Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 5

觀無量壽佛經疏鈔演義

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Thời gian: Khởi giảng từ ngày 01 tháng 12 năm 1990

Địa điểm: Hoa Tạng Đồ Thư Quán, huyện Cảnh Mỹ, Đài Loan

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 17

 

Xin mở kinh bổn, trang chín mươi tám, hàng thứ hai đếm từ dưới lên.

 

Thiên nhị bách ngũ thập nhân câu.

俱。

      (Một ngàn hai trăm năm mươi người nhóm họp).

 

      Đây là Chúng Thành Tựu. Trong phần trước đă giới thiệu thời gian, xứ sở, và vị chủ giảng của pháp hội này; ở đây, giới thiệu thính chúng. Một ngàn hai trăm năm mươi người ở đây là các vị đệ tử thường theo hầu đức Thế Tôn, gần như suốt đời chẳng rời khỏi Thích Ca Mâu Ni Phật, nên trong phần đầu mỗi bộ kinh đều nêu tên các Ngài. Do đâu mà có một ngàn hai trăm năm mươi người này, trong chú giải đă nói rơ, chẳng cần giới thiệu nhiều[1]. Những vị này là Thanh Văn Chúng, cũng được gọi là Tiểu Thừa đệ tử. Dưới đây là Bồ Tát Chúng:

 

      Bồ Tát tam vạn nhị thiên nhân. Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử nhi vi thượng thủ.

      人。文 首。    

(Bồ Tát ba vạn hai ngàn người, Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử làm Thượng Thủ).

 

      Ở đây, có chữ [bị in] sai. [Chữ Vương () trong từ ngữ] “pháp vương tử” bị viết thành Ngũ (), tức là Pháp Ngũ Tử. Chữ Ngũ ấy phải là chữ Vương, Pháp Vương Tử!

      Thanh Văn Chúng nhất định là người xuất gia, một ngàn hai trăm năm mươi người ấy là hàng xuất gia. Bồ Tát Chúng không nhất định xuất gia, chúng tại gia cũng rất nhiều. Như bốn vị đại Bồ Tát thị hiện tại Trung Hoa, chỉ có Địa Tạng Bồ Tát thị hiện tướng xuất gia, những vị khác như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền đều hiện tướng tại gia. Do vậy, trong chúng Bồ Tát, hàng tại gia đông đảo. Thượng Thủ trong chúng Bồ Tát là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tượng trưng trí huệ bậc nhất. Trong kinh này, không liệt kê Thượng Thủ của hàng Thanh Văn, chỉ có trong hàng Bồ Tát là liệt kê một vị Thượng Thủ; đó là v́ nhân duyên phát khởi của bộ kinh này vô cùng đặc thù.

      Phần Thông Tự được giới thiệu tới đây, kế tiếp là Biệt Tự, tức là Phát Khởi Tự. Chúng ta xem trang một trăm, hàng thứ nhất. Trong Phát Khởi Tự có hai đoạn, đoạn thứ nhất là Đối Biện Bất Đồng (biện định về sự khác biệt). Trong phần Đối Biện Bất Đồng, lại chia thành hai đoạn ngắn. Đoạn thứ nhất là Phiếm Cử Sai Biệt (nêu chung sự sai biệt), đoạn thứ hai là Chánh Hiển Kim Kinh (nêu rơ điều sai biệt trong kinh này). Phát Khởi là nói tới nhân duyên của bộ kinh này. Gần như Thông Tự của tất cả hết thảy các kinh đại khái giống nhau, nhưng Phát Khởi Tự th́ mỗi hội mỗi khác, đều có nhân duyên đặc thù.

Chúng ta xem nhân duyên của bản kinh này trong đoạn thứ hai của trang này, tức đoạn Chánh Hiển Kim Kinh. “Kim kinh chánh dĩ sát phụ, dĩ vi Phát Khởi” (Kinh này chánh yếu dùng chuyện [vua A Xà Thế] giết cha để làm nhân duyên phát khởi); do đó, sự phát khởi này hết sức đặc thù: Vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ, nhân duyên phát khởi từ chỗ này. “Hà cố cử thử nghịch sự vi phát khởi da? Vị chương thử giới cực ác, linh nhân yếm khí. Thân sở sanh tử, do thượng nguy hại, tức dục linh nhân đồng hân Tịnh Độ” (V́ cớ sao nêu lên chuyện ác nghịch này để làm nhân duyên phát khởi? Nhằm tỏ rơ thế giới này ác độc đến mức cùng cực, khiến cho người ta chán bỏ. Con ruột do chính ḿnh sanh ra mà c̣n hăm hại ta, nhằm muốn làm cho mọi người cùng ưa thích Tịnh Độ). Đây là ư nghĩa được bao hàm trong việc phát khởi. Nói thật ra, vào thời cổ đă có chuyện ác nghịch kiểu này, từ xưa đến nay đều có, nhưng luôn là số ít. Trong xă hội cận đại, chúng ta thấy chuyện bất hiếu, ngỗ nghịch quá nhiều, nhiều đến nỗi không đáng coi là tin tức để đăng tải, chỗ nào cũng đều có.

Vào thời cổ, trong quá khứ, thầy Lư có kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện, chẳng biết vào triều đại nào, tôi cũng chẳng nhớ. Khi ấy, thầy nói rất rơ ràng, nhưng do thời gian đă quá lâu nên kư ức rất mơ hồ. Thầy nói: Vào thời cổ, có một nơi, đứa con bất hiếu, giết cha. Đây là một chuyện lớn, nên quan lại địa phương tŕnh tấu lên triều đ́nh, vua hạ lệnh ghi lỗi to cho [tỉnh trưởng] tỉnh ấy, [quan đứng đầu tỉnh ấy] tương đương tỉnh trưởng hiện thời, huyện trưởng bị xử phạt cách chức, cớ sao huyện của ngươi nẩy sanh một gă bất hiếu dường ấy? Không chỉ huyện trưởng bị phạt cách chức, mà huyện lỵ xưa kia đều có tường thành, thành tường bị vạt mất một góc, [tức là] hoàng đế hạ lệnh phá bỏ một góc tường thành. Điều này biểu thị ư nghĩa: Nơi các ngươi nẩy sanh một kẻ xấu xa dường ấy, tức là toàn thể nơi ấy bị mang nhục! Trước kia, coi chuyện trái nghịch luân thường nghiêm trọng ngần ấy! Chẳng như hiện tại, nay th́ thậm chí phát sanh chuyện như vậy, báo chí chẳng muốn đăng tải, quá nhiều! Báo đăng chẳng xiết! Trước kia ít, hiện tại nhiều. Vào thời xưa, nếu con cái bất hiếu, cha mẹ thỉnh cầu quan phủ trị tội, chỉ cần cáo trạng, chánh quyền chẳng tra xét mà trị tội ngay. Cha mẹ yêu thương con cái, chẳng bỏ sót một điều nhỏ nhặt nào, [thế mà] cha mẹ chẳng cần đến đứa con ấy nữa, nó sẽ chẳng thể sống yên ổn trong xă hội. Vào thời đầu Dân Quốc, pháp luật c̣n có điều lệ xử trí về thân quyền. “Thân quyền” (親權) là quyền cha mẹ; cha mẹ nói con cái bất hiếu, bẩm báo lên quan huyện vùng đó, xin quan huyện hành quyết đứa con. Chẳng cần thẩm vấn, lập tức lôi đi hành h́nh. V́ thế, thuở đó, con cái chẳng dám bất hiếu với cha mẹ. H́nh như là điều luật này bị phế trừ vào năm Dân Quốc hai mươi mấy. Trong quá khứ, [xă hội và chánh quyền] coi chuyện này rất nặng!

      Con ruột do chính ḿnh đẻ ra mà phạm tội đại nghịch bất đạo ấy, có thể thấy thế giới này xác thực là “ngũ trược ác thế” như Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói. [Chuyện A Xà Thế] khiến cho chúng ta chẳng có tâm lư lưu luyến thế giới này, v́ nó khiến cho người ta ghét bỏ, chẳng mong trụ trong thế giới này, sẽ hướng về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tây Phương Cực Lạc thế giới tuyệt đối không có những chuyện ác ấy. Không chỉ là chẳng có ác sự, mà tên gọi của những chuyện ác đều chẳng nghe thấy, há c̣n có chuyện ác? Cơi ấy là một xứ sở thù thắng tốt đẹp dường ấy, v́ sao chúng ta không đến đó? Cớ ǵ phải lưu lại nơi này để chịu tội? Đấy chính là đại ư của việc dùng nghịch hạnh (hành vi ngỗ nghịch) của vua A Xà Thế để phát khởi. Nhân duyên phát khởi này cũng thật sự chẳng thể nghĩ bàn.

      Chúng ta xem đoạn văn tiếp theo: “Hạ Vi Đề Hy, nguyện vị ngă thuyết vô ưu năo xứ, bất nhạo Diêm Phù Đề trược ác thế” (kế đó, bà Vi Đề Hy nói: “Xin hăy v́ con nói chỗ chẳng có ưu năo, con chẳng ưa thích đời trược ác trong cơi Diêm Phù Đề”). Chữ Hạ () là nói tới phần kinh văn tiếp theo. Phu nhân Vi Đề Hy là mẹ vua A Xà Thế (Ajātaśatru); ngay cả mẹ mà c̣n ghét bỏ con cái, ghét bỏ thế giới này, cầu đức Phật dạy cho bà ta một cơi chẳng có ưu năo, mong được văng sanh nơi ấy. “Phát khởi nhân duyên, đại phả tư nghị, nghịch tội bổn thị Vô Gián ngục nhân” (nhân duyên phát khởi rất chẳng thể nghĩ bàn, tội Ngũ Nghịch vốn là cái nhân của địa ngục Vô Gián). Đây là tội Vô Gián, quả báo trong địa ngục Vô Gián. “Tùy nhân thú quả, trầm A Tỳ ngục trung, thọ cực trọng khổ, chí khinh tu nhất đại kiếp” (theo nhân hướng đến quả, ch́m đắm trong địa ngục A Tỳ, chịu nỗi khổ cực nặng, nhẹ nhất th́ phải trải qua một đại kiếp). Chúng ta cũng phải ghi nhớ mấy câu này: Sau khi tạo tác tội Ngũ Nghịch, nhất định đọa địa ngục. Mọi người niệm kinh Địa Tạng sẽ biết chuyện tội khổ trong địa ngục, có thể nói kinh Địa Tạng đă nói rộng răi t́nh h́nh và trạng huống trong địa ngục. Phải chịu tội trong địa ngục bao lâu? Tội nhẹ nhất là một đại kiếp, thời gian quá dài, hết sức đáng sợ! Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă giảng về lục đạo luân hồi, đoạn [kinh văn] giảng về địa ngục đặc biệt tường tận, gần như chiếm một nửa phần văn tự nói về lục đạo. V́ sao nói tỉ mỉ ngần ấy? Nhằm làm cho quư vị thật sự thông hiểu, ngàn muôn phần chớ nên tạo tội nghiệp địa ngục! Địa ngục dễ vào, chẳng dễ thoát ra! Nỗi khổ ấy nặng nề cùng cực, chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng, thời gian quá dài, hết sức đáng sợ!

       “Kim vi Tịnh Độ tác phát khởi duyên, phỉ duy Vi Đề Hy phả tư nghị, tức A Xà Thế diệc phả tư nghị dă” (Nay [đem chuyện ác nghịch ấy] làm duyên phát khởi Tịnh Độ, chẳng phải chỉ riêng bà Vi Đề Hy là chẳng thể nghĩ bàn, mà A Xà Thế cũng là chẳng thể nghĩ bàn). Do dùng nhân duyên ấy để phát khởi kinh này, do vậy, kinh Tịnh Độ cũng được gọi là kinh chẳng thể nghĩ bàn, trong tên gọi của kinh Tiểu Bổn Di Đà đă nói rất rơ ràng. Chẳng khác ǵ kinh Hoa Nghiêm! Hoa Nghiêm được gọi là kinh bất tư nghị. Người Hoa thường gọi Hoa Nghiêm là đại bất tư nghị kinh. “Cụ kiến nghịch sự năng dụng, tức thị tánh ác pháp môn, tánh ác dung thông, nhậm vận nhiếp đắc tánh thiện. Do tánh ác nhi khởi tu ác, thậm chi vị địa ngục nhân. Năng dụng chi vi pháp môn, chuyển nhi vi Tịnh Độ chủng, khởi phi tự tánh trung bổn cụ chi đức da?” (trọn thấy là có thể sử dụng chuyện ác nghịch, tức là đối với pháp môn tánh ác th́ tánh ác dung thông, tùy ư dung nhiếp tánh thiện. [Thông thường th́] do tánh ác mà dấy khởi chuyện làm ác, đến nỗi trở thành cái nhân của địa ngục, nhưng có thể dùng [chuyện ác ấy để] làm pháp môn, ḥng chuyển thành hạt giống của Tịnh Độ, há chẳng phải là trong tự tánh vốn có trọn đủ các đức ư?). Nói thật ra, nếu vua A Xà Thế chẳng giết cha hại mẹ, đức Phật sẽ chẳng nói bộ kinh này, nhận thức của chúng ta về Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng chẳng thể viên măn. Lại nói thật thà, mẹ nhà vua cũng chẳng thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, có lẽ vẫn phải luân hồi bao nhiêu kiếp chẳng nhất định. Con vừa giết cha hại mẹ, đâm ra mẹ liền đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thành Phật, đây là nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn. Là một chuyện ác, mà kết quả lại biến thành việc tốt cùng cực, kết quả hết sức viên măn!

      Có thể thấy là thiện và ác quả thật rất khó nói, ắt phải xét theo kết quả. Nếu do nhân lành mà đắc quả ác th́ điều thiện ấy chẳng phải là chân thiện. Do ác nhân mà đắc quả cực thiện, vua A Xà Thế có công đức rất lớn. Quư vị thấy nhà vua khiến cho mẹ ḿnh thành Phật trong một đời, năm trăm cung nữ hầu hạ mẹ nhà vua cũng đều có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, độ lắm người ngần ấy! Kinh điển lưu truyền đến đời sau, chẳng biết đă độ được bao nhiêu người! Do một niệm ác ấy, đâm ra, nhà vua lại khiến cho nhiều người thành tựu ngần ấy, chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, đến khi lâm chung, nhà vua hối hận, sám hối văng sanh, sanh trong thượng phẩm trung sanh, hết sức có lư. Do đó, thiện hay ác phải xét theo hậu quả, phải dùng tầm mắt trí huệ để quan sát. Tại Trung Hoa, gần như ai nấy đều biết Nhạc Phi là một vị anh hùng dân tộc, bất hạnh bị Tần Cối hại chết. Từ xưa tới nay, người Hoa hận Tần Cối thấu xương, hắn là một gă xấu xa như thế! Trên thực tế, hai người ấy có công đức bằng nhau, cớ sao nói là bằng nhau? Nhạc Phi dạy chúng ta phải nên học theo ông ta tận trung báo quốc, phải học giống như ông ta. Tần Cối nêu gương, nhằm dạy chúng ta chớ nên học theo, học theo gương ông ta sẽ để tiếng xấu vạn năm! Một người dạy theo lối chánh diện, một người dạy theo kiểu phản diện, nhưng cả hai đều là thầy tốt, đều là công đức vô lượng. Đó là xét theo hậu quả, hậu quả có sức giáo hóa sâu xa, có sức ảnh hưởng chánh đáng đối với xă hội th́ là công lao, là công đức. Chúng ta xét theo quan điểm Phật pháp, sẽ có cách nh́n khác với người thế gian, biết [việc làm ấy] quả thật sẽ sanh ra sức ảnh hưởng chánh đáng đối với sự giáo hóa người đời sau. Vua A Xà Thế cũng thuộc về t́nh h́nh như vậy đó.

      Bởi lẽ, thiện và ác đều khởi từ Chân Như bản tánh, tùy thuộc chúng ta sử dụng theo cách nào! Dùng theo kiểu ác, sẽ là quả báo trong địa ngục A Tỳ; dùng theo lẽ thiện, sẽ thành Phật, làm Tổ! Do vậy có thể biết: Trong cuộc sống hiện tại của chúng ta có thuận cảnh và nghịch cảnh, những kẻ chúng ta gặp gỡ, có người tốt, có kẻ ác. Người thiện cố nhiên là tốt, nhưng kẻ ác cũng chẳng tệ! Thuận cảnh cố nhiên là tốt đẹp, nhưng nghịch cảnh cũng thế, tùy thuộc quư vị vận dụng như thế nào! Nếu quư vị biết dùng, thuận hay nghịch đều là Tăng Thượng Duyên. Giống như năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm, năm mươi ba vị thiện tri thức có người thiện, kẻ ác, nhưng đều là các vị đại thiện tri thức thật sự, đều có thể giúp quư vị thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Điều này cũng chứng tỏ lời Ngẫu Ích đại sư đă nói: “Cảnh duyên chẳng tốt xấu, tốt xấu do tâm ḿnh”, chẳng do ngoại cảnh chi phối! Tâm chính ḿnh thuần thiện, thiện lương, tất cả hết thảy cảnh giới đều thiện, điều này đáng cho chúng ta phản tỉnh thật sâu. Chỉ có thật sự giác ngộ từ chỗ này, tâm chúng ta mới có thể thanh tịnh, b́nh đẳng, bất luận đối xử với ai, sống trong hoàn cảnh nào, đều có thể đạt được thanh tịnh tự tại, công phu tu hành đều có thể đắc lực. Người ấy đă chuyển biến những điều ấy thành pháp môn, chuyển thành hạt giống Tịnh Độ, há chẳng phải là trong tự tánh vốn trọn đủ các đức ư?

       “Kim chi nghịch sự, kỳ chủng tử tức thị tánh cụ chi duyên nhân Phật Tánh” (Nay đối với chuyện ác nghịch, chủng tử của nó chính là duyên nhân Phật Tánh vốn sẵn có trong tánh). Đây là nói về phu nhân Vi Đề Hy, bà gặp chuyện này, khiến cho chính ḿnh thật sự giác ngộ thế gian này vô thường, hiểm ác, bà ta ngộ chuyện này. Đó là trí huệ, là giác ngộ. Không gặp phải chuyện này, bà chẳng giác ngộ. Gặp chuyện này, bà giác ngộ, đó là duyên nhân Phật Tánh. Duyên là ǵ? Tu hành trong đời quá khứ, thiện căn trong đời quá khứ, đă kết duyên với Phật. Nay bị cảnh giới ảnh hưởng, khiến cho chủng tử Phật pháp từ vô thỉ được kích phát. “Tạo nghịch tâm tức thị tánh cụ chi liễu nhân Phật Tánh” (tâm tạo nghịch chính là liễu nhân Phật Tánh có sẵn trong tánh). Liễu nhân là hiểu rơ, vừa thấy chuyện này bèn hoàn toàn hiểu rơ, chân tướng của pháp thế gian và xuất thế gian vừa tiếp xúc bèn hiểu rơ, hiểu rơ là trí huệ. Duyên nhân là chủng tử trong đời quá khứ, chúng ta thường nói là thiện căn. “Nhi chánh nhân Phật Tánh, chung nhật bất biến, chung nhật tùy duyên, chung nhật tùy duyên, chung nhật bất biến” (nhưng chánh nhân Phật Tánh suốt ngày bất biến, suốt ngày tùy duyên; suốt ngày tùy duyên, nhưng suốt ngày bất biến). Chánh nhân là bản tánh, là Phật Tánh. Trong Phật pháp, duyên nhân, liễu nhân, và chánh nhân được gọi “tam nhân Phật Tánh”. Nếu chúng ta có thể lắng ḷng quan sát thế gian này, nói thật ra, lúc nào, chỗ nào cũng đều có thể khải phát giác tánh của chúng ta.

      Tuần trước, tôi đến thăm viện Nghiên Cứu Trung Ương, xem giáp cốt thuộc pḥng trưng bày của tiên sinh Đổng Tác Tân. Đổng tiên sinh trước kia có một người bạn thân là tiên sinh Nghiêm Nhất B́nh, cùng nghiên cứu giáp cốt văn[2] với Đổng tiên sinh, ông ta là giáo sư trường đại học Đài Loan. Tôi liền hỏi người phụ trách quản lư hiện thời, ông ta cho biết Nghiêm tiên sinh đă mất từ năm năm trước, thế mà tôi không biết. Nghiêm Nhất B́nh và tôi rất thân thuộc. Về sau, ông ta mở một thư điếm, tức xưởng in các tác phẩm văn nghệ. Cổ thư Trung Hoa [tại Đài Loan] do thư điếm của ông ta in đầu tiên. Các bộ Thập Tam Kinh, Nhị Thập Ngũ Sử tôi được đọc lần đầu là do tiệm của ông ta in. Tôi đến chỗ ông ta mua sách, nên rất thân quen với ông ta. Mở thư điếm kiếm tiền rất nhiều, đại khái là trong mười năm đầu kiếm được rất nhiều tiền. Đă kiếm được tiền, bèn thôi không dạy học nữa, từ nhiệm chức giáo sư, chuyên môn kinh doanh. Đại khái là trong ṿng mười năm, ông ta mua năm mươi căn nhà, cho người khác thuê. Những căn nhà giá rẻ thời đó, bây giờ đắt lắm. Về sau, ông ta chuyên kinh doanh địa ốc. Tôi chẳng gặp mặt ông ta đă hai mươi năm, tôi nghĩ nhất định là ông ta có một, hai trăm căn nhà. Đáng tiếc là chẳng thọ, đă chết rồi! Sống chẳng mang theo ǵ đến, chết chẳng mang theo được ǵ. Chẳng biết tài sản là bao nhiêu ức, mở thư điếm hễ kiếm được tiền bèn mua nhà. Đă nhiều năm ngần ấy, tôi chẳng gặp ông ta, nào ngờ ông ta đă chết từ năm năm trước, đời người vô thường! Có tiền, nhưng chẳng biết làm chuyện tốt, lắm tài sản ngần ấy, chết đi, cũng chẳng mang theo được một đồng nào, cũng chẳng mang theo được một căn nhà nào! Vẫn phải lưu chuyển theo nghiệp, rất đáng thương!

      Thuở ấy, tôi vừa mới học Phật. Có một hôm, ông ta cùng tôi tṛ chuyện. Ông ta nói: “Kinh Phật th́ kinh Kim Cang tôi đă xem qua”. Tôi nói: [Ông nghĩ] như thế nào? [Ông ta đáp]: “Chẳng có ư nghĩa ǵ! Giống như hai thùng nước đổ qua, đổ lại, lặp đi lặp lại!” Một vị giáo sư đại học nổi tiếng đấy nhé! Tôi nghe cảm thấy thật nực cười, ngu si, điên đảo! Những chuyện giống như vậy rất thường thấy, hăy nên giác ngộ, phải thường cảnh tỉnh chính ḿnh: Pháp thế gian vô thường. Có thể giác ngộ th́ tín tâm và nguyện tâm tu hành của chúng ta sẽ kiên cố, nghiêm túc!

      Mấy câu tiếp theo đó rất trọng yếu: “Cẩu năng toàn tánh khởi ư thuận tu, tắc duyên liễu nhị nhân, thành vi phước trí trang nghiêm. Thị cố hành nhân thành Phật, nhi hữu tướng hảo vô biên, trí huệ vô biên” (Nếu có thể toàn tánh khởi nơi thuận tu, th́ duyên nhân và liễu nhân trở thành phước trí trang nghiêm. V́ thế, hành nhân thành Phật bèn có tướng hảo vô biên, trí huệ vô biên). Mấy câu này rất quan trọng. Phải thuận tánh khởi tu, tánh là ǵ? Tánh là thanh tịnh, b́nh đẳng, đại từ, đại bi, chúng ta phải ghi nhớ và tu học những điều này. Trong tâm thanh tịnh, chẳng có mảy may ô nhiễm, điều này quan trọng hơn bất cứ điều ǵ khác. V́ vậy, thuận tánh tu tập duyên nhân và liễu nhân. Duyên nhân là thiện căn nhiều đời nhiều kiếp; liễu nhân chính là trí huệ hiểu rơ trong hiện tiền, cũng có thể nói là giác tánh. Nay chúng ta nói người nào đó có ngộ tánh rất cao, tâm cảnh giác rất cao. Đối với giác tánh, người hiện thời nói là “tánh cảnh giác cao”, người ấy chẳng mê. Đó là liễu nhân. Sau khi đă tu thành công, bèn biến thành tướng hảo vô biên. Tướng hảo vô biên do duyên nhân biến thành. Trí huệ vô biên do liễu nhân biến thành, toàn là Tánh Đức tự tại hiện tiền. “Tùng toàn tánh khởi ư nghịch tu, tắc duyên liễu nhị nhân, thành vi tội xuẩn trang nghiêm. Thị cố chúng sanh đọa ngục, vô luận ngục chi đại tiểu, nhất nhân diệc măn, đa nhân diệc măn, sở hữu khổ cụ, tự nhiên nhi chí, thử giai phả tư nghị chi ác trang nghiêm, bất tùng ngoại lai, diệc tự tánh chi bổn cụ dă, cố viết vô pháp bất cụ, vô pháp bất tạo” (từ toàn tánh mà khởi lên nghịch tu th́ duyên nhân và liễu nhân sẽ trở thành sự trang nghiêm trong [cảnh giới] tội lỗi, ngu xuẩn. V́ thế, chúng sanh đọa địa ngục, bất luận là địa ngục lớn hay nhỏ, một người cũng đầy ắp trong ngục, mà nhiều người cũng đầy ắp. Tất cả những dụng cụ hành h́nh tự nhiên xuất hiện, những điều này đều là những thứ trang nghiêm xấu ác chẳng thể nghĩ bàn, chẳng đến từ bên ngoài, mà cũng là có sẵn trong tự tánh. Do đó nói “không pháp ǵ chẳng trọn đủ, không pháp nào chẳng tạo”). Có thể thấy y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới thảy đều vốn sẵn có trong tự tánh, đều do tự tánh biến hiện. “Tạo” là biến hiện, đều chẳng phải đến từ bên ngoài, mà do quư vị một niệm thuận tánh hay một niệm trái nghịch, sai biệt ở ngay chỗ này! Thuận th́ là toàn bộ thuận, hay là bộ phận thuận? Do điều này mà có tứ thánh pháp giới sai biệt. Hoàn toàn thuận bèn thành Phật, bộ phận thuận bèn thành Bồ Tát, ít phần thuận sẽ là Thanh Văn, Duyên Giác. Trái nghịch cũng giống như vậy. Hoàn toàn trái nghịch bèn là A Tỳ địa ngục; nhiều phần trái nghịch là ba ác đạo; ít phần trái nghịch là hai đường nhân thiên. Tùy thuộc thuận hay nghịch tự tánh! V́ sao mười pháp giới h́nh thành, đạo lư ở ngay nơi đây. Đoạn này nói rất hay!

      Chúng ta lại xem đoạn văn kế tiếp, hăy xem ḍng thứ ba trong trang một trăm lẻ hai. Đây là khoa văn (lời nhận định về khoa phán), không phải là sớ văn (lời sớ giải). Đáng lẽ phải in chữ thứ nhất thấp hơn, họ lại nâng cao lên, sai mất rồi! Trong phần nhận định về khoa phán đă viết: “Tựu trung vi nhị”, [có nghĩa là] trong vấn đề lớn này, sẽ chia thành hai đề mục nhỏ. “Sơ nhĩ thời hạ, chánh minh sát phụ, thứ vấn thủ môn nhân hạ, minh dục hại mẫu” (Thứ nhất là từ chữ “lúc ấy” trở đi, là nói [vua A Xà Thế] giết cha, kế đó là từ chữ “hỏi kẻ giữ cửa” trở đi, nói rơ nhà vua muốn hại mẹ). Đây là tŕnh bày nhân duyên hưng khởi giáo pháp của bản kinh này: Do vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ. Chúng ta hăy xem kinh văn. Dưới đoạn kinh văn này có lời chú giải, quư vị hăy tự xem, do chẳng khó hiểu, nên chẳng cần giới thiệu. Kinh văn thuộc trang một trăm lẻ ba, kể từ hàng thứ ba đếm từ dưới lên.

 

      Nhĩ thời Vương Xá đại thành, hữu nhất thái tử, danh A Xà Thế, tùy thuận Điều Đạt ác hữu chi giáo, thâu chấp phụ vương Tần Bà Sa La, u bế trí ư thất trùng thất nội, chế chư quần thần, nhất bất đắc văng.

      城。有 子。名 世。隨 調 教。收 羅。幽 內。制 臣。一 往。

      (Khi ấy, trong đại thành Vương Xá có một thái tử tên là A Xà Thế, nghe theo lời dạy của bạn ác là Điều Đạt, bắt giữ phụ vương Tần Bà Sa La (Bimbisara), nhốt kín trong một căn nhà có bảy lớp cửa, cấm ngặt các quần thần không ai được đến đó).

 

      Nay ta gọi chuyện này là “chánh biến” (đảo chánh, coup d'état), chánh biến trong cung đ́nh. Cuộc chánh biến này là con đoạt quyền cha, chẳng phải là người ngoài, mà là con cái đoạt quyền. Nói thật ra, ngôi vua của cha trong tương lai nhất định truyền cho ông ta, nhưng ông ta chẳng chờ nổi, c̣n chưa truyền, ông ta đă muốn làm vua ngay! V́ sao ông ta chẳng chờ nổi? Có kẻ xúi giục, người ấy là ai? Đề Bà Đạt Đa! Gặp phải một người như vậy. Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) là anh của tôn giả A Nan (Ānanda)[3], là anh ruột, là em họ của Thích Ca Mâu Ni Phật. Người này hết sức thông minh, đức Phật có ba mươi hai tướng, ông ta có ba mươi tướng, nên nh́n cũng hết sức đẹp đẽ. Tuy hết sức thông minh, nhưng tâm thuật bất chánh, nói theo kiểu hiện thời là thích chơi trội, là một người như thế đó, chẳng thật thà cho lắm. V́ lẽ đó, ông ta khá ganh ghét Thích Ca Mâu Ni Phật, hy vọng trong tương lai chính ḿnh thành Phật, thay thế đức Phật. Ông ta muốn học thần thông, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng dạy. Ông ta t́m đến đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật, những vị như Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất cũng đều chẳng dạy. Cuối cùng t́m tới A Nan. Ngài A Nan do thấy ông ta là anh ḿnh, v́ A Nan chỉ chứng đắc Sơ Quả Tu Đà Hoàn, chẳng có năng lực quan sát căn tánh của anh ḿnh, nên đem phương pháp tu thần thông dạy ông ta. Chẳng bao lâu, ông ta tu thành Ngũ Thông, lợi dụng thần thông để dụ dỗ, mê hoặc thái tử A Xà Thế. Thương lượng với thái tử, ông ta nói: “Ngài hăy giết cha để làm quốc vương, tôi hại chết Thích Ca Mâu Ni Phật, tôi thành Phật. Ngài là tân vương, tôi là tân Phật, hai người chúng ta cùng nhau giáo hóa người đời trên thế gian, há chẳng phải là chuyện tốt đẹp ư?” Vua A Xà Thế nghe lời ấy, mắc bẫy của ông ta, thật sự đem cha nhốt lại, nhốt trong “thất trùng thất nội”, tức là qua bảy tầng canh giữ. Ra lệnh bất luận kẻ nào cũng chẳng được gặp mặt, chẳng cho ai đến thăm, nhằm mục đích khiến cho vua cha chết đói, dùng phương pháp này. Nhắc tới một đoạn nhân duyên như vậy, nhân duyên trong đoạn này cũng được nói rất cặn kẽ trong phần chú giải[4].

      Trong chú giải có mấy câu tôi phải trao đổi cùng với các đồng tu đôi chút. Trang một trăm lẻ năm, hàng thứ năm, xem từ hai câu tiếp theo đó: “Như thử đẳng sự, giai thị đại sĩ thiện quyền hiện hóa, hành ư phi đạo, thông đạt Phật đạo. Chúng sanh căn tánh bất đồng, nhập đạo hữu dị, nhất nghịch, nhất thuận, hoằng đạo ích vật, thị hạnh vô gián, nhi vô năo khuể, Xà vương hiện nghịch, vi tức ác nhân, linh bất khởi nghịch” (Những chuyện như thế đều do bậc đại sĩ quyền biến, thiện xảo hóa hiện, làm chuyện trái nghịch đạo lư, [ḥng khiến cho chúng sanh] thông đạt Phật đạo. Chúng sanh căn tánh bất đồng, nhập đạo sai khác, một đằng nghịch, một đằng thuận. Do hoằng dương đạo, lợi lạc chúng sanh, nên thị hiện hạnh Vô Gián, nhưng chẳng có ưu năo, sân khuể. Vua A Xà Thế thị hiện hạnh ác nghịch, nhằm ngăn dứt những kẻ ác, khiến cho họ chẳng dấy lên những hạnh ác nghịch). Đoạn văn này có ư nghĩa giống như cách nh́n chuyện Tần Cối hại Nhạc Phi mà tôi vừa mới nói. V́ thế, những chuyện trong cảnh giới đúng là chẳng có thiện, ác, đúng, sai. Thiện, ác, đúng, sai, đích xác là do phân biệt, chấp trước trong tự tâm chúng ta. Ĺa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước th́ mới có thể thấy chân tướng của thế gian và xuất thế gian. Hết thảy chúng sanh có căn tánh khác nhau. Có những chúng sanh phải dùng thiện pháp nhu ḥa để tiếp dẫn th́ họ có thể nhập Phật môn. Có những chúng sanh phải dùng ác pháp th́ mới có thể tiếp dẫn họ nhập Phật môn. Quư vị thấy tướng thị hiện của các vị Bồ Tát trong Phật môn, lấy ngay Quán Âm Bồ Tát để nói. Quán Âm Bồ Tát thị hiện tại Trung Hoa, tướng mạo vô cùng nhu ḥa, quá nửa là tướng người nữ, do từ bi thương xót, nên hiện tướng ấy. Quư vị đến Tây Tạng hoặc Ấn Độ để xem tượng đắp của Quán Âm Bồ Tát, đôi khi mặt xanh, nanh nhọn, đáng sợ hăi cùng cực, nhưng đó cũng là h́nh tướng của Quán Âm Bồ Tát. Thật vậy, nên dùng phương pháp ǵ để độ được, liền thị hiện phương pháp ấy, có thiện độ, có ác độ, nhưng đạt đến mục tiêu cuối cùng th́ là một.

      Trong hội này, nói thật ra, có phải vua A Xà Thế thật sự là như vậy hay không? Chưa hề! Bồ Tát tái lai, diễn tuồng, một người đóng vai mặt trắng (vai chánh diện, vai thiện), một người khác đóng vai mặt đen (vai phản diện, vai ác). Các Ngài đang diễn tuồng, diễn cho chúng ta xem, khiến cho chúng ta giác ngộ. Các Ngài diễn tướng thế gian, khiến cho chúng ta từ sự biểu diễn ấy mà thấu hiểu tướng thế gian sâu đậm hơn, nhận thức rơ ràng hơn. Do đó, mới có thể thật sự tỉnh ngộ, đoạn tuyệt nỗi tham luyến đối với pháp thế gian, nhất tâm tu đạo. V́ vậy, những người ấy đều là bậc Đại Quyền thị hiện, nhưng những ǵ các Ngài biểu diễn đều là thật, chẳng giả. Chẳng hạn như các Ngài thị hiện ác hạnh xác thực là đáng đọa trong địa ngục Vô Gián, về sau, do sám hối bèn có thể thượng phẩm trung sanh, tuyệt đối chớ nên nói “đó là Bồ Tát tái lai biểu diễn, chưa chắc đă là thật!”. Nếu chúng ta hiểu như vậy th́ sai mất rồi, sự biểu diễn của Ngài là thật. Dẫu chúng ta tạo trọng tội Ngũ Nghịch, mà chí tâm sám hối, th́ cũng có thể văng sanh, điều này tương ứng với ư nghĩa trong kinh này, chẳng trái nghịch. Pháp môn này quả thật có thể độ chúng sanh khổ sở cùng cực trong địa ngục viên thành Phật đạo. Chúng sanh ác cùng cực, khổ cùng cực, do chí tâm sám hối niệm Phật văng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ thuộc phẩm vị nào? Không nhất định! Không thể đoán định chắc chắn họ thuộc loại hạ phẩm hạ sanh, chưa chắc! Tùy thuộc sức sám hối của người ấy. Nếu sức mạnh sám hối của người ấy đặc biệt to lớn, phẩm vị bèn lập tức tăng cao. Chuyện này cũng rất chẳng thể nghĩ bàn, đúng là pháp khó tin. Có người nói: Người này tu hành suốt cả một đời, tu hành rất khá, phẩm vị cao, mọi người đều công nhận đúng là chẳng có vấn đề ǵ; nhưng người làm nhiều điều xấu dường ấy, một niệm sám hối mà phẩm vị cũng cao, không công bằng! Chúng ta nh́n cách nào cũng đều thấy không công bằng. Nói chung, chẳng nghĩ ra đạo lư ở chỗ nào!

      Thật ra, lư ấy rất sâu, xác thực là có căn cứ lư luận viên măn, nhưng chúng ta không hiểu. V́ chúng ta là nhục nhăn phàm phu, chỉ thấy sự thị hiện bên ngoài, chẳng hiểu rơ Lư, nhân quả trong quá khứ cũng chẳng hiểu rơ. Kẻ ấy suốt đời này là người ác, nhưng trong nhiều đời nhiều kiếp là người tốt, trong nhiều đời nhiều kiếp đă tu không ít công đức, chẳng thể một nét bút sổ toẹt được! Chúng ta chẳng có thần thông, chẳng biết sự tu học của những chúng sanh ấy trong đời quá khứ. Do đó, cuối lời chú giải, câu cuối cùng nơi hàng thứ ba trong trang một trăm lẻ sáu đă nhắc nhở chúng ta. “Điều Đạt”, tức là Đề Bà Đạt Đa, “A Xà, Tần Bà, Vi Đề, giai thị đại quyền, hiện nghịch, hiện thuận, lợi ích chúng sanh” (Đề Bà Đạt Đa, A Xà Thế, Tần Bà Sa La, Vi Đề Hy đều là bậc đại quyền, thị hiện hạnh thuận nghịch đều nhằm lợi ích chúng sanh). Đại Quyền (大權) là bậc Bồ Tát thị hiện, là Đại Thừa Bồ Tát quyền xảo phương tiện thị hiện cho chúng ta thấy. Giống như diễn tuồng, trên sân khấu các Ngài sắm vai diễn nào, thật ra, thảy đều là đại Bồ Tát. V́ lẽ đó, thuở ấy, đức Phật xuất hiện trên thế gian là đóng một vở tuồng cho chúng ta là những kẻ đang mê hoặc, điên đảo xem. Nhắc nhở chúng ta điều này, khiến cho chúng ta đối với những nhân vật này, tâm địa có thể sanh khởi tâm b́nh đẳng, cung kính, mục đích ở chỗ này. Chớ nên phân biệt, chấp trước, người này là người tốt, kẻ kia là người xấu. Quư vị chớ khởi lên ư niệm ấy. Hễ khởi lên ư niệm ấy tức là đă sai lầm, v́ sao? Đă rơi vào phân biệt, chấp trước, sai mất rồi, tâm chúng ta chẳng thanh tịnh.

      Chúng ta lại xem phần kinh văn tiếp theo:

 

      Quốc thái phu nhân danh Vi Đề Hy.

      希。

      (Quốc thái phu nhân[5] tên là Vi Đề Hy).

 

      Đây là vương hậu.

 

Cung kính đại vương, tháo dục thanh tịnh, dĩ tô mật ḥa sao, dụng đồ kỳ thân. Chư anh lạc trung thịnh bồ đào tương, mật dĩ thượng vương.

王。澡 淨。以 麨。用 身。諸 中。盛 漿。密

(Do cung kính đại vương, nên tắm gội thanh tịnh, dùng tô mật trộn với bột rang để bôi lên thân, trong các chuỗi đeo đựng nước nho, ngầm dâng lên vua).

 

      Quốc vương đă bị giam kín, bất cứ ai đều chẳng thể gặp, đoạn tuyệt thực phẩm, sanh mạng lâm nguy. Hoàng hậu rất thông minh, khi ấy, trừ bà ta ra, chẳng ai có thể cứu nhà vua. Nhưng thức ăn lẫn đồ uống đều chẳng được đem vào, canh cửa rất nghiêm, chẳng cho đem vào. Dùng phương pháp ǵ? Dùng mật và “sao” (: bột rang[6]), người Đài Loan gọi Sao là “miến trà” (麵茶), dùng mật trộn [thành chất dính] để trét lên người, bước vào [trong ngục, lính canh] sẽ chẳng kiểm tra được. Vào tới bên trong, lại gỡ ra cho vua Tần Bà ăn. “Anh lạc” (瓔珞) là đồ trang sức để đeo, bên trong đồ trang sức trống rỗng, giống như đồ đựng sữa, chứa thức uống trong ấy, mang vào như vậy đó. V́ thế, vua Tần Bà do có thức ăn, nên có thể giữ được tánh mạng.

 

      Nhĩ thời đại vương thực sao, ẩm tương, cầu thủy thấu khẩu. Thấu khẩu tất dĩ, hiệp chưởng cung kính, hướng Kỳ Xà Quật sơn, dao lễ Thế Tôn, nhi tác thị ngôn: “Đại Mục Kiền Liên thị ngô thân hữu, nguyện hưng từ bi, thọ ngă Bát Giới”. Thời Mục Kiền Liên như ưng chuẩn phi, tật chí vương sở, nhật nhật như thị, thọ vương Bát Giới. Thế Tôn diệc khiển tôn giả Phú Lâu Na, vị vương thuyết pháp.

      漿。求 口。漱 已。合 敬。向 山。遙 尊。而 言。大 連。是 友。願 悲。授 戒。時 連。如 飛,疾 所。日 是。授 戒。世 那,為 法。

      (Lúc bấy giờ, đại vương ăn bột rang, uống nước ép, xin nước súc miệng. Súc miệng xong xuôi, chắp tay cung kính, hướng về núi Kỳ Xà Quật, bái vọng đức Thế Tôn, bạch như thế này: “Ngài Đại Mục Kiền Liên là thân hữu của con, nguyện hăy dấy ḷng từ bi, truyền cho con Bát Quan Trai Giới”. Khi ấy, ngài Mục Kiền Liên như chim ưng, chim ó bay liệng, nhanh chóng đến chỗ nhà vua, mỗi ngày đều như thế, truyền Bát Quan Trai Giới cho nhà vua. Đức Thế Tôn cũng sai tôn giả Phú Lâu Na thuyết pháp cho nhà vua).

 

      Quốc vương gặp đại nạn này cũng đau khổ chẳng thể chịu nổi. Tuy được bí mật chuyển đạt đồ ăn, thức uống, nên có cái để ăn uống, nhưng trong cung đ́nh cũng sám hối, cầu Phật giúp đỡ. Nhưng nhà vua cầu Phật, vẫn chẳng cầu sanh Tịnh Độ, chẳng khởi ư niệm ấy, chỉ mong cầu Phật truyền giới, truyền Bát Quan Trai Giới là hành pháp để người tại gia tu hạnh xuất gia. Thời hạn của Bát Quan Trai Giới là một ngày một đêm, hết một ngày đêm liền viên măn, ngày hôm sau lại phải thọ lần nữa, có thể thọ mỗi ngày. Nếu chẳng có thầy, không có người xuất gia, chính ḿnh có thể đối trước Phật, Bồ Tát tự thọ. V́ thế, hành pháp này có khai duyên, [nghĩa là] hễ có người xuất gia truyền cho quư vị th́ rất tốt, chẳng có người xuất gia th́ chính ḿnh có thể đối trước Phật, Bồ Tát phát nguyện thọ tŕ. Tám giới ấy gồm tám điều giới và một điều về Trai, nên gọi là Bát Quan Trai Giới. Trai () là ăn một bữa trưa, chẳng ăn sau giữa trưa. Bát Quan Trai Giới thật sự th́ sáng sớm ăn thứ ǵ cũng không được. Sáng sớm cũng chớ nên ăn, mỗi ngày ăn một bữa. Sau giữa Ngọ, tức là sau giữa trưa, có thể uống nước, nhưng trong nước chẳng thể có chất trầm lắng. Như sữa th́ chẳng thể uống, v́ sữa có chất trầm lắng. Sữa đậu nành cũng chẳng thể uống, v́ sữa đậu nành cũng có chất trầm lắng. Có thể uống ǵ? Có thể uống mật, mật và nước chẳng có chất trầm lắng. Uống nước đường cũng được! V́ vậy, đối với Bát Quan Trai Giới, Trai hết sức nghiêm ngặt, trai lẫn giới đều nghiêm ngặt. Đó là cuộc sống của người xuất gia thuở Phật tại thế, chúng ta sống một ngày [theo cách sống ấy].

      “Trung” () [ở đây] là giữa trưa, chẳng phải là Ngọ. Người hiện thời nói “tŕ ngọ”, đó là sai lầm. Ngọ () là giờ Ngọ, từ mười một giờ đến một giờ đều thuộc về giờ Ngọ. Một giờ chiều th́ mặt trời đă qua khỏi giữa trưa từ lâu. V́ vậy, người ấy (người tŕ Bát Quan Trai Giới) là sau giữa trưa chẳng ăn, chẳng phải là ăn vào giờ Ngọ. Thời gian giữa trưa mỗi ngày khác nhau. Xưa kia, dùng đồng hồ mặt trời (nhật quỹ, 日晷)[7] để tính toán thời gian giữa trưa. Hiện thời, thuận tiện hơn xưa kia, hiện thời dùng ǵ? Nếu là người tŕ ngọ, sẽ dùng nhật lịch thiên văn (Astronomical Almanac), đài thiên văn mỗi năm đều phát hành. Trong nhật lịch thiên văn có ghi chép mỗi ngày, nhằm tháng mấy, ngày mấy, thời gian đúng giữa trưa vào đúng mấy giờ, mấy phút, mấy giây, viết rất rơ ràng. Nhất định phải [thọ trai] trước khi ấy, hễ quá một giây tức là đă phá trai, đă phá Bát Quan Trai. V́ thế, đây là một chuyện rất phiền phức. Hiện thời có rất nhiều người tŕ ngọ, đó là làm cho có tiếng mà thôi, chứ thật ra [cả trai lẫn giới] đều bị phá sạch cả rồi. Buổi tối ăn hoa quả, đă phá giới, [v́ hoa quả] có chất bă. Buổi tối uống cốc sữa th́ cũng đă phá giới. Người ấy trọn chẳng hiểu những thứ ấy đều chẳng được dùng. Phàm là những ǵ có chất trầm lắng đều chẳng được uống. Đó là sống cuộc đời của người xuất gia trong một ngày.

      Quốc vương bị người ta giam kín nơi đó, đau khổ chẳng chịu đựng nổi, nghĩ ta phải tu phước, trong đời quá khứ đă tạo tội nghiệp quá nhiều, chẳng tu phước, bèn cầu tôn giả Mục Kiền Liên, chẳng dám cầu Phật, mong mỏi học tṛ của đức Phật đến giúp nhà vua thọ giới. Ngài Mục Kiền Liên và nhà vua có quan hệ thân thích. Vua vừa động một niệm, đức Phật liền biết, liền ngay lập tức sai Mục Kiền Liên truyền giới cho vua, ḥng măn nguyện cho ông ta. Lại sai Phú Lâu Na đến thuyết pháp, chỉ dạy, cho nhà vua khỏi đau khổ v́ tịch mịch mà suy nghĩ lung tung. Đức Phật nghĩ rất chu đáo, phái hai vị ấy đến chiếu cố, giúp đỡ nhà vua. À! Chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.

 

Tập 18

 

      Xin mở kinh bổn, trang một trăm lẻ tám. Chúng ta xem kinh văn, ḍng thứ ba từ dưới đếm lên.

 

      Như thị thời gian, kinh tam thất nhật, vương thực sao mật, đắc văn pháp cố, nhan sắc ḥa duyệt.

      間。經 日。王 蜜。得 故。顏 悅。

      (Thời gian như thế trải qua hai mươi mốt ngày, vua do ăn bột rang và mật, được nghe pháp, nên vẻ mặt ôn ḥa, vui sướng).

 

      Nh́n từ chuyện này, bất luận là vua Tần Bà hay phu nhân Vi Đề Hy, có thể nói là đều gặp phải nghịch duyên hay nghịch cảnh th́ mới phát tâm học Phật, giác ngộ từ chỗ này. Duyên tuy là nghịch ác, nhưng hậu quả đạt được lại là chánh diện, là chí thiện. Nhất là phu nhân Vi Đề Hy mong cầu sanh Tịnh Độ, đấy là cơ duyên hiếm có, khó gặp, chẳng ngờ sẽ được chín muồi ở chỗ này, rất khó có! Nếu chúng ta có thể thường ghi nhớ những chỗ này, quan sát thế gian, nhắc nhở chính ḿnh: Đối với những cảnh ngộ gặp gỡ trong thế gian, hăy nên giống như họ, có thể dấy lên giác tánh, nghiêm túc nỗ lực tu học. Tất cả các nghịch duyên đều là Tăng Thượng Duyên tốt nhất. Người đang gặp khổ nạn, nói thật ra, tâm cầu đạo càng ân cần, tha thiết hơn. Hết thảy đều là thuận cảnh, dẫu gặp gỡ Phật pháp cũng rất khó tu tŕ, thiện căn sâu dầy, sanh khởi tâm hoan hỷ mà thôi, chứ nghiêm túc tu học hết sức khó khăn. V́ thế, nói thật ra, nghịch cảnh trọn chẳng phải là chuyện xấu. Trong kinh, đức Phật thường dạy chúng ta: “Lấy khổ làm thầy”. Xác thực là dễ thành tựu trong khổ nạn.

      Quốc vương tuy bị giam cầm, giam cầm đă hai mươi mốt ngày, thời gian rất dài. Nhà vua được ăn uống, lại gặp ngài Mục Kiền Liên và Phú Lâu Na thuyết pháp, vua đạt được pháp hỷ, cho nên “nhan sắc ḥa duyệt”, do đạt được pháp hỷ đó mà! Lại xem đoạn kinh văn tiếp theo:

 

      Thời A Xà Thế vấn thủ môn giả.

      者。

      (Khi ấy, A Xà Thế hỏi người canh cửa).

 

      Đă qua hai mươi mốt ngày, ông ta đến tra hỏi đôi chút, nói:

 

      Phụ vương kim giả do tồn tại da?

      耶。

(Nay phụ vương vẫn c̣n sống ư?)

 

      Ông ta hỏi cha ḿnh có c̣n sống hay chăng? Hỏi kẻ giữ cửa, có c̣n sống hay chăng? Đă chết hay chưa?

 

      Thời thủ môn nhân bạch ngôn. Đại vương.

      言。大 王。

      (Khi ấy, kẻ giữ cửa tâu rằng: “Tâu đại vương”).

 

      Chữ “đại vương” dành để gọi A Xà Thế, v́ A Xà Thế là vua trong hiện thời.

 

Quốc thái phu nhân, thân đồ sao mật, anh lạc thịnh tương, tŕ dụng thượng vương. Sa-môn Mục Liên cập Phú Lâu Na, tùng không nhi lai, vị vương thuyết pháp, bất khả cấm chế.

人。身 蜜。瓔 漿。持 王。沙 連。及 。從 。為 。不 制。

(Quốc thái phu nhân, thân bôi bột rang và mật, chuỗi đeo đựng nước trái cây ép, đem dâng lên vua. Sa-môn Mục Liên và Phú Lâu Na từ trên hư không hiện tới, thuyết pháp cho nhà vua, chẳng thể ngăn cấm).

 

      Người giữ cửa biết t́nh h́nh sự thật, cũng chẳng giấu giếm. Anh ta nói hoàng thái hậu mỗi ngày đem đồ ăn, thức uống cho vua, tâu tŕnh t́nh h́nh này. Khi ấy, quốc vương cấm những kẻ khác không được gặp vua cha, chẳng nói cấm vương hậu không thể ra vào, chẳng nói tới lời ấy. Do đó, vương hậu vào ra rất tự do, chẳng có ai ngăn trở bà ta. Mục Liên và Phú Lâu Na do thần thông, từ không trung bay đến, bay đi, anh ta cũng chẳng biết làm sao, ngăn chặn không được! Chẳng có cách nào! Những chuyện ấy không có cách nào cấm chỉ, quyền lực của họ đều chẳng làm ǵ được. Chỉ đành thật thà tâu chuyện này lên A Xà Thế: Cha Ngài nay chưa chết, vẫn c̣n sống!

 

Thời A Xà Thế văn thử ngữ dĩ, nộ kỳ mẫu viết: “Ngă mẫu thị tặc, dữ tặc vi bạn. Sa-môn ác nhân, huyễn hoặc chú thuật, linh thử ác vương, đa nhật bất tử”. Tức chấp lợi kiếm, dục hại kỳ mẫu.

已。怒 曰。我 賊。與 伴。沙 人。幻 術。令 王。多 死。即 劍。欲 母。

(Khi ấy, A Xà Thế nghe lời ấy, giận mẹ nói: “Mẹ ta là giặc, kết bè đảng với giặc. Sa-môn là kẻ ác, chú thuật huyễn hoặc, khiến cho ác vương đă nhiều ngày chẳng chết”. Liền cầm gươm bén, toan hại mẹ ḿnh).

 

      Người Hoa gọi chuyện này là “thấy lợi tối mắt”, v́ thỏa tư lợi của chính ḿnh, hoàn toàn chôn vùi lư trí. Không chỉ muốn hại cha, mà nay c̣n muốn sát hại mẹ. Đúng là ác nghịch đến cùng cực. Chúng ta xem phần kinh văn kế tiếp, trang một trăm mười một, xem phần kinh văn được in cao hơn một chữ.

 

      Thời hữu nhất thần, danh viết Nguyệt Quang.

      臣。名 光。

(Khi ấy, có một người bầy tôi tên là Nguyệt Quang (Candraprabhā)).

 

      Vua có một đại thần.

 

      Thông minh đa trí, cập dữ Kỳ Bà.

      智。及 婆。

      (Thông minh, lắm trí huệ, cùng với Kỳ Bà).

 

      Kỳ Bà (Jīvaka) cũng là một đại thần[8]. Trong đám bầy tôi có hai người này. Hai người này hết sức hiền năng, là hiền nhân trong nước, được mọi người trong nước hết sức ngưỡng vọng.

 

       Vị vương tác lễ, bạch ngôn: “Đại vương! Thần văn Tỳ Đà Luận Kinh thuyết”.

      禮。白 言。大 王。臣 說。

      (Hướng về vua làm lễ, tâu rằng: “Tâu đại vương! Thần nghe kinh luận Tỳ Đà có nói).

 

Đây không phải là kinh Phật, [Tỳ Đà (Vedas)] là kinh điển Bà La Môn.

 

      Kiếp sơ dĩ lai, hữu chư ác vương, tham quốc vị cố, sát hại kỳ phụ nhất vạn bát thiên.

來。有 王。貪 故。殺 千。

(Từ kiếp ban sơ đến nay, có các vua ác v́ tham ngôi vua, giết hại cha ḿnh có đến một vạn tám ngàn kẻ).

 

      Ư nói con đoạt quyền vị của cha từ xưa tới nay đều có, có nghe nói chuyện này.

 

      Vị tằng văn hữu vô đạo hại mẫu.

      母。

(Chưa từng nghe nói có kẻ nào vô đạo hại mẹ).

 

      C̣n như giết hại mẹ, vẫn chưa hề nghe nói đến.

 

      Vương kim vi thử sát nghịch chi sự, ô Sát Lợi chủng.

        事。污 種。

(Nay bệ hạ làm chuyện giết chóc ngỗ nghịch này, khiến ḍng Sát Đế Lợi bị ô uế).

 

      Ở đây chẳng phải là chữ Hăn (), đây lại là một chữ bị in sai, đúng ra phải là chữ Ô (). Ô nhiễm Sát Đế Lợi, Sát Đế Lợi (Kṣatriya) là vương tộc. Chuyện này khiến cho vương tộc bị ô danh, vương tộc nhục nhă.

 

      Thần bất nhẫn văn , thị Chiên Đà La.    

      聞。是 羅。

      (Thần chẳng nỡ nghe. Đó là [hành vi của] Chiên Đà La).

 

       Chiên Đà La (Caṇḍāla) thp nht trong bốn chủng tánh (Varṇa) của Ấn Độ, làm nghề mổ heo, giết trâu, là nghề nghiệp bất hảo nhất.

 

      Ngô đẳng bất nghi phục trụ ư thử.

      此。

(Bọn thần không nên ở chỗ này nữa).

 

      Hôm nay quốc vương làm chuyện này, chúng tôi thật sự chẳng nỡ ḷng. Chuyện này ác nghịch đến tột cùng, chúng tôi chẳng thể lưu lại nơi này nữa, cũng chẳng thể pḥ tá nhà vua, phải rời đi.

 

      Thời nhị đại thần thuyết thử ngữ cánh, dĩ thủ án kiếm, khước hành nhi thoái.

臣。說 竟。以 劍。却 退。

(Khi ấy, hai vị đại thần nói lời ấy xong, dùng tay đè kiếm, lui chân rời đi).

 

      Hai người ấy chuẩn bị rời bỏ nhà vua, muốn bỏ trốn đến quốc gia khác. A Xà Thế kể ra cũng c̣n khá lắm…

 

      Thời A Xà Thế kinh bố hoảng cụ, cáo Kỳ Bà ngôn: “Nhữ bất vị ngă da?”

      懼。告 言。汝 耶。

      (Khi đó, A Xà Thế kinh hăi, hoảng sợ, bảo Kỳ Bà rằng: “Ông chẳng v́ ta ư?”)

 

      Các ông chẳng thể phụ trợ, giúp đỡ ta ư?

 

      Kỳ Bà bạch ngôn: - Đại vương! Thận mạc hại mẫu.

      言。大 王。慎 母。

      (Kỳ Bà tâu rằng: “Tâu đại vương! Hăy thận trọng, đừng hại mẹ”).

 

      Ông ta nói: Bệ hạ hăy suy nghĩ, xét tưởng cho nhiều, quyết định chớ nên hại mẹ.

 

      Vương văn thử ngữ, sám hối cầu cứu, tức tiện xả kiếm, chỉ bất hại mẫu.

      語。懺 救。即 便 劍。止 母。

(Vua nghe lời ấy, ăn năn, hối lỗi, liền buông bỏ gươm, thôi không hại mẹ).

 

      Có thể nói là hai người này hết sức thông minh. Khi A Xà Thế đảo chánh, bắt giam cha, sao họ chẳng đến khuyến cáo? Theo như chúng tôi nghĩ, nhất định là có nguyên nhân. A Xà Thế hết sức thông minh, cũng hết sức có năng lực, lại c̣n đă đạt đến giai đoạn chín chắn. Vua già tuổi đă quá cao, chắc là giải quyết chánh sự cũng có những lúc hồ đồ. V́ thế, tuy A Xà Thế bắt giam lăo vương để kế thừa ngôi vua, chắc là cũng chẳng đến nỗi có hại cho dân chúng, mà c̣n có lợi, chẳng có hại. V́ thế, họ chẳng ra mặt khuyên can, ngăn trở, vẫn giúp nhà vua cai trị đất nước. Nay vua muốn hại mẹ, đây là chuyện đại nghịch bất đạo, ắt cần phải ra mặt khuyên can, ngăn cản. Khuyên can, ngăn cản mà vua chẳng nghe, nhất định sẽ bỏ nước này, trốn sang nước khác. Chuyện này ở Ấn Độ có, mà ở Trung Hoa vào thời cổ cũng có. Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, quốc vương vô đạo, hiền nhân trốn đi là chuyện thường thấy, trong lịch sử Trung Hoa cũng thường thấy. Hai vị hiền thần trong lúc ấy đến khuyên nhủ vua, kể ra quốc vương cũng khá lắm, tiếp nhận lời khuyến cáo, chẳng sát hại mẹ.

      Chúng ta xem đoạn kinh văn tiếp theo, ḍng thứ hai từ dưới đếm lên trong trang một trăm mười bốn.

 

      Sắc ngữ nội quan, bế trí thâm cung, bất linh phục xuất.

      官。閉 宮。不 出。

      (Sắc truyền nội quan nhốt chặt mẹ trong cung cấm, chẳng cho ra ngoài nữa).

 

      “Sắc” () là sắc lệnh, người Hoa gọi là “thánh chỉ” (聖旨), tức là mệnh lệnh do hoàng đế ban ra. Tuy chẳng giết mẹ, nhưng cũng giam cầm mẹ, chẳng cho bà được tự do hành động. Giam chặt bà trong thâm cung, khiến bà chẳng thể lui tới chỗ quốc vương. Lần này, không chỉ mẹ nhà vua mắc nạn, mà cha nhà vua c̣n bị nạn nặng hơn, đồ ăn thức uống bị đoạn tuyệt, mẹ chẳng được tự do hành động.

 

      Thời Vi Đề Hy bị u bế dĩ, sầu ưu tiều tụy.

     已。愁 悴。

      (Lúc đó, bà Vi Đề Hy bị nhốt kín, sầu lo, tiều tụy).

 

      Nói thật ra, bà ta ưu lự không phải v́ chính ḿnh, mà v́ quốc vương. Quốc vương không có ai lo ăn uống, sẽ nguy lắm! Đúng là mạng trong sớm tối, nên hết sức lo sầu.

 

      Dao hướng Kỳ Xà Quật sơn, vị Phật tác lễ.

      山。為 禮。

      (Bèn hướng vọng về núi Kỳ Xà Quật, kính lễ đức Phật).

 

      Ở trong thâm cung chẳng thể ra ngoài, bèn hướng về đạo tràng giảng kinh, thuyết pháp của đức Phật, hướng về phương hướng ấy mà lễ bái.

 

      Nhi tác thị ngôn: “Như Lai Thế Tôn, tại tích chi thời, hằng khiển A Nan lai ủy vấn ngă”.

言。 尊。在 時。恆 我。

(Mà nói như thế này: “Bạch đức Như Lai Thế Tôn, xưa kia, Ngài luôn sai A Nan đến an ủi, thăm hỏi con”).

 

      Quốc vương và vương hậu khi ấy đều là hộ pháp của đức Thế Tôn, mà cũng là đệ tử tại gia của đức Thế Tôn, nên đức Phật thường sai A Nan đến giảng kinh, thuyết pháp cho họ.

 

      Ngă kim sầu ưu, Thế Tôn oai trọng, vô do đắc kiến, nguyện khiển Mục Liên tôn giả A Nan, dữ ngă tương kiến.

憂。世 重。無 見。願 難。與 見。

(Con nay sầu lo, Thế Tôn oai đức cao trọng, không cách nào được gặp, xin hăy sai tôn giả Mục Liên và A Nan đến gặp mặt con).

 

      Đức Phật là thầy, chẳng dám làm phiền lăo nhân gia, mong mỏi đức Phật có thể sai tôn giả Mục Kiền Liên và A Nan đến gặp mặt bà ta.

 

      Tác thị ngữ dĩ, bi khấp vũ lệ, dao hướng Phật lễ.

      已。悲 淚。遙 禮。

      (Thưa lời ấy xong, buồn khóc, tuôn nước mắt như mưa, hướng vọng về phía Phật lễ bái).

 

      Chúc nguyện như vậy xong, lại lễ bái. Chúng ta lại xem phần kinh văn kế tiếp nơi trang một trăm mười bảy.

 

      Vị cử đầu khoảnh.

      頃。

      (Trong khoảng chưa ngẩng đầu lên).

 

      Bà ta lạy xuống, c̣n chưa ngẩng đầu lên, ư nói thời gian rất nhanh chóng.

 

      Nhĩ thời Thế Tôn tại Kỳ Xà Quật sơn, tri Vi Đề Hy tâm chi sở niệm.

      山。知 念。

      (Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở núi Kỳ Xà Quật, biết tâm niệm của Vi Đề Hy).

     

      Đức Thế Tôn tâm địa thanh tịnh có thể thấy thấu suốt khắp pháp giới, hết thảy chúng sanh khởi tâm động niệm, chẳng có ǵ đức Phật không biết. Như trong đại kinh đă nói: Hàng Bồ Tát trong thế giới Tây Phương, ngay cả hạ hạ phẩm văng sanh đều có năng lực này, chúng sanh trong mười phương thế giới khởi tâm động niệm không ǵ chẳng biết. Do đó, chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Vừa động niệm, đức Phật biết ngay.

 

      Tức sắc Đại Mục Kiền Liên cập dĩ A Nan, tùng không nhi lai.

難。從 來。

      (Liền truyền Đại Mục Kiền Liên và A Nan, từ hư không mà đến).

 

      Ứng với điều bà ta mong cầu. Bà ta cầu được gặp mặt Mục Kiền Liên và A Nan, đức Phật liền sai hai vị ấy đến. Không chỉ là đức Phật sai hai vị ấy đến, mà Ngài cũng tự đến.

 

      Phật tùng Kỳ Xà Quật sơn một, ư vương cung xuất.

      沒。於 出。

(Đức Phật biến mất tại núi Kỳ Xà Quật, xuất hiện tại vương cung).

 

      Đức Phật cũng đến, dẫn theo hai người ấy.

 

      Thời Vi Đề Hy lễ dĩ, cử đầu, kiến Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, thân tử kim sắc tọa bách bảo liên hoa, Mục Liên thị tả, A Nan thị hữu, Thích, Phạm hộ thế chư thiên, tại hư không trung.

已。舉 頭。見 佛。身 華。目 左。阿 右。釋 天。在 中。   

(Khi ấy, Vi Đề Hy lễ xong, ngẩng đầu lên, thấy đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, thân màu vàng tía, ngồi trên hoa sen bằng trăm thứ báu, Mục Liên hầu bên trái, A Nan hầu bên phải. Thích Phạm hộ thế chư thiên đều ở trên hư không).

 

      “Thích Phạm hộ thế chư thiên” chỉ hết thảy các vị thần hộ pháp. Thần hộ pháp ở trên hư không.

 

      Phổ vũ thiên hoa, tŕ dụng cúng dường.

      華。持 養。

(Mưa khắp các hoa trời, dùng đó để cúng dường).

 

      Thần hộ pháp ở trên hư không rải hoa cúng dường. Đây là nói phu nhân vừa dấy một niệm, Phật, Bồ Tát bèn xuất hiện tại vương cung. Đức Phật đến v́ biết nhân duyên đă chín muồi. Quốc vương cầu Phật, đức Phật chỉ phái đệ tử đến truyền giới và thuyết pháp cho vua, đức Phật chẳng tự đến. Phu nhân vừa động niệm, đức Phật đích thân đến. Điều này cho thấy vua và phu nhân, nguyện vọng mỗi người khác nhau, sở cầu chẳng giống nhau. Một đằng chỉ cầu truyền giới, đức Phật sai đệ tử đến là được rồi. Một đằng mong cầu ĺa khổ được vui, trừ đức Phật tự đến [dạy bảo] ra, [sai người nào khác đến giảng giải] đều chẳng thể. V́ thế, do tâm niệm, nguyện cầu của họ khác nhau, mà cảm ứng cũng chẳng giống nhau.

      Trong lời chú giải phía sau đoạn này, Đế Nhàn đại sư nêu ư kiến về cách chúng ta thờ tượng Phật trong hiện thời, do đoạn kinh văn này mà Ngài có ư kiến ấy. Chúng tôi đọc đoạn này một lượt, để các đồng tu thấy đoạn này trong tâm chẳng khởi hoài nghi. Nơi hàng thứ ba trang một trăm mười chín, xem từ câu thứ hai. “Ngă quốc các xứ đại điện”, [ư nói] trong Đại Hùng Bảo Điện của các tự viện nhà Phật [tại Trung Hoa]. “Cúng nhất Phật nhị thị giả tượng, tương truyền đô đạo Ca Diếp, A Nan” (thờ tượng một vị Phật và hai vị thị giả, tương truyền đều nói [hai vị thị giả] chính là Ca Diếp và A Nan), thông thường truyền tụng, hai tượng ấy, một bên là tôn giả Ca Diếp, bên kia là tôn giả A Nan. Quả thật rất nhiều nơi thờ tượng theo cách thức ấy, một bên là tượng một vị trẻ tuổi, tượng bên kia tuổi tác rất cao, thờ hai vị ấy. “Ngă tắc tố ngôn bất dĩ vi nhiên” (tôi trọn chẳng cho như vậy là đúng), “tôi” là pháp sư Đế Nhàn tự xưng, “tuy bất kiến hữu nhân công nhiên phủ nhận, đản tâm trung do vị thành khẳng nhĩ” (tuy chẳng thấy có ai công khai phủ nhận, nhưng trong tâm vẫn chưa thật sự khẳng định như thế), có những người thấy cách thờ như vậy không nghĩ là đúng, nhưng cũng không tiện nói. “Phù cổ nhân kiến điện, cúng tượng, tất hữu sở bổn” (phàm cổ nhân dựng điện, thờ tượng, ắt có căn cứ), phải có căn cứ v́ sao thờ phụng theo cách thức ấy! “Thí vấn Ca Diếp, A Nan, xuất ư hà điển” (thử hỏi [thờ hai vị thị giả] là Ca Diếp và A Nan xuất phát từ kinh điển nào), chẳng t́m thấy căn cứ trong kinh điển. “Ngă viết phi giả, năi bổn ư kim kinh dă” (tôi nói chẳng phải vậy, do căn cứ theo kinh này). Pháp sư Đế Nhàn nói thờ tượng như vậy có thể là không đúng. [Nói là] không đúng v́ căn cứ theo kinh này, căn cứ trên đoạn kinh văn này. “Kinh trung phân minh thuyết Phật thân tử kim sắc, tọa bách bảo liên hoa, Mục Liên thị tả, A Nan thị hữu, tả diện tương truyền ngôn Ca Diếp giả, dĩ manh tùng manh dă” (Trong kinh nói rơ ràng thân Phật màu vàng tía, ngồi trên hoa sen trăm báu, Mục Liên hầu bên trái, A Nan hầu bên phải. Lời truyền tụng vị đứng bên trái là Ca Diếp như trên đây chính là [lời tương truyền] do gă đui dạy kẻ mù vậy). Trong cách nh́n của lăo ḥa thượng, Ngài nói người bên trái chẳng phải là tôn giả Ca Diếp, phải nên là ngài Mục Liên, do căn cứ theo những điều được nói trong kinh này.

      Cách nh́n này của lăo ḥa thượng cố nhiên là có lư, nhưng chúng tôi cảm thấy người ta thờ một bên là Ca Diếp, thờ bên kia là A Nan, theo như chúng tôi nghĩ, cũng chẳng có ǵ là thờ sai! Tuy trong kinh điển không có, nhưng những chuyện trong kinh điển không có rất nhiều! Chỉ cần nói theo phương diện ư nghĩa biểu pháp mà thông suốt th́ cũng chẳng phải là không được. Ngài Ca Diếp truyền Tông Môn, tức Thiền Tông, ngài A Nan truyền Giáo Hạ. Dùng hai Ngài để biểu thị Tông Môn và Giáo Hạ th́ cũng xuôi tai, cũng trọn chẳng phải là hoàn toàn không có lư do! Đây là cách thờ tượng thông thường, cụ Đế Nhàn nói có lư, nhưng thờ A Nan và Ca Diếp cũng có lư, đều chẳng thể coi là sai, chúng ta chớ nên chấp trước, chớ nên thiên chấp là được rồi. Trong pháp môn Đại Thừa, lúc thờ th́ thường không thờ A Nan và Ca Diếp, mà là thờ Thích Ca Mâu Ni Phật chính giữa, thông thường là thờ Văn Thù và Phổ Hiền, thờ hai vị đại Bồ Tát ấy, giống như thờ Tây Phương Tam Thánh là thờ A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, thờ theo cách như vậy.

      Lại xem đoạn kinh văn tiếp theo. Khoa đề của phần kinh văn này ở trong ḍng thứ hai đếm từ dưới lên trong trang một trăm mười chín. Trong khoa đề, có một chữ có vấn đề! Đây là đoạn thứ ba: “Thương thán thỉnh pháp nhị, sơ vấn văng sanh nhân” (Cảm thương than thở, gồm có hai phần. Phần thứ nhất là hỏi về cái nhân văng sanh). Chữ “văng sanh” này có vấn đề, [v́ bà Vi Đề Hy] hỏi về cái nhân trong “túc sanh”, túc thế, tức là hỏi về nhân duyên trong đời quá khứ. Kinh văn phải là “vấn túc sanh”, chẳng phải là hỏi về văng sanh. Do đó, chữ Văng là sai!

 

      Thời Vi Đề Hy kiến Phật Thế Tôn.

      尊。

      (Khi đó, bà Vi Đề Hy trông thấy đức Phật Thế Tôn).

 

      Chẳng ngờ đức Phật đích thân đến.

 

      Tự tuyệt anh lạc, cử thân đầu địa hào khấp hướng Phật.

      珞。舉 佛。

      (Tự giật đứt chuỗi anh lạc, gieo ḿnh xuống đất, gào khóc hướng về Phật).

 

      Đức Phật hiện đến, cảm động sâu xa nhất, giật bỏ những thứ chuỗi ngọc đeo trên thân, hướng về Phật đảnh lễ, đau đớn khóc ṛng.

 

      Bạch ngôn: “Thế Tôn! Ngă túc hà tội, sanh thử ác tử?”

      言。世 尊。我 宿 罪,生 子。

(Bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Con xưa có tội ǵ mà sanh ra đứa con tàn ác này?”)

 

      Trong đời quá khứ, tôi đă tạo tội nghịch đến nỗi nào mà sanh ra đứa con bất hiếu giết cha, hại mẹ. Đây là hỏi về nhân duyên trong quá khứ.

 

      Thế Tôn phục hữu hà đẳng nhân duyên, dữ Đề Bà Đạt Đa, cộng vi quyến thuộc?

      緣。與 多。共 屬。

(Đức Thế Tôn lại do có nhân duyên như thế nào mà cùng với Đề Bà Đạt Đa là quyến thuộc[9]).

 

      Nói đức Phật Thế Tôn trong quá khứ có nhân duyên ǵ mà cớ sao Đề Bà Đạt Đa và Ngài là anh em, tức anh em họ. Đó là nhân duyên ǵ? Con tôi và tôi là nhân duyên ǵ? Hai kẻ ấy cấu kết muốn hại Phật, muốn hại cha mẹ, làm chuyện đại nghịch bất đạo này!

      Tiếp đó là hỏi đến nơi sẽ văng sanh, trong đoạn kinh văn tiếp theo, tức là ḍng thứ tư trong trang một trăm hai mươi mốt:

 

      Duy nguyện Thế Tôn, vị ngă quảng thuyết vô ưu năo xứ, ngă đương văng sanh, bất nhạo Diêm Phù Đề trược ác thế dă.

尊。為 處。我 生。不 也。

(Kính xin đức Thế Tôn, hăy v́ con nói rộng răi về chỗ chẳng có ưu năo, con sẽ sanh về đó, chẳng thích cơi đời trược ác trong chốn Diêm Phù Đề).

 

      Ở đây bà ta mới nêu ra ư niệm ấy. Trước đó, bà trọn chẳng nói ra, chẳng nêu ra ư niệm ấy, chẳng nói ra ư nghĩ này, nhưng đức Phật đă biết. Chẳng cần chờ quư vị nói ra, đức Phật đă đến, muốn giúp quư vị giải quyết vấn đề ấy. Nay đức Phật đă đến, bà ta nói ra. Chuyện này ngoại trừ đức Phật đích thân đến th́ không thể, v́ sao? Đây là đại sự nhân duyên, kinh Pháp Hoa nói “một đại sự nhân duyên”, liễu sanh tử, thoát tam giới, thành Phật trong một đời, chẳng có chuyện ǵ lớn hơn chuyện này! Vua Tần Bà Sa La chẳng có ư niệm này, chẳng mong liễu sanh tử, thoát tam giới, thành Phật, làm Tổ, vua chẳng có nguyện vọng ấy. Nguyện vọng của nhà vua là chỉ cầu được truyền giới, chỉ cầu nghe pháp ḥng giải trừ khổ nạn trong hiện tiền. Phu nhân có nguyện vọng vĩnh viễn thoát khỏi khổ nạn, giải quyết một chuyện th́ trăm chuyện được giải quyết, hai người có nguyện vọng khác nhau. V́ thế, đối với quốc vương, đức Phật chỉ sai đệ tử đi là được rồi, đă có thể thỏa măn nguyện vọng của ông ta. Đối với phu nhân, không thể nào chẳng tự đi th́ nguyện vọng ấy mới có thể viên măn; do đó, đức Thế Tôn đích thân đến hoàng cung. Bà ta nói rơ “chẳng muốn trụ trong thế gian này nữa”. Tiếp đó, kinh văn chép:

 

      Thử trược ác xứ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh doanh măn, đa bất thiện tụ. Nguyện ngă vị lai bất văn ác thanh, bất kiến ác nhân.

處。地 滿。多 聚。願 聲。不 人。

(Chốn trược ác này, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đầy dẫy, nhiều nỗi bất thiện tụ tập. Nguyện trong tương lai, con chẳng nghe tiếng ác, chẳng thấy kẻ ác).

 

      Mấy câu này nêu rơ phu nhân do gặp nạn này bèn triệt để giác ngộ, thật sự giác ngộ. Thế giới này xác thực là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đầy ắp! Quư vị nói chúng ta chưa thấy ư? Chưa thấy là chưa thấy quả, chứ cái nhân đă thấy rồi! Tham dục là nhân của ngạ quỷ, sân khuể là nhân của địa ngục, ngu si là nhân của súc sanh. Chúng ta thấy thế gian này ngập tràn tham, sân, si; những điều tạo tác cũng là tham, sân, si, quả báo trong tương lai là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, lẽ đâu chẳng tràn ngập? Điều này thật sự quá đáng sợ! “Đa bất thiện tụ” là nói tới hoàn cảnh nhân sự, thế gian này quá ít thiện nhân, người thật sự giác ngộ, thật sự hiểu rơ quá ít. Không chỉ là người thế gian là như vậy, mà người học Phật cũng chẳng phải là ngoại lệ. Có thấy rơ ràng hoàn cảnh th́ mới biết văng sanh là khẩn yếu. Rời khỏi thế giới này sớm hơn một ngày, tức là được phước sớm hơn một ngày, được an lạc sớm hơn một ngày. Thế gian này có ǵ đáng để lưu luyến? Bồ Tát trụ trong thế gian này thêm một ngày, nhằm mục đích độ thêm một người hữu duyên, tuyệt đối chẳng phải là lưu luyến thế gian này. Hết thảy việc làm, hết thảy hành động đều nhằm giúp đỡ chúng sanh hữu duyên sớm sanh về Cực Lạc. Trừ chuyện này ra, chư vị ngẫm xem, c̣n có lư do ǵ để ở thêm một ngày trong thế gian này? Hy vọng trụ trên thế gian thêm một ngày, chính là mê hoặc điên đảo, là ngu si. Người có trí huệ, thật sự giác ngộ, chắc chắn không hy vọng ở trên thế gian này thêm một ngày nào! Ở đây, chúng ta thấy phu nhân Vi Đề Hy đă giác ngộ, đă hiểu rơ, trụ trong thế gian này chẳng thể được! Chúng ta thấy bà ta giác ngộ, lại nghĩ tới chính ḿnh, bà ta thật sự biết thế gian này khổ sở, nay chúng ta gặp nạn vẫn chưa đủ, nên vẫn chưa giác ngộ.

      Có thể nói là hiện thời, người thế gian trên cả thế giới đang bị hăm trong hoàn cảnh hết sức bất thường. B́nh thường là ǵ? Theo sự giáo hóa của Nho gia, [“b́nh thường” chính là] Ngũ Luân, Ngũ Thường, luân thường xă hội b́nh thường, đúng mực. Vứt bỏ luân thường chính là bất b́nh thường. Toàn thể thế giới đều bất b́nh thường, khổ nạn càng hăm sâu hơn! Do đó, thế gian này c̣n có tai nạn rất lớn, ở ngay trước mắt, ngày càng gần hơn. Theo tiên đoán của Cơ Đốc giáo phương Tây, tận thế xảy ra vào ngày nào? Năm 1999. Họ nói tận thế vào năm 1999, năm nay là 1990. Nếu ngay cả đầu đuôi đều chẳng tính th́ [theo cách nói ấy] c̣n có chín năm nữa sẽ tận thế, Gia Tô (Jesus) sẽ giáng phàm tra xét người đời. Đó là tiên đoán của Cơ Đốc giáo: Chín năm nữa, thế giới này sẽ chẳng c̣n[10]. Trước đây, người ngoại quốc tin theo Cơ Đốc giáo, nay họ chẳng tin tưởng. Hiện thời, tại ngoại quốc người tin theo Cơ Đốc giáo ngày càng ít. Tuy vẫn c̣n rất nhiều người đến nhà thờ lễ bái, nhưng họ chẳng tin tưởng, nghi vấn rất nhiều. Tôi gặp rất nhiều tín đồ Cơ Đốc ngoại quốc đến nói với tôi: Mỗi Chủ Nhật họ vẫn đi nhà thờ, nhưng có rất nhiều vấn đề hoài nghi đối với những ǵ Kinh Thánh đă nói. Trong dự ngôn cổ xưa của Trung Hoa, thế giới này sẽ khôi phục trật tự b́nh thường. Nếu tính theo Công Nguyên, đại khái là từ năm 2020 cho đến 2030, thế giới này mới khôi phục trật tự b́nh thường. Tiên đoán của phương Đông và phương Tây trọn chẳng cùng nhau nghiên cứu, thương lượng, mà nghiễm nhiên tiên đoán rất giống nhau như vậy, sai lệch khoảng chừng ba mươi năm, gần gũi như vậy đó!

      Chúng ta lại xem hoàn cảnh hiện tiền, nh́n từ chỗ nào? Nh́n từ ḷng người, nh́n từ các tạo tác của hết thảy mọi người, thế giới đúng là sẽ có tai nạn. Đại khái là tai nạn ấy hết sức nghiêm trọng; sau tai nạn ấy, con người sẽ rất lắng ḷng suy nghĩ cặn kẽ, biết phải thực hiện như thế nào! Nếu chẳng thể khôi phục luân thường, đạo đức, chẳng thể tuân thủ những lời răn dạy của Phật, Bồ Tát, hết thảy chúng sanh quyết định chẳng thể tránh khỏi tai nạn đau khổ. Khi nào mọi người mới có thể tin tưởng, tiếp nhận? Ắt phải là khi c̣n phải hứng chịu đại khổ nạn, họ mới có thể tin tưởng, tiếp nhận. Giống như phu nhân Vi Đề Hy gặp đại kiếp nạn như thế th́ mới thật sự tỉnh ngộ. Bà ta mong cầu một cơi, nhưng cũng chưa biết đến thế giới Cực Lạc, chỉ cầu một nơi chẳng có khổ nạn. Không chỉ là những chuyện khổ nạn tôi không trông thấy, mà ngay cả nghe nói, cũng khiến cho tôi chẳng phải nghe, hy vọng có một nơi như vậy để tôi có thể đến đó. Nêu bày nguyện vọng của chính ḿnh, tiếp theo đó là thỉnh cầu. Phần kinh văn trong trang một trăm hai mươi hai là chính thức hướng về đức Thế Tôn nêu bày yêu cầu. Tiểu đoạn thứ ba là “thỉnh văng sanh nhân” (thỉnh cầu đức Phật dạy bảo cái nhân để văng sanh). Chúng ta xem hàng kinh văn được in cao lên một chữ [so với các ḍng xung quanh].

 

      Kim hướng Thế Tôn ngũ thể đầu địa, cầu ai sám hối.

      地。求 悔。

(Nay hướng về đức Thế Tôn, năm vóc gieo xuống đất, xót xa cầu xin sám hối).

 

      Sám hối, đại khái là do trong đời quá khứ tạo tội nghiệp quá nặng, sanh ra một đứa con bất hiếu như thế, sám hối chuyện này.

 

      Phật nguyện duy viết, giáo ngă quán ư thanh tịnh nghiệp xứ.

      曰。教 處。

      (Kính xin Phật hứa khả, dạy con quán chỗ có nghiệp thanh tịnh).

 

      Đoạn kinh văn này là cầu [chỉ dạy] cái nhân văng sanh. Tuy phu nhân khải thỉnh, nhưng đức Phật dùng phương pháp thiện xảo cùng cực, đức Phật trọn chẳng bảo bà ta: Ở phương Tây của thế giới Sa Bà, có thế giới Cực Lạc, có A Di Đà Phật, nơi ấy tốt đẹp như thế nào, bà có thể văng sanh nơi đó. Đức Phật chẳng nói như thế, mà dùng phương pháp thị hiện trọn hết Tịnh Độ của chư Phật trong mười phương trước mặt bà ta, để chính bà tự chọn lựa. Nói như hiện thời, cách làm này dân chủ, cởi mở, chính quư vị chọn lựa. Quư vị chọn lựa kỹ càng rồi, ta sẽ dạy quư vị cách tu như thế nào, cách đến đó như thế nào, đó mới là thật sự thỏa măn nguyện vọng của bà ta. Nói thật ra, phu nhân chọn lựa là chọn lựa thay cho chúng ta, không phải là đức Phật chủ động giới thiệu cho chúng ta, để cho chúng ta được tự do tự tại chọn lựa. Phương pháp này thiện xảo, khiến cho chúng ta cầu sanh Tây Phương, quả thật là tâm phục, khẩu phục, xuất phát từ nguyện vọng của chính ḿnh. Chúng ta hăy nên ghi nhớ phương thức giáo học này, v́ sao? Chúng ta thường khuyên người khác niệm Phật, khuyên người khác cầu sanh Tịnh Độ, v́ sao người ta chẳng bằng ḷng, không thể tiếp nhận? Thấy người ấy không thể tiếp nhận, bèn chẳng khuyên kẻ ấy. Hăy nói với kẻ ấy những điều hay trong Phật pháp, bảo người đó làm lành có thiện báo, để kẻ ấy tiếp xúc nhiều, hiểu rơ hơn, sẽ dần dần khiến cho người ấy tự ḿnh phát hiện chỗ thù thắng của pháp môn Tịnh Độ. Do t́m được bèn cam tâm t́nh nguyện tu tập, ta đă đạt được mục đích.

      Trở về Tịnh Độ là điều chắc chắn có thể xảy ra, v́ sao? Tịnh Độ thuộc loại tự tánh Tịnh Độ, tự tánh Di Đà, đều chẳng tách rời tự tánh, chẳng ĺa khỏi tự tâm, há có lẽ nào chẳng thể giác ngộ? Bất quá là nhất thời mê hoặc mà thôi. Do mê hoặc nhất thời, nên mới chẳng cầu sanh về Tịnh Độ. Nói thật ra, chẳng nghĩ tới [cầu sanh Tịnh Độ] th́ trong ấy cũng có nhân tố. Nhân tố ấy chính là sự sai lầm trong quan niệm. Có những người nghĩ: “Ta tu hành, trong tương lai sẽ vượt Phật trỗi Tổ, cần ǵ phải văng sanh?” Giống như A Di Đà Phật đă phát nguyện trước Thế Gian Tự Tại Vương Phật: “Trong tương lai, con thành Phật sẽ vượt trỗi chư Phật”. Đă vượt trỗi chư Phật th́ cần ǵ phải cầu sanh Tịnh Độ? Nhưng vấn đề là người ấy có thể vượt trỗi được hay không? Đây là một vấn đề. Có những người phát nguyện, tâm từ bi rất nặng: “Người khổ nạn trong thế gian này rất nhiều, ta đời đời kiếp kiếp làm pháp sư trong cơi này để giáo hóa chúng sanh là được rồi. Dẫu Tịnh Độ tốt đẹp, ta nay vẫn chưa muốn đi”. V́ vậy, có khá nhiều quan niệm sai lầm. C̣n có người nghĩ: “Tịnh Độ rất tốt, nhưng nay ta vẫn chưa muốn tới đó. Trong tương lai, đến lúc lâm chung, lại cầu sanh th́ vẫn c̣n kịp”. Nào có biết là đến khi lâm chung, không chừng cũng có khi bỏ lỡ nhân duyên. Quá nhiều nhân tố khiến cho văng sanh Tịnh Độ bị chướng ngại. Chúng ta cần phải biết những chuyện này! Phải trừ khử những chướng ngại ấy ngay trong hiện tại, chứ lúc lâm chung rất khó thể nói!

      Phu nhân Vi Đề Hy chẳng biết trong quá khứ đă tạo tội nghiệp ǵ nên “cầu ai sám hối” (xót xa cầu xin sám hối). Bản thân chúng ta làm sao biết tội nghiệp đă tạo trong quá khứ? Chúng ta sẽ chết bữa nào, chết theo kiểu nào, làm sao biết được? Tại Hương Cảng, Phật môn chúng ta có một vị đại hộ pháp, cũng rất giàu có, là bà Lôi, bà đă từng đến thăm đạo tràng chúng ta. Kinh doanh rất thành công, năm 1997, đảng Cộng Sản thu hồi Hương Cảng, nên bà ta dùng tiền kiếm được ở Hương Cảng sang mua đất đầu tư tại Gia Nă Đại. Năm xưa, bà ta có nói với tôi, tại Ôn Ca Hoa (Vancouver), tôi từng ở nhà bà ta. Tôi đến đó vào khoảng năm 1985, khi hội chợ triển lăm thế giới khai mạc tại Ôn Ca Hoa vào năm 1985. Bà đă mua hơn bảy mươi mẫu đất, một khu đất khá lớn. Mấy năm trước, tôi có gặp bà ta, bà cho biết lại mua hơn một trăm mẫu đất, khu đất ấy đă cất vài khu phố, quá to! Năm nay, bà ta chết v́ tai nạn xe cộ, chính bà ta lái xe gặp tai nạn. Đại khái là bà ta cũng bị bệnh tim, khi tai nạn xe cộ xảy ra, đưa tới bệnh viện th́ chết. Bà cùng chồng hai người, ông chồng bị thương. Chồng bà mắt không tốt, thị lực rất kém, ban ngày có thể lái xe, nhưng buổi tối chẳng dám lái xe. Bà ta lái xe, đă chết! Lần này, tôi ở Hương Cảng, khi Hương Cảng làm lễ truy điệu, tôi có đến tham dự. Rất giàu có. Đó là ǵ? Đó là hoạnh tử (chết ngang xương)! Kinh hoảng, thất thố, c̣n biết niệm Phật hay chăng? Quên sạch Phật hiệu, chết như vậy không thể văng sanh, v́ kinh hoảng, thất thố. Do đó, chúng ta biết chính ḿnh có tội nghiệp ǵ, tương lai sẽ là t́nh huống ra sao? Không biết!

      V́ thế, niệm Phật cầu văng sanh, nhất định phải nắm chắc thời gian trong hiện tại th́ mới đáng tin cậy. Quyết định chớ nên nghĩ trong tương lai ta phải như thế này, như thế nọ! Như bà Lôi luôn nghĩ tương lai phải như thế này, như thế nọ, mua đất lớn như vậy, c̣n mong lập đạo tràng. Phát tâm lập đạo tràng là tâm tốt lành, nhưng đạo tràng chưa cất xong, chính ḿnh đă chết ngang trái. V́ thế, đối với nhân duyên quá khứ, chính ḿnh chẳng hiểu. Phát tâm th́ không chỉ người khác chẳng hiểu, mà nói thật thà, chính ḿnh cũng chẳng hiểu. Phát tâm dựng chùa, xây đạo tràng hay chùa chiền th́ bà ta đủ sức để xây, chẳng có vấn đề ǵ, nhưng dựng chùa xong, có đạo hay không? Cơ sở th́ có, nhưng cơ sở đó trong tương lai sẽ để làm ǵ? Đều có vấn đề. Nếu cơ sở ấy chẳng có đạo, không chỉ chẳng có công đức, mà phước đức cũng chẳng có! Nếu cơ sở ấy xây cất rất lớn, khiến cho người xuất gia ở trong ấy tranh quyền đoạt lợi, không chỉ là chẳng có phước, mà c̣n tạo tội nghiệp. Chẳng dựng c̣n tốt hơn, chẳng dựng sẽ tốt đẹp!

      V́ thế, chúng ta phải quan sát từ nhiều phương diện, quư vị sẽ hiểu: Niệm Phật cầu văng sanh quyết chẳng thể chần chừ, chẳng thể chờ đợi đến tương lai, chẳng thể đợi đến sang năm, ngày mai sẽ chẳng đợi được đâu! Ở đây, phu nhân Vi Đề Hy đă thị hiện ĺa bỏ Sa Bà, cầu sanh Cực Lạc, quyết chẳng tŕ hoăn. Do đó, chỉ có Thích Ca Mâu Ni Phật đích thân đến th́ mới có thể giúp cho bà ta đạt được nguyện vọng này. Được rồi! Chúng ta tan học.

 

Tập 19

 

Xin mở kinh bổn, trang một trăm hai mươi lăm:

 

      Nhĩ thời Thế Tôn phóng mi gian quang, kỳ quang kim sắc, biến chiếu thập phương vô lượng thế giới, hoàn trụ Phật đảnh, hóa vi kim đài, như Tu Di sơn, thập phương chư Phật tịnh diệu quốc độ, giai ư trung hiện.

光。其 色。遍 界。還 頂。化 臺。如 山。十 土。皆 現。

(Lúc đó, đức Thế Tôn phóng quang từ giữa hai mày[11], quang minh ấy màu vàng chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới rồi trở về trụ trên đỉnh đầu đức Phật, hóa thành đài vàng như núi Tu Di. Các cơi thanh tịnh mầu nhiệm của chư Phật đều hiện trong ấy).

 

      Đức Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh cầu của phu nhân Vi Đề Hy, thị hiện các cơi nước Phật để phu nhân Vi Đề Hy tự ḿnh quan sát, chính ḿnh chọn lựa. Đây cũng là một phần phóng quang, hiện tướng lành. Cơi nước của chư Phật hoàn toàn chẳng giống nhau. Từ đoạn kinh văn tiếp theo đây, chúng ta sẽ thấy tướng sai biệt của các cơi ấy. Chúng ta lật qua, xem hàng thứ nhất trong trang một trăm hai mươi sáu:

 

Hoặc hữu quốc độ, thất bảo hợp thành. Phục hữu quốc độ, thuần thị liên hoa. Phục hữu quốc độ, như Tự Tại thiên cung. Phục hữu quốc độ, như pha ly kính. Thập phương quốc độ, giai ư trung hiện. Hữu như thị đẳng, vô lượng chư Phật quốc độ, nghiêm hiển khả quán, linh Vi Đề Hy kiến.

土。七 成。復 土。純 華。復 有國 土。如 宮。復 土。如 鏡。十 土。皆 現。有 等。無 土。嚴 觀。令 見。

(Hoặc có quốc độ, do bảy báu hợp thành. Lại có quốc độ, thuần là hoa sen. Lại có quốc độ, như cung trời Tự Tại. Lại có quốc độ, như gương pha lê. Mười phương cơi nước đều hiện trong ấy. Có vô lượng các cơi nước Phật như vậy, trang nghiêm, rơ rệt, đáng ưa để cho Vi Đề Hy trông thấy).

 

      Đoạn này tŕnh bày đại lược trạng huống khác nhau trong các cơi nước Phật, đều là Tịnh Độ của Phật để phu nhân Vi Đề Hy thấy rơ ràng. Ở đây, chúng ta biết: Theo như kinh đă nói rất rơ ràng, phu nhân Vi Đề Hy cùng với năm trăm cung nữ, nên trông thấy những điều này là mọi người đều thấy. Thuở ấy, đức Phật thị hiện tướng này, A Nan ở bên cạnh, Mục Kiền Liên cũng ở bên cạnh, Vi Đề Hy và năm trăm cung nữ đều đích thân trông thấy.

 

      Thời Vi Đề Hy bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thị chư Phật độ, tuy phục thanh tịnh, giai hữu quang minh.

      言。世 尊。是 土。雖 淨。皆 明。

      (Lúc ấy, bà Vi Đề Hy bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Các cơi Phật ấy tuy là thanh tịnh, lại c̣n đều có quang minh”).

 

      Bà ta tán thán Tịnh Độ của chư Phật.

 

      Ngă kim nhạo sanh Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật sở.

      所。

      (Con nay thích sanh về thế giới Cực Lạc là chỗ của A Di Đà Phật).

 

      Qua sự so sánh mười phương cơi nước, bà ta mong cầu văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đây là sự chọn lựa sau khi đă so sánh. Do điều này, có thể chứng minh, Di Đà Tịnh Độ quả thật thù thắng hơn Tịnh Độ của chư Phật. Ở đây, đức Phật chẳng giới thiệu, mà bày ra, để cho bà ta tự do chọn lựa. Chọn chắc chắn rồi, cách sanh về đó như thế nào? Cầu xin đức Thế Tôn chỉ dạy. Khoa tiếp theo là Chánh Thỉnh Tu Nhân, [nghĩa là] chúng ta phải tu cái nhân như thế nào th́ mới có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới?

 

      Duy nguyện Thế Tôn giáo ngă tư duy, giáo ngă Chánh Thọ.

      惟。教 受。

      (Kính xin đức Thế Tôn dạy con tư duy, dạy con Chánh Thọ).

 

      Nêu ra yêu cầu! Trong phần chú giải có viết: “Sớ vân, tư duy thị nguyện” (Sớ viết: “Tư duy là nguyện”), Sớ là do Trí Giả đại sư nói, tư duy là phát nguyện. “Nguyện tư thị nghiệp, chánh vấn kỳ nhân. Chánh Thọ giả, phi tà viết Chánh, lănh nạp danh Thọ, tức đệ nhị vấn Quán Hạnh” (Nguyện và tư duy là nghiệp, hỏi thẳng vào cái nhân [để được văng sanh]. Chánh Thọ: Chẳng tà là Chánh, lănh nạp là Thọ, tức là câu hỏi thứ hai về Quán Hạnh). Hai câu này nói đơn giản, sẽ là: Một là hỏi về nguyện, phát nguyện như thế nào? Hai là hỏi tu hành như thế nào? Điều này vô cùng quan trọng!

      Dưới đây là lời giải thích của tôn giả Tứ Minh: “Sao vân, thử thỉnh Tịnh Độ chánh trợ nhị nhân. Sơ, giáo ngă tư duy. Nhược bất tư duy, bất thành nguyện nhạo. Hữu nguyện chi tư, năi thành nghiệp nhân, thử thỉnh Sự thiện trợ đạo chi nghiệp dă. Thứ giáo ngă Chánh Thọ, ly tà đảo tưởng, lănh nạp sở duyên, thử thỉnh tu hành Tịnh Độ quán pháp, tức Chánh Quán dă” (Sao rằng: Đây là xin chỉ dạy chánh nhân và trợ nhân của Tịnh Độ. Trước hết, hăy dạy cho con cách tư duy. Nếu chẳng tư duy, sẽ chẳng thể nào nguyện cầu, ưa thích. Đă nghĩ đến cái nguyện, bèn trở thành nghiệp nhân. Đây chính là thưa hỏi những điều thiện thuộc về mặt Sự để làm nghiệp trợ đạo. Kế đến, dạy cho con Chánh Thọ, ĺa bỏ những ư tưởng điên đảo, tà vạy, lănh nhận các duyên. Đây chính là thưa hỏi quán pháp để tu hành Tịnh Độ, tức là Chánh Quán). Đây là một đoạn giải thích của sách Sớ Sao.

Đoạn tiếp theo, “thiết vị” (trộm cho rằng), đây chính là lời của pháp sư Đế Nhàn: “Cứ Sớ ư, tư duy thị nguyện, quán hạnh thị hạnh, thị dĩ nguyện đạo hạnh dă, Sao cứ đáp văn” (Xét ra, lời Sớ mang ư nghĩa: Tư duy là nguyện, quán hạnh là hạnh. Do vậy, dùng nguyện để hướng dẫn hạnh; c̣n lời Sao th́ dựa theo lời đáp [của đức Thế Tôn để giảng giải]). Tôn giả Tứ Minh đă căn cứ trên lời đáp của đức Thế Tôn dành cho lời khải thỉnh của bà Vi Đề Hy. Kinh văn ghi chép lời đáp trong phần sau. “Tiên thị tịnh nghiệp thị Trợ, thứ minh diệu quán thị Chánh, thị Chánh Trợ Song Tu dă” (trước hết, chỉ ra Tịnh nghiệp là Trợ, kế đến giảng rơ diệu quán là Chánh, tức là Chánh Trợ Song Tu vậy). Thích Ca Mâu Ni Phật trả lời, trước hết nói về ba thứ Tịnh nghiệp, đó là Tư Duy. Trong phần sau của lời đáp, đă dạy về mười sáu phép Quán, đó là mười sáu cách tu, tức là nói về Chánh Thọ. Tôn giả Tứ Minh đă căn cứ trên ư nghĩa trong kinh để viết [lời Sao]. Hai cách giải thích ấy đều phù hợp với ư nghĩa của kinh, dùng nguyện hướng dẫn hạnh, Chánh Trợ song tu, đúng là cương lănh tu học trong Tịnh Tông.

      Chúng ta xem kinh văn. Từ kinh văn, có thể thấy phương pháp giáo học của đức Thế Tôn rất hoạt bát, rất sinh động. Đức Phật biết ư nghĩ của bà Vi Đề Hy, cũng biết thiện căn nhiều đời nhiều kiếp hiện thời dấy lên hiện hành, nên Ngài đến hoàng cung, hiển thị sự hoan hỷ khôn sánh. Đây là cơ duyên thành Phật [của Vi Đề Hy] đă chín muồi, nên đức Phật đến độ bà ta hoan hỷ khôn sánh. Dùng phương thức ấy để cho bà ta tự chọn lựa, nói thật ra, đức Phật biết bà ta nhất định sẽ chọn thế giới Cực Lạc. Đă chọn ra, bèn nêu câu hỏi, hỏi về phương pháp tu hành. Chúng ta xem dưới đây, đức Thế Tôn trả lời ra sao, [hăy xem] trang một trăm hai mươi tám:

 

      Nhĩ thời Thế Tôn tức tiện vi tiếu.

      便 笑。

      (Lúc đó, đức Thế Tôn bèn mỉm cười).

 

Mỉm cười” cũng bao hàm ư nghĩa rất sâu. Mỉm cười là hoan hỷ, tỏ rơ thiện căn của bà ta đă chín muồi, chọn lựa hết sức chánh xác. Không chỉ chính bà ta được lợi ích, mà c̣n có vô lượng vô biên chúng sanh trong tương lai đều có thể đạt được lợi ích này. Qua việc bà ta thưa hỏi và chọn lựa này, khá nhiều người sẽ đạt được lợi ích do văng sanh Tịnh Độ.

 

Hữu ngũ sắc quang, tùng Phật khẩu xuất, nhất nhất quang chiếu Tần Bà Sa La vương đảnh. Nhĩ thời đại vương tuy tại u bế, tâm nhăn vô chướng, dao kiến Thế Tôn, đầu diện tác lễ, tự nhiên tăng tấn, thành A Na Hàm.

光。從 出。一 頂。爾 閉。心 障。遙 尊。頭 禮。自 進。成 含。

(Có ánh sáng năm mầu từ miệng đức Phật tỏa ra, mỗi tia sáng chiếu đến đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La. Khi đó, đại vương tuy bị nhốt kín, nhưng tâm nhăn chẳng bị chướng ngại, thấy đức Thế Tôn từ xa, bèn dập đầu sát đất làm lễ, tự nhiên tăng tấn, thành A Na Hàm).

 

A Na Hàm (Anāgāmi) là Tiểu Thừa Tam Quả. Quư vị thấy quốc vương tŕ giới, tu hành nơi đó, chứng Tiểu Thừa Tam Quả. Kế đó là phần chú giải, trước hết, hăy xem phần khai thị của Trí Giả đại sư: “Tùng thử dĩ hạ, thù tiền tịnh nghiệp” (từ đây trở đi nhằm đáp tạ [câu hỏi về] tịnh nghiệp). “Thù” () là đền đáp. Trong phần trước, phu nhân Vi Đề Hy đă nêu ra câu hỏi, ở đây, đức Phật sẽ giải đáp. “Cận đáp Tư Duy, Chánh Thọ, tam chủng tịnh nghiệp” (lời đáp gần gũi là giảng về Tư Duy và Chánh Thọ, ba thứ tịnh nghiệp), đây là lời đáp trước hết. “Tán tâm tư lượng, viết Tư Duy. Thập lục Chánh Quán, danh Chánh Thọ” (Tán tâm suy lường th́ gọi là Tư Duy, mười sáu phép Chánh Quán gọi là Chánh Thọ). Tư Duy và Chánh Thọ được giải thích cách này cũng rất hay. Tư Duy là ǵ? Chánh Thọ là ǵ? Những điều này liên quan đến sự tu hành của chúng ta trong hiện thời. Tán () là tâm tán loạn. Tâm tán loạn nhớ Phật, niệm Phật, đều gọi là Tư Duy. Nhất tâm chuyên xưng niệm là Chánh Thọ, sai biệt ở chỗ này. Phóng quang: Trước khi thuyết pháp, đức Phật thường phóng quang, quang biểu thị ư nghĩa rất sâu. Không chỉ có ư nghĩa biểu thị pháp, mà c̣n có công đức diệt tội, đoạn Hoặc trong ấy. Như trong kinh điển Tịnh Tông, [xét theo] bản dịch kinh Di Đà của Huyền Trang đại sư, tuy trong kinh Di Đà bản tiếng Phạn không có chữ “nhất tâm bất loạn”, bản tiếng Phạn ghi là “nhất tâm hệ niệm”, La Thập đại sư dịch thành “nhất tâm bất loạn”, nhưng Huyền Trang đại sư chẳng nói là ngài La Thập dịch sai. Bởi lẽ, người văng sanh trong khi văng sanh, đức Phật đến tiếp dẫn, trước hết là phóng quang chiếu gội. Khi được Phật phóng quang chiếu gội, công phu niệm Phật của người ấy liền được tăng lên gấp bội. Do vậy, La Thập đại sư dịch thành “nhất tâm bất loạn”, xét theo ư nghĩa th́ chẳng sai lầm.

      Công phu nhất tâm bất loạn có cạn hay sâu sai khác. Chúng ta niệm Phật, niệm đến khi chế ngự được phiền năo th́ mới có phần văng sanh. Chẳng thể chế ngự phiền năo, sẽ chẳng thể văng sanh. Có thể chế phục phiền năo, sẽ cảm ứng đạo giao cùng A Di Đà Phật. Khi tín niệm trọn đủ, Phật đến tiếp dẫn. Khi Phật đến tiếp dẫn, công phu của quư vị sẽ được nâng cao gấp bội. Do đó, Phật quang có công đức diệt tội và đoạn Hoặc. Đă tăng lên, từ công phu thành phiến tăng lên thành Sự nhất tâm bất loạn, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới như vậy th́ nói theo lư luận mới suông được. [Người sanh về Cực Lạc có địa vị] tương đương với các Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín trong Viên Giáo. Viên Giáo Sơ Tín Vị Bồ Tát đă đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, nhưng Tư Hoặc c̣n chưa đoạn, nên Ngài vẫn trụ trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, chưa thể đến cơi Phương Tiện Hữu Dư. Khi nào đoạn sạch tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc th́ mới có thể sanh về cơi Phương Tiện Hữu Dư. Do đó, phàm là người văng sanh, dẫu là hạ hạ phẩm, được Phật quang chiếu gội, nói thông thường, địa vị sẽ tương đương với Tiểu Thừa Sơ Quả, hoặc Sơ Tín Vị Bồ Tát trong Đại Thừa Viên Giáo. Ở đây, đức Phật phóng quang, nói theo phía phu nhân Vi Đề Hy th́ cũng có sức mạnh ấy, mà đối với vua Tần Bà Sa La, [Phật lực] cũng gia tŕ nhà vua. Nhà vua tinh tấn trong ngục, dụng công tu hành. Gặp phải đại kiếp nạn này, tâm nhà vua tu đạo đặc biệt ân cần, tha thiết, tâm tu đạo đặc biệt chân thành, nên nhà vua tiến bộ rất nhanh. Phật quang vừa chiếu tới, nhà vua có thể chứng đắc quả A Na Hàm.

      Ở đây, pháp sư Đế Nhàn có nói mấy câu giải thích ư nghĩa của kinh cũng rất hay. Lời chú giải của Ngài bắt đầu từ câu cuối cùng trong ḍng thứ hai đếm từ dưới lên nơi trang một trăm hai mươi chín. Câu nói của lăo nhân gia được thêm hai chữ “thiết vị” (竊謂: trộm nghĩ). Câu nào có hai chữ ấy th́ kể từ đó là lời của pháp sư Đế Nhàn. “Phật nhân Tần Bà, quả thục đế lạc, thời chí lư chương, cố tiên phóng quang chiếu xúc, linh kỳ xuất phàn lung, nhi thành thánh quả, huống bỉ tiểu cơ, tự thành tiểu quả” (Đức Phật nhân v́ [xét thấy] vua Tần Bà Sa La quả đă chín, cuống rụng, thời đă đến, lư ắt tỏ rạng, nên trước hết phóng quang chiếu chạm, khiến cho vua thoát khỏi bẫy lồng, thành tựu chánh quả. Huống chi nhà vua là căn cơ Tiểu Thừa, nên thành tựu Tiểu Quả). Do quốc vương và phu nhân hai người có căn tánh khác nhau, nên tâm tư bọn họ cũng khác nhau. Vua Tần Bà Sa La là căn cơ Tiểu Thừa. Trong đời quá khứ, thời gian nhà vua tu học Tiểu Thừa rất dài, tập khí Tiểu Thừa rất nặng, tuy suốt một đời này thân cận Thế Tôn, vẫn chứng quả Tiểu Thừa. Duyên của nhà vua cũng đă chín muồi! “Bất tỷ Vi Đề, thị bổn kinh phát khởi nhân, hựu thị đương cơ chúng” (chẳng sánh bằng bà Vi Đề Hy là người phát khởi kinh này, lại c̣n là đương cơ chúng). Phu nhân là căn cơ Đại Thừa. Không chỉ là căn cơ Đại Thừa, mà c̣n là người phát khởi kinh này, là bậc đương cơ. “Tần Bà nhị sự câu vô, cố linh tiên thoát dă” (Hai chuyện ấy vua Tần Bà đều không có, nên [đức Phật] độ cho vua được liễu thoát trước). Quốc vương chẳng phải là đương cơ của kinh này, mà cũng chẳng phải là người phát khởi, nên vua chứng Tiểu Quả trước!

       “Phật ư vị phóng quang tiền, tiên vi tiếu giả, hỷ ư trung, nhi h́nh ư ngoại, vị xuất thế dữ thế, lưỡng câu bất khả tư nghị dă” (trước khi đức Phật phóng quang, trước hết bèn mỉm cười, niềm vui trong ḷng được biểu lộ ra ngoài, có ư nghĩa: Xuất thế gian và thế gian, hai đằng đều chẳng thể nghĩ bàn), nhân duyên này vô cùng chẳng thể nghĩ bàn. “Xuất thế” là đối với chúng sanh căn cơ đă chín muồi, Ngài sắp nói pháp môn thành Phật trong một đời, điều này chẳng thể nghĩ bàn. Pháp thế gian là do cuộc chánh biến của vua A Xà Thế trong lần này, đă dẫn khởi nhân duyên như thế, cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Tiếp đó, [ngài Đế Nhàn viết]: “Tần Bà nhược bất sanh Xà Thế, vị tất hiện sanh, tức thành thánh quả” (Nếu vua Tần Bà Sa La chẳng sanh ra A Xà Thế, chưa chắc đă thành thánh quả ngay trong đời hiện tại). Thật vậy, [nếu không gặp cảnh ngộ khốn khổ ấy], nhà vua chẳng dụng tâm tu đạo chuyên tâm ngần ấy. Chẳng chuyên tâm th́ chưa chắc đă có thể thành tựu ngay trong một đời. V́ sanh ra một đứa con bất hiếu như thế ấy, đâm ra lại khiến cho chính ḿnh chứng thánh quả, đây là chuyện chẳng thể nghĩ bàn. “Tức sử hiện sanh đắc thành, diệc vị tất hữu nhược tư chi tốc” (Dẫu cho được thành tựu trong đời này, cũng chưa chắc đă nhanh chóng dường ấy). Cho dù có thể tu thành công trong một đời này, chẳng thể nhanh chóng ngần ấy, chẳng thể nào trong hiện tại liền chứng quả A Na Hàm. “Xà Thế nhược bất phùng ác hữu” (Nếu A Xà Thế chẳng gặp bạn ác), [ư nói] nếu A Xà Thế chẳng gặp Đề Bà Đạt Đa, “vị tất tiện hữu sát phụ đồ vương chi niệm” (chưa chắc đă có ư niệm giết cha, đoạt ngôi vua). Nếu Đề Bà Đạt Đa chẳng xúi giục nhà vua, ông ta cũng chẳng dấy lên ư niệm ấy. “Vô thử cực ác chi tâm, đoạn bất tác thử nghịch sự” (không có tâm cực ác ấy, quyết chẳng làm chuyện ác nghịch này), nhà vua không có tâm ác này, sẽ chẳng làm chuyện xấu xa này. “Dĩ thế gian cực ác chi khổ nhân, trợ thành xuất thế chứng thánh chi thiện quả, khởi phi bất khả tư nghị giả dư?” (Dùng cái nhân của nỗi khổ cực ác trong thế gian để giúp thành tựu thiện quả xuất thế chứng thánh, há chẳng phải là không thể nghĩ bàn ư?). Đây là nói nhân nhân quả quả của vua A Xà Thế, Đề Bà Đạt Đa, và vua Tần Bà Sa La chẳng thể nghĩ bàn.

       “Tần Bà nhân thân sanh tử, sát phụ đồ vương, do thị trần niệm nhược hôi” (Vua Tần Bà bị con ruột giết cha, đoạt ngôi, do vậy, ư niệm trần tục [nguội lạnh] như tro tàn), tâm thật sự chán ngán thế gian này tới cùng cực. “Cập chí quan ư thất trùng thất nội, quốc chánh tiêm giới bất văn, thử thời hoàn tha bản lai diện mục, kiêm chi dĩ phụng giới, văn pháp, Tam Học tề tu. Thị cố, đoạn Hoặc chứng Chân dă, nghi hỹ” (Cho đến khi bị nhốt trong pḥng, sau bảy tầng cửa, chẳng c̣n nghe chuyện chánh sự mảy may, khi ấy, trở về diện mục sẵn có, lại c̣n giữ giới, nghe pháp, Tam Học cùng tu. V́ thế, đoạn Hoặc, chứng Chân là chuyện phải nên như vậy). Đây là nói về nhân duyên của quốc vương. Thường ngày, quốc vương bận bịu việc triều chánh, nay bị con trai giam cầm, đúng là hết thảy đều buông xuống, thân tâm thanh tịnh. Gặp phải kiếp nạn này, chẳng c̣n mảy may lưu luyến cuộc đời, toàn tâm toàn lực tu hành, đây là một Tăng Thượng Duyên rất khó có. V́ thế, cụ Đế Nhàn bảo là “thử thời hoàn tha bổn lai diện mục” (khi ấy, trở về diện mục sẵn có của ông ta). Bổn lai diện mục là ǵ? Là thân tâm vô sự, vô sự là bổn lai diện mục. Nếu đang vô sự mà t́m ṭi đa sự, đó chẳng phải là bổn lai diện mục. Tâm thanh tịnh là bổn lai diện mục, phải luôn ghi nhớ điều này. “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi bặm”, đó là bổn lai diện mục. Khi vua Tần Bà Sa La bị giam cầm, đúng là đă khôi phục bổn lai diện mục của chính ḿnh, chẳng bị ràng buộc bởi nhiều chuyện như lúc b́nh thường. V́ thế, Tam Học của vua tăng thượng, Tam Học là Giới, Định, Huệ. Do đó, vua đoạn Hoặc, chứng Chân.

       “Tần Bà chứng quả, Phật tâm thư sướng, sở dĩ, vi tiếu giả dă” (vua Tần Bà chứng quả, tâm Phật vui sướng, cho nên Ngài mỉm cười). Chẳng ngờ vua Tần Bà Sa La do chuyện như vậy, bèn nhanh chóng, tăng tốc độ chứng đắc Tam Quả của Tiểu Thừa. Đó là một nguyên nhân khiến cho đức Phật mỉm cười. “Quang hữu ngũ sắc giả, biểu tùng Phật pháp tánh Ngũ Ấm thể thượng, hiển lộ diệu quang, chiếu phá Tần Bà Ngũ Ấm, chuyển biến nhi thành ngũ phần Pháp Thân quả dă. Sở dĩ, vương tuy u bế, nhi nội ngoại tâm thân vô bất thư sướng” (Quang minh có năm màu, biểu thị từ bản thể Ngũ Ấm từ trong Pháp Tánh của đức Phật mà hiển lộ quang minh mầu nhiệm, chiếu tan Ngũ Ấm của vua Tần Bà, chuyển biến thành cái quả năm phần Pháp Thân, nên vua tuy bị giam kín, nhưng thân tâm trong ngoài không ǵ chẳng thoải mái, vui sướng). Nhà vua đắc pháp hỷ sung măn. “Thất trùng pḥng bích, vạn bất năng giá, tuy viết dao kiến, như tại mục tiền. Tác lễ chi khoảnh, tức chứng Tam Quả. Phạn vân A Na Hàm, Hoa ngôn Bất Lai, vị dĩ đoạn Dục Giới cửu phẩm sanh nhân, khả dĩ bất lai hạ giới thọ sanh dă” (Bảy tầng vách pḥng, muôn phần chẳng thể ngăn che. Tuy nói là “nh́n từ xa”, nhưng giống như trước mắt. Trong khoảnh khắc làm lễ, liền chứng Tam Quả. Tiếng Phạn là A Na Hàm, Hán dịch là Bất Lai, ư nói đă đoạn cái nhân của chín phẩm sanh trong Dục Giới, có thể chẳng c̣n phải vào thọ sanh trong hạ giới). Tam Quả được gọi là Bất Lai, Bất Lai là chẳng đến trong Dục Giới. Người ấy (người đă chứng Tam Quả) ở nơi đâu? Trụ trong Ngũ Bất Hoàn Thiên[12] của Tứ Thiền. Người ấy đến đó tu hành, đến tu hành trong Ngũ Bất Hoàn Thiên. Chư vị phải hiểu: Đến tu hành trong Ngũ Bất Hoàn Thiên chẳng phải là thân đi, mà là thần thức đến đó. Quốc vương bị giam cầm ở nơi đây, cũng chẳng có ai cho nhà vua ăn uống, chúng ta thấy quốc vương đă chết đói. Trên thực tế, quốc vương đă đến Ngũ Bất Hoàn Thiên. Đây là đức Phật độ nhà vua trước. Mục đích giết phụ thân của vua A Xà Thế đă đạt được, nào ngờ cha sanh lên Ngũ Bất Hoàn Thiên, đến cơi Tứ Thiền, đă chứng thánh quả, chẳng c̣n mảy may lưu luyến thế gian này.

Những chuyện giống như vậy, phàm phu nhục nhăn chẳng thấy được. Nếu ở đây, đức Phật chẳng nói rơ, th́ cũng chẳng có cách nào biện định vấn đề này: Rốt cuộc là vua đến đó khi c̣n sống, hay đă chết? Rốt cuộc t́nh huống là như thế nào? Qua lời giảng giải này, [vấn đề ấy] liền rành mạch. Tam Quả La Hán, Tam Quả cũng được gọi là La Hán, có đủ năm món thần thông, nên nhà vua thấy đức Phật thuyết pháp cho vương hậu, bèn đảnh lễ Phật từ chỗ bị giam, chứng đắc Tam Quả. Nhà vua đă trọn đủ năm món thần thông.

 

      Nhĩ thời Thế Tôn cáo Vi Đề Hy.

希。

      (Khi ấy, đức Thế Tôn bảo Vi Đề Hy).

 

      Đức Phật độ hai người gần như đồng thời, trong khi phóng quang đă đồng thời gia tŕ hai người ấy, bảo phu nhân Vi Đề Hy:

 

      Nhữ kim tri phủ? A Di Đà Phật, khứ thử bất viễn.

      不。阿 佛。去 遠。

(Bà có biết không? A Di Đà Phật cách đây chẳng xa).

 

      Nói về Tây Phương Cực Lạc thế giới.

 

      Nhữ đương hệ niệm, đế quán bỉ quốc. Tịnh nghiệp thành giả, ngă kim vị nhữ quảng thuyết chúng thí, diệc linh vị lai thế nhất thiết phàm phu dục tu Tịnh nghiệp giả, đắc sanh Tây Phương Cực Lạc quốc độ.

國。淨 者。我 譬。亦 者。得 西 土。

(Bà hăy nên hệ niệm, quán kỹ cơi ấy, sẽ thành tựu Tịnh nghiệp. Ta nay v́ bà nói rộng các thí dụ, cũng khiến cho hết thảy phàm phu muốn tu Tịnh nghiệp trong đời vị lai, được sanh về Tây Phương Cực Lạc quốc độ).

 

      Đoạn này chỉ rơ công đức khải thỉnh vô lượng vô biên. Trước hết là an ủi, khuyến cáo: Bà đă chọn lựa Di Đà Tịnh Độ, cơi ấy cách nơi này chẳng xa. Phương pháp để mong đến nơi đó, quan trọng nhất là phải “hệ niệm, đế quán bỉ quốc”. “Hệ niệm” là trả lời câu hỏi của bà ta về Tư Duy, “đế quán” là trả lời câu hỏi về Chánh Thọ. Ở đây, tuy chẳng nói cặn kẽ, nhưng đă nói với bà ta th́ không chỉ ḿnh bà ta được lợi ích, “diệc linh vị lai thế nhất thiết phàm phu dục tu Tịnh nghiệp giả” (cũng khiến cho hết thảy phàm phu muốn tu Tịnh nghiệp trong đời vị lai). Nay bà đă chọn pháp môn này, người khác trông thấy, nhất định là sẽ ngưỡng mộ, nhất định cũng muốn văng sanh Di Đà Tịnh Độ. Lợi ích đều được dẫn khởi bởi sự chọn lựa của bà, nên công đức lợi ích này quá thù thắng.

      Ở đây, Trí Giả đại sư giải thích, v́ sao nói “khứ thử bất viễn” (cách đây không xa): “Sớ vân, khứ thử bất viễn giả, Cực Lạc khứ thử thập vạn ức sát” (Sớ rằng: “Cách đây chẳng xa”: Cực Lạc cách thế giới này mười vạn ức cơi). Khoảng cách giữa thế giới Cực Lạc và thế giới Sa Bà là mười vạn ức Phật quốc độ. Một Phật quốc độ là một tam thiên đại thiên thế giới; cớ sao có thể nói khoảng cách mười vạn ức đại thiên thế giới giữa hai cơi chẳng xa? Trong lời đáp, có hai ư nghĩa: “Đáp hữu nhị: Nhất dĩ Phật lực cố, dục kiến tức kiến” (đáp rằng: Có hai nghĩa; một là do Phật lực nên muốn thấy liền thấy). Nay đức Phật dùng thần lực, phô bày cơi nước của mười phương chư Phật trước mặt phu nhân Vi Đề Hy, nên chẳng xa, bà ta vừa mới thấy rành mạch, vừa mới trông thấy. Đó là một ư nghĩa. Ư nghĩa thứ hai: “Quang trung hiện độ, hiển ư Phật đảnh, nhất niệm năng duyên, ngôn bất viễn dă” (Trong quang minh hiện cơi nước, hiển hiện trên đỉnh đầu Phật, do một niệm bèn có thể duyên, nên nói chẳng xa). Hằng sa các cơi Phật, đức Phật đều có thể triển hiện trong Phật quang. V́ thế, tâm chúng ta vừa động một niệm, bèn có thể đạt tới. Nếu nói theo sự tướng thế gian, xác thực là mười vạn ức cơi Phật. Mười vạn ức cơi Phật trong một niệm có thể đạt đến, vậy th́ rốt cuộc phạm vi có thể đạt đến của một niệm to cỡ nào? Thưa cùng chư vị, có thể đạt đến tận hư không khắp pháp giới. Mười vạn ức cơi nước quá gần, giống như phát ra làn sóng điện, làn sóng điện vừa phát ra sẽ đến tận hư không khắp pháp giới, khoảng cách mười vạn ức đích xác là rất ngắn, chẳng kể như rất dài!

      Do vậy, ư niệm chẳng thể nghĩ bàn, kinh thường nói: “Niệm kiếp viên dung” (niệm và kiếp viên dung). Một niệm triển khai thành vô lượng kiếp, vô lượng kiếp rút gọn thành một niệm. Một niệm là vô lượng kiếp, vô lượng kiếp là một niệm. Đây cũng là nói rơ: Thời gian chẳng thật, không gian cũng là giả. Nay chúng ta nói tới thời gian và không gian, trong Phật pháp, thời gian và không gian là Bất Tương Ứng Hành Pháp. Nói cách khác, chúng là những khái niệm trừu tượng, chẳng thật. V́ y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, một niệm này chính là tâm thức khởi tác dụng. V́ thế, một niệm có thể biến ra khắp hư không pháp giới, dẫu xa cách mấy, một niệm vẫn đạt tới. Đừng nói Di Đà Tịnh Độ, c̣n xa hơn Di Đà Tịnh Độ. Vô lượng vô biên hằng hà sa đại thiên thế giới, cũng là một niệm bèn đạt tới, chẳng cần tới hai niệm hay ba niệm, chỉ một niệm bèn đạt tới viên măn. Do đó nói là “chẳng xa”.

      Tiếp đó, lăo pháp sư Đế Nhàn khai thị: “Phật ngôn bất viễn giả, hiển Cực Lạc năi duy tâm Tịnh Độ, hà viễn chi hữu? Sớ chỉ Phật đảnh quang trung Di Đà, cố thị, Phật bất nhất định Di Đà thuyết tại quang trung. Như quả thị quang trung Di Đà, dữ Vi Đề địch diện tương kiến, Phật diệc bất vấn tri chi dữ phủ? Cứ Phật ư vị, nhĩ tiền ngôn nhạo sanh A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới, kim cáo Vi Đề Hy ‘nhữ kim tri phủ? A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới, khứ thử bất viễn’, bất nan văng sanh, chỉ yếu hệ niệm A Di Đà Phật, đế quán bỉ Cực Lạc quốc độ” (Đức Phật nói “chẳng xa” nhằm hiển thị Cực Lạc là duy tâm Tịnh Độ, há có xa chi? Lời Sớ nói đến Phật Di Đà ở trong quang minh, cố nhiên là như vậy, nhưng đức Phật chẳng nhất định nói tới Phật Di Đà ở trong quang minh. Nếu là Phật Di Đà ở trong quang minh th́ bà Vi Đề Hy đă thấy ngay trước mặt rồi, đức Phật cũng chẳng hỏi bà ta có biết hay không! Xét ra, ư đức Phật là nói: Trước đó, [do Vi Đề Hy] đă nói thích sanh về thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật, nay Ngài bảo Vi Đề Hy: “Bà có biết chăng? Thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật cách đây chẳng xa, sanh về đó chẳng khó. Chỉ cần hệ niệm A Di Đà Phật, quán chắc thật cơi nước Cực Lạc”). Pháp sư Đế Nhàn chú trọng hai câu này, hai câu ấy giải thích hết sức thân thiết, quả thật là rơ ràng, đúng chỗ, khẳng định hơn so với lời Sớ của Trí Giả đại sư. Nói hay tuyệt! Xa hay gần chẳng phải là chuyện khẩn yếu, chuyện khẩn yếu là đến đó như thế nào, quyết định đến, đó mới là chuyện khẩn yếu! Cụ Đế Nhàn đă căn cứ trên ư nghĩa của kinh văn để giải thích: Chỉ cần hệ niệm A Di Đà Phật! Xét theo ư nghĩa trong phần trên, “hệ niệm” (繫念) là tín nguyện cầu sanh. Tâm cầu sanh hết sức khẩn thiết; đó là hệ niệm. Tâm cầu sanh khẩn thiết, tự nhiên sẽ coi nhạt thế gian này, bất luận đăi người tiếp vật trong thế gian này, đối với người, đối với sự, quư vị sẽ chẳng c̣n so đo, mà cũng chẳng riết róng, v́ sao? Nhất tâm nhất ư mong sanh về thế giới Cực Lạc, mong ĺa bỏ thế giới này, há c̣n có ǵ chẳng thể chịu đựng thế giới này nữa? Chẳng có! Đó gọi là buông xuống vạn duyên, thật sự buông xuống! Hệ niệm là buông xuống vạn duyên, nhất tâm nhất ư cầu sanh thế giới Cực Lạc.

      “Đế quán” (諦觀) là nhớ Phật, niệm Phật. Mười sáu phép Quán đă được nói chung thành bốn chữ ấy (nhớ Phật, niệm Phật). Mười lăm phép Quán trước là nhớ Phật, phép Quán cuối cùng là niệm Phật. Đại Thế Chí Bồ Tát đă giảng về nhớ Phật, niệm Phật: “Hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật”. Ta mới hiểu đế quán bao gồm phương pháp tu hành. Phạm vi của ức niệm là y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Hệ niệm tức tư duy, trợ đạo dă. Đế quán, tức quán tưởng, chánh hạnh dă” (hệ niệm là tư duy, là trợ đạo. Đế quán là quán tưởng, là chánh hạnh). Tŕ danh niệm Phật thuộc loại Chánh Hạnh, thuộc phạm vi của quán tưởng, thuộc trong phạm vi của mười sáu phép Quán. V́ thế, chư vị phải ghi nhớ: Tŕ danh chẳng phải là trợ niệm[13], tŕ danh là chánh niệm, chẳng phải là trợ đạo, mà là chánh hạnh. “Nhị câu tịnh nghiệp” (cả hai đều là tịnh nghiệp), hai điều như đức Phật đă nói đều là tịnh nghiệp. “Chánh trợ hạnh thành, lâm chung quyết định văng sanh, khả vô nghi nhị” (Chánh hạnh và trợ hạnh thành tựu, lâm chung quyết định văng sanh, chẳng c̣n ngờ vực chi nữa). Chánh tu và trợ tu, chánh trợ song tu, lâm chung quyết định văng sanh, đó là vấn đề chẳng c̣n có mảy may nghi ngờ chi nữa!

      Tiếp theo đây, đức Phật dạy chúng ta cách hệ niệm, tức là hệ niệm ba thứ tịnh nghiệp. Chúng ta đọc phần kinh văn này một lượt, vô cùng quan trọng, đó là tịnh nghiệp chánh nhân của tam thế chư Phật. V́ vậy, tựa đề của khoa này được ghi là “chánh thị văng sanh chánh nhân” (chỉ bày cái nhân chủ yếu để văng sanh). Trong phần này có hai đoạn, đoạn thứ nhất là Chánh Nhân. V́ vậy, phần này vô cùng quan trọng.

 

      Dục sanh bỉ quốc giả, đương tu tam phước.

者。當 福。

(Người muốn sanh về cơi ấy, nên tu ba món phước).

 

      Phàm là người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, bất luận là người tu hành tích lũy công đức, hoặc là người lâm chung sám hối văng sanh, nhất định trọn đủ ba phước. Sau này, vua A Xà Thế cũng văng sanh Tịnh Độ. Vua giết cha, hại mẹ, có tu “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng” hay không? Thưa cùng chư vị, có chứ! Hiện thời chẳng có, nhưng lâm chung vừa sám hối bèn có, hễ sám hối liền trọn đủ. Nghĩ lại trong quá khứ, thái độ, tâm thái, hành vi đối với cha mẹ thật sự sai lầm, bèn triệt để ăn năn hối lỗi. Vừa ăn năn hối lỗi, phước ấy liền trọn đủ, v́ sao? Ông ta chẳng c̣n dùng tâm thái ấy, dùng hành vi ấy để đối xử với cha mẹ nữa, thật sự sửa đổi. Người Hoa có câu tục ngữ: “Lăng tử hồi đầu kim bất hoán” (lăng tử quay đầu, vàng chẳng đổi), thật sự triệt để hối cải. Vua A Xà Thế đến khi lâm chung mới hối cải, nên vua ắt phải trọn đủ ba thứ tịnh nghiệp ấy. Chẳng có ba thứ tịnh nghiệp ấy, quyết định chẳng thể văng sanh. Chư vị đồng tu phải ghi nhớ điều này.

      Nay chúng ta bất hiếu với cha mẹ, bất kính với sư trưởng. “Chẳng sao hết! Học theo vua A Xà Thế, đến khi lâm chung, chúng ta mới sám hối văng sanh”. Nếu ấp ủ tâm thái ấy, đó gọi là “lươn lẹo, mánh mung”, tâm thái như vậy chắc chắn chẳng thể văng sanh! V́ sao? Khi quư vị lâm chung, chẳng có cơ hội sám hối, tất nhiên đọa lạc. Đức Phật giáo huấn chúng ta, trước khi chúng ta nghe biết Phật pháp th́ đă tạo tác tội nghiệp, mê hoặc, điên đảo. Sau khi nghe Phật pháp, nhất là sau khi đă thọ Tam Quy, thọ các giới, nếu lại tạo tác tội nghiệp, tức là tội càng thêm tội. Do đó, bốn giới trọng chẳng thông sám hối, chẳng có cơ hội sám hối, chư vị nhất định phải ghi nhớ điều này. Quyết định chớ nên có tâm lư cầu may, [nếu có tâm lư ấy] sẽ là lầm lẫn quá đỗi, kể từ hôm nay, hăy bắt đầu nghiêm túc tu học. Trong ba câu ấy, câu đầu tiên là:

     

      Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp.

      母。奉 長。慈 殺。修 業。

      (Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu mười thiện nghiệp).

 

      [Phước này] gồm bốn chuyện. Điều thứ hai:

 

      Thọ tŕ Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi.

      歸。具 戒。不 儀。

      (Thọ tŕ Tam Quy, tṛn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi).

 

      [Phước này] gồm ba chuyện. Điều thứ ba.

 

       Phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả.

      心。深 果。讀 乘。勸 者。

      (Phát tâm Bồ Đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến khích, sách tấn hành giả).

 

      [Phước này] gồm bốn chuyện. Tổng cộng là mười một chuyện. Thứ nhất là phước nhân thiên, trong chú giải nói phước thứ nhất là “cộng phàm phu” (chung với phàm phu), tức là phước báo nhân thiên. Phước thứ hai là “cộng Tiểu Thừa”, thứ ba là “Bồ Tát phước”. V́ thế, ba điều này, mỗi điều sau trỗi vượt điều trước, điều sau nhất định bao gồm điều trước, điều trước chẳng thể bao hàm điều sau. Nếu nói chi tiết th́ tổng cộng mười một câu, câu sau bao quát câu trước, câu trước chẳng thể bao quát câu sau. Nói cách khác, bất hiếu với cha mẹ, chắc chắn chẳng thể “phụng sự sư trưởng”, chẳng có lẽ này! Chẳng thể phụng sự sư trưởng, nhất định là chẳng có tâm từ bi, chẳng thể có tâm từ bi. Không có tâm từ bi th́ làm sao có thể tu mười thiện nghiệp cho được? Chẳng có mười thiện nghiệp, làm sao có thể thọ tŕ Tam Quy? Người thọ tŕ Tam Quy chắc chắn viên măn Thập Thiện. Nh́n từ chỗ này, quư vị biết Tịnh Độ Tông là đạo dễ hành, nhưng thật ra cũng chẳng dễ dàng! Nếu dễ dàng, sẽ là một vạn người niệm Phật, một vạn người đều văng sanh. Cớ sao thầy Lư thường nói: Trong một vạn người niệm Phật, chỉ có đôi ba người văng sanh? Quư vị chú tâm quan sát đôi ba người văng sanh ấy, [sẽ thấy] họ thật sự làm được, xác thực là làm được [Tịnh nghiệp tam phước]. Phàm là những kẻ chẳng thể làm được, bề ngoài tuân phục, bên trong chống đối, sẽ chẳng thể văng sanh. Bất luận quư vị là tại gia hay xuất gia, quư vị mong sanh về Tịnh Độ chẳng dễ dàng dường ấy! Đức Phật đă nói rành rẽ, nhưng bản thân chúng ta chẳng làm theo.

      Ở đây, chúng tôi đơn giản là đọc lời chú giải cho quư vị nghe, đoạn này chẳng cần nói cặn kẽ, v́ chúng tôi vừa mới giảng tại giảng đường chưa lâu, tôi nhớ là giảng ba lượt, giảng xong ba điều này. Hy vọng mọi người sẽ t́m băng thâu âm để nghe kỹ càng, vô cùng quan trọng. Đây là mấu chốt để được văng sanh hay không? Không có cơ sở này, làm sao có thể niệm tốt đẹp một câu Phật hiệu cho được? Làm sao có thể niệm tương ứng? Nay chúng ta niệm A Di Đà Phật chẳng tương ứng, càng niệm phiền năo càng nhiều, niệm đến cuối cùng chẳng muốn niệm nữa, niệm không nổi. Đó là do thiếu phước. Đây là ba phước, niệm một câu A Di Đà Phật tương ứng, sẽ là người có đại phước báo, như vậy th́ mới có thể niệm tương ứng.

      Chúng ta xem ḍng thứ hai từ dưới đếm lên trong trang một trăm ba mươi bốn, xem từ câu thứ ba: “Tổng chi, dục tu tịnh nghiệp, phụ mẫu bất năng bất hiếu, sư trưởng hợp nghi phụng sự” (Nói chung, muốn tu Tịnh nghiệp, chẳng thể không hiếu thảo với cha mẹ, hăy nên phụng sự sư trưởng), “hợp nghi” (合宜) là hăy nên, “thân khẩu ư nghiệp, bất đắc bất thận” (thân, khẩu, ư nghiệp, chẳng thể không cẩn thận). Từ tâm, Thập Thiện là thân ba điều, khẩu bốn điều, ư ba điều, phải cẩn thận. “Thị phàm phu phận sở đương hành, cố viết cộng phàm phu” (là những điều nên hành thuộc vào bổn phận của phàm phu, nên nói là “cộng phàm phu”). Đây là đức hạnh cơ bản của nhân thiên; chẳng làm được chỗ này th́ nói cách khác, trong đời sau chẳng có tư cách được làm người hay trời! Đời sau chẳng đến được cơi nhân thiên, sẽ đến nơi đâu? Đương nhiên là vào trong ba ác đạo. Có thể thật sự giữ ǵn, làm được bốn câu này, đời sau quyết định chẳng đọa trong ba ác đạo, hưởng phước báo nhân thiên. Chẳng c̣n tranh căi chi nữa, cha mẹ có ân dưỡng dục, lẽ đâu chẳng báo? Đối với sư trưởng th́ có vấn đề, phải chọn lựa vị thầy chúng ta thân cận và bạn bè, cha mẹ chẳng thể tuyển chọn, chẳng có cách nào tuyển chọn, nhưng phải tuyển chọn thiện tri thức chân chánh, thân cận họ, bái họ làm thầy. Bái họ làm thầy th́ phải nghe lời, chẳng nghe lời sẽ vô dụng. Phụng sự sư trưởng th́ quan trọng nhất là y giáo phụng hành; do đó, chọn lựa thầy lại càng phải thận trọng hơn!

      Trong Phật môn, vị sư phụ ta quy y, vị thầy xuống tóc, vị thầy truyền giới đều chẳng trọng yếu. Đó là “sư phụ dẫn vào cửa, tu hành do cá nhân”. Điều này cũng giống như nói người giới thiệu chúng ta vào Phật môn chẳng quan trọng. Quan trọng là ǵ? Là vị thầy chỉ dạy chúng ta tu hành, trong Phật môn gọi vị thầy ấy là “vị thầy truyền pháp”, người đệ tử ấy được gọi là “pháp tử”. Trong Phật môn, hết sức coi trọng vị thầy này, gọi là “sư thừa”. Ta chẳng quy y với vị ấy, vị ấy cũng chẳng phải là giới ḥa thượng (ḥa thượng truyền giới) của ta, điều này chẳng sao cả! Ta theo vị ấy học pháp, vị ấy truyền pháp cho ta, vị ấy chính là ḥa thượng, là thân giáo sư của ta, điều này trọng yếu! Tu hành tại gia cũng là như thế, nhất định phải chọn lựa thiện tri thức. Thật ra, chọn lựa chẳng được, ai là thiện tri thức chân chánh, chúng ta cũng không nhận biết. Càng là thiện tri thức chân chánh, quư vị đến cầu Ngài, Ngài càng khiêm hư: “Tôi chẳng có ǵ để dạy quư vị, chính tôi cũng chưa thể liễu sanh tử!”, càng khiêm hư, càng khách sáo. Kẻ chẳng phải là thiện tri thức [sẽ lớn lối]: “Ta tu hành công phu tốt đẹp lắm, có thể phóng quang, ta có thần thông”. Hiện thời thật hay giả chẳng dễ ǵ phân biệt, vào lúc này th́ phải làm sao? V́ thế, tôi thường khuyên đồng tu chúng ta lấy cổ nhân làm thầy, chẳng sai, dùng phương pháp này!

      Vị thầy tốt nhất là A Di Đà Phật, há c̣n sai sao được? Trực tiếp học với A Di Đà Phật. A Di Đà Phật chẳng ở nơi đây, làm thế nào đây? Tịnh Độ Ngũ Kinh chính là [giáo huấn của Ngài], nương theo Tịnh Độ Ngũ Kinh để học, quư vị bái A Di Đà Phật làm thầy, bái Thích Ca Mâu Ni Phật làm thầy, chắc chắn các vị thầy chẳng sai lầm. Nếu nói “giáo huấn của các vị ấy quá sâu, tôi vẫn chưa hiểu”, cạn hơn một chút, gần gũi hơn một chút sẽ là Ấn Quang đại sư. Tuy Ấn Quang đại sư chẳng tại thế, Văn Sao vẫn c̣n. Ta mỗi ngày đọc Văn Sao, y giáo phụng hành, Ngài dạy ta làm như thế nào, ta liền làm như thế ấy. Pháp sư Ấn Quang là thầy của chúng ta, đó là đúng, chẳng sai lầm! Phải khéo chọn thầy, chọn lựa đồng tham đạo hữu, trong một đời này, chúng ta mới có thể đạt được thành tựu.

 

Tập 20

 

Xin xem kinh bổn, trang một trăm ba mươi lăm, hàng thứ nhất. Vừa mở đầu liền nói tiếp [những điều đang được nói trong] trang trước, tức là nói về bốn câu trong điều thứ nhất [của Tam Phước]. “Khẳng thận tựu dị, bất khẳng tựu nan” (chịu thận trọng [thực hiện] th́ dễ, không chịu sẽ là khó). Vấn đề là chúng ta có chịu thận trọng hay không? Có chịu nghiêm túc thực hiện hay không? Câu dưới đây nhằm giải thích phước thứ hai: “Đạo tục căn bản giới pháp, thượng thả thập nhân cửu phạm, thiểu lộ đa tàng, huống vi tế hạnh” (Đối với giới pháp căn bản của hàng xuất gia hay kẻ thế tục, lại c̣n là mười người hết chín kẻ phạm, ít kẻ bộc lộ, phần nhiều giấu diếm, huống là các hạnh vi tế), nói về chuyện tŕ giới.

Tam Quy là tổng cương lănh tu hành, cương lănh ấy ở ngay trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ, chính là Phật, Pháp, Tăng, Giác, Chánh, Tịnh. Trong tựa đề kinh, thanh tịnh là Tăng Bảo, b́nh đẳng là Pháp Bảo, giác là Phật Bảo, nên Tam Quy đều ở trong tựa đề kinh, đây là nguyên lư và nguyên tắc tu hành. Thực hiện từ tŕ giới, tức là “cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi” (trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi). Phạm vi của giới luật hết sức rộng. Trong kinh luận nhà Phật chỉ có thể nói một nguyên tắc, tuy có các hạng mục, nhưng đó là lúc Phật tại thế, trong hoàn cảnh sinh hoạt vào thời đại ấy, đó là các quy tắc mà mọi người ắt phải tuân thủ. Thời đại thay đổi, khu vực địa lư khác nhau, nhưng tinh thần giới luật quyết định chẳng thay đổi. Giới luật là tiêu chuẩn siêu phàm nhập thánh; nói cách khác, nó vượt trỗi giới hạn quốc gia, vượt trỗi giới hạn dân tộc, thậm chí vượt trỗi giới hạn của các chủng loại trong lục đạo, hết thảy hữu t́nh chúng sanh đều phải tuân thủ.

      Tinh thần giới luật là ǵ? Nói quy nạp lại, chỉ có hai câu: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Đó là tinh thần giới luật. Ác là ǵ? Thiện là ǵ? Trong Phật pháp, nói thật ra, có khá nhiều tiêu chuẩn khác nhau. Hiện thời, tiêu chuẩn khác nhau càng nhiều hơn nữa! Mỗi quốc gia có quan niệm thiện ác khác nhau, nhận biết khác nhau, mỗi địa phương cũng chẳng giống nhau, mỗi thời đại cũng chẳng giống nhau, chúng ta phải hiểu những điều này. Đức Phật chỉ nói nguyên tắc, rốt cuộc, chúng ta là người hiện thời, trong hoàn cảnh sống hiện thời, chúng ta chẳng phải là cổ nhân, mà cũng chẳng phải là người trong tương lai, nên nhất định phải hiểu nguyên tắc, phải tuân thủ tập tục và trào lưu đương thời, tức là đối với những ǵ mọi người đă quen tôn sùng, đề cao, chúng ta phải tuân thủ. Ư nghĩa chân chánh của giới luật là phải khiến cho ta và đại chúng chung sống ḥa thuận, đó là mục đích của giới luật. Hy vọng chính ḿnh đoạn ác, tu thiện, có thể đạt được cái tâm thanh tịnh. Mục tiêu lớn nhất của giới luật là đắc Định: “Nhân Giới sanh Định, nhân Định khai Huệ”. Quư vị phải biết đạo lư này rồi mới hiểu chúng ta phải nên tuân thủ giới luật như thế nào, giúp chúng ta đắc Định, giúp chúng ta buông xuống hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.

      Nhưng giới luật rất khó, khó ở chỗ nào? Từ vô thỉ kiếp tới nay, chúng ta phiền năo, tập khí quá nặng, một là phiền năo, hai là tà tri tà kiến, tức là cách nghĩ sai lầm, cách nh́n sai lầm. Một mực như vậy! Dẫu quốc gia ấn định pháp luật rất hay, chúng ta vẫn nghĩ trọn hết mọi phương pháp để kiếm lỗ hổng luật pháp, đó là chẳng tuân thủ luật lệ, chẳng tŕ giới! Những người ấy đều là những người rất thông minh, có thể kiếm ra lỗ hổng pháp luật, Phật pháp gọi thông minh kiểu đó là Thế Trí Biện Thông, chẳng phải là trí huệ chân thật. Người có trí huệ chân thật sẽ tuân thủ pháp luật; không chỉ là quyết định chẳng vi phạm những điều khoản được quy định bởi pháp luật, dẫu đối với những điều chẳng có trong văn bản pháp luật, nhưng xă hội, đạo đức chẳng chấp nhận, cũng nhất quyết chẳng vi phạm. Do vậy có thể biết: Tŕ giới thật khó! Do đó nói: “Đạo tục căn bản giới pháp”, “đạo” là người xuất gia, “tục” là kẻ tại gia. Giới pháp căn bản là ǵ? Ngũ Giới. Ngũ Giới là giới pháp căn bản. Có thể nói: Tinh thần của giới pháp căn bản không chỉ vĩnh viễn chẳng thay đổi, mà giới điều cũng là vĩnh viễn không thay đổi. Những giới luật khác, có thể do thời gian, do địa điểm mà tu chỉnh, sửa đổi thành Thanh Quy (清規) như người Hoa thường nói, tức là công ước thường trụ, đều thuộc loại giới luật được hiện đại hóa; nhưng năm điều [trong Ngũ Giới] chẳng thể sửa đổi, v́ sao? Đến bất cứ nơi nào trên thế giới, trong bất cứ thời đại nào, cũng đều có thể nói thông suốt, [nếu có khác biệt th́] tối đa là phạm vi giải thích rộng hay hẹp, sâu hay cạn sai khác. V́ thế, Ngũ Giới từ Sơ Phát Tâm cho đến Đẳng Giác Bồ Tát đều bất biến, đúng là giới pháp căn bản.

       “Thượng thả thập nhân cửu phạm” (lại c̣n mười người hết chín kẻ phạm), thật đấy! Mấy ai có thể tŕ Ngũ Giới tốt đẹp? Tỳ Kheo Giới, Bồ Tát Giới đều là h́nh thức! Dường như chẳng thọ Bồ Tát Giới th́ địa vị của ta trong Phật giáo sẽ thấp hơn người khác một bậc, ta không phải là Bồ Tát, họ đều là Bồ Tát. Đó là chấp vào tướng danh lợi, hiếu danh, ham lợi. Người thật sự tŕ giới, [luôn tâm niệm] giữ Ngũ Giới tốt đẹp sẽ là phi phàm! V́ thế, trong kinh Vô Lượng Thọ, từ chương ba mươi ba đến chương ba mươi bảy, quư vị chú tâm quan sát đôi chút, sẽ thấy đức Phật giảng về Ngũ Giới, Thập Thiện. Chúng ta có thể thực hiện tốt đẹp [những giáo huấn ấy], văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới quyết định chẳng có vấn đề ǵ. Đại giới rơ rệt như vậy mà c̣n làm không được, huống ǵ những giới hạnh vi tế? “Hựu huống tam thiên oai nghi, tỳ-kheo ngũ thiên thất tụ, cộng nhị bách ngũ thập điều, tŕ phạm, giai y hành, trụ, tọa, ngọa tứ nghi, mỗi nghi cụ nhị bách ngũ thập, tứ cộng thành thiên, lịch tam thế, thành tam thiên dă” (Huống hồ lại c̣n có ba ngàn oai nghi, năm thiên, bảy tụ[14], tổng cộng là hai trăm năm mươi điều, giữ, phạm, đều nương theo bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, mỗi oai nghi có đủ hai trăm năm mươi điều, do bốn oai nghi [nhân với hai trăm năm mươi điều ấy], nên tổng cộng thành một ngàn điều, trải qua ba đời [nên một ngàn điều trong mỗi đời nhân với ba đời] thành ba ngàn [oai nghi]). Do quá khứ, hiện tại, tương lai, nên gọi là “ba ngàn oai nghi”, mấy ai có thể làm được? Ngẫu Ích đại sư nói, Ngẫu Ích đại sư sống vào những năm cuối triều Minh, lăo nhân gia viên tịch vào thời đầu nhà Thanh. V́ thế, nay chúng ta thấy trong sách của Ngài có chỗ ghi là nhà Minh, có chỗ ghi là nhà Thanh, Ngài đều có thể viết như vậy được, v́ đă trải qua hai triều đại. Ngài nghiên cứu giới luật rất kỹ, gần giống như Hoằng Nhất đại sư trong thời cận đại cũng nghiên cứu giới luật rất kỹ. Ngài nói: “Tại Trung Hoa, từ triều đại Nam Tống trở về sau chẳng có tỳ-kheo”. Tỳ-kheo đă chẳng có, lấy đâu ra Tỳ Kheo Giới? Thật sự trở thành một vị tỳ-kheo, mức độ tối thiểu phải là có năm vị tỳ-kheo thật sự truyền giới th́ quư vị mới có thể đắc giới. Một tỳ-kheo c̣n chẳng có! Do vậy có thể biết: Truyền giới chỉ có h́nh thức, chẳng có thực chất. Về thực chất là chẳng có, chỉ có h́nh thức, nh́n bề ngoài th́ vẫn có.

      Cận đại, Hoằng Nhất đại sư càng nói rơ rệt hơn. Ngài trụ tại Mân Nam[15] một thời gian rất lâu, trụ tại Mân Nam Phật Học Viện thuộc chùa Nam Phổ Đà ở Hạ Môn. Quư vị thấy trong lời khai thị tại Phật Học Viện, Ngài đă nói rất thấu triệt: Có cần phải thọ giới hay không? Phải thọ! Thọ giới, nhưng trong tâm chính ḿnh phải hiểu rơ, quyết định là chẳng thể đắc giới, chỉ là thọ trên h́nh thức mà thôi! V́ sao là thọ giới trên h́nh thức? Để người thế tục khỏi phê b́nh: “Anh là loại người tăng chẳng ra tăng, tục chẳng ra tục”, người ta hủy báng! V́ thế, thọ giới trên h́nh thức. Đồng thời, đă thọ giới h́nh thức th́ chính ḿnh phải nghiên cứu giới luật kỹ càng, hiểu rơ một điều bèn giữ một điều, đó là thọ giới chân chánh. V́ lẽ đó, giới đàn là h́nh thức, người xuất gia và giới đàn đều là h́nh thức, huống hồ tại gia? Càng phải hiểu điều này rơ hơn. Thuở tôi học Phật, khi thân cận Chương Gia đại sư, Chương Gia đại sư hết sức coi trọng tŕ giới. Lăo nhân gia dạy tôi: “Tŕ giới là anh làm được một điều, bèn gọi là tŕ một điều”. Ngài chẳng khuyên tôi nơi nào có truyền giới, anh hăy đến đó thọ giới, chẳng có! Ngài dạy tôi hăy tuân thủ, làm theo. Hễ làm được một điều, tức là anh đă thật sự thọ giới điều ấy. Có thể thấy: Những bậc thiện tri thức thật sự sẽ trọng thực chất, chẳng coi trọng h́nh thức. H́nh thức chẳng khẩn yếu, thực chất mới là khẩn yếu.

      V́ lẽ đó, “ngôn bất phạm, thành phi dị dị” (Nói chẳng phạm, thật sự không dễ dàng), chẳng phạm giới thật sự không dễ dàng. Đặc biệt là giới Tiểu Thừa, giới Tiểu Thừa hoàn toàn kết tội theo sự tướng, rất khó! Thưa cùng chư vị, giới Đại Thừa lại càng chẳng dễ dàng. Giới Đại Thừa kết tội từ khởi tâm động niệm, c̣n rắc rối và khó khăn hơn Tiểu Thừa. Đối với Tiểu Thừa, ta chỉ cần làm trên h́nh thức là được, đă [được coi] là thật sự tŕ giới rồi, Đại Thừa xét theo khởi tâm động niệm. V́ thế, giới Đại Thừa nh́n bề ngoài là phóng khoáng, bất luận là xét theo tư tưởng, kiến giải, hay hành tŕ đều là phóng khoáng; Tiểu Thừa là câu nệ, dè dặt, bảo thủ, hết sức bảo thủ. Hai loại h́nh thái hoàn toàn bất đồng; nhưng [Đại Thừa] phóng khoáng mà tâm địa thanh tịnh vượt trỗi Tiểu Thừa. Nói cách khác, đức Phật chủ trương phóng khoáng, tự do, tự tại, chẳng câu nệ, chẳng bó buộc. Đức Phật cũng đề xướng tự do, b́nh đẳng, hoàn toàn giống như yêu cầu dân chủ tự do trong hiện tại. Hiện thời, chúng ta chỉ nói đến dân chủ, tự do, chẳng nói đến thanh tịnh, đáng sợ quá! Do chẳng nói đến chuyện thân tâm thanh tịnh, nên trong tự do b́nh đẳng có khá nhiều tệ nạn. Tự do, b́nh đẳng, dân chủ trong nhà Phật được kiến lập trên cơ sở thân tâm thanh tịnh, khác hẳn! Chúng được kiến lập trên cơ sở trí huệ ở một mức độ cao. Do vậy, họ tự tại, chẳng trở ngại người khác tự tại; đó mới là tự tại thật sự. Ta b́nh đẳng chẳng trở ngại người khác b́nh đẳng, hết thảy chúng sanh đều b́nh đẳng.

V́ thế, trong tâm mục của người hiện thời, truy t́m dân chủ, tự do, b́nh đẳng, trong Phật môn thật sự có những thứ ấy. Những thứ ấy ở đâu ra? Ắt cần phải đặt vững cơ sở Tiểu Thừa. Phật giáo truyền đến Trung Hoa, nói thật thà th́ kinh luận Tiểu Thừa được truyền đến Trung Hoa khá hoàn chỉnh. A Hàm Bộ trong Đại Tạng Kinh [tiếng Hán] sai khác tạng kinh [Nikaya] bằng tiếng Ba Lợi (Pāḷi) rất ít, gần như toàn bộ kinh điển Tiểu Thừa đều được phiên dịch [sang tiếng Hán]. Nhưng Tiểu Thừa giáo chỉ thịnh hành trong một thời gian ngắn vào thời Tùy - Đường; về sau, chẳng c̣n nữa, nguyên nhân là đâu? Nguyên nhân là đă bị Nho gia và Đạo gia của Trung Hoa thay thế. Quư vị đọc sách của Khổng Tử và Lăo Trang đă đủ để tốt đẹp vẹn toàn như pháp Tiểu Thừa. V́ vậy, người học Phật tại Trung Hoa trước kia do đều có cơ sở Nho và Đạo đă được vun bồi rất tốt đẹp, nên chẳng cần phải tốn thời gian học giáo pháp Tiểu Thừa, mà trực tiếp tiến nhập Đại Thừa.

      Nhưng cho đến gần đây nhất, một trăm năm qua đáng thương lắm, giáo pháp Tiểu Thừa đă sớm bị bỏ mất, chẳng hưng khởi nữa. Nếu quư vị đọc kinh Tiểu Thừa, người b́nh phàm đều coi thường quư vị. Sách Nho gia cũng chẳng đọc, sách Đạo gia cũng vứt bỏ, cứ như vậy mà trực tiếp học Đại Thừa, đă không có nền tảng, tu pháp Đại Thừa bằng cách nào? Tu suốt một đời, vẫn chẳng thể thành tựu. Quư vị nói xem: Như vậy th́ làm sao được? Đây là một vấn đề khó khăn nhất trong chuyện học Phật ngày nay. Nay chúng ta có cần phải đặt vững cơ sở nơi Tiểu Thừa hay không? Đối với người Hoa mà nói, thật ra chẳng cần, v́ sao? Người Hoa đọc kinh Tiểu Thừa, chẳng bằng đọc Tứ Thư, Ngũ Kinh, Thập Tam Kinh của Nho gia, chẳng bằng đọc những thứ ấy. Đó là những thứ của người Hoa, nên họ đọc [các tác phẩm ấy] sẽ đích xác là thuận tiện, dễ đọc, học dễ dàng! Kinh điển Tiểu Thừa dịch từ Phạn văn ra, [nhiều khi] dịch không khéo, chẳng lưu loát, trôi chảy như kinh Đại Thừa, nên kinh Tiểu Thừa chẳng dễ đọc. Chúng ta phải biết điều này.

      Sau khi đă biết, chúng ta mới biết từ nay trở đi nên đi theo con đường nào. Thật sự học Phật, nói thật thà, chẳng thể không đọc Tứ Thư, v́ sao? Thay cho Tiểu Thừa. Đương nhiên có thể đọc Ngũ Kinh th́ càng tốt hơn, nói đến Ngũ Kinh th́ phân lượng quá nhiều, ta chẳng có cách nào thọ tŕ. Nếu ít hơn [Ngũ Kinh] th́ ít tới mức chẳng thể nào ít hơn được nữa, chính là Tứ Thư. Đây là bộ sách dành cho người đọc sách tại Trung Hoa do Châu Hy đă chọn ra từ khá nhiều kinh điển. Ư tưởng chọn lựa của ông ta rất viên măn. Trong Tứ Thư có lư luận, có phương pháp, lại c̣n kèm theo biểu diễn. Nói thật ra, chúng tôi chỉ có thể suy đoán, đoán ṃ mà thôi, v́ chẳng t́m được chứng cứ, tôi chẳng nghiên cứu về ông Châu, chẳng hiểu rơ cuộc đời của ông ta cho lắm. Ông ta biên tập Tứ Thư, có nhận thức rất giống với kinh Hoa Nghiêm. Có phải là do ông ta đọc Hoa Nghiêm mà được linh cảm hay không th́ tôi chẳng biết, nhưng [cách thức biên tập] rất giống kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm có lư luận, có phương pháp, lại c̣n kèm thêm biểu diễn. Phần đầu kinh Hoa Nghiêm giảng về lư luận, phẩm Ly Thế Gian giảng về phương pháp tu hành. Phẩm Nhập Pháp Giới là Thiện Tài đồng tử và năm mươi ba vị thiện tri thức nêu gương cho chúng ta thấy, hoàn toàn biểu hiện lư luận và phương pháp trong cuộc sống hiện tại, giống như diễn tuồng, diễn luyện cho chúng ta xem. V́ thế, sự giáo học như vậy đúng là đă đạt tới viên măn cùng cực.

      Tứ Thư giống như thế đó. Trung Dung là lư luận, Đại Học là phương pháp, [sách Luận Ngữ của] Khổng lăo phu tử và Mạnh Tử giống như Thiện Tài đồng tử và năm mươi ba vị thiện tri thức. Quư vị thấy: Ứng dụng lư luận và phương pháp của Đại Học và Trung Dung vào cuộc sống, ứng dụng trong xử sự, đăi người, tiếp vật như thế nào? Nói cách khác, Khổng lăo phu tử làm được, Mạnh Tử làm được. Hai người ấy gần giống như Thiện Tài đồng tử biểu diễn cho chúng ta thấy, làm điển h́nh, nêu gương cho người Hoa. Người Hoa [cần phải] giống như thế nào? Khổng Tử là người Hoa, Mạnh Tử là người Hoa. Người Hoa học làm một người Hoa [đúng nghĩa] th́ phải lấy Mạnh Tử, Khổng Tử làm khuôn phép, học giống như họ. Nói thật ra, đức hạnh của họ chẳng kém Tiểu Thừa, trí huệ vượt trỗi Tiểu Thừa, trí huệ và tâm lượng đều vượt trỗi Tiểu Thừa, hết sức gần với Đại Thừa. V́ vậy, từ Nho nhập Phật, so với từ Tiểu Thừa nhập Phật, tiến nhập Đại Thừa hay hơn quá nhiều. Do đó, chẳng thể không đọc Tứ Thư, không có cơ sở này sẽ chẳng được. Chính ḿnh tu hành c̣n phải có cơ sở này, huống là hoằng pháp lợi sanh, phải giảng giải Phật pháp cho người khác, quư vị thiếu cơ sở này th́ làm sao được?

      Tôi dạy học tại Mỹ, ước định bảy môn học, bảy môn học ấy mức độ thấp nhất là phải học thuộc ḷng. Trong bảy môn học ấy có Tứ Thư, phải học thuộc. Chẳng thể thuộc, sẽ không có tư cách giảng kinh. Trong bảy môn học của tôi, kinh gồm có bốn loại là kinh Vô Lượng Thọ, Di Đà Kinh Yếu Giải, Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh, đây là một bộ kinh Tiểu Thừa. Kinh gồm ba bộ Đại Thừa, một bộ Tiểu Thừa. Ba loại khác là Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng Thiên và Tứ Thư. Tôi chọn bảy loại này, nếu chẳng thể học nhuần nhuyễn bảy thứ này, chẳng có tư cách giảng kinh. Chính quư vị tu hành th́ chẳng cần nhiều như vậy, chọn lấy một loại trong kinh điển, nhưng phải đọc Tứ Thư, thuộc hay không chẳng sao hết. Nếu phát tâm hoằng pháp lợi sanh, bảy loại này là cơ bản, tôi cũng đă chọn tối thiểu rồi, không thể nào ít hơn được nữa, chẳng có cách nào ít hơn, do đă hạ thấp tiêu chuẩn đến mức độ thấp nhất. Các đồng tu phải thật sự biết điều này, nếu thật sự muốn phát Bồ Đề tâm hoằng pháp lợi sanh, phải thật sự dốc hết tánh mạng để làm. Tiếp đó, sách [Sớ Sao Diễn Nghĩa] viết: “Phát Bồ Đề, tín nhân quả, tụng Đại Thừa, giai tự lợi, duy khuyến tấn cú, thị lợi tha. Nhị lợi cụ bị, cố thị Đại Thừa” (phát Bồ Đề, tin nhân quả, tụng Đại Thừa đều là tự lợi, chỉ có câu “khuyến tấn hành giả” là lợi tha. Hai điều lợi (tự lợi và lợi tha) trọn đủ, cố nhiên là Đại Thừa). Khi giới thiệu Sớ Sao, chúng tôi đă nói với các vị đồng tu ư nghĩa này. Chúng ta lại xem phần sau là phần Kết Thán, kinh văn ở ngay sau đó.

 

      Phật cáo Vi Đề Hy: “Nhữ kim tri phủ? Thử tam chủng nghiệp, năi thị quá khứ, vị lai, hiện tại tam thế chư Phật tịnh nghiệp chánh nhân.

希。汝 不。此 業。乃 因。

(Phật bảo Vi Đề Hy: “Nay bà có biết chăng? Ba nghiệp ấy chính là tịnh nghiệp chánh nhân của quá khứ, vị lai, hiện tại tam thế chư Phật”).

 

      Cần phải ghi nhớ đoạn kinh văn này. Chúng ta có muốn thành Phật hay không? Muốn thành Phật th́ nhất định phải tu mười một câu trên đây, nhất định phải tu, phải nghiêm túc tu Tam Phước, không tu sẽ chẳng thành Phật. Quá khứ Phật, vị lai Phật, hiện tại Phật, chẳng có vị Phật nào không tuân thủ nguyên tắc này. Nói cách khác, chẳng có vị Phật nào là ngoại lệ, có vị nào không tu những điều này mà thành tựu hay không? Chẳng có! Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là thành Phật, nên người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, bất luận là tích đức văng sanh, hay sám tội văng sanh, cũng phải trọn đủ ba phước ấy. Chẳng đầy đủ ba phước, nay quư vị niệm Phật, niệm A Di Đà Phật, chỉ có thể nói là kết pháp duyên, đời này chẳng thể văng sanh. Muốn văng sanh trong một đời này, phải ghi nhớ điều này, phải y giáo phụng hành.

      Trong phần sau của lời chú giải, Đế Nhàn đại sư có dặn ḍ chúng ta mấy câu cũng rất quan trọng, hăy xem từ nửa đoạn nơi ḍng thứ hai trong trang một trăm ba mươi sáu. “Thiết vị” (trộm cho rằng), [hễ mở đầu bằng chữ] “thiết vị” th́ chính là lời của Đế Nhàn đại sư. “Tam chủng kư vân chư Phật chánh nhân, cụ kiến chư Phật” (Đă nói ba điều ấy là chánh nhân của chư Phật, đủ thấy chư Phật), “cụ” () là cụ thể, chúng ta có thể thấy hết thảy chư Phật, “bất cẩn tu Đại Thừa, tức tiểu thánh phàm phu chi hạnh, diệc sở đương hành dă” (không chỉ tu Đại Thừa, dẫu là hạnh của tiểu thánh hay phàm phu cũng đều nên hành). Mười một câu trên đây, chẳng có ai là không y giáo phụng hành, nghiêm túc tu học, như vậy th́ mới có thể thành tựu. Nay chúng ta chẳng cần hai đoạn trước, ta đọc thấy “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả”, chỉ cần điều này, có thành tựu được chăng? Giống như một ṭa cao ốc, chẳng cần hai tầng dưới, ta muốn xây tầng thứ ba mà thôi, quư vị xây bằng cách nào? Cách nghĩ ấy gọi là tà tri tà kiến, chẳng biết tu từ căn bản! Phát Bồ Đề tâm kiểu đó th́ Bồ Đề tâm [mà quư vị đă phát] là giả trất! Thật sự phát Bồ Đề tâm, phải thực hiện từ hiếu thuận cha mẹ, đó là thật sự giác ngộ, triệt để giác ngộ.

      Do vậy, Phật pháp, đặc biệt là Đại Thừa Phật pháp, được kiến lập trên cơ sở hiếu đạo. Giáo học của Nho gia cũng được kiến lập trên cơ sở hiếu đạo. V́ thế, có thể biết: Giáo học thế gian và xuất thế gian đều lấy hiếu đạo làm căn bản. Nay chúng ta nói giáo dục thất bại, thất bại ở chỗ nào? Thiếu căn bản! Trong nhà trường chẳng dạy hiếu đạo, đó là giáo dục triệt để thất bại. Con người chẳng hiếu thảo với cha mẹ, sẽ chẳng thể tôn trọng thầy. Chẳng hiếu thảo với cha mẹ, chẳng tôn trọng thầy, chắc chắn sẽ không trung với quốc gia, chẳng yêu thương dân chúng, chẳng thể nào! Sau khi học thành sẽ như thế nào? Tự tư tự lợi. Ai nấy đều cầu lợi ích cho bản thân, lẽ đâu quốc gia và xă hội chẳng loạn? Đôi bên tranh giành lợi lộc. Giáo dục xưa kia là bỏ ḿnh v́ người, cầu ǵ? Cầu xă hội an ḥa, lợi lạc, cầu điều này, chẳng cầu v́ cá nhân, nhấn mạnh “hy sinh ḿnh v́ người khác”. Gia tộc xưa kia là đại gia tộc, hiện thời là tiểu gia đ́nh. Trong đại gia tộc, quan niệm luân lư, đạo đức vô cùng trọng yếu. Chẳng có điều ấy, sẽ không thể duy tŕ, gia tộc ấy sẽ rối loạn. Do hiện thời những chuyện này đều bị bỏ sạch, đă bị bỏ sạch th́ làm sao? Chỉ có duy nhất tiểu gia đ́nh. Tiểu gia đ́nh vẫn có vấn đề, vấn đề ở chỗ nào? Quư vị thấy [trong xă hội tỷ lệ] ly hôn bao nhiêu? Nếu quư vị hỏi do nguyên nhân nào ư? Chẳng có giáo dục! Chẳng biết mối quan hệ giữa con người với nhau! Vợ chồng có quan hệ ǵ? Cha con có quan hệ ǵ? Anh em có quan hệ ǵ? Thảy đều không có. Ta có lợi, ta có tiền, chỉ thấy mối quan hệ ấy. Trừ danh lợi ra, những thứ khác đều chẳng đáng quan tâm, đáng sợ quá! Đáng ngán lắm, đáng kinh hăi quá! Chỉ mưu cầu lợi! V́ thế, đấy là chỗ thất bại triệt để trong giáo dục.

      Nhưng giáo dục đă phạm sai lầm ngần ấy năm, nay mọi người đều chẳng giác ngộ, cứ tưởng sự phát triển trong hiện thời là b́nh thường, không biết quay đầu; [cứ nghĩ] quay đầu là lạc hậu, là giáo dục phong kiến. Do đó, nhất định là có đại tai nạn. Sau khi đại tai nạn đă xảy ra, người ta sẽ suy nghĩ cẩn thận, nghĩ xem nguyên nhân nào khiến cho tai nạn phát sanh? Lại đi t́m cội rễ, t́m đến cuối cùng, vẫn thấy giáo dục của cổ nhân là đúng. Trong đại tai nạn ấy, người trên thế giới chết từ một nửa đến hai phần ba, con người mới giác ngộ, mới tỉnh ngộ. Không có tai nạn như vậy, sẽ mê hoặc, điên đảo, vĩnh viễn chẳng thể quay đầu. Trong những lănh tụ trên thế giới hiện thời, tôi rất bội phục ông Lư Quang Diệu, Lư Quang Diệu có tầm nh́n xa. Do vậy, tại Tân Gia Ba, trong trường học, [học tṛ phải] học cổ thư Trung Hoa, học Phật học. Nhà trường có môn học về Phật học. Chúng tôi chỉ nghe nói ông ta tán thán văn hóa cố hữu của Trung Hoa. Tôi nghe các đồng tu Tân Gia Ba kể: Ông Lư Quang Diệu từng nói trên TV và radio, ông ta rất nuối tiếc là chính ḿnh được giáo dục theo kiểu Anh. Ông ta nói nếu ḿnh được giáo dục theo cách giáo dục truyền thống của Trung Hoa, thành tích chánh trị của Tân Gia Ba hiện thời phải vượt xa rất nhiều lần. Đây cũng là từng hứng chịu nỗi đau thê thảm về mặt giáo dục, quay lại phản tỉnh, có chút nhận thức nền văn hóa Trung Hoa.

      V́ thế, đoạn văn này là phần vô cùng quan trọng trong bộ kinh; trong mười sáu phép Quán, phép Quán thứ mười sáu là Tŕ Danh, nắm được hai đoạn ấy, quư vị sẽ đạt được toàn bộ công đức và lợi ích. Chúng ta lại xem phần kinh văn tiếp theo:

 

Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: “Đế thính! Đế thính! Thiện tư niệm chi, Như Lai kim giả vị vị lai thế nhất thiết chúng sanh, vị phiền năo tặc chi sở hại giả, thuyết thanh tịnh nghiệp. Thiện tai Vi Đề Hy, khoái vấn thử sự”.

希。諦 聽。善 之。如 生。為 者。說 業。善 希。快 事。

(Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Lắng nghe! Lắng nghe! Hăy khéo nghĩ nhớ, Như Lai nay sẽ v́ hết thảy chúng sanh là những kẻ bị giặc phiền năo làm hại trong đời vị lai mà nói nghiệp thanh tịnh. Lành thay Vi Đề Hy, khéo hỏi chuyện này).

 

      Khởi đầu, đương cơ phát khởi của kinh này là tôn giả Vi Đề Hy. Phật lại gọi cả ngài A Nan [bảo hăy lắng nghe], ngài A Nan có quan hệ ǵ với kinh này? Ngài A Nan có quan hệ rất lớn, v́ sao? V́ kinh này được nói trong hoàng cung, đức Phật nói kinh này, đệ tử Phật chỉ có hai người được nghe. Các đệ tử thường tùy gồm một ngàn hai trăm năm mươi người chẳng nghe, họ ở núi Linh Thứu, chẳng theo đến, nên không được nghe. Nhưng qua phần khai kinh, chúng ta thấy các Ngài đều được nghe, được nghe như thế nào? Ở đây, đức Phật bảo ngài A Nan phải nghe kỹ, quay về, sẽ đem những ǵ ta đă nói bảo với họ, nên các Ngài đều được nghe. Đây là nguyên nhân khiến đức Phật gọi ngài A Nan ở chỗ này, đó là một nguyên nhân.

Nguyên nhân thứ hai, trong tương lai, ngài A Nan kết tập Kinh Tạng, là người truyền pháp, nên Ngài nhất định phải nghe kỹ càng. V́ thế, đối với hai người theo Ngài đến đây, Ngài chẳng gọi ngài Mục Kiền Liên lắng nghe, mà bảo A Nan lắng nghe, “thiện tư niệm chi” (hăy khéo nghĩ nhớ). Ở đây, đức Phật thuyết pháp cũng là “vị vị lai thế nhất thiết chúng sanh” (v́ hết thảy chúng sanh trong đời vị lai), muốn tu tịnh nghiệp, hy vọng văng sanh Tịnh Độ. Pháp môn này hữu ích rất lớn, có thể khiến cho hết thảy chúng sanh ai nấy được măn nguyện. Cuối cùng lại hết sức tán thán phu nhân Vi Đề Hy: Bà hỏi rất hay! Do câu hỏi này của bà, chẳng biết bao nhiêu người được lợi ích!

      Chúng ta xem lời giải thích của lăo ḥa thượng Đế Nhàn, trong trang một trăm ba mươi bảy, hàng thứ nhất, xem từ câu cuối cùng: “Thiết vị, tường Như Lai ư” (trộm cho rằng: Xét kỹ ư Như Lai), quan sát tỉ mỉ, cẩn thận ư nghĩa trong lời dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật. “Tam chủng tịnh nghiệp, chuyên vị mạt thế chúng sanh nhi thuyết” (ba thứ Tịnh nghiệp chuyên v́ chúng sanh đời Mạt Pháp mà nói). Cụ Đế Nhàn cho rằng: [Ba thứ Tịnh nghiệp] được đặc biệt nhấn mạnh đối với chúng sanh trong thời kỳ Mạt Pháp, v́ sao? Quả thật, như trong phước thứ nhất, lúc đức Phật chưa xuất hiện tại Trung Hoa, Nho gia đă làm được. Nay chúng ta vứt bỏ giáo dục của Nho gia, nên mới cảm thấy mấy câu này của đức Phật quan trọng, xưa kia, mọi người đọc đến điều này đều làm được. Học giáo pháp Tiểu Thừa, “thọ tŕ Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi” (thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi), họ cũng đều rất thật thà làm được. V́ thế, trong thuở ấy, đức Phật đặc biệt nhấn mạnh pháp Bồ Tát. Đức Phật đặc biệt nêu ra ba điều này, quả thật nhằm đối trị chúng sanh trong thời Mạt Pháp, Mạt Pháp rất khổ! Như chúng ta hiện đang gặp nạn này, thật sự rất khổ, chẳng hề có tiền lệ trong lịch sử. Lịch sử xưa nay, trong ngoài nước chưa hề có [t́nh trạng này]. Đừng thấy hiện thời khoa học kỹ thuật phát triển, Đài Loan giàu có dường ấy [mà lầm], hăy mở sử sách ra xem, [sẽ thấy hiện thời] đau khổ và bần cùng hơn bất cứ thời đại nào. Bần () là ǵ? Chẳng có trí huệ; Tiện () là chẳng có địa vị, trong xă hội, chẳng có ai tôn trọng quư vị. Trước kia làm quan th́ ghê gớm lắm, dân chúng ai chẳng kính sợ quư vị? Vừa cung kính, vừa sợ hăi. Nay th́ ngay cả Tổng Thống c̣n có kẻ chỉ vào mặt mắng nhiếc, quư vị thấy đúng là chẳng ra thể thống chi cả! Trước kia, hành chánh viện trưởng (thủ tướng), huyện thị trưởng ghê gớm lắm, nay đi ra ngoài, ai quan tâm tới? Ngay cả những kẻ bán hàng rong trên phố trông thấy họ c̣n chẳng thèm ngó tới. Thiên hạ đại loạn, toàn thể xă hội mất trật tự, trật tự xă hội bị hủy mất, đáng sợ quá!

Lễ đă băng hoại, lễ là cao thấp, tôn ty có trật tự; hiện thời, lễ đă băng hoại, thiên hạ đại loạn. Thuở sinh tiền, Lăo Tử dạy học đă nói: “Đạo thất nhi hậu hữu đức” (đạo đă mất, nhưng hăy c̣n đức). Đạo đă mất, nhưng c̣n có đức để duy tŕ. “Đức thất nhi hậu nhân, nhân thất nhi hậu nghĩa, nghĩa thất nhi hậu lễ” (Đức đă mất hăy c̣n nhân, nhân đă mất hăy c̣n nghĩa, nghĩa đă mất th́ hăy c̣n lễ). Lễ là cuối cùng, là tầng cấp thấp nhất. Lễ mất luôn th́ thiên hạ đại loạn. Sau thời Khổng Tử, nói thật ra, mỗi triều đại đều bảo vệ lễ, măi cho đến những năm cuối triều Măn Thanh. Trong giáo dục, quốc gia hết sức coi trọng [lễ], nên có khi giáo dục được gọi là “lễ giáo”, cũng là có đạo lư. Tới đầu thời Dân Quốc, các sinh viên sang du học ngoại quốc, cho rằng ngoại quốc tự do, b́nh đẳng, c̣n lễ giáo Trung Hoa quá sức bó buộc con người, lễ giáo là lễ giáo “ăn thịt người”, muốn đả đảo nó. Do đă đả đảo, nên mới có kết cục như hiện thời. Đảng Cộng Sản thống trị Trung Hoa Đại Lục, xă hội hiện thời động loạn như vậy, đều là kết cục sau khi lễ giáo băng hoại. Tuy giàu, giàu mà chẳng vui, tâm chẳng thể an, thật sự chẳng được vui sướng. Nói cách khác, vật chất chẳng thiếu thốn, nhưng tinh thần hết sức trống trải. Cuộc sống thiếu tinh thần khổ lắm! Chúng ta quan sát cặn kẽ, chú tâm phản tỉnh, phải t́m ra cái gốc bệnh. Chẳng thể cứu xă hội th́ tối thiểu là phải cứu chính ḿnh, phải khiến cho cuộc sống tinh thần của chính ḿnh được sung măn. Để sung măn cuộc sống tinh thần của chính ḿnh, không ǵ bằng đọc sách Khổng Mạnh, đọc Đại Thừa Phật pháp rồi mới cảm thấy sống một đời này c̣n có chút ư nghĩa, cuộc đời vẫn có chút ư nghĩa, có chút giá trị. Nếu chẳng đọc sách Khổng Mạnh, không đọc Đại Thừa Phật pháp, luống uổng đời này, đời người chẳng có ư nghĩa, không có giá trị. Có tiền, nhưng đáng bao nhiêu tiền? Chẳng đáng giá! Chúng ta phải chú ư, phải lưu ư những chỗ này. Ở đây, hiểu dụng ư thuyết pháp của đức Phật, chính là v́ người trong thời đại hiện tại này mà nói, nên ở đây đặc biệt nhấn mạnh ba thứ Tịnh nghiệp.

       “Dĩ diệt hậu chúng sanh, chướng đại tặc cường, Pháp Thân huệ mạng yểu thương, bất hữu tam chủng Tịnh nghiệp, thùy năng bảo nhậm, cố vân vị vị lai thế đẳng” (Do chúng sanh sau khi đức Phật diệt độ, chướng to, giặc phiền năo mạnh mẽ, Pháp Thân huệ mạng gần như đoạn tuyệt, nếu chẳng có ba thứ Tịnh nghiệp, ai có thể đảm bảo. Do đó, nói “v́ đời vị lai” v.v…). Nói rất hay, tŕnh bày hết sức rơ ràng, hết sức minh bạch. Sau khi đức Phật diệt độ, tại Trung Hoa, Khổng phu tử đă khuất, ít có kẻ chánh tri chánh kiến! “Chướng đại, tặc cường”: Chướng là nghiệp chướng, Tặc là phiền năo. Phiền năo ngày càng nặng, nghiệp chướng cũng ngày càng sâu. “Pháp Thân huệ mạng yểu thương”: Pháp Thân huệ mạng gần như đoạn tuyệt. Học Phật, phải mong thành Phật, phải mong văng sanh, văng sanh thành Phật chính là Pháp Thân huệ mạng, làm thế nào để duy tŕ Pháp Thân huệ mạng? Sử dụng ba thứ tịnh nghiệp này. Do đó, không chỉ là tu Tịnh Độ nhất định phải tuân thủ ba thứ Tịnh nghiệp, mà tu học Đại Thừa Phật pháp, bất luận là tông nào, bất luận pháp môn nào, nếu không ra sức thực hiện từ mười một câu ấy, có thể đoan quyết người ấy chẳng thể thành công. Bản thân chúng ta tu học cũng giống như vậy, niệm Phật cũng thế, mà tham Thiền cũng thế, tŕ chú cũng thế, bất luận quư vị tu pháp môn nào, chẳng làm được mười một câu này, có thể nói là sự tu học của quư vị chỉ tu được một chút si phước nhân thiên [mà thôi]. Nói si phước nhân thiên là rất cung kính quư vị, chứ nói không chừng quư vị phải vào ba ác đạo để hưởng một chút si phước ấy. Ác đạo cũng có trường hợp rất có phước, súc sanh đạo có phước, chúng tôi đă thấy rất nhiều. Quư vị thấy người ngoại quốc nuôi những con vật cưng, chúng thật sự có phước! Chủ nhân hầu hạ nó chẳng thiếu một điều nhỏ nhặt nào, chết đi c̣n được chôn ở phần mộ chung, [chủ nhân] c̣n thường đến cắm hoa, c̣n đến thương tiếc chúng, đúng là có phước! Những súc sanh ấy đều là kẻ đời trước niệm Phật tu hành.

      Chúng ta lại xem đoạn kinh văn kế tiếp:

 

      A Nan! Nhữ đương thọ tŕ.

持。

      (A Nan! Ông hăy nên thọ tŕ).

 

      Câu này rất quan trọng! Quư vị thấy mỗi đoạn đều đặc biệt gọi A Nan, Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn chưa chỉ dạy, mà đă đặc biệt bảo A Nan “nhữ đương thọ tŕ”.

 

      Quảng vị đa chúng tuyên thuyết Phật ngữ.

      語。

      (Rộng v́ nhiều người tuyên nói lời Phật).

     

Dặn ḍ ngài A Nan phải truyền pháp.

 

      Như Lai kim giả, giáo Vi Đề Hy cập vị lai thế nhất thiết chúng sanh, quán ư Tây Phương Cực Lạc thế giới. Dĩ Phật lực cố, đương đắc kiến bỉ thanh tịnh quốc độ, như chấp minh kính, tự kiến diện tượng, kiến bỉ quốc độ cực diệu lạc sự, tâm hoan hỷ cố, ứng thời tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

者。教 生。觀 西 界。以 故。當 土。如 鏡。自 像。見 土。極 事,心 故。應 忍。

(Như Lai nay sẽ dạy Vi Đề Hy và hết thảy chúng sanh trong đời vị lai quán Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do Phật lực, sẽ thấy cơi nước thanh tịnh ấy, như cầm gương sáng tự thấy vẻ mặt. Thấy các sự vui tột bậc mầu nhiệm trong cơi ấy, do tâm hoan hỷ, nên ngay khi đó, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn).

 

      Đặc biệt phó chúc tôn giả A Nan thọ tŕ, hoằng dương và tiếp nhận pháp môn này, tu học [pháp môn này] sẽ đạt được công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Đoạn văn này chứng tỏ bộ kinh này là Viên Đốn đại giáo, v́ hành nhân sẽ chứng Vô Sanh Pháp Nhân chẳng tuân theo thứ tự, ngay lập tức bèn chứng đắc, nên thuộc loại Đốn giáo, có cùng một ư nghĩa với “hoặc một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm bất loạn” trong kinh Di Đà. Người tu hành dùng cái tâm chân thành của chính ḿnh để cầu sanh Tịnh Độ, chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Khi Phật ứng, Phật có thể hiện thân, chứng minh cho quư vị, hiện tướng lành, đó gọi là “hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật”. Ở đây nói là “dĩ Phật lực cố, đương đắc kiến bỉ thanh tịnh quốc độ, như chấp minh kính, tự kiến diện tượng” (Do Phật lực nên sẽ thấy cơi nước thanh tịnh ấy, như cầm gương sáng tự thấy vẻ mặt). Đây là thấy trước khi được văng sanh. Giống như Huệ Viễn đại sư trong quá khứ, trong một đời, lăo nhân gia đă thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới ba lần, trông thấy trạng huống giống hệt như trong kinh dạy.

      Thuở Viễn Công tại thế, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật c̣n chưa được dịch ra, kinh A Di Đà cũng chưa phiên dịch, lăo nhân gia căn cứ kinh Vô Lượng Thọ, chỉ có kinh Vô Lượng Thọ. Trong Tịnh Độ Tam Kinh, kinh Vô Lượng Thọ được truyền đến Trung Hoa sớm nhất. Thuở ấy, Viễn Công đại sư nương theo một bộ kinh để tu tŕ, thành lập Liên Xă ở Lư Sơn, Tịnh Độ Tông được thành lập tại đó. Những người chí đồng đạo hợp, chuyên tu Tịnh Độ cầu văng sanh thế giới Cực Lạc. Một trăm hai mươi ba người niệm Phật ở Lư Sơn. Lăo nhân gia ba lượt thấy Tịnh Độ, kinh Lăng Nghiêm nói là “hiện tiền thấy Phật”, Ngài thấy Phật ngay trong hiện tiền. Trong quá khứ, người niệm Phật hoặc là trong Định, hoặc trong niệm Phật đường, hoặc trong khi chính ḿnh đang tu học, đi, đứng, nằm, ngồi, thấy thánh tượng A Di Đà Phật, thấy ao báu trong thế giới Tây Phương, thấy y báo và chánh báo trang nghiêm của thế giới Tây Phương, những chuyện này được ghi chép rất nhiều. Thời cận đại, ít người [trông thấy] hơn. Thời cận đại như tôi biết, tại Cựu Kim Sơn, cư sĩ Cam Quư Huệ trong khi niệm Phật thấy hoa sen, trên hoa sen có đề tên ông ta, tương ứng với điều kinh đă nói. Đó là Phật dùng thần lực chứng minh cho quư vị. Quư vị tu hành đến một mức độ kha khá, bèn hiện tướng chứng minh cho quư vị ḥng tăng cường tín tâm.

      Chúng ta tu tŕ chẳng thấy tướng [tốt lành]; nói cách khác, Phật biết quư vị chưa đủ mức. Nếu Phật hiện tướng ấy, quư vị sẽ phát cuồng! Vừa thấy tướng lành ấy, bèn tự cảm thấy ta ghê gớm lắm, kiêu căng, ngă mạn: “Ta tu hành đă thành tựu. Các ngươi xem đó, các ngươi chẳng có công phu, nên đều chẳng trông thấy”. Người ấy liền phát cuồng, phát cuồng là phiền năo sanh khởi, tâm thanh tịnh ngay lập tức mất đi. Khi cổ nhân trông thấy tướng lành, thấy mà như không thấy, không chỉ hoàn toàn chẳng động tâm, mà cũng chẳng kể với ai. Đến khi nào sẽ nói với người khác? Khi người ấy văng sanh, mọi người đưa người ấy đi văng sanh, người ấy kể cho mọi người biết kinh nghiệm khi trước. Như Viễn Công là lúc sắp văng sanh bèn bảo các đồng tu: “Ta lại thấy cảnh giới Tây Phương. Trong quá khứ, từng thấy hai lần, nay lại trông thấy, ta sắp đi rồi”. Khi đó mới tuyên bố, trước nay chưa hề kể cảnh giới với người khác. Nay vừa thấy đôi chút, ngay cả khi chỉ thấy một chút phưởng phất, đă vội vă đi khắp nơi tuyên dương, cứ sợ kẻ khác chẳng biết, c̣n phải viết thành sách. Quư vị nói xem, c̣n làm sao được nữa? Thậm chí c̣n có kẻ chẳng thấy, nhưng sợ người ta nói chính ḿnh chẳng có công phu, vẫn muốn lừa gạt kẻ khác, [bịa chuyện] ta thấy này thấy nọ! Gạt người, bịa chuyện đơm đặt! Chuyện này tại Trung Hoa lẫn ngoại quốc quá phổ biến, quá nhiều!

      Hễ nghe thấy, quư vị phải chú ư, quyết định là giả, quyết định chẳng thể là thật, v́ sao? Nếu là thật, lẽ nào người ấy chịu khinh dễ nói với quư vị. Chẳng thể nào khinh thường, dễ dăi nói cho quư vị biết. Thật sự gặp cảnh giới ấy th́ có thể nói với ai? Đại đa số là nói với thầy ḿnh, xin thầy ấn chứng. Đối với đồng tham đạo hữu b́nh thường cũng chẳng nói, làm sao chịu tuyên bố với đại chúng cho được? Hễ tuyên bố cùng đại chúng, nhất định là đơm đặt, bịa chuyện, không ǵ chẳng nhằm cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, nay nói là “đánh bóng tên tuổi”. Dùng phương pháp ấy để đánh bóng tên tuổi, lừa gạt hết thảy chúng sanh, chắc chắn chẳng thể tin cậy được, chúng ta phải biết điều này! Vô Sanh Pháp Nhẫn là ǵ? Lần sau chúng ta sẽ lại nghiên cứu.

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 5 hết

 



[1] Phần chú giải của pháp sư Đế Nhàn cũng rất sơ lược. Chúng tôi xin trích dẫn như sau: “Một ngàn hai trăm năm mươi người là nêu ra con số. Ba anh em ngài Ca Diếp có một ngàn đệ tử. Ưu Lâu: Cơi này dịch là Mộc Qua Lâm (rừng đu đủ). Già Da, cơi này dịch là Thành. Na Đề, cơi này dịch là Giang (sông). Xá Lợi Phất là tên, dịch nghĩa là Châu Tử, cũng dịch là Thân Tử, họ Câu Lật Đà. Mục Kiền Liên là họ, dịch là Tán Tụng, c̣n dịch là Thái Phục Căn, hoặc dịch là Hồ Đậu. Hai vị này có tất cả hai trăm năm mươi người [đệ tử]. Các vị Ca Diếp, Xá Lợi Phất v.v… trước kia thờ lửa, từ tà vào chánh, gian khổ đă nhiều năm, chẳng có thành tựu ǵ. Vừa được gặp Phật, liền đắc quả bậc thượng, cảm ơn sâu của Phật, thường theo hầu đức Phật, làm đại chúng cùng nghe pháp”.

[2] Giáp cốt văn (甲骨文) c̣n gọi là Khế Văn, Giáp Cốt Bốc Từ, hoặc Quy Giáp Thú Cốt Văn là văn tự được khắc trên mai rùa (quy giáp) hoặc xương thú (thú cốt) nhằm ghi chép những sự tích hoặc dự đoán do bói toán thường là vào cuối nhà Thương, cho đến đầu triều Châu. Những văn tự này cung cấp tài liệu quư báu về văn hóa Trung Hoa thời cổ, cũng như là tài liệu để nghiên cứu cội nguồn của chữ Hán hiện thời. Các văn tự này phần lớn được phát hiện tại di chỉ Ân Khư (thuộc huyện An Dương, tỉnh Hà Nam).

[3] Đề Bà Đạt Đa và A Nan là con của Bạch Phạn Vương (Śuklodana). Bạch Phạn Vương là em trai của Tịnh Phạn Vương (Śuddhodana), con trai của Sư Tử Tần Vương (Simhahanu).

[4] Trong sách ấy chú giải như sau (trong đây, những chi tiết đă được ḥa thượng Tịnh Không nhắc tới sẽ lược đi không dịch): “Tần Bà Sa La, cơi này dịch là Mô Thật, hoặc dịch là Kiên Ảnh. Vi Đề Hy dịch là Tư Duy. A Xà Thế, cơi này dịch là Vị Sanh Oán, hoặc Bà La Lưu Chi, cơi này dịch là Chiết Chỉ (găy ngón tay)… Lúc chưa sanh, thầy bói đoán: Sanh ra đứa trẻ này, quyết định sẽ hại cha, ư nói trong lúc c̣n ở trong thai, đă có tướng oán. Do thầy bói tiên đoán, nên đặt tên như vậy. Điều Đạt dịch là Thiên Nhiệt, c̣n dịch là Thiên Thọ, là con vua Bạch Phạn, là em họ đức Phật, là anh ruột A Nan, có ba mươi tướng. Xuất gia tụng sáu vạn pháp tụ, măn mười hai Vi Đà. V́ lợi dưỡng, nên đến chỗ đức Phật, xin học thần thông. Phật chẳng giảng nói, dạy ông ta quán vô thường, sẽ được đắc đạo…. Điều Đạt vào núi, học được Ngũ Thông, tâm niệm: ‘Ai sẽ làm thí chủ cho ta. Thái Tử A Xà Thế, có tướng đại vương’, liền biến hiện thân h́nh thành Tượng Mă Bảo… Lại lên cơi trời, lấy hoa trời, thức ăn trời [ḥng lấy ḷng Thái Tử]… Điều Đạt phá Tăng, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên giáo hóa, [tăng chúng] lại ḥa hợp. Ông ta đẩy [đá to từ] trên núi đè Phật, Mật Tích Kim Cang dùng chày Kim Cang đỡ, đá vỡ nát, [mảnh đá văng] làm ngón chân Phật bị thương. Tỳ-kheo-ni Hoa Sắc quở trách, Điều Đạt bèn đánh bà ta ḷi mắt. Điều Đạt tạo ba tội nghịch, hăm vào địa ngục trong khi c̣n sống… Xưa kia, vua Tần Bà đi săn nai trong núi Tỳ Phú La, chẳng săn được ǵ, gặp một vị tiên nhân đang tĩnh tọa, bèn sai người xua đuổi, rồi sai người giết đi. Lúc lâm chung, tiên nhân khởi ác niệm, nguyện trong đời sau, ta sẽ giống như ngày nay dùng tâm và miệng hại ngươi!”. Vị tiên nhân ấy đầu thai thành thái tử A Xà Thế.

[5] Quốc Phu Nhân là một danh xưng để tôn xưng các mạng phụ (những phụ nữ được triều đ́nh sắc phong). Ngày xưa, các quan hoặc chư hầu được phong vương th́ đất phong của họ thường được gọi là “quốc” hoặc “quận quốc”. Tương ứng, vợ của các vương gia được phong là Quốc Phu Nhân. Có khi chính bản thân người nữ đó được phong thực ấp, chẳng hạn như Vũ Tắc Thiên đă phong cho chị ḿnh là Vũ Thuận làm Hàn Quốc Phu Nhân, về sau đổi thành Trịnh Quốc Phu Nhân. Thoạt đầu, Quốc Phu Nhân chỉ dùng để gọi các bà ngoại mạng phụ. Nội mạng phụ là những người có liên hệ huyết thống hoặc hôn nhân trực tiếp với hoàng đế như hoàng hậu, hoàng thái hậu, thái hoàng thái hậu (bà nội vua), các công chúa, trưởng công chúa (chị hay em gái của nhà vua), thái trưởng công chúa (cô của nhà vua) chưa lấy chồng. Đôi khi c̣n bao gồm vợ cả của anh em họ nhà vua. Ngoại mạng phụ là cáo mạng phu nhân, tức là các công chúa, trưởng công chúa, thái trưởng công chúa đă lấy chồng, cũng như chánh thất của những vương gia, đại thần không thuộc hoàng tộc được triều đ́nh sắc phong. Ở đây, bà Vi Đề Hy được gọi là Quốc Thái Phu Nhân với ư nghĩa hoàng thái hậu (theo nghĩa nội mạng phụ), v́ lúc đó A Xà Thế đă làm vua, vua Tần Bà đă trở thành Thái Thượng Hoàng.

[6] “Sao” ở đây là gạo hoặc lúa mạch rang chín, nghiền thành bột.

[7] Nhật Quỹ (Sundial) là một loại đồng hồ dựa theo bóng nắng, thông thường gồm một đĩa tṛn có khắc vạch chỉ giờ, chính giữa là một cây kim mỏng và sắc. Khi mặt trời di chuyển quanh bầu trời, bóng nắng chiếu vào kim sẽ soi lên vạch giờ tương ứng.

[8] Ngài Trí Giả chú giải: “Kỳ Bà, cơi này dịch là Hoạt (sống). Lúc sanh ra, một tay cầm túi thuốc, một tay cầm ống kim. Xưa kia đă thề làm thầy thuốc, có thể trị bệnh cho người khác. Do đức mà lập hiệu”.

[9] Tổ Trí Giả sớ giải: “[Trong] kinh này chẳng đáp, nhưng các kinh khác có nói. Xưa kia vào thời Định Quang Phật, Phật Thích Ca [có tên] là Ma Nạp, theo học ở chỗ tiên nhân Trân Bảo. Học tập đă thành, nghĩ muốn báo ân, nhưng tự xét chính ḿnh nghèo khó. Khi ấy, ông Da Nhă Đạt muốn gả con gái, có ông Tu Ma Đề mong được làm rể. Ông này thông minh, có trí huệ, nhưng h́nh mạo xấu xí. Ma Nạp gặp mặt [cùng Tu Ma Đề] nghị luận. Tu Ma Đề biện luận thua cuộc, Da Nhă Đạt hoan hỷ, giúp Ma Nạp rất nhiều trân bảo, gả con gái cho. Tu Ma Đề sinh ḷng phẫn hận, phát thệ trong vị lai đời đời gây năo hại. V́ nhân duyên ấy, thường xúc năo ông ta”.

[10] Thật ra, đây không phải là tiên đoán của giáo hội Công Giáo, Chính Thống Giáo hay các giáo hội Cơ Đốc Tân Giáo (Tinh Lành, Phúc Âm, Cải Cách, Giám Lư v.v...). Những tiên đoán này chỉ là ư kiến của một số cá nhân, dựa theo cách họ diễn dịch những ẩn dụ trong sách Khải Huyền (Apocalypse, Revelation) của Kinh Thánh. Cứ mỗi lần chuyển sang một thế kỷ mới, lại có dự đoán thế giới sẽ tận diệt. Nhất là vào năm 1999 là năm cuối cùng của thế kỷ 20, do phát hiện một sai lầm trong hệ thống computer, nhất là trong hệ thống Mainframe (do tiết kiệm bộ nhớ, người ta chỉ ghi năm bằng hai con số cuối, nên sang thế kỷ 21, nếu không sửa lỗi trong các chương tŕnh đă sử dụng, năm 2013 sẽ được máy tính hiểu là năm 1913. Điều này có thể gây nên những rối loạn trong các hệ thống dịch vụ công cộng), những nhà “tiên tri” bèn ầm ĩ tiên đoán năm 1999 hoặc năm 2000 sẽ tận thế. Họ thường viện dẫn Nostradamus để chứng minh cho lập luận này, nhưng khi xét đến nguyên văn, chúng ta chẳng thấy Nostradamus khẳng định năm nào. Những nhà “tiên tri” tiên đoán ồn ào nhất về ngày tàn của thế giới vào năm 1999 hoặc năm 2000 là James Gordon Linsay (1906-1973) (ông này là người sáng lập học viện Christ For the National Institute), Edgar Cayce, Sun Myung Moon (mục sư sáng lập Unification Church của Đại Hàn, rất nổi tiếng với những tṛ gây ồn ào như rửa tội cho hàng ngàn người bằng ống tưới để xịt thay v́ rảy nước thánh, hoặc làm lễ kết hôn cho mấy trăm cặp cùng một lúc), Ed Dobson (mục sư của Calvary Church tại Grand Rapids, Michigan), Lester Sumrall, Harold Camping (ông này rất nổi tiếng v́ đă tiên đoán rất nhiều lần và luôn đoán sai be bét, vụ ầm ĩ nhất là ông tiên đoán như thánh phán ngày 21 tháng Mười năm 2011 vừa qua sẽ có động đất khủng khiếp và Chúa sẽ mang 3% dân số trên thế giới về nước trời mà thôi, những người c̣n lại sẽ chết sạch). Ngay cả chuyện thế giới sẽ tận diệt vào cuối năm 2012 được các nhà “tiên tri”, khoa học gia giả mạo tiên đoán vừa qua cũng chẳng phải là chuyện mới mẻ, v́ John of Toledo (giám mục xứ Proto and Santa Rufina, mất năm 1275) đă từng tiên đoán thế giới tận diệt vào năm 1186 do các hành tinh trong Thái Dương Hệ xếp thẳng hàng. Điều đáng trách là những đệ tử tại gia khi đọc các tin từ Internet hay các sách vở mạo danh khoa học đă thiếu thái độ nghiêm túc suy xét, nên đă cung cấp những thông tin sai lạc cho Ḥa Thượng (v́ Ngài không đọc báo, xem TV, nghe radio, nên không thể kiểm chứng tính chân xác của mỗi bản tin), khiến cho trong các buổi giảng, với dụng ư khuyên răn các đồng tu luôn tỉnh ngộ thế gian vô thường, Ngài đă dẫn dụng các tin này, tạo thành những hạt sạn trong các lời giảng, khiến cho người nghe do thiếu suy xét, phán đoán, chỉ lo chăm chú những chuyện vụn vặt ấy mà quên đi những giáo nghĩa quan trọng, những lời khuyên thiết thực trong bài giảng của Ḥa Thượng.

[11] Lời chú giải trong sách Quán Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa về tướng bạch hào giữa hai mày đức Phật như sau: “Giữa hai lông mày của đức Như Lai có tướng bạch hào, ví như kha tuyết, dài một trượng năm thước. Bạch hào có tám cạnh, chu vi năm tấc. Trong bạch hào rỗng không, uyển chuyển xoay về bên phải, như ống lưu ly. Từ đó tỏa ra quang minh, chiếu vô lượng cơi nước, trở về trụ trên đỉnh đầu đức Phật, biến thành đài vàng, hiện rộng khắp các cơi nước, khiến cho bà Vi Đề Hy thích sanh về cơi An Dưỡng. Sự phóng quang này nhằm đáp ứng lời thỉnh xin chỉ dạy về cơi sẽ sanh về”. Kha là một loại ngọc quư, sanh từ một loại ốc trong biển cả. Sách Nhĩ Nhă giảng Kha () là một loại ốc lớn mặt ngoài màu vàng pha đen, mặt trong trắng ngần, nên từ ngữ “kha tuyết” thường được dùng để h́nh dung những ǵ trắng ngần, không tỳ vết, nhiễm bẩn.

[12] Ngũ Bất Hoàn Thiên (Śuddhāvāsa), c̣n gọi là Tịnh Cư Thiên, là nơi ở của các bậc thánh nhân trong Tứ Thiền Thiên. Ngũ Bất Hoàn Thiên gồm năm tầng trời là Vô Phiền Thiên (Arvha), Vô Nhiệt Thiên (Atapa), Thiện Sanh Thiên (Sudrśa), Thiện Hiện Thiên (Sudarśana), và Sắc Cứu Cánh Thiên (Aknistha).

[13] Xin lưu ư, trợ niệm ở đây không phải là đến niệm Phật trợ duyên cho người sắp mất theo cách hiểu thông thường, mà có nghĩa là phân biệt Chánh Hạnh và Trợ Hạnh. Ḥa Thượng Tịnh Không nói “tŕ danh chẳng phải là trợ niệm, mà là chánh niệm” ngụ ư: Tŕ danh là phương pháp, là hạnh chánh yếu trong cách niệm Phật, chẳng phải là một hạnh phụ trợ cho các cách tu niệm Phật khác.

[14] Giới Tỳ-kheo (Cụ Túc Giới) được chia thành bảy tiểu loại gọi là Thất Tụ, c̣n gọi là Thất Phạm Tụ, hay Thất Tội Tụ bao gồm:

1) Ba La Di (Pārājika), dịch là Đoạn Đầu, tức những giới căn bản trọng tội (giết, trộm, dâm, dối). Kẻ phạm những giới này hoàn toàn đánh mất tư cách tỳ-kheo, chẳng được ở chung với tăng chúng.

2) Tăng Già Bà Thi Sa (Samghāvaśesa), dịch nghĩa là Tăng Tàn, tội này nếu chí thành sám hối trước thanh tịnh chúng th́ c̣n có thể khôi phục tư cách tỳ-kheo. Chẳng hạn như hủy báng người khác th́ là tội này.

3) Thâu Lan Giá (Sthūlātyaya), dịch nghĩa là Đại Chướng Thiện Đạo, ư nói tội lỗi này tuy nhẹ hơn, nhưng chướng ngại thiện pháp sanh khởi. Kinh Đại Bát Niết Bàn có nêu một thí dụ: Như có người thấy tràng hoa cúng Phật đă héo, bèn tùy tiện tháo chỉ xâu hoa, đem cất riêng để sau này sử dụng, không xin phép Thường Trụ, th́ phạm tội Thâu Lan Giá.

4) Ba Dật Đề (Prāyaścittika), dịch là Xả Đọa.

5) Ba La Đề Xá Ni (Pratideśanīya), dịch là Hướng Bỉ Hối.

6) Đột Cát La (Duskrta), dịch là Ác Tác, như nói lời thô ác, có hành vi không đúng với oai nghi, nhưng chẳng phạm vào bốn tội trọng.

7) Ác Thuyết (Durbhāsita).

Bảy loại trên đây nếu nói gọn lại sẽ thành năm loại, gọi là Ngũ Thiên, tức Ba La Di, Tăng Tàn, Ba Dật Đề, Ác Tác và Ác Thuyết.

[15] Mân Nam là từ ngữ để chỉ khu vực phía Nam tỉnh Phước Kiến, đối diện eo biển Đài Loan, bao gồm các huyện Chương Châu, Tuyền Châu và Hạ Môn. Nếu hiểu theo nghĩa rộng c̣n bao gồm Bồ Điền, lưu vực các sông Cửu Long Giang và Tấn Giang. Ngữ hệ Hà Lạc (tiếng nói của vùng Tuyền Châu và Chương Châu) chính là khởi thủy của tiếng Đài Loan hiện thời.