Quán Vô Lưng Th Pht Kinh S Sao Din Nghĩa

Phn 2

觀無量壽佛經疏鈔演義

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Thời gian: Khởi giảng từ ngày 01 tháng 12 năm 1990

Địa điểm: Hoa Tạng Đồ Thư Quán, huyện Cảnh Mỹ, Đài Loan

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

Tập 5

 

      Xin mở kinh bổn, trang ba mươi, ḍng thứ tư từ dưới đếm lên:

      “Nhị Danh Tự Tức, thử chí Cứu Cánh, giai Tu Đức dă, tu luận tổn ích, cập dĩ cao hạ. Thử vị thị Tu Đức chi thỉ” (Hai là Danh Tự Tức. Từ địa vị này cho đến Cứu Cánh Tức Phật đều thuộc về Tu Đức, cần phải luận định về sự tổn, ích, và cao thấp. Địa vị này là khởi đầu của Tu Đức). Đoạn trước nói về Lư [Tức Phật] trong Lục Tức Phật, chúng ta đă hiểu rơ đạo lư ấy. Nói thật ra, đạo lư là chân tướng sự thật: Mỗi người vốn sẵn trọn đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai. Nói cách khác, chúng ta vốn sẵn có vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ, vô lượng phước báo. Vốn sẵn có, nhưng hiện tại chẳng có, chúng đi đâu mất rồi? Đức Phật dạy: Chúng vốn sẵn có, trọn chẳng mất đi, vẫn ở trên thân chính ḿnh, nơi nhục thân này của chúng ta thảy đều trọn đủ. Trọn đủ, nhưng chẳng thể hiện tiền, chẳng thể thọ dụng được. Điều này được gọi là “mê mất chính ḿnh”. Giống như trong nhà chúng ta có kho báu, nhưng chính ḿnh quên bẵng, oan uổng chịu khổ báo nghèo túng! Đức Phật xuất hiện trên thế gian, nhằm mục đích dạy cho chúng ta biết: Những ǵ bản thân chúng ta vốn sẵn có chẳng khác ǵ chư Phật Như Lai!

      Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ, đọc kinh A Di Đà, biết sự phú quư, trí huệ, và sự tự tại của A Di Đà Phật, chúng ta đọc xong, rất hâm mộ, nhưng không biết chính ḿnh và A Di Đà Phật chẳng khác ǵ nhau! Trí huệ và đức năng của A Di Đà Phật khởi tác dụng, [những tác dụng ấy] đều được Ngài vận dụng trong cuộc sống, c̣n trí huệ, đức năng và phước báo của chúng ta giấu kín trong nhà, chẳng lấy ra, vấn đề ở ngay chỗ này! Hiện thời phải làm như thế nào để hiển lộ trí huệ và đức năng vốn có trong bản tánh ḥng khởi tác dụng giống như chư Phật Như Lai? Cần phải cậy vào tu, cần phải nhờ vào Tu Đức. Đối với Tu Đức, chúng ta sanh khởi tín tâm toàn vẹn, tín tâm được kiến lập từ chỗ nào? Kiến lập từ Lư. Giống như trong Khởi Tín Luận đă nói: “Bổn Giác vốn có”. Ngài Thiên Thai nói Lục Tức Phật th́ chúng ta vốn sẵn có Lư Tức Phật. Lư là Chân Như bản tánh, hết thảy chúng sanh ai nấy đều trọn đủ, nên hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. Dựa trên Lư ấy, chúng ta sanh khởi tín tâm trọn vẹn đối với Tu Đức. Hôm nay, tôi nói về Danh Tự Tức Phật; đây chính là bắt đầu tu hành, bắt đầu có tổn và có ích. Nói theo cách hiện thời, điều đó có nghĩa là công phu tu hành của chúng ta có tiến, có thoái. Tiến, thoái là một hiện tượng rất b́nh thường, đừng nên trong lúc lùi sụt mà tự ḿnh chán nản, nguội lạnh tấm ḷng, đánh mất tín tâm. Có tiến, có thoái, chúng ta phải biết tiến thoái là một hiện tượng b́nh thường. Chúng ta đọc phần chánh văn của Ngài nơi ḍng thứ hai trong trang ba mươi mốt.

       “Như tư chi lư, Phật nhược bất thuyết, vô năng tri giả” (nếu đức Phật chẳng nói Lư như vậy, không ai có thể biết). Câu này nhằm chuyển tiếp [ư nghĩa] từ đoạn Lư Tức Phật trong phần trước, Lư ấy là chân lư. Nếu đức Phật chẳng giảng rơ ràng, minh bạch, làm sao chúng ta có thể biết được? Đức Phật xuất hiện trên thế gian, ân đức lớn nhất đối với chúng ta là đă dạy cho chúng ta biết chân tướng sự thật. Tiếp đó, Ngài trích dẫn kinh Pháp Hoa: “Pháp Hoa vân, nhất bách bát thập kiếp, không quá vô hữu Phật. Thế Tôn vị xuất thời, thập phương thường ám minh” (Kinh Pháp Hoa nói: “Một trăm tám mươi kiếp, luống qua chẳng có Phật, Thế Tôn chưa xuất thế, mười phương thường tối tăm”). Đây là nói về lúc thế gian chưa có Phật xuất hiện, chúng ta vĩnh viễn chẳng hiểu rơ chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Trong thế gian tuy có rất nhiều khoa học gia, triết học gia, tôn giáo gia, kể ra họ cũng rất giỏi giang, giải thích vũ trụ và nhân sinh đủ mọi lẽ; nhưng rất nhiều cách giải thích chẳng viên măn, mà cũng chẳng rốt ráo. Nói theo Phật pháp th́ là “kẻ mù sờ voi”. Ṃ trúng cái đùi, [hỏi họ] voi giống như ǵ? [Họ quả quyết] voi giống hệt như cây cột. Ṃ nhằm cái tai, [quả quyết] voi giống như thế nào? [Họ quả quyết] voi giống như chiếc quạt. Đó là cách giải thích vũ trụ và nhân sinh của các khoa học gia, triết học gia, tôn giáo gia xưa nay, trong ngoài nước trên cả thế giới. Có thể nói đều là lụn vụn, chẳng phải là toàn thể, tuyệt đối chẳng phải là chân tướng sự thật!

      Nếu nói là “kẻ mù sờ voi” th́ thưa cùng quư vị, coi như hăy c̣n ṃ trúng, kể ra vẫn c̣n khá lắm, tuy chưa thấy toàn thể, nhưng đă thấy một phần. Thật ra, ngay cả “kẻ mù sờ voi” vẫn c̣n chưa bằng, v́ sao? Ṃ nhằm tảng đá, ngỡ là con voi to, chẳng phải là lầm lẫn quá đỗi to lớn ư? Thật đấy, xác thực là như thế! Dùng tri kiến của phàm phu để suy đoán chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, chắc chắn chẳng thể thấu đạt! V́ vậy, nếu đức Phật chẳng xuất thế, đích xác là chúng ta vĩnh viễn ở trong thời đại tối tăm! Hiện thời, thế giới hỗn loạn dường ấy, có phương pháp nào khiến cho thế giới khôi phục trật tự b́nh thường hay chăng? Nh́n vào hiện tượng trước mắt, thế giới này khổ nạn tối thiểu phải là ba mươi, hoặc năm mươi năm, và c̣n có khổ nạn to lớn, v́ sao? Không trải qua cơn khổ nạn rất lớn, con người sẽ chẳng thể lắng ḷng nghiêm túc phản tỉnh. V́ thế, c̣n phải bị đả kích to lớn, nặng nề, họ mới nghiêm túc phản tỉnh một phen. Sau khi thật sự phản tỉnh, nếu chẳng đọc sách của Khổng lăo phu tử, chẳng học Đại Thừa Phật pháp, thế giới này chẳng có cuộc sống an ninh, chẳng thể nào khôi phục trật tự b́nh thường. Trật tự b́nh thường là ǵ? Là Ngũ Luân, Thập Nghĩa như Khổng lăo phu tử đă dạy. Cách nói này, nói thật thà là bất cứ quốc gia hay dân tộc nào trên cả thế giới đều có thể tiếp nhận, đều hoan hỷ tiếp nhận, đáng tiếc là chẳng ai nói với họ, nên họ không biết.

      Phật pháp càng triệt để, càng rốt ráo, càng viên măn hơn, đáng tiếc là họ suốt đời chẳng được nghe nói đến. Đại Thừa Phật pháp, đặc biệt là kinh Vô Lượng Thọ, có thể nói kinh Vô Lượng Thọ là tinh hoa và là đại biểu của Đại Thừa Phật pháp. Tôi thật sự chẳng ngờ, trong hai ba năm mà [kinh ấy] có thể phổ cập như vậy tại Đài Loan, đó là một hiện tượng tốt đẹp. Nh́n từ điều này, có rất nhiều kẻ tiên đoán Đài Loan là đảo báu, là phước địa, chúng tôi tin tưởng! Nh́n vào hiện tượng, Đài Loan chẳng giống một nơi phước địa, chẳng giống một đảo báu, nhưng hiện thời trông thấy mọi người nghiêm túc đọc kinh, tu hành như vậy, đó là khởi đầu của một hiện tượng tốt đẹp. Nói cách khác, mọi người đă biết căn bệnh, đă biết chính ḿnh đang mắc bệnh, phải dùng thuốc ǵ để trị. Hiện thời, toa thuốc cũng đă t́m được rồi. Tuy đă t́m được toa thuốc, nhưng c̣n chưa uống thuốc. Chưa uống thuốc, bệnh vẫn chẳng thể lành. Đă t́m được toa thuốc, phải chiếu theo toa thuốc để uống th́ mới có thể đối trị. Có được toa thuốc ấy chẳng dễ dàng! Sau khi đă có th́ phải nghĩ cách đối trị, nhưng để đối trị, lấy thuốc ra, chúng ta c̣n phải sắc thuốc, c̣n phải cô đặc thuốc đă sắc, vẫn phải mất một khoảng thời gian, chẳng thể uống thuốc ngay được, đó chưa phải là thuốc đă chế thành.

      V́ lẽ đó, tôi dạy các đồng tu, trước hết phải niệm kinh cho nhuần, phải niệm thuộc, phải thật sự thuộc nằm ḷng. Thuộc ḷng là ǵ? Là sắc thuốc, là cô đặc thuốc, nhưng c̣n chưa uống thuốc. Đừng nghĩ ta đă niệm nhiều lượt ngần ấy, rất khá! Quư vị c̣n chưa uống thuốc, bất quá là đă sắc thuốc, cô thuốc. Đă sắc, đă cô khá lắm, đă sắc, đă cô đặc xong xuôi; uống vào th́ mới có thể trị lành bệnh, chứ sắc và cô thuốc chẳng trị được bệnh! Bệnh là ǵ? Là vọng tưởng, chấp trước, phiền năo, những thứ ấy. Đến khi nào mới bắt đầu chữa bệnh? Sau khi quư vị đă sắc thuốc xong, bèn có thể uống vào, có thể chữa bệnh. V́ vậy, sau khi học thuộc ḷng, bèn thật tu, tức là mới bắt đầu thật sự tu hành. Niệm kinh này từ đầu đến cuối một lượt, chẳng có vọng niệm nào, đó là chữa bệnh. Nếu trong khi niệm kinh này một lượt mà dấy lên vọng tưởng, chẳng tính! Lại niệm từ đầu. Phải niệm sao cho kinh này niệm từ đầu đến cuối chẳng khởi một vọng niệm, đó gọi là “uống thuốc”, là “chữa bệnh”. Sau đó, mỗi ngày niệm năm lần, hoặc niệm mười lần đều chẳng khởi một vọng tưởng nào. Niệm như vậy hai ba năm, xác thực là vô minh và chấp trước của quư vị sẽ dần dần thật sự giảm thiểu, công phu đă đắc lực. Đến khi đó, có thể chẳng niệm kinh, một câu Phật hiệu là được rồi, một câu Phật hiệu có thể tương ứng với Phật. Một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật. V́ sao nay chúng ta niệm Phật chẳng tương ứng? Do vô minh phiền năo quá nặng, chướng ngại công đức niệm Phật, nên niệm Phật chẳng có hiệu quả. Nay chúng ta dùng phương pháp đọc kinh, bắt đầu đoạn phiền năo. Dùng phương pháp này để phá Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng, tiêu Nhị Chướng là tiêu trừ những thứ ấy, công phu mới có thể đắc lực. Người cao tuổi niệm kinh khó khăn, khó niệm thuộc ḷng, nhưng cũng có thể dùng phương pháp sau đây: Chuyên tâm chấp tŕ danh hiệu là được rồi, sẽ có thành tựu giống hệt. Phải giảm thiểu ưu lự, vướng mắc, phải buông xuống, sẽ có thể niệm đến mức đắc Niệm Phật tam-muội giống y hệt [như niệm kinh]; nhưng người trẻ tuổi th́ vẫn phải đặt vững căn cơ nơi cơ sở. Con đường này hết sức ổn thỏa, thích đáng, ngàn muôn phần chớ nên xem nhẹ!

Danh Tự Tức Phật chỉ là biết chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, biết như thế nào? Chưa bắt đầu làm; nhưng đă biết th́ sẽ khởi sự tu hành. Nếu không biết, dẫu có muốn tu cũng chẳng biết bắt đầu tu từ chỗ nào! Sau khi đă biết, bèn biết chúng ta tu từ chỗ nào. Chúng ta hăy đọc đoạn văn này một lượt. Tiếp đó, Ngài trích dẫn một đoạn từ kinh Niết Bàn. “Niết Bàn vân, ư vô lượng thế, diệc bất văn hữu Như Lai xuất thế, Đại Thừa kinh danh” (Kinh Niết Bàn dạy: “Trong vô lượng đời vẫn chẳng được nghe chuyện Như Lai xuất thế và tên gọi của kinh Đại Thừa”). Đó là khi chẳng có Phật, chẳng biết danh hiệu Phật, mà cũng chẳng biết danh xưng của kinh điển. Danh xưng của kinh điển Đại Thừa chưa biết, c̣n nói chi kinh văn và kinh nghĩa, đương nhiên càng không biết. “Nhược Phật xuất thế, phương năng xiển trí huệ nhật, thức Tam Bảo chi quang minh, khai cam lộ môn, tri thập hiệu chi diệu vị, nhân thuyết sanh giải, ư bảo thích duyệt” (Nếu Phật xuất hiện trong thế gian th́ mặt trời trí huệ mới được xiển dương, [chúng sanh] biết đến quang minh của Tam Bảo, mở cửa cam lộ, biết vị nhiệm mầu của mười hiệu. Do thuyết pháp mà sanh hiểu biết, sanh ḷng vui thích, coi như của báu). Đức Phật xuất hiện trên thế gian, v́ chúng ta giảng kinh, thuyết pháp, chúng ta mới biết chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, mới biết chính ḿnh có Phật Tánh, mới biết chính ḿnh có vô lượng trí huệ và đức năng. Chư Phật Như Lai đều có mười thông hiệu (hiệu chung), mười thông hiệu ấy hiển thị các đức năng vốn sẵn có trong bản tánh. Phật có, mỗi người chúng ta đều có, chỉ là Phật thọ dụng, nhưng chúng ta chẳng thể thọ dụng. Tuy chẳng thể thọ dụng, nhưng nghe nói chính ḿnh cũng có, nên vô cùng hoan hỷ. Đó gọi là Danh Tự Tức Phật. Có thể nói: Danh Tự Tức Phật rất phổ biến! Phàm là người tu học Đại Thừa Phật pháp đều thuộc địa vị này. Lúc mới tu, giống như chúng ta nay đang thuộc địa vị này, nay chúng ta được gọi là Danh Tự Tức Phật, tức là biết được một chút đạo lư Phật pháp, nhưng đă bắt đầu tu hay chưa? Chưa! Vẫn chưa tu! Chỉ là biết có chuyện như thế.

      Đoạn tiếp theo là bắt đầu tu. Đoạn dưới đây là Quán Hạnh Tức, chúng ta đọc phần thứ ba, tức là ḍng thứ tư đếm từ dưới lên nơi trang ba mươi hai. “Tam Quán Hạnh Tức, thử trung Quán pháp, trực quán tâm tánh, cố thác tha Phật, nhi vi sở duyên. Kim minh đối trần, tức thành quán Phật, kỳ trung niệm niệm giác tri chi tâm, danh Quán Hạnh Phật” (Ba là Quán Hạnh Tức. Trong pháp Quán này, quán thẳng vào tâm tánh, nên nhờ vào một đức Phật để làm cái được duyên (đối tượng của sự quán tưởng). Nay nói rơ: Đối trước trần liền trở thành quán Phật. Cái tâm niệm niệm giác tri trong khi ấy được gọi là Quán Hạnh Phật). Đoạn này giải thích ư nghĩa được bao hàm trong ba chữ Quán Hạnh Phật. Quán Hạnh mới là thật sự tu. Quán () là quán chiếu (觀照), như tôi vừa mới thưa cùng quư vị: Dùng phương pháp niệm kinh để quán chiếu. Niệm trọn một bộ kinh mà chẳng có một vọng niệm nào, th́ mới gọi là Quán Hạnh, mới thật sự được gọi là Quán Hạnh. Có thể thấy: Nay chúng ta niệm kinh đă mấy ngàn lượt, nhưng trong ấy c̣n có vọng tưởng th́ vẫn chẳng thể coi là thật sự dụng công, vẫn thuộc vào Danh Tự Tức, thuộc vào giai đoạn thứ nhất. Giai đoạn thứ hai là đă thật sự dụng công. Dụng công là phải thật sự đoạn phiền năo, phải thật sự phá vô minh. Thật sự vận dụng công phu th́ mới gọi là Quán Hạnh. Quán Hạnh là công phu đắc lực. Nói theo Tịnh Độ, Quán Hạnh Tức chính là công phu thành phiến. Có công phu như vậy th́ mới có thể văng sanh cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Tây Phương. Do đó, chớ nên xem nhẹ nó, công phu ấy tuy là vừa mới đắc lực, nhưng trong pháp môn Tịnh Độ, nó khởi tác dụng rất lớn. Trong các pháp môn khác th́ chưa được, v́ sao? Không thoát khỏi tam giới, sẽ chẳng thể liễu sanh tử, thoát tam giới. Để liễu sanh tử thoát tam giới [trong các pháp môn khác], phải thuộc vào giai đoạn kế tiếp là Tương Tự Tức Phật th́ mới được. Trong Tịnh Độ Tông, Tương Tự Tức Phật là Sự nhất tâm bất loạn, văng sanh cơi Phương Tiện Hữu Dư của Tây Phương Tịnh Độ, chẳng phải là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Điều ấy chẳng dễ thành tựu cho lắm, c̣n điều này dễ thành tựu. Quán Hạnh thành tựu dễ dàng, chúng ta phải đặc biệt lưu ư chuyện này.

      Trong quán pháp Quán Hạnh này, Quán là tu hành. Kinh này có mười sáu phép Quán, tức là mười sáu loại phương pháp để chúng ta tu tập. Mười sáu phương pháp ấy đúng là có khó và dễ, trong kinh đă giảng rất rơ ràng. Mười sáu phương pháp ấy, chỉ cần quư vị thành tựu một thứ là được, chẳng phải là cả mười sáu pháp đều phải thành tựu, chẳng phải vậy! Thành tựu một thứ là được rồi, đă có thể vượt thoát tam giới, văng sanh Tịnh Độ. Trong mười sáu loại, khó nhất là quán Phật. Tựa đề kinh này là Quán Vô Lượng Thọ Phật; nói thật thà,       quán Vô Lượng Thọ Phật là khó nhất. Chẳng cần nói là quán Phật, chúng ta muốn tưởng một người, Quán là quán tưởng, nghĩ tưởng một người [nào đó]: Tưởng vẻ mặt, ánh mắt, lông mi, mũi của người ấy, phải tưởng người ấy đang ở trước mặt chúng ta, chẳng dễ dàng! Vẻ mặt đức Phật phi phàm, đức Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, chúng ta tưởng từ chỗ nào? V́ vậy, trong mười sáu phép Quán, quán Phật tướng là khó nhất. Cũng có [phép Quán] dễ dàng nhất, dễ dàng nhất là ǵ? Là niệm A Di Đà Phật, đó là chấp tŕ danh hiệu. Chấp tŕ danh hiệu thuộc trong mười sáu phép Quán, là một loại trong mười sáu phép Quán, dễ dàng nhất. Khó nhất là quán Phật, dễ dàng nhất là niệm danh hiệu Phật. V́ thế, quư vị thấy kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà đều cùng đề xướng chấp tŕ danh hiệu.

      Chư vị phải biết: Chấp tŕ danh hiệu là một trong mười sáu phép Quán. Chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật là tu Quán Hạnh. Quư vị quán Vô Lượng Thọ Phật, quán Nhật Quán hay Thủy Quán cũng là Quán Hạnh. V́ vậy, Quán Hạnh bao gồm mười sáu loại, chúng ta chọn lấy một loại là được rồi. Trên thực tế, chư Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức, đối với mười sáu loại Quán Hạnh này, đă chọn ổn thỏa giùm chúng ta pháp Tŕ Danh Niệm Phật. Nếu chúng ta thật sự có thể tuân thủ sự chọn lựa do Phật, Bồ Tát dành cho chúng ta, chắc chắn chẳng phạm sai lầm! Chư vị phải biết: Mười sáu phép Quán, bao gồm phép Tŕ Danh trong ấy, đều là “trực quán tâm tánh” (quán thẳng vào tâm tánh), thông thường là chẳng có mấy người niệm Phật biết đến đạo lư ấy! Quư vị hiểu đạo lư ấy, mới biết đúng như cổ nhân đă nói: Khởi tâm niệm Phật là Thỉ Giác, đức Phật được niệm là A Di Đà Phật, chính là Bổn Giác. Khởi tâm niệm Phật là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác, đó là trực quán tâm tánh. Đối chiếu lời tổ sư đại đức đă nói với kinh, chẳng sai! V́ thế, công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn. Rất nhiều người chẳng biết công đức niệm Phật chân thật này, nên chẳng niệm, chẳng thể dấy lên hứng thú niệm Phật! Nói cách khác, chẳng biết cái hay của việc niệm Phật! Ở đây, chúng ta đă biết cái hay của niệm Phật.

      Phương pháp của Ngài là phía trước thêm chữ Quán, sau chữ Quán là chữ Pháp, tức Quán Pháp. “Pháp” là nói tới phương pháp. Phương pháp rất xảo diệu là “thác tha Phật, nhi vi sở duyên” (nhờ vào đức Phật khác để làm cái được duyên). “Tha Phật” là ǵ? Chúng ta tạo một bức tượng Phật, tượng A Di Đà Phật, đó là Tha Phật. Từ Tha Phật dẫn khởi Tự Phật, niệm Phật th́ phải niệm theo cách ấy. Nhờ vào Tây Phương A Di Đà Phật để niệm cho ra Tự Tánh A Di Đà của chúng ta. Sau khi đă niệm ra th́ Tự và Tha bất nhị, bèn thành công. Nguyên lư trong phương pháp tu hành được kiến lập từ chỗ này; trong ấy chẳng có mê tín, xác thực là có căn cứ lư luận. Do đó, chúng ta thường ngắm tượng Phật, thường niệm danh hiệu Phật, niệm danh hiệu Phật vẫn chưa đủ để hàng phục vọng niệm. Kinh Kim Cang chép: “Vân hà hàng phục kỳ tâm?” (hàng phục cái tâm như thế nào?), cái tâm ấy là vọng niệm. Niệm Phật hiệu mà vẫn chưa thể hàng phục vọng niệm th́ có thể thêm vào quán tưởng. Quán tưởng là quán ǵ? Nghĩ tới tượng Phật. Nghĩ tới tượng Phật, các vị đồng tu phải ghi nhớ, tốt nhất là tưởng một bức tượng Phật, sẽ dễ nhiếp tâm. Tưởng rất nhiều h́nh tượng Phật, sẽ chẳng có cách nào nhiếp tâm. Nói cách khác, chẳng thể khống chế vọng tưởng! Suốt một đời, tâm tưởng một tượng Phật, đó là phương pháp tốt nhất. Chúng ta ưa thích một bức tượng Phật nào th́ suốt một đời ta thờ phượng bức tượng Phật ấy.

      Hiện thời rất thuận tiện. Trước kia, mang theo một bức tượng Phật rất khó. Thuở sinh tiền, Tô Đông Pha đă vẽ một bức tranh Phật, vẽ xong, bồi[1] [bức vẽ ấy] thành một cuộn tranh. Ông ta đi đến đâu đều mang theo, đến chỗ nào cũng đều treo lên để [tu tập] Quán Tưởng Niệm Phật. Ông ta tự nói: “Đây là Tây Phương công cứ của ta”, chữ “Tây Phương công cứ” (西方公據) do Tô Đông Pha nói ra; nhưng tập khí trong một đời của Tô Đông Pha quá nặng, chẳng thể văng sanh. Tuy niệm Phật suốt đời, ông ta vẫn chẳng thể văng sanh. Nguyên nhân khiến cho ông ta chẳng thể văng sanh là do tập khí văn nhân, chuộng làm thơ, ưa soạn từ, thích viết văn chương, thích làm những chuyện đó, khiến cho sự nghiệp văng sanh Tây Phương của chính ḿnh bị lỡ làng! V́ lẽ đó, khi tôi học Phật ở Đài Trung, vừa mới thân cận thầy Lư, c̣n chưa xuất gia, khi chưa xuất gia, thầy Lư đă cảnh cáo tôi, v́ tôi cũng rất thích đọc sách, thầy liền cảnh cáo: “Cổ nhân đừng học Tô Đông Pha, người thời nay chớ học theo Lương Khải Siêu”. Trong Phật pháp, hai người ấy đều rất có tiếng tăm, nhưng đều chẳng có thành tựu, do chẳng đoạn tập khí phiền năo. Khi đó, thầy Lư đề nghị, thầy bảo: “Tốt nhất là anh hăy học theo pháp sư Ấn Quang”. V́ vậy, chúng ta học Phật phải có tấm gương, phải có khuôn mẫu, ta phải học theo các Ngài. Quư vị thấy Ngẫu Ích đại sư noi gương Liên Tŕ đại sư, học theo tổ Liên Tŕ. Do đó, cổ nhân khéo học, biết t́m một tấm gương, học giống hệt như vị ấy. Nếu chúng ta không muốn noi gương phàm nhân, A Di Đà Phật là tấm gương tốt nhất. Cách học theo A Di Đà Phật là như thế nào? Kinh Vô Lượng Thọ do A Di Đà Phật giới thiệu. Quư vị chiếu theo kinh Vô Lượng Thọ để y giáo phụng hành, tức là trực tiếp học theo A Di Đà Phật.

      V́ lẽ đó, tôi khuyên các đồng tu: Khóa sáng niệm bốn mươi tám nguyện. Niệm bốn mươi tám nguyện là học theo A Di Đà Phật, đồng tâm, đồng nguyện với A Di Đà Phật. Khóa tối niệm kinh Vô Lượng Thọ từ chương ba mươi ba đến chương ba mươi bảy, tuân thủ giáo huấn của A Di Đà Phật, sửa đổi hành vi sai lầm của bản thân chúng ta, khiến cho sự hành tŕ của chúng ta giống như A Di Đà Phật. Đó là trực tiếp học theo A Di Đà Phật, lấy A Di Đà Phật làm gương tu hành cho chính ḿnh, đó là tốt nhất. Do tượng Phật đúc chẳng dễ mang theo, nhưng hiện thời kỹ thuật ấn loát rất phát triển, ở đây, chúng ta có in rất nhiều h́nh Phật. H́nh đức Phật này cũng có in, tượng ở bên kia chúng tôi đă thờ mười năm, chúng tôi cũng in h́nh tượng ấy. Tôi có ấn tượng hết sức sâu đậm đối với tượng Phật đó, nay tôi tự đem sang ngoại quốc, tức là đem h́nh chụp, tôi cảm thấy h́nh chụp c̣n đẹp hơn tượng thật. Do lẽ đó, thật sự là lúc nào chúng ta cũng có thể đem theo [h́nh Phật] bên người, thường ngắm nh́n bức tượng Phật ấy, trong tương lai chúng ta văng sanh, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, bèn hiện tướng ấy. Phật chẳng có tướng, tùy duyên hiện tướng, tâm chúng ta ưa thích tướng nào, đức Phật liền hiện tướng ấy. Tôi suốt đời ngắm tướng ấy, nghĩ đến tướng ấy, tương lai A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, nhất định hiện tướng ấy, chắc chắn chẳng sai. Rất quen thuộc, mỗi ngày ngắm Ngài, ngắm bao nhiêu năm, khi đức Phật thật sự hiện đến, trước kia là ngắm ảnh chụp, nay người thật hiện đến, nên đặc biệt thân thiết. V́ vậy, chúng ta thờ tượng Phật đừng nên tùy tiện thay đổi, chọn bức tượng nào chính ḿnh ưa thích, suốt đời thờ phượng bức tượng ấy, Quán Hạnh sẽ dễ dàng đắc lực.

      Chúng ta xem phần chánh văn, ḍng cuối cùng nơi trang ba mươi hai: “Quán Hạnh Phật giả, quán Phật tướng hảo” (Quán Hạnh Phật là quán tướng hảo của Phật), đó là thường xuyên tưởng Phật. Chúng ta tưởng Phật sẽ chẳng dấy vọng tưởng. Tâm phàm phu có thể tưởng, nếu quư vị chẳng tưởng Phật, sẽ suy nghĩ loạn cào cào. Tưởng những chuyện khác sẽ tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo; tưởng A Di Đà Phật là tạo tịnh nghiệp văng sanh Tây Phương, quan hệ quá lớn! V́ thế, chúng ta chẳng tưởng Phật th́ tưởng ai đây? Đối với tượng Phật, câu tiếp theo ghi là “như chú kim tượng” (như tượng đúc bằng vàng), “chú” “chú tạo” (鑄造: đúc). Tượng vàng: Vào thời cổ, tượng Phật đẹp đẽ được làm theo lối “lưu kim” (鎏金: mạ vàng)[2], tức là [tượng được đúc bằng] hợp kim, “hợp kim” là vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc ḥa lẫn, đúc thành tượng Phật; sau khi đúc xong, mặt ngoài tượng lại được thếp vàng. Nói thật ra, đối với tượng như vậy, điều khẩn yếu là chúng ta tu Quán Tưởng, tu Quán Tưởng th́ chẳng cần thờ những tượng quư báu như vậy. V́ sao? Trong xă hội xưa kia th́ được, xă hội an định, ḷng người hồn hậu. Hiện thời, trong nhà quư vị cất chứa bảo vật, phường trộm vặt hoặc bọn cướp lớn đều chú ư, đâm ra chuốc lấy rất nhiều nỗi phiền phức. Chính ḿnh bận tâm lo lắng, sự tu hành bị trở ngại. Nay chúng ta thờ phượng tượng Phật, thờ tượng bằng tranh in màu; hễ quư vị cần, sẽ tặng cho quư vị một bức, chúng tôi có nhiều lắm. V́ vậy nói là “chẳng cần phải bận ḷng”. Cũng chớ nên tích trữ những thứ đồ cổ, rất phiền phức, đem lại cho chính ḿnh rất nhiều nỗi lo nghĩ! Tượng Phật th́ nhất định phải chọn tượng chính ḿnh ưa thích, chứ người khác ưa thích, ta không ưa thích, ta ưa thích, người khác chưa chắc đă ưa thích. Chọn bức nào chính ḿnh ưa thích để thờ, đó là điều tốt đẹp.

      “Tâm duyên diệu sắc, dữ nhăn tác đối” (Tâm duyên sắc tướng mầu nhiệm, mắt thường ngắm nh́n), dạy quư vị hăy thường ngắm. So ra, người hiện thời có chỗ thuận tiện hơn cổ nhân, mà cũng có chỗ chẳng bằng cổ nhân. Chỗ không bằng là đạo đức trong xă hội suy vi, xă hội chẳng an định, đó là chỗ thua kém cổ nhân. Khoa học kỹ thuật phát triển, đem lại rất nhiều tiện lợi, đó là chỗ cổ nhân chẳng bằng người hiện thời. Chẳng hạn như nói đến kinh bổn, cổ nhân có được một quyển kinh chẳng dễ dàng, quá khó khăn! Chúng ta ở Đài Loan, về phương diện này quả thật là đang hưởng phước mà chẳng biết chính ḿnh có phước. Chúng ta chẳng coi trọng kinh bổn. Nếu quư vị qua Đại Lục, người học Phật tại Đại Lục thấy có được một quyển kinh sách giống như có được vật quư nhất! V́ sao? Chẳng có được! Chúng tôi đem Đại Tạng Kinh sang Đại Lục, tôi chẳng chính mắt thấy, nhưng xem từ ảnh chụp, họ nghênh tiếp ra sao? Mặc áo dài, đắp y, quỳ sát đất, đội Đại Tạng Kinh trên đầu. Nghênh tiếp như vậy đó, chúng tôi thấy vậy thật sự cảm động. Ở đây, chúng ta bỏ Đại Tạng Kinh lăn lóc, khiến cho người Đại Lục trông thấy trong tâm rất khó chịu! Đó là ǵ? Họ chẳng có được. Chúng ta có được quá thuận tiện, có được quá dễ dàng. Nay chúng ta gởi kinh sách sang Đại Lục, người ta đều coi như bảo bối. Người ở Đại Lục quá đông, sách quá ít. Tuy những năm qua, chúng ta gởi tặng ba bốn chục vạn quyển sách, [tuy là] ba bốn chục vạn quyển sách, nhưng đến tay họ bèn chẳng thấm vào đâu, chẳng thấy đâu nữa! Cuộc đất quá lớn, người quá đông, vật hiếm hoi bèn [trở thành] quư báu!

      Ở Đài Loan, chúng ta in rất nhiều h́nh Phật tại đây. Quư vị thỉnh mười tấm, hai mươi tấm, chỗ chúng tôi đều có. Trong nhà quư vị, mỗi pḥng đều có thể treo h́nh Phật, mỗi pḥng đều có thể thấy Phật, giúp cho quư vị quán tưởng, nhắc nhở quư vị niệm niệm tưởng Phật. Người tu Tịnh Độ thật sự chẳng có ǵ kỵ húy, trong pḥng ngủ cũng có thể treo h́nh Phật, v́ sao? Khiến cho ta suốt ngày từ sáng đến tối trong mười hai thời đều chẳng rời Phật. V́ thế, chẳng cần nói khách sáo, chẳng cần nói tới chuyện cung kính, chẳng cần nói tới chuyện kỵ húy, thảy đều chẳng có. Giữa cha và con c̣n có kỵ húy chi nữa? Chẳng có kỵ húy! Giữa thầy và tṛ chẳng có kỵ húy. Không mong văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ phải tôn trọng, phải khách sáo, pḥng ngủ là chỗ chẳng sạch sẽ, chớ nên treo [h́nh Phật]. Thật sự mong văng sanh Tây Phương th́ chẳng cần phải nói tới, v́ sao? Ta phải đạt được mục đích của chính ḿnh, trong niệm niệm, ta chẳng rời Phật.

      V́ thế, giữa một người cầu sanh Tây Phương và kẻ chẳng cầu sanh Tây Phương, cáthờ phượng tượng Phật khác nhau, chư vị đồng tu phải nhớ điều này. Có rất nhiều người nói “có chỗ nào đó chẳng nên thờ tượng Phật”, nói kiểu đó cũng đúng. V́ sao? Kẻ ấy chẳng sanh về Tây Phương, chẳng mong cầu sanh về Tây Phương, chẳng niệm A Di Đà Phật, [kẻ ấy nói như vậy] là đúng. Phải cung kính, lễ phép đối với tượng Phật. Thật sự mong văng sanh Tây Phương, sẽ giống như con thơ nương cậy cha mẹ, một bước cũng chẳng chịu rời, kiêng kỵ ǵ cũng đều chẳng có. Chúng ta và A Di Đà Phật cũng là một bước chẳng rời, chúng ta giống như trẻ nít, phải cậy vào cha mẹ, chẳng thể rời một bước, chẳng trông thấy sẽ không được! Hễ không thấy liền khóc lóc, nên nơi nào cũng đều có thể thờ, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, chư vị đồng tu phải ghi nhớ điều này! Đối với người khác, chúng ta cũng phải nói với họ như vậy: Họ chẳng niệm Phật, chẳng cầu về Tây Phương Tịnh Độ, họ tu những pháp môn khác, hăy nên thờ tượng trong Phật đường, hoặc thờ tại pḥng khách trong nhà, chớ nên thờ tùy tiện. Nếu người ấy trong một đời này thật sự mong cầu sanh về Tây Phương, quư vị liền bảo người ấy: Chỗ nào cũng có thể thờ, trừ pḥng vệ sinh hoặc nhà xí là chỗ chẳng sạch sẽ, chớ nên thờ tượng Phật ra, chỗ nào cũng đều có thể thờ được!

       “Khai nhăn bế mục, nhược minh, nhược ám, thường đắc bất ly kiến Phật Thế Tôn” (Nhắm mắt, mở mắt, dù sáng, hay tối, thường chẳng rời thấy Phật Thế Tôn). Mở mắt, nhắm mắt, ban ngày, buổi tối, thời thời khắc khắc chẳng ĺa A Di Đà Phật. V́ sao? Nếu chẳng tưởng A Di Đà Phật, nhất định sẽ suy nghĩ loạn xạ; chúng ta dùng phương pháp này để xóa sạch hết thảy vọng tưởng, chấp trước. Do đó, đây là một phương pháp để khôi phục tự tánh thanh tịnh tâm. Trong tất cả các pháp môn, phương pháp này thù thắng nhất, xảo diệu nhất. Hiện thời, khoa học kỹ thuật phát triển, cổ nhân chẳng có cách nào hưởng thụ chuyện này: Dùng băng thâu âm để niệm Phật hiệu, đó là một phương pháp. V́ thế, người thật sự niệm Phật, trong gia đ́nh quư vị hoặc trong đạo tràng, một câu A Di Đà Phật trong mười hai thời chẳng gián đoạn. Ngày đêm chẳng thể gián đoạn, chẳng thể nói là buổi tối đi ngủ liền gián đoạn, chẳng được! Trong quá khứ, đạo tràng Tịnh Độ Tông là Niệm Phật Đường. Trong Niệm Phật Đường, Phật hiệu quyết định chẳng bị gián đoạn; hễ gián đoạn, sẽ chẳng gọi là đạo tràng niệm Phật. Ban đêm th́ làm như thế nào? Ban đêm bèn luân lưu niệm, bốn người một ban, luân phiên niệm. V́ thế, ban đêm Phật hiệu cũng chẳng gián đoạn. Suốt một năm từ đầu năm cho đến cuối năm đều chẳng gián đoạn. Họ chia thành ban, ban nào trực th́ nhất định phải niệm. Chẳng thuộc ban đến phiên trực, nhưng nếu quư vị ngủ ít bèn có thể tùy hỷ niệm, quư vị có thể cùng niệm với họ, nhưng người trực ban nhất định phải niệm. Dùng phương pháp ấy để niệm Phật hiệu không ngừng.

      Nay chúng ta ít người, chẳng có cách nào luân phiên, chúng ta có thể dùng băng thâu âm. Nhất là hiện thời có máy niệm Phật quá tiện, chẳng cần dùng băng, niệm suốt ngày đêm chẳng bị hư. Quư vị chẳng ngại ǵ thử coi một cái máy niệm Phật dùng được bao lâu? Sau khi mở máy lên, chẳng cần tắt đi, để máy niệm suốt ngày đêm. Âm thanh chớ nên mở quá lớn. Quá lớn sẽ quấy rầy người khác làm việc. Âm thanh khe khẽ, dường như có, dường như không, hễ tâm tĩnh lặng, liền ngay lập tức nghe thấy Phật hiệu. Trong khi quư vị đang có chuyện ǵ [phải làm hay phải suy nghĩ, tiếng niệm Phật] cũng chẳng gây trở ngại, như vậy là tốt đẹp, gia đ́nh là đạo tràng. Đó là lợi dụng phương tiện khoa học kỹ thuật hiện tại [để niệm Phật không gián đoạn].

      Kế đó, sách viết: “Tùng đại tướng hải, lưu xuất tiểu tướng, hạo hạo dạng dạng như đại kiếp thủy, châu mâu biến lăm, vô phi Phật giới” (từ biển cả có tướng to lớn, lưu xuất tướng nhỏ, mênh mông, bát ngát như nước ngập khi đại kiếp (thủy tai), mắt nh́n trọn khắp, không ǵ chẳng phải là Phật giới). “Đại tướng” (大相) là Báo Thân của Phật. Trong kệ tán Phật, chúng ta đă ca ngợi A Di Đà Phật: “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải”, đó là “đại tướng” (tướng to lớn). Từ Phật tướng, tôi vừa mới nói Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, bạch hào phóng vô lượng quang, trong quang minh lại hóa ra vô lượng Phật, Hóa Phật liền lưu xuất tiểu tướng, tận hư không khắp pháp giới đều là A Di Đà Phật. Như tượng Phật chúng ta đang thờ, trong Phật đường chúng ta thờ một tượng A Di Đà Phật to, trong mỗi góc bày một tượng A Di Đà nhỏ. Chúng ta cũng in ra rất nhiều h́nh A Di Đà nhỏ, để bất cứ chỗ nào, bất cứ lúc nào, cũng đều có thể thờ phượng. Chung quanh bốn phía của một Niệm Phật Đường thật sự đều bày tượng A Di Đà Phật, bất luận quư vị chuyển đến phương hướng nào, mắt quư vị đều thấy A Di Đà Phật, đó là đúng. Niệm Phật Đường xưa kia v́ dùng tượng đắp, chỉ đắp một tượng thờ tại đó, chẳng có cách nào khiến cho khắp mọi nơi đều trông thấy. Hiện thời, chúng ta dùng phương pháp in ảnh chụp nên có thể làm cho mỗi góc đều có h́nh Phật, bất luận chuyển đến chỗ nào cũng đều có thể trông thấy A Di Đà Phật.

Đối với hoàn cảnh chung quanh, trong sân, chúng ta chẳng có nhiều tượng Phật như vậy. Hiện thời chúng ta có in danh hiệu Phật, in những tấm dán (sticker) ghi “Nam-mô A Di Đà Phật”. Đối với phạm vi chung quanh, bốn phía đều có thể dán, bất luận đi đến đâu đều trông thấy A Di Đà Phật. Đài Loan là một đại hoàn cảnh, quư vị thấy ở Đài Loan đi đến đâu, quư vị đều thấy trụ điện hay vách tường nào cũng đều dán Nam-mô A Di Đà Phật. Hiện thời, tôi thấy xe taxi, xe hơi của tư nhân cũng có không ít chiếc đằng trước lẫn đằng sau đều dán A Di Đà Phật, giúp cho Quán Hạnh chúng ta. Chuyện này thật sự đáng đề xướng, nhưng ở ngoại quốc, dán lung tung khắp nơi th́ không được, phạm pháp! Tại Đài Loan, dán A Di Đà Phật, ngay cả cảnh sát cũng hoan nghênh, Đài Loan đúng là Phật quốc. Hy vọng là ở Đài Loan, mỗi góc, mỗi con đường, chúng ta đều có thể thấy tượng và danh hiệu A Di Đà Phật. Dán danh hiệu A Di Đà Phật rất phổ biến, nhưng dán h́nh A Di Đà Phật vẫn chưa có ai đề xướng. Hy vọng các đồng tu trong hội này đều nỗ lực đề xướng, in loại h́nh A Di Đà Phật có thể dán được, sẽ càng tốt hơn, càng dễ dàng thuận tiện đối với Quán Hạnh, thật sự thực hiện “mắt thấy trọn khắp”. Mắt chúng ta thấy trọn khắp, không đâu chẳng phải là cơi Phật! “Niệm nhất Phật, dữ thập phương Phật đẳng. Niệm hiện tại Phật, dữ tam thế Phật đẳng, nhất thân, nhất trí huệ, lực vô úy diệc nhiên. Niệm sắc thân, niệm pháp môn, niệm Thật Tướng” (niệm một vị Phật giống như niệm mười phương Phật. Niệm vị Phật hiện tại giống như niệm tam thế Phật. Một thân, một trí huệ, lực, vô úy cũng vậy. Niệm sắc thân, niệm pháp môn, niệm Thật Tướng). Đó là lúc thật sự dụng công tu hành đắc lực. À! Chúng ta tạm nghỉ, nghỉ mấy phút.

 

Tập 6

 

      Trong đoạn này, mấy câu cuối cùng rất trọng yếu. Sau khi chúng ta đă hiểu rơ, liền biết công phu của chính ḿnh có đắc lực hay không? Có đúng pháp hay không? Trong đoạn văn này, nơi ḍng thứ hai đếm từ dưới lên trong trang ba mươi bốn có nói: “Thường vận niệm vô bất niệm thời, niệm niệm giai giác, thị danh Quán Hạnh Tức Phật dă” (Khi thường vận dụng “niệm mà chẳng niệm” th́ niệm nào cũng đều là giác, đó gọi là Quán Hạnh Tức Phật). Câu trước dễ hiểu, đó là chẳng gián đoạn. “Niệm nào cũng đều là giác” là chẳng xen tạp. Hễ xen tạp th́ chẳng giác, xen tạp là mê. Khi chúng ta niệm Phật, xen tạp vọng tưởng, đó là bất giác. Ắt phải là niệm niệm đều chẳng xen tạp, niệm niệm đều rơ ràng, đó là giác. Chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, chẳng hoài nghi, niệm Phật hoặc niệm kinh như vậy đều thuộc về Quán Hạnh Tức Phật. Ắt cần phải biết chuyện này! Nếu quư vị không biết, sẽ niệm chẳng đúng pháp, chẳng đạt được hiệu quả.

      Lại xem đoạn thứ tư tiếp theo là Tương Tự Tức Phật, Tương Tự tiến cao hơn [giai đoạn] trước một bậc. Phần trước là Quán Hạnh, vẫn chưa giống. Tuy Tương Tự chưa phải là Phật thật sự, nhưng đă hơi giống, có thể thấy là công phu đă tiến một bước lớn. Quán Hạnh là chế phục phiền năo, nhưng chưa đoạn. Tương Tự là đoạn Kiến Tư phiền năo, cảnh giới ấy là cảnh giới của Tiểu Thừa A La Hán, Bích Chi Phật, hoặc Thất Tín Bồ Tát trở lên trong Đại Thừa Viên Giáo, đều là Tương Tự Tức Phật. “Tương Tự Phật giả, niệm Phật tướng hảo, thân đắc tương tự, tương ứng. Niệm Phật pháp môn, thân đắc tương tự, tương ứng. Niệm Phật Thật Tướng, thân đắc tương tự, tương ứng” (Tương Tự Phật là niệm tướng hảo của Phật, thân được tương tự, tương ứng. Niệm pháp môn của Phật, thân được tương tự, tương ứng. Niệm Thật Tướng của Phật, thân được tương tự, tương ứng). Đây là nói đến Tam Thân; trước hết nói về Tam Thân. Kế đó, giải thích chữ Tương Tự. “Tương tự giả, nhị vật tương loại” (Tương Tự là hai vật giống như nhau), hai vật giống nhau, cùng loại, rất gần gũi. “Như thâu tự kim” (như vàng thô giống như vàng),“thâu” () là vàng c̣n trong quặng, chưa được nung luyện. Trong quặng vàng có rất nhiều vàng, nhưng xen lẫn rất nhiều tạp chất trong ấy, so với vàng th́ hai thứ rất giống nhau. Đó là Tương Tự. “Như qua tỷ hồ” (như dưa so với bầu), cũng rất giống nhau. Dưa và bầu[3] rất gần gũi, h́nh dáng cũng chẳng khác nhau cho mấy. “Do hỏa tiên noăn” (ví như đối trước lửa bèn ấm), lửa tuy c̣n xa, nhưng chúng ta đă cảm nhận được sức nóng. Tuy chưa tiếp cận lửa, nhưng đă cảm nhận được hơi nóng, đó là Tương Tự. “Thiệp hải sơ b́nh” (vào biển, thoạt đầu sẽ là chỗ cạn), giống như chúng ta vào biển cả: Vào chỗ biển rất to, trước hết băi biển rất nông, rất phẳng, chúng ta có thể đi trên đó được, nhưng càng đi tới, sẽ càng sâu. Nông cạn là Tương Tự, sâu là biển cả. Từ những tỷ dụ ấy, khiến cho chúng ta thấu hiểu Tương Tự là như thế nào.

       “Thủy tánh chí lănh, ẩm giả năi tri. Khát bất quật tỉnh, thính thuyết hà vi?” (Tánh nước rất lạnh, người uống vào mới biết [nước lạnh như thế nào]. Khát mà chẳng đào giếng, chỉ nghe nói th́ làm sao được?). Mấy câu này nhằm khuyên chúng ta phải tu học, phải nghiêm túc tu học. Nếu chẳng nghiêm túc tu học, nghe Phật pháp sẽ chẳng có tác dụng ǵ! Nghe Phật pháp, nhưng chính ḿnh chẳng chịu nghiêm túc tu tập, chắc chắn chẳng đạt được lợi ích. Mấy câu tiếp theo là nói đến chuyện chánh yếu: “Lược cử kỳ yếu, như Pháp Hoa trung” (nêu đại lược những điểm trọng yếu th́ như trong kinh Pháp Hoa), như trong kinh Pháp Hoa đă nói: “Lục căn thanh tịnh, tức thị kỳ tướng, danh Tương Tự Phật dă” (sáu căn thanh tịnh chính là tướng của nó, gọi là Tương Tự Phật), nêu ra tiêu chuẩn. Phật là thân tâm thanh tịnh, thanh tịnh đă đạt đến tột bậc. Nếu sáu căn của chúng ta thanh tịnh, sẽ giống Phật đôi chút. V́ sao sáu căn chẳng thanh tịnh? Có phiền năo th́ sẽ chẳng thanh tịnh, đoạn hết phiền năo bèn thanh tịnh. Phiền năo là ô nhiễm. Nói cách khác, A La Hán đoạn Kiến Tư phiền năo, Bồ Tát thuộc địa vị Thất Tín trong Viên Giáo đoạn Kiến Tư phiền năo, Thất Trụ Bồ Tát trong Biệt Giáo đoạn Kiến Tư phiền năo, đều gọi là Tương Tự Tức Phật. Trong Tịnh Độ Tông, nếu công phu niệm Phật đạt tới Sự nhất tâm bất loạn bèn thuộc vào địa vị Tương Tự, đạt đến Sự nhất tâm bất loạn bèn giống như A Di Đà Phật.

      Rốt cuộc, chúng ta phải thực hiện từ chỗ nào? Chư vị phải nhớ, trong buổi học trước, chúng tôi đă nói một phương pháp quan trọng. Phương pháp ấy là một phương pháp đoạn phiền năo rất đắc lực. Kế đó là y giáo tu hành, chúng ta biến những đạo lư đă nói trong kinh Vô Lượng Thọ, đương nhiên chẳng dễ ǵ hiểu ngay lập tức được. Không hiểu rơ chẳng sao cả, quư vị đọc nhiều, nghe nhiều, sẽ dần dần hiểu rơ, phải hiểu rơ lư. Sau khi đă hiểu rơ, chúng liền biến thành tư tưởng và kiến giải của chính ḿnh. Kinh đă ban cho chúng ta rất nhiều giáo huấn về cách xử sự, đăi người, tiếp vật trong cuộc sống. Chúng ta thực hiện từng điều một, sẽ rất giống Phật. Như vậy th́ cũng có thể nhập địa vị Tương Tự. So với những cách tu hành thông thường phải thật sự đoạn phiền năo để nhập địa vị Tương Tự th́ cách này dễ dàng hơn quá nhiều! Phương pháp này quả thật mỗi người chúng ta đều có thể làm được!

      Nói đến sự sai khác giữa chín phẩm, trong [khi giảng] kinh Vô Lượng Thọ, chúng tôi cũng đă thưa cùng chư vị đồng tu, chỉ là tùy thuộc chúng ta thật sự thực hiện kinh Vô Lượng Thọ đến mức nào! Nếu có thể hoàn toàn làm được, sẽ là Thượng Thượng Phẩm. Chưa thể hoàn toàn làm được, nhưng có thể làm được chín mươi phần trăm, sẽ là Thượng Trung Phẩm. Có thể làm đến tám mươi phần trăm, sẽ là Thượng Hạ Phẩm. [Lần lượt] hạ thấp như vậy, Hạ Hạ Phẩm cũng phải làm được hai mươi phần trăm, tức là làm được hai phần [trong mười phần]. Hai phần cũng chẳng làm được th́ chỉ có thể lui xuống, lui sụt đến Danh Tự Tức Phật trong phần trước. Có thể làm được hai phần trở lên, có thể nói là Quán Hạnh Tức Phật. Làm được năm phần trở lên, gần như là Tương Tự Tức Phật, đă nhập địa vị ấy. Thật sự tu học, phải nghiêm túc nỗ lực thực hiện, phải hiểu. Sau khi đă hiểu, phải hành. Chỉ hiểu mà không hành th́ vẫn c̣n trong địa vị Danh Tự.

      Chúng ta lại lật qua xem trang ba mươi sáu, ḍng thứ năm, Phần Chứng Tức. Đây là Phật thật sự, chẳng phải là giả, chẳng phải là Tương Tự, mà là thật. [Tuy là] chân Phật, nhưng vẫn chưa viên măn. Ở đây, trước hết, tôi nói một tỷ dụ. Cổ nhân thường dùng mặt trăng làm tỷ dụ. Vầng trăng trên trời là thật, trong nước cũng có bóng trăng, chẳng phải là thật. Vầng trăng trong nước là Tương Tự, chẳng thật. Mặt trăng thật sự chỉ có một, có Phần Chứng và có Viên Măn. Phần Chứng là vẫn chưa tṛn đầy. Quư vị thấy mồng Ba, mồng Bốn đầu tháng có trăng non, đó có phải là mặt trăng thật sự hay chăng? Thật sự, chẳng giả! Trăng Mười Ba, Mười Bốn rất to, đó là thật, chẳng giả. Nhất định phải đến Rằm trăng mới viên măn. Vầng trăng Rằm ví như Cứu Cánh Tức Phật. Từ trăng lưỡi liềm Mồng Hai, Mồng Ba đầu tháng cho đến trăng Mười Bốn đều gọi là Phần Chứng Tức, [quả vị Phật] ấy là thật, chẳng giả! Có thể thấy Tương Tự trong phần trước chẳng phải là thật sự, rất giống, nhưng chưa phải là thật, giống như bóng trăng trong nước, chẳng phải là mặt trăng thật sự trên bầu trời.

      Bản tánh bị nhiễm vô minh, chẳng thể khử sạch vô minh trong một lúc được, giống như vầng trăng, ánh sáng mỗi ngày một tỏ rạng hơn, chẳng phải là bất th́nh ĺnh từ trong đêm đen bỗng biến thành vầng trăng tṛn trịa, chẳng phải là biến đổi theo kiểu ấy! Đức Phật dạy vô minh trong bản tánh của chúng ta tổng cộng có bốn mươi mốt phẩm. Đoạn bốn mươi mốt phẩm dần dần: Đoạn được một phẩm, quang minh bèn lớn hơn một phần, đó là quang minh trong bản tánh. V́ thế, kể từ Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, vị ấy là Phần Chứng Phật. Vị ấy là Phật thật sự, chẳng phải là giả Phật, [chỉ] mới phá một phẩm vô minh mà thôi! Phá một phẩm vô minh, dụng tâm của vị ấy và dụng tâm của chư Phật Như Lai là một tâm, tức là chân tâm, sử dụng chân tâm. Từ Tương Tự trở xuống, dùng cái tâm tám thức, dùng tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở, coi đó là tâm, hoàn toàn chẳng biết dùng chân tâm, cũng tức là chân tâm chẳng khởi tác dụng. Đạt đến Phần Chứng Tức bèn dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm, nên tư tưởng, kiến giải, và hành tŕ của vị ấy hoàn toàn giống với Như Lai, chỉ có thể nói là năng lực lớn hay nhỏ khác nhau. Tánh chánh xác, tánh chân thật của vị ấy và tánh của chư Phật Như Lai chẳng sai khác, chỉ là lớn hay nhỏ khác nhau.

      Chúng ta xem lời giải thích kế đó: “Tức tâm quán Phật, thác cảnh hiển tánh, tuy đắc Tương Tự, thượng thuộc duyên tu” (Dùng ngay cái tâm này để quán Phật, nhờ vào cảnh để hiển lộ tánh, tuy đạt được địa vị Tương Tự, nhưng vẫn là tu tập theo pháp duyên khởi). Câu này nhằm tiếp nối ư nghĩa trong phần trước. Trong phần trước, xét theo địa vị Tương Tự, thành tựu trong địa vị Tương Tự chẳng phải là chân thật, vẫn thuộc loại “duyên tu”, [nghĩa là] tu theo duyên khởi, chưa phải là “từ tánh khởi tu”. Phần Chứng là từ tánh khởi tu, chẳng phải là tu từ duyên khởi, căn cứ để tu hành cũng hoàn toàn chẳng giống nhau. Nói cách khác, một đằng dùng vọng tâm, một đằng dùng chân tâm. Dùng vọng tâm, tu đến cảnh giới cao nhất là Tương Tự Tức Phật, chẳng có cách nào minh tâm kiến tánh. Đạt đến minh tâm kiến tánh, quyết định chẳng thể dùng vọng tâm, cũng là phải “bỏ Thức, dùng Căn”, chuyển Thức thành Trí. Thiền gia nói ĺa tâm ư thức th́ mới có thể đạt tới Phần Chứng. Chúng ta niệm Phật cũng giống như thế, ĺa tâm ư thức th́ mới có thể đạt tới Lư nhất tâm bất loạn, đó là cảnh giới Lư nhất tâm bất loạn. “Kim tắc thân chứng” (nay th́ [Phần Chứng] là đích thân chứng), đích thân chứng Pháp Thân, đích thân thấy bản tánh, “thuộc ư chân tu” (thuộc loại chân tu). Do đó, đến khi nào là chân tu? Sau khi minh tâm kiến tánh mới là chân tu, trước khi minh tâm kiến tánh là tương tự tu. Hiện thời, chúng ta nói thật thà th́ ngay cả tương tự tu cũng chưa nói được, nay chúng ta thuộc địa vị Danh Tự, hữu danh vô thực, vẫn chưa bắt đầu tu. Nếu quư vị nghĩ lời tôi nói chẳng đáng tin cho lắm, chính quư vị hăy suy nghĩ, có ngày nào quư vị nghiêm túc đoạn phiền năo hay chăng? Quư vị niệm Phật, lạy Phật, nhưng chẳng nghĩ phải đoạn phiền năo, có thể thấy là quư vị chẳng phải là chân tu! Chân tu là đoạn phiền năo, đoạn tập khí, đó mới là bắt đầu tu thật sự. Sự thật tu ấy vẫn là “duyên tu”, chẳng phải là “thật” như đang được nói ở đây, kể như quư vị đă bắt đầu tu hành. Trong địa vị Quán Hạnh và địa vị Tương Tự, đều là dùng tâm ư thức. Đến đây (địa vị Phần Chứng Tức), chẳng dùng tâm ư thức, mà là ĺa tâm ư thức.

      V́ vậy, nghe kinh, chúng tôi cũng thường nói; tuy nói, có lẽ quư vị nghe vẫn có thể hiểu, nhưng chưa biết dùng. Người chân tu nghe kinh, sẽ đúng như Khởi Tín Luận đă nói: “Ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng danh tự, ĺa tướng tâm duyên”. Người ấy là chân tu, là đích thân chứng. Người giảng, tức là người giảng kinh dùng cái tâm ư thức, nhưng người nghe kinh ĺa tâm ư thức, sẽ đắc quả báo như thế nào? Người giảng kinh chưa khai ngộ, người nghe kinh khai ngộ, người giảng kinh chẳng chứng quả, người nghe kinh chứng quả. Do đó, có thể biết: Tu hành đúng là do cá nhân, cũng chẳng liên can ǵ đến thầy!

      Trong kinh Phật có một công án (公案), chúng ta thường gọi công án là “cố sự” (故事: câu chuyện), chuyện này cũng là chuyện thật. Công án ấy xuất phát từ kinh nào, tôi quên mất, nhưng có [chuyện ấy]. Thuở đức Phật tại thế, có một người tu hành mong chứng quả A La Hán, bèn sắp đặt cúng dường trọng hậu, ḥng cầu một vị tu hành xuất gia khai thị cho ḿnh. Kẻ [xuất gia] tu hành kia tuy chính ḿnh chưa chứng quả, nhưng tham đồ cúng dường, bèn bảo người đó: “Ta đă chứng đắc quả A La Hán. Ngươi hăy đến cúng dường ta”, tham muốn đồ cúng dường mà! Người ấy cung kính, kiền thành thật sự đối đăi với kẻ [tu hành mạo nhận] ấy như một vị A La Hán, cúng dường gă đó. Gă đó tiếp nhận xong, người ấy thỉnh giáo gă: “Ngài hăy dạy cho tôi tu hành như thế nào để chứng quả”. Gă đó chẳng có cách nào, đành phải lừa người ấy, bảo: “Được rồi! Ta ngồi ở ngay đây, ngươi hăy nghe lời ta nói”. Gă cầm trái banh, bảo người ấy ngồi xổm ở góc tường, ném banh vào người ấy, bảo: “Ngươi đă chứng đắc quả Tu Đà Hoàn”. Người ấy đáp: “Đúng vậy, tôi đă chứng đắc quả Tu Đà Hoàn”, thật sự chứng đắc. Lại chuyển sang góc khác, lại ném banh vào người ấy: “Ngươi đă chứng quả Tư Đà Hàm”. Chuyển đến góc thứ tư: “Ngươi đă chứng quả A La Hán”. Mỗi lần, người ấy đều gật đầu nói: “Tôi đă chứng đắc”. Chuyển xong bốn góc, người ấy dập đầu đảnh lễ gă đó. Gă đó nói: “Ta lừa gạt ngươi”. Người ấy nói: “Đâu có! Tôi thật sự chứng đắc”. Chuyện này là xác thực, v́ sao? Người ấy dùng tâm chí thành cung kính để cầu pháp. Tuy [gă đó] dối gạt người ấy, nói lời giả dối, nhưng người ta thật sự chứng đắc. Đó là kẻ thuyết pháp chẳng nói lời tốt lành, nhưng người khéo nghe sẽ đạt được lợi ích chân thật; do đó, biết nói chẳng bằng biết nghe, biết nghe quan trọng lắm!

      Ở đây, nhằm dạy chúng ta phải dùng chân tâm, chân tâm là chí thành tâm. Chí thành tâm là trong tâm chẳng có một vọng tưởng, chẳng có một vọng niệm, đấy là chân tâm. Chí thành cung kính bèn có thể đạt được lợi ích chân thật. Xưa kia, có người hỏi pháp sư Ấn Quang: “Phải làm như thế nào th́ mới có thể đạt được lợi ích chân thật trong Phật pháp? Có bí quyết ǵ hay không?” Tổ Ấn Quang bảo người ấy hai chữ: “Thành kính”. Ngài nói đó là ch́a khóa bí mật để nhập Phật môn: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính đắc mười phần lợi ích”. Người nói có chứng, có học, có tu hay không, đều chẳng quan trọng, vấn đề là ở thái độ cầu học nơi bản thân chúng ta. Chính v́ như thế, xưa nay chúng ta thường thấy tṛ vượt trỗi thầy, màu xanh xuất phát từ màu chàm mà trỗi vượt màu chàm; do nguyên nhân nào? Học tṛ dụng tâm chân thành hơn thầy, nên tṛ vượt trỗi thầy. Đối với Sự và Lư đều có căn cứ. Chúng ta đọc đoạn văn tiếp theo: “Hoặc phần phần phá”, Hoặc () là vô minh, [“Hoặc phần phần phá”] là trừ khử vô minh từng phần một. “Tánh phần phần hiển” [nghĩa là] chân tâm bản tánh của chính ḿnh sẽ [do vô minh phá từng phần] mà thấu lộ ra ngoài từng phần. “Tùng sở chứng thuyết, danh vi Phần Chân” (nói theo điều được chứng đắc, nên gọi là Phần Chân), sở chứng của người ấy là Chân Như bản tánh, mỗi phần đều chân thật. “Tùng năng hiển ngôn, danh Phần Chứng dă” (nói theo chủ thể của sự hiển lộ (chứng đắc), bèn gọi là Phần Chứng), sáng tỏ từng phần một. Đoạn văn này cũng được chia thành hai đoạn, đoạn thứ nhất là “ước phát tâm minh tức Phật” (xét theo sự phát tâm để giảng ư nghĩa Tức Phật). Chúng ta xem kinh văn.

       “Phần Chứng Phật giả, Sơ Phát Tâm Trụ” (Phần Chứng Phật là Sơ Phát Tâm Trụ). Đây là nói theo Viên Giáo, địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo được gọi là Phát Tâm Trụ, phát tâm ǵ? Phát Bồ Đề tâm. Do đó, chư vị đồng tu nên biết: Hễ phát Bồ Đề tâm bèn là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, vượt trỗi A La Hán quá nhiều! A La Hán tương đương địa vị Thất Tín, quư vị thấy trên đó c̣n có Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín, Sơ Trụ, c̣n có bốn tầng cấp. Hễ phát Bồ Đề tâm, liền nhập địa vị Phần Chứng. Bồ Đề tâm là tâm ǵ? Chân tâm, chân thành, chân thành tột bậc! Chúng ta học Phật phải dùng cái tâm chân thành; xử sự, đăi người, tiếp vật cũng đều phải dùng cái tâm chân thành. Trong xă hội này, có rất nhiều người có những điều kiêng dè, sự kiêng dè ấy là vọng tưởng, phân biệt. Ta dùng tâm chân thành đối với người khác, vậy là ta bị thua thiệt! Kẻ khác đều dối gạt ta, làm sao ta có thể dùng chân tâm đối đăi kẻ khác? Sai lầm to lớn quá đỗi! Nếu quư vị dùng cái tâm chân thành để đăi người, tiếp vật, chắc chắn chẳng bị thua thiệt. Trước mắt có thể chịu thua thiệt đôi chút, nhưng mai sau sẽ đạt được đại tiện nghi, quả báo chẳng thể nghĩ bàn. V́ vậy, chẳng sợ bị người khác lừa, chẳng sợ bị lừa! Bị người ta lừa gạt, bị gạt gẫm, đúng là tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng thảy đều tiêu trừ, vô lượng vô biên trí huệ và phước đức tự nhiên hiện tiền, hiện thời bị lừa gạt có đáng sợ chi! Mai sau sẽ có những điều tốt đẹp to tát, được lợi ích to lớn, phước báo to tát, đó là công đức chân thật. Thông thường, người thế gian chỉ thấy chuyện trước mắt, sơ sót chuyện tương lai, đó là tầm nh́n hẹp ḥi, nông cạn, chẳng biết tu phước.

      Thưa cùng quư vị đồng tu, đối với phước báo thật sự th́ lúc tuổi già hưởng phước sẽ là có phước thật sự. Hiện thời quư vị trẻ tuổi, hưởng hết sạch phước báo, lúc tuổi già nghèo túng, lúc xế bóng chịu khổ, đó mới là thật sự khổ sở! Lúc tuổi già chẳng có thể lực, khổ nạn xảy đến, hứng chịu không nổi. Tuổi trẻ chịu khổ đôi chút, thấm vào đâu! Có thể lực, có tinh thần, sẽ có thể chịu đựng được! V́ vậy, có phước báo đừng hưởng thuở trẻ tuổi, hăy dành lại để hưởng lúc tuổi già. Có của cải th́ hiện thời cũng chẳng cần. Trong mạng quư vị có của cải th́ có vứt đi cũng không được! Của cải đưa đến, ta đem bố thí hết sạch, ta đều chẳng cần tới, tuổi già sẽ có của cải đưa tới, mới có thể sống thoải mái. Trong cuộc đời một người, nếu quư vị đi xem bói, thầy bói sẽ bảo quư vị: Vận mạng cứ năm năm chuyển biến một lần. Vận mạng của con người cứ năm năm chuyển biến một lượt. Trong một đời, sẽ có năm năm tốt nhất, mà cũng có năm năm xấu nhất. Nếu như năm năm tốt nhất nhằm lúc tuổi trẻ, năm năm tệ nhất nhằm lúc tuổi già, mạng đó không tốt. Năm năm tốt nhất rớt vào tuổi già, năm năm xấu nhất nhằm lúc trẻ trung, mạng ấy tốt đẹp. Nếu vận tốt của chúng ta nhằm lúc tuổi trẻ, vận xấu nhằm thuở già cả, làm như thế nào? Người thông minh gặp lúc vận tốt bèn chẳng nhận lănh. Chẳng nhận lănh th́ nó sẽ kéo dài đến thuở già nua, kéo dài đến mai sau. Hiện thời phát tài, ta tán tài, ta phân tán nó, căn bản là chớ thọ dụng, đến khi tuổi già, của cải sẽ nhóm lại. Đó là có trí huệ, có tầm nh́n sâu xa, người ấy mới có thể chuyển dời vận mạng. Đó là phương pháp sửa đổi vận mạng của chính ḿnh.

      Nếu quư vị thật sự tin tưởng th́ sẽ có thể sửa đổi, vận mạng do chính ḿnh điều khiển. Quư vị phải đọc Liễu Phàm Tứ Huấn cho nhiều. Do vậy, tôi thường bảo mọi người hăy một mực đọc Liễu Phàm Tứ Huấn ba trăm lần, v́ sao? Chẳng đọc ba trăm lần, quư vị chẳng thể đọc đến mức giác ngộ được! Đọc một, đôi lượt, xem xong liền quên bẵng, vẫn chẳng thể chuyển vận mạng được! Niệm tới ba trăm lần, ấn tượng sâu đậm, thật sự tin tưởng, biết cách làm như thế nào, xác thực là có thể sửa đổi vận mạng. Thọ mạng ngắn ngủi có thể trường thọ, nghèo hèn có thể trở thành phú quư. Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng. Do đó, quư vị phải hiểu lư luận, phương pháp, đúng lư, đúng pháp mà cầu, chẳng có điều ǵ không đạt được! Quư vị đạt được, không chỉ là v́ trong mạng của quư vị có, mà c̣n là trong Chân Như bản tánh của quư vị vốn sẵn đủ, há có thứ ǵ chẳng thể đạt được? Chỉ là đúng lư, đúng pháp khai thác mà thôi! Nay chúng ta khai thác, nhưng khai thác chẳng thích đáng, nơi này có quặng vàng, quư vị biết chỗ, bèn đào bới lên. Quư vị điều chỉnh phương hướng, đến chỗ nọ khai thác, chỗ đó chẳng có [quặng vàng], khai thác cách nào cũng chẳng thể được! V́ thế nói là phương hướng đă sai lầm, nơi chốn đă sai lạc! Nhất định phải biết tu học phước điền chân thật như thế nào. Xử sự, đăi người, tiếp vật bằng cái tâm chân thành, chắc chắn chẳng bị thiệt tḥi. Đó là nói tới chuyện phát tâm.

      “Nhất phát, nhất thiết phát” (một thứ đă phát th́ hết thảy đều phát), câu này quan trọng! Chớ nên đối với Phật, Bồ Tát bằng chân tâm, đối với Phật giáo đồ bằng chân tâm, nhưng đối với phàm nhân trong thế gian bèn dùng giả tâm, chớ có nên! Như vậy là quư vị vẫn dùng nhị tâm, chẳng dùng nhất tâm. Đối với Phật, Bồ Tát dùng tâm ǵ, th́ đối với hết thảy chúng sanh cũng là cái tâm ấy. Tức là v́ Phật, Bồ Tát mà chúng ta dấy lên cái tâm ấy, sau khi đă phát khởi, trong cuộc sống, xử sự, đăi người, tiếp vật đều phải dùng cái tâm ấy, đó mới là đúng. Hễ phát khởi bèn có tác dụng, chẳng thể nào đă phát mà chẳng khởi tác dụng. V́ thế, phải đối xử với hết thảy chúng sanh giống như đối với Phật, Bồ Tát. “Phát nhất thiết công đức, phát nhất thiết trí huệ, phát nhất thiết cảnh giới, bất tiền, bất hậu, diệc bất nhất thời” (phát hết thảy công đức, phát hết thảy trí huệ, phát hết thảy cảnh giới, chẳng trước, chẳng sau, mà cũng chẳng phải là cùng một thời). Trước và sau thuộc về cùng một thời, “chẳng phải là một thời” chính là “một thời”. [Đoạn này] có ư nghĩa dạy chúng ta: Trong khi ứng dụng bèn tùy duyên tự tại, chớ nên chấp trước. Nhất thời là chấp trước, “bất nhất thời” cũng là chấp trước, đều rớt vào vọng tưởng, chấp trước. V́ thế, câu này nhằm dạy chúng ta bỏ ĺa hết thảy vọng tưởng, chấp trước, đó là đúng.

       “Tam trí nhất tâm trung đắc” (do nhất tâm mà đắc ba trí): Ba Trí là Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Trí là chứng đắc của A La Hán, Đạo Chủng Trí là chứng đắc của Bồ Tát, Nhất Thiết Chủng Trí là sự chứng đắc nơi quả địa Như Lai. Nhất Thiết Trí là biết bản thể của hết thảy các pháp. Đạo Chủng Trí là biết Tánh và Tướng của hết thảy vạn pháp. Nhất Thiết Chủng Trí là không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể, đó là trí huệ rốt ráo viên măn, học từ nơi đâu? Do từ nhất tâm mà đạt được! Câu này quan trọng lắm! V́ mục tiêu tu hành của Tịnh Độ Tông là nhất tâm, nhất tâm bất loạn. Bắt đầu là nhất tâm, cuối cùng đắc nhất tâm, khởi đầu bèn dạy quư vị điều ǵ? Nhất tâm niệm Phật. Do đó, trực tiếp dùng nhất tâm, dùng nhất tâm th́ mới có thể chứng nhất tâm. Khởi đầu dùng nhất tâm là tâm ư thức, chẳng phải là chân tâm, mà là vọng tâm, tức tâm ư thức. Tâm ư thức vọng niệm rất nhiều, vọng tưởng rất nhiều, nay ta chuyên tâm nơi một Phật hiệu, dùng một Phật hiệu để thay thế tất cả hết thảy vọng niệm, tức là dùng một niệm thay thế hết thảy vọng niệm, quy hết thảy vọng niệm vào một niệm, điều này được gọi là “nhất tâm”, dùng phương pháp này để tu. Đến khi tất cả hết thảy vọng niệm đều chẳng c̣n, bèn chứng đắc nhất tâm. Nhất tâm là chân tâm, đă chứng đắc. Phương pháp tu học này thẳng thừng, thỏa đáng, chẳng giống các pháp môn khác phải đi ṿng vèo, chẳng biết phải đi ṿng vo đến khi nào th́ mới có thể đạt đến. Pháp môn này là trực tiếp, đạt được ngay lập tức.

      V́ vậy, chư vị đồng tu phải thật tu, thật sự tu tập. Quư vị phải nhớ, thật sự hiểu rơ đạo lư ấy, hiểu rơ chân tướng sự thật th́ mới biết tu. Người biết tu
“phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”, từ sáng đến tối, khóa tụng chuyên ṛng. Trong Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đă dạy chúng ta. Công khóa của Ngài đơn giản, công khóa trong mười hai thời đều hệt như nhau. Một biến kinh A Di Đà, ba biến chú Văng Sanh, một ngàn câu Phật hiệu, đó là công khóa mỗi lần. Khóa sáng là như vậy, mà khóa tối cũng giống như vậy, tuyệt đối chớ nên xen tạp những thứ khác. Đối với khóa tụng ở nơi đây tôi vẫn chưa biết, tôi không ở nơi đây. Đêm qua, tôi nghỉ lại nơi đây, nghe chúng ta tụng khóa sáng ở đây. Khóa sáng ấy xen tạp, chẳng phải là “một mực chuyên niệm”. Vẫn xen tạp những thứ như mười tiểu chú trong ấy, tức là đối với Sự và Lư của Tịnh Tông vẫn chưa hiểu rơ. Nếu thật sự hiểu rơ, sẽ chẳng phải là như vậy. Tổ sư đại đức Tịnh Tông thường là kinh cũng chẳng niệm, mà là niệm Phật hiệu, mỗi ngày mười vạn câu Phật hiệu. Các Ngài cũng chẳng có khóa sáng hay khóa tối chi cả, một ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, quyết định văng sanh.

      [Khóa tụng] do Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đă dạy là chuyên tu. V́ sao trước hết bảo quư vị niệm một biến kinh, niệm ba biến chú Văng Sanh? Nhằm thâu hồi cái tâm, nhiếp tâm, chế phục vọng niệm. Chế phục vọng niệm th́ Phật hiệu mới có công đức, mới tương ứng, nên bảo quư vị niệm một ngàn câu Phật hiệu. Trong cây hương thứ hai cũng làm như vậy, cách niệm đại khái là như vậy. Niệm một ngàn câu Phật hiệu gần như là hai tiếng đồng hồ. Nếu muốn thực hiện Tinh Tấn Phật Thất th́ một ngày một đêm là mười hai cây hương, khóa tŕnh hoàn toàn giống nhau. Một ngày là mười hai biến kinh Vô Lượng Thọ, mỗi lượt đều là ba biến chú Văng Sanh, một ngàn câu Phật hiệu. Một ngày một đêm là một vạn hai ngàn tiếng Phật hiệu, nếu có thừa thời gian bèn lạy Phật. Phương pháp này đắc lực. Do đó, đáng kỵ nhất là xen tạp. Chúng tôi chỉ có thể khuyên lơn ở nơi đây, hiện thời con cái chẳng nghe lời cha mẹ, đồ đệ cũng chẳng nghe lời thầy, đó là hiện tượng rất b́nh thường. V́ thế nói: Mỗi người mỗi tu, thành tựu của quư vị chẳng có liên can ǵ với tôi, mà thành tựu của tôi cũng chẳng thể cho quư vị hưởng ké được! Nhưng tôi chẳng thể không nói cho quư vị biết. Không nói cho quư vị biết tức là có lỗi với quư vị. Đă bảo ban mà quư vị chẳng làm, đó là chuyện của chính quư vị, quư vị chẳng thể trách tôi! V́ thế, Tam Trí do nhất tâm mà đắc.

      Giống như trong Thiền Tông, tọa hương trong Thiền Đường, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Trong mười hai thời, bảo quư vị tĩnh tọa. Ngồi đến khi tê chân th́ chạy hương, [đó là] vận động. Sau khi chạy xong, lại tĩnh tọa, khiến cho quư vị đoạn hết vọng tưởng, do nhất tâm mà đắc. Bất luận pháp môn nào cũng đều do nhất tâm mà đắc, tuyệt đối chẳng thể nói là do tạp tâm mà sẽ đạt được, chẳng có đạo lư ấy. Tra duyệt khắp Đại Tạng Kinh, có kinh nào nói do hai tâm hay ba tâm mà đạt được hay không? Chẳng có! Chúng ta mong thật sự đạt được thành tựu trong một đời này th́ chớ nên không biết điều này!

      Kế đó là nói “đắc Như Lai diệu sắc thân, trạm nhiên ứng nhất thiết, khai bí mật tạng, dĩ bất trụ pháp, tức trụ kỳ trung” (đạt được sắc thân mầu nhiệm của Như Lai, b́nh lặng ứng với hết thảy, mở tạng bí mật, do chẳng trụ pháp mà liền trụ trong ấy). Tu hành th́ bắt đầu tu từ nhất tâm, đạt được quả báo  là tam trí [th́ cũng] do từ nhất tâm mà đạt được. Tam Thân, tức Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân; Tam Đức là Pháp Thân, Bát Nhă, và Giải Thoát, tất cả đều vốn sẵn có trong nhất tâm. V́ nhất tâm là chân tâm, nhất tâm là bản tánh, vốn sẵn trọn đủ. Chúng ta xem lời giải thích cuối cùng nơi trang ba mươi bảy, ḍng thứ tư đếm từ dưới lên, xem từ câu cuối cùng: “Tam Thân, Tam Đức, thể ly tung hoành”. “Tung” () là nói theo chiều dọc, nói đến [thứ tự] trước sau; “hoành” () là nói theo chiều ngang, nay chúng ta gọi [“tung hoành”] là thời gian và không gian. “Ly” () là vượt thoát. [Câu ấy có nghĩa là] Tam Thân và Tam Đức đều vượt thoát thời gian và không gian. Dùng thuật ngữ hiện đại để nói khiến cho mọi người dễ hiểu hơn: [“Thể ly tung hoành”] là vượt thoát thời gian và không gian. Trước kia chẳng hiểu, “kim thỉ phát minh” (nay mới phát hiện, hiểu rơ), “phát” () là phát hiện, đến nay mới phát hiện; “minh” () là hiểu rơ. Tới nay mới phát hiện, hiện nay mới hiểu rơ! “Danh khai bí tạng” (gọi là mở kho tàng bí mật): Từ vô thỉ kiếp đến nay, nó được cất giấu ở chỗ này, trước nay chưa bị phát hiện, dường như là bí mật, nay đă mở toang ra. “Nhập Lư Bát Nhă danh vi Trụ” (do nhập Lư Bát Nhă, nên gọi là Trụ), Lư Bát Nhă là ǵ? Là Căn Bản Trí. Kinh Bát Nhă nói: “Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết”, vô tri là tâm thanh tịnh, vô tri là Định. Định là Thể, Huệ là Dụng. Huệ là Thể, Định là Dụng. Định và Huệ có thể làm Thể và Dụng cho lẫn nhau. Có thể dùng làm Thể và Dụng của lẫn nhau th́ mới lần lượt tiến cao hơn. Đó gọi là Trụ, chính như kinh Kim Cang đă nói “vân hà ưng trụ” (nên trụ như thế nào).

      Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy tôn giả Tu Bồ Đề, tôn giả Tu Bồ Đề hỏi: “Nên trụ như thế nào?” Đức Phật bèn nói, nói thẳng thừng: Trụ theo cách giống như vậy là đúng. Thích Ca Mâu Ni Phật trụ nơi đâu? Quư vị đọc kinh Kim Cang có t́m ra hay không? Thật sự t́m chẳng ra, trong kinh Kim Cang có hai câu đă nói rơ ràng: “Vô trụ Niết Bàn”, chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ Niết Bàn, đó là “Phật trụ”. Nói thật ra, chúng ta vẫn chưa học được, nay chúng ta có thể học được [bằng cách] trụ cái tâm nơi Phật hiệu A Di Đà Phật, trụ nơi Phật tướng của A Di Đà Phật, cách này hay lắm! Trụ nơi danh hiệu của A Di Đà Phật, hay trụ nơi thân tướng của Ngài cũng là nhập Lư Bát Nhă, v́ sao? Nếu quư vị chẳng có trí huệ như vậy, sẽ chẳng thể an trụ cái tâm ở nơi ấy. “Thử trụ vô trụ, trụ bí tạng trung” (trụ nơi vô trụ chính là trụ trong kho tàng bí mật), đó là cảnh giới của kinh Kim Cang, chẳng phải là cảnh giới như tôi vừa mới nói. Nhưng trong cảnh giới như chúng tôi vừa mới nói, hễ văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới liền tiến nhập “trụ bí tạng trung”. Tuy vậy, an trụ cái tâm nơi danh hiệu hoặc thân tướng của A Di Đà Phật là chuyện chúng ta có thể làm được trong hiện tại.

      Đoạn kế tiếp là “ước bị vật minh Phật dụng” (dựa trên những chúng sanh được Phật hóa độ để nói về tác dụng của Phật), đây là nói đến tác dụng. Chúng ta đọc đoạn văn này một lượt: “Dĩ phổ hiện sắc thân, tác chúng sắc tướng” (nhằm hiện trọn khắp các sắc thân [ứng với mọi loài chúng sanh] mà hiện ra các thứ sắc tướng). Đây là nói đến chuyện “tùy loại hóa thân” (hóa thân tương ứng với từng loài). Chư vị phải biết trong chương Quán Thế Âm Bồ Tát Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, Ngài có địa vị là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Sơ Trụ Bồ Tát cũng có ba mươi hai ứng thân, xét thấy nên dùng thân Phật khiến cho chúng sanh đắc độ, Ngài bèn thị hiện tám tướng thành đạo, dùng thân phận Phật để độ họ. Phần Chứng Phật c̣n có năng lực hiện ra các thứ thân, có thể hiện thân Phật. Thân Phật mà c̣n có thể hiện, những thân khác chẳng cần phải nói nữa, đương nhiên có thể hiện những thân khác. Kinh Pháp Hoa nói Quán Âm Bồ Tát là Đẳng Giác Bồ Tát, kinh Hoa Nghiêm nói Quán Âm Bồ Tát là Đệ Thất Hồi Hướng Bồ Tát. Quư vị thấy: Đều cùng nói về Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng trong mỗi bộ kinh, trong mỗi pháp hội, Ngài thị hiện thân phận và địa vị khác nhau, đọc kinh phải biết điều này. Phần Chứng Tức đang được nói ở đây đều là nói theo phía Sơ Trụ của Viên Giáo. Sơ Trụ Bồ Tát đă là như vậy, những địa vị cao hơn càng chẳng cần phải nói nữa, trí huệ, đức năng, và thần thông của các Ngài càng ngày càng thù thắng hơn. “Phổ hiện sắc thân, tác chúng sắc tướng” giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát.

       “Nhất âm tùy loại, báo đáp chư thanh” (một âm thanh mà tùy theo từng loại biến thành các thứ âm thanh nhằm trả lời [ứng với ngôn ngữ của từng loại chúng sanh]), đây là nói về chuyện thuyết pháp. “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải” (Phật dùng một âm để thập phương, chúng sanh tùy theo từng loại đều hiểu). Phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân sẽ làm được, sẽ có năng lực ấy. Ngài thuyết pháp cho hết thảy chúng sanh chẳng cần phiên dịch. Người Trung Quốc nghe thành tiếng Trung Quốc, người Nhật Bản đang hiện diện cùng nghe, thấy [đức Phật] đang nói bằng tiếng Nhật. Chẳng cần phiên dịch, mỗi người đều nghe khác nhau, đều [nghe thành] ngôn ngữ của chính ḿnh, đều có thể nghe hiểu, đều có thể tiếp nhận, rất chẳng thể nghĩ bàn! Năng lực ấy có thật hay không? Các khoa học gia hiện thời tin tưởng [chuyện ấy], v́ các nhà khoa học lợi dụng computer, computer có thể sanh ra năng lực ấy. Trong tương lai, sang du lịch ngoại quốc, sau khi loại computer ấy đă được thật sự phát minh, chẳng cần phiên dịch, computer có thể dịch được. Có thể thấy chuyện này là thật, chẳng giả, là đức năng vốn sẵn có trong bản tánh.

       “Bất động Chân Tế, quần t́nh đẳng duyệt” (Chân Tế chẳng động, mọi loài đều vui sướng). Chân Tế (真際) là chân tánh, chân tánh bất động, chân thân chẳng động, chúng sanh hữu duyên trong mười phương pháp giới đều là pháp hỷ sung măn. Có thể nói là trong mỗi phút, mỗi giây, A Di Đà Phật đều ở trong mười phương thế giới tiếp dẫn vô lượng vô biên chúng sanh văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta [nghe như vậy bèn] nói “A Di Đà Phật bận bịu chết luôn!” Thật ra, A Di Đà Phật có động hay chăng? Chẳng động, Ngài ngồi chễm chệ trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng động! Chẳng động th́ đến [mười phương thế giới] bằng cách nào? Hóa thân đến. Thân Phật có vô lượng quang minh, trong quang minh có vô lượng vô biên Hóa Phật đến mười phương thế giới tiếp dẫn. Chẳng động, mà [người niệm Phật văng sanh trong] mười phương thế giới đều thấy A Di Đà Phật đến tiếp dẫn họ. Chẳng động Chân Tế, mà muôn loài đều hoan hỷ. “Ưng dĩ tam luân độ giả’ (đối với kẻ nên dùng tam luân để độ), “tam luân” (三輪) là thân, miệng, ư. “Năng bát tướng thành đạo cụ Phật oai nghi, dĩ Phật âm thanh, phương tiện nhi độ thoát chi, huống cửu pháp giới tam luân da? Sơ Trụ thượng nhĩ, huống Đẳng Giác da? Thị danh Phần Chứng Tức Phật dă” (có thể hiện tám tướng thành đạo, đầy đủ các oai nghi của Phật, dùng âm thanh và phương tiện của Phật để độ thoát, huống hồ tam luân của [các chúng sanh] trong chín pháp giới [mà Ngài chẳng thể biến hiện] ư? Sơ Trụ Bồ Tát c̣n [có năng lực] như thế, huống là Đẳng Giác? Đó gọi là Phần Chứng Tức Phật vậy). Giảng rất rơ ràng! Nhưng sợ chư vị chẳng hiểu rơ chữ Tam Luân trong đoạn ấy cho lắm, nên trong chú giải có [giải thích]. Lời chú giải thuộc trang ba mươi tám, tức là ḍng thứ ba đếm từ dưới lên trong trang ấy, xem từ câu cuối cùng. “Oai nghi thuộc thân, âm thanh thuộc khẩu, phương tiện thuộc ư”, đó là tam luân. Tam Luân là nói tới thân, khẩu, ư. Phật độ chúng sanh, cả ba thứ ấy đều phải dùng. Phải dùng thân tướng, phải dùng ngôn ngữ, phải dùng các thứ phương pháp phương tiện quyền xảo. “Ưng dĩ Phật độ, tức hiện Phật tam” [nghĩa là] đáng nên dùng thân Phật để độ, bèn hiện thân, khẩu, ư của Phật; đáng nên dùng thân phận Bồ Tát để độ, bèn dùng thân, khẩu, ư của Bồ Tát; đó là “tam luân”. Câu cuối cùng là: “Lương do vị vị Thỉ Giác, Bổn Giác, nhất hợp câu vong, trí sử Thể Dụng cao quảng nhược thử” (ấy là v́ trong từng địa vị [của Pháp Thân Bồ Tát], Thỉ Giác hợp với Bổn Giác, hễ hợp lại th́ những tướng đối đăi đều mất sạch, khiến cho Thể và Dụng cao rộng dường ấy). Có nghĩa là: Đạt đến địa vị Phần Chứng Tức, sử dụng chân tâm, nên ĺa hết thảy các tướng, giống như kinh Kim Cang đă dạy: “Chẳng chấp lấy tướng, như như bất động”, nên Ngài có tác dụng rộng lớn vô biên. À! Chúng tôi giảng đến đây!

 

Tập 7

 

      Xin mở tới trang ba mươi chín trong kinh bổn, xem hàng thứ hai, [phần nói về] Cứu Cánh Tức:

       “Cứu Cánh Phật giả, đạo cùng Diệu Giác, vị cực ư Trà. Cố duy Phật dữ Phật năi năng cứu cánh chư pháp Thật Tướng, biên tế trí măn, Chủng Giác đốn viên. Vô Thượng Sĩ giả, danh Vô Sở Đoạn. Vô Thượng Sĩ giả, cánh vô quá giả” (Cứu Cánh Phật là đạo cùng tột Diệu Giác, địa vị vượt trỗi tột bậc, nên chỉ có Phật và Phật mới có thể hiểu thấu rốt ráo Thật Tướng của các pháp, trí huệ viên măn tột cùng bờ mé, mau chóng viên măn Chủng Giác. Vô Thượng Sĩ c̣n gọi là Vô Sở Đoạn (không có ǵ để đoạn). Vô Thượng Sĩ là không có ai hơn được), đến đây là một đoạn. Đoạn kế đó là tỷ dụ: “Như thập ngũ nhật nguyệt, viên măn cụ túc, chúng tinh trung vương, tối thượng, tối thắng, oai đức đặc tôn, thị danh Cứu Cánh Phật nghĩa” (như trăng rằm, tṛn đầy vẹn toàn, là vua của các ngôi sao, tối thượng, tối thắng, oai đức đặc biệt tôn quư, đó là ư nghĩa của từ ngữ Cứu Cánh Phật). Cứu Cánh Phật là quả vị viên măn trong Viên Giáo, địa vị cao hơn Đẳng Giác, đă đoạn sạch bốn mươi mốt phẩm vô minh; khi đó, chúng ta gọi Ngài là Diệu Giác. Chữ Trà () trong câu “vị cực ư Trà” chính là [chữ Trà] trong Phạn văn của Ấn Độ. [Phạn văn] giống như Anh Văn, do từng chữ cái ghép lại tạo thành âm; có tất cả bốn mươi hai chữ cái, Trà (kṣa:Siddham letterk.sa) là chữ cái cuối cùng. So với bốn mươi mốt quả vị trước đó, [quả vị] bốn mươi hai là rốt ráo viên măn thành Phật, tỷ dụ như vậy. Chữ Trà là tiếng Phạn dịch âm, [“vị cực ư Trà”] tức là bốn mươi hai chữ cái đă đến cuối cùng, sau đó chẳng c̣n ǵ nữa, tỷ dụ quả vị đă đạt tới chỗ tột cùng. “Duy Phật dữ Phật”: Chỉ có bậc đă chứng cực quả mới có thể hiểu rơ triệt để viên măn chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Đẳng Giác Bồ Tát tuy hiểu rơ, vẫn chưa thể nói là rốt ráo hiểu rơ. Phải đạt đến quả vị Như Lai th́ mới thật sự hoàn toàn hiểu rơ, phá sạch vô minh.

      V́ thế, nói đến chuyện tu hành; nói chung, phải đặc biệt chú ư, phương pháp tu hành rất nhiều, thường nói là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”, hoặc “vô lượng pháp môn”, chúng ta dùng các pháp môn ấy chẳng có hiệu quả, chớ nên không biết điều này! Thật giống như ngă bệnh phải uống thuốc, sau khi uống thuốc, bệnh trạng có khá hơn hay không? Tôi tin mỗi người bị bệnh đều biết chuyện này. Nếu uống thuốc vào mà bệnh chẳng chuyển biến khá hơn, nhất định là phải t́m ṭi lần nữa, hoặc lại đi khám bệnh lần nữa. Nếu uống thuốc chẳng đúng với chứng bệnh, uống vào không chỉ chẳng khá hơn, mà uống vào bệnh ngày càng nguy ngập hơn, đáng sợ quá! Phật pháp giống như thuốc. Hiện thời, mọi người cũng chẳng đi khám bác sĩ, cũng chẳng có kiến thức thông thường về y học, cứ uống thuốc loạn xạ, đáng sợ thay! Tu hành chẳng có thành tựu th́ vẫn c̣n chưa đáng ngại, chứ trong tương lai đoạn mất Pháp Thân huệ mạng, vấn đề sẽ nghiêm trọng, nhất định phải chú ư điều này!

      Căn bệnh nặng của chúng ta, nói thật ra, trừ phiền năo ra, sẽ là vô minh. Vô minh là ǵ? Tà tri tà kiến; tà tri tà kiến là vô minh. Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn” (từ trên tri kiến lại lập ra một cái biết nữa, đó là cội gốc của vô minh), trên tri kiến lại lập thêm một cái tri kiến, đó là tà tri tà kiến. Cách nghĩ sai lầm, cách nh́n sai lầm, đó là bệnh nặng. Nguyên tắc trị liệu là trước hết dạy chúng ta điều ǵ cũng đều không nghĩ tới, cách nghĩ và cách nh́n thảy đều ngưng dứt, khiến cho cái tâm khôi phục sự thanh tịnh, điều này được gọi là “tu Định”. Bất luận pháp môn nào, hễ nói đến công phu thật sự đều là tu Định. Đầu tiên là tu tâm thanh tịnh. Tâm chẳng thanh tịnh th́ niệm Phật cũng vô dụng, cũng chẳng thể tương ứng. Đẳng Giác Bồ Tát v́ c̣n có một phẩm vô minh chưa đoạn, nói cách khác, nếu so với Phật, tâm Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thanh tịnh. So với chúng ta, tâm Ngài đúng là thanh tịnh tột bậc, nhưng so với Phật th́ chẳng bằng! Do đó, Đẳng Giác Bồ Tát vẫn đới nghiệp, nhưng Ngài mang theo nghiệp ít nhất. V́ c̣n có chút chướng ngại, Ngài vẫn chưa thể rốt ráo triệt để hiểu rơ Thật Tướng của các pháp. Chẳng hạn như nói đến y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới và công đức thù thắng do niệm Phật văng sanh, Đẳng Giác Bồ Tát chưa thể hoàn toàn hiểu rơ, Ngài c̣n có chút chướng ngại như thế. Do đó, người thật sự tu hành phải luôn biết ḿnh đang tu ǵ? Trừ bỏ hết thảy những sai lầm, khôi phục chánh tri chánh kiến, đó là đúng. Kinh Pháp Hoa nói rất hay: “Khai thị ngộ nhập Phật chi tri kiến”. Tri kiến của Phật là chánh tri chánh kiến, như vậy th́ mới có thể đạt đến Cứu Cánh Giác.

       “Biên tế trí măn” (trí huệ viên măn tột cùng ngằn mé): Trí huệ viên măn. “Biên tế” (邊際: bờ mé) là nói “thụ cùng tam tế, hoành biến thập phương” (theo chiều dọc trọn khắp ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương). Tận hư không khắp pháp giới không ǵ chẳng biết, trí huệ ấy mới được coi là viên măn. “Chủng Giác đốn viên”: Chủng () là Nhất Thiết Chủng Trí, khi ấy, đă viên măn, nên Ngài được gọi là Vô Thượng Sĩ, chẳng có ai cao hơn Ngài được! “Danh Vô Sở Đoạn” (gọi là Không Có Ǵ Để Đoạn). Đẳng Giác Bồ Tát c̣n có cái phải đoạn, [tức là] c̣n phải đoạn một phẩm sanh tướng vô minh. Đạt đến địa vị Phật th́ Phật chẳng có ǵ phải đoạn, những ǵ đáng nên đoạn đều đă đoạn hết, chẳng c̣n ǵ để đoạn nữa, [nên gọi là] Vô Sở Đoạn. “Vô Thượng Sĩ giả, cánh vô quá giả” (Vô Thượng Sĩ là không có ai cao hơn được), chẳng c̣n có ai vượt trỗi Ngài. Trong mười pháp giới, Ngài là chí cao vô thượng. Kế đó là tỷ dụ, giống như vầng trăng Rằm, viên măn trọn đủ. Vầng trăng Mười Bốn tuy tṛn, vẫn c̣n thiếu khuyết một chút. Kinh thường sánh ví trăng Mười Bốn như Đẳng Giác Bồ Tát, sánh ví trăng Rằm với Phật quả. Đó là Cứu Cánh Giác. Do Ngài là tối thượng, tối thù thắng, “oai đức đặc tôn” (oai đức đặc biệt tôn quư), nên gọi là Cứu Cánh Phật.

      Chúng ta xem đoạn kế tiếp: “Phật hữu vô lượng đức, ưng hữu vô lượng hiệu” (Phật có vô lượng đức, nên phải có vô lượng hiệu), đúng vậy! Danh hiệu của Phật là vô lượng vô biên, v́ sao? Một đức hiệu chẳng thể biểu thị sự vô lượng, chẳng thể hiển thị sự vô lượng. Chẳng cần nói tới Phật, người thế gian chúng ta có lắm kẻ rất thông minh, có trí huệ, rất giỏi giang, lắm tài, nhiều nghề. Mở danh thiếp của họ ra xem, quư vị thấy ghi mười mấy tước hiệu. Nếu quư vị hỏi kẻ đó, một tước hiệu có được hay không? Một [tước hiệu] th́ sẽ chẳng thể tiêu biểu thân phận và địa vị của người đó. Đức năng trong Chân Như bản tánh chẳng thể nói trọn, nên quư vị thấy trong kinh Phật có một bản kinh là Vạn Phật Danh Kinh. Danh hiệu của một vạn vị Phật chính là danh hiệu của một vị Phật, Ngài có danh hiệu nhiều ngần ấy, vẫn chỉ là nói đại lược đó thôi! Phàm các danh hiệu Phật đều nhằm nói tới Tánh Đức vốn sẵn trọn đủ trong Chân Như bản tánh, danh hiệu của Bồ Tát gọi là Tu Đức. Tánh Đức có bao nhiêu th́ Tu Đức cũng nhiều ngần ấy. Phật pháp tuyệt đối chẳng phải là một loại đa thần giáo, tuyệt đối chẳng phải là phiếm thần giáo. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Một chính là nhiều, nhiều chính là một”. Ngài là một người lắm tài, nhiều nghề, nên mới có nhiều danh hiệu dường ấy, tỏ lộ trí huệ và đức năng của Ngài là vô lượng vô biên, mang ư nghĩa này.

“Cử nhất tế chư” (Nêu ra một th́ những điều khác bị khuất lấp). Danh hiệu nhiều [là v́] chỉ nêu ra một [danh hiệu] th́ [chỉ có một Tánh Đức được tỏ lộ], những điều khác chẳng được hiển lộ. Đó là nguyên nhân v́ sao phải có lắm danh hiệu như thế! Danh hiệu quá nhiều cũng phiền, cũng chẳng rơ ràng. V́ thế, quy nạp vô lượng danh hiệu của Phật thành mười hiệu, các kinh thường nói tổng quát là đức Phật có mười hiệu, đó là các danh hiệu chúng ta thường thấy. “Hoa Nghiêm hữu thập vạn hiệu” (kinh Hoa Nghiêm nói [đức Phật] có mười vạn hiệu), bản in ở đây bị sót một chữ, quư vị hăy thêm vào, [tức là] “hữu thập vạn hiệu” [thay v́ “hữu thập hiệu”], kinh Hoa Nghiêm nói Phật có mười vạn hiệu. “Hựu kinh hữu vạn hiệu, tam thế chư Phật thông hữu thập hiệu” (Lại có kinh nói Phật có một vạn danh hiệu, ba đời chư Phật có mười hiệu chung). Mười hiệu ấy là vô lượng vô biên danh hiệu được quy nạp, quy nạp lại giống như cương lănh, có mười hiệu. “Tịnh Danh tam hiệu, dĩ kiếp thọ thuyết, bất năng linh tận, hà huống chư hiệu da?” (Đối với ba hiệu trong kinh Tịnh Danh, dùng tuổi thọ dài bằng cả kiếp để nói [các ư nghĩa được bao hàm trong ấy] vẫn chưa thể nói hết, huống là các danh hiệu ư?). Tịnh Danh là kinh Duy Ma. Ba hiệu được nói trong kinh Duy Ma, nói thật ra là ba hiệu trong mười hiệu. Câu này nằm trong trang bốn mươi, ḍng thứ năm đếm từ dưới lên, quư vị hăy xem trong ḍng ấy. “Tịnh Danh kinh vân, Chánh Biến Tri, Như Lai cập Phật” (kinh Tịnh Danh nói [ba hiệu] là Chánh Biến Tri, Như Lai và Phật). Ba hiệu ấy chính là ba hiệu trong mười hiệu. Ba hiệu ấy, “thử tam cú nghĩa, đại thiên chúng sanh” (Đối với ư nghĩa của ba câu ấy, chúng sanh trong cơi đại thiên), [ư nói] chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới, “giai như A Nan đa văn đệ nhất” (đều là bậc đa văn hạng nhất như ngài A Nan), thông minh, có trí huệ giống như tôn giả A Nan đa văn bậc nhất. “Dĩ kiếp chi thọ” (dùng tuổi thọ dài bằng cả kiếp), thọ mạng lâu cỡ nào? Thọ mạng dài đến một đại kiếp, [dùng tuổi thọ dài lâu như vậy để] giải nói ư nghĩa của ba danh hiệu ấy đều nói chẳng trọn, huống hồ mười danh hiệu! Huống hồ vô lượng danh hiệu! Những ư nghĩa được bao hàm trong mỗi danh hiệu đều là rộng lớn vô biên, chẳng thể nói trọn hết.

      Đến chỗ này mới coi như đă giới thiệu xong chữ Phật trong tựa đề Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh, giảng xong một chữ. Dưới đây là chữ thứ hai, tức Thuyết trong Phật Thuyết.

       “Thuyết giả, duyệt sở hoài dă” (Thuyết là thỏa thích bổn hoài), chúng ta thường thấy cách giải thích này trong [chú giải của] hết thảy các kinh. Tiếp đó, sách viết: “Tức thập nhị bộ kinh” (tức là mười hai thể loại được sử dụng trong kinh Phật). Thập Nhị Bộ Kinh là toàn thể kinh Phật. Nếu nói theo cách hiện thời, kinh Phật có tổng cộng mười hai loại thể tài (genre) khác nhau. Do đó, nói đến mười hai loại thể tài ấy sẽ bao gồm toàn thể Phật pháp. “Bát vạn pháp tạng” (tám vạn pháp tạng), nói tới phương pháp và đường lối tu học. “Lục Độ, Tứ đẳng” (Lục Độ, Tứ Tất Đàn v.v…): Lục Độ là sáu Ba La Mật, tức là cương lănh tu hành của Bồ Tát; “Tứ” là nói đến Tứ Tất Đàn. “Nhất thiết pháp môn, hựu ư nhất pháp trung, tác tứ môn phân biệt. Ư nhất nhất môn, xảo tác Tứ Tất Đàn lợi ích, văn giả hoan hỷ, tán dụng, thọ hành, Thí, Giới, Tấn, Niệm, nhi đắc khai phát. Tham, khuể, ngu si, hoát nhĩ băng tiêu, cách phàm thành thánh, nhập pháp lưu thủy, hoặc nhị tam nhất ích. Nhược đô vô ích, tắc thị mặc nhiên” (Trong mỗi pháp thuộc hết thảy các pháp môn lại phân biệt thành bốn môn. Trong mỗi môn, khéo tạo lợi ích Tứ Tất Đàn. Người nghe hoan hỷ, khen ngợi tác dụng [của Phật pháp], tiếp nhận, hành tŕ. Thí, Giới, Tinh Tấn, Niệm bèn được khai phát. Tham, sân, ngu si bỗng dưng tiêu tan. Thoát phàm thành thánh, dự vào ḍng pháp, hoặc [người nghe] sẽ đạt được hai, ba hoặc một điều lợi ích. Nếu [những pháp muốn nói ấy] đều vô ích [cho người nghe], đức Phật bèn thị hiện im lặng). Đoạn này giải thích chữ Thuyết. Không chỉ giải thích chữ Thuyết, mà một đoạn lớn sau đó, tức là cả một đoạn lớn từ sau chữ “thập nhị bộ” trở đi mà chúng ta vừa đọc là nói về những điều do đức Phật đă giảng. Trong phần nói về “sở thuyết” (những pháp đă được nói), đă nêu ra một nguyên tắc: Đức Phật thuyết pháp chắc chắn có lợi ích cho chúng sanh. Lợi ích nhiều hay ít, sâu hay cạn khác nhau. Nếu chẳng có lợi ích, đức Phật sẽ chẳng nói. Ở đây viết là “nhược đô vô ích, tắc thị mặc nhiên” (nếu đều là vô ích, th́ Ngài thị hiện im lặng), đức Phật sẽ chẳng nói.

       “Nhược nhất cơ khấu thánh, ư nhất môn thí Tứ Ích giả” (nếu một căn cơ cảm thánh tâm, Ngài sẽ ban bố bốn món lợi ích trong một môn). “Nhất môn” là một loại pháp môn, Tứ Ích là Tứ Tất Đàn. “Dư tam môn diệc như thị, vị nhất duyên thuyết nhất pháp kư nhĩ, chư duyên chư pháp diệc như thị” (ba môn kia cũng giống như thế, v́ một duyên mà thuyết một pháp đă là như thế, th́ các duyên, các pháp cũng giống như thế). Đoạn này có nghĩa là: Hễ có kẻ nào có nghi vấn, hướng về đức Phật thỉnh giáo, đức Phật thuyết pháp cho kẻ ấy, chẳng ĺa khỏi Tứ Tất Đàn. Nếu là rất nhiều người, đức Phật thuyết pháp cho đại chúng cũng chẳng ĺa khỏi nguyên tắc này. Đây là nói về nguyên tắc thuyết pháp. Chúng ta xem chú giải, ḍng thứ nhất trong phần chú giải, hăy xem từ nửa đoạn sau: “Nhược tựu bổn kinh, tức thị Như Lai cửu tu cửu chứng Niệm Phật tam-muội, uẩn chi tại hoài” (Nếu xét theo kinh này, sẽ là Như Lai tu chứng Niệm Phật tam-muội đă lâu, ấp ủ trong ḷng). Câu này quan trọng, [nêu rơ kinh này] nói chẳng khác ǵ kinh Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà. Đức Phật thành Phật như thế nào? Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă nói: Chư Phật do niệm Phật mà thành Phật”. Chư Phật đạt được tam-muội rất sâu có tên là Niệm Phật tam-muội. Trong tác phẩm chú giải kinh Di Đà, Ngẫu Ích đại sư đă nói như vậy. Từ kinh Vô Lượng Thọ, quả thật chúng ta đă thấy [điều đó]. V́ vậy, “tin sâu nhân quả” trong Tam Phước của Quán Kinh chính là “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”.

      Đức Phật thấy cơ duyên thành Phật của chúng sanh đă chín muồi. Cơ duyên thành Phật đă chín muồi th́ nếu đức Phật phải giảng pháp Bồ Tát hay nói pháp thành A La Hán cho họ, th́ sẽ có lỗi với họ! Đức Phật thuyết pháp bèn ứng theo căn cơ mà ban bố giáo pháp. Ngài xét thấy kẻ ấy vẫn chưa có phần thành Phật trong một đời này, chỉ có thể thành Bồ Tát, đức Phật liền giảng pháp Bồ Tát, chắc chắn chẳng giảng pháp thành Phật cho kẻ ấy. V́ sao? Kẻ ấy chẳng có phước báo đó, có giảng th́ kẻ ấy cũng trọn chẳng tin tưởng, nói uổng công! V́ lẽ đó, đức Phật thuyết pháp khế cơ, khế lư! Thấy cơ duyên thành Phật đă chín muồi, nói cách khác, đối với pháp môn thành Phật này, nói với kẻ ấy, kẻ ấy có thể tin tưởng, có thể lư giải, có thể nghiêm túc học tập, quyết định thành Phật trong một đời này. Đó là pháp môn ǵ? Pháp môn Niệm Phật. Ba kinh Tịnh Độ đều nhằm dạy chúng sanh thành Phật, chẳng phải là nói với những kẻ b́nh phàm. Pháp môn này, đức Phật ấp ủ trong ḷng đă lâu, t́m chẳng thấy đối tượng, lần này t́m được đối tượng, Ngài hoan hỷ lắm, hoan hỷ hơn [khi nói] bất cứ pháp môn nào khác. Độ chúng sanh th́ trong một đời, quư vị có thể độ mấy chúng sanh thành Phật? Lần này gặp được kẻ sẽ nhanh chóng thành Phật, tuyệt diệu quá, chẳng thể bỏ lỡ cơ hội! V́ lẽ đó, đức Phật nói pháp môn Tịnh Tông, tỏ lộ niềm hoan hỷ khôn sánh, từ Đại Kinh chúng ta thấy được chuyện này. “Kim cơ khấu phát thuyết chi” (nay do căn cơ tương ứng phát khởi, bèn nói [pháp môn này]). Chữ “cơ” () chỉ phu nhân Vi Đề Hy. [Đức Phật] gặp được vị này, thiện căn, phước đức, nhân duyên của bà ta trong vô lượng kiếp đến nay đă chín muồi, đức Phật bèn truyền dạy bà ta pháp môn này, bà ta sẽ thành Phật trong hiện thời. “Năi sướng tích chi sở hoài dă” (bèn thỏa thích nỗi niềm ấp ủ từ trước). Điều ấp ủ trong tâm rất muốn nói, nhưng chẳng t́m thấy đối tượng, lần này đă gặp được. Chúng ta phải chú ư mấy câu này.

      Tiếp theo đây, chúng ta lại lật qua trang bốn mươi hai. Trong trang bốn mươi hai có một khuôn mẫu thuyết pháp. Bất luận đồng tu tại gia hay xuất gia, trong tương lai muốn phát tâm thuyết pháp cho kẻ khác, phải nhớ nguyên tắc này. Quư vị không hiểu nguyên tắc này, sẽ không phải là giảng Phật pháp! Phải hiểu nguyên tắc này! Trong trang bốn mươi hai, ḍng thứ hai, xem từ ḍng ấy. “Thú cử nhất pháp”, [nghĩa là] tùy tiện chọn lấy một pháp, “tu khai tứ môn” (cần phải mở ra bốn môn), [nghĩa là] nhất định phải hiểu Tứ Tất Đàn. Tất Đàn (Siddhanta) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Biến Thí (遍施), [có nghĩa là] phổ biến dùng Phật pháp bố thí hết thảy chúng sanh. Trong đó bốn loại, nên chúng ta gọi là Tứ Tất Đàn. “Cơ sanh thục cố” (do căn cơ có sống và chín), Cơ () là đối tượng để thuyết pháp. Quư vị nói với kẻ đó, cơ duyên của kẻ đó đă chín muồi hay chưa? Chín muồi đến mức độ nào? [Mỗi người] có mức độ sống chín khác nhau, quư vị thuyết pháp cho họ sẽ khác nhau, “Tứ Tất bị chi” (mà Tứ Tất Đàn sẽ tương ứng). Dưới đây sẽ giảng rơ.

       “Vi vị chủng giả, tác thế giới thuyết” (Đối với kẻ chưa gieo [thiện căn nơi Phật pháp], bèn nói pháp theo kiểu Thế Giới Tất Đàn): Đây là điều thứ nhất trong Tứ Tất Đàn, tức Thế Giới Tất Đàn, nói với hạng người nào? Nói với người chưa gieo thiện căn, cũng là nói với kẻ b́nh phàm trong xă hội. Mục tiêu thuyết pháp là đâu? Nhằm vào mục đích khiến cho họ nhận biết Phật giáo. Khi nghe Phật giáo, tâm người ấy hoan hỷ, nhưng vẫn không nhất định tiếp nhận, vẫn chưa muốn học Phật; chỉ nhằm dạy cho kẻ ấy nhận biết Phật giáo, đừng nẩy sanh hiểu lầm đối với Phật giáo, mục đích ở chỗ này. Đó là khiến cho kẻ ấy hoan hỷ. Nói theo thực tế sẽ là “linh kỳ nhạo dục, tán dụng, thọ hành” (khiến cho kẻ ấy ưa thích, khen ngợi hữu dụng, chấp nhận), nhắm đến mục đích này, hy vọng người ấy sẽ hoan hỷ, chẳng đến nỗi hiểu lầm Phật pháp, tán thán Phật pháp, biết Phật pháp c̣n có chỗ hữu dụng đối với xă hội, chẳng có hại; kiến lập một quan niệm chánh xác cho người ấy. Đó là một cách nói. Chúng ta thường gọi chuyện này là “tuyên truyền”. Hiện thời, người tuyên truyền rất nhiều, nhưng nội dung tôi không biết rơ cho lắm. Tôi thường thấy báo chí, thậm chí truyền h́nh đều có quảng cáo vị pháp sư nào đó giảng kinh, thuyết pháp ở chỗ nào đó, người nghe đều là mấy ngàn người, mấy vạn người. Chuyện này hơi giống Phật giáo biểu diễn, diễn tṛ. Mục tiêu của họ chỉ có thể đạt được trong giai đoạn này.

      Loại thứ hai: “Vị dĩ chủng giả, dụng trung nhị tất” (v́ người đă gieo [thiện căn và phước đức], bèn vận dụng hai loại Tất Đàn trong ấy). Đối với người đă có thiện căn, bèn dùng hai loại trong bốn loại Tất Đàn, tức là Vị Nhân và Đối Trị, dùng hai loại ấy. Đă gieo thiện căn, phải xét xem thiện căn của người ấy sâu hay cạn. “Thiện căn vị phát giả” (người thiện căn chưa phát), kẻ ấy có thiện căn, nhưng thiện căn vẫn chưa phát lộ. Đích xác là có thiện căn, nhưng thiện căn vẫn chưa phát lộ. Vậy th́ phải thuyết pháp như thế nào? “Tác vị nhân thuyết” (Dùng cách nói v́ người khác), [cách này] có ư nghĩa sâu hơn cách trước. Mục đích của cách thuyết pháp này là “linh khởi túc thiện Tín, Giới, Tấn, Niệm”, [nghĩa là] khiến cho người ấy có thể phát lộ thiện căn, Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ [từ đời trước]. Người ấy nghe Phật pháp, bèn có thể sanh khởi [những thiện căn ấy]. Đó là người đă gieo thiện căn, nhưng thiện căn trọn chẳng rất sâu dầy, bèn khích động cho thiện căn của người ấy phát khởi, nay chúng ta nói là “đạo tâm”, đạo tâm và thiện căn có ư nghĩa giống nhau. Đấy là kích phát đạo tâm, kích phát thiện căn của kẻ đó.

      Loại thứ ba là “ác vị phá giả” (đối với kẻ chưa phá ác), thiện căn đă có, thiện căn cũng đă phát hiện. Tuy thiện căn đă phát hiện, nhưng tập khí phiền năo chưa đoạn. Trong giới Phật giáo chúng ta, hai loại t́nh h́nh này, bất luận tại gia hay xuất gia đều có rất nhiều. Chúng ta chẳng thể nói họ không có thiện căn, nhưng chẳng đoạn tập khí phiền năo. Tập khí phiền năo chẳng đoạn th́ nói cách khác là tu hành bị chướng ngại, tu hành quyết định chẳng thể thành tựu, v́ quư vị có chướng ngại tồn tại, niệm Phật cũng chẳng thể văng sanh. Để thuyết pháp cho loại người ấy, chúng ta phải dùng cách Đối Trị. Đối Trị là “linh kỳ tam độc hốt hoát nhĩ băng tiêu” (khiến cho tam độc của người ấy bỗng dưng nhanh chóng tiêu tan). Tam Độc là tham, sân, si. Nói tới tham, sân, si, đương nhiên sẽ là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, bao gồm toàn bộ các phiền năo. Đối với kẻ chẳng đoạn các phiền năo ấy, [bèn v́ kẻ ấy] thuyết pháp với mục đích giúp cho kẻ ấy đoạn phiền năo. Có thể đoạn phiền năo, có thể trừ tập khí, công phu sẽ có thể đắc lực, thật sự có thành tựu trong Phật pháp, pháp hỷ sung măn.

      Xưa kia, chưa đoạn tập khí phiền năo, chắc chắn là chẳng thể rời khỏi thiện tri thức. Kẻ ấy theo học với một vị thiện tri thức nào đó, chẳng thể rời khỏi v́ chưa có năng lực ĺa khỏi thầy. Giống như đứa trẻ rất bé, chưa thể tự ḿnh độc lập, chẳng thể rời khỏi cha mẹ, phải thường được cha mẹ chăm sóc th́ mới được an toàn. Chưa đoạn tập khí phiền năo, nếu ĺa khỏi thiện hữu, muốn đi ra ngoài, nguy hiểm to lắm! Kể từ xưa kia, chẳng phải là nói trong hiện thời, vào thời cổ đă có [những gương như vậy]. Khi chưa đi ra ngoài, tu hành trong tự viện của chính ḿnh th́ tốt đẹp lắm! Thật sự có đạo tâm, đáng cho người khác tôn kính; nhưng vừa ra ngoài giảng kinh, thuyết pháp, lại t́m một tự viện để làm trụ tŕ lănh chúng, tín đồ quy y cũng đông, tiền bạc cũng lắm, th́ cũng phách lối lắm, trở nên kiêu căng, ngă mạn, phiền năo đều dấy lên hiện hành! V́ sao? Rớt trong tiếng tăm, lợi dưỡng, đọa lạc trong ngũ dục, lục trần, quả báo trong tương lai là sanh trong ba ác đạo.

      Nếu quư vị đọc bộ Trúc Song Tùy Bút của Liên Tŕ đại sư, chẳng nhớ trong trang nào, Liên Tŕ đại sư từng phê b́nh một vị đại đức. Vị đại đức ấy trước kia ở trong núi, cũng rất có tiếng tăm, mọi người hết sức bội phục đạo đức, học thức, và sự hàm dưỡng của Sư, vô cùng tôn trọng. Sau này, Sư làm Trụ Tŕ một ngôi chùa tại đô thị, đạo tâm thảy đều mất sạch. Tổ đến bái phỏng, nói: “Trước đây có một người nọ, tu hành trên núi tốt đẹp cỡ nào, tôi bội phục lắm! Về sau, vị ấy đọa lạc”. Vị pháp sư ấy hỏi: “Ai vậy?” Tổ đáp: “Chính là lăo huynh chứ ai nữa!” Coi như vẫn c̣n khá, v́ Sư c̣n có thể gặp Liên Tŕ đại sư chỉ điểm, cảnh tỉnh thẳng thừng. Con người hiện thời khi bị đọa lạc, dẫu có cảnh tỉnh cũng chẳng tỉnh, vẫn ngỡ chính ḿnh là đúng! Người hiện thời tu hành khó khăn hơn thuở xưa! Con người xưa kia tâm địa hồn hậu, tôn sư trọng đạo, có thể nghe lời thầy, chứ người hiện thời chẳng nghe. Thấy người khác nổi tiếng lừng lẫy, cũng nghĩ trọn đủ mọi phương pháp ḥng đạp đổ tiếng tăm của người khác, chỉ sợ chính ḿnh ở sau kẻ khác. Thấy người ta phước báo to hơn ḿnh, trong tâm kẻ ấy rất khó chịu, cũng nghĩ trọn hết mọi phương pháp sao cho phước báo của chính ḿnh vượt hơn người ta. Tâm đặt nơi đâu? Tâm chuyên môn cầu tiếng tăm lợi dưỡng, cầu ngũ dục, lục trần. Chẳng biết tu hành là tu tâm thanh tịnh, chẳng biết tu hành là phải đoạn sạch tập khí phiền năo!

 Các vị tổ sư đại đức từ xưa tới nay, ngay cả tại gia cư sĩ, hoằng pháp lợi sanh cũng đều là do kẻ khác thỉnh pháp, há có ai tự t́m chỗ để thuyết pháp? Chẳng có đạo lư ấy. Người ta đến thỉnh, chính ḿnh vẫn rất khiêm hư: “Chỉ sợ tôi không được, tôi nói chẳng khế cơ!” Há có chuyện chính ḿnh t́m đủ mọi phương pháp để kiếm chốn giảng kinh? Chẳng có đạo lư ấy. Trong quá khứ, khi chúng tôi học giáo ở Đài Trung, luyện tập giảng kinh là một môn học vô cùng quan trọng. Đến chỗ nào để giảng? Đến nhà các đồng tu: “Xin quư vị từ bi, tôi giảng cho quư vị nghe. Quư vị hăy sửa sai cho tôi”. Đó là đến thỉnh giáo: “Tôi giảng quư vị nghe có vừa ư hay chăng? Có nghi vấn hay chăng? Hăy cho tôi biết để tôi sửa cho tốt đẹp hơn”. Người nghe là dăm ba người, mỗi tuần một ngày đến giảng tại nhà đồng tu. Đó là ǵ? Cầu được chỉ dạy! Người giảng là tôi chính là học tṛ, người nghe là thầy, là giám học của tôi. Chúng tôi học như vậy.

      Khi chúng tôi học Phật tại Đài Trung, mỗi tối đều có pháp hội giảng kinh, hôm nay ở nhà vị cư sĩ này, ngày mai tại nhà vị cư sĩ nọ, v́ đồng học đông đảo. Hôm nay vị đồng học này giảng, chúng tôi đều là bạn học cùng học giảng kinh, nhất định phải đến tham gia, v́ sửa sai cho người ấy cũng là sửa sai cho chính ḿnh. Cho đến khi thầy nghe xong, gật đầu đồng ư, chẳng có sai lầm ǵ th́ mới có thể lên ṭa giảng [cho công chúng]. Lên bục giảng vẫn là luyện tập. Điều khó có của Đài Trung là có hai giảng đài để luyện tập giảng kinh, một ở tại Liên Xă, hai là ở chùa Linh Sơn. Liên Xă, tức Đài Trung Liên Xă, là chỗ để nữ chúng luyện tập giảng kinh, chùa Linh Sơn dành cho nam chúng. Đến nghe kinh ủng hộ có bảy, tám mươi người, đương nhiên các vị thính giả ấy đều rất khách sáo. Quư vị hướng về họ thỉnh giáo, họ sẽ chẳng phê b́nh; nhưng chúng tôi luyện tập giảng kinh, thầy Lư nhất định phải đến. Thầy Lư ngồi ở hàng cuối cùng, ngồi trong góc. V́ sao? Chúng tôi giảng kinh chẳng có máy phóng thanh, ắt phải giảng sao cho thầy nghe rơ ràng. Nếu thầy nghe không rơ ràng th́ không được, âm lượng của quư vị chẳng đủ! Sau khi giảng xong, thầy tập hợp các bạn học lại, tiến hành phê b́nh nghiêm ngặt, chỗ nào phải sửa lại. Lần giảng kế tiếp phải sửa đổi. Trải qua huấn luyện nghiêm ngặt như vậy chẳng phải là chuyện dễ dàng!

      Hiện thời, ở Mỹ, đạo tràng của chúng tôi là một đạo tràng nhỏ, có mấy vị đồng tu. Tuy số người ít ỏi, năm sáu người, cũng là một lớp học nhỏ. Đối với phương pháp học tập, tôi kể cho họ biết cách tôi học ở Đài Trung trước kia, nương theo phương pháp của thầy để học, học ba năm. V́ họ có tŕnh độ cao, hoàn cảnh thù thắng, chẳng bị quấy nhiễu, nên ba năm nhất định sẽ có thành tựu.

      Đó là đối với người đă sanh khởi thiện căn, phải giúp họ thật sự tu tập, thật sự đoạn phiền năo. Trong các đồng tu chúng ta, có người thuộc về giai đoạn trước, tức là thiện căn đă phát hiện, nhưng tập khí phiền năo chưa đoạn. Hiện thời, phải bắt đầu nghiêm túc đoạn, chẳng đoạn sẽ không được, vấn đề sẽ to lớn, nhất định phải đoạn phiền năo.

      Loại cuối cùng “vị dĩ thục giả” (v́ người đă thuần thục), “dĩ thục” là ǵ? “Dĩ thục” (已熟) là nói cơ duyên thành Phật đă đến, đó mới gọi là Thục. Trong một đời này, người ấy vẫn chưa thể thành Phật, tức là cơ duyên của kẻ ấy vẫn chưa chín muồi. Cơ duyên thành Phật đă đến, vô cùng hiếm có, đức Phật phải dạy họ phương pháp thành Phật, cũng có nghĩa là dạy họ phương pháp niệm Phật. Nay chúng ta có được pháp môn này, chúng tôi cũng hoằng dương pháp môn này ở nhiều nơi. Tuy vậy, [bất luận] giảng kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà hay Quán Kinh, cho đến Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, chúng tôi giảng theo cách nào? Thưa cùng quư vị, làm theo cách giảng thứ nhất và thứ hai. V́ sao không thực hiện cách giảng thứ ba và thứ tư? Đối với cách thứ ba và thứ tư, tôi thấy cơ duyên vẫn chưa chín muồi. Nếu nay tôi đặc biệt nhấn mạnh mọi người phải đoạn phiền năo, hôm sau họ sẽ không đến nghe nữa. V́ lẽ đó, trong hiện tại phải nói lời ngọt ngào với mọi người, [khiến cho họ] nghe rất hoan hỷ, ngày mai họ c̣n tới. Nếu tôi nói phải đoạn phiền năo, mà cũng chẳng dùng lời lẽ ngọt ngào, họ nghe sẽ cảm thấy rất khó chịu: “Vị pháp sư này chửi tôi, ngày mai tôi không tới cho ông ta chửi bới nữa”, chẳng đến nữa! Khi nói, tuy là cùng một bộ kinh, nhưng phương pháp giảng khác nhau, mục tiêu mà chúng tôi hy vọng đạt tới cũng khác nhau.

Đó là nói tới bốn loại lớn, tức bốn loại phương pháp lớn, trong mỗi loại c̣n có nhiều phương tiện thiện xảo. Cùng một bộ kinh, có thể giảng sâu hay cạn, có thể giảng dài hay ngắn. Hôm qua, bên Tân Gia Ba có gởi cho chúng tôi một bản fax, mời tôi năm tới sang đó giảng Di Đà Kinh Sớ Sao. Di Đà Kinh Sớ Sao to ngần ấy, họ thỉnh tôi sang đó ở một tháng để giảng xong bộ Di Đà Kinh Sớ Sao. Thật ra th́ có thể giảng, giảng nông cạn, giảng ngắn gọn, bất quá kinh văn Sớ Sao vẫn quá dài, đọc một biến c̣n phải tốn một khoảng thời gian khá dài. Chuyện đó để sang năm rồi mới nói, tôi vẫn chưa trả lời thư của họ.

      Tiếp đó nói “vị dĩ thục giả” là nói tới người thiện căn đă chín muồi. Người ấy phước báo rất lớn, sắp thành Phật. Đức Phật có thần thông có thể quan sát căn cơ, người này thiện căn đă chín muồi! “Thiện căn” chính là thiện căn do vô lượng kiếp tu thành, thiện căn ấy đă chín muồi. Sau khi đă chín muồi, nhất định phải dạy cho người ấy phương pháp thành Phật. “Tác Đệ Nhất Nghĩa Thuyết, linh đắc khế chân, cách phàm thành thánh” (v́ người ấy nói Đệ Nhất Nghĩa, khiến cho người ấy khế nhập lẽ chân, vượt phàm, thành thánh).“Cách phàm thành thánh” (革凡成聖) là siêu phàm nhập thánh. Siêu phàm nhập thánh, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển th́ chỉ có một con đường là niệm Phật văng sanh Tịnh Độ. Pháp môn này thật sự là siêu phàm nhập thánh, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, thành Phật trong một đời. Gặp được người ấy, nếu đức Phật chẳng nói, sẽ có lỗi với người ấy. Nói thật ra, tại Đài Loan trong giai đoạn này, chúng sanh căn cơ chín muồi rất nhiều. Chúng ta biết trong bốn mươi năm qua, cho đến hiện thời, dân số Đài Loan mới là hai ngàn vạn, trước kia chẳng nhiều như vậy. Bốn mươi năm trước chỉ có sáu trăm vạn người. Đối với người niệm Phật văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta chẳng thống kê tỉ mỉ, nhưng ước đoán dè dặt nhất phải là từ bốn trăm đến năm trăm người, tuyệt diệu thay! Nhiều người ngần ấy thành Phật, lỗi lạc thay! Nơi này được gọi là “đảo báu”, danh phù hợp thực, có nơi nào trên thế giới này trong ṿng bốn mươi năm có nhiều người ngần ấy thành Phật? Chẳng dễ dàng! Người niệm Phật rất đông, có tới mấy chục vạn, mấy trăm vạn, nhưng thật sự văng sanh, trong bốn mươi năm có bốn, năm trăm người, khá quá! Chúng ta hăy nghĩ lại, chúng ta có thuộc trong số đó hay không? Nếu thật sự mong mỏi chính ḿnh thuộc trong danh sách ấy th́ phải thật tu! Có thể nói là nhân duyên không thiếu, tại Đài Loan chẳng thiếu duyên. Nếu thiếu là do thiện căn và phước đức của chính ḿnh vẫn chưa đủ, pháp môn này cần nhiều thiện căn, nhiều phước đức. Thiện căn nhiều và ít là sao? Trong vài lần trước, khi giảng Di Đà Sớ Sao, chúng tôi đă thưa tŕnh tỉ mỉ cùng quư vị.

       “Phật trí giám cơ, thuyết chi tất trúng, tri bất nhập lư, linh đắc tam ích” (Phật trí soi xét căn cơ, hễ nói ắt trúng, biết [người nghe] chưa thể nhập lư, bèn khiến cho họ đạt được ba món lợi ích). “Tam ích” là ba thứ lợi ích đầu tiên, v́ sao? Trong một đời này, người ấy vẫn chưa thể thành Phật, vẫn chưa thể văng sanh, nên đạt được ba lợi ích trước đó (thế giới, vị nhân và đối trị). “Tri bất phá ác, linh đắc nhị ích” (biết kẻ ấy chưa thể phá ác, nên khiến cho kẻ ấy đạt được hai món lợi ích): Biết người ấy chẳng thể sửa đổi tập khí phiền năo, nên giảng kinh, thuyết pháp khiến cho người ấy đạt được hai món lợi ích đầu (thế giới và vị nhân). Đoạn phiền năo, sửa đổi tập khí th́ chính ḿnh phải phát tâm nghiêm túc thực hiện, người khác chẳng thể ép uổng được! “Vô thiện khả phát, tác thế giới thuyết đản sanh hoan hỷ. Nhược toàn vô ích, Phật tắc bất thuyết” (chẳng thể phát khởi điều thiện, bèn thuyết pháp theo kiểu Thế Giới Tất Đàn khiến cho kẻ ấy sanh tâm hoan hỷ. Nếu hoàn toàn vô ích, Phật sẽ chẳng nói). Quư vị giảng cho kẻ ấy, kẻ ấy có nghe cũng như chẳng nghe, cũng chẳng tin tưởng, thậm chí phản đối, bài bác, nên chẳng nói! “Cố vân mặc nhiên” (nên nói là “lặng thinh”), đức Phật sẽ không nói. Chúng ta phải ghi nhớ những nguyên tắc và khuôn phép này. Thuyết pháp xác thực là như thế. Cùng một bộ kinh, người biết thuyết phải hiểu nguyên tắc này, thấy người như thế nào bèn thuyết pháp như thế ấy, thiên biến vạn hóa, chẳng có ǵ nói nhất định.

      Bởi lẽ đó, chẳng có pháp nhất định để có thể nói, pháp là sống động, hoạt bát. Trên giảng đài, phải có năng lực quán cơ, [tức là] nh́n thính chúng dưới đài, nh́n gương mặt và vẻ biểu lộ của họ, liền biết họ thuộc tŕnh độ nào, ta phải biết nên thuyết pháp như thế nào? Chẳng phải là lên giảng đài, đem những thứ bài giảng ta đă soạn sẵn đọc cho mọi người nghe. Đó chẳng phải là thuyết pháp, mà là giống như thầy thuốc chữa bệnh: Trước hết, kê toa xong xuôi rồi mới chữa bệnh cho quư vị. Khám bệnh xong, đem toa thuốc ấy cho quư vị uống. Uống xong chết ngắc, [bèn bào chữa]: “Chẳng phải là toa thuốc của tôi không đúng, mà là quư vị chẳng mắc đúng bệnh, chẳng bị bệnh đúng với toa thuốc của tôi”. Đó là sai lầm. Do vậy có thể biết: Giảng kinh khó hơn giảng bất cứ điều ǵ khác, đây là chuyện rất khó khăn. V́ thế, đồng tu học giảng kinh phải trống ḷng, phải thời thời khắc khắc hướng về thính chúng thỉnh giáo th́ mới có thể đạt được lợi ích.

 

Tập 8

 

      Xin xem trang bốn mươi ba, ḍng thứ năm:

      “Quán giả quán dă, hữu Thứ Đệ Tam Quán, Nhất Tâm Tam Quán” (Quán là quan sát, có Thứ Đệ Tam Quán và Nhất Tâm Tam Quán). Đây là giải thích chữ thứ ba trong tựa đề kinh, chữ này là cương lănh tu hành. Đại Thừa Phật pháp chẳng rời khỏi nguyên tắc này, trong nhà Thiền nói là Quán Chiếu, Chiếu Trụ, và Chiếu Kiến, công phu cũng là ba tầng cấp. Chúng ta đọc Tâm Kinh, “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”, đó là tầng cấp tu hành cao nhất. Tầng cấp thấp nhất là Quán Chiếu, chúng tôi bàn từ chỗ này. Ba tầng cấp này trong các tông có danh xưng khác nhau, nhưng cảnh giới như nhau. Chiếu Kiến trong Thiền Tông tương đương với Lư nhất tâm bất loạn trong Tịnh Độ Tông. Họ nói Chiếu Trụ th́ tương đương với Sự nhất tâm bất loạn của chúng ta. Họ nói Quán Chiếu th́ tương đương với công phu thành phiến của chúng ta. Do vậy có thể biết, trong Tịnh Tông nói danh từ khác biệt, nhưng cảnh giới như nhau, phải nên hiểu điều này. Trong Phật môn thường nói “pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”, cảnh giới công phu đều giống nhau, chỉ là sử dụng phương pháp và phương thức khác nhau. So với các tông khác, phương pháp và phương thức trong Tịnh Tông thật sự dễ dàng hơn, ổn thỏa, thích đáng hơn. Đó là cái hay của Tịnh Tông.

      Chúng ta thấy trong lời Sớ, [Trí Giả] đại sư đă giảng rơ hai thứ Tam Quán ấy. Xin hăy xem ḍng đầu trong trang bốn mươi bốn: “Tùng Giả nhập Không Quán, diệc danh Nhị Đế Quán. Tùng Không nhập Giả Quán, diệc danh B́nh Đẳng Quán. Nhị Không Quán vi phương tiện, đắc nhập Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế Quán, tâm tâm tịch diệt, tự nhiên lưu nhập Tát Bà Nhă hải, thử danh xuất Anh Lạc Kinh” (Từ Giả nhập Không Quán, c̣n gọi là Nhị Đế Quán. Từ Không nhập Giả Quán, c̣n gọi là B́nh Đẳng Quán. Nhị Không Quán làm phương tiện để nhập Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế Quán. Tâm tâm tịch diệt, tự nhiên lưu nhập biển Nhất Thiết Chủng Trí. Danh xưng này xuất phát từ kinh Anh Lạc[4]). Những ǵ đại sư nói đều có kinh điển làm căn cứ, chẳng phải là nói tùy tiện. Nhị Đế là Chân Đế và Tục Đế; Tam Quán là Không Quán, Giả Quán, và Trung Quán, những phép Quán này do Thiên Thai đại sư thành lập. [Những điều này] sẽ nói cặn kẽ [trong phần sau], chúng ta đọc lời giải thích của Ngài nơi ḍng hai từ dưới đếm lên trong trang bốn mươi bốn: “Kim thích kỳ ư” (nay giải thích ư ấy), giải thích những ư nghĩa được bao hàm trong các danh từ ấy. “Giả thị hư vọng, Tục Đế dă. Không thị thẩm thật, Chân Đế dă” (Giả là hư vọng, là Tục Đế. Không là suy xét lẽ chân thật, là Chân Đế). “Thẩm” () là thẩm tra, xem xét nó là thật, là thực tại. Không là thực tại, Giả là hư vọng. Không là ǵ? Giả là ǵ? Ở chỗ này, phải nói đơn giản cùng quư vị. Giả là nói theo Tướng, Không là nói theo Tánh. V́ sao Tướng là giả? Tướng là pháp sanh bởi nhân duyên; nói cách khác, nó có sanh và diệt. Phàm những ǵ có sanh diệt thảy đều là giả, chẳng thật. Thân thể này của chúng ta, kể cả tất cả động vật, những tế bào trong thân thể đổi mới, thay cũ, sanh diệt trong từng sát-na, không chỉ là sanh, lăo, bệnh, tử. V́ thế, theo cách quan sát trong Phật pháp, chúng đều là giả, chẳng thật. Thứ thật sự, thật sự bất sanh bất diệt, đó là thật. V́ thế, thân là giả, tâm cũng là giả, niệm này khởi lên, niệm kia diệt, tâm ấy là tâm ǵ? Tâm sanh diệt. Tâm sanh diệt là tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở, chúng ta gọi nó là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm, mà là vọng tâm. Chân tâm bất sanh bất diệt. Chân thân là Pháp Thân, cũng là bất sanh bất diệt.

      Chúng ta hăy suy nghĩ và quan sát kỹ càng, tất cả hết thảy các pháp trong thế gian này, thứ nào là bất sanh bất diệt? Chẳng t́m được thứ nào! Địa cầu có thành, trụ, hoại, không, vẫn là một pháp sanh diệt. Mặt trời sẽ có ngày tiêu mất độ sáng. Toàn thể đại vũ trụ là pháp sanh diệt, chẳng có ǵ là bất sanh bất diệt. Do đó, Phật pháp quy nạp hết thảy các pháp, quy nạp đến mức đơn giản nhất, dễ dàng nhất để dạy kẻ sơ học, tức là quy nạp thành một trăm pháp. Một trăm pháp là hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Quy nạp thành một trăm pháp sẽ giảng giải khá dễ dàng. Trong một trăm pháp ấy, chín mươi bốn pháp trước đều là pháp sanh diệt, đều là giả, đều chẳng thật. Chín mươi bốn pháp bao gồm tám thức, tám thức là tâm, [nên tám thức] là tâm pháp, năm mươi mốt pháp là Tâm Sở pháp, tức là tác dụng tâm lư, Sắc pháp là nói đến vật chất, lục căn, lục trần. Trong lục căn, Ư Căn là tâm pháp, nó chính là Mạt Na Thức. Do đó, trong lục căn có năm căn thuộc Sắc pháp, lục trần là Sắc pháp, sáu [trần] cộng với năm sắc pháp [của Ngũ Căn] thành mười một loại. Nay chúng ta gọi mười một loại ấy là vật chất.

      C̣n có một loại gọi là Tâm Bất Tương Ứng Hành Pháp (Citta-viprayukta-samśkāra)[5], chúng chẳng phải là Tâm pháp, cũng chẳng phải là Tâm Sở pháp, mà cũng chẳng phải là Sắc pháp, nhưng hư vọng sanh từ ba thứ pháp ấy (tức là sanh từ Tâm pháp, Tâm Sở pháp và Sắc pháp). Người hiện thời gọi chúng là ǵ? Nói thật ra, chúng là vọng tưởng, thuật ngữ hiện thời gọi chúng là một thứ khái niệm. Chúng có thật hay không? Chẳng có thật, nhưng có chuyện như thế, trọn chẳng có thật; đó là Tâm Bất Tương Ứng Hành Pháp. Các pháp ấy toàn là giả, toàn bộ chẳng phải là thật. Nói thật ra, Bất Tương Ứng Hành Pháp là quan niệm sai lầm, là cảm nhận sai lầm! Pháp chân thật có sáu thứ, kêu là Lục Vô Vi Pháp. Trong sáu pháp vô vi[6], năm món đầu gọi là Tương Tự Vô Vi, chẳng phải là Chân Vô Vi. V́ sao gọi chúng là Vô Vi? V́ chúng chẳng có sanh diệt. Chẳng hạn như hư không; do chẳng thấy hư không sanh diệt, nên hư không là pháp vô vi. Nó chẳng phải là pháp vô vi thật sự; v́ sao chẳng phải là pháp vô vi thật sự? Nếu quư vị thật sự chứng quả, hư không cũng là bất khả đắc. Có thể thấy là trước khi quư vị thật sự khai ngộ chứng quả, nó vĩnh viễn có h́nh trạng như vậy. Sau khi đă thật sự chứng quả, sẽ khác hẳn. Quư vị thấy trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia đại sư đă nói: “Giác hậu không không vô đại thiên” (giác rồi ba cơi rỗng toang hoang). “Giác” là đại triệt đại ngộ, đại thiên thế giới cũng chẳng có. V́ vậy, giống như thời gian và không gian là những khái niệm sanh từ sự nhận biết sai lầm của chúng ta, chúng cũng chẳng phải là chân thật.

      Hết thảy các pháp hữu vi là giả, phải nhận thức điều này. Sau khi đă thật sự nhận thức, sẽ có lợi ích rất to. V́ sao? Quư vị sẽ chẳng sanh phiền năo, giả mà! Quư vị sẽ chẳng coi chúng là thật. Phàm phu ngỡ giả là thật, rồi khởi phân biệt, chấp trước trong ấy. Hết thảy đấu tranh, phiền năo đều khởi từ đây, tạo nghiệp, chịu báo. Nếu quư vị hiểu chúng là giả, sẽ chẳng chấp trước, cũng chẳng tranh giành, quư vị mới có thể buông xuống vạn duyên. Những ǵ là thật? Tánh là thật. “Không” là nói đến Tánh. Đừng hiểu Không là chẳng có ǵ hết, nó có. Đă có, v́ sao nói là Không? Mắt chẳng thấy, tai cũng chẳng nghe, tay cũng chẳng sờ được, nhưng nó thật sự có, chỉ đành phải dùng Không để đại diện cho nó. Chẳng hạn như trong kiến thức thông thường hiện thời, chúng ta biết có điện, điện có tồn tại hay không? Tồn tại! Ở chỗ nào? Căn pḥng này chỗ nào cũng đều có điện. Nếu quư vị không tin, quư vị lấy radio loại sử dụng transistor đặt trong đó, vừa mở máy liền có tiếng vang ra, cho thấy điện tồn tại. Mắt chúng ta chẳng thấy, tai cũng chẳng nghe thấy, tay cũng chẳng sờ trúng, nhưng nó tồn tại, đành phải gọi nó là Không. V́ thế, đừng nên nói Không có nghĩa là Vô!

      Tâm Kinh dạy chúng ta: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”. Sắc là giả sắc. Sắc ở đây là nói tới Giả, Không ở đây là nói tới Chân. Không là tánh Không, Giả do đâu mà có? Từ trong Không biến hiện, từ tánh Không biến hiện giả tướng. V́ bản tánh của nó là Không, nên tuy biến hiện giả tướng, mà giả tướng ấy “đương thể tức Không, liễu bất khả đắc” (Ngay nơi bản thể chính là Không, trọn chẳng thể đạt được); đó là chân tướng, là thật. Ở đây, Trí Giả đại sư bảo: “Kim dục khử Tục quy Chân” (nay muốn bỏ Tục trở về với Chân). Mục tiêu của người học Phật là phải bỏ Tục Đế, cũng tức là phải bỏ giả tướng để chứng đắc chân tánh. Không chỉ là Thiền Tông phải minh tâm kiến tánh, mà bất cứ tông nào hay pháp môn nào, mục tiêu cuối cùng đều là minh tâm kiến tánh. Người niệm Phật chúng ta niệm Phật chưa kiến tánh, được gọi là “đới nghiệp văng sanh”, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn là minh tâm kiến tánh, chẳng có ngoại lệ. “Cố ngôn tùng Giả nhập Không Quán, Giả thị nhập Không chi thuyên, tiên tu quán Giả” (v́ thế nói từ Giả nhập Không Quán, Giả là phương tiện để nhập Không, nên trước hết cần phải quán Giả). Trong Phật môn, Giả được gọi là “Phật sự”. Phật sự nương vào Giả để kiến lập, v́ Chân chẳng có h́nh tượng, chẳng có dấu tích, nên chẳng thể kiến lập. Phật thị hiện thân tướng, thị hiện đạo tràng, thị hiện giảng kinh, thuyết pháp, đều là sự tướng, điều đó được gọi là “tạ giả tu chân” (nhờ vào giả để tu chân), quư vị ắt phải ngộ chân tánh từ giả tướng, đó là đúng. Nếu quư vị chấp trước giả tướng ấy th́ sai mất rồi! Chớ nên chấp trước giả tướng, phải ngộ chân tánh từ giả tướng. Nói cách khác, ngộ Phật Tánh bất sanh bất diệt từ trong pháp sanh diệt, nó cũng là tự tánh. Ngộ tự tánh bất sanh bất diệt, đó là chánh xác. Do đó, phương pháp tu hành trong tông Thiên Thai là thực hiện từ chỗ này, trước hết cần phải quán Giả.

       “Tri Giả hư vọng, nhi đắc hội Chân” (biết Giả là hư vọng bèn thấu hiểu Chân). “Biết” là trí huệ, là Quán. Quán là Huệ, chẳng phải là cảm t́nh, chẳng phải là phân biệt, chấp trước. Nếu dùng phân biệt, chấp trước, dùng thức thứ sáu tức ư thức để nghiên cứu, sẽ chẳng gọi là Quán. Người ấy dùng Quán, chẳng dùng nghiên cứu, tức là dạy quư vị quyết định chẳng rơi vào phạm vi ư thức. Phải dùng trí huệ để quan sát, dùng tâm thanh tịnh để chiếu kiến, như vậy th́ mới có thể hiểu chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Chân tướng là ǵ? “Tướng giả, Tánh chân” (Tướng là giả, Tánh là thật). Đó là chân tướng. Tướng thiên sai vạn biệt, nhưng Tánh là một. Có thể khế hội chân tướng sự thật này, cách nghĩ, cách nh́n (cách nh́n là kiến giải), và cách làm của người ấy sẽ tự nhiên giống như Phật, tự nhiên làm được cái gọi là “đại từ đại bi phổ độ chúng sanh”. V́ sao? T́nh và vô t́nh vốn có cùng một Thể với chính ḿnh. Tâm từ bi lưu lộ gọi là “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”. “Vô duyên” là chẳng có điều kiện, công đức trong bản tánh mới có thể hiển lộ. “Cố ngôn Nhị Đế Quán, thử Quán nhược thành, tức chứng Nhất Thiết Trí dă” (nên nói là Nhị Đế Quán. Nếu phép Quán ấy thành, liền chứng Nhất Thiết Trí). Nếu tu thành phép Quán ấy, sẽ hiểu rơ ràng, rành rẽ bản thể của vạn hữu trong vũ trụ, thật sự t́m được bản thể luận như các triết gia đă nói. A La Hán và Bích Chi Phật của Tiểu Thừa đều nhập cảnh giới này!

      Lại xem đoạn thứ hai, “Thích Giả Quán” (giải thích về Giả Quán). “Tùng Không nhập Giả Quán giả, nhược trụ ư Không, dữ Nhị Thừa hà dị, bất thành Phật pháp, bất ích chúng sanh. Thị cố quán Không, bất trụ ư Không, nhi nhập ư Giả” (Từ Không nhập Giả Quán là nếu trụ nơi Không th́ có khác ǵ Tiểu Thừa, chẳng thành Phật pháp, chẳng lợi ích chúng sanh. V́ thế, quán Không, nhưng chẳng trụ nơi Không, bèn nhập Giả). Trong phần trước là Không Quán. Không Quán đă thành tựu, biết vạn pháp như một, vạn pháp là một Thể, chẳng sanh chấp trước đối với hết thảy các pháp, chỉ nhập cảnh giới ấy. Nếu trụ trong cảnh giới ấy, sẽ là Tiểu Thừa. Nếu Bồ Tát tu Quán mà trụ trong cảnh giới ấy, chẳng khác ǵ Tiểu Thừa, chúng ta thường nói là “nhập Thiên Chân Niết Bàn”. Thiên () là lệch vào một bên, bên nào? Bên Không, lệch sang bên Không, trụ trong Không. Trụ trong Không, sẽ chẳng có lợi ích ǵ cho chúng sanh. Vị ấy chẳng độ chúng sanh, nên cũng chẳng thành Phật pháp. Phật pháp là pháp giác ngộ, lệch vào một bên th́ giác ở chỗ nào? Đối với hàng Tiểu Thừa, Phật pháp miễn cưỡng nói ra một thứ Chánh Giác. So với kẻ b́nh phàm như chúng ta, các vị ấy đă thấy một ít chân lư, nhưng chỉ gọi là Chánh Giác, chẳng thể gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác. Đẳng () là bằng với Phật, họ (người Tiểu Thừa) chẳng bằng Phật. Phật th́ như thế nào? Phật biết Không, nhưng chẳng trụ Không, c̣n Tiểu Thừa trụ Không. Phật đại từ đại bi, lợi ích hết thảy chúng sanh; họ chẳng lợi ích chúng sanh. Do họ chẳng lợi ích chúng sanh, nên chẳng thành Phật pháp. Chư Phật Như Lai chẳng khen ngợi, chẳng cổ vũ, khích lệ người Tiểu Thừa, mà cổ vũ khích lệ họ hồi Tiểu hướng Đại, từ Không nhập Giả. Đă chứng đắc Không, từ trong Không bèn quay lại, lại quay trở vào thế gian. Chẳng vứt bỏ những giả tướng, mà lợi dụng các giả tướng ấy để giúp đỡ vô lượng vô biên chúng sanh c̣n đang chấp trước, giúp họ giác ngộ, đó gọi là “phổ độ chúng sanh”. Nói theo sự thật, một đằng là bản thể, tánh thể, một đằng là hiện tượng. Hiện tượng là Giả Hữu, Tánh Thể là Chân Không.

Hết thảy chúng sanh, nếu chẳng phải là mê bên này, bèn mê bên kia. Lục đạo phàm phu mê nơi giả tướng, ngỡ giả tướng là thật sự có, tâm luôn trụ nơi giả tướng. Do trụ nơi giả tướng, nên phải luân hồi trong lục đạo. Lục đạo luân hồi là giả tướng. Những vị A La Hán và Bích Chi Phật của Tiểu Thừa biết những tướng ấy là giả, nên chẳng cần đến chúng. Chẳng cần đến chúng th́ sao? Trụ bên Không, trụ bên tánh Không. Trong tánh Không, thứ ǵ cũng chẳng có, tác dụng ǵ cũng chẳng có, nên [Tiểu Thừa chỉ trụ trong tánh Không] được gọi là “tự liễu hán” (自了漢: Kẻ chỉ lo giải thoát cho riêng ḿnh). Tuy trụ bên tánh Không, nhưng họ có thấu hiểu tánh Không rốt ráo hay chăng? Vẫn chưa thể hiểu, nên gọi là Thiên Chân Niết Bàn (Niết Bàn lệch về phía Chân Đế). Phật và các vị đại Bồ Tát rất cao minh, các Ngài chẳng trụ vào hai bên, mà cũng chẳng chấp trước Không, cũng chẳng chấp trước Có, hai bên Không và Có đều chẳng trụ. V́ vậy, bất đắc dĩ đặt cho điều đó một danh từ là Trung Đạo. Chẳng lệch về bên nào, đấy mới là thật sự đạt được tác dụng to lớn của Không và Giả. Không có tác dụng của Không, Giả có tác dụng của Giả, nên mới có thể phát huy Không và Giả là đức dụng của Thể và Tướng đến mức độ cao nhất. Chúng ta nói là đối với sự hưởng thụ, hạnh phúc, tự tại, người ấy đều đạt được viên măn, chứ thiên lệch th́ sẽ chẳng đạt được.

      Chúng ta đọc đoạn văn kế tiếp: “Thị cố quán Không, bất trụ ư Không, nhi nhập ư Giả, tri bệnh thức dược, ứng bệnh thọ dược, linh đắc phục hành” (Do vậy, quán Không mà chẳng trụ vào Không, mà nhập Giả. Biết bệnh, biết thuốc. Ứng theo căn bệnh để cho thuốc, khiến cho [người bị bệnh] uống theo, hành theo). Ba câu này vô cùng khó khăn! Biết bệnh, biết thuốc là Huệ, [tức là] biết căn bệnh của chính ḿnh, biết căn bệnh của chúng sanh, biết dùng phương pháp ǵ để đối trị, đó là trí huệ. Phương pháp ǵ có thể trị bệnh của chính ḿnh, phương pháp ǵ có thể trị bệnh của chúng sanh, đó gọi là “biết bệnh, biết thuốc”. Căn bệnh của chúng ta đă được hiển lộ chẳng sót qua đức hiệu của Thích Ca Mâu Ni Phật. Căn bệnh thứ nhất là chẳng có chút xíu tâm từ bi nào, tự tư tự lợi, đó là cái gốc bệnh của chúng ta. Thứ hai là suy nghĩ loạn xạ. V́ thế, Thích Ca Mâu Ni Phật dùng danh hiệu [để đối trị], Thích Ca dịch sang nghĩa tiếng Hán là Nhân Từ. Đó là loại thuốc một vị, nhằm đối ứng điều ǵ? Đối trị căn bệnh thiếu tâm từ bi của chúng ta, trị căn bệnh ấy. Mâu Ni dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịch Diệt, có nghĩa là thanh tịnh, nhằm đối trị căn bệnh suy nghĩ loạn xạ của chúng ta. Phật, Bồ Tát chẳng có danh hiệu, v́ chúng sanh bị bệnh mà [chư Phật, Bồ Tát] kiến lập danh hiệu. Danh hiệu của các Ngài là thuốc. Quư vị niệm danh hiệu ấy sẽ giống như uống thuốc, sẽ có thể trị lành bệnh. Nhưng quư vị phải biết đức dụng của danh hiệu ấy! Niệm Thích Ca Mâu Ni Phật nhằm niệm cho ra tâm từ bi và tâm thanh tịnh của chính ḿnh, bệnh của chúng ta liền được chữa khỏi. Nếu chẳng hiểu tác dụng của danh hiệu, hằng ngày niệm Nam-mô Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn vô dụng, vẫn là suy nghĩ loạn xạ, vẫn là tự tư tự lợi y hệt, như vậy là vô dụng! V́ thế, danh hiệu của hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều là những phương thuốc nhằm đối trị căn bệnh của chúng sanh.

      “Ứng bệnh thọ dược” (ứng theo căn bệnh mà cho thuốc) là quán cơ, [tức là] quan sát thấy căn cơ mỗi cá nhân khác nhau, chúng ta phải dùng phương pháp ǵ để đối trị. Đây chính là Đối Trị Tất Đàn trong Tứ Tất Đàn. Chúng ta biết căn bệnh của chính ḿnh, cũng biết rất nhiều Phật pháp, nhưng học Phật pháp nhiều năm ngần ấy mà vẫn chẳng dùng được. Căn bệnh của chúng ta chẳng nhẹ đi, phiền năo chẳng giảm thiểu, trí huệ chẳng tăng trưởng, vẫn u mê, hồ đồ, đúng, sai, thiện, ác, tà, chánh đều chẳng hiểu rơ ràng. Phương pháp nhiều ngần ấy, uống theo đúng toa thuốc mà chẳng thấy công hiệu, vấn đề này hết sức nghiêm trọng. Xét kỹ những lời dạy răn của cổ đức, suy nghĩ vẫn thấy các Ngài nói rất có lư: Bản thân chúng ta đă suy tưởng sai lầm! Cổ nhân dạy chúng ta tu hành, phải thực hiện từ phước huệ. Tu phước là tu như thế nào? V́ đại chúng mà làm việc. “Làm việc” trong Phật pháp chính là làm những việc nặng nhọc nhằm phục vụ đại chúng, làm việc cho mọi người. Quư vị nghĩ xem: Lục Tổ ở núi Hoàng Mai tám tháng, giă gạo, bửa củi trong xưởng xay xát, đó là tu phước. Làm việc thay cho thường trụ, thay cho mọi người, chẳng ngại cực khổ, tu phước đấy nhé! Đồng thời, Ngài tu Huệ, Huệ là huệ ǵ vậy? Huệ là Căn Bản Trí, Căn Bản Trí là vô tri, Bát Nhă vô tri. Vô tri là Căn Bản Trí, tức là tất cả hết thảy cách nghĩ, cách nh́n thảy đều buông xuống, khôi phục sự thanh tịnh trong tâm địa. Lục Tổ nói: “Vốn chẳng có một vật, nào sợ nhuốm bụi trần”, đó là Căn Bản Trí, khôi phục cái tâm thanh tịnh. Bất luận tại gia hay xuất gia, bất luận tu học tông phái hay pháp môn nào đều nên thực hiện từ chỗ này.

      Đối với Tịnh Tông, đức Phật rất từ bi, đặc biệt dạy rơ cho chúng ta biết, Ngài nói Tam Phước. Tam Phước là cơ sở tu hành. Tam Phước là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu mười thiện nghiệp”, tổng cộng gồm mười một câu được kiến lập trên cơ sở “hiếu thân, tôn sư” (hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy). Nói cách khác, học bắt đầu từ đâu? Học từ hiếu thân tôn sư. Hiếu thân tôn sư chẳng làm được th́ từ tâm và mười thiện nghiệp cũng chẳng có, chẳng thể nào có được. V́ từ tâm, tu mười thiện nghiệp được kiến lập trên cơ sở hiếu thân tôn sư, làm sao quư vị có thể thành tựu cho được? Chẳng hiếu thuận cha mẹ, không nghe lời sư trưởng răn dạy, chẳng thể nào có thành tựu! Bất quá, trước kia có sư đạo, hiện thời rất khó, hiện thời t́m đâu ra thầy? T́m thầy chẳng thấy! Thầy cũng chẳng t́m thấy học tṛ. Học tṛ chẳng nghe lời; chẳng nghe lời th́ chẳng thể coi là học tṛ! Học tṛ phục tùng thầy một trăm phần trăm th́ gọi là học tṛ. Chẳng nghe lời thầy, chẳng thể coi là học tṛ. V́ thế, hiện thời chẳng có sư đạo, đó là điều đáng đau buồn cho người trong thế hệ chúng ta. Chẳng có sư đạo th́ hiếu đạo cũng chẳng có. V́ trong sự giáo học xưa kia, dạy quư vị tôn sư, nghe lời thầy răn dạy là trách nhiệm của cha mẹ. Cha mẹ dạy quư vị tôn sư trọng đạo, thầy dạy quư vị hiếu thuận cha mẹ, đôi bên giúp nhau dạy dỗ. Nói chung, cha mẹ chẳng thể nói: “Mày là con tao, phải biết hiếu thuận với tao”. Con hỏi: “V́ sao con phải hiếu thuận với cha mẹ?” Nghẹn họng luôn! Thầy cũng chẳng thể nói: “Ta là thầy của các tṛ, các tṛ phải tôn trọng ta”, lời ấy cũng chẳng thể thốt ra được! V́ thế, [những điều ấy] đều phải do bên thứ ba nói. Cha mẹ hiện thời chẳng dạy quư vị tôn sư trọng đạo, thầy cũng chẳng dạy quư vị hiếu thuận cha mẹ, toàn thể cơ sở đă mất tiêu rồi, bị hủy hoại rồi. Đó là chỗ bi ai của người trong thế hệ này. Nói cách khác, đó là nguồn gốc căn bệnh!

      Đă t́m được gốc bệnh th́ mới biết đúng bệnh, làm thế nào để cứu chữa? Chúng ta làm bên thứ ba, chúng ta khuyên họ hiếu thuận cha mẹ, khuyên họ tôn sư trọng đạo: Quư vị học với vị thầy nào, hăy nghe lời vị thầy ấy. Trong một đời này, quư vị theo một vị thầy chẳng thể ít hơn năm năm. Nói thật ra, hạn độ thấp nhất phải nên là mười năm. Mười năm theo một thầy sẽ có thành tựu, nghe một vị thầy chỉ dạy. Quư vị nghe hai người dạy dỗ, sẽ có hai ư kiến, [trở thành] hai con đường. Quư vị thân cận ba vị thầy sẽ là đường ngă ba. Thân cận bốn vị thầy là ngă tư, chẳng biết học điều ǵ mới nên! Vị thầy này nói phương pháp này tốt, vị thầy kia nói phương pháp nọ hay, khiến cho quư vị chẳng biết theo đường lối nào, chẳng có cách nào tu tập! Do đó, theo một vị thầy là theo một đường lối. V́ sao chúng ta thân cận thiện tri thức? Thiện tri thức nhất định dạy: “Quư vị chỉ có thể nghe theo ta. Ngoài ta ra, bất luận kẻ nào cũng chẳng thể nghe!” [Nói như vậy] nhằm ban cho quư vị một đường lối để noi theo. Quư vị lại nghe người khác giảng, sẽ là hai con đường! Không chỉ là hai con đường, mà sợ rằng người khác giảng khác với thầy, quư vị quay về vặn vẹo thầy: “Thưa thầy! Thầy nói như thế này, người kia nói như thế nọ?” Vẫn là tṛ cùng thầy hai bên ồn ào, ầm ĩ, thành ra thể thống ǵ nữa?

      V́ lẽ đó, từ xưa tới nay, quư vị đọc Cao Tăng Truyện hay Cư Sĩ Truyện, thấy người ta học Phật hoặc học pháp thế gian đều theo một vị thầy. Học theo lời lẽ của một nhà, đó gọi là sư thừa! Đó là “ứng bệnh thọ dược” (thuận theo đúng bệnh mà cho thuốc), bảo cho kẻ ấy biết phương pháp. Tiếp đó là nói “linh đắc phục hành”, nghĩa là phải cổ vũ, khích lệ khiến cho kẻ ấy nghiêm túc làm theo th́ mới có thể đạt được hiệu quả, mới có thể thành tựu. “Thị cố tùng Không nhập Giả Quán, nhi ngôn b́nh đẳng giả, vọng tiền xưng b́nh đẳng, tiền phá Giả dụng Không, kim phá Không dụng Giả. Phá dụng kư quân, cố ngôn B́nh Đẳng Quán. Thử Quán thành thời, chứng Đạo Chủng Trí” (V́ thế, từ Không nhập Giả Quán, nhưng nói là “b́nh đẳng” là do đối ứng với những điều trước đó mà nói là “b́nh đẳng”. Trong phần trước, để phá Giả bèn dùng Không, nay để phá Không bèn dùng Giả. Phá và dùng đă quân bằng, nên nói là B́nh Đẳng Quán. Khi phép Quán này thành tựu, bèn chứng Đạo Chủng Trí). Đạo Chủng Trí là sở chứng của Đại Thừa Bồ Tát. Điều quan trọng nhất trong đoạn này là “tri bệnh thức dược, ứng bệnh thọ dược, linh đắc phục hành” (biết bệnh, biết thuốc, ứng theo căn bệnh mà cho thuốc, khiến cho người ấy uống vào, hành theo). Ba câu ấy vô cùng trọng yếu! Trong lời chú giải của tôn giả Tứ Minh cũng có nói tỉ mỉ, chư vị tự đọc sẽ biết.

      Chúng ta lại xem đoạn tiếp theo trong trang bốn mươi sáu. Xem phần Thích Trung Quán (giải thích về Trung Quán). “Nhị Không vi phương tiện giả, sơ quán Không sanh tử, thứ quán Không Niết Bàn” (Nhị Không làm phương tiện: Trước hết là quán Không sanh tử, rồi quán Không Niết Bàn). Hai loại Quán này có công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Phép Quán đầu tiên là quán Giả, có thể liễu sanh tử, biết sanh tử trọn chẳng thể được. Kế đó là Quán Không, Niết Bàn vốn cũng trọn chẳng thể được. Niết Bàn là do sanh tử mà kiến lập, chẳng có sanh tử th́ lấy đâu ra Niết Bàn? Hai thứ ấy được kiến lập tương đối, chẳng có bên này th́ bên kia cũng chẳng có. Đây là giảng rơ v́ sao Phật và Bồ Tát chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ trong Niết Bàn, đôi bên đều chẳng có! “Thử chi Nhị Không, vi song giá chi phương tiện” (hai thứ Không ấy chính là phương tiện nhằm ngăn dứt quan niệm có hai bên), có thể thấy đây là phương tiện môn. “Thử chi nhị dụng, vi song chiếu chi phương tiện” (hai tác dụng ấy chính là phương tiện để cùng chiếu cả hai bên). “Song giá” (雙遮) là hai bên đều rời khỏi, hai bên sanh tử và Niết Bàn đều chẳng trụ. “Song chiếu” (雙照) là hai bên sanh tử và Niết Bàn đều cùng dùng, ta đồng thời đều dùng. Giống như trong kinh Phật đă nói: “Độ vô lượng vô biên chúng sanh”, đó là dùng Giả. “Nhi thật vô chúng sanh đắc độ giả” (nhưng thật sự chẳng có chúng sanh đắc độ), đó là dùng Không. Các Ngài dùng cả hai bên, nên mới thành tựu công đức viên măn chẳng thể nghĩ bàn. Đó là phương tiện Song Chiếu. “Tâm tâm quy thú nhập Tát Bà Nhă hải” (tâm luôn quy hướng về biển Nhất Thiết Chủng Trí), Tát Bà Nhă (Sarvajñā) là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Hán là Nhất Thiết Chủng Trí. Quả đức Như Lai trí huệ viên măn, sánh ví như biển cả, dùng chữ Biển nhằm h́nh dung sự sâu rộng. “Song chiếu Nhị Đế dă, thử quán thành thời, chứng Nhất Thiết Chủng Trí, thị vi Thứ Đệ Tam Quán dă” (cùng chiếu cả Chân Đế và Tục Đế. Khi phép Quán này thành tựu, bèn chứng Nhất Thiết Chủng Trí, đó là Thứ Đệ Tam Quán). Đó là sở chứng nơi quả địa của Phật. Đây là giảng về Không Quán.

      Trong chú giải có mấy câu, chúng ta đọc một lượt. Nơi trang bốn mươi bảy, ḍng thứ nhất, chúng ta xem từ đó. “Trung Đạo chi quán, đế quán bất nhị” (phép quán Trung Đạo, quán bất nhị chắc thật), Đế là Đế Thật (諦實), tức là nghiêm túc tu học. “Hoặc Trí nhất như” (Hoặc và Trí giống như nhau). Hoặc () là vô minh, phiền năo; Trí là trí huệ Bát Nhă. Tướng khác nhau! Tướng của phiền năo và Bồ Đề khác nhau, tướng của ngu si và thông minh khác nhau, nhưng Thể giống nhau. Thể đă là giống nhau, trên thực tế chúng là một, nhưng một đằng là giác, một đằng là mê. Nói thật ra, giác và mê cũng trọn chẳng thể được. Ư nghĩa này càng giảng càng sâu, càng giảng càng huyền, chẳng dễ hiểu cho lắm, nhưng đó là chân tướng sự thật. “Tam Quán viên dung, thị vô tác hạnh, cố đắc tự nhiên nhập Tát Bà Nhă. Thử Quán chi quả, danh Nhất Thiết Chủng Trí, vị tại Sơ Địa” (Tam Quán viên dung, là hạnh vô tác, nên tự nhiên nhập vào Tát Bà Nhă. Quả của phép Quán này được gọi là Nhất Thiết Chủng Trí, thuộc vào địa vị Sơ Địa). Sơ Địa của Biệt Giáo và Sơ Trụ của Viên Giáo. Kể từ các địa vị ấy, Đại Thừa Phật pháp gọi sự tu hành của họ là “vô công dụng đạo”. V́ sao? Hoàn toàn chẳng dùng tâm ư thức, ĺa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, khởi tâm động niệm đều chẳng có. Từ đó về sau, bốn mươi mốt phẩm vô minh tự nhiên đoạn trừ, chẳng c̣n khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm là phiền năo. Do đó, địa vị này là Niệm Bất Thoái, địa vị kể từ Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên.

      Những điều vừa nói trên đây đều là Thứ Đệ Tam Quán. Loại sau đó là đối với người căn tánh hết sức nhạy bén, chẳng cần theo thứ tự, nhất tâm bèn tam quán, thành tựu nhanh chóng. “Nhất Tâm Tam Quán, tư năi xứng tánh nhi quán, tuyệt đăi nhi chiếu, cái nhất thiết pháp, vô phi tam đức, như Y tự tam điểm” (Nhất Tâm Tam Quán chính là xứng tánh để quán, dứt bặt đối đăi mà chiếu soi, bởi lẽ hết thảy các pháp, không ǵ chẳng phải là ba đức, như ba chấm trong chữ Y). Đây là một chữ cái trong tiếng Phạn Ấn Độ, cách viết chữ cái ấy là ba chấm (File:Siddham i.svg), phát âm là Y, là một trong bốn mươi hai chữ cái của tiếng Phạn. “Tam bất cô lập, nhất nhất viên cụ, cử nhất tức tam, năi dĩ Tam Đức nhi vi Tam Đế” (ba điều ấy chẳng cô lập, mỗi một điều đều đầy đủ trọn vẹn. Nêu lên một điều chính là ba, tức là dùng Tam Đức để thành Tam Đế). Chúng ta chỉ xem mấy câu này. V́ sao có Nhất Tâm Tam Quán? Nhất Tâm Tam Quán được kiến lập trên lư luận như thế nào? Nói thật ra, tự tánh là viên dung, trong tự tánh chẳng có giới hạn. Chúng ta chia nó thành từng tầng cấp là v́ chúng ta mê quá sâu, do mê mà phân chia. Nói theo tự tánh, há có tầng cấp nào để noi theo? Đó là căn cứ lư luận của Nhất Tâm Tam Quán. V́ vậy, Nhất Tâm Tam Quán là xứng tánh khởi tu, toàn thể tu là tánh. Ở đây, đă giải thích là “xứng tánh để quán”.

      “Tuyệt đăi nhi chiếu” (dứt bặt đối đăi để chiếu), “tuyệt đăi” (絕待) tức là tương đối. Phàm phu chúng ta mê muội đă lâu, tập khí quá sâu, khởi tâm động niệm đều vướng nơi tương đối. Ông Ái Nhân Tư Thản (Albert Einstein) lập ra thuyết Tương Đối Luận (general theory of relativity), chúng ta sống trong không gian tương đối, trong một thế giới tương đối, chỉ cần khởi lên một ư niệm, nhất định sẽ có một ư niệm khác đối nghịch. Chúng ta nghĩ đến cái lớn th́ tương phản với cái lớn là một cái bé. Nghĩ đến dài sẽ có cái tương phản với dài là ngắn. Nghĩ đến ta sẽ có cái đối lập với ta là người khác, luôn luôn là tương đối! “Tuyệt đăi” là ĺa khỏi tương đối. Do ĺa khỏi tương đối, nên bất đắc dĩ miễn cưỡng gọi là “nhất tâm”. Nói thật ra, hễ là “nhất” th́ đối lập với một sẽ là nhiều, nên thật sự là bất đắc dĩ mới nói [như vậy]. Nếu nói lời thật với quư vị sẽ là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”, “mở miệng liền trật, động niệm đă sai”, đạt tới tuyệt đăi! Tuyệt đăi th́ không chỉ là chẳng thể mở miệng, mà dấy lên ư niệm cũng chẳng được! Thật sự đạt đến cảnh giới ấy, quư vị nghĩ xem: Tâm thanh tịnh, trong tâm chẳng sanh một niệm. Cái tâm “một niệm chẳng sanh” là thanh tịnh, tâm là định, tự nhiên có thể chiếu khắp hư không pháp giới, tự nhiên có thể chiếu quá khứ lẫn vị lai. Chúng ta nói là “thần thông”, thật ra đó là bản năng, tức năng lực vốn sẵn có. Quá khứ, hiện tại, cơi này, phương khác, chẳng có ǵ không hiểu rơ. Chỉ cần quư vị có thể ngưng dứt hết thảy phân biệt, chấp trước và khởi tâm động niệm, năng lực ấy liền hiện tiền. Chuyện này phải luyện tập, công phu ấy là phải làm như thế nào để ngưng dứt tập khí từ vô thỉ kiếp tới nay.

       “Cái nhất thiết pháp, vô phi Tam Đức” (ấy là v́ hết thảy các pháp, không ǵ chẳng phải là ba đức): Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, không ǵ chẳng phải là Pháp Thân, không ǵ chẳng phải là Bát Nhă, không ǵ chẳng phải là Giải Thoát. Nay chúng ta gọi Giải Thoát là “tự do tự tại, chẳng bị ràng buộc”, đúng là pháp nào cũng đều là như vậy. Tiếp đó, nêu tỷ dụ. Đại sư dùng ba chấm [trong chữ Y của tiếng Phạn] để tỷ dụ Tam Đức. Hễ nói tới Pháp Thân, tất nhiên có Bát Nhă và Giải Thoát. Nói tới Bát Nhă, nhất định có Pháp Thân và Giải Thoát. Một chính là ba, ba chính là một. Chẳng thể nói trơ trọi một đức nào trong Tam Đức, chẳng thể nào! Hễ có một, sẽ nhất định có cả ba. Do đó nói: “Nhất nhất viên cụ” (mỗi một điều đều đầy đủ trọn vẹn), Viên () là viên măn, Cụ () là trọn đủ. Pháp Thân trọn đủ viên măn Bát Nhă và Giải Thoát. Giải Thoát trọn đủ viên măn Pháp Thân và Bát Nhă. Nêu lên một, bèn chính là ba. Đấy chính là dùng Tam Đức để làm Tam Đế. Tam Đế (Không, Giả, Trung) là cảnh giới được quán bởi chúng ta. Tiếp theo đó, sách viết: “Tức ư nhất tâm, nhi tu Tam Quán, thử chi quán pháp, Năng Sở song tuyệt” (liền từ ngay trong nhất tâm mà tu Tam Quán. Trong pháp quán này, Năng và Sở cùng mất). Nay chúng ta dùng phương pháp ǵ để tu pháp Quán này? Thưa cùng quư vị, Đại Kinh đă nói: “Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”, nói thật ra, đó là Nhất Tâm Tam Quán. Khi đó, tùy thuộc quư vị dùng cái tâm nào? Nếu tâm quư vị thật sự chuyên nhất, khi ta niệm một câu Phật hiệu, chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước. Niệm câu Phật hiệu rành mạch, từng chữ phân minh, từ trong tâm sanh ra, niệm ra đằng miệng, nghe lọt vào tai, đó là Nhất Tâm Tam Quán. Nếu khởi tâm động niệm, ta niệm Phật th́ hôm nay phải niệm một vạn câu hay hôm nay ta phải niệm năm ngàn câu, đó là Thứ Đệ Tam Quán, v́ sao? Quư vị đă khởi tâm động niệm. Thứ Đệ và Nhất Tâm, chính ḿnh phải phân biệt thật rơ ràng!

      Người tu Nhất Tâm Tam Quán trong cuộc sống hằng ngày, xử sự, đăi người, tiếp vật, đều phải học chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, vĩnh viễn ǵn giữ tâm địa thanh tịnh quang minh. Khi người khác đến, chúng ta đối đăi với người ấy bèn thuận theo sự chấp trước của người ấy mà chấp trước, thuận theo sự phân biệt của người ấy mà phân biệt. Đó là Thể Dụng như như. Trong tự tánh chẳng có phân biệt, chấp trước, đó là dùng Không. Chính ḿnh dùng Không, nhưng đối với người khác, để đối đăi với họ bèn dùng Giả. Hai bên Không và Giả đều dùng, song chiếu, song giá ngay trong một niệm. V́ lẽ đó, Quán Kinh đă giảng rơ tỉ mỉ lư luận và phương pháp niệm Phật. À! Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này!

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 2 hết

 

 

 



[1] “Bồi” ở đây là dán bức vẽ lên một tờ giấy khác dày hơn, to hơn, thường là dán thêm một lớp vải hoặc lụa tạo thành khung bao quanh bức vẽ, hai đầu gắn trục gỗ để dễ cuộn lại, hoặc khi treo lên, trục gỗ sẽ kéo căng bức tranh ra.

[2] “Lưu kim” c̣n gọi là Phi Kim (飛金), hoặc Kim Tích (金錫), tức là cách thếp vàng trên tượng đúc bằng hợp kim trong truyền thống tạo h́nh mỹ thuật thuở trước, trong khi đó “thiếp kim” có ư nghĩa rộng hơn. Thiếp kim là mạ vàng trên bất cứ vật liệu nào. Tượng được “thiếp kim” (貼金: thếp vàng) có thể bằng gỗ, đá, hoặc ngọc quư. Để mạ tượng kim loại, trước hết mặt tượng phải được tẩy sạch những chỗ oxide hóa, các chất bẩn v.v... Ḥa vàng và thủy ngân theo tỷ lệ 1:7 để trở thành một dung dịch lỏng, gọi là “hỗn hống” (). Bôi đều chất lỏng ấy lên mặt tượng rồi nung khói nhẹ để thủy ngân bay hơi, chỉ c̣n lại vàng. Sau đó là đánh bóng.

[3] Theo ngu ư, có lẽ là đại sư muốn so sánh giữa bí và bầu, v́ bí được gọi là Đông Qua.

[4] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Bồ Tát Anh Lạc Kinh, c̣n gọi là Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp Kinh, có mười bốn quyển, do ngài Trúc Phật Niệm dịch dưới đời Hậu Tần (Diêu Tần). Kinh giảng về các địa vị Bồ Tát và nhân hạnh như Tam Tụ Tịnh Nghiệp v.v… Kinh được chia thành tám phẩm như Tập Tụ, Hiền Thánh Danh Tự, Hiền Thánh Học Quán… sử dụng rất nhiều danh nghĩa giống như kinh Hoa Nghiêm, nên cũng được tông Hoa Nghiêm rất coi trọng.

[5] Tâm Bất Tương Ứng Hành Pháp gồm có hai mươi bốn pháp. Các kinh luận giải thích danh tướng của Tâm Bất Tương Ứng Hành Pháp khác nhau đôi chút, nếu xét theo Bách Pháp Minh Môn Luận th́ Bất Tương Ứng Hành Pháp là Đắc, Mạng Căn, Chúng Đồng Phận, Dị Sanh Tánh, Vô Tưởng Định, Diệt Tận Định, Vô Tưởng Báo, Danh Thân, Cú Thân, Văn Thân, Sanh, Trụ, Lăo, Vô Thường, Lưu Chuyển, Định Dị, Tương Ứng, Thế Tốc, Thứ Đệ, Thời, Phương, Số, Ḥa Hợp Tánh, Bất Ḥa Hợp Tánh.

[6] Sáu pháp Vô Vi là Hư Không Vô Vi, Trạch Diệt Vô Vi, Phi Trạch Diệt Vô Vi, Bất Động Vô Vi, Tưởng Thọ Diệt Vô Vi và Chân Như Vô Vi.