bèn khép lại, trải
qua thời gian “một ngày một
đêm, hoa sen mới nở”. Đối với Thượng
Phẩm Trung Sanh trong đoạn trước là qua một đêm
mới nở, “kinh túc” (經宿) là nói thời
gian trong một đêm, thời gian [hoa sen khép lại trong
Thượng Phẩm Trung Sanh so với Thượng Phẩm
Hạ Sanh] ngắn hơn một nửa! Thượng Phẩm
Thượng Sanh th́ hoa sen chẳng khép lại, thời gian càng
nhanh hơn. Do vậy, chẳng nói khi nào hoa sen nở. Hoa sen
[trong Thượng Phẩm Thượng Sanh] vốn đă nở.
Ở đây nói “một ngày một
đêm”, hoa sen bèn nở. “Thất
nhật chi trung, năi đắc kiến Phật” (Trong ṿng
bảy ngày, bèn được thấy Phật). Nguyên lai là A
Di Đà Phật đến tiếp dẫn, đó là Ứng
Hóa Phật đến tiếp đón. Trong ṿng bảy ngày,
thấy chánh báo trang nghiêm của A Di Đà Phật. Trong phần
trước, [trong phép Quán dạy về] quán thân Phật,
đă có nói: Thân Phật cao lớn dường ấy, mắt
biếc trong veo như bốn biển cả, có nhiều
tướng hảo đẹp đẽ. “Tuy kiến Phật thân” (Tuy thấy thân Phật),
nhưng “ư chúng tướng
hảo” (đối với các tướng hảo), nói
thông thường sẽ là ba mươi hai tướng và
tám mươi thứ hảo. Thật ra, há có phải chỉ
là ba mươi hai tướng và tám mươi tùy h́nh hảo?
Tướng hảo nhiều khôn xiết! Cũng chẳng
thể biết rơ số! Trong bảy ngày, có thể thấy
thân Phật bất cứ lúc nào, trông thấy toàn thể
thân tướng. Đối với các thứ tướng,
các thứ hảo ấy (“chúng”
(眾) nghĩa
là rất nhiều), “tâm bất
minh liễu” [nghĩa là] chưa thể thấy hoàn toàn
phân minh. V́ sao? Khi mới vừa thấy, tâm lư c̣n hoàn toàn
chưa mở rộng, chẳng kham hiểu rơ được!
“Ư tam thất nhật hậu,
năi liễu liễu kiến”: Sau hai mươi mốt ngày,
mới thấy triệt để rơ ràng, rành rẽ, phân
minh. Đối với các tướng và các hảo của
đức Phật, đă hoàn toàn thấy rơ ràng. Khi ấy, “văn chúng âm thanh” (nghe các âm
thanh). Quang minh, màu sắc, và âm thanh do Phật, Bồ Tát
phóng ra, đủ mọi thứ chánh báo và y báo đều
phát ra âm thanh. “Giai diễn diệu
pháp”: Những âm thanh ấy đều diễn nói Phật
pháp vi diệu rất sâu. Sau khi vừa nghe diệu pháp, toàn
thân bèn tự tại. “Du lịch
thập phương, cúng dường chư Phật”: Có
thể đến chơi, đến viếng thăm các thế
giới của mười phương chư Phật. Chuyện
này hoàn toàn chẳng giống phàm phu b́nh phàm đi chơi. “Cúng dường chư Phật”:
Mỗi thế giới trong mười phương thế
giới đều có Phật, đến cúng dường
chư Phật. “Ư chư Phật
tiền, văn thậm thâm pháp” (Ở trước chư
Phật, nghe pháp rất sâu): Mỗi vị Phật chẳng
tiếp nhận sự cúng dường mà chẳng đền
đáp! Bậc chánh nhân quân tử trong thế gian này, khi quư
vị tặng họ lễ vật, c̣n biết biếu
đáp lại, báo đáp quư vị chút ǵ đó. Quư vị cúng
dường Phật, bất luận quư vị cúng dường
thứ ǵ, [dẫu là] thứ đạm bạc nhất, ít ỏi
nhất cũng thế, mà thứ quư trọng nhất cũng
thế, chỉ cần quư vị thành tâm cung kính cúng dường,
Phật liền cho quư vị nghe Phật pháp rất sâu. Do vậy,
ở trước chư Phật, đều có thể học
diệu pháp.
“Kinh tam tiểu kiếp, đắc
bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Địa”: Thượng
Phẩm Trung Sanh trong phần trước là trải qua một
tiểu kiếp, sẽ đắc Vô Sanh Nhẫn. Ở
đây là trải qua ba tiểu kiếp, thời gian dài cỡ
nào?
Nhưng
ở đây, nghe các âm thanh diễn nói diệu pháp, lại
c̣n ở trước chư Phật trong mười
phương thế giới nghe pháp rất sâu, lại c̣n phải
trải qua ba tiểu kiếp, mới đắc Bách Pháp
Minh Môn. “Minh môn” (明門) là ǵ? Hiểu
rơ, thông đạt pháp môn ấy, bất cứ pháp nào trong
bách pháp cũng đều có thể thông thấu con
đường thành Phật, đều có thể thành Phật.
Chữ Minh tuyệt diệu lắm, Phật là Tam Minh Lục
Thông. Chúng ta thường nói “đă minh bạch”, minh bạch
ở chỗ nào? Thật sự minh bạch, sẽ lập
tức buông xuống hết thảy, lập tức thấy
thấu suốt. [Hiện thời], chúng ta chẳng minh bạch
đâu nhé! Sau khi đă minh bạch, sẽ như nhà Thiền
đă nói: “Đại địa
trầm luân, hư không phấn toái” (Đại địa
ch́m đắm, hư không nát vụn). Trong quan niệm,
hư không chẳng c̣n tồn tại. Trong quan niệm, đại
địa cũng chẳng tồn tại. Hiện thời,
có rất nhiều kẻ đầu cơ đất
đai, mua một miếng đất th́ thấm vào đâu?
Toàn thể đại địa cầu và hư không đều
nát vụn, chẳng tồn tại! Một miếng đất
nhỏ nhoi ấy c̣n đáng nói ư? Đấy là chẳng
thấy thấu suốt. Thật sự thấy thấu suốt,
sẽ lập tức có thể buông xuống!
Sau
khi đắc Bách Pháp Minh Môn, “trụ
Hoan Hỷ Địa”: Phá trừ Phiền Năo Chướng.
Đă phá phiền năo, bèn có thể đạt lên Sơ Địa,
tức là Hoan Hỷ Địa.
(Kinh)
Thị danh Thượng Phẩm Hạ Sanh giả. Thị
danh thượng bối sanh tưởng, danh đệ thập
tứ Quán.
(經)是名上品下生者。是名上輩生想,名第十四觀。
(Kinh: Đây
gọi là Thượng Phẩm Hạ Sanh, là phép quán tưởng
về văng sanh trong bậc Thượng, gọi là phép Quán thứ
mười bốn).
Nói
xong nhân, duyên, quả và lợi ích văng sanh, bèn dặn ḍ một
câu “thị danh Thượng Phẩm
Hạ Sanh giả”. Tới đây, Thượng Phẩm
Thượng Sanh, Thượng Phẩm Trung Sanh, và Thượng
Phẩm Hạ Sanh đều đă nói xong, lại kết
luận: “Thị danh thượng
bối sanh tưởng, danh đệ thập tứ Quán”:
Đây là Thượng Phẩm Văng Sanh Quán, gọi là phép Quán
thứ mười bốn.
Tập 43
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn trang hai mươi
lăm, bắt đầu từ ḍng cuối cùng. Tôi đọc
trước một đoạn kinh văn:
(Kinh)
Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Trung Phẩm Thượng
Sanh giả, nhược hữu chúng sanh, thọ tŕ Ngũ
Giới, tŕ Bát Giới Trai, tu hành chư giới, bất tạo
Ngũ Nghịch, vô chúng quá hoạn. Dĩ thử thiện
căn, hồi hướng nguyện cầu sanh ư Tây
Phương Cực Lạc thế giới”.
(經)佛告阿難,及韋提希:中品上生者,若有眾生,受持五戒,持八戒齋,修行諸戒,不造五逆,無眾過患。以此善根,迴向願求生於西方極樂世界。
(Kinh:
Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Trung Phẩm Thượng
Sanh là nếu có chúng sanh thọ tŕ Ngũ Giới, tŕ Bát Quan
Trai Giới, tu hành các giới, chẳng tạo Ngũ Nghịch,
chẳng có các lỗi lầm, sai trái. Dùng thiện căn ấy
hồi hướng nguyện cầu sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới”).
IV.2.2.16. Phép Quán thứ
mười lăm, Trung Phẩm Sanh Quán
Quán Kinh có tất cả mười
sáu phép Quán. Nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu phép Quán
thứ mười lăm. Mười ba phép Quán trước
nói về phương pháp Quán và công phu tu Quán. Bắt đầu
từ phép Quán thứ mười bốn, chẳng phải
là vận dụng công phu để quán, mà là nói về ba bậc
chín phẩm văng sanh, phải phát chí thành tâm, thâm tâm, và hồi
hướng phát nguyện tâm, hồi hướng những
công đức đă đạt được. Hồi
hướng rất quan trọng! B́nh thường, chúng ta làm
bất luận công đức nào, nhiều cũng thế,
ít cũng thế, đều phải hồi hướng cầu
văng sanh thế giới Cực Lạc. Do vậy, từ phép
Quán thứ mười bốn bắt đầu giảng về
sự hồi hướng phát nguyện, hết sức trọng
yếu!
Phép
Quán thứ mười bốn là Thượng Phẩm
Thượng Sanh, Thượng Phẩm Trung Sanh, và Thượng
Phẩm Hạ Sanh. Hôm nay, bắt đầu nói về Trung Phẩm
văng sanh. Trung Phẩm lại chia thành Trung Phẩm Thượng
Sanh, Trung Phẩm Trung Sanh, và Trung Phẩm Hạ Sanh. Phép Quán
thứ mười sáu là nói về Hạ Phẩm, cũng
chia thành ba phẩm giống như vậy. Đối với
người tŕ danh niệm Phật chúng ta, chín phẩm văng
sanh hết sức trọng yếu! B́nh thường, chúng
ta phải vận dụng công phu như thế nào, làm bất
cứ việc lành nào cũng đều phải hồi
hướng công đức. Kẻ b́nh phàm thường xem
nhẹ, cứ nghĩ làm một tí chuyện, há có công đức
ǵ? Nhưng phải ghi nhớ: Dẫu công đức nhỏ
tới mấy đi nữa, thậm chí việc thiện bị
người ta coi là vặt vănh, chẳng đáng nói tới,
quư vị đều hồi hướng. Tích lũy lại,
sẽ thành công đức to lớn, đến khi đó, sẽ
nắm chắc văng sanh! Lại nói từ Thượng Phẩm
Thượng Sanh cho đến Hạ Phẩm
Hạ Sanh có những t́nh huống ǵ? B́nh thường tu
như thế nào? Phẩm vị văng sanh có nhân quả
tương ứng như thế nào? Sau khi chúng ta liễu
giải, sẽ biết dụng công như thế nào. V́ vậy,
chuyện này hết sức trọng yếu đối với
chúng ta.
Mở đầu phép Quán thứ mười
lăm, “Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan và phu
nhân Vi Đề Hy, “Trung Phẩm
Thượng Sanh giả”, kém hơn Thượng Phẩm
một bậc. Trung Phẩm Thượng Sanh phải đầy
đủ những cái nhân văng sanh nào, đấy cũng là
điều kiện để văng sanh. “Nhược hữu chúng sanh” (Nếu có chúng sanh),
nói tới những chúng sanh tu hành, “thọ tŕ Ngũ Giới, tŕ Bát Giới Trai, tu hành
chư giới” (thọ tŕ Ngũ Giới, tŕ Bát Quan Trai
Giới, tu hành các giới), có thể thọ giới. Sau khi
thọ giới, lại tŕ giới. Thọ và Tŕ khác nhau. Sau
khi chúng ta thọ giới, tŕ như thế nào? Đă thọ
rồi, sẽ một mực tŕ măi, thọ tŕ cơ bản
là Ngũ Giới. Thêm nữa, tŕ tám giới, tức Bát Quan
Trai Giới, sau đấy, tu hành các giới. Các giới có
giới tại gia và giới xuất gia. Giới xuất
gia lại có giới Sa-di, giới Sa-di-ni, giới Tỳ-kheo,
giới Tỳ-kheo-ni, đều thuộc về “chư giới”. C̣n phải “bất tạo Ngũ Nghịch,
vô chúng quá hoạn” (chẳng tạo Ngũ Nghịch,
không có lầm lỗi, sai trái), ắt phải là như vậy!
Ngũ
Giới th́ mọi người chúng ta đều biết.
Ngũ Giới của hàng tại gia:
1) Thứ
nhất là không sát sanh. Đối với bất cứ chúng
sanh nào, không chỉ là chẳng thể giết các chúng sanh
thuộc nhân loại, mà đối với súc sanh thuộc
loài động vật, hễ có sanh mạng, có t́nh thức,
đều chẳng thể sát hại.
2) Thứ
hai, chẳng trộm cắp, phạm vi bao quát rất nhiều.
Có tội tế vi, có tội nghiêm trọng. Phàm là những
ǵ chẳng nên lấy, hoặc chẳng được sự
đồng ư, mà chúng ta tùy tiện lấy đi, sẽ đều
là trộm cắp.
3) Thứ
ba, chẳng dâm. Đối với xuất gia là không dâm, c̣n
tại gia là không tà dâm. Người tại gia thọ Ngũ
Giới, chẳng xuất gia, đương nhiên là có gia
đ́nh. Vợ chồng trong gia đ́nh là hành vi chánh đáng,
cuộc sống vợ chồng được giới luật
nhà Phật cho phép. Ngoài vợ chồng ra, chẳng tà dâm. Hễ
tà dâm th́ là phạm giới.
4) Thứ
tư, chẳng nói dối. Nói cặn kẽ, chúng ta không vọng
ngữ chẳng dễ dàng cho lắm! Ắt phải khéo giữ.
Hằng ngày chính ḿnh cảnh giác, luôn luôn phản tỉnh: “Ta
thốt ra câu nói này có phải là đă phạm vọng ngữ
hay không?” Thường xuyên kiểm điểm chính ḿnh
nơi phương diện này. Đại vọng ngữ lớn
nhất trong giới vọng ngữ [chính là] người học
Phật chẳng có công phu, cứ nói chính ḿnh có công phu. Chẳng
chứng quả, nói [chính ḿnh] đă chứng quả. Chẳng
đạt đến cảnh giới, nói chính ḿnh đă
đạt được cảnh giới. Đấy là
đại vọng ngữ. Tội lỗi do phạm đại
vọng ngữ rất nặng. C̣n như nói những lời
không hợp sự thật trong thế gian cũng là vọng
ngữ. Khuấy động thị phi giữa người
này với người kia cũng là vọng ngữ, bất
quá chẳng nghiêm trọng như đại vọng ngữ.
5) Điều
cuối cùng là uống rượu. Uống rượu
dường như chẳng có hại ǵ đối với
chúng sanh, nhưng kẻ ham uống rượu sẽ
thường là chẳng thể khống chế chính ḿnh.
Sau khi uống rượu, thường sẽ làm những
chuyện giết, trộm, dâm, dối, cho nên phạm tội.
[Do uống rượu, sẽ đều] chẳng tuân thủ
bốn giới trước, đều có thể phạm tội.
V́ thế, uống rượu cũng là một giới
trong Ngũ Giới.
Ngũ Giới
là cơ bản, người tại gia trước tiên là
thọ Ngũ Giới. Sau đấy, nếu phát tâm, bèn thọ
Bồ Tát Giới. Đương nhiên là phải giữ giới
nhiều hơn, nhưng phải thọ Ngũ Giới trọn
vẹn rồi mới có thể thọ Bồ Tát Giới.
“Tŕ Bát Giới Trai” chính là [thọ
tŕ] Bát Quan Trai Giới, khác với Ngũ Giới. Chẳng
thọ Ngũ Giới th́ thôi; nếu đă thọ, phải
tŕ giới suốt đời, chẳng thể phạm. Bát
Quan Trai Giới là thọ mỗi ngày. Hôm nay đă thọ là
thọ cho đến ngày mai, lấy một ngày làm kỳ hạn
tŕ giới. Tŕ Bát Quan Trai Giới có công đức của Bát
Quan Trai Giới. Do vậy, trong kinh nói, phàm là người
tương ứng với Trung Phẩm Thượng Sanh th́
phải thọ tŕ Ngũ Giới, lại c̣n tŕ thêm Bát Quan
Trai Giới, và tu tŕ các giới nhiều hơn nữa. Ngoại
trừ tŕ giới, c̣n phải là chẳng tạo Ngũ Nghịch
(xin xem biểu đồ). Ngũ Nghịch là:
IV.2.2.16.1. Ngũ Nghịch
“Nghịch” (逆) là trái
phạm đạo lư thông thường. Kẻ b́nh thường,
có ai chẳng tôn kính cha mẹ của chính ḿnh? Bất cứ
ai cũng đều biết phải tôn kính hàng xuất gia đă
chứng quả La Hán. Đối với Phật, lại
càng chẳng cần phải nói nữa! Thế nhưng, Ngũ
Nghịch hoàn toàn tương phản.
1) Thứ
nhất là “sát phụ”, tức
giết chết cha ruột của chính ḿnh. Đấy là đại
nghịch.
2) Thứ
hai, giết mẹ, lại càng không được!
3) Thứ
ba, giết A La Hán. A La Hán là bậc đă chứng quả.
Người tu Tiểu Thừa chứng Sơ Quả là đă
tuyệt lắm rồi! Sau đấy, lại trải qua bảy
phen sanh tử trên cơi trời hoặc trong nhân gian, trải
qua Nhị Quả, Tam Quả, đến cuối cùng, chứng
Tứ Quả, chứng đắc quả vị, thoát khỏi
tam giới. Nói theo Tiểu Thừa, A La Hán là một vị
thánh nhân. Quư vị giết chết Ngài, cũng là chuyện
đại nghịch bất đạo.
4) Thứ
tư, làm thân Phật chảy máu. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật
tại thế, có kẻ ác từ trên núi đẩy một
tảng đá to xuống, dự liệu khi đức Phật
đi qua, sẽ đè chết Ngài, nhưng bậc đă
thành Phật há bị tảng đá đè chết? Gặp
phải hộ pháp Bồ Tát từ giữa không trung dùng kim
cang xử đập một phát. Vừa đập, tảng
đá liền vỡ nát, nhưng có một miếng đá nhỏ
văng trúng chân đức Phật, khiến cho chân đức
Phật chảy máu. Đó là “xuất
Phật thân huyết”. Hiện thời, đức Phật
chẳng c̣n trụ trong thế gian, nhưng có tượng
Phật, có tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, tượng A
Di Đà Phật, các loại tượng của mười
phương ba đời chư Phật. Nếu trong tâm chẳng
vừa ư đối với Phật, có tâm lư chống đối
Phật giáo, muốn phá hoại Phật pháp, hủy bỏ
tượng Phật, có tâm lư phá hoại, sẽ coi như là
“làm thân Phật chảy máu”,
thuộc loại đại nghịch trong Ngũ Nghịch.
5) Thứ
năm là “phá ḥa hợp Tăng”.
Trong đạo tràng, đại chúng cùng ở một chỗ,
gọi là Ḥa Hợp Chúng. Mọi người ở cùng một
chỗ v́ tu đạo, v́ hoằng dương Phật pháp,
chí đồng đạo hợp cùng nhau tu tŕ. Nếu phá hoại
đoàn thể ấy th́ cũng là đại nghịch.
Thông thường, “Tăng”
chỉ người xuất gia, nhưng nếu hàng tại
gia cư sĩ có đạo tràng, cùng nhau tụ lại một
chỗ để tu tŕ, đó cũng là “ḥa hợp Tăng”. Phá hoại đạo tràng ấy
cũng là đại nghịch!
Phạm
năm loại đại nghịch ấy, tội lỗi
to hơn bất cứ tội lỗi nào khác! Người Trung Phẩm
Thượng Sanh trừ tu giới ra, c̣n phải chẳng tạo
tội Ngũ Nghịch. Đấy là một điều tốt.
Trừ tội nghiệp Ngũ Nghịch trọng đại
ra, “vô chúng quá hoạn”, tức
là chẳng có các thứ “quá hoạn”.
“Quá” (過) là lầm lỗi do vô tâm;
“hoạn” (患) là chuyện
chẳng tốt lành. Những lỗi lầm, sai trái đối
với người khác cũng như đối với
chính ḿnh đều chẳng có kết quả tốt đẹp.
Chẳng có những lỗi lầm, sai trái ấy, ắt sẽ
là người hội đủ các điều kiện của
Trung Phẩm Thượng Sanh.
Phật
pháp có Đại Thừa và Tiểu Thừa. Giới
cũng có Bồ Tát Đại Thừa giới và Tiểu Thừa
giới. Ở đây là nói về giới Tiểu Thừa.
Chẳng thể tạo tội Ngũ Nghịch! Phải có thiện
căn th́ mới có thể thọ giới và tŕ giới. Có
thể thọ tŕ những giới ấy, đủ để
chứng tỏ học nhân ấy có thiện căn. “Dĩ thử thiện căn”
chính là dùng thiện căn ấy để “hồi hướng nguyện cầu sanh ư Tây
Phương Cực Lạc thế giới”, “hồi” (迴) là xoay
công đức do chính ḿnh đă tu hành, “hướng” (向) là hướng đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, mong mỏi
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Chúng ta tu tŕ, mục đích trọng yếu nhất là mong cầu
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́
sao? Chúng ta nghiên cứu kinh văn, mỗi khi gặp chữ
Nguyện (願), đều phải đặc biệt chú
trọng, nhất định phải tự hỏi chính
ḿnh: “V́ sao phải phát nguyện sanh về thế giới Cực
Lạc?” Hăy ngẫm xem, trong thế giới này, vào thời
đại của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngũ Nghịch rất
ít. Ở Trung Hoa, vào thời đó, kẻ giết cha, giết
mẹ cũng không nhiều, hết sức ít ỏi;
nhưng hiện thời, các vị xem báo, coi tin tức trên
TV, chẳng phải là ở đây con cái giết cha, th́ ở
kia là con cái giết mẹ, chồng giết vợ, vợ
giết chồng! Thường phát sanh thảm kịch
nơi thiên luân, có c̣n coi là nhân gian nữa hay chăng?
Chúng ta học
Phật, biết Phật pháp, phải nên tôn kính tượng
Phật. Kẻ ở bên ngoài chẳng học Phật mà phá
hoại Phật pháp rất nhiều. Sau năm Dân Quốc
thứ bảy, thứ tám (1918-1919), sau khi cuộc vận
động Ngũ Tứ bắt đầu, tại nội
địa, vào thời đó, trước hết là phá hoại
Phật pháp, phá hoại văn hóa Trung Hoa, hủy báng Khổng
phu tử, hủy báng Thích Ca Mâu Ni Phật, triệt hạ
chùa miếu, sửa thành trường học, tạo nghiệp
chẳng biết nặng nề đến cỡ nào? Do vậy,
sau này, toàn bộ Đại Lục chuốc lấy tai nạn
to lớn như vậy. Khi nào th́ mới có thể khôi phục?
Thời gian c̣n rất xa xôi! Chúng ta nh́n vào thời đại
hiện tại này, chúng ta mong phát tâm học Phật trong thế
gian này, hoàn cảnh ở chỗ nào cũng đều lôi
kéo khiến cho chúng ta thoái chuyển. Học Phật trong thế
gian này quá khó khăn, ắt phải mong cầu sanh về thế
giới Cực Lạc. V́ thế, đức Phật dạy
chúng ta phải phát nguyện, cầu sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới. V́ sao? V́ thành tựu
trong thế gian này rất khó, ắt phải nhờ vào pháp
môn Tịnh Độ để sanh về thế giới Cực
Lạc.
Các
pháp môn khác tuy cũng do Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra, cũng nhất
định là có thể thành tựu. Nhưng xét theo hoàn cảnh
trong thời đại hiện tại, chẳng cho phép chúng
ta dùng thời gian dài như vậy để tu tập! Chúng
ta mong sẽ thành tựu ngay trong một đời này; v́ thế,
kinh văn nói đến đây, phải đặc biệt
chú ư điểm này! Ắt phải nghe lời đức Phật
khuyên bảo, thời thời khắc khắc tŕ giới,
tŕ giới là chuyện tốt đẹp. Lại c̣n bất
cứ chuyện ǵ tốt đẹp cũng đều dùng
điều đó để hồi hướng phát nguyện
văng sanh. Thường hồi hướng như vậy,
đến khi thọ mạng chấm dứt, khi văng sanh, sẽ
chẳng có mảy may chướng ngại nào! Đoạn
này nói về cái nhân văng sanh.
Đoạn
dưới đây nói về cái duyên văng sanh, nhân duyên thành tựu
th́ mới có thể văng sanh.
(Kinh)
Lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật, dữ chư tỳ-kheo,
quyến thuộc vi nhiễu, phóng kim sắc quang, chí kỳ
nhân sở, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường,
Vô Ngă, tán thán xuất gia, đắc ly chúng khổ.
(經)臨命終時,阿彌陀佛,與諸比丘,眷屬圍繞,放金色光,至其人所。演說苦、空、無常、無我。讚歎出家,得離眾苦。
(Kinh: Khi lâm
chung, A Di Đà Phật và các vị tỳ-kheo, quyến thuộc
vây quanh, phóng quang minh sắc vàng, tới chỗ người
ấy, diễn nói Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, tán
thán xuất gia, được ĺa các nỗi khổ).
Đoạn
này nói người tu hành khi c̣n sống đă tŕ giới,
phát nguyện, đến “lâm mạng
chung thời” (khi lâm chung), gặp duyên tốt đẹp.
Bất luận người học Phật hoặc không học
Phật, đều có lúc thọ mạng chấm dứt.
Người chẳng tu hành, đến khi mạng chung,
trong tâm hết sức sợ hăi, rốt cuộc sẽ phải
đi về đâu? Rất đau khổ! Nhưng người
học Phật mà học những pháp môn khác, nếu lúc lâm
chung công phu chẳng đủ, trong tâm cũng rất khủng
hoảng. Người học Tịnh Độ Tông đến
lúc lâm chung, A Di Đà Phật là đấng giáo chủ của
thế giới Cực Lạc, là nơi ta thường phát
nguyện sanh về. Khi đó, Ngài sẽ đến, không chỉ
là một ḿnh Ngài đến [tiếp dẫn].
“Dữ chư tỳ-kheo”, c̣n
có rất nhiều người xuất gia. “Quyến thuộc vi nhiễu”, chữ “quyến thuộc” (眷屬) chỉ
những người cùng theo đức Phật đến,
vây quanh bốn phía đức Phật. “Phóng kim sắc quang” (Phóng quang minh sắc vàng):
Đức Phật và các vị tỳ-kheo, quyến thuộc,
đều phóng quang minh có màu vàng ṛng. Trên thế gian này,
chúng ta chỉ thấy ánh sáng mặt trời rất
đơn giản, là ánh sáng màu trắng, c̣n quang minh ở đây
là kim sắc quang. “Chí kỳ
nhân sở” (Đến chỗ người ấy), chữ
“kỳ nhân” (其人) chỉ
học nhân [Tịnh Độ] khi lâm chung. [A Di Đà Phật
và các vị tỳ-kheo, quyến thuộc đại chúng]
đến trước mặt người ấy để
đón tiếp. Chúng ta thường hỏi: “Người niệm
Phật khi lâm chung, sẽ đến thế giới Cực
Lạc như thế nào?” Chẳng cần phải suy xét, lo
âu chuyện này! Tới lúc đó, Phật sẽ tự nhiên
đến nghênh tiếp.
Ở
đây, điều phải chú ư là Thượng Phẩm
Thượng Sanh, Thượng Phẩm Trung Sanh, và Thượng
Phẩm Hạ Sanh, khi lâm chung, A Di Đà Phật dẫn theo
rất nhiều vị đại Bồ Tát, rất nhiều
Hóa Phật, đương nhiên là do phẩm vị bất
đồng mà số lượng [đại chúng theo Phật]
cũng chẳng giống nhau, nhưng đều có hàng
đại Bồ Tát và Hóa Phật hiện đến. Trong
Trung Phẩm, không chỉ là chẳng có Hóa Phật, mà
cũng chẳng có đại Bồ Tát. Những vị theo
đến đều là tỳ-kheo, tức tăng chúng xuất
gia. V́ giới [mà người văng sanh] đă tŕ là giới Tiểu
Thừa. V́ sao tỳ-kheo là Tiểu Thừa? Nếu tỳ-kheo
chỉ thọ tỳ-kheo giới, chẳng thọ thêm Đại
Thừa Bồ Tát Giới, sẽ là tu Tiểu Thừa. “Quyến thuộc” (眷屬) là hàng
đệ tử Phật, theo A Di Đà Phật đến
[tiếp dẫn]. V́ sao hàng đại Bồ Tát không đến?
Tổ sư chú giải rất rơ ràng: V́ người tu lúc
thường ngày tu pháp Tiểu Thừa, tới lúc đó, sẽ
cảm ứng, sẽ xuất hiện tướng tỳ-kheo
đến hoan nghênh. Nhân quả tương xứng! Thật
ra, trong thế giới Cực Lạc chẳng có Tiểu Thừa,
mà toàn là Đại Thừa Bồ Tát. V́ sao quyến thuộc
đến tiếp dẫn Trung Phẩm văng sanh hiện
tướng tỳ-kheo (tướng Tiểu Thừa)? Phải
nói rơ điểm này! Chẳng nói rơ ràng, sẽ có nghi vấn.
Tịnh Độ Tông là Đại Thừa Phật pháp, người
học Tiểu Thừa chẳng biết có thế giới ở
phương khác, làm sao có thể văng sanh thế giới Cực
Lạc cho được? Lại c̣n xa xôi ngần ấy!
[Những người] được gọi là Tiểu Thừa
ở đây có hai loại t́nh huống:
1) Một
là những người vốn tu Đại Thừa Phật
pháp, tu về sau này, cảm thấy Đại Thừa Phật
pháp khó khăn bèn ngă ḷng, lui về tu pháp Tiểu Thừa.
2) Hai là vốn tu Tiểu Thừa. Về sau, hồi
Tiểu hướng Đại, phát đại tâm.
Vốn
tu pháp Đại Thừa, về sau tu pháp Tiểu Thừa, sau
đó, lại hồi Tiểu hướng Đại, thuộc
vào t́nh huống ấy. V́ thế, khi văng sanh hễ hồi
hướng, tới khi lâm chung, cảm ứng Phật hiện
đến, nhưng do b́nh thời tu tập pháp Tiểu Thừa,
đến khi lâm chung phát đại tâm. Do vậy, cảm ứng
các vị tỳ-kheo đến đón tiếp người ấy.
A Di
Đà Phật dẫn hàng tỳ-kheo quyến thuộc đến
trước mặt người ấy, v́ người ấy
“diễn thuyết Khổ, Không,
Vô Thường, Vô Ngă”, [nói] các pháp ấy. Chúng ta học
Phật đă nhiều năm, chẳng biết khổ! Nếu
thật sự liễu giải Khổ Đế, từ Khổ
nhập môn, học Phật sẽ có thể thành tựu. Rất
nhiều người học Phật đă nhiều năm
mà chẳng biết khổ. Hễ gặp chuyện vừa
ḷng bèn quên bẵng Phật pháp. Khi gặp phải nghịch
cảnh, hứng chịu thống khổ, bèn ơm ḷng oán hận:
“Học Phật đă lâu ngần ấy, sao vẫn gặp
phải chuyện chẳng tốt đẹp?” Kẻ ấy
không biết con người sanh vào thế gian, thế gian là
khổ, có chút ít thuận cảnh là do may mắn, c̣n chịu
khổ là chuyện đáng phải như vậy! Mọi người
hăy suy nghĩ đôi chút, Phật pháp nói tới ba khổ và tám
khổ. Sanh, lăo, bệnh, tử th́ ai nấy đều biết,
chứ nói đến Ái Biệt Ly và Oán Tắng Hội, từ
xưa tới nay, thời đại quân chủ cũng thế,
mà thời đại dân chủ cũng thế, đều
có chiến tranh, đều có các sự kiện bạo lực
to hoặc nhỏ giữa loài người với nhau, kèm
thêm những thứ thiên tai, đủ thứ tai nạn. Hễ
một cuộc chiến nổ ra, con người v́ tai nạn,
v́ thiên tai v.v... bao nhiêu người đă chết? Một
người chết đi, liên lụy thân quyến của
người ấy, bao nhiêu người bi thương v́
người ấy? Đấy là Ái Biệt Ly (yêu
thương mà phải chia ĺa). Trừ cái chết ra, cổ
nhân nói: “Sanh ly tử biệt”.
Tử là một nỗi đau khổ. Người chẳng
chết, [hưởng niềm vui] thiên luân trong gia đ́nh, cha
con, anh em có thể cùng tụ hội một chỗ, chẳng
phải là rất tốt đẹp ư? Chẳng thể
tụ tập cùng một chỗ, mọi người phân
tán ở mỗi nơi, Phật pháp nói điều này từ
xưa tới nay là một nỗi đau khổ chẳng thể
tránh được trong thế gian! Gặp những chuyện
thống khổ này bèn oán hận. Oán hận ai? Hễ sanh
vào thế gian này, sẽ có những nỗi oán khổ ấy.
Sau khi đă liễu giải những nỗi khổ ấy,
đă hiểu rơ chân tướng thế gian, chẳng tu
đạo sẽ không được, ắt cần phải
tu đạo! Người không tu đạo, dẫu là đại
hoàng đế cũng rất khổ. Hiện thời, đại
tổng thống cũng có những nỗi khổ của
riêng ḿnh, ai có thể tránh khỏi?
Kẻ
b́nh phàm tu các giới, tuy đă tu, cũng liễu giải đạo
lư này, tới khi sắp văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, đức Phật đến nghênh tiếp
người ấy. Đức Phật c̣n phải v́ người
ấy nói về Khổ, khiến cho người ấy hiểu
rơ ai nấy trên thế gian đều phải chịu khổ,
đều chẳng thể tránh được, [người
lâm chung ấy] bèn ngay lập tức theo Phật đến
thế giới Cực Lạc. Hiện thời, có rất
nhiều người cứ nghĩ hoàn cảnh rất tốt
đẹp, hết thảy đều hài ḷng như ư, trọn
chẳng biết hết thảy mọi sự bất luận
là tốt hoặc xấu đều là chuyện thống khổ.
Người ấy khi lâm chung, đức Phật c̣n phải
nói [về Khổ] cho người ấy nghe.
Ngoài
ra, c̣n phải liễu giải Không. Những kẻ b́nh phàm
như chúng ta thấy những thứ cụ thể trong thế
gian hết sức hiện thực. Thấy một quả
núi là một quả núi. Hôm nay thấy là một quả núi,
ngày mai vẫn thấy là một quả núi. Người ngoại
quốc cũng thấy đó là một quả núi. Mọi
người ngỡ nó thật sự tồn tại,
nhưng nói theo Phật pháp, thứ ấy rỗng không! Không
chỉ là Phật pháp, trong kinh điển của Nho gia
Trung Hoa cũng nói: “Kim phù sơn,
nhất quyển thạch chi đa” (quả núi trong hiện
thời do nhiều ḥn đá hợp thành), nghĩa là phân tích
một quả núi, dẫu cao đến mấy đi nữa
th́ cũng do nhiều vốc đất [hợp lại]. Bốc
một nắm đất lên, bất quá là chút tí, từ chút
tí đất ấy cứ tích tụ măi, sau đấy, mới
trở thành hiện tượng này. Mọi người biết
ở Đài Bắc có núi rác. Rác rưởi của thành phố
hằng ngày đổ xuống đó. Lâu ngày chầy tháng,
trở thành núi cao. Quư vị nói xem, đó có phải là thật
sự tồn tại hay không? Từ rác rưởi tích
lũy thành. Núi là như thế, toàn thể đại địa,
hết thảy các động vật trên đại địa
cũng là như thế. Các thứ sự nghiệp anh hùng sáng
tạo trong nhân gian, anh hùng này nọ lỗi lạc lắm!
Đều là rỗng tuếch! Bất cứ chuyện ǵ
trong thế gian này cũng đều là do nhân duyên ḥa hợp,
đều là do bao nhiêu điều kiện hợp lại mới
hiện ra giả tướng ấy. Nếu chẳng có những
điều kiện đó hợp lại, giả tướng
sẽ chẳng có! Người học Phật chúng ta hăy ngẫm
xem, đối với bất cứ sự vật cụ thể
hay đối với chuyện trừu tượng nào,
không ǵ chẳng phải là nhân duyên. Hễ nhân duyên ly tán, c̣n
có thể duy tŕ tồn tại hay chăng? Nhân duyên hợp lại
với nhau, sẽ tạm thời hiện ra một giả
tướng mà thôi. Lấy quốc gia để nói, có quốc
gia nào trên thế giới tồn tại vĩnh viễn? Chẳng
có chuyện ấy đâu nhé! V́ thế, kinh Phật dạy:
“Quốc độ nguy thúy”
(國土危脆, cơi
nước mong manh). Đại quốc gia cũng thế,
tiểu quốc gia cũng thế, đều rất yếu
ớt! Từ Đệ Nhị Thế Chiến cho tới
gần đây, Liên Sô một mực rất hùng mạnh. Nhất
là trong thời kỳ đối đầu với nước
Mỹ, có ai chẳng thừa nhận Liên Sô là một đại
quốc? Thế mà đến nay, thời gian chưa đầy
một năm, nói tan ră bèn tan ră. Hiện thời, đă biến
thành rất nhiều quốc gia nhỏ. Nếu chẳng phải
là trống không, lẽ ra nó phải tồn tại vĩnh cữu!
Hễ nhân duyên biến động, giả tướng sẽ
không tồn tại. Do vậy, phải liễu giải chữ
Không. Nếu liễu giải chân tướng của vạn
sự vạn vật, sẽ chẳng bị phiền năo bởi
những chuyện hư giả. Chúng ta luôn bị chuyện
hư giả gây phiền năo. Sau khi đă hiểu đạo
lư Khổ và Không, chúng ta há c̣n có những chuyện phiền
năo ấy? Đạo lư Không cũng hết sức quan trọng;
v́ thế, lúc đó, A Di Đà Phật sẽ đối
trước người văng sanh diễn nói đạo lư về
Không.
Lại
c̣n liễu giải đạo lư vô thường. “Thường” (常) là
vĩnh hằng. Vạn pháp trong thế gian, có chuyện nào
tồn tại vĩnh hằng? Đều là vô thường.
Vừa chớp mắt, sự t́nh đă biến đổi.
B́nh thường, chúng ta thấy thế gian hằng ngày
dường như bất biến, đấy là v́ chúng ta
chẳng thật sự dụng công quan sát. Nếu vận dụng
tâm tư để quan sát, [sẽ thấy bất cứ] thứ
ǵ cũng đều đang biến động! Toàn thể
địa cầu đang chuyển động trong hư
không, rốt cuộc sẽ chuyển tới đâu? Ai biết!
Địa cầu và mặt trời cùng một nhóm. Chúng ta
chỉ biết các tinh cầu trong Thái Dương Hệ,
nhưng nhóm tinh cầu ấy ở trong hư không chẳng
có mục tiêu, rốt cuộc sẽ chuyển tới chỗ
nào. Ai biết? [Trong số những] người nghiên cứu
thiên văn học, ai có thể nghiên cứu được?
Chúng ta tỷ dụ hư không như biển cả, đối
với các tinh cầu thuộc Thái Dương Hệ, địa
cầu là một ngôi sao trong nhóm ấy, chỉ là một tiểu
đơn vị bềnh bồng trong toàn thể biển cả,
chẳng có mảy may mục tiêu nào, trôi giạt, chẳng
có chỗ cố định. Ở trên địa cầu,
chúng ta giống như có một nơi để trụ, có
một vật kiến trúc (tức nhà cửa); tính toán lâu
dài ở đây, tính toán lâu dài cỡ nào? Toàn thể địa
cầu, về căn bản, chẳng hề trường
cửu, giống như một đám mây nổi trên bầu
trời, bềnh bồng khắp nơi, chẳng có gốc
rễ. Hăy ngẫm xem: Chuyện ấy có phải là thường
hay không? Toàn là vô thường. Rất nhiều người
chẳng liễu giải, ngỡ thế gian là vĩnh hằng,
vẫn một mực mong trụ măi trong thế gian này. Quư
vị khuyên họ văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, họ chẳng tin tưởng: Chẳng thấy
thế giới Cực Lạc, ngỡ thế gian này tồn
tại vĩnh hằng. Đó là tri kiến điên đảo.
Chúng sanh do tri kiến điên đảo, chẳng liễu
giải đạo lư này!
A
Di Đà Phật đối trước người văng
sanh giảng giải, ngơ hầu người ấy sẽ
triệt để liễu giải đạo lư này. Tuy
người ấy đă chẳng giống kẻ b́nh phàm,
đă biết Khổ, biết Không, nhưng lúc ấy, đức
Phật vẫn phải diễn nói đạo lư vô thường
một lần nữa cho người ấy.
“Vô ngă”: Chúng ta phải biết
đối với “cái ngă chân chánh”, kinh chú giải là Thật
Tướng, là chân tâm, mà cũng là Chân Như bản tánh của
chúng ta. Chân Như bản tánh chính là cái Ngă thật sự! Có
kẻ b́nh phàm nào biết Chân Như bản tánh? Quư vị giảng
Chân Như bản tánh cho họ, họ hỏi Chân Như bản
tánh ở chỗ nào? Họ thắc mắc, họ không biết.
Giảng cho họ nghe, họ cũng chẳng hiểu
được, mà kẻ b́nh phàm như chúng ta cũng chẳng
nói nổi. Ắt là phải chính ḿnh đă khai ngộ. Sau
khi đă ngộ, c̣n phải chứng. Chẳng trải qua
tŕnh tự ấy, chúng ta đều chẳng liễu giải
cái Ngă thật sự. Có chân ngă mà chẳng liễu giải,
kẻ b́nh phàm đều chẳng biết. Kẻ b́nh phàm biết
giả ngă, luôn nghĩ cái thân thể giả tạm, có thể
nói năng, có thể tư duy chính là Ngă. Cái Ngă ấy nói theo
Phật pháp sẽ là Vô, chẳng phải là chân ngă!
Chúng
ta hăy ngẫm xem, chính ḿnh hăy phân tích, [sẽ thấy] tư
tưởng của chúng ta là một thứ rất trừu
tượng. Nói theo Duy Thức của Phật pháp, tâm lư chủ
yếu có tám món, tức là tám thức. Ngoài ra, c̣n có năm
mươi mốt Tâm Sở phụ thuộc tám thức tâm.
Rốt cuộc, tâm nào là chân ngă, thuộc về chính ḿnh? Cái
nào có thể đại diện cho chính ḿnh? Ngay cả thức
thứ tám, tức A Lại Da Thức, cũng chẳng thể
đại diện cho chân ngă. Chân ngă th́ lẽ ra chẳng
nên sống vài chục năm rồi sanh mạng chấm hết.
Hễ sanh mạng kết thúc, sẽ chuyển đến
đường nào? Lại sửa đầu thay mặt,
sanh trong nhân đạo, sẽ mang diện mạo con người;
vào súc sanh đạo, sẽ là diện mạo súc sanh. Nếu
thức thứ tám đại diện chân ngă, đáng lẽ
chẳng nên như thế! V́ thế, nói đến những
cái tâm ấy, chúng đều chẳng phải là “chân ngă”.
C̣n
như thân thể, lại càng không cần phải nói nữa.
Từ sau khi chúng ta nhập thai, ở trong thân thể mẹ,
hấp thâu Tứ Đại “đất, nước, gió, lửa”,
dần dần tụ tập, biến thành một đứa
bé, tăng trưởng đến một mức độ
nhất định, sẽ được sanh ra. Sau khi
được sanh ra, mỗi ngày phải ăn, phải uống,
phải hít thở không khí. Thiếu thốn
những chuyện ấy, sẽ chẳng thể duy tŕ thân
thể. Hấp thụ những thứ từ bên ngoài vào;
sau khi đă hấp thụ vào, lại c̣n phải bài tiết
ra: Ngoài đại tiện và tiểu tiện, thân thể
c̣n phải chảy mồ hôi v.v... Những thứ ấy đều
là những sự bài tiết ra ngoài. Thân thể chúng ta luôn hấp
thụ vật chất nơi ngoại cảnh, lại c̣n
phải luôn bài tiết ra ngoài, thay cũ, đổi mới,
cái nào là ta? Chén nước này, trước khi uống cạn,
có quan hệ ǵ với thân thể của chúng ta? Sau khi
đă uống, nó biến thành một bộ phận của
thân thể, thuận theo sự tiểu tiện lại bị
loại khỏi thân. Thân thể ấy có phải là Ngă hay
không? Kẻ b́nh phàm đều coi thân thể này là ta. Phật
pháp nói [quan niệm coi thân thể là ta, đấy chính là] Thân
Kiến, Ngă Chấp, chấp trước mănh liệt nhất!
Càng chấp trước, càng chẳng thể thoát ly sanh tử.
Do vậy, đức Phật dạy “vô ngă”.
Nếu
nói đến chân lư, chúng ta chẳng liễu giải hiện
tượng, chấp trước cái thân thể hư giả
và vọng tâm (chỉ tám thức và các Tâm Sở) là Ngă. Nếu
chúng ta phân tích, sẽ chẳng có một vật nào là chân
ngă. Do vậy, gọi là “vô ngă”.
Ắt phải thừa nhận vô ngă! Khi chẳng chấp
trước giả ngă, mới có thể minh tâm kiến tánh,
mới có thể hiển thị chân ngă của chúng ta. V́ thế,
trong lúc ấy, A Di Đà Phật phải diễn nói đạo
lư vô ngă đối với người văng sanh.
Sau
khi đă nói Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă xong. Tiếp
đó, liền “tán thán xuất
gia”, [tức là] tán thán sự xuất gia của người
văng sanh. Trong chuyện “tu hành chư
giới” ở phần trước, c̣n có giới xuất
gia, tức các giới Sa-di, giới Sa-di-ni, giới Tỳ-kheo,
giới Tỳ-kheo-ni, những giới ấy đều là
giới xuất gia. C̣n có hàng tại gia cũng được
kể gộp trong ấy. Người tại gia tŕ Bát Quan
Trai Giới một ngày. Bát Quan Trai Giới chính là giới xuất
gia. Trong Ngũ Giới có giới “chẳng tà dâm”, nhưng “dâm” trong Bát Quan Trai Giới sẽ
chẳng phải là “không tà dâm”. Tuy là tại gia, hễ tŕ Bát
Quan Trai Giới th́ là xuất gia, vợ chồng chẳng thể
ở chung pḥng! Trong ngày hôm ấy, sống cuộc đời
xuất gia. Người tại gia tŕ Bát Quan Trai Giới, quan
trọng nhất là phải liễu giải: Cái gọi là “gia” chính là “nhà” trong quan niệm
của mỗi người. Mọi người đều
có “nhà”. Trong quan niệm, tuy là người tại gia, có gia
đ́nh, nhưng tâm phải xuất gia, tâm phải thời
thời khắc khắc thoát ĺa lục đạo. Muốn
thoát ĺa lục đạo mà không xuất gia th́ làm sao
được? “Gia” là một
loại thiên luân, tức là mối quan hệ giữa người
cùng một nhà, có đủ mọi chuyện ràng buộc.
Tuy mang tâm lư tại gia, trong tâm chẳng bị những thứ
ấy ràng buộc, cũng coi như là xuất gia. V́ thế,
[đức Phật] tán thán xuất gia. Công phu tu hành tốt
đẹp, bất luận tại gia hay xuất gia, chỉ
cần tâm chẳng bị vướng mắc bởi gia
đ́nh, sẽ là xuất gia. Do vậy, A Di Đà Phật
tán thán: Có thể xuất gia, bèn “đắc
ly chúng khổ” (được ĺa các khổ). “Chúng khổ” chính là tám khổ
được nói trong Phật pháp. Quan trọng nhất
trong tám nỗi khổ chính là sanh tử đại khổ.
Hễ văng sanh thế giới Cực Lạc, sẽ vĩnh
viễn ĺa khỏi sanh tử đại khổ trong thế
gian, hết thảy các nỗi khổ to lớn đều
tránh khỏi.
Đoạn
này nói về duyên, trong phần sau, sẽ chánh thức nói về
sự văng sanh.
Tập 44
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn trang hai mươi sáu, bắt
đầu từ ḍng thứ ba ở cuối trang. Tôi đọc
trước kinh văn một lượt.
(Kinh)
Hành giả kiến dĩ, tâm đại hoan hỷ, tự
kiến kỷ thân, tọa liên hoa đài, trường quỵ,
hiệp chưởng, vị Phật tác lễ. Vị cử
đầu khoảnh, tức đắc văng sanh Cực Lạc
thế giới, liên hoa tầm khai.
(經)行者見已,心大歡喜。自見己身,坐蓮華臺,長跪合掌,為佛作禮。未舉頭頃,即得往生極樂世界,蓮華尋開。
(Kinh: Hành giả
đă thấy rồi, tâm đại hoan hỷ, tự thấy
thân ḿnh ngồi trên đài hoa sen, quỳ thẳng, chắp
tay, kính lễ đức Phật. Trong khi chưa ngẩng
đầu lên, liền được văng sanh thế giới
Cực Lạc, hoa sen mới nở).
Trong phần
kinh văn dạy về Trung Phẩm Thượng Sanh,
trước hết, nói về cái nhân văng sanh, kế đến,
nói về cái duyên văng sanh, đă giảng trong lần trước.
Hôm nay, trong đoạn này, chính là nói tới t́nh h́nh văng sanh.
Chúng ta hăy nhớ lại đôi chút về nhân duyên văng sanh: Cái
nhân của Trung Phẩm Thượng Sanh chủ yếu là có
thể thọ tŕ Ngũ Giới và các giới, lấy tŕ giới
làm chủ yếu. Đồng thời, chẳng tạo Ngũ
Nghịch, chẳng có những lỗi lầm, sai trái khác.
Như vậy th́ đương nhiên là có thiện căn. Đem
những thiện căn ấy luôn luôn hồi hướng,
dùng những thiện căn ấy để hồi hướng
phát nguyện: Trong tương lai, khi thọ mạng chấm
dứt, sẽ có thể sanh về thế giới Cực Lạc.
Đấy là nguyên nhân chủ yếu. Do cái nhân tốt đẹp,
tu tŕ hết sức tốt đẹp, cho nên tới khi lâm
chung, A Di Đà Phật và các vị tỳ-kheo liền đến
nghênh tiếp người ấy. Đó là nói về duyên. Phải
đặc biệt chú ư: Đây là do tu pháp Tiểu Thừa.
Chúng ta thường nói “Tiểu
Thừa chẳng thể văng sanh”. Pháp môn Tịnh Độ
là Đại Thừa Phật pháp, v́ sao Tiểu Thừa có
thể văng sanh? T́nh huống này là do người ấy vốn
học Đại Thừa; về sau, do v́ gặp rất
nhiều chướng ngại, ngă ḷng, lại tu Tiểu Thừa.
Một t́nh huống khác nữa, vốn là tu Tiểu Thừa,
về sau, hồi Tiểu hướng Đại. Hai loại
t́nh huống này, đến cuối cùng, khi sắp mạng
chung, đều là hồi Tiểu hướng Đại, do
vậy, có thể văng sanh. Nếu thuần túy tu Tiểu Thừa,
đến cuối cùng chẳng phát tâm Đại Thừa,
sẽ chẳng thể văng sanh. Hăy ghi nhớ mấy điểm
quan trọng này! Hôm nay, chúng ta xem t́nh h́nh văng sanh được
nói trong đoạn này.
“Hành giả kiến dĩ, tâm
đại hoan hỷ”: Chữ “hành giả” chỉ người tu hành tŕ giới,
hồi hướng, phát nguyện mong văng sanh, suốt một
đời luôn hy vọng có thể văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Chúng ta biết pháp môn Tịnh Độ
khác pháp môn b́nh thường ở chỗ nào? Chủ yếu
nhất là lúc thường nhật phải có hai chữ
trong tâm:
1) Một
là Yếm (厭), tức là nhàm ĺa, chán ngán thế giới Sa
Bà. Hăy ngẫm xem, trong cuộc sống thường ngày nơi
thế giới Sa Bà, chúng ta hứng chịu đủ mọi
nỗi phiền năo, đau khổ, gần như cảm
giác đă chai ĺ! Nếu chúng ta vốn chẳng phải là
như vậy, hoàn cảnh đang sống là thanh tịnh,
đột nhiên đến sống trong hoàn cảnh này,
đơn giản là chỉ một ngày cũng chẳng thể
chịu đựng được! Trong thế gian này, hoàn
cảnh tự nhiên, hoàn cảnh nhân loại xă hội, nhất
là tâm lư của những kẻ b́nh phàm, tức là tâm lư xấu
hèn của bọn chúng sanh phàm phu, nơi nào chúng ta cũng
đều cảm nhận nỗi đau khổ ấy. V́
thế, phải nhàm ĺa. Trong thế gian, sanh tử là trọng
yếu nhất. Sanh vào nhân gian, trong lúc c̣n sống, tuy
đau khổ, có người vẫn mong mỏi sống lâu
hơn một chút. Thậm chí hy vọng đời kế
tiếp lại sanh làm người trong nhân gian. Đấy
là mê hoặc, điên đảo. Suốt một đời
này đă chịu đựng thống khổ, đời kế
tiếp lại hứng chịu đau khổ. Đối với
xă hội này, nếu quư vị biết nhân quả, hiện
thời chẳng tốt đẹp, trong tương lai sẽ
càng tệ hơn hiện thời. Đó là chuyện nhất
định! Nếu lại trải qua bao nhiêu năm, nếu
tái sanh vào nhân gian, chỉ sợ ngay cả pháp môn Tịnh
Độ thuần túy cũng rất khó được
nghe, mong liễu sanh tử càng khó hơn nữa! Huống hồ
đời này chẳng thể văng sanh, đời sau nữa
có thể sanh trong nhân gian hay không, sẽ là một vấn
đề to lớn! Suy nghĩ những vấn đề
này, ắt sẽ chán ghét thế gian này!
2) Kế
đó là Hân (欣), tức vui thích, mong mỏi. Vui thích những
ǵ? Vừa nghe hoàn cảnh trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới tốt đẹp ngần ấy. Phật,
đại Bồ Tát, đều là các vị thượng thiện
nhân, tụ hội một chỗ, trọn chẳng giống
như trong thế gian, chúng sanh phàm phu đấu đá lẫn
nhau, chẳng hợp ư kiến, hăm hại lẫn nhau! Trong thế
giới Cực Lạc, chẳng có hiện tượng ấy.
Hễ có cái tâm ấy, sẽ chẳng thể văng sanh. V́ thế,
hễ nghĩ đến hoàn cảnh và nhân sự nơi
đó, đúng là quá tốt đẹp. Có mối quan hệ
này, chúng ta nhất tâm hy vọng, khẩn cầu, vui thích. Hăy
nắm chắc chữ Hân này, Hân là hoan hỷ.
B́nh
thường, chúng ta một là Yếm, hai là Hân. Hai chữ
Hân và Yếm chính là pháp môn Hân Yếm, hợp lại thành
Nguyện. Nguyện lực hết sức trọng yếu.
B́nh thường, do phát nguyện như vậy, chán nhàm và
vui thích như vậy, “hành giả
kiến dĩ”, [nghĩa là] hành giả trông thấy A Di
Đà Phật và các vị tỳ-kheo, quyến thuộc vây quanh,
đến tán thán người ấy, tiếp đón người
ấy. Sau khi trông thấy, “tâm
đại hoan hỷ”. B́nh thường, chúng ta phát nguyện,
chán nhàm, vui ưa, nhưng vẫn chưa đạt
được mục đích; khi ấy, hành giả trông thấy
Phật đến, ngay lập tức có thể văng sanh, chẳng
phải là sự hoan hỷ tầm thường, mà là đại
hoan hỷ! “Tự kiến kỷ
thân, tọa liên hoa đài” (Tự thấy thân ḿnh ngồi
trên đài hoa sen). Kẻ b́nh phàm đến khi lâm chung, trong
tâm khủng hoảng như thế ấy, rốt cuộc sẽ
đi về đâu? Người ấy có biết hay
chăng? Trong thế gian, làm đại hoàng đế, hoặc
làm tổng thống của một quốc gia lớn nhất
trên toàn thể thế giới, quyền uy hơn bất cứ
người nào, đến khi thọ mạng chấm dứt,
sẽ là thống khổ? Hay là vui sướng? Hành giả,
tức người văng sanh, trong lúc ấy, tâm sanh đại
hoan hỷ, “tự kiến kỷ
thân”, [tức là] thấy thân thể của chính ḿnh, “tọa liên hoa đài”, ngự trên đài hoa sen.
Đài hoa sen do đức Phật đem tới. “Trường quỵ, hiệp
chưởng”: Hướng về đức Phật
hành lễ, quỳ thẳng, chắp tay. “Vị Phật tác lễ”: Lễ Phật.
“Vị cử đầu khoảnh”:
Khi lễ Phật, trước tiên là lạy xuống, khi
c̣n chưa ngẩng đầu lên, “tức đắc văng sanh thế giới Cực Lạc”.
Ngay trong khi c̣n đang lạy xuống, chưa đứng
lên, đă văng sanh thế giới Cực Lạc. Trước
kia, khi chúng ta nghiên cứu kinh A Di Đà, kinh văn chép: “Tùng thị Tây Phương quá thập
vạn ức Phật độ”, [nghĩa là] từ thế
giới Sa Bà đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới, phải đi qua mười vạn ức cơi Phật
xa xôi ngần ấy! Nhưng khi văng sanh, sẽ dễ dàng
như thế đó, lập tức văng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới. V́ sao mau chóng ngần ấy?
Chúng ta phải nghiên cứu đôi chút.
Trong
bộ Di Đà Yếu Giải, tổ sư Ngẫu Ích
đă chú giải rất minh bạch. Chúng ta học pháp môn Tịnh
Độ, quan trọng nhất là ba chữ “Tín, Nguyện, Hạnh”, tức ba tư
lương. Yếu tố của Tín là tín Sự, tín Lư:
1) Tín Sự
là tin ngoài mười vạn ức cơi Phật, đích xác
là có thế giới Cực Lạc. Trọn chẳng như
kẻ b́nh phàm đă nói: “Địa cầu thật sự tồn
tại. Ngoài địa cầu sẽ chẳng thật sự
tồn tại”. Đấy thuần túy là tri kiến phàm phu.
Có tri kiến ấy, bất luận là học vấn to đến
đâu đi nữa, đều là tri kiến phàm phu, chẳng
liễu giải mà! Chúng ta tin Sự, tin lời dạy của
Thích Ca Mâu Ni Phật: Ngoài mười vạn ức cơi Phật,
xác thực là có thế giới Cực Lạc.
2) Kế
đó là “tín Lư”. Lư là “mỗi
cá nhân chúng ta, cho đến mỗi chúng
sanh, đều có Chân Như bản tánh”. Bản tánh to cỡ
nào? Bản tánh bao trùm hết thảy. Ở ngoài mười
vạn ức cơi Phật kể từ thế giới Sa Bà,
có thế giới Cực Lạc, c̣n có vô cùng vô tận thế
giới, đều ở trong bản tánh của chúng ta.
Chúng ta phải tin tưởng lư này.
Đă hiểu
rơ Lư này, phối hợp Lư với Sự. Khi chúng ta lâm chung,
sẽ là cái tâm văng sanh. “Tự
thấy thân ḿnh” chính là tâm lư trông thấy thân thể của
chính ḿnh. Người khác thấy người nào đó [khi
văng sanh], thân chẳng động đậy, giống
như đă chết! Chẳng động đậy là do
người khác thấy vậy, cảnh giới bất
đồng. Người văng sanh đến lúc văng sanh, cảnh
giới chẳng giống kẻ b́nh phàm. Lúc đó, người
ấy nhất tâm bất loạn, hoan hỷ, ở trong
Định, ngồi trên đài hoa sen. Kẻ khác thấy
dường như người ấy đă tắt hơi,
giống như đă chết, nhưng người văng sanh há
có chuyện ấy! Tắt hơi là ǵ? Hơi thở trong thế
gian là giả tướng, hít vào thở ra là giả tướng.
Nói đến chỗ chân thật, đấy đều là
những thứ phập phều, chẳng chân thật. Hội
quy vào đại định, khi nhập Diệt Tận
Định, hơi thở mỏng manh gần như chẳng
nh́n thấy! V́ thế, khi người ấy ở trong
Định, tự thấy thân thể của chính ḿnh ngồi
trên đài hoa sen, ngay cả lễ Phật, c̣n chưa lễ
xong, đă đến thế giới Cực Lạc. Đây
là đại cảnh giới “Lư
Sự viên dung” hiển hiện, cho nên mới có thể văng
sanh. Người thường tâm lư loạn cào cào, làm sao có
thể văng sanh cho được?
B́nh
thường, phải luyện tập tâm lư ấy. Luyện
tập trong lúc b́nh thường như thế nào? B́nh
thường, chúng ta ở trong thế gian, dẫu cảnh
giới tốt đẹp cũng thế, mà cảnh giới
chẳng tốt đẹp cũng thế, đều coi nó
là pháp sanh diệt đang sanh sanh diệt diệt, chẳng
cần quan tâm tới nó. Cảnh giới tốt, mời quư
vị làm đại tổng thống, tâm quư vị chẳng
dao động. Cảnh giới chẳng tốt, thậm
chí quư vị thứ ǵ cũng đều chẳng có, hết
thảy các nỗi thống khổ đều xảy đến,
quư vị cũng chẳng coi là có chuyện ǵ, đều chịu
đựng được! Nếu b́nh thường luôn luyện
tập như vậy, tâm mới có thể định.
Đến khi lâm chung, mới có công phu ấy, mới có thể
nước chảy thành gịng!
Khi
ấy, sanh về thế giới Cực Lạc, ngồi trên
đài hoa sen. Hễ đến nơi, “liên hoa tầm khai”, [nghĩa là] hoa sen vốn là
khép lại, sanh về thế giới Cực Lạc, hoa sen
nở ngay lập tức. V́ sao hoa nở mau ngần ấy? Tổ sư chú giải: Thọ tŕ giới
luật, tu hành các giới rất nghiêm, tốt đẹp lắm!
Cho nên sau khi văng sanh, hoa sen sẽ nở rất nhanh. Trên
đây là nói về t́nh huống khi văng sanh; t́nh huống sau
khi văng sanh sẽ là như thế nào?
(Kinh)
Đương hoa phu thời, văn chúng âm thanh, tán thán Tứ
Đế. Ứng thời, tức đắc A La Hán đạo,
Tam Minh, Lục Thông, cụ Bát Giải Thoát.
(經)當華敷時,聞眾音聲,讚歎四諦。應時即得阿羅漢道,三明六通,具八解脫。
(Kinh:
Ngay khi hoa nở, nghe các âm thanh tán thán Tứ Đế. Ngay
lập tức liền đắc đạo A La Hán, Tam Minh,
Lục Thông, đủ tám món giải thoát).
Đoạn
này là nói về các lợi ích sẽ đạt được
sau khi văng sanh. Sau khi hoa sen vừa nở, “đương hoa phu thời”, “phu” (敷) là nở, [“đương
hoa phu thời” nghĩa là] trong khi hoa sen nở, người
văng sanh “văn chúng âm thanh”
(nghe các âm thanh), nghe các loại
âm thanh nói những lời ǵ? “Tán
thán Tứ Đế”: Những âm thanh ấy đều
đang tán thán pháp Tứ Đế. Nói tới pháp Tứ
Đế, dựa theo tông Thiên Thai, căn cứ trên bốn
giáo để phân tích, bèn có Tạng, Thông, Biệt, Viên, cảnh
giới đều khác nhau. Tạng, Thông, Biệt, Viên đều
tu pháp Tứ Đế. Kinh văn trong phần trước
có nói đến chuyện hồi Tiểu hướng Đại,
nhưng công phu trong thường nhật [của người
mới văng sanh ấy] là công phu Tiểu Thừa. V́ vậy,
pháp Tứ Đế ứng hợp với pháp môn Tiểu
Thừa do người ấy đă tu trong thế giới Sa
Bà trước khi văng sanh, nhân quả tương xứng. Ở
đây là tán thán Tứ Đế của Nhị Thừa.
Pháp
Tứ Đế của Nhị Thừa, nói thuần túy theo
Tiểu Thừa, sẽ là tu Sanh Diệt Tứ Đế.
Bích Chi Phật thuộc Trung Thừa, sẽ là Vô Sanh Tứ
Đế. Dựa theo bốn giáo để nói, cảnh giới
Sanh Diệt Tứ Đế và Vô Sanh Tứ Đế
cũng không coi là cao. Dẫu không cao, nhưng chúng ta b́nh
thường tuy phát nguyện tu pháp môn Đại Thừa, nhưng
nếu muốn thật sự liễu sanh tử văng sanh, ắt
phải vun quén nền móng Sanh Diệt Tứ Đế th́ mới
có thể nương cậy. Sanh Diệt Tứ Đế
là ǵ? Khổ, Tập, Diệt, Đạo, danh từ của
Tứ Đế [trong bốn giáo Tạng, Thông, Biệt,
Viên đều là như nhau].
Khổ
Đế có ba khổ, tám khổ v.v... Tập (集) là ǵ? Khổ
(苦) do
đâu mà có? Từ Tập mà có. Nay chúng ta hứng chịu
đủ mọi nỗi khổ, chớ nên oán trời hờn
người! Đều là do trong quá khứ chính ḿnh đă tạo
đủ mọi tội nghiệp, mới chuốc lấy
đủ mọi khổ quả! Khổ là quả, Tập
là nhân. Đấy là hai thứ chân lư trong thế gian. Nếu
quư vị nhàm chán thế gian này chẳng tốt đẹp,
có sanh và tử là chẳng tốt đẹp! Có chỗ tốt
là bất sanh, bất diệt, thành tựu thánh nhân, thành tựu
Phật. Đó là ǵ? Diệt (滅) là chuyển cái nhân đau
khổ và cái quả đau khổ sanh sanh diệt diệt trong
thế gian, mọi thứ đều diệt sạch, sẽ
đắc cảnh giới đại an lạc. Đấy
là quả. Làm thế nào để đạt đến cái
quả ấy? Đạo (道), tức tu đạo, ắt
phải tu đạo. Đấy là cái nhân xuất thế
gian. Diệt và Đạo là nhân và quả xuất thế
gian. Đấy là Tứ Đế. Vô Sanh Tứ Đế,
chúng ta thật sự chẳng hiểu, chẳng cần phải
nói tới. Trên thế gian, hễ chúng ta bị một chút
khổ, bèn cảm thấy rất khổ. Vô Sanh Tứ
Đế là bất cứ nỗi khổ nào giáng xuống
thân đều chẳng thấy khổ, chẳng có ǵ là khổ!
Hiện thời, ai có được công phu ấy? Chuyện
này vẫn là cảnh giới của bậc Trung Thừa Bích
Chi Phật.
Trước
mắt, chúng ta chú trọng Sanh Diệt Tứ Đế. Diệt
và Đạo là pháp xuất thế gian. Chúng ta đều biết
tu pháp xuất thế gian. Muốn tu pháp xuất thế gian,
ắt phải thật sự liễu giải pháp thế
gian. Nếu chẳng liễu giải pháp thế gian, chẳng
có cách nào tu pháp xuất thế gian. Chúng ta có thừa nhận
Khổ trong pháp thế gian hay không? Chúng ta phải giác ngộ
Khổ. Toàn thể Phật pháp nói tóm lại là phải giác
ngộ. Chúng ta đối với Khổ chẳng chịu
giác ngộ, cũng chẳng biết phải giác ngộ. Bao
nhiêu kẻ coi khổ là lạc. Trên thế gian, cậy vào một
tí thông minh vặt vănh, tận lực làm chuyện tổn
người, lợi ḿnh, dùng đủ mọi phương
pháp hạ thấp người khác, nâng cao ḿnh lên. Dùng đủ
mọi phương pháp để đoạt lấy tiền
bạc và quyền lực của người khác, cứ ngỡ
chính ḿnh là có trí huệ, rất thông minh. Kẻ đó chẳng
biết trong chớp mắt, tiếp theo đó sẽ là
đại khổ báo xảy đến, kẻ ấy
đâu có hiểu! Chẳng giác ngộ tí nào! Coi khổ là lạc.
Do vậy, đây là pháp sanh diệt.
Đối
với Khổ Đế của pháp Sanh Diệt, ắt phải
giác ngộ. Phải giác ngộ như thế nào? Bất luận
kẻ nào tiền tài nhiều đến mấy, địa
vị cao tới mấy đi nữa, nói theo toàn thể, chẳng
qua là trong một cái khảy ngón tay ngắn ngủi, tạm
bợ, sẽ tiêu mất! Vạn pháp đều là như thế
đó. Ở bên sông, Khổng phu tử trông thấy nước
chảy, bèn cảm thán: “Thệ
giả như tư phù, bất xả trú dạ” (Qua
đi như thế đó, ngày đêm chẳng ngừng). “Thệ giả” (逝者) là nói tới
vạn vật trong thiên địa vũ trụ (kể cả
nhân sinh) đều giống như nước. Có thể khiến
cho ḍng sông ngừng chảy ư? Chẳng làm được!
Bất cứ chuyện ǵ trong thế gian cũng đều
như gịng nước chảy chẳng ngừng. Đấy
là một tướng. Bao nhiêu người liều mạng
tranh đoạt, hễ chưa tới tay, bèn nghĩ trọn
hết các phương pháp để tranh đoạt. Sau
khi đă đoạt được, chẳng có một khắc
thời gian nào có thể nắm chặt, nó sẽ ngay lập
tức biến mất. Đó là khổ hay lạc? Chẳng
hiểu đạo lư này, tức là chẳng hiểu rơ Khổ
Đế. Kẻ chẳng hiểu rơ Khổ Đế, quư
vị dạy kẻ ấy tu đạo, dẫu rất
thông thuộc Tam Tạng mười hai bộ, nhưng nếu
chẳng liễu giải Khổ Đế, thảy đều
là vô dụng. Thậm chí biến Phật pháp thành pháp thế
gian, trộm cắp, buôn bán Phật pháp. V́ vậy, trước
hết, phải liễu giải Khổ và Tập trong Sanh
Diệt Tứ Đế. Khổ do đâu mà có? Chiêu cảm
từ các ác nghiệp do chính ḿnh đă tạo. Tất cả
phàm phu đều chẳng hiểu, dẫu là đă học Phật.
Chúng ta đừng nghĩ: Học pháp Đại Thừa, sẽ
chẳng cần phải nói tới [Tứ Đế]! Không
nói tới, sẽ không được đâu nhé! Ắt phải
thống thiết đổ công dốc sức [ḥng liễu
giải Tứ Đế] th́ mới có thể thật thà niệm
Phật. Chẳng thể thật sự nhận thức, chẳng
thật sự thấy thấu suốt Khổ và Tập
trong pháp thế gian, chúng ta sẽ chẳng thể thật
thà niệm Phật. Hiện thời, chẳng thể thật
thà niệm Phật, tương lai sẽ chẳng thể văng
sanh, nhân quả tương xứng mà! V́ vậy, những
loại Tứ Đế khác chẳng cần phải nói tới;
v́ chúng ta thật thà niệm Phật, hăy đổ công dốc
sức ngay trong Sanh Diệt Tứ Đế!
Kinh
văn chép: “Văn chúng âm thanh,
tán thán Tứ Đế” (Nghe các âm thanh, khen ngợi Tứ
Đế), “tán thán” (讚歎) là nói tới
người văng sanh, khi chưa văng sanh, [người ấy]
đă tu tập Sanh Diệt Tứ Đế rất khá. Hoàn
toàn chiếu theo những điều đă nói trên đây
để tu tập, đă thấy thấu suốt pháp thế
gian, và cũng buông xuống. Sau đấy, nhất tâm tu
đạo, tu pháp môn Tịnh Độ, phát nguyện cầu
sanh, công phu mới thực tiễn, tới lúc đó, mới
có thể văng sanh. Khi hoa nở thấy Phật, có nhiều
thứ âm thanh là để tán thán sự thành tựu của
người ấy. Tán thán khi ấy chẳng nhằm khuyên
người ấy tu Tứ Đế. Người ấy
đă tu [Tứ Đế] từ lâu, tu đạt
được kết quả tốt đẹp như vậy.
Do đó, thốt lời tán thán.
“Ứng thời tức đắc
A La Hán đạo”: “Ứng
thời” (應時) là ngay trong lúc ấy. Khi nghe các âm thanh tán
thán Tứ Đế, sẽ ngay lập tức rất nhanh
chóng đắc đạo A La Hán. “A La Hán đạo” là chứng được quả
thứ tư, tức quả A La Hán. Văng sanh thế giới
Cực Lạc là pháp môn Đại Thừa, [v́ sao] người
ấy chứng quả La Hán? Tuy là pháp môn Đại Thừa,
nhưng vốn tu tập hạnh Tiểu Thừa, cho nên
trước hết sẽ đắc đạo A La Hán. A
La Hán đạo là Vô Sanh, tức là diệt trừ sự
sanh diệt của hết thảy các pháp, đạt
được Vô Sanh thật sự. Pháp này c̣n gọi là Vô
Trước (無著), [nghĩa là] đối với hết thảy
các giả pháp, đều không chấp trước. Thật
sự đạt được A La Hán đạo! A La Hán
đạo là giai đoạn ắt phải trải qua
để liễu sanh tử. Chúng ta tu pháp Đại Thừa
phải liễu sanh tử; để liễu sanh tử, vẫn
phải đoạn Kiến Tư Hoặc. Chứng đắc
A La Hán đạo, sẽ đoạn hết sạch toàn thể
Kiến Tư Hoặc. Đối với pháp môn Đại
Thừa, muốn liễu sanh tử, ắt cũng phải
trải qua giai đoạn này, người ấy đă
đắc A La Hán đạo!
Đắc
A La Hán đạo, sẽ đắc “Tam Minh, Lục Thông”. Xin hăy xem biểu đồ
bài giảng.
IV.2.2.16.1 Tam Minh
1)
Túc Mạng Minh (宿命明): Biết quá khứ gọi
là Túc Mạng. Chúng ta biết t́nh h́nh trong một đời
này mà thôi. Trước đời này là “tiền sanh” (đời trước), trước
tiền sanh c̣n có tiền sanh nữa, chúng ta chẳng biết.
Đắc Túc Mạng Minh sẽ có thể hiểu rơ t́nh huống
của sanh mạng trong đời quá khứ.
2) Thiên
Nhăn Minh (天眼明): Đối với chuyện
vị lai, mắt người ấy thấy rất rơ ràng.
Thấy rất rơ ràng hoàn cảnh và sanh mạng trong vị
lai sẽ là như thế nào, đều có thể liễu
giải.
3) Lậu
Tận Minh (漏盡明): “Lậu” (漏) chỉ hữu lậu pháp, “tận” (盡) là chấm dứt. Lậu Tận là pháp hữu
lậu chẳng c̣n. Lậu Tận Minh cũng là đắc
pháp vô lậu, có ư nói tới những chuyện trong hiện
tiền. Đối với chuyện trong hiện thời,
chúng ta chẳng thấy rơ. Những sự việc đang xảy
ra tại trong nước và ngoài nước đều là
chuyện trên địa cầu. Chuyện ở ngoài địa
cầu, chúng ta càng chẳng liễu giải. Chuyện trên
địa cầu chúng ta liễu giải bao nhiêu? Chẳng liễu
giải! V́ sao chẳng liễu giải? Chúng ta đều dùng
cái tâm hữu lậu để nh́n, nh́n kiểu nào cũng
chẳng thấy rơ ràng! Dẫu TV phát ra tin tức, báo chí cũng
đăng tải mọi chuyện, chúng ta trông thấy mà
chẳng hiểu rơ, chẳng nắm được chân
tướng sự thật. Trong ấy bao gồm rất
nhiều vấn đề: Do thành kiến chủ quan của
chính ḿnh, sự thật khách quan, c̣n có những lời nói của
kẻ khác chẳng phù hợp sự thật. Khá nhiều vấn
đề chúng ta đều chẳng liễu giải, ắt
phải đạt được vô lậu; sau khi vô lậu
th́ mới triệt để hiểu rơ. Nói cách khác, tất
cả phiền năo đều đoạn sạch sành sanh th́
mới đắc vô lậu, gọi là Lậu Tận Minh. Sau
khi đắc vô lậu, chuyện thế gian đều thấy
rơ ràng. Thấy rơ ràng chuyện thế gian th́ sẽ dễ
thực hiện. Thấy bất cứ chuyện ǵ cũng
đều chẳng có phiền năo, thật sự chẳng
có phiền năo!
Lục
Thông: Túc Mạng, Thiên Nhăn, Lậu Tận là ba thứ thần
thông; lại c̣n Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông và Thần Túc
Thông. Thần Túc Thông (神足通) là trên hư không,
dưới nước và mặt đất, đều phi
hành tự tại. Muốn tới nơi nào, bèn có thể vận
dụng thần thông, ngay lập tức đến nơi.
Kẻ b́nh phàm chúng ta muốn đến nước Mỹ,
phải ngồi máy bay. Có Thần Túc Thông sẽ chẳng cần
ngồi máy bay, ngay lập tức đến nơi. Tha Tâm
Thông (他心通) là trong
tâm người khác dấy lên tâm niệm ǵ, người ấy
đều biết. Thiên Nhĩ Thông (天耳通) là âm
thanh ở rất xa đều nghe rơ ràng! Những thần
thông này gọi chung là Lục Thông.
Minh
và Thông trong “Tam Minh, Lục Thông”
có ǵ khác nhau? Trước khi đắc Tam Minh, có thể đắc
Lục Thông. “Thông” (通) là thông
đạt, “minh” (明) là hiểu
rơ triệt để. Lấy Túc Mạng Minh và Túc Mạng
Thông để nói, sẽ khác nhau. Túc Mạng Thông là biết
đời nào trong quá khứ thuộc về đường
nào, c̣n [người đắc] Túc Mạng Minh không chỉ liễu
giải điều này, mà người ấy c̣n liễu giải
[chính ḿnh] đă tạo những nghiệp nào, các thứ t́nh
huống đều liễu giải toàn bộ. Minh so với
Thông càng liễu giải nhiều hơn, phạm vi càng rộng
hơn. Thiên Nhăn Minh và Thiên Nhăn Thông, Lậu Tận Minh và Lậu
Tận Thông cũng là như vậy. So với Thông, Minh càng
mở rộng hơn!
Đắc
Minh, đắc Thông, đương nhiên là rất tốt,
nhưng chúng ta tu đạo chẳng cần chú trọng
điều này, niệm Phật là được rồi.
Niệm Phật đến thế giới Cực Lạc,
tự nhiên đắc Tam Minh, Lục Thông. Nếu chẳng
chú trọng niệm Phật, cứ mong cầu thần
thông, cầu Minh, những chuyện ấy sẽ chẳng
thể làm được. V́ sao? Cái tâm mong cầu Thông và
chuyện tu đạo chẳng tương hợp, v́ Thông và
Minh do từ đại định, từ công phu định
lực mà đắc. Chẳng có công phu định lực,
lấy đâu ra Thông? Giống như soi bóng trong nước,
nước ắt phải “định” th́ mới có thể
phát sanh tác dụng chiếu. Nếu nước chẳng
định, cứ lay động, chiếu kiểu nào
cũng chẳng hiện bóng! Nếu cái tâm của bọn
chúng sanh chúng ta chẳng định, chỉ mong cầu Thông,
cái tâm cầu Thông rối beng, mong [chính ḿnh] cao hơn kẻ
khác một bậc, mong chính ḿnh vượt trỗi người
khác, mong biểu hiện “chính ḿnh có thần thông” giữa mọi
người. Hễ có động cơ ấy, sẽ cách
xa tu đạo, tu Định, chẳng biết đă trái
nghịch bao nhiêu, bao xa! Chúng ta phải liễu giải
điều này! Hăy nhất tâm tu đạo, hăy khéo thật
thà niệm Phật. Hễ công phu đă đạt, sẽ tự
nhiên có [Thông và Minh].
“Cụ Bát Giải Thoát”: Bát Giải
Thoát c̣n gọi là “bát bối xả”.
“Bối” (背) là trái nghịch,
“xả” (捨) là vứt
bỏ. Trái nghịch điều ǵ? Vứt bỏ điều
ǵ? Đối với các giả pháp sanh diệt trong thế
gian, bao gồm những vọng tâm trong nội tâm chúng ta,
đều phải trái nghịch, trừ bỏ. Đó là “nghịch trần, hợp giác”. Đối
với các thứ t́nh huống trong trần gian, đều
phải tương phản, chẳng ḥa hợp với
chúng, phải ḥa hợp cùng giác và Phật pháp, nên gọi là “bát bối xả”. Bát bối
xả là công phu tu tŕ nơi nhân địa, tu đến mức
thành công bèn gọi là “Bát Giải
Thoát”. Có tám điều nào vậy? (xin xem biểu đồ bài giảng).
IV.2.2.16.2. Bát Giải Thoát
1)
Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc: Khi
tu pháp này, phải phá sắc tướng (sắc pháp). Đối
với người tu đạo, phá trừ Thân Kiến hết
sức trọng yếu! Bất luận kẻ nào cũng
đều coi thân thể là ngă, coi nó như chính ḿnh, coi thân
thể của chính ḿnh quư báu hơn bất cứ điều
ǵ, thân thể này tốt đẹp hơn bất cứ
điều ǵ. Vậy là chẳng được rồi! Không
thể thoát ly sanh tử. Dùng công phu này, trước hết
là phải đối với nội hữu, quán sát chính ḿnh,
quán tưởng sắc thân của chính ḿnh. Đừng
nghĩ là trẻ tuổi, từ da dẻ bề ngoài, đầu
tóc đen mun, da dẻ rất tươi nhuận, hết
thảy đều rất đẹp đẽ, nhưng chẳng
lâu dài, tới khi tuổi già sẽ biết: “Nhớ lại
từ lúc tuổi trẻ cho đến hiện thời,
dường như mới ngày hôm qua!” Chẳng cảm thấy
thời gian đă trôi qua bao nhiêu, màu sắc nơi thân thể
của chính ḿnh đẹp đẽ dường ấy, chẳng
ǵn giữ được. Già cả vẫn chưa thấm
vào đâu, sau khi già nua lại c̣n phải chết! Sau khi
đă chết, chẳng được mấy hôm, thân thể
đă hư nát. Chẳng lâu sau, biến thành một đống
xương trắng. Cổ nhân có Bạch Cốt Quán: Tuy thân
thể hiện thời có thể hoạt động, chính
ḿnh thấy là một đống xương trắng toát.
Hành phép quán tưởng này, sẽ chẳng chấp trước
thân thể, chẳng coi nó như bảo bối. Tiến
hơn nữa, thấy thân thể của người khác cũng
chẳng tham luyến. Thấy thân thể của người
khác cũng là một giả tướng. V́ thế, để
quán ngoại sắc, trước hết phải quán nội
sắc, sau đấy mới quán ngoại sắc. Ắt phải
vận dụng công phu như vậy!
2)
Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc: Trong phần
trước là nội hữu sắc tưởng, dùng Bạch
Cốt Quán. Quán đến một mức độ [nhất
định], xương trắng tỏa sáng, có quang minh tám
màu. Lại sợ [hành nhân] sẽ chấp trước quang
minh; v́ thế, học đạo chẳng dễ dàng. Về
sau, cũng phải bỏ sạch điều này. Hết thảy
đều chẳng có th́ gọi là “nội vô sắc tưởng”. Quán tưởng
chính ḿnh thứ ǵ cũng đều chẳng có, sau đấy
mới quán ngoại sắc. Sau khi đă quán nội vô sắc
tới mức độ sạch sành sanh, [nhận thấy]
chúng sanh vẫn chẳng thể liễu sanh tử. Điều
nặng nhất của chúng sanh là tham ái, [hay nói cách khác là do
có] cái tâm tham cầu. Tuy thân thể đă chẳng có,
nhưng vọng tâm hăy c̣n. Hễ có vọng tâm tồn tại,
đối với ngoại cảnh vẫn tham cầu. V́ thế,
vẫn phải quán ngoại sắc. Lại tiếp tục quán ngoại sắc, quán măi cho đến
khi ngoại sắc chẳng c̣n mới thôi. V́ thế, điều
này là nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc.
Trong giai đoạn này, khi quán ngoại sắc, phải
đoạn trừ cái tâm tham cầu và phiền năo. Sau khi
hoàn thành giai đoạn này, sẽ tiến nhập giai
đoạn thứ ba.
3)
Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ: Tịnh
giải thoát (淨解脫) là ǵ? Trong phần trước
là “nội quán sắc”, tức
là quán nội thân của chính ḿnh. Quán chính ḿnh thành một
đống xương trắng. Xương trắng dần
dần tỏa ra ánh sáng. Quang minh th́ vẫn chưa phải
là tốt, dần dần chuyển biến thành thanh tịnh
quang. Quán toàn bộ tám thứ bạch quang trở thành thanh
tịnh. Khi ấy, thân thể sẽ chẳng bị ràng buộc
tí nào, tâm lư được giải thoát, thân tâm hoàn toàn đạt
đến tự tại, thân thể an ổn, tâm lư an lạc,
đó là “thân tác chứng” (身作證, thân làm
chứng). “Chứng” là bản
thân hoàn toàn chứng đắc cảnh giới quán tưởng.
“Cụ túc trụ” (具足住) là cảnh
giới được quán đă hoàn toàn đầy đủ!
Ba
công phu trên đây đă đạt được rồi, sẽ
ở trong giới nào? Hoàn toàn ở trong Sắc Giới Thiên,
nhập công phu Thiền Định. Tiến hơn bước
nữa là Không Vô Biên Xứ. Từ Sắc Giới Thiên, lại
tiến nhập công phu Thiền Định càng sâu hơn. Sắc
Giới Thiên c̣n có h́nh sắc, lên cao hơn một tầng nữa
là Vô Sắc Giới Thiên. Tầng thứ nhất trong [Vô Sắc
Giới Thiên] là Không Vô Biên Xứ, rỗng rang chẳng có ngằn
mé, gọi là Không Vô Biên Xứ Định. Nhập đại
định này, hết thảy bờ mé đều chẳng
có, Định càng sâu hơn Sắc Giới Thiên. Tiến thêm
một tầng nữa, bỏ qua Không Vô Biên Xứ Định,
lại nhập Thức Vô Biên Xứ Định. Sau khi nhập
Thức Vô Biên Xứ Định, lại tiến thêm bước
nữa là đạt tới Vô Sở Hữu Xứ Định,
là tầng Không Thiên thứ ba. Cuối cùng, đạt đến
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, là cao
nhất, cũng là tầng Không Thiên thứ tư. Từ Không
Vô Biên Xứ Định cho đến Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng Xứ Định chính là bốn loại Thiền
Định lớn trong Vô Sắc Giới.
Điều
cuối cùng, Diệt Thọ Tưởng Định thân tác
chứng cụ trụ. Người tu Tiểu Thừa
đă vượt khỏi tam giới, chứng quả thứ
ba, gọi là quả Bất Hoàn, trụ trong Bất Hoàn
Thiên. V́ muốn tạm thời nghỉ ngơi, bèn nhập Diệt
Tận Định, gọi là Diệt Thọ Tưởng.
Thọ (受) là tiếp nhận. Bất cứ chuyện
ǵ trong thế gian chúng ta đều tiếp nhận. Hễ
tiếp nhận bèn có “tưởng”, [tức là] trong tâm có
tư tưởng. Những thứ ấy đều là chuyện
phiền năo, trong tâm bị tạp loạn. Hễ trong tâm tạp
loạn, sẽ là chuyện hết sức khổ sở. Bậc
thánh nhân từ Tam Quả trở lên chán ghét những thứ
ấy, cho nên Diệt, tức là khiến cho nó ngưng dứt,
chẳng để cho nó dấy lên tác dụng. Nhập loại
Định ấy gọi là Diệt Tận Định. Sau
khi nhập Diệt Tận Định, kẻ b́nh phàm chúng
ta có hô hấp, người ấy (người nhập Diệt
Tận Định) cũng có hô hấp. Khi người ấy
nhập đại định, phàm nhân chúng ta gần
như chẳng nh́n thấy người ấy có hô hấp,
[hơi thở và ư niệm] vi tế đến mức tột
cùng vi tế, trong tâm an tĩnh định trong ấy. Đó
là một loại cảnh giới hưởng thụ nhất.
Đấy là môn giải thoát thứ tám.
Diệt
Thọ Tưởng Định khác với Vô Tưởng
Định của ngoại đạo. Tu Vô Tưởng
Định thành công, sẽ sanh lên Vô Tưởng Thiên, [ngoại
đạo] ngỡ là rốt ráo nhất, [tưởng là] đă
chứng quả rốt ráo. Thật ra, hăy c̣n quá sớm!
Thánh nhân Tam Quả biết điều này chẳng phải là
rốt ráo, nghỉ ngơi ở nơi đó mà thôi. Hai
đằng khác nhau!
Bát
Giải Thoát là do tu Bát Bối Xả mà đắc Thiền
Định, đến cuối cùng, thành công, đắc Bát
Giải Thoát. Phải biết: Bát Giải Thoát chẳng phải
là tu thành trong thế giới Sa Bà trước khi văng sanh, mà
là sau khi văng sanh. Nghe các âm thanh tán thán Tứ Đế, sau
đấy, đắc đạo A La Hán, đắc Tam Minh,
Lục Thông. Sau đấy, đắc Bát Giải Thoát. Sau
khi chúng ta liễu giải phần kinh văn này, điều
quan trọng nhất là cầu văng sanh. Sau khi văng sanh, đừng
nói là Bát Giải Thoát, chúng ta có thể đạt được
cảnh giới đại Bồ Tát rất nhanh! Hiện
thời, chúng ta không cần học [Tam Minh, Lục Thông, Bát
Giải Thoát]. Chẳng phải là [những điều ấy]
không tốt, mà là do danh từ khó hiểu, công phu tu tập khó
khăn lắm! V́ vậy, chúng ta cầu văng sanh là điều
quan trọng nhất. Kế đó là một câu:
(Kinh)
Thị danh Trung Phẩm Thượng Sanh giả.
(經)是名中品上生者。
(Kinh: Đó gọi
là Trung Phẩm Thượng Sanh).
Phần
trên đă nói rành mạch, cuối cùng là lời kết luận,
đó gọi là người văng sanh Trung Phẩm Thượng
Sanh.
Tập 45
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ hai
mươi sáu, bắt đầu từ hàng thứ bảy,
tôi đọc trước một đoạn kinh văn.
(Kinh)
Trung Phẩm Trung Sanh giả: Nhược hữu chúng sanh,
nhược nhất nhật nhất dạ tŕ Bát Giới Trai,
nhược nhất nhật nhất dạ tŕ Sa-di giới,
nhược nhất nhật nhất dạ tŕ Cụ Túc Giới,
oai nghi vô khuyết. Dĩ thử công đức, hồi
hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc, giới
hương huân tu.
(經)中品中生者:若有眾生,若一日一夜持八戒齋,若一日一夜持沙彌戒,若一日一夜持具足戒,威儀無缺。以此功德,迴向願求生極樂國。戒香熏修。
(Kinh: Trung Phẩm
Trung Sanh là nếu có chúng sanh hoặc một ngày một
đêm tŕ Bát Quan Trai Giới, hoặc một ngày một
đêm tŕ Sa Di Giới, hoặc một ngày một đêm tŕ
Cụ Túc Giới, chẳng khuyết oai nghi. Dùng công đức
này hồi hướng nguyện cầu sanh về cơi Cực
Lạc, giới hương huân tu).
Lần
trước đă nói về Trung Phẩm Thượng Sanh,
lần này nói về Trung Phẩm Trung Sanh. Bất luận nói
đến phẩm nào, đều phải đặc biệt
chú ư cái nhân để văng sanh. Thượng Phẩm Thượng
Sanh có cái nhân của Thượng Phẩm Thượng Sanh,
cho đến Trung Phẩm Thượng Sanh có cái nhân của
Trung Phẩm Thượng Sanh. Đă có cái nhân ấy, sau
đấy, gặp duyên ǵ th́ mới có thể thành tựu văng
sanh khéo phù hợp với kết quả của phẩm ấy,
tức là nhân quả tương xứng. Câu đầu tiên
trong phần kinh văn vừa mới niệm, “Trung Phẩm Trung Sanh giả”
nêu bày danh xưng của phẩm này. Kế đó, đoạn
kinh văn bắt đầu từ câu thứ hai cho đến
“giới hương huân tu”
nói về cái nhân của Trung Phẩm Trung Sanh.
Trung
Phẩm Trung Sanh ắt phải đầy đủ những
điều kiện nào? Tiếp đó, dựa theo kinh
văn để nói về cái nhân văng sanh. “Nhược hữu chúng sanh, nhược nhất nhật
nhất dạ tŕ Bát Giới Trai”: Nếu có những
chúng sanh tu hành có thể thọ tŕ Bát Quan Trai Giới một
ngày một đêm. Bát Giới Trai chính là Bát Quan Trai Giới.
Trong phần trước, đă có giải thích: Thọ tŕ Bát
Quan Trai Giới là thọ từng lần một, kỳ hạn
thọ tŕ là một ngày một đêm. Ví như sáng sớm
hôm nay thọ, tŕ đến sáng sớm ngày mai bèn coi là viên
măn. Nếu muốn thọ nữa, phải thọ giới
lần nữa. Thọ tŕ trong một ngày một đêm
như vậy, công đức hết sức to lớn! V́ thọ
tŕ thuần túy là giới xuất gia. Người tại
gia thọ Bát Quan Trai Giới, trong ngày hôm ấy, từ sáng
sớm cho đến tối, thảy đều dựa
theo giới điều để làm đúng như vậy.
Chẳng hạn như người tại gia thọ Ngũ
Giới cũng thế, mà thọ Bồ Tát giới cũng
thế, lấy Ngũ Giới làm cơ bản. Trong Ngũ
Giới, đối với người tại gia, “chẳng dâm” là cấm tà dâm,
nhưng thọ Bát Quan Trai Giới bèn tuyệt đối cấm
ngặt dâm (kể cả quan hệ vợ chồng b́nh
thường). Do vậy, thọ Bát Quan Trai Giới một
ngày một đêm sẽ giống như suốt cả ngày
hôm ấy thuần túy tŕ giới luật của hàng xuất
gia tu hành.
“Nhược nhất nhật nhất
dạ tŕ Sa Di Giới”: Cũng là một ngày một đêm
tŕ giới Sa Di. Giới Sa Di là giới xuất gia. Thọ
giới Sa Di là c̣n chưa thọ giới tỳ-kheo, giới
tỳ-kheo là Cụ Túc Giới. Xuất gia th́ trước hết
là thọ giới Sa Di, giới điều khá ít. Có tất
cả mười điều, phải ǵn giữ mười
điều giới luật, gọi là Sa Di Giới. Kinh văn
nói “Sa Di Giới” chính là [giới
luật] thọ tŕ bởi nam chúng xuất gia; nữ chúng xuất
gia thọ Sa Di Ni Giới. Ở đây nói “Sa Di Giới” tức là đă bao gồm Sa Di Ni Giới.
Mười điều giới [của giới Sa Di] là tám
giới [trong Bát Quan Trai Giới], kể thêm hai điều
nữa thành mười giới. Thêm vào hai điều nào?
Điều thứ nhất, Sa Di xuất gia th́ trong tay chẳng
thể giữ tiền bạc, của cải. Tổ sư
đă dựa theo kinh văn mà chú giải:
1)
Nói tới “vàng bạc” trong
câu “không giữ vàng, bạc” chính
là nói tới tiền tài, có nghĩa là: Xuất gia làm Sa Di,
sau khi đă thọ giới Sa Di, theo học với vị
thầy xuất gia, hết thảy [mọi thứ cần
dùng] trong cuộc sống đều dựa vào vị thầy
thế độ chăm sóc, toàn tâm theo học với Ngài,
chính ḿnh chẳng cần giữ tiền bạc, tài vật.
Đó là điều thứ nhất.
2)
Lại c̣n phải tŕ ngọ. “Tŕ
ngọ” (持午) là mỗi ngày sau khi giữa trưa, sẽ
chẳng thể ăn thứ ǵ nữa. “Tŕ ngọ giới” là quá giữa trưa sẽ chẳng
ăn. Trong giới tỳ-kheo cũng là như thế.
Đă xuất gia làm Sa Di, thọ Sa Di Giới sẽ tŕ giới
“quá giữa trưa không ăn!”
Hai
điều này cộng với tám giới trong phần
trước, sẽ thành mười giới Sa Di.
“Nhược nhất nhật nhất
dạ tŕ Cụ Túc Giới, oai nghi vô khuyết” (Nếu
một ngày một đêm tŕ Cụ Túc Giới, chẳng khuyết
oai nghi): Cụ Túc Giới là sau khi đă thọ giới Sa
Di, qua một thời gian, tŕ giới rất khá, sẽ thọ
giới tỳ-kheo.
Nho
gia trong văn hóa Trung Hoa cũng nói đến lễ, sách
Trung Dung có câu: “Lễ nghi tam
bách, oai nghi tam thiên” (lễ nghi ba trăm, oai nghi ba ngàn).
Có nghĩa là: Người tu đạo ngoài việc tuân thủ
những giới luật cơ bản ra, ngôn ngữ, hành vi
xét theo phương diện vi tế đều phải khéo
chú ư. Nói thông thường, bốn oai nghi là ǵ? Là bốn thứ
hành vi được biểu hiện ra. Bất luận
người nào khi có hành động th́ là Hành, có Trụ tức
khi đứng ở chỗ nào đó, hoặc là giữ cho
thân thể ở một nơi chốn nhất định
chẳng có hành động. Đó là Trụ. Lại c̣n có Tọa,
tức là khi ngồi, ngồi ở nơi nào cũng đều
ngồi đúng quy củ. Lại c̣n có Ngọa là khi ngủ
nghê. Nói thông thường là “hành,
trụ, tọa, ngọa”, đi bèn có oai nghi của
đi, đứng bèn có oai nghi của đứng, ngồi
bèn có oai nghi của ngồi, ngủ nghê có oai nghi trong ngủ
nghê, cho nên gọi là “bốn thứ
oai nghi”.
Nói
đến bốn oai nghi, không chỉ người đă thọ
Cụ Túc Giới phải chú trọng, mà người tại
gia b́nh phàm tu đạo cũng đều phải chú trọng.
Tôi vừa mới nói Nho gia cũng nói “ba ngàn oai nghi”. Điều này, ngoài việc ǵn giữ
oai đức nghi biểu của người tu đạo
ra, c̣n giữ cho sắc thân của người tu đạo
khỏe mạnh, rất quan trọng! Nói đến chuyện
ngồi, các bác sĩ hiện thời cũng thường
nói v́ sao xương sống người già thường mọc
gai, chèn ép dây thần kinh, gây ra đau nhức. Đây là v́ suốt
một thời gian dài chẳng chú ư, tư thế ngồi
không đúng. Lúc trẻ, chẳng cảm thấy ǵ; tới
lúc già cả, bệnh tật lộ ra. Nói đến oai nghi
th́ thời cổ chẳng có ghế dựa, hiện thời
có ghế dựa. Chớ nên ngồi ngửa ra, ngồi xa
khỏi lưng ghế, lưng dựa vào đằng sau, phần
giữa lưng bị lơ lửng, gây nên tổn hại rất
lớn đối với cột sống. Đó là một
loại [oai nghi] mà thôi. Khi đi, lại c̣n phải chú ư. Ví
như người đi lại chẳng chú ư, hễ vấp
ngă một cái là thôi rồi! Người cao tuổi hễ vấp
ngă sẽ bị găy xương. B́nh thường, dưỡng
thành [thói quen] đi, đứng, nằm, ngồi tốt
đẹp. Ngủ nghê cũng có tư thế ngủ nghê. Cổ
nhân đối với bất luận oai nghi như Phật
pháp đă dạy, hoặc oai nghi như Nho gia đă nói, chiếu
theo tư thế ấy để ngủ, sẽ có thể
bảo tŕ sự vận hành b́nh thường của hệ
thống tiêu hóa nội tạng. Vừa phù hợp oai nghi, lại
c̣n phù hợp phép vệ sinh về mặt sinh lư. Dưỡng
thành thói quen tốt, biểu hiện sẽ tự nhiên hết
sức hữu ích cho việc tu đạo. Do vậy, ở
đây đặc biệt nói là “oai
nghi vô khuyết”. Chú ư oai nghi hết sức tốt đẹp,
chẳng có bất cứ khiếm khuyết ǵ. Ngoài giới
ra, phải thường chú ư chính ḿnh cho nhiều. Những
điều được nói trong đoạn này đều
là giới luật oai nghi, đối với mỗi điều
giới luật, đều nói “nhược
nhất nhật, nhất dạ” (hoặc một ngày một
đêm). Một ngày một đêm chính là kinh văn nói đến
thời gian ngắn nhất. Trên thực tế, tŕ Sa Di Giới
hoặc Cụ Túc Giới, há chỉ là một ngày một
đêm ư? Kinh văn có ư nói đến tầm quan trọng
của việc tŕ giới, dẫu tŕ một ngày một
đêm, công đức cũng rất to, huống hồ là [tŕ
trong] một thời gian lâu dài? Hăy hiểu rơ ư nghĩa này!
“Dĩ thử công đức, hồi
hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc”
(Dùng công đức này, hồi hướng nguyện cầu
sanh về cơi Cực Lạc). Tŕ giới nhấn mạnh
oai nghi, công đức đạt được sẽ dùng
vào chỗ nào? Hồi hướng Tây Phương Cực Lạc
thế giới, chẳng dùng vào việc khác, mà nhằm phát
nguyện, cầu cho khi thọ mạng chấm dứt, có
thể sanh về thế giới Cực Lạc. Đây
cũng là một cái nhân chủ yếu để văng sanh Tây
Phương. Cái nhân của việc văng sanh trong Trung Phẩm
Trung Sanh là tŕ giới. Tŕ giới chia thành nhiều loại
như vậy, bất luận loại nào, tại gia tŕ Bát
Quan Trai Giới cũng thế, xuất gia tŕ Sa Di Giới, hoặc
Cụ Túc Giới cũng thế, hễ tŕ tốt đẹp,
tŕ thanh tịnh, th́ như trong câu kế tiếp đă nói: “Giới hương huân tu”.
Tŕ giới thanh tịnh, đó là công đức. Công đức
ấy được sánh ví như thế nào? Dùng
hương để tỷ dụ. Hương có công
năng huân tu, huân tập. Dùng hương để huân tập,
tâm lư cá nhân tự nhiên ngày càng thêm tiến bộ trên
đường đạo. Ở đây phải chú ư, cái gọi
là “giới hương” (戒香) chính là
tỷ dụ. Trong các kinh khác cũng có nói rơ: Vật chất
để làm hương trong thế gian rất nhiều, như
đàn hương hoặc các thứ hương liệu
khác cũng thế, đều là [tỏa hương] hữu
hạn. Chỉ có giới hương là chẳng có hạn
chế, nó phổ biến. Giới hương tỏa ra có
thể trọn khắp thế gian, chẳng giống bất
cứ loại hương nào trong thế gian.
V́ sao giới
hương có thể phổ biến khắp thế gian, chẳng
giống các loại hương trong thế gian? Phải từ
kinh văn để liễu giải chuyện này. Phật
pháp thường nói “tám vạn
bốn ngàn pháp môn”, [hàm ư] pháp môn rất nhiều! Phật
pháp có khai, có hợp. “Khai” (開) là mở
rộng ra từng điều một. Càng mở rộng,
càng triển khai càng nhiều. “Hợp”
(合) là gộp
lại, đơn giản hóa, tức là nói gộp lại.
Tám vạn bốn ngàn pháp môn nói gộp lại, sẽ là ba
thứ: Giới Định Huệ Tam Vô Lậu Học. Tam
Vô Lậu Học gồm trọn tám vạn bốn ngàn pháp
môn. Đứng đầu trong Tam Vô Lậu Học là Giới
Học, tức tŕ giới. Trong kinh Lăng Nghiêm và các bộ
đại kinh khác đều nói: Học Phật phải
tŕ giới. Do Giới sanh Định, tức là do tŕ giới
sẽ phát sanh công phu định lực. Do Định khai
Huệ, tức là sau khi đă có công phu định lực
th́ trí huệ mới có thể mở mang. Chẳng có công phu
định lực, lấy đâu ra trí huệ? Một
người trong tâm rối tung beng, chẳng có Định,
lấy đâu ra trí huệ? Ba thứ học vấn Giới
Định Huệ khác với học vấn thông thường
trong thế gian. Bất cứ loại học vấn nào
trong thế gian cũng đều là hữu lậu, chẳng
rốt ráo, nhưng ba thứ học vấn này là học vấn
rốt ráo, đều nhằm dạy chúng ta tu hành thành Phật.
Chúng là học vấn vô lậu. Học vấn vô lậu bao
gồm tám vạn bốn ngàn pháp môn, mà trong ba loại này,
điều đứng thứ nhất chính là Giới Học.
Trung Phẩm Trung Sanh nói đến chuyện tŕ giới, giới
là ǵ? Hết thảy những chuyện chẳng hợp lư
đều chớ nên làm. Chuyện tốt, việc thiện
(việc đáng nên làm) th́ phải làm. Có thể tu lâu dài
như vậy, tự tánh của chúng sanh, tức quang minh từ
công đức trong bản tánh, sẽ phát ra. Phàm phu trong thế
giới Sa Bà thấy sắc, nghe tiếng, thanh,
hương, vị, xúc, ngũ trần đều là pháp sanh
diệt, chẳng giống như năm trần trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Năm trần
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới từ bản
tánh hiển hiện. “Hương”
là hương trần. Giới hương liên quan đến
việc thọ giới, chúng ta hiển hiện hương
sẵn có từ trong tâm tánh. V́ thế, hương ấy
vượt trỗi bất cứ loại hương nào
trong thế gian. Nó có thể phổ biến các nơi, nghe
trọn khắp hết thảy các giới hương.
Hương ấy do tŕ giới mà có. V́ thế, nói đến
chuyện “huân tu”: Do chúng ta
giữ giới trong một thời gian dài, sẽ có thể
phát huy hương này. Dùng loại hương ấy để
huân tập chính ḿnh, đấy gọi là “huân tu” (熏修).
Do
huân tu các thứ giới lâu ngày, cái nhân để văng sanh liền
đầy đủ. Lại xem đoạn kinh văn thứ
hai dưới đây:
(Kinh)
Như thử hành giả, mạng dục chung thời, kiến
A Di Đà Phật, dữ chư quyến thuộc, phóng kim sắc
quang, tŕ thất bảo liên hoa, chí hành giả tiền. Hành
giả tự văn không trung hữu thanh, tán ngôn: “Thiện
nam tử! Như nhữ thiện nhân, tùy thuận tam thế
chư Phật giáo cố, ngă lai nghênh nhữ”.
(經)如此行者,命欲終時,見阿彌陀佛,與諸眷屬,放金色光,持七寶蓮華,至行者前。行者自聞空中有聲,讚言:善男子!如汝善人,隨順三世諸佛教故,我來迎汝。
(Kinh: Hành giả
như thế, khi mạng sắp hết, thấy A Di Đà
Phật và các quyến thuộc, phóng quang minh sắc vàng, cầm
hoa sen bảy báu, đến trước hành giả. Hành giả
tự nghe trong hư không có tiếng khen rằng: “Thiện
nam tử! Như ông là thiện nhân, tùy thuận lời dạy
của chư Phật trong ba đời, ta đến
đón ông”).
Đoạn
này nói khi văng sanh, [hành giả] sẽ thấy Phật và quyến
thuộc đến nghênh tiếp. Đó là cái duyên văng sanh. “Như thử hành giả”: Chỉ
người tu hành thọ tŕ các thứ giới đă được
nói trong phần kinh văn trước đó. “Mạng dục chung thời”:
Thọ mạng của ai cũng đều chẳng thể
tồn tại vĩnh cữu, đều nhất định
là có lúc mạng chung. Khi sanh mạng sắp kết thúc, “kiến A Di Đà Phật, dữ
chư quyến thuộc”, [nghĩa là]: Thấy Tây
Phương Cực Lạc thế giới giáo chủ A Di
Đà Phật. Ngoài đức Phật ra, c̣n có các quyến
thuộc theo đức Phật cùng đến. “Phóng kim sắc quang”: Thảy
đều phóng quang minh có màu vàng ṛng. Quang minh vừa chiếu
tới, hành giả khi lâm chung, trông thấy quang minh. Khi văng
sanh, nhất định sẽ chiếu rơ ràng; đồng
thời, A Di Đà Phật và các quyến thuộc hiện
đến, “tŕ thất bảo
liên hoa”: Trong tay cầm hoa sen, hoa sen ấy làm bằng bảy
báu. “Chí hành giả tiền”:
Đến trước người tu hành sắp mạng chung.
“Hành giả tự văn không
trung hữu thanh”: Người tu hành sắp văng sanh, khi ấy,
sẽ nghe trên hư không có âm thanh. Trong hư không có âm thanh
ǵ? “Tán ngôn” (Khen rằng): Âm
thanh ấy là một thứ tán thán, tán thán ai? Kế đó,
[kinh văn] chép: “Thiện nam tử”,
trước hết khen ngợi người văng sanh, gọi
người ấy là “thiện
nam tử”. Trong kinh văn chỉ nói “thiện nam tử”, đương nhiên là thiện
nữ nhân thuộc nữ chúng tu tŕ niệm Phật cũng
được bao gồm trong ấy. “Như nhữ thiện nhân”: Bậc thiện nhân
giống như quư vị. Nói “thiện
nhân”, tức là nói người ấy b́nh thường hoặc
là thọ tŕ một ngày một đêm Bát Quan Trai Giới, hoặc
là một ngày một đêm tŕ Sa Di Giới, Cụ Túc Giới
v.v... Do những chuyện ấy, đều là “thiện nhân”. Hễ nói đến
giới, sẽ nhiều ngần ấy. Nói đơn giản
nhất, sẽ là hai câu: “
Trong
đoạn này, có hai điều mà chúng ta cần phải
chú ư đôi chút:
1) Một
là “hành giả tự văn
không trung hữu thanh”: Âm thanh ấy là lời tán thán [được
nêu] trong phần sau. “Tự
văn không trung hữu thanh” là trong khi ấy, người
tu tŕ đích thân nghe thấy trong hư không có âm thanh tán thán.
Cũng có lẽ là người khác vẫn chưa nghe thấy,
mà cũng có thể là người khác cũng nghe, chẳng nhất
định! Ở đây, kinh văn ghi là “tự văn” (tự ḿnh nghe), [hàm nghĩa] chính
người văng sanh nghe thấy. Trong danh từ Phật học,
“tự văn” là “biệt nghiệp”, cá biệt,
đặc biệt, đơn độc. Đấy là do công
đức tu tŕ tinh tấn thường nhật, chỉ có
bản thân người ấy nghe thấy, nghiệp của
người ấy là tịnh nghiệp. Do tu tŕ tịnh nghiệp
Tịnh Độ Tông đă thành thục, cho nên chính ḿnh nghe
thấy trong hư không có âm thanh ấy. Người khác chẳng
đạt đến cảnh giới ấy, lại
cũng chẳng phải là lúc mạng chung, cho nên chẳng
nghe thấy. Đấy là hiểu theo mặt văn tự
trong kinh văn. Nhưng trên sự thật, chúng ta xem Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục [sẽ thấy]: Vào thời
cổ, tại Trung Hoa, có rất nhiều vị cao tăng
đại đức và rất nhiều vị tại gia cư
sĩ khi văng sanh, ngoại trừ những vị ấy đích
thân nghe âm thanh, những người khác đang hiện diện
tại đó cũng đều có thể nghe thấy. Có thể
nghe chuyện thuộc về người khác, cảnh giới
của những người ấy cũng rất tuyệt
diệu! Nếu người ấy tâm lư chẳng thanh tịnh,
sẽ chẳng nh́n thấy, chẳng nghe thấy. V́ thế,
vào thời cổ, rất nhiều người khi văng sanh,
chính ḿnh nghe, người khác chẳng nghe, có trường hợp
như vậy, mà cũng có trường hợp: Chính người
ấy nghe, người khác cũng nghe. Điều này chỉ
rơ: Chỉ cần tu tŕ đúng pháp như vậy, đến
khi thọ mạng chấm dứt, nhất định là sẽ
có sự cảm ứng ấy, hoặc là nghe thấy trong
hư không có âm thanh, hoặc là thấy trong hư không có Phật,
có Bồ Tát đến nghênh tiếp. Ở đây là nói về
duyên. Trước duyên phải có nhân. Bản thân chúng ta trong
lúc b́nh thời, ắt phải nắm vững cái nhân văng
sanh, chiếu theo cái nhân ấy để nỗ lực tu
tŕ, tới khi mạng chung mới có sự cảm ứng
như vậy.
2) Điều
thứ hai chúng ta cần phải chú ư là “tùy thuận tam thế chư Phật giáo cố”
(do tùy thuận giáo huấn của ba đời chư Phật).
Tùy thuận sự dạy bảo của ai? Tùy thuận sự
dạy bảo của chư Phật trong ba đời. Sự
giáo hóa ấy là nói tới sự tương ứng giữa
kinh văn trong phần trước và phần sau, tức là
thọ tŕ các thứ giới. Giới đều do đức
Phật chế định, mà cũng là pháp do đức Phật
đă dạy. Bất luận quá khứ chư Phật, hiện
tại Phật, hay vị lai chư Phật, hễ các Ngài
muốn hóa độ chúng sanh, đều dạy chúng sanh phải
tŕ giới. Bất luận vị Phật nào cũng đều
là như thế. Điều quan trọng nhất của
người học Phật chúng ta là tùy thuận. Dựa
vào đâu để tùy thuận? Chính là tin tưởng, tin Phật,
tin lời dạy của Phật, tin Phật pháp, tin tưởng
Tam Vô Lậu Học như đức Phật đă dạy.
Tam Vô Lậu Học là do đức Phật dạy. Tin tưởng
Tam Vô Lậu Học, chiếu theo lời đức Phật
đă dạy để làm, sẽ nhất định có thể
đắc đạo, nhất định là có thể liễu
sanh tử thành Phật. Ắt phải có ḷng tin ấy. Có thể
tin như vậy, tự nhiên là chúng ta sẽ tùy thuận. Do
vậy, đối với người học Phật chúng
ta, quan trọng nhất là chính ḿnh có thể hạ quyết
tâm, mong giải quyết vấn đề sanh tử. Phải
liễu sanh tử. Nếu chẳng quan tâm đến chuyện
liễu sanh tử, chúng ta học Phật để làm ǵ? Gạt
đại vấn đề sanh tử sang một bên, tức
là chẳng nắm được vấn đề căn
bản! Mục tiêu cuối cùng là thành Phật. Một đằng
là liễu sanh tử, một đằng là thành Phật. Nếu
chẳng chú trọng hai vấn đề căn bản quan
trọng ấy, học Phật kiểu nào đây? Nắm
chắc hai vấn đề ấy, tin tưởng chỉ
có phương pháp do đức Phật đă dạy là sẽ
có thể đạt tới mục tiêu ấy. Chúng ta triệt
để tin Phật, tự nhiên là hết thảy đều
tùy thuận sự giáo hóa của Phật. Trong kinh, đức
Phật dạy chúng ta làm như thế nào, chúng ta làm đúng
như thế ấy, nhất định là sẽ có thể
đạt được điều tốt đẹp, đạt
được lợi ích. Nếu chẳng làm như vậy,
ngoài mặt là học Phật, nhưng việc làm trái nghịch
Phật pháp, vô dụng! V́ thế, “tùy thuận” bao hàm sự tín ngưỡng rất
sâu đối với Phật pháp. Đă có sự tín ngưỡng
như vậy, tự nhiên là hết thảy sẽ thuận
theo Phật pháp để tu tŕ. Do vậy, người tu
hành ấy khi lâm chung sẽ cảm ứng Phật đến
nghênh tiếp. Có nhân, có duyên, nhân và duyên đều chín muồi.
Dưới đây là đoạn thứ ba:
(Kinh)
Hành giả tự kiến tọa liên hoa thượng, liên
hoa tức hợp, sanh ư Tây Phương Cực Lạc
thế giới.
(經)行者自見坐蓮華上,蓮華即合,生於西方極樂世界。
(Kinh: Hành giả
tự thấy ngồi trên hoa sen, hoa sen bèn khép lại, sanh
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới).
Trong
đoạn trước, người văng sanh nghe trong hư
không có tiếng tán thán. Sau khi nghe xong, đức Phật
nói: “Ta đến nghênh tiếp
ông”. Đoạn này nói người văng sanh tự thấy
chính ḿnh ngồi trên hoa sen bảy báu. “Hành giả tự kiến tọa liên hoa thượng”
(Hành giả tự thấy ngồi trên hoa sen), hoa sen bảy
báu do đức Phật cầm đến. Ngồi trên hoa
sen, “liên hoa tức hợp”, hoa
sen ngay lập tức khép lại. Đă khép lại, bèn “sanh ư Tây Phương Cực
Lạc thế giới”, do đức Phật cầm
theo đóa sen đă khép lại ấy, ngay lập tức,
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đoạn
này chứng thực t́nh huống văng sanh. Đối với
mấy câu này, chúng ta hăy ngẫm xem: Kẻ b́nh phàm khi thọ
mạng chấm dứt, khi chết sẽ đau khổ lắm!
Vị hành giả này rất tự nhiên, chính ḿnh bước
lên hoa sen, ngồi trên hoa sen, hoa sen khép lại bèn sanh vào thế
giới Cực Lạc. Do những nhân duyên trên đây đă
đầy đủ, người khác thấy [hành giả]
dường như đă mạng chung, nhưng chính người
ấy th́ hết sức tự nhiên, lập tức sanh vào thế
giới Cực Lạc. Đoạn dưới đây nói về
những lợi ích sẽ đạt được khi sanh
về thế giới Cực Lạc. Tôi đọc trước
kinh văn:
(Kinh)
Tại bảo tŕ trung, kinh ư thất nhật, liên hoa năi
phu. Hoa kư phu dĩ, khai mục, hiệp chưởng, tán thán
Thế Tôn, văn pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn, kinh
bán kiếp dĩ, thành A La Hán.
(經)在寶池中,經於七日,蓮華乃敷。華既敷已,開目合掌,讚歎世尊。聞法歡喜,得須陀洹。經半劫已,成阿羅漢。
(Kinh: Ở
trong ao bảy báu, trải qua bảy ngày, hoa sen mới nở.
Hoa đă nở rồi, mở mắt, chắp tay, tán thán Thế
Tôn. Nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu Đà Hoàn. Trải qua nửa
kiếp, thành A La Hán).
“Tại bảo tŕ trung, kinh ư
thất nhật, liên hoa năi phu” (Ở trong ao báu, trải
qua bảy ngày, hoa sen mới nở). Sanh về ao sen bảy
báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới; ở
đó, trải qua bảy ngày, hoa sen sẽ nở. “Hoa kư phu dĩ, khai mục, hiệp
chưởng” (Hoa đă nở, mở mắt, chắp
tay): Sau khi hoa sen đă nở, người văng sanh mở mắt,
đồng thời chắp tay. “Tán
thán Thế Tôn. văn pháp hoan hỷ”: Ở đây, chữ
Thế Tôn chỉ A Di Đà Phật. [Hành nhân] liền tán
thán A Di Đà Phật. Đồng thời, khi tán thán A Di
Đà Phật bèn nghe pháp. Trong kinh A Di Đà cũng có nói các
thứ pháp, phần trước của Quán Kinh cũng nói
đến chuyện nghe các loại pháp. Ở trong thế
giới Cực Lạc, nghe những pháp mầu nhiệm ấy;
sau đó, tâm sanh đại hoan hỷ. Ở trong thế
gian này, chúng ta nghe Phật pháp cũng phát tâm hoan hỷ, nhưng
cái tâm hoan hỷ ấy vẫn chưa đạt đến
mức độ thật sự hoan hỷ! Thật sự
văng sanh thế giới Cực Lạc, ở trong thế giới
Cực Lạc, sau khi nghe diệu pháp, sự hoan hỷ ấy
chẳng phải là sự hoan hỷ của kẻ b́nh phàm có
thể sánh bằng! V́ sao chẳng sánh bằng? Chúng ta đạt
được sự hoan hỷ th́ sau một chặp hoan hỷ,
vẫn là phàm phu! Gặp phải kẻ khác vô cớ chửi
bới chúng ta, trong tâm chúng ta vẫn bực bội. Nếu
tu dưỡng chẳng tốt đẹp, người ta
chửi chúng ta, chúng ta liền chửi lại kẻ đó!
Hơi có đôi chút tu dưỡng, có thể cảnh giác, nhắc
nhở chính ḿnh: “Ta là kẻ tu đạo, ta là người
niệm Phật, phải nhường!” “Nhường” là
nhường nhịn bề ngoài, chứ trong tâm vẫn khó
chịu, đấy là phàm phu! Đă sanh về thế giới
Cực Lạc, nghe pháp hoan hỷ, vừa hoan hỷ bèn “đắc Tu Đà Hoàn”, chứng
Sơ Quả, tức Tiểu Thừa Sơ Quả, đoạn
Kiến Hoặc. Một lượt đoạn trừ Kiến
Hoặc th́ mới chứng Sơ Quả. Hăy ngẫm xem, sự
hoan hỷ ấy chẳng giống với sự hoan hỷ
của chúng ta!
Tu Đà Hoàn (Srotāpanna)
là phiên âm tiếng Ấn Độ, dịch sang
nghĩa tiếng Hán: Tu (Sro) là “vô
lậu” (vô lậu tương phản với hữu lậu. Bất
cứ pháp nào trong thế gian cũng đều là pháp hữu
lậu). Đà Hoàn (Tāpanna) là “tu tập”.
Tu Đà Hoàn là “tu tập vô lậu”. Vị trí của từ
ngữ trong tiếng ngoại quốc và tiếng Hán thường
là trước sau khác biệt. Ư nghĩa theo tiếng Hán là “tu tập sự vô lậu”, [tức
là] học Vô Lậu Học. Tu Đà Hoàn là chứng Sơ Quả,
tức là tu pháp vô lậu. Đó là giải thích danh từ.
Nói đến
ư nghĩa, Tu Đà Hoàn là Nhập Lưu hoặc Dự Lưu.
Nhập Lưu là ǵ? Nhập (入) là gia nhập, gia nhập
[hàng ngũ] thánh nhân, [dự vào] ḍng thánh đạo. Nghịch
lưu: Nghịch (逆) là tương phản, trái nghịch.
Lưu (流) là ḍng
sanh tử. Khi chứng đắc Tiểu Thừa Sơ Quả,
đă dự vào ḍng thánh nhân, [đă gia nhập] thánh đạo,
dần dần thoát ly sanh tử lưu chuyển, gọi là “nghịch sanh tử lưu” (ngược
ḍng sanh tử). Do có những ư nghĩa ấy, nên gọi là Tu
Đà Hoàn. Trong thế giới Sa Bà, nhất là trong thời
đại hiện tại, người tu đạo chúng
ta thấy các hiện tượng trong thế gian, chẳng
có chỗ nào không khiến cho chúng ta thoái chuyển tín tâm. Tới
khi nào mới có thể đạt đến Tu Đà Hoàn? Xa
xôi lắm! Người ấy sau khi văng sanh, vừa nghe pháp
bèn đắc Sơ Quả.
Sau
khi đắc Sơ Quả, “kinh
bán kiếp dĩ, thành A La Hán”: Trải qua thời gian nửa
kiếp, chứng đắc A La Hán. Điều này lại
khác với Trung Phẩm Thượng Sanh. Trung Phẩm
Thượng Sanh là hoa sen nở ngay, c̣n Trung Phẩm Trung
Sanh là trải qua bảy ngày, hoa sen mới nở. Trung Phẩm
Thượng Sanh vừa nghe pháp Tứ Đế, ngay lập
tức đắc A La Hán đạo. Trung Phẩm Trung Sanh
trải qua nửa kiếp mới chứng A La Hán, tức
quả thứ tư của Tiểu Thừa.
Trong
thế giới Cực Lạc toàn là Đại Thừa Bồ
Tát, v́ sao gọi là A La Hán? V́ người ấy trong đời
trước đă tu giới luật Tiểu Thừa; do vậy,
trước hết người ấy thành A La Hán. Hoàn toàn
chẳng phải là chúng ta học pháp Đại Thừa, sẽ
chẳng cần thành A La Hán! A La Hán là v́ đoạn Kiến
Hoặc, đoạn Tư Hoặc. Đoạn sạch Tư
Hoặc th́ là A La Hán. Chúng ta học Đại Thừa Phật
pháp, mà nếu chẳng đoạn sạch Tư Hoặc
th́ cũng không được! Bất quá học pháp Đại
Thừa, trong thế gian này, chúng ta chẳng đoạn sạch
Tư Hoặc, sẽ lại tiếp tục trở vào sanh
tử, so với việc hành Bồ Tát đạo hơi
khác. Người ấy đến thế giới Cực Lạc,
trước hết là đoạn sạch Tư Hoặc,
trên thực tế, người ấy đă hồi Tiểu
hướng Đại, đă là Đại Thừa Bồ
Tát. Bất quá, [xét theo] công phu tu hành, trước hết là
đoạn Kiến Tư Hoặc, sẽ thành A La Hán.
(Kinh)
Thị danh Trung Phẩm Trung Sanh giả.
(經)是名中品中生者。
(Kinh:
Đó gọi là Trung Phẩm Trung Sanh).
Đây
là kết luận cuối cùng, những điều trên
đây nói về chuyện văng sanh và lợi ích đạt
được sau khi văng sanh, được gọi là phẩm
vị Trung Phẩm Trung Sanh. Lần sau tôi sẽ nói về Hạ
Phẩm.
Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư
Phần
9 hết