Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần
2
觀無量壽佛經疏鈔演義
Chủ
giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Thời
gian: Khởi giảng từ ngày 01 tháng 12 năm 1990
Địa
điểm: Hoa Tạng Đồ Thư Quán, huyện Cảnh
Mỹ, Đài Loan
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập
5
Xin mở kinh bổn, trang ba
mươi, ḍng thứ tư từ dưới đếm
lên:
“Nhị
Danh Tự Tức, thử chí Cứu Cánh, giai Tu Đức
dă, tu luận tổn ích, cập dĩ cao hạ. Thử
vị thị Tu Đức chi thỉ” (Hai là Danh Tự
Tức. Từ địa vị này cho đến Cứu Cánh
Tức Phật đều thuộc về Tu Đức, cần
phải luận định về sự tổn, ích, và cao
thấp. Địa vị này là khởi đầu của Tu
Đức). Đoạn trước nói về Lư [Tức
Phật] trong Lục Tức Phật, chúng ta đă hiểu rơ
đạo lư ấy. Nói thật ra, đạo lư là chân
tướng sự thật: Mỗi người vốn sẵn
trọn đủ trí huệ và đức tướng
của Như Lai. Nói cách khác, chúng ta vốn sẵn có vô
lượng trí huệ, vô lượng đức năng,
vô lượng tài nghệ, vô lượng phước báo.
Vốn sẵn có, nhưng hiện tại chẳng có, chúng đi
đâu mất rồi? Đức Phật dạy: Chúng
vốn sẵn có, trọn chẳng mất đi, vẫn ở
trên thân chính ḿnh, nơi nhục thân này của chúng ta
thảy đều trọn đủ. Trọn đủ,
nhưng chẳng thể hiện tiền, chẳng thể
thọ dụng được. Điều này được
gọi là “mê mất chính ḿnh”.
Giống như trong nhà chúng ta có kho báu, nhưng chính ḿnh quên bẵng,
oan uổng chịu khổ báo nghèo túng! Đức Phật
xuất hiện trên thế gian, nhằm mục đích
dạy cho chúng ta biết: Những ǵ bản thân chúng ta
vốn sẵn có chẳng khác ǵ chư Phật Như Lai!
Chúng ta đọc kinh Vô Lượng
Thọ, đọc kinh A Di Đà, biết sự phú quư, trí
huệ, và sự tự tại của A Di Đà Phật,
chúng ta đọc xong, rất hâm mộ, nhưng không biết
chính ḿnh và A Di Đà Phật chẳng khác ǵ nhau! Trí huệ
và đức năng của A Di Đà Phật khởi tác dụng,
[những tác dụng ấy] đều được Ngài vận
dụng trong cuộc sống, c̣n trí huệ, đức
năng và phước báo của chúng ta giấu kín trong nhà,
chẳng lấy ra, vấn đề ở ngay chỗ này! Hiện
thời phải làm như thế nào để hiển lộ
trí huệ và đức năng vốn có trong bản tánh ḥng
khởi tác dụng giống như chư Phật Như Lai?
Cần phải cậy vào tu, cần phải nhờ vào Tu
Đức. Đối với Tu Đức, chúng ta sanh khởi
tín tâm toàn vẹn, tín tâm được kiến lập từ
chỗ nào? Kiến lập từ Lư. Giống như trong Khởi
Tín Luận đă nói: “Bổn
Giác vốn có”. Ngài Thiên Thai nói Lục Tức Phật th́ chúng
ta vốn sẵn có Lư Tức Phật. Lư là Chân Như bản
tánh, hết thảy chúng sanh ai nấy đều trọn
đủ, nên hết thảy chúng sanh đều có Phật
Tánh. Dựa trên Lư ấy, chúng ta sanh khởi tín tâm trọn vẹn
đối với Tu Đức. Hôm nay, tôi nói về Danh Tự
Tức Phật; đây chính là bắt đầu tu hành, bắt
đầu có tổn và có ích. Nói theo cách hiện thời,
điều đó có nghĩa là công phu tu hành của chúng ta có
tiến, có thoái. Tiến, thoái là một hiện tượng
rất b́nh thường, đừng nên trong lúc lùi sụt
mà tự ḿnh chán nản, nguội lạnh tấm ḷng,
đánh mất tín tâm. Có tiến, có thoái, chúng ta phải biết
tiến thoái là một hiện tượng b́nh thường.
Chúng ta đọc phần chánh văn của Ngài nơi ḍng
thứ hai trong trang ba mươi mốt.
“Như
tư chi lư, Phật nhược bất thuyết, vô
năng tri giả” (nếu đức Phật chẳng
nói Lư như vậy, không ai có thể biết). Câu này nhằm
chuyển tiếp [ư nghĩa] từ đoạn Lư Tức Phật
trong phần trước, Lư ấy là chân lư. Nếu đức
Phật chẳng giảng rơ ràng, minh bạch, làm sao chúng ta
có thể biết được? Đức Phật xuất
hiện trên thế gian, ân đức lớn nhất đối
với chúng ta là đă dạy cho chúng ta biết chân tướng
sự thật. Tiếp đó, Ngài trích dẫn kinh Pháp Hoa: “Pháp Hoa vân, nhất bách bát thập
kiếp, không quá vô hữu Phật. Thế Tôn vị xuất
thời, thập phương thường ám minh” (Kinh
Pháp Hoa nói: “Một trăm tám mươi kiếp, luống
qua chẳng có Phật, Thế Tôn chưa xuất thế,
mười phương thường tối tăm”).
Đây là nói về lúc thế gian chưa có Phật xuất
hiện, chúng ta vĩnh viễn chẳng hiểu rơ chân
tướng của vũ trụ và nhân sinh. Trong thế gian
tuy có rất nhiều khoa học gia, triết học gia, tôn
giáo gia, kể ra họ cũng rất giỏi giang, giải
thích vũ trụ và nhân sinh đủ mọi lẽ; nhưng
rất nhiều cách giải thích chẳng viên măn, mà cũng
chẳng rốt ráo. Nói theo Phật pháp th́ là “kẻ mù sờ voi”. Ṃ trúng cái đùi, [hỏi họ]
voi giống như ǵ? [Họ quả quyết]
voi giống hệt như cây cột. Ṃ nhằm cái tai, [quả
quyết] voi giống như thế nào? [Họ quả quyết]
voi giống như chiếc quạt. Đó là cách giải
thích vũ trụ và nhân sinh của các khoa học gia, triết
học gia, tôn giáo gia xưa nay, trong ngoài nước
trên cả thế giới. Có thể nói đều là lụn
vụn, chẳng phải là toàn thể, tuyệt đối
chẳng phải là chân tướng sự thật!
Nếu
nói là “kẻ mù sờ voi” th́
thưa cùng quư vị, coi như hăy c̣n ṃ trúng, kể ra vẫn
c̣n khá lắm, tuy chưa thấy toàn thể, nhưng đă
thấy một phần. Thật ra, ngay cả “kẻ mù sờ voi” vẫn c̣n
chưa bằng, v́ sao? Ṃ nhằm tảng đá, ngỡ là con
voi to, chẳng phải là lầm lẫn quá đỗi to lớn
ư? Thật đấy, xác thực là như thế! Dùng
tri kiến của phàm phu để suy đoán chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh, chắc chắn chẳng thể
thấu đạt! V́ vậy, nếu đức Phật chẳng
xuất thế, đích xác là chúng ta vĩnh viễn ở
trong thời đại tối tăm! Hiện thời, thế
giới hỗn loạn dường ấy, có phương
pháp nào khiến cho thế giới khôi phục trật tự
b́nh thường hay chăng? Nh́n vào hiện tượng trước
mắt, thế giới này khổ nạn tối thiểu phải
là ba mươi, hoặc năm mươi năm, và c̣n có khổ
nạn to lớn, v́ sao? Không trải qua cơn khổ nạn
rất lớn, con người sẽ chẳng thể lắng
ḷng nghiêm túc phản tỉnh. V́ thế, c̣n phải bị
đả kích to lớn, nặng nề, họ mới nghiêm
túc phản tỉnh một phen. Sau khi thật sự phản
tỉnh, nếu chẳng đọc sách của Khổng lăo
phu tử, chẳng học Đại Thừa Phật pháp,
thế giới này chẳng có cuộc sống an ninh, chẳng
thể nào khôi phục trật tự b́nh thường. Trật
tự b́nh thường là ǵ? Là Ngũ Luân, Thập Nghĩa
như Khổng lăo phu tử đă dạy. Cách nói này, nói thật
thà là bất cứ quốc gia hay dân tộc nào trên cả thế
giới đều có thể tiếp nhận, đều hoan
hỷ tiếp nhận, đáng tiếc là chẳng ai nói với
họ, nên họ không biết.
Phật
pháp càng triệt để, càng rốt ráo, càng viên măn
hơn, đáng tiếc là họ suốt đời chẳng
được nghe nói đến. Đại Thừa Phật
pháp, đặc biệt là kinh Vô Lượng Thọ, có thể
nói kinh Vô Lượng Thọ là tinh hoa và là đại biểu
của Đại Thừa Phật pháp. Tôi thật sự chẳng
ngờ, trong hai ba năm mà [kinh ấy] có thể phổ cập
như vậy tại Đài Loan, đó là một hiện
tượng tốt đẹp. Nh́n từ điều này,
có rất nhiều kẻ tiên đoán Đài Loan là đảo
báu, là phước địa, chúng tôi tin tưởng! Nh́n
vào hiện tượng, Đài Loan chẳng giống một
nơi phước địa, chẳng giống một
đảo báu, nhưng hiện thời trông thấy mọi
người nghiêm túc đọc kinh, tu hành như vậy,
đó là khởi đầu của một hiện tượng
tốt đẹp. Nói cách khác, mọi người đă biết
căn bệnh, đă biết chính ḿnh đang mắc bệnh,
phải dùng thuốc ǵ để trị. Hiện thời,
toa thuốc cũng đă t́m được rồi. Tuy
đă t́m được toa thuốc, nhưng c̣n chưa uống
thuốc. Chưa uống thuốc, bệnh vẫn chẳng
thể lành. Đă t́m được toa thuốc, phải
chiếu theo toa thuốc để uống th́ mới có thể
đối trị. Có được toa thuốc ấy chẳng
dễ dàng! Sau khi đă có th́ phải nghĩ cách đối trị,
nhưng để đối trị, lấy thuốc ra,
chúng ta c̣n phải sắc thuốc, c̣n phải cô đặc
thuốc đă sắc, vẫn phải mất một khoảng
thời gian, chẳng thể uống thuốc ngay được,
đó chưa phải là thuốc đă chế thành.
V́ lẽ
đó, tôi dạy các đồng tu, trước hết phải
niệm kinh cho nhuần, phải niệm thuộc, phải
thật sự thuộc nằm ḷng. Thuộc ḷng là ǵ? Là sắc
thuốc, là cô đặc thuốc, nhưng c̣n chưa uống
thuốc. Đừng nghĩ ta đă niệm nhiều lượt
ngần ấy, rất khá! Quư vị c̣n chưa uống thuốc,
bất quá là đă sắc thuốc, cô thuốc. Đă sắc,
đă cô khá lắm, đă sắc, đă cô đặc xong
xuôi; uống vào th́ mới có thể trị lành bệnh, chứ
sắc và cô thuốc chẳng trị được bệnh!
Bệnh là ǵ? Là vọng tưởng, chấp trước,
phiền năo, những thứ ấy. Đến khi nào mới
bắt đầu chữa bệnh? Sau khi quư vị đă sắc
thuốc xong, bèn có thể uống vào, có thể chữa bệnh.
V́ vậy, sau khi học thuộc ḷng, bèn thật tu, tức
là mới bắt đầu thật sự tu hành. Niệm
kinh này từ đầu đến cuối một lượt,
chẳng có vọng niệm nào, đó là chữa bệnh. Nếu
trong khi niệm kinh này một lượt mà dấy lên vọng
tưởng, chẳng tính! Lại niệm từ đầu.
Phải niệm sao cho kinh này niệm từ đầu đến
cuối chẳng khởi một vọng niệm, đó gọi
là “uống thuốc”, là “chữa bệnh”. Sau đó, mỗi
ngày niệm năm lần, hoặc niệm mười lần
đều chẳng khởi một vọng tưởng nào.
Niệm như vậy hai ba năm, xác thực là vô minh và chấp
trước của quư vị sẽ dần dần thật
sự giảm thiểu, công phu đă đắc lực.
Đến khi đó, có thể chẳng niệm kinh, một
câu Phật hiệu là được rồi, một câu Phật
hiệu có thể tương ứng với Phật. Một
niệm tương ứng một niệm Phật, niệm
niệm tương ứng niệm niệm Phật. V́ sao nay
chúng ta niệm Phật chẳng tương ứng? Do vô
minh phiền năo quá nặng, chướng ngại công đức
niệm Phật, nên niệm Phật chẳng có hiệu quả.
Nay chúng ta dùng phương pháp đọc kinh, bắt đầu
đoạn phiền năo. Dùng phương pháp này để
phá Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng, tiêu Nhị
Chướng là tiêu trừ những thứ ấy, công phu mới
có thể đắc lực. Người cao tuổi niệm
kinh khó khăn, khó niệm thuộc ḷng, nhưng cũng có thể
dùng phương pháp sau đây: Chuyên tâm chấp tŕ danh hiệu
là được rồi, sẽ có thành tựu giống hệt.
Phải giảm thiểu ưu lự, vướng mắc,
phải buông xuống, sẽ có thể niệm đến mức
đắc Niệm Phật tam-muội giống y hệt [như
niệm kinh]; nhưng người trẻ tuổi th́ vẫn
phải đặt vững căn cơ nơi cơ sở.
Con đường này hết sức ổn thỏa, thích
đáng, ngàn muôn phần chớ nên xem nhẹ!
Danh Tự Tức
Phật chỉ là biết chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh, biết như thế nào? Chưa bắt đầu
làm; nhưng đă biết th́ sẽ khởi sự tu hành. Nếu
không biết, dẫu có muốn tu cũng chẳng biết bắt
đầu tu từ chỗ nào! Sau khi đă biết, bèn biết
chúng ta tu từ chỗ nào. Chúng ta hăy đọc đoạn
văn này một lượt. Tiếp đó, Ngài trích dẫn
một đoạn từ kinh Niết Bàn. “Niết Bàn vân, ư vô lượng thế, diệc bất
văn hữu Như Lai xuất thế, Đại Thừa
kinh danh” (Kinh Niết Bàn dạy: “Trong vô lượng
đời vẫn chẳng được nghe chuyện
Như Lai xuất thế và tên gọi của kinh Đại
Thừa”). Đó là khi chẳng có Phật, chẳng biết danh
hiệu Phật, mà cũng chẳng biết danh xưng của
kinh điển. Danh xưng của kinh điển Đại
Thừa chưa biết, c̣n nói chi kinh văn và kinh nghĩa,
đương nhiên càng không biết. “Nhược Phật xuất thế, phương
năng xiển trí huệ nhật, thức Tam Bảo chi
quang minh, khai cam lộ môn, tri thập hiệu chi diệu vị,
nhân thuyết sanh giải, ư bảo thích duyệt” (Nếu
Phật xuất hiện trong thế gian th́ mặt trời
trí huệ mới được xiển dương, [chúng
sanh] biết đến quang minh của Tam Bảo, mở cửa
cam lộ, biết vị nhiệm mầu của mười
hiệu. Do thuyết pháp mà sanh hiểu biết, sanh ḷng vui
thích, coi như của báu). Đức Phật xuất hiện
trên thế gian, v́ chúng ta giảng kinh, thuyết pháp, chúng ta
mới biết chân tướng của vũ trụ và nhân
sinh, mới biết chính ḿnh có Phật Tánh, mới biết
chính ḿnh có vô lượng trí huệ và đức năng.
Chư Phật Như Lai đều có mười thông hiệu
(hiệu chung), mười thông hiệu ấy hiển thị
các đức năng vốn sẵn có trong bản tánh. Phật
có, mỗi người chúng ta đều có, chỉ là Phật
thọ dụng, nhưng chúng ta chẳng thể thọ dụng.
Tuy chẳng thể thọ dụng, nhưng nghe nói chính ḿnh
cũng có, nên vô cùng hoan hỷ. Đó gọi là Danh Tự Tức
Phật. Có thể nói: Danh Tự Tức Phật rất phổ
biến! Phàm là người tu học Đại Thừa Phật
pháp đều thuộc địa vị này. Lúc mới tu,
giống như chúng ta nay đang thuộc địa vị
này, nay chúng ta được gọi là Danh Tự Tức Phật,
tức là biết được một chút đạo lư
Phật pháp, nhưng đă bắt đầu tu hay chưa?
Chưa! Vẫn chưa tu! Chỉ là biết có chuyện
như thế.
Đoạn
tiếp theo là bắt đầu tu. Đoạn dưới
đây là Quán Hạnh Tức, chúng ta đọc phần thứ
ba, tức là ḍng thứ tư đếm từ dưới
lên nơi trang ba mươi hai. “Tam
Quán Hạnh Tức, thử trung Quán pháp, trực quán tâm tánh,
cố thác tha Phật, nhi vi sở duyên. Kim minh đối trần,
tức thành quán Phật, kỳ trung niệm niệm giác tri
chi tâm, danh Quán Hạnh Phật” (Ba là Quán Hạnh Tức.
Trong pháp Quán này, quán thẳng vào tâm tánh, nên nhờ vào một
đức Phật để làm cái được duyên (đối
tượng của sự quán tưởng). Nay nói rơ: Đối
trước trần liền trở thành quán Phật. Cái tâm
niệm niệm giác tri trong khi ấy được gọi
là Quán Hạnh Phật). Đoạn này giải thích ư
nghĩa được bao hàm trong ba chữ Quán Hạnh Phật.
Quán Hạnh mới là thật sự tu. Quán (觀) là quán chiếu (觀照), như tôi vừa
mới thưa cùng quư vị: Dùng phương pháp niệm kinh
để quán chiếu. Niệm trọn một bộ kinh mà
chẳng có một vọng niệm nào, th́ mới gọi là Quán
Hạnh, mới thật sự được gọi là Quán
Hạnh. Có thể thấy: Nay chúng ta niệm kinh đă mấy
ngàn lượt, nhưng trong ấy c̣n có vọng tưởng
th́ vẫn chẳng thể coi là thật sự dụng công,
vẫn thuộc vào Danh Tự Tức, thuộc vào giai đoạn
thứ nhất. Giai đoạn thứ hai là đă thật
sự dụng công. Dụng công là phải thật sự đoạn
phiền năo, phải thật sự phá vô minh. Thật sự
vận dụng công phu th́ mới gọi là Quán Hạnh. Quán
Hạnh là công phu đắc lực. Nói theo Tịnh Độ,
Quán Hạnh Tức chính là công phu thành phiến. Có công phu như
vậy th́ mới có thể văng sanh cơi Phàm Thánh Đồng
Cư trong thế giới Tây Phương. Do đó, chớ
nên xem nhẹ nó, công phu ấy tuy là vừa mới đắc
lực, nhưng trong pháp môn Tịnh Độ, nó khởi
tác dụng rất lớn. Trong các pháp môn khác th́ chưa được,
v́ sao? Không thoát khỏi tam giới, sẽ chẳng thể
liễu sanh tử, thoát tam giới. Để liễu sanh tử
thoát tam giới [trong các pháp môn khác], phải thuộc vào giai
đoạn kế tiếp là Tương Tự Tức Phật
th́ mới được. Trong Tịnh Độ Tông, Tương
Tự Tức Phật là Sự nhất tâm bất loạn, văng
sanh cơi Phương Tiện Hữu Dư của Tây
Phương Tịnh Độ, chẳng phải là cơi Phàm
Thánh Đồng Cư. Điều ấy chẳng dễ
thành tựu cho lắm, c̣n điều này dễ thành tựu.
Quán Hạnh thành tựu dễ dàng, chúng ta phải đặc
biệt lưu ư chuyện này.
Trong
quán pháp Quán Hạnh này, Quán là tu hành. Kinh này có mười sáu
phép Quán, tức là mười sáu loại phương pháp
để chúng ta tu tập. Mười sáu phương pháp ấy
đúng là có khó và dễ, trong kinh đă giảng rất rơ ràng.
Mười sáu phương pháp ấy, chỉ cần quư vị
thành tựu một thứ là được, chẳng phải
là cả mười sáu pháp đều phải thành tựu,
chẳng phải vậy! Thành tựu một thứ là
được rồi, đă có thể vượt thoát tam
giới, văng sanh Tịnh Độ. Trong mười sáu loại,
khó nhất là quán Phật. Tựa đề kinh này là Quán Vô
Lượng Thọ Phật; nói thật thà, quán Vô Lượng Thọ Phật
là khó nhất. Chẳng cần nói là quán Phật, chúng ta muốn
tưởng một người, Quán là quán tưởng, nghĩ
tưởng một người [nào đó]: Tưởng vẻ
mặt, ánh mắt, lông mi, mũi của người ấy,
phải tưởng người ấy đang ở
trước mặt chúng ta, chẳng dễ dàng! Vẻ mặt
đức Phật phi phàm, đức Phật có vô lượng
tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, chúng
ta tưởng từ chỗ nào? V́ vậy, trong mười
sáu phép Quán, quán Phật tướng là khó nhất. Cũng có
[phép Quán] dễ dàng nhất, dễ dàng nhất là ǵ? Là niệm
A Di Đà Phật, đó là chấp tŕ danh hiệu. Chấp
tŕ danh hiệu thuộc trong mười sáu phép Quán, là một
loại trong mười sáu phép Quán, dễ dàng nhất. Khó
nhất là quán Phật, dễ dàng nhất là niệm danh hiệu
Phật. V́ thế, quư vị thấy kinh Vô Lượng Thọ
và kinh A Di Đà đều cùng đề xướng chấp
tŕ danh hiệu.
Chư
vị phải biết: Chấp tŕ danh hiệu là một
trong mười sáu phép Quán. Chúng ta niệm một câu A Di
Đà Phật là tu Quán Hạnh. Quư vị quán Vô Lượng
Thọ Phật, quán Nhật Quán hay Thủy Quán cũng là Quán
Hạnh. V́ vậy, Quán Hạnh bao gồm mười sáu loại,
chúng ta chọn lấy một loại là được rồi.
Trên thực tế, chư Phật, Bồ Tát, tổ sư
đại đức, đối với mười sáu loại
Quán Hạnh này, đă chọn ổn thỏa giùm chúng ta pháp
Tŕ Danh Niệm Phật. Nếu chúng ta thật sự có thể
tuân thủ sự chọn lựa do Phật, Bồ Tát dành
cho chúng ta, chắc chắn chẳng phạm sai lầm!
Phương
pháp của Ngài là phía trước thêm chữ Quán, sau chữ
Quán là chữ Pháp, tức Quán Pháp. “Pháp” là nói tới phương pháp. Phương
pháp rất xảo diệu là “thác
tha Phật, nhi vi sở duyên” (nhờ vào đức Phật
khác để làm cái được duyên). “Tha Phật” là ǵ? Chúng ta tạo một bức
tượng Phật, tượng A Di Đà Phật, đó
là Tha Phật. Từ Tha Phật dẫn khởi Tự Phật,
niệm Phật th́ phải niệm theo cách ấy. Nhờ
vào Tây Phương A Di Đà Phật để niệm cho
ra Tự Tánh A Di Đà của chúng ta. Sau khi đă niệm ra
th́ Tự và Tha bất nhị, bèn thành công. Nguyên lư trong
phương pháp tu hành được kiến lập từ
chỗ này; trong ấy chẳng có mê tín, xác thực là có
căn cứ lư luận. Do đó, chúng ta thường ngắm
tượng Phật, thường niệm danh hiệu Phật,
niệm danh hiệu Phật vẫn chưa đủ để
hàng phục vọng niệm. Kinh Kim Cang chép: “Vân hà hàng phục kỳ tâm?” (hàng phục cái tâm
như thế nào?), cái tâm ấy là vọng niệm. Niệm
Phật hiệu mà vẫn chưa thể hàng phục vọng
niệm th́ có thể thêm vào quán tưởng. Quán tưởng
là quán ǵ? Nghĩ tới tượng Phật. Nghĩ tới
tượng Phật, các vị đồng tu phải ghi nhớ,
tốt nhất là tưởng một bức tượng Phật,
sẽ dễ nhiếp tâm. Tưởng rất nhiều h́nh
tượng Phật, sẽ chẳng có cách nào nhiếp tâm.
Nói cách khác, chẳng thể khống chế vọng tưởng!
Suốt một đời, tâm tưởng một tượng
Phật, đó là phương pháp tốt nhất. Chúng ta
ưa thích một bức tượng Phật nào th́ suốt
một đời ta thờ phượng bức tượng
Phật ấy.
Hiện
thời rất thuận tiện. Trước kia, mang theo một
bức tượng Phật rất khó. Thuở sinh tiền,
Tô Đông Pha đă vẽ một bức tranh Phật, vẽ
xong, bồi[1] [bức vẽ ấy]
thành một cuộn tranh. Ông ta đi đến đâu đều
mang theo, đến chỗ nào cũng đều treo lên
để [tu tập] Quán Tưởng Niệm Phật. Ông
ta tự nói: “Đây là Tây
Phương công cứ của ta”, chữ “Tây Phương công cứ” (西方公據) do Tô Đông Pha nói
ra; nhưng tập khí trong một đời của Tô
Đông Pha quá nặng, chẳng thể văng sanh. Tuy niệm
Phật suốt đời, ông ta vẫn chẳng thể văng
sanh. Nguyên nhân khiến cho ông ta chẳng thể văng sanh là do
tập khí văn nhân, chuộng làm thơ, ưa soạn từ,
thích viết văn chương, thích làm những chuyện
đó, khiến cho sự nghiệp văng sanh Tây Phương của
chính ḿnh bị lỡ làng! V́ lẽ đó, khi tôi học Phật
ở Đài Trung, vừa mới thân cận thầy Lư, c̣n
chưa xuất gia, khi chưa xuất gia, thầy Lư đă cảnh
cáo tôi, v́ tôi cũng rất thích đọc sách, thầy liền
cảnh cáo: “Cổ nhân đừng
học Tô Đông Pha, người thời nay chớ học
theo Lương Khải Siêu”. Trong Phật pháp, hai người
ấy đều rất có tiếng tăm, nhưng đều
chẳng có thành tựu, do chẳng đoạn tập khí phiền
năo. Khi đó, thầy Lư đề nghị, thầy bảo:
“Tốt nhất là anh hăy học
theo pháp sư Ấn Quang”. V́ vậy, chúng ta học Phật
phải có tấm gương, phải có khuôn mẫu, ta phải
học theo các Ngài. Quư vị thấy Ngẫu Ích đại
sư noi gương Liên Tŕ đại sư, học theo tổ
Liên Tŕ. Do đó, cổ nhân khéo học, biết t́m một tấm
gương, học giống hệt như vị ấy. Nếu
chúng ta không muốn noi gương phàm nhân, A Di Đà Phật
là tấm gương tốt nhất. Cách học theo A Di
Đà Phật là như thế nào? Kinh Vô Lượng Thọ
do A Di Đà Phật giới thiệu. Quư vị chiếu
theo kinh Vô Lượng Thọ để y giáo phụng hành,
tức là trực tiếp học theo A Di Đà Phật.
V́ lẽ
đó, tôi khuyên các đồng tu: Khóa sáng niệm bốn
mươi tám nguyện. Niệm bốn mươi tám nguyện
là học theo A Di Đà Phật, đồng tâm, đồng
nguyện với A Di Đà Phật. Khóa tối niệm kinh
Vô Lượng Thọ từ chương ba mươi ba
đến chương ba mươi bảy, tuân thủ giáo
huấn của A Di Đà Phật, sửa đổi hành vi
sai lầm của bản thân chúng ta, khiến cho sự hành
tŕ của chúng ta giống như A Di Đà Phật. Đó là
trực tiếp học theo A Di Đà Phật, lấy A Di
Đà Phật làm gương tu hành cho chính ḿnh, đó là tốt
nhất. Do tượng Phật đúc chẳng dễ mang
theo, nhưng hiện thời kỹ thuật ấn loát rất
phát triển, ở đây, chúng ta có in rất nhiều h́nh Phật.
H́nh đức Phật này cũng có in, tượng ở
bên kia chúng tôi đă thờ mười năm, chúng tôi
cũng in h́nh tượng ấy. Tôi có ấn tượng hết
sức sâu đậm đối với tượng Phật
đó, nay tôi tự đem sang ngoại quốc, tức là
đem h́nh chụp, tôi cảm thấy h́nh chụp c̣n đẹp
hơn tượng thật. Do lẽ đó, thật sự
là lúc nào chúng ta cũng có thể đem theo [h́nh Phật] bên
người, thường ngắm nh́n bức tượng
Phật ấy, trong tương lai chúng ta văng sanh, A Di Đà
Phật đến tiếp dẫn, bèn hiện tướng
ấy. Phật chẳng có tướng, tùy duyên hiện tướng,
tâm chúng ta ưa thích tướng nào, đức Phật liền
hiện tướng ấy. Tôi suốt đời ngắm
tướng ấy, nghĩ đến tướng ấy, tương
lai A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, nhất
định hiện tướng ấy, chắc chắn chẳng
sai. Rất quen thuộc, mỗi ngày ngắm Ngài, ngắm bao
nhiêu năm, khi đức Phật thật sự hiện đến,
trước kia là ngắm ảnh chụp, nay người
thật hiện đến, nên đặc biệt thân thiết.
V́ vậy, chúng ta thờ tượng Phật đừng
nên tùy tiện thay đổi, chọn bức tượng
nào chính ḿnh ưa thích, suốt đời thờ phượng
bức tượng ấy, Quán Hạnh sẽ dễ dàng
đắc lực.
Chúng
ta xem phần chánh văn, ḍng cuối cùng nơi trang ba
mươi hai: “Quán Hạnh Phật
giả, quán Phật tướng hảo” (Quán Hạnh Phật
là quán tướng hảo của Phật), đó là thường
xuyên tưởng Phật. Chúng ta tưởng Phật sẽ
chẳng dấy vọng tưởng. Tâm phàm phu có thể
tưởng, nếu quư vị chẳng tưởng Phật,
sẽ suy nghĩ loạn cào cào. Tưởng những chuyện
khác sẽ tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo;
tưởng A Di Đà Phật là tạo tịnh nghiệp văng
sanh Tây Phương, quan hệ quá lớn! V́ thế, chúng ta chẳng
tưởng Phật th́ tưởng ai đây? Đối với
tượng Phật, câu tiếp theo ghi là “như chú kim tượng” (như tượng
đúc bằng vàng), “chú” là “chú tạo” (鑄造: đúc). Tượng
vàng: Vào thời cổ, tượng Phật đẹp
đẽ được làm theo lối “lưu kim” (鎏金: mạ vàng)[2], tức
là [tượng được đúc bằng] hợp kim, “hợp kim” là vàng, bạc,
đồng, sắt, thiếc ḥa lẫn, đúc thành tượng
Phật; sau khi đúc xong, mặt ngoài tượng lại
được thếp vàng. Nói thật ra, đối với
tượng như vậy, điều khẩn yếu là
chúng ta tu Quán Tưởng, tu Quán Tưởng th́ chẳng cần
thờ những tượng quư báu như vậy. V́ sao? Trong
xă hội xưa kia th́ được, xă hội an định,
ḷng người hồn hậu. Hiện thời, trong nhà quư
vị cất chứa bảo vật, phường trộm
vặt hoặc bọn cướp lớn đều chú ư,
đâm ra chuốc lấy rất nhiều nỗi phiền
phức. Chính ḿnh bận tâm lo lắng, sự tu hành bị
trở ngại. Nay chúng ta thờ phượng tượng
Phật, thờ tượng bằng tranh in màu; hễ quư vị
cần, sẽ tặng cho quư vị một bức, chúng tôi
có nhiều lắm. V́ vậy nói là “chẳng cần phải
bận ḷng”. Cũng chớ nên tích trữ những thứ
đồ cổ, rất phiền phức, đem lại
cho chính ḿnh rất nhiều nỗi lo nghĩ! Tượng Phật
th́ nhất định phải chọn tượng chính
ḿnh ưa thích, chứ người khác ưa thích, ta không
ưa thích, ta ưa thích, người khác chưa chắc
đă ưa thích. Chọn bức nào chính ḿnh ưa thích để
thờ, đó là điều tốt đẹp.
“Tâm duyên diệu sắc, dữ nhăn
tác đối” (Tâm duyên sắc tướng mầu nhiệm,
mắt thường ngắm nh́n), dạy quư vị hăy thường
ngắm. So ra, người hiện thời có chỗ thuận
tiện hơn cổ nhân, mà cũng có chỗ chẳng bằng
cổ nhân. Chỗ không bằng là đạo đức
trong xă hội suy vi, xă hội chẳng an định, đó
là chỗ thua kém cổ nhân. Khoa học kỹ thuật phát
triển, đem lại rất nhiều tiện lợi, đó
là chỗ cổ nhân chẳng bằng người hiện
thời. Chẳng hạn như nói đến kinh bổn, cổ
nhân có được một quyển kinh chẳng dễ
dàng, quá khó khăn! Chúng ta ở Đài Loan, về phương
diện này quả thật là đang hưởng phước
mà chẳng biết chính ḿnh có phước. Chúng ta chẳng coi
trọng kinh bổn. Nếu quư vị qua Đại Lục,
người học Phật tại Đại Lục thấy
có được một quyển kinh sách giống như có
được vật quư nhất! V́ sao? Chẳng có
được! Chúng tôi đem Đại Tạng Kinh sang
Đại Lục, tôi chẳng chính mắt thấy,
nhưng xem từ ảnh chụp, họ nghênh tiếp ra
sao? Mặc áo dài, đắp y, quỳ sát đất, đội
Đại Tạng Kinh trên đầu. Nghênh tiếp như
vậy đó, chúng tôi thấy vậy thật sự cảm
động. Ở đây, chúng ta bỏ Đại Tạng
Kinh lăn lóc, khiến cho người Đại Lục
trông thấy trong tâm rất khó chịu! Đó là ǵ? Họ chẳng
có được. Chúng ta có được quá thuận tiện,
có được quá dễ dàng. Nay chúng ta gởi kinh sách
sang Đại Lục, người ta đều coi như
bảo bối. Người ở Đại Lục quá
đông, sách quá ít. Tuy những năm qua, chúng ta gởi tặng
ba bốn chục vạn quyển sách, [tuy là] ba bốn chục
vạn quyển sách, nhưng đến tay họ bèn chẳng
thấm vào đâu, chẳng thấy đâu nữa! Cuộc
đất quá lớn, người quá đông, vật hiếm
hoi bèn [trở thành] quư báu!
Ở
Đài Loan, chúng ta in rất nhiều h́nh Phật tại
đây. Quư vị thỉnh mười tấm, hai
mươi tấm, chỗ chúng tôi đều có. Trong nhà quư
vị, mỗi pḥng đều có thể treo h́nh Phật, mỗi
pḥng đều có thể thấy Phật, giúp cho quư vị quán
tưởng, nhắc nhở quư vị niệm niệm tưởng
Phật. Người tu Tịnh Độ thật sự chẳng
có ǵ kỵ húy, trong pḥng ngủ cũng có thể treo h́nh Phật,
v́ sao? Khiến cho ta suốt ngày từ sáng đến tối
trong mười hai thời đều chẳng rời Phật.
V́ thế, chẳng cần nói khách sáo, chẳng cần nói tới
chuyện cung kính, chẳng cần nói tới chuyện kỵ
húy, thảy đều chẳng có. Giữa cha và con c̣n có kỵ
húy chi nữa? Chẳng có kỵ húy! Giữa thầy và tṛ chẳng
có kỵ húy. Không mong văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới th́ phải tôn trọng, phải khách sáo,
pḥng ngủ là chỗ chẳng sạch sẽ, chớ nên
treo [h́nh Phật]. Thật sự mong văng sanh Tây Phương
th́ chẳng cần phải nói tới, v́ sao? Ta phải
đạt được mục đích của chính ḿnh,
trong niệm niệm, ta chẳng rời Phật.
V́
thế, giữa một người cầu sanh Tây
Phương và kẻ chẳng cầu sanh Tây Phương, cáthờ
phượng tượng Phật khác nhau, chư vị
đồng tu phải nhớ điều này. Có rất nhiều
người nói “có chỗ nào đó chẳng nên thờ tượng
Phật”, nói kiểu đó cũng đúng. V́ sao? Kẻ ấy
chẳng sanh về Tây Phương, chẳng mong cầu sanh
về Tây Phương, chẳng niệm A Di Đà Phật, [kẻ
ấy nói như vậy] là đúng. Phải cung kính, lễ
phép đối với tượng Phật. Thật sự
mong văng sanh Tây Phương, sẽ giống như con thơ
nương cậy cha mẹ, một bước cũng chẳng
chịu rời, kiêng kỵ ǵ cũng đều chẳng
có. Chúng ta và A Di Đà Phật cũng là một bước
chẳng rời, chúng ta giống như trẻ nít, phải
cậy vào cha mẹ, chẳng thể rời một bước,
chẳng trông thấy sẽ không được! Hễ
không thấy liền khóc lóc, nên nơi nào cũng đều
có thể thờ, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại,
chư vị đồng tu phải ghi nhớ điều
này! Đối với người khác, chúng ta cũng phải
nói với họ như vậy: Họ chẳng niệm Phật,
chẳng cầu về Tây Phương Tịnh Độ, họ
tu những pháp môn khác, hăy nên thờ tượng trong Phật
đường, hoặc thờ tại pḥng khách trong nhà, chớ
nên thờ tùy tiện. Nếu người ấy trong một
đời này thật sự mong cầu
sanh về Tây Phương, quư vị liền bảo người
ấy: Chỗ nào cũng có thể thờ, trừ pḥng vệ
sinh hoặc nhà xí là chỗ chẳng sạch sẽ, chớ
nên thờ tượng Phật ra, chỗ nào cũng đều
có thể thờ được!
“Khai
nhăn bế mục, nhược minh, nhược ám, thường
đắc bất ly kiến Phật Thế Tôn” (Nhắm
mắt, mở mắt, dù sáng, hay tối, thường chẳng
rời thấy Phật Thế Tôn). Mở mắt, nhắm
mắt, ban ngày, buổi tối, thời thời khắc khắc
chẳng ĺa A Di Đà Phật. V́ sao? Nếu chẳng tưởng
A Di Đà Phật, nhất định sẽ suy nghĩ loạn
xạ; chúng ta dùng phương pháp này để xóa sạch
hết thảy vọng tưởng, chấp trước. Do
đó, đây là một phương pháp để khôi phục
tự tánh thanh tịnh tâm. Trong tất cả các pháp môn,
phương pháp này thù thắng nhất, xảo diệu nhất.
Hiện thời, khoa học kỹ thuật phát triển, cổ
nhân chẳng có cách nào hưởng thụ chuyện này: Dùng băng
thâu âm để niệm Phật hiệu, đó là một phương
pháp. V́ thế, người thật sự niệm Phật,
trong gia đ́nh quư vị hoặc trong đạo tràng, một
câu A Di Đà Phật trong mười hai thời chẳng gián
đoạn. Ngày đêm chẳng thể gián đoạn, chẳng
thể nói là buổi tối đi ngủ liền gián đoạn,
chẳng được! Trong quá khứ, đạo tràng Tịnh
Độ Tông là Niệm Phật Đường. Trong Niệm
Phật Đường, Phật hiệu quyết định
chẳng bị gián đoạn; hễ gián đoạn, sẽ
chẳng gọi là đạo tràng niệm Phật. Ban
đêm th́ làm như thế nào? Ban đêm bèn luân lưu niệm,
bốn người một ban, luân phiên niệm. V́ thế,
ban đêm Phật hiệu cũng chẳng gián đoạn.
Suốt một năm từ đầu năm cho đến
cuối năm đều chẳng gián đoạn. Họ
chia thành ban, ban nào trực th́ nhất định phải niệm.
Chẳng thuộc ban đến phiên trực, nhưng nếu
quư vị ngủ ít bèn có thể tùy hỷ niệm, quư vị
có thể cùng niệm với họ, nhưng người trực
ban nhất định phải niệm. Dùng phương
pháp ấy để niệm Phật hiệu không ngừng.
Nay
chúng ta ít người, chẳng có cách nào luân phiên, chúng ta có
thể dùng băng thâu âm. Nhất là hiện thời có máy niệm
Phật quá tiện, chẳng cần dùng băng, niệm suốt
ngày đêm chẳng bị hư. Quư vị chẳng ngại
ǵ thử coi một cái máy niệm Phật dùng được
bao lâu? Sau khi mở máy lên, chẳng cần tắt đi,
để máy niệm suốt ngày đêm. Âm thanh chớ nên mở
quá lớn. Quá lớn sẽ quấy rầy người
khác làm việc. Âm thanh khe khẽ, dường như có, dường
như không, hễ tâm tĩnh lặng, liền ngay lập tức
nghe thấy Phật hiệu. Trong khi quư vị đang có chuyện
ǵ [phải làm hay phải suy nghĩ, tiếng niệm Phật]
cũng chẳng gây trở ngại, như vậy là tốt
đẹp, gia đ́nh là đạo tràng. Đó là lợi dụng
phương tiện khoa học kỹ thuật hiện tại
[để niệm Phật không gián đoạn].
Kế
đó, sách viết: “Tùng đại
tướng hải, lưu xuất tiểu tướng, hạo
hạo dạng dạng như đại kiếp thủy,
châu mâu biến lăm, vô phi Phật giới” (từ biển
cả có tướng to lớn, lưu xuất tướng
nhỏ, mênh mông, bát ngát như nước ngập khi đại
kiếp (thủy tai), mắt nh́n trọn khắp, không ǵ chẳng
phải là Phật giới). “Đại
tướng” (大相) là Báo Thân của
Phật. Trong kệ tán Phật, chúng ta đă ca ngợi A Di
Đà Phật: “Bạch hào uyển
chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại
hải”, đó là “đại
tướng” (tướng to lớn). Từ Phật tướng,
tôi vừa mới nói Phật có vô lượng tướng,
mỗi tướng có vô lượng hảo, bạch hào
phóng vô lượng quang, trong quang minh lại hóa ra vô lượng
Phật, Hóa Phật liền lưu xuất tiểu tướng,
tận hư không khắp pháp giới đều là A Di
Đà Phật. Như tượng Phật chúng ta đang thờ,
trong Phật đường chúng ta thờ một tượng
A Di Đà Phật to, trong mỗi góc bày một tượng
A Di Đà nhỏ. Chúng ta cũng in ra rất nhiều h́nh A
Di Đà nhỏ, để bất cứ chỗ nào, bất
cứ lúc nào, cũng đều có thể thờ phượng.
Chung quanh bốn phía của một Niệm Phật
Đường thật sự đều bày tượng A
Di Đà Phật, bất luận quư vị chuyển đến
phương hướng nào, mắt quư vị đều thấy
A Di Đà Phật, đó là đúng. Niệm Phật
Đường xưa kia v́ dùng tượng đắp, chỉ
đắp một tượng thờ tại đó, chẳng
có cách nào khiến cho khắp mọi nơi đều trông
thấy. Hiện thời, chúng ta dùng phương pháp in ảnh
chụp nên có thể làm cho mỗi góc đều có h́nh Phật,
bất luận chuyển đến chỗ nào cũng đều
có thể trông thấy A Di Đà Phật.
Đối với
hoàn cảnh chung quanh, trong sân, chúng ta chẳng có nhiều
tượng Phật như vậy. Hiện thời chúng ta có
in danh hiệu Phật, in những tấm dán (sticker) ghi “Nam-mô A Di Đà Phật”. Đối
với phạm vi chung quanh, bốn phía đều có thể
dán, bất luận đi đến đâu đều trông
thấy A Di Đà Phật. Đài Loan là một đại
hoàn cảnh, quư vị thấy ở Đài Loan đi đến
đâu, quư vị đều thấy trụ điện hay
vách tường nào cũng đều dán Nam-mô A Di Đà Phật.
Hiện thời, tôi thấy xe taxi, xe hơi của tư
nhân cũng có không ít chiếc đằng trước lẫn
đằng sau đều dán A Di Đà Phật, giúp cho Quán Hạnh
chúng ta. Chuyện này thật sự đáng đề xướng,
nhưng ở ngoại quốc, dán lung tung khắp nơi
th́ không được, phạm pháp! Tại Đài Loan, dán A
Di Đà Phật, ngay cả cảnh sát cũng hoan nghênh, Đài
Loan đúng là Phật quốc. Hy vọng là ở Đài
Loan, mỗi góc, mỗi con đường, chúng ta đều
có thể thấy tượng và danh hiệu A Di Đà Phật.
Dán danh hiệu A Di Đà Phật rất phổ biến, nhưng
dán h́nh A Di Đà Phật vẫn chưa có ai đề
xướng. Hy vọng các đồng tu trong hội này
đều nỗ lực đề xướng, in loại
h́nh A Di Đà Phật có thể dán được, sẽ
càng tốt hơn, càng dễ dàng thuận tiện đối
với Quán Hạnh, thật sự thực hiện “mắt
thấy trọn khắp”. Mắt chúng ta thấy trọn khắp,
không đâu chẳng phải là cơi Phật! “Niệm nhất Phật, dữ thập phương
Phật đẳng. Niệm hiện tại Phật, dữ
tam thế Phật đẳng, nhất thân, nhất trí huệ,
lực vô úy diệc nhiên. Niệm sắc thân, niệm pháp
môn, niệm Thật Tướng” (niệm một vị
Phật giống như niệm mười phương Phật.
Niệm vị Phật hiện tại giống như niệm
tam thế Phật. Một thân, một trí huệ, lực,
vô úy cũng vậy. Niệm sắc thân, niệm pháp môn, niệm
Thật Tướng). Đó là lúc thật sự dụng
công tu hành đắc lực. À! Chúng ta tạm nghỉ, nghỉ
mấy phút.
Tập 6
Trong
đoạn này, mấy câu cuối cùng rất trọng yếu.
Sau khi chúng ta đă hiểu rơ, liền biết công phu của
chính ḿnh có đắc lực hay không? Có đúng pháp hay không?
Trong đoạn văn này, nơi ḍng thứ hai đếm
từ dưới lên trong trang ba mươi bốn có nói: “Thường vận niệm vô bất
niệm thời, niệm niệm giai giác, thị danh Quán Hạnh
Tức Phật dă” (Khi thường vận dụng “niệm
mà chẳng niệm” th́ niệm nào cũng đều là giác,
đó gọi là Quán Hạnh Tức Phật). Câu trước
dễ hiểu, đó là chẳng gián đoạn. “Niệm nào cũng đều là
giác” là chẳng xen tạp. Hễ xen tạp th́ chẳng giác,
xen tạp là mê. Khi chúng ta niệm Phật, xen tạp vọng
tưởng, đó là bất giác. Ắt phải là niệm
niệm đều chẳng xen tạp, niệm niệm
đều rơ ràng, đó là giác. Chẳng gián đoạn, chẳng
xen tạp, chẳng hoài nghi, niệm Phật hoặc niệm
kinh như vậy đều thuộc về Quán Hạnh Tức
Phật. Ắt cần phải biết chuyện này! Nếu
quư vị không biết, sẽ niệm chẳng đúng pháp,
chẳng đạt được hiệu quả.
Lại
xem đoạn thứ tư tiếp theo là Tương Tự
Tức Phật, Tương Tự tiến cao hơn [giai
đoạn] trước một bậc. Phần trước
là Quán Hạnh, vẫn chưa giống. Tuy Tương Tự
chưa phải là Phật thật sự, nhưng đă
hơi giống, có thể thấy là công phu đă tiến một
bước lớn. Quán Hạnh là chế phục phiền
năo, nhưng chưa đoạn. Tương Tự là đoạn
Kiến Tư phiền năo, cảnh giới ấy là cảnh
giới của Tiểu Thừa A La Hán, Bích Chi Phật, hoặc
Thất Tín Bồ Tát trở lên trong Đại Thừa Viên
Giáo, đều là Tương Tự Tức Phật. “Tương Tự Phật giả,
niệm Phật tướng hảo, thân đắc
tương tự, tương ứng. Niệm Phật pháp
môn, thân đắc tương tự, tương ứng.
Niệm Phật Thật Tướng, thân đắc
tương tự, tương ứng” (Tương Tự
Phật là niệm tướng hảo của Phật, thân
được tương tự, tương ứng. Niệm
pháp môn của Phật, thân được tương tự,
tương ứng. Niệm Thật Tướng của Phật,
thân được tương tự, tương ứng).
Đây là nói đến Tam Thân; trước hết nói về
Tam Thân. Kế đó, giải thích chữ Tương Tự.
“Tương tự giả, nhị
vật tương loại” (Tương Tự là hai vật
giống như nhau), hai vật giống nhau, cùng loại, rất
gần gũi. “Như thâu tự
kim” (như vàng thô giống như vàng),“thâu” (鍮) là vàng c̣n trong quặng,
chưa được nung luyện. Trong quặng vàng có rất
nhiều vàng, nhưng xen lẫn rất nhiều tạp chất
trong ấy, so với vàng th́ hai thứ rất giống nhau.
Đó là Tương Tự. “Như
qua tỷ hồ” (như dưa so với bầu),
cũng rất giống nhau. Dưa và bầu[3] rất
gần gũi, h́nh dáng cũng chẳng khác nhau cho mấy. “Do hỏa tiên noăn” (ví như
đối trước lửa bèn ấm), lửa tuy c̣n xa,
nhưng chúng ta đă cảm nhận được sức
nóng. Tuy chưa tiếp cận lửa, nhưng đă cảm
nhận được hơi nóng, đó là Tương Tự.
“Thiệp hải sơ b́nh”
(vào biển, thoạt đầu sẽ là chỗ cạn), giống
như chúng ta vào biển cả: Vào chỗ biển rất
to, trước hết băi biển rất nông, rất phẳng,
chúng ta có thể đi trên đó được, nhưng
càng đi tới, sẽ càng sâu. Nông cạn là Tương Tự,
sâu là biển cả. Từ những tỷ dụ ấy,
khiến cho chúng ta thấu hiểu Tương Tự là
như thế nào.
“Thủy
tánh chí lănh, ẩm giả năi tri. Khát bất quật tỉnh,
thính thuyết hà vi?” (Tánh nước rất lạnh, người
uống vào mới biết [nước lạnh như thế
nào]. Khát mà chẳng đào giếng, chỉ nghe nói th́ làm sao
được?). Mấy câu này nhằm khuyên chúng ta phải
tu học, phải nghiêm túc tu học. Nếu chẳng nghiêm
túc tu học, nghe Phật pháp sẽ chẳng có tác dụng
ǵ! Nghe Phật pháp, nhưng chính ḿnh chẳng chịu nghiêm
túc tu tập, chắc chắn chẳng đạt được
lợi ích. Mấy câu tiếp theo là nói đến chuyện
chánh yếu: “Lược cử
kỳ yếu, như Pháp Hoa trung” (nêu đại lược
những điểm trọng yếu th́ như trong kinh Pháp
Hoa), như trong kinh Pháp Hoa đă nói: “Lục căn thanh tịnh, tức thị kỳ
tướng, danh Tương Tự Phật dă” (sáu
căn thanh tịnh chính là tướng của nó, gọi là
Tương Tự Phật), nêu ra tiêu chuẩn. Phật là
thân tâm thanh tịnh, thanh tịnh đă đạt đến
tột bậc. Nếu sáu căn của chúng ta thanh tịnh,
sẽ giống Phật đôi chút. V́ sao sáu căn chẳng thanh
tịnh? Có phiền năo th́ sẽ chẳng thanh tịnh, đoạn
hết phiền năo bèn thanh tịnh. Phiền năo là ô nhiễm.
Nói cách khác, A La Hán đoạn Kiến Tư phiền năo, Bồ
Tát thuộc địa vị Thất Tín trong Viên Giáo đoạn
Kiến Tư phiền năo, Thất Trụ Bồ Tát trong Biệt
Giáo đoạn Kiến Tư phiền năo, đều gọi
là Tương Tự Tức Phật. Trong Tịnh Độ
Tông, nếu công phu niệm Phật đạt tới Sự
nhất tâm bất loạn bèn thuộc vào địa vị
Tương Tự, đạt đến Sự nhất tâm
bất loạn bèn giống như A Di Đà Phật.
Rốt
cuộc, chúng ta phải thực hiện từ chỗ nào?
Nói
đến sự sai khác giữa chín phẩm, trong [khi giảng]
kinh Vô Lượng Thọ, chúng tôi cũng đă thưa cùng
chư vị đồng tu, chỉ là tùy thuộc chúng ta thật
sự thực hiện kinh Vô Lượng Thọ đến
mức nào! Nếu có thể hoàn toàn làm được, sẽ
là Thượng Thượng Phẩm. Chưa thể hoàn
toàn làm được, nhưng có thể làm được
chín mươi phần trăm, sẽ là Thượng Trung Phẩm.
Có thể làm đến tám mươi phần trăm, sẽ
là Thượng Hạ Phẩm. [Lần lượt] hạ
thấp như vậy, Hạ Hạ Phẩm cũng phải
làm được hai mươi phần trăm, tức là
làm được hai phần [trong mười phần]. Hai
phần cũng chẳng làm được th́ chỉ có thể
lui xuống, lui sụt đến Danh Tự Tức Phật
trong phần trước. Có thể làm được hai phần
trở lên, có thể nói là Quán Hạnh Tức Phật. Làm
được năm phần trở lên, gần như là Tương
Tự Tức Phật, đă nhập địa vị ấy.
Thật sự tu học, phải nghiêm túc nỗ lực thực
hiện, phải hiểu. Sau khi đă hiểu, phải hành.
Chỉ hiểu mà không hành th́ vẫn c̣n trong địa vị
Danh Tự.
Chúng
ta lại lật qua xem trang ba mươi sáu, ḍng thứ
năm, Phần Chứng Tức. Đây là Phật thật sự,
chẳng phải là giả, chẳng phải là Tương Tự,
mà là thật. [Tuy là] chân Phật, nhưng vẫn chưa viên
măn. Ở đây, trước hết, tôi nói một tỷ dụ.
Cổ nhân thường dùng mặt trăng làm tỷ dụ.
Vầng trăng trên trời là thật, trong nước cũng
có bóng trăng, chẳng phải là thật. Vầng trăng
trong nước là Tương Tự, chẳng thật. Mặt
trăng thật sự chỉ có một, có Phần Chứng
và có Viên Măn. Phần Chứng là vẫn chưa tṛn đầy.
Quư vị thấy mồng Ba, mồng Bốn đầu
tháng có trăng non, đó có phải là mặt trăng thật
sự hay chăng? Thật sự, chẳng giả! Trăng
Mười Ba, Mười Bốn rất to, đó là thật,
chẳng giả. Nhất định phải đến Rằm
trăng mới viên măn. Vầng trăng Rằm ví như Cứu
Cánh Tức Phật. Từ trăng lưỡi liềm Mồng
Hai, Mồng Ba đầu tháng cho đến trăng Mười
Bốn đều gọi là Phần Chứng Tức, [quả
vị Phật] ấy là thật, chẳng giả! Có thể
thấy Tương Tự trong phần trước chẳng
phải là thật sự, rất giống, nhưng chưa
phải là thật, giống như bóng trăng trong nước,
chẳng phải là mặt trăng thật sự trên bầu
trời.
Bản
tánh bị nhiễm vô minh, chẳng thể khử sạch vô
minh trong một lúc được, giống như vầng
trăng, ánh sáng mỗi ngày một tỏ rạng hơn, chẳng
phải là bất th́nh ĺnh từ trong đêm đen bỗng
biến thành vầng trăng tṛn trịa, chẳng phải
là biến đổi theo kiểu ấy! Đức Phật
dạy vô minh trong bản tánh của chúng ta tổng cộng
có bốn mươi mốt phẩm. Đoạn bốn
mươi mốt phẩm dần dần: Đoạn
được một phẩm, quang minh bèn lớn hơn một
phần, đó là quang minh trong bản tánh. V́ thế, kể từ
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, phá một phẩm vô
minh, chứng một phần Pháp Thân, vị ấy là Phần
Chứng Phật. Vị ấy là Phật thật sự, chẳng
phải là giả Phật, [chỉ] mới phá một phẩm
vô minh mà thôi! Phá một phẩm vô minh, dụng tâm của vị
ấy và dụng tâm của chư Phật Như Lai là một
tâm, tức là chân tâm, sử dụng chân tâm. Từ
Tương Tự trở xuống, dùng cái tâm tám thức,
dùng tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở, coi
đó là tâm, hoàn toàn chẳng biết dùng chân tâm, cũng tức
là chân tâm chẳng khởi tác dụng. Đạt đến
Phần Chứng Tức bèn dùng chân tâm, chẳng dùng vọng
tâm, nên tư tưởng, kiến giải, và hành tŕ của
vị ấy hoàn toàn giống với Như Lai, chỉ có thể
nói là năng lực lớn hay nhỏ khác nhau. Tánh chánh xác,
tánh chân thật của vị ấy và tánh của chư Phật
Như Lai chẳng sai khác, chỉ là lớn hay nhỏ khác
nhau.
Chúng
ta xem lời giải thích kế đó: “Tức tâm quán Phật, thác cảnh hiển tánh, tuy
đắc Tương Tự, thượng thuộc duyên tu”
(Dùng ngay cái tâm này để quán Phật, nhờ vào cảnh
để hiển lộ tánh, tuy đạt được
địa vị Tương Tự, nhưng vẫn là tu tập
theo pháp duyên khởi). Câu này nhằm tiếp nối ư
nghĩa trong phần trước. Trong phần trước,
xét theo địa vị Tương Tự, thành tựu
trong địa vị Tương Tự chẳng phải
là chân thật, vẫn thuộc loại “duyên tu”, [nghĩa là] tu theo duyên khởi, chưa phải
là “từ tánh khởi tu”. Phần
Chứng là từ tánh khởi tu, chẳng phải là tu từ
duyên khởi, căn cứ để tu hành cũng hoàn toàn chẳng
giống nhau. Nói cách khác, một đằng dùng vọng tâm,
một đằng dùng chân tâm. Dùng vọng tâm, tu đến
cảnh giới cao nhất là Tương Tự Tức Phật,
chẳng có cách nào minh tâm kiến tánh. Đạt đến
minh tâm kiến tánh, quyết định chẳng thể
dùng vọng tâm, cũng là phải “bỏ Thức, dùng Căn”,
chuyển Thức thành Trí. Thiền gia nói ĺa tâm ư thức th́
mới có thể đạt tới Phần Chứng. Chúng
ta niệm Phật cũng giống như thế, ĺa tâm ư thức
th́ mới có thể đạt tới Lư nhất tâm bất
loạn, đó là cảnh giới Lư nhất tâm bất loạn.
“Kim tắc thân chứng” (nay
th́ [Phần Chứng] là đích thân chứng), đích thân chứng
Pháp Thân, đích thân thấy bản tánh, “thuộc ư chân tu” (thuộc loại chân tu). Do
đó, đến khi nào là chân tu? Sau khi minh tâm kiến tánh mới
là chân tu, trước khi minh tâm kiến tánh là tương tự
tu. Hiện thời, chúng ta nói thật thà th́ ngay cả tương
tự tu cũng chưa nói được, nay chúng ta thuộc
địa vị Danh Tự, hữu danh vô thực, vẫn
chưa bắt đầu tu. Nếu quư vị nghĩ lời
tôi nói chẳng đáng tin cho lắm, chính quư vị hăy suy
nghĩ, có ngày nào quư vị nghiêm túc đoạn phiền năo
hay chăng? Quư vị niệm Phật, lạy Phật,
nhưng chẳng nghĩ phải đoạn phiền năo, có
thể thấy là quư vị chẳng phải là chân tu! Chân tu
là đoạn phiền năo, đoạn tập khí, đó mới
là bắt đầu tu thật sự. Sự thật tu ấy
vẫn là “duyên tu”, chẳng
phải là “thật” như đang được nói ở
đây, kể như quư vị đă bắt đầu tu hành.
Trong địa vị Quán Hạnh và địa vị Tương
Tự, đều là dùng tâm ư thức. Đến đây (địa
vị Phần Chứng Tức), chẳng dùng tâm ư thức, mà
là ĺa tâm ư thức.
V́ vậy,
nghe kinh, chúng tôi cũng thường nói; tuy nói, có lẽ quư
vị nghe vẫn có thể hiểu, nhưng chưa biết
dùng. Người chân tu nghe kinh, sẽ đúng như Khởi
Tín Luận đă nói: “Ĺa tướng
ngôn thuyết, ĺa tướng danh tự, ĺa tướng tâm
duyên”. Người ấy là chân tu, là đích thân chứng.
Người giảng, tức là người giảng kinh
dùng cái tâm ư thức, nhưng người nghe kinh ĺa tâm ư thức,
sẽ đắc quả báo như thế nào? Người
giảng kinh chưa khai ngộ, người nghe kinh khai ngộ,
người giảng kinh chẳng chứng quả, người
nghe kinh chứng quả. Do đó, có thể biết: Tu hành
đúng là do cá nhân, cũng chẳng liên can ǵ đến thầy!
Trong
kinh Phật có một công án (公案), chúng ta thường gọi công án
là “cố sự” (故事: câu chuyện), chuyện
này cũng là chuyện thật. Công án ấy xuất phát từ
kinh nào, tôi quên mất, nhưng có [chuyện ấy]. Thuở
đức Phật tại thế, có một người tu
hành mong chứng quả A La Hán, bèn sắp đặt cúng
dường trọng hậu, ḥng cầu một vị tu
hành xuất gia khai thị cho ḿnh. Kẻ [xuất gia] tu hành kia
tuy chính ḿnh chưa chứng quả, nhưng tham đồ
cúng dường, bèn bảo người đó: “Ta đă chứng
đắc quả A La Hán. Ngươi hăy đến cúng
dường ta”, tham muốn đồ cúng dường mà! Người
ấy cung kính, kiền thành thật sự đối
đăi với kẻ [tu hành mạo nhận] ấy như một
vị A La Hán, cúng dường gă đó. Gă đó tiếp nhận
xong, người ấy thỉnh giáo gă: “Ngài hăy dạy cho
tôi tu hành như thế nào để chứng quả”. Gă
đó chẳng có cách nào, đành phải lừa người
ấy, bảo: “Được rồi! Ta ngồi ở ngay
đây, ngươi hăy nghe lời ta nói”. Gă cầm trái banh, bảo
người ấy ngồi xổm ở góc tường,
ném banh vào người ấy, bảo: “Ngươi đă chứng
đắc quả Tu Đà Hoàn”. Người ấy đáp:
“Đúng vậy, tôi đă chứng đắc quả Tu
Đà Hoàn”, thật sự chứng đắc. Lại chuyển
sang góc khác, lại ném banh vào người ấy:
“Ngươi đă chứng quả Tư Đà Hàm”. Chuyển
đến góc thứ tư: “Ngươi đă chứng quả
A La Hán”. Mỗi lần, người ấy đều gật
đầu nói: “Tôi đă chứng đắc”. Chuyển xong
bốn góc, người ấy dập đầu đảnh
lễ gă đó. Gă đó nói: “Ta lừa gạt ngươi”.
Người ấy nói: “Đâu có! Tôi thật sự chứng
đắc”. Chuyện này là xác thực, v́ sao? Người ấy
dùng tâm chí thành cung kính để cầu pháp. Tuy [gă đó] dối
gạt người ấy, nói lời giả dối,
nhưng người ta thật sự chứng đắc.
Đó là kẻ thuyết pháp chẳng nói lời tốt lành,
nhưng người khéo nghe sẽ đạt được
lợi ích chân thật; do đó, biết nói chẳng bằng
biết nghe, biết nghe quan trọng lắm!
Ở
đây, nhằm dạy chúng ta phải dùng chân tâm, chân tâm là chí
thành tâm. Chí thành tâm là trong tâm chẳng có một vọng
tưởng, chẳng có một vọng niệm, đấy
là chân tâm. Chí thành cung kính bèn có thể đạt được
lợi ích chân thật. Xưa kia, có người hỏi pháp
sư Ấn Quang: “Phải làm như thế nào th́ mới có
thể đạt được lợi ích chân thật
trong Phật pháp? Có bí quyết ǵ hay không?” Tổ Ấn Quang
bảo người ấy hai chữ: “Thành kính”. Ngài nói đó là ch́a khóa bí mật để
nhập Phật môn: “Một phần
thành kính được một phần lợi ích, mười
phần thành kính đắc mười phần lợi ích”.
Người nói có chứng, có học, có tu hay không, đều
chẳng quan trọng, vấn đề là ở thái độ
cầu học nơi bản thân chúng ta. Chính v́ như thế,
xưa nay chúng ta thường thấy tṛ vượt trỗi
thầy, màu xanh xuất phát từ màu chàm mà trỗi vượt
màu chàm; do nguyên nhân nào? Học tṛ dụng tâm chân thành hơn
thầy, nên tṛ vượt trỗi thầy. Đối với
Sự và Lư đều có căn cứ. Chúng ta đọc
đoạn văn tiếp theo: “Hoặc
phần phần phá”, Hoặc (惑) là vô minh, [“Hoặc phần
phần phá”] là trừ khử vô minh từng phần một.
“Tánh phần phần hiển”
[nghĩa là] chân tâm bản tánh của chính ḿnh sẽ [do vô
minh phá từng phần] mà thấu lộ ra ngoài từng phần.
“Tùng sở chứng thuyết, danh
vi Phần Chân” (nói theo điều được chứng
đắc, nên gọi là Phần Chân), sở chứng của
người ấy là Chân Như bản tánh, mỗi phần
đều chân thật. “Tùng năng
hiển ngôn, danh Phần Chứng dă” (nói theo chủ thể
của sự hiển lộ (chứng đắc), bèn gọi
là Phần Chứng), sáng tỏ từng phần một. Đoạn
văn này cũng được chia thành hai đoạn, đoạn
thứ nhất là “ước
phát tâm minh tức Phật” (xét theo sự phát tâm để
giảng ư nghĩa Tức Phật). Chúng ta xem kinh văn.
“Phần
Chứng Phật giả, Sơ Phát Tâm Trụ” (Phần
Chứng Phật là Sơ Phát Tâm Trụ). Đây là nói theo Viên
Giáo, địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo được
gọi là Phát Tâm Trụ, phát tâm ǵ? Phát Bồ Đề tâm. Do
đó, chư vị đồng tu nên biết: Hễ phát Bồ
Đề tâm bèn là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo,
vượt trỗi A La Hán quá nhiều! A La Hán tương đương
địa vị Thất Tín, quư vị thấy trên đó
c̣n có Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín, Sơ Trụ, c̣n có bốn
tầng cấp. Hễ phát Bồ Đề tâm, liền nhập
địa vị Phần Chứng. Bồ Đề tâm là
tâm ǵ? Chân tâm, chân thành, chân thành tột bậc! Chúng ta học
Phật phải dùng cái tâm chân thành; xử sự, đăi
người, tiếp vật cũng đều phải dùng
cái tâm chân thành. Trong xă hội này, có rất nhiều người
có những điều kiêng dè, sự kiêng dè ấy là vọng
tưởng, phân biệt. Ta dùng tâm chân thành đối với
người khác, vậy là ta bị thua thiệt! Kẻ khác
đều dối gạt ta, làm sao ta có thể dùng chân tâm
đối đăi kẻ khác? Sai lầm to lớn quá đỗi!
Nếu quư vị dùng cái tâm chân thành để đăi người,
tiếp vật, chắc chắn chẳng bị thua thiệt.
Trước mắt có thể chịu thua thiệt đôi chút,
nhưng mai sau sẽ đạt được đại
tiện nghi, quả báo chẳng thể nghĩ bàn. V́ vậy,
chẳng sợ bị người khác lừa, chẳng sợ
bị lừa! Bị người ta lừa gạt, bị gạt
gẫm, đúng là tiêu nghiệp chướng. Nghiệp
chướng thảy đều tiêu trừ, vô lượng
vô biên trí huệ và phước đức tự nhiên hiện
tiền, hiện thời bị lừa gạt có đáng sợ
chi! Mai sau sẽ có những điều tốt đẹp
to tát, được lợi ích to lớn, phước báo
to tát, đó là công đức chân thật. Thông thường,
người thế gian chỉ thấy chuyện trước
mắt, sơ sót chuyện tương lai, đó là tầm
nh́n hẹp ḥi, nông cạn, chẳng biết tu phước.
Thưa
cùng quư vị đồng tu, đối với phước
báo thật sự th́ lúc tuổi già hưởng phước
sẽ là có phước thật sự. Hiện thời quư
vị trẻ tuổi, hưởng hết sạch phước
báo, lúc tuổi già nghèo túng, lúc xế bóng chịu khổ,
đó mới là thật sự khổ sở! Lúc tuổi già
chẳng có thể lực, khổ nạn xảy đến,
hứng chịu không nổi. Tuổi trẻ chịu khổ
đôi chút, thấm vào đâu! Có thể lực, có tinh thần,
sẽ có thể chịu đựng được! V́ vậy,
có phước báo đừng hưởng thuở trẻ
tuổi, hăy dành lại để hưởng lúc tuổi
già. Có của cải th́ hiện thời cũng chẳng cần.
Trong mạng quư vị có của cải th́ có vứt đi
cũng không được! Của cải đưa đến,
ta đem bố thí hết sạch, ta đều chẳng cần
tới, tuổi già sẽ có của cải đưa tới,
mới có thể sống thoải mái. Trong cuộc đời
một người, nếu quư vị đi xem bói, thầy
bói sẽ bảo quư vị: Vận mạng cứ năm
năm chuyển biến một lần. Vận mạng của
con người cứ năm năm chuyển biến một
lượt. Trong một đời, sẽ có năm năm
tốt nhất, mà cũng có năm năm xấu nhất. Nếu
như năm năm tốt nhất nhằm lúc tuổi trẻ,
năm năm tệ nhất nhằm lúc tuổi già, mạng
đó không tốt. Năm năm tốt nhất rớt vào
tuổi già, năm năm xấu nhất nhằm lúc trẻ
trung, mạng ấy tốt đẹp. Nếu vận tốt
của chúng ta nhằm lúc tuổi trẻ, vận xấu nhằm
thuở già cả, làm như thế nào? Người thông
minh gặp lúc vận tốt bèn chẳng nhận lănh. Chẳng
nhận lănh th́ nó sẽ kéo dài đến thuở già nua, kéo
dài đến mai sau. Hiện thời phát tài, ta tán tài, ta phân
tán nó, căn bản là chớ thọ dụng, đến khi
tuổi già, của cải sẽ nhóm lại. Đó là có trí
huệ, có tầm nh́n sâu xa, người ấy mới có thể
chuyển dời vận mạng. Đó là phương pháp sửa
đổi vận mạng của chính ḿnh.
Nếu
quư vị thật sự tin tưởng th́ sẽ có thể
sửa đổi, vận mạng do chính ḿnh điều
khiển. Quư vị phải đọc Liễu Phàm Tứ Huấn
cho nhiều. Do vậy, tôi thường bảo mọi
người hăy một mực đọc Liễu Phàm Tứ
Huấn ba trăm lần, v́ sao? Chẳng đọc ba
trăm lần, quư vị chẳng thể đọc đến
mức giác ngộ được! Đọc một,
đôi lượt, xem xong liền quên bẵng, vẫn chẳng
thể chuyển vận mạng được! Niệm tới
ba trăm lần, ấn tượng sâu đậm, thật
sự tin tưởng, biết cách làm như thế nào, xác
thực là có thể sửa đổi vận mạng. Thọ
mạng ngắn ngủi có thể trường thọ, nghèo
hèn có thể trở thành phú quư. Trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng. Do đó, quư vị phải hiểu lư luận,
phương pháp, đúng lư, đúng pháp mà cầu, chẳng
có điều ǵ không đạt được! Quư vị đạt
được, không chỉ là v́ trong mạng của quư vị
có, mà c̣n là trong Chân Như bản tánh của quư vị vốn
sẵn đủ, há có thứ ǵ chẳng thể đạt
được? Chỉ là đúng lư, đúng pháp khai thác mà
thôi! Nay chúng ta khai thác, nhưng khai thác chẳng
thích đáng, nơi này có quặng vàng, quư vị biết chỗ,
bèn đào bới lên. Quư vị điều chỉnh
phương hướng, đến chỗ nọ khai thác,
chỗ đó chẳng có [quặng vàng], khai thác cách nào
cũng chẳng thể được! V́ thế nói là
phương hướng đă sai lầm, nơi chốn
đă sai lạc! Nhất định phải biết tu học
phước điền chân thật như thế nào. Xử
sự, đăi người, tiếp vật bằng cái tâm chân
thành, chắc chắn chẳng bị thiệt tḥi. Đó là
nói tới chuyện phát tâm.
“Nhất phát, nhất thiết
phát” (một thứ đă phát th́ hết thảy đều
phát), câu này quan trọng! Chớ nên đối với Phật,
Bồ Tát bằng chân tâm, đối với Phật giáo
đồ bằng chân tâm, nhưng đối với phàm
nhân trong thế gian bèn dùng giả tâm, chớ có nên! Như vậy
là quư vị vẫn dùng nhị tâm, chẳng dùng nhất tâm. Đối
với Phật, Bồ Tát dùng tâm ǵ, th́ đối với hết
thảy chúng sanh cũng là cái tâm ấy. Tức là v́ Phật,
Bồ Tát mà chúng ta dấy lên cái tâm ấy, sau khi đă phát
khởi, trong cuộc sống, xử sự, đăi người,
tiếp vật đều phải dùng cái tâm ấy, đó mới
là đúng. Hễ phát khởi bèn có tác dụng, chẳng thể
nào đă phát mà chẳng khởi tác dụng. V́ thế, phải
đối xử với hết thảy chúng sanh giống
như đối với Phật, Bồ Tát. “Phát nhất thiết công đức,
phát nhất thiết trí huệ, phát nhất thiết cảnh
giới, bất tiền, bất hậu, diệc bất nhất
thời” (phát hết thảy công đức, phát hết
thảy trí huệ, phát hết thảy cảnh giới, chẳng
trước, chẳng sau, mà cũng chẳng phải là cùng
một thời). Trước và sau thuộc về cùng một
thời, “chẳng phải là một thời” chính là “một
thời”. [Đoạn này] có ư nghĩa dạy chúng ta: Trong
khi ứng dụng bèn tùy duyên tự tại, chớ nên chấp
trước. Nhất thời là chấp trước, “bất
nhất thời” cũng là chấp trước, đều
rớt vào vọng tưởng, chấp trước. V́ thế,
câu này nhằm dạy chúng ta bỏ ĺa hết thảy vọng
tưởng, chấp trước, đó là đúng.
“Tam trí
nhất tâm trung đắc” (do nhất tâm mà đắc
ba trí): Ba Trí là Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí,
và Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Trí là chứng
đắc của A La Hán, Đạo Chủng Trí là chứng
đắc của Bồ Tát, Nhất Thiết Chủng Trí
là sự chứng đắc nơi quả địa Như
Lai. Nhất Thiết Trí là biết bản thể của hết
thảy các pháp. Đạo Chủng Trí là biết Tánh và Tướng
của hết thảy vạn pháp. Nhất Thiết Chủng
Trí là không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể, đó
là trí huệ rốt ráo viên măn, học từ nơi đâu? Do
từ nhất tâm mà đạt được! Câu này quan trọng
lắm! V́ mục tiêu tu hành của Tịnh Độ Tông là
nhất tâm, nhất tâm bất loạn. Bắt đầu là
nhất tâm, cuối cùng đắc nhất tâm, khởi
đầu bèn dạy quư vị điều ǵ? Nhất tâm niệm
Phật. Do đó, trực tiếp dùng nhất tâm, dùng nhất
tâm th́ mới có thể chứng nhất tâm. Khởi đầu
dùng nhất tâm là tâm ư thức, chẳng phải là chân tâm, mà
là vọng tâm, tức tâm ư thức. Tâm ư thức vọng niệm
rất nhiều, vọng tưởng rất nhiều, nay
ta chuyên tâm nơi một Phật hiệu, dùng một Phật
hiệu để thay thế tất cả hết thảy
vọng niệm, tức là dùng một niệm thay thế hết
thảy vọng niệm, quy hết thảy vọng niệm
vào một niệm, điều này được gọi là
“nhất tâm”, dùng phương pháp này để tu. Đến
khi tất cả hết thảy vọng niệm đều
chẳng c̣n, bèn chứng đắc nhất tâm. Nhất tâm
là chân tâm, đă chứng đắc. Phương pháp tu học
này thẳng thừng, thỏa đáng, chẳng giống các pháp
môn khác phải đi ṿng vèo, chẳng biết phải đi
ṿng vo đến khi nào th́ mới có thể đạt đến.
Pháp môn này là trực tiếp, đạt được ngay
lập tức.
V́ vậy,
chư vị đồng tu phải thật tu, thật sự
tu tập. Quư vị phải nhớ, thật sự hiểu
rơ đạo lư ấy, hiểu rơ chân tướng sự thật
th́ mới biết tu. Người biết tu
“phát Bồ Đề tâm, một
mực chuyên niệm”, từ sáng đến tối, khóa
tụng chuyên ṛng. Trong Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu
Hạnh Bồ Tát đă dạy chúng ta. Công khóa của Ngài
đơn giản, công khóa trong mười hai thời đều
hệt như nhau. Một biến
kinh A Di Đà, ba biến chú Văng Sanh, một ngàn câu Phật
hiệu, đó là công khóa mỗi lần. Khóa sáng là như vậy,
mà khóa tối cũng giống như vậy, tuyệt đối
chớ nên xen tạp những thứ khác. Đối với
khóa tụng ở nơi đây tôi vẫn chưa biết,
tôi không ở nơi đây. Đêm qua, tôi nghỉ lại
nơi đây, nghe chúng ta tụng khóa sáng ở đây. Khóa
sáng ấy xen tạp, chẳng phải là “một mực chuyên
niệm”. Vẫn xen tạp những thứ như mười
tiểu chú trong ấy, tức là đối với Sự
và Lư của Tịnh Tông vẫn chưa hiểu rơ. Nếu thật
sự hiểu rơ, sẽ chẳng phải là như vậy. Tổ
sư đại đức Tịnh Tông thường là kinh
cũng chẳng niệm, mà là niệm Phật hiệu, mỗi
ngày mười vạn câu Phật hiệu. Các Ngài cũng chẳng
có khóa sáng hay khóa tối chi cả, một ngày niệm mười
vạn câu Phật hiệu, quyết định văng sanh.
[Khóa
tụng] do Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đă dạy
là chuyên tu. V́ sao trước hết bảo quư vị niệm
một biến kinh, niệm ba biến chú Văng Sanh? Nhằm thâu
hồi cái tâm, nhiếp tâm, chế phục vọng niệm.
Chế phục vọng niệm th́ Phật hiệu mới
có công đức, mới tương ứng, nên bảo quư
vị niệm một ngàn câu Phật hiệu. Trong cây
hương thứ hai cũng làm như vậy, cách niệm
đại khái là như vậy. Niệm một ngàn câu Phật
hiệu gần như là hai tiếng đồng hồ. Nếu
muốn thực hiện Tinh Tấn Phật Thất th́ một
ngày một đêm là mười hai cây hương, khóa tŕnh
hoàn toàn giống nhau. Một ngày là mười hai biến kinh
Vô Lượng Thọ, mỗi lượt đều là ba
biến chú Văng Sanh, một ngàn câu Phật hiệu. Một
ngày một đêm là một vạn hai ngàn tiếng Phật
hiệu, nếu có thừa thời gian bèn lạy Phật.
Phương pháp này đắc lực. Do đó, đáng kỵ
nhất là xen tạp. Chúng tôi chỉ có thể khuyên lơn ở
nơi đây, hiện thời con cái chẳng nghe lời cha
mẹ, đồ đệ cũng chẳng nghe lời thầy,
đó là hiện tượng rất b́nh thường. V́ thế
nói: Mỗi người mỗi tu, thành tựu của quư vị
chẳng có liên can ǵ với tôi, mà thành tựu của tôi
cũng chẳng thể cho quư vị hưởng ké
được! Nhưng tôi chẳng thể không nói cho quư vị
biết. Không nói cho quư vị biết tức là có lỗi với
quư vị. Đă bảo ban mà quư vị chẳng làm, đó là
chuyện của chính quư vị, quư vị chẳng thể
trách tôi! V́ thế, Tam Trí do nhất tâm mà đắc.
Giống
như trong Thiền Tông, tọa hương trong Thiền
Đường, thứ ǵ cũng đều chẳng có.
Trong mười hai thời, bảo quư vị tĩnh tọa.
Ngồi đến khi tê chân th́ chạy hương, [đó
là] vận động. Sau khi chạy xong, lại tĩnh tọa,
khiến cho quư vị đoạn hết vọng tưởng,
do nhất tâm mà đắc. Bất luận pháp môn nào
cũng đều do nhất tâm mà đắc, tuyệt đối
chẳng thể nói là do tạp tâm mà sẽ đạt
được, chẳng có đạo lư ấy. Tra duyệt
khắp Đại Tạng Kinh, có kinh nào nói do hai tâm hay ba tâm
mà đạt được hay không? Chẳng có! Chúng ta mong
thật sự đạt được thành tựu trong một
đời này th́ chớ nên không biết điều này!
Kế
đó là nói “đắc Như
Lai diệu sắc thân, trạm nhiên ứng nhất thiết,
khai bí mật tạng, dĩ bất trụ pháp, tức trụ
kỳ trung” (đạt được sắc thân mầu
nhiệm của Như Lai, b́nh lặng ứng với hết
thảy, mở tạng bí mật, do chẳng trụ pháp mà
liền trụ trong ấy). Tu hành th́ bắt đầu tu từ
nhất tâm, đạt được quả báo là tam trí [th́ cũng] do từ nhất
tâm mà đạt được. Tam Thân, tức Pháp Thân, Báo Thân,
Ứng Thân; Tam Đức là Pháp Thân, Bát Nhă, và Giải Thoát,
tất cả đều vốn sẵn có trong nhất tâm. V́
nhất tâm là chân tâm, nhất tâm là bản tánh, vốn sẵn
trọn đủ. Chúng ta xem lời giải thích cuối
cùng nơi trang ba mươi bảy, ḍng thứ tư đếm
từ dưới lên, xem từ câu cuối cùng: “Tam Thân, Tam Đức, thể ly
tung hoành”. “Tung” (縱) là nói theo chiều dọc, nói
đến [thứ tự] trước sau; “hoành” (橫) là nói theo chiều ngang, nay
chúng ta gọi [“tung hoành”] là
thời gian và không gian. “Ly” (離) là vượt
thoát. [Câu ấy có nghĩa là] Tam Thân và Tam Đức đều
vượt thoát thời gian và không gian. Dùng thuật ngữ
hiện đại để nói khiến cho mọi người
dễ hiểu hơn: [“Thể
ly tung hoành”] là vượt thoát thời gian và không gian. Trước
kia chẳng hiểu, “kim thỉ
phát minh” (nay mới phát hiện, hiểu rơ), “phát” (發) là phát hiện, đến
nay mới phát hiện; “minh” (明) là hiểu rơ. Tới
nay mới phát hiện, hiện nay mới hiểu rơ! “Danh khai bí tạng” (gọi là
mở kho tàng bí mật): Từ vô thỉ kiếp đến
nay, nó được cất giấu ở chỗ này,
trước nay chưa bị phát hiện, dường như
là bí mật, nay đă mở toang ra. “Nhập Lư Bát Nhă danh vi Trụ” (do nhập Lư Bát Nhă,
nên gọi là Trụ), Lư Bát Nhă là ǵ? Là Căn Bản Trí. Kinh Bát
Nhă nói: “Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng
biết”, vô tri là tâm thanh tịnh, vô tri là Định.
Định là Thể, Huệ là Dụng. Huệ là Thể, Định
là Dụng. Định và Huệ có thể làm Thể và Dụng
cho lẫn nhau. Có thể dùng làm Thể và Dụng của lẫn
nhau th́ mới lần lượt tiến cao hơn. Đó gọi
là Trụ, chính như kinh Kim Cang đă nói “vân hà ưng trụ” (nên trụ như thế nào).
Thích
Ca Mâu Ni Phật đă dạy tôn giả Tu Bồ Đề,
tôn giả Tu Bồ Đề hỏi: “Nên trụ như thế
nào?” Đức Phật bèn nói, nói thẳng thừng: Trụ
theo cách giống như vậy là đúng. Thích Ca Mâu Ni Phật
trụ nơi đâu? Quư vị đọc kinh Kim Cang có t́m ra
hay không? Thật sự t́m chẳng ra, trong kinh Kim Cang có hai
câu đă nói rơ ràng: “Vô trụ Niết
Bàn”, chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ Niết
Bàn, đó là “Phật trụ”.
Nói thật ra, chúng ta vẫn chưa học được,
nay chúng ta có thể học được [bằng cách] trụ
cái tâm nơi Phật hiệu A Di Đà Phật, trụ
nơi Phật tướng của A Di Đà Phật, cách này
hay lắm! Trụ nơi danh hiệu của A Di Đà Phật,
hay trụ nơi thân tướng của Ngài cũng là nhập
Lư Bát Nhă, v́ sao? Nếu quư vị chẳng có trí huệ
như vậy, sẽ chẳng thể an trụ cái tâm ở
nơi ấy. “Thử trụ
vô trụ, trụ bí tạng trung” (trụ nơi vô trụ
chính là trụ trong kho tàng bí mật), đó là cảnh giới
của kinh Kim Cang, chẳng phải là cảnh giới
như tôi vừa mới nói. Nhưng trong cảnh giới
như chúng tôi vừa mới nói, hễ văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới liền tiến
nhập “trụ bí tạng trung”.
Tuy vậy, an trụ cái tâm nơi danh hiệu hoặc thân
tướng của A Di Đà Phật là chuyện chúng ta có
thể làm được trong hiện tại.
Đoạn
kế tiếp là “ước bị
vật minh Phật dụng” (dựa trên những chúng
sanh được Phật hóa độ để nói về
tác dụng của Phật), đây là nói đến tác dụng.
Chúng ta đọc đoạn văn này một lượt:
“Dĩ phổ hiện sắc
thân, tác chúng sắc tướng” (nhằm hiện trọn
khắp các sắc thân [ứng với mọi loài chúng sanh]
mà hiện ra các thứ sắc tướng). Đây là nói
đến chuyện “tùy loại
hóa thân” (hóa thân tương ứng với từng loài).
“Nhất
âm tùy loại, báo đáp chư thanh” (một âm thanh mà tùy
theo từng loại biến thành các thứ âm thanh nhằm trả
lời [ứng với ngôn ngữ của từng loại
chúng sanh]), đây là nói về chuyện thuyết pháp. “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết
pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải” (Phật
dùng một âm để thập phương, chúng sanh tùy
theo từng loại đều hiểu). Phá một phẩm
vô minh, chứng một phần Pháp Thân sẽ làm được,
sẽ có năng lực ấy. Ngài thuyết pháp cho hết
thảy chúng sanh chẳng cần phiên dịch. Người
Trung Quốc nghe thành tiếng Trung Quốc, người Nhật
Bản đang hiện diện cùng nghe, thấy [đức
Phật] đang nói bằng tiếng Nhật. Chẳng cần
phiên dịch, mỗi người đều nghe khác nhau,
đều [nghe thành] ngôn ngữ của chính ḿnh, đều
có thể nghe hiểu, đều có thể tiếp nhận,
rất chẳng thể nghĩ bàn! Năng lực ấy có
thật hay không? Các khoa học gia hiện thời tin tưởng
[chuyện ấy], v́ các nhà khoa học lợi dụng computer,
computer có thể sanh ra năng lực ấy. Trong tương
lai, sang du lịch ngoại quốc, sau khi loại computer ấy
đă được thật sự phát minh, chẳng cần
phiên dịch, computer có thể dịch được. Có thể
thấy chuyện này là thật, chẳng giả, là đức
năng vốn sẵn có trong bản tánh.
“Bất
động Chân Tế, quần t́nh đẳng duyệt”
(Chân Tế chẳng động, mọi loài đều vui
sướng). Chân Tế (真際) là chân tánh, chân
tánh bất động, chân thân chẳng động, chúng
sanh hữu duyên trong mười phương pháp giới
đều là pháp hỷ sung măn. Có thể nói là trong mỗi
phút, mỗi giây, A Di Đà Phật đều ở trong
mười phương thế giới tiếp dẫn vô
lượng vô biên chúng sanh văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Chúng ta [nghe như vậy bèn] nói “A Di Đà
Phật bận bịu chết luôn!” Thật ra, A Di Đà Phật
có động hay chăng? Chẳng động, Ngài ngồi
chễm chệ trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chẳng động! Chẳng động th́ đến
[mười phương thế giới] bằng cách nào?
Hóa thân đến. Thân Phật có vô lượng quang minh, trong
quang minh có vô lượng vô biên Hóa Phật đến mười
phương thế giới tiếp dẫn. Chẳng động,
mà [người niệm Phật văng sanh trong] mười
phương thế giới đều thấy A Di Đà Phật
đến tiếp dẫn họ. Chẳng động Chân
Tế, mà muôn loài đều hoan hỷ. “Ưng dĩ tam luân độ giả’ (đối
với kẻ nên dùng tam luân để độ), “tam luân” (三輪) là thân, miệng,
ư. “Năng bát tướng thành
đạo cụ Phật oai nghi, dĩ Phật âm thanh,
phương tiện nhi độ thoát chi, huống cửu
pháp giới tam luân da? Sơ Trụ thượng nhĩ, huống
Đẳng Giác da? Thị danh Phần Chứng Tức Phật
dă” (có thể hiện tám tướng thành đạo,
đầy đủ các oai nghi của Phật, dùng âm thanh và
phương tiện của Phật để độ
thoát, huống hồ tam luân của [các chúng sanh] trong chín pháp
giới [mà Ngài chẳng thể biến hiện] ư? Sơ
Trụ Bồ Tát c̣n [có năng lực] như thế, huống
là Đẳng Giác? Đó gọi là Phần Chứng Tức
Phật vậy). Giảng rất rơ ràng! Nhưng sợ
chư vị chẳng hiểu rơ chữ Tam Luân trong đoạn
ấy cho lắm, nên trong chú giải có [giải thích]. Lời
chú giải thuộc trang ba mươi tám, tức là ḍng thứ
ba đếm từ dưới lên trong trang ấy, xem từ
câu cuối cùng. “Oai nghi thuộc
thân, âm thanh thuộc khẩu, phương tiện thuộc
ư”, đó là tam luân. Tam Luân là nói tới thân, khẩu, ư. Phật
độ chúng sanh, cả ba thứ ấy đều phải
dùng. Phải dùng thân tướng, phải dùng ngôn ngữ, phải
dùng các thứ phương pháp phương tiện quyền
xảo. “Ưng dĩ Phật
độ, tức hiện Phật tam” [nghĩa là]
đáng nên dùng thân Phật để độ, bèn hiện
thân, khẩu, ư của Phật; đáng nên dùng thân phận Bồ
Tát để độ, bèn dùng thân, khẩu, ư của Bồ
Tát; đó là “tam luân”. Câu cuối
cùng là: “Lương do vị vị
Thỉ Giác, Bổn Giác, nhất hợp câu vong, trí sử Thể
Dụng cao quảng nhược thử” (ấy là v́
trong từng địa vị [của Pháp Thân Bồ Tát], Thỉ
Giác hợp với Bổn Giác, hễ hợp lại th́ những
tướng đối đăi đều mất sạch,
khiến cho Thể và Dụng cao rộng dường ấy).
Có nghĩa là: Đạt đến địa vị Phần
Chứng Tức, sử dụng chân tâm, nên ĺa hết thảy
các tướng, giống như kinh Kim Cang đă dạy: “Chẳng chấp lấy tướng,
như như bất động”, nên Ngài có tác dụng rộng
lớn vô biên. À! Chúng tôi giảng đến đây!
Tập
7
Xin mở tới trang ba
mươi chín trong kinh bổn, xem hàng thứ hai, [phần
nói về] Cứu Cánh Tức:
“Cứu Cánh Phật giả,
đạo cùng Diệu Giác, vị cực ư Trà. Cố
duy Phật dữ Phật năi năng cứu cánh chư pháp
Thật Tướng, biên tế trí măn, Chủng Giác
đốn viên. Vô Thượng Sĩ giả, danh Vô Sở Đoạn.
Vô Thượng Sĩ giả, cánh vô quá giả” (Cứu
Cánh Phật là đạo cùng tột Diệu Giác, địa
vị vượt trỗi tột bậc, nên chỉ có
Phật và Phật mới có thể hiểu thấu rốt
ráo Thật Tướng của các pháp, trí huệ viên măn
tột cùng bờ mé, mau chóng viên măn Chủng Giác. Vô
Thượng Sĩ c̣n gọi là Vô Sở Đoạn (không
có ǵ để đoạn). Vô Thượng Sĩ là không có
ai hơn được), đến đây là một
đoạn. Đoạn kế đó là tỷ dụ: “Như thập ngũ nhật
nguyệt, viên măn cụ túc, chúng tinh trung vương,
tối thượng, tối thắng, oai đức
đặc tôn, thị danh Cứu Cánh Phật nghĩa”
(như trăng rằm, tṛn đầy vẹn toàn, là vua
của các ngôi sao, tối thượng, tối thắng, oai
đức đặc biệt tôn quư, đó là ư nghĩa
của từ ngữ Cứu Cánh Phật). Cứu Cánh
Phật là quả vị viên măn trong Viên Giáo, địa
vị cao hơn Đẳng Giác, đă đoạn sạch bốn
mươi mốt phẩm vô minh; khi đó, chúng ta gọi
Ngài là Diệu Giác. Chữ Trà (茶) trong câu “vị
cực ư Trà” chính là [chữ Trà] trong Phạn văn
của Ấn Độ. [Phạn văn] giống như Anh Văn, do từng chữ cái ghép
lại tạo thành âm; có tất cả bốn mươi
hai chữ cái, Trà (kṣa:) là chữ cái cuối cùng. So với bốn mươi mốt
quả vị trước đó, [quả vị] bốn
mươi hai là rốt ráo viên măn thành Phật, tỷ
dụ như vậy. Chữ Trà là tiếng Phạn dịch
âm, [“vị cực ư Trà”]
tức là bốn mươi hai chữ cái đă đến
cuối cùng, sau đó chẳng c̣n ǵ nữa, tỷ dụ
quả vị đă đạt tới chỗ tột cùng. “Duy Phật dữ Phật”: Chỉ
có bậc đă chứng cực quả mới có thể hiểu
rơ triệt để viên măn chân tướng của nhân sinh
và vũ trụ. Đẳng Giác Bồ Tát tuy hiểu rơ,
vẫn chưa thể nói là rốt ráo hiểu rơ. Phải
đạt đến quả vị Như Lai th́ mới
thật sự hoàn toàn hiểu rơ, phá sạch vô minh.
V́ thế, nói đến
chuyện tu hành; nói chung, phải đặc biệt chú ư,
phương pháp tu hành rất nhiều, thường nói là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”,
hoặc “vô lượng pháp môn”,
chúng ta dùng các pháp môn ấy chẳng có hiệu quả,
chớ nên không biết điều này! Thật giống
như ngă bệnh phải uống thuốc, sau khi uống
thuốc, bệnh trạng có khá hơn hay không? Tôi tin mỗi
người bị bệnh đều biết chuyện này.
Nếu uống thuốc vào mà bệnh chẳng chuyển
biến khá hơn, nhất định là phải t́m ṭi lần
nữa, hoặc lại đi khám bệnh lần nữa.
Nếu uống thuốc chẳng đúng với chứng
bệnh, uống vào không chỉ chẳng khá hơn, mà
uống vào bệnh ngày càng nguy ngập hơn, đáng
sợ quá! Phật pháp giống như thuốc. Hiện
thời, mọi người cũng chẳng đi khám bác
sĩ, cũng chẳng có kiến thức thông thường
về y học, cứ uống thuốc loạn xạ,
đáng sợ thay! Tu hành chẳng có thành tựu th́ vẫn
c̣n chưa đáng ngại, chứ trong tương lai
đoạn mất Pháp Thân huệ mạng, vấn
đề sẽ nghiêm trọng, nhất định
phải chú ư điều này!
Căn bệnh nặng của chúng
ta, nói thật ra, trừ phiền năo ra, sẽ là vô minh. Vô
minh là ǵ? Tà tri tà kiến; tà tri tà kiến là vô minh. Kinh
Lăng Nghiêm có nói: “Tri kiến lập
tri, thị vô minh bổn” (từ trên tri kiến lại lập
ra một cái biết nữa, đó là cội gốc của
vô minh), trên tri kiến lại lập thêm một cái tri kiến,
đó là tà tri tà kiến. Cách nghĩ sai lầm, cách nh́n sai lầm,
đó là bệnh nặng. Nguyên tắc trị liệu là trước
hết dạy chúng ta điều ǵ cũng đều không
nghĩ tới, cách nghĩ và cách nh́n thảy đều
ngưng dứt, khiến cho cái tâm khôi phục sự thanh tịnh,
điều này được gọi là “tu Định”. Bất luận pháp môn nào, hễ
nói đến công phu thật sự đều là tu Định.
Đầu tiên là tu tâm thanh tịnh. Tâm chẳng thanh tịnh
th́ niệm Phật cũng vô dụng, cũng chẳng thể
tương ứng. Đẳng Giác Bồ Tát v́ c̣n có một
phẩm vô minh chưa đoạn, nói cách khác, nếu so với
Phật, tâm Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thanh tịnh.
So với chúng ta, tâm Ngài đúng là thanh tịnh tột bậc,
nhưng so với Phật th́ chẳng bằng! Do đó,
Đẳng Giác Bồ Tát vẫn đới nghiệp, nhưng
Ngài mang theo nghiệp ít nhất. V́ c̣n có chút chướng ngại,
Ngài vẫn chưa thể rốt ráo triệt để hiểu
rơ Thật Tướng của các pháp. Chẳng hạn
như nói đến y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây
Phương Cực Lạc thế giới và công đức
thù thắng do niệm Phật văng sanh, Đẳng Giác Bồ
Tát chưa thể hoàn toàn hiểu rơ, Ngài c̣n có chút chướng
ngại như thế. Do đó, người thật sự tu hành phải luôn biết ḿnh đang
tu ǵ? Trừ bỏ hết thảy những sai lầm, khôi
phục chánh tri chánh kiến, đó là đúng. Kinh Pháp
Hoa nói rất hay: “Khai thị ngộ
nhập Phật chi tri kiến”. Tri kiến của Phật
là chánh tri chánh kiến, như vậy th́ mới có thể
đạt đến Cứu Cánh Giác.
“Biên tế
trí măn” (trí huệ viên măn tột cùng ngằn mé): Trí huệ
viên măn. “Biên tế” (邊際: bờ mé) là nói “thụ cùng tam tế, hoành biến
thập phương” (theo chiều dọc trọn khắp
ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười
phương). Tận hư không khắp pháp giới không ǵ chẳng
biết, trí huệ ấy mới được coi là viên
măn. “Chủng Giác đốn
viên”: Chủng (種) là Nhất Thiết Chủng
Trí, khi ấy, đă viên măn, nên Ngài được gọi là
Vô Thượng Sĩ, chẳng có ai cao hơn Ngài được!
“Danh Vô Sở Đoạn” (gọi
là Không Có Ǵ Để Đoạn). Đẳng Giác Bồ
Tát c̣n có cái phải đoạn, [tức là] c̣n phải
đoạn một phẩm sanh tướng vô minh. Đạt
đến địa vị Phật th́ Phật chẳng có
ǵ phải đoạn, những ǵ đáng nên đoạn đều
đă đoạn hết, chẳng c̣n ǵ để đoạn
nữa, [nên gọi là] Vô Sở Đoạn. “Vô Thượng Sĩ giả, cánh vô quá giả” (Vô
Thượng Sĩ là không có ai cao hơn được), chẳng
c̣n có ai vượt trỗi Ngài. Trong mười pháp giới,
Ngài là chí cao vô thượng. Kế đó là tỷ dụ, giống
như vầng trăng Rằm, viên măn trọn đủ. Vầng
trăng Mười Bốn tuy tṛn, vẫn c̣n thiếu khuyết
một chút. Kinh thường sánh ví trăng Mười Bốn
như Đẳng Giác Bồ Tát, sánh ví trăng Rằm với
Phật quả. Đó là Cứu Cánh Giác. Do Ngài là tối
thượng, tối thù thắng, “oai đức đặc tôn” (oai đức đặc
biệt tôn quư), nên gọi là Cứu Cánh Phật.
Chúng
ta xem đoạn kế tiếp: “Phật
hữu vô lượng đức, ưng hữu vô lượng
hiệu” (Phật có vô lượng đức, nên phải
có vô lượng hiệu), đúng vậy! Danh hiệu của
Phật là vô lượng vô biên, v́ sao? Một đức hiệu
chẳng thể biểu thị sự vô lượng, chẳng
thể hiển thị sự vô lượng. Chẳng cần
nói tới Phật, người thế gian chúng ta có lắm
kẻ rất thông minh, có trí huệ, rất giỏi giang, lắm
tài, nhiều nghề. Mở danh thiếp của họ ra
xem, quư vị thấy ghi mười mấy tước hiệu.
Nếu quư vị hỏi kẻ đó, một tước hiệu
có được hay không? Một [tước hiệu] th́ sẽ
chẳng thể tiêu biểu thân phận và địa vị
của người đó. Đức năng trong Chân Như
bản tánh chẳng thể nói trọn, nên quư vị thấy
trong kinh Phật có một bản kinh là Vạn Phật Danh
Kinh. Danh hiệu của một vạn vị Phật chính
là danh hiệu của một vị Phật, Ngài có danh hiệu
nhiều ngần ấy, vẫn chỉ là nói đại
lược đó thôi! Phàm các danh hiệu Phật đều
nhằm nói tới Tánh Đức vốn sẵn trọn đủ
trong Chân Như bản tánh, danh hiệu của Bồ Tát gọi
là Tu Đức. Tánh Đức có bao nhiêu th́ Tu Đức
cũng nhiều ngần ấy. Phật pháp tuyệt đối
chẳng phải là một loại đa thần giáo, tuyệt
đối chẳng phải là phiếm thần giáo. Kinh Hoa
Nghiêm dạy: “Một chính là nhiều,
nhiều chính là một”. Ngài là một người lắm
tài, nhiều nghề, nên mới có nhiều danh hiệu
dường ấy, tỏ lộ trí huệ và đức năng
của Ngài là vô lượng vô biên, mang ư nghĩa này.
“Cử nhất tế chư” (Nêu ra một th́
những điều khác bị khuất lấp). Danh hiệu
nhiều [là v́] chỉ nêu ra một [danh hiệu] th́ [chỉ
có một Tánh Đức được tỏ lộ], những
điều khác chẳng được hiển lộ.
Đó là nguyên nhân v́ sao phải có lắm danh hiệu như
thế! Danh hiệu quá nhiều cũng phiền, cũng chẳng
rơ ràng. V́ thế, quy nạp vô lượng danh hiệu của
Phật thành mười hiệu, các kinh thường nói tổng
quát là đức Phật có mười hiệu, đó là các
danh hiệu chúng ta thường thấy. “Hoa Nghiêm hữu thập vạn hiệu” (kinh Hoa
Nghiêm nói [đức Phật] có mười vạn hiệu),
bản in ở đây bị sót một chữ, quư vị
hăy thêm vào, [tức là] “hữu
thập vạn hiệu” [thay v́ “hữu thập hiệu”], kinh Hoa Nghiêm nói Phật có
mười vạn hiệu. “Hựu
kinh hữu vạn hiệu, tam thế chư Phật thông hữu
thập hiệu” (Lại có kinh nói Phật có một vạn
danh hiệu, ba đời chư Phật có mười hiệu
chung). Mười hiệu ấy là vô lượng vô biên danh
hiệu được quy nạp, quy nạp lại giống
như cương lănh, có mười hiệu. “Tịnh Danh tam hiệu, dĩ kiếp
thọ thuyết, bất năng linh tận, hà huống
chư hiệu da?” (Đối với ba hiệu trong kinh
Tịnh Danh, dùng tuổi thọ dài bằng cả kiếp
để nói [các ư nghĩa được bao hàm trong ấy]
vẫn chưa thể nói hết, huống là các danh hiệu
ư?). Tịnh Danh là kinh Duy Ma. Ba hiệu được
nói trong kinh Duy Ma, nói thật ra là ba hiệu trong mười
hiệu. Câu này nằm trong trang bốn mươi, ḍng thứ
năm đếm từ dưới lên, quư vị hăy xem
trong ḍng ấy. “Tịnh Danh
kinh vân, Chánh Biến Tri, Như Lai cập Phật” (kinh Tịnh
Danh nói [ba hiệu] là Chánh Biến Tri, Như Lai và Phật).
Ba hiệu ấy chính là ba hiệu trong mười hiệu.
Ba hiệu ấy, “thử tam cú
nghĩa, đại thiên chúng sanh” (Đối với ư
nghĩa của ba câu ấy, chúng sanh trong cơi đại
thiên), [ư nói] chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới,
“giai như A Nan đa văn
đệ nhất” (đều là bậc đa văn hạng
nhất như ngài A Nan), thông minh, có trí huệ giống
như tôn giả A Nan đa văn bậc nhất. “Dĩ kiếp chi thọ” (dùng
tuổi thọ dài bằng cả kiếp), thọ mạng lâu
cỡ nào? Thọ mạng dài đến một đại
kiếp, [dùng tuổi thọ dài lâu như vậy để]
giải nói ư nghĩa của ba danh hiệu ấy đều
nói chẳng trọn, huống hồ mười danh hiệu!
Huống hồ vô lượng danh hiệu! Những ư
nghĩa được bao hàm trong mỗi danh hiệu đều
là rộng lớn vô biên, chẳng thể nói trọn hết.
Đến
chỗ này mới coi như đă giới thiệu xong chữ
Phật trong tựa đề Phật Thuyết Quán Vô
Lượng Thọ Kinh, giảng xong một chữ. Dưới
đây là chữ thứ hai, tức Thuyết trong Phật Thuyết.
“Thuyết
giả, duyệt sở hoài dă” (Thuyết là thỏa thích
bổn hoài), chúng ta thường thấy cách giải thích
này trong [chú giải của] hết thảy các kinh. Tiếp
đó, sách viết: “Tức thập
nhị bộ kinh” (tức là mười hai thể loại
được sử dụng trong kinh Phật). Thập Nhị
Bộ Kinh là toàn thể kinh Phật. Nếu nói theo cách hiện
thời, kinh Phật có tổng cộng mười hai loại
thể tài (genre) khác nhau. Do đó, nói đến mười
hai loại thể tài ấy sẽ bao gồm toàn thể Phật
pháp. “Bát vạn pháp tạng”
(tám vạn pháp tạng), nói tới phương pháp và
đường lối tu học. “Lục Độ, Tứ đẳng” (Lục
Độ, Tứ Tất Đàn v.v…): Lục Độ là sáu
Ba La Mật, tức là cương lănh tu hành của Bồ
Tát; “Tứ” là nói đến
Tứ Tất Đàn. “Nhất
thiết pháp môn, hựu ư nhất pháp trung, tác tứ môn
phân biệt. Ư nhất nhất môn, xảo tác Tứ Tất
Đàn lợi ích, văn giả hoan hỷ, tán dụng, thọ
hành, Thí, Giới, Tấn, Niệm, nhi đắc khai phát.
Tham, khuể, ngu si, hoát nhĩ băng tiêu, cách phàm thành thánh,
nhập pháp lưu thủy, hoặc nhị tam nhất ích. Nhược
đô vô ích, tắc thị mặc nhiên” (Trong mỗi pháp
thuộc hết thảy các pháp môn lại phân biệt thành bốn
môn. Trong mỗi môn, khéo tạo lợi ích Tứ Tất
Đàn. Người nghe hoan hỷ, khen ngợi tác dụng [của Phật pháp], tiếp
nhận, hành tŕ. Thí, Giới, Tinh Tấn, Niệm bèn
được khai phát. Tham, sân, ngu si bỗng dưng tiêu
tan. Thoát phàm thành thánh, dự vào ḍng pháp, hoặc [người
nghe] sẽ đạt được hai, ba hoặc một
điều lợi ích. Nếu [những pháp muốn nói ấy]
đều vô ích [cho người nghe], đức Phật
bèn thị hiện im lặng). Đoạn này giải thích
chữ Thuyết. Không chỉ giải thích chữ Thuyết,
mà một đoạn lớn sau đó, tức là cả một
đoạn lớn từ sau chữ “thập nhị bộ” trở đi mà chúng ta vừa
đọc là nói về những điều do đức Phật
đă giảng. Trong phần nói về “sở thuyết” (những
pháp đă được nói), đă nêu ra một nguyên tắc:
Đức Phật thuyết pháp chắc chắn có lợi
ích cho chúng sanh. Lợi ích nhiều hay ít, sâu hay cạn khác
nhau. Nếu chẳng có lợi ích, đức Phật sẽ
chẳng nói. Ở đây viết là “nhược đô vô ích, tắc thị mặc nhiên”
(nếu đều là vô ích, th́ Ngài thị hiện im lặng),
đức Phật sẽ chẳng nói.
“Nhược
nhất cơ khấu thánh, ư nhất môn thí Tứ Ích giả”
(nếu một căn cơ cảm thánh tâm, Ngài sẽ ban bố
bốn món lợi ích trong một môn). “Nhất môn” là một loại pháp môn, Tứ Ích là
Tứ Tất Đàn. “Dư tam
môn diệc như thị, vị nhất duyên thuyết nhất
pháp kư nhĩ, chư duyên chư pháp diệc như thị” (ba
môn kia cũng giống như thế, v́ một duyên mà thuyết
một pháp đă là như thế, th́ các duyên, các pháp cũng
giống như thế). Đoạn này có nghĩa là: Hễ
có kẻ nào có nghi vấn, hướng về đức Phật
thỉnh giáo, đức Phật thuyết pháp cho kẻ ấy,
chẳng ĺa khỏi Tứ Tất Đàn. Nếu là rất
nhiều người, đức Phật thuyết pháp cho đại
chúng cũng chẳng ĺa khỏi nguyên tắc này. Đây là
nói về nguyên tắc thuyết pháp. Chúng ta xem chú giải, ḍng
thứ nhất trong phần chú giải, hăy xem từ nửa
đoạn sau: “Nhược tựu
bổn kinh, tức thị Như Lai cửu tu cửu chứng
Niệm Phật tam-muội, uẩn chi tại hoài” (Nếu
xét theo kinh này, sẽ là Như Lai tu chứng Niệm Phật
tam-muội đă lâu, ấp ủ trong ḷng). Câu này quan trọng,
[nêu rơ kinh này] nói chẳng khác ǵ kinh Vô Lượng Thọ và
kinh Di Đà. Đức Phật thành Phật như thế
nào? Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă
nói: “
Đức
Phật thấy cơ duyên thành Phật của chúng sanh đă
chín muồi. Cơ duyên thành Phật đă chín muồi th́ nếu
đức Phật phải giảng pháp Bồ Tát hay nói pháp
thành A La Hán cho họ, th́ sẽ có lỗi với họ! Đức
Phật thuyết pháp bèn ứng theo căn cơ mà ban bố
giáo pháp. Ngài xét thấy kẻ ấy vẫn chưa có phần
thành Phật trong một đời này, chỉ có thể thành
Bồ Tát, đức Phật liền giảng pháp Bồ
Tát, chắc chắn chẳng giảng pháp thành Phật cho kẻ
ấy. V́ sao? Kẻ ấy chẳng có phước báo đó,
có giảng th́ kẻ ấy cũng trọn chẳng tin
tưởng, nói uổng công! V́ lẽ đó, đức Phật
thuyết pháp khế cơ, khế lư! Thấy cơ duyên thành
Phật đă chín muồi, nói cách khác, đối với
pháp môn thành Phật này, nói với kẻ ấy, kẻ ấy
có thể tin tưởng, có thể lư giải, có thể
nghiêm túc học tập, quyết định thành Phật
trong một đời này. Đó là pháp môn ǵ? Pháp môn Niệm
Phật. Ba kinh Tịnh Độ đều nhằm dạy
chúng sanh thành Phật, chẳng phải là nói với những
kẻ b́nh phàm. Pháp môn này, đức Phật ấp ủ trong
ḷng đă lâu, t́m chẳng thấy đối tượng, lần
này t́m được đối tượng, Ngài hoan hỷ
lắm, hoan hỷ hơn [khi nói] bất cứ pháp môn nào
khác. Độ chúng sanh th́ trong một đời, quư vị
có thể độ mấy chúng sanh thành Phật? Lần này
gặp được kẻ sẽ nhanh chóng thành Phật,
tuyệt diệu quá, chẳng thể bỏ lỡ cơ hội!
V́ lẽ đó, đức Phật nói pháp môn Tịnh Tông, tỏ
lộ niềm hoan hỷ khôn sánh, từ Đại Kinh chúng
ta thấy được chuyện này. “Kim cơ khấu phát thuyết chi” (nay do căn
cơ tương ứng phát khởi, bèn nói [pháp môn này]). Chữ
“cơ” (機) chỉ phu nhân Vi
Đề Hy. [Đức Phật] gặp được vị
này, thiện căn, phước đức, nhân duyên của
bà ta trong vô lượng kiếp đến nay đă chín muồi,
đức Phật bèn truyền dạy bà ta pháp môn này, bà ta sẽ
thành Phật trong hiện thời. “Năi sướng tích chi sở hoài dă” (bèn thỏa
thích nỗi niềm ấp ủ từ trước). Điều
ấp ủ trong tâm rất muốn nói, nhưng chẳng t́m
thấy đối tượng, lần này đă gặp
được. Chúng ta phải chú ư mấy câu này.
Tiếp
theo đây, chúng ta lại lật qua trang bốn mươi
hai. Trong trang bốn mươi hai có một khuôn mẫu thuyết
pháp. Bất luận đồng tu tại gia hay xuất gia,
trong tương lai muốn phát tâm thuyết pháp cho kẻ
khác, phải nhớ nguyên tắc này. Quư vị không hiểu
nguyên tắc này, sẽ không phải là giảng Phật pháp!
Phải hiểu nguyên tắc này! Trong trang bốn
mươi hai, ḍng thứ hai, xem từ ḍng ấy. “Thú cử nhất pháp”, [nghĩa
là] tùy tiện chọn lấy một pháp, “tu khai tứ môn” (cần phải mở ra bốn
môn), [nghĩa là] nhất định phải hiểu Tứ
Tất Đàn. Tất Đàn (Siddhanta) là tiếng Phạn, dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Biến Thí (遍施), [có nghĩa là] phổ
biến dùng Phật pháp bố thí hết thảy chúng sanh.
Trong đó bốn loại, nên chúng ta gọi là Tứ Tất
Đàn. “Cơ sanh thục cố”
(do căn cơ có sống và chín), Cơ (機) là đối
tượng để thuyết pháp. Quư vị nói với kẻ
đó, cơ duyên của kẻ đó đă chín muồi hay
chưa? Chín muồi đến mức độ nào? [Mỗi
người] có mức độ sống chín khác nhau, quư vị
thuyết pháp cho họ sẽ khác nhau, “Tứ Tất bị chi” (mà Tứ Tất Đàn sẽ
tương ứng). Dưới đây sẽ giảng rơ.
“Vi vị
chủng giả, tác thế giới thuyết” (Đối
với kẻ chưa gieo [thiện căn nơi Phật
pháp], bèn nói pháp theo kiểu Thế Giới Tất Đàn):
Đây là điều thứ nhất trong Tứ Tất
Đàn, tức Thế Giới Tất Đàn, nói với hạng
người nào? Nói với người chưa gieo thiện
căn, cũng là nói với kẻ b́nh phàm trong xă hội. Mục
tiêu thuyết pháp là đâu? Nhằm vào mục đích khiến
cho họ nhận biết Phật giáo. Khi nghe Phật giáo,
tâm người ấy hoan hỷ, nhưng vẫn không nhất
định tiếp nhận, vẫn chưa muốn học
Phật; chỉ nhằm dạy cho kẻ ấy nhận biết
Phật giáo, đừng nẩy sanh hiểu lầm đối
với Phật giáo, mục đích ở chỗ này. Đó
là khiến cho kẻ ấy hoan hỷ. Nói theo thực tế
sẽ là “linh kỳ nhạo dục,
tán dụng, thọ hành” (khiến cho kẻ ấy ưa
thích, khen ngợi hữu dụng, chấp nhận), nhắm
đến mục đích này, hy vọng người ấy
sẽ hoan hỷ, chẳng đến nỗi hiểu lầm
Phật pháp, tán thán Phật pháp, biết Phật pháp c̣n có chỗ
hữu dụng đối với xă hội, chẳng có hại;
kiến lập một quan niệm chánh xác cho người ấy.
Đó là một cách nói. Chúng ta thường gọi chuyện
này là “tuyên truyền”. Hiện thời, người tuyên truyền
rất nhiều, nhưng nội dung tôi không biết rơ cho lắm.
Tôi thường thấy báo chí, thậm chí truyền h́nh
đều có quảng cáo vị pháp sư nào đó giảng
kinh, thuyết pháp ở chỗ nào đó, người nghe
đều là mấy ngàn người, mấy vạn người.
Chuyện này hơi giống Phật giáo biểu diễn, diễn
tṛ. Mục tiêu của họ chỉ có thể đạt
được trong giai đoạn này.
Loại
thứ hai: “Vị dĩ chủng
giả, dụng trung nhị tất” (v́ người
đă gieo [thiện căn và phước đức], bèn vận
dụng hai loại Tất Đàn trong ấy). Đối với
người đă có thiện căn, bèn dùng hai loại trong
bốn loại Tất Đàn, tức là Vị Nhân và Đối
Trị, dùng hai loại ấy. Đă gieo thiện căn, phải
xét xem thiện căn của người ấy sâu hay cạn.
“Thiện căn vị phát giả”
(người thiện căn chưa phát), kẻ ấy có
thiện căn, nhưng thiện căn vẫn chưa phát
lộ. Đích xác là có thiện căn, nhưng thiện
căn vẫn chưa phát lộ. Vậy th́ phải thuyết
pháp như thế nào? “Tác vị
nhân thuyết” (Dùng cách nói v́ người khác), [cách này] có
ư nghĩa sâu hơn cách trước. Mục đích của
cách thuyết pháp này là “linh khởi
túc thiện Tín, Giới, Tấn, Niệm”, [nghĩa là]
khiến cho người ấy có thể phát lộ thiện
căn, Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ [từ đời
trước]. Người ấy nghe Phật pháp, bèn có thể
sanh khởi [những thiện căn ấy]. Đó là
người đă gieo thiện căn, nhưng thiện
căn trọn chẳng rất sâu dầy, bèn khích động
cho thiện căn của người ấy phát khởi,
nay chúng ta nói là “đạo tâm”,
đạo tâm và thiện căn có ư nghĩa giống nhau.
Đấy là kích phát đạo tâm, kích phát thiện căn
của kẻ đó.
Loại
thứ ba là “ác vị phá giả”
(đối với kẻ chưa phá ác), thiện căn đă
có, thiện căn cũng đă phát hiện. Tuy thiện
căn đă phát hiện, nhưng tập khí phiền năo
chưa đoạn. Trong giới Phật giáo chúng ta, hai loại
t́nh h́nh này, bất luận tại gia hay xuất gia đều
có rất nhiều. Chúng ta chẳng thể nói họ không có
thiện căn, nhưng chẳng đoạn tập khí phiền
năo. Tập khí phiền năo chẳng đoạn th́ nói cách
khác là tu hành bị chướng ngại, tu hành quyết
định chẳng thể thành tựu, v́ quư vị có
chướng ngại tồn tại, niệm Phật
cũng chẳng thể văng sanh. Để thuyết pháp cho
loại người ấy, chúng ta phải dùng cách Đối
Trị. Đối Trị là “linh
kỳ tam độc hốt hoát nhĩ băng tiêu” (khiến
cho tam độc của người ấy bỗng dưng
nhanh chóng tiêu tan). Tam Độc là tham, sân, si. Nói tới tham,
sân, si, đương nhiên sẽ là tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến, bao gồm toàn bộ các phiền năo. Đối
với kẻ chẳng đoạn các phiền năo ấy, [bèn
v́ kẻ ấy] thuyết pháp với mục đích giúp cho
kẻ ấy đoạn phiền năo. Có thể đoạn
phiền năo, có thể trừ tập khí, công phu sẽ có thể
đắc lực, thật sự có thành tựu trong Phật
pháp, pháp hỷ sung măn.
Xưa
kia, chưa đoạn tập khí phiền năo, chắc chắn
là chẳng thể rời khỏi thiện tri thức. Kẻ
ấy theo học với một vị thiện tri thức
nào đó, chẳng thể rời khỏi v́ chưa có
năng lực ĺa khỏi thầy. Giống như đứa
trẻ rất bé, chưa thể tự ḿnh độc lập,
chẳng thể rời khỏi cha mẹ, phải thường
được cha mẹ chăm sóc th́ mới được
an toàn. Chưa đoạn tập khí phiền năo, nếu ĺa
khỏi thiện hữu, muốn đi ra ngoài, nguy hiểm
to lắm! Kể từ xưa kia, chẳng phải là nói
trong hiện thời, vào thời cổ đă có [những
gương như vậy]. Khi chưa đi ra ngoài, tu hành
trong tự viện của chính ḿnh th́ tốt đẹp lắm!
Thật sự có đạo tâm, đáng cho người khác
tôn kính; nhưng vừa ra ngoài giảng kinh, thuyết pháp, lại
t́m một tự viện để làm trụ tŕ lănh chúng,
tín đồ quy y cũng đông, tiền bạc cũng lắm,
th́ cũng phách lối lắm, trở nên kiêu căng, ngă mạn,
phiền năo đều dấy lên hiện hành! V́ sao? Rớt
trong tiếng tăm, lợi dưỡng, đọa lạc
trong ngũ dục, lục trần, quả báo trong tương
lai là sanh trong ba ác đạo.
Nếu
quư vị đọc bộ Trúc Song Tùy Bút của Liên Tŕ
đại sư, chẳng nhớ trong trang nào, Liên Tŕ đại
sư từng phê b́nh một vị đại đức. Vị
đại đức ấy trước kia ở trong núi,
cũng rất có tiếng tăm, mọi người hết
sức bội phục đạo đức, học thức,
và sự hàm dưỡng của Sư, vô cùng tôn trọng. Sau
này, Sư làm Trụ Tŕ một ngôi chùa tại đô thị,
đạo tâm thảy đều mất sạch. Tổ
đến bái phỏng, nói: “Trước đây có một
người nọ, tu hành trên núi tốt đẹp cỡ
nào, tôi bội phục lắm! Về sau, vị ấy đọa
lạc”. Vị pháp sư ấy hỏi: “Ai vậy?” Tổ
đáp: “Chính là lăo huynh chứ ai nữa!” Coi như vẫn
c̣n khá, v́ Sư c̣n có thể gặp Liên Tŕ đại sư chỉ
điểm, cảnh tỉnh thẳng thừng. Con người
hiện thời khi bị đọa lạc, dẫu có cảnh
tỉnh cũng chẳng tỉnh, vẫn ngỡ chính ḿnh là
đúng! Người hiện thời tu hành khó khăn
hơn thuở xưa! Con người xưa kia tâm địa
hồn hậu, tôn sư trọng đạo, có thể nghe
lời thầy, chứ người hiện thời chẳng
nghe. Thấy người khác nổi tiếng lừng lẫy,
cũng nghĩ trọn đủ mọi phương pháp ḥng
đạp đổ tiếng tăm của người
khác, chỉ sợ chính ḿnh ở sau kẻ khác. Thấy
người ta phước báo to hơn ḿnh, trong tâm kẻ ấy
rất khó chịu, cũng nghĩ trọn hết mọi phương
pháp sao cho phước báo của chính ḿnh vượt hơn
người ta. Tâm đặt nơi đâu? Tâm chuyên môn cầu
tiếng tăm lợi dưỡng, cầu ngũ dục,
lục trần. Chẳng biết tu hành là tu tâm thanh tịnh,
chẳng biết tu hành là phải đoạn sạch tập
khí phiền năo!
Các vị tổ sư
đại đức từ xưa tới nay, ngay cả tại
gia cư sĩ, hoằng pháp lợi sanh cũng đều
là do kẻ khác thỉnh pháp, há có ai tự t́m chỗ để
thuyết pháp? Chẳng có đạo lư ấy. Người
ta đến thỉnh, chính ḿnh vẫn rất khiêm hư: “Chỉ
sợ tôi không được, tôi nói chẳng khế cơ!”
Há có chuyện chính ḿnh t́m đủ mọi phương pháp
để kiếm chốn giảng kinh? Chẳng có đạo
lư ấy. Trong quá khứ, khi chúng tôi học giáo ở Đài
Trung, luyện tập giảng kinh là một môn học vô
cùng quan trọng. Đến chỗ nào để giảng?
Đến nhà các đồng tu: “Xin quư vị từ bi, tôi
giảng cho quư vị nghe. Quư vị hăy sửa sai cho tôi”. Đó
là đến thỉnh giáo: “Tôi giảng quư vị nghe có vừa ư hay chăng? Có nghi vấn hay
chăng? Hăy cho tôi biết để tôi sửa cho tốt
đẹp hơn”. Người nghe là dăm ba người,
mỗi tuần một ngày đến giảng tại nhà
đồng tu. Đó là ǵ? Cầu được chỉ dạy!
Người giảng là tôi chính là học tṛ, người
nghe là thầy, là giám học của tôi. Chúng tôi học
như vậy.
Khi
chúng tôi học Phật tại Đài Trung, mỗi tối
đều có pháp hội giảng kinh, hôm nay ở nhà vị
cư sĩ này, ngày mai tại nhà vị cư sĩ nọ,
v́ đồng học đông đảo. Hôm nay vị đồng
học này giảng, chúng tôi đều là bạn học cùng
học giảng kinh, nhất định phải đến
tham gia, v́ sửa sai cho người ấy cũng là sửa
sai cho chính ḿnh. Cho đến khi thầy nghe xong, gật
đầu đồng ư, chẳng có sai lầm ǵ th́ mới
có thể lên ṭa giảng [cho công chúng]. Lên bục giảng vẫn
là luyện tập. Điều khó có của Đài Trung là có
hai giảng đài để luyện tập giảng kinh,
một ở tại Liên Xă, hai là ở chùa Linh Sơn. Liên Xă,
tức Đài Trung Liên Xă, là chỗ để nữ chúng luyện
tập giảng kinh, chùa Linh Sơn dành cho nam chúng. Đến
nghe kinh ủng hộ có bảy, tám mươi người,
đương nhiên các vị thính giả ấy đều
rất khách sáo. Quư vị hướng về họ thỉnh
giáo, họ sẽ chẳng phê b́nh; nhưng chúng tôi luyện
tập giảng kinh, thầy Lư nhất định phải
đến. Thầy Lư ngồi ở hàng cuối cùng, ngồi
trong góc. V́ sao? Chúng tôi giảng kinh chẳng có máy phóng thanh, ắt
phải giảng sao cho thầy nghe rơ ràng. Nếu thầy
nghe không rơ ràng th́ không được, âm lượng của
quư vị chẳng đủ! Sau khi giảng xong, thầy tập
hợp các bạn học lại, tiến hành phê b́nh nghiêm ngặt,
chỗ nào phải sửa lại. Lần giảng kế tiếp
phải sửa đổi. Trải qua huấn luyện
nghiêm ngặt như vậy chẳng phải là chuyện dễ
dàng!
Hiện
thời, ở Mỹ, đạo tràng của chúng tôi là một
đạo tràng nhỏ, có mấy vị đồng tu. Tuy số
người ít ỏi, năm sáu người, cũng là một
lớp học nhỏ. Đối với phương pháp học
tập, tôi kể cho họ biết cách tôi học ở
Đài Trung trước kia, nương theo phương pháp
của thầy để học, học ba năm. V́ họ
có tŕnh độ cao, hoàn cảnh thù thắng, chẳng bị
quấy nhiễu, nên ba năm nhất định sẽ có
thành tựu.
Đó
là đối với người đă sanh khởi thiện
căn, phải giúp họ thật sự tu tập, thật
sự đoạn phiền năo. Trong các đồng tu chúng ta,
có người thuộc về giai đoạn trước,
tức là thiện căn đă phát hiện, nhưng tập
khí phiền năo chưa đoạn. Hiện thời, phải
bắt đầu nghiêm túc đoạn, chẳng đoạn
sẽ không được, vấn đề sẽ to lớn,
nhất định phải đoạn phiền năo.
Loại
cuối cùng “vị dĩ thục
giả” (v́ người đă thuần thục), “dĩ thục” là ǵ? “Dĩ thục” (已熟) là nói cơ duyên
thành Phật đă đến, đó mới gọi là Thục.
Trong một đời này, người ấy vẫn
chưa thể thành Phật, tức là cơ duyên của kẻ
ấy vẫn chưa chín muồi. Cơ duyên thành Phật đă
đến, vô cùng hiếm có, đức Phật phải dạy
họ phương pháp thành Phật, cũng có nghĩa là dạy
họ phương pháp niệm Phật. Nay chúng ta có
được pháp môn này, chúng tôi cũng hoằng
dương pháp môn này ở nhiều nơi. Tuy vậy, [bất
luận] giảng kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà
hay Quán Kinh, cho đến Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh
Nguyện Phẩm, chúng tôi giảng theo cách nào? Thưa cùng
quư vị, làm theo cách giảng thứ nhất và thứ hai.
V́ sao không thực hiện cách giảng thứ ba và thứ
tư? Đối với cách thứ ba và thứ tư, tôi
thấy cơ duyên vẫn chưa chín muồi. Nếu nay tôi
đặc biệt nhấn mạnh mọi người phải
đoạn phiền năo, hôm sau họ sẽ không đến
nghe nữa. V́ lẽ đó, trong hiện tại phải nói
lời ngọt ngào với mọi người, [khiến cho
họ] nghe rất hoan hỷ, ngày mai họ c̣n tới. Nếu
tôi nói phải đoạn phiền năo, mà cũng chẳng
dùng lời lẽ ngọt ngào, họ nghe sẽ cảm thấy
rất khó chịu: “Vị pháp sư này chửi tôi, ngày mai
tôi không tới cho ông ta chửi bới nữa”, chẳng đến
nữa! Khi nói, tuy là cùng một bộ kinh, nhưng
phương pháp giảng khác nhau, mục tiêu mà chúng tôi hy vọng
đạt tới cũng khác nhau.
Đó là nói tới
bốn loại lớn, tức bốn loại phương
pháp lớn, trong mỗi loại c̣n có nhiều phương
tiện thiện xảo. Cùng một bộ kinh, có thể giảng
sâu hay cạn, có thể giảng dài hay ngắn. Hôm qua, bên
Tân Gia Ba có gởi cho chúng tôi một bản fax, mời tôi
năm tới sang đó giảng Di Đà Kinh Sớ Sao. Di
Đà Kinh Sớ Sao to ngần ấy, họ thỉnh tôi sang
đó ở một tháng để giảng xong bộ Di
Đà Kinh Sớ Sao. Thật ra th́ có thể giảng, giảng
nông cạn, giảng ngắn gọn, bất quá kinh văn Sớ
Sao vẫn quá dài, đọc một biến c̣n phải tốn
một khoảng thời gian khá dài. Chuyện đó để
sang năm rồi mới nói, tôi vẫn chưa trả lời
thư của họ.
Tiếp
đó nói “vị dĩ thục
giả” là nói tới người thiện căn đă
chín muồi. Người ấy phước báo rất lớn,
sắp thành Phật. Đức Phật có thần thông có thể
quan sát căn cơ, người này thiện căn đă
chín muồi! “Thiện căn”
chính là thiện căn do vô lượng kiếp tu thành, thiện
căn ấy đă chín muồi. Sau khi đă chín muồi, nhất
định phải dạy cho người ấy
phương pháp thành Phật. “Tác
Đệ Nhất Nghĩa Thuyết, linh đắc khế
chân, cách phàm thành thánh” (v́ người ấy nói Đệ
Nhất Nghĩa, khiến cho người ấy khế nhập
lẽ chân, vượt phàm, thành thánh).“Cách phàm thành thánh” (革凡成聖) là siêu phàm nhập
thánh. Siêu phàm nhập thánh, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển
th́ chỉ có một con đường là niệm Phật văng
sanh Tịnh Độ. Pháp môn này thật sự là siêu phàm nhập
thánh, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, thành Phật
trong một đời. Gặp được người
ấy, nếu đức Phật chẳng nói, sẽ có lỗi
với người ấy. Nói thật ra, tại Đài Loan
trong giai đoạn này, chúng sanh căn cơ chín muồi rất
nhiều. Chúng ta biết trong bốn mươi năm qua,
cho đến hiện thời, dân số Đài Loan mới
là hai ngàn vạn, trước kia chẳng nhiều như vậy.
Bốn mươi năm trước chỉ có sáu trăm vạn
người. Đối với người niệm Phật
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng
ta chẳng thống kê tỉ mỉ, nhưng ước
đoán dè dặt nhất phải là từ bốn trăm
đến năm trăm người, tuyệt diệu
thay! Nhiều người ngần ấy thành Phật, lỗi
lạc thay! Nơi này được gọi là “đảo báu”, danh phù hợp
thực, có nơi nào trên thế giới này trong ṿng bốn
mươi năm có nhiều người ngần ấy
thành Phật? Chẳng dễ dàng! Người niệm Phật
rất đông, có tới mấy chục vạn, mấy
trăm vạn, nhưng thật sự văng sanh, trong bốn
mươi năm có bốn, năm trăm người, khá
quá! Chúng ta hăy nghĩ lại, chúng ta có thuộc trong số
đó hay không? Nếu thật sự mong mỏi chính ḿnh thuộc
trong danh sách ấy th́ phải thật tu! Có thể nói là nhân
duyên không thiếu, tại Đài Loan chẳng thiếu duyên.
Nếu thiếu là do thiện căn và phước đức
của chính ḿnh vẫn chưa đủ, pháp môn này cần
nhiều thiện căn, nhiều phước đức.
Thiện căn nhiều và ít là sao? Trong vài lần trước,
khi giảng Di Đà Sớ Sao, chúng tôi đă thưa tŕnh tỉ
mỉ cùng quư vị.
“Phật
trí giám cơ, thuyết chi tất trúng, tri bất nhập
lư, linh đắc tam ích” (Phật trí soi xét căn cơ,
hễ nói ắt trúng, biết [người nghe] chưa thể
nhập lư, bèn khiến cho họ đạt được
ba món lợi ích). “Tam ích” là ba
thứ lợi ích đầu tiên, v́ sao? Trong một đời
này, người ấy vẫn chưa thể thành Phật, vẫn
chưa thể văng sanh, nên đạt được ba lợi
ích trước đó (thế giới, vị nhân và đối
trị). “Tri bất phá ác, linh
đắc nhị ích” (biết kẻ ấy chưa thể
phá ác, nên khiến cho kẻ ấy đạt được
hai món lợi ích): Biết người ấy chẳng thể
sửa đổi tập khí phiền năo, nên giảng kinh,
thuyết pháp khiến cho người ấy đạt
được hai món lợi ích đầu (thế giới
và vị nhân). Đoạn phiền năo, sửa đổi tập
khí th́ chính ḿnh phải phát tâm nghiêm túc thực hiện,
người khác chẳng thể ép uổng được!
“Vô thiện khả phát, tác thế
giới thuyết đản sanh hoan hỷ. Nhược toàn
vô ích, Phật tắc bất thuyết” (chẳng thể
phát khởi điều thiện, bèn thuyết pháp theo kiểu
Thế Giới Tất Đàn khiến cho kẻ ấy sanh
tâm hoan hỷ. Nếu hoàn toàn vô ích, Phật sẽ chẳng
nói). Quư vị giảng cho kẻ ấy, kẻ ấy có nghe
cũng như chẳng nghe, cũng chẳng tin tưởng,
thậm chí phản đối, bài bác, nên chẳng nói! “Cố vân mặc nhiên” (nên nói
là “lặng thinh”), đức Phật sẽ không nói. Chúng ta
phải ghi nhớ những nguyên tắc và khuôn phép này. Thuyết
pháp xác thực là như thế. Cùng một bộ kinh, người
biết thuyết phải hiểu nguyên tắc này, thấy
người như thế nào bèn thuyết pháp như thế
ấy, thiên biến vạn hóa, chẳng có ǵ nói nhất
định.
Bởi
lẽ đó, chẳng có pháp nhất định để
có thể nói, pháp là sống động, hoạt bát. Trên giảng
đài, phải có năng lực quán cơ, [tức là] nh́n
thính chúng dưới đài, nh́n gương mặt và vẻ
biểu lộ của họ, liền biết họ thuộc
tŕnh độ nào, ta phải biết nên thuyết pháp
như thế nào? Chẳng phải là lên giảng đài,
đem những thứ bài giảng ta đă soạn sẵn
đọc cho mọi người nghe. Đó chẳng phải
là thuyết pháp, mà là giống như thầy thuốc chữa
bệnh: Trước hết, kê toa xong xuôi rồi mới chữa
bệnh cho quư vị. Khám bệnh xong, đem toa thuốc ấy
cho quư vị uống. Uống xong chết ngắc, [bèn bào chữa]:
“Chẳng phải là toa thuốc của tôi không đúng, mà là
quư vị chẳng mắc đúng bệnh, chẳng bị bệnh
đúng với toa thuốc của tôi”. Đó là sai lầm. Do
vậy có thể biết: Giảng kinh khó hơn giảng bất
cứ điều ǵ khác, đây là chuyện rất khó
khăn. V́ thế, đồng tu học giảng kinh phải
trống ḷng, phải thời thời khắc khắc
hướng về thính chúng thỉnh giáo th́ mới có thể
đạt được lợi ích.
Tập 8
Xin
xem trang bốn mươi ba, ḍng thứ năm:
“Quán giả quán dă, hữu Thứ
Đệ Tam Quán, Nhất Tâm Tam Quán” (Quán là quan sát, có Thứ
Đệ Tam Quán và Nhất Tâm Tam Quán). Đây là giải
thích chữ thứ ba trong tựa đề kinh, chữ này
là cương lănh tu hành. Đại Thừa Phật pháp chẳng
rời khỏi nguyên tắc này, trong nhà Thiền nói là Quán Chiếu,
Chiếu Trụ, và Chiếu Kiến, công phu cũng là ba tầng
cấp. Chúng ta đọc Tâm Kinh, “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhă Ba La Mật
Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”,
đó là tầng cấp tu hành cao nhất. Tầng cấp thấp
nhất là Quán Chiếu, chúng tôi bàn từ chỗ này. Ba tầng
cấp này trong các tông có danh xưng khác nhau, nhưng cảnh
giới như nhau. Chiếu Kiến trong Thiền Tông
tương đương với Lư nhất tâm bất loạn
trong Tịnh Độ Tông. Họ nói Chiếu Trụ th́ tương
đương với Sự nhất tâm bất loạn của
chúng ta. Họ nói Quán Chiếu th́ tương
đương với công phu thành phiến của chúng ta.
Do vậy có thể biết, trong Tịnh Tông nói danh từ
khác biệt, nhưng cảnh giới như nhau, phải nên
hiểu điều này. Trong Phật môn thường nói “pháp môn b́nh đẳng, chẳng
có cao thấp”, cảnh giới
công phu đều giống nhau, chỉ là sử dụng
phương pháp và phương thức khác nhau. So với các
tông khác, phương pháp và phương thức trong Tịnh
Tông thật sự dễ dàng hơn, ổn thỏa, thích
đáng hơn. Đó là cái hay của Tịnh Tông.
Chúng
ta thấy trong lời Sớ, [Trí Giả] đại sư
đă giảng rơ hai thứ Tam Quán ấy. Xin hăy xem ḍng đầu
trong trang bốn mươi bốn: “Tùng Giả nhập Không Quán, diệc danh Nhị Đế
Quán. Tùng Không nhập Giả Quán, diệc danh B́nh Đẳng
Quán. Nhị Không Quán vi phương tiện, đắc nhập
Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế Quán,
tâm tâm tịch diệt, tự nhiên lưu nhập Tát Bà Nhă hải,
thử danh xuất Anh Lạc Kinh” (Từ Giả nhập
Không Quán, c̣n gọi là Nhị Đế Quán. Từ Không nhập
Giả Quán, c̣n gọi là B́nh Đẳng Quán. Nhị Không
Quán làm phương tiện để nhập Trung Đạo
Đệ Nhất Nghĩa Đế Quán. Tâm tâm tịch diệt,
tự nhiên lưu nhập biển Nhất Thiết Chủng
Trí. Danh xưng này xuất phát từ kinh Anh Lạc[4]).
Những ǵ đại sư nói đều có kinh điển
làm căn cứ, chẳng phải là nói tùy tiện. Nhị
Đế là Chân Đế và Tục Đế; Tam Quán là Không
Quán, Giả Quán, và Trung Quán, những phép Quán này do Thiên Thai
đại sư thành lập. [Những điều này] sẽ
nói cặn kẽ [trong phần sau], chúng ta đọc lời
giải thích của Ngài nơi ḍng hai từ dưới
đếm lên trong trang bốn mươi bốn: “Kim thích kỳ ư” (nay giải
thích ư ấy), giải thích những ư nghĩa được
bao hàm trong các danh từ ấy. “Giả
thị hư vọng, Tục Đế dă. Không thị thẩm
thật, Chân Đế dă” (Giả là hư vọng, là Tục
Đế. Không là suy xét lẽ chân thật, là Chân Đế).
“Thẩm” (審) là thẩm tra, xem
xét nó là thật, là thực tại. Không là thực tại,
Giả là hư vọng. Không là ǵ? Giả là ǵ? Ở chỗ
này, phải nói đơn giản cùng quư vị. Giả là nói
theo Tướng, Không là nói theo Tánh. V́ sao Tướng là giả?
Tướng là pháp sanh bởi nhân duyên; nói cách khác, nó có sanh và
diệt. Phàm những ǵ có sanh diệt thảy đều là
giả, chẳng thật. Thân thể này của chúng ta, kể
cả tất cả động vật, những tế bào
trong thân thể đổi mới, thay cũ, sanh diệt trong từng sát-na, không chỉ là sanh, lăo, bệnh,
tử. V́ thế, theo cách quan sát trong Phật pháp, chúng
đều là giả, chẳng thật. Thứ thật sự,
thật sự bất sanh bất diệt, đó là thật.
V́ thế, thân là giả, tâm cũng là giả, niệm này khởi
lên, niệm kia diệt, tâm ấy là tâm ǵ? Tâm sanh diệt.
Tâm sanh diệt là tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở,
chúng ta gọi nó là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm, mà
là vọng tâm. Chân tâm bất sanh bất diệt. Chân thân là Pháp
Thân, cũng là bất sanh bất diệt.
Chúng
ta hăy suy nghĩ và quan sát kỹ càng, tất cả hết thảy
các pháp trong thế gian này, thứ nào là bất sanh bất diệt?
Chẳng t́m được thứ nào! Địa cầu có
thành, trụ, hoại, không, vẫn là một pháp sanh diệt.
Mặt trời sẽ có ngày tiêu mất độ sáng. Toàn
thể đại vũ trụ là pháp sanh diệt, chẳng
có ǵ là bất sanh bất diệt. Do đó, Phật pháp quy nạp
hết thảy các pháp, quy nạp đến mức
đơn giản nhất, dễ dàng nhất để dạy
kẻ sơ học, tức là quy nạp thành một
trăm pháp. Một trăm pháp là hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian. Quy nạp thành một trăm pháp
sẽ giảng giải khá dễ dàng. Trong một trăm
pháp ấy, chín mươi bốn pháp trước đều
là pháp sanh diệt, đều là giả, đều chẳng
thật. Chín mươi bốn pháp bao gồm tám thức,
tám thức là tâm, [nên tám thức] là tâm pháp, năm
mươi mốt pháp là Tâm Sở pháp, tức là tác dụng
tâm lư, Sắc pháp là nói đến vật chất, lục
căn, lục trần. Trong lục căn, Ư Căn là tâm
pháp, nó chính là Mạt Na Thức. Do đó, trong lục căn
có năm căn thuộc Sắc pháp, lục trần là Sắc
pháp, sáu [trần] cộng với năm sắc pháp [của Ngũ
Căn] thành mười một loại. Nay chúng ta gọi mười
một loại ấy là vật chất.
C̣n có một loại gọi là Tâm Bất
Tương Ứng Hành Pháp (Citta-viprayukta-samśkāra)[5], chúng chẳng
phải là Tâm pháp, cũng chẳng phải là Tâm Sở pháp, mà
cũng chẳng phải là Sắc pháp, nhưng hư vọng
sanh từ ba thứ pháp ấy (tức là sanh từ Tâm pháp,
Tâm Sở pháp và Sắc pháp). Người hiện thời gọi
chúng là ǵ? Nói thật ra, chúng là vọng tưởng, thuật
ngữ hiện thời gọi chúng là một thứ khái niệm.
Chúng có thật hay không? Chẳng có thật, nhưng có chuyện
như thế, trọn chẳng có thật; đó là Tâm Bất
Tương Ứng Hành Pháp. Các pháp ấy toàn là giả, toàn
bộ chẳng phải là thật. Nói thật ra, Bất
Tương Ứng Hành Pháp là quan niệm sai lầm, là cảm
nhận sai lầm! Pháp chân thật có sáu thứ, kêu là Lục
Vô Vi Pháp. Trong sáu pháp vô vi[6],
năm món đầu gọi là Tương Tự Vô Vi, chẳng
phải là Chân Vô Vi. V́ sao gọi chúng là Vô Vi? V́ chúng chẳng
có sanh diệt. Chẳng hạn như hư không; do chẳng
thấy hư không sanh diệt, nên hư không là pháp vô vi. Nó chẳng
phải là pháp vô vi thật sự; v́ sao chẳng phải là pháp
vô vi thật sự? Nếu quư vị thật sự chứng
quả, hư không cũng là bất khả đắc. Có thể
thấy là trước khi quư vị thật sự khai ngộ
chứng quả, nó vĩnh viễn có h́nh trạng như vậy.
Sau khi đă thật sự chứng quả, sẽ khác hẳn.
Quư vị thấy trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia
đại sư đă nói: “Giác
hậu không không vô đại thiên” (giác rồi ba cơi rỗng
toang hoang). “Giác” là đại
triệt đại ngộ, đại thiên thế giới
cũng chẳng có. V́ vậy, giống như thời gian và
không gian là những khái niệm sanh từ sự nhận biết
sai lầm của chúng ta, chúng cũng chẳng phải là
chân thật.
Hết
thảy các pháp hữu vi là giả, phải nhận thức
điều này. Sau khi đă thật sự nhận thức,
sẽ có lợi ích rất to. V́ sao? Quư vị sẽ chẳng
sanh phiền năo, giả mà! Quư vị sẽ chẳng coi chúng
là thật. Phàm phu ngỡ giả là thật, rồi khởi
phân biệt, chấp trước trong ấy. Hết thảy
đấu tranh, phiền năo đều khởi từ
đây, tạo nghiệp, chịu báo. Nếu quư vị hiểu
chúng là giả, sẽ chẳng chấp trước, cũng
chẳng tranh giành, quư vị mới có thể buông xuống
vạn duyên. Những ǵ là thật? Tánh là thật. “Không” là nói đến Tánh.
Đừng hiểu Không là chẳng có ǵ hết, nó có. Đă
có, v́ sao nói là Không? Mắt chẳng thấy, tai cũng chẳng
nghe, tay cũng chẳng sờ được, nhưng nó thật
sự có, chỉ đành phải dùng Không để đại
diện cho nó. Chẳng hạn như trong kiến thức
thông thường hiện thời, chúng ta biết có điện,
điện có tồn tại hay không? Tồn tại! Ở chỗ
nào? Căn pḥng này chỗ nào cũng đều có điện.
Nếu quư vị không tin, quư vị lấy radio loại sử
dụng transistor đặt trong đó, vừa mở máy liền
có tiếng vang ra, cho thấy điện tồn tại. Mắt
chúng ta chẳng thấy, tai cũng chẳng nghe thấy, tay
cũng chẳng sờ trúng, nhưng nó tồn tại,
đành phải gọi nó là Không. V́ thế, đừng nên nói
Không có nghĩa là Vô!
Tâm
Kinh dạy chúng ta: “Sắc tức
là Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không
chẳng khác Sắc”. Sắc là giả sắc. Sắc ở
đây là nói tới Giả, Không ở đây là nói tới
Chân. Không là tánh Không, Giả do đâu mà có? Từ trong Không biến
hiện, từ tánh Không biến hiện giả tướng.
V́ bản tánh của nó là Không, nên tuy biến hiện giả
tướng, mà giả tướng ấy “đương thể tức Không, liễu bất
khả đắc” (Ngay nơi bản thể chính là
Không, trọn chẳng thể đạt được);
đó là chân tướng, là thật. Ở đây, Trí Giả
đại sư bảo: “Kim dục
khử Tục quy Chân” (nay muốn bỏ Tục trở
về với Chân). Mục tiêu của người học
Phật là phải bỏ Tục Đế, cũng tức
là phải bỏ giả tướng để chứng
đắc chân tánh. Không chỉ là Thiền Tông phải minh
tâm kiến tánh, mà bất cứ tông nào hay pháp môn nào, mục
tiêu cuối cùng đều là minh tâm kiến tánh. Người
niệm Phật chúng ta niệm Phật chưa kiến tánh,
được gọi là “đới nghiệp văng sanh”, sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn
là minh tâm kiến tánh, chẳng có ngoại lệ. “Cố ngôn tùng Giả nhập Không
Quán, Giả thị nhập Không chi thuyên, tiên tu quán Giả”
(v́ thế nói từ Giả nhập Không Quán, Giả là phương
tiện để nhập Không, nên trước hết cần
phải quán Giả). Trong Phật môn, Giả được
gọi là “Phật sự”. Phật sự nương vào Giả
để kiến lập, v́ Chân chẳng có h́nh tượng,
chẳng có dấu tích, nên chẳng thể kiến lập. Phật
thị hiện thân tướng, thị hiện đạo
tràng, thị hiện giảng kinh, thuyết pháp, đều
là sự tướng, điều đó được gọi
là “tạ giả tu chân” (nhờ
vào giả để tu chân), quư vị ắt phải ngộ
chân tánh từ giả tướng, đó là đúng. Nếu quư
vị chấp trước giả tướng ấy th́
sai mất rồi! Chớ nên chấp trước giả
tướng, phải ngộ chân tánh từ giả tướng.
Nói cách khác, ngộ Phật Tánh bất sanh bất diệt từ
trong pháp sanh diệt, nó cũng là tự tánh. Ngộ tự
tánh bất sanh bất diệt, đó là chánh xác. Do đó,
phương pháp tu hành trong tông Thiên Thai là thực hiện từ
chỗ này, trước hết cần phải quán Giả.
“Tri Giả
hư vọng, nhi đắc hội Chân” (biết Giả
là hư vọng bèn thấu hiểu Chân). “Biết” là trí huệ, là Quán. Quán là Huệ, chẳng
phải là cảm t́nh, chẳng phải là phân biệt, chấp
trước. Nếu dùng phân biệt, chấp trước,
dùng thức thứ sáu tức ư thức để nghiên cứu,
sẽ chẳng gọi là Quán. Người ấy dùng Quán, chẳng
dùng nghiên cứu, tức là dạy quư vị quyết định
chẳng rơi vào phạm vi ư thức. Phải dùng trí huệ
để quan sát, dùng tâm thanh tịnh để chiếu kiến,
như vậy th́ mới có thể hiểu chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh. Chân tướng là ǵ? “Tướng giả, Tánh chân”
(Tướng là giả, Tánh là thật). Đó là chân tướng.
Tướng thiên sai vạn biệt, nhưng Tánh là một.
Có thể khế hội chân tướng sự thật này,
cách nghĩ, cách nh́n (cách nh́n là kiến giải), và cách làm của
người ấy sẽ tự nhiên giống như Phật,
tự nhiên làm được cái gọi là “đại từ đại bi phổ độ
chúng sanh”. V́ sao? T́nh và vô t́nh vốn có cùng một Thể
với chính ḿnh. Tâm từ bi lưu lộ gọi là “vô duyên đại từ, đồng
thể đại bi”. “Vô
duyên” là chẳng có điều kiện, công đức
trong bản tánh mới có thể hiển lộ. “Cố ngôn Nhị Đế Quán,
thử Quán nhược thành, tức chứng Nhất Thiết
Trí dă” (nên nói là Nhị Đế Quán. Nếu phép Quán ấy
thành, liền chứng Nhất Thiết Trí). Nếu tu thành
phép Quán ấy, sẽ hiểu rơ ràng, rành rẽ bản thể
của vạn hữu trong vũ trụ, thật sự t́m
được bản thể luận như các triết
gia đă nói. A La Hán và Bích Chi Phật của Tiểu Thừa
đều nhập cảnh giới này!
Lại
xem đoạn thứ hai, “Thích
Giả Quán” (giải thích về Giả Quán). “Tùng Không nhập Giả Quán giả,
nhược trụ ư Không, dữ Nhị Thừa hà dị,
bất thành Phật pháp, bất ích chúng sanh. Thị cố
quán Không, bất trụ ư Không, nhi nhập ư Giả”
(Từ Không nhập Giả Quán là nếu trụ nơi Không
th́ có khác ǵ Tiểu Thừa, chẳng thành Phật pháp, chẳng
lợi ích chúng sanh. V́ thế, quán Không, nhưng chẳng trụ
nơi Không, bèn nhập Giả). Trong phần trước là
Không Quán. Không Quán đă thành tựu, biết vạn pháp
như một, vạn pháp là một Thể, chẳng sanh chấp
trước đối với hết thảy các pháp, chỉ
nhập cảnh giới ấy. Nếu trụ trong cảnh
giới ấy, sẽ là Tiểu Thừa. Nếu Bồ Tát
tu Quán mà trụ trong cảnh giới ấy, chẳng khác ǵ Tiểu
Thừa, chúng ta thường nói là “nhập Thiên Chân Niết Bàn”. Thiên (偏) là lệch vào một
bên, bên nào? Bên Không, lệch sang bên Không, trụ trong Không. Trụ
trong Không, sẽ chẳng có lợi ích ǵ cho chúng sanh. Vị ấy
chẳng độ chúng sanh, nên cũng chẳng thành Phật
pháp. Phật pháp là pháp giác ngộ, lệch vào một bên th́ giác
ở chỗ nào? Đối với hàng Tiểu Thừa, Phật
pháp miễn cưỡng nói ra một thứ Chánh Giác. So với
kẻ b́nh phàm như chúng ta, các vị ấy đă thấy một
ít chân lư, nhưng chỉ gọi là Chánh Giác, chẳng thể
gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác. Đẳng (等) là bằng với
Phật, họ (người Tiểu Thừa) chẳng bằng
Phật. Phật th́ như thế nào? Phật biết Không,
nhưng chẳng trụ Không, c̣n Tiểu Thừa trụ Không.
Phật đại từ đại bi, lợi ích hết
thảy chúng sanh; họ chẳng lợi ích chúng sanh. Do họ
chẳng lợi ích chúng sanh, nên chẳng thành Phật pháp.
Chư Phật Như Lai chẳng khen ngợi, chẳng cổ
vũ, khích lệ người Tiểu Thừa, mà cổ vũ
khích lệ họ hồi Tiểu hướng Đại, từ
Không nhập Giả. Đă chứng đắc Không, từ
trong Không bèn quay lại, lại quay trở vào thế gian. Chẳng
vứt bỏ những giả tướng, mà lợi dụng
các giả tướng ấy để giúp đỡ vô lượng
vô biên chúng sanh c̣n đang chấp trước, giúp họ
giác ngộ, đó gọi là “phổ
độ chúng sanh”. Nói theo sự thật, một đằng
là bản thể, tánh thể, một đằng là hiện
tượng. Hiện tượng là Giả Hữu, Tánh Thể
là Chân Không.
Hết thảy
chúng sanh, nếu chẳng phải là mê bên này, bèn mê bên kia. Lục
đạo phàm phu mê nơi giả tướng, ngỡ giả
tướng là thật sự có, tâm luôn trụ nơi giả
tướng. Do trụ nơi giả tướng, nên phải
luân hồi trong lục đạo. Lục đạo luân hồi
là giả tướng. Những vị A La Hán và Bích Chi Phật
của Tiểu Thừa biết những tướng ấy
là giả, nên chẳng cần đến chúng. Chẳng cần
đến chúng th́ sao? Trụ bên Không, trụ bên tánh Không.
Trong tánh Không, thứ ǵ cũng chẳng có, tác dụng ǵ
cũng chẳng có, nên [Tiểu Thừa chỉ trụ trong
tánh Không] được gọi là “tự liễu hán” (自了漢: Kẻ chỉ lo giải thoát cho
riêng ḿnh). Tuy trụ bên tánh Không, nhưng họ có thấu hiểu
tánh Không rốt ráo hay chăng? Vẫn chưa thể hiểu,
nên gọi là Thiên Chân Niết Bàn (Niết Bàn lệch về
phía Chân Đế). Phật và các vị đại Bồ
Tát rất cao minh, các Ngài chẳng trụ vào hai bên, mà cũng
chẳng chấp trước Không, cũng chẳng chấp
trước Có, hai bên Không và Có đều chẳng trụ.
V́ vậy, bất đắc dĩ đặt cho điều
đó một danh từ là Trung Đạo. Chẳng lệch
về bên nào, đấy mới là thật sự đạt
được tác dụng to lớn của Không và Giả.
Không có tác dụng của Không, Giả có tác dụng của
Giả, nên mới có thể phát huy Không và Giả là đức
dụng của Thể và Tướng đến mức độ
cao nhất. Chúng ta nói là đối với sự hưởng
thụ, hạnh phúc, tự tại, người ấy đều
đạt được viên măn, chứ thiên lệch th́ sẽ
chẳng đạt được.
Chúng
ta đọc đoạn văn kế tiếp: “Thị cố quán Không, bất trụ
ư Không, nhi nhập ư Giả, tri bệnh thức
dược, ứng bệnh thọ dược, linh đắc
phục hành” (Do vậy, quán Không mà chẳng trụ vào Không,
mà nhập Giả. Biết bệnh, biết thuốc. Ứng
theo căn bệnh để cho thuốc, khiến cho [người
bị bệnh] uống theo, hành theo). Ba câu này vô cùng khó khăn!
Biết bệnh, biết thuốc là Huệ, [tức là] biết
căn bệnh của chính ḿnh, biết căn bệnh của
chúng sanh, biết dùng phương pháp ǵ để đối
trị, đó là trí huệ. Phương pháp ǵ có thể trị
bệnh của chính ḿnh, phương pháp ǵ có thể trị
bệnh của chúng sanh, đó gọi là “biết bệnh, biết thuốc”. Căn bệnh
của chúng ta đă được hiển lộ chẳng
sót qua đức hiệu của Thích Ca Mâu Ni Phật. Căn
bệnh thứ nhất là chẳng có chút xíu tâm từ bi nào,
tự tư tự lợi, đó là cái gốc bệnh của
chúng ta. Thứ hai là suy nghĩ loạn xạ. V́ thế, Thích
Ca Mâu Ni Phật dùng danh hiệu [để đối trị],
Thích Ca dịch sang nghĩa tiếng Hán là Nhân Từ. Đó là
loại thuốc một vị, nhằm đối ứng điều
ǵ? Đối trị căn bệnh thiếu tâm từ bi của
chúng ta, trị căn bệnh ấy. Mâu Ni dịch sang nghĩa
tiếng Hán là Tịch Diệt, có nghĩa là thanh tịnh, nhằm
đối trị căn bệnh suy nghĩ loạn xạ
của chúng ta. Phật, Bồ Tát chẳng có danh hiệu, v́
chúng sanh bị bệnh mà [chư Phật, Bồ Tát] kiến
lập danh hiệu. Danh hiệu của các Ngài là thuốc.
Quư vị niệm danh hiệu ấy sẽ giống như
uống thuốc, sẽ có thể trị lành bệnh. Nhưng
quư vị phải biết đức dụng của danh hiệu
ấy! Niệm Thích Ca Mâu Ni Phật nhằm niệm cho ra tâm
từ bi và tâm thanh tịnh của chính ḿnh, bệnh của
chúng ta liền được chữa khỏi. Nếu chẳng
hiểu tác dụng của danh hiệu, hằng ngày niệm
Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn vô dụng, vẫn là suy nghĩ
loạn xạ, vẫn là tự tư tự lợi y hệt,
như vậy là vô dụng! V́ thế, danh hiệu của hết
thảy chư Phật, Bồ Tát đều là những phương
thuốc nhằm đối trị căn bệnh của
chúng sanh.
“Ứng bệnh thọ dược”
(ứng theo căn bệnh mà cho thuốc) là quán cơ, [tức
là] quan sát thấy căn cơ mỗi cá nhân khác nhau, chúng ta phải
dùng phương pháp ǵ để đối trị. Đây
chính là Đối Trị Tất Đàn trong Tứ Tất
Đàn. Chúng ta biết căn bệnh của chính ḿnh, cũng
biết rất nhiều Phật pháp, nhưng học Phật
pháp nhiều năm ngần ấy mà vẫn chẳng dùng được.
Căn bệnh của chúng ta chẳng nhẹ đi, phiền
năo chẳng giảm thiểu, trí huệ chẳng tăng trưởng,
vẫn u mê, hồ đồ, đúng, sai, thiện, ác, tà,
chánh đều chẳng hiểu rơ ràng. Phương pháp nhiều
ngần ấy, uống theo đúng toa thuốc mà chẳng
thấy công hiệu, vấn đề này hết sức nghiêm
trọng. Xét kỹ những lời dạy răn của cổ
đức, suy nghĩ vẫn thấy các Ngài nói rất có lư:
Bản thân chúng ta đă suy tưởng sai lầm! Cổ nhân
dạy chúng ta tu hành, phải thực hiện từ phước
huệ. Tu phước là tu như thế nào? V́ đại
chúng mà làm việc. “Làm việc” trong Phật pháp chính là làm những
việc nặng nhọc nhằm phục vụ đại
chúng, làm việc cho mọi người. Quư vị nghĩ
xem: Lục Tổ ở núi Hoàng Mai tám tháng, giă gạo, bửa
củi trong xưởng xay xát, đó là tu phước. Làm
việc thay cho thường trụ, thay cho mọi người,
chẳng ngại cực khổ, tu phước đấy
nhé! Đồng thời, Ngài tu Huệ, Huệ là huệ ǵ vậy?
Huệ là Căn Bản Trí, Căn Bản Trí là vô tri, Bát Nhă
vô tri. Vô tri là Căn Bản Trí, tức là tất cả hết
thảy cách nghĩ, cách nh́n thảy đều buông xuống,
khôi phục sự thanh tịnh trong tâm địa. Lục Tổ
nói: “Vốn chẳng có một
vật, nào sợ nhuốm bụi trần”, đó là Căn
Bản Trí, khôi phục cái tâm thanh tịnh. Bất luận tại
gia hay xuất gia, bất luận tu học tông phái hay pháp
môn nào đều nên thực hiện từ chỗ này.
Đối
với Tịnh Tông, đức Phật rất từ bi,
đặc biệt dạy rơ cho chúng ta biết, Ngài nói Tam Phước.
Tam Phước là cơ sở tu hành. Tam Phước là “hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết,
tu mười thiện nghiệp”, tổng cộng gồm
mười một câu được kiến lập trên cơ
sở “hiếu thân, tôn sư”
(hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy). Nói cách
khác, học bắt đầu từ đâu? Học từ
hiếu thân tôn sư. Hiếu thân tôn sư chẳng làm được
th́ từ tâm và mười thiện nghiệp cũng chẳng
có, chẳng thể nào có được. V́ từ tâm, tu
mười thiện nghiệp được kiến lập
trên cơ sở hiếu thân tôn sư, làm sao quư vị có thể
thành tựu cho được? Chẳng hiếu thuận
cha mẹ, không nghe lời sư trưởng răn dạy,
chẳng thể nào có thành tựu! Bất quá, trước
kia có sư đạo, hiện thời rất khó, hiện
thời t́m đâu ra thầy? T́m thầy chẳng thấy! Thầy
cũng chẳng t́m thấy học tṛ. Học tṛ chẳng
nghe lời; chẳng nghe lời th́ chẳng thể coi là học
tṛ! Học tṛ phục tùng thầy một trăm phần trăm
th́ gọi là học tṛ. Chẳng nghe lời thầy, chẳng
thể coi là học tṛ. V́ thế, hiện thời chẳng
có sư đạo, đó là điều đáng đau buồn
cho người trong thế hệ chúng ta. Chẳng có sư đạo
th́ hiếu đạo cũng chẳng có. V́ trong sự giáo
học xưa kia, dạy quư vị tôn sư, nghe lời thầy
răn dạy là trách nhiệm của cha mẹ. Cha mẹ dạy
quư vị tôn sư trọng đạo, thầy dạy quư vị
hiếu thuận cha mẹ, đôi bên giúp nhau dạy dỗ.
Nói chung, cha mẹ chẳng thể nói: “Mày là con tao, phải
biết hiếu thuận với tao”. Con hỏi: “V́ sao con phải
hiếu thuận với cha mẹ?” Nghẹn họng luôn! Thầy
cũng chẳng thể nói: “Ta là thầy của các tṛ, các
tṛ phải tôn trọng ta”, lời ấy cũng chẳng thể
thốt ra được! V́ thế, [những điều ấy]
đều phải do bên thứ ba nói. Cha mẹ hiện thời
chẳng dạy quư vị tôn sư trọng đạo, thầy
cũng chẳng dạy quư vị hiếu thuận cha mẹ,
toàn thể cơ sở đă mất tiêu rồi, bị hủy
hoại rồi. Đó là chỗ bi ai của người trong
thế hệ này. Nói cách khác, đó là nguồn gốc căn
bệnh!
Đă
t́m được gốc bệnh th́ mới biết đúng
bệnh, làm thế nào để cứu chữa? Chúng ta làm
bên thứ ba, chúng ta khuyên họ hiếu thuận cha mẹ,
khuyên họ tôn sư trọng đạo: Quư vị học
với vị thầy nào, hăy nghe lời vị thầy ấy.
Trong một đời này, quư vị theo một vị thầy
chẳng thể ít hơn năm năm. Nói thật ra, hạn
độ thấp nhất phải nên là mười năm.
Mười năm theo một thầy sẽ có thành tựu,
nghe một vị thầy chỉ dạy. Quư vị nghe hai người
dạy dỗ, sẽ có hai ư kiến, [trở thành] hai con đường.
Quư vị thân cận ba vị thầy sẽ là đường
ngă ba. Thân cận bốn vị thầy là ngă tư, chẳng
biết học điều ǵ mới nên! Vị thầy này
nói phương pháp này tốt, vị thầy kia nói phương
pháp nọ hay, khiến cho quư vị chẳng biết theo đường
lối nào, chẳng có cách nào tu tập! Do đó, theo một
vị thầy là theo một đường lối. V́ sao
chúng ta thân cận thiện tri thức? Thiện tri thức nhất
định dạy: “Quư vị chỉ có thể nghe theo ta.
Ngoài ta ra, bất luận kẻ nào cũng chẳng thể
nghe!” [Nói như vậy] nhằm ban cho quư vị một đường
lối để noi theo. Quư vị lại nghe người
khác giảng, sẽ là hai con đường! Không chỉ là
hai con đường, mà sợ rằng người khác giảng
khác với thầy, quư vị quay về vặn vẹo thầy:
“Thưa thầy! Thầy nói như thế này, người kia
nói như thế nọ?” Vẫn là tṛ cùng thầy hai bên ồn
ào, ầm ĩ, thành ra thể thống ǵ nữa?
V́ lẽ
đó, từ xưa tới nay, quư vị đọc Cao Tăng
Truyện hay Cư Sĩ Truyện, thấy người ta học
Phật hoặc học pháp thế gian đều theo một
vị thầy. Học theo lời lẽ của một nhà,
đó gọi là sư thừa! Đó là “ứng bệnh thọ dược” (thuận theo
đúng bệnh mà cho thuốc), bảo cho kẻ ấy biết
phương pháp. Tiếp đó là nói “linh đắc phục hành”, nghĩa là phải cổ
vũ, khích lệ khiến cho kẻ ấy nghiêm túc làm theo
th́ mới có thể đạt được hiệu quả,
mới có thể thành tựu. “Thị
cố tùng Không nhập Giả Quán, nhi ngôn b́nh đẳng giả,
vọng tiền xưng b́nh đẳng, tiền phá Giả
dụng Không, kim phá Không dụng Giả. Phá dụng kư quân, cố
ngôn B́nh Đẳng Quán. Thử Quán thành thời, chứng Đạo
Chủng Trí” (V́ thế, từ Không nhập Giả Quán,
nhưng nói là “b́nh đẳng” là do đối ứng với
những điều trước đó mà nói là “b́nh đẳng”.
Trong phần trước, để phá Giả bèn dùng Không,
nay để phá Không bèn dùng Giả. Phá và dùng đă quân bằng,
nên nói là B́nh Đẳng Quán. Khi phép Quán này thành tựu, bèn chứng
Đạo Chủng Trí). Đạo Chủng Trí là sở chứng
của Đại Thừa Bồ Tát. Điều quan trọng
nhất trong đoạn này là “tri
bệnh thức dược, ứng bệnh thọ dược,
linh đắc phục hành” (biết bệnh, biết thuốc,
ứng theo căn bệnh mà cho thuốc, khiến cho người
ấy uống vào, hành theo). Ba câu ấy vô cùng trọng yếu!
Trong lời chú giải của tôn giả Tứ Minh cũng
có nói tỉ mỉ, chư vị tự đọc sẽ biết.
Chúng
ta lại xem đoạn tiếp theo trong trang bốn
mươi sáu. Xem phần Thích Trung Quán (giải thích về
Trung Quán). “Nhị Không vi
phương tiện giả, sơ quán Không sanh tử, thứ
quán Không Niết Bàn” (Nhị Không làm phương tiện:
Trước hết là quán Không sanh tử, rồi quán Không Niết
Bàn). Hai loại Quán này có công đức lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn. Phép Quán đầu tiên là quán Giả, có thể
liễu sanh tử, biết sanh tử trọn chẳng thể
được. Kế đó là Quán Không, Niết Bàn vốn
cũng trọn chẳng thể được. Niết Bàn
là do sanh tử mà kiến lập, chẳng có sanh tử th́ lấy
đâu ra Niết Bàn? Hai thứ ấy được kiến
lập tương đối, chẳng có bên này th́ bên kia cũng
chẳng có. Đây là giảng rơ v́ sao Phật và Bồ Tát chẳng
trụ trong sanh tử, chẳng trụ trong Niết Bàn, đôi
bên đều chẳng có! “Thử
chi Nhị Không, vi song giá chi phương tiện” (hai thứ
Không ấy chính là phương tiện nhằm ngăn dứt
quan niệm có hai bên), có thể thấy đây là phương
tiện môn. “Thử chi nhị
dụng, vi song chiếu chi phương tiện” (hai tác dụng
ấy chính là phương tiện để cùng chiếu cả
hai bên). “Song giá” (雙遮) là hai bên đều
rời khỏi, hai bên sanh tử và Niết Bàn đều chẳng
trụ. “Song chiếu” (雙照) là hai bên sanh tử
và Niết Bàn đều cùng dùng, ta đồng thời
đều dùng. Giống như trong kinh Phật đă nói: “Độ vô lượng vô biên
chúng sanh”, đó là dùng Giả.
“Nhi thật vô chúng sanh đắc độ giả” (nhưng
thật sự chẳng có chúng sanh đắc độ), đó
là dùng Không. Các Ngài dùng cả hai bên, nên mới thành tựu công
đức viên măn chẳng thể nghĩ bàn. Đó là phương
tiện Song Chiếu. “Tâm tâm quy
thú nhập Tát Bà Nhă hải” (tâm luôn quy hướng về
biển Nhất Thiết Chủng Trí), Tát
Bà Nhă (Sarvajñā) là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Hán là
Nhất Thiết Chủng Trí. Quả đức Như Lai
trí huệ viên măn, sánh ví như biển cả, dùng chữ Biển
nhằm h́nh dung sự sâu rộng. “Song chiếu Nhị Đế dă, thử quán thành thời,
chứng Nhất Thiết Chủng Trí, thị vi Thứ
Đệ Tam Quán dă” (cùng chiếu cả Chân Đế và
Tục Đế. Khi phép Quán này thành tựu, bèn chứng Nhất
Thiết Chủng Trí, đó là Thứ Đệ Tam Quán). Đó
là sở chứng nơi quả địa của Phật.
Đây là giảng về Không Quán.
Trong
chú giải có mấy câu, chúng ta đọc một lượt.
Nơi trang bốn mươi bảy, ḍng thứ nhất,
chúng ta xem từ đó. “Trung
Đạo chi quán, đế quán bất nhị” (phép quán
Trung Đạo, quán bất nhị chắc thật), Đế
là Đế Thật (諦實), tức là nghiêm
túc tu học. “Hoặc Trí nhất
như” (Hoặc và Trí giống như nhau). Hoặc (惑) là vô minh, phiền năo; Trí là trí huệ
Bát Nhă. Tướng khác nhau! Tướng của phiền năo
và Bồ Đề khác nhau, tướng của ngu si và thông
minh khác nhau, nhưng Thể giống nhau. Thể đă là giống
nhau, trên thực tế chúng là một, nhưng một đằng
là giác, một đằng là mê. Nói thật ra, giác và mê
cũng trọn chẳng thể được. Ư nghĩa này
càng giảng càng sâu, càng giảng càng huyền, chẳng dễ
hiểu cho lắm, nhưng đó là chân tướng sự
thật. “Tam Quán viên dung, thị
vô tác hạnh, cố đắc tự nhiên nhập Tát Bà
Nhă. Thử Quán chi quả, danh Nhất Thiết Chủng Trí,
vị tại Sơ Địa” (Tam Quán viên dung, là hạnh
vô tác, nên tự nhiên nhập vào Tát Bà Nhă. Quả của phép
Quán này được gọi là Nhất Thiết Chủng
Trí, thuộc vào địa vị Sơ Địa). Sơ Địa
của Biệt Giáo và Sơ Trụ của Viên Giáo. Kể từ
các địa vị ấy, Đại Thừa Phật pháp
gọi sự tu hành của họ là “vô công dụng đạo”. V́ sao? Hoàn toàn chẳng
dùng tâm ư thức, ĺa khỏi hết thảy phân biệt, chấp
trước, khởi tâm động niệm đều chẳng
có. Từ đó về sau, bốn mươi mốt phẩm
vô minh tự nhiên đoạn trừ, chẳng c̣n khởi
tâm động niệm, khởi tâm động niệm là
phiền năo. Do đó, địa vị này là Niệm Bất
Thoái, địa vị kể từ Sơ Trụ trong Viên
Giáo trở lên.
Những
điều vừa nói trên đây đều là Thứ Đệ
Tam Quán. Loại sau đó là đối với người căn
tánh hết sức nhạy bén, chẳng cần theo thứ tự,
nhất tâm bèn tam quán, thành tựu nhanh chóng. “Nhất Tâm Tam Quán, tư năi xứng tánh nhi quán, tuyệt
đăi nhi chiếu, cái nhất thiết pháp, vô phi tam đức,
như Y tự tam điểm” (Nhất Tâm Tam Quán chính là
xứng tánh để quán, dứt bặt đối đăi
mà chiếu soi, bởi lẽ hết thảy các pháp, không ǵ chẳng
phải là ba đức, như ba chấm trong chữ Y).
Đây là một chữ cái trong tiếng Phạn Ấn
Độ, cách viết chữ cái ấy là ba chấm (), phát âm là Y, là một
trong bốn mươi hai chữ cái của tiếng Phạn.
“Tam bất cô lập, nhất
nhất viên cụ, cử nhất tức tam, năi dĩ Tam
Đức nhi vi Tam Đế” (ba điều ấy chẳng
cô lập, mỗi một điều đều đầy
đủ trọn vẹn. Nêu lên một điều chính là
ba, tức là dùng Tam Đức để thành Tam Đế).
Chúng ta chỉ xem mấy câu này. V́ sao có Nhất Tâm Tam Quán? Nhất
Tâm Tam Quán được kiến lập trên lư luận như
thế nào? Nói thật ra, tự tánh là viên dung, trong tự tánh
chẳng có giới hạn. Chúng ta chia nó thành từng tầng
cấp là v́ chúng ta mê quá sâu, do mê mà phân chia. Nói theo tự tánh,
há có tầng cấp nào để noi theo? Đó là căn cứ
lư luận của Nhất Tâm Tam Quán. V́ vậy, Nhất Tâm
Tam Quán là xứng tánh khởi tu, toàn thể tu là tánh. Ở đây,
đă giải thích là “xứng
tánh để quán”.
“Tuyệt đăi nhi chiếu”
(dứt bặt đối đăi để chiếu), “tuyệt đăi” (絕待) tức là tương
đối. Phàm phu chúng ta mê muội đă lâu, tập khí quá
sâu, khởi tâm động niệm đều vướng
nơi tương đối. Ông Ái Nhân Tư Thản (Albert
Einstein) lập ra thuyết Tương Đối Luận (general
theory of relativity), chúng ta sống trong không gian tương đối,
trong một thế giới tương đối, chỉ
cần khởi lên một ư niệm, nhất định sẽ
có một ư niệm khác đối nghịch. Chúng ta nghĩ đến
cái lớn th́ tương phản với cái lớn là một
cái bé. Nghĩ đến dài sẽ có cái tương phản
với dài là ngắn. Nghĩ đến ta sẽ có cái đối
lập với ta là người khác, luôn luôn là tương
đối! “Tuyệt đăi”
là ĺa khỏi tương đối. Do ĺa khỏi tương
đối, nên bất đắc dĩ miễn cưỡng
gọi là “nhất tâm”. Nói thật
ra, hễ là “nhất” th́ đối lập với một sẽ
là nhiều, nên thật sự là bất đắc dĩ mới
nói [như vậy]. Nếu nói lời thật với quư vị
sẽ là “ngôn ngữ dứt bặt,
tâm hành xứ diệt”, “mở
miệng liền trật, động niệm đă sai”,
đạt tới tuyệt đăi! Tuyệt đăi th́ không
chỉ là chẳng thể mở miệng, mà dấy lên ư niệm
cũng chẳng được! Thật sự đạt đến
cảnh giới ấy, quư vị nghĩ xem: Tâm thanh tịnh,
trong tâm chẳng sanh một niệm. Cái tâm “một niệm chẳng
sanh” là thanh tịnh, tâm là định, tự nhiên có thể
chiếu khắp hư không pháp giới, tự nhiên có thể
chiếu quá khứ lẫn vị lai. Chúng ta nói là “thần thông”, thật ra
đó là bản năng, tức năng lực vốn sẵn
có. Quá khứ, hiện tại, cơi này, phương khác, chẳng
có ǵ không hiểu rơ. Chỉ cần quư vị có thể ngưng
dứt hết thảy phân biệt, chấp trước và
khởi tâm động niệm, năng lực ấy liền
hiện tiền. Chuyện này phải luyện tập, công
phu ấy là phải làm như thế nào để ngưng
dứt tập khí từ vô thỉ kiếp tới nay.
“Cái nhất
thiết pháp, vô phi Tam Đức” (ấy là v́ hết thảy
các pháp, không ǵ chẳng phải là ba đức): Hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, không ǵ chẳng phải
là Pháp Thân, không ǵ chẳng phải là Bát Nhă, không ǵ chẳng
phải là Giải Thoát. Nay chúng ta gọi Giải Thoát là “tự do tự tại, chẳng
bị ràng buộc”, đúng là pháp nào cũng đều là
như vậy. Tiếp đó, nêu tỷ dụ. Đại sư
dùng ba chấm [trong chữ Y của tiếng Phạn] để
tỷ dụ Tam Đức. Hễ nói tới Pháp Thân, tất
nhiên có Bát Nhă và Giải Thoát. Nói tới Bát Nhă, nhất định
có Pháp Thân và Giải Thoát. Một chính là ba, ba chính là một.
Chẳng thể nói trơ trọi một đức nào
trong Tam Đức, chẳng thể nào! Hễ có một, sẽ
nhất định có cả ba. Do đó nói: “Nhất nhất viên cụ” (mỗi một điều
đều đầy đủ trọn vẹn), Viên (圓) là viên măn, Cụ
(具) là trọn đủ. Pháp Thân trọn đủ viên
măn Bát Nhă và Giải Thoát. Giải Thoát trọn đủ viên
măn Pháp Thân và Bát Nhă. Nêu lên một, bèn chính là ba. Đấy chính
là dùng Tam Đức để làm Tam Đế. Tam Đế
(Không, Giả, Trung) là cảnh giới được quán bởi
chúng ta. Tiếp theo đó, sách viết: “Tức ư nhất tâm, nhi tu Tam Quán, thử chi quán
pháp, Năng Sở song tuyệt” (liền từ ngay trong
nhất tâm mà tu Tam Quán. Trong pháp quán này, Năng và Sở cùng
mất). Nay chúng ta dùng phương pháp ǵ để tu pháp Quán
này? Thưa cùng quư vị, Đại Kinh đă nói: “Phát Bồ Đề tâm, một
mực chuyên niệm”, nói thật ra, đó là Nhất Tâm Tam
Quán. Khi đó, tùy thuộc quư vị dùng cái tâm nào? Nếu tâm
quư vị thật sự chuyên nhất, khi ta niệm một
câu Phật hiệu, chẳng khởi tâm, không động niệm,
chẳng phân biệt, không chấp trước. Niệm câu Phật
hiệu rành mạch, từng chữ phân minh, từ trong tâm
sanh ra, niệm ra đằng miệng, nghe lọt vào tai, đó
là Nhất Tâm Tam Quán. Nếu khởi tâm động niệm,
ta niệm Phật th́ hôm nay phải niệm một vạn
câu hay hôm nay ta phải niệm năm ngàn câu, đó là Thứ
Đệ Tam Quán, v́ sao? Quư vị đă khởi tâm động
niệm. Thứ Đệ và Nhất Tâm, chính ḿnh phải phân
biệt thật rơ ràng!
Người
tu Nhất Tâm Tam Quán trong cuộc sống hằng ngày, xử
sự, đăi người, tiếp vật, đều phải
học chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng
phân biệt, không chấp trước, vĩnh viễn ǵn giữ
tâm địa thanh tịnh quang minh. Khi người khác đến,
chúng ta đối đăi với người ấy bèn thuận
theo sự chấp trước của người ấy mà
chấp trước, thuận theo sự phân biệt của
người ấy mà phân biệt. Đó là Thể Dụng
như như. Trong tự tánh chẳng có phân biệt, chấp
trước, đó là dùng Không. Chính ḿnh dùng Không, nhưng đối
với người khác, để đối đăi với
họ bèn dùng Giả. Hai bên Không và Giả đều dùng,
song chiếu, song giá ngay trong một niệm. V́ lẽ đó,
Quán Kinh đă giảng rơ tỉ mỉ lư luận và phương
pháp niệm Phật. À! Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ
này!
Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần
2 hết
[1] “Bồi”
ở đây là dán bức vẽ lên một tờ giấy
khác dày hơn, to hơn, thường là dán thêm một
lớp vải hoặc lụa tạo thành khung bao quanh
bức vẽ, hai đầu gắn trục gỗ
để dễ cuộn lại, hoặc khi treo lên,
trục gỗ sẽ kéo căng bức tranh ra.
[2] “Lưu kim”
c̣n gọi là Phi Kim (飛金), hoặc Kim
Tích (金錫), tức
là cách thếp vàng trên tượng đúc bằng hợp kim
trong truyền thống tạo h́nh mỹ thuật thuở
trước, trong khi đó “thiếp
kim” có ư nghĩa rộng hơn. Thiếp kim là mạ vàng
trên bất cứ vật liệu nào. Tượng
được “thiếp kim”
(貼金:
thếp vàng) có thể bằng gỗ, đá, hoặc
ngọc quư.
Để mạ tượng kim loại, trước hết
mặt tượng phải được tẩy sạch
những chỗ oxide hóa, các chất bẩn v.v... Ḥa vàng và thủy
ngân theo tỷ lệ 1:7 để trở thành một dung dịch
lỏng, gọi là “hỗn hống” (混汞). Bôi đều chất lỏng ấy lên mặt
tượng rồi nung khói nhẹ để thủy ngân
bay hơi, chỉ c̣n lại vàng. Sau đó là đánh bóng.
[3] Theo ngu ư, có lẽ là đại sư
muốn so sánh giữa bí và bầu, v́ bí được
gọi là Đông Qua.
[4] Kinh này có tên gọi đầy
đủ là Bồ Tát Anh Lạc Kinh, c̣n gọi là Bồ Tát
Anh Lạc Bổn Nghiệp Kinh, có mười bốn
quyển, do ngài Trúc Phật Niệm dịch dưới
đời Hậu Tần (Diêu Tần). Kinh giảng về
các địa vị Bồ Tát và nhân hạnh như Tam Tụ
Tịnh Nghiệp v.v… Kinh được chia thành tám
phẩm như Tập Tụ, Hiền Thánh Danh Tự,
Hiền Thánh Học Quán… sử dụng rất nhiều danh
nghĩa giống như kinh Hoa Nghiêm, nên cũng
được tông Hoa Nghiêm rất coi trọng.
[5] Tâm Bất Tương Ứng Hành Pháp
gồm có hai mươi bốn pháp. Các kinh luận giải
thích danh tướng của Tâm Bất Tương Ứng
Hành Pháp khác nhau đôi chút, nếu xét theo Bách Pháp Minh Môn
Luận th́ Bất Tương Ứng Hành Pháp là Đắc,
Mạng Căn, Chúng Đồng Phận, Dị Sanh Tánh, Vô
Tưởng Định, Diệt Tận Định, Vô
Tưởng Báo, Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân, Sanh, Trụ, Lăo,
Vô Thường, Lưu Chuyển, Định Dị,
Tương Ứng, Thế Tốc, Thứ Đệ,
Thời, Phương, Số, Ḥa Hợp Tánh, Bất Ḥa Hợp
Tánh.
[6] Sáu pháp Vô Vi là Hư Không Vô Vi, Trạch
Diệt Vô Vi, Phi Trạch Diệt Vô Vi, Bất Động
Vô Vi, Tưởng Thọ Diệt Vô Vi và Chân Như Vô Vi.