Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 4

觀無量壽佛經疏鈔演義

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Thời gian: Khởi giảng từ ngày 01 tháng 12 năm 1990

Địa điểm: Hoa Tạng Đồ Thư Quán, huyện Cảnh Mỹ, Đài Loan

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

Tập 13

 

      Xin mở kinh bổn, trang sáu mươi tám, ḍng thứ hai đếm từ dưới lên:

      “Tam, Minh Tông”: Đây là phần Huyền Nghĩa, cũng là đoạn lớn thứ ba trong phần Khái Yếu. “Tông vị yếu, thử kinh chi yếu, tại tu tâm diệu quán, cảm ư Tịnh Độ” (Tông nghĩa là chánh yếu. Điều chánh yếu trong kinh này là tu tâm diệu quán cảm Tịnh Độ). Phần Biện Thể được nói trong phần trước là căn cứ lư luận, đoạn này nói đến tông chỉ, tức là phương pháp tu hành, cũng là tổng cương lănh tu học của toàn bộ kinh này, hết sức quan trọng. Nếu hiểu rơ lư luận, nhưng chẳng biết phương pháp tu học, th́ vẫn chẳng thể thọ dụng. Phương pháp tu hành trong kinh này là Quán, tức là mười sáu phép Diệu Quán. Chúng ta đọc phần tiếp theo: “Tâm quán, tức thị Nhất Tâm Tam Quán, Thích Danh chi trung, kỳ tướng dĩ ủy” (Tâm quán chính là Nhất Tâm Tam Quán. Trong phần giải thích tên kinh, đă giải thích tướng ấy). “Ủy” () là đă được giải thích. Trong phần trước đă nói qua, [nên lời Sao viết tiếp]: “Cảm độ chi tướng, thử văn bị luận” (trong phần kinh văn nói về tướng trạng của các cơi nước được cảm, đă luận định đầy đủ). Tu Nhất Tâm Tam Quán, cảm được bốn thứ Tịnh Độ, bốn thứ Tịnh Độ đă được nói rơ trong đoạn ấy. “Kim kinh diệu tông, tại thử nhân quả” (tông chỉ mầu nhiệm của kinh này ở trong nhân quả ấy): Nhất Tâm Tam Quán là nhân, cảm bốn cơi [Tịnh Độ] là quả, tu nhân chứng quả. Chúng ta xem đoạn kinh văn tiếp theo.

      “Thứ minh kinh Tông” [nghĩa là] tiếp theo đây, trong đoạn thứ ba, sẽ nói rơ tông chỉ của kinh này. “Sơ giản Tông Thể, thứ chánh minh Tông” (trước hết là biện định Tông và Thể; sau đó, sẽ chánh thức nói về Tông), chia thành hai đoạn. Chúng ta xem kinh văn: “Hữu nhân ngôn, Tông tức thị Thể, Thể tức thị Tông” (có người nói: Tông chính là Thể, Thể chính là Tông). Có kẻ nói như vậy, coi Tông và Thể là một chuyện, thật ra, chẳng đúng, Tông và Thể có sai biệt. “Kim sở bất dụng” (nay chẳng dùng thuyết ấy), [nghĩa là] không chủ trương tuân theo cách nói như vậy. “Hà giả? Tông kư thị nhị, Thể tức bất nhị. Thể nhược thị nhị, Thể tức phi Thể” (V́ lẽ nào? Tông đă là hai, Thể chính là chẳng hai. Nếu Thể là hai, th́ Thể chẳng phải là Thể). Xác thực là bản thể chỉ có một, chẳng thể có hai; hễ có hai, sẽ chẳng thể gọi là Thể được! “Tông nhược bất nhị, Tông tức phi Tông” (Nếu Tông chẳng hai, Tông sẽ chẳng phải là Tông). Tông là phương pháp tu hành. Xác thực là đối với phương pháp tu hành, mỗi bộ kinh có phương pháp riêng của bộ kinh ấy, tuyệt đối chẳng phải là một. “Như lương trụ, thị ốc chi cương duy” (như kèo cột, là cái khung của căn nhà): Nêu tỷ dụ về việc dựng nhà, cột và kèo trong khi dựng nhà hết sức quan trọng. Trước hết, phải gác dựng kèo cột rồi mới có thể lợp nhà. “Ốc không, thị lương trụ sở thủ” (khoảng trống trong căn nhà là do kèo cột tạo thành), sử dụng căn nhà là sử dụng khoảng không gian [trong căn nhà ấy]. Nếu nhà chẳng có khoảng trống bên trong, căn nhà ấy sẽ chẳng thể sử dụng được! V́ thế, nói là “dùng Không”. “Bất ưng dĩ lương trụ thị ốc không, ốc không thị lương trụ” (chớ nên nghĩ kèo cột là khoảng trống trong nhà, coi khoảng trống trong nhà là kèo cột). Nêu tỷ dụ này dễ hiểu, đó là tỷ dụ về Tông. Xét theo bản chất của Tông, th́ quả thật chẳng phải là một, mà là hai; nhưng mối quan hệ giữa Tông và Thể hết sức mật thiết! Tông ắt phải nương vào Thể để kiến lập, tách rời khỏi Thể th́ lấy đâu ra Tông?

      Trong phần Sao tiếp đó, tức là trong phần chú giải, có hai câu nói rất khẩn yếu: “Tông thị nhân, quả thuộc Sự” (Tông là nhân, quả thuộc về Sự). Trong đây, [đă nêu lên] mối quan hệ nhân quả, tu nhân sẽ chứng quả. V́ vậy, Tông là cương lănh tu hành, quả báo là bốn thứ Tịnh Độ ở Tây Phương. “Thể thị nhất tánh, thuộc Lư” (Thể là một tánh, thuộc về Lư), nhân cũng căn cứ trên Lư ấy, mà quả vẫn căn cứ trên Lư ấy, Lư là một. “Tuy bất tương xả, nhị nghĩa tu phân” (tuy chẳng ĺa bỏ nhau, nhưng hai nghĩa vẫn cần phải tách biệt). Xác thực là nhân quả đều có nền tảng là nguyên lư ấy, nhưng chúng ta vẫn phải phân biệt rơ ràng, chẳng thể nói hàm hồ, lẫn lộn được. V́ thế, cần phải tách hai nghĩa ra. “Chấp định thị nhất, ư nghĩa quai vi” (Chấp chặt chúng là một, sẽ trái nghịch giáo nghĩa). Nếu cứ chấp trước nói chúng là một, sẽ mâu thuẫn giáo nghĩa. Kiên quyết chấp trước [Tông và Thể] là một th́ vẫn có thể nói cho suông, nhưng tu hành như thế nào, chứng quả như thế nào, sẽ rất khó! V́ thế, ắt phải phân biệt chúng.

Đoạn kế tiếp, quư vị tự xem lời chú giải. Chúng ta đọc đoạn sau đó: “Giản Tông Thể dị” (Biện định về sự khác biệt giữa Tông và Thể), nói rơ v́ sao chẳng thể nói gộp chung [Tông và Thể] thành một được, mà cứ nhất định phải phân biệt rơ ràng. [Điều này được tŕnh bày trong] hàng thứ hai từ dưới đếm lên nơi trang bảy mươi.

      “Tông Thể dị giả, tắc nhị vật cô điều. Tông phi hiển Thể chi Tông, Thể phi Tông gia chi Thể” ([Nếu hiểu là] Tông và Thể khác nhau, chúng sẽ trở thành hai thứ cách biệt cô lập. Tông sẽ chẳng là cái Tông nhằm hiển Thể, Thể chẳng phải là cội nguồn của cái Tông nữa). Nói thật ra, Tông và Thể có mối quan hệ mật thiết, chính là mối quan hệ “Lư và Sự là cùng một Thể”. Rời khỏi Lư, lấy đâu ra Sự? Chẳng có Sự, Lư cũng chẳng thể hiển thị được. Tông và Thể có mối quan hệ như vậy, mật thiết dường ấy. Do đó, ở đây [lời Sớ] giảng: Nếu nói Tông và Thể khác nhau, sẽ thật sự biến thành hai vật lẻ loi, Tông sẽ chẳng thể hiển Thể. Thể là Chân Như bản tánh. Hết thảy chúng sanh thật sự vốn sẵn có Chân Như bản tánh; tuy sẵn có, nó chẳng hiển lộ, do đă bị mê. Ắt cần phải cậy vào Tu Đức th́ mới có thể hiển lộ Tánh Đức. Tánh Đức là Thể, Tu Đức là Sự, không tu sẽ chẳng thể thành Phật. Nói thật ra, hết thảy chư Phật cũng đều là tu thành, các Ngài tu thành như thế nào? Bổn tánh vốn sẵn trọn đủ, v́ các Ngài có Phật Tánh, nên chỉ cần chịu tu, nhất định là có thể thành Phật. Đây là nêu bày công dụng của mối quan hệ giữa Tông và Thể. Do đó, chớ nên chấp trước [Tông và Thể] là một, mà cũng chẳng thể chấp trước là hai. Hễ chấp trước th́ sai mất rồi, chúng ta hiểu mối quan hệ của chúng như vậy là được rồi!

      Tiếp đó là phần Chánh Thuyết, tức là chỉ bày [Tông là ǵ, điều này được nêu ra trong] hàng thứ tư đếm từ dưới lên nơi trang bảy mươi mốt. “Kim ngôn bất dị nhi dị, cố hữu Tông; bất nhất nhi nhất, cố hữu Thể dă” (nay nói “chẳng khác mà khác” nên có Tông. “Chẳng một mà là một” nên có Thể). Nói rất hay, đây mới là nêu bày chân tướng sự thật. Chúng ta xem chú giải: “Phổ Hiền Quán Kinh vân, Đại Thừa nhân giả, chư pháp Thật Tướng thị, Đại Thừa quả giả, chư pháp Thật Tướng thị. Thật Tướng nhân quả, bất dị nhi dị, phi đảo Hữu ấn, thử vi diệu tông. Nhân quả Thật Tướng, bất nhất nhi nhất, phi sự ngoại lư, thử vi diệu thể” (Kinh Phổ Hiền Quán[1] nói: “Cái nhân của Đại Thừa là Thật Tướng của các pháp, quả của Đại Thừa là Thật Tướng của các pháp”. Thật Tướng nhân quả, chẳng khác mà khác, chẳng xóa bỏ Hữu ấn[2], đấy là diệu tông. Thật Tướng nhân quả, chẳng phải một mà là một, chẳng phải là Lư ở ngoài Sự, đấy chính là diệu thể). Đoạn giải thích này rất hay, lời lẽ đơn giản, nhưng ư nghĩa trọn vẹn. Ĺa khỏi Thật Tướng sẽ chẳng có một pháp nào để được! Nói đơn giản, Thật Tướng là chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, đó là Lư Thể. Chúng ta tu hành ắt phải thuận theo nó, nương vào nó, mà chứng quả cũng chính là nó. Từ chỗ này, chúng ta hiểu hết thảy các pháp xác thực là quy nhất (trở về một), giống như Thiền Tông đă nói “vạn pháp quy nhất”, nhất là ǵ vậy? Nhất Thật Tướng.

      Mục đích tu học chung cực trong Phật pháp là khiến cho chúng ta nhận thức chân tướng của vũ trụ và nhân sinh; hễ nhận thức chân tướng của vũ trụ, sự tu hành chứng quả trong Phật pháp bèn viên măn. Do vậy, nếu chư vị hỏi Phật pháp là ǵ? Mấy câu đơn giản này đă nói trọn hết toàn bộ Phật pháp. Vấn đề vướng mắc trong hiện tại của chúng ta là chẳng biết chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Không chỉ chẳng biết vũ trụ và nhân sinh, mà ngay cả chính ḿnh cũng chưa hiểu rơ ràng, đó là mê, là điên đảo. V́ lẽ đó, mọi cách nh́n, cách thấy, cách làm đều phát sanh sai lầm, những sai lầm ấy đă đem lại cho chúng ta rất nhiều nỗi thống khổ! Chúng ta học Phật th́ phải nhận thức chính ḿnh, nhận thức vũ trụ, nhận thức nhân sinh. Đă hiểu thật rơ chân tướng th́ tư tưởng, kiến giải và cách làm của chúng ta sẽ chẳng phạm sai lầm nữa. Chẳng phạm sai lầm, sẽ chẳng có đau khổ, chẳng c̣n khổ nạn nữa. Đó là mục đích giáo học và tu học trong Phật pháp. Phương pháp trong kinh này hết sức xảo diệu. Tông là tông chỉ tu hành, [tông chỉ tu hành của Quán Kinh] là một tông chỉ tu hành xảo diệu, quả đức của diệu tông là diệu thể.

      Tiếp đó, nói thẳng thừng tông chỉ của bản kinh này. Trong hàng thứ hai, nơi trang bảy mươi hai: “Kim thử kinh Tông” (nay Tông của kinh này), “thử kinh” là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, tông chỉ của bộ kinh này là ǵ? Cương lănh quan trọng trong tu hành là ǵ? “Dĩ tâm quán tịnh, tắc Phật độ tịnh, vi kinh Tông Trí” (Do tâm quán tịnh th́ cơi Phật tịnh, đó là Tông Trí[3] của kinh). “Trí” () là đạt tới mức tột bậc. Câu này hết sức quan trọng, đúng như kinh Tịnh Danh đă nói: “Tâm tịnh th́ cơi Phật tịnh”. Chư vị đồng tu tu học Tịnh Độ, bất luận quư vị dùng Quán Tưởng, Quán Tượng, hay Tŕ Danh để niệm Phật, điều khẩn yếu nhất là phải đạt đến cái tâm thanh tịnh. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, quư vị quán tưởng, quán tượng, hay tŕ danh đều chẳng đạt được kết quả. Giống như học hành trong trường, tuy học tập rất siêng năng, đi thi chẳng đậu, v́ sao? Quư vị chẳng nắm được trọng điểm, trọng điểm chính là tâm thanh tịnh. Nói thật thà, hiện thời chúng ta tu hành công phu chẳng đắc lực, là do nguyên nhân nào? Chúng ta chịu niệm kinh, mỗi ngày niệm khá nhiều lượt, chịu niệm Phật, một ngày niệm mấy vạn tiếng, nhưng tâm chẳng thanh tịnh! Vừa niệm vừa c̣n suy nghĩ loạn xạ, lại c̣n có thị phi, nhân ngă, lại c̣n thấy khuyết điểm của kẻ khác, bươi móc tật xấu của người ta, vậy th́ làm sao được nữa đây? Kẻ như vậy chẳng biết niệm Phật tu hành chính là tu cho hết những phiền năo, tập khí, khuyết điểm. Hễ xóa bỏ chúng, tâm sẽ thanh tịnh. Khôi phục tâm địa thanh tịnh, chúng ta liền đạt được mục đích tu học, hiện tiền là đạt được thân tâm thanh tịnh, tự tại an lạc, trong tương lai văng sanh Tịnh Độ. Quư vị nói xem: Có quan trọng lắm hay không?

      Chúng ta xem chú giải. Đoạn chú giải này hết sức khẩn yếu, có mối quan hệ mật thiết với niềm kỳ vọng trong sự tu học của chúng ta trong hiện thời: “Đại Thừa chi pháp, kỳ yếu tại tâm” (Điều quan trọng trong pháp Đại Thừa là tâm). Khác với pháp Tiểu Thừa, pháp Tiểu Thừa chú trọng sự tướng, chú trọng những chuyện vụn vặt trong cuộc sống. Pháp Đại Thừa coi trọng tâm thanh tịnh, khác hẳn! “Tâm cụ dị tri, sắc cụ nan giải” (tâm trọn đủ dễ biết, sắc trọn đủ khó hiểu), “cụ” () là trọn đủ. Kinh nói trong tâm trọn đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, chúng ta nghe xong, dường như có thể hiểu t́nh h́nh ấy. Sắc là sắc tướng, nhưng [nghe nói] sắc tướng cũng trọn đủ th́ chẳng dễ hiểu, khó hiểu lắm. “Cố Chỉ Quán vân, nhân thông dị thức, quả cách nan tri” (v́ vậy, sách Chỉ Quán nói: “Nhân do tương thông nên dễ biết, quả do sai khác nên khó hiểu”). “Quả” là quả báo, quả báo có tới mười pháp giới; c̣n nói tới nhân th́ mười pháp giới có nền tảng là một cái nhân, tức là tâm. Mười pháp giới chỉ do tâm hiện, chỉ do thức biến. Thức là Dụng (tác dụng) của tâm, chẳng phải là bản thể của tâm, mà là tác dụng của tâm. Tác dụng của tâm c̣n có thuận, nghịch, có tác dụng thuận tánh, có tác dụng trái nghịch tự tánh. Thuận theo tự tánh, liền biến thành quả báo trong tứ thánh pháp giới; trái nghịch tự tánh, liền biến thành quả báo trong lục phàm. Thuận, nghịch là ǵ? Chúng ta khởi tâm động niệm, thuận theo tâm thanh tịnh bèn gọi là “thuận tánh”. Khởi tâm động niệm mà tâm chẳng thanh tịnh bèn là “trái nghịch tự tánh”. Tôi nói theo cách này, chư vị tương đối dễ hiểu hơn!

      Chân tánh là ǵ? Tôi dùng tâm thanh tịnh để nói. Thật ra, nói theo cách này cũng chẳng sai, v́ tựa đề kinh Vô Lượng Thọ là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Do vậy, nói thật ra, tông chỉ tu hành trong kinh Vô Lượng Thọ là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Nói ba thứ, nhưng nói thật ra, ba thứ ấy chính là Tam Bảo. Tôi nghe nói hiện thời có chẳng ít đồng tu muốn phát tâm quy y, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Thanh tịnh là Tăng Bảo, b́nh đẳng là Pháp Bảo, giác là Phật Bảo; do đó, Tam Bảo đều ở trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ. Đấy là tổng cương lănh trong sự tu học Đại Thừa. V́ vậy, kinh Vô Lượng Thọ hay lắm, nói thật ra là toàn bộ Thể, Tướng, Dụng đều ở trong tựa đề kinh. Vô Lượng Thọ là Chân Như bản tánh, là Thể. Trang Nghiêm là Tướng. Trang Nghiêm là ǵ? Tây Phương có tên là thế giới Cực Lạc, Cực Lạc là trang nghiêm, trang nghiêm hoàn mỹ chẳng thiếu khuyết. Trang nghiêm nói đơn giản là “h́nh tượng”. Thuận tánh th́ h́nh tượng thiện, chẳng thuận tánh là h́nh tượng bất thiện. Tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, sẽ biến hiện các ác tướng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh trang nghiêm, chẳng thể nói không phải là trang nghiêm, vẫn là trang nghiêm! Do vậy, danh từ “trang nghiêm” có phạm vi hết sức rộng răi. Y báo và chánh báo trong mười pháp giới đều có thể gọi là “trang nghiêm”. Trong trang nghiêm, có sự tốt xấu khác nhau, thiện ác khác nhau, gọi chung là “trang nghiêm”. V́ vậy, Trang Nghiêm là tướng, Vô Lượng Thọ là Thể, “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là tu nhân. Chúng ta phải nên biết tu như thế nào th́ mới có thể chứng đắc sự trang nghiêm trong Cực Lạc, đó là trang nghiêm viên măn rốt ráo.

      “Cố quán Tự, quán Tha, giai tu tâm quán” (v́ thế, quán Tự hay quán Tha đều là tu tâm quán). Chúng ta không chỉ phải ghi nhớ hai câu này, mà c̣n phải biết dùng. Nhà Thiền thường gọi “quán Tự”“quán tâm”. Quán Tự là quán khởi tâm động niệm của chính ḿnh, có thể biết khởi tâm động niệm của chính ḿnh là thiện hay ác. Đó là giác, chứ không mê. Quán Tha là quán khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác của kẻ khác. [Thật ra], quán Tha là quán Tự, v́ quán sát khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác của người khác có ảnh hưởng đến ta hay không? Ví như người khác tán thán ta, ta rất khoái chí, rất hoan hỷ, ta đă bị kẻ khác lay động mất rồi! Người khác chửi ta mấy câu, ta giận dữ, mấy ngày chẳng nguôi giận, đó là chẳng thể làm chủ chính ḿnh, bị cảnh giới bên ngoài lay chuyển. Bị cảnh giới bên ngoài lay chuyển th́ người Hoa nói là Phong Thủy. Phong là ǵ? Bên ngoài. Thủy ví như cái tâm của chính ḿnh. Gió vừa thổi, tâm ta bèn chuyển động, ngay lập tức cuồn cuộn nổi sóng. Phong Thủy có ư nghĩa như thế đó. Khi nào gió cảnh giới bên ngoài thổi như thế nào đi nữa, tâm ta như như bất động. Thưa cùng quư vị, chẳng bị ngoại cảnh chuyển, từ rày trở đi, chẳng cần xem Phong Thủy chi hết, v́ Phong Thủy chẳng c̣n dính dáng với quư vị nữa! Quán Tha chính là quán điều này: Chúng ta có c̣n bị ngoại cảnh ảnh hưởng hay không? Có thể nói quán Tự hay quán Tha đều nhằm tu cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh, đều là tu thanh tịnh, b́nh đẳng, giác cho chính ḿnh. Đó gọi là “biết tu hành”.

      “Kim quán Tịnh Độ, tu cầu ư tâm, tâm năng cụ cố, tâm năng tạo cố, tâm cấu, độ cấu, tâm tịnh, độ tịnh” (nay quán Tịnh Độ, cần phải cầu nơi tâm. Do tâm có thể trọn đủ, do tâm có thể tạo, nên tâm nhơ, cơi nước nhơ, tâm sạch, cơi nước sạch). Mấy câu này hết sức quan trọng. Nếu thật sự hiểu phương pháp và đạo lư này để tu hành, không có ǵ chẳng thành tựu. Chẳng biết đạo lư và phương pháp tu hành này, dẫu dụng công như thế nào, công phu cũng chẳng đắc lực. Đây chính là thật sự dạy cho chúng ta biết cương lănh tu hành. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều vốn sẵn có trong tự tâm. Thế giới Cực Lạc do tự tâm tạo, thế giới Sa Bà cũng do tự tâm tạo. Tâm tạo vạn vật. Tâm chẳng thanh tịnh, cơi nước là hoàn cảnh, hoàn cảnh sẽ chẳng thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, hoàn cảnh liền thanh tịnh. Thật vậy! Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă nói bao nhiêu lượt, nói rất thấu triệt: “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai” (Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai). Vấn đề hiện tại là cái tâm của chúng ta có thể chuyển cảnh, hay là bị hoàn cảnh chuyển? Nói “tâm chúng ta bị hoàn cảnh chuyển”, thưa cùng quư vị, đó là giả, là sai lầm, là mê, quyết định chẳng phải là giác. Tâm chuyển cảnh là thật, chẳng giả tí nào, v́ sao? Hết thảy chỉ do tâm tạo. “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (hăy nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ là tâm tạo): Tánh là tánh thể. Bản thể của hết thảy vạn pháp là tâm tạo, tâm biến, tâm hiện. Trong hai câu ấy, “tâm trọn đủ, tâm tạo, tâm cấu, tâm tịnh” chính là nguyên lư của y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, là Thật Tướng và chân tướng của y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới.

      Nay chúng ta nói hoàn cảnh không tốt, chuyển hoàn cảnh như thế nào? Chuyển từ tâm địa. Người thế gian hiện thời nghĩ đủ mọi phương pháp để làm đẹp hoàn cảnh, chẳng biết chuyển hoàn cảnh từ tâm địa. Hoàn cảnh bên ngoài dẫu chưng dọn đẹp đẽ cách mấy đi nữa, nhưng trong ḷng ưu sầu, vướng mắc, phiền năo quá nặng, dẫu có hoàn cảnh đẹp đẽ, chẳng thể nào thưởng thức! Nếu tâm địa thật sự thanh tịnh, chẳng cần cố ư làm đẹp hoàn cảnh, nó có vẻ đẹp tự nhiên. Thơ cổ nhân có câu: “Lục măn song tiền, thảo bất trừ” (trước song chẳng nhổ, cỏ xanh um), quư vị thấy rất đẹp. Đó là ǵ? Bên ngoài đủ thứ cây cỏ mọc lung tung, chẳng cắt xén, cứ để mặc nó, nó có một vẻ đẹp tự nhiên. Nay chúng ta cố ư dùng sức người tạo tác, chẳng phải là vẻ đẹp tự nhiên, nói thật thà th́ sinh thái tự nhiên đă bị phá hoại. Mấy câu này dạy chúng ta tu hành phải coi trọng tu tâm, tu tâm bèn coi trọng tâm địa thanh tịnh. Để đạt được tâm địa thanh tịnh, phải buông hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Quư vị chẳng buông những thứ ấy xuống, tâm quư vị làm sao có thể thanh tịnh cho được? Do đó, nói thật thà, cái tâm của chúng ta khởi tâm động niệm đều là thị phi, nhân ngă, chẳng phải là [toan tính] tự tư tự lợi cho chính ḿnh, th́ cũng là người khác trở ngại chúng ta. Hằng ngày khởi ư niệm ấy, đó là chướng ngại trọng đại trong sự tu hành.

      V́ thế, bộ kinh này dạy chúng ta phương pháp: Hễ khởi tâm động niệm bèn tưởng Phật, niệm Phật. Chúng ta là phàm phu, tập khí nghiệp chướng từ vô lượng kiếp đến nay rất nặng, chẳng thể không tưởng, suy tưởng chẳng ngừng, suy nghĩ loạn xạ, căn bệnh ấy cũng rất nặng. Nay kinh dạy chúng ta hăy gom những suy tưởng loạn xạ thành một tưởng, tức là tưởng A Di Đà Phật, tưởng y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng dấy lên một niệm tưởng ǵ khác. Nếu tưởng khác, ngay lập tức buông xuống loạn tưởng ấy, ta tưởng thế giới Cực Lạc, tưởng A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật, dùng phương pháp này để khôi phục tâm địa thanh tịnh. Nếu không, niệm Phật hiệu, niệm kinh này, há có ư nghĩa ǵ? Chỉ dùng phương pháp này để khôi phục cái tâm thanh tịnh, chế phục hết thảy vọng tưởng mà thôi!

      “Thử do thông thị, vị thị đích luận” (điều này vẫn c̣n là nói chung chung, chưa phải là luận định đích xác). Đúng thế! Đây là nói tới nguyên lư, tất cả hết thảy các pháp Đại Thừa thảy đều căn cứ trên nguyên lư này. Có thể nói bộ kinh này là tinh yếu nhất trong các điều tinh yếu, bộ kinh này “đích tại nhất tâm, đốn tu Tam Quán” (đích thực là chú trọng nhất tâm, tu Tam Quán mau chóng), đây là nói đến Tịnh Độ Tông. Cổ nhân gọi phương pháp tu hành trong Tịnh Độ Tông là Đại Thừa của Đại Thừa, viên nhất trong các pháp viên, nhanh chóng nhất trong các pháp đốn, xác thực đă nắm được điều tinh yếu này, đó chính là Nhất Tâm Tam Quán. Tam Quán chẳng tu theo thứ tự, mà là đốn tu, tu một là tu hết thảy. “Thử Quán quán ư An Dưỡng y chánh” (phép Quán này quán y báo và chánh báo của cơi An Dưỡng), An Dưỡng là thế giới Cực Lạc. “Y chánh”: Y báo là hoàn cảnh, chánh báo là người và vật. Chúng ta quán hoàn cảnh của Tây Phương Cực Lạc thế giới, thấy Phật và các vị Bồ Tát bên ấy th́ Phật và Bồ Tát là chánh báo. “Tất cánh thanh tịnh” (rốt ráo thanh tịnh), nói theo cách hiện thời, Phật, Bồ Tát là hoàn cảnh nhân sự, cây cối, hoa, cỏ, cung điện, vườn, rừng là hoàn cảnh vật chất để cư trụ. Hoàn cảnh nhân sự thanh tịnh, hoàn cảnh vật chất thanh tịnh. Dạy chúng ta hăy quán những hoàn cảnh ấy, thấy chúng thanh tịnh, dùng phương pháp ấy để dẫn khởi cái tâm thanh tịnh của chúng ta. “Danh tâm quán tịnh, thử Quán năng linh tứ Phật độ tịnh” (gọi là tâm quán tịnh, phép Quán này có thể khiến cho bốn cơi Phật thanh tịnh). Cơi Phật có bốn loại: Cơi Thường Tịch Quang, cơi Thật Báo Trang Nghiêm, cơi Phương Tiện Hữu Dư, và cơi Phàm Thánh Đồng Cư, bốn cơi đều là Tịnh Độ. “Như thị phương vi thử kinh Tông Trí” (như thế mới là Tông Trí của kinh này), đấy mới là tông chỉ và nguyên lư tu hành của bản kinh này.

      Trong thế giới này, bất luận hoàn cảnh nhân sự hay vật chất đều chẳng thanh tịnh. Không chỉ chẳng thanh tịnh, mà trong thời đại của chúng ta, có thể nói là ô nhiễm nghiêm trọng tới cùng cực. Điều này có ảnh hưởng hết sức to lớn đối với tâm lư chúng ta, v́ chúng ta chẳng phải là thánh nhân, sẽ bị hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng. Là phàm phu, tâm bị cảnh chuyển. Tu hành bất luận theo phương pháp nào đều hết sức khó khăn, chẳng dễ ǵ thành tựu. Dùng phương pháp Tịnh Độ, thật sự là có chỗ thù thắng so với hết thảy các phương pháp khác, nhưng phải biết dụng công. Chẳng biết dụng công th́ vẫn không được. Có chẳng ít người biết lư luận và phương pháp, biết phải nên làm theo cách như vậy, nhưng cứ khăng khăng chẳng chịu làm như vậy, v́ sao? Chẳng thể buông xuống. V́ sao chẳng thể buông xuống? Nói thật ra là do chưa hiểu lư luận triệt để, có hoài nghi, muốn làm, nhưng chẳng dám làm, đó là chướng ngại, Phật môn gọi chuyện này là “nghiệp chướng”. Trừ chẳng sạch nghiệp chướng, muốn làm mà không dám làm, sợ sệt, sợ sệt điều ǵ? Chẳng giữ nổi thân mạng, sợ ngày mai đói lạnh, sợ ngày mai chết đói! Ta hết thảy đều buông xuống th́ ngày mai sẽ sống như thế nào đây? Ai sẽ chăm sóc ta? V́ thế, tuy biết là phải nên làm như thế nào, kết quả là vẫn chẳng dám làm, vẫn luân hồi trong lục đạo, vẫn làm phàm phu sanh tử!

      Có mảy may chẳng thể buông xuống, tâm sẽ không thanh tịnh. Điều này c̣n được diễn tả là “tri dị, hành nan”, tức là biết dễ dàng, làm rất khó. Biết dễ, làm khó! Chúng ta nghe nói [như vậy] cũng thấy rất có lư; thật ra, đạo lư ấy chẳng phải là chân lư, chân lư là ǵ? Chân lư hoàn toàn đảo ngược, tức là “biết khó, làm dễ”, đó là chân lư. Quư vị biết dễ, làm khó, tức là quư vị biết chưa đủ triệt để. Nếu thật sự biết triệt để, sẽ buông xuống dễ dàng, thành Phật chẳng khó! Quư vị thấy là chiếu theo phương pháp trong kinh này, kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ giảng rơ ràng hơn: “Hoặc một ngày” cho đến “hoặc bảy ngày” bèn thành Phật, thành Phật có khó khăn chi? Chẳng khó! Khó ở chỗ quư vị chẳng chịu buông xuống. Khó ở chỗ quư vị chẳng biết triệt để, lại chẳng thật thà! Người thật sự thật thà chuyện ǵ cũng chẳng biết, nhưng thầy dạy như thế nào, người ấy bèn chịu làm, chẳng hoài nghi, thật sự chịu làm theo. Dạy người ấy buông xuống, liền triệt để buông xuống, người ấy có thể làm được. Tuy người ấy chẳng hiểu lư luận, nhưng chịu làm, đó gọi là thật thà, là thiện căn sâu dầy. Chúng ta lại thua kém những người ấy, nên tu hành đúng là khó khăn!

      Tiếp theo đó, sách nói bốn loại Tịnh Độ là quả báo, chỉ cần quư vị chịu tu cái nhân, nhất định có thể chứng quả báo thù thắng: “Tứ chủng Tịnh Độ, vị Phàm Thánh Đồng Cư độ, Phương Tiện Hữu Dư độ, Thật Báo Vô Chướng Ngại độ, Thường Tịch Quang độ dă” (Bốn loại Tịnh Độ là Phàm Thánh Đồng Cư độ, Phương Tiện Hữu Dư độ, Thật Báo Vô Chướng Ngại độ, Thường Tịch Quang độ). Trước hết, kể tên bốn loại Tịnh Độ rồi mới nói “tịnh uế chi tướng” (tướng nhơ sạch). “Các hữu tịnh uế” (mỗi cơi đều có tịnh và uế): Đối với bốn loại Tịnh Độ này, nói thật ra, Ngài nói tịnh và uế là nói so sánh, chứ như chúng ta thấy, các cơi ấy đúng là thanh tịnh tột bậc. “Ngũ Trược khinh trọng, Đồng Cư tịnh uế” (Ngũ Trược nặng hay nhẹ là sự tịnh uế trong cơi Đồng Cư). Đây là nói tới cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, nhất định sẽ có Ngũ Trược, kinh Di Đà đă nói rất rơ ràng. Trong Ngũ Trược, thật sự quan trọng là Kiến Trược và Phiền Năo Trược, v́ sao? Hai loại này là nhân, ba thứ khác đều thuộc loại quả báo. Chỉ cần đoạn trừ hai thứ này, ba thứ kia đều chẳng có. Kiến là ǵ? Kiến giải, tư tưởng. Tư tưởng và kiến giải sai lầm, sẽ sanh ra phiền năo. Nói theo cách hiện thời, chữ Trược () nghĩa là ô nhiễm. Cái tâm thanh tịnh của chúng ta bị ô nhiễm bởi các thứ tư tưởng, bị ô nhiễm bởi các thứ kiến giải, bị ô nhiễm bởi tham, sân, si mạn. Tham, sân, si, mạn là phiền năo.

      Nếu chư vị đồng tu có thể nghe hiểu ư nghĩa của lời này, trong sự học Phật sẽ bài trừ rất nhiều chướng ngại. Chúng ta bị ô nhiễm bởi các thứ tư tưởng, bị ô nhiễm bởi các thứ kiến giải. Nếu quư vị hiểu lời này, tốt nhất là hết thảy tạp chí, báo chí đều chẳng xem, v́ sao? Tránh bị ô nhiễm. Không chỉ chớ nên xem những thứ ấy, mà kinh Phật cũng chớ nên xem, v́ sao? Sẽ bị Phật pháp ô nhiễm. V́ lẽ đó, đức Phật nói những pháp ấy cũng hại chết người, chẳng phải là chuyện tốt đẹp. Quư vị thấy trong Thiền Tông, đừng nói là bị ô nhiễm bởi Phật pháp hay bởi kinh điển, mà ngay cả một câu A Di Đà Phật cũng là ô nhiễm. Họ nói niệm Phật một tiếng, c̣n phải súc miệng ba ngày, sợ bị danh hiệu A Di Đà Phật ô nhiễm! Trong tâm thanh tịnh, chẳng lập một pháp, há có A Di Đà Phật? Vốn chẳng có một vật, hễ có A Di Đà Phật tức là c̣n có một vật. Vậy th́ làm sao có thể trừ sạch ô nhiễm nơi tư tưởng và kiến giải? Thiền Tông dùng phương pháp rất triệt để, ngay cả căn cội cũng trừ sạch. Phật pháp mà c̣n chẳng thể xem, pháp thế gian càng chẳng cần phải nhắc tới! Ô nhiễm bởi Phật pháp nhẹ hơn một chút, ô nhiễm bởi pháp thế gian nặng hơn.

      V́ thế, hễ nói đến tâm địa thanh tịnh th́ chẳng thể tiếp nhận loại ô nhiễm này. Người sống trong một khu vực chưa được khai hóa, đối với hết thảy các học thuyết và tư tưởng trong thế gian, họ đều không biết. Mặt trời mọc bèn làm lụng, mặt trời lặn liền nghỉ ngơi, chưa từng bị ô nhiễm, cuộc sống cũng rất tự tại, cũng rất hạnh phúc, sống cuộc đời nguyên thủy. Họ có thể thành Phật hay không? Chẳng thể thành Phật! Nguyên nhân ở chỗ nào? Họ c̣n có một đại chướng ngại mà chẳng có cách đột phá, chướng ngại ǵ vậy? Vô minh. Chúng ta gọi sự ô nhiễm ấy là tà kiến, đọc nhiều Phật pháp cũng sanh ra tà tri tà kiến, nguyên nhân ở chỗ nào? Nguyên nhân là v́ quư vị không hiểu Phật pháp, hiểu lầm Phật pháp. Học Phật pháp theo kiểu chúng ta, ba đời chư Phật trông thấy đều ứa lệ, than oan uổng. V́ sao? Quư vị hiểu Phật pháp sai be bét! Hiểu sai như thế nào? Quư vị ngỡ là trong Phật pháp thật sự có ư nghĩa, tức là hiểu sai bét mất rồi. Tất cả hết thảy các pháp do đức Phật đă giảng đều chẳng có ư nghĩa; do đó, bài kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, có mấy ai có thể hiểu nghĩa chân thật? Nghĩa chân thật là tâm thanh tịnh. Nghĩa chân thật là “hoàn toàn không có ư nghĩa!”

      V́ lẽ đó, Phật, Bồ Tát dạy chúng ta, dạy quư vị hăy ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng danh tự, ĺa tướng tâm duyên, đó là đúng, chẳng sai tí nào! Phật trông thấy liền sanh hoan hỷ, quư vị thật sự hiểu nghĩa chân thật của Như Lai, chẳng hiểu sai ư nghĩa, đó là dạy quư vị thứ ǵ cũng đừng nên chấp trước. Đức Phật nói hết thảy các pháp nhằm phá sự chấp trước của chúng ta, kết quả là chúng ta không chỉ chẳng phá chấp trước, mà lại c̣n chấp trước Phật pháp, đó chẳng phải là hỏng bét ư? Do vậy, chư vị phải biết nguyên lư và nguyên tắc này: “Tâm tịnh, cơi nước tịnh. Tâm nhơ, cơi nước nhơ”. Nếu chúng ta nhiễm trước một đống lớn Phật pháp, tâm cũng chẳng thanh tịnh, đương nhiên cơi nước chẳng tịnh. V́ vậy, Ngũ Trược nhẹ sẽ là Đồng Cư Tịnh Độ, Ngũ Trược nặng là Đồng Cư uế độ. Nay chúng ta cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, đối với A Di Đà Phật, nếu quư vị thật sự hiểu Lư, biết niệm, tuy niệm câu A Di Đà Phật, sẽ là “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”. Trong tâm thanh tịnh, một chữ A Di Đà Phật cũng chẳng nhiễm trước, đó là thuần Tịnh Độ, thuần tịnh.

      Chấp trước thật sự có A Di Đà Phật, thật sự có Tây Phương Cực Lạc thế giới, như vậy th́ có thể văng sanh hay không? Có thể văng sanh. Tâm địa quư vị nhiễm trước “có A Di Đà Phật”, nhiễm trước “có y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương”, sẽ là uế độ trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Uế độ cũng được, vẫn là vô lượng thọ, chẳng giống như thế giới này của chúng ta. V́ thế, tịnh rất khó, nhưng so với uế độ của hết thảy chư Phật, cơi ấy (Phàm Thánh Đồng Cư độ của Tây Phương Cực Lạc) vẫn được coi là Tịnh Độ, chúng ta cũng nên cầu sanh về đó, hăy nên tu học. Chẳng thể thành tựu cái cực cao th́ nhất định cũng phải hiểu rơ, ngàn vạn phần chớ nên hiểu lầm! Điều chấp trước này (chấp có A Di Đà Phật) tốt lắm, chọn lấy điều tốt lành để cố chấp, đó chính là chí thiện, chỉ ư chí thiện. Chúng ta nói theo tầng cấp này, tức là chí thiện, chưa nói đến tối thiện. Chúng ta chấp tŕ danh hiệu, chấp trước Tây Phương có Tịnh Độ, quyết định mong cầu văng sanh, mỗi người chúng ta đều có thể làm được chuyện này. Càng tiến lên, cảnh giới càng cao hơn, chưa chắc chúng ta đă có thể làm được, nhưng chúng ta nhất định có thể làm được chuyện này. Được rồi! Chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.

 

Tập 14

 

      Xin mở kinh bổn, xem hàng thứ hai trong trang bảy mươi ba.

      Đoạn văn này có bốn câu, nói rơ tiêu chuẩn tịnh uế trong bốn cơi Tịnh Độ. Câu đầu tiên là phân định theo sự nặng nhẹ của Ngũ Trược, đó là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Câu thứ hai nói về cơi Phương Tiện Hữu Dư, chính là “Tích Thể xảo chuyết”, luận định sự tịnh uế trong cơi Phương Tiện Hữu Dư từ chỗ này. Tích () là phân tích, Thể () là thấu hiểu. Từ phân tích, bèn nhận thức vạn pháp đều là Không (đó là Tích Không Quán), phương pháp này hơi vụng về. Có thể lập tức lănh hội [vạn pháp đều là Không, đó là Thể Không Quán]. Căn tánh này tương đối nhạy bén hơn. Do đó, Thể Không Quán là cơi Phương Tiện tịnh, Tích Không Quán là cơi Phương Tiện uế. Phân chia theo cách như vậy.

Câu thứ ba là nói về cơi Thật Báo, nói tới Tam Quán. Thứ Đệ Tam Quán là cơi Thật Báo uế, Nhất Tâm Tam Quán là cơi Thật Báo tịnh.

Cơi Thường Tịch Quang [được phân định tịnh uế dựa trên] Phần Chứng và Cứu Cánh. Phần Chứng: Từ Viên Giáo Sơ Trụ đến Đẳng Giác Bồ Tát đều là Tịch Quang uế độ. Cứu Cánh Giác là đă thành Phật, đoạn sạch một phẩm sanh tướng vô minh cuối cùng, đó là Tịch Quang Tịnh Độ. Do đó trong kinh Đại Thừa có nói: “Duy Phật nhất nhân cư Tịnh Độ” (chỉ có một ḿnh Phật ngự trong cơi Tịnh Độ). Cơi Tịnh Độ ấy phải là Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Chúng ta phải nên biết những điều này là nói đại lược.

      Đoạn văn tiếp đó nhằm giảng rơ ràng, tỉ mỉ bốn cơi Tịnh Độ. Trong hàng thứ nhất và thứ hai nơi trang bảy mươi bốn, thuyết minh cơi Đồng Cư. Đoạn kể từ hàng thứ ba trong trang bảy mươi lăm nói về cơi Phương Tiện Hữu Dư. Nơi hàng thứ nhất trong trang bảy mươi bảy, có bốn ḍng nói về cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Trong trang bảy mươi tám, xem từ hàng thứ ba, hai hàng và một câu giảng về cơi Thường Tịch Quang. Kinh văn và chú giải trong các đoạn ấy nói khá cặn kẽ. Đối với bốn loại Tịnh Độ này, trong khi giảng kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ, do đă từng nói, nên chúng tôi tỉnh lược đoạn văn này, v́ cũng chẳng quan trọng cho lắm. Bởi lẽ, thời gian dành cho khóa giảng này khá ngắn, chúng ta phải chọn lựa những điểm quan trọng có liên quan đến sự tu hành của chúng ta để nói nhiều hơn một chút.

      Sau đó là tổng kết, trong trang bảy mươi chín, hàng thứ tư đếm từ dưới lên: “Cố dĩ tu tâm diệu quán, năng cảm Tịnh Độ, vi kinh Tông dă” (nên lấy “tu tâm diệu quán có thể cảm Tịnh Độ” làm Tông của kinh). Chúng ta lật sang trang tám mươi, xem chú giải. Hàng thứ nhất trong trang tám mươi, xem từ chữ thứ tư: “Thích đề Tam Quán, vi bị hà nhân, vi hà xứ dụng, tu tri chánh vị sanh Đồng Cư tịnh, cố thuyết Tam Quán” (Dùng Tam Quán để giải thích tựa đề kinh là nhằm thích ứng với hạng người nào, dùng vào chỗ nào? Hăy nên biết: Chính v́ người sẽ sanh vào Đồng Cư Tịnh Độ mà nói Tam Quán). Đây là mục đích của việc đức Phật nói kinh và các tổ sư đại đức giảng giải bộ kinh này, dụng ư hoàn toàn nhắm vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư. V́ sao? V́ nói thật ra, chúng ta thật sự có phần nơi cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Ba cơi Tịnh Độ trên, chúng ta chưa chắc đă có phần, nhưng xác thực là có phần trong cơi [Đồng Cư Tịnh Độ] này. Tuy thế, chúng ta đă đọc từ kinh Vô Lượng Thọ, Tây Phương Cực Lạc thế giới là một thế giới b́nh đẳng. Dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, vẫn cũng có thể đạt được sự thọ dụng của thượng thượng phẩm trong cơi Thật Báo. Điều này hết sức chẳng thể nghĩ bàn! Trong hết thảy các kinh, chẳng có cách nói này. Trong hết thảy các cơi Phật, cũng chưa nghe đức Phật nói kiểu này. Đó là sự thù thắng trong thế giới Tây Phương. V́ thế, hết thảy chư Phật đều khuyên chúng sanh cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nói cách khác, Tịnh Độ của mười phương thế giới chư Phật là bất b́nh đẳng. Thích Ca Mâu Ni Phật có Tịnh Độ, cơi Thật Báo Trang Nghiêm của Thích Ca Mâu Ni Phật tuyệt đối chẳng kém Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng chúng không ở cùng một chỗ. Bốn cơi trong thế giới Tây Phương ở cùng một chỗ, sanh về một là sanh về hết thảy. Đó là chỗ khiến cho Tịnh Độ của đức Bổn Sư chẳng bằng Tịnh Độ của A Di Đà Phật, chứ không phải là đức Bổn Sư chẳng có Tịnh Độ. Chúng ta phải biết chân tướng sự thật này, mới hiểu v́ sao đức Thế Tôn chẳng khuyên chúng ta sanh về cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chính Ngài, mà khuyên sanh về cơi Phàm Thánh Đồng Cư của A Di Đà Phật, lư do ở ngay chỗ này.

      V́ vậy, chúng ta nhất định phải hiểu người nào có đủ tư cách để tu tập phương pháp tu hành được giảng trong bộ kinh này? “Vi bị hà nhân?” nghĩa là người nào có đủ điều kiện và tư cách để tu. “Vi hà dụng xứ?” nghĩa là tu học pháp môn này có lợi ích ǵ? Có ưu điểm ǵ? Kế đó là nói rơ ràng. Đó là điều cần phải biết, ắt cần phải biết: Chính v́ [những kẻ sẽ] sanh về cơi Đồng Cư Tịnh Độ mà nói Tam Quán. Nay chúng ta nương theo phương pháp này để tu hành, nói thẳng thừng, xác thực là “v́ cơi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ”. “Tùy kỳ Hoặc đoạn thiển thâm chi xứ, tự nhiên cảm đắc hữu dư đẳng tam, phi cẩn vi cảm Thật Báo, Tịch Quang, thuyết Tam Quán dă” (tùy theo mức độ đoạn Hoặc cạn hay sâu mà tự nhiên cảm được ba cơi c̣n lại, chẳng phải chỉ v́ cảm cơi Thật Báo hay cơi Tịch Quang mà nói Tam Quán). Chính v́ ư Phật như vậy, nên mới có thể phổ độ chúng sanh trong chín giới, ngay cả ác đạo, Ngũ Nghịch, Thập Ác, tướng địa ngục hiện tiền, đều có thể đắc độ. Đấy là bi tâm triệt để của Như Lai, hiển thị sự rộng lớn vô biên của pháp môn này. C̣n như tiến lên ba thứ Tịnh Độ cao hơn, sẽ tùy thuộc sự tu hành đoạn Hoặc của chúng ta là sâu hay cạn. Nếu mức độ đoạn Hoặc của chúng ta sâu, sẽ tự nhiên tiến cao hơn; mức độ đoạn Hoặc nông cạn, cũng có thể sanh trong cơi Phương Tiện. Nói tóm lại, đều có thể văng sanh! Đấy mới là dụng ư thật sự khi đức Phật nói pháp môn này, tổ sư đại đức giảng kinh nhắm đến mục đích này.

      Đoạn kế tiếp nói về Dụng, tức Luận Dụng. Phần trước nói về sự tu nhân, chỗ này nói về kết quả. Chúng ta nương theo phương pháp này để tu hành, sau khi đă tu sẽ có tác dụng ǵ? Có lợi ích ǵ? Ở đây, sẽ nêu ra lợi ích. “Tứ, luận Dụng. Tông thị tự hành sở tu chi pháp” (bốn là luận về tác dụng. Tông là pháp để tự hành, tu tập), tức là phương pháp để chúng ta tự tu, “Dụng thị lợi tha sở thi chi pháp” (Dụng là pháp được lập ra nhằm lợi ích người khác). Dụng chủ yếu là nói đến lợi ích. Đă có thể lợi tha, đương nhiên tự lợi. Chính ḿnh chẳng đạt được lợi ích, làm sao có thể lợi lạc người khác? V́ thế, nói đơn giản th́ có thể nói Dụng là sự lợi ích do tu hành. Lợi ích bao gồm Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng. “Tự hành thú Lư” (tự hành nhằm hướng đến Lư), chính ḿnh hiểu Lư, chứng quả, “cố minh diệu quán, lợi tha nhiếp cơ” (v́ thế, nói ra diệu quán nhằm lợi ích người khác, nhiếp thọ căn cơ). “Lợi tha” là có thể giúp đỡ người khác. Bản thân chúng ta đạt được lợi ích, nhất định phải đem lợi ích ấy giới thiệu với người khác, chớ nên tự tư tự lợi. V́ tự tư tự lợi chẳng phải là tâm Đại Thừa, chẳng giống tâm của A Di Đà Phật, tâm chư Phật, và tâm Bồ Tát. Tâm khác nhau; nói cách khác, chẳng cùng chí hướng với các Ngài. Chẳng cùng chí hướng, dẫu có văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng chẳng có cách nào ở chung, v́ sao? Tâm khác nhau, chẳng thể ở chung. Cách nghĩ, cách nh́n, các làm khác nhau, làm sao có thể ở chung với nhau cho được? V́ thế, muốn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, ắt phải là đại khái có cách nghĩ, cách nh́n, cách làm giống như A Di Đà Phật và đại chúng, chí đồng đạo hợp th́ mới có thể hoan hỷ cùng ở chung với nhau.

      Đức Phật dạy chúng ta tu Lục Ḥa Kính, Tây Phương Cực Lạc là một tăng đoàn Lục Ḥa Kính viên măn nhất. Nếu chúng ta chẳng tu Lục Ḥa Kính, sẽ không thể đến Tây Phương Cực Lạc thế giới được. Dẫu niệm Phật tốt đẹp cách mấy, mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, vẫn chẳng thể văng sanh! Tu Lục Ḥa Kính từ chỗ nào? Phải tu ngay trong hiện tại, ngàn vạn phần đừng nghĩ hiện thời ta chẳng tu không sao, đến Tây Phương Cực Lạc rồi mới tu. Hiện thời chẳng có cơ sở này, người trong thế giới Tây Phương sẽ chẳng muốn quư vị. V́ vậy, Lục Ḥa vô cùng quan trọng. A Di Đà Phật kiến lập thế giới Tây Phương nhằm dụng ư mong phổ độ hữu t́nh chúng sanh trong mười pháp giới, chúng ta phải đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, đồng hạnh với A Di Đà Phật. Chúng ta thọ tŕ kinh Vô Lượng Thọ, thọ tŕ năm kinh một luận của Tịnh Tông cũng nhằm mục đích ấy.

      “Hợp thông chúng thiện, tha nghi diệu quán, diệc tu giáo tu, tự hành trợ đạo, khởi phế chúng thiện. Thị cố Tông Dụng, pháp tất tề đẳng, đản hữu tự hành hóa tha chi dị nhĩ” (Bao gồm trọn các điều thiện th́ cũng cần phải dạy tu các pháp diệu quán đáng nên tu tập khác. Tự hành trợ đạo, há nên bỏ các điều thiện? V́ thế, đối với các pháp thuộc Tông và Dụng thảy đều hành trọn, chỉ là có tự hành và hóa tha sai khác đó thôi). Tự hành là hóa tha (hóa độ người khác), hóa tha là tự hành; tự hành và hóa tha là một chuyện. Hóa tha phải có cơ duyên. Cơ duyên chưa chín muồi th́ chính ḿnh nhất định phải [tu tập sao cho] bản thân trọn đủ [các năng lực hóa tha]. Cơ duyên đă chín muồi, nhất định phải tận tâm tận lực giúp đỡ người khác. Có thể thấy: Tự hành nhằm chuẩn bị cho hóa tha, hóa tha chính là tác dụng to lớn của tự hành được hiện tiền. Thật sự là cùng một chuyện! Tuy là một chuyện, nhưng xét theo h́nh tượng, bèn có sai biệt, nhất định phải biết điều này. Sau khi đă biết, mới biết tự hành chẳng phải v́ tự tư tự lợi, chẳng phải là Tiểu Thừa, mà do duyên c̣n chưa chín muồi. Bản thân ta đức hạnh vẫn chưa đầy đủ, nay đang nỗ lực tu học. Trong buổi đầu của quá tŕnh tu học, có nguyện hóa tha, nhưng chưa có hạnh hóa tha, v́ chưa đủ sức để hành. Do đó, trước hết phải làm sao chính ḿnh trọn đủ. Chẳng phải là không cho phép quư vị học rộng, nghe nhiều, nhưng trong giai đoạn thứ nhất là mong quư vị trước hết hăy đoạn phiền năo, cho nên phải buông học rộng nghe nhiều xuống! Khi đoạn phiền năo, nhất định là chẳng thể học rộng nghe nhiều. Hễ học rộng nghe nhiều, sẽ chẳng thể đoạn phiền năo, mà chỉ là tăng trưởng tà kiến. Nói cách khác, tăng trưởng tà kiến là tăng trưởng phiền năo. Ta muốn đoạn phiền năo, mà lại tăng trưởng phiền năo, làm sao có thể đoạn phiền năo cho được?

      V́ thế, giai đoạn tu hành thứ nhất là tu tâm thanh tịnh, buông xuống vạn duyên, khiến cho cái tâm định, chớ nên phan duyên. Khi ấy, chuyện tốt chẳng bằng vô sự, phải tu điều này. Đến khi chính ḿnh đă thật sự trọn đủ, có năng lực, hễ có duyên, nhất định phải giúp đỡ người khác. Chẳng giúp đỡ người khác tức là thiếu ḷng từ bi. Khi ấy, bèn học rộng nghe nhiều, lợi ích chúng sanh. V́ lẽ đó, tự hành hóa tha là có giai đoạn, có thứ tự, nhất định phải biết điều này. Nếu rối loạn thứ tự, rất đáng tiếc, lăng phí thời gian và tinh lực, đến cuối cùng, chẳng thành một chuyện ǵ, rất đáng tiếc!

      Tiếp theo đó là chánh thức giải thích phần Luận Dụng. “Thứ biện kinh dụng. Dụng giả, lực dụng dă. Sanh thiện diệt ác, vi kinh lực dụng” (Kế đến là biện định Dụng của kinh. Dụng là lực dụng. Sanh thiện, diệt ác là lực dụng của kinh). “Sao vân, hành giả ưng tri Thể, Tông, Dụng tam, biệt minh tam pháp” (lời Sao giảng: “Hành giả nên biết ba thứ Thể, Tông, Dụng, nói thành ba pháp riêng biệt”). Nh́n từ h́nh tướng, nói theo tác dụng sẽ là ba chuyện, nhưng nói theo Thể bèn là một chuyện. “Năi tùng nhất tánh” (nhưng đều xuất phát từ một tánh), ba chuyện ấy đều chẳng tách ĺa tự tánh. “Khởi ư nhị tu. Thể thị Pháp Thân, sở hiển tánh dă, Tông thị Bát Nhă, năng hiển Trí dă. Dụng thị Giải Thoát, sở khởi lực dă” (khởi lên hai thứ tu tập [là Bát Nhă và Giải Thoát]. Thể là Pháp Thân, là cái tánh sẽ được hiển lộ [qua hai thứ tu tập]. Tông là Bát Nhă, chính là cái Trí có thể hiển [cái tánh ấy]. Dụng là Giải Thoát, là lực được dấy lên [từ cái tánh ấy]). Thể là một, “nhị tu” là Bát Nhă và Giải Thoát. “Nhị tuy tu thành, tu tri bổn cụ” (Hai thứ ấy (Bát Nhă và Giải Thoát) tuy do tu thành, nhưng cần biết là chúng vốn sẵn có). Thật ra, [những cái được gọi là] “tu thành” vốn sẵn trọn đủ trong bổn tánh. Nếu tánh chẳng vốn sẵn có, dẫu tu, cũng chẳng thể thành tựu. Vô lượng trí huệ vốn sẵn có trong tự tánh. Chính v́ vốn sẵn có, nên trong các bộ kinh Đại Thừa, đức Phật đă nói “viên măn Bồ Đề, quy vô sở đắc”. [Ư nói]: Quư vị tu thành Phật, bèn đạt được ǵ? Thứ ǵ cũng chẳng đạt được! Thứ ǵ cũng chẳng đạt được, chính là chẳng thiếu khuyết thứ ǵ. Thứ ǵ cũng chẳng thiếu khuyết v́ tự tánh vốn sẵn trọn đủ, chẳng phải là từ bên ngoài mà có. Bên ngoài chẳng có một pháp nào để đạt được. Thật sự hiểu rơ bên ngoài chẳng có một pháp nào để có thể đạt được, nên chúng ta mới thật sự quay về tu nơi tánh, tu nơi tự tánh. Phải ghi nhớ: Bên ngoài chẳng có một pháp nào để có thể đạt được!

      Nay mọi người đều quên khuấy chuyện này, đều cầu pháp ngoài tâm. Cầu pháp ngoài tâm sẽ cầu được ǵ? Những ǵ cầu được toàn là của người khác. Ví như học giảng kinh, chẳng tu tự tánh, chẳng tu sao cho cái tâm của chính ḿnh thanh tịnh, cứ đi t́m chú giải của người khác. Xem kinh điển của Thích Ca Mâu Ni Phật để nghiên cứu, [vậy th́] giảng cả đời vẫn là giảng những chuyện của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng phải là của chính ḿnh. Nương theo chú giải của cổ nhân th́ toàn bộ đều là những thứ thuộc về cổ nhân, chẳng có mảy may ǵ liên quan đến tự tánh, đó là sai lầm. Người thật sự biết tu, tuy triển khai các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng, nhưng kinh điển hễ triển khai bèn tương ứng với tự tánh của chính ḿnh. Nhờ vào kinh bổn của Phật để triển khai Quán Vô Lượng Thọ Kinh trong tự tánh của ta, dẫn khởi kinh trong tự tánh của ta. Ta giảng là giảng Quán Vô Lượng Thọ Kinh trong tự tánh của ta, chẳng phải là Quán Vô Lượng Thọ Kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật. Tự tánh vốn sẵn có kinh điển ấy, giống hệt như kinh điển do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng, chẳng hai, chẳng khác. Phải tu theo cách như vậy! Đó là đức Phật dạy chúng ta ư nghĩa chân chánh của Phật!

      Giống như nến, nến thắp sáng. Bản thân ta là một ngọn nến, ta nhờ vào ánh sáng của nó để thắp sáng [chính ḿnh], đó là đúng. Nhờ vào ánh sáng của nó để thắp sáng, bản thân ta tỏa sáng, quang minh tỏa ra chẳng khác quang minh của nến. Tuyệt đối chẳng phải là ta đi theo ánh sáng của nó, vĩnh viễn được nó chiếu sáng, chính ḿnh chẳng thể tỏa ánh sáng. [Nếu chấp nhận bị chiếu sáng vĩnh viễn như vậy] th́ sai mất rồi! Chư vị phải luôn hiểu rơ ư nghĩa này. Sanh thiện, diệt ác, ác là vọng tưởng, chấp trước, thiện là vô lượng trí huệ và đức năng vốn sẵn trọn đủ trong bổn tánh. Cũng có thể nói ác là các thứ chướng ngại trong bản tánh, xóa trừ những chướng ngại ấy, khiến cho trí huệ và đức năng trong bản tánh của chúng ta hiện tiền, đó là đúng. Đó là thật sự sanh thiện, diệt ác, là tác dụng của kinh này.

      Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp, phần Sớ trong trang tám mươi mốt, hàng thứ năm từ dưới đếm lên: “Diệt ác, cố ngôn Lực” (do diệt ác, nên nói là Lực), v́ kinh có tác dụng giúp chúng ta đoạn hết thảy ác. Dựa theo ư nghĩa này, chúng ta nói kinh có sức mạnh, có sức tác dụng. “Sanh thiện, cố ngôn Dụng” (do sanh điều thiện, nên nói là Dụng), nó có thể hiển phát Tánh Đức trong bản tánh, đó là chỗ hữu dụng. “Diệt ác, cố ngôn Công” (do diệt ác, nên nói là Công), ở đây cũng nêu ra định nghĩa của hai chữ Công Đức rất rơ ràng. Công là ǵ? Công là diệt ác. Đức là ǵ? Đức là sanh thiện. Hiện thời có rất nhiều người hiểu lầm hai chữ Công Đức, ngỡ Công Đức là ǵ? Đến chùa miếu, quyên tặng một chút tiền, tức là chúng ta đă làm rất nhiều công đức! Dẫu quư vị quyên tặng tiền bạc nhiều đến mấy, làm chuyện tốt nhiều đến mấy, ác niệm của quư vị có đoạn sạch hay không? Tánh Đức có hiện tiền hay không? Nếu làm rất nhiều chuyện tốt, mà ác niệm chẳng đoạn hết, Tánh Đức chẳng hiện tiền, một tí công đức cũng chẳng có!    

Khi Đạt Ma Tổ Sư vừa đến Trung Quốc, nhằm đúng lúc Lương Vũ Đế đang cầm quyền. Lương Vũ Đế là đại hộ pháp lừng danh của Phật môn trong lịch sử Trung Quốc. Ông ta dựa vào sự tôn quư của ngôi đế vương, dùng tài lực của quốc gia để kiến tạo bốn trăm tám mươi ngôi chùa, độ mấy chục vạn người xuất gia, ông ta cúng dường. Sau khi Đạt Ma Tổ Sư đến [Trung Quốc], Lương Vũ Đế đến yết kiến, hướng về Đạt Ma Tổ Sư thỉnh giáo: “Công đức của trẫm có lớn hay chăng?” Đạt Ma Tổ Sư nói lời thật thà: “Trọn chẳng có công đức”. Nói theo định nghĩa công đức ở đây, nhà vua chẳng có công đức. Lương Vũ Đế bực bội, chẳng hộ tŕ Tổ, nên Tổ phải đến chùa Thiếu Lâm ngồi nh́n vách chín năm, chờ đợi Huệ Khả. Nói thật ra, những ǵ Lương Vũ Đế đă làm là ǵ? Là phước đức. Nếu vua nói “phước đức của ta có lớn hay không?” [Tổ sẽ trả lời]: Phước đức ấy rất lớn, chứ công đức không có. Công đức là đoạn phiền năo, hiển lộ bản tánh, đó là công đức.

      Do vậy, chư vị phải hiểu, tŕ giới có công đức hay không? Nếu tŕ giới đắc Định, giới ấy là công đức. Nếu tŕ giới chẳng thể đắc Định, tŕ giới sẽ là phước đức. Nói thật ra, tôi nói lời này c̣n phạm khuyết điểm, nhất định là phải khai Huệ th́ Định mới là công đức. Nếu có Định mà chẳng khai Huệ, th́ Định ấy vẫn là phước đức. Nếu Định đă là phước đức, đương nhiên Giới là phước đức. Bởi lẽ, do Giới sanh Định, do Định khai Huệ, nhất định phải khai Huệ th́ Giới và Định ở phía trước mới là công đức. Nếu Huệ chẳng khai, Giới và Định đều là phước đức. Đắc Định bèn sanh trong Sắc Giới Thiên hoặc Vô Sắc Giới Thiên, chẳng thể thoát khỏi tam giới. Chẳng thoát khỏi tam giới, chẳng thể coi là có công đức. Chúng ta phải hiểu rơ ư nghĩa được bao hàm trong danh từ này. V́ thế, tŕ giới như thế nào th́ mới có thể đắc Định? Tŕ giới nếu chẳng quản người khác [có tŕ giới hay không] liền đắc Định. Chính ḿnh tŕ giới rất thanh tịnh, nhưng thấy kẻ này phá giới, kẻ nọ phạm giới, trong tâm bực bội. Quư vị nghĩ xem, làm sao người ấy đắc Định cho được? Tuy giới luật của chính người ấy rất thanh tịnh, nhưng thường sanh phiền năo. Thấy người khác phá giới, trong tâm chẳng thoải mái, muốn chửi kẻ khác, muốn phê b́nh kẻ khác, trong tâm nẩy sanh kiêu căng, ngă mạn: “Ta giới luật tinh nghiêm, các ngươi chẳng bằng ta”. Kẻ ấy noi theo khuôn mẫu ấy!

      Căn bệnh này từ xưa tới nay đều có, tổ sư đại đức c̣n chưa tránh được! Chúng ta xem truyện kư, quư vị thấy Thỉ Tổ của Luật Tông Trung Quốc là Chung Nam Sơn Đạo Tuyên luật sư sống vào đời Đường, Ngài c̣n phạm phải bệnh ấy, Thỉ Tổ Luật Tông đấy nhé! Khi Khuy Cơ đại sư đến bái phỏng, Khuy Cơ là pháp sư Đại Thừa, chẳng coi trọng tiểu tiết, rất tùy tiện, rất qua loa, thoạt nh́n sẽ tưởng Ngài giới luật chẳng trang nghiêm. Ngài Đạo Tuyên giới luật tinh nghiêm, cảm động thiên thần đến cúng dường. Giới luật tinh nghiêm khiến thiên thần bội phục, giữa trưa mỗi ngày, Ngài ăn một bữa, cơm do vị trời ấy đến cúng dường, mỗi ngày cúng dường cho Ngài. Khi pháp sư Khuy Cơ đến thăm, ngài Đạo Tuyên coi thường pháp sư Khuy Cơ, nghĩ pháp sư Khuy Cơ học vấn rất khá, giảng kinh cũng hay lắm, nhưng chẳng tuân thủ giới luật, nên xem thường! Khi pháp sư Khuy Cơ đến núi, ngài Đạo Tuyên cảm thấy có thể khiến cho pháp sư Khuy Cơ thấy rơ: “Thiên thần cúng dường ta, c̣n ông chẳng có. Giới luật của ta cao hơn ông”. Kết quả là hôm đó, vị trời ấy chẳng đến dâng cúng, Sư phải nhịn đói suốt một ngày. Đến ngày hôm sau, Khuy Cơ đại sư đă rời đi, ngày hôm ấy vị trời đó mới đến cúng dường. Sư liền hỏi vị ấy: “V́ sao hôm qua, ông chẳng đến cúng dường?” Vị trời ấy liền nói: “Hôm qua có bậc Đại Thừa Bồ Tát ở trên núi, thần hộ pháp bảo vệ khắp núi, tôi chẳng vào được!” Pháp sư Đạo Tuyên nghe nói, khắp người tươm mồ hôi lạnh, hổ thẹn! Mới biết chính ḿnh kiêu căng, ngă mạn, thật sự cầu sám hối.

Do vy, Đại Tha và Tiểu Thừa khác nhau. Tiu Tha chú trng sự tướng, Đại Thừa coi trọng tâm thanh tịnh. Tuy bề ngoài dường như chẳng tuân thủ giới luật, nhưng tâm địa thanh tịnh hơn quư vị. Quư vị giới luật rất đoan nghiêm, nhưng tâm địa chẳng thanh tịnh như người ta! V́ thế, trong pháp Đại Thừa, giới luật Đại Thừa luận tâm, chẳng luận sự. Giới Đại Thừa là giới nơi tâm, chẳng nhấn mạnh sự tướng. Giới luật Tiểu Thừa luận sự, chẳng luận tâm. Giới luật Tiểu Thừa chú trọng bề ngoài, tâm địa thanh tịnh hay chẳng thanh tịnh, không bàn đến! V́ thế, kết tội cũng giống như thế. Ví như nói đến sát sanh, trong giới Tiểu Thừa, sát hại thân mạng chúng sanh là phá giới; trong tâm nghĩ giết, nhưng trọn chẳng giết th́ chẳng phá giới. Họ luận sự, chẳng luận tâm, giống như pháp luật hiện thời xử án, hoàn toàn phải có chứng cứ sự thật, cách nghĩ trong tâm như thế nào chẳng quan trọng, chẳng coi đó là chuyện phạm pháp. Giới luật Đại Thừa khác hẳn. Giới luật Đại Thừa luận tâm, chẳng luận sự. Trong tâm dấy lên ư niệm, ta muốn giết kẻ khác, tức là phá giới! Trên sự thật, có giết hay không? Chưa giết, tuy chưa giết, đă là phá giới. Nếu nói Đại Thừa Bồ Tát giết một người, nhưng trong tâm chẳng động một niệm, trọn chẳng nghĩ đến chuyện giết người đó, tức là chẳng phạm pháp, chẳng phá giới. Họ luận tâm, chẳng luận sự. Giới Tiểu Thừa luận sự, chẳng luận tâm, khác nhau! V́ thế, đoạn ác sanh thiện trong Đại Thừa hoàn toàn nói theo tâm tánh, chẳng giống Tiểu Thừa. Tiểu Thừa nói theo sự tướng.

      V́ thế, chúng ta cũng phải phân biệt rơ ràng công đức và phước đức. Có cần phải tu phước đức hay không? Phải tu, chẳng thể nào không có phước! Không có phước th́ làm chuyện ǵ cũng đều gặp khó khăn, có phước sẽ làm làm việc thuận tiện. Như chúng tôi, tôi chẳng có phước, trong đời quá khứ tu huệ, chẳng tu phước, nên đời này rất khổ, sống cuộc đời rất khổ sở, duyên giúp đỡ chúng sanh cũng chẳng trọn đủ. Xác thực là phải phước huệ song tu.

      Chúng ta xem đoạn văn kế tiếp: “Thử giai thiên cử, cụ luận tất bị” (Những điều này đều là nêu riêng một điều, phải nói trọn hết th́ mới là đầy đủ). Ở đây nói tới lực, dụng, công, đức, mỗi chữ đều là nói tách rời, đó gọi là “thiên cử”, nhưng xét theo tác dụng th́ lực, dụng, công, đức đều viên măn. “Khổ thị ác quả, tham, khuể, si thị ác nhân, ác nhân bất trừ, quả bất đắc tạ” (Khổ là ác quả, tham, giận, si là ác nhân. Chẳng trừ ác nhân th́ quả cậy vào đâu [để sanh khởi]?) Khổ là lục đạo luân hồi, đó là chân khổ. Cái nhân của khổ là ǵ? Là tham, sân, si, “khuể” () là sân khuể. Tham, sân, si là khổ nhân. Khổ nhân rất nhiều, nhưng ba điều này quan trọng nhất. Nếu nói chi tiết, sau tham, sân, si, c̣n có ngạo mạn và hoài nghi thánh giáo, chẳng thể tin nhận giáo huấn của chư Phật, Bồ Tát, tổ sư, đại đức, đó là Nghi. Lại c̣n có cách nghĩ sai lầm, cách nh́n sai lầm, đó là ác kiến, càng nhiều hơn nữa! Những thứ ấy đều là khổ nhân. Nếu chẳng dẹp trừ khổ nhân, quư vị mong ĺa khổ, được vui, chắc chắn sẽ không đạt được. “Thị cố thử kinh năng linh Ngũ Nghịch tội diệt, văng sanh Tịnh Độ, tức thị thử kinh chi đại lực dụng dă” (V́ vậy, kinh này có thể diệt tội Ngũ Nghịch, văng sanh Tịnh Độ. Đấy chính là lực dụng to lớn của kinh này). Bộ kinh này có thể khiến cho [kẻ phạm tội] Ngũ Nghịch, Ngũ Nghịch khổ nhất, khổ đến tột bậc, đều có thể ĺa khổ, được vui; có thể thấy lực dụng và công đức của kinh này thật sự là thù thắng khôn sánh. Sự thù thắng ấy rốt ráo là ǵ? Chính là lư luận và phương pháp được nói trong kinh này. Nếu chúng ta chẳng hiểu rơ lư luận, sẽ chẳng thể đoạn hoài nghi. Nếu chúng ta chẳng hiểu rơ phương pháp, sẽ chẳng biết cách tu như thế nào! Kinh này bày ra trước mặt, tuy là thù thắng bậc nhất, đối với chúng ta vẫn chẳng khởi lên tác dụng ǵ! V́ vậy, phải thật sự hiểu đạo lư và phương pháp tu hành trong kinh này!

      V́ thời gian của khóa giảng đúng là ngắn ngủi, phải nói thật sự: Bản này là bản đại lược, chẳng phải là bản hoàn bị. Bản hoàn bị tặng cho quư vị được đóng b́a cứng dầy cộp như vậy, cả một bộ sách to. Bộ sách to ấy mới là bản hoàn toàn, bản này là tiết lục từ bản ấy; nhưng quư vị thấy bản ấy dầy như vậy, nếu chúng tôi giảng cặn kẽ một lượt, mỗi ngày giảng một lần, giống như thông thường chúng tôi giảng kinh một tiếng rưỡi, tối thiểu phải giảng một năm, không mất một năm sẽ chẳng giảng được. Nay chúng tôi giảng Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, quư vị thấy bộ sách ấy, giảng từ đầu đến cuối một lượt phải giảng hơn bốn trăm lần, mỗi lần giảng một tiếng rưỡi, giảng hơn một năm, giảng mỗi ngày đấy nhé! Tôi không có đủ duyên như vậy, phải thường đi ra ngoài, một năm chỉ có thể ở tại Đài Loan bốn tháng, nên bộ kinh này phải giảng rất nhiều năm mới có thể giảng viên măn. Hy vọng mọi người thật sự có thể phát tâm, học kỹ càng, học đôi ba năm thành công, quư vị có thể thay tôi đi giảng ở ngoại quốc. Tôi chẳng cần đi ra ngoài, ngồi ở nơi đây, một năm giảng xong một bộ kinh lớn như vậy, lại c̣n có thể giảng mấy bộ, sẽ thật sự hữu ích cho các vị đồng tu, có lợi ích chân thật.

      Nói thật ra, học giảng kinh không cần lập Phật Học Viện. Từ xưa tới nay, tại Trung Quốc chưa hề nghe nói lập Phật Học Viện. Từ lịch sử Trung Quốc, chúng ta chẳng tra cứu thấy [chuyện ấy], trong ngữ lục và sơn chí của các tông cũng chẳng thấy. Huấn luyện nhân tài như thế nào? Huấn luyện bằng giảng tiểu ṭa, bằng lối phức giảng. Ví như buổi tối tôi giảng kinh th́ người thật sự học giảng kinh lúc tôi giảng vào buổi tối, sẽ lắng nghe chăm chú. Tới sáng hôm sau, quư vị giảng lặp lại một lượt, học như vậy sẽ thành công. Trong quá khứ, tôi theo học với thầy Lư ở Đài Trung, cũng là giảng tiểu ṭa, phức giảng. Khi đó, thầy Lư giảng kinh Lăng Nghiêm, thầy giảng một lần, tôi cũng giảng từ đầu đến cuối một lần. Khi thầy giảng là giảng trong giảng đường cho mọi người nghe, lúc tôi giảng là giảng cho sáu bạn học nghe. Lớp học của tôi chỉ có bảy người, kể cả tôi trong số đó, tôi giảng, sáu người kia nghe, nhưng cả sáu người đều học giảng kinh, đều là người trong nghề, nên sau khi tôi giảng xong, sáu người bọn họ sẽ phê b́nh, chỉ dạy tôi. Cắt gọt, mài giũa lẫn nhau như vậy th́ mới có thể học thành công. V́ thế, chẳng phải là xuất thân từ Phật Học Viện.

      Thật sự học giảng kinh, nhất định phải học tiểu ṭa, học tiểu ṭa là học giảng. Các pháp sư thuộc thế hệ trước đều theo phương pháp này. Pháp sư Diễn Bồi xuất thân từ lối học tiểu ṭa chùa Quán Tông, chính lăo nhân gia kể với tôi. Ngài cũng xuất gia từ lúc rất bé, theo học với lăo pháp sư Đế Nhàn, được cụ Đế Nhàn đặt vững cơ sở, cũng là giảng tiểu ṭa, bắt Ngài phức giảng. Sau này, khi pháp sư Đế Nhàn viên tịch, Ngài theo học với pháp sư Thái Hư. Theo học với pháp sư Thái Hư th́ quư vị thấy pháp sư Thái Hư giảng rất nhiều thứ. Trong Thái Hư Pháp Sư Toàn Thư, có chẳng ít bài giảng do pháp sư Diễn Bồi ghi chép, thay đại sư chỉnh lư bút kư. Xuất thân như vậy th́ mới là thiết thực, kiên cố. Trong đoạn chú giải này, cũng chú thích không ít, chúng ta đọc một lần là được rồi. Quư vị xem trang tám mươi hai, đọc từ câu cuối cùng trong hàng thứ nhất.

      “Tu tri diệt ác, cực ư A Tỳ” (Cần biết diệt ác th́ tột bậc là A Tỳ). A Tỳ là A Tỳ địa ngục. Đây nói tới phương diện ác, ác tới tột bậc. Tội nghiệp như thế nào sẽ đọa trong A Tỳ địa ngục? Tạo tội nghiệp Ngũ Nghịch! Ngũ Nghịch là sát cha, giết mẹ. Cha mẹ sanh thành ta, ân nuôi dưỡng quá to, suốt đời báo đáp chng hết. Ti giết cha m vô cùng to ln, phi đọa A Tỳ địa ngục. A Tỳ (Avīci) là tiếng Phn phiên âm, dch sang nghĩa tiếng Hán là Vô Gián địa ngục, tức là tội nhân chịu khổ chẳng gián đoạn, là cơi địa ngục như vậy. “Sanh thiện, chí ư Diệu Giác” (sanh thiện th́ đạt đến Diệu Giác). Trong sanh thiện th́ tối thiện là thành Phật, Diệu Giác là thành Phật, c̣n cao hơn Đẳng Giác. Đẳng Giác Bồ Tát c̣n có một phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn. Nói cách khác, điều thiện của Ngài c̣n chưa đạt đến tột đỉnh. Thành Phật th́ vô minh phiền năo thảy đều đoạn sạch sành sanh, sanh thiện đạt tới tột bậc. “Phương thị Viên kinh lực dụng công đức” (mới là lực dụng và công đức của kinh Viên Giáo), lực dụng và công đức của kinh điển Đại Thừa Viên Giáo mới đạt đến viên măn rốt ráo. Đây là nói các kinh Đại Thừa, như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Viên Giác, Lăng Nghiêm, đều thuộc loại này. Tịnh Độ Tam Kinh cũng là Đại Thừa Viên Giáo, đều có đại lực dụng như vậy.

      Đoạn kế tiếp dạy chúng ta: Diệt ác th́ diệt ác nhân, chứ diệt ác quả th́ diệt từ quả sẽ chẳng có tác dụng, chẳng trừ quả được, phải thực hiện từ nhân. Nhân là ǵ? Nhân nói theo tổng cương lănh sẽ là vọng tưởng, chấp trước. Nếu nói thô thiển một chút, sẽ là tư tưởng và kiến giải sai lầm, cùng với các phiền năo tham, sân, si, mạn. Nếu chư vị thật sự hiểu đạo lư này, chúng ta đọc sách sẽ chẳng thể tùy tiện đọc. Nghe người khác giảng này nọ, cũng chẳng thể tùy tiện nghe, do nguyên nhân nào? Sách ấy có phải là một quyển sách tốt hay không? Sách ấy giúp chúng ta đoạn phiền năo, hay là vẫn tăng trưởng phiền năo của chúng ta? Phải biết điều này! Nếu sách ấy có thể giúp cho tâm địa chúng ta thanh tịnh; đó là sách tốt. Sách ấy khiến cho chúng ta dấy lên vọng tưởng, sách ấy chẳng phải là sách tốt. Trước đây, trong thời đại đế vương, hiện thời có rất nhiều người phản đối đế chế, nói thời đại đế vương chẳng tốt như thế này, như thế nọ. Nói thật ra, tôi nghĩ thời đại đế vương là tốt đẹp. Tôi giảng kinh ở Tân Gia Ba, có một hôm pháp sư Diễn Bồi và tôi tán gẫu. Sư nói: “Này pháp sư! Ông tán thành hoàng đế, hay tán thành dân chủ?” Tôi nói: “Tôi tán thành hoàng đế. Cố nhiên dân chủ có chỗ rất tốt, nhưng so sánh giữa đôi bên, dân chủ có nhiều chỗ không tốt, chỗ tốt đẹp ít ỏi. Chế độ đế vương có nhiều điều tốt đẹp, chỗ không tốt đẹp ít”.

      Ví dụ như nói đến chuyện ô nhiễm về phương diện tư tưởng. Trước đây, trong thời đại đế vương chuyên chế, chẳng có tự do ngôn luận và tự do xuất bản, đó là sự thật. Quư vị xuất bản một quyển sách, phải được quốc gia thẩm tra, [xét thấy] ngôn luận và tư tưởng của quư vị trong ấy chẳng có hại đối với quốc dân, không đến nỗi dẫn dắt họ theo tà tư tà kiến th́ mới cho phép quư vị lưu thông, cho quư vị xuất bản. Hiện thời dễ lắm, hết thảy đều tự do cởi mở. Hễ tự do cởi mở th́ bất cứ tà tri tà kiến, những thứ kỳ quái cỡ nào cũng đều xổ lồng! Chúng ta không có công phu định lực, chẳng có trí huệ, hễ tiếp xúc đều tưởng đó là thật. V́ thế, tư tưởng và kiến giải trong thế gian này bị ô nhiễm, c̣n nghiêm trọng hơn sự ô nhiễm trên địa cầu. Thời đại đế vương chẳng tự do, nhưng chúng ta c̣n có thể sống đời thái b́nh. Hiện thời tự do, chẳng sống được một ngày thái b́nh nào! Các vị nghĩ xem, thời đại nào tốt đẹp hơn? V́ lẽ đó, tôi vẫn tán thành hoàng đế tốt đẹp hơn. A! Thời gian đă hết rồi, chúng ta giảng tới chỗ này!

 

Tập 15

 

Xin mở kinh bổn, chúng ta xem trang tám mươi hai, hàng thứ tư từ dưới đếm lên, xem từ câu cuối cùng.

“Vị ác chi trọng giả, vô quá Ngũ Nghịch, Ngũ Nghịch thị nghiệp, tùng ư thượng phẩm phiền năo nhi khởi” (ư nói: Điều ác không ǵ nặng hơn Ngũ Nghịch, Ngũ Nghịch là nghiệp khởi từ phiền năo thượng phẩm). “Thượng phẩm” là phiền năo rất nặng, là phiền năo hết sức thô nặng, “chiêu Vô Gián khổ” (chuốc lấy nỗi khổ Vô Gián). “Vô Gián” là Vô Gián địa ngục, trong phần trước gọi nó là A Tỳ địa ngục.

“Thử kinh đại lực, năng diệt thử đẳng cực trọng tam chướng, tức sanh Tịnh Độ. Nhược chướng tánh phi tam đức, hà năng Vô Gián chuyển vi Cực Lạc? Tùng cực độn căn, thả luận thập niệm sanh tối hạ phẩm. Nhược tùng lợi căn, phi bất năng sanh thượng chi bát phẩm. Dĩ kỳ Ngũ Nghịch, Thể thị Tịch Quang, cố khả ư thử tịnh tứ Phật độ” (Kinh này có sức to lớn, có thể diệt ba thứ chướng cực nặng này, liền sanh về Tịnh Độ. Nếu tánh của các chướng ấy chẳng phải là Tam Đức, làm sao có thể chuyển Vô Gián thành Cực Lạc? Xét theo căn cơ cực độn, lại c̣n nói mười niệm sẽ sanh trong phẩm thấp nhất. Nếu xét theo hàng lợi căn, không ai chẳng thể sanh trong tám phẩm thượng. Ấy là v́ Thể của Ngũ Nghịch là Tịch Quang, nên có thể sanh trong bốn cơi Phật thanh tịnh ấy). Đoạn này rất khẩn yếu! Trong [khi giảng] Đại Kinh, chúng tôi đă từng nói: Phẩm vị văng sanh cao hay thấp do gặp duyên khác nhau, đoạn này có thể chứng minh cho chúng tôi! Nếu chúng ta gặp duyên thù thắng, không chỉ có thể tiêu trừ tội cực nặng, mà c̣n có thể tăng cao phẩm vị.

      Duyên có hai loại:

1) Một loại là thiện hữu. Kinh gọi [thiện hữu] là “thiện tri thức”, chúng ta thường gọi là “thầy”. Vị thầy ấy có phải là thật sự hữu tu, hữu chứng hay không? Nói cách khác, vị ấy có thật sự hiểu rơ triệt để Tịnh Độ hay không, giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín. Đây là một duyên rất quan trọng.

2) Một duyên khác là hoàn cảnh tu học. Trong hoàn cảnh, quan trọng nhất là đồng tham đạo hữu. Một người thành tựu th́ một là nhờ thầy, hai là bạn. Có thầy tốt, mà chẳng có đồng tham đạo hữu tốt, chẳng thành tựu dễ dàng. V́ thầy chẳng thể bầu bạn cộng tu cùng quư vị, người sẽ bầu bạn cộng tu với chúng ta chính là bạn học. V́ thế, phải có đồng học thật sự tốt đẹp, có thể thường cùng ta trau giồi, rèn giũa.

Hai điều này hễ thiếu một sẽ chẳng dễ dàng! V́ thế, gặp được thầy tốt, lại c̣n phải có bạn học tốt. Tiếp đó là hoàn cảnh tu hành, điều này cũng rất quan trọng, nhưng quan trọng nhất là hai điều kiện trên đây. V́ thế, có thầy tốt, lại có đồng tham đạo hữu tốt, lại c̣n có hoàn cảnh tu học tốt, đạo nghiệp tất nhiên tăng trưởng.

      Người học Phật, thời cổ nói là “tham học”. Thật ra, tham học là đi t́m ba điều kiện ấy. Đến khắp nơi xem xét, nghe nhiều, đương nhiên vẫn phải là [t́m ṭi] một nơi phù hợp với căn tánh của chính ḿnh, phù hợp với chí thú của chính ḿnh. Có điều kiện tốt đẹp như thế, đặc biệt là trọn đủ điều kiện, người ấy sẽ ở lại nơi đó, suốt đời cũng chẳng rời khỏi. Trong Cao Tăng Truyện, chúng ta thường thấy chuyện này, cả ba điều kiện ấy thảy đều trọn đủ, [người tham học sẽ trụ măi ở nơi đó]. Trong xă hội hiện tiền, thường được gọi là xă hội công lợi[4]. Nói thật thà, xă hội xưa kia thuộc loại xă hội đạo nghĩa. Làm cường đạo thổ phỉ cũng có đạo nghĩa, trộm cướp cũng có đạo nghĩa! Hiện thời là xă hội công lợi, xă hội công lợi quá đáng sợ! Chẳng có đạo nghĩa! Nói cách khác, rất khó t́m được cả ba điều kiện ấy. Gặp được thầy tốt, chưa chắc đă có đồng học tốt. Có đồng tham đạo hữu tốt đẹp, chẳng có thầy tốt chỉ dẫn, hoàn cảnh tu học càng khó hơn nữa!

      Trong t́nh h́nh ấy, nói thật thà, học các pháp môn khác hết sức khó khăn, chỉ có mỗi cách thật thà niệm Phật là c̣n được, chúng ta c̣n có thể đạt được mục tiêu này, thật sự thật thà niệm Phật. Niệm Phật là sám hối nghiệp chướng, chúng ta biết [chính ḿnh] tội nghiệp rất nặng. Nay kể như đă hiểu tội nghiệp là ǵ? Là khởi tâm động niệm, tà tri tà kiến, tham, sân, si, mạn, đó là nghiệp chướng. “Nghiệp” là tạo tác, là động tác. “Chướng” là chướng ngại bản tánh, chướng ngại tâm thanh tịnh, khiến cho công phu niệm Phật của chúng ta chẳng thể thành phiến, chẳng đạt được nhất tâm bất loạn, Chướng chính là ngăn chướng điều ấy! Có thể thật thà niệm Phật, hễ ư niệm vừa dấy lên, bèn dùng một câu Phật hiệu để thay thế. Niệm Phật hiệu rất siêng năng, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, chẳng hoài nghi, xác thực là phương pháp tiêu nghiệp chướng thù thắng nhất. Kinh luận có dạy chúng ta: Nghiệp chướng cực nặng, tất cả hết thảy phương pháp đều chẳng tiêu th́ phương pháp niệm Phật có thể tiêu. Từ đoạn này, chúng ta lại thấy, tội nghiệp cực nặng vẫn có thể văng sanh thế giới Tây Phương.

      Tội nghiệp cực nặng, lại là cực độn căn, mà vẫn c̣n có thể sanh trong hạ phẩm, khó có thay! Tội nghiệp cực nặng, nếu là lợi căn, c̣n có thể sanh trong tám phẩm trên. Trong tám phẩm trên, cao nhất là thượng phẩm thượng sanh. Nghe điều này chúng ta thấy quái lạ, tạo tội nghiệp cực nặng mà c̣n có thể thượng phẩm thượng sanh ư? Có thể chứ! Trong kinh này có nói vua A Xà Thế tạo trọng tội Ngũ Nghịch, giết cha, hại mẹ, phá ḥa hợp Tăng, phá hoại Tăng đoàn, đó là tội nghiệp đọa địa ngục A Tỳ. Trong Đại Tạng Kinh có bộ A Xà Thế Vương Kinh, đức Phật đặc biệt nói về vị vua này. Nhà vua đến khi lâm chung mới giác ngộ, mới sám hối. Vua vốn phải đọa vào địa ngục, nhưng v́ căn cơ rất bén nhạy, sức mạnh sám hối rất lớn, nên văng sanh thế giới Tây Phương trong phẩm vị thượng phẩm trung sanh, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, chúng ta thường thấy có những kẻ tội nghiệp rất nặng, cũng chớ nên coi rẻ họ! Nói không chừng, họ một niệm sám hối, phẩm vị văng sanh c̣n cao hơn chúng ta. Chúng ta niệm Phật suốt đời, thậm chí phẩm vị c̣n chẳng cao như họ! Như vậy th́ chúng ta mới biết người văng sanh có hai loại:

1) Một loại là b́nh thường niệm Phật, tích công lũy đức, loại này là văng sanh thông thường.

2) Loại kia là sám tội văng sanh, tức là sám hối văng sanh, khi lâm chung mới hối hận, mới triệt để ăn năn hối lỗi, có sức mạnh rất lớn.

Có hai loại như vậy, hai loại văng sanh lớn như vậy.

      Căn cứ lư luận là bất luận thiện, ác, tội, phước, hễ nói theo thể tánh, sẽ đều là Chân Như bản tánh. V́ vậy, công đức lễ sám lại chẳng thể nghĩ bàn. Chư vị phải hiểu lễ sám chẳng phải là chúng ta chiếu theo nghi thức sám hối, đối trước Phật, Bồ Tát tụng niệm, vái lạy là được! Lạy Lương Hoàng Sám, lạy Thủy Sám, lạy Đại Bi Sám, tội nghiệp có tiêu trừ hay không? Có lạy sạch tội được không? Có tiêu sạch tội nghiệp hay không, chẳng cần phải hỏi ai khác, chính ḿnh hiểu quá rơ ràng. Tức là sau khi quư vị lạy xong, tâm quư vị có phải là thật sự thanh tịnh, có phải là thật sự hối cải, sửa lỗi đổi mới hay không? Trong khi lễ sám, trong tâm chính ḿnh có thể hối cải, sửa lỗi đổi mới th́ nghiệp chướng có thể tiêu trừ. Đến tột cùng, tiêu nhiều hay ít cũng chẳng nhất định! Có người tiêu nhiều, có kẻ tiêu ít, có người như tôi đă thấy, không chỉ chẳng tiêu mà c̣n tăng thêm. Càng lạy, tội nghiệp càng nhiều, v́ sao? Bái sám mà vẫn sanh phiền năo, đó là bái sám tăng thêm tội nghiệp. Sanh phiền năo như thế nào? Khi mọi người cùng nhau bái sám, chẳng hạn như người đánh pháp khí gơ trật, người ấy bèn nổi nóng khôn cùng: “Cớ sao lại đánh sai ở chỗ ấy?” [Luôn luôn càm ràm]: “Chỗ này âm thanh to, chỗ kia âm thanh quá nhỏ”. Quư vị thấy đó: Vừa bái sám, vừa kèn cựa, làm sao được? Như thế th́ sẽ chẳng có tác dụng ǵ. Đó là chuyện thường thấy trong đạo tràng!

      Chúng tôi giới thiệu phần Luận Dụng đến đây. Tiếp theo là giáo tướng, tức phần Phán Giáo Tướng. Hàng thứ hai trong trang tám mươi ba, đoạn thứ năm là Phán Giáo Tướng. “Thượng chi tứ chương” (trong bốn chương trước), những phần Thích Danh, Biện Thể, Minh Tông, Luận Dụng, bốn chương trên đây, “giai thị ngôn giáo” (đều là dạy bằng lời nói), đều là Giáo. “Vị thuyên danh giáo, thuyên Thể, thuyên Tông, thuyên Dụng chi giáo dă” (đều là những lời dạy giảng về danh giáo, tức là giảng về Thể, giảng về Tông, giảng về Dụng), đây là nói đại lược [nội dung] của bốn chương trước. “Nhược dĩ kỳ tướng nhi phân biệt chi, biệt linh lăm giả, quán chi hiển liễu. Cố ước ngũ thời, nhị tạng, Đốn, Tiệm, dĩ thị kỳ tướng” (nếu dùng tướng để phân biệt, ḥng khiến cho người xem hễ nh́n vào sẽ hiểu rơ. V́ thế, ước theo năm thời, hai tạng, Đốn, Tiệm, để tŕnh bày tướng của kinh này). Ngài giảng giải như vậy, kẻ sơ học như chúng ta chẳng dễ ǵ hiểu rơ. Nếu chúng ta nói theo cách hiện thời: Giáo giống như sách giáo khoa được sử dụng trong nhà trường hiện thời, mọi người sẽ dễ hiểu. Kinh điển là sách giáo khoa. Trong phần trước đă giảng về danh giáo, tức là nói tới Danh, Thể, Tông, Dụng, đó là nội dung của sách giáo khoa.

      Giáo Tướng là chuyện như thế nào? Chúng ta quan sát cặn kẽ bộ kinh điển này, đức Phật nói vào thời nào? Theo cách phân loại kinh Phật, kinh này thuộc loại nào? Kinh Phật được phân loại rất sớm, cách phân loại sách vở hiện thời rất tinh tế, quả thật rất thuận tiện cho người đọc sách. Sớm nhất ở Trung Quốc, có thể nói cách phân loại sách vở là do Phật giáo khởi xướng, chia hết thảy các kinh thành ba loại lớn, tức là Tam Tạng, gồm Kinh Tạng, Luật Tạng, và Luận Tạng, phân loại như vậy. V́ cách phân loại trong Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến pháp thế gian, như cách phân loại trong Tứ Khố Toàn Thư là bắt chước cách chia [kinh điển] thành Tam Tạng trong kinh Phật, [sách vở thế gian được] chia thành Kinh, Sử, Tử, Tập. Trong phần Kinh, lấy mười ba kinh[5] [của Nho gia] làm cương lănh, lại chia thành các mục nhỏ, càng chia nhỏ, càng chi tiết. Kinh Phật được phân loại sớm nhất, trong cách phân loại kinh điển, kinh này thuộc loại nào. Điều này tạo thành một thứ tài liệu tham khảo để người đời sau dạy học [thuận tiện], mà cũng nhằm [xét xem] bộ sách này rốt cuộc thích hợp cho kẻ mới học, hay thích hợp cho người tu hành đă lâu? Giống như sách giáo khoa, sắp xếp chương tŕnh học trong nhà trường, phải biết là xếp vào loại Trung Học? Hay là xếp vào sách Đại Học? Xếp vào lớp mấy? Dùng phương pháp ǵ để dạy học? Việc phán giáo chủ yếu nhằm cung cấp những ư nghĩa này; nhưng kể từ xa xưa, người phán giáo rất nhiều, có các cách nh́n khác nhau. Có người cho rằng kinh điển này thích hợp với hàng sơ học, có người cho rằng [kinh điển này] chẳng thích hợp với hàng sơ học. V́ thế, phán giáo chẳng do đức Phật phán định. Đức Phật chẳng nói những điều ấy, mà do người đời sau phán định. Do đó, phán giáo giúp cho chúng ta tham khảo cách nh́n của cổ đại đức, để cho chính ḿnh tham khảo, đừng chấp chết cứng vào cách nói của cổ nhân, đó mới là tốt. Dẫu sao, các Ngài đều là bậc hữu tu hữu học, [những nhận định của các Ngài] đáng cho chúng ta tham khảo!

      “Giáo tướng giả, thử thị Đại Thừa Phương Đẳng giáo nhiếp” (Xét theo giáo tướng, kinh này thuộc về Đại Thừa Phương Đẳng giáo). Phật giáo phân chia tổng quát thành Đại Thừa và Tiểu Thừa. Tiểu Thừa từa tựa như Tiểu Học, Đại Thừa gần như là Đại Học. Miễn cưỡng th́ cũng có thể thêm vào Trung Thừa, nói thông thường, Trung Thừa là ǵ? Chính là từ Tiểu Thừa tách ra. V́ trong Tiểu Thừa có hai loại, một loại là Thanh Văn, loại kia là Duyên Giác. Cảnh giới chứng ngộ của Duyên Giác cao hơn Thanh Văn. Nếu nói ba thừa, sẽ là Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa. Nếu nói hai thừa, th́ là Tiểu Thừa và Đại Thừa. Tiểu Thừa tức là quy nạp Thanh Văn và Duyên Giác lại, gọi chung là Tiểu Thừa. Kinh này thuộc loại Đại Thừa, tức là trong hai thừa, kinh này thuộc loại Đại Thừa. Nếu xét theo ba thừa, sẽ thuộc loại Bồ Tát Thừa.

      Trong mười hai phần giáo, kinh này thuộc loại Phương Đẳng Giáo. “Mười hai phần giáo” là nói tới hết thảy các kinh do đức Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, Ngài chọn phương thức nào. Các phương thức ấy giống như thể tài (genre) được sử dụng khi chúng ta viết văn trong hiện thời, có tất cả mười hai phương thức. Trong mười hai phương thức ấy, kinh này thuộc loại Phương Đẳng[6]. Nếu nói theo h́nh thức, kinh này thuộc loại đề tài văn xuôi, thuộc loại Trường Hàng. Phương Đẳng là nói theo Ngũ Giáo, tức là nói đến thời gian, đức Phật thuyết kinh này khi nào? Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian này, giảng bộ kinh đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm trong hai thất nhật, cũng có người nói là ba thất nhật. Hai thất là mười bốn ngày, ba thất là hai mươi mốt ngày. Đức Phật v́ bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ mà giảng bộ kinh ấy, chẳng phải giảng cho nhân gian chúng ta. Nhân gian chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật tĩnh tọa dưới cội Bồ Đề, đâu biết đức Phật giảng kinh Hoa Nghiêm trong Định! V́ thế, có tư cách nghe kinh th́ đều phải vào trong Định của Phật th́ mới có đủ tư cách đến nghe kinh. Do vậy, người Tiểu Thừa chẳng tin Đại Thừa, cho là Đại Thừa chẳng phải do đức Phật nói, mà do người đời sau biên soạn, chẳng phải là Phật giáo chân thật. Họ phản đối Đại Thừa, v́ sao? Đối với họ, phải là nhục nhăn trông thấy th́ mới chấp nhận, chứ trong Định sẽ không tính. Ta không thấy th́ không tính. V́ lẽ đó, người Tiểu Thừa chấp nhận Thích Ca Mâu Ni Phật giảng pháp Tứ Đế độ năm vị tỳ-kheo tại Lộc Dă Uyển, họ nói đức Phật bắt đầu thuyết pháp từ lúc đó, chẳng thừa nhận thời Hoa Nghiêm.

      Kinh Hoa Nghiêm xuất hiện cũng trễ. Kinh cho biết, sau khi đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm xong, Đại Long Bồ Tát đem kinh này cất giữ trong cung rồng. Măi cho đến sáu trăm năm sau, Long Thọ Bồ Tát xuất hiện trong cơi đời, đến chơi, thăm viếng cung rồng, thấy bộ kinh này, mới đem kinh về thế gian, thế gian mới có kinh Hoa Nghiêm, mới biết có chuyện như thế. Long Thọ Bồ Tát mang Hạ Bổn Hoa Nghiêm về, Ngài thấy [kinh Hoa Nghiêm] có ba bản Thượng, Trung, Hạ. Bản thượng vốn có mười tam thiên đại thiên thế giới vi trần kệ, một tứ thiên hạ vi trần phẩm. Ngài nói phân lượng quá lớn, chúng sanh trong Diêm Phù Đề chẳng có năng lực tiếp nhận. Xem đến bản trung, bản trung đă ít hơn rất nhiều, nhưng nhân gian chúng ta cũng chẳng thể tiếp nhận được. Lại xem đến bản hạ, bản hạ có mười vạn kệ, có bốn mươi phẩm, được rồi, người thế gian chúng ta có thể tiếp nhận, Ngài liền đem bản hạ về nhân gian. Nhưng bản dịch kinh Hoa Nghiêm hiện thời ở Trung Quốc chẳng hoàn chỉnh, chỉ có một nửa bộ kinh, chúng ta gọi là Lược Bổn Hoa Nghiêm, gồm tám mươi cuốn. V́ thế, kinh này chẳng hoàn chỉnh, truyền đến Trung Quốc bị thất lạc rất nhiều. Tuy kinh bổn chẳng hoàn toàn, nhưng xét theo ư nghĩa, đại khái chẳng sai biệt nhiều lắm, có thể thấy được điều này. Hiện thời, trên khắp thế giới, kinh Hoa Nghiêm lưu truyền trên thế gian, có thể nói là chỉ có bản tiếng Hán nhiều nhất, kinh điển bằng tiếng Phạn đă bị mất.

      Thời thứ hai là A Hàm. Sau A Hàm, đức Phật bèn giảng Phương Đẳng. Phương Đẳng là thời kỳ thứ ba. Phương Đẳng được nói ở đây chính là thời kỳ thứ ba. Thời kỳ thứ tư là giảng Bát Nhă, thời kỳ cuối cùng giảng Pháp Hoa và Niết Bàn. Đây là nói tới thứ tự kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm. Bộ kinh này được nói trong thời thứ ba, tức thời Phương Đẳng. “Phó cơ nhiếp hóa, quảng lược bất đồng, đại bổn nhị quyển” (ứng theo căn cơ mà nhiếp thủ, hóa độ, rộng, lược khác nhau, đại bổn có hai cuốn). Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ, “Tấn Vĩnh Gia niên trung, Trúc Pháp Hộ dịch” (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào năm Vĩnh Gia[7] đời Tấn); khi chúng tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ có nhắc tới bản này, tức bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ, nhưng bản dịch gồm hai cuốn này hiện thời chẳng c̣n, đă bị mất. Văn tự c̣n thấy ở chỗ này là do Trí Giả đại sư nói. Thuở Trí Giả đại sư tại thế hăy c̣n thấy bản này, nhưng bản này [hiện nay] đă thất truyền. Kinh Vô Lượng Thọ có tổng cộng mười hai loại bản dịch, thất truyền bảy bản, đây là một trong bảy bản bị thất truyền. Từ văn tự này, chúng ta có thể chứng tỏ, bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ bị mất sau đời Đường. Đại Tạng Kinh hiện thời không có bản dịch này. Chữ “thử bổn” chỉ kinh này. “Thị Tống Nguyên Gia thời, Cương Lương Da Xá ư Dương Châu dịch” (do ngài Cương Lương Da Xá[8] dịch ở Dương Châu vào niên hiệu Nguyên Gia đời Tống). Giới thiệu cho chúng ta biết bản Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh này [là bản dịch] trong thời đại Lưu Tống[9]. Tống ở đây chẳng phải là Triệu Tống, mà là thời đại Lưu Tống. Trong niên hiệu Nguyên Gia, pháp sư Cương Lương Da Xá là một vị cao tăng Ấn Độ đến Trung Quốc hoằng pháp, phiên dịch ở Dương Châu. “Lưỡng kinh giai tại Vương Xá thành thuyết”, [nghĩa là] bộ kinh này và kinh Vô Lượng Thọ đều do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng tại thành Vương Xá. “Phục hữu tiểu bổn, danh A Di Đà, tại Xá Vệ quốc thuyết” (lại có tiểu bổn tên là A Di Đà, nói tại nước Xá Vệ), đây là Phật Thuyết A Di Đà Kinh do Cưu Ma La Thập đại sư phiên dịch, kinh ấy được giảng tại nước Xá Vệ. Đó là ba kinh Tịnh Độ. “A Di Đà, Vô Lượng Thọ, bỉ thử phương ngôn” (A Di Đà và Vô Lượng Thọ lần lượt là tiếng địa phương của cơi kia và xứ này), trong phần trước [chúng ta] đă đọc thấy A Di Đà và Vô Lượng Thọ có cùng một ư nghĩa, tiếng Hán là Vô Lượng Thọ, tiếng Phạn là A Di Đà.

      Kế đó, lại giới thiệu trong Tam Tạng và Nhị Tạng, kinh này thuộc loại nào. Chúng ta xem hàng thứ tư trong trang tám mươi tư: “Nhị Tạng danh nghĩa, Bồ Tát Tạng thâu” (xét theo danh nghĩa của Nhị Tạng, kinh này thuộc về Bồ Tát Tạng). Nhị Tạng là A Hàm Tạng và Bồ Tát Tạng, cũng là pháp Đại Thừa và pháp Tiểu Thừa. Kinh này thuộc loại Đại Thừa, thuộc loại Bồ Tát Tạng. “Tiệm, Đốn ngộ nhập, thử tức Đốn Giáo” (Xét theo sự ngộ nhập là Tiệm hay Đốn th́ kinh này chính là Đốn Giáo), nếu xét theo sự ngộ nhập, pháp môn này là Tiệm Giáo hay Đốn Giáo? Pháp môn Tịnh Độ, theo cách nh́n của tổ sư đại đức từ xưa tới nay, có thể nói khẳng định là các Ngài đều nhất trí công nhận là Đốn Giáo. V́ sao? Thành tựu trong một đời, chẳng cần đợi đến đời thứ hai. Không chỉ là thành tựu trong một đời, nếu xem kinh Di Đà, hoặc kinh Vô Lượng Thọ, [sẽ thấy] bảy ngày thành tựu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, cho đến bảy ngày, bảy ngày thành tựu, không có ǵ đốn hơn được! “Đốn” là đốn siêu, chẳng có thứ tự, xác thực là đốn siêu.

      Nói đến chuyện thành tựu rất nhanh chóng th́ chẳng có pháp môn nào có thể sánh bằng Tịnh Tông. Mật Tông nói “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong thân này) vẫn là một đời, pháp môn này bảy ngày thành tựu, thật đấy, chẳng giả! Rất nhiều đồng tu tu suốt bao nhiêu năm vẫn chưa thành tựu, bèn hoài nghi chuyện “bảy ngày thành tựu”. Thật ra, kinh chẳng sai, chính chúng ta đă phạm lỗi. Chính ḿnh đă lầm lỗi ở chỗ nào? Chính ḿnh chẳng mong thành tựu, thậm chí là chính ḿnh sợ hăi thành tựu. Nếu chúng ta đả Phật Thất ở đây, phía trên treo tấm biển ghi “bảy ngày văng sanh”, xem thử có ai đến hay không? Chẳng có ai đến cả! Ghê quá! Bảy ngày sẽ chết, c̣n ai dám đến nữa? Không có ai dám đến! Có thể thấy chúng ta nói đến thành tựu, miệng có, tâm không, chẳng phải là chân tâm. Người thật sự mong thành tựu, nh́n vào thời cổ, chẳng giả tí nào, thật sự mong văng sanh. Quư vị thấy ngay như năm trước, cư sĩ Châu Quảng Đại tại Washington DC nước Mỹ niệm Phật ba ngày ba đêm [liền văng sanh], có thể thấy đây là Đốn Giáo. Châu tiên sinh suốt một đời chưa từng nghe Phật pháp, bị bệnh nặng, chẳng có cách nào chữa lành, gặp thiện tri thức khuyên ông ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Kể ra, ông ta rất có thiện căn, nghe xong liền tin tưởng, bảo vợ con đều niệm Phật, giúp ông ta cầu sanh Tây Phương. Ông ta chẳng cần cầu lành bệnh, niệm suốt ba ngày ba đêm, Tây Phương Tam Thánh từ trên mây giáng xuống, tiếp dẫn ông ta văng sanh. Có thể thấy là “hoặc một ngày” cho đến “hoặc bảy ngày” chẳng giả. Nay chúng ta niệm mà chưa thấy Phật, Phật cũng chẳng đến tiếp dẫn, bèn biết là quư vị không chịu đi. Khi Phật hiện đến bèn sợ chết khiếp. Phật biết tâm chúng ta, chúng ta khởi tâm động niệm Ngài đều biết, quư vị là giả, Ngài sẽ chẳng đến. Nếu quư vị là thật, Ngài nhất định đến. Kinh này thuộc loại Đốn Giáo.

      “Chánh vị Vi Đề Hy cập chư thị nữ, tịnh thị phàm phu, vị chứng tiểu quả, cố tri thị Đốn, bất tùng Tiệm nhập” (chính v́ bà Vi Đề Hy và các thị nữ đều là phàm phu, chưa chứng tiểu quả, nên biết [kinh này] là Đốn, chẳng từ Tiệm giáo mà nhập), nói rất rơ ràng. [Đối tượng nghe] đức Phật thuyết pháp trong kinh này đứng đầu là phu nhân Vi Đề Hy, trong phần sau chúng ta sẽ đọc thấy. Năm trăm cung nữ trong cung đ́nh đồng thời nghe đức Phật thuyết pháp. Khi ấy, nghe xong họ liền chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Họ chưa chứng tiểu quả, chẳng thuộc địa vị Bồ Tát tiến cao hơn từng cấp một, không có! V́ chẳng theo thứ tự, nên kinh này thuộc loại Đốn. Chúng ta đọc chú giải một lượt: “Thử phi hóa nghi luận Tiệm, Đốn dă” (Đây chẳng phải là luận định là Tiệm hay Đốn dựa trên hóa nghi), “hóa” () là giáo hóa, nói theo cách hiện thời là giáo học. “Nghi” () là nghi thức, [hóa nghi] là nghi thức giáo học. Giống như nay chúng ta nói là sắp xếp khóa tŕnh, tiêu chuẩn [để phân định] khóa tŕnh, điều đó được gọi là “hóa nghi”. Ở đây, chẳng phải là nói tới hóa nghi là Đốn hay Tiệm. Xét theo hóa nghi là Đốn hay Tiệm th́ Pháp Hoa là Đốn, Hoa Nghiêm là Đốn, những thời khác như A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă đều thuộc loại Tiệm Giáo, đều là tu học theo thứ tự.

      “Kim kinh phán tại Phương Đẳng, phi hóa nghi Đốn” (nay kinh này được phán định thuộc thời Phương Đẳng, nên không phải là Đốn xét theo hóa nghi), do đó, chẳng thể xét theo thứ tự thuận trong sự giáo học thông thường. “Kim chi Đốn giả, năi ư hóa pháp” (nay nói là Đốn, chính là xét theo hóa pháp). “Pháp” là phương pháp giáo học. “Dĩ Viên vi Đốn, năi Đốn Giáo Tướng, phi Đốn Giáo Bộ dă” (do là Viên nên coi là Đốn, chính là tướng Đốn Giáo, chứ không thuộc về loại Đốn Giáo Bộ). Nếu là Đốn Giáo Bộ th́ nếu chẳng thuộc vào Hoa Nghiêm Bộ, sẽ thuộc về Pháp Hoa Bộ, đó là Đốn Giáo Bộ. Kinh này thuộc Phương Đẳng Bộ, nhưng phương pháp trong kinh lại thuộc loại Viên Đốn; nếu theo cách thức xếp đặt thông thường, kinh này chẳng thuộc vào Đốn Giáo Bộ. “Cố tựu Vi Đề, tức thân đắc Nhẫn” (tức là xét theo chuyện bà Vi Đề Hy đắc Nhẫn ngay trong thân hiện tại), phu nhân Vi Đề Hy tiếp nhận sự chỉ dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi nghe kinh xong, bèn có thể chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, đó là “đốn siêu”. Nói theo cảnh giới thấp nhất của Vô Sanh Pháp Nhẫn th́ cũng là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát. Nói nghiêm ngặt, từ Thất Địa trở lên mới chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn! Có thể thấy địa vị của bà ta chẳng tuân theo thứ tự, ngay lập tức đạt tới địa vị cao dường ấy. Tiếp đó, lời Sớ viết: “Thả Vô Sanh Nhẫn vị, tại Biệt Địa Viên Trụ” (Hơn nữa, địa vị Vô Sanh Nhẫn thuộc về Sơ Địa trong Biệt Giáo, hay Sơ Trụ trong Viên Giáo), trong Biệt Giáo là Sơ Địa, trong Viên Giáo là Sơ Trụ. “Biệt Giáo phàm phu, kinh vô số kiếp, phương chí thử vị” (phàm phu trong Biệt Giáo phải trải qua vô số kiếp mới đạt đến địa vị này). Nếu muốn chứng đắc địa vị này, thông thường chúng ta hay nói là phải trải qua hai A-tăng-kỳ kiếp th́ mới có thể chứng đắc, đó là nói phàm phu muốn chứng quả vị này. Bà ta cũng là phàm phu, đột nhiên chứng đắc quả vị này, đó là chuyện như thế nào? Tiếp đó, sách nói: “Duy hữu viên nhân, tức sanh khả nhập” (chỉ có người thuộc căn cơ Viên Giáo mới có thể nhập ngay trong một đời này). Có thể thấy chủng tánh của người nghe giáo là Viên Đốn, thuộc về căn tánh ấy, nên vừa nghe liền khai ngộ, vừa khai ngộ liền khế nhập, liền nhập cảnh giới này, nhập là chứng.

      Ngộ là ǵ? Nhập là ǵ? Ngộ là hiểu rơ, hoàn toàn hiểu rơ, minh bạch, đó là khai ngộ. “Nhập” là biến các đạo lư và phương pháp ấy thành sự hành tŕ trong cuộc sống của chính ḿnh, tức là thật sự đạt được thọ dụng, đó là Nhập. Có người tuy đă ngộ, nhưng chính ḿnh chẳng thể thọ dụng, chính ḿnh vẫn là phàm phu, vẫn khổ năo, tức là tuy ngộ nhưng chẳng nhập! Phật pháp quư ở chỗ khế nhập. Nay chúng tôi cũng đặc biệt nhấn mạnh điểm này, do đó, khuyên mọi người niệm kinh Vô Lượng Thọ. Niệm kinh Vô Lượng Thọ th́ phải nhập cảnh giới của A Di Đà Phật, cách nhập ra sao? Tức là biến đạo lư trong kinh Vô Lượng Thọ thành tư tưởng và kiến giải của chính chúng ta, biến các giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ thành hành vi trong cuộc sống của chúng ta, đó là Nhập. Nếu lư luận và phương pháp đều đă hiểu, nhưng chúng ta làm không được, đó là “chỉ ngộ, chẳng nhập”, vậy th́ chẳng có tác dụng lớn lao ǵ! Chẳng thật sự được thọ dụng! Thật sự ngộ nhập th́ nhất định là ĺa khổ được vui trong hiện tại, ngay lập tức cuộc sống của chính ḿnh thay đổi, xác thực là biến đổi, mạng đă chuyển, lập tức chuyển, trong tương lai quyết định sanh về Tịnh Độ. Đó mới là thật sự học Phật. Nhất định phải biến lư luận thành tư tưởng và kiến giải của chính ḿnh, biến giáo huấn thành hành vi trong cuộc sống của chính ḿnh, đó là điều quan trọng.

      Trong hết thảy các kinh, chúng ta chọn lựa kinh Vô Lượng Thọ cũng là rất có lư. Kinh Vô Lượng Thọ được hết thảy chư Phật đề xướng, đó là lư do thứ nhất. Lư do thứ hai là kinh Vô Lượng Thọ phân lượng không nhiều lắm, nhưng những điều được giảng trong ấy, phương diện nào cũng chu đáo, rất khó có! Ví như kinh Kim Cang, kinh Kim Cang hoàn toàn là Lư, hiểu rơ Lư th́ được, nhưng ứng dụng trong cuộc sống như thế nào? Kinh chẳng giảng! Chúng ta xử sự, đăi người tiếp vật nếu dùng kinh ấy làm căn cứ sẽ rất khó. Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta hiếu thuận cha mẹ ra sao? Tôn kính sư trưởng như thế nào? Đối xử với đại chúng trong xă hội ra sao? Thảy đều giảng rất rơ ràng, đây là điều hết sức khó có! Đương nhiên là kinh giảng rất nhiều, gần như quá nửa bản kinh nói về chuyện này. Phần chuyên môn tập trung các giáo huấn về cách xử sự, đăi người, tiếp vật là từ chương ba mươi ba đến chương ba mươi bảy, năm chương ấy toàn giảng về chuyện này. V́ thế, trong công khóa sớm tối của chúng ta trong hiện thời, khóa sáng chúng ta niệm bốn mươi tám nguyện, khóa tối chúng ta niệm năm chương ấy. Niệm năm chương ấy với hy vọng có thể ứng dụng trong cuộc sống. Cuộc sống, cách xử sự, đăi người, tiếp vật của chúng ta đă có căn cứ ấy, tuân theo giáo huấn của A Di Đà Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật để làm. Đọc bốn mươi tám nguyện, hy vọng cách nghĩ, cách nh́n của chúng ta giống như A Di Đà Phật. Tâm, nguyện của chúng ta giống như Phật, giải và hạnh giống như Phật, đó gọi là “khế nhập”.

      Kinh văn không dài, [thọ tŕ] dễ dàng! Giảng một lần cũng dễ dàng, đọc một lần cũng dễ dàng, thực hiện cũng chẳng khó. Nếu là những bộ đại kinh khác, như Hoa Nghiêm chẳng hạn, nói rất nhiều phương pháp, c̣n nhiều hơn kinh Vô Lượng Thọ, lư luận được giảng c̣n tỉ mỉ hơn, nhưng kinh quá lớn. Quá lớn sẽ chẳng tiện thọ tŕ, chẳng thuận tiện như quyển kinh này. V́ thế, đặc biệt chọn lựa bộ kinh này. Nhất là chúng ta nhằm vào mục đích mong sanh về Tây Phương Tịnh Độ, đây chính là bộ kinh điển chánh yếu nhất của Tây Phương Tịnh Độ. V́ vậy, có khá nhiều lư do để chọn lựa bộ kinh này, mà chẳng chọn lựa kinh điển khác.

      “Nhược tương kết ích phán giáo” (nếu dựa theo các kết luận về sự lợi ích để phán giáo), “kết” là tổng kết, “ích” là lợi ích, tức là nói tổng kết, dựa theo lợi ích để nói, để phán giáo. “Thiên Viên, tối vi minh hiển” ([sẽ thấy] kinh này là Thiên Viên rơ rệt nhất). Kinh này là Viên Giáo, nhưng chẳng phải là Toàn Viên, mà là Thiên Viên. Nó chẳng phải là Thuần Viên. Thuần Viên là Pháp Hoa, Toàn Viên là Hoa Nghiêm. Thưa cùng quư vị, kinh Vô Lượng Thọ là Thuần Viên, là Toàn Viên, c̣n ở đây v́ sao là Thiên? V́ những điều được giảng thiên về lư luận, phương pháp và nhân quả, trọn chẳng phải là giới thiệu toàn thể y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, giới thiệu toàn thể [những điều đó] là kinh Vô Lượng Thọ. Chẳng hạn như kinh này chẳng nói đến bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, nên chẳng viên măn. Trong kinh Vô Lượng Thọ có giảng lư luận, giảng về ba bậc văng sanh, có nói tới chánh nhân văng sanh. Ở đây giảng ba bậc chín phẩm giống như kinh Vô Lượng Thọ, nhưng kinh Vô Lượng Thọ giảng giản lược, c̣n kinh này giảng chi tiết. Tuy giảng chi tiết, vẫn chẳng hoàn toàn viên măn! Viên măn là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh này có thể bổ sung cho kinh Vô Lượng Thọ, dùng làm tài liệu để đọc bổ sung cho kinh Vô Lượng Thọ. “Thị cố kim văn tựu ích định chi, thị Đốn, phi Tiệm” (v́ thế, nay dựa theo lợi ích để phán định kinh văn này là Đốn, chẳng phải là Tiệm), nói theo mặt lợi ích, kinh này là Đốn Giáo.

      “Đề xưng Phật Thuyết, giản dị tứ nhân” (Đề kinh ghi là Phật Thuyết, nhằm phân biệt khác với bốn hạng người). Phật pháp hết sức sức cởi mở, có tánh chất bao dung rất lớn, chẳng ích kỷ. Chẳng phải là nói kinh Phật th́ chỉ có kinh nào do đức Phật đă nói th́ mới gọi là kinh Phật, kinh do người khác nói chẳng thể gọi là kinh Phật! Đức Phật nói “có thể”, chỉ cần những điều quư vị nói có tông chỉ, lư luận và y cứ giống như những ǵ đức Phật đă nói, đức Phật đều chấp nhận: Quư vị nói giống như ta nói, đó là kinh Phật! V́ vậy, kinh Phật do năm hạng người nói: Có kinh do đức Phật nói, tức là đức Phật tự ḿnh nói. Có kinh do đệ tử nói, tức là học tṛ của Phật nói. Có kinh do chư thiên nói. Có kinh do tiên nhân nói. Lại c̣n có kinh do người biến hóa nói. Nhiều người đều có thể nói như vậy, nhưng kinh do những người đó nói phải được đức Phật hứa khả th́ mới được coi như do chính đức Phật nói. Nhưng hiện thời, đức Phật chẳng tại thế, đối với những ǵ do những người ấy nói, ai có thể chứng minh đó là kinh Phật? Đức Phật chẳng c̣n trụ thế, nhưng c̣n có cái gọi là Pháp Ấn. Pháp Ấn là nói tới nguyên lư, nguyên tắc. Nguyên lư và nguyên tắc giống như đức Phật đă nói th́ đều có thể gọi là “kinh Phật”. Tiểu Thừa có ba nguyên tắc là Vô Ngă, Vô Thường, Niết Bàn. Nếu chẳng trái nghịch những nguyên tắc ấy, những điều do những người ấy nói đều có thể gọi là Kinh, v́ có tông chỉ chẳng khác những ǵ do đức Phật đă nói. [Pháp ấn của] kinh điển Đại Thừa là Thật Tướng, hễ phù hợp Thật Tướng th́ chúng ta đều có thể thừa nhận đấy là kinh Phật, không nhất định phải là do đức Phật nói. Quư vị thấy tại Trung Quốc, Lục Tổ Đàn Kinh chẳng do đức Phật nói, mà do Huệ Năng đại sư nói. Huệ Năng là người Hoa, chưa từng đến Ấn Độ. Sự thừa truyền của Ngài là do ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn truyền trao. Ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn cũng là người Hoa, cũng chẳng phải là cao tăng Ấn Độ truyền cho. Các vị tổ sư đại đức của các tông phái Đại Thừa tại Trung Quốc đều thừa nhận những điều ngài Huệ Năng đă nói có thể gọi là Kinh, v́ sao? Tông chỉ của những điều do lăo nhân gia đă nói quyết định chẳng mâu thuẫn với tông chỉ do đức Phật đă nói trong các kinh Đại Thừa. Đó là một thí dụ.

Tựa đề kinh này được khởi đầu bằng chữ “Phật Thuyết”. Thêm vào chữ này, v́ kinh do chính miệng đức Phật thuyết, chẳng do bốn hạng người kia nói. Nếu do bốn hạng người kia nói th́ tựa đề kinh chẳng thể ghi là Phật Thuyết. Hễ thêm vào chữ Phật Thuyết, nhất định là do chính đức Phật nói. Trong đề mục của kinh có thêm vào hai chữ mở đầu là Phật Thuyết th́ có một nguyên tắc: Nhất định phải do chính miệng đức Phật nói ra. Ngoài ra, trong phần Chánh Tông, câu đầu tiên trong phần Chánh Tông do đức Phật nói, thông thường, kinh điển giống như vậy sẽ được thêm hai chữ Phật Thuyết vào đầu tựa đề. Nếu tuy là Phật thuyết, nhưng câu đầu tiên trong phần Chánh Tông chẳng phải do đức Phật nói, [tựa đề] kinh sẽ không mở đầu bằng chữ này. Giống như [tựa đề] các kinh Kim Cang, kinh Diệu Pháp Liên Hoa chẳng bắt đầu bằng chữ Phật Thuyết. Những kinh ấy đều là đức Phật và đệ tử một hỏi, một đáp, nhưng câu đầu tiên chẳng do đức Phật nói. Nếu câu đầu tiên do đức Phật nói, thông thường trong tựa đề của kinh ấy phải ghi thêm chữ Phật Thuyết, khiến cho chúng ta vừa thấy liền biết bản kinh ấy do chính miệng đức Phật nói ra.

      Kế tiếp, chúng tôi sẽ giảng vào kinh văn. Được rồi, chúng ta nghỉ mấy phút.

 

Tập 16

 

Giảng đường của chúng ta là đạo tràng giảng kinh quanh năm, nên có nhiều chỗ có thể tỉnh lược. Chẳng hạn như kinh chia thành ba phần là Tự, Chánh, Lưu Thông, mỗi bộ kinh đều là như thế, ở đây, cũng có thể chẳng cần nói tới. Chúng ta xem kinh văn, trang tám mươi sáu, hàng thứ hai từ dưới đếm lên:

 

      Như thị.

是。

 

      Hàng thứ hai đếm từ dưới lên nơi trang tám mươi bảy là:

 

      Ngă văn.

      聞。

 

      Đối với phần mở đầu kinh này là “như thị ngă văn”, trong phần chú giải ở chỗ này có mấy câu rất hay, chúng ta đọc chú giải: “Như Thị giả, chư pháp Thật Tướng, cổ kim bất dị, danh Như. Như lư nhi thuyết, vi Thị. Quyết định khả tín, cố vân Như Thị” (Như Thị: Thật Tướng của các pháp xưa nay chẳng khác, nên gọi là Như. Nói đúng như Lư là Thị. Quyết định đáng tin, nên nói là Như Thị). Trong Tự Phần của một bộ kinh, có thể chia thành hai phần, phần trước gọi là Chứng Tín Tự, phần sau là Phát Khởi Tự. Có thể nói là Chứng Tín Tự th́ mỗi bộ kinh đều giống nhau, Phát Khởi Tự chẳng vậy. Phát Khởi Tự là mỗi bộ kinh đều có nhân duyên đặc biệt, nhân duyên đặc biệt nhằm nói rơ sự xuất hiện của bộ kinh này, mỗi bộ đều khác nhau. Hai chữ Như Thị bao hàm ư nghĩa hết sức sâu rộng, ở đây chỉ dùng hai câu để giải thích hết sức tinh vi, thỏa đáng, rất khó có. Thật Tướng của các pháp là chân tướng của hết thảy các pháp, chân tướng vĩnh viễn chẳng biến đổi, đó là Như. Đức Phật giảng hết thảy các kinh nhằm giảng rơ cho chúng ta biết chân tướng của hết thảy các pháp. V́ thế, đức Phật nói ǵ? Phật nói về Như. Nói sâu, nói rộng, chẳng có một pháp nào không Như. Nói dài, nói ngắn, luôn luôn chẳng ra ngoài phạm vi này. Do vậy, đức Phật giảng kinh bèn đúng như Lư mà nói, đó gọi là Thị.

      Thật Tướng mà được nói đúng như Lư th́ chúng ta chắc chắn có thể tin tưởng, nên trong phần Chứng Tín, đặt hai chữ ấy đầu tiên, gọi là Tín Thành Tựu. Đối với Phật pháp, nếu chúng ta không tin tưởng, sẽ chẳng có cách nào tiếp nhận. Không chỉ là Tịnh Độ Tông nhấn mạnh ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh, mà đối với tất cả hết thảy các kinh luận Đại Tiểu Thừa, nếu quư vị chẳng tin, chắc chắn là sẽ chẳng đạt được thọ dụng. V́ thế, một phần tin tưởng chân thành, sẽ được một phần lợi ích; mười phần tin tưởng chân thành, sẽ được mười phần lợi ích. Phải biết những điều do Phật, Bồ Tát nói chính là Thật Tướng của các pháp, là tướng chân thật của hết thảy các pháp, có mấy ai biết? Nay chúng ta mở kinh điển ra, vẫn cứ phê phán, phê b́nh, [vận dụng] cách nghĩ, cách nh́n của ta, c̣n làm ǵ được nữa? Chẳng có cách nào! Cách nh́n và cách nghĩ của ta đều chẳng phải là chân tướng của các pháp, nhưng lại sử dụng chúng để phê b́nh chân tướng của các pháp, hết cách! Kinh Phật thường gọi hạng người ấy là Nhất Xiển Đề (Icchantika). Nhất Xiển Đề dịch sang nghĩa tiếng Hán là “chẳng có thiện căn”, do chẳng thể tiếp nhận giáo huấn của thánh nhân, nên chẳng có thiện căn. V́ thế, phần này là Tín Thành Tựu.

      Trong hàng thứ tư nơi trang tám mươi bảy cũng có mấy câu rất hay, chúng ta xem từ câu thứ hai: “Duy Viên sơ tâm, tức liễu chư pháp nhất nhất trung thật, đương xứ giai Như. Xứng thử nhi đàm, vô phi viết Thị” (Chỉ có bậc sơ tâm trong Viên Giáo hiểu rơ sự chân thật trong mỗi một pháp, ngay nơi đó đều là Như. Nói tương xứng với điều đó, không sai, nên gọi là Thị). Trong Đại Thừa Phật pháp, khó có nhất là căn tánh viên đốn. Căn tánh viên đốn từ đâu mà có? Đương nhiên là phải nói tới căn bản, tức là nhiều đời nhiều kiếp trong đời quá khứ đă luôn tu học pháp môn này, đời này gặp được kinh luận viên đốn, vừa tiếp xúc liền tâm khai ư giải, tự nhiên sanh tâm hoan hỷ. Đó là thiện căn sâu dầy trong đời quá khứ. Đó là nhân tố cơ bản, nhân tố quan trọng nhất. Kế đó, gặp được duyên phận viên đốn, gặp giáo học viên đốn, trải qua một thời gian huân tập khá dài, căn cơ viên đốn hiện tiền; do vậy, có thể tiếp nhận pháp môn này. T́nh h́nh như vậy cũng chẳng ít, mà cũng là khá nhiều. Trong lịch sử Trung Quốc, khá nhiều vị tổ sư đại đức, nói thật ra, sau khi đă nghiên cứu kinh giáo bao nhiêu năm, bèn hoát nhiên khai ngộ, nhập pháp môn này, đó là căn tánh đă chín muồi. Nếu không phải do nguyên nhân này, sẽ khá khó khăn.

      Có ai chẳng hy vọng chính ḿnh là căn tánh viên đốn? Có thể có niệm ấy, hễ có ư niệm ấy th́ đều là đă có thiện căn trong đời quá khứ. Hiện tại, chúng ta chẳng thể Viên, mà cũng chẳng thể Đốn, th́ phải đổ nhiều công sức nơi kinh điển, tăng cường trợ duyên. Có người sau bao nhiêu năm [dốc sức nơi kinh điển], cũng biến thành [căn tánh viên đốn] thật sự, kiến giải và tư tưởng viên dung, chẳng c̣n chấp trước nữa, chẳng lo mài chuốt đầu sừng trâu nữa[10], tư tưởng đă mở rộng. Tâm khai ư giải, viên dung xuyên suốt, đều phải cậy vào sự huân tập bằng kinh giáo Đại Thừa viên đốn. Ở Trung Quốc, những kinh điển phổ biến nhất là Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Viên Giác, cũng như kinh Vô Lượng Thọ của Tịnh Tông chúng ta đều thuộc loại đại pháp viên đốn. Bậc sơ tâm trong Viên Giáo đáng quư, vừa tiếp xúc liền hiểu rơ, chẳng c̣n hoài nghi, có thể tiếp nhận, dần dần thông hiểu: Hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng Như. Pháp nào cũng đều Như, pháp nào cũng đều Thị; tư tưởng và kiến giải hết sức đáng quư. Tuy cách Phật c̣n rất xa, nhưng đă tương ứng với Phật, đă tiếp cận Phật. Sợ là quư vị chẳng chịu học, chứ càng học sẽ càng tiếp cận, tốc độ tiếp cận lại c̣n tăng nhanh hơn. V́ thế, hết sức đáng quư. Khó nhất là kẻ nghi ngờ, lo lắng trùng trùng, nghe nói như vậy, bèn: “Ta chẳng cho là đúng, kẻ này thuyết pháp kiểu này, kẻ kia thuyết pháp kiểu nọ”, khó khăn lắm! Người ấy có quá nhiều chướng ngại! Tôi giới thiệu đơn giản [chữ Như Thị] đến đây!

      Câu kế tiếp là Ngă Văn. Ngă Văn chính là Văn Thành Tựu, không chỉ là Văn Thành Tựu mà c̣n biểu thị sư thừa. Giáo học của Phật pháp và Trung Quốc thời cổ đều coi trọng sư thừa. Không chỉ là Nho Gia, Đạo Gia, mà những người có nghề khéo trong xă hội, làm thợ nề, làm thợ mộc trước nay đều có sư thừa. Quư vị theo học với ai? Đều là xuất thân từ thân phận học tṛ, đều có thầy, thật sự tiếp nhận sự chỉ dạy của thầy. Ư nghĩa này cũng được biểu thị ở đây, câu “thân thừa hữu tại” (đích thân hiện diện tiếp nhận) trong lời chú giải chính là nói về sư thừa. Chữ Ta (Ngă) trong kinh là tôn giả A Nan tự xưng. Thuở ấy, đức Phật chỉ có nói kinh; đức Phật nói, chứ chẳng trước tác. Đức Phật chẳng viết một bộ kinh nào để lại cho đời sau, chẳng có, [kinh] là do đức Phật nói. Ai đă biên tập, ghi chép thành văn tự để truyền lại cho đời sau? Đó chính là chuyện của tôn giả A Nan. V́ lẽ đó, Ta là tôn giả A Nan tự xưng. “Văn” () là đích thân nghe đức Phật nói, chẳng phải là nghe nói lại, mà là chính ḿnh tự nghe đức Phật giảng. Những lời này đều nhằm làm chứng cho chúng ta, [khiến cho chúng ta] có thể quyết định tin tưởng!

      Câu thứ ba là:

 

      Nhất thời.

      時。

 

      Kinh văn mở đầu bằng “như thị ngă văn, nhất thời Phật tại… (nơi nào)”, đây là một trong sáu thứ Thành Tựu, nhằm chứng tín với chúng ta. Hai chữ Nhất Thời ở trong trang tám mươi chín, nói đến lúc thuyết kinh. Chúng ta biết: Theo kinh điển ghi chép, tôn giả A Nan đa văn bậc nhất. Những kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng trong bốn mươi chín năm, Ngài được nghe toàn bộ, chẳng sót một bộ nào! Theo như kinh nói, tôn giả trẻ tuổi nhất trong các anh em họ của đức Phật. Anh em họ của Phật có tất cả tám người, xếp theo vai vế, Thích Ca Mâu Ni Phật lớn nhất, A Nan nhỏ nhất. Ngài A Nan hạ sanh nhằm ngày đức Phật thành đạo, đến hai mươi tuổi mới theo Phật xuất gia, làm thị giả của đức Phật. Đức Phật giảng kinh đă hai mươi năm, những kinh đă giảng trước đó, Ngài chẳng nghe, v́ sao có thể nói “những kinh đă nói trong bốn mươi chín năm Ngài đều nghe”? Ngài xuất gia, đặt điều kiện cùng Thích Ca Mâu Ni Phật: “Những kinh Ngài đă giảng trong hai mươi năm trước, xin giảng một lần cho con nghe, con mới theo Ngài xuất gia. Nếu Ngài chẳng giảng cho con nghe, con chẳng theo Ngài xuất gia”. Đức Phật đáp ứng, những kinh đă giảng trước kia đều nói lại một lượt. Đồng thời, những kinh nào đức Phật chưa nói, c̣n có các học trưởng, tức là trong số các bạn học có những người thuộc lớp đàn anh, đă nghe, nên cũng nói lại cho ngài A Nan nghe. V́ thế, đối với các kinh đă giảng trong một đời đức Phật, ngài A Nan nghe viên măn nhất. Ngài A Nan trí nhớ tốt nhất, gần giống như máy thâu âm, sau khi nghe xong một lần, vĩnh viễn chẳng quên. Đó là nghe rộng, nhớ dai, là bậc vô cùng hy hữu trong các đệ tử đức Phật.

      Do vậy, sau khi đức Phật diệt độ, các đồng học lo lắng, cả một đời đức Phật giảng kinh điển nhiều như thế, nếu không lưu truyền hậu thế rất đáng tiếc. V́ thế, thỉnh ngài A Nan thăng ṭa, trùng tuyên các kinh do đức Phật đă giảng. Vừa giảng, các đồng học ngồi dưới bèn ghi chép, biên tập, chỉnh lư thành sách. Lần kết tập đầu tiên gồm năm trăm vị A La Hán, năm trăm vị ấy đều là những người đích thân nghe đức Phật thuyết kinh. Nay ngài A Nan thăng ṭa trùng tuyên, lặp lại, năm trăm vị A La Hán ai nấy đều gật đầu: “A Nan nói không sai, đức Phật dạy như thế” th́ mới có thể ghi lại. Nếu có một vị chẳng đồng ư, câu ấy sẽ không được ghi chép lại. Không như hiện tại, đa số thông qua là được rồi. Khi kết tập kinh Phật, nếu một người cảm thấy có vấn đề, câu ấy sẽ không được ghi chép lại. Nhằm giữ chữ Tín với người đời sau, khiến cho người đời sau nhận thấy kinh điển có tánh chất đáng tin cậy. Nói cách khác, có tánh chất đáng tin cậy một trăm phần trăm, chẳng có chút hoài nghi nào. V́ thế, trong số những vị tham dự kết tập, hễ có một vị phản đối là không được. Điều này cho thấy kinh Phật được kết tập nghiêm túc, nghiêm ngặt.

      Đức Phật giảng ở chỗ nào? Giảng vào khi nào? Đương nhiên A Nan cũng biết rất rơ ràng. V́ sao không ghi chép đức Phật vào năm nọ, tháng nọ, ngày nọ? Xứ sở được nói rất rơ ràng, chỉ riêng thời gian là mơ hồ, mông lung, chỉ nói là “một thời”? Thuở ban đầu tôi đọc kinh Phật, đối với câu này chẳng phục cho lắm, v́ sao chẳng ghi chép rơ ràng? Tuy thấy trong chú giải của cổ nhân cũng có rất nhiều cách giải thích về hai chữ này, nói thuở Phật tại thế, Ấn Độ chưa thống nhất. Chưa thống nhất, họ là dân tộc sống theo bộ lạc, giống như Trung Quốc vào đời Châu, thời nhà Châu chưa thống nhất. Thời Châu, có tám trăm chư hầu, tức là hơn tám trăm quốc gia. Chúng ta đọc Luận Ngữ hoặc đọc Mạnh Tử, [sẽ thấy nói] một đại quốc có kích thước là một trăm dặm. Tức là kích thước một trăm dặm th́ là đại quốc, tiểu quốc rộng hai, ba mươi dặm, tức là một thôn làng nhỏ, tù trưởng trong ấy chính là quốc vương, bèn gọi là một nước. Do vậy, ngôn ngữ không thống nhất, văn tự không thống nhất, đo lường cũng không thống nhất, lịch pháp cũng không thống nhất. C̣n tại Trung Quốc, đến các đời Hạ, Thương, Châu, lịch pháp đă thống nhất, tuy chư hầu địa vị b́nh đẳng, nhưng trong số các chư hầu, đề cử một vị đức cao vọng trọng làm lănh tụ, mọi người dùng lịch pháp của vị ấy, nên việc này được gọi là “ban chánh sóc”[11]. Trước kia, do điều ǵ mà coi là quy phụ (歸附) ta? Quư vị dùng lịch pháp của ta, tức là thuộc quốc của ta. Tại Ấn Độ chẳng giống như vậy! Lịch pháp tại Ấn Độ rất loạn; v́ vậy, ghi chép năm, tháng, ngày, giờ đích xác là rất bất tiện. Mỗi tiểu quốc gia đều có lịch pháp khác biệt. Đó là một nguyên nhân. Nguyên nhân này, nói thật ra là nói theo mặt Sự, vẫn y như cũ rất khó khiến cho người khác tùng phục.

      Cuối cùng, chúng ta xét theo Lư để nói th́ sẽ là chánh xác. Nói theo Lư chính là mấy câu cuối trong đoạn chú giải này, trang tám mươi chín, hàng thứ hai đếm từ dưới lên, chúng ta xem từ chỗ đó: “Đản thị chúng sanh cơ thục, Phật ưng thuyết kinh, cơ ứng hợp nhất chi thời, diệc thị Đế Trí hợp nhất thời dă, cố vân nhất thời” (chỉ v́ căn cơ của chúng sanh chín muồi, Phật phải nên nói kinh. Lúc cơ ứng (cảm và ứng) hợp nhất, cũng chính là lúc Đế và Trí hợp nhất, nên nói là “nhất thời”). Chúng ta thấy cách nói này chẳng có vấn đề, cách nói này hết sức chánh xác. Cơ duyên của chúng sanh chín muồi, đức Phật thuyết pháp lúc đó là vừa khéo. Cơ duyên chín muồi, người ấy có thể tiếp nhận, nghe rồi sẽ khai ngộ, sẽ chứng quả. Duyên chẳng chín muồi, quư vị nói cho người ấy nghe vô ích, dẫu người ấy có thể tin tưởng, lư giải, nhưng chẳng chịu tu hành, cảm thấy chuyện này vẫn chẳng cần thiết, duyên chưa chín muồi mà! V́ thế, đây là lúc “thầy tṛ đạo hợp, cảm ứng đạo giao”, chúng sanh có cảm, Phật bèn ứng, cách nói này rất viên măn. Đồng thời, quan niệm thời gian là giả, chẳng thật, nó là một khái niệm trừu tượng, tuyệt đối chẳng phải là thật thể. Chúng ta ở trên địa cầu nẩy sanh quan niệm thời gian v́ địa cầu tự xoay quanh nó một ṿng, một mặt hướng về mặt trời, mặt kia ngược hướng mặt trời, một ngày một đêm là như vậy đó. Từ quan niệm ấy mà nẩy sanh quan niệm thời gian. Nếu chúng ta rời khỏi địa cầu, hiện tượng ấy chẳng c̣n, quan niệm thời gian cũng chẳng c̣n. V́ thế, người hiện thời bay lên vũ trụ, th́ trong vũ trụ chẳng có quan niệm thời gian.

      Đồng thời, trong mỗi tinh cầu, nếu nẩy sanh quan niệm giống như quan niệm thời gian [của chúng ta trên địa cầu] th́ thời gian sẽ dài ngắn khác nhau. Như mặt trăng tự xoay chuyển quanh nó một ṿng th́ thời gian ấy bằng với thời gian mặt trăng xoay quanh địa cầu một ṿng. V́ thế, một ngày trên mặt trăng trên thực tế là một tháng, tức là một ngày đêm [trên mặt trăng] có độ dài bằng một tháng [trên trái đất]. Tốc độ tự xoay của mỗi tinh cầu cũng khác nhau. Ngay trên địa cầu, trong quan niệm thời gian, chúng ta nói cứ một ban ngày và một ban đêm là một ngày đêm th́ thời gian một ngày đêm cũng chẳng giống nhau, v́ sao? Quư vị đến Nam Cực hoặc Bắc Cực, nửa năm có mặt trời, nửa năm tối đen, như vậy th́ tại Nam Cực và Bắc Cực, một ngày đêm là một năm! Đó là chúng ta ở ngay trên địa cầu, chẳng rời khỏi địa cầu, mà quan niệm thời gian đă khác nhau, chẳng giống nhau. Nếu nhận định ban ngày và ban đêm như vậy th́ chênh lệch quá lớn. Hiện thời, do giao thông phát triển, chẳng giống như trước đây. Do giao thông phát triển, trong một thời gian rất ngắn, chúng ta có thể đi khắp địa cầu một ṿng. Hiện thời, mọi người đều biết tại mỗi địa phương có thời gian khác nhau, c̣n có quan niệm thời sai (Jet lag, desynchronosis). Trước đây, chẳng ai biết thời sai là ǵ, làm sao có chuyện lệch giờ cho được? Hiện thời biết có chuyện lệch giờ, xác thực là có. Nhưng chuyện này cũng chẳng thật, đều nẩy sanh từ quan niệm trừu tượng, có chuyện này, nhưng chẳng phải là sự thật, chẳng chân thật.

      V́ vậy, nếu nói thật sự, “nhất thời” chính là chúng ta và chư Phật, Bồ Tát cảm ứng đạo giao, nhất tâm. Nhất là thật, nhất tâm là năng cảm, Nhất Chân là năng ứng, cảm ứng đạo giao. V́ thế, khi Trí Giả đại sư đọc kinh Pháp Hoa đến phẩm Dược Vương Bồ Tát, lăo nhân gia liền nhập Định. Trong Định, Ngài đến núi Linh Thứu, Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn đang giảng kinh Pháp Hoa tại đó, Ngài c̣n nghe một buổi. Trở về, xuất Định, bảo mọi người, hội Linh Sơn nay vẫn chưa tan, vẫn chưa giải tán. Chuyện này đă được các khoa học gia hiện thời chứng thực. Nếu có thể ngược ḍng thời gian, quá khứ thảy đều tồn tại. V́ lẽ đó, người thật sự đắc Định có thể đến đời quá khứ, cũng có thể tiến nhập đời tương lai. Quá khứ, vị lai người ấy đều biết, cớ sao biết? Xác thực chẳng giả! Sở dĩ, chúng ta không thấy quá khứ, càng chẳng thấy được tương lai, giống như chúng ta xem phim là nh́n vào màn bạc. [H́nh ảnh được chiếu trên] màn bạc là từng cảnh một qua đi, hễ cảnh [vừa được chiếu] rất gần th́ c̣n có chút ấn tượng, hễ xa th́ ấn tượng bèn mơ hồ, c̣n vị lai th́ hoàn toàn chưa biết. Người có công phu định lực chẳng cần nh́n vào màn bạc, họ nh́n vào phim, vừa nh́n vào phim ảnh th́ trước sau đều trông thấy, thấy toàn bộ. T́nh h́nh từa tựa như vậy đó!    

Do đó, trong kinh dùng chữ “nhất thời” là sống động, hoạt bát. Công phu của chúng ta nếu đạt đến mức độ kha khá th́ bất luận pháp hội nào của chư Phật, Bồ Tát, chúng ta đều có cơ duyên tham gia. Nếu nói nhất định là năm, tháng, ngày nào đó, đă qua rồi th́ làm sao chúng ta có thể tham gia? Như Trí Giả đại sư tham gia một hội Pháp Hoa tại núi Linh Thứu, Trí Giả đại sư cách Thích Ca Mâu Ni Phật gần như một ngàn năm trăm năm, pháp hội vào một ngàn năm trăm năm trước th́ làm sao quư vị có thể tham gia? Có thể tham gia là nhờ vào công phu định lực. Giống như bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ ở trong Thiền Định rất sâu, có thể tham dự pháp hội Hoa Nghiêm của Thích Ca Mâu Ni Phật. V́ thế, đắc Định th́ giới hạn không gian và thời gian bị phá vỡ. Nay chúng ta nói là “không gian bốn chiều”. Không gian bốn chiều là do kể thêm thời gian. Dùng điều này bèn có thể giải thích Phật pháp, rốt cuộc Phật pháp là không gian mấy chiều? Vô hạn chiều! Chúng ta thấy điều này chẳng thể nghĩ bàn!

      Chữ kế tiếp là:

 

      Phật.

    

 

      Phật là người thuyết pháp, nên đề mục của phần này là Minh Hóa Chủ (nói về người giáo hóa) trong trang chín mươi. Minh () là nói rơ vị chủ tŕ việc giáo hóa, tức là thầy. Ở đây, chữ Phật chỉ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Trong phần trước, đă thưa rơ cùng chư vị: Đức hiệu của Phật chính là mục tiêu và tông chỉ giáo học. Chư Phật, Bồ Tát đều chẳng có danh hiệu. Danh hiệu v́ căn cơ của chúng sanh mà kiến lập, chẳng phải do chính ḿnh nghĩ nên đặt tên là ǵ, mà v́ căn cơ của chúng sanh. Từ chỗ này, chúng ta khẳng định, nhận thức Phật giáo tuyệt đối chẳng phải là tôn giáo. Phật Giáo là nền giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư. Bổn Sư là vị thầy căn bản, là vị thầy sáng lập giáo, là vị thầy khởi xướng giáo dục. Giống như người đọc sách thuở xưa tại Trung Quốc tôn xưng Khổng lăo phu tử là Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư ( ). Nói tới Tiên Sư tức là nói tới Khổng lăo phu tử. Tiếp nhận sự giáo dục của đức Phật, chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư, chúng ta xưng là đệ tử, đệ tử là học tṛ. V́ thế, mối quan hệ giữa chúng ta và Thích Ca Mâu Ni Phật là quan hệ thầy tṛ, phải hiểu rơ điều này. Tất cả các vị Bồ Tát là lớp đàn anh của chúng ta, Bồ Tát đều là học tṛ của Phật, là học tṛ khóa đầu. Chúng ta là học tṛ lớp sau. Chúng ta và các vị Bồ Tát là bạn học khóa trước khóa sau, cùng một thầy, phải hiểu rơ mối quan hệ này!

      Nay chúng ta thấy người xuất gia bèn gọi họ là Ḥa Thượng, nói thật ra, [xưng hô như thế] rất cung kính, nhưng là cung kính quá lố, đă gọi sai rồi! Danh xưng Ḥa Thượng chớ nên gọi tùy tiện, thông thường gọi là Pháp Sư th́ được. Ḥa Thượng (Upādhyāya) là ǵ? Vị thầy trực tiếp chỉ dạy chúng ta bèn gọi là Ḥa Thượng. Ḥa Thượng là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán, sẽ giống như vị “chỉ đạo giáo thụ” (giáo sư hướng dẫn) trong trường Đại Học hiện thời. Ngài có quan hệ hết sức chặt chẽ với ta, thật sự phụ trách nhiệm vụ dạy bảo chúng ta th́ ta mới gọi Ngài là Ḥa Thượng. Giống như trong một ngôi trường, trong trường học có rất nhiều thầy, mấy trăm vị thầy, nhưng người mà ta thật sự theo học chỉ có mấy vị. Nhưng những vị khác đều là thầy trong nhà trường, chúng ta đều phải tôn trọng họ, c̣n vị thầy trực tiếp dạy bảo th́ khác. V́ thế, xưng hô trong Phật môn có Ḥa Thượng, có A Xà Lê. Ḥa Thượng là người trực tiếp dạy bảo, chỉ dạy chúng ta, đảm nhiệm việc dạy dỗ. Trước kia, một ngôi chùa là một trường học, tức ngôi trường Phật giáo, Ḥa Thượng giống như Hiệu Trưởng hiện thời, vị ấy chịu trách nhiệm toàn thể việc giáo dục [trong nhà trường]. A Xà Lê (Ācārya) giống như giáo viên, giáo viên là người chấp hành nhiệm vụ dạy học. Quy hoạch, thiết kế, ấn định phương châm giáo học là do vị hiệu trưởng, ai dạy quư vị? Hiệu trưởng dạy! Những người khác giúp đỡ hiệu trưởng, chấp hành kế hoạch giáo dục của vị ấy mà thôi. V́ thế, Ḥa Thượng chỉ có một, không có nhiều như vậy. Nay chúng ta thấy những người cạo đầu đều kêu là ḥa thượng, như vậy là không đúng! Đó là kiến thức Phật học thông thường chúng ta phải biết. Nh́n từ cách xưng hô này, ta thấy trong tôn giáo không có kiểu xưng hô ấy, chẳng có quan hệ ấy, Phật giáo đích xác là giáo dục, là giáo học. Chúng ta phải nhận biết rơ rệt th́ mới có thể thật sự đạt được lợi ích nơi Phật pháp.

      Ở đây, Phật là Chủ Thành Tựu. Trong pháp hội này, vị giảng kinh, thuyết pháp, giáo học là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng chính là vị mà nay ta gọi là “người chủ giảng”.

 

      Tại Vương Xá thành Kỳ Xà Quật sơn trung.

      王 舍 城 耆 闍 崛 山 中。

      (Tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật).

 

      Đây là xứ sở. Kinh thường dùng chữ Tại (), chẳng dùng chữ Trụ (). Trụ và Tại có sai biệt. Ở đây, phần chú giải giảng: “Tạm thời viết Tại, cửu đ́nh viết Trụ” (tạm thời th́ là Tại, dừng lại lâu ở nơi nào th́ gọi là Trụ). Kinh Phật luôn nói đức Phật ở tại một nơi nào đó, chẳng nói đức Phật trụ tại chỗ nào đó. Nếu nói đức Phật trụ th́ chẳng thể nói là xuất gia. V́ sao? Trụ th́ nhất định có nhà. Nhà quư vị trụ ở chỗ nào? Ngài xuất gia, chẳng có nhà, không có chỗ nào là nhà để trụ. Không có chỗ trụ, nay quư vị ở chỗ nào? Tại và Trụ sai khác, chẳng giống nhau. Hễ xuất gia th́ tận hư không khắp pháp giới đều là nhà của chúng ta, ngôi nhà ấy quá lớn. V́ thế, khi ấy, chẳng thể nói là Trụ, quư vị ở tại chỗ nào? Xưa kia, hoàng đế lấy cả nước làm một nhà, quốc gia: Quốc là nhà của vua. Hoàng đế ở chỗ nào đó, không nói là Trụ, mà gọi là “hành tại” (行在), [ngụ ư] nay vua đang đi đến nơi nào; v́ sao? Vua chẳng rời khỏi nhà. Ví như nói quư vị đang ở trong nhà, từ pḥng này sang pḥng khác, quư vị trụ ở chỗ nào? Chẳng thể nói là Trụ, [mà phải nói là] quư vị đang ở tại nơi đâu? Tôi ở trong pḥng, tôi ở tại pḥng khách, tôi ở trong bếp, dùng chữ Tại, chẳng thể nói tôi trụ pḥng khách, tôi trụ trong bếp, chẳng thể nói theo kiểu đó. Hoàng đế lấy cả nước làm nhà, sẽ chẳng thể nói trụ trong địa phương nào, mà nói là ở tại địa phương nào. Phật coi tận hư không khắp pháp giới là nhà, đương nhiên càng chẳng thể nói “trụ ở nơi đâu”. Chúng ta phải biết ư nghĩa được bao hàm trong các văn tự này. Phải biết đức Phật giảng kinh này tại núi Linh Thứu, chỗ này chúng tôi cũng không cần phải nói nhiều, phần chú giải cũng giảng rất rơ ràng.

      Cuối phần chú giải có mấy câu, chúng ta đọc một lượt, những câu ấy rất đáng cho chúng ta tham khảo. Xem trang chín mươi hai, xem từ câu thứ hai nơi ḍng thứ năm đếm từ dưới lên: “Phàm thánh các các hữu năng trụ chi pháp” (phàm thánh mỗi vị đều có pháp để có thể trụ). Đây là nói tới Tại và Trụ. Đối với phàm phu và thánh nhân, Trụ là tâm quư vị an trụ ở nơi đâu? Tâm quư vị trụ ở chỗ nào? “Thả như tỳ-kheo tu Giới, Định, Huệ, năi dĩ Thiên, Phạm, Thánh Trụ, trụ ư pḥng xá. Nhược phá giới, tắc dĩ địa ngục, súc sanh, trụ ư pḥng xá” (lại như tỳ-kheo tu Giới, Định, Huệ, bèn dùng Thiên Trụ, Phạm Trụ, Thánh Trụ để làm pḥng nhà mà trụ. Nếu phá giới, bèn dùng địa ngục, súc sanh để làm pḥng nhà mà trụ). “Pḥng xá” ở đây là nói tỷ dụ, chẳng phải là thật. Ở đây, chúng ta phải lưu ư, phải kiểm điểm, phải phản tỉnh, rốt cuộc tâm chúng ta đang trụ ở nơi đâu? Nói “trụ ở nơi đâu”, tức là tâm quư vị thường ghi nhớ, vương vấn điều ǵ th́ tâm quư vị trụ ở nơi đó. Nếu tâm quư vị niệm niệm đều là Giới, Định, Huệ, tốt lắm! Quư vị trụ trong Phật pháp. Siêng tu Giới, Định, Huệ, đoạn diệt tham, sân, si, tốt lắm! Nếu tâm quư vị niệm niệm đều là tham, sân, si, vậy là quư vị trụ nơi tham, sân, si. Trụ trong Giới, Định, Huệ, quả báo là người, trời. Nếu trong tâm suốt ngày từ sáng đến tối đều nghĩ đến tham, sân, si, quả báo là trong tam đồ, tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tâm quư vị tưởng ǵ, liền biến thành thứ đó. Sức tưởng càng mạnh th́ chuyển biến càng mau! “Như năng tu Nhất Tâm Tam Quán, tắc sở trụ xứ tức Không, Giả, Trung, khởi phi Lăng Nghiêm vi năng trụ pháp” (Nếu có thể tu Nhất Tâm Tam Quán th́ nơi để trụ chính là Không, Giả, Trung, há chẳng phải là pháp để trụ trong Lăng Nghiêm ư). Đây là nói tới Đại Thừa Bồ Tát trụ, trụ trong Tam Chỉ Tam Quán, c̣n trời, người, Tiểu Thừa trụ trong Giới, Định, Huệ. “Sơ tâm thượng nhĩ, như hà Quả Phật? Duy luận thân trụ, suy chi, nhược ngă sài năng tinh tŕ Phật hiệu, chuyên tu tịnh nghiệp, đương xứ vô phi Cực Lạc Tịnh Độ hỹ” (Sơ tâm mà c̣n như thế, huống hồ vị Phật đă chứng quả giác? Chỉ luận về thân trụ, suy ra, nếu bọn ta có thể tŕ Phật hiệu chuyên ṛng, chuyên tu tịnh nghiệp, ở ngay nơi đây th́ không đâu chẳng phải là Cực Lạc Tịnh Độ vậy). Câu cuối cùng quan trọng. Hiểu đạo lư ấy, trong tâm chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối nhớ Phật, niệm Phật, chúng ta trụ ở nơi đâu? Chúng ta trụ trong thế giới Cực Lạc. Một người tuy chưa đến thế giới Cực Lạc, nhưng tâm đă trụ trong thế giới Cực Lạc; do tâm đă trụ trong thế giới Cực Lạc, lẽ nào chẳng sanh về thế giới Cực Lạc? Điều này rất quan trọng! V́ lẽ đó, ngàn vạn phần đừng vướng mắc hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian.

      Chính tôi trong mười năm gần đây, nói thật ra, thường rong ruổi bên ngoài, đối với sự tu học của chính ḿnh có lợi ích rất lớn, lợi ích ở chỗ nào? Không có trụ xứ! Ở chỗ này hai tháng, lại vội vàng thu thập hành lư để ra đi. Ở Đài Loan lâu nhất là hai tháng, ở lâu nhất hai tháng lại ra đi, chẳng có trụ xứ. Ở Mỹ, chúng tôi thường đi mười mấy nơi để giảng kinh, đi khắp Đông, Nam, Tây, Bắc nước Mỹ. Ở Mỹ, chúng ta có mười một Tịnh Tông Học Hội, tại mỗi hội, tôi đều phải đến đó, giảng pháp môn Tịnh Độ cho họ. Hiện thời, có quá nhiều chỗ, nếu nói mỗi chỗ đều phải đến giảng một lần mỗi năm, b́nh quân mỗi chỗ ở lại mười ngày th́ một năm ba trăm sáu mươi ngày chẳng đủ! V́ thế, hiện thời có rất nhiều nơi, ba năm mới đến phiên giảng một lần, đến ở đó một tháng, mỗi chỗ ở một tháng, cứ ba năm đến lượt tới đó một lần. Trong mười mấy năm ấy, quan niệm về Trụ chẳng có, quan niệm Nhà cũng không có, nhà ở chỗ nào? Chẳng có! Sau hai hôm lại phải đi rồi, đều là đang du hành. V́ thế, đến thế giới Sa Bà để du hành. Quê nhà ở nơi đâu? Quê nhà bên thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc vẫn chưa phải là quê nhà. V́ sao? Đă tới thế giới Cực Lạc, lại du hành đến mười phương thế giới, vĩnh viễn chẳng trụ, vĩnh viễn chẳng có trụ xứ. Đă tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, xác thực là trong tận hư không khắp pháp giới du hành không ngừng, xóa sạch quan niệm về Trụ. Quan niệm ấy là phiền năo, chấp trước một nơi: Nơi này là nhà của ta, nẩy sanh cảm t́nh đối với nó, nẩy sanh tham luyến, đều gây trở ngại rất lớn đối với sự giải thoát của quư vị. Mỗi ngày đều du hành bên ngoài, quả thật có lợi ích rất to. Điều quan trọng nhất là tâm địa an trụ, trong mười hai thời, chẳng ĺa khỏi danh hiệu, thời thời khắc khắc nghĩ tới y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương. Đó là điều tốt đẹp.

      Lại xem câu kế tiếp là Chúng Thành Tựu trong trang chín mươi lăm.

 

      Dữ đại tỳ-kheo chúng.

      大 比 丘 眾。

      (Cùng với các vị đại tỳ-kheo).

 

      Tôi chẳng cần giải thích núi Linh Thứu. Thành Vương Xá lẫn núi Linh Thứu đều chẳng cần giải thích. Trong trang chín mươi lăm, đối với câu “dữ đại tỳ-kheo chúng”, chúng ta xem phần giải thích. Chúng ta phải đặc biệt lưu ư đoạn này, nghiêm túc học tập. “Dữ giả, cộng nghĩa” (Dữ có nghĩa là cùng), cùng ở chung với mọi người. “Nhất xứ”, đây là xứ sở, cùng một nơi chốn. “Nhất thời” là cùng một thời gian, chẳng phải là trước sau sai biệt, mà là cùng một thời gian. “Nhất tâm, nhất giới”, nhất tâm là kiến ḥa đồng giải, mọi người trong đạo tràng này cùng nhau tu tập một pháp môn. Ví như đạo tràng này tu pháp môn Niệm Phật, chúng ta căn cứ vào kinh Vô Lượng Thọ. Tuy Tịnh Độ là năm kinh một luận, nếu ở chỗ này, chúng tôi căn cứ trên kinh Vô Lượng Thọ, kẻ khác y cứ kinh Quán Vô Lượng Thọ, sẽ thành tranh căi, cùng là pháp môn Tịnh Độ mà cũng không xong! Tịnh Độ năm kinh một luận, do có sáu bộ kinh luận, sẽ mở thành sáu đạo tràng, sáu đạo tràng ấy chẳng thể cùng gộp lại. Hễ gộp chung lại sẽ tranh căi, v́ sao? Kiến giải khác nhau, sẽ có tranh luận. Quyết định là nương theo một bộ, kiến giải mới giống nhau, mọi người chẳng bàn ra tán vào, cùng nhau đều phải tuân thủ. Cho nên, cùng là tu Tịnh Độ đạo tràng, đạo tràng này của tôi nương vào kinh Vô Lượng Thọ, đạo tràng của người khác nương vào kinh A Di Đà, đạo tràng nọ nương theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, có thể được, đều có thể thành tựu. Thành tựu chẳng có cao thấp, quyết định là b́nh đẳng, nhưng chẳng thể hợp lại cùng một chỗ. Hễ hợp lại, chắc chắc có rắc rối! Nếu người này niệm Phật, người kia tham Thiền, người nọ niệm chú, phiền phức c̣n lớn hơn nữa, chắc chắn là chẳng thể thành tựu. Chư vị đồng tu phải biết điều này!

Trung Quốc từ xưa tới nay, mỗi đạo tràng đều có học phong và đạo phong của đạo tràng ấy, nên họ đều có thành tựu. Học phong là kinh luận để căn cứ, đạo phong là phương pháp tu hành, ắt phải là hoàn toàn giống nhau th́ mới thật sự là chí đồng đạo hợp, mới là “hảo đồng tham”, tức là đồng tham đạo hữu tốt đẹp. Nay đối với hoàn cảnh tu học, khó nhất là t́m không ra một nơi chốn như vậy, chính ḿnh mong t́m được một đạo tràng tu học chẳng dễ dàng t́m được. Tuy có nhiều đạo tràng, nhưng nếu nói đến đạo phong và học phong th́ đều không có. Hiện tại có nhiều đạo tràng, chúng ta thấy rất nhiều người trụ, nhưng mạnh ai nấy tu, mọi người cùng tu là khi nào? Là hai thời công khóa sớm tối. Hai thời công khóa qua quít, không quan tâm, nói thật ra, hầu như chẳng có mảy may ǵ liên quan đến sự tu học! V́ thế, trong đạo tràng có lắm ư kiến, thậm chí rất nhiều phe phái! Mấy người một phái, lôi kéo mấy tín đồ theo phe của họ, đôi bên tranh chấp với nhau, kèn cựa lẫn nhau, đấu tranh kiên cố! Chỗ như vậy chẳng gọi là đạo tràng! Nếu gọi là đạo tràng, đấu qua đấu lại đều là ba ác đạo, [nơi đó] là đạo tràng tu ba ác đạo, chẳng phải là đạo tràng của Phật, Bồ Tát. Tu ǵ ở nơi đó? Tu tham, sân, si, quả báo trong tương lai là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, lầm lẫn đặc biệt to tát!

      Nhất tâm, nhất giới, giới là quy luật sinh hoạt, thảy đều phải tuân thủ quy phạm sinh hoạt. “Nhất đạo, nhất kiến, nhất giải thoát” (cùng một đạo, một kiến giải, một vị giải thoát), đó là nói đến phương pháp. Kiến là lư luận, lư luận, kiến giải, giải thoát là tự tại. Chữ “đẳng” có nghĩa là c̣n nhiều nữa, chỉ nêu đại lược mấy thứ. “Giai nhất” (đều là một), thảy đều phải tuân thủ. “Cố danh Cộng dă” (nên gọi là Cùng), như vậy th́ mới gọi là Cộng. Đức Phật chế định giới điều cơ bản cho chúng ta, giới điều cơ bản để đại chúng cùng ở chung với nhau là Lục Ḥa Kính. Ngũ Giới, Thập Giới, Sa Di Giới, Tỳ Kheo Giới do chính ḿnh tuân thủ, chẳng phải là đ̣i hỏi mọi người phải tuân thủ, mà là bản thân mỗi cá nhân phải dùng những giới điều ấy để ràng buộc (kiềm chế) chính ḿnh. Giới điều cơ bản để đại chúng ở chung với nhau là Lục Ḥa Kính. Bốn người cùng tu với nhau, từ bốn người trở lên, có thể tu Lục Ḥa Kính, bèn gọi là Tăng Đoàn. V́ thế, Tăng đoàn là đoàn thể cộng trụ của đệ tử Phật. Đoàn thể như vậy, mười phương chư Phật hộ niệm, hết thảy long thiên hộ pháp quỷ thần đều ủng hộ. V́ sao? Đó là đạo tràng danh phù hợp thật, là đạo tràng của Phật, Bồ Tát, chí tôn, chí quư, tột bậc tôn quư trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. V́ thế, tội lỗi phá hoại Tăng đoàn ấy là A Tỳ địa ngục.

      Nhưng trong hiện tại, hai người ở chung, ư kiến cũng khác nhau. Bốn người ở chung với nhau, ư kiến, kiến giải giống nhau, tôi học Phật nhiều năm như vậy mà chưa hề thấy. Trung Quốc, ngoại quốc cho măi tới bây giờ chưa hề thấy. Chẳng có Tăng đoàn Lục Ḥa Kính, đáng chán quá! Nói thật thà, nếu Đài Loan xuất hiện một Tăng đoàn Lục Ḥa Kính, đảo báu này có phước, v́ sao? Chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, long thiên hộ tŕ, cuộc đất này chắc chắn chẳng gặp nạn. V́ sao chẳng thể tu Lục Ḥa Kính? Do không chịu buông lợi ích của chính ḿnh xuống, v́ tự tư tự lợi, chẳng có cách nào nữa! T́m được bốn người thật sự có thể buông tự tư tự lợi xuống, chúng ta v́ hai ngàn vạn đồng bào cầu phước, chẳng có ai phát tâm như vậy, thế mà vẫn nói “phát Bồ Đề tâm, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Độ ngoài miệng, trong tâm chẳng độ! Khó lắm! Thật sự là khó, mấy ai chịu phát tâm? Do đó, Lục Ḥa Kính là giới điều cơ bản. Đệ tử thật sự của Phật mà chẳng thể giữ Lục Ḥa Kính, nói thật thà, sẽ chẳng phải là đệ tử Phật. Tự xưng là đệ tử Phật, quư vị tự xưng, Phật, Bồ Tát chẳng thừa nhận, long thiên quỷ thần cũng chẳng thừa nhận. Chúng ta phải đặc biệt chú ư chuyện này.

      Trong Lục Ḥa Kính, quan trọng nhất là hai điều đầu tiên. Điều thứ nhất là kiến giải, tư tưởng phải giống nhau, thật sự là chí đồng đạo hợp. Thứ hai là Giới Ḥa Đồng Tu, tức là cuộc sống có trật tự, có khuôn khổ. Mọi người ở chung với nhau phải có quy củ. Quy củ ấy có thể do chính ḿnh ước định, Phật môn gọi [quy củ ấy] là Thanh Quy. Thanh Quy là giới luật hiện đại hóa, là giới luật được bản địa hóa, trong lúc này, tại cơ sở, nơi chốn của chúng ta, sống trong hoàn cảnh này, chúng ta hăy nên thực hiện như thế nào? Bản địa hóa tinh thần và nguyên tắc do đức Phật đă dạy, chính là đối với chi tiết thực hiện như thế nào th́ chúng ta có thể tu chỉnh, ước định, sau khi đă tu chỉnh xong, mọi người phải tuân thủ. V́ vậy, mỗi tự miếu có quy củ của riêng tự miếu ấy. “Thường trụ công ước” th́ phải là bản địa hóa, hiện đại hóa Thanh Quy, nhưng đều tuân thủ tinh thần giới luật.

      “Thân đồng trụ”: Đồng trụ th́ mỗi người một liêu pḥng chẳng gọi là đồng trụ. Mỗi người một căn pḥng chẳng gọi là đồng trụ. Đồng trụ là ǵ? Giống như pḥng ngủ tập thể trong quân đội, đó là đồng trụ. Mỗi người ngủ một pḥng, tu hành rất khó thành tựu, v́ sao? Phiền năo tập khí của chúng ta hết sức nặng, lúc đông người, sẽ thấy chúng ta rất quy củ, ngon lành lắm! Nhưng khi chẳng ai nh́n tới, sẽ buông lung, tật xấu lộ ra hết, đâu có ai thấy! Tối ngủ chung một pḥng tập thể, vẫn là thấy rơ mồn một, quư vị ngủ nghê cũng giữ đúng quy củ, thật thà, chẳng thể loạn động, nên có thể thu được hiệu quả. V́ thế, quân đội nhất định phải ngủ trong pḥng ngủ tập thể. Chẳng ngủ trong pḥng tập thể, sẽ tạo phản. Trong quân đội, cứ một ban là một đơn vị, mười mấy người ngủ chung một pḥng tập thể, do ban trưởng cầm đầu, họ sẽ chẳng thể tạo phản. Học tṛ, giống như chúng tôi đi học trước đây, trong thời Kháng Chiến chúng tôi đều ngủ trong pḥng tập thể, do một thầy cai quản, dễ cai quản. Mỗi người một pḥng th́ có thể quậy phá. Người xuất gia cũng là như thế, mỗi người một pḥng tuyệt đối sẽ chẳng thể tu đạo thành tựu, trước mặt người khác là một kiểu, sau lưng lại là một kiểu khác! V́ thế, đạo tràng tại Đại Lục xưa kia đều là pḥng ngủ tập thể, chẳng ngăn thành pḥng riêng. Ngăn thành pḥng riêng dành cho người tu hành đă lâu, từ sáu mươi tuổi trở lên, hành động chậm chạp, động tác khá chậm, không theo kịp đại chúng, người như vậy có thể ngủ một pḥng riêng. C̣n có các chấp sự về hưu, đă phục vụ thường trụ rất nhiều năm, như các vị Phương Trượng, Trụ Tŕ, Đương Gia Sư, Tri Khách Sư, do phải có trách nhiệm nên họ có pḥng riêng. Thanh chúng (đại chúng thanh tu) đều phải ngủ trong pḥng tập thể. Thanh chúng là người tu hành chân chánh. Đồng Trụ có ư nghĩa này. Nếu chẳng hiểu rơ ràng, sẽ thường làm sai. Hiện thời, chùa miếu có tiền, xây thật lớn, trong đó có rất nhiều liêu pḥng, mỗi pḥng đều có pḥng vệ sinh riêng, có pḥng phụ, mỗi người ở một căn, mong văng sanh rất khó, rất không dễ dàng! Nếu muốn đắc Định, khó lắm! Thành tựu tam-muội rất khó khăn, tôi nói thật đấy! Cuộc sống như vậy mà có thể thành tựu th́ chính là Phật, Bồ Tát tái lai, chẳng phải là lũ phàm phu chúng ta mà ḥng tu thành, phải là Phật, Bồ Tát tái lai.

      “Khẩu vô tránh”, mọi người ở chung với nhau quyết định chẳng tranh căi. “Ư đồng duyệt”, pháp hỷ sung măn. “Lợi đồng quân”, tứ sự cúng dường mọi người đều b́nh đẳng, rất khó thực hiện. A! Chúng ta tan học!

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 4 hết

 

 

 

 



[1] Bộ kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Pháp Kinh, do ngài Đàm Ma Mật Đa nước Kế Tân dịch vào năm Nguyên Gia nguyên niên (424) đời Lưu Tống. Kinh dạy về phương pháp tu hành của Phổ Hiền Bồ Tát, đồng thời dạy cách tu Pháp Hoa tam-muội và pháp môn sám hối. Kinh này cùng với kinh Pháp Hoa và kinh Vô Lượng Nghĩa được tông Thiên Thai gọi là Pháp Hoa Tam Bộ Kinh.

[2] “Hữu ấn” được dùng với ư nghĩa Hữu Biên. Câu này tạm hiểu thô thiển như thế này: Tuy nhân và quả đều là Thật Tướng, tức Sự (nhân và quả) chẳng rời khỏi Lư (Thật Tướng), do chúng đều có cùng một Thể nên “bất dị” (chẳng khác). Xét theo Sự th́ nhân và quả sai khác, nên nói “nhi dị” (mà khác). Do Lư mà hiển Sự, nên chẳng phải là không Có. V́ thế, nói là “phi đảo Hữu Ấn” (chẳng phải là xóa bỏ Có).

[3] Tông Trí là danh xưng khác của Tông Thú. Trí và Thú có cùng một ư nghĩa. Cụ Hoàng Niệm Tổ giảng: “Điều được kinh đề cao gọi là Tông (). Tông là trọng yếu, là tông chỉ của toàn bộ kinh. Tông lại là đường lối trọng yếu để tu hành. V́ vậy, Tông là cương lănh của toàn bản kinh… Ngài Hương Tượng giảng: ‘Điểm được coi trọng là Tông, chỗ quy hướng của tông th́ gọi là Thú’. Ngài Khuê Phong đại sư viết trong sách Viên Giác Lược Sớ rằng: ‘Thú có nghĩa là hướng đến, tức là chỗ quy hướng của tâm ư thức’. Đủ biết: Thú () là quy thú (歸趣: Hướng đến, quay về). V́ vậy, dựa vào tông chỉ của kinh để tỏ rơ việc làm, biết điều mong cầu, thấu đáo tột cùng chỗ kinh đạt đến th́ gọi là Thú vậy”.

[4] Công lợi (utilitarianism) có nghĩa là nhằm để đạt được mục đích có lợi cho bản thân, bất kể phương tiện, không cần quan tâm điều đó sẽ gây ảnh hưởng có hại cho người khác hay không.

[5] Mười ba kinh của Nho Gia (Thập Tam Kinh) là Châu Dịch (kinh Dịch), Thượng Thư (kinh Thư), Thi Kinh (kinh Thi), Châu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Kư, Tả Truyện, Công Dương Truyện, Cốc Lương Truyện, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Nhĩ Nhă, Mạnh Tử. Nói cách khác mười ba kinh ngoại trừ Nhĩ Nhă (thuộc loại tự điển) và Hiếu Kinh ra, nội dung các “kinh” c̣n lại xoay quanh Tứ Thư (Đại Học và Trung Dung thật ra là các thiên sách trong Lễ Kư) và Ngũ Kinh (các bộ Tả Truyện, Công Dương Truyện, Cốc Lương Truyện là chú giải của kinh Xuân Thu).

[6] Theo tông Thiên Thai, Phương Đẳng có ba cách hiểu:

1. Giải thích theo Lư, Phương là chánh đáng, khuôn phép, Đẳng là b́nh đẳng. Hiểu theo nghĩa này, toàn bộ kinh điển Đại Thừa đều có thể gọi là Phương Đẳng. Trong Duyệt Tạng Tri Tân, Ngẫu Ích đại sư giảng: “Phương Đẳng c̣n gọi là Phương Quảng… Bắt đầu từ Hoa Nghiêm cho đến Đại Niết Bàn, hết thảy các kinh thuộc về Bồ Tát Pháp Tạng đều gọi là kinh điển Phương Đẳng”. Ngài Nguyên Chiếu giảng trong A Di Đà Kinh Sớ như sau: “Thật Tướng diệu lư, theo chiều ngang trọn khắp các pháp, nên gọi là Phương Quảng. Theo chiều dọc tột cùng thánh phàm, nên nói là b́nh đẳng”.

2. Giải thích theo mặt Sự th́ Phương có nghĩa là rộng răi, Đẳng là quân b́nh. Hàm nghĩa: Trong thời thứ ba, khi đức Phật nói các kinh này, bất luận căn cơ lợi, độn, Tạng, Thông, Biệt, Viên, đều được lợi ích, nên gọi là Phương Đẳng.

3. Ước theo cả Sự và Lư để giải thích, Phương là phương pháp, Đẳng là Lư Thể b́nh đẳng. Nương theo phương pháp của tứ giáo đều khế nhập lư b́nh đẳng nên gọi là Phương Đẳng. Sách Chỉ Quán quyển hai giảng: “Phương Đẳng hoặc c̣n nói là Quảng B́nh, nay nói Phương là phương pháp. Bát Nhă có bốn phương pháp, tức là do bốn môn mà vào ao thanh lương, đó chính là Phương. Lư được khế nhập là đại huệ b́nh đẳng, đó chính là Đẳng”.

[7] Vĩnh Gia là niên hiệu của Tấn Hoài Đế (Tư Mă Xí) từ năm 307 đến 313 nhà Tây Tấn.

[8] Ngài Cương Lương Da Xá (Kalayas, 383-442), dịch nghĩa là Thời Xưng, người xứ Tây Vực, tinh thông kinh luận, đặc biệt là Luật Tạng và A Tỳ Đàm. Ngài thích nhập Định, mỗi lần nhập Định thường đến bảy ngày. Ngài đến Trung Hoa vào năm Nguyên Gia nguyên niên (424), trụ tích tại Đạo Lâm Tinh Xá ở Chung Sơn, Kiến Nghiệp. Năm Nguyên Gia 19, Ngài du hóa khắp vùng Mân, Hàng. Đồ chúng theo học rất nhiều, hiện thời ngoài Quán Kinh, Đại Tạng c̣n giữ được một bản kinh khác do Ngài dịch là Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát Kinh. Ngài viên tịch tại Giang Lăng.

[9] Nhà Lưu Tống tồn tại từ năm 420 đến năm 479, là triều đại có lănh thổ lớn nhất trong thời Nam Bắc Triều, do Lưu Dụ (Tống Vũ Đế) sáng lập. Thoạt đầu vào năm 402, đại tướng Hoàn Huyền nhà Đông Tấn làm phản, chiếm cứ miền Nam, xưng quốc hiệu là Sở. Lưu Dụ đứng lên xướng suất quân Cần Vương, dần dần thế lực ngày càng mạnh, bèn khởi lên dă tâm, ép Tấn Cung Đế (Tư Mă Đức Văn) nhường ngôi cho ḿnh. Do ḍng họ Lưu Dụ xuất thân từ Bành Thành là đất cũ của nước Tống thời Xuân Thu, nên lấy quốc hiệu là Tống. Sử gọi triều đại này là Lưu Tống nhằm phân biệt với Triệu Tống (Bắc Tống và Nam Tống, 960-1279) do Triệu Khuông Dẫn sáng lập sau này. Nguyên Gia là niên hiệu của Tống Văn Đế (Lưu Nghĩa Long) từ năm 424 đến năm 453.

[10] Nguyên văn “toản ngưu giác tiêm” (mài nhọn đầu sừng trâu), đây là một thành ngữ ngụ ư: Tốn công phí sức t́m ṭi, nghiên cứu, rốt cuộc chỉ là chuyện thừa thăi, chẳng thể giải quyết vấn đề. Từ ngữ này c̣n có một ư nghĩa khác là kiến giải hẹp ḥi, chẳng thể mở rộng tầm nh́n.

[11] Chánh Sóc (正朔): Chánh có nghĩa là khởi đầu của một năm, Sóc là ngày đầu tiên trong một tháng. Hiểu theo nghĩa hẹp, Chánh Sóc chính là ngày mồng Một tháng Giêng. Để định ra chánh xác ngày này, phải thông qua việc quan trắc thiên văn kỹ lưỡng, chỉ có giới cầm quyền mới có đủ nhân lực và tài lực tiến hành. Việc này được coi là “giao tiếp với thượng thiên để thấu hiểu thiên ư”, nên chỉ có nhà vua mới có quyền ban hành lịch pháp. Cho măi đến đời Thanh, nếu người nào tự tiện quan sát thiên văn mà không phải là quan chức của Khâm Thiên Giám sẽ bị kết tội phản nghịch.