Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa
Phần 4
觀無量壽佛經疏鈔演義
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Thời gian: Khởi
giảng từ ngày 01 tháng 12 năm 1990
Địa
điểm: Hoa Tạng Đồ
Thư Quán, huyện Cảnh Mỹ, Đài Loan
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập
13
Xin mở kinh bổn, trang sáu mươi
tám, ḍng thứ hai đếm từ dưới lên:
“Tam,
Minh Tông”: Đây là phần Huyền Nghĩa, cũng là đoạn
lớn thứ ba trong phần Khái Yếu. “Tông vị yếu, thử kinh chi yếu, tại tu
tâm diệu quán, cảm ư Tịnh Độ” (Tông nghĩa
là chánh yếu. Điều chánh yếu trong kinh này là tu tâm diệu
quán cảm Tịnh Độ). Phần Biện Thể được
nói trong phần trước là căn cứ lư luận, đoạn
này nói đến tông chỉ, tức là phương pháp tu
hành, cũng là tổng cương lănh tu học của toàn
bộ kinh này, hết sức quan trọng. Nếu hiểu rơ
lư luận, nhưng chẳng biết phương pháp tu học,
th́ vẫn chẳng thể thọ dụng. Phương pháp
tu hành trong kinh này là Quán, tức là mười sáu phép Diệu
Quán. Chúng ta đọc phần tiếp theo: “Tâm quán, tức thị Nhất Tâm Tam Quán, Thích Danh chi
trung, kỳ tướng dĩ ủy” (Tâm quán chính là Nhất
Tâm Tam Quán. Trong phần giải thích tên kinh, đă giải thích
tướng ấy). “Ủy” (委) là đă được giải thích.
Trong phần trước đă nói qua, [nên lời Sao viết
tiếp]: “Cảm độ chi
tướng, thử văn bị luận” (trong phần
kinh văn nói về tướng trạng của các cơi nước
được cảm, đă luận định đầy
đủ). Tu Nhất Tâm Tam Quán, cảm được bốn
thứ Tịnh Độ, bốn thứ Tịnh
Độ đă được nói rơ trong đoạn ấy.
“Kim kinh diệu tông, tại
thử nhân quả” (tông chỉ mầu nhiệm của
kinh này ở trong nhân quả ấy): Nhất Tâm Tam Quán là nhân,
cảm bốn cơi [Tịnh Độ] là quả, tu nhân
chứng quả. Chúng ta xem đoạn kinh văn tiếp
theo.
“Thứ
minh kinh Tông” [nghĩa là] tiếp theo đây, trong đoạn
thứ ba, sẽ nói rơ tông chỉ của kinh này. “Sơ giản Tông Thể,
thứ chánh minh Tông” (trước hết là biện định
Tông và Thể; sau đó, sẽ chánh thức nói về Tông),
chia thành hai đoạn. Chúng ta xem kinh văn: “Hữu nhân ngôn, Tông tức thị
Thể, Thể tức thị Tông” (có người nói: Tông
chính là Thể, Thể chính là Tông). Có kẻ nói như
vậy, coi Tông và Thể là một chuyện, thật ra, chẳng
đúng, Tông và Thể có sai biệt. “Kim sở bất dụng” (nay chẳng dùng thuyết
ấy), [nghĩa là] không chủ trương tuân theo cách nói như
vậy. “Hà giả? Tông kư
thị nhị, Thể tức bất nhị. Thể
nhược thị nhị, Thể tức phi Thể” (V́
lẽ nào? Tông đă là hai, Thể chính là chẳng hai. Nếu
Thể là hai, th́ Thể chẳng phải là Thể). Xác thực
là bản thể chỉ có một, chẳng thể có hai; hễ
có hai, sẽ chẳng thể gọi là Thể được!
“Tông nhược bất
nhị, Tông tức phi Tông” (Nếu Tông chẳng hai, Tông sẽ
chẳng phải là Tông). Tông là phương pháp tu hành. Xác thực
là đối với phương pháp tu hành, mỗi bộ
kinh có phương pháp riêng của bộ kinh ấy, tuyệt
đối chẳng phải là một. “Như lương trụ, thị ốc chi
cương duy” (như kèo cột, là cái khung của căn
nhà): Nêu tỷ dụ về việc dựng nhà, cột và kèo
trong khi dựng nhà hết sức quan trọng. Trước
hết, phải gác dựng kèo cột rồi mới có thể
lợp nhà. “Ốc không, thị
lương trụ sở thủ” (khoảng trống
trong căn nhà là do kèo cột tạo thành), sử dụng căn
nhà là sử dụng khoảng không gian [trong căn nhà ấy].
Nếu nhà chẳng có khoảng trống bên trong, căn nhà ấy
sẽ chẳng thể sử dụng được! V́ thế,
nói là “dùng Không”. “Bất ưng dĩ lương
trụ thị ốc không, ốc không thị lương
trụ” (chớ nên nghĩ kèo cột là khoảng
trống trong nhà, coi khoảng trống trong nhà là kèo cột).
Nêu tỷ dụ này dễ hiểu, đó là tỷ dụ về
Tông. Xét theo bản chất của Tông, th́ quả thật chẳng
phải là một, mà là hai; nhưng mối quan hệ giữa
Tông và Thể hết sức mật thiết! Tông ắt phải
nương vào Thể để kiến lập, tách rời
khỏi Thể th́ lấy đâu ra Tông?
Trong phần Sao tiếp đó, tức
là trong phần chú giải, có hai câu nói rất khẩn yếu:
“Tông thị nhân, quả
thuộc Sự” (Tông là nhân, quả thuộc về Sự).
Trong đây,
[đă nêu lên] mối quan hệ nhân quả, tu nhân sẽ chứng
quả. V́ vậy, Tông là cương lănh tu hành, quả báo là
bốn thứ Tịnh Độ ở Tây Phương. “Thể thị nhất tánh, thuộc
Lư” (Thể là một tánh, thuộc về Lư), nhân cũng căn
cứ trên Lư ấy, mà quả vẫn căn cứ trên Lư ấy,
Lư là một. “Tuy bất
tương xả, nhị nghĩa tu phân” (tuy chẳng ĺa
bỏ nhau, nhưng hai nghĩa vẫn cần phải tách biệt).
Xác thực là nhân quả đều có nền tảng là nguyên
lư ấy, nhưng chúng ta vẫn phải phân biệt rơ ràng, chẳng
thể nói hàm hồ, lẫn lộn được. V́ thế,
cần phải tách hai nghĩa ra. “Chấp định thị nhất, ư nghĩa
quai vi” (Chấp chặt chúng là một, sẽ trái nghịch
giáo nghĩa). Nếu cứ chấp trước nói chúng là một,
sẽ mâu thuẫn giáo nghĩa. Kiên quyết chấp trước
[Tông và Thể] là một th́ vẫn có thể nói cho suông, nhưng
tu hành như thế nào, chứng quả như thế nào, sẽ
rất khó! V́ thế, ắt phải phân biệt chúng.
Đoạn kế
tiếp, quư vị tự xem lời chú giải. Chúng ta đọc
đoạn sau đó: “Giản Tông
Thể dị” (Biện định về sự khác biệt
giữa Tông và Thể), nói rơ v́ sao chẳng thể nói gộp
chung [Tông và Thể] thành một được, mà cứ nhất
định phải phân biệt rơ ràng. [Điều này được
tŕnh bày trong] hàng thứ hai từ dưới đếm lên
nơi trang bảy mươi.
“Tông Thể dị giả, tắc
nhị vật cô điều. Tông phi hiển Thể chi Tông,
Thể phi Tông gia chi Thể” ([Nếu hiểu là] Tông và Thể
khác nhau, chúng sẽ trở thành hai thứ cách biệt cô lập.
Tông sẽ chẳng là cái Tông nhằm hiển Thể, Thể
chẳng phải là cội nguồn của cái Tông nữa). Nói
thật ra, Tông và Thể có mối quan hệ mật thiết,
chính là mối quan hệ “Lư và Sự là cùng một Thể”.
Rời khỏi Lư, lấy đâu ra Sự? Chẳng có Sự,
Lư cũng chẳng thể hiển thị được. Tông
và Thể có mối quan hệ như vậy, mật thiết
dường ấy. Do đó, ở đây [lời Sớ] giảng:
Nếu nói Tông và Thể khác nhau, sẽ thật sự biến
thành hai vật lẻ loi, Tông sẽ chẳng thể hiển
Thể. Thể là Chân Như bản tánh. Hết thảy chúng
sanh thật sự vốn sẵn có Chân Như bản tánh;
tuy sẵn có, nó chẳng hiển lộ, do đă bị mê. Ắt
cần phải cậy vào Tu Đức th́ mới có thể
hiển lộ Tánh Đức. Tánh Đức là Thể, Tu
Đức là Sự, không tu sẽ chẳng thể thành Phật.
Nói thật ra, hết thảy chư Phật cũng đều
là tu thành, các Ngài tu thành như thế nào? Bổn tánh vốn
sẵn trọn đủ, v́ các Ngài có Phật Tánh, nên chỉ
cần chịu tu, nhất định là có thể thành Phật.
Đây là nêu bày công dụng của mối quan hệ giữa
Tông và Thể. Do đó, chớ nên chấp trước [Tông
và Thể] là một, mà cũng chẳng thể chấp trước
là hai. Hễ chấp trước th́ sai mất rồi, chúng
ta hiểu mối quan hệ của chúng như vậy là được
rồi!
Tiếp
đó là phần Chánh Thuyết, tức là chỉ bày [Tông là ǵ,
điều này được nêu ra trong] hàng thứ tư đếm
từ dưới lên nơi trang bảy mươi mốt.
“Kim ngôn bất dị nhi dị,
cố hữu Tông; bất nhất nhi nhất, cố hữu
Thể dă” (nay nói “chẳng khác mà khác” nên có Tông. “Chẳng
một mà là một” nên có Thể). Nói rất hay, đây mới
là nêu bày chân tướng sự thật. Chúng ta xem chú giải:
“Phổ Hiền Quán Kinh vân, Đại
Thừa nhân giả, chư pháp Thật Tướng thị,
Đại Thừa quả giả, chư pháp Thật Tướng
thị. Thật Tướng nhân quả, bất dị nhi dị,
phi đảo Hữu ấn, thử vi diệu tông. Nhân quả
Thật Tướng, bất nhất nhi nhất, phi sự
ngoại lư, thử vi diệu thể” (Kinh Phổ Hiền
Quán[1] nói:
“Cái nhân của Đại Thừa là Thật Tướng của
các pháp, quả của Đại Thừa là Thật Tướng
của các pháp”. Thật Tướng nhân quả, chẳng khác
mà khác, chẳng xóa bỏ Hữu ấn[2], đấy
là diệu tông. Thật Tướng nhân quả, chẳng phải
một mà là một, chẳng phải là Lư ở ngoài Sự,
đấy chính là diệu thể). Đoạn giải thích
này rất hay, lời lẽ đơn giản, nhưng ư
nghĩa trọn vẹn. Ĺa khỏi Thật Tướng sẽ
chẳng có một pháp nào để được! Nói đơn
giản, Thật Tướng là chân tướng của nhân
sinh và vũ trụ, đó là Lư Thể. Chúng ta tu hành ắt phải
thuận theo nó, nương vào nó, mà chứng quả cũng
chính là nó. Từ chỗ này, chúng ta hiểu hết thảy các
pháp xác thực là quy nhất (trở về một), giống
như Thiền Tông đă nói “vạn
pháp quy nhất”, nhất là ǵ vậy? Nhất Thật
Tướng.
Mục
đích tu học chung cực trong Phật pháp là khiến cho
chúng ta nhận thức chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh; hễ nhận thức chân tướng của vũ
trụ, sự tu hành chứng quả trong Phật pháp bèn viên
măn. Do vậy, nếu chư vị hỏi Phật pháp là ǵ?
Mấy câu đơn giản này đă nói trọn hết toàn
bộ Phật pháp. Vấn đề vướng mắc trong
hiện tại của chúng ta là chẳng biết chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh. Không chỉ chẳng biết
vũ trụ và nhân sinh, mà ngay cả chính ḿnh cũng chưa
hiểu rơ ràng, đó là mê, là điên đảo. V́ lẽ đó,
mọi cách nh́n, cách thấy, cách làm đều phát sanh sai lầm,
những sai lầm ấy đă đem lại cho chúng ta rất
nhiều nỗi thống khổ! Chúng ta học Phật th́
phải nhận thức chính ḿnh, nhận thức vũ trụ,
nhận thức nhân sinh. Đă hiểu thật rơ chân tướng
th́ tư tưởng, kiến giải và cách làm của chúng
ta sẽ chẳng phạm sai lầm nữa. Chẳng phạm
sai lầm, sẽ chẳng có đau khổ, chẳng c̣n khổ
nạn nữa. Đó là mục đích giáo học và tu học
trong Phật pháp. Phương pháp trong kinh này hết sức
xảo diệu. Tông là tông chỉ tu hành, [tông chỉ tu hành của
Quán Kinh] là một tông chỉ tu hành xảo diệu, quả đức
của diệu tông là diệu thể.
Tiếp
đó, nói thẳng thừng tông chỉ của bản kinh này.
Trong hàng thứ hai, nơi trang bảy mươi hai: “Kim thử kinh Tông” (nay Tông của
kinh này), “thử kinh” là Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh, tông chỉ của bộ
kinh này là ǵ? Cương lănh quan trọng trong tu hành là ǵ? “Dĩ tâm quán tịnh, tắc Phật
độ tịnh, vi kinh Tông Trí” (Do tâm quán tịnh th́ cơi
Phật tịnh, đó là Tông Trí[3] của
kinh). “Trí” (致) là đạt tới
mức tột bậc. Câu này hết sức quan trọng, đúng
như kinh Tịnh Danh đă nói: “Tâm
tịnh th́ cơi Phật tịnh”.
Chúng
ta xem chú giải. Đoạn chú giải này hết sức
khẩn yếu, có mối quan hệ mật thiết với
niềm kỳ vọng trong sự tu học của chúng ta trong
hiện thời: “Đại Thừa
chi pháp, kỳ yếu tại tâm” (Điều quan trọng
trong pháp Đại Thừa là tâm). Khác với pháp Tiểu Thừa,
pháp Tiểu Thừa chú trọng sự tướng, chú trọng
những chuyện vụn vặt trong cuộc sống. Pháp Đại
Thừa coi trọng tâm thanh tịnh, khác hẳn! “Tâm cụ dị tri, sắc cụ
nan giải” (tâm trọn đủ dễ biết, sắc
trọn đủ khó hiểu), “cụ”
(具) là trọn đủ.
Kinh nói trong tâm trọn đủ vô lượng trí huệ,
vô lượng đức năng, chúng ta nghe xong, dường
như có thể hiểu t́nh h́nh ấy. Sắc là sắc tướng,
nhưng [nghe nói] sắc tướng cũng trọn đủ
th́ chẳng dễ hiểu, khó hiểu lắm. “Cố Chỉ Quán vân, nhân thông dị
thức, quả cách nan tri” (v́ vậy, sách Chỉ Quán nói:
“Nhân do tương thông nên dễ biết, quả do sai khác nên
khó hiểu”). “Quả” là quả
báo, quả báo có tới mười pháp giới; c̣n nói tới
nhân th́ mười pháp giới có nền tảng là một cái
nhân, tức là tâm. Mười pháp giới chỉ do tâm hiện,
chỉ do thức biến. Thức là Dụng (tác dụng) của
tâm, chẳng phải là bản thể của tâm, mà là tác dụng
của tâm. Tác dụng của tâm c̣n có thuận, nghịch, có
tác dụng thuận tánh, có tác dụng trái nghịch tự tánh.
Thuận theo tự tánh, liền biến thành quả báo trong
tứ thánh pháp giới; trái nghịch tự tánh, liền biến
thành quả báo trong lục phàm. Thuận, nghịch là ǵ? Chúng
ta khởi tâm động niệm, thuận theo tâm thanh tịnh
bèn gọi là “thuận tánh”. Khởi tâm động niệm
mà tâm chẳng thanh tịnh bèn là “trái nghịch tự tánh”. Tôi
nói theo cách này, chư vị tương đối dễ hiểu
hơn!
Chân
tánh là ǵ? Tôi dùng tâm thanh tịnh để nói. Thật ra, nói
theo cách này cũng chẳng sai, v́ tựa đề kinh Vô
Lượng Thọ là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Do
vậy, nói thật ra, tông chỉ tu hành trong kinh Vô Lượng
Thọ là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Nói ba thứ, nhưng
nói thật ra, ba thứ ấy chính là Tam Bảo. Tôi nghe nói
hiện thời có chẳng ít đồng tu muốn phát tâm
quy y, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Thanh tịnh là Tăng
Bảo, b́nh đẳng là Pháp Bảo, giác là Phật Bảo;
do đó, Tam Bảo đều ở trong tựa đề
kinh Vô Lượng Thọ. Đấy là tổng
cương lănh trong sự tu học Đại Thừa. V́
vậy, kinh Vô Lượng Thọ hay lắm, nói thật ra
là toàn bộ Thể, Tướng, Dụng đều ở
trong tựa đề kinh. Vô Lượng Thọ là Chân Như
bản tánh, là Thể. Trang Nghiêm là Tướng. Trang Nghiêm là
ǵ? Tây Phương có tên là thế giới Cực Lạc, Cực
Lạc là trang nghiêm, trang nghiêm hoàn mỹ chẳng thiếu khuyết.
Trang nghiêm nói đơn giản là “h́nh tượng”. Thuận
tánh th́ h́nh tượng thiện, chẳng thuận tánh là h́nh
tượng bất thiện. Tạo Ngũ Nghịch, Thập
Ác, sẽ biến hiện các ác tướng địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh trang nghiêm, chẳng thể nói không phải
là trang nghiêm, vẫn là trang nghiêm! Do vậy, danh từ “trang
nghiêm” có phạm vi hết sức rộng răi. Y báo và chánh báo
trong mười pháp giới đều có thể gọi là
“trang nghiêm”. Trong trang nghiêm, có sự tốt xấu khác nhau,
thiện ác khác nhau, gọi chung là “trang nghiêm”. V́ vậy, Trang
Nghiêm là tướng, Vô Lượng Thọ là Thể, “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác” là tu nhân. Chúng ta phải nên biết
tu như thế nào th́ mới có thể chứng đắc
sự trang nghiêm trong Cực Lạc, đó là trang nghiêm viên măn
rốt ráo.
“Cố quán Tự, quán Tha, giai tu
tâm quán” (v́ thế, quán Tự hay quán Tha đều là tu tâm
quán). Chúng ta không chỉ phải ghi nhớ hai câu này, mà c̣n phải
biết dùng. Nhà Thiền thường gọi “quán Tự” là “quán tâm”. Quán Tự là quán khởi tâm động niệm
của chính ḿnh, có thể biết khởi tâm động niệm
của chính ḿnh là thiện hay ác. Đó là giác, chứ không
mê. Quán Tha là quán khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
tạo tác của kẻ khác. [Thật ra], quán Tha là quán Tự,
v́ quán sát khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác của người khác có ảnh hưởng đến
ta hay không? Ví như người khác tán thán ta, ta rất khoái
chí, rất hoan hỷ, ta đă bị kẻ khác lay động
mất rồi! Người khác chửi ta mấy câu, ta giận
dữ, mấy ngày chẳng nguôi giận, đó là chẳng
thể làm chủ chính ḿnh, bị cảnh giới bên ngoài
lay chuyển. Bị cảnh giới bên ngoài lay chuyển th́
người Hoa nói là Phong Thủy. Phong là ǵ? Bên ngoài. Thủy
ví như cái tâm của chính ḿnh. Gió vừa thổi, tâm ta bèn
chuyển động, ngay lập tức cuồn cuộn nổi
sóng. Phong Thủy có ư nghĩa như thế đó. Khi nào gió cảnh
giới bên ngoài thổi như thế nào đi nữa, tâm
ta như như bất động. Thưa cùng quư vị, chẳng
bị ngoại cảnh chuyển, từ rày trở đi,
chẳng cần xem Phong Thủy chi hết, v́ Phong Thủy
chẳng c̣n dính dáng với quư vị nữa! Quán Tha chính là quán
điều này: Chúng ta có c̣n bị ngoại cảnh ảnh
hưởng hay không? Có thể nói quán Tự hay quán Tha đều
nhằm tu cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh, đều là
tu thanh tịnh, b́nh đẳng, giác cho chính ḿnh. Đó gọi
là “biết tu hành”.
“Kim quán Tịnh Độ, tu cầu
ư tâm, tâm năng cụ cố, tâm năng tạo cố,
tâm cấu, độ cấu, tâm tịnh, độ tịnh”
(nay quán Tịnh Độ, cần phải cầu nơi tâm.
Do tâm có thể trọn đủ, do tâm có thể tạo, nên
tâm nhơ, cơi nước nhơ, tâm sạch, cơi nước
sạch). Mấy câu này hết sức quan trọng. Nếu thật
sự hiểu phương pháp và đạo lư này để
tu hành, không có ǵ chẳng thành tựu. Chẳng biết đạo
lư và phương pháp tu hành này, dẫu dụng công như thế
nào, công phu cũng chẳng đắc lực. Đây chính là
thật sự dạy cho chúng ta biết cương lănh tu hành.
Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều
vốn sẵn có trong tự tâm. Thế giới Cực Lạc
do tự tâm tạo, thế giới Sa Bà cũng do tự tâm
tạo. Tâm tạo vạn vật. Tâm chẳng thanh tịnh,
cơi nước là hoàn cảnh, hoàn cảnh sẽ chẳng thanh
tịnh. Tâm thanh tịnh, hoàn cảnh liền thanh tịnh. Thật
vậy! Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă nói
bao nhiêu lượt, nói rất thấu triệt: “Nhược năng chuyển cảnh,
tắc đồng Như Lai” (Nếu có thể chuyển
cảnh, ắt giống như Như Lai). Vấn đề
hiện tại là cái tâm của chúng ta có thể chuyển cảnh,
hay là bị hoàn cảnh chuyển? Nói “tâm chúng ta bị hoàn cảnh
chuyển”, thưa cùng quư vị, đó là giả, là sai lầm,
là mê, quyết định chẳng phải là giác. Tâm chuyển
cảnh là thật, chẳng giả tí nào, v́ sao? Hết thảy
chỉ do tâm tạo. “Ưng quán
pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (hăy nên quán
tánh pháp giới, hết thảy chỉ là tâm tạo): Tánh là
tánh thể. Bản thể của hết thảy vạn pháp
là tâm tạo, tâm biến, tâm hiện. Trong hai câu ấy, “tâm trọn đủ, tâm tạo,
tâm cấu, tâm tịnh” chính là nguyên lư của y báo và chánh
báo trang nghiêm trong mười pháp giới, là Thật Tướng
và chân tướng của y báo và chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới.
Nay
chúng ta nói hoàn cảnh không tốt, chuyển hoàn cảnh như
thế nào? Chuyển từ tâm địa. Người thế
gian hiện thời nghĩ đủ mọi phương
pháp để làm đẹp hoàn cảnh, chẳng biết
chuyển hoàn cảnh từ tâm địa. Hoàn cảnh bên
ngoài dẫu chưng dọn đẹp đẽ cách mấy
đi nữa, nhưng trong ḷng ưu sầu, vướng mắc,
phiền năo quá nặng, dẫu có hoàn cảnh đẹp đẽ,
chẳng thể nào thưởng thức! Nếu tâm địa
thật sự thanh tịnh, chẳng cần cố ư làm đẹp
hoàn cảnh, nó có vẻ đẹp tự nhiên. Thơ cổ
nhân có câu: “Lục măn song tiền,
thảo bất trừ” (trước song chẳng nhổ,
cỏ xanh um), quư vị thấy rất đẹp. Đó là
ǵ? Bên ngoài đủ thứ cây cỏ mọc lung tung, chẳng
cắt xén, cứ để mặc nó, nó có một vẻ đẹp
tự nhiên. Nay chúng ta cố ư dùng sức
người tạo tác, chẳng phải là vẻ đẹp
tự nhiên, nói thật thà th́ sinh thái tự nhiên đă bị
phá hoại. Mấy câu này dạy chúng ta tu hành phải coi trọng
tu tâm, tu tâm bèn coi trọng tâm địa thanh tịnh. Để
đạt được tâm địa thanh tịnh, phải
buông hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước xuống. Quư vị chẳng buông những thứ
ấy xuống, tâm quư vị làm sao có thể thanh tịnh cho
được? Do đó, nói thật thà, cái tâm của chúng
ta khởi tâm động niệm đều là thị phi,
nhân ngă, chẳng phải là [toan tính] tự tư tự lợi
cho chính ḿnh, th́ cũng là người khác trở ngại chúng
ta. Hằng ngày khởi ư niệm ấy, đó là chướng
ngại trọng đại trong sự tu hành.
V́
thế, bộ kinh này dạy chúng ta phương pháp: Hễ
khởi tâm động niệm bèn tưởng Phật, niệm
Phật. Chúng ta là phàm phu, tập khí nghiệp chướng từ
vô lượng kiếp đến nay rất nặng, chẳng
thể không tưởng, suy tưởng chẳng ngừng,
suy nghĩ loạn xạ, căn bệnh ấy cũng rất
nặng. Nay kinh dạy chúng ta hăy gom những suy tưởng
loạn xạ thành một tưởng, tức là tưởng
A Di Đà Phật, tưởng y báo và chánh báo trang nghiêm trong
Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng dấy
lên một niệm tưởng ǵ khác. Nếu tưởng
khác, ngay lập tức buông xuống loạn tưởng ấy,
ta tưởng thế giới Cực Lạc, tưởng A
Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật, dùng
phương pháp này để khôi phục tâm địa
thanh tịnh. Nếu không, niệm Phật hiệu, niệm
kinh này, há có ư nghĩa ǵ? Chỉ dùng phương pháp này để
khôi phục cái tâm thanh tịnh, chế phục hết thảy
vọng tưởng mà thôi!
“Thử do thông thị, vị thị
đích luận” (điều này vẫn c̣n là nói chung chung,
chưa phải là luận định đích xác). Đúng thế!
Đây là nói tới nguyên lư, tất cả hết thảy các
pháp Đại Thừa thảy đều căn cứ trên
nguyên lư này. Có thể nói bộ kinh này là tinh yếu nhất
trong các điều tinh yếu, bộ kinh này “đích tại nhất tâm, đốn
tu Tam Quán” (đích thực là chú trọng nhất tâm, tu
Tam Quán mau chóng), đây là nói đến Tịnh Độ
Tông. Cổ nhân gọi phương pháp tu hành trong Tịnh
Độ Tông là Đại Thừa của Đại Thừa,
viên nhất trong các pháp viên, nhanh chóng nhất trong các pháp đốn,
xác thực đă nắm được điều tinh yếu
này, đó chính là Nhất Tâm Tam Quán. Tam Quán chẳng tu theo thứ
tự, mà là đốn tu, tu một là tu hết thảy. “Thử Quán quán ư An Dưỡng
y chánh” (phép Quán này quán y báo và chánh báo của cơi An Dưỡng),
An Dưỡng là thế giới Cực Lạc. “Y chánh”: Y báo là hoàn cảnh, chánh
báo là người và vật. Chúng ta quán hoàn cảnh của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thấy Phật
và các vị Bồ Tát bên ấy th́ Phật và Bồ Tát là chánh
báo. “Tất cánh thanh tịnh”
(rốt ráo thanh tịnh), nói theo cách hiện thời, Phật,
Bồ Tát là hoàn cảnh nhân sự, cây cối, hoa, cỏ,
cung điện, vườn, rừng là hoàn cảnh vật
chất để cư trụ. Hoàn cảnh nhân sự thanh
tịnh, hoàn cảnh vật chất thanh tịnh. Dạy chúng
ta hăy quán những hoàn cảnh ấy, thấy chúng thanh tịnh,
dùng phương pháp ấy để dẫn khởi cái tâm
thanh tịnh của chúng ta. “Danh
tâm quán tịnh, thử Quán năng linh tứ Phật độ
tịnh” (gọi là tâm quán tịnh, phép Quán này có thể
khiến cho bốn cơi Phật thanh tịnh). Cơi Phật có bốn
loại: Cơi Thường Tịch Quang, cơi Thật Báo Trang
Nghiêm, cơi Phương Tiện Hữu Dư, và cơi Phàm Thánh
Đồng Cư, bốn cơi đều là Tịnh Độ.
“Như thị phương vi
thử kinh Tông Trí” (như thế mới là Tông Trí của
kinh này), đấy mới là tông chỉ và nguyên lư tu hành của
bản kinh này.
Trong
thế giới này, bất luận hoàn cảnh nhân sự
hay vật chất đều chẳng thanh tịnh. Không chỉ
chẳng thanh tịnh, mà trong thời đại của chúng
ta, có thể nói là ô nhiễm nghiêm trọng tới cùng cực.
Điều này có ảnh hưởng hết sức to lớn
đối với tâm lư chúng ta, v́ chúng ta chẳng phải là
thánh nhân, sẽ bị hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng.
Là phàm phu, tâm bị cảnh chuyển. Tu hành bất luận
theo phương pháp nào đều hết sức khó khăn,
chẳng dễ ǵ thành tựu. Dùng phương pháp Tịnh
Độ, thật sự là có chỗ thù thắng so với
hết thảy các phương pháp khác, nhưng phải biết
dụng công. Chẳng biết dụng công th́ vẫn không
được. Có chẳng ít người biết lư luận
và phương pháp, biết phải nên làm theo cách như vậy,
nhưng cứ khăng khăng chẳng chịu làm như vậy,
v́ sao? Chẳng thể buông xuống. V́ sao chẳng thể buông
xuống? Nói thật ra là do chưa hiểu lư luận triệt
để, có hoài nghi, muốn làm, nhưng chẳng dám làm, đó
là chướng ngại, Phật môn gọi chuyện này là “nghiệp
chướng”. Trừ chẳng sạch nghiệp chướng,
muốn làm mà không dám làm, sợ sệt, sợ sệt điều
ǵ? Chẳng giữ nổi thân mạng, sợ ngày mai đói
lạnh, sợ ngày mai chết đói! Ta hết thảy
đều buông xuống th́ ngày mai sẽ sống như thế
nào đây? Ai sẽ chăm sóc ta? V́ thế, tuy biết là phải
nên làm như thế nào, kết quả là vẫn chẳng dám
làm, vẫn luân hồi trong lục đạo, vẫn làm phàm
phu sanh tử!
Có mảy
may chẳng thể buông xuống, tâm sẽ không thanh tịnh.
Điều này c̣n được diễn tả là “tri dị, hành nan”, tức là biết
dễ dàng, làm rất khó. Biết dễ, làm khó! Chúng ta nghe nói
[như vậy] cũng thấy rất có lư; thật ra, đạo
lư ấy chẳng phải là chân lư, chân lư là ǵ? Chân lư hoàn toàn
đảo ngược, tức là “biết khó, làm dễ”, đó là chân lư. Quư vị biết
dễ, làm khó, tức là quư vị biết chưa đủ
triệt để. Nếu thật sự biết triệt
để, sẽ buông xuống dễ dàng, thành Phật chẳng
khó! Quư vị thấy là chiếu theo phương pháp trong
kinh này, kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ giảng rơ
ràng hơn: “Hoặc một ngày”
cho đến “hoặc bảy
ngày” bèn thành Phật, thành Phật có khó khăn chi? Chẳng
khó! Khó ở chỗ quư vị chẳng chịu buông xuống.
Khó ở chỗ quư vị chẳng biết triệt để,
lại chẳng thật thà! Người thật sự thật
thà chuyện ǵ cũng chẳng biết, nhưng thầy dạy
như thế nào, người ấy bèn chịu làm, chẳng
hoài nghi, thật sự chịu làm theo. Dạy người ấy
buông xuống, liền triệt để buông xuống, người
ấy có thể làm được. Tuy người ấy
chẳng hiểu lư luận, nhưng chịu làm, đó gọi
là thật thà, là thiện căn sâu dầy. Chúng ta lại thua
kém những người ấy, nên tu hành đúng là khó khăn!
Tiếp
theo đó, sách nói bốn loại Tịnh Độ là quả
báo, chỉ cần quư vị chịu tu cái nhân, nhất định
có thể chứng quả báo thù thắng: “Tứ chủng Tịnh Độ, vị Phàm Thánh
Đồng Cư độ, Phương Tiện Hữu
Dư độ, Thật Báo Vô Chướng Ngại độ,
Thường Tịch Quang độ dă” (Bốn loại Tịnh
Độ là Phàm Thánh Đồng Cư độ, Phương
Tiện Hữu Dư độ, Thật Báo Vô Chướng
Ngại độ, Thường Tịch Quang độ). Trước
hết, kể tên bốn loại Tịnh Độ rồi
mới nói “tịnh uế chi
tướng” (tướng nhơ sạch). “Các hữu tịnh uế” (mỗi
cơi đều có tịnh và uế): Đối với bốn
loại Tịnh Độ này, nói thật ra, Ngài nói tịnh
và uế là nói so sánh, chứ như chúng ta thấy, các cơi ấy
đúng là thanh tịnh tột bậc. “Ngũ Trược khinh trọng, Đồng Cư tịnh
uế” (Ngũ Trược nặng hay nhẹ là sự tịnh
uế trong cơi Đồng Cư). Đây là nói tới cơi Phàm
Thánh Đồng Cư. Trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, nhất
định sẽ có Ngũ Trược, kinh Di Đà đă
nói rất rơ ràng. Trong Ngũ Trược, thật sự quan
trọng là Kiến Trược và Phiền Năo Trược,
v́ sao? Hai loại này là nhân, ba thứ khác đều thuộc
loại quả báo. Chỉ cần đoạn trừ hai thứ
này, ba thứ kia đều chẳng có. Kiến là ǵ? Kiến
giải, tư tưởng. Tư tưởng và kiến giải
sai lầm, sẽ sanh ra phiền năo. Nói theo cách hiện thời,
chữ Trược (濁) nghĩa là ô nhiễm. Cái tâm thanh tịnh của chúng
ta bị ô nhiễm bởi các thứ tư tưởng, bị
ô nhiễm bởi các thứ kiến giải, bị ô nhiễm
bởi tham, sân, si mạn. Tham, sân, si, mạn là phiền năo.
Nếu
chư vị đồng tu có thể nghe hiểu ư nghĩa
của lời này, trong sự học Phật sẽ bài trừ
rất nhiều chướng ngại. Chúng ta bị ô nhiễm
bởi các thứ tư tưởng, bị ô nhiễm bởi
các thứ kiến giải. Nếu quư vị hiểu lời
này, tốt nhất là hết thảy tạp chí, báo chí đều
chẳng xem, v́ sao? Tránh bị ô nhiễm. Không chỉ chớ
nên xem những thứ ấy, mà kinh Phật cũng chớ
nên xem, v́ sao? Sẽ bị Phật pháp ô nhiễm. V́ lẽ đó,
đức Phật nói những pháp ấy cũng hại chết
người, chẳng phải là chuyện tốt đẹp.
Quư vị thấy trong Thiền Tông, đừng nói là bị
ô nhiễm bởi Phật pháp hay bởi kinh điển, mà ngay
cả một câu A Di Đà Phật cũng là ô nhiễm. Họ
nói niệm Phật một tiếng, c̣n phải súc miệng
ba ngày, sợ bị danh hiệu A Di Đà Phật ô nhiễm!
Trong tâm thanh tịnh, chẳng lập một pháp, há có A Di
Đà Phật? Vốn chẳng có một vật, hễ có A
Di Đà Phật tức là c̣n có một vật. Vậy th́ làm
sao có thể trừ sạch ô nhiễm nơi tư tưởng
và kiến giải? Thiền Tông dùng phương pháp rất
triệt để, ngay cả căn cội cũng trừ
sạch. Phật pháp mà c̣n chẳng thể xem, pháp thế
gian càng chẳng cần phải nhắc tới! Ô nhiễm
bởi Phật pháp nhẹ hơn một chút, ô nhiễm bởi
pháp thế gian nặng hơn.
V́
thế, hễ nói đến tâm địa thanh tịnh th́
chẳng thể tiếp nhận loại ô nhiễm này. Người
sống trong một khu vực chưa được khai hóa,
đối với hết thảy các học thuyết và tư
tưởng trong thế gian, họ đều không biết.
Mặt trời mọc bèn làm lụng, mặt trời lặn
liền nghỉ ngơi, chưa từng bị ô nhiễm,
cuộc sống cũng rất tự tại, cũng rất
hạnh phúc, sống cuộc đời nguyên thủy. Họ
có thể thành Phật hay không? Chẳng thể thành Phật!
Nguyên nhân ở chỗ nào? Họ c̣n có một đại chướng
ngại mà chẳng có cách đột phá, chướng ngại
ǵ vậy? Vô minh. Chúng ta gọi sự ô nhiễm ấy là tà
kiến, đọc nhiều Phật pháp cũng sanh ra tà tri
tà kiến, nguyên nhân ở chỗ nào? Nguyên nhân là v́ quư vị
không hiểu Phật pháp, hiểu lầm Phật pháp. Học
Phật pháp theo kiểu chúng ta, ba đời chư Phật
trông thấy đều ứa lệ, than oan uổng. V́ sao?
Quư vị hiểu Phật pháp sai be bét! Hiểu sai như thế
nào? Quư vị ngỡ là trong Phật pháp thật sự có ư
nghĩa, tức là hiểu sai bét mất rồi. Tất cả
hết thảy các pháp do đức Phật đă giảng đều
chẳng có ư nghĩa; do đó, bài kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân
thật nghĩa”, có mấy ai có thể hiểu nghĩa chân
thật? Nghĩa chân thật là tâm thanh tịnh. Nghĩa chân
thật là “hoàn toàn không có ư nghĩa!”
V́ lẽ
đó, Phật, Bồ Tát dạy chúng ta, dạy quư vị hăy
ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng danh tự, ĺa
tướng tâm duyên, đó là đúng, chẳng sai tí nào! Phật
trông thấy liền sanh hoan hỷ, quư vị thật sự
hiểu nghĩa chân thật của Như Lai, chẳng hiểu
sai ư nghĩa, đó là dạy quư vị thứ ǵ cũng đừng
nên chấp trước. Đức Phật nói hết thảy
các pháp nhằm phá sự chấp trước của chúng
ta, kết quả là chúng ta không chỉ chẳng phá chấp
trước, mà lại c̣n chấp trước Phật pháp,
đó chẳng phải là hỏng bét ư? Do vậy, chư
vị phải biết nguyên lư và nguyên tắc này: “Tâm tịnh, cơi nước tịnh.
Tâm nhơ, cơi nước nhơ”. Nếu chúng ta nhiễm
trước một đống lớn Phật pháp, tâm cũng
chẳng thanh tịnh, đương nhiên cơi nước chẳng
tịnh. V́ vậy, Ngũ Trược nhẹ sẽ là Đồng
Cư Tịnh Độ, Ngũ Trược nặng là Đồng
Cư uế độ. Nay chúng ta cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, nhất tâm
chuyên niệm A Di Đà Phật, đối với A Di
Đà Phật, nếu quư vị thật sự hiểu Lư,
biết niệm, tuy niệm câu A Di Đà Phật, sẽ là “niệm mà vô niệm, vô niệm
mà niệm”. Trong tâm thanh tịnh, một chữ A Di
Đà Phật cũng chẳng nhiễm trước, đó
là thuần Tịnh Độ, thuần tịnh.
Chấp
trước thật sự có A Di Đà Phật, thật sự
có Tây Phương Cực Lạc thế giới, như vậy
th́ có thể văng sanh hay không? Có thể văng sanh. Tâm địa
quư vị nhiễm trước “có A Di Đà Phật”, nhiễm
trước “có y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương”,
sẽ là uế độ trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư.
Uế độ cũng được, vẫn là vô lượng
thọ, chẳng giống như thế giới này của
chúng ta. V́ thế, tịnh rất khó, nhưng so với uế
độ của hết thảy chư Phật, cơi ấy (Phàm
Thánh Đồng Cư độ của Tây Phương Cực
Lạc) vẫn được coi là Tịnh Độ, chúng
ta cũng nên cầu sanh về đó, hăy nên tu học. Chẳng
thể thành tựu cái cực cao th́ nhất định cũng
phải hiểu rơ, ngàn vạn phần chớ nên hiểu lầm!
Điều chấp trước này (chấp có A Di Đà Phật)
tốt lắm, chọn lấy điều tốt lành để
cố chấp, đó chính là chí thiện, chỉ ư chí thiện.
Chúng ta nói theo tầng cấp này, tức là chí thiện, chưa
nói đến tối thiện. Chúng ta chấp tŕ danh hiệu,
chấp trước Tây Phương có Tịnh Độ,
quyết định mong cầu văng sanh, mỗi người
chúng ta đều có thể làm được chuyện này.
Càng tiến lên, cảnh giới càng cao hơn, chưa chắc
chúng ta đă có thể làm được, nhưng chúng ta nhất
định có thể làm được chuyện này. Được
rồi! Chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
Tập 14
Xin
mở kinh bổn, xem hàng thứ hai trong trang bảy
mươi ba.
Đoạn
văn này có bốn câu, nói rơ tiêu chuẩn tịnh uế
trong bốn cơi Tịnh Độ. Câu đầu tiên là phân định
theo sự nặng nhẹ của Ngũ Trược, đó
là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Câu thứ hai nói về cơi
Phương Tiện Hữu Dư, chính là “Tích Thể xảo chuyết”, luận định
sự tịnh uế trong cơi Phương Tiện Hữu
Dư từ chỗ này. Tích (析) là phân tích, Thể (體) là thấu hiểu. Từ phân tích, bèn nhận thức
vạn pháp đều là Không (đó là Tích Không Quán), phương
pháp này hơi vụng về. Có thể lập tức lănh hội
[vạn pháp đều là Không, đó là Thể Không Quán]. Căn
tánh này tương đối nhạy bén hơn. Do đó, Thể
Không Quán là cơi Phương Tiện tịnh, Tích Không Quán là cơi
Phương Tiện uế. Phân chia theo cách như vậy.
Câu thứ ba là nói
về cơi Thật Báo, nói tới Tam Quán. Thứ Đệ
Tam Quán là cơi Thật Báo uế, Nhất Tâm Tam Quán là cơi Thật
Báo tịnh.
Cơi Thường Tịch
Quang [được phân định tịnh uế dựa
trên] Phần Chứng và Cứu Cánh. Phần Chứng: Từ
Viên Giáo Sơ Trụ đến Đẳng Giác Bồ Tát
đều là Tịch Quang uế độ. Cứu Cánh Giác
là đă thành Phật, đoạn sạch một phẩm
sanh tướng vô minh cuối cùng, đó là Tịch Quang Tịnh
Độ. Do đó trong kinh Đại Thừa có nói: “Duy Phật nhất nhân cư Tịnh
Độ” (chỉ có một ḿnh Phật ngự trong cơi Tịnh
Độ). Cơi Tịnh Độ ấy phải là Thường
Tịch Quang Tịnh Độ. Chúng ta phải nên biết những
điều này là nói đại lược.
Đoạn
văn tiếp đó nhằm giảng rơ ràng, tỉ mỉ bốn
cơi Tịnh Độ. Trong hàng thứ nhất và thứ hai
nơi trang bảy mươi bốn, thuyết minh cơi Đồng
Cư. Đoạn kể từ hàng thứ ba trong trang bảy
mươi lăm nói về cơi Phương Tiện Hữu
Dư. Nơi hàng thứ nhất trong trang bảy
mươi bảy, có bốn ḍng nói về cơi Thật Báo
Trang Nghiêm. Trong trang bảy mươi tám, xem từ hàng thứ
ba, hai hàng và một câu giảng về cơi Thường Tịch
Quang. Kinh văn và chú giải trong các đoạn ấy nói
khá cặn kẽ. Đối với bốn loại Tịnh
Độ này, trong khi giảng kinh Di Đà và kinh Vô Lượng
Thọ, do đă từng nói, nên chúng tôi tỉnh lược đoạn
văn này, v́ cũng chẳng quan trọng cho lắm. Bởi
lẽ, thời gian dành cho khóa giảng này khá ngắn, chúng
ta phải chọn lựa những điểm quan trọng
có liên quan đến sự tu hành của chúng ta để nói
nhiều hơn một chút.
Sau đó
là tổng kết, trong trang bảy mươi chín, hàng thứ
tư đếm từ dưới lên: “Cố dĩ tu tâm diệu quán, năng cảm Tịnh
Độ, vi kinh Tông dă” (nên lấy “tu tâm diệu quán có
thể cảm Tịnh Độ” làm Tông của kinh). Chúng
ta lật sang trang tám mươi, xem chú giải. Hàng thứ
nhất trong trang tám mươi, xem từ chữ thứ tư:
“Thích đề Tam Quán, vi bị
hà nhân, vi hà xứ dụng, tu tri chánh vị sanh Đồng
Cư tịnh, cố thuyết Tam Quán” (Dùng Tam Quán để
giải thích tựa đề kinh là nhằm thích ứng với
hạng người nào, dùng vào chỗ nào? Hăy nên biết: Chính
v́ người sẽ sanh vào Đồng Cư Tịnh Độ
mà nói Tam Quán). Đây là mục đích của việc đức
Phật nói kinh và các tổ sư đại đức giảng
giải bộ kinh này, dụng ư hoàn toàn nhắm vào cơi Phàm
Thánh Đồng Cư. V́ sao? V́ nói thật ra, chúng ta thật
sự có phần nơi cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Ba cơi Tịnh
Độ trên, chúng ta chưa chắc đă có phần, nhưng
xác thực là có phần trong cơi [Đồng Cư Tịnh
Độ] này. Tuy thế, chúng ta đă đọc từ kinh
Vô Lượng Thọ, Tây Phương Cực Lạc thế
giới là một thế giới b́nh đẳng. Dẫu là
hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư,
vẫn cũng có thể đạt được sự
thọ dụng của thượng thượng phẩm
trong cơi Thật Báo. Điều này hết sức chẳng
thể nghĩ bàn! Trong hết thảy các kinh, chẳng có cách
nói này. Trong hết thảy các cơi Phật, cũng chưa
nghe đức Phật nói kiểu này. Đó là sự thù thắng
trong thế giới Tây Phương. V́ thế, hết thảy
chư Phật đều khuyên chúng sanh cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Nói cách khác, Tịnh
Độ của mười phương thế giới
chư Phật là bất b́nh đẳng. Thích Ca Mâu Ni Phật
có Tịnh Độ, cơi Thật Báo Trang Nghiêm của Thích Ca
Mâu Ni Phật tuyệt đối chẳng kém Tây
Phương Cực Lạc thế giới, nhưng chúng không
ở cùng một chỗ. Bốn cơi trong thế giới Tây
Phương ở cùng một chỗ, sanh về một là
sanh về hết thảy. Đó là chỗ khiến cho Tịnh
Độ của đức Bổn Sư chẳng bằng
Tịnh Độ của A Di Đà Phật, chứ không phải
là đức Bổn Sư chẳng có Tịnh Độ.
Chúng ta phải biết chân tướng sự thật này, mới
hiểu v́ sao đức Thế Tôn chẳng khuyên chúng ta sanh
về cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chính Ngài, mà khuyên sanh về
cơi Phàm Thánh Đồng Cư của A Di Đà Phật, lư do
ở ngay chỗ này.
V́ vậy,
chúng ta nhất định phải hiểu người nào
có đủ tư cách để tu tập phương pháp tu
hành được giảng trong bộ kinh này? “Vi bị hà nhân?” nghĩa là người
nào có đủ điều kiện và tư cách để
tu. “Vi hà dụng xứ?” nghĩa
là tu học pháp môn này có lợi ích ǵ? Có ưu điểm ǵ?
Kế đó là nói rơ ràng. Đó là điều cần phải
biết, ắt cần phải biết: Chính v́ [những kẻ
sẽ] sanh về cơi Đồng Cư Tịnh Độ mà
nói Tam Quán. Nay chúng ta nương theo phương pháp này để
tu hành, nói thẳng thừng, xác thực là “v́ cơi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ”.
“Tùy kỳ Hoặc đoạn
thiển thâm chi xứ, tự nhiên cảm đắc hữu
dư đẳng tam, phi cẩn vi cảm Thật Báo, Tịch
Quang, thuyết Tam Quán dă” (tùy theo mức độ đoạn
Hoặc cạn hay sâu mà tự nhiên cảm được
ba cơi c̣n lại, chẳng phải chỉ v́ cảm cơi Thật
Báo hay cơi Tịch Quang mà nói Tam Quán). Chính v́ ư Phật như vậy,
nên mới có thể phổ độ chúng sanh trong chín giới,
ngay cả ác đạo, Ngũ Nghịch, Thập Ác, tướng
địa ngục hiện tiền, đều có thể
đắc độ. Đấy là bi tâm triệt để
của Như Lai, hiển thị sự rộng lớn vô
biên của pháp môn này. C̣n như tiến lên ba thứ Tịnh
Độ cao hơn, sẽ tùy thuộc sự tu hành đoạn
Hoặc của chúng ta là sâu hay cạn. Nếu mức độ
đoạn Hoặc của chúng ta sâu, sẽ tự nhiên tiến
cao hơn; mức độ đoạn Hoặc nông cạn,
cũng có thể sanh trong cơi Phương Tiện. Nói tóm lại,
đều có thể văng sanh! Đấy mới là dụng ư
thật sự khi đức Phật nói pháp môn này, tổ sư
đại đức giảng kinh nhắm đến mục
đích này.
Đoạn
kế tiếp nói về Dụng, tức Luận Dụng.
Phần trước nói về sự tu nhân, chỗ này nói về
kết quả. Chúng ta nương theo phương pháp này để
tu hành, sau khi đă tu sẽ có tác dụng ǵ? Có lợi ích ǵ?
Ở đây, sẽ nêu ra lợi ích. “Tứ, luận Dụng. Tông thị tự hành sở
tu chi pháp” (bốn là luận về tác dụng. Tông là pháp
để tự hành, tu tập), tức là phương pháp
để chúng ta tự tu, “Dụng
thị lợi tha sở thi chi pháp” (Dụng là pháp được
lập ra nhằm lợi ích người khác). Dụng chủ
yếu là nói đến lợi ích. Đă có thể lợi
tha, đương nhiên tự lợi. Chính ḿnh chẳng đạt
được lợi ích, làm sao có thể lợi lạc người
khác? V́ thế, nói đơn giản th́ có thể nói Dụng
là sự lợi ích do tu hành. Lợi ích bao gồm Tự Thọ
Dụng và Tha Thọ Dụng. “Tự
hành thú Lư” (tự hành nhằm hướng đến Lư),
chính ḿnh hiểu Lư, chứng quả, “cố minh diệu quán, lợi tha nhiếp cơ”
(v́ thế, nói ra diệu quán nhằm lợi ích người
khác, nhiếp thọ căn cơ). “Lợi tha” là có thể giúp đỡ người
khác. Bản thân chúng ta đạt được lợi ích,
nhất định phải đem lợi ích ấy giới
thiệu với người khác, chớ nên tự tư tự
lợi. V́ tự tư tự lợi chẳng phải là tâm
Đại Thừa, chẳng giống tâm của A Di Đà Phật,
tâm chư Phật, và tâm Bồ Tát. Tâm khác nhau; nói cách khác, chẳng
cùng chí hướng với các Ngài. Chẳng cùng chí hướng,
dẫu có văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
cũng chẳng có cách nào ở chung, v́ sao? Tâm khác nhau, chẳng
thể ở chung. Cách nghĩ, cách nh́n, các làm khác nhau, làm sao
có thể ở chung với nhau cho được? V́ thế,
muốn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới,
ắt phải là đại khái có cách nghĩ, cách nh́n, cách làm
giống như A Di Đà Phật và đại chúng, chí đồng
đạo hợp th́ mới có thể hoan hỷ cùng ở
chung với nhau.
Đức
Phật dạy chúng ta tu Lục Ḥa Kính, Tây Phương Cực
Lạc là một tăng đoàn Lục Ḥa Kính viên măn nhất.
Nếu chúng ta chẳng tu Lục Ḥa Kính, sẽ không thể đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới được.
Dẫu niệm Phật tốt đẹp cách mấy, mỗi
ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, vẫn
chẳng thể văng sanh! Tu Lục Ḥa Kính từ chỗ nào?
Phải tu ngay trong hiện tại, ngàn vạn phần đừng
nghĩ hiện thời ta chẳng tu không sao, đến Tây
Phương Cực Lạc rồi mới tu. Hiện thời
chẳng có cơ sở này, người trong thế giới
Tây Phương sẽ chẳng muốn quư vị. V́ vậy,
Lục Ḥa vô cùng quan trọng. A Di Đà Phật kiến lập
thế giới Tây Phương nhằm dụng ư mong phổ
độ hữu t́nh chúng sanh trong mười pháp giới,
chúng ta phải đồng tâm, đồng nguyện, đồng
đức, đồng hạnh với A Di Đà Phật. Chúng
ta thọ tŕ kinh Vô Lượng Thọ, thọ tŕ năm
kinh một luận của Tịnh Tông cũng nhằm mục
đích ấy.
“Hợp thông chúng thiện, tha nghi
diệu quán, diệc tu giáo tu, tự hành trợ đạo,
khởi phế chúng thiện. Thị cố Tông Dụng,
pháp tất tề đẳng, đản hữu tự hành
hóa tha chi dị nhĩ” (Bao gồm trọn các điều
thiện th́ cũng cần phải dạy tu các pháp diệu
quán đáng nên tu tập khác. Tự hành trợ đạo, há
nên bỏ các điều thiện? V́ thế, đối với
các pháp thuộc Tông và Dụng thảy đều hành trọn,
chỉ là có tự hành và hóa tha sai khác đó thôi). Tự hành là
hóa tha (hóa độ người khác), hóa tha là tự hành; tự
hành và hóa tha là một chuyện. Hóa tha phải có cơ duyên.
Cơ duyên chưa chín muồi th́ chính ḿnh nhất định
phải [tu tập sao cho] bản thân trọn đủ [các
năng lực hóa tha]. Cơ duyên đă chín muồi, nhất
định phải tận tâm tận lực giúp đỡ
người khác. Có thể thấy: Tự hành nhằm chuẩn
bị cho hóa tha, hóa tha chính là tác dụng to lớn của tự
hành được hiện tiền. Thật sự là cùng một
chuyện! Tuy là một chuyện, nhưng xét theo h́nh tượng,
bèn có sai biệt, nhất định phải biết điều
này. Sau khi đă biết, mới biết tự hành chẳng
phải v́ tự tư tự lợi, chẳng phải là Tiểu
Thừa, mà do duyên c̣n chưa chín muồi. Bản thân ta đức
hạnh vẫn chưa đầy đủ, nay đang nỗ
lực tu học. Trong buổi đầu của quá tŕnh tu
học, có nguyện hóa tha, nhưng chưa có hạnh hóa tha,
v́ chưa đủ sức để hành. Do đó, trước
hết phải làm sao chính ḿnh trọn đủ. Chẳng
phải là không cho phép quư vị học rộng, nghe nhiều,
nhưng trong giai đoạn thứ nhất là mong quư vị
trước hết hăy đoạn phiền năo, cho nên phải
buông học rộng nghe nhiều xuống! Khi đoạn phiền
năo, nhất định là chẳng thể học rộng
nghe nhiều. Hễ học rộng nghe nhiều, sẽ chẳng
thể đoạn phiền năo, mà chỉ là tăng trưởng
tà kiến. Nói cách khác, tăng trưởng tà kiến là tăng
trưởng phiền năo. Ta muốn đoạn phiền
năo, mà lại tăng trưởng phiền năo, làm sao có thể
đoạn phiền năo cho được?
V́
thế, giai đoạn tu hành thứ nhất là tu tâm thanh tịnh,
buông xuống vạn duyên, khiến cho cái tâm định, chớ
nên phan duyên. Khi ấy, chuyện tốt chẳng bằng vô
sự, phải tu điều này. Đến khi chính ḿnh
đă thật sự trọn đủ, có năng lực, hễ
có duyên, nhất định phải giúp đỡ người
khác. Chẳng giúp đỡ người khác tức là thiếu
ḷng từ bi. Khi ấy, bèn học rộng nghe nhiều, lợi
ích chúng sanh. V́ lẽ đó, tự hành hóa tha là có giai đoạn,
có thứ tự, nhất định phải biết điều
này. Nếu rối loạn thứ tự, rất đáng tiếc,
lăng phí thời gian và tinh lực, đến cuối cùng, chẳng
thành một chuyện ǵ, rất đáng tiếc!
Tiếp
theo đó là chánh thức giải thích phần Luận Dụng.
“Thứ biện kinh dụng. Dụng
giả, lực dụng dă. Sanh thiện diệt ác, vi kinh lực
dụng” (Kế đến là biện định Dụng
của kinh. Dụng là lực dụng. Sanh thiện, diệt
ác là lực dụng của kinh). “Sao
vân, hành giả ưng tri Thể, Tông, Dụng tam, biệt
minh tam pháp” (lời Sao giảng: “Hành giả nên biết
ba thứ Thể, Tông, Dụng, nói thành ba pháp riêng biệt”).
Nh́n từ h́nh tướng, nói theo tác dụng sẽ là ba
chuyện, nhưng nói theo Thể bèn là một chuyện. “Năi tùng nhất tánh” (nhưng đều
xuất phát từ một tánh), ba chuyện ấy đều
chẳng tách ĺa tự tánh. “Khởi
ư nhị tu. Thể thị Pháp Thân, sở hiển tánh dă,
Tông thị Bát Nhă, năng hiển Trí dă. Dụng thị Giải
Thoát, sở khởi lực dă” (khởi lên hai thứ tu tập
[là Bát Nhă và Giải Thoát]. Thể là Pháp Thân, là cái tánh sẽ được
hiển lộ [qua hai thứ tu tập]. Tông là Bát Nhă, chính là
cái Trí có thể hiển [cái tánh ấy]. Dụng là Giải
Thoát, là lực được dấy lên [từ cái tánh ấy]).
Thể là một, “nhị tu”
là Bát Nhă và Giải Thoát. “Nhị
tuy tu thành, tu tri bổn cụ” (Hai thứ ấy (Bát Nhă và
Giải Thoát) tuy do tu thành, nhưng cần biết là chúng vốn
sẵn có). Thật ra, [những cái được gọi là]
“tu thành” vốn sẵn trọn
đủ trong bổn tánh. Nếu tánh chẳng vốn sẵn
có, dẫu tu, cũng chẳng thể thành tựu. Vô lượng
trí huệ vốn sẵn có trong tự tánh. Chính v́ vốn sẵn
có, nên trong các bộ kinh Đại Thừa, đức Phật
đă nói “viên măn Bồ Đề,
quy vô sở đắc”. [Ư nói]: Quư vị tu thành Phật,
bèn đạt được ǵ? Thứ ǵ cũng chẳng đạt
được! Thứ ǵ cũng chẳng đạt được,
chính là chẳng thiếu khuyết thứ ǵ. Thứ ǵ cũng
chẳng thiếu khuyết v́ tự tánh vốn sẵn trọn
đủ, chẳng phải là từ bên ngoài mà có. Bên ngoài chẳng
có một pháp nào để đạt được. Thật
sự hiểu rơ bên ngoài chẳng có một pháp nào để
có thể đạt được, nên chúng ta mới thật
sự quay về tu nơi tánh, tu nơi tự tánh. Phải
ghi nhớ: Bên ngoài chẳng có một pháp nào để có thể
đạt được!
Nay
mọi người đều quên khuấy chuyện này, đều
cầu pháp ngoài tâm. Cầu pháp ngoài tâm sẽ cầu được
ǵ? Những ǵ cầu được toàn là của người
khác. Ví như học giảng kinh, chẳng tu tự tánh, chẳng
tu sao cho cái tâm của chính ḿnh thanh tịnh, cứ đi t́m
chú giải của người khác. Xem kinh điển của
Thích Ca Mâu Ni Phật để nghiên cứu, [vậy th́] giảng
cả đời vẫn là giảng những chuyện của
Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng phải là của chính ḿnh. Nương
theo chú giải của cổ nhân th́ toàn bộ đều là
những thứ thuộc về cổ nhân, chẳng có mảy
may ǵ liên quan đến tự tánh, đó là sai lầm. Người
thật sự biết tu, tuy triển khai các kinh do Thích Ca
Mâu Ni Phật đă giảng, nhưng kinh điển hễ
triển khai bèn tương ứng với tự tánh của
chính ḿnh. Nhờ vào kinh bổn của Phật để triển
khai Quán Vô Lượng Thọ Kinh trong tự tánh của ta,
dẫn khởi kinh trong tự tánh của ta. Ta giảng là
giảng Quán Vô Lượng Thọ Kinh trong tự tánh của
ta, chẳng phải là Quán Vô Lượng Thọ Kinh của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Tự tánh vốn sẵn có kinh điển
ấy, giống hệt như kinh điển do Thích Ca Mâu
Ni Phật đă giảng, chẳng hai, chẳng khác. Phải
tu theo cách như vậy! Đó là đức Phật dạy
chúng ta ư nghĩa chân chánh của Phật!
Giống
như nến, nến thắp sáng. Bản thân ta là một
ngọn nến, ta nhờ vào ánh sáng của nó để thắp
sáng [chính ḿnh], đó là đúng. Nhờ vào ánh sáng của nó để
thắp sáng, bản thân ta tỏa sáng, quang minh tỏa ra chẳng
khác quang minh của nến. Tuyệt đối chẳng phải
là ta đi theo ánh sáng của nó, vĩnh viễn được
nó chiếu sáng, chính ḿnh chẳng thể tỏa ánh sáng. [Nếu
chấp nhận bị chiếu sáng vĩnh viễn như vậy]
th́ sai mất rồi!
Chúng
ta lại xem đoạn kế tiếp, phần Sớ trong
trang tám mươi mốt, hàng thứ năm từ dưới
đếm lên: “Diệt ác, cố
ngôn Lực” (do diệt ác, nên nói là Lực), v́ kinh có tác dụng
giúp chúng ta đoạn hết thảy ác. Dựa theo ư nghĩa
này, chúng ta nói kinh có sức mạnh, có sức tác dụng. “Sanh thiện, cố ngôn Dụng”
(do sanh điều thiện, nên nói là Dụng), nó có thể hiển
phát Tánh Đức trong bản tánh, đó là chỗ hữu dụng.
“Diệt ác, cố ngôn Công” (do
diệt ác, nên nói là Công), ở đây cũng nêu ra định
nghĩa của hai chữ Công Đức rất rơ ràng. Công
là ǵ? Công là diệt ác. Đức là ǵ? Đức là sanh thiện.
Hiện thời có rất nhiều người hiểu lầm
hai chữ Công Đức, ngỡ Công Đức là ǵ? Đến
chùa miếu, quyên tặng một chút tiền, tức là chúng
ta đă làm rất nhiều công đức! Dẫu quư vị
quyên tặng tiền bạc nhiều đến mấy, làm
chuyện tốt nhiều đến mấy, ác niệm của
quư vị có đoạn sạch hay không? Tánh Đức có hiện
tiền hay không? Nếu làm rất nhiều chuyện tốt,
mà ác niệm chẳng đoạn hết, Tánh Đức chẳng
hiện tiền, một tí công đức cũng chẳng
có!
Khi Đạt Ma Tổ
Sư vừa đến Trung Quốc, nhằm đúng lúc Lương
Vũ Đế đang cầm quyền. Lương Vũ
Đế là đại hộ pháp lừng danh của Phật
môn trong lịch sử Trung Quốc. Ông ta dựa vào sự tôn
quư của ngôi đế vương, dùng tài lực của
quốc gia để kiến tạo bốn trăm tám
mươi ngôi chùa, độ mấy chục vạn người
xuất gia, ông ta cúng dường. Sau khi Đạt Ma Tổ
Sư đến [Trung Quốc], Lương Vũ Đế
đến yết kiến, hướng về Đạt
Ma Tổ Sư thỉnh giáo: “Công đức của trẫm
có lớn hay chăng?” Đạt Ma Tổ Sư nói lời
thật thà: “Trọn chẳng có công đức”. Nói theo định
nghĩa công đức ở đây, nhà vua chẳng có công
đức. Lương Vũ Đế bực bội, chẳng
hộ tŕ Tổ, nên Tổ phải đến chùa Thiếu
Lâm ngồi nh́n vách chín năm, chờ đợi Huệ Khả.
Nói thật ra, những ǵ Lương Vũ Đế đă
làm là ǵ? Là phước đức. Nếu vua nói “phước
đức của ta có lớn hay không?” [Tổ sẽ trả
lời]: Phước đức ấy rất lớn, chứ
công đức không có. Công đức là đoạn phiền
năo, hiển lộ bản tánh, đó là công đức.
Do vậy,
chư vị phải hiểu, tŕ giới có công đức
hay không? Nếu tŕ giới đắc Định, giới ấy
là công đức. Nếu tŕ giới chẳng thể đắc
Định, tŕ giới sẽ là phước đức. Nói
thật ra, tôi nói lời này c̣n phạm khuyết điểm,
nhất định là phải khai Huệ th́ Định mới
là công đức. Nếu có Định mà chẳng khai Huệ,
th́ Định ấy vẫn là phước đức. Nếu
Định đă là phước đức, đương
nhiên Giới là phước đức. Bởi lẽ, do Giới
sanh Định, do Định khai Huệ, nhất định
phải khai Huệ th́ Giới và Định ở phía
trước mới là công đức. Nếu Huệ chẳng
khai, Giới và Định đều là phước đức.
Đắc Định bèn sanh trong Sắc Giới Thiên hoặc
Vô Sắc Giới Thiên, chẳng thể thoát khỏi tam giới.
Chẳng thoát khỏi tam giới, chẳng thể coi là có công
đức. Chúng ta phải hiểu rơ ư nghĩa được
bao hàm trong danh từ này. V́ thế, tŕ giới như thế
nào th́ mới có thể đắc Định? Tŕ giới nếu
chẳng quản người khác [có tŕ giới hay không] liền
đắc Định. Chính ḿnh tŕ giới rất thanh tịnh,
nhưng thấy kẻ này phá giới, kẻ nọ phạm
giới, trong tâm bực bội. Quư vị nghĩ xem, làm sao người
ấy đắc Định cho được? Tuy giới
luật của chính người ấy rất thanh tịnh,
nhưng thường sanh phiền năo. Thấy người khác
phá giới, trong tâm chẳng thoải mái, muốn chửi kẻ
khác, muốn phê b́nh kẻ khác, trong tâm nẩy sanh kiêu
căng, ngă mạn: “Ta giới luật tinh nghiêm, các ngươi
chẳng bằng ta”. Kẻ ấy noi theo khuôn mẫu ấy!
Căn
bệnh này từ xưa tới nay đều có, tổ sư
đại đức c̣n chưa tránh được! Chúng
ta xem truyện kư, quư vị thấy Thỉ Tổ của Luật
Tông Trung Quốc là Chung Nam Sơn Đạo Tuyên luật
sư sống vào đời Đường, Ngài c̣n phạm
phải bệnh ấy, Thỉ Tổ Luật Tông đấy
nhé! Khi Khuy Cơ đại sư đến bái phỏng, Khuy
Cơ là pháp sư Đại Thừa, chẳng coi trọng
tiểu tiết, rất tùy tiện, rất qua loa, thoạt
nh́n sẽ tưởng Ngài giới luật chẳng trang
nghiêm. Ngài Đạo Tuyên giới luật tinh nghiêm, cảm
động thiên thần đến cúng dường. Giới
luật tinh nghiêm khiến thiên thần bội phục, giữa
trưa mỗi ngày, Ngài ăn một bữa, cơm do vị
trời ấy đến cúng dường, mỗi ngày cúng dường
cho Ngài. Khi pháp sư Khuy Cơ đến thăm, ngài Đạo
Tuyên coi thường pháp sư Khuy Cơ, nghĩ pháp sư Khuy
Cơ học vấn rất khá, giảng kinh cũng hay lắm,
nhưng chẳng tuân thủ giới luật, nên xem thường!
Khi pháp sư Khuy Cơ đến núi, ngài Đạo Tuyên cảm
thấy có thể khiến cho pháp sư Khuy Cơ thấy rơ:
“Thiên thần cúng dường ta, c̣n ông chẳng có. Giới
luật của ta cao hơn ông”. Kết quả là hôm đó,
vị trời ấy chẳng đến dâng cúng, Sư phải
nhịn đói suốt một ngày. Đến ngày hôm sau,
Khuy Cơ đại sư đă rời đi, ngày hôm ấy
vị trời đó mới đến cúng dường. Sư
liền hỏi vị ấy: “V́ sao hôm qua, ông chẳng đến
cúng dường?” Vị trời ấy liền nói: “Hôm qua có
bậc Đại Thừa Bồ Tát ở trên núi, thần hộ
pháp bảo vệ khắp núi, tôi chẳng vào được!”
Pháp sư Đạo Tuyên nghe nói, khắp người tươm
mồ hôi lạnh, hổ thẹn! Mới biết chính ḿnh
kiêu căng, ngă mạn, thật sự cầu sám hối.
Do vậy, Đại Thừa và Tiểu Thừa khác nhau. Tiểu Thừa chú trọng sự tướng,
Đại Thừa coi trọng tâm thanh tịnh. Tuy bề
ngoài dường như chẳng tuân thủ giới luật,
nhưng tâm địa thanh tịnh hơn quư vị. Quư vị
giới luật rất đoan nghiêm, nhưng tâm địa
chẳng thanh tịnh như người ta! V́ thế, trong
pháp Đại Thừa, giới luật Đại Thừa
luận tâm, chẳng luận sự. Giới Đại Thừa
là giới nơi tâm, chẳng nhấn mạnh sự tướng.
Giới luật Tiểu Thừa luận sự, chẳng luận
tâm. Giới luật Tiểu Thừa chú trọng bề
ngoài, tâm địa thanh tịnh hay chẳng thanh tịnh, không
bàn đến! V́ thế, kết tội cũng giống như
thế. Ví như nói đến sát sanh, trong giới Tiểu
Thừa, sát hại thân mạng chúng sanh là phá giới; trong tâm
nghĩ giết, nhưng trọn chẳng giết th́ chẳng
phá giới. Họ luận sự, chẳng luận tâm, giống
như pháp luật hiện thời xử án, hoàn toàn phải
có chứng cứ sự thật, cách nghĩ trong tâm như
thế nào chẳng quan trọng, chẳng coi đó là chuyện
phạm pháp. Giới luật Đại Thừa khác hẳn.
Giới luật Đại Thừa luận tâm, chẳng luận
sự. Trong tâm dấy lên ư niệm, ta muốn giết kẻ
khác, tức là phá giới! Trên sự thật, có giết hay
không? Chưa giết, tuy chưa giết, đă là phá giới.
Nếu nói Đại Thừa Bồ Tát giết một người,
nhưng trong tâm chẳng động một niệm, trọn
chẳng nghĩ đến chuyện giết người
đó, tức là chẳng phạm pháp, chẳng phá giới. Họ
luận tâm, chẳng luận sự. Giới Tiểu Thừa
luận sự, chẳng luận tâm, khác nhau! V́ thế, đoạn
ác sanh thiện trong Đại Thừa hoàn toàn nói theo tâm tánh,
chẳng giống Tiểu Thừa. Tiểu Thừa nói theo sự
tướng.
V́ thế,
chúng ta cũng phải phân biệt rơ ràng công đức và phước
đức. Có cần phải tu phước đức hay
không? Phải tu, chẳng thể nào không có phước! Không
có phước th́ làm chuyện ǵ cũng đều gặp khó
khăn, có phước sẽ làm làm việc thuận tiện.
Như chúng tôi, tôi chẳng có phước, trong đời quá
khứ tu huệ, chẳng tu phước, nên đời này
rất khổ, sống cuộc đời rất khổ sở,
duyên giúp đỡ chúng sanh cũng chẳng trọn đủ.
Xác thực là phải phước huệ song tu.
Chúng
ta xem đoạn văn kế tiếp: “Thử giai thiên cử, cụ luận tất bị”
(Những điều này đều là nêu riêng một điều,
phải nói trọn hết th́ mới là đầy đủ).
Ở đây nói tới lực, dụng, công, đức, mỗi
chữ đều là nói tách rời, đó gọi là “thiên cử”, nhưng xét theo tác
dụng th́ lực, dụng, công, đức đều viên
măn. “Khổ thị ác quả,
tham, khuể, si thị ác nhân, ác nhân bất trừ, quả
bất đắc tạ” (Khổ là ác quả, tham, giận,
si là ác nhân. Chẳng trừ ác nhân th́ quả cậy vào đâu
[để sanh khởi]?) Khổ là lục đạo luân hồi,
đó là chân khổ. Cái nhân của khổ là ǵ? Là tham, sân, si,
“khuể” (恚) là sân khuể.
Tham, sân, si là khổ nhân. Khổ nhân rất nhiều, nhưng
ba điều này quan trọng nhất. Nếu nói chi tiết,
sau tham, sân, si, c̣n có ngạo mạn và hoài nghi thánh giáo, chẳng
thể tin nhận giáo huấn của chư Phật, Bồ
Tát, tổ sư, đại đức, đó là Nghi. Lại
c̣n có cách nghĩ sai lầm, cách nh́n sai lầm, đó là ác kiến,
càng nhiều hơn nữa! Những thứ ấy đều
là khổ nhân. Nếu chẳng dẹp trừ khổ nhân, quư
vị mong ĺa khổ, được vui, chắc chắn sẽ
không đạt được. “Thị
cố thử kinh năng linh Ngũ Nghịch tội diệt,
văng sanh Tịnh Độ, tức thị thử kinh chi
đại lực dụng dă” (V́ vậy, kinh này có thể
diệt tội Ngũ Nghịch, văng sanh Tịnh Độ.
Đấy chính là lực dụng to lớn của kinh này). Bộ
kinh này có thể khiến cho [kẻ phạm tội] Ngũ
Nghịch, Ngũ Nghịch khổ nhất, khổ đến
tột bậc, đều có thể ĺa khổ, được
vui; có thể thấy lực dụng và công đức của
kinh này thật sự là thù thắng khôn sánh. Sự thù thắng
ấy rốt ráo là ǵ? Chính là lư luận và phương pháp
được nói trong kinh này. Nếu chúng ta chẳng hiểu
rơ lư luận, sẽ chẳng thể đoạn hoài nghi. Nếu
chúng ta chẳng hiểu rơ phương pháp, sẽ chẳng
biết cách tu như thế nào! Kinh này bày ra trước mặt,
tuy là thù thắng bậc nhất, đối với chúng ta
vẫn chẳng khởi lên tác dụng ǵ! V́ vậy, phải
thật sự hiểu đạo lư và phương pháp tu hành
trong kinh này!
V́
thời gian của khóa giảng đúng là ngắn ngủi,
phải nói thật sự: Bản này là bản đại lược,
chẳng phải là bản hoàn bị. Bản hoàn bị tặng
cho quư vị được đóng b́a cứng dầy cộp
như vậy, cả một bộ sách to. Bộ sách to ấy
mới là bản hoàn toàn, bản này là tiết lục từ
bản ấy; nhưng quư vị thấy bản ấy dầy
như vậy, nếu chúng tôi giảng cặn kẽ một
lượt, mỗi ngày giảng một lần, giống như
thông thường chúng tôi giảng kinh một tiếng rưỡi,
tối thiểu phải giảng một năm, không mất
một năm sẽ chẳng giảng được. Nay
chúng tôi giảng Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, quư vị
thấy bộ sách ấy, giảng từ đầu đến
cuối một lượt phải giảng hơn bốn
trăm lần, mỗi lần giảng một tiếng rưỡi,
giảng hơn một năm, giảng mỗi ngày đấy
nhé! Tôi không có đủ duyên như vậy, phải thường
đi ra ngoài, một năm chỉ có thể ở tại Đài
Loan bốn tháng, nên bộ kinh này phải giảng rất
nhiều năm mới có thể giảng viên măn. Hy vọng
mọi người thật sự có thể phát tâm, học
kỹ càng, học đôi ba năm thành công, quư vị có thể
thay tôi đi giảng ở ngoại quốc. Tôi chẳng cần
đi ra ngoài, ngồi ở nơi đây, một năm giảng
xong một bộ kinh lớn như vậy, lại c̣n có thể
giảng mấy bộ, sẽ thật sự hữu ích cho
các vị đồng tu, có lợi ích chân thật.
Nói
thật ra, học giảng kinh không cần lập Phật Học
Viện. Từ xưa tới nay, tại Trung Quốc chưa
hề nghe nói lập Phật Học Viện. Từ lịch
sử Trung Quốc, chúng ta chẳng tra cứu thấy [chuyện
ấy], trong ngữ lục và sơn chí của các tông cũng
chẳng thấy. Huấn luyện nhân tài như thế nào?
Huấn luyện bằng giảng tiểu ṭa, bằng lối
phức giảng. Ví như buổi tối tôi giảng kinh
th́ người thật sự học giảng kinh lúc tôi giảng
vào buổi tối, sẽ lắng nghe chăm chú. Tới sáng
hôm sau, quư vị giảng lặp lại một lượt,
học như vậy sẽ thành công. Trong quá khứ, tôi theo
học với thầy Lư ở Đài Trung, cũng là giảng
tiểu ṭa, phức giảng. Khi đó, thầy Lư giảng
kinh Lăng Nghiêm, thầy giảng một lần, tôi cũng
giảng từ đầu đến cuối một lần.
Khi thầy giảng là giảng trong giảng đường
cho mọi người nghe, lúc tôi giảng là giảng cho sáu
bạn học nghe. Lớp học của tôi chỉ có bảy
người, kể cả tôi trong số đó, tôi giảng,
sáu người kia nghe, nhưng cả sáu người đều
học giảng kinh, đều là người trong nghề,
nên sau khi tôi giảng xong, sáu người bọn họ sẽ
phê b́nh, chỉ dạy tôi. Cắt gọt, mài giũa lẫn
nhau như vậy th́ mới có thể học thành công. V́ thế,
chẳng phải là xuất thân từ Phật Học Viện.
Thật
sự học giảng kinh, nhất định phải học
tiểu ṭa, học tiểu ṭa là học giảng. Các pháp
sư thuộc thế hệ trước đều theo phương
pháp này. Pháp sư Diễn Bồi xuất thân từ lối
học tiểu ṭa chùa Quán Tông, chính lăo nhân gia kể với
tôi. Ngài cũng xuất gia từ lúc rất bé, theo học với
lăo pháp sư Đế Nhàn, được cụ Đế
Nhàn đặt vững cơ sở, cũng là giảng tiểu
ṭa, bắt Ngài phức giảng. Sau này, khi pháp sư Đế
Nhàn viên tịch, Ngài theo học với pháp sư Thái Hư.
Theo học với pháp sư Thái Hư th́ quư vị thấy pháp
sư Thái Hư giảng rất nhiều thứ. Trong Thái Hư
Pháp Sư Toàn Thư, có chẳng ít bài giảng do pháp sư Diễn
Bồi ghi chép, thay đại sư chỉnh lư bút kư. Xuất
thân như vậy th́ mới là thiết thực, kiên cố.
Trong đoạn chú giải này, cũng chú thích không ít, chúng
ta đọc một lần là được rồi. Quư vị
xem trang tám mươi hai, đọc từ câu cuối cùng
trong hàng thứ nhất.
“Tu tri diệt ác, cực ư A Tỳ”
(Cần biết diệt ác th́ tột bậc là A Tỳ).
A Tỳ là A Tỳ địa ngục. Đây nói tới phương
diện ác, ác tới tột bậc. Tội nghiệp như
thế nào sẽ đọa trong A Tỳ địa ngục?
Tạo tội nghiệp Ngũ Nghịch! Ngũ Nghịch
là sát cha, giết mẹ. Cha mẹ sanh thành ta, ân nuôi dưỡng
quá to, suốt đời báo đáp chẳng hết. Tội giết cha mẹ vô cùng to lớn, phải đọa A Tỳ địa
ngục. A Tỳ (Avīci) là tiếng Phạn phiên âm, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vô Gián địa ngục, tức là tội nhân
chịu khổ chẳng gián đoạn, là cơi địa ngục
như vậy. “Sanh thiện,
chí ư Diệu Giác” (sanh thiện th́ đạt đến
Diệu Giác). Trong sanh thiện th́ tối thiện là thành Phật,
Diệu Giác là thành Phật, c̣n cao hơn Đẳng Giác. Đẳng
Giác Bồ Tát c̣n có một phẩm sanh tướng vô minh chưa
đoạn. Nói cách khác, điều thiện của Ngài c̣n
chưa đạt đến tột đỉnh. Thành Phật
th́ vô minh phiền năo thảy đều đoạn sạch
sành sanh, sanh thiện đạt tới tột bậc. “Phương thị Viên kinh lực
dụng công đức” (mới là lực dụng và công
đức của kinh Viên Giáo), lực dụng và công đức
của kinh điển Đại Thừa Viên Giáo mới đạt
đến viên măn rốt ráo. Đây là nói các kinh Đại
Thừa, như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Viên Giác, Lăng Nghiêm, đều
thuộc loại này. Tịnh Độ Tam Kinh cũng là Đại
Thừa Viên Giáo, đều có đại lực dụng như
vậy.
Đoạn
kế tiếp dạy chúng ta: Diệt ác th́ diệt ác nhân, chứ
diệt ác quả th́ diệt từ quả sẽ chẳng
có tác dụng, chẳng trừ quả được, phải
thực hiện từ nhân. Nhân là ǵ? Nhân nói theo tổng
cương lănh sẽ là vọng tưởng, chấp
trước. Nếu nói thô thiển một chút, sẽ là tư
tưởng và kiến giải sai lầm, cùng với các phiền
năo tham, sân, si, mạn. Nếu chư vị thật sự hiểu
đạo lư này, chúng ta đọc sách sẽ chẳng thể
tùy tiện đọc. Nghe người khác giảng này nọ,
cũng chẳng thể tùy tiện nghe, do nguyên nhân nào? Sách ấy
có phải là một quyển sách tốt hay không? Sách ấy
giúp chúng ta đoạn phiền năo, hay là vẫn tăng
trưởng phiền năo của chúng ta? Phải biết điều
này! Nếu sách ấy có thể giúp cho tâm địa chúng ta
thanh tịnh; đó là sách tốt. Sách ấy khiến cho chúng
ta dấy lên vọng tưởng, sách ấy chẳng phải
là sách tốt. Trước đây, trong thời đại
đế vương, hiện thời có rất nhiều người
phản đối đế chế, nói thời đại
đế vương chẳng tốt như thế này, như
thế nọ. Nói thật ra, tôi nghĩ thời đại đế
vương là tốt đẹp. Tôi giảng kinh ở Tân
Gia Ba, có một hôm pháp sư Diễn Bồi và tôi tán gẫu.
Sư nói: “Này pháp sư! Ông tán thành hoàng đế, hay tán
thành dân chủ?” Tôi nói: “Tôi tán thành hoàng đế. Cố nhiên
dân chủ có chỗ rất tốt, nhưng so sánh giữa đôi
bên, dân chủ có nhiều chỗ không tốt, chỗ tốt
đẹp ít ỏi. Chế độ đế vương
có nhiều điều tốt đẹp, chỗ không tốt
đẹp ít”.
Ví dụ
như nói đến chuyện ô nhiễm về
phương diện tư tưởng. Trước đây,
trong thời đại đế vương chuyên chế,
chẳng có tự do ngôn luận và tự do xuất bản,
đó là sự thật. Quư vị xuất bản một quyển
sách, phải được quốc gia thẩm tra, [xét thấy]
ngôn luận và tư tưởng của quư vị trong ấy
chẳng có hại đối với quốc dân, không đến
nỗi dẫn dắt họ theo tà tư tà kiến th́ mới
cho phép quư vị lưu thông, cho quư vị xuất bản. Hiện
thời dễ lắm, hết thảy đều tự do
cởi mở. Hễ tự do cởi mở th́ bất cứ
tà tri tà kiến, những thứ kỳ quái cỡ nào cũng
đều xổ lồng! Chúng ta không có công phu định
lực, chẳng có trí huệ, hễ tiếp xúc đều
tưởng đó là thật. V́ thế, tư tưởng
và kiến giải trong thế gian này bị ô nhiễm, c̣n
nghiêm trọng hơn sự ô nhiễm trên địa cầu.
Thời đại đế vương chẳng tự
do, nhưng chúng ta c̣n có thể sống đời thái b́nh.
Hiện thời tự do, chẳng sống được
một ngày thái b́nh nào! Các vị nghĩ xem, thời đại
nào tốt đẹp hơn? V́ lẽ đó, tôi vẫn tán
thành hoàng đế tốt đẹp hơn. A! Thời gian
đă hết rồi, chúng ta giảng tới chỗ này!
Tập
15
Xin mở kinh bổn, chúng ta xem trang tám
mươi hai, hàng thứ tư từ dưới đếm
lên, xem từ câu cuối cùng.
“Vị ác
chi trọng giả, vô quá Ngũ Nghịch, Ngũ Nghịch
thị nghiệp, tùng ư thượng phẩm phiền
năo nhi khởi” (ư nói: Điều
ác không ǵ nặng hơn Ngũ Nghịch, Ngũ Nghịch là
nghiệp khởi từ phiền năo thượng phẩm).
“Thượng phẩm” là phiền
năo rất nặng, là phiền năo hết sức thô nặng,
“chiêu Vô Gián khổ” (chuốc
lấy nỗi khổ Vô Gián). “Vô
Gián” là Vô Gián địa ngục, trong phần trước
gọi nó là A Tỳ địa ngục.
“Thử
kinh đại lực, năng diệt thử đẳng
cực trọng tam chướng, tức sanh Tịnh
Độ. Nhược chướng tánh phi tam đức,
hà năng Vô Gián chuyển vi Cực Lạc? Tùng cực
độn căn, thả luận thập niệm sanh
tối hạ phẩm. Nhược tùng lợi căn, phi
bất năng sanh thượng chi bát phẩm. Dĩ kỳ
Ngũ Nghịch, Thể thị Tịch Quang, cố khả
ư thử tịnh tứ Phật độ” (Kinh này có sức to lớn, có thể
diệt ba thứ chướng cực nặng này, liền
sanh về Tịnh Độ. Nếu tánh của các chướng
ấy chẳng phải là Tam Đức, làm sao có thể
chuyển Vô Gián thành Cực Lạc? Xét theo căn cơ cực
độn, lại c̣n nói mười niệm sẽ sanh
trong phẩm thấp nhất. Nếu xét theo hàng lợi căn,
không ai chẳng thể sanh trong tám phẩm thượng. Ấy
là v́ Thể của Ngũ Nghịch là Tịch Quang, nên có thể
sanh trong bốn cơi Phật thanh tịnh ấy). Đoạn
này rất khẩn yếu! Trong [khi giảng] Đại
Kinh, chúng tôi đă từng nói: Phẩm vị văng sanh cao hay
thấp do gặp duyên khác nhau, đoạn này có thể chứng
minh cho chúng tôi! Nếu chúng ta gặp duyên thù thắng, không chỉ có
thể tiêu trừ tội cực nặng, mà c̣n có thể tăng
cao phẩm vị.
Duyên
có hai loại:
1) Một loại
là thiện hữu. Kinh gọi [thiện hữu] là “thiện
tri thức”, chúng ta thường gọi là “thầy”. Vị
thầy ấy có phải là thật sự hữu tu, hữu
chứng hay không? Nói cách khác, vị ấy có thật sự hiểu
rơ triệt để Tịnh Độ hay không, giúp chúng ta
đoạn nghi sanh tín. Đây là một duyên rất quan trọng.
2) Một duyên khác
là hoàn cảnh tu học. Trong hoàn cảnh, quan trọng nhất
là đồng tham đạo hữu. Một người thành
tựu th́ một là nhờ thầy, hai là bạn. Có thầy
tốt, mà chẳng có đồng tham đạo hữu tốt,
chẳng thành tựu dễ dàng. V́ thầy chẳng thể
bầu bạn cộng tu cùng quư vị, người sẽ bầu
bạn cộng tu với chúng ta chính là bạn học. V́ thế,
phải có đồng học thật sự tốt đẹp,
có thể thường cùng ta trau giồi, rèn giũa.
Hai điều này
hễ thiếu một sẽ chẳng dễ dàng! V́ thế,
gặp được thầy tốt, lại c̣n phải có
bạn học tốt. Tiếp đó là hoàn cảnh tu hành, điều
này cũng rất quan trọng, nhưng quan trọng nhất
là hai điều kiện trên đây. V́ thế, có thầy tốt,
lại có đồng tham đạo hữu tốt, lại
c̣n có hoàn cảnh tu học tốt, đạo nghiệp tất
nhiên tăng trưởng.
Người
học Phật, thời cổ nói là “tham học”. Thật ra, tham học là đi t́m ba điều
kiện ấy. Đến khắp nơi xem xét, nghe nhiều,
đương nhiên vẫn phải là [t́m ṭi] một nơi
phù hợp với căn tánh của chính ḿnh, phù hợp với
chí thú của chính ḿnh. Có điều kiện tốt đẹp
như thế, đặc biệt là trọn đủ điều
kiện, người ấy sẽ ở lại nơi đó,
suốt đời cũng chẳng rời khỏi. Trong Cao
Tăng Truyện, chúng ta thường thấy chuyện này,
cả ba điều kiện ấy thảy đều trọn
đủ, [người tham học sẽ trụ măi ở
nơi đó]. Trong xă hội hiện tiền, thường được
gọi là xă hội công lợi[4]. Nói
thật thà, xă hội xưa kia thuộc loại xă hội đạo
nghĩa. Làm cường đạo thổ phỉ cũng
có đạo nghĩa, trộm cướp cũng có đạo
nghĩa! Hiện thời là xă hội công lợi, xă hội
công lợi quá đáng sợ! Chẳng có đạo nghĩa!
Nói cách khác, rất khó t́m được cả ba điều
kiện ấy. Gặp được thầy tốt, chưa
chắc đă có đồng học tốt. Có đồng tham
đạo hữu tốt đẹp, chẳng có thầy tốt
chỉ dẫn, hoàn cảnh tu học càng khó hơn nữa!
Trong
t́nh h́nh ấy, nói thật thà, học các pháp môn khác hết sức
khó khăn, chỉ có mỗi cách thật thà niệm Phật
là c̣n được, chúng ta c̣n có thể đạt được
mục tiêu này, thật sự thật thà niệm Phật.
Niệm Phật là sám hối nghiệp chướng, chúng ta
biết [chính ḿnh] tội nghiệp rất nặng. Nay kể
như đă hiểu tội nghiệp là ǵ? Là khởi tâm
động niệm, tà tri tà kiến, tham, sân, si, mạn, đó
là nghiệp chướng. “Nghiệp”
là tạo tác, là động tác. “Chướng”
là chướng ngại bản tánh, chướng ngại tâm
thanh tịnh, khiến cho công phu niệm Phật của chúng
ta chẳng thể thành phiến, chẳng đạt được
nhất tâm bất loạn, Chướng chính là ngăn chướng
điều ấy! Có thể thật thà niệm Phật, hễ
ư niệm vừa dấy lên, bèn dùng một câu Phật hiệu
để thay thế. Niệm Phật hiệu rất siêng
năng, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, chẳng
hoài nghi, xác thực là phương pháp tiêu nghiệp chướng
thù thắng nhất. Kinh luận có dạy chúng ta: Nghiệp
chướng cực nặng, tất cả hết thảy
phương pháp đều chẳng tiêu th́ phương pháp
niệm Phật có thể tiêu. Từ đoạn này, chúng ta
lại thấy, tội nghiệp cực nặng vẫn có
thể văng sanh thế giới Tây Phương.
Tội
nghiệp cực nặng, lại là cực độn căn,
mà vẫn c̣n có thể sanh trong hạ phẩm, khó có thay! Tội
nghiệp cực nặng, nếu là lợi căn, c̣n có thể
sanh trong tám phẩm trên. Trong tám phẩm trên, cao nhất là
thượng phẩm thượng sanh. Nghe điều này chúng
ta thấy quái lạ, tạo tội nghiệp cực nặng
mà c̣n có thể thượng phẩm thượng sanh ư?
Có thể chứ! Trong kinh này có nói vua A Xà Thế tạo trọng
tội Ngũ Nghịch, giết cha, hại mẹ, phá ḥa hợp
Tăng, phá hoại Tăng đoàn, đó là tội nghiệp
đọa địa ngục A Tỳ. Trong Đại Tạng
Kinh có bộ A Xà Thế Vương Kinh, đức Phật
đặc biệt nói về vị vua này. Nhà vua đến
khi lâm chung mới giác ngộ, mới sám hối. Vua vốn
phải đọa vào địa ngục, nhưng v́ căn
cơ rất bén nhạy, sức mạnh sám hối rất
lớn, nên văng sanh thế giới Tây Phương trong phẩm
vị thượng phẩm trung sanh, đúng là chẳng thể
nghĩ bàn! V́ thế, chúng ta thường thấy có những
kẻ tội nghiệp rất nặng, cũng chớ nên coi
rẻ họ! Nói không chừng, họ một niệm sám hối,
phẩm vị văng sanh c̣n cao hơn chúng ta. Chúng ta niệm Phật
suốt đời, thậm chí phẩm vị c̣n chẳng
cao như họ! Như vậy th́ chúng ta mới biết người
văng sanh có hai loại:
1) Một loại
là b́nh thường niệm Phật, tích công lũy đức,
loại này là văng sanh thông thường.
2) Loại kia là sám
tội văng sanh, tức là sám hối văng sanh, khi lâm chung mới
hối hận, mới triệt để ăn năn hối
lỗi, có sức mạnh rất lớn.
Có hai loại như
vậy, hai loại văng sanh lớn như vậy.
Căn
cứ lư luận là bất luận thiện, ác, tội, phước,
hễ nói theo thể tánh, sẽ đều là Chân Như bản
tánh. V́ vậy, công đức lễ sám lại chẳng thể
nghĩ bàn.
Chúng
tôi giới thiệu phần Luận Dụng đến đây.
Tiếp theo là giáo tướng, tức phần Phán Giáo Tướng.
Hàng thứ hai trong trang tám mươi ba, đoạn thứ
năm là Phán Giáo Tướng. “Thượng
chi tứ chương” (trong bốn chương trước),
những phần Thích Danh, Biện Thể, Minh Tông, Luận
Dụng, bốn chương trên đây, “giai thị ngôn giáo” (đều là dạy bằng lời
nói), đều là Giáo. “Vị
thuyên danh giáo, thuyên Thể, thuyên Tông, thuyên Dụng chi giáo dă”
(đều là những lời dạy giảng về
danh giáo, tức là giảng về Thể, giảng về Tông,
giảng về Dụng), đây là nói đại lược
[nội dung] của bốn chương trước. “Nhược dĩ kỳ tướng
nhi phân biệt chi, biệt linh lăm giả, quán chi hiển liễu.
Cố ước ngũ thời, nhị tạng, Đốn,
Tiệm, dĩ thị kỳ tướng” (nếu dùng tướng
để phân biệt, ḥng khiến cho người xem hễ
nh́n vào sẽ hiểu rơ. V́ thế, ước theo năm thời,
hai tạng, Đốn, Tiệm, để tŕnh bày tướng
của kinh này). Ngài giảng giải như vậy, kẻ sơ
học như chúng ta chẳng dễ ǵ hiểu rơ. Nếu chúng
ta nói theo cách hiện thời: Giáo giống như sách giáo
khoa được sử dụng trong nhà trường hiện
thời, mọi người sẽ dễ hiểu. Kinh điển
là sách giáo khoa. Trong phần trước đă giảng về
danh giáo, tức là nói tới Danh, Thể, Tông, Dụng, đó
là nội dung của sách giáo khoa.
Giáo
Tướng là chuyện như thế nào? Chúng ta quan sát cặn
kẽ bộ kinh điển này, đức Phật nói vào
thời nào? Theo cách phân loại kinh Phật, kinh này thuộc
loại nào? Kinh Phật được phân loại rất
sớm, cách phân loại sách vở hiện thời rất
tinh tế, quả thật rất thuận tiện cho người
đọc sách. Sớm nhất ở Trung Quốc, có thể
nói cách phân loại sách vở là do Phật giáo khởi xướng,
chia hết thảy các kinh thành ba loại lớn, tức là
Tam Tạng, gồm Kinh Tạng, Luật Tạng, và Luận
Tạng, phân loại như vậy. V́ cách phân loại trong Phật
giáo có ảnh hưởng rất lớn đến pháp thế
gian, như cách phân loại trong Tứ Khố Toàn Thư là bắt
chước cách chia [kinh điển] thành Tam Tạng trong
kinh Phật, [sách vở thế gian được] chia thành
Kinh, Sử, Tử, Tập. Trong phần Kinh, lấy mười
ba kinh[5] [của
Nho gia] làm cương lănh, lại chia thành các mục nhỏ,
càng chia nhỏ, càng chi tiết. Kinh Phật được
phân loại sớm nhất, trong cách phân loại kinh điển,
kinh này thuộc loại nào. Điều này tạo thành một
thứ tài liệu tham khảo để người đời
sau dạy học [thuận tiện], mà cũng nhằm [xét
xem] bộ sách này rốt cuộc thích hợp cho kẻ mới
học, hay thích hợp cho người tu hành đă lâu? Giống
như sách giáo khoa, sắp xếp chương tŕnh học
trong nhà trường, phải biết là xếp vào loại
Trung Học? Hay là xếp vào sách Đại Học? Xếp
vào lớp mấy? Dùng phương pháp ǵ để dạy
học? Việc phán giáo chủ yếu nhằm cung cấp
những ư nghĩa này; nhưng kể từ xa xưa,
người phán giáo rất nhiều, có các cách nh́n khác nhau.
Có người cho rằng kinh điển này thích hợp với
hàng sơ học, có người cho rằng [kinh điển
này] chẳng thích hợp với hàng sơ học. V́ thế,
phán giáo chẳng do đức Phật phán định. Đức
Phật chẳng nói những điều ấy, mà do người
đời sau phán định. Do đó, phán giáo giúp cho chúng
ta tham khảo cách nh́n của cổ đại đức,
để cho chính ḿnh tham khảo, đừng chấp chết
cứng vào cách nói của cổ nhân, đó mới là tốt.
Dẫu sao, các Ngài đều là bậc hữu tu hữu học,
[những nhận định của các Ngài] đáng cho chúng
ta tham khảo!
“Giáo tướng giả, thử
thị Đại Thừa Phương Đẳng giáo nhiếp”
(Xét theo giáo tướng, kinh này thuộc về Đại
Thừa Phương Đẳng giáo). Phật giáo phân chia tổng
quát thành Đại Thừa và Tiểu Thừa. Tiểu Thừa
từa tựa như Tiểu Học, Đại Thừa gần
như là Đại Học. Miễn cưỡng th́ cũng
có thể thêm vào Trung Thừa, nói thông thường, Trung Thừa
là ǵ? Chính là từ Tiểu Thừa tách ra. V́ trong Tiểu Thừa
có hai loại, một loại là Thanh Văn, loại kia là Duyên
Giác. Cảnh giới chứng ngộ của Duyên Giác cao hơn
Thanh Văn. Nếu nói ba thừa, sẽ là Thanh Văn Thừa,
Duyên Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa. Nếu nói hai thừa,
th́ là Tiểu Thừa và Đại Thừa. Tiểu Thừa
tức là quy nạp Thanh Văn và Duyên Giác lại, gọi
chung là Tiểu Thừa. Kinh này thuộc loại Đại
Thừa, tức là trong hai thừa, kinh này thuộc loại Đại
Thừa. Nếu xét theo ba thừa, sẽ thuộc loại Bồ
Tát Thừa.
Trong
mười hai phần giáo, kinh này thuộc loại Phương
Đẳng Giáo. “Mười
hai phần giáo” là nói tới hết thảy các kinh do đức
Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, Ngài chọn
phương thức nào. Các phương thức ấy giống
như thể tài (genre) được sử dụng khi chúng
ta viết văn trong hiện thời, có tất cả mười
hai phương thức. Trong mười hai phương thức
ấy, kinh này thuộc loại Phương Đẳng[6]. Nếu
nói theo h́nh thức, kinh này thuộc loại đề tài văn
xuôi, thuộc loại Trường Hàng. Phương Đẳng
là nói theo Ngũ Giáo, tức là nói đến thời gian, đức
Phật thuyết kinh này khi nào? Thích Ca Mâu Ni Phật xuất
hiện trong thế gian này, giảng bộ kinh đầu
tiên là kinh Hoa Nghiêm trong hai thất nhật, cũng có người
nói là ba thất nhật. Hai thất là mười bốn
ngày, ba thất là hai mươi mốt ngày. Đức Phật
v́ bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ mà giảng bộ kinh ấy, chẳng phải giảng
cho nhân gian chúng ta. Nhân gian chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật
tĩnh tọa dưới cội Bồ Đề, đâu
biết đức Phật giảng kinh Hoa Nghiêm trong Định!
V́ thế, có tư cách nghe kinh th́ đều phải vào trong
Định của Phật th́ mới có đủ tư
cách đến nghe kinh. Do vậy, người Tiểu Thừa
chẳng tin Đại Thừa, cho là Đại Thừa chẳng
phải do đức Phật nói, mà do người đời
sau biên soạn, chẳng phải là Phật giáo chân thật.
Họ phản đối Đại Thừa, v́ sao? Đối
với họ, phải là nhục nhăn trông thấy th́ mới
chấp nhận, chứ trong Định sẽ không tính. Ta
không thấy th́ không tính. V́ lẽ đó, người Tiểu
Thừa chấp nhận Thích Ca Mâu Ni Phật giảng pháp Tứ
Đế độ năm vị tỳ-kheo tại Lộc
Dă Uyển, họ nói đức Phật bắt đầu
thuyết pháp từ lúc đó, chẳng thừa nhận thời
Hoa Nghiêm.
Kinh
Hoa Nghiêm xuất hiện cũng trễ. Kinh cho biết, sau
khi đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm xong, Đại Long Bồ
Tát đem kinh này cất giữ trong cung rồng. Măi cho đến
sáu trăm năm sau, Long Thọ Bồ Tát xuất hiện trong
cơi đời, đến chơi, thăm viếng cung rồng,
thấy bộ kinh này, mới đem kinh về thế gian,
thế gian mới có kinh Hoa Nghiêm, mới biết có chuyện
như thế. Long Thọ Bồ Tát mang Hạ Bổn Hoa
Nghiêm về, Ngài thấy [kinh Hoa Nghiêm] có ba bản Thượng,
Trung, Hạ. Bản thượng vốn có mười tam
thiên đại thiên thế giới vi trần kệ, một
tứ thiên hạ vi trần phẩm. Ngài nói phân lượng
quá lớn, chúng sanh trong Diêm Phù Đề chẳng có năng
lực tiếp nhận. Xem đến bản trung, bản
trung đă ít hơn rất nhiều, nhưng nhân gian chúng ta cũng
chẳng thể tiếp nhận được. Lại xem
đến bản hạ, bản hạ có mười vạn
kệ, có bốn mươi phẩm, được rồi,
người thế gian chúng ta có thể tiếp nhận, Ngài
liền đem bản hạ về nhân gian. Nhưng bản
dịch kinh Hoa Nghiêm hiện thời ở Trung Quốc chẳng
hoàn chỉnh, chỉ có một nửa bộ kinh, chúng ta gọi
là Lược Bổn Hoa Nghiêm, gồm tám mươi cuốn.
V́ thế, kinh này chẳng hoàn chỉnh, truyền đến
Trung Quốc bị thất lạc rất nhiều. Tuy kinh
bổn chẳng hoàn toàn, nhưng xét theo ư nghĩa, đại
khái chẳng sai biệt nhiều lắm, có thể thấy được
điều này. Hiện thời, trên khắp thế giới,
kinh Hoa Nghiêm lưu truyền trên thế gian, có thể nói là
chỉ có bản tiếng Hán nhiều nhất, kinh điển
bằng tiếng Phạn đă bị mất.
Thời
thứ hai là A Hàm. Sau A Hàm, đức Phật bèn giảng Phương
Đẳng. Phương Đẳng là thời kỳ thứ
ba. Phương Đẳng được nói ở đây
chính là thời kỳ thứ ba. Thời kỳ thứ tư
là giảng Bát Nhă, thời kỳ cuối cùng giảng Pháp
Hoa và Niết Bàn. Đây là nói tới thứ tự kinh giáo
do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín
năm. Bộ kinh này được nói trong thời thứ
ba, tức thời Phương Đẳng. “Phó cơ nhiếp hóa, quảng lược bất
đồng, đại bổn nhị quyển” (ứng
theo căn cơ mà nhiếp thủ, hóa độ, rộng,
lược khác nhau, đại bổn có hai cuốn). Đại
Bổn là kinh Vô Lượng Thọ, “Tấn Vĩnh Gia niên trung, Trúc Pháp Hộ dịch”
(do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào năm Vĩnh Gia[7] đời
Tấn); khi chúng tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ có nhắc
tới bản này, tức bản dịch của ngài Trúc Pháp
Hộ, nhưng bản dịch gồm hai cuốn này hiện
thời chẳng c̣n, đă bị mất. Văn tự c̣n
thấy ở chỗ này là do Trí Giả đại sư nói.
Thuở Trí Giả đại sư tại thế hăy c̣n thấy
bản này, nhưng bản này [hiện nay] đă thất
truyền. Kinh Vô Lượng Thọ có tổng cộng mười
hai loại bản dịch, thất truyền bảy bản,
đây là một trong bảy bản bị thất truyền.
Từ văn tự này, chúng ta có thể chứng tỏ, bản
dịch của ngài Trúc Pháp Hộ bị mất sau đời
Đường. Đại Tạng Kinh hiện thời không
có bản dịch này. Chữ “thử
bổn” chỉ kinh này. “Thị
Tống Nguyên Gia thời, Cương Lương Da Xá ư Dương
Châu dịch” (do ngài Cương Lương Da Xá[8] dịch
ở Dương Châu vào niên hiệu Nguyên Gia đời Tống).
Giới thiệu cho chúng ta biết bản Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Kinh này [là bản dịch] trong thời
đại Lưu Tống[9]. Tống
ở đây chẳng phải là Triệu Tống, mà là thời
đại Lưu Tống. Trong niên hiệu Nguyên Gia, pháp
sư Cương Lương Da Xá là một vị cao tăng
Ấn Độ đến Trung Quốc hoằng pháp, phiên
dịch ở Dương Châu. “Lưỡng
kinh giai tại Vương Xá thành thuyết”, [nghĩa là]
bộ kinh này và kinh Vô Lượng Thọ đều do Thích
Ca Mâu Ni Phật giảng tại thành Vương Xá. “Phục hữu tiểu bổn, danh
A Di Đà, tại Xá Vệ quốc thuyết” (lại có
tiểu bổn tên là A Di Đà, nói tại nước Xá Vệ),
đây là Phật Thuyết A Di Đà Kinh do Cưu Ma La Thập
đại sư phiên dịch, kinh ấy được giảng
tại nước Xá Vệ. Đó là ba kinh Tịnh Độ.
“A Di Đà, Vô Lượng Thọ,
bỉ thử phương ngôn” (A Di Đà và Vô Lượng
Thọ lần lượt là tiếng địa phương
của cơi kia và xứ này), trong phần trước [chúng
ta] đă đọc thấy A Di Đà và Vô Lượng Thọ
có cùng một ư nghĩa, tiếng Hán là Vô Lượng Thọ,
tiếng Phạn là A Di Đà.
Kế
đó, lại giới thiệu trong Tam Tạng và Nhị Tạng,
kinh này thuộc loại nào. Chúng ta xem hàng thứ tư trong
trang tám mươi tư: “Nhị
Tạng danh nghĩa, Bồ Tát Tạng thâu” (xét theo danh
nghĩa của Nhị Tạng, kinh này thuộc về Bồ
Tát Tạng). Nhị Tạng là A Hàm Tạng và Bồ Tát Tạng,
cũng là pháp Đại Thừa và pháp Tiểu Thừa. Kinh
này thuộc loại Đại Thừa, thuộc loại Bồ
Tát Tạng. “Tiệm, Đốn
ngộ nhập, thử tức Đốn Giáo” (Xét theo sự
ngộ nhập là Tiệm hay Đốn th́ kinh này chính là Đốn
Giáo), nếu xét theo sự ngộ nhập, pháp môn này là Tiệm
Giáo hay Đốn Giáo? Pháp môn Tịnh Độ, theo cách nh́n
của tổ sư đại đức từ xưa tới
nay, có thể nói khẳng định là các Ngài đều nhất
trí công nhận là Đốn Giáo. V́ sao? Thành tựu trong một
đời, chẳng cần đợi đến đời
thứ hai. Không chỉ là thành tựu trong một đời,
nếu xem kinh Di Đà, hoặc kinh Vô Lượng Thọ,
[sẽ thấy] bảy ngày thành tựu, hoặc một ngày,
hoặc hai ngày, cho đến bảy ngày, bảy ngày thành tựu,
không có ǵ đốn hơn được! “Đốn” là đốn siêu, chẳng có thứ tự,
xác thực là đốn siêu.
Nói đến
chuyện thành tựu rất nhanh chóng th́ chẳng có pháp môn nào
có thể sánh bằng Tịnh Tông. Mật Tông nói “tức thân thành Phật” (thành
Phật ngay trong thân này) vẫn là một đời, pháp môn
này bảy ngày thành tựu, thật đấy, chẳng giả!
Rất nhiều đồng tu tu suốt bao nhiêu năm vẫn
chưa thành tựu, bèn hoài nghi chuyện “bảy ngày thành tựu”.
Thật ra, kinh chẳng sai, chính chúng ta đă phạm lỗi.
Chính ḿnh đă lầm lỗi ở chỗ nào? Chính ḿnh chẳng
mong thành tựu, thậm chí là chính ḿnh sợ hăi thành tựu.
Nếu chúng ta đả Phật Thất ở đây, phía
trên treo tấm biển ghi “bảy ngày văng sanh”, xem thử có
ai đến hay không? Chẳng có ai đến cả! Ghê quá!
Bảy ngày sẽ chết, c̣n ai dám đến nữa? Không có
ai dám đến! Có thể thấy chúng ta nói đến thành
tựu, miệng có, tâm không, chẳng phải là chân tâm. Người
thật sự mong thành tựu, nh́n vào thời cổ, chẳng
giả tí nào, thật sự mong văng sanh. Quư vị thấy
ngay như năm trước, cư sĩ Châu Quảng Đại
tại Washington DC nước Mỹ niệm Phật ba ngày
ba đêm [liền văng sanh], có thể thấy đây là Đốn
Giáo. Châu tiên sinh suốt một đời chưa từng nghe
Phật pháp, bị bệnh nặng, chẳng có cách nào chữa
lành, gặp thiện tri thức khuyên ông ta niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Kể ra, ông ta rất có thiện
căn, nghe xong liền tin tưởng, bảo vợ con đều
niệm Phật, giúp ông ta cầu sanh Tây Phương. Ông ta
chẳng cần cầu lành bệnh, niệm suốt ba ngày
ba đêm, Tây Phương Tam Thánh từ trên mây giáng xuống,
tiếp dẫn ông ta văng sanh. Có thể thấy là “hoặc một
ngày” cho đến “hoặc bảy ngày” chẳng giả. Nay
chúng ta niệm mà chưa thấy Phật, Phật cũng chẳng
đến tiếp dẫn, bèn biết là quư vị không chịu
đi. Khi Phật hiện đến bèn sợ chết khiếp.
Phật biết tâm chúng ta, chúng ta khởi tâm động niệm
Ngài đều biết, quư vị là giả, Ngài sẽ chẳng
đến. Nếu quư vị là thật, Ngài nhất định
đến. Kinh này thuộc loại Đốn Giáo.
“Chánh vị Vi Đề Hy cập
chư thị nữ, tịnh thị phàm phu, vị chứng
tiểu quả, cố tri thị Đốn, bất tùng Tiệm
nhập” (chính v́ bà Vi Đề Hy và các thị nữ đều
là phàm phu, chưa chứng tiểu quả, nên biết [kinh này]
là Đốn, chẳng từ Tiệm giáo mà nhập), nói rất
rơ ràng. [Đối tượng nghe] đức Phật thuyết
pháp trong kinh này đứng đầu là phu nhân Vi Đề
Hy, trong phần sau chúng ta sẽ đọc thấy. Năm
trăm cung nữ trong cung đ́nh đồng thời nghe đức
Phật thuyết pháp. Khi ấy, nghe xong họ liền chứng
Vô Sanh Pháp Nhẫn, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Họ chưa chứng tiểu quả, chẳng
thuộc địa vị Bồ Tát tiến cao hơn từng
cấp một, không có! V́ chẳng theo thứ tự, nên kinh
này thuộc loại Đốn. Chúng ta đọc chú giải
một lượt: “Thử phi
hóa nghi luận Tiệm, Đốn dă” (Đây chẳng phải
là luận định là Tiệm hay Đốn dựa trên
hóa nghi), “hóa” (化) là giáo hóa, nói theo
cách hiện thời là giáo học. “Nghi” (儀) là nghi thức, [hóa nghi] là nghi
thức giáo học. Giống như nay chúng ta nói là sắp xếp
khóa tŕnh, tiêu chuẩn [để phân định] khóa tŕnh, điều
đó được gọi là “hóa
nghi”. Ở đây, chẳng phải là nói tới hóa nghi là
Đốn hay Tiệm. Xét theo hóa nghi là Đốn hay Tiệm
th́ Pháp Hoa là Đốn, Hoa Nghiêm là Đốn, những thời
khác như A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă đều
thuộc loại Tiệm Giáo, đều là tu học theo thứ
tự.
“Kim kinh phán tại Phương
Đẳng, phi hóa nghi Đốn” (nay kinh này được
phán định thuộc thời Phương Đẳng, nên
không phải là Đốn xét theo hóa nghi), do đó, chẳng
thể xét theo thứ tự thuận trong sự giáo học
thông thường. “Kim chi Đốn
giả, năi ư hóa pháp” (nay nói là Đốn, chính là xét
theo hóa pháp). “Pháp” là phương
pháp giáo học. “Dĩ Viên vi Đốn,
năi Đốn Giáo Tướng, phi Đốn Giáo Bộ dă”
(do là Viên nên coi là Đốn, chính là tướng Đốn
Giáo, chứ không thuộc về loại Đốn Giáo Bộ).
Nếu là Đốn Giáo Bộ th́ nếu chẳng thuộc
vào Hoa Nghiêm Bộ, sẽ thuộc về Pháp Hoa Bộ,
đó là Đốn Giáo Bộ. Kinh này thuộc Phương
Đẳng Bộ, nhưng phương pháp trong kinh lại
thuộc loại Viên Đốn; nếu theo cách thức xếp
đặt thông thường, kinh này chẳng thuộc vào Đốn
Giáo Bộ. “Cố tựu Vi
Đề, tức thân đắc Nhẫn” (tức là xét
theo chuyện bà Vi Đề Hy đắc Nhẫn ngay trong
thân hiện tại), phu nhân Vi Đề Hy tiếp nhận
sự chỉ dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi nghe
kinh xong, bèn có thể chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn,
đó là “đốn siêu”. Nói
theo cảnh giới thấp nhất của Vô Sanh Pháp Nhẫn
th́ cũng là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát. Nói nghiêm ngặt,
từ Thất Địa trở lên mới chứng Vô Sanh
Pháp Nhẫn! Có thể thấy địa vị của bà
ta chẳng tuân theo thứ tự, ngay lập tức đạt
tới địa vị cao dường ấy. Tiếp đó,
lời Sớ viết: “Thả
Vô Sanh Nhẫn vị, tại Biệt Địa Viên Trụ”
(Hơn nữa, địa vị Vô Sanh Nhẫn thuộc về
Sơ Địa trong Biệt Giáo, hay Sơ Trụ trong Viên
Giáo), trong Biệt Giáo là Sơ Địa, trong Viên Giáo là Sơ
Trụ. “Biệt Giáo phàm phu,
kinh vô số kiếp, phương chí thử vị” (phàm
phu trong Biệt Giáo phải trải qua vô số kiếp mới
đạt đến địa vị này). Nếu muốn
chứng đắc địa vị này, thông thường
chúng ta hay nói là phải trải qua hai A-tăng-kỳ kiếp
th́ mới có thể chứng đắc, đó là nói phàm phu
muốn chứng quả vị này. Bà ta cũng là phàm phu, đột
nhiên chứng đắc quả vị này, đó là chuyện
như thế nào? Tiếp đó, sách nói: “Duy hữu viên nhân, tức sanh khả nhập” (chỉ
có người thuộc căn cơ Viên Giáo mới có thể
nhập ngay trong một đời này). Có thể thấy chủng
tánh của người nghe giáo là Viên Đốn, thuộc về
căn tánh ấy, nên vừa nghe liền khai ngộ, vừa
khai ngộ liền khế nhập, liền nhập cảnh
giới này, nhập là chứng.
Ngộ
là ǵ? Nhập là ǵ? Ngộ là hiểu rơ, hoàn toàn hiểu rơ, minh
bạch, đó là khai ngộ. “Nhập”
là biến các đạo lư và phương pháp ấy thành
sự hành tŕ trong cuộc sống của chính ḿnh, tức là
thật sự đạt được thọ dụng, đó
là Nhập. Có người tuy đă ngộ, nhưng chính ḿnh
chẳng thể thọ dụng, chính ḿnh vẫn là phàm phu, vẫn
khổ năo, tức là tuy ngộ nhưng chẳng nhập! Phật
pháp quư ở chỗ khế nhập. Nay chúng tôi cũng đặc
biệt nhấn mạnh điểm này, do đó, khuyên mọi
người niệm kinh Vô Lượng Thọ. Niệm kinh
Vô Lượng Thọ th́ phải nhập cảnh giới của
A Di Đà Phật, cách nhập ra sao? Tức là biến đạo
lư trong kinh Vô Lượng Thọ thành tư tưởng và
kiến giải của chính chúng ta, biến các giáo huấn
trong kinh Vô Lượng Thọ thành hành vi trong cuộc sống
của chúng ta, đó là Nhập. Nếu lư luận và phương
pháp đều đă hiểu, nhưng chúng ta làm không
được, đó là “chỉ ngộ, chẳng nhập”,
vậy th́ chẳng có tác dụng lớn lao ǵ! Chẳng thật
sự được thọ dụng! Thật sự ngộ
nhập th́ nhất định là ĺa khổ được
vui trong hiện tại, ngay lập tức cuộc sống
của chính ḿnh thay đổi, xác thực là biến đổi,
mạng đă chuyển, lập tức chuyển, trong tương
lai quyết định sanh về Tịnh Độ. Đó
mới là thật sự học Phật. Nhất định
phải biến lư luận thành tư tưởng và kiến
giải của chính ḿnh, biến giáo huấn thành hành vi trong
cuộc sống của chính ḿnh, đó là điều quan trọng.
Trong
hết thảy các kinh, chúng ta chọn lựa kinh Vô Lượng
Thọ cũng là rất có lư. Kinh Vô Lượng Thọ được
hết thảy chư Phật đề xướng, đó
là lư do thứ nhất. Lư do thứ hai là kinh Vô Lượng
Thọ phân lượng không nhiều lắm, nhưng những
điều được giảng trong ấy, phương
diện nào cũng chu đáo, rất khó có! Ví như kinh Kim
Cang, kinh Kim Cang hoàn toàn là Lư, hiểu rơ Lư th́ được,
nhưng ứng dụng trong cuộc sống như thế
nào? Kinh chẳng giảng! Chúng ta xử sự, đăi người
tiếp vật nếu dùng kinh ấy làm căn cứ sẽ
rất khó. Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta hiếu
thuận cha mẹ ra sao? Tôn kính sư trưởng như thế
nào? Đối xử với đại chúng trong xă hội
ra sao? Thảy đều giảng rất rơ ràng, đây là điều
hết sức khó có! Đương nhiên là kinh giảng rất
nhiều, gần như quá nửa bản kinh nói về chuyện
này. Phần chuyên môn tập trung các giáo huấn về cách xử
sự, đăi người, tiếp vật là từ chương
ba mươi ba đến chương ba mươi bảy,
năm chương ấy toàn giảng về chuyện này.
V́ thế, trong công khóa sớm tối của chúng ta trong hiện
thời, khóa sáng chúng ta niệm bốn mươi tám nguyện,
khóa tối chúng ta niệm năm chương ấy. Niệm
năm chương ấy với hy vọng có thể ứng
dụng trong cuộc sống. Cuộc sống, cách xử sự,
đăi người, tiếp vật của chúng ta đă có căn
cứ ấy, tuân theo giáo huấn của A Di Đà Phật
và Thích Ca Mâu Ni Phật để làm. Đọc bốn mươi
tám nguyện, hy vọng cách nghĩ, cách nh́n của chúng ta giống
như A Di Đà Phật. Tâm, nguyện của chúng ta giống
như Phật, giải và hạnh giống như Phật, đó
gọi là “khế nhập”.
Kinh
văn không dài, [thọ tŕ] dễ dàng! Giảng một lần
cũng dễ dàng, đọc một lần cũng dễ
dàng, thực hiện cũng chẳng khó. Nếu là những
bộ đại kinh khác, như Hoa Nghiêm chẳng hạn, nói
rất nhiều phương pháp, c̣n nhiều hơn kinh Vô Lượng
Thọ, lư luận được giảng c̣n tỉ mỉ
hơn, nhưng kinh quá lớn. Quá lớn sẽ chẳng tiện
thọ tŕ, chẳng thuận tiện như quyển kinh này.
V́ thế, đặc biệt chọn lựa bộ kinh này.
Nhất là chúng ta nhằm vào mục đích mong sanh về Tây
Phương Tịnh Độ, đây chính là bộ kinh điển
chánh yếu nhất của Tây Phương Tịnh Độ.
V́ vậy, có khá nhiều lư do để chọn lựa bộ
kinh này, mà chẳng chọn lựa kinh điển khác.
“Nhược tương kết
ích phán giáo” (nếu dựa theo các kết luận về
sự lợi ích để phán giáo), “kết” là tổng kết, “ích” là lợi ích, tức là nói tổng kết, dựa
theo lợi ích để nói, để phán giáo. “Thiên Viên, tối vi minh hiển”
([sẽ thấy] kinh này là Thiên Viên rơ rệt nhất). Kinh này
là Viên Giáo, nhưng chẳng phải là Toàn Viên, mà là Thiên Viên.
Nó chẳng phải là Thuần Viên. Thuần Viên là Pháp Hoa, Toàn
Viên là Hoa Nghiêm. Thưa cùng quư vị, kinh Vô Lượng Thọ
là Thuần Viên, là Toàn Viên, c̣n ở đây v́ sao là Thiên? V́ những
điều được giảng thiên về lư luận, phương
pháp và nhân quả, trọn chẳng phải là giới thiệu
toàn thể y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới, giới thiệu toàn thể [những
điều đó] là kinh Vô Lượng Thọ. Chẳng hạn
như kinh này chẳng nói đến bốn mươi tám
nguyện của A Di Đà Phật, nên chẳng viên măn. Trong
kinh Vô Lượng Thọ có giảng lư luận, giảng về
ba bậc văng sanh, có nói tới chánh nhân văng sanh. Ở đây
giảng ba bậc chín phẩm giống như kinh Vô Lượng
Thọ, nhưng kinh Vô Lượng Thọ giảng giản
lược, c̣n kinh này giảng chi tiết. Tuy giảng chi
tiết, vẫn chẳng hoàn toàn viên măn! Viên măn là kinh Vô Lượng
Thọ. Kinh này có thể bổ sung cho kinh Vô Lượng Thọ,
dùng làm tài liệu để đọc bổ sung cho kinh Vô
Lượng Thọ. “Thị cố
kim văn tựu ích định chi, thị Đốn, phi
Tiệm” (v́ thế, nay dựa theo lợi ích để
phán định kinh văn này là Đốn, chẳng phải
là Tiệm), nói theo mặt lợi ích, kinh này là Đốn
Giáo.
“Đề xưng Phật Thuyết,
giản dị tứ nhân” (Đề kinh ghi là Phật
Thuyết, nhằm phân biệt khác với bốn hạng người).
Phật pháp hết sức sức cởi mở, có tánh chất
bao dung rất lớn, chẳng ích kỷ. Chẳng phải
là nói kinh Phật th́ chỉ có kinh nào do đức Phật
đă nói th́ mới gọi là kinh Phật, kinh do người
khác nói chẳng thể gọi là kinh Phật! Đức Phật
nói “có thể”, chỉ cần những điều quư vị
nói có tông chỉ, lư luận và y cứ giống như những
ǵ đức Phật đă nói, đức Phật đều
chấp nhận: Quư vị nói giống như ta nói, đó là
kinh Phật! V́ vậy, kinh Phật do năm hạng người
nói: Có kinh do đức Phật nói, tức là đức Phật
tự ḿnh nói. Có kinh do đệ tử nói, tức là học
tṛ của Phật nói. Có kinh do chư thiên nói. Có kinh do tiên nhân
nói. Lại c̣n có kinh do người biến hóa nói. Nhiều người
đều có thể nói như vậy, nhưng kinh do những
người đó nói phải được đức Phật
hứa khả th́ mới được coi như do chính đức
Phật nói. Nhưng hiện thời, đức Phật chẳng
tại thế, đối với những ǵ do những người
ấy nói, ai có thể chứng minh đó là kinh Phật? Đức
Phật chẳng c̣n trụ thế, nhưng c̣n có cái gọi
là Pháp Ấn. Pháp Ấn là nói tới nguyên lư, nguyên tắc.
Nguyên lư và nguyên tắc giống như đức Phật
đă nói th́ đều có thể gọi là “kinh Phật”. Tiểu Thừa có ba nguyên tắc là
Vô Ngă, Vô Thường, Niết Bàn. Nếu chẳng trái nghịch
những nguyên tắc ấy, những điều do những
người ấy nói đều có thể gọi là Kinh, v́
có tông chỉ chẳng khác những ǵ do đức Phật đă
nói. [Pháp ấn của] kinh điển Đại Thừa là
Thật Tướng, hễ phù hợp Thật Tướng
th́ chúng ta đều có thể thừa nhận đấy là
kinh Phật, không nhất định phải là do đức
Phật nói. Quư vị thấy tại Trung Quốc, Lục Tổ
Đàn Kinh chẳng do đức Phật nói, mà do Huệ Năng
đại sư nói. Huệ Năng là người Hoa, chưa
từng đến Ấn Độ. Sự thừa truyền
của Ngài là do ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn truyền
trao. Ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn cũng là người
Hoa, cũng chẳng phải là cao tăng Ấn Độ
truyền cho. Các vị tổ sư đại đức của
các tông phái Đại Thừa tại Trung Quốc đều
thừa nhận những điều ngài Huệ Năng đă
nói có thể gọi là Kinh, v́ sao? Tông chỉ của những
điều do lăo nhân gia đă nói quyết định chẳng
mâu thuẫn với tông chỉ do đức Phật đă nói
trong các kinh Đại Thừa. Đó là một thí dụ.
Tựa đề
kinh này được khởi đầu bằng chữ “Phật Thuyết”. Thêm vào chữ
này, v́ kinh do chính miệng đức Phật thuyết, chẳng
do bốn hạng người kia nói. Nếu do bốn hạng
người kia nói th́ tựa đề kinh chẳng thể
ghi là Phật Thuyết. Hễ thêm vào chữ Phật Thuyết,
nhất định là do chính đức Phật nói. Trong đề
mục của kinh có thêm vào hai chữ mở đầu là Phật
Thuyết th́ có một nguyên tắc: Nhất định phải
do chính miệng đức Phật nói ra. Ngoài ra, trong phần
Chánh Tông, câu đầu tiên trong phần Chánh Tông do đức
Phật nói, thông thường, kinh điển giống như
vậy sẽ được thêm hai chữ Phật Thuyết
vào đầu tựa đề. Nếu tuy là Phật thuyết,
nhưng câu đầu tiên trong phần Chánh Tông chẳng phải
do đức Phật nói, [tựa đề] kinh sẽ không
mở đầu bằng chữ này. Giống như [tựa
đề] các kinh Kim Cang, kinh Diệu Pháp Liên Hoa chẳng bắt
đầu bằng chữ Phật Thuyết. Những kinh ấy
đều là đức Phật và đệ tử một
hỏi, một đáp, nhưng câu đầu tiên chẳng
do đức Phật nói. Nếu câu đầu tiên do đức
Phật nói, thông thường trong tựa đề của
kinh ấy phải ghi thêm chữ Phật Thuyết, khiến
cho chúng ta vừa thấy liền biết bản kinh ấy
do chính miệng đức Phật nói ra.
Kế
tiếp, chúng tôi sẽ giảng vào kinh văn. Được
rồi, chúng ta nghỉ mấy phút.
Tập 16
Giảng đường của chúng ta là
đạo tràng giảng kinh quanh năm, nên có nhiều chỗ
có thể tỉnh lược. Chẳng hạn như kinh
chia thành ba phần là Tự, Chánh, Lưu Thông, mỗi bộ
kinh đều là như thế, ở đây, cũng có thể
chẳng cần nói tới. Chúng ta xem kinh văn, trang tám
mươi sáu, hàng thứ hai từ dưới đếm
lên:
Như thị.
如是。
Hàng
thứ hai đếm từ dưới lên nơi trang tám
mươi bảy là:
Ngă
văn.
我聞。
Đối
với phần mở đầu kinh này là “như thị ngă văn”, trong phần chú giải ở
chỗ này có mấy câu rất hay, chúng ta đọc chú giải:
“Như Thị giả, chư
pháp Thật Tướng, cổ kim bất dị, danh
Như. Như lư nhi thuyết, vi Thị. Quyết định
khả tín, cố vân Như Thị” (Như Thị: Thật
Tướng của các pháp xưa nay chẳng khác, nên gọi
là Như. Nói đúng như Lư là Thị. Quyết định
đáng tin, nên nói là Như Thị). Trong Tự Phần của
một bộ kinh, có thể chia thành hai phần, phần trước
gọi là Chứng Tín Tự, phần sau là Phát Khởi Tự.
Có thể nói là Chứng Tín Tự th́ mỗi bộ kinh đều
giống nhau, Phát Khởi Tự chẳng vậy. Phát Khởi
Tự là mỗi bộ kinh đều có nhân duyên đặc
biệt, nhân duyên đặc biệt nhằm nói rơ sự xuất
hiện của bộ kinh này, mỗi bộ đều khác
nhau. Hai chữ Như Thị bao hàm ư nghĩa hết sức
sâu rộng, ở đây chỉ dùng hai câu để giải
thích hết sức tinh vi, thỏa đáng, rất khó có. Thật
Tướng của các pháp là chân tướng của hết
thảy các pháp, chân tướng vĩnh viễn chẳng biến
đổi, đó là Như. Đức Phật giảng hết
thảy các kinh nhằm giảng rơ cho chúng ta biết chân tướng
của hết thảy các pháp. V́ thế, đức Phật
nói ǵ? Phật nói về Như. Nói sâu, nói rộng, chẳng
có một pháp nào không Như. Nói dài, nói ngắn, luôn luôn chẳng
ra ngoài phạm vi này. Do vậy, đức Phật giảng
kinh bèn đúng như Lư mà nói, đó gọi là Thị.
Thật
Tướng mà được nói đúng như Lư th́ chúng ta
chắc chắn có thể tin tưởng, nên trong phần
Chứng Tín, đặt hai chữ ấy đầu tiên, gọi
là Tín Thành Tựu. Đối với Phật pháp, nếu
chúng ta không tin tưởng, sẽ chẳng có cách nào tiếp
nhận. Không chỉ là Tịnh Độ Tông nhấn mạnh
ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh, mà đối
với tất cả hết thảy các kinh luận Đại
Tiểu Thừa, nếu quư vị chẳng tin, chắc chắn
là sẽ chẳng đạt được thọ dụng.
V́ thế, một phần tin tưởng chân thành, sẽ được
một phần lợi ích; mười phần tin tưởng
chân thành, sẽ được mười phần lợi
ích. Phải biết những điều do Phật, Bồ
Tát nói chính là Thật Tướng của các pháp, là tướng
chân thật của hết thảy các pháp, có mấy ai biết?
Nay chúng ta mở kinh điển ra, vẫn cứ phê phán, phê
b́nh, [vận dụng] cách nghĩ, cách nh́n của ta, c̣n làm ǵ
được nữa? Chẳng có cách nào! Cách nh́n và cách nghĩ
của ta đều chẳng phải là chân tướng của
các pháp, nhưng lại sử dụng chúng để phê b́nh
chân tướng của các pháp, hết cách! Kinh Phật thường
gọi hạng người ấy là Nhất Xiển Đề
(Icchantika). Nhất Xiển Đề dịch sang nghĩa tiếng
Hán là “chẳng có thiện căn”, do chẳng thể tiếp
nhận giáo huấn của thánh nhân, nên chẳng có thiện
căn. V́ thế, phần này là Tín Thành Tựu.
Trong
hàng thứ tư nơi trang tám mươi bảy cũng có
mấy câu rất hay, chúng ta xem từ câu thứ hai: “Duy Viên sơ tâm, tức liễu
chư pháp nhất nhất trung thật, đương xứ
giai Như. Xứng thử nhi đàm, vô phi viết Thị”
(Chỉ có bậc sơ tâm trong Viên Giáo hiểu rơ sự chân
thật trong mỗi một pháp, ngay nơi đó đều
là Như. Nói tương xứng với điều đó,
không sai, nên gọi là Thị). Trong Đại Thừa Phật
pháp, khó có nhất là căn tánh viên đốn. Căn tánh viên
đốn từ đâu mà có? Đương nhiên là phải
nói tới căn bản, tức là nhiều đời nhiều
kiếp trong đời quá khứ đă luôn tu học pháp
môn này, đời này gặp được kinh luận viên
đốn, vừa tiếp xúc liền tâm khai ư giải, tự
nhiên sanh tâm hoan hỷ. Đó là thiện căn sâu dầy trong
đời quá khứ. Đó là nhân tố cơ bản, nhân
tố quan trọng nhất. Kế đó, gặp được
duyên phận viên đốn, gặp giáo học viên đốn,
trải qua một thời gian huân tập khá dài, căn cơ
viên đốn hiện tiền; do vậy, có thể tiếp
nhận pháp môn này. T́nh h́nh như vậy cũng chẳng ít,
mà cũng là khá nhiều. Trong lịch sử Trung Quốc, khá
nhiều vị tổ sư đại đức, nói thật
ra, sau khi đă nghiên cứu kinh giáo bao nhiêu năm, bèn hoát nhiên
khai ngộ, nhập pháp môn này, đó là căn tánh đă chín
muồi. Nếu không phải do nguyên nhân này, sẽ khá khó
khăn.
Có
ai chẳng hy vọng chính ḿnh là căn tánh viên đốn?
Có thể có niệm ấy, hễ có ư niệm ấy th́ đều
là đă có thiện căn trong đời quá khứ. Hiện
tại, chúng ta chẳng thể Viên, mà cũng chẳng thể
Đốn, th́ phải đổ nhiều công sức nơi
kinh điển, tăng cường trợ duyên. Có người
sau bao nhiêu năm [dốc sức nơi kinh điển], cũng
biến thành [căn tánh viên đốn] thật sự, kiến
giải và tư tưởng viên dung, chẳng c̣n chấp trước
nữa, chẳng lo mài chuốt đầu sừng trâu nữa[10],
tư tưởng đă mở rộng. Tâm khai ư giải,
viên dung xuyên suốt, đều phải cậy vào sự huân
tập bằng kinh giáo Đại Thừa viên đốn. Ở
Trung Quốc, những kinh điển phổ biến nhất
là Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Viên Giác, cũng như kinh Vô
Lượng Thọ của Tịnh Tông chúng ta đều
thuộc loại đại pháp viên đốn. Bậc sơ
tâm trong Viên Giáo đáng quư, vừa tiếp xúc liền hiểu
rơ, chẳng c̣n hoài nghi, có thể tiếp nhận, dần dần
thông hiểu: Hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng Như.
Pháp nào cũng đều Như, pháp nào cũng đều
Thị; tư tưởng và kiến giải hết sức
đáng quư. Tuy cách Phật c̣n rất xa, nhưng đă tương
ứng với Phật, đă tiếp cận Phật. Sợ
là quư vị chẳng chịu học, chứ càng học sẽ
càng tiếp cận, tốc độ tiếp cận lại
c̣n tăng nhanh hơn. V́ thế, hết sức đáng quư.
Khó nhất là kẻ nghi ngờ, lo lắng trùng trùng, nghe nói
như vậy, bèn: “Ta chẳng cho là đúng, kẻ này thuyết
pháp kiểu này, kẻ kia thuyết pháp kiểu nọ”, khó
khăn lắm! Người ấy có quá nhiều chướng
ngại! Tôi giới thiệu đơn giản [chữ Như
Thị] đến đây!
Câu
kế tiếp là Ngă Văn. Ngă Văn chính là Văn Thành Tựu,
không chỉ là Văn Thành Tựu mà c̣n biểu thị sư
thừa. Giáo học của Phật pháp và Trung Quốc thời
cổ đều coi trọng sư thừa. Không chỉ là
Nho Gia, Đạo Gia, mà những người có nghề khéo
trong xă hội, làm thợ nề, làm thợ mộc trước
nay đều có sư thừa. Quư vị theo học với
ai? Đều là xuất thân từ thân phận học tṛ, đều
có thầy, thật sự tiếp nhận sự chỉ dạy
của thầy. Ư nghĩa này cũng được biểu
thị ở đây, câu “thân thừa
hữu tại” (đích thân hiện diện tiếp nhận)
trong lời chú giải chính là nói về sư thừa. Chữ
Ta (Ngă) trong kinh là tôn giả A Nan tự xưng. Thuở ấy,
đức Phật chỉ có nói kinh; đức Phật nói,
chứ chẳng trước tác. Đức Phật chẳng
viết một bộ kinh nào để lại cho đời
sau, chẳng có, [kinh] là do đức Phật nói. Ai đă
biên tập, ghi chép thành văn tự để truyền lại
cho đời sau? Đó chính là chuyện của tôn giả A
Nan. V́ lẽ đó, Ta là tôn giả A Nan tự xưng. “Văn” (聞) là đích thân
nghe đức Phật nói, chẳng phải là nghe nói lại,
mà là chính ḿnh tự nghe đức Phật giảng. Những
lời này đều nhằm làm chứng cho chúng ta, [khiến
cho chúng ta] có thể quyết định tin tưởng!
Câu
thứ ba là:
Nhất
thời.
一時。
Kinh
văn mở đầu bằng “như
thị ngă văn, nhất thời Phật tại… (nơi nào)”, đây là một
trong sáu thứ Thành Tựu, nhằm chứng tín với chúng
ta. Hai chữ Nhất Thời ở trong trang tám mươi
chín, nói đến lúc thuyết kinh. Chúng ta biết: Theo kinh điển
ghi chép, tôn giả A Nan đa văn bậc nhất. Những
kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng trong bốn mươi
chín năm, Ngài được nghe toàn bộ, chẳng sót một
bộ nào! Theo như kinh nói, tôn giả trẻ tuổi nhất
trong các anh em họ của đức Phật. Anh em họ
của Phật có tất cả tám người, xếp theo
vai vế, Thích Ca Mâu Ni Phật lớn nhất, A Nan nhỏ
nhất. Ngài A Nan hạ sanh nhằm ngày đức Phật thành
đạo, đến hai mươi tuổi mới theo Phật
xuất gia, làm thị giả của đức Phật. Đức
Phật giảng kinh đă hai mươi năm, những
kinh đă giảng trước đó, Ngài chẳng nghe, v́
sao có thể nói “những kinh đă nói trong bốn mươi
chín năm Ngài đều nghe”? Ngài xuất gia, đặt điều
kiện cùng Thích Ca Mâu Ni Phật: “Những kinh Ngài đă giảng
trong hai mươi năm trước, xin giảng một lần
cho con nghe, con mới theo Ngài xuất gia. Nếu Ngài chẳng
giảng cho con nghe, con chẳng theo Ngài xuất gia”. Đức
Phật đáp ứng, những kinh đă giảng trước
kia đều nói lại một lượt. Đồng thời,
những kinh nào đức Phật chưa nói, c̣n có các học
trưởng, tức là trong số các bạn học có những
người thuộc lớp đàn anh, đă nghe, nên cũng
nói lại cho ngài A Nan nghe. V́ thế, đối với các kinh
đă giảng trong một đời đức Phật,
ngài A Nan nghe viên măn nhất. Ngài A Nan trí nhớ tốt nhất,
gần giống như máy thâu âm, sau khi nghe xong một lần,
vĩnh viễn chẳng quên. Đó là nghe rộng, nhớ
dai, là bậc vô cùng hy hữu trong các đệ tử đức
Phật.
Do vậy,
sau khi đức Phật diệt độ, các đồng
học lo lắng, cả một đời đức Phật
giảng kinh điển nhiều như thế, nếu không
lưu truyền hậu thế rất đáng tiếc. V́ thế,
thỉnh ngài A
Đức
Phật giảng ở chỗ nào? Giảng vào khi nào? Đương
nhiên A Nan cũng biết rất rơ ràng. V́ sao không ghi chép đức
Phật vào năm nọ, tháng nọ, ngày nọ? Xứ sở
được nói rất rơ ràng, chỉ riêng thời gian là
mơ hồ, mông lung, chỉ nói là “một thời”? Thuở
ban đầu tôi đọc kinh Phật, đối với
câu này chẳng phục cho lắm, v́ sao chẳng ghi chép rơ
ràng? Tuy thấy trong chú giải của cổ nhân cũng có
rất nhiều cách giải thích về hai chữ này, nói thuở
Phật tại thế, Ấn Độ chưa thống nhất.
Chưa thống nhất, họ là dân tộc sống theo bộ
lạc, giống như Trung Quốc vào đời Châu, thời
nhà Châu chưa thống nhất. Thời Châu, có tám trăm chư
hầu, tức là hơn tám trăm quốc gia. Chúng ta đọc
Luận Ngữ hoặc đọc Mạnh Tử, [sẽ
thấy nói] một đại quốc có kích thước là
một trăm dặm. Tức là kích thước một trăm
dặm th́ là đại quốc, tiểu quốc rộng
hai, ba mươi dặm, tức là một thôn làng nhỏ, tù
trưởng trong ấy chính là quốc vương, bèn gọi
là một nước. Do vậy, ngôn ngữ không thống nhất,
văn tự không thống nhất, đo lường
cũng không thống nhất, lịch pháp cũng không thống
nhất. C̣n tại Trung Quốc, đến các đời Hạ,
Thương, Châu, lịch pháp đă thống nhất, tuy chư
hầu địa vị b́nh đẳng, nhưng trong số
các chư hầu, đề cử một vị đức
cao vọng trọng làm lănh tụ, mọi người dùng lịch
pháp của vị ấy, nên việc này được gọi
là “ban chánh sóc”[11]. Trước
kia, do điều ǵ mà coi là quy phụ (歸附) ta? Quư vị dùng
lịch pháp của ta, tức là thuộc quốc của ta.
Tại Ấn Độ chẳng giống như vậy! Lịch
pháp tại Ấn Độ rất loạn; v́ vậy, ghi
chép năm, tháng, ngày, giờ đích xác là rất bất tiện.
Mỗi tiểu quốc gia đều có lịch pháp khác biệt.
Đó là một nguyên nhân. Nguyên nhân này, nói thật ra là nói
theo mặt Sự, vẫn y như cũ rất khó khiến
cho người khác tùng phục.
Cuối
cùng, chúng ta xét theo Lư để nói th́ sẽ là chánh xác. Nói
theo Lư chính là mấy câu cuối trong đoạn chú giải này,
trang tám mươi chín, hàng thứ hai đếm từ dưới
lên, chúng ta xem từ chỗ đó: “Đản thị chúng sanh cơ thục, Phật
ưng thuyết kinh, cơ ứng hợp nhất chi thời,
diệc thị Đế Trí hợp nhất thời dă, cố
vân nhất thời” (chỉ v́ căn cơ của chúng
sanh chín muồi, Phật phải nên nói kinh. Lúc cơ ứng
(cảm và ứng) hợp nhất, cũng chính là lúc Đế
và Trí hợp nhất, nên nói là “nhất thời”). Chúng ta thấy
cách nói này chẳng có vấn đề, cách nói này hết sức
chánh xác. Cơ duyên của chúng sanh chín muồi, đức Phật
thuyết pháp lúc đó là vừa khéo. Cơ duyên chín muồi,
người ấy có thể tiếp nhận, nghe rồi sẽ
khai ngộ, sẽ chứng quả. Duyên chẳng chín muồi,
quư vị nói cho người ấy nghe vô ích, dẫu người
ấy có thể tin tưởng, lư giải, nhưng chẳng
chịu tu hành, cảm thấy chuyện này vẫn chẳng
cần thiết, duyên chưa chín muồi mà! V́ thế, đây
là lúc “thầy tṛ đạo hợp,
cảm ứng đạo giao”, chúng sanh có cảm, Phật
bèn ứng, cách nói này rất viên măn. Đồng thời,
quan niệm thời gian là giả, chẳng thật, nó là một
khái niệm trừu tượng, tuyệt đối chẳng
phải là thật thể. Chúng ta ở trên địa cầu
nẩy sanh quan niệm thời gian v́ địa cầu tự
xoay quanh nó một ṿng, một mặt hướng về mặt
trời, mặt kia ngược hướng mặt trời,
một ngày một đêm là như vậy đó. Từ quan
niệm ấy mà nẩy sanh quan niệm thời gian. Nếu
chúng ta rời khỏi địa cầu, hiện tượng
ấy chẳng c̣n, quan niệm thời gian cũng chẳng
c̣n. V́ thế, người hiện thời bay lên vũ trụ,
th́ trong vũ trụ chẳng có quan niệm thời gian.
Đồng
thời, trong mỗi tinh cầu, nếu nẩy sanh quan niệm
giống như quan niệm thời gian [của chúng ta trên địa
cầu] th́ thời gian sẽ dài ngắn khác nhau. Như mặt
trăng tự xoay chuyển quanh nó một ṿng th́ thời
gian ấy bằng với thời gian mặt trăng xoay
quanh địa cầu một ṿng. V́ thế, một ngày trên
mặt trăng trên thực tế là một tháng, tức là
một ngày đêm [trên mặt trăng] có độ dài bằng
một tháng [trên trái đất]. Tốc độ tự
xoay của mỗi tinh cầu cũng khác nhau. Ngay trên địa
cầu, trong quan niệm thời gian, chúng ta nói cứ một
ban ngày và một ban đêm là một ngày đêm th́ thời
gian một ngày đêm cũng chẳng giống nhau, v́ sao? Quư
vị đến Nam Cực hoặc Bắc Cực, nửa
năm có mặt trời, nửa năm tối đen, như
vậy th́ tại Nam Cực và Bắc Cực, một ngày đêm
là một năm! Đó là chúng ta ở ngay trên địa cầu,
chẳng rời khỏi địa cầu, mà quan niệm thời
gian đă khác nhau, chẳng giống nhau. Nếu nhận
định ban ngày và ban đêm như vậy th́ chênh lệch
quá lớn. Hiện thời, do giao thông phát triển, chẳng
giống như trước đây. Do giao thông phát triển,
trong một thời gian rất ngắn, chúng ta có thể đi
khắp địa cầu một ṿng. Hiện thời, mọi
người đều biết tại
mỗi địa phương có thời gian khác nhau, c̣n có
quan niệm thời sai (Jet lag, desynchronosis). Trước
đây, chẳng ai biết thời sai là ǵ, làm sao có chuyện lệch
giờ cho được? Hiện thời biết có chuyện
lệch giờ, xác thực là có. Nhưng chuyện này cũng
chẳng thật, đều nẩy sanh từ quan niệm
trừu tượng, có chuyện này, nhưng chẳng phải
là sự thật, chẳng chân thật.
V́ vậy,
nếu nói thật sự, “nhất
thời” chính là chúng ta và chư Phật, Bồ Tát cảm
ứng đạo giao, nhất tâm. Nhất là thật, nhất
tâm là năng cảm, Nhất Chân là năng ứng, cảm ứng
đạo giao. V́ thế, khi Trí Giả đại sư đọc
kinh Pháp Hoa đến phẩm Dược Vương Bồ
Tát, lăo nhân gia liền nhập Định. Trong Định,
Ngài đến núi Linh Thứu, Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn đang
giảng kinh Pháp Hoa tại đó, Ngài c̣n nghe một buổi.
Trở về, xuất Định, bảo mọi người,
hội Linh Sơn nay vẫn chưa tan, vẫn chưa giải
tán. Chuyện này đă được các khoa học gia hiện
thời chứng thực. Nếu có thể ngược ḍng
thời gian, quá khứ thảy đều tồn tại. V́
lẽ đó, người thật sự đắc Định
có thể đến đời quá khứ, cũng có thể
tiến nhập đời tương lai. Quá khứ, vị
lai người ấy đều biết, cớ sao biết?
Xác thực chẳng giả! Sở dĩ, chúng ta không thấy
quá khứ, càng chẳng thấy được tương
lai, giống như chúng ta xem phim là nh́n vào màn bạc. [H́nh ảnh
được chiếu trên] màn bạc là từng cảnh một
qua đi, hễ cảnh [vừa được chiếu] rất
gần th́ c̣n có chút ấn tượng, hễ xa th́ ấn tượng
bèn mơ hồ, c̣n vị lai th́ hoàn toàn chưa biết. Người
có công phu định lực chẳng cần nh́n vào màn bạc,
họ nh́n vào phim, vừa nh́n vào phim ảnh th́ trước
sau đều trông thấy, thấy toàn bộ. T́nh h́nh từa
tựa như vậy đó!
Do đó, trong kinh
dùng chữ “nhất thời”
là sống động, hoạt bát. Công phu của chúng ta nếu
đạt đến mức độ kha khá th́ bất luận
pháp hội nào của chư Phật, Bồ Tát, chúng ta đều
có cơ duyên tham gia. Nếu nói nhất định là năm,
tháng, ngày nào đó, đă qua rồi th́ làm sao chúng ta có thể
tham gia? Như Trí Giả đại sư tham gia một hội
Pháp Hoa tại núi Linh Thứu, Trí Giả đại sư cách
Thích Ca Mâu Ni Phật gần như một ngàn năm trăm
năm, pháp hội vào một ngàn năm trăm năm trước
th́ làm sao quư vị có thể tham gia? Có thể tham gia là nhờ
vào công phu định lực. Giống như bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ ở trong Thiền Định rất sâu, có thể tham
dự pháp hội Hoa Nghiêm của Thích Ca Mâu Ni Phật. V́ thế,
đắc Định th́ giới hạn không gian và thời
gian bị phá vỡ. Nay chúng ta nói là “không gian bốn chiều”.
Không gian bốn chiều là do kể thêm thời gian. Dùng điều
này bèn có thể giải thích Phật pháp, rốt cuộc Phật
pháp là không gian mấy chiều? Vô hạn chiều! Chúng ta thấy
điều này chẳng thể nghĩ bàn!
Chữ
kế tiếp là:
Phật.
佛。
Phật
là người thuyết pháp, nên đề mục của phần
này là Minh Hóa Chủ (nói về người giáo hóa) trong trang
chín mươi. Minh (明) là nói rơ vị chủ
tŕ việc giáo hóa, tức là thầy. Ở đây, chữ
Phật chỉ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Trong phần
trước, đă thưa rơ cùng chư vị: Đức
hiệu của Phật chính là mục tiêu và tông chỉ giáo
học. Chư Phật, Bồ Tát đều chẳng có danh
hiệu. Danh hiệu v́ căn cơ của chúng sanh mà kiến
lập, chẳng phải do chính ḿnh nghĩ nên đặt tên
là ǵ, mà v́ căn cơ của chúng sanh. Từ chỗ này, chúng
ta khẳng định, nhận thức Phật giáo tuyệt
đối chẳng phải là tôn giáo. Phật Giáo là nền
giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta gọi Thích
Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư. Bổn Sư là vị thầy
căn bản, là vị thầy sáng lập giáo, là vị thầy
khởi xướng giáo dục. Giống như người
đọc sách thuở xưa tại Trung Quốc tôn
xưng Khổng lăo phu tử là Đại Thành Chí Thánh Tiên
Sư (大 成 至 聖 先 師). Nói tới Tiên
Sư tức là nói tới Khổng lăo phu tử. Tiếp nhận
sự giáo dục của đức Phật, chúng ta gọi
Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư, chúng ta xưng là đệ
tử, đệ tử là học tṛ. V́ thế, mối quan
hệ giữa chúng ta và Thích Ca Mâu Ni Phật là quan hệ thầy
tṛ, phải hiểu rơ điều này. Tất cả các vị
Bồ Tát là lớp đàn anh của chúng ta, Bồ Tát đều
là học tṛ của Phật, là học tṛ khóa đầu. Chúng
ta là học tṛ lớp sau. Chúng ta và các vị Bồ Tát là bạn
học khóa trước khóa sau, cùng một thầy, phải
hiểu rơ mối quan hệ này!
Nay
chúng ta thấy người xuất gia bèn gọi họ là Ḥa
Thượng, nói thật ra, [xưng hô như thế] rất
cung kính, nhưng là cung kính quá lố, đă gọi sai rồi!
Danh xưng Ḥa Thượng chớ nên gọi
tùy tiện, thông thường gọi là Pháp Sư th́
được. Ḥa Thượng (Upādhyāya) là ǵ? Vị thầy trực
tiếp chỉ dạy chúng ta bèn gọi là Ḥa Thượng.
Ḥa Thượng là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng
Hán, sẽ giống như vị “chỉ
đạo giáo thụ” (giáo sư hướng dẫn)
trong trường Đại Học hiện thời. Ngài có
quan hệ hết sức chặt chẽ với ta, thật
sự phụ trách nhiệm vụ dạy bảo chúng ta th́
ta mới gọi Ngài là Ḥa Thượng. Giống như
trong một ngôi trường, trong trường học có rất
nhiều thầy, mấy trăm vị thầy, nhưng người
mà ta thật sự theo học chỉ có mấy vị. Nhưng
những vị khác đều là thầy trong nhà trường,
chúng ta đều phải tôn trọng họ, c̣n vị thầy
trực tiếp dạy bảo th́ khác. V́ thế, xưng hô
trong Phật môn có Ḥa Thượng, có A Xà Lê. Ḥa Thượng
là người trực tiếp dạy bảo, chỉ dạy
chúng ta, đảm nhiệm việc dạy dỗ. Trước
kia, một ngôi chùa là một trường học, tức ngôi
trường Phật giáo, Ḥa Thượng giống như
Hiệu Trưởng hiện thời, vị
ấy chịu trách nhiệm toàn thể việc giáo dục [trong
nhà trường]. A Xà Lê (Ācārya) giống như giáo viên,
giáo viên là người chấp hành nhiệm vụ dạy học.
Quy hoạch, thiết kế, ấn định phương
châm giáo học là do vị hiệu trưởng, ai dạy quư
vị? Hiệu trưởng dạy! Những người khác
giúp đỡ hiệu trưởng, chấp hành kế hoạch
giáo dục của vị ấy mà thôi. V́ thế, Ḥa Thượng
chỉ có một, không có nhiều như vậy. Nay chúng ta
thấy những người cạo đầu đều
kêu là ḥa thượng, như vậy là không đúng! Đó là
kiến thức Phật học thông thường chúng ta phải
biết. Nh́n từ cách xưng hô này, ta thấy trong tôn giáo
không có kiểu xưng hô ấy, chẳng có quan hệ ấy,
Phật giáo đích xác là giáo dục, là giáo học. Chúng ta phải
nhận biết rơ rệt th́ mới có thể thật sự
đạt được lợi ích nơi Phật pháp.
Ở
đây, Phật là Chủ Thành Tựu. Trong pháp hội này, vị
giảng kinh, thuyết pháp, giáo học là Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật, cũng chính là vị mà nay ta gọi là “người
chủ giảng”.
Tại
Vương Xá thành Kỳ Xà Quật sơn trung.
在 王 舍 城
耆 闍 崛 山 中。
(Tại thành Vương Xá, trong
núi Kỳ Xà Quật).
Đây
là xứ sở. Kinh thường dùng chữ Tại (在), chẳng dùng chữ
Trụ (住). Trụ và Tại có sai biệt.
Ở đây, phần chú giải giảng: “Tạm thời viết Tại, cửu đ́nh viết
Trụ” (tạm thời th́ là Tại, dừng lại lâu
ở nơi nào th́ gọi là Trụ). Kinh Phật luôn nói đức
Phật ở tại một nơi nào đó, chẳng nói đức
Phật trụ tại chỗ nào đó. Nếu nói đức
Phật trụ th́ chẳng thể nói là xuất gia. V́ sao?
Trụ th́ nhất định có nhà. Nhà quư vị trụ ở
chỗ nào? Ngài xuất gia, chẳng có nhà, không có chỗ nào
là nhà để trụ. Không có chỗ trụ, nay quư vị ở
chỗ nào? Tại và Trụ sai khác, chẳng giống nhau. Hễ
xuất gia th́ tận hư không khắp pháp giới đều
là nhà của chúng ta, ngôi nhà ấy quá lớn. V́ thế, khi ấy,
chẳng thể nói là Trụ, quư vị ở tại chỗ
nào? Xưa kia, hoàng đế lấy cả nước làm một
nhà, quốc gia: Quốc là nhà của vua. Hoàng đế ở
chỗ nào đó, không nói là Trụ, mà gọi là “hành tại” (行在), [ngụ ư] nay vua đang đi đến nơi
nào; v́ sao? Vua chẳng rời
khỏi nhà. Ví như nói quư vị đang ở trong nhà, từ
pḥng này sang pḥng khác, quư vị trụ ở chỗ nào? Chẳng
thể nói là Trụ, [mà phải nói là] quư vị đang ở
tại nơi đâu? Tôi ở trong pḥng, tôi ở tại pḥng
khách, tôi ở trong bếp, dùng chữ Tại, chẳng thể
nói tôi trụ pḥng khách, tôi trụ trong bếp, chẳng thể
nói theo kiểu đó. Hoàng đế lấy cả nước
làm nhà, sẽ chẳng thể nói trụ trong địa phương
nào, mà nói là ở tại địa phương nào. Phật
coi tận hư không khắp pháp giới là nhà, đương
nhiên càng chẳng thể nói “trụ ở nơi đâu”. Chúng
ta phải biết ư nghĩa được bao hàm trong các văn
tự này. Phải biết đức Phật giảng kinh
này tại núi Linh Thứu, chỗ này chúng tôi cũng không cần
phải nói nhiều, phần chú giải cũng giảng rất
rơ ràng.
Cuối
phần chú giải có mấy câu, chúng ta đọc một lượt,
những câu ấy rất đáng cho chúng ta tham khảo. Xem trang
chín mươi hai, xem từ câu thứ hai nơi ḍng thứ
năm đếm từ dưới lên: “Phàm thánh các các hữu năng trụ chi pháp” (phàm
thánh mỗi vị đều có pháp để có thể trụ).
Đây là nói tới Tại và Trụ. Đối với phàm
phu và thánh nhân, Trụ là tâm quư vị an trụ ở nơi đâu?
Tâm quư vị trụ ở chỗ nào? “Thả như tỳ-kheo tu Giới, Định, Huệ,
năi dĩ Thiên, Phạm, Thánh Trụ, trụ ư pḥng xá.
Nhược phá giới, tắc dĩ địa ngục,
súc sanh, trụ ư pḥng xá” (lại như tỳ-kheo tu
Giới, Định, Huệ, bèn dùng Thiên Trụ, Phạm Trụ,
Thánh Trụ để làm pḥng nhà mà trụ. Nếu phá giới,
bèn dùng địa ngục, súc sanh để làm pḥng nhà mà trụ).
“Pḥng xá” ở đây là nói tỷ
dụ, chẳng phải là thật. Ở đây, chúng ta phải
lưu ư, phải kiểm điểm, phải phản tỉnh,
rốt cuộc tâm chúng ta đang trụ ở nơi đâu?
Nói “trụ ở nơi đâu”,
tức là tâm quư vị thường ghi nhớ, vương
vấn điều ǵ th́ tâm quư vị trụ ở nơi đó.
Nếu tâm quư vị niệm niệm đều là Giới,
Định, Huệ, tốt lắm! Quư vị trụ trong Phật
pháp. Siêng tu Giới, Định, Huệ, đoạn diệt
tham, sân, si, tốt lắm! Nếu tâm quư vị niệm niệm
đều là tham, sân, si, vậy là quư vị trụ nơi
tham, sân, si. Trụ trong Giới, Định, Huệ, quả
báo là người, trời. Nếu trong tâm suốt ngày từ
sáng đến tối đều nghĩ đến tham,
sân, si, quả báo là trong tam đồ, tức là địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tâm quư vị tưởng ǵ,
liền biến thành thứ đó. Sức tưởng càng
mạnh th́ chuyển biến càng mau! “Như năng tu Nhất Tâm Tam Quán, tắc sở trụ
xứ tức Không, Giả, Trung, khởi phi Lăng Nghiêm vi năng
trụ pháp” (Nếu có thể tu Nhất Tâm Tam Quán th́ nơi
để trụ chính là Không, Giả, Trung, há chẳng phải
là pháp để trụ trong Lăng Nghiêm ư). Đây là nói
tới Đại Thừa Bồ Tát trụ, trụ trong Tam
Chỉ Tam Quán, c̣n trời, người, Tiểu Thừa trụ
trong Giới, Định, Huệ. “Sơ tâm thượng nhĩ, như hà Quả Phật?
Duy luận thân trụ, suy chi, nhược ngă sài năng tinh
tŕ Phật hiệu, chuyên tu tịnh nghiệp,
đương xứ vô phi Cực Lạc Tịnh Độ
hỹ” (Sơ tâm mà c̣n như thế, huống hồ vị
Phật đă chứng quả giác? Chỉ luận về thân
trụ, suy ra, nếu bọn ta có thể tŕ Phật hiệu
chuyên ṛng, chuyên tu tịnh nghiệp, ở ngay nơi đây
th́ không đâu chẳng phải là Cực Lạc Tịnh
Độ vậy). Câu cuối cùng quan trọng. Hiểu
đạo lư ấy, trong tâm chúng ta suốt ngày từ sáng đến
tối nhớ Phật, niệm Phật, chúng ta trụ ở
nơi đâu? Chúng ta trụ trong thế giới Cực Lạc.
Một người tuy chưa đến thế giới Cực
Lạc, nhưng tâm đă trụ trong thế giới Cực
Lạc; do tâm đă trụ trong thế giới Cực Lạc,
lẽ nào chẳng sanh về thế giới Cực Lạc?
Điều này rất quan trọng! V́ lẽ đó, ngàn vạn
phần đừng vướng mắc hết thảy các
pháp thế gian và xuất thế gian.
Chính
tôi trong mười năm gần đây, nói thật ra, thường
rong ruổi bên ngoài, đối với sự tu học của
chính ḿnh có lợi ích rất lớn, lợi ích ở chỗ
nào? Không có trụ xứ! Ở chỗ này hai tháng, lại vội
vàng thu thập hành lư để ra đi. Ở Đài Loan lâu
nhất là hai tháng, ở lâu nhất hai tháng lại ra đi,
chẳng có trụ xứ. Ở Mỹ, chúng tôi thường
đi mười mấy nơi để giảng kinh, đi
khắp Đông,
Lại
xem câu kế tiếp là Chúng Thành Tựu trong trang chín
mươi lăm.
Dữ
đại tỳ-kheo chúng.
與 大 比 丘
眾。
(Cùng với các vị đại
tỳ-kheo).
Tôi
chẳng cần giải thích núi Linh Thứu. Thành Vương
Xá lẫn núi Linh Thứu đều chẳng cần giải
thích. Trong trang chín mươi lăm, đối với câu “dữ đại tỳ-kheo
chúng”, chúng ta xem phần giải thích. Chúng ta phải đặc
biệt lưu ư đoạn này, nghiêm túc học tập. “Dữ giả, cộng nghĩa”
(Dữ có nghĩa là cùng), cùng ở chung với mọi
người. “Nhất xứ”,
đây là xứ sở, cùng một nơi chốn. “Nhất thời” là cùng một
thời gian, chẳng phải là trước sau sai biệt,
mà là cùng một thời gian. “Nhất
tâm, nhất giới”, nhất tâm là kiến ḥa đồng
giải, mọi người trong đạo tràng này cùng nhau
tu tập một pháp môn. Ví như đạo tràng này tu pháp môn
Niệm Phật, chúng ta căn cứ vào kinh Vô Lượng
Thọ. Tuy Tịnh Độ là năm kinh một luận,
nếu ở chỗ này, chúng tôi căn cứ trên kinh Vô Lượng
Thọ, kẻ khác y cứ kinh Quán Vô Lượng Thọ, sẽ
thành tranh căi, cùng là pháp môn Tịnh Độ mà cũng không
xong! Tịnh Độ năm kinh một luận, do có sáu bộ
kinh luận, sẽ mở thành sáu đạo tràng, sáu đạo
tràng ấy chẳng thể cùng gộp lại. Hễ gộp
chung lại sẽ tranh căi, v́ sao? Kiến giải khác nhau, sẽ
có tranh luận. Quyết định là nương theo một
bộ, kiến giải mới giống nhau, mọi người
chẳng bàn ra tán vào, cùng nhau đều phải tuân thủ.
Cho nên, cùng là tu Tịnh Độ đạo tràng, đạo
tràng này của tôi nương vào kinh Vô Lượng Thọ,
đạo tràng của người khác nương vào kinh A
Di Đà, đạo tràng nọ nương theo kinh Quán Vô Lượng
Thọ, có thể được, đều có thể thành
tựu. Thành tựu chẳng có cao thấp, quyết định
là b́nh đẳng, nhưng chẳng thể hợp lại cùng
một chỗ. Hễ hợp lại, chắc chắc có rắc
rối! Nếu người này niệm Phật, người
kia tham Thiền, người nọ niệm chú, phiền phức
c̣n lớn hơn nữa, chắc chắn là chẳng thể
thành tựu.
Trung Quốc từ
xưa tới nay, mỗi đạo tràng đều có học
phong và đạo phong của đạo tràng ấy, nên họ
đều có thành tựu. Học phong là kinh luận để
căn cứ, đạo phong là phương pháp tu hành, ắt
phải là hoàn toàn giống nhau th́ mới thật sự là
chí đồng đạo hợp, mới là “hảo đồng
tham”, tức là đồng tham đạo hữu tốt đẹp.
Nay đối với hoàn cảnh tu học, khó nhất là t́m
không ra một nơi chốn như vậy, chính ḿnh mong t́m được
một đạo tràng tu học chẳng dễ dàng t́m được.
Tuy có nhiều đạo tràng, nhưng nếu nói đến
đạo phong và học phong th́ đều không có. Hiện
tại có nhiều đạo tràng, chúng ta thấy rất
nhiều người trụ, nhưng mạnh ai nấy tu,
mọi người cùng tu là khi nào? Là hai thời công khóa sớm
tối. Hai thời công khóa qua quít, không quan tâm, nói thật
ra, hầu như chẳng có mảy may ǵ liên quan đến
sự tu học! V́ thế, trong đạo tràng có lắm ư
kiến, thậm chí rất nhiều phe phái! Mấy người
một phái, lôi kéo mấy tín đồ theo phe của họ,
đôi bên tranh chấp với nhau, kèn cựa lẫn nhau, đấu
tranh kiên cố! Chỗ như vậy chẳng gọi là đạo
tràng! Nếu gọi là đạo tràng, đấu qua đấu
lại đều là ba ác đạo, [nơi đó] là đạo
tràng tu ba ác đạo, chẳng phải là đạo tràng của
Phật, Bồ Tát. Tu ǵ ở nơi đó? Tu tham, sân, si, quả
báo trong tương lai là địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh, lầm lẫn đặc biệt to tát!
Nhất
tâm, nhất giới, giới là quy luật sinh hoạt, thảy
đều phải tuân thủ quy phạm sinh hoạt. “Nhất đạo, nhất kiến,
nhất giải thoát” (cùng một đạo, một kiến
giải, một vị giải thoát), đó là nói đến
phương pháp. Kiến là lư luận, lư luận, kiến
giải, giải thoát là tự tại. Chữ “đẳng” có nghĩa là c̣n
nhiều nữa, chỉ nêu đại lược mấy
thứ. “Giai nhất” (đều
là một), thảy đều phải tuân thủ. “Cố danh Cộng dă” (nên gọi
là Cùng), như vậy th́ mới gọi là Cộng. Đức
Phật chế định giới điều cơ bản
cho chúng ta, giới điều cơ bản để đại
chúng cùng ở chung với nhau là Lục Ḥa Kính. Ngũ Giới,
Thập Giới, Sa Di Giới, Tỳ Kheo Giới do chính ḿnh
tuân thủ, chẳng phải là đ̣i hỏi mọi người
phải tuân thủ, mà là bản thân mỗi cá nhân phải dùng
những giới điều ấy để ràng buộc (kiềm
chế) chính ḿnh. Giới điều cơ bản để
đại chúng ở chung với nhau là Lục Ḥa Kính. Bốn
người cùng tu với nhau, từ bốn người trở
lên, có thể tu Lục Ḥa Kính, bèn gọi là Tăng Đoàn.
V́ thế, Tăng đoàn là đoàn thể cộng trụ của
đệ tử Phật. Đoàn thể như vậy, mười
phương chư Phật hộ niệm, hết thảy
long thiên hộ pháp quỷ thần đều ủng hộ.
V́ sao? Đó là đạo tràng danh phù hợp thật, là đạo
tràng của Phật, Bồ Tát, chí tôn, chí quư, tột bậc
tôn quư trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian. V́ thế, tội lỗi phá hoại Tăng đoàn ấy
là A Tỳ địa ngục.
Nhưng
trong hiện tại, hai người ở chung, ư kiến cũng
khác nhau. Bốn người ở chung với nhau, ư kiến,
kiến giải giống nhau, tôi học Phật nhiều năm
như vậy mà chưa hề thấy. Trung Quốc, ngoại
quốc cho măi tới bây giờ chưa hề thấy. Chẳng
có Tăng đoàn Lục Ḥa Kính, đáng chán quá! Nói thật
thà, nếu Đài Loan xuất hiện một Tăng đoàn
Lục Ḥa Kính, đảo báu này có phước, v́ sao?
Chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, long thiên hộ tŕ,
cuộc đất này chắc chắn chẳng gặp nạn.
V́ sao chẳng thể tu Lục Ḥa Kính? Do không chịu buông lợi
ích của chính ḿnh xuống, v́ tự tư tự lợi, chẳng
có cách nào nữa! T́m được bốn người thật
sự có thể buông tự tư tự lợi xuống, chúng
ta v́ hai ngàn vạn đồng bào cầu phước, chẳng
có ai phát tâm như vậy, thế mà vẫn nói “phát Bồ Đề tâm, chúng sanh
vô biên thệ nguyện độ”. Độ ngoài miệng,
trong tâm chẳng độ! Khó lắm! Thật sự là khó,
mấy ai chịu phát tâm? Do đó, Lục Ḥa Kính là giới
điều cơ bản. Đệ tử thật sự của
Phật mà chẳng thể giữ Lục Ḥa Kính, nói thật
thà, sẽ chẳng phải là đệ tử Phật. Tự
xưng là đệ tử Phật, quư vị tự
xưng, Phật, Bồ Tát chẳng thừa nhận, long thiên
quỷ thần cũng chẳng thừa nhận. Chúng ta phải
đặc biệt chú ư chuyện này.
Trong
Lục Ḥa Kính, quan trọng nhất là hai điều đầu
tiên. Điều thứ nhất là kiến giải, tư tưởng
phải giống nhau, thật sự là chí đồng đạo
hợp. Thứ hai là Giới Ḥa Đồng Tu, tức là cuộc
sống có trật tự, có khuôn khổ. Mọi người
ở chung với nhau phải có quy củ. Quy củ ấy
có thể do chính ḿnh ước định, Phật môn gọi
[quy củ ấy] là Thanh Quy. Thanh Quy là giới luật hiện
đại hóa, là giới luật được bản
địa hóa, trong lúc này, tại cơ sở, nơi chốn
của chúng ta, sống trong hoàn cảnh này, chúng ta hăy nên thực
hiện như thế nào? Bản địa hóa tinh thần
và nguyên tắc do đức Phật đă dạy, chính là đối
với chi tiết thực hiện như thế nào th́ chúng
ta có thể tu chỉnh, ước định, sau khi đă
tu chỉnh xong, mọi người phải tuân thủ. V́ vậy,
mỗi tự miếu có quy củ của riêng tự miếu
ấy. “Thường trụ
công ước” th́ phải là bản địa hóa, hiện
đại hóa Thanh Quy, nhưng đều tuân thủ tinh thần
giới luật.
“Thân đồng trụ”: Đồng
trụ th́ mỗi người một liêu pḥng chẳng gọi
là đồng trụ. Mỗi người một căn pḥng
chẳng gọi là đồng trụ. Đồng trụ là
ǵ? Giống như pḥng ngủ tập thể trong quân đội,
đó là đồng trụ. Mỗi người ngủ một
pḥng, tu hành rất khó thành tựu, v́ sao? Phiền năo tập
khí của chúng ta hết sức nặng, lúc đông người,
sẽ thấy chúng ta rất quy củ, ngon lành lắm! Nhưng
khi chẳng ai nh́n tới, sẽ buông lung, tật xấu lộ
ra hết, đâu có ai thấy! Tối ngủ chung một pḥng
tập thể, vẫn là thấy rơ mồn một, quư vị
ngủ nghê cũng giữ đúng quy củ, thật thà, chẳng
thể loạn động, nên có thể thu được
hiệu quả. V́ thế, quân đội nhất định
phải ngủ trong pḥng ngủ tập thể. Chẳng ngủ
trong pḥng tập thể, sẽ tạo phản. Trong quân
đội, cứ một ban là một đơn vị, mười
mấy người ngủ chung một pḥng tập thể,
do ban trưởng cầm đầu, họ sẽ chẳng
thể tạo phản. Học tṛ, giống như chúng tôi đi
học trước đây, trong thời Kháng Chiến chúng tôi
đều ngủ trong pḥng tập thể, do một thầy
cai quản, dễ cai quản. Mỗi người một
pḥng th́ có thể quậy phá. Người xuất gia
cũng là như thế, mỗi người một pḥng tuyệt
đối sẽ chẳng thể tu đạo thành tựu,
trước mặt người khác là một kiểu, sau lưng
lại là một kiểu khác! V́ thế, đạo tràng tại
Đại Lục xưa kia đều là pḥng ngủ tập
thể, chẳng ngăn thành pḥng riêng. Ngăn thành pḥng riêng
dành cho người tu hành đă lâu, từ sáu mươi tuổi
trở lên, hành động chậm chạp, động tác
khá chậm, không theo kịp đại chúng, người
như vậy có thể ngủ một pḥng riêng. C̣n có các chấp
sự về hưu, đă phục vụ thường trụ
rất nhiều năm, như các vị Phương Trượng,
Trụ Tŕ, Đương Gia Sư, Tri Khách Sư, do phải
có trách nhiệm nên họ có pḥng riêng. Thanh chúng (đại
chúng thanh tu) đều phải ngủ trong pḥng tập thể.
Thanh chúng là người tu hành chân chánh. Đồng Trụ có
ư nghĩa này. Nếu chẳng hiểu rơ ràng, sẽ thường
làm sai. Hiện thời, chùa miếu có tiền, xây thật lớn,
trong đó có rất nhiều liêu pḥng, mỗi pḥng đều
có pḥng vệ sinh riêng, có pḥng phụ, mỗi người ở
một căn, mong văng sanh rất khó, rất không dễ dàng!
Nếu muốn đắc Định, khó lắm! Thành tựu
tam-muội rất khó khăn, tôi nói thật đấy! Cuộc
sống như vậy mà có thể thành tựu th́ chính là Phật,
Bồ Tát tái lai, chẳng phải là lũ phàm phu chúng ta mà ḥng
tu thành, phải là Phật, Bồ Tát tái lai.
“Khẩu vô tránh”, mọi
người ở chung với nhau quyết định chẳng
tranh căi. “Ư đồng duyệt”,
pháp hỷ sung măn. “Lợi đồng
quân”, tứ sự cúng dường mọi người đều
b́nh đẳng, rất khó thực hiện. A! Chúng ta tan học!
Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần
4 hết
[1] Bộ kinh này có tên gọi đầy
đủ là Phật Thuyết Quán Phổ Hiền Bồ Tát
Hạnh Pháp Kinh, do ngài Đàm Ma Mật Đa nước
Kế Tân dịch vào năm Nguyên Gia nguyên niên (424)
đời Lưu Tống. Kinh dạy về phương
pháp tu hành của Phổ Hiền Bồ Tát, đồng
thời dạy cách tu Pháp Hoa tam-muội và pháp môn sám hối.
Kinh này cùng với kinh Pháp Hoa và kinh Vô Lượng Nghĩa
được tông Thiên Thai gọi là Pháp Hoa Tam Bộ Kinh.
[2] “Hữu
ấn” được dùng với ư nghĩa Hữu Biên.
Câu này tạm hiểu thô thiển như thế này: Tuy nhân
và quả đều là Thật Tướng, tức Sự
(nhân và quả) chẳng rời khỏi Lư (Thật
Tướng), do chúng đều có cùng một Thể nên “bất dị” (chẳng khác).
Xét theo Sự th́ nhân và quả sai khác, nên nói “nhi dị” (mà khác). Do Lư mà hiển Sự, nên
chẳng phải là không Có. V́ thế, nói là “phi đảo Hữu Ấn” (chẳng phải là
xóa bỏ Có).
[3] Tông Trí là danh xưng khác của Tông Thú.
Trí và Thú có cùng một ư nghĩa. Cụ Hoàng Niệm Tổ
giảng: “Điều
được kinh đề cao gọi là Tông (宗). Tông là trọng yếu,
là tông chỉ của toàn bộ kinh. Tông lại là
đường lối trọng yếu để tu hành. V́
vậy, Tông là cương lănh của toàn bản kinh… Ngài
Hương Tượng giảng: ‘Điểm
được coi trọng là Tông, chỗ quy hướng của
tông th́ gọi là Thú’. Ngài Khuê Phong đại sư viết
trong sách Viên Giác Lược Sớ rằng: ‘Thú có
nghĩa là hướng đến, tức là chỗ quy
hướng của tâm ư thức’. Đủ biết: Thú (趣) là quy thú (歸趣: Hướng
đến, quay về). V́ vậy, dựa vào tông chỉ
của kinh để tỏ rơ việc làm, biết
điều mong cầu, thấu đáo tột cùng chỗ
kinh đạt đến th́ gọi là Thú vậy”.
[4] Công lợi (utilitarianism) có nghĩa là
nhằm để đạt được mục
đích có lợi cho bản thân, bất kể phương
tiện, không cần quan tâm điều đó sẽ gây
ảnh hưởng có hại cho người khác hay không.
[5] Mười ba kinh của Nho Gia (Thập
Tam Kinh) là Châu Dịch (kinh Dịch), Thượng Thư
(kinh Thư), Thi Kinh (kinh Thi), Châu Lễ, Nghi Lễ, Lễ
Kư, Tả Truyện, Công Dương Truyện, Cốc
Lương Truyện, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Nhĩ
Nhă, Mạnh Tử. Nói cách khác mười ba kinh ngoại
trừ Nhĩ Nhă (thuộc loại tự điển) và
Hiếu Kinh ra, nội dung các “kinh” c̣n lại xoay quanh Tứ
Thư (Đại Học và Trung Dung thật ra là các thiên
sách trong Lễ Kư) và Ngũ Kinh (các bộ Tả Truyện,
Công Dương Truyện, Cốc Lương Truyện là
chú giải của kinh Xuân Thu).
[6] Theo tông Thiên Thai, Phương
Đẳng có ba cách hiểu:
1. Giải thích theo Lư, Phương là chánh đáng, khuôn
phép, Đẳng là b́nh đẳng. Hiểu theo nghĩa này,
toàn bộ kinh điển Đại Thừa đều có
thể gọi là Phương Đẳng. Trong Duyệt
Tạng Tri Tân, Ngẫu Ích đại sư giảng: “Phương Đẳng c̣n
gọi là Phương Quảng… Bắt đầu từ
Hoa Nghiêm cho đến Đại Niết Bàn, hết
thảy các kinh thuộc về Bồ Tát Pháp Tạng
đều gọi là kinh điển Phương
Đẳng”. Ngài Nguyên Chiếu giảng trong A Di Đà
Kinh Sớ như sau: “Thật
Tướng diệu lư, theo chiều ngang trọn khắp
các pháp, nên gọi là Phương Quảng. Theo chiều
dọc tột cùng thánh phàm, nên nói là b́nh đẳng”.
2. Giải thích theo mặt Sự th́ Phương có
nghĩa là rộng răi, Đẳng là quân b́nh. Hàm nghĩa:
Trong thời thứ ba, khi đức Phật nói các kinh này,
bất luận căn cơ lợi, độn, Tạng,
Thông, Biệt, Viên, đều được lợi ích, nên
gọi là Phương Đẳng.
3. Ước theo cả Sự và Lư để giải
thích, Phương là phương pháp, Đẳng là Lư
Thể b́nh đẳng. Nương theo phương pháp
của tứ giáo đều khế nhập lư b́nh
đẳng nên gọi là Phương Đẳng. Sách
Chỉ Quán quyển hai giảng: “Phương
Đẳng hoặc c̣n nói là Quảng B́nh, nay nói
Phương là phương pháp. Bát Nhă có bốn
phương pháp, tức là do bốn môn mà vào ao thanh
lương, đó chính là Phương. Lư được
khế nhập là đại huệ b́nh đẳng, đó
chính là Đẳng”.
[7] Vĩnh Gia là niên hiệu của Tấn
Hoài Đế (Tư Mă Xí) từ năm 307 đến 313 nhà
Tây Tấn.
[8] Ngài Cương Lương Da Xá (Kalayas,
383-442), dịch nghĩa là Thời Xưng, người
xứ Tây Vực, tinh thông kinh luận, đặc biệt là
Luật Tạng và A Tỳ Đàm. Ngài thích nhập Định,
mỗi lần nhập Định thường đến
bảy ngày. Ngài đến Trung Hoa vào năm Nguyên Gia nguyên
niên (424), trụ tích tại Đạo Lâm Tinh Xá ở Chung Sơn,
Kiến Nghiệp. Năm Nguyên Gia 19, Ngài du hóa khắp vùng Mân,
Hàng. Đồ chúng theo học rất nhiều, hiện
thời ngoài Quán Kinh, Đại Tạng c̣n giữ
được một bản kinh khác do Ngài dịch là Quán
Dược Vương Dược Thượng Nhị
Bồ Tát Kinh. Ngài viên tịch tại Giang Lăng.
[9] Nhà Lưu Tống tồn tại từ
năm 420 đến năm 479, là triều đại có lănh
thổ lớn nhất trong thời Nam Bắc Triều, do
Lưu Dụ (Tống Vũ Đế) sáng lập.
Thoạt đầu vào năm 402, đại tướng
Hoàn Huyền nhà Đông Tấn làm phản, chiếm cứ
miền Nam, xưng quốc hiệu là Sở. Lưu Dụ
đứng lên xướng suất quân Cần Vương,
dần dần thế lực ngày càng mạnh, bèn khởi
lên dă tâm, ép Tấn Cung Đế (Tư Mă Đức Văn)
nhường ngôi cho ḿnh. Do ḍng họ Lưu Dụ xuất
thân từ Bành Thành là đất cũ của nước
Tống thời Xuân Thu, nên lấy quốc hiệu là
Tống. Sử gọi triều đại này là Lưu
Tống nhằm phân biệt với Triệu Tống
(Bắc Tống và Nam Tống, 960-1279) do Triệu Khuông
Dẫn sáng lập sau này. Nguyên Gia là niên hiệu của
Tống Văn Đế (Lưu Nghĩa Long) từ năm
424 đến năm 453.
[10] Nguyên văn “toản
ngưu giác tiêm” (mài nhọn đầu sừng trâu),
đây là một thành ngữ ngụ ư: Tốn công phí sức
t́m ṭi, nghiên cứu, rốt cuộc chỉ là chuyện
thừa thăi, chẳng thể giải quyết vấn
đề. Từ ngữ này c̣n có một ư nghĩa khác là
kiến giải hẹp ḥi, chẳng thể mở rộng
tầm nh́n.
[11] Chánh Sóc (正朔):
Chánh có nghĩa là khởi đầu của một năm,
Sóc là ngày đầu tiên trong một tháng. Hiểu theo
nghĩa hẹp, Chánh Sóc chính là ngày mồng Một tháng Giêng.
Để định ra chánh xác ngày này, phải thông qua
việc quan trắc thiên văn kỹ lưỡng, chỉ
có giới cầm quyền mới có đủ nhân lực
và tài lực tiến hành. Việc này được coi là
“giao tiếp với thượng thiên để thấu
hiểu thiên ư”, nên chỉ có nhà vua mới có quyền ban hành
lịch pháp. Cho măi đến đời Thanh, nếu
người nào tự tiện quan sát thiên văn mà không
phải là quan chức của Khâm Thiên Giám sẽ bị
kết tội phản nghịch.