Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa
Phần 5
觀無量壽佛經疏鈔演義
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Thời gian: Khởi
giảng từ ngày 01 tháng 12 năm 1990
Địa
điểm: Hoa Tạng Đồ
Thư Quán, huyện Cảnh Mỹ, Đài Loan
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập
17
Xin mở kinh bổn, trang chín mươi
tám, hàng thứ hai đếm từ dưới lên.
Thiên nhị bách
ngũ thập nhân câu.
千 二 百 五 十 人 俱。
(Một ngàn hai trăm năm
mươi người nhóm họp).
Đây
là Chúng Thành Tựu. Trong phần trước đă giới
thiệu thời gian, xứ sở, và vị chủ giảng
của pháp hội này; ở đây, giới thiệu thính
chúng. Một ngàn hai trăm năm mươi người ở
đây là các vị đệ tử thường theo hầu
đức Thế Tôn, gần như suốt đời chẳng
rời khỏi Thích Ca Mâu Ni Phật, nên trong phần đầu
mỗi bộ kinh đều nêu tên các Ngài. Do đâu mà có một
ngàn hai trăm năm mươi người này, trong chú giải
đă nói rơ, chẳng cần giới thiệu nhiều[1].
Những vị này là Thanh Văn Chúng, cũng được
gọi là Tiểu Thừa đệ tử. Dưới
đây là Bồ Tát Chúng:
Bồ
Tát tam vạn nhị thiên nhân. Văn Thù Sư Lợi pháp
vương tử nhi vi thượng thủ.
菩 薩 三 萬 二 千 人。文 殊 師 利 法 王 子 而 為 上 首。
(Bồ Tát ba vạn hai ngàn người, Văn Thù
Sư Lợi pháp vương tử làm Thượng Thủ).
Ở
đây, có chữ [bị in] sai. [Chữ Vương (王) trong từ ngữ]
“pháp vương tử” bị
viết thành Ngũ (五), tức là Pháp
Ngũ Tử. Chữ Ngũ ấy
phải là chữ Vương, Pháp Vương Tử!
Thanh
Văn Chúng nhất định là người xuất gia, một
ngàn hai trăm năm mươi người ấy là hàng xuất
gia. Bồ Tát Chúng không nhất định xuất gia, chúng
tại gia cũng rất nhiều. Như bốn vị
đại Bồ Tát thị hiện tại Trung Hoa, chỉ
có Địa Tạng Bồ Tát thị hiện tướng
xuất gia, những vị khác như Quán Âm, Văn Thù, Phổ
Hiền đều hiện tướng tại gia. Do vậy,
trong chúng Bồ Tát, hàng tại gia đông đảo. Thượng
Thủ trong chúng Bồ Tát là Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, tượng trưng trí huệ bậc nhất. Trong kinh
này, không liệt kê Thượng Thủ của hàng Thanh
Văn, chỉ có trong hàng Bồ Tát là liệt kê một vị
Thượng Thủ; đó là v́ nhân duyên phát khởi của
bộ kinh này vô cùng đặc thù.
Phần
Thông Tự được giới thiệu tới đây,
kế tiếp là Biệt Tự, tức là Phát Khởi Tự.
Chúng ta xem trang một trăm, hàng thứ nhất. Trong Phát
Khởi Tự có hai đoạn, đoạn thứ nhất
là Đối Biện Bất Đồng (biện định
về sự khác biệt). Trong phần Đối Biện
Bất Đồng, lại chia thành hai đoạn ngắn.
Đoạn thứ nhất là Phiếm Cử Sai Biệt
(nêu chung sự sai biệt), đoạn thứ hai là Chánh Hiển
Kim Kinh (nêu rơ điều sai biệt trong kinh này). Phát Khởi
là nói tới nhân duyên của bộ kinh này. Gần như
Thông Tự của tất cả hết thảy các kinh
đại khái giống nhau, nhưng Phát Khởi Tự th́ mỗi
hội mỗi khác, đều có nhân duyên đặc thù.
Chúng ta xem nhân duyên
của bản kinh này trong đoạn thứ hai của
trang này, tức đoạn Chánh Hiển Kim Kinh. “Kim kinh chánh dĩ sát phụ,
dĩ vi Phát Khởi” (Kinh này chánh yếu dùng chuyện
[vua A Xà Thế] giết cha để làm nhân duyên phát khởi);
do đó, sự phát khởi này hết sức đặc
thù: Vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ, nhân duyên phát khởi
từ chỗ này. “Hà cố cử
thử nghịch sự vi phát khởi da? Vị
chương thử giới cực ác, linh nhân yếm khí.
Thân sở sanh tử, do thượng nguy hại, tức dục
linh nhân đồng hân Tịnh Độ” (V́ cớ sao
nêu lên chuyện ác nghịch này để làm nhân duyên phát khởi?
Nhằm tỏ rơ thế giới này ác độc đến
mức cùng cực, khiến cho người ta chán bỏ.
Con ruột do chính ḿnh sanh ra mà c̣n hăm hại ta, nhằm muốn
làm cho mọi người cùng ưa thích Tịnh Độ).
Đây là ư nghĩa được bao hàm trong việc phát khởi.
Nói thật ra, vào thời cổ đă có chuyện ác nghịch
kiểu này, từ xưa đến nay đều có,
nhưng luôn là số ít. Trong xă hội cận đại,
chúng ta thấy chuyện bất hiếu, ngỗ nghịch
quá nhiều, nhiều đến nỗi không đáng coi là
tin tức để đăng tải, chỗ nào cũng đều
có.
Vào thời cổ,
trong quá khứ, thầy Lư có kể cho chúng tôi nghe một câu
chuyện, chẳng biết vào triều đại nào, tôi
cũng chẳng nhớ. Khi ấy, thầy nói rất rơ
ràng, nhưng do thời gian đă quá lâu nên kư ức rất
mơ hồ. Thầy nói: Vào thời cổ, có một
nơi, đứa con bất hiếu, giết cha. Đây là
một chuyện lớn, nên quan lại địa
phương tŕnh tấu lên triều đ́nh, vua hạ lệnh
ghi lỗi to cho [tỉnh trưởng] tỉnh ấy, [quan
đứng đầu tỉnh ấy] tương
đương tỉnh trưởng hiện thời, huyện
trưởng bị xử phạt cách chức, cớ sao
huyện của ngươi nẩy sanh một gă bất hiếu
dường ấy? Không chỉ huyện trưởng bị
phạt cách chức, mà huyện lỵ xưa kia đều
có tường thành, thành tường bị vạt mất
một góc, [tức là] hoàng đế hạ lệnh phá bỏ
một góc tường thành. Điều này biểu thị
ư nghĩa: Nơi các ngươi nẩy sanh một kẻ xấu
xa dường ấy, tức là toàn thể nơi ấy bị
mang nhục! Trước kia, coi chuyện trái nghịch luân
thường nghiêm trọng ngần ấy! Chẳng như
hiện tại, nay th́ thậm chí phát sanh chuyện như vậy,
báo chí chẳng muốn đăng tải, quá nhiều! Báo
đăng chẳng xiết! Trước kia ít, hiện tại
nhiều. Vào thời xưa, nếu con cái bất hiếu,
cha mẹ thỉnh cầu quan phủ trị tội, chỉ
cần cáo trạng, chánh quyền chẳng tra xét mà trị tội
ngay. Cha mẹ yêu thương con cái, chẳng bỏ sót một
điều nhỏ nhặt nào, [thế mà] cha mẹ chẳng
cần đến đứa con ấy nữa, nó sẽ chẳng
thể sống yên ổn trong xă hội. Vào thời đầu
Dân Quốc, pháp luật c̣n có điều lệ xử trí về
thân quyền. “Thân quyền”
(親權) là quyền cha mẹ; cha mẹ
nói con cái bất hiếu, bẩm báo lên quan huyện vùng
đó, xin quan huyện hành quyết đứa con. Chẳng
cần thẩm vấn, lập tức lôi đi hành h́nh. V́
thế, thuở đó, con cái chẳng dám bất hiếu với
cha mẹ. H́nh như là điều luật này bị phế
trừ vào năm Dân Quốc hai mươi mấy. Trong quá
khứ, [xă hội và chánh quyền] coi chuyện này rất nặng!
Con
ruột do chính ḿnh đẻ ra mà phạm tội đại
nghịch bất đạo ấy, có thể thấy thế
giới này xác thực là “ngũ
trược ác thế” như Thích Ca Mâu Ni Phật đă
nói. [Chuyện A Xà Thế] khiến cho chúng ta chẳng có tâm
lư lưu luyến thế giới này, v́ nó khiến cho
người ta ghét bỏ, chẳng mong trụ trong thế
giới này, sẽ hướng về Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Tây Phương Cực Lạc thế
giới tuyệt đối không có những chuyện ác ấy.
Không chỉ là chẳng có ác sự, mà tên gọi của những
chuyện ác đều chẳng nghe thấy, há c̣n có chuyện
ác? Cơi ấy là một xứ sở thù thắng tốt
đẹp dường ấy, v́ sao chúng ta không đến
đó? Cớ ǵ phải lưu lại nơi này để
chịu tội? Đấy chính là đại ư của việc
dùng nghịch hạnh (hành vi ngỗ nghịch) của vua A
Xà Thế để phát khởi. Nhân duyên phát khởi này
cũng thật sự chẳng thể nghĩ bàn.
Chúng
ta xem đoạn văn tiếp theo: “Hạ Vi Đề Hy, nguyện vị ngă thuyết
vô ưu năo xứ, bất nhạo Diêm Phù Đề trược
ác thế” (kế đó, bà Vi Đề Hy nói: “Xin hăy v́
con nói chỗ chẳng có ưu năo, con chẳng ưa thích
đời trược ác trong cơi Diêm Phù Đề”). Chữ
Hạ (下) là nói tới phần kinh văn tiếp
theo. Phu nhân Vi Đề Hy là mẹ vua A Xà Thế (Ajātaśatru); ngay cả mẹ mà c̣n ghét bỏ
con cái, ghét bỏ thế giới này, cầu đức Phật
dạy cho bà ta một cơi chẳng có ưu năo, mong được
văng sanh nơi ấy. “Phát khởi
nhân duyên, đại phả tư nghị, nghịch tội
bổn thị Vô Gián ngục nhân” (nhân duyên phát khởi rất
chẳng thể nghĩ bàn, tội Ngũ Nghịch vốn
là cái nhân của địa ngục Vô Gián). Đây là tội
Vô Gián, quả báo trong địa ngục Vô Gián. “Tùy nhân thú quả, trầm A Tỳ
ngục trung, thọ cực trọng khổ, chí khinh tu nhất
đại kiếp” (theo nhân hướng đến quả,
ch́m đắm trong địa ngục A Tỳ, chịu nỗi
khổ cực nặng, nhẹ nhất th́ phải trải
qua một đại kiếp). Chúng ta cũng phải ghi nhớ
mấy câu này: Sau khi tạo tác tội Ngũ Nghịch, nhất
định đọa địa ngục. Mọi người
niệm kinh Địa Tạng sẽ biết chuyện tội
khổ trong địa ngục, có thể nói kinh Địa
Tạng đă nói rộng răi t́nh h́nh và trạng huống
trong địa ngục. Phải chịu tội trong địa
ngục bao lâu? Tội nhẹ nhất là một đại
kiếp, thời gian quá dài, hết sức đáng sợ!
Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă giảng về
lục đạo luân hồi, đoạn [kinh văn] giảng
về địa ngục đặc biệt tường tận,
gần như chiếm một nửa phần văn tự
nói về lục đạo. V́ sao nói tỉ mỉ ngần ấy?
Nhằm làm cho quư vị thật sự thông hiểu, ngàn muôn
phần chớ nên tạo tội nghiệp địa ngục!
Địa ngục dễ vào, chẳng dễ thoát ra! Nỗi
khổ ấy nặng nề cùng cực, chúng ta chẳng có
cách nào tưởng tượng, thời gian quá dài, hết
sức đáng sợ!
“Kim vi
Tịnh Độ tác phát khởi duyên, phỉ duy Vi Đề
Hy phả tư nghị, tức A Xà Thế diệc phả
tư nghị dă” (Nay [đem chuyện ác nghịch ấy]
làm duyên phát khởi Tịnh Độ, chẳng phải chỉ
riêng bà Vi Đề Hy là chẳng thể nghĩ bàn, mà A Xà Thế
cũng là chẳng thể nghĩ bàn). Do dùng nhân duyên ấy để phát khởi kinh này,
do vậy, kinh Tịnh Độ cũng được gọi
là kinh chẳng thể nghĩ bàn, trong tên gọi của
kinh Tiểu Bổn Di Đà đă nói rất rơ ràng. Chẳng
khác ǵ kinh Hoa Nghiêm! Hoa Nghiêm được gọi là kinh bất
tư nghị. Người Hoa thường gọi Hoa Nghiêm
là đại bất tư nghị kinh. “Cụ kiến nghịch sự năng dụng, tức
thị tánh ác pháp môn, tánh ác dung thông, nhậm vận nhiếp
đắc tánh thiện. Do tánh ác nhi khởi tu ác, thậm
chi vị địa ngục nhân. Năng dụng chi vi pháp
môn, chuyển nhi vi Tịnh Độ chủng, khởi phi tự
tánh trung bổn cụ chi đức da?” (trọn thấy
là có thể sử dụng chuyện ác nghịch, tức là
đối với pháp môn tánh ác th́ tánh ác dung thông, tùy ư dung
nhiếp tánh thiện. [Thông thường th́] do tánh ác mà dấy
khởi chuyện làm ác, đến nỗi trở thành cái
nhân của địa ngục, nhưng có thể dùng [chuyện
ác ấy để] làm pháp môn, ḥng chuyển thành hạt giống
của Tịnh Độ, há chẳng phải là trong tự
tánh vốn có trọn đủ các đức ư?). Nói thật
ra, nếu vua A Xà Thế chẳng giết cha hại mẹ,
đức Phật sẽ chẳng nói bộ kinh này, nhận
thức của chúng ta về Tây Phương Cực Lạc
thế giới cũng chẳng thể viên măn. Lại nói thật
thà, mẹ nhà vua cũng chẳng thể văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, có lẽ vẫn
phải luân hồi bao nhiêu kiếp chẳng nhất định.
Con vừa giết cha hại mẹ, đâm ra mẹ liền
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
thành Phật, đây là nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn.
Là một chuyện ác, mà kết quả lại biến thành
việc tốt cùng cực, kết quả hết sức
viên măn!
Có
thể thấy là thiện và ác quả thật rất khó
nói, ắt phải xét theo kết quả. Nếu do nhân lành
mà đắc quả ác th́ điều thiện ấy chẳng
phải là chân thiện. Do ác nhân mà đắc quả cực
thiện, vua A Xà Thế có công đức rất lớn. Quư
vị thấy nhà vua khiến cho mẹ ḿnh thành Phật
trong một đời, năm trăm cung nữ hầu hạ
mẹ nhà vua cũng đều có thể văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, độ lắm
người ngần ấy! Kinh điển lưu truyền
đến đời sau, chẳng biết đă độ
được bao nhiêu người! Do một niệm ác ấy,
đâm ra, nhà vua lại khiến cho nhiều người
thành tựu ngần ấy, chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế,
đến khi lâm chung, nhà vua hối hận, sám hối văng
sanh, sanh trong thượng phẩm trung sanh, hết sức
có lư. Do đó, thiện hay ác phải xét theo hậu quả,
phải dùng tầm mắt trí huệ để quan sát. Tại
Trung Hoa, gần như ai nấy đều biết Nhạc
Phi là một vị anh hùng dân tộc, bất hạnh bị
Tần Cối hại chết. Từ xưa tới nay,
người Hoa hận Tần Cối thấu xương,
hắn là một gă xấu xa như thế! Trên thực tế,
hai người ấy có công đức bằng nhau, cớ
sao nói là bằng nhau? Nhạc Phi dạy chúng ta phải nên học
theo ông ta tận trung báo quốc, phải học giống
như ông ta. Tần Cối nêu gương, nhằm dạy
chúng ta chớ nên học theo, học theo gương ông ta sẽ
để tiếng xấu vạn năm! Một người
dạy theo lối chánh diện, một người dạy
theo kiểu phản diện, nhưng cả hai đều
là thầy tốt, đều là công đức vô lượng.
Đó là xét theo hậu quả, hậu quả có sức giáo
hóa sâu xa, có sức ảnh hưởng chánh đáng đối
với xă hội th́ là công lao, là công đức. Chúng ta xét
theo quan điểm Phật pháp, sẽ có cách nh́n khác với
người thế gian, biết [việc làm ấy] quả
thật sẽ sanh ra sức ảnh hưởng chánh
đáng đối với sự giáo hóa người đời
sau. Vua A Xà Thế cũng thuộc về t́nh h́nh như vậy
đó.
Bởi
lẽ, thiện và ác đều khởi từ Chân Như bản
tánh, tùy thuộc chúng ta sử dụng theo cách nào! Dùng theo kiểu
ác, sẽ là quả báo trong địa ngục A Tỳ; dùng
theo lẽ thiện, sẽ thành Phật, làm Tổ! Do vậy
có thể biết: Trong cuộc sống hiện tại của
chúng ta có thuận cảnh và nghịch cảnh, những kẻ
chúng ta gặp gỡ, có người tốt, có kẻ ác. Người thiện cố nhiên là tốt,
nhưng kẻ ác cũng chẳng tệ! Thuận cảnh cố
nhiên là tốt đẹp, nhưng nghịch cảnh cũng
thế, tùy thuộc quư vị vận dụng như thế
nào! Nếu quư vị biết dùng, thuận hay nghịch đều
là Tăng Thượng Duyên. Giống như năm
mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng
tử trong kinh Hoa Nghiêm, năm mươi ba vị thiện
tri thức có người thiện, kẻ ác, nhưng đều
là các vị đại thiện tri thức thật sự,
đều có thể giúp quư vị thành tựu Vô Thượng
Bồ Đề. Điều này cũng chứng tỏ lời
Ngẫu Ích đại sư đă nói: “Cảnh duyên chẳng tốt xấu, tốt xấu
do tâm ḿnh”, chẳng do ngoại cảnh chi phối! Tâm
chính ḿnh thuần thiện, thiện lương, tất cả
hết thảy cảnh giới đều thiện, điều
này đáng cho chúng ta phản tỉnh thật sâu. Chỉ có
thật sự giác ngộ từ chỗ này, tâm chúng ta mới
có thể thanh tịnh, b́nh đẳng, bất luận
đối xử với ai, sống trong hoàn cảnh nào,
đều có thể đạt được thanh tịnh
tự tại, công phu tu hành đều có thể đắc
lực. Người ấy đă chuyển biến những
điều ấy thành pháp môn, chuyển thành hạt giống
Tịnh Độ, há chẳng phải là trong tự tánh vốn
trọn đủ các đức ư?
“Kim chi
nghịch sự, kỳ chủng tử tức thị tánh cụ
chi duyên nhân Phật Tánh” (Nay đối với chuyện
ác nghịch, chủng tử của nó chính là duyên nhân Phật
Tánh vốn sẵn có trong tánh). Đây là nói về phu nhân Vi
Đề Hy, bà gặp chuyện này, khiến cho chính ḿnh thật
sự giác ngộ thế gian này vô thường, hiểm ác,
bà ta ngộ chuyện này. Đó là trí huệ, là giác ngộ.
Không gặp phải chuyện này, bà chẳng giác ngộ. Gặp
chuyện này, bà giác ngộ, đó là duyên nhân Phật Tánh.
Duyên là ǵ? Tu hành trong đời quá khứ, thiện căn
trong đời quá khứ, đă kết duyên với Phật.
Nay bị cảnh giới ảnh hưởng, khiến cho
chủng tử Phật pháp từ vô thỉ được
kích phát. “Tạo nghịch tâm tức
thị tánh cụ chi liễu nhân Phật Tánh” (tâm tạo
nghịch chính là liễu nhân Phật Tánh có sẵn trong tánh).
Liễu nhân là hiểu rơ, vừa thấy chuyện này bèn
hoàn toàn hiểu rơ, chân tướng của pháp thế gian và
xuất thế gian vừa tiếp xúc bèn hiểu rơ, hiểu
rơ là trí huệ. Duyên nhân là chủng tử trong đời
quá khứ, chúng ta thường nói là thiện căn. “Nhi chánh nhân Phật Tánh, chung nhật
bất biến, chung nhật tùy duyên, chung nhật tùy duyên,
chung nhật bất biến” (nhưng chánh nhân Phật
Tánh suốt ngày bất biến, suốt ngày tùy duyên; suốt
ngày tùy duyên, nhưng suốt ngày bất biến). Chánh nhân là
bản tánh, là Phật Tánh. Trong Phật pháp, duyên nhân, liễu
nhân, và chánh nhân được gọi “tam nhân Phật Tánh”. Nếu chúng ta có thể lắng
ḷng quan sát thế gian này, nói thật ra, lúc nào, chỗ nào
cũng đều có thể khải phát giác tánh của chúng
ta.
Tuần
trước, tôi đến thăm viện Nghiên Cứu
Trung Ương, xem giáp cốt thuộc pḥng trưng bày của
tiên sinh Đổng Tác Tân. Đổng tiên sinh trước
kia có một người bạn thân là tiên sinh Nghiêm Nhất
B́nh, cùng nghiên cứu giáp cốt văn[2] với
Đổng tiên sinh, ông ta là giáo sư trường đại
học Đài Loan. Tôi liền hỏi người phụ
trách quản lư hiện thời, ông ta cho biết Nghiêm tiên
sinh đă mất từ năm năm trước, thế
mà tôi không biết. Nghiêm Nhất B́nh và tôi rất thân thuộc.
Về sau, ông ta mở một thư điếm, tức
xưởng in các tác phẩm văn nghệ. Cổ thư
Trung Hoa [tại Đài Loan] do thư điếm của ông
ta in đầu tiên. Các bộ Thập Tam Kinh, Nhị Thập
Ngũ Sử tôi được đọc lần đầu
là do tiệm của ông ta in. Tôi đến chỗ ông ta mua
sách, nên rất thân quen với ông ta. Mở thư điếm
kiếm tiền rất nhiều, đại khái là trong
mười năm đầu kiếm được rất
nhiều tiền. Đă kiếm được tiền, bèn
thôi không dạy học nữa, từ nhiệm chức giáo
sư, chuyên môn kinh doanh. Đại khái là trong ṿng mười
năm, ông ta mua năm mươi căn nhà, cho người
khác thuê. Những căn nhà giá rẻ thời đó, bây giờ
đắt lắm. Về sau, ông ta chuyên kinh doanh địa
ốc. Tôi chẳng gặp mặt ông ta đă hai mươi
năm, tôi nghĩ nhất định là ông ta có một, hai
trăm căn nhà. Đáng tiếc là chẳng thọ, đă
chết rồi! Sống chẳng mang theo ǵ đến, chết
chẳng mang theo được ǵ. Chẳng biết tài sản
là bao nhiêu ức, mở thư điếm hễ kiếm
được tiền bèn mua nhà. Đă nhiều năm ngần
ấy, tôi chẳng gặp ông ta, nào ngờ ông ta đă chết
từ năm năm trước, đời người vô
thường! Có tiền, nhưng chẳng biết làm chuyện
tốt, lắm tài sản ngần ấy, chết đi,
cũng chẳng mang theo được một đồng
nào, cũng chẳng mang theo được một căn
nhà nào! Vẫn phải lưu chuyển theo nghiệp, rất
đáng thương!
Thuở
ấy, tôi vừa mới học Phật. Có một hôm, ông
ta cùng tôi tṛ chuyện. Ông ta nói: “Kinh Phật th́ kinh Kim Cang
tôi đă xem qua”. Tôi nói: [Ông nghĩ] như thế nào? [Ông ta
đáp]: “Chẳng có ư nghĩa ǵ! Giống như hai thùng
nước đổ qua, đổ lại, lặp đi lặp
lại!” Một vị giáo sư đại học nổi
tiếng đấy nhé! Tôi nghe cảm thấy thật nực
cười, ngu si, điên đảo! Những chuyện giống
như vậy rất thường thấy, hăy nên giác ngộ,
phải thường cảnh tỉnh chính ḿnh: Pháp thế
gian vô thường. Có thể giác ngộ th́ tín tâm và nguyện
tâm tu hành của chúng ta sẽ kiên cố, nghiêm túc!
Mấy
câu tiếp theo đó rất trọng yếu: “Cẩu năng toàn tánh khởi
ư thuận tu, tắc duyên liễu nhị nhân, thành vi
phước trí trang nghiêm. Thị cố hành nhân thành Phật,
nhi hữu tướng hảo vô biên, trí huệ vô biên” (Nếu
có thể toàn tánh khởi nơi thuận tu, th́ duyên nhân và liễu
nhân trở thành phước trí trang nghiêm. V́ thế, hành nhân
thành Phật bèn có tướng hảo vô biên, trí huệ vô
biên). Mấy câu này rất quan trọng. Phải thuận
tánh khởi tu, tánh là ǵ? Tánh là thanh tịnh, b́nh đẳng,
đại từ, đại bi, chúng ta phải ghi nhớ
và tu học những điều này. Trong tâm thanh tịnh, chẳng
có mảy may ô nhiễm, điều này quan trọng hơn bất
cứ điều ǵ khác. V́ vậy, thuận tánh tu tập
duyên nhân và liễu nhân. Duyên nhân là thiện căn nhiều
đời nhiều kiếp; liễu nhân chính là trí huệ
hiểu rơ trong hiện tiền, cũng có thể nói là giác
tánh. Nay chúng ta nói người nào đó có ngộ tánh rất
cao, tâm cảnh giác rất cao. Đối với giác tánh,
người hiện thời nói là “tánh cảnh giác cao”,
người ấy chẳng mê. Đó là liễu nhân. Sau khi
đă tu thành công, bèn biến thành tướng hảo vô biên.
Tướng hảo vô biên do duyên nhân biến thành. Trí huệ
vô biên do liễu nhân biến thành, toàn là Tánh Đức tự
tại hiện tiền. “Tùng
toàn tánh khởi ư nghịch tu, tắc duyên liễu nhị
nhân, thành vi tội xuẩn trang nghiêm. Thị cố chúng sanh
đọa ngục, vô luận ngục chi đại tiểu,
nhất nhân diệc măn, đa nhân diệc măn, sở hữu
khổ cụ, tự nhiên nhi chí, thử giai phả tư
nghị chi ác trang nghiêm, bất tùng ngoại lai, diệc tự
tánh chi bổn cụ dă, cố viết vô pháp bất cụ,
vô pháp bất tạo” (từ toàn tánh mà khởi lên nghịch
tu th́ duyên nhân và liễu nhân sẽ trở thành sự trang
nghiêm trong [cảnh giới] tội lỗi, ngu xuẩn. V́ thế,
chúng sanh đọa địa ngục, bất luận là
địa ngục lớn hay nhỏ, một người
cũng đầy ắp trong ngục, mà nhiều người
cũng đầy ắp. Tất cả những dụng cụ
hành h́nh tự nhiên xuất hiện, những điều này
đều là những thứ trang nghiêm xấu ác chẳng
thể nghĩ bàn, chẳng đến từ bên ngoài, mà
cũng là có sẵn trong tự tánh. Do đó nói “không pháp ǵ chẳng
trọn đủ, không pháp nào chẳng tạo”). Có thể
thấy y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
thảy đều vốn sẵn có trong tự tánh, đều
do tự tánh biến hiện. “Tạo”
là biến hiện, đều chẳng phải đến
từ bên ngoài, mà do quư vị một niệm thuận tánh
hay một niệm trái nghịch, sai biệt ở ngay chỗ
này! Thuận th́ là toàn bộ thuận, hay là bộ phận
thuận? Do điều này mà có tứ thánh pháp giới sai biệt.
Hoàn toàn thuận bèn thành Phật, bộ phận thuận bèn
thành Bồ Tát, ít phần thuận sẽ là Thanh Văn, Duyên
Giác. Trái nghịch cũng giống như vậy. Hoàn toàn
trái nghịch bèn là A Tỳ địa ngục; nhiều phần
trái nghịch là ba ác đạo; ít phần trái nghịch là
hai đường nhân thiên. Tùy thuộc thuận hay nghịch
tự tánh! V́ sao mười pháp giới h́nh thành, đạo
lư ở ngay nơi đây. Đoạn này nói rất hay!
Chúng ta lại xem đoạn văn kế tiếp,
hăy xem ḍng thứ ba trong trang một trăm lẻ hai.
Đây là khoa văn (lời nhận định về khoa
phán), không phải là sớ văn (lời sớ giải).
Đáng lẽ phải in chữ thứ nhất thấp
hơn, họ lại nâng cao lên, sai mất rồi! Trong phần
nhận định về khoa phán đă viết: “Tựu trung vi nhị”, [có
nghĩa là] trong vấn đề lớn này, sẽ chia thành
hai đề mục nhỏ. “Sơ
nhĩ thời hạ, chánh minh sát phụ, thứ vấn thủ
môn nhân hạ, minh dục hại mẫu” (Thứ nhất
là từ chữ “lúc ấy” trở đi, là nói [vua A Xà Thế]
giết cha, kế đó là từ chữ “hỏi kẻ giữ
cửa” trở đi, nói rơ nhà vua muốn hại mẹ).
Đây là tŕnh bày nhân duyên hưng khởi giáo pháp của bản
kinh này: Do vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ. Chúng ta
hăy xem kinh văn. Dưới đoạn kinh văn này có lời
chú giải, quư vị hăy tự xem, do chẳng khó hiểu,
nên chẳng cần giới thiệu. Kinh văn thuộc
trang một trăm lẻ ba, kể từ hàng thứ ba
đếm từ dưới lên.
Nhĩ
thời Vương Xá đại thành, hữu nhất thái tử,
danh A Xà Thế, tùy thuận Điều Đạt ác hữu
chi giáo, thâu chấp phụ vương Tần Bà Sa La, u bế
trí ư thất trùng thất nội, chế chư quần
thần, nhất bất đắc văng.
爾 時 王 舍 大 城。有 一 太 子。名 阿 闍 世。隨 順 調 達 惡 友 之 教。收 執 父 王 頻 婆 娑 羅。幽 閉 置 於 七 重 室 內。制 諸 群 臣。一 不 得 往。
(Khi ấy, trong đại thành
Vương Xá có một thái tử tên là A Xà Thế, nghe theo
lời dạy của bạn ác là Điều Đạt, bắt
giữ phụ vương Tần Bà Sa La (Bimbisara), nhốt
kín trong một căn nhà có bảy lớp cửa, cấm ngặt
các quần thần không ai được đến
đó).
Nay
ta gọi chuyện này là “chánh
biến” (đảo chánh, coup
d'état),
chánh biến trong cung đ́nh. Cuộc chánh biến này là con
đoạt quyền cha, chẳng phải là người
ngoài, mà là con cái đoạt quyền. Nói thật ra, ngôi vua của
cha trong tương lai nhất định truyền cho ông
ta, nhưng ông ta chẳng chờ nổi, c̣n chưa truyền,
ông ta đă muốn làm vua ngay! V́ sao ông ta chẳng chờ nổi?
Có kẻ xúi giục, người ấy là ai? Đề Bà
Đạt Đa! Gặp phải một người
như vậy. Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) là anh
của tôn giả A Nan (Ānanda)[3], là anh ruột, là
em họ của Thích Ca Mâu Ni Phật. Người này hết
sức thông minh, đức Phật có ba mươi hai
tướng, ông ta có ba mươi tướng, nên nh́n
cũng hết sức đẹp đẽ. Tuy hết sức
thông minh, nhưng tâm thuật bất chánh, nói theo kiểu hiện
thời là thích chơi trội, là một người
như thế đó, chẳng thật thà cho lắm. V́ lẽ
đó, ông ta khá ganh ghét Thích Ca Mâu Ni Phật, hy vọng trong
tương lai chính ḿnh thành Phật, thay thế đức
Phật. Ông ta muốn học thần thông, nhưng Thích Ca
Mâu Ni Phật chẳng dạy. Ông ta t́m đến đệ
tử của Thích Ca Mâu Ni Phật, những vị như Mục
Kiền Liên, Xá Lợi Phất cũng đều chẳng dạy.
Cuối cùng t́m tới A Nan. Ngài A Nan do thấy ông ta là anh
ḿnh, v́ A Nan chỉ chứng đắc Sơ Quả Tu
Đà Hoàn, chẳng có năng lực quan sát căn tánh của
anh ḿnh, nên đem phương pháp tu thần thông dạy ông
ta. Chẳng bao lâu, ông ta tu thành Ngũ Thông, lợi dụng
thần thông để dụ dỗ, mê hoặc thái tử A
Xà Thế. Thương lượng với thái tử, ông ta
nói: “Ngài hăy giết cha để làm quốc vương, tôi
hại chết Thích Ca Mâu Ni Phật, tôi thành Phật. Ngài là
tân vương, tôi là tân Phật, hai người chúng ta cùng
nhau giáo hóa người đời trên thế gian, há chẳng
phải là chuyện tốt đẹp ư?” Vua A Xà Thế
nghe lời ấy, mắc bẫy của ông ta, thật sự
đem cha nhốt lại, nhốt trong “thất trùng thất nội”, tức là qua bảy
tầng canh giữ. Ra lệnh bất luận kẻ nào
cũng chẳng được gặp mặt, chẳng cho
ai đến thăm, nhằm mục đích khiến cho vua
cha chết đói, dùng phương pháp này. Nhắc tới một
đoạn nhân duyên như vậy, nhân duyên trong đoạn
này cũng được nói rất cặn kẽ trong phần
chú giải[4].
Trong
chú giải có mấy câu tôi phải trao đổi cùng với
các đồng tu đôi chút. Trang một trăm lẻ
năm, hàng thứ năm, xem từ hai câu tiếp theo
đó: “Như thử đẳng
sự, giai thị đại sĩ thiện quyền hiện
hóa, hành ư phi đạo, thông đạt Phật đạo.
Chúng sanh căn tánh bất đồng, nhập đạo hữu
dị, nhất nghịch, nhất thuận, hoằng đạo
ích vật, thị hạnh vô gián, nhi vô năo khuể, Xà
vương hiện nghịch, vi tức ác nhân, linh bất
khởi nghịch” (Những chuyện như thế
đều do bậc đại sĩ quyền biến, thiện
xảo hóa hiện, làm chuyện trái nghịch đạo lư,
[ḥng khiến cho chúng sanh] thông đạt Phật đạo.
Chúng sanh căn tánh bất đồng, nhập đạo
sai khác, một đằng nghịch, một đằng thuận.
Do hoằng dương đạo, lợi lạc chúng sanh,
nên thị hiện hạnh Vô Gián, nhưng chẳng có ưu
năo, sân khuể. Vua A Xà Thế thị hiện hạnh ác nghịch,
nhằm ngăn dứt những kẻ ác, khiến cho họ
chẳng dấy lên những hạnh ác nghịch). Đoạn
văn này có ư nghĩa giống như cách nh́n chuyện Tần
Cối hại Nhạc Phi mà tôi vừa mới nói. V́ thế,
những chuyện trong cảnh giới đúng là chẳng
có thiện, ác, đúng, sai. Thiện, ác, đúng, sai, đích
xác là do phân biệt, chấp trước trong tự tâm chúng
ta. Ĺa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước
th́ mới có thể thấy chân tướng của thế
gian và xuất thế gian. Hết thảy chúng sanh có căn
tánh khác nhau. Có những chúng sanh phải dùng thiện pháp nhu
ḥa để tiếp dẫn th́ họ có thể nhập Phật
môn. Có những chúng sanh phải dùng ác pháp th́ mới có thể
tiếp dẫn họ nhập Phật môn. Quư vị thấy
tướng thị hiện của các vị Bồ Tát trong
Phật môn, lấy ngay Quán Âm Bồ Tát để nói. Quán Âm
Bồ Tát thị hiện tại Trung Hoa, tướng mạo
vô cùng nhu ḥa, quá nửa là tướng người nữ,
do từ bi thương xót, nên hiện tướng ấy.
Quư vị đến Tây Tạng hoặc Ấn Độ
để xem tượng đắp của Quán Âm Bồ
Tát, đôi khi mặt xanh, nanh nhọn, đáng sợ hăi cùng
cực, nhưng đó cũng là h́nh tướng của Quán
Âm Bồ Tát. Thật vậy, nên dùng phương pháp ǵ để
độ được, liền thị hiện
phương pháp ấy, có thiện độ, có ác độ,
nhưng đạt đến mục tiêu cuối cùng th́ là
một.
Trong
hội này, nói thật ra, có phải vua A Xà Thế thật sự
là như vậy hay không? Chưa hề! Bồ Tát tái lai, diễn
tuồng, một người đóng vai mặt trắng
(vai chánh diện, vai thiện), một người khác
đóng vai mặt đen (vai phản diện, vai ác). Các Ngài
đang diễn tuồng, diễn cho chúng ta xem, khiến cho
chúng ta giác ngộ. Các Ngài diễn tướng thế gian,
khiến cho chúng ta từ sự biểu diễn ấy mà thấu
hiểu tướng thế gian sâu đậm hơn, nhận
thức rơ ràng hơn. Do đó, mới có thể thật sự
tỉnh ngộ, đoạn tuyệt nỗi tham luyến
đối với pháp thế gian, nhất tâm tu đạo.
V́ vậy, những người ấy đều là bậc
Đại Quyền thị hiện, nhưng những ǵ các
Ngài biểu diễn đều là thật, chẳng giả.
Chẳng hạn như các Ngài thị hiện ác hạnh xác
thực là đáng đọa trong địa ngục Vô Gián,
về sau, do sám hối bèn có thể thượng phẩm
trung sanh, tuyệt đối chớ nên nói “đó là Bồ
Tát tái lai biểu diễn, chưa chắc đă là thật!”.
Nếu chúng ta hiểu như vậy th́ sai mất rồi, sự
biểu diễn của Ngài là thật. Dẫu chúng ta tạo
trọng tội Ngũ Nghịch, mà chí tâm sám hối, th́
cũng có thể văng sanh, điều này tương ứng
với ư nghĩa trong kinh này, chẳng trái nghịch. Pháp môn
này quả thật có thể độ chúng sanh khổ sở
cùng cực trong địa ngục viên thành Phật đạo.
Chúng sanh ác cùng cực, khổ cùng cực, do chí tâm sám hối
niệm Phật văng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới sẽ thuộc phẩm vị nào? Không nhất
định! Không thể đoán định chắc chắn
họ thuộc loại hạ phẩm hạ sanh, chưa chắc!
Tùy thuộc sức sám hối của người ấy. Nếu
sức mạnh sám hối của người ấy đặc
biệt to lớn, phẩm vị bèn lập tức tăng
cao. Chuyện này cũng rất chẳng thể nghĩ bàn,
đúng là pháp khó tin. Có người nói: Người này tu
hành suốt cả một đời, tu hành rất khá, phẩm
vị cao, mọi người đều công nhận
đúng là chẳng có vấn đề ǵ; nhưng người
làm nhiều điều xấu dường ấy, một
niệm sám hối mà phẩm vị cũng cao, không công bằng!
Chúng ta nh́n cách nào cũng đều thấy không công bằng.
Nói chung, chẳng nghĩ ra đạo lư ở chỗ nào!
Thật
ra, lư ấy rất sâu, xác thực là có căn cứ lư luận
viên măn, nhưng chúng ta không hiểu. V́ chúng ta là nhục nhăn
phàm phu, chỉ thấy sự thị hiện bên ngoài, chẳng
hiểu rơ Lư, nhân quả trong quá khứ cũng chẳng hiểu
rơ. Kẻ ấy suốt đời này là người ác,
nhưng trong nhiều đời nhiều kiếp là người
tốt, trong nhiều đời nhiều kiếp đă tu không
ít công đức, chẳng thể một nét bút sổ toẹt
được! Chúng ta chẳng có thần thông, chẳng biết
sự tu học của những chúng sanh ấy trong đời
quá khứ. Do đó, cuối lời chú giải, câu cuối
cùng nơi hàng thứ ba trong trang một trăm lẻ sáu
đă nhắc nhở chúng ta. “Điều
Đạt”, tức là Đề Bà Đạt Đa, “A Xà, Tần Bà, Vi Đề, giai
thị đại quyền, hiện nghịch, hiện thuận,
lợi ích chúng sanh” (Đề Bà Đạt Đa, A Xà Thế,
Tần Bà Sa La, Vi Đề Hy đều là bậc đại
quyền, thị hiện hạnh thuận nghịch đều
nhằm lợi ích chúng sanh). Đại Quyền (大權) là bậc Bồ Tát thị hiện, là Đại Thừa
Bồ Tát quyền xảo phương tiện thị hiện
cho chúng ta thấy. Giống như diễn tuồng, trên sân
khấu các Ngài sắm vai diễn nào, thật ra, thảy
đều là đại Bồ Tát. V́ lẽ đó, thuở ấy,
đức Phật xuất hiện trên thế gian là
đóng một vở tuồng cho chúng ta là những kẻ
đang mê hoặc, điên đảo xem. Nhắc nhở
chúng ta điều này, khiến cho chúng ta đối với
những nhân vật này, tâm địa có thể sanh khởi
tâm b́nh đẳng, cung kính, mục đích ở chỗ này.
Chớ nên phân biệt, chấp trước, người
này là người tốt, kẻ kia là người xấu.
Quư vị chớ khởi lên ư niệm ấy. Hễ khởi
lên ư niệm ấy tức là đă sai lầm, v́ sao? Đă
rơi vào phân biệt, chấp trước, sai mất rồi,
tâm chúng ta chẳng thanh tịnh.
Chúng
ta lại xem phần kinh văn tiếp theo:
Quốc
thái phu nhân danh Vi Đề Hy.
國 太 夫 人 名 韋 提 希。
(Quốc thái phu nhân[5] tên là Vi Đề
Hy).
Đây
là vương hậu.
恭 敬 大 王。澡 浴 清 淨。以 酥 蜜 和 麨。用 塗 其 身。諸 瓔 珞 中。盛 葡 萄 漿。密 以 上 王。
(Do cung kính đại vương, nên tắm gội
thanh tịnh, dùng tô mật trộn với bột rang để
bôi lên thân, trong các chuỗi đeo đựng nước
nho, ngầm dâng lên vua).
Quốc
vương đă bị giam kín, bất cứ ai đều
chẳng thể gặp, đoạn tuyệt thực phẩm,
sanh mạng lâm nguy. Hoàng hậu rất thông minh, khi ấy,
trừ bà ta ra, chẳng ai có thể cứu nhà vua. Nhưng
thức ăn lẫn đồ uống đều chẳng
được đem vào, canh cửa rất nghiêm, chẳng
cho đem vào. Dùng phương pháp ǵ? Dùng mật và “sao” (麨: bột rang[6]),
người Đài Loan gọi Sao là “miến
trà” (麵茶), dùng mật
trộn [thành chất dính] để trét lên người,
bước vào [trong ngục, lính canh] sẽ chẳng kiểm
tra được. Vào tới bên trong, lại gỡ ra cho
vua Tần
Bà ăn. “Anh lạc” (瓔珞) là đồ
trang sức để đeo, bên trong đồ trang sức
trống rỗng, giống như đồ đựng sữa,
chứa thức uống trong ấy, mang vào như vậy
đó. V́ thế, vua Tần Bà do có thức ăn, nên có thể
giữ được tánh mạng.
Nhĩ
thời đại vương thực sao, ẩm
tương, cầu thủy thấu khẩu. Thấu khẩu
tất dĩ, hiệp chưởng cung kính, hướng Kỳ
Xà Quật sơn, dao lễ Thế Tôn, nhi tác thị ngôn:
“Đại Mục Kiền Liên thị ngô thân hữu, nguyện
hưng từ bi, thọ ngă Bát Giới”. Thời Mục Kiền
Liên như ưng chuẩn phi, tật chí vương sở,
nhật nhật như thị, thọ vương Bát Giới.
Thế Tôn diệc khiển tôn giả Phú Lâu Na, vị
vương thuyết pháp.
爾 時 大 王 食 麨 飲 漿。求 水 漱 口。漱 口 畢 已。合 掌 恭 敬。向 耆 闍 崛 山。遙 禮 世 尊。而 作 是 言。大 目 犍 連。是 吾 親 友。願 興 慈 悲。授 我 八 戒。時 目 犍 連。如 鷹 隼 飛,疾 至 王 所。日 日 如 是。授 王 八 戒。世 尊 亦 遣 尊 者 富 樓 那,為 王 說 法。
(Lúc bấy giờ, đại
vương ăn bột rang, uống nước ép, xin
nước súc miệng. Súc miệng xong xuôi, chắp tay cung
kính, hướng về núi Kỳ Xà Quật, bái vọng
đức Thế Tôn, bạch như thế này: “Ngài Đại
Mục Kiền Liên là thân hữu của con, nguyện hăy dấy
ḷng từ bi, truyền cho con Bát Quan Trai Giới”. Khi ấy,
ngài Mục Kiền Liên như chim ưng, chim ó bay liệng,
nhanh chóng đến chỗ nhà vua, mỗi ngày đều
như thế, truyền Bát Quan Trai Giới cho nhà vua. Đức
Thế Tôn cũng sai tôn giả Phú Lâu Na thuyết pháp cho nhà
vua).
Quốc
vương gặp đại nạn này cũng đau khổ
chẳng thể chịu nổi. Tuy được bí mật
chuyển đạt đồ ăn, thức uống, nên
có cái để ăn uống, nhưng trong cung đ́nh
cũng sám hối, cầu Phật giúp đỡ. Nhưng
nhà vua cầu Phật, vẫn chẳng cầu sanh Tịnh
Độ, chẳng khởi ư niệm ấy, chỉ mong cầu
Phật truyền giới, truyền Bát Quan Trai Giới là
hành pháp để người tại gia tu hạnh xuất
gia. Thời hạn của Bát Quan Trai Giới
là một ngày một đêm, hết một ngày đêm liền
viên măn, ngày hôm sau lại phải thọ lần nữa, có
thể thọ mỗi ngày. Nếu chẳng có thầy, không
có người xuất gia, chính ḿnh có thể đối
trước Phật, Bồ Tát tự thọ. V́ thế,
hành pháp này có khai duyên, [nghĩa là] hễ có người xuất
gia truyền cho quư vị th́ rất tốt, chẳng có
người xuất gia th́ chính ḿnh có thể đối
trước Phật, Bồ Tát phát nguyện thọ tŕ. Tám
giới ấy gồm tám điều giới và một
điều về Trai, nên gọi là Bát Quan Trai Giới. Trai
(齋) là ăn một bữa trưa, chẳng
ăn sau giữa trưa. Bát Quan Trai Giới thật sự
th́ sáng sớm ăn thứ ǵ cũng không được.
Sáng sớm cũng chớ nên ăn, mỗi ngày ăn một bữa.
Sau giữa Ngọ, tức là sau giữa trưa, có thể uống
nước, nhưng trong nước chẳng thể có chất
trầm lắng. Như sữa th́ chẳng thể uống,
v́ sữa có chất trầm lắng. Sữa đậu nành
cũng chẳng thể uống, v́ sữa đậu nành
cũng có chất trầm lắng. Có thể uống ǵ? Có
thể uống mật, mật và nước chẳng có chất
trầm lắng. Uống nước đường
cũng được! V́ vậy, đối với Bát Quan
Trai Giới, Trai hết sức nghiêm ngặt, trai lẫn giới
đều nghiêm ngặt. Đó là cuộc sống của
người xuất gia thuở Phật tại thế,
chúng ta sống một ngày [theo cách sống ấy].
“Trung” (中) [ở đây] là
giữa trưa, chẳng phải là Ngọ. Người hiện
thời nói “tŕ ngọ”,
đó là sai lầm. Ngọ (午) là giờ Ngọ,
từ mười một giờ đến một giờ
đều thuộc về giờ Ngọ. Một giờ
chiều th́ mặt trời đă qua khỏi giữa
trưa từ lâu. V́ vậy, người ấy (người
tŕ Bát Quan Trai Giới) là sau giữa trưa chẳng ăn,
chẳng phải là ăn vào giờ Ngọ. Thời gian giữa
trưa mỗi ngày khác nhau. Xưa kia, dùng đồng hồ
mặt trời (nhật quỹ, 日晷)[7] để
tính toán thời gian giữa trưa. Hiện thời, thuận
tiện hơn xưa kia, hiện thời dùng ǵ? Nếu là
người tŕ ngọ, sẽ dùng nhật lịch thiên
văn (Astronomical Almanac), đài thiên
văn mỗi năm đều phát hành. Trong nhật lịch thiên
văn có ghi chép mỗi ngày, nhằm tháng mấy, ngày mấy,
thời gian đúng giữa trưa vào đúng mấy giờ,
mấy phút, mấy giây, viết rất rơ ràng. Nhất định
phải [thọ trai] trước khi ấy, hễ quá một
giây tức là đă phá trai, đă phá Bát Quan Trai. V́ thế,
đây là một chuyện rất phiền phức. Hiện
thời có rất nhiều người tŕ ngọ, đó là
làm cho có tiếng mà thôi, chứ thật ra [cả trai lẫn
giới] đều bị phá sạch cả rồi. Buổi
tối ăn hoa quả, đă phá giới, [v́ hoa quả] có
chất bă. Buổi tối uống cốc sữa th́
cũng đă phá giới. Người ấy trọn chẳng
hiểu những thứ ấy đều chẳng
được dùng. Phàm là những ǵ có chất trầm lắng
đều chẳng được uống. Đó là sống
cuộc đời của người xuất gia trong một
ngày.
Quốc
vương bị người ta giam kín nơi đó,
đau khổ chẳng chịu đựng nổi, nghĩ
ta phải tu phước, trong đời quá khứ đă tạo
tội nghiệp quá nhiều, chẳng tu phước, bèn cầu
tôn giả Mục Kiền Liên, chẳng dám cầu Phật,
mong mỏi học tṛ của đức Phật đến
giúp nhà vua thọ giới. Ngài Mục Kiền Liên và nhà vua có
quan hệ thân thích. Vua vừa động một niệm,
đức Phật liền biết, liền ngay lập tức
sai Mục Kiền Liên truyền giới cho vua, ḥng măn nguyện cho ông ta. Lại sai Phú Lâu Na
đến thuyết pháp, chỉ dạy, cho nhà vua khỏi đau
khổ v́ tịch mịch mà suy nghĩ lung tung. Đức
Phật nghĩ rất chu đáo, phái hai vị ấy đến
chiếu cố, giúp đỡ nhà vua. À! Chúng ta nghỉ
ngơi mấy phút.
Tập 18
Xin
mở kinh bổn, trang một trăm lẻ tám. Chúng ta xem
kinh văn, ḍng thứ ba từ dưới đếm lên.
Như
thị thời gian, kinh tam thất nhật, vương thực
sao mật, đắc văn pháp cố, nhan sắc ḥa duyệt.
如 是 時 間。經 三 七 日。王 食 麨 蜜。得 聞 法 故。顏 色 和 悅。
(Thời gian như thế trải
qua hai mươi mốt ngày, vua do ăn bột rang và mật,
được nghe pháp, nên vẻ mặt ôn ḥa, vui sướng).
Nh́n
từ chuyện này, bất luận là vua Tần Bà hay phu
nhân Vi Đề Hy, có thể nói là đều gặp phải
nghịch duyên hay nghịch cảnh th́ mới phát tâm học
Phật, giác ngộ từ chỗ này. Duyên tuy là nghịch
ác, nhưng hậu quả đạt được lại
là chánh diện, là chí thiện. Nhất là phu nhân Vi Đề
Hy mong cầu sanh Tịnh Độ, đấy là cơ
duyên hiếm có, khó gặp, chẳng ngờ sẽ được
chín muồi ở chỗ này, rất khó có! Nếu chúng ta có
thể thường ghi nhớ những chỗ này, quan sát
thế gian, nhắc nhở chính ḿnh: Đối với những
cảnh ngộ gặp gỡ trong thế gian, hăy nên giống
như họ, có thể dấy lên giác tánh, nghiêm túc nỗ lực
tu học. Tất cả các nghịch duyên đều là Tăng
Thượng Duyên tốt nhất. Người đang gặp
khổ nạn, nói thật ra, tâm cầu đạo càng ân cần,
tha thiết hơn. Hết thảy đều là thuận cảnh,
dẫu gặp gỡ Phật pháp cũng rất khó tu tŕ,
thiện căn sâu dầy, sanh khởi tâm hoan hỷ mà thôi,
chứ nghiêm túc tu học hết sức khó khăn. V́ thế,
nói thật ra, nghịch cảnh trọn chẳng phải là
chuyện xấu. Trong kinh, đức Phật thường
dạy chúng ta: “Lấy khổ
làm thầy”. Xác thực là dễ thành tựu trong khổ
nạn.
Quốc
vương tuy bị giam cầm, giam cầm đă hai
mươi mốt ngày, thời gian rất dài. Nhà vua
được ăn uống, lại gặp ngài Mục Kiền
Liên và Phú Lâu Na thuyết pháp, vua đạt được
pháp hỷ, cho nên “nhan sắc
ḥa duyệt”, do đạt được pháp hỷ
đó mà! Lại xem đoạn kinh văn tiếp theo:
Thời
A Xà Thế vấn thủ môn giả.
時 阿 闍 世 問 守 門 者。
(Khi ấy, A Xà Thế hỏi
người canh cửa).
Đă
qua hai mươi mốt ngày, ông ta đến tra hỏi
đôi chút, nói:
Phụ
vương kim giả do tồn tại da?
父 王 今 者 猶 存 在 耶。
(Nay phụ vương vẫn c̣n sống ư?)
Ông
ta hỏi cha ḿnh có c̣n sống hay chăng? Hỏi kẻ giữ
cửa, có c̣n sống hay chăng? Đă chết hay chưa?
Thời
thủ môn nhân bạch ngôn. Đại vương.
時 守 門 人 白 言。大 王。
(Khi ấy, kẻ giữ cửa
tâu rằng: “Tâu đại vương”).
Chữ
“đại vương” dành
để gọi A Xà Thế, v́ A Xà Thế là vua trong hiện
thời.
Quốc thái phu
nhân, thân đồ sao mật, anh lạc thịnh
tương, tŕ dụng thượng vương. Sa-môn Mục
Liên cập Phú Lâu Na, tùng không nhi lai, vị vương thuyết
pháp, bất khả cấm chế.
國 太 夫 人。身 塗 麨 蜜。瓔 珞 盛 漿。持 用 上 王。沙 門 目 連。及 富 樓 那 。從 空 而 來 。為 王 說 法 。不 可 禁 制。
(Quốc thái phu nhân, thân bôi bột rang và mật, chuỗi
đeo đựng nước trái cây ép, đem dâng lên vua.
Sa-môn Mục Liên và Phú Lâu Na từ trên hư không hiện tới,
thuyết pháp cho nhà vua, chẳng thể ngăn cấm).
Người
giữ cửa biết t́nh h́nh sự thật, cũng chẳng
giấu giếm. Anh ta nói hoàng thái hậu mỗi ngày đem
đồ ăn, thức uống cho vua, tâu tŕnh t́nh h́nh này.
Khi ấy, quốc vương cấm những kẻ khác
không được gặp vua cha, chẳng nói cấm
vương hậu không thể ra vào, chẳng nói tới lời
ấy. Do đó, vương hậu vào ra rất tự do,
chẳng có ai ngăn trở bà ta. Mục Liên và Phú Lâu Na do thần
thông, từ không trung bay đến, bay đi, anh ta cũng
chẳng biết làm sao, ngăn chặn không được!
Chẳng có cách nào! Những chuyện ấy không có cách nào cấm
chỉ, quyền lực của họ đều chẳng
làm ǵ được. Chỉ đành thật thà tâu chuyện
này lên A Xà Thế: Cha Ngài nay chưa chết, vẫn c̣n sống!
Thời A Xà Thế
văn thử ngữ dĩ, nộ kỳ mẫu viết:
“Ngă mẫu thị tặc, dữ tặc vi bạn. Sa-môn ác
nhân, huyễn hoặc chú thuật, linh thử ác vương,
đa nhật bất tử”. Tức chấp lợi kiếm,
dục hại kỳ mẫu.
時 阿 闍 世 聞 此 語 已。怒 其 母 曰。我 母 是 賊。與 賊 為 伴。沙 門 惡 人。幻 惑 咒 術。令 此 惡 王。多 日 不 死。即 執 利 劍。欲 害 其 母。
(Khi ấy, A Xà Thế nghe lời ấy, giận mẹ
nói: “Mẹ ta là giặc, kết bè đảng với giặc.
Sa-môn là kẻ ác, chú thuật huyễn hoặc, khiến cho
ác vương đă nhiều ngày chẳng chết”. Liền
cầm gươm bén, toan hại mẹ ḿnh).
Người
Hoa gọi chuyện này là “thấy lợi tối mắt”,
v́ thỏa tư lợi của chính ḿnh, hoàn toàn chôn vùi lư
trí. Không chỉ muốn hại cha, mà nay c̣n muốn sát hại
mẹ. Đúng là ác nghịch đến cùng cực. Chúng ta
xem phần kinh văn kế tiếp, trang một trăm
mười một, xem phần kinh văn được in
cao hơn một chữ.
Thời
hữu nhất thần, danh viết Nguyệt Quang.
時 有 一 臣。名 曰 月 光。
(Khi ấy, có một người bầy tôi tên là Nguyệt
Quang (Candraprabhā)).
Vua
có một đại thần.
Thông
minh đa trí, cập dữ Kỳ Bà.
聰 明 多 智。及 與 耆 婆。
(Thông minh, lắm trí huệ, cùng
với Kỳ Bà).
Kỳ
Bà (Jīvaka) cũng là một
đại thần[8].
Trong đám bầy tôi có hai người này. Hai người
này hết sức hiền năng, là hiền nhân trong nước,
được mọi người trong nước hết
sức ngưỡng vọng.
Vị vương tác lễ, bạch
ngôn: “Đại vương! Thần văn Tỳ Đà Luận
Kinh thuyết”.
為 王 作 禮。白 言。大 王。臣 聞 毘 陀 論 經 說。
(Hướng về vua làm lễ,
tâu rằng: “Tâu đại vương! Thần nghe kinh luận
Tỳ Đà có nói).
Đây không phải
là kinh Phật, [Tỳ Đà (Vedas)] là kinh điển Bà La
Môn.
Kiếp
sơ dĩ lai, hữu chư ác vương, tham quốc vị
cố, sát hại kỳ phụ nhất vạn bát thiên.
劫 初 已 來。有 諸 惡 王。貪 國 位 故。殺 害 其 父 一 萬 八 千。
(Từ kiếp ban sơ đến nay, có các vua ác v́
tham ngôi vua, giết hại cha ḿnh có đến một vạn
tám ngàn kẻ).
Ư
nói con đoạt quyền vị của cha từ xưa tới
nay đều có, có nghe nói chuyện này.
Vị
tằng văn hữu vô đạo hại mẫu.
未 曾 聞 有 無 道 害 母。
(Chưa từng nghe nói có kẻ nào vô đạo hại
mẹ).
C̣n
như giết hại mẹ, vẫn chưa hề nghe nói
đến.
Vương
kim vi thử sát nghịch chi sự, ô Sát Lợi chủng.
王 今 為 此 殺 逆 之 事。污 剎 利 種。
(Nay bệ hạ làm chuyện giết chóc ngỗ nghịch
này, khiến ḍng Sát Đế Lợi
bị ô uế).
Ở
đây chẳng phải là chữ Hăn (汗), đây lại
là một chữ bị in sai, đúng ra phải là chữ Ô
(污). Ô nhiễm Sát
Đế Lợi, Sát Đế Lợi (Kṣatriya) là vương tộc. Chuyện này
khiến cho vương tộc bị ô danh, vương tộc
nhục nhă.
Thần
bất nhẫn văn , thị Chiên Đà La.
臣 不 忍 聞。是 旃 陀 羅。
(Thần chẳng nỡ
nghe. Đó là [hành vi của] Chiên Đà La).
Chiên Đà La (Caṇḍāla) thấp nhất trong bốn chủng
tánh (Varṇa) của Ấn
Độ, làm nghề mổ heo, giết trâu, là nghề nghiệp
bất hảo nhất.
Ngô
đẳng bất nghi phục trụ ư thử.
吾 等 不 宜 復 住 於 此。
(Bọn thần không nên ở chỗ này nữa).
Hôm
nay quốc vương làm chuyện này, chúng tôi thật sự
chẳng nỡ ḷng. Chuyện này ác nghịch đến tột
cùng, chúng tôi chẳng thể lưu lại nơi này nữa,
cũng chẳng thể pḥ tá nhà vua, phải rời đi.
Thời nhị đại thần thuyết thử
ngữ cánh, dĩ thủ án kiếm, khước hành nhi
thoái.
時 二 大 臣。說 此 語 竟。以 手 按 劍。却 行 而 退。
(Khi ấy, hai vị đại thần nói lời ấy
xong, dùng tay đè kiếm, lui chân rời đi).
Hai
người ấy chuẩn bị rời bỏ nhà vua, muốn
bỏ trốn đến quốc gia khác. A Xà Thế kể
ra cũng c̣n khá lắm…
Thời
A Xà Thế kinh bố hoảng cụ, cáo Kỳ Bà ngôn: “Nhữ
bất vị ngă da?”
時 阿 闍 世 驚 怖 惶 懼。告 耆 婆 言。汝 不 為 我 耶。
(Khi đó, A Xà Thế kinh hăi, hoảng
sợ, bảo Kỳ Bà rằng: “Ông chẳng v́ ta ư?”)
Các
ông chẳng thể phụ trợ, giúp đỡ ta ư?
Kỳ
Bà bạch ngôn: - Đại vương! Thận mạc hại
mẫu.
耆 婆 白 言。大 王。慎 莫 害 母。
(Kỳ Bà tâu rằng: “Tâu đại
vương! Hăy thận trọng, đừng hại mẹ”).
Ông
ta nói: Bệ hạ hăy suy nghĩ, xét tưởng cho nhiều,
quyết định chớ nên hại mẹ.
Vương văn thử ngữ, sám hối cầu cứu,
tức tiện xả kiếm, chỉ bất hại mẫu.
王 聞 此 語。懺 悔 求 救。即 便 捨 劍。止 不 害 母。
(Vua nghe lời ấy, ăn năn, hối lỗi, liền
buông bỏ gươm, thôi không hại mẹ).
Có
thể nói là hai người này hết sức thông minh. Khi A
Xà Thế đảo chánh, bắt giam cha, sao họ chẳng
đến khuyến cáo? Theo như chúng tôi nghĩ, nhất
định là có nguyên nhân. A Xà Thế hết sức thông
minh, cũng hết sức có năng lực, lại c̣n
đă đạt đến giai đoạn chín chắn. Vua
già tuổi đă quá cao, chắc là giải quyết chánh sự
cũng có những lúc hồ đồ. V́ thế, tuy A Xà Thế
bắt giam lăo vương để kế thừa ngôi vua,
chắc là cũng chẳng đến nỗi có hại cho
dân chúng, mà c̣n có lợi, chẳng có hại. V́ thế, họ
chẳng ra mặt khuyên can, ngăn trở, vẫn giúp nhà
vua cai trị đất nước. Nay vua muốn hại
mẹ, đây là chuyện đại nghịch bất đạo,
ắt cần phải ra mặt khuyên can, ngăn cản.
Khuyên can, ngăn cản mà vua chẳng nghe, nhất định
sẽ bỏ nước này, trốn sang nước khác.
Chuyện này ở Ấn Độ có, mà ở Trung Hoa vào thời
cổ cũng có. Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, quốc
vương vô đạo, hiền nhân trốn đi là chuyện
thường thấy, trong lịch sử Trung Hoa cũng
thường thấy. Hai vị hiền thần trong lúc ấy
đến khuyên nhủ vua, kể ra quốc vương
cũng khá lắm, tiếp nhận lời khuyến cáo, chẳng
sát hại mẹ.
Chúng
ta xem đoạn kinh văn tiếp theo, ḍng thứ hai từ
dưới đếm lên trong trang một trăm mười
bốn.
Sắc
ngữ nội quan, bế trí thâm cung, bất linh phục xuất.
敕 語 內 官。閉 置 深 宮。不 令 復 出。
(Sắc truyền nội quan nhốt
chặt mẹ trong cung cấm, chẳng cho ra ngoài nữa).
“Sắc” (敕) là sắc lệnh,
người Hoa gọi là “thánh
chỉ” (聖旨), tức là mệnh lệnh do
hoàng đế ban ra. Tuy chẳng giết mẹ, nhưng
cũng giam cầm mẹ, chẳng cho bà được tự
do hành động. Giam chặt bà trong thâm cung, khiến bà chẳng
thể lui tới chỗ quốc vương. Lần này,
không chỉ mẹ nhà vua mắc nạn, mà cha nhà vua c̣n bị
nạn nặng hơn, đồ ăn thức uống bị
đoạn tuyệt, mẹ chẳng được tự
do hành động.
Thời
Vi Đề Hy bị u bế dĩ, sầu ưu tiều tụy.
時 韋 提 希 被 幽 閉 已。愁 憂 憔 悴。
(Lúc đó, bà Vi Đề Hy bị
nhốt kín, sầu lo, tiều tụy).
Nói
thật ra, bà ta ưu lự không phải v́ chính ḿnh, mà v́ quốc
vương. Quốc vương không có ai lo ăn uống,
sẽ nguy lắm! Đúng là mạng trong sớm tối, nên
hết sức lo sầu.
Dao
hướng Kỳ Xà Quật sơn, vị Phật tác lễ.
遙 向 耆 闍 崛 山。為 佛 作 禮。
(Bèn hướng vọng về
núi Kỳ Xà Quật, kính lễ đức Phật).
Ở
trong thâm cung chẳng thể ra ngoài, bèn hướng về
đạo tràng giảng kinh, thuyết pháp của đức
Phật, hướng về phương hướng ấy
mà lễ bái.
Nhi tác thị ngôn: “Như Lai
Thế Tôn, tại tích chi thời, hằng khiển A Nan lai ủy
vấn ngă”.
而 作 是 言。如 來 世 尊。在 昔 之 時。恆 遣 阿 難 來 慰 問 我。
(Mà nói như thế này: “Bạch đức Như Lai
Thế Tôn, xưa kia, Ngài luôn sai A Nan đến an ủi, thăm
hỏi con”).
Quốc
vương và vương hậu khi ấy đều là hộ
pháp của đức Thế Tôn, mà cũng là đệ tử
tại gia của đức Thế Tôn, nên đức Phật
thường sai A Nan đến giảng kinh, thuyết pháp
cho họ.
我 今 愁 憂。世 尊 威 重。無 由 得 見。願 遣 目 連 尊 者 阿 難。與 我 相 見。
(Con nay sầu lo, Thế Tôn oai đức cao trọng,
không cách nào được gặp, xin hăy sai tôn giả Mục
Liên và A Nan đến gặp mặt con).
Đức
Phật là thầy, chẳng dám làm phiền lăo nhân gia, mong mỏi
đức Phật có thể sai tôn giả Mục Kiền
Liên và A Nan đến gặp mặt bà ta.
Tác
thị ngữ dĩ, bi khấp vũ lệ, dao hướng
Phật lễ.
作 是 語 已。悲 泣 雨 淚。遙 向 佛 禮。
(Thưa lời ấy xong, buồn
khóc, tuôn nước mắt như mưa, hướng vọng
về phía Phật lễ bái).
Chúc
nguyện như vậy xong, lại lễ bái. Chúng ta lại
xem phần kinh văn kế tiếp nơi trang một
trăm mười bảy.
Vị
cử đầu khoảnh.
未 舉 頭 頃。
(Trong khoảng chưa ngẩng
đầu lên).
Bà
ta lạy xuống, c̣n chưa ngẩng đầu lên, ư nói
thời gian rất nhanh chóng.
Nhĩ
thời Thế Tôn tại Kỳ Xà Quật sơn, tri Vi
Đề Hy tâm chi sở niệm.
爾 時 世 尊 在 耆 闍 崛 山。知 韋 提 希 心 之 所 念。
(Lúc bấy giờ, đức
Thế Tôn ở núi Kỳ Xà Quật, biết tâm niệm của
Vi Đề Hy).
Đức
Thế Tôn tâm địa thanh tịnh có thể thấy thấu
suốt khắp pháp giới, hết thảy chúng sanh khởi
tâm động niệm, chẳng có ǵ đức Phật
không biết. Như trong đại kinh đă nói: Hàng Bồ
Tát trong thế giới Tây Phương, ngay cả hạ hạ
phẩm văng sanh đều có năng lực này, chúng sanh
trong mười phương thế giới khởi tâm
động niệm không ǵ chẳng biết. Do đó, chúng
sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Vừa động niệm,
đức Phật biết ngay.
Tức
sắc Đại Mục Kiền Liên cập dĩ A Nan,
tùng không nhi lai.
即 敕 大 目 犍 連 及 以 阿 難。從 空 而 來。
(Liền truyền Đại Mục
Kiền Liên và A Nan, từ hư không mà đến).
Ứng
với điều bà ta mong cầu. Bà ta cầu được
gặp mặt Mục Kiền Liên và A Nan, đức Phật
liền sai hai vị ấy đến. Không chỉ là đức
Phật sai hai vị ấy đến, mà Ngài cũng tự
đến.
Phật
tùng Kỳ Xà Quật sơn một, ư vương cung xuất.
佛 從 耆 闍 崛 山 沒。於 王 宮 出。
(Đức Phật biến mất tại núi Kỳ
Xà Quật, xuất hiện tại vương cung).
Đức
Phật cũng đến, dẫn theo hai người ấy.
時 韋 提 希 禮 已。舉 頭。見 世 尊 釋 迦 牟 尼 佛。身 紫 金 色 坐 百 寶 蓮 華。目 連 侍 左。阿 難 侍 右。釋 梵 護 世 諸 天。在 虛 空 中。
(Khi ấy, Vi Đề Hy lễ xong, ngẩng đầu
lên, thấy đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, thân
màu vàng tía, ngồi trên hoa sen bằng trăm thứ báu, Mục
Liên hầu bên trái, A Nan hầu bên phải. Thích Phạm hộ
thế chư thiên đều ở trên hư không).
“Thích Phạm hộ thế
chư thiên” chỉ hết thảy các vị thần hộ
pháp. Thần hộ pháp ở trên hư không.
Phổ
vũ thiên hoa, tŕ dụng cúng dường.
普 雨 天 華。持 用 供 養。
(Mưa khắp các hoa trời, dùng đó để
cúng dường).
Thần
hộ pháp ở trên hư không rải hoa cúng dường.
Đây là nói phu nhân vừa dấy một niệm, Phật,
Bồ Tát bèn xuất hiện tại vương cung. Đức
Phật đến v́ biết nhân duyên đă chín muồi. Quốc
vương cầu Phật, đức Phật chỉ phái
đệ tử đến truyền giới và thuyết
pháp cho vua, đức Phật chẳng tự đến.
Phu nhân vừa động niệm, đức Phật
đích thân đến. Điều này cho thấy vua và phu
nhân, nguyện vọng mỗi người khác nhau, sở cầu
chẳng giống nhau. Một đằng chỉ cầu
truyền giới, đức Phật sai đệ tử
đến là được rồi. Một đằng
mong cầu ĺa khổ được vui, trừ đức
Phật tự đến [dạy bảo] ra, [sai người
nào khác đến giảng giải] đều chẳng thể.
V́ thế, do tâm niệm, nguyện cầu của họ khác
nhau, mà cảm ứng cũng chẳng giống nhau.
Trong
lời chú giải phía sau đoạn này, Đế Nhàn
đại sư nêu ư kiến về cách chúng ta thờ
tượng Phật trong hiện thời, do đoạn
kinh văn này mà Ngài có ư kiến ấy. Chúng tôi đọc
đoạn này một lượt, để các đồng
tu thấy đoạn này trong tâm chẳng khởi hoài nghi.
Nơi hàng thứ ba trang một trăm mười chín, xem
từ câu thứ hai. “Ngă quốc
các xứ đại điện”, [ư nói] trong Đại
Hùng Bảo Điện của các tự viện nhà Phật
[tại Trung Hoa]. “Cúng nhất
Phật nhị thị giả tượng, tương truyền
đô đạo Ca Diếp, A Nan” (thờ tượng một
vị Phật và hai vị thị giả, tương truyền
đều nói [hai vị thị giả] chính là Ca Diếp và
A Nan), thông thường truyền tụng, hai tượng ấy,
một bên là tôn giả Ca Diếp, bên kia là tôn giả A Nan.
Quả thật rất nhiều nơi thờ tượng
theo cách thức ấy, một bên là tượng một vị
trẻ tuổi, tượng bên kia tuổi tác rất cao, thờ
hai vị ấy. “Ngă tắc tố
ngôn bất dĩ vi nhiên” (tôi trọn chẳng cho như vậy
là đúng), “tôi” là pháp sư
Đế Nhàn tự xưng, “tuy
bất kiến hữu nhân công nhiên phủ nhận, đản
tâm trung do vị thành khẳng nhĩ” (tuy chẳng thấy
có ai công khai phủ nhận, nhưng trong tâm vẫn chưa
thật sự khẳng định như thế), có những
người thấy cách thờ như vậy không nghĩ
là đúng, nhưng cũng không tiện nói. “Phù cổ nhân kiến điện, cúng tượng, tất
hữu sở bổn” (phàm cổ nhân dựng điện,
thờ tượng, ắt có căn cứ), phải có
căn cứ v́ sao thờ phụng theo cách thức ấy! “Thí vấn Ca Diếp, A Nan, xuất
ư hà điển” (thử hỏi [thờ hai vị thị
giả] là Ca Diếp và A Nan xuất phát từ kinh điển
nào), chẳng t́m thấy căn cứ trong kinh điển. “Ngă viết phi giả, năi bổn
ư kim kinh dă” (tôi nói chẳng phải vậy, do căn
cứ theo kinh này). Pháp sư Đế Nhàn nói thờ tượng
như vậy có thể là không đúng. [Nói là] không đúng v́
căn cứ theo kinh này, căn cứ trên đoạn kinh
văn này. “Kinh trung phân minh thuyết
Phật thân tử kim sắc, tọa bách bảo liên hoa, Mục
Liên thị tả, A Nan thị hữu, tả diện
tương truyền ngôn Ca Diếp giả, dĩ manh tùng
manh dă” (Trong kinh nói rơ ràng thân Phật màu vàng tía, ngồi
trên hoa sen trăm báu, Mục Liên hầu bên trái, A Nan hầu
bên phải. Lời truyền tụng vị đứng bên trái
là Ca Diếp như trên đây chính là [lời tương
truyền] do gă đui dạy kẻ mù vậy). Trong cách nh́n
của lăo ḥa thượng, Ngài nói người bên trái chẳng
phải là tôn giả Ca Diếp, phải nên là ngài Mục
Liên, do căn cứ theo những điều được
nói trong kinh này.
Cách
nh́n này của lăo ḥa thượng cố nhiên là có lư,
nhưng chúng tôi cảm thấy người ta thờ một
bên là Ca Diếp, thờ bên kia là A Nan, theo như chúng tôi
nghĩ, cũng chẳng có ǵ là thờ sai! Tuy trong kinh điển
không có, nhưng những chuyện trong kinh điển không
có rất nhiều! Chỉ cần nói theo phương diện
ư nghĩa biểu pháp mà thông suốt th́ cũng chẳng phải
là không được. Ngài Ca Diếp truyền Tông Môn, tức
Thiền Tông, ngài A Nan truyền Giáo Hạ. Dùng hai Ngài để
biểu thị Tông Môn và Giáo Hạ th́ cũng xuôi tai,
cũng trọn chẳng phải là hoàn toàn không có lư do!
Đây là cách thờ tượng thông thường, cụ
Đế Nhàn nói có lư, nhưng thờ A Nan và Ca Diếp
cũng có lư, đều chẳng thể coi là sai, chúng ta chớ
nên chấp trước, chớ nên thiên chấp là được
rồi. Trong pháp môn Đại Thừa, lúc thờ th́ thường
không thờ A Nan và Ca Diếp, mà là thờ Thích Ca Mâu Ni Phật
chính giữa, thông thường là thờ Văn Thù và Phổ
Hiền, thờ hai vị đại Bồ Tát ấy, giống
như thờ Tây Phương Tam Thánh là thờ A Di Đà Phật,
Quán Âm, Thế Chí, thờ theo cách như vậy.
Lại
xem đoạn kinh văn tiếp theo. Khoa đề của
phần kinh văn này ở trong ḍng thứ hai đếm từ
dưới lên trong trang một trăm mười chín. Trong
khoa đề, có một chữ có vấn đề! Đây
là đoạn thứ ba: “Thương
thán thỉnh pháp nhị, sơ vấn văng sanh nhân” (Cảm
thương than thở, gồm có hai phần. Phần thứ
nhất là hỏi về cái nhân văng sanh). Chữ “văng sanh” này
có vấn đề, [v́ bà Vi Đề Hy] hỏi về cái
nhân trong “túc sanh”, túc thế,
tức là hỏi về nhân duyên trong đời quá khứ.
Kinh văn phải là “vấn
túc sanh”, chẳng phải là hỏi về văng sanh. Do
đó, chữ Văng là sai!
Thời
Vi Đề Hy kiến Phật Thế Tôn.
時 韋 提 希 見 佛 世 尊。
(Khi đó, bà Vi Đề Hy trông
thấy đức Phật Thế Tôn).
Chẳng
ngờ đức Phật đích thân đến.
Tự
tuyệt anh lạc, cử thân đầu địa hào khấp
hướng Phật.
自 絕 瓔 珞。舉 身 投 地 號 泣 向 佛。
(Tự giật đứt chuỗi
anh lạc, gieo ḿnh xuống đất, gào khóc hướng
về Phật).
Đức
Phật hiện đến, cảm động sâu xa nhất,
giật bỏ những thứ chuỗi ngọc đeo trên
thân, hướng về Phật đảnh lễ, đau đớn khóc ṛng.
Bạch
ngôn: “Thế Tôn! Ngă túc hà tội, sanh thử ác tử?”
白 言。世 尊。我 宿 何 罪,生 此 惡 子。
(Bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Con xưa có tội
ǵ mà sanh ra đứa con tàn ác này?”)
Trong
đời quá khứ, tôi đă tạo tội nghịch
đến nỗi nào mà sanh ra đứa con bất hiếu
giết cha, hại mẹ. Đây là hỏi về nhân duyên
trong quá khứ.
Thế
Tôn phục hữu hà đẳng nhân duyên, dữ Đề
Bà Đạt Đa, cộng vi quyến thuộc?
世 尊 復 有 何 等 因 緣。與 提 婆 達 多。共 為 眷 屬。
(Đức Thế Tôn lại do có nhân duyên như thế
nào mà cùng với Đề Bà Đạt Đa là quyến
thuộc[9]).
Nói
đức Phật Thế Tôn trong quá khứ có nhân duyên ǵ mà
cớ sao Đề Bà Đạt Đa và Ngài là anh em, tức
anh em họ. Đó là nhân duyên ǵ? Con tôi và tôi là nhân duyên ǵ? Hai
kẻ ấy cấu kết muốn hại Phật, muốn
hại cha mẹ, làm chuyện đại nghịch bất
đạo này!
Tiếp
đó là hỏi đến nơi sẽ văng sanh, trong đoạn
kinh văn tiếp theo, tức là ḍng thứ tư trong trang
một trăm hai mươi mốt:
Duy
nguyện Thế Tôn, vị ngă quảng thuyết vô ưu
năo xứ, ngă đương văng sanh, bất nhạo Diêm Phù
Đề trược ác thế dă.
唯 願 世 尊。為 我 廣 說 無 憂 惱 處。我 當 往 生。不 樂 閻 浮 提 濁 惡 世 也。
(Kính xin đức Thế Tôn, hăy v́ con nói rộng răi về
chỗ chẳng có ưu năo, con sẽ sanh về đó, chẳng
thích cơi đời trược ác trong chốn Diêm Phù Đề).
Ở
đây bà ta mới nêu ra ư niệm ấy. Trước
đó, bà trọn chẳng nói ra, chẳng nêu ra ư niệm ấy,
chẳng nói ra ư nghĩ này, nhưng đức Phật
đă biết. Chẳng cần chờ quư vị nói ra, đức
Phật đă đến, muốn giúp quư vị giải quyết
vấn đề ấy. Nay đức Phật đă đến,
bà ta nói ra. Chuyện này ngoại trừ đức Phật
đích thân đến th́ không thể, v́ sao? Đây là đại
sự nhân duyên, kinh Pháp Hoa nói “một
đại sự nhân duyên”, liễu sanh tử, thoát tam giới,
thành Phật trong một đời, chẳng có chuyện ǵ
lớn hơn chuyện này! Vua Tần Bà Sa La chẳng có ư niệm
này, chẳng mong liễu sanh tử, thoát tam giới, thành Phật,
làm Tổ, vua chẳng có nguyện vọng ấy. Nguyện
vọng của nhà vua là chỉ cầu được truyền
giới, chỉ cầu nghe pháp ḥng giải trừ khổ nạn
trong hiện tiền. Phu nhân có nguyện vọng vĩnh viễn
thoát khỏi khổ nạn, giải quyết một chuyện
th́ trăm chuyện được giải quyết, hai
người có nguyện vọng khác nhau. V́ thế, đối
với quốc vương, đức Phật chỉ sai
đệ tử đi là được rồi, đă có thể
thỏa măn nguyện vọng của ông ta. Đối với
phu nhân, không thể nào chẳng tự đi th́ nguyện vọng
ấy mới có thể viên măn; do đó, đức Thế
Tôn đích thân đến hoàng cung. Bà ta nói rơ “chẳng muốn
trụ trong thế gian này nữa”. Tiếp đó, kinh
văn chép:
此 濁 惡 處。地 獄 餓 鬼 畜 生 盈 滿。多 不 善 聚。願 我 未 來 不 聞 惡 聲。不 見 惡 人。
(Chốn trược ác này, địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh đầy dẫy, nhiều nỗi bất
thiện tụ tập. Nguyện trong tương lai, con chẳng
nghe tiếng ác, chẳng thấy kẻ ác).
Mấy
câu này nêu rơ phu nhân do gặp nạn này bèn triệt để
giác ngộ, thật sự giác ngộ. Thế giới này
xác thực là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh
đầy ắp! Quư vị nói chúng ta chưa thấy ư?
Chưa thấy là chưa thấy quả, chứ cái nhân
đă thấy rồi! Tham dục là nhân của ngạ quỷ,
sân khuể là nhân của địa ngục, ngu si là nhân của
súc sanh. Chúng ta thấy thế gian này ngập tràn tham, sân, si;
những điều tạo tác cũng là tham, sân, si, quả
báo trong tương lai là địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh, lẽ đâu chẳng tràn ngập? Điều này thật
sự quá đáng sợ! “Đa
bất thiện tụ” là nói tới hoàn cảnh nhân sự,
thế gian này quá ít thiện nhân, người thật sự
giác ngộ, thật sự hiểu rơ quá ít. Không chỉ là
người thế gian là như vậy, mà người học
Phật cũng chẳng phải là ngoại lệ. Có thấy
rơ ràng hoàn cảnh th́ mới biết văng sanh là khẩn yếu.
Rời khỏi thế giới này sớm hơn một
ngày, tức là được phước sớm hơn một
ngày, được an lạc sớm hơn một ngày. Thế
gian này có ǵ đáng để lưu luyến? Bồ Tát trụ
trong thế gian này thêm một ngày, nhằm mục đích
độ thêm một người hữu duyên, tuyệt
đối chẳng phải là lưu luyến thế gian
này. Hết thảy việc làm, hết thảy hành động
đều nhằm giúp đỡ chúng sanh hữu duyên sớm
sanh về Cực Lạc. Trừ chuyện này ra, chư vị
ngẫm xem, c̣n có lư do ǵ để ở thêm một ngày trong
thế gian này? Hy vọng trụ trên thế gian thêm một
ngày, chính là mê hoặc điên đảo, là ngu si. Người
có trí huệ, thật sự giác ngộ, chắc chắn
không hy vọng ở trên thế gian này thêm một ngày nào! Ở
đây, chúng ta thấy phu nhân Vi Đề Hy đă giác ngộ,
đă hiểu rơ, trụ trong thế gian này chẳng thể
được! Chúng ta thấy bà ta giác ngộ, lại
nghĩ tới chính ḿnh, bà ta thật sự biết thế
gian này khổ sở, nay chúng ta gặp nạn vẫn
chưa đủ, nên vẫn chưa giác ngộ.
Có
thể nói là hiện thời, người thế gian trên cả
thế giới đang bị hăm trong hoàn cảnh hết sức
bất thường. B́nh thường là ǵ? Theo sự giáo
hóa của Nho gia, [“b́nh thường” chính là] Ngũ Luân,
Ngũ Thường, luân thường xă hội b́nh thường,
đúng mực. Vứt bỏ luân thường chính là bất
b́nh thường. Toàn thể thế giới đều bất
b́nh thường, khổ nạn càng hăm sâu hơn! Do đó,
thế gian này c̣n có tai nạn rất lớn, ở ngay
trước mắt, ngày càng gần hơn. Theo tiên đoán của
Cơ Đốc giáo phương Tây, tận thế xảy
ra vào ngày nào? Năm 1999. Họ nói tận thế vào năm
1999, năm nay là 1990. Nếu ngay cả đầu đuôi
đều chẳng tính th́ [theo cách nói ấy] c̣n có chín
năm nữa sẽ tận thế, Gia Tô (Jesus) sẽ giáng
phàm tra xét người đời. Đó là tiên đoán của
Cơ Đốc giáo: Chín năm nữa, thế giới này
sẽ chẳng c̣n[10].
Trước đây, người ngoại quốc tin theo
Cơ Đốc giáo, nay họ chẳng tin tưởng. Hiện
thời, tại ngoại quốc người tin theo Cơ
Đốc giáo ngày càng ít. Tuy vẫn c̣n rất nhiều
người đến nhà thờ lễ bái, nhưng họ
chẳng tin tưởng, nghi vấn rất nhiều. Tôi gặp
rất nhiều tín đồ Cơ Đốc ngoại quốc
đến nói với tôi: Mỗi Chủ Nhật họ vẫn
đi nhà thờ, nhưng có rất nhiều vấn đề
hoài nghi đối với những ǵ Kinh Thánh đă nói. Trong
dự ngôn cổ xưa của Trung Hoa, thế giới này sẽ
khôi phục trật tự b́nh thường. Nếu tính theo
Công Nguyên, đại khái là từ năm 2020 cho đến
2030, thế giới này mới khôi phục trật tự
b́nh thường. Tiên đoán của phương Đông và
phương Tây trọn chẳng cùng nhau nghiên cứu,
thương lượng, mà nghiễm nhiên tiên đoán rất
giống nhau như vậy, sai lệch khoảng chừng ba
mươi năm, gần gũi như vậy đó!
Chúng
ta lại xem hoàn cảnh hiện tiền, nh́n từ chỗ
nào? Nh́n từ ḷng người, nh́n từ các tạo tác của
hết thảy mọi người, thế giới đúng
là sẽ có tai nạn. Đại khái là tai nạn ấy hết
sức nghiêm trọng; sau tai nạn ấy, con người sẽ
rất lắng ḷng suy nghĩ cặn kẽ, biết phải
thực hiện như thế nào! Nếu chẳng thể
khôi phục luân thường, đạo đức, chẳng
thể tuân thủ những lời răn dạy của Phật,
Bồ Tát, hết thảy chúng sanh quyết định chẳng
thể tránh khỏi tai nạn đau khổ. Khi nào mọi
người mới có thể tin tưởng, tiếp nhận?
Ắt phải là khi c̣n phải hứng chịu đại
khổ nạn, họ mới có thể tin tưởng, tiếp
nhận. Giống như phu nhân Vi Đề Hy gặp đại
kiếp nạn như thế th́ mới thật sự tỉnh
ngộ. Bà ta mong cầu một cơi, nhưng cũng chưa
biết đến thế giới Cực Lạc, chỉ cầu
một nơi chẳng có khổ nạn. Không chỉ là những
chuyện khổ nạn tôi không trông thấy, mà ngay cả
nghe nói, cũng khiến cho tôi chẳng phải nghe, hy vọng
có một nơi như vậy để tôi có thể đến
đó. Nêu bày nguyện vọng của chính ḿnh, tiếp theo
đó là thỉnh cầu. Phần kinh văn trong trang một
trăm hai mươi hai là chính thức hướng về
đức Thế Tôn nêu bày yêu cầu. Tiểu đoạn
thứ ba là “thỉnh văng sanh
nhân” (thỉnh cầu đức Phật dạy bảo
cái nhân để văng sanh). Chúng ta xem hàng kinh văn được
in cao lên một chữ [so với các ḍng xung quanh].
Kim
hướng Thế Tôn ngũ thể đầu địa,
cầu ai sám hối.
今 向 世 尊 五 體 投 地。求 哀 懺 悔。
(Nay hướng về đức Thế Tôn, năm
vóc gieo xuống đất, xót xa cầu xin sám hối).
Sám
hối, đại khái là do trong đời quá khứ tạo
tội nghiệp quá nặng, sanh ra một đứa con bất
hiếu như thế, sám hối chuyện này.
Phật
nguyện duy viết, giáo ngă quán ư thanh tịnh nghiệp
xứ.
佛 願 唯 曰。教 我 觀 於 清 淨 業 處。
(Kính xin Phật hứa khả, dạy
con quán chỗ có nghiệp thanh tịnh).
Đoạn
kinh văn này là cầu [chỉ dạy] cái nhân văng sanh. Tuy
phu nhân khải thỉnh, nhưng đức Phật dùng
phương pháp thiện xảo cùng cực, đức Phật
trọn chẳng bảo bà ta: Ở phương Tây của
thế giới Sa Bà, có thế giới Cực Lạc, có A
Di Đà Phật, nơi ấy tốt đẹp như thế
nào, bà có thể văng sanh nơi đó. Đức Phật chẳng
nói như thế, mà dùng phương pháp thị hiện trọn
hết Tịnh Độ của chư Phật trong mười
phương trước mặt bà ta, để chính bà tự
chọn lựa. Nói như hiện thời, cách làm này dân chủ,
cởi mở, chính quư vị chọn lựa. Quư vị chọn
lựa kỹ càng rồi, ta sẽ dạy quư vị cách tu
như thế nào, cách đến đó như thế nào,
đó mới là thật sự thỏa măn nguyện vọng
của bà ta. Nói thật ra, phu nhân chọn lựa là chọn
lựa thay cho chúng ta, không phải là đức Phật chủ
động giới thiệu cho chúng ta, để cho chúng ta
được tự do tự tại chọn lựa.
Phương pháp này thiện xảo, khiến cho chúng ta cầu
sanh Tây Phương, quả thật là tâm phục, khẩu
phục, xuất phát từ nguyện vọng của chính
ḿnh. Chúng ta hăy nên ghi nhớ phương thức giáo học
này, v́ sao? Chúng ta thường khuyên người khác niệm
Phật, khuyên người khác cầu sanh Tịnh Độ,
v́ sao người ta chẳng bằng ḷng, không thể tiếp nhận? Thấy người ấy
không thể tiếp nhận, bèn chẳng khuyên kẻ ấy.
Hăy nói với kẻ ấy những điều hay
trong Phật pháp, bảo người đó làm lành có thiện
báo, để kẻ ấy tiếp xúc nhiều, hiểu rơ
hơn, sẽ dần dần khiến cho người ấy
tự ḿnh phát hiện chỗ thù thắng của pháp môn Tịnh
Độ. Do t́m được bèn cam tâm t́nh nguyện tu tập,
ta đă đạt được mục đích.
Trở
về Tịnh Độ là điều chắc chắn có
thể xảy ra, v́ sao? Tịnh Độ thuộc loại
tự tánh Tịnh Độ, tự tánh Di Đà, đều
chẳng tách rời tự tánh, chẳng ĺa khỏi tự
tâm, há có lẽ nào chẳng thể giác ngộ? Bất quá là
nhất thời mê hoặc mà thôi. Do mê hoặc nhất thời,
nên mới chẳng cầu sanh về Tịnh Độ. Nói
thật ra, chẳng nghĩ tới [cầu sanh Tịnh
Độ] th́ trong ấy cũng có nhân tố. Nhân tố ấy
chính là sự sai lầm trong quan niệm. Có những người
nghĩ: “Ta tu hành, trong tương lai sẽ vượt Phật
trỗi Tổ, cần ǵ phải văng sanh?” Giống như A
Di Đà Phật đă phát nguyện trước Thế Gian
Tự Tại Vương Phật: “Trong tương lai, con thành Phật sẽ vượt
trỗi chư Phật”. Đă vượt trỗi
chư Phật th́ cần ǵ phải cầu sanh Tịnh
Độ? Nhưng vấn đề là người ấy
có thể vượt trỗi được hay không?
Đây là một vấn đề. Có những người
phát nguyện, tâm từ bi rất nặng: “Người khổ
nạn trong thế gian này rất nhiều, ta đời
đời kiếp kiếp làm pháp sư trong cơi này để
giáo hóa chúng sanh là được rồi. Dẫu Tịnh
Độ tốt đẹp, ta nay vẫn chưa muốn
đi”. V́ vậy, có khá nhiều quan niệm sai lầm. C̣n
có người nghĩ: “Tịnh Độ rất tốt,
nhưng nay ta vẫn chưa muốn tới đó. Trong
tương lai, đến lúc lâm chung, lại cầu sanh th́
vẫn c̣n kịp”. Nào có biết là đến khi lâm chung, không
chừng cũng có khi bỏ lỡ nhân duyên. Quá nhiều nhân
tố khiến cho văng sanh Tịnh Độ bị chướng
ngại. Chúng ta cần phải biết những chuyện
này! Phải trừ khử những chướng ngại ấy
ngay trong hiện tại, chứ lúc lâm chung rất khó thể
nói!
Phu
nhân Vi Đề Hy chẳng biết trong quá khứ đă tạo
tội nghiệp ǵ nên “cầu
ai sám hối” (xót xa cầu xin sám hối). Bản thân
chúng ta làm sao biết tội nghiệp đă tạo trong quá
khứ? Chúng ta sẽ chết bữa nào, chết theo kiểu
nào, làm sao biết được? Tại Hương Cảng,
Phật môn chúng ta có một vị đại hộ pháp,
cũng rất giàu có, là bà Lôi, bà đă từng đến
thăm đạo tràng chúng ta. Kinh doanh rất thành công,
năm 1997, đảng Cộng Sản thu hồi
Hương Cảng, nên bà ta dùng tiền kiếm được
ở Hương Cảng sang mua đất đầu
tư tại Gia Nă Đại. Năm xưa, bà ta có nói với
tôi, tại Ôn Ca Hoa (Vancouver), tôi từng ở nhà bà ta. Tôi
đến đó vào khoảng năm 1985, khi hội chợ
triển lăm thế giới khai mạc tại Ôn Ca Hoa vào
năm 1985. Bà đă mua hơn bảy mươi mẫu
đất, một khu đất khá lớn. Mấy năm
trước, tôi có gặp bà ta, bà cho biết lại mua
hơn một trăm mẫu đất, khu đất ấy
đă cất vài khu phố, quá to! Năm nay, bà ta chết v́
tai nạn xe cộ, chính bà ta lái xe gặp tai nạn. Đại
khái là bà ta cũng bị bệnh tim, khi tai nạn xe cộ
xảy ra, đưa tới bệnh viện th́ chết. Bà
cùng chồng hai người, ông chồng bị
thương. Chồng bà mắt không tốt, thị lực
rất kém, ban ngày có thể lái xe, nhưng buổi tối chẳng
dám lái xe. Bà ta lái xe, đă chết! Lần này, tôi ở
Hương Cảng, khi Hương Cảng làm lễ truy
điệu, tôi có đến tham dự. Rất giàu có.
Đó là ǵ? Đó là hoạnh tử (chết ngang
xương)! Kinh hoảng, thất thố, c̣n biết niệm
Phật hay chăng? Quên sạch Phật hiệu, chết
như vậy không thể văng sanh, v́ kinh hoảng, thất
thố. Do đó, chúng ta biết chính ḿnh có tội nghiệp
ǵ, tương lai sẽ là t́nh huống ra sao? Không biết!
V́
thế, niệm Phật cầu văng sanh, nhất định
phải nắm chắc thời gian trong hiện tại th́
mới đáng tin cậy. Quyết định chớ nên
nghĩ trong tương lai ta phải như thế này,
như thế nọ! Như bà Lôi luôn nghĩ tương lai
phải như thế này, như thế nọ, mua đất
lớn như vậy, c̣n mong lập đạo tràng. Phát tâm
lập đạo tràng là tâm tốt lành, nhưng đạo
tràng chưa cất xong, chính ḿnh đă chết ngang trái. V́ thế,
đối với nhân duyên quá khứ, chính ḿnh chẳng hiểu.
Phát tâm th́ không chỉ người khác chẳng hiểu, mà
nói thật thà, chính ḿnh cũng chẳng hiểu. Phát tâm dựng
chùa, xây đạo tràng hay chùa chiền
th́ bà ta đủ sức để xây, chẳng có vấn
đề ǵ, nhưng dựng chùa xong, có đạo hay không?
Cơ sở th́ có, nhưng cơ sở đó trong
tương lai sẽ để làm ǵ? Đều có vấn
đề. Nếu cơ sở ấy chẳng có đạo,
không chỉ chẳng có công đức, mà phước đức
cũng chẳng có! Nếu cơ sở ấy xây cất rất
lớn, khiến cho người xuất gia ở trong ấy
tranh quyền đoạt lợi, không chỉ là chẳng có
phước, mà c̣n tạo tội nghiệp. Chẳng dựng
c̣n tốt hơn, chẳng dựng sẽ tốt đẹp!
V́
thế, chúng ta phải quan sát từ nhiều phương
diện, quư vị sẽ hiểu: Niệm Phật cầu
văng sanh quyết chẳng thể chần chừ, chẳng
thể chờ đợi đến tương lai, chẳng
thể đợi đến sang năm, ngày mai sẽ chẳng
đợi được đâu! Ở đây, phu nhân Vi
Đề Hy đă thị hiện ĺa bỏ Sa Bà, cầu
sanh Cực Lạc, quyết chẳng tŕ hoăn. Do đó, chỉ
có Thích Ca Mâu Ni Phật đích thân đến th́ mới có thể
giúp cho bà ta đạt được nguyện vọng này.
Được rồi! Chúng ta tan học.
Tập 19
Xin mở kinh bổn, trang một trăm
hai mươi lăm:
Nhĩ thời Thế Tôn phóng mi
gian quang, kỳ quang kim sắc, biến chiếu thập
phương vô lượng thế giới, hoàn trụ
Phật đảnh, hóa vi kim đài, như Tu Di sơn,
thập phương chư Phật tịnh diệu
quốc độ, giai ư trung hiện.
爾 時 世 尊 放 眉 間 光。其 光 金 色。遍 照 十 方 無 量 世 界。還 住 佛 頂。化 為 金 臺。如 須 彌 山。十 方 諸 佛 淨 妙 國 土。皆 於 中 現。
(Lúc đó, đức Thế Tôn phóng quang từ giữa
hai mày[11], quang minh ấy
màu vàng chiếu khắp mười phương vô lượng
thế giới rồi trở về trụ trên đỉnh
đầu đức Phật, hóa thành đài vàng như núi
Tu Di. Các cơi thanh tịnh mầu nhiệm của chư Phật
đều hiện trong ấy).
Đức
Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh cầu của
phu nhân Vi Đề Hy, thị hiện các cơi nước Phật
để phu nhân Vi Đề Hy tự ḿnh quan sát, chính ḿnh
chọn lựa. Đây cũng là một phần phóng quang,
hiện tướng lành. Cơi nước của chư Phật
hoàn toàn chẳng giống nhau. Từ đoạn kinh văn
tiếp theo đây, chúng ta sẽ thấy tướng sai biệt
của các cơi ấy. Chúng ta lật qua, xem hàng thứ nhất
trong trang một trăm hai mươi sáu:
Hoặc hữu
quốc độ, thất bảo hợp thành. Phục hữu quốc
độ, thuần thị liên hoa. Phục hữu quốc
độ, như Tự Tại thiên cung. Phục hữu quốc
độ, như pha ly kính. Thập phương quốc
độ, giai ư trung hiện. Hữu như thị đẳng, vô lượng
chư Phật quốc độ, nghiêm hiển khả quán,
linh Vi Đề Hy kiến.
或 有 國 土。七 寶 合 成。復 有 國 土。純 是 蓮 華。復 有國 土。如 自 在 天 宮。復 有 國 土。如 玻 璃 鏡。十 方 國 土。皆 於 中 現。有 如 是 等。無 量 諸 佛 國 土。嚴 顯 可 觀。令 韋 提 希 見。
(Hoặc có quốc độ, do bảy báu hợp
thành. Lại có quốc độ, thuần là hoa sen. Lại
có quốc độ, như cung trời Tự Tại. Lại
có quốc độ, như gương pha lê. Mười
phương cơi nước đều hiện trong ấy.
Có vô lượng các cơi nước Phật như vậy,
trang nghiêm, rơ rệt, đáng ưa để cho Vi Đề
Hy trông thấy).
Đoạn
này tŕnh bày đại lược trạng huống khác nhau
trong các cơi nước Phật, đều là Tịnh Độ
của Phật để phu nhân Vi Đề Hy thấy rơ
ràng. Ở đây, chúng ta biết: Theo như kinh đă nói rất
rơ ràng, phu nhân Vi Đề Hy cùng với năm trăm cung nữ,
nên trông thấy những điều này là mọi người
đều thấy. Thuở ấy, đức Phật thị
hiện tướng này, A Nan ở bên cạnh, Mục Kiền
Liên cũng ở bên cạnh, Vi Đề Hy và năm
trăm cung nữ đều đích thân trông thấy.
Thời
Vi Đề Hy bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thị
chư Phật độ, tuy phục thanh tịnh, giai hữu
quang minh.
時 韋 提 希 白 佛 言。世 尊。是 諸 佛 土。雖 復 清 淨。皆 有 光 明。
(Lúc ấy, bà Vi Đề Hy bạch
Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Các cơi Phật
ấy tuy là thanh tịnh, lại c̣n đều có quang minh”).
Bà
ta tán thán Tịnh Độ của chư Phật.
Ngă
kim nhạo sanh Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật
sở.
我 今 樂 生 極 樂 世 界 阿 彌 陀 佛 所。
(Con nay thích sanh về thế giới
Cực Lạc là chỗ của A Di Đà Phật).
Qua
sự so sánh mười phương cơi nước, bà ta
mong cầu văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
đây là sự chọn lựa sau khi đă so sánh. Do điều
này, có thể chứng minh, Di Đà Tịnh Độ quả
thật thù thắng hơn Tịnh Độ của chư
Phật. Ở đây, đức Phật chẳng giới
thiệu, mà bày ra, để cho bà ta tự do chọn lựa.
Chọn chắc chắn rồi, cách sanh về đó như
thế nào? Cầu xin đức Thế Tôn chỉ dạy.
Khoa tiếp theo là Chánh Thỉnh Tu Nhân, [nghĩa là] chúng ta phải
tu cái nhân như thế nào th́ mới có thể văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới?
Duy
nguyện Thế Tôn giáo ngă tư duy, giáo ngă Chánh Thọ.
唯 願 世 尊 教 我 思 惟。教 我 正 受。
(Kính xin đức Thế Tôn dạy
con tư duy, dạy con Chánh Thọ).
Nêu
ra yêu cầu! Trong phần chú giải có viết: “Sớ vân, tư duy thị nguyện”
(Sớ viết: “Tư duy là nguyện”), Sớ là do Trí Giả
đại sư nói, tư duy là phát nguyện. “Nguyện tư thị nghiệp,
chánh vấn kỳ nhân. Chánh Thọ giả, phi tà viết
Chánh, lănh nạp danh Thọ, tức đệ nhị vấn
Quán Hạnh” (Nguyện và tư duy là nghiệp, hỏi thẳng
vào cái nhân [để được văng sanh]. Chánh Thọ:
Chẳng tà là Chánh, lănh nạp là Thọ, tức là câu hỏi
thứ hai về Quán Hạnh). Hai câu này nói đơn giản,
sẽ là: Một là hỏi về
nguyện, phát nguyện như thế nào? Hai là hỏi tu
hành như thế nào? Điều này vô cùng quan trọng!
Dưới
đây là lời giải thích của tôn giả Tứ Minh: “Sao vân, thử thỉnh Tịnh
Độ chánh trợ nhị nhân. Sơ, giáo ngă tư duy.
Nhược bất tư duy, bất thành nguyện nhạo.
Hữu nguyện chi tư, năi thành nghiệp nhân, thử thỉnh
Sự thiện trợ đạo chi nghiệp dă. Thứ
giáo ngă Chánh Thọ, ly tà đảo tưởng, lănh nạp
sở duyên, thử thỉnh tu hành Tịnh Độ quán
pháp, tức Chánh Quán dă” (Sao rằng: Đây là xin chỉ dạy
chánh nhân và trợ nhân của Tịnh Độ. Trước
hết, hăy dạy cho con cách tư duy. Nếu chẳng
tư duy, sẽ chẳng thể nào nguyện cầu, ưa
thích. Đă nghĩ đến cái nguyện, bèn trở thành
nghiệp nhân. Đây chính là thưa hỏi những điều
thiện thuộc về mặt Sự để làm nghiệp
trợ đạo. Kế đến, dạy cho con Chánh Thọ,
ĺa bỏ những ư tưởng điên đảo, tà vạy,
lănh nhận các duyên. Đây chính là thưa hỏi quán pháp
để tu hành Tịnh Độ, tức là Chánh Quán).
Đây là một đoạn giải thích của sách Sớ
Sao.
Đoạn tiếp
theo, “thiết vị” (trộm
cho rằng), đây chính là lời của pháp sư Đế
Nhàn: “Cứ Sớ ư, tư duy
thị nguyện, quán hạnh thị hạnh, thị dĩ
nguyện đạo hạnh dă, Sao cứ đáp văn”
(Xét ra, lời Sớ mang ư nghĩa: Tư duy là nguyện,
quán hạnh là hạnh. Do vậy, dùng nguyện để
hướng dẫn hạnh; c̣n lời Sao th́ dựa theo lời
đáp [của đức Thế Tôn để giảng giải]).
Tôn giả Tứ Minh đă căn cứ trên lời đáp của
đức Thế Tôn dành cho lời khải thỉnh của
bà Vi Đề Hy. Kinh văn ghi chép lời đáp trong phần
sau. “Tiên thị tịnh nghiệp
thị Trợ, thứ minh diệu quán thị Chánh, thị
Chánh Trợ Song Tu dă” (trước hết, chỉ ra Tịnh
nghiệp là Trợ, kế đến giảng rơ diệu
quán là Chánh, tức là Chánh Trợ Song Tu vậy). Thích Ca Mâu Ni
Phật trả lời, trước hết nói về ba thứ
Tịnh nghiệp, đó là Tư Duy. Trong phần sau của
lời đáp, đă dạy về mười sáu phép Quán,
đó là mười sáu cách tu, tức là nói về Chánh Thọ.
Tôn giả Tứ Minh đă căn cứ trên ư nghĩa trong
kinh để viết [lời Sao]. Hai cách giải thích ấy
đều phù hợp với ư nghĩa của kinh, dùng nguyện
hướng dẫn hạnh, Chánh Trợ song tu, đúng là
cương lănh tu học trong Tịnh Tông.
Chúng
ta xem kinh văn. Từ kinh văn, có thể thấy
phương pháp giáo học của đức Thế Tôn rất
hoạt bát, rất sinh động. Đức Phật biết
ư nghĩ của bà Vi Đề Hy, cũng biết thiện
căn nhiều đời nhiều kiếp hiện thời
dấy lên hiện hành, nên Ngài đến hoàng cung, hiển
thị sự hoan hỷ khôn sánh. Đây là cơ duyên thành Phật
[của Vi Đề Hy] đă chín muồi, nên đức Phật
đến độ bà ta hoan hỷ khôn sánh. Dùng
phương thức ấy để cho bà ta tự chọn
lựa, nói thật ra, đức Phật biết bà ta nhất
định sẽ chọn thế giới Cực Lạc. Đă
chọn ra, bèn nêu câu hỏi, hỏi về phương pháp
tu hành. Chúng ta xem dưới đây, đức Thế Tôn trả
lời ra sao, [hăy xem] trang một trăm hai mươi tám:
Nhĩ
thời Thế Tôn tức tiện vi tiếu.
爾 時 世 尊 即 便 微 笑。
(Lúc đó, đức Thế Tôn
bèn mỉm cười).
“Mỉm cười” cũng bao hàm ư nghĩa rất sâu.
Mỉm cười là hoan hỷ, tỏ rơ thiện căn của
bà ta đă chín muồi, chọn lựa hết sức chánh
xác. Không chỉ chính bà ta được lợi ích, mà c̣n có
vô lượng vô biên chúng sanh trong tương lai đều
có thể đạt được lợi ích này. Qua việc
bà ta thưa hỏi và chọn lựa này, khá nhiều người
sẽ đạt được lợi ích do văng sanh Tịnh
Độ.
Hữu ngũ sắc
quang, tùng Phật khẩu xuất, nhất nhất quang chiếu
Tần Bà Sa La vương đảnh. Nhĩ thời đại
vương tuy tại u bế, tâm nhăn vô chướng, dao kiến
Thế Tôn, đầu diện tác lễ, tự nhiên tăng
tấn, thành A Na Hàm.
有 五 色 光。從 佛 口 出。一 一 光 照 頻 婆 娑 羅 王 頂。爾 時 大 王 雖 在 幽 閉。心 眼 無 障。遙 見 世 尊。頭 面 作 禮。自 然 增 進。成 阿 那 含。
(Có ánh sáng năm mầu từ miệng đức Phật tỏa
ra, mỗi tia sáng chiếu đến đỉnh đầu
vua Tần Bà Sa La. Khi đó, đại
vương tuy bị nhốt kín, nhưng tâm nhăn chẳng bị
chướng ngại, thấy đức Thế Tôn từ
xa, bèn dập đầu sát đất làm lễ, tự
nhiên tăng tấn, thành A Na Hàm).
A Na Hàm (Anāgāmi) là Tiểu Thừa Tam Quả. Quư vị
thấy quốc vương tŕ giới, tu hành nơi đó,
chứng Tiểu Thừa Tam Quả. Kế đó là phần
chú giải, trước hết, hăy xem phần khai thị của
Trí Giả đại sư: “Tùng
thử dĩ hạ, thù tiền tịnh nghiệp” (từ
đây trở đi nhằm đáp tạ [câu hỏi về]
tịnh nghiệp). “Thù” (酬) là đền đáp. Trong phần trước, phu
nhân Vi Đề Hy đă nêu ra câu hỏi, ở đây, đức
Phật sẽ giải đáp. “Cận
đáp Tư Duy, Chánh Thọ, tam chủng tịnh nghiệp”
(lời đáp gần gũi là giảng về Tư Duy và
Chánh Thọ, ba thứ tịnh nghiệp), đây là lời
đáp trước hết. “Tán
tâm tư lượng, viết Tư Duy. Thập lục
Chánh Quán, danh Chánh Thọ” (Tán tâm suy lường th́ gọi
là Tư Duy, mười sáu phép Chánh Quán gọi là Chánh Thọ).
Tư Duy và Chánh Thọ được giải thích cách này
cũng rất hay. Tư Duy là ǵ? Chánh Thọ là ǵ? Những
điều này liên quan đến sự tu hành của chúng
ta trong hiện thời. Tán (散) là tâm tán loạn.
Tâm tán loạn nhớ Phật, niệm Phật, đều
gọi là Tư Duy. Nhất tâm chuyên xưng niệm là Chánh
Thọ, sai biệt ở chỗ này. Phóng quang: Trước
khi thuyết pháp, đức Phật thường phóng quang,
quang biểu thị ư nghĩa rất sâu. Không chỉ có ư
nghĩa biểu thị pháp, mà c̣n có công đức diệt
tội, đoạn Hoặc trong ấy. Như trong kinh
điển Tịnh Tông, [xét theo] bản dịch kinh Di
Đà của Huyền Trang đại sư, tuy trong kinh Di
Đà bản tiếng Phạn không có chữ “nhất tâm bất loạn”, bản
tiếng Phạn ghi là “nhất
tâm hệ niệm”, La Thập đại sư dịch
thành “nhất tâm bất loạn”,
nhưng Huyền Trang đại sư chẳng nói là ngài La
Thập dịch sai. Bởi lẽ, người văng sanh trong
khi văng sanh, đức Phật đến tiếp dẫn,
trước hết là phóng quang chiếu gội. Khi
được Phật phóng quang chiếu gội, công phu niệm
Phật của người ấy liền được
tăng lên gấp bội. Do vậy, La Thập đại
sư dịch thành “nhất tâm
bất loạn”, xét theo ư nghĩa th́ chẳng sai lầm.
Công
phu nhất tâm bất loạn có cạn hay sâu sai khác. Chúng ta
niệm Phật, niệm đến khi chế ngự
được phiền năo th́ mới có phần văng sanh. Chẳng
thể chế ngự phiền năo, sẽ chẳng thể
văng sanh. Có thể chế phục phiền năo, sẽ cảm
ứng đạo giao cùng A Di Đà Phật. Khi tín niệm
trọn đủ, Phật đến tiếp dẫn. Khi
Phật đến tiếp dẫn, công phu của quư vị
sẽ được nâng cao gấp bội. Do đó, Phật
quang có công đức diệt tội và đoạn Hoặc.
Đă tăng lên, từ công phu thành phiến tăng lên thành
Sự nhất tâm bất loạn, sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới như vậy
th́ nói theo lư luận mới suông được. [Người
sanh về Cực Lạc có địa vị] tương
đương với các Bồ Tát thuộc địa vị
Sơ Tín trong Viên Giáo. Viên Giáo Sơ Tín Vị Bồ Tát
đă đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc,
nhưng Tư Hoặc c̣n chưa đoạn, nên Ngài vẫn
trụ trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, chưa thể
đến cơi Phương Tiện Hữu Dư. Khi nào
đoạn sạch tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc
th́ mới có thể sanh về cơi Phương Tiện Hữu
Dư. Do đó, phàm là người văng sanh, dẫu là hạ
hạ phẩm, được Phật quang chiếu gội,
nói thông thường, địa vị sẽ tương
đương với Tiểu Thừa Sơ Quả, hoặc
Sơ Tín Vị Bồ Tát trong Đại Thừa Viên Giáo. Ở
đây, đức Phật phóng quang, nói theo phía phu nhân Vi
Đề Hy th́ cũng có sức mạnh ấy, mà đối
với vua Tần Bà Sa La, [Phật lực] cũng gia tŕ nhà
vua. Nhà vua tinh tấn trong ngục, dụng công tu hành. Gặp
phải đại kiếp nạn này, tâm nhà vua tu đạo
đặc biệt ân cần, tha thiết, tâm tu đạo
đặc biệt chân thành, nên nhà vua tiến bộ rất
nhanh. Phật quang vừa chiếu tới, nhà vua có thể
chứng đắc quả A Na Hàm.
Ở
đây, pháp sư Đế Nhàn có nói mấy câu giải thích
ư nghĩa của kinh cũng rất hay. Lời chú giải của
Ngài bắt đầu từ câu cuối cùng trong ḍng thứ
hai đếm từ dưới lên nơi trang một
trăm hai mươi chín. Câu nói của lăo nhân gia được
thêm hai chữ “thiết vị”
(竊謂: trộm nghĩ).
Câu nào có hai chữ ấy th́ kể từ đó là lời của
pháp sư Đế Nhàn. “Phật
nhân Tần Bà, quả thục đế lạc, thời chí
lư chương, cố tiên phóng quang chiếu xúc, linh kỳ
xuất phàn lung, nhi thành thánh quả, huống bỉ tiểu
cơ, tự thành tiểu quả” (Đức Phật
nhân v́ [xét thấy] vua Tần Bà Sa La quả đă chín, cuống
rụng, thời đă đến, lư ắt tỏ rạng,
nên trước hết phóng quang chiếu chạm, khiến
cho vua thoát khỏi bẫy lồng, thành tựu chánh quả.
Huống chi nhà vua là căn cơ Tiểu Thừa, nên thành tựu
Tiểu Quả). Do quốc vương và phu nhân hai người
có căn tánh khác nhau, nên tâm tư bọn họ cũng khác
nhau. Vua Tần Bà Sa La là căn cơ Tiểu Thừa. Trong
đời quá khứ, thời gian nhà vua tu học Tiểu
Thừa rất dài, tập khí Tiểu Thừa rất nặng,
tuy suốt một đời này thân cận Thế Tôn, vẫn
chứng quả Tiểu Thừa. Duyên của nhà vua cũng
đă chín muồi! “Bất tỷ
Vi Đề, thị bổn kinh phát khởi nhân, hựu thị
đương cơ chúng” (chẳng sánh bằng bà Vi
Đề Hy là người phát khởi kinh này, lại c̣n là
đương cơ chúng). Phu nhân là căn cơ Đại
Thừa. Không chỉ là căn cơ Đại Thừa, mà
c̣n là người phát khởi kinh này, là bậc
đương cơ. “Tần
Bà nhị sự câu vô, cố linh tiên thoát dă” (Hai chuyện
ấy vua Tần Bà đều không có, nên [đức Phật]
độ cho vua được liễu thoát trước).
Quốc vương chẳng phải là đương
cơ của kinh này, mà cũng chẳng phải là người
phát khởi, nên vua chứng Tiểu Quả trước!
“Phật
ư vị phóng quang tiền, tiên vi tiếu giả, hỷ
ư trung, nhi h́nh ư ngoại, vị xuất thế dữ
thế, lưỡng câu bất khả tư nghị dă”
(trước khi đức Phật phóng quang, trước hết
bèn mỉm cười, niềm vui trong ḷng được biểu
lộ ra ngoài, có ư nghĩa: Xuất thế gian và thế
gian, hai đằng đều chẳng thể nghĩ bàn),
nhân duyên này vô cùng chẳng thể nghĩ bàn. “Xuất thế” là đối
với chúng sanh căn cơ đă chín muồi, Ngài sắp nói
pháp môn thành Phật trong một đời, điều này
chẳng thể nghĩ bàn. Pháp thế gian là do cuộc chánh
biến của vua A Xà Thế trong lần này, đă dẫn
khởi nhân duyên như thế, cũng là chẳng thể
nghĩ bàn. Tiếp đó, [ngài Đế Nhàn viết]: “Tần Bà nhược bất
sanh Xà Thế, vị tất hiện sanh, tức thành thánh quả”
(Nếu vua Tần Bà Sa La chẳng sanh ra A Xà Thế, chưa
chắc đă thành thánh quả ngay trong đời hiện tại).
Thật vậy, [nếu không gặp cảnh ngộ khốn
khổ ấy], nhà vua chẳng dụng tâm tu đạo chuyên
tâm ngần ấy. Chẳng chuyên tâm th́ chưa chắc
đă có thể thành tựu ngay trong một đời. V́
sanh ra một đứa con bất hiếu như thế ấy,
đâm ra lại khiến cho chính ḿnh chứng thánh quả,
đây là chuyện chẳng thể
nghĩ bàn. “Tức sử
hiện sanh đắc thành, diệc vị tất hữu
nhược tư chi tốc” (Dẫu cho được
thành tựu trong đời này, cũng chưa chắc
đă nhanh chóng dường ấy). Cho dù có thể tu thành công
trong một đời này, chẳng thể nhanh chóng ngần
ấy, chẳng thể nào trong hiện tại liền chứng
quả A Na Hàm. “Xà Thế
nhược bất phùng ác hữu” (Nếu A Xà Thế chẳng
gặp bạn ác), [ư nói] nếu A Xà Thế chẳng gặp
Đề Bà Đạt Đa, “vị
tất tiện hữu sát phụ đồ vương chi
niệm” (chưa chắc đă có ư niệm giết cha,
đoạt ngôi vua). Nếu Đề Bà Đạt Đa chẳng
xúi giục nhà vua, ông ta cũng chẳng dấy lên ư niệm
ấy. “Vô thử cực ác chi
tâm, đoạn bất tác thử nghịch sự” (không
có tâm cực ác ấy, quyết chẳng làm chuyện ác nghịch
này), nhà vua không có tâm ác này, sẽ chẳng làm chuyện xấu
xa này. “Dĩ thế gian cực
ác chi khổ nhân, trợ thành xuất thế chứng thánh
chi thiện quả, khởi phi bất khả tư nghị
giả dư?” (Dùng cái nhân của nỗi khổ cực
ác trong thế gian để giúp thành tựu thiện quả
xuất thế chứng thánh, há chẳng phải là không thể
nghĩ bàn ư?). Đây là nói nhân nhân quả quả của
vua A Xà Thế, Đề Bà Đạt Đa, và vua Tần
Bà Sa La chẳng thể nghĩ bàn.
“Tần
Bà nhân thân sanh tử, sát phụ đồ vương, do thị
trần niệm nhược hôi” (Vua Tần Bà bị con
ruột giết cha, đoạt ngôi, do vậy, ư niệm trần
tục [nguội lạnh] như tro tàn), tâm thật sự
chán ngán thế gian này tới cùng cực. “Cập chí quan ư thất trùng thất nội, quốc
chánh tiêm giới bất văn, thử thời hoàn tha bản
lai diện mục, kiêm chi dĩ phụng giới, văn
pháp, Tam Học tề tu. Thị cố, đoạn Hoặc
chứng Chân dă, nghi hỹ” (Cho đến khi bị nhốt
trong pḥng, sau bảy tầng cửa, chẳng c̣n nghe chuyện
chánh sự mảy may, khi ấy, trở về diện mục
sẵn có, lại c̣n giữ giới, nghe pháp, Tam Học cùng
tu. V́ thế, đoạn Hoặc, chứng Chân là chuyện
phải nên như vậy). Đây là nói về nhân duyên của
quốc vương. Thường ngày, quốc vương
bận bịu việc triều chánh, nay bị con trai giam cầm,
đúng là hết thảy đều buông xuống, thân tâm
thanh tịnh. Gặp phải kiếp nạn này, chẳng
c̣n mảy may lưu luyến cuộc đời, toàn tâm toàn
lực tu hành, đây là một Tăng Thượng Duyên rất
khó có. V́ thế, cụ Đế Nhàn bảo là “thử thời hoàn tha bổn lai
diện mục” (khi ấy, trở về diện mục
sẵn có của ông ta). Bổn lai diện mục là ǵ? Là
thân tâm vô sự, vô sự là bổn lai diện mục. Nếu
đang vô sự mà t́m ṭi đa sự, đó chẳng phải
là bổn lai diện mục. Tâm thanh tịnh là bổn lai diện
mục, phải luôn ghi nhớ điều này. “Vốn chẳng có một vật,
chỗ nào nhuốm bụi bặm”, đó là bổn lai diện
mục. Khi vua Tần Bà Sa La bị giam cầm, đúng là
đă khôi phục bổn lai diện mục của chính ḿnh,
chẳng bị ràng buộc bởi nhiều chuyện
như lúc b́nh thường. V́ thế, Tam Học của vua
tăng thượng, Tam Học là Giới, Định, Huệ.
Do đó, vua đoạn Hoặc, chứng Chân.
“Tần
Bà chứng quả, Phật tâm thư sướng, sở
dĩ, vi tiếu giả dă” (vua Tần Bà chứng quả,
tâm Phật vui sướng, cho nên Ngài mỉm cười).
Chẳng ngờ vua Tần Bà Sa La do chuyện như vậy,
bèn nhanh chóng, tăng tốc độ chứng đắc
Tam Quả của Tiểu Thừa. Đó là một nguyên nhân
khiến cho đức Phật mỉm cười. “Quang hữu ngũ sắc giả,
biểu tùng Phật pháp tánh Ngũ Ấm thể thượng,
hiển lộ diệu quang, chiếu phá Tần Bà Ngũ Ấm,
chuyển biến nhi thành ngũ phần Pháp Thân quả dă. Sở
dĩ, vương tuy u bế, nhi nội ngoại tâm thân vô
bất thư sướng” (Quang minh có năm màu, biểu
thị từ bản thể Ngũ Ấm từ trong Pháp
Tánh của đức Phật mà hiển lộ quang minh mầu
nhiệm, chiếu tan Ngũ Ấm của vua Tần Bà, chuyển
biến thành cái quả năm phần Pháp Thân, nên vua tuy bị
giam kín, nhưng thân tâm trong ngoài không ǵ chẳng thoải mái,
vui sướng). Nhà vua đắc pháp hỷ sung măn. “Thất trùng pḥng bích, vạn bất
năng giá, tuy viết dao kiến, như tại mục tiền.
Tác lễ chi khoảnh, tức chứng Tam Quả. Phạn
vân A Na Hàm, Hoa ngôn Bất Lai, vị dĩ đoạn Dục
Giới cửu phẩm sanh nhân, khả dĩ bất lai hạ
giới thọ sanh dă” (Bảy tầng vách pḥng, muôn phần
chẳng thể ngăn che. Tuy nói là “nh́n từ xa”, nhưng
giống như trước mắt. Trong khoảnh khắc
làm lễ, liền chứng Tam Quả. Tiếng Phạn là A
Na Hàm, Hán dịch là Bất Lai, ư nói đă đoạn cái nhân
của chín phẩm sanh trong Dục Giới, có thể chẳng
c̣n phải vào thọ sanh trong hạ giới). Tam Quả
được gọi là Bất Lai, Bất Lai là chẳng
đến trong Dục Giới. Người ấy (người
đă chứng Tam Quả) ở nơi đâu? Trụ trong
Ngũ Bất Hoàn Thiên[12] của
Tứ Thiền. Người ấy đến đó tu hành,
đến tu hành trong Ngũ Bất Hoàn Thiên. Chư vị
phải hiểu: Đến tu hành trong Ngũ Bất Hoàn
Thiên chẳng phải là thân đi, mà là thần thức
đến đó. Quốc vương bị giam cầm ở
nơi đây, cũng chẳng có ai cho nhà vua ăn uống,
chúng ta thấy quốc vương đă chết đói.
Trên thực tế, quốc vương đă đến
Ngũ Bất Hoàn Thiên. Đây là đức Phật độ
nhà vua trước. Mục đích giết phụ thân của
vua A Xà Thế đă đạt được, nào ngờ
cha sanh lên Ngũ Bất Hoàn Thiên, đến cơi Tứ Thiền,
đă chứng thánh quả, chẳng c̣n mảy may lưu luyến
thế gian này.
Những chuyện
giống như vậy, phàm phu nhục nhăn chẳng thấy
được. Nếu ở đây, đức Phật chẳng
nói rơ, th́ cũng chẳng có cách nào biện định vấn
đề này: Rốt cuộc là vua đến đó khi c̣n sống,
hay đă chết? Rốt cuộc t́nh huống là như thế
nào? Qua lời giảng giải này, [vấn đề ấy]
liền rành mạch. Tam Quả La Hán, Tam Quả cũng
được gọi là La Hán, có đủ năm món thần
thông, nên nhà vua thấy đức Phật thuyết pháp cho
vương hậu, bèn đảnh lễ Phật từ chỗ
bị giam, chứng đắc Tam Quả. Nhà vua đă trọn
đủ năm món thần thông.
Nhĩ
thời Thế Tôn cáo Vi Đề Hy.
爾 時 世 尊 告 韋 提 希。
(Khi ấy, đức Thế
Tôn bảo Vi Đề Hy).
Đức
Phật độ hai người gần như đồng
thời, trong khi phóng quang đă đồng thời gia tŕ
hai người ấy, bảo phu nhân Vi Đề Hy:
Nhữ
kim tri phủ? A Di Đà Phật, khứ thử bất viễn.
汝 今 知 不。阿 彌 陀 佛。去 此 不 遠。
(Bà có biết không? A Di Đà Phật cách đây chẳng
xa).
Nói
về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Nhữ
đương hệ niệm, đế quán bỉ quốc.
Tịnh nghiệp thành giả, ngă kim vị nhữ quảng
thuyết chúng thí, diệc linh vị lai thế nhất thiết
phàm phu dục tu Tịnh nghiệp giả, đắc sanh
Tây Phương Cực Lạc quốc độ.
汝 當 繫 念 諦 觀 彼 國。淨 業 成 者。我 今 為 汝 廣 說 眾 譬。亦 令 未 來 世 一 切 凡 夫 欲 修 淨 業 者。得 生 西 方 極 樂 國 土。
(Bà hăy nên hệ niệm, quán kỹ cơi ấy, sẽ
thành tựu Tịnh nghiệp. Ta nay v́ bà nói rộng các thí dụ,
cũng khiến cho hết thảy phàm phu muốn tu Tịnh
nghiệp trong đời vị lai, được sanh về
Tây Phương Cực Lạc quốc độ).
Đoạn
này chỉ rơ công đức khải thỉnh vô lượng
vô biên. Trước hết là an ủi, khuyến cáo: Bà
đă chọn lựa Di Đà Tịnh Độ, cơi ấy
cách nơi này chẳng xa. Phương pháp để mong
đến nơi đó, quan trọng nhất là phải “hệ niệm, đế quán bỉ
quốc”. “Hệ niệm” là trả lời câu hỏi của
bà ta về Tư Duy, “đế
quán” là trả lời câu hỏi về Chánh Thọ. Ở
đây, tuy chẳng nói cặn kẽ, nhưng đă nói với
bà ta th́ không chỉ ḿnh bà ta được lợi ích, “diệc linh vị lai thế nhất
thiết phàm phu dục tu Tịnh nghiệp giả”
(cũng khiến cho hết thảy phàm phu muốn tu Tịnh
nghiệp trong đời vị lai). Nay bà đă chọn pháp
môn này, người khác trông thấy, nhất định là
sẽ ngưỡng mộ, nhất định cũng muốn
văng sanh Di Đà Tịnh Độ. Lợi ích đều
được dẫn khởi bởi sự chọn lựa
của bà, nên công đức lợi ích này quá thù thắng.
Ở
đây, Trí Giả đại sư giải thích, v́ sao nói “khứ thử bất viễn”
(cách đây không xa): “Sớ vân,
khứ thử bất viễn giả, Cực Lạc khứ
thử thập vạn ức sát” (Sớ rằng: “Cách
đây chẳng xa”: Cực Lạc cách thế giới này
mười vạn ức cơi). Khoảng cách giữa thế
giới Cực Lạc và thế giới Sa Bà là mười
vạn ức Phật quốc độ. Một Phật quốc
độ là một tam thiên đại thiên thế giới;
cớ sao có thể nói khoảng cách mười vạn ức
đại thiên thế giới giữa hai cơi chẳng xa?
Trong lời đáp, có hai ư nghĩa: “Đáp hữu nhị: Nhất dĩ Phật lực
cố, dục kiến tức kiến” (đáp rằng:
Có hai nghĩa; một là do Phật lực nên muốn thấy
liền thấy). Nay đức Phật dùng thần lực,
phô bày cơi nước của mười phương chư
Phật trước mặt phu nhân Vi Đề Hy, nên chẳng
xa, bà ta vừa mới thấy rành mạch, vừa mới
trông thấy. Đó là một ư nghĩa. Ư nghĩa thứ
hai: “Quang trung hiện độ,
hiển ư Phật đảnh, nhất niệm năng
duyên, ngôn bất viễn dă” (Trong quang minh hiện cơi
nước, hiển hiện trên đỉnh đầu Phật,
do một niệm bèn có thể duyên, nên nói chẳng xa). Hằng
sa các cơi Phật, đức Phật đều có thể
triển hiện trong Phật quang. V́ thế, tâm chúng ta vừa
động một niệm, bèn có thể đạt tới.
Nếu nói theo sự tướng thế gian, xác thực là
mười vạn ức cơi Phật. Mười vạn ức
cơi Phật trong một niệm có thể đạt đến,
vậy th́ rốt cuộc phạm vi có thể đạt
đến của một niệm to cỡ nào? Thưa cùng
chư vị, có thể đạt đến tận hư
không khắp pháp giới. Mười vạn ức cơi
nước quá gần, giống như phát ra làn sóng điện,
làn sóng điện vừa phát ra sẽ đến tận
hư không khắp pháp giới, khoảng cách mười vạn
ức đích xác là rất ngắn, chẳng kể như rất
dài!
Do vậy,
ư niệm chẳng thể nghĩ bàn, kinh thường nói: “Niệm kiếp viên dung” (niệm
và kiếp viên dung). Một niệm triển khai thành vô
lượng kiếp, vô lượng kiếp rút gọn thành
một niệm. Một niệm là vô lượng kiếp,
vô lượng kiếp là một niệm. Đây cũng là
nói rơ: Thời gian chẳng thật, không gian cũng là giả.
Nay chúng ta nói tới thời gian và không gian, trong Phật
pháp, thời gian và không gian là Bất Tương Ứng Hành
Pháp. Nói cách khác, chúng là những khái niệm trừu tượng,
chẳng thật. V́ y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới là “duy tâm sở hiện,
duy thức sở biến”, một
niệm này chính là tâm thức khởi tác dụng. V́ thế,
một niệm có thể biến ra khắp hư không pháp
giới, dẫu xa cách mấy, một niệm vẫn đạt
tới. Đừng nói Di Đà Tịnh Độ, c̣n xa
hơn Di Đà Tịnh Độ. Vô lượng vô biên hằng
hà sa đại thiên thế giới, cũng là một niệm
bèn đạt tới, chẳng cần tới hai niệm
hay ba niệm, chỉ một niệm bèn đạt tới
viên măn. Do đó nói là “chẳng xa”.
Tiếp
đó, lăo pháp sư Đế Nhàn khai thị: “Phật ngôn bất viễn giả,
hiển Cực Lạc năi duy tâm Tịnh Độ, hà viễn
chi hữu? Sớ chỉ Phật đảnh quang trung Di
Đà, cố thị, Phật bất nhất định Di
Đà thuyết tại quang trung. Như quả thị quang
trung Di Đà, dữ Vi Đề địch diện
tương kiến, Phật diệc bất vấn tri chi dữ
phủ? Cứ Phật ư vị, nhĩ tiền ngôn nhạo
sanh A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới, kim cáo
Vi Đề Hy ‘nhữ kim tri phủ? A Di Đà Phật Cực
Lạc thế giới, khứ thử bất viễn’, bất
nan văng sanh, chỉ yếu hệ niệm A Di Đà Phật,
đế quán bỉ Cực Lạc quốc độ”
(Đức Phật nói “chẳng xa” nhằm hiển thị
Cực Lạc là duy tâm Tịnh Độ, há có xa chi? Lời
Sớ nói đến Phật Di Đà ở trong quang minh, cố
nhiên là như vậy, nhưng đức Phật chẳng
nhất định nói tới Phật Di Đà ở trong
quang minh. Nếu là Phật Di Đà ở trong quang minh th́ bà
Vi Đề Hy đă thấy ngay trước mặt rồi,
đức Phật cũng chẳng hỏi bà ta có biết
hay không! Xét ra, ư đức Phật là nói: Trước
đó, [do Vi Đề Hy] đă nói thích sanh về thế giới
Cực Lạc của A Di Đà Phật, nay Ngài bảo Vi
Đề Hy: “Bà có biết chăng? Thế giới Cực
Lạc của A Di Đà Phật cách
đây chẳng xa, sanh về đó chẳng khó. Chỉ
cần hệ niệm A Di Đà Phật, quán chắc thật
cơi nước Cực Lạc”). Pháp sư Đế Nhàn chú
trọng hai câu này, hai câu ấy giải thích hết sức
thân thiết, quả thật là rơ ràng, đúng chỗ, khẳng
định hơn so với lời Sớ của Trí Giả
đại sư. Nói hay tuyệt! Xa hay gần chẳng phải
là chuyện khẩn yếu, chuyện khẩn yếu là
đến đó như thế nào, quyết định
đến, đó mới là chuyện khẩn yếu! Cụ
Đế Nhàn đă căn cứ trên ư nghĩa của kinh
văn để giải thích: Chỉ cần hệ niệm
A Di Đà Phật! Xét theo ư nghĩa trong phần trên, “hệ niệm” (繫念) là tín nguyện cầu sanh. Tâm cầu sanh hết sức
khẩn thiết; đó là hệ niệm. Tâm cầu sanh khẩn
thiết, tự nhiên sẽ coi nhạt thế gian này, bất
luận đăi người tiếp vật trong thế gian
này, đối với người, đối với sự,
quư vị sẽ chẳng c̣n so đo, mà cũng chẳng riết
róng, v́ sao? Nhất tâm nhất ư mong sanh về thế giới
Cực Lạc, mong ĺa bỏ thế giới này, há c̣n có ǵ
chẳng thể chịu đựng thế giới này nữa?
Chẳng có! Đó gọi là buông xuống vạn duyên, thật
sự buông xuống! Hệ niệm là buông xuống vạn
duyên, nhất tâm nhất ư cầu sanh thế giới Cực
Lạc.
“Đế quán” (諦觀) là nhớ Phật, niệm Phật. Mười sáu
phép Quán đă được nói chung thành bốn chữ ấy
(nhớ Phật, niệm Phật). Mười lăm phép
Quán trước là nhớ Phật, phép Quán cuối cùng là niệm
Phật. Đại Thế Chí Bồ Tát đă giảng về
nhớ Phật, niệm Phật: “Hiện tiền, tương lai, nhất định
thấy Phật”. Ta mới hiểu đế quán bao gồm
phương pháp tu hành. Phạm vi của ức niệm là y
báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới. “Hệ niệm tức
tư duy, trợ đạo dă. Đế quán, tức quán
tưởng, chánh hạnh dă” (hệ niệm là tư duy,
là trợ đạo. Đế quán là quán tưởng, là
chánh hạnh). Tŕ danh niệm Phật thuộc loại Chánh
Hạnh, thuộc phạm vi của quán tưởng, thuộc
trong phạm vi của mười sáu phép Quán. V́ thế,
chư vị phải ghi nhớ: Tŕ danh chẳng phải là
trợ niệm[13],
tŕ danh là chánh niệm, chẳng phải là trợ đạo,
mà là chánh hạnh. “Nhị câu tịnh
nghiệp” (cả hai đều là tịnh nghiệp), hai
điều như đức Phật đă nói đều
là tịnh nghiệp. “Chánh trợ
hạnh thành, lâm chung quyết định văng sanh, khả vô
nghi nhị” (Chánh hạnh và trợ hạnh thành tựu,
lâm chung quyết định văng sanh, chẳng c̣n ngờ vực
chi nữa). Chánh tu và trợ tu, chánh trợ song tu, lâm chung
quyết định văng sanh, đó là vấn đề chẳng
c̣n có mảy may nghi ngờ chi nữa!
Tiếp
theo đây, đức Phật dạy chúng ta cách hệ niệm,
tức là hệ niệm ba thứ tịnh nghiệp. Chúng ta
đọc phần kinh văn này một lượt, vô cùng
quan trọng, đó là tịnh nghiệp chánh nhân của tam
thế chư Phật. V́ vậy, tựa đề của
khoa này được ghi là “chánh
thị văng sanh chánh nhân” (chỉ bày cái nhân chủ yếu
để văng sanh). Trong phần này có hai đoạn, đoạn
thứ nhất là Chánh Nhân. V́ vậy, phần này vô cùng quan
trọng.
Dục
sanh bỉ quốc giả, đương tu tam phước.
欲 生 彼 國 者。當 修 三 福。
(Người muốn sanh về cơi ấy, nên tu ba món
phước).
Phàm
là người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, bất luận là người tu hành tích lũy công
đức, hoặc là người lâm chung sám hối văng
sanh, nhất định trọn đủ ba phước.
Sau này, vua A Xà Thế cũng văng sanh Tịnh Độ. Vua
giết cha, hại mẹ, có tu “hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”
hay không? Thưa cùng chư vị, có chứ! Hiện thời
chẳng có, nhưng lâm chung vừa sám hối bèn có, hễ
sám hối liền trọn đủ. Nghĩ lại trong
quá khứ, thái độ, tâm thái, hành vi đối với
cha mẹ thật sự sai lầm, bèn triệt để
ăn năn hối lỗi. Vừa ăn năn hối lỗi,
phước ấy liền trọn đủ, v́ sao? Ông ta
chẳng c̣n dùng tâm thái ấy, dùng hành vi ấy để
đối xử với cha mẹ nữa, thật sự sửa
đổi. Người Hoa có câu tục ngữ: “Lăng tử hồi đầu kim
bất hoán” (lăng tử quay đầu, vàng chẳng đổi),
thật sự triệt để hối cải. Vua A Xà Thế
đến khi lâm chung mới hối cải, nên vua ắt phải
trọn đủ ba thứ tịnh nghiệp ấy. Chẳng
có ba thứ tịnh nghiệp ấy, quyết định
chẳng thể văng sanh. Chư vị đồng tu phải
ghi nhớ điều này.
Nay
chúng ta bất hiếu với cha mẹ, bất kính với
sư trưởng. “Chẳng sao hết! Học theo vua A Xà
Thế, đến khi lâm chung, chúng ta mới sám hối văng
sanh”. Nếu ấp ủ tâm thái ấy, đó gọi là
“lươn lẹo, mánh mung”, tâm thái như vậy chắc
chắn chẳng thể văng sanh! V́ sao? Khi quư vị lâm chung,
chẳng có cơ hội sám hối, tất nhiên đọa
lạc. Đức Phật giáo huấn chúng ta, trước
khi chúng ta nghe biết Phật pháp th́ đă tạo tác tội
nghiệp, mê hoặc, điên đảo. Sau khi nghe Phật
pháp, nhất là sau khi đă thọ Tam Quy, thọ các giới,
nếu lại tạo tác tội nghiệp, tức là tội
càng thêm tội. Do đó, bốn giới trọng chẳng
thông sám hối, chẳng có cơ hội sám hối, chư vị
nhất định phải ghi nhớ điều này. Quyết
định chớ nên có tâm lư cầu may, [nếu có tâm lư ấy]
sẽ là lầm lẫn quá đỗi, kể từ hôm nay,
hăy bắt đầu nghiêm túc tu học. Trong ba câu ấy,
câu đầu tiên là:
Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp.
孝 養 父 母。奉 事 師 長。慈 心 不 殺。修 十 善 業。
(Hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết,
tu mười thiện nghiệp).
[Phước
này] gồm bốn chuyện. Điều thứ hai:
Thọ
tŕ Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi.
受 持 三 歸。具 足 眾 戒。不 犯 威 儀。
(Thọ tŕ Tam Quy, tṛn đủ
các giới, chẳng phạm oai nghi).
[Phước
này] gồm ba chuyện. Điều thứ ba.
Phát Bồ Đề tâm, thâm tín
nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến
tấn hành giả.
發 菩 提 心。深 信 因 果。讀 誦 大 乘。勸 進 行 者。
(Phát tâm Bồ Đề, tin sâu
nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến
khích, sách tấn hành giả).
[Phước
này] gồm bốn chuyện. Tổng cộng là mười
một chuyện. Thứ nhất là phước nhân thiên,
trong chú giải nói phước thứ nhất là “cộng phàm phu” (chung với
phàm phu), tức là phước báo nhân thiên. Phước thứ
hai là “cộng Tiểu Thừa”, thứ ba là “Bồ Tát phước”. V́ thế, ba điều
này, mỗi điều sau trỗi vượt điều
trước, điều sau nhất định bao gồm
điều trước, điều trước chẳng
thể bao hàm điều sau. Nếu nói chi tiết th́ tổng
cộng mười một câu, câu sau bao quát câu trước,
câu trước chẳng thể bao quát câu sau. Nói cách khác, bất
hiếu với cha mẹ, chắc chắn chẳng thể “phụng sự sư trưởng”,
chẳng có lẽ này! Chẳng thể phụng sự sư
trưởng, nhất định là chẳng có tâm từ
bi, chẳng thể có tâm từ bi. Không có tâm từ bi th́ làm
sao có thể tu mười thiện nghiệp cho được?
Chẳng có mười thiện nghiệp, làm sao có thể
thọ tŕ Tam Quy? Người thọ tŕ Tam Quy chắc chắn
viên măn Thập Thiện. Nh́n từ chỗ này, quư vị biết
Tịnh Độ Tông là đạo dễ hành, nhưng thật
ra cũng chẳng dễ dàng! Nếu dễ dàng, sẽ là một
vạn người niệm Phật, một vạn người
đều văng sanh. Cớ sao thầy Lư thường nói:
Trong một vạn người niệm Phật, chỉ có
đôi ba người văng sanh? Quư vị chú tâm quan sát đôi
ba người văng sanh ấy, [sẽ thấy] họ thật
sự làm được, xác thực là làm được
[Tịnh nghiệp tam phước]. Phàm là những kẻ chẳng
thể làm được, bề ngoài tuân phục, bên trong
chống đối, sẽ chẳng thể văng sanh. Bất
luận quư vị là tại gia hay xuất gia, quư vị mong
sanh về Tịnh Độ chẳng dễ dàng dường
ấy! Đức Phật đă nói rành rẽ, nhưng bản
thân chúng ta chẳng làm theo.
Ở
đây, chúng tôi đơn giản là đọc lời chú giải
cho quư vị nghe, đoạn này chẳng cần nói cặn
kẽ, v́ chúng tôi vừa mới giảng tại giảng
đường chưa lâu, tôi nhớ là giảng ba lượt,
giảng xong ba điều này. Hy vọng mọi người
sẽ t́m băng thâu âm để nghe kỹ càng, vô cùng quan
trọng. Đây là mấu chốt để được
văng sanh hay không? Không có cơ sở này, làm sao có thể niệm
tốt đẹp một câu Phật hiệu cho được?
Làm sao có thể niệm tương ứng? Nay chúng ta niệm
A Di Đà Phật chẳng tương ứng, càng niệm
phiền năo càng nhiều, niệm đến cuối cùng chẳng
muốn niệm nữa, niệm không nổi. Đó là do thiếu
phước. Đây là ba phước, niệm một câu A
Di Đà Phật tương ứng, sẽ là người
có đại phước báo, như vậy th́ mới có thể
niệm tương ứng.
Chúng
ta xem ḍng thứ hai từ dưới đếm lên trong
trang một trăm ba mươi bốn, xem từ câu thứ
ba: “Tổng chi, dục tu tịnh
nghiệp, phụ mẫu bất năng bất hiếu,
sư trưởng hợp nghi phụng sự” (Nói chung,
muốn tu Tịnh nghiệp, chẳng thể không hiếu
thảo với cha mẹ, hăy nên phụng sự sư
trưởng), “hợp nghi”
(合宜) là hăy nên, “thân khẩu ư nghiệp, bất đắc bất thận”
(thân, khẩu, ư nghiệp, chẳng thể không cẩn thận).
Từ tâm, Thập Thiện là thân ba điều, khẩu bốn
điều, ư ba điều, phải cẩn thận. “Thị phàm phu phận sở
đương hành, cố viết cộng phàm phu” (là những
điều nên hành thuộc vào bổn phận của phàm
phu, nên nói là “cộng phàm phu”). Đây là đức hạnh
cơ bản của nhân thiên; chẳng làm được chỗ
này th́ nói cách khác, trong đời sau chẳng có tư cách
được làm người hay trời! Đời sau chẳng
đến được cơi nhân thiên, sẽ đến
nơi đâu? Đương nhiên là vào trong ba ác đạo.
Có thể thật sự giữ ǵn, làm được bốn
câu này, đời sau quyết định chẳng đọa
trong ba ác đạo, hưởng phước báo nhân thiên.
Chẳng c̣n tranh căi chi nữa, cha mẹ có ân dưỡng dục,
lẽ đâu chẳng báo? Đối với sư trưởng
th́ có vấn đề, phải chọn lựa vị thầy
chúng ta thân cận và bạn bè, cha mẹ chẳng thể tuyển
chọn, chẳng có cách nào tuyển chọn, nhưng phải
tuyển chọn thiện tri thức chân chánh, thân cận họ,
bái họ làm thầy. Bái họ làm thầy th́ phải nghe lời,
chẳng nghe lời sẽ vô dụng. Phụng sự sư
trưởng th́ quan trọng nhất là y giáo phụng hành;
do đó, chọn lựa thầy lại càng phải thận
trọng hơn!
Trong
Phật môn, vị sư phụ ta quy y, vị thầy xuống
tóc, vị thầy truyền giới đều chẳng trọng
yếu. Đó là “sư phụ
dẫn vào cửa, tu hành do cá nhân”. Điều này cũng
giống như nói người giới thiệu chúng ta vào
Phật môn chẳng quan trọng. Quan trọng là ǵ? Là vị
thầy chỉ dạy chúng ta tu hành, trong Phật môn gọi
vị thầy ấy là “vị thầy truyền pháp”,
người đệ tử ấy được gọi
là “pháp tử”. Trong Phật môn, hết sức coi trọng vị
thầy này, gọi là “sư thừa”. Ta chẳng quy y với
vị ấy, vị ấy cũng chẳng phải là giới
ḥa thượng (ḥa thượng truyền giới) của
ta, điều này chẳng sao cả! Ta theo vị ấy học
pháp, vị ấy truyền pháp cho ta, vị ấy chính là
ḥa thượng, là thân giáo sư của ta, điều này
trọng yếu! Tu hành tại gia cũng là như thế,
nhất định phải chọn lựa thiện tri thức.
Thật ra, chọn lựa chẳng được, ai là thiện
tri thức chân chánh, chúng ta cũng không nhận biết. Càng
là thiện tri thức chân chánh, quư vị đến cầu
Ngài, Ngài càng khiêm hư: “Tôi chẳng có ǵ để dạy
quư vị, chính tôi cũng chưa thể liễu sanh tử!”,
càng khiêm hư, càng khách sáo. Kẻ chẳng phải là thiện
tri thức [sẽ lớn lối]: “Ta tu hành công phu tốt
đẹp lắm, có thể phóng quang, ta có thần thông”. Hiện
thời thật hay giả chẳng dễ ǵ phân biệt,
vào lúc này th́ phải làm sao? V́ thế, tôi thường khuyên
đồng tu chúng ta lấy cổ nhân làm thầy, chẳng
sai, dùng phương pháp này!
Vị
thầy tốt nhất là A Di Đà Phật, há c̣n sai sao
được? Trực tiếp học với A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật chẳng ở nơi đây, làm thế
nào đây? Tịnh Độ Ngũ Kinh chính là [giáo huấn
của Ngài], nương theo Tịnh Độ Ngũ Kinh
để học, quư vị bái A Di Đà Phật làm thầy,
bái Thích Ca Mâu Ni Phật làm thầy, chắc chắn các vị
thầy chẳng sai lầm. Nếu nói “giáo huấn của
các vị ấy quá sâu, tôi vẫn chưa hiểu”, cạn
hơn một chút, gần gũi hơn một chút sẽ là
Ấn Quang đại sư. Tuy Ấn Quang đại
sư chẳng tại thế, Văn Sao vẫn c̣n. Ta mỗi
ngày đọc Văn Sao, y giáo phụng hành, Ngài dạy ta
làm như thế nào, ta liền làm như thế ấy. Pháp
sư Ấn Quang là thầy của chúng ta, đó là đúng,
chẳng sai lầm! Phải khéo chọn thầy, chọn lựa
đồng tham đạo hữu, trong một đời
này, chúng ta mới có thể đạt được thành
tựu.
Tập 20
Xin xem kinh bổn, trang một trăm ba
mươi lăm, hàng thứ nhất. Vừa mở
đầu liền nói tiếp [những điều đang
được nói trong] trang trước, tức là nói
về bốn câu trong điều thứ nhất [của
Tam Phước]. “Khẳng
thận tựu dị, bất khẳng tựu nan”
(chịu thận trọng [thực hiện] th́ dễ, không
chịu sẽ là khó). Vấn đề là chúng ta có chịu
thận trọng hay không? Có chịu nghiêm túc thực
hiện hay không? Câu dưới đây nhằm giải thích
phước thứ hai: “Đạo
tục căn bản giới pháp, thượng thả
thập nhân cửu phạm, thiểu lộ đa tàng,
huống vi tế hạnh” (Đối với giới
pháp căn bản của hàng xuất gia hay kẻ thế
tục, lại c̣n là mười người hết chín
kẻ phạm, ít kẻ bộc lộ, phần nhiều
giấu diếm, huống là các hạnh vi tế), nói về
chuyện tŕ giới.
Tam Quy là tổng cương lănh tu hành,
cương lănh ấy ở ngay trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ,
chính là Phật, Pháp, Tăng, Giác, Chánh, Tịnh. Trong tựa
đề kinh, thanh tịnh là Tăng Bảo, b́nh đẳng
là Pháp Bảo, giác là Phật Bảo, nên Tam Quy đều ở
trong tựa đề kinh, đây là nguyên lư và nguyên tắc
tu hành. Thực hiện từ tŕ giới, tức là “cụ túc chúng giới, bất phạm
oai nghi” (trọn đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi). Phạm vi của giới luật hết sức rộng.
Trong kinh luận nhà Phật chỉ có thể nói một
nguyên tắc, tuy có các hạng mục, nhưng đó là lúc Phật
tại thế, trong hoàn cảnh sinh hoạt vào thời
đại ấy, đó là các quy tắc mà mọi người
ắt phải tuân thủ. Thời đại thay đổi,
khu vực địa lư khác nhau, nhưng tinh thần giới
luật quyết định chẳng thay đổi. Giới
luật là tiêu chuẩn siêu phàm nhập thánh; nói cách khác, nó
vượt trỗi giới hạn quốc gia, vượt
trỗi giới hạn dân tộc, thậm chí vượt
trỗi giới hạn của các chủng loại trong lục
đạo, hết thảy hữu t́nh chúng sanh đều
phải tuân thủ.
Tinh
thần giới luật là ǵ? Nói quy nạp lại, chỉ
có hai câu: “Đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều lành”. Đó là tinh thần
giới luật. Ác là ǵ? Thiện là ǵ? Trong Phật pháp, nói
thật ra, có khá nhiều tiêu chuẩn khác nhau. Hiện thời,
tiêu chuẩn khác nhau càng nhiều hơn nữa! Mỗi quốc
gia có quan niệm thiện ác khác nhau, nhận biết khác
nhau, mỗi địa phương cũng chẳng giống
nhau, mỗi thời đại cũng chẳng giống
nhau, chúng ta phải hiểu những điều này. Đức
Phật chỉ nói nguyên tắc, rốt cuộc, chúng ta là
người hiện thời, trong hoàn cảnh sống hiện
thời, chúng ta chẳng phải là cổ nhân, mà cũng chẳng
phải là người trong tương lai, nên nhất định
phải hiểu nguyên tắc, phải tuân thủ tập tục
và trào lưu đương thời, tức là đối với
những ǵ mọi người đă quen tôn sùng, đề
cao, chúng ta phải tuân thủ. Ư nghĩa chân chánh của giới
luật là phải khiến cho ta và đại chúng chung sống
ḥa thuận, đó là mục đích của giới luật.
Hy vọng chính ḿnh đoạn ác, tu thiện, có thể
đạt được cái tâm thanh tịnh. Mục tiêu lớn
nhất của giới luật là đắc Định: “Nhân Giới sanh Định, nhân
Định khai Huệ”. Quư vị phải biết đạo
lư này rồi mới hiểu chúng ta phải nên tuân thủ giới
luật như thế nào, giúp chúng ta đắc Định,
giúp chúng ta buông xuống hết thảy vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước.
Nhưng
giới luật rất khó, khó ở chỗ nào? Từ vô thỉ
kiếp tới nay, chúng ta phiền năo, tập khí quá nặng,
một là phiền năo, hai là tà tri tà kiến, tức là cách
nghĩ sai lầm, cách nh́n sai lầm. Một mực như
vậy! Dẫu quốc gia ấn định pháp luật rất
hay, chúng ta vẫn nghĩ trọn hết mọi
phương pháp để kiếm lỗ hổng luật
pháp, đó là chẳng tuân thủ luật lệ, chẳng
tŕ giới! Những người ấy đều là những
người rất thông minh, có thể kiếm ra lỗ hổng
pháp luật, Phật pháp gọi thông minh kiểu đó là Thế
Trí Biện Thông, chẳng phải là trí huệ chân thật.
Người có trí huệ chân thật sẽ tuân thủ pháp
luật; không chỉ là quyết định chẳng vi phạm
những điều khoản được quy định
bởi pháp luật, dẫu đối với những
điều chẳng có trong văn bản pháp luật,
nhưng xă hội, đạo đức chẳng chấp
nhận, cũng nhất quyết chẳng vi phạm. Do vậy
có thể biết: Tŕ giới thật khó! Do đó nói: “Đạo tục căn bản
giới pháp”, “đạo” là
người xuất gia, “tục”
là kẻ tại gia. Giới pháp căn bản là ǵ?
Ngũ Giới. Ngũ Giới là giới pháp căn bản.
Có thể nói: Tinh thần của giới pháp căn bản
không chỉ vĩnh viễn chẳng thay đổi, mà giới
điều cũng là vĩnh viễn không thay đổi. Những
giới luật khác, có thể do thời gian, do địa
điểm mà tu chỉnh, sửa đổi thành Thanh Quy (清規) như người Hoa thường nói, tức là
công ước thường trụ, đều thuộc loại
giới luật được hiện đại hóa; nhưng
năm điều [trong Ngũ Giới] chẳng thể sửa
đổi, v́ sao? Đến bất cứ nơi nào trên thế
giới, trong bất cứ thời đại nào, cũng
đều có thể nói thông suốt, [nếu có khác biệt
th́] tối đa là phạm vi giải thích rộng hay hẹp,
sâu hay cạn sai khác. V́ thế, Ngũ Giới từ Sơ
Phát Tâm cho đến Đẳng Giác Bồ Tát đều bất
biến, đúng là giới pháp căn bản.
“Thượng
thả thập nhân cửu phạm” (lại c̣n mười
người hết chín kẻ phạm), thật đấy!
Mấy ai có thể tŕ Ngũ Giới tốt đẹp? Tỳ
Kheo Giới, Bồ Tát Giới đều là h́nh thức!
Dường như chẳng thọ Bồ Tát Giới th́
địa vị của ta trong Phật giáo sẽ thấp
hơn người khác một bậc, ta không phải là Bồ
Tát, họ đều là Bồ Tát. Đó là chấp vào tướng
danh lợi, hiếu danh, ham lợi. Người thật sự
tŕ giới, [luôn tâm niệm] giữ Ngũ Giới tốt
đẹp sẽ là phi phàm! V́ thế, trong kinh Vô Lượng
Thọ, từ chương ba mươi ba đến
chương ba mươi bảy, quư vị chú tâm quan sát
đôi chút, sẽ thấy đức Phật giảng về
Ngũ Giới, Thập Thiện. Chúng ta có thể thực
hiện tốt đẹp [những giáo huấn ấy],
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới quyết
định chẳng có vấn đề ǵ. Đại giới
rơ rệt như vậy mà c̣n làm không được, huống
ǵ những giới hạnh vi tế? “Hựu huống tam thiên oai nghi, tỳ-kheo ngũ thiên
thất tụ, cộng nhị bách ngũ thập điều,
tŕ phạm, giai y hành, trụ, tọa, ngọa tứ nghi, mỗi
nghi cụ nhị bách ngũ thập, tứ cộng thành
thiên, lịch tam thế, thành tam thiên dă” (Huống hồ
lại c̣n có ba ngàn oai nghi, năm thiên, bảy tụ[14],
tổng cộng là hai trăm năm mươi điều,
giữ, phạm, đều nương theo bốn oai nghi
đi, đứng, nằm, ngồi, mỗi oai nghi có đủ
hai trăm năm mươi điều, do bốn oai nghi
[nhân với hai trăm năm mươi điều ấy],
nên tổng cộng thành một ngàn điều, trải qua
ba đời [nên một ngàn điều trong mỗi đời
nhân với ba đời] thành ba ngàn [oai nghi]). Do quá khứ,
hiện tại, tương lai, nên gọi là “ba ngàn oai nghi”,
mấy ai có thể làm được? Ngẫu Ích đại
sư nói, Ngẫu Ích đại sư sống vào những
năm cuối triều Minh, lăo nhân gia viên tịch vào thời
đầu nhà Thanh. V́ thế, nay chúng ta thấy trong sách của
Ngài có chỗ ghi là nhà Minh, có chỗ ghi là nhà Thanh, Ngài đều
có thể viết như vậy được, v́ đă trải
qua hai triều đại. Ngài nghiên cứu giới luật
rất kỹ, gần giống như Hoằng Nhất
đại sư trong thời cận đại cũng
nghiên cứu giới luật rất kỹ. Ngài nói: “Tại Trung Hoa, từ triều
đại Nam Tống trở về sau chẳng có tỳ-kheo”.
Tỳ-kheo đă chẳng có, lấy đâu ra Tỳ Kheo Giới?
Thật sự trở thành một vị tỳ-kheo, mức
độ tối thiểu phải là có năm vị tỳ-kheo
thật sự truyền giới th́ quư vị mới có thể
đắc giới. Một tỳ-kheo c̣n chẳng có! Do vậy
có thể biết: Truyền giới chỉ có h́nh thức,
chẳng có thực chất. Về thực chất là chẳng
có, chỉ có h́nh thức, nh́n bề ngoài th́ vẫn có.
Cận
đại, Hoằng Nhất đại sư càng nói rơ rệt
hơn. Ngài trụ tại Mân Nam[15] một
thời gian rất lâu, trụ tại Mân Nam Phật Học
Viện thuộc chùa Nam Phổ Đà ở Hạ Môn. Quư vị
thấy trong lời khai thị tại Phật Học Viện,
Ngài đă nói rất thấu triệt: Có cần phải thọ
giới hay không? Phải thọ! Thọ giới, nhưng
trong tâm chính ḿnh phải hiểu rơ, quyết định là
chẳng thể đắc giới, chỉ là thọ trên
h́nh thức mà thôi! V́ sao là thọ giới trên h́nh thức?
Để người thế tục khỏi phê b́nh: “Anh là
loại người tăng chẳng ra tăng, tục chẳng
ra tục”, người ta hủy báng! V́ thế, thọ giới
trên h́nh thức. Đồng thời, đă thọ giới
h́nh thức th́ chính ḿnh phải nghiên cứu giới luật
kỹ càng, hiểu rơ một điều bèn giữ một
điều, đó là thọ giới chân chánh. V́ lẽ
đó, giới đàn là h́nh thức, người xuất
gia và giới đàn đều là h́nh thức, huống hồ
tại gia? Càng phải hiểu điều này rơ hơn. Thuở
tôi học Phật, khi thân cận Chương Gia đại
sư, Chương Gia đại sư hết sức coi trọng
tŕ giới. Lăo nhân gia dạy tôi: “Tŕ
giới là anh làm được một điều, bèn gọi
là tŕ một điều”. Ngài chẳng khuyên tôi nơi nào
có truyền giới, anh hăy đến đó thọ giới,
chẳng có! Ngài dạy tôi hăy tuân thủ, làm theo. Hễ làm
được một điều, tức là anh đă thật
sự thọ giới điều ấy. Có thể thấy:
Những bậc thiện tri thức thật sự sẽ
trọng thực chất, chẳng coi trọng h́nh thức.
H́nh thức chẳng khẩn yếu, thực chất mới
là khẩn yếu.
V́ lẽ
đó, “ngôn bất phạm,
thành phi dị dị” (Nói chẳng phạm, thật sự
không dễ dàng), chẳng phạm giới thật sự
không dễ dàng. Đặc biệt là giới Tiểu Thừa,
giới Tiểu Thừa hoàn toàn kết tội theo sự
tướng, rất khó! Thưa cùng chư vị, giới
Đại Thừa lại càng chẳng dễ dàng. Giới
Đại Thừa kết tội từ khởi tâm động
niệm, c̣n rắc rối và khó khăn hơn Tiểu Thừa.
Đối với Tiểu Thừa, ta chỉ cần làm trên
h́nh thức là được, đă [được coi] là
thật sự tŕ giới rồi, Đại Thừa xét
theo khởi tâm động niệm. V́ thế, giới Đại
Thừa nh́n bề ngoài là phóng
khoáng, bất luận là xét theo tư tưởng, kiến
giải, hay hành tŕ đều là phóng khoáng; Tiểu Thừa
là câu nệ, dè dặt, bảo thủ, hết sức bảo
thủ. Hai loại h́nh thái hoàn toàn bất đồng;
nhưng [Đại Thừa] phóng khoáng mà tâm địa thanh
tịnh vượt trỗi Tiểu Thừa. Nói cách khác,
đức Phật chủ trương phóng khoáng, tự do,
tự tại, chẳng câu nệ, chẳng bó buộc. Đức
Phật cũng đề xướng tự do, b́nh đẳng,
hoàn toàn giống như yêu cầu dân chủ tự do trong hiện
tại. Hiện thời, chúng ta chỉ nói đến dân chủ,
tự do, chẳng nói đến thanh tịnh, đáng sợ
quá! Do chẳng nói đến chuyện thân tâm thanh tịnh,
nên trong tự do b́nh đẳng có khá nhiều tệ nạn.
Tự do, b́nh đẳng, dân chủ trong nhà Phật
được kiến lập trên cơ sở thân tâm thanh
tịnh, khác hẳn! Chúng được kiến lập
trên cơ sở trí huệ ở một mức độ
cao. Do vậy, họ tự tại, chẳng trở ngại
người khác tự tại; đó mới là tự tại
thật sự. Ta b́nh đẳng chẳng trở ngại
người khác b́nh đẳng, hết thảy chúng sanh
đều b́nh đẳng.
V́ thế, trong tâm
mục của người hiện thời, truy t́m dân chủ,
tự do, b́nh đẳng, trong Phật môn thật sự có
những thứ ấy. Những thứ ấy ở đâu
ra? Ắt cần phải đặt vững cơ sở Tiểu
Thừa. Phật giáo truyền đến Trung Hoa, nói thật
thà th́ kinh luận Tiểu Thừa được truyền
đến Trung Hoa khá hoàn chỉnh. A Hàm Bộ trong Đại
Tạng Kinh [tiếng Hán] sai khác tạng kinh [Nikaya] bằng
tiếng Ba Lợi (Pāḷi) rất ít, gần
như toàn bộ kinh điển Tiểu Thừa đều
được phiên dịch [sang tiếng Hán]. Nhưng Tiểu
Thừa giáo chỉ thịnh hành trong một thời gian ngắn
vào thời Tùy - Đường; về sau, chẳng c̣n nữa,
nguyên nhân là đâu? Nguyên nhân là đă bị Nho gia và Đạo
gia của Trung Hoa thay thế. Quư vị đọc sách của
Khổng Tử và Lăo Trang đă đủ để tốt
đẹp vẹn toàn như pháp Tiểu Thừa. V́ vậy,
người học Phật tại Trung Hoa trước kia
do đều có cơ sở Nho và Đạo đă
được vun bồi rất tốt đẹp, nên chẳng
cần phải tốn thời gian học giáo pháp Tiểu
Thừa, mà trực tiếp tiến nhập Đại Thừa.
Nhưng
cho đến gần đây nhất, một trăm năm
qua đáng thương lắm, giáo pháp Tiểu Thừa
đă sớm bị bỏ mất, chẳng hưng khởi
nữa. Nếu quư vị đọc kinh Tiểu Thừa,
người b́nh phàm đều coi thường quư vị.
Sách Nho gia cũng chẳng đọc, sách Đạo gia
cũng vứt bỏ, cứ như vậy mà trực tiếp
học Đại Thừa, đă không có nền tảng, tu
pháp Đại Thừa bằng cách nào? Tu suốt một
đời, vẫn chẳng thể thành tựu. Quư vị
nói xem: Như vậy th́ làm sao được? Đây là một
vấn đề khó khăn nhất trong chuyện học
Phật ngày nay. Nay chúng ta có cần phải đặt vững
cơ sở nơi Tiểu Thừa hay không? Đối với
người Hoa mà nói, thật ra chẳng cần, v́ sao?
Người Hoa đọc kinh Tiểu Thừa, chẳng bằng
đọc Tứ Thư, Ngũ Kinh, Thập Tam Kinh của
Nho gia, chẳng bằng đọc những thứ ấy.
Đó là những thứ của người Hoa, nên họ
đọc [các tác phẩm ấy] sẽ đích xác là thuận
tiện, dễ đọc, học dễ dàng! Kinh điển
Tiểu Thừa dịch từ Phạn văn ra, [nhiều
khi] dịch không khéo, chẳng lưu loát, trôi chảy như
kinh Đại Thừa, nên kinh Tiểu Thừa chẳng dễ
đọc. Chúng ta phải biết điều này.
Sau
khi đă biết, chúng ta mới biết từ nay trở
đi nên đi theo con đường nào. Thật sự học
Phật, nói thật thà, chẳng thể không đọc Tứ
Thư, v́ sao? Thay cho Tiểu Thừa. Đương nhiên có
thể đọc Ngũ Kinh th́ càng tốt hơn, nói đến
Ngũ Kinh th́ phân lượng quá nhiều, ta chẳng có cách
nào thọ tŕ. Nếu ít hơn [Ngũ Kinh] th́ ít tới mức
chẳng thể nào ít hơn được nữa, chính là
Tứ Thư. Đây là bộ sách dành cho người đọc
sách tại Trung Hoa do Châu Hy đă chọn ra từ khá nhiều
kinh điển. Ư tưởng chọn lựa của ông ta
rất viên măn. Trong Tứ Thư có lư luận, có
phương pháp, lại c̣n kèm theo biểu diễn. Nói thật
ra, chúng tôi chỉ có thể suy đoán, đoán ṃ mà thôi, v́ chẳng
t́m được chứng cứ, tôi chẳng nghiên cứu
về ông Châu, chẳng hiểu rơ cuộc đời của
ông ta cho lắm. Ông ta biên tập Tứ Thư, có nhận thức
rất giống với kinh Hoa Nghiêm. Có phải là do ông ta
đọc Hoa Nghiêm mà được linh cảm hay không th́
tôi chẳng biết, nhưng [cách thức biên tập] rất
giống kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm có lư luận, có
phương pháp, lại c̣n kèm thêm biểu diễn. Phần
đầu kinh Hoa Nghiêm giảng về lư luận, phẩm
Ly Thế Gian giảng về phương pháp tu hành. Phẩm
Nhập Pháp Giới là Thiện Tài đồng tử và
năm mươi ba vị thiện tri thức nêu
gương cho chúng ta thấy, hoàn toàn biểu hiện lư luận
và phương pháp trong cuộc sống hiện tại, giống
như diễn tuồng, diễn luyện cho chúng ta xem. V́ thế,
sự giáo học như vậy đúng là đă đạt
tới viên măn cùng cực.
Tứ
Thư giống như thế đó. Trung Dung là lư luận,
Đại Học là phương pháp, [sách Luận Ngữ của]
Khổng lăo phu tử và Mạnh Tử giống như Thiện
Tài đồng tử và năm mươi ba vị thiện
tri thức. Quư vị thấy: Ứng dụng lư luận và
phương pháp của Đại Học và Trung Dung vào cuộc
sống, ứng dụng trong xử sự, đăi người,
tiếp vật như thế nào? Nói cách khác, Khổng lăo phu
tử làm được, Mạnh Tử làm được.
Hai người ấy gần giống như Thiện Tài
đồng tử biểu diễn cho chúng ta thấy, làm
điển h́nh, nêu gương cho người Hoa. Người
Hoa [cần phải] giống như thế nào? Khổng Tử
là người Hoa, Mạnh Tử là người Hoa. Người
Hoa học làm một người Hoa [đúng nghĩa] th́ phải
lấy Mạnh Tử, Khổng Tử làm khuôn phép, học
giống như họ. Nói thật ra, đức hạnh của
họ chẳng kém Tiểu Thừa, trí huệ vượt
trỗi Tiểu Thừa, trí huệ và tâm lượng đều
vượt trỗi Tiểu Thừa, hết sức gần
với Đại Thừa. V́ vậy, từ Nho nhập Phật,
so với từ Tiểu Thừa nhập Phật, tiến
nhập Đại Thừa hay hơn quá nhiều. Do đó,
chẳng thể không đọc Tứ Thư, không có cơ
sở này sẽ chẳng được. Chính ḿnh tu hành c̣n
phải có cơ sở này, huống là hoằng pháp lợi
sanh, phải giảng giải Phật pháp cho người
khác, quư vị thiếu cơ sở này th́ làm sao được?
Tôi
dạy học tại Mỹ, ước định bảy
môn học, bảy môn học ấy mức độ thấp
nhất là phải học thuộc ḷng. Trong bảy môn học
ấy có Tứ Thư, phải học thuộc. Chẳng thể
thuộc, sẽ không có tư cách giảng kinh. Trong bảy
môn học của tôi, kinh gồm có bốn loại là kinh Vô
Lượng Thọ, Di Đà Kinh Yếu Giải, Phổ Hiền
Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, A Nan Vấn Sự Phật
Cát Hung Kinh, đây là một bộ kinh Tiểu Thừa. Kinh
gồm ba bộ Đại Thừa, một bộ Tiểu
Thừa. Ba loại khác là Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm
Ứng Thiên và Tứ Thư. Tôi chọn bảy loại này,
nếu chẳng thể học nhuần nhuyễn bảy thứ
này, chẳng có tư cách giảng kinh. Chính quư vị tu hành
th́ chẳng cần nhiều như vậy, chọn lấy
một loại trong kinh điển, nhưng phải đọc
Tứ Thư, thuộc hay không chẳng sao hết. Nếu
phát tâm hoằng pháp lợi sanh, bảy loại này là cơ bản,
tôi cũng đă chọn tối thiểu rồi, không thể
nào ít hơn được nữa, chẳng có cách nào ít
hơn, do đă hạ thấp tiêu chuẩn đến mức
độ thấp nhất. Các đồng tu phải thật
sự biết điều này, nếu thật sự muốn
phát Bồ Đề tâm hoằng pháp lợi sanh, phải thật
sự dốc hết tánh mạng để làm. Tiếp
đó, sách [Sớ Sao Diễn Nghĩa] viết: “Phát Bồ Đề, tín nhân quả,
tụng Đại Thừa, giai tự lợi, duy khuyến
tấn cú, thị lợi tha. Nhị lợi cụ bị, cố
thị Đại Thừa” (phát Bồ Đề, tin nhân
quả, tụng Đại Thừa đều là tự lợi,
chỉ có câu “khuyến tấn hành giả” là lợi tha. Hai
điều lợi (tự lợi và lợi tha) trọn
đủ, cố nhiên là Đại Thừa). Khi giới thiệu
Sớ Sao, chúng tôi đă nói với các vị đồng tu ư
nghĩa này. Chúng ta lại xem phần sau là phần Kết
Thán, kinh văn ở ngay sau đó.
Phật
cáo Vi Đề Hy: “Nhữ kim tri phủ? Thử tam chủng
nghiệp, năi thị quá khứ, vị lai, hiện tại
tam thế chư Phật tịnh nghiệp chánh nhân.
佛 告 韋 提 希。汝 今 知 不。此 三 種 業。乃 是 過 去 未 來 現 在 三 世 諸 佛 淨 業 正 因。
(Phật bảo Vi Đề Hy: “Nay bà có biết
chăng? Ba nghiệp ấy chính là tịnh nghiệp chánh
nhân của quá khứ, vị lai, hiện tại tam thế
chư Phật”).
Cần
phải ghi nhớ đoạn kinh văn này. Chúng ta có muốn
thành Phật hay không? Muốn thành Phật th́ nhất định
phải tu mười một câu trên đây, nhất định
phải tu, phải nghiêm túc tu Tam Phước, không tu sẽ
chẳng thành Phật. Quá khứ Phật, vị lai Phật,
hiện tại Phật, chẳng có vị Phật nào không
tuân thủ nguyên tắc này. Nói cách khác, chẳng có vị Phật
nào là ngoại lệ, có vị nào không tu những điều
này mà thành tựu hay không? Chẳng có! Văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới là thành Phật,
nên người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, bất luận là tích đức văng sanh, hay sám tội
văng sanh, cũng phải trọn đủ ba phước ấy.
Chẳng đầy đủ ba phước, nay quư vị
niệm Phật, niệm A Di Đà Phật, chỉ có thể
nói là kết pháp duyên, đời này chẳng thể văng
sanh. Muốn văng sanh trong một đời này, phải ghi
nhớ điều này, phải y giáo phụng hành.
Trong
phần sau của lời chú giải, Đế Nhàn đại
sư có dặn ḍ chúng ta mấy câu cũng rất quan trọng,
hăy xem từ nửa đoạn nơi ḍng thứ hai trong
trang một trăm ba mươi sáu. “Thiết vị” (trộm cho rằng), [hễ mở
đầu bằng chữ] “thiết
vị” th́ chính là lời của Đế Nhàn đại
sư. “Tam chủng kư vân chư
Phật chánh nhân, cụ kiến chư Phật” (Đă
nói ba điều ấy là chánh nhân của chư Phật,
đủ thấy chư Phật), “cụ” (具) là cụ thể,
chúng ta có thể thấy hết thảy chư Phật, “bất cẩn tu Đại Thừa,
tức tiểu thánh phàm phu chi hạnh, diệc sở
đương hành dă” (không chỉ tu Đại Thừa,
dẫu là hạnh của tiểu thánh hay phàm phu cũng
đều nên hành). Mười một câu trên đây, chẳng
có ai là không y giáo phụng hành, nghiêm túc tu học, như vậy
th́ mới có thể thành tựu. Nay chúng ta chẳng cần
hai đoạn trước, ta đọc thấy “phát Bồ Đề tâm, tin sâu
nhân quả”, chỉ cần
điều này, có thành tựu được chăng? Giống
như một ṭa cao ốc, chẳng cần hai tầng
dưới, ta muốn xây tầng thứ ba mà thôi, quư vị
xây bằng cách nào? Cách nghĩ ấy gọi là tà tri tà kiến,
chẳng biết tu từ căn bản! Phát Bồ Đề
tâm kiểu đó th́ Bồ Đề tâm [mà quư vị đă
phát] là giả trất! Thật sự phát Bồ Đề
tâm, phải thực hiện từ hiếu thuận cha mẹ,
đó là thật sự giác ngộ, triệt để giác
ngộ.
Do vậy,
Phật pháp, đặc biệt là Đại Thừa Phật
pháp, được kiến lập trên cơ sở hiếu
đạo. Giáo học của Nho gia cũng được
kiến lập trên cơ sở hiếu đạo. V́ thế,
có thể biết: Giáo học thế gian và xuất thế
gian đều lấy hiếu đạo làm căn bản.
Nay chúng ta nói giáo dục thất bại, thất bại ở
chỗ nào? Thiếu căn bản! Trong nhà trường chẳng
dạy hiếu đạo, đó là giáo dục triệt
để thất bại. Con người chẳng hiếu
thảo với cha mẹ, sẽ chẳng thể tôn trọng
thầy. Chẳng hiếu thảo với cha mẹ, chẳng
tôn trọng thầy, chắc chắn sẽ không trung với
quốc gia, chẳng yêu thương dân chúng, chẳng thể
nào! Sau khi học thành sẽ như thế nào? Tự tư
tự lợi. Ai nấy đều cầu lợi ích cho bản
thân, lẽ đâu quốc gia và xă hội chẳng loạn?
Đôi bên tranh giành lợi lộc. Giáo dục xưa kia là bỏ
ḿnh v́ người, cầu ǵ? Cầu xă hội an ḥa, lợi
lạc, cầu điều này, chẳng cầu v́ cá nhân, nhấn
mạnh “hy sinh ḿnh v́ người khác”. Gia tộc xưa kia
là đại gia tộc, hiện thời là tiểu gia
đ́nh. Trong đại gia tộc, quan niệm luân lư, đạo
đức vô cùng trọng yếu. Chẳng có điều ấy,
sẽ không thể duy tŕ, gia tộc ấy sẽ rối loạn.
Do hiện thời những chuyện này đều bị bỏ
sạch, đă bị bỏ sạch th́ làm sao? Chỉ có duy
nhất tiểu gia đ́nh. Tiểu gia đ́nh vẫn có vấn
đề, vấn đề ở chỗ nào? Quư vị thấy
[trong xă hội tỷ lệ] ly hôn bao nhiêu? Nếu quư vị
hỏi do nguyên nhân nào ư? Chẳng có giáo dục! Chẳng
biết mối quan hệ giữa con người với
nhau! Vợ chồng có quan hệ ǵ? Cha con có quan hệ ǵ?
Anh em có quan hệ ǵ? Thảy đều không có. Ta có lợi,
ta có tiền, chỉ thấy mối quan hệ ấy. Trừ
danh lợi ra, những thứ khác đều
chẳng đáng quan tâm, đáng sợ quá! Đáng ngán lắm,
đáng kinh hăi quá! Chỉ mưu cầu lợi! V́ thế,
đấy là chỗ thất bại triệt để
trong giáo dục.
Nhưng
giáo dục đă phạm sai lầm ngần ấy năm,
nay mọi người đều chẳng giác ngộ, cứ
tưởng sự phát triển trong hiện thời là b́nh
thường, không biết quay đầu; [cứ nghĩ]
quay đầu là lạc hậu, là giáo dục phong kiến.
Do đó, nhất định là có đại tai nạn. Sau
khi đại tai nạn đă xảy ra, người ta sẽ
suy nghĩ cẩn thận, nghĩ xem nguyên nhân nào khiến
cho tai nạn phát sanh? Lại đi t́m cội rễ, t́m
đến cuối cùng, vẫn thấy giáo dục của cổ
nhân là đúng. Trong đại tai nạn ấy, người
trên thế giới chết từ một nửa đến
hai phần ba, con người mới giác ngộ, mới tỉnh
ngộ. Không có tai nạn như vậy, sẽ mê hoặc,
điên đảo, vĩnh viễn chẳng thể quay
đầu. Trong những lănh tụ trên thế giới hiện
thời, tôi rất bội phục ông Lư Quang Diệu, Lư
Quang Diệu có tầm nh́n xa. Do vậy, tại Tân Gia Ba,
trong trường học, [học tṛ phải] học cổ
thư Trung Hoa, học Phật học. Nhà trường có
môn học về Phật học. Chúng tôi chỉ nghe nói ông
ta tán thán văn hóa cố hữu của Trung Hoa. Tôi nghe các
đồng tu Tân Gia Ba kể: Ông Lư Quang Diệu từng nói
trên TV và radio, ông ta rất nuối tiếc là chính ḿnh
được giáo dục theo kiểu Anh. Ông ta nói nếu
ḿnh được giáo dục theo cách giáo dục truyền
thống của Trung Hoa, thành tích chánh trị của Tân Gia
Ba hiện thời phải vượt xa rất nhiều lần.
Đây cũng là từng hứng chịu nỗi đau thê
thảm về mặt giáo dục, quay lại phản tỉnh,
có chút nhận thức nền văn hóa Trung Hoa.
V́
thế, đoạn văn này là phần vô cùng quan trọng
trong bộ kinh; trong mười sáu phép Quán, phép Quán thứ
mười sáu là Tŕ Danh, nắm được hai đoạn
ấy, quư vị sẽ đạt được toàn bộ
công đức và lợi ích. Chúng ta lại xem phần kinh
văn tiếp theo:
Phật cáo A Nan
cập Vi Đề Hy: “Đế thính! Đế thính! Thiện
tư niệm chi, Như Lai kim giả vị vị lai thế
nhất thiết chúng sanh, vị phiền năo tặc chi sở
hại giả, thuyết thanh tịnh nghiệp. Thiện
tai Vi Đề Hy, khoái vấn thử sự”.
佛 告 阿 難 及 韋 提 希。諦 聽 諦 聽。善 思 念 之。如 來 今 者 為 未 來 世 一 切 眾 生。為 煩 惱 賊 之 所 害 者。說 清 淨 業。善 哉 韋 提 希。快 問 此 事。
(Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Lắng
nghe! Lắng nghe! Hăy khéo nghĩ nhớ, Như Lai nay sẽ
v́ hết thảy chúng sanh là những kẻ bị giặc
phiền năo làm hại trong đời vị lai mà nói nghiệp
thanh tịnh. Lành thay Vi Đề Hy, khéo hỏi chuyện
này).
Khởi
đầu, đương cơ phát khởi của kinh này
là tôn giả Vi Đề Hy. Phật lại gọi cả
ngài A Nan [bảo hăy lắng nghe], ngài A Nan có quan hệ ǵ với
kinh này? Ngài A Nan có quan hệ rất lớn, v́ sao? V́ kinh này
được nói trong hoàng cung, đức Phật nói kinh
này, đệ tử Phật chỉ có hai người
được nghe. Các đệ tử thường tùy gồm
một ngàn hai trăm năm mươi người chẳng
nghe, họ ở núi Linh Thứu, chẳng theo đến,
nên không được nghe. Nhưng qua phần khai kinh, chúng
ta thấy các Ngài đều được nghe, được
nghe như thế nào? Ở đây, đức Phật bảo
ngài A Nan phải nghe kỹ, quay về, sẽ đem những
ǵ ta đă nói bảo với họ, nên các Ngài đều
được nghe. Đây là nguyên nhân khiến đức
Phật gọi ngài A Nan ở chỗ này, đó là một
nguyên nhân.
Nguyên nhân thứ
hai, trong tương lai, ngài A Nan kết tập Kinh Tạng,
là người truyền pháp, nên Ngài nhất định phải
nghe kỹ càng. V́ thế, đối với hai người
theo Ngài đến đây, Ngài chẳng gọi ngài Mục Kiền
Liên lắng nghe, mà bảo A Nan lắng nghe, “thiện tư niệm chi” (hăy khéo nghĩ nhớ). Ở đây, đức
Phật thuyết pháp cũng là “vị
vị lai thế nhất
thiết chúng sanh” (v́ hết thảy chúng sanh trong đời
vị lai), muốn tu tịnh nghiệp, hy vọng văng sanh Tịnh
Độ. Pháp môn này hữu ích rất lớn, có thể khiến
cho hết thảy chúng sanh ai nấy được măn nguyện.
Cuối cùng lại hết sức tán thán phu nhân Vi Đề
Hy: Bà hỏi rất hay! Do câu hỏi này của bà, chẳng
biết bao nhiêu người được lợi ích!
Chúng
ta xem lời giải thích của lăo ḥa thượng Đế
Nhàn, trong trang một trăm ba mươi bảy, hàng thứ
nhất, xem từ câu cuối cùng: “Thiết vị, tường Như Lai ư” (trộm
cho rằng: Xét kỹ ư Như Lai), quan sát tỉ mỉ, cẩn
thận ư nghĩa trong lời dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật.
“Tam chủng tịnh nghiệp,
chuyên vị mạt thế chúng sanh nhi thuyết” (ba thứ
Tịnh nghiệp chuyên v́ chúng sanh đời Mạt Pháp mà
nói). Cụ Đế Nhàn cho rằng: [Ba thứ Tịnh nghiệp]
được đặc biệt nhấn mạnh đối
với chúng sanh trong thời kỳ Mạt Pháp, v́ sao? Quả
thật, như trong phước thứ nhất, lúc đức
Phật chưa xuất hiện tại Trung Hoa, Nho gia đă
làm được. Nay chúng ta vứt bỏ giáo dục của
Nho gia, nên mới cảm thấy mấy câu này của đức
Phật quan trọng, xưa kia, mọi người đọc
đến điều này đều làm được. Học
giáo pháp Tiểu Thừa, “thọ
tŕ Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”
(thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng
phạm oai nghi), họ cũng đều rất thật
thà làm được. V́ thế, trong thuở ấy, đức
Phật đặc biệt nhấn mạnh pháp Bồ Tát.
Đức Phật đặc biệt nêu ra ba điều
này, quả thật nhằm đối trị chúng sanh trong
thời Mạt Pháp, Mạt Pháp rất khổ! Như chúng
ta hiện đang gặp nạn này, thật sự rất
khổ, chẳng hề có tiền lệ trong lịch sử.
Lịch sử xưa nay, trong ngoài nước chưa hề
có [t́nh trạng này]. Đừng thấy hiện thời
khoa học kỹ thuật phát triển, Đài Loan giàu có
dường ấy [mà lầm], hăy mở sử sách ra xem, [sẽ
thấy hiện thời] đau khổ và bần cùng hơn
bất cứ thời đại nào. Bần (貧) là ǵ? Chẳng có trí huệ; Tiện (賤) là chẳng có địa vị, trong xă hội, chẳng
có ai tôn trọng quư vị. Trước kia làm quan th́ ghê gớm
lắm, dân chúng ai chẳng kính sợ quư vị? Vừa cung
kính, vừa sợ hăi. Nay th́ ngay cả Tổng Thống c̣n
có kẻ chỉ vào mặt mắng nhiếc, quư vị thấy
đúng là chẳng ra thể thống chi cả! Trước
kia, hành chánh viện trưởng (thủ tướng), huyện
thị trưởng ghê gớm lắm, nay đi ra ngoài, ai
quan tâm tới? Ngay cả những kẻ bán hàng rong trên phố
trông thấy họ c̣n chẳng thèm ngó tới. Thiên hạ
đại loạn, toàn thể xă hội mất trật tự,
trật tự xă hội bị hủy mất, đáng sợ
quá!
Lễ đă
băng hoại, lễ là cao thấp, tôn ty có trật tự;
hiện thời, lễ đă băng hoại, thiên hạ
đại loạn. Thuở sinh tiền, Lăo Tử dạy học
đă nói: “Đạo thất
nhi hậu hữu đức” (đạo đă mất,
nhưng hăy c̣n đức). Đạo đă mất,
nhưng c̣n có đức để duy tŕ. “Đức thất nhi hậu nhân, nhân thất nhi hậu
nghĩa, nghĩa thất nhi hậu lễ” (Đức
đă mất hăy c̣n nhân, nhân đă mất hăy c̣n nghĩa,
nghĩa đă mất th́ hăy c̣n lễ). Lễ là cuối
cùng, là tầng cấp thấp nhất. Lễ mất luôn
th́ thiên hạ đại loạn. Sau thời Khổng Tử,
nói thật ra, mỗi triều đại đều bảo
vệ lễ, măi cho đến những năm cuối triều
Măn Thanh. Trong giáo dục, quốc gia hết sức coi trọng
[lễ], nên có khi giáo dục được gọi là “lễ
giáo”, cũng là có đạo lư. Tới đầu thời
Dân Quốc, các sinh viên sang du học ngoại quốc, cho rằng
ngoại quốc tự do, b́nh đẳng, c̣n lễ giáo
Trung Hoa quá sức bó buộc con người, lễ giáo là lễ
giáo “ăn thịt người”, muốn đả đảo
nó. Do đă đả đảo, nên mới có kết cục
như hiện thời. Đảng Cộng Sản thống
trị Trung Hoa Đại Lục, xă hội hiện thời
động loạn như vậy, đều là kết cục
sau khi lễ giáo băng hoại. Tuy giàu, giàu mà chẳng vui,
tâm chẳng thể an, thật sự chẳng được
vui sướng. Nói cách khác, vật chất chẳng thiếu
thốn, nhưng tinh thần hết sức trống trải.
Cuộc sống thiếu tinh thần khổ lắm! Chúng ta
quan sát cặn kẽ, chú tâm phản tỉnh, phải t́m ra
cái gốc bệnh. Chẳng thể cứu xă hội th́ tối
thiểu là phải cứu chính ḿnh, phải khiến cho cuộc
sống tinh thần của chính ḿnh được sung măn.
Để sung măn cuộc sống tinh thần của chính
ḿnh, không ǵ bằng đọc sách Khổng Mạnh, đọc
Đại Thừa Phật pháp rồi mới cảm thấy
sống một đời này c̣n có chút ư nghĩa, cuộc
đời vẫn có chút ư nghĩa, có chút giá trị. Nếu
chẳng đọc sách Khổng Mạnh, không đọc
Đại Thừa Phật pháp, luống uổng đời
này, đời người chẳng có ư nghĩa, không có giá
trị. Có tiền, nhưng đáng bao nhiêu tiền? Chẳng
đáng giá! Chúng ta phải chú ư, phải lưu ư những chỗ
này. Ở đây, hiểu dụng ư thuyết pháp của
đức Phật, chính là v́ người trong thời đại
hiện tại này mà nói, nên ở đây đặc biệt
nhấn mạnh ba thứ Tịnh nghiệp.
“Dĩ
diệt hậu chúng sanh, chướng đại tặc
cường, Pháp Thân huệ mạng yểu thương, bất
hữu tam chủng Tịnh nghiệp, thùy năng bảo nhậm,
cố vân vị vị lai thế đẳng” (Do chúng
sanh sau khi đức Phật diệt độ, chướng
to, giặc phiền năo mạnh mẽ, Pháp Thân huệ mạng
gần như đoạn tuyệt, nếu chẳng có ba thứ
Tịnh nghiệp, ai có thể đảm bảo. Do đó,
nói “v́ đời vị lai” v.v…). Nói rất hay, tŕnh bày hết
sức rơ ràng, hết sức minh bạch. Sau khi đức
Phật diệt độ, tại Trung Hoa, Khổng phu tử
đă khuất, ít có kẻ chánh tri chánh kiến! “Chướng đại, tặc
cường”: Chướng là nghiệp chướng, Tặc
là phiền năo. Phiền năo ngày càng nặng, nghiệp chướng
cũng ngày càng sâu. “Pháp Thân huệ
mạng yểu thương”: Pháp Thân huệ mạng gần
như đoạn tuyệt. Học Phật, phải mong
thành Phật, phải mong văng sanh, văng sanh thành Phật chính
là Pháp Thân huệ mạng, làm thế nào để duy tŕ Pháp
Thân huệ mạng? Sử dụng ba thứ tịnh nghiệp
này. Do đó, không chỉ là tu Tịnh Độ nhất
định phải tuân thủ ba thứ Tịnh nghiệp,
mà tu học Đại Thừa Phật pháp, bất luận
là tông nào, bất luận pháp môn nào, nếu không ra sức thực
hiện từ mười một câu ấy, có thể
đoan quyết người ấy chẳng thể thành
công. Bản thân chúng ta tu học cũng giống như vậy,
niệm Phật cũng thế, mà tham Thiền cũng thế,
tŕ chú cũng thế, bất luận quư vị tu pháp môn nào,
chẳng làm được mười một câu này, có thể
nói là sự tu học của quư vị chỉ tu được
một chút si phước nhân thiên [mà thôi]. Nói si phước
nhân thiên là rất cung kính quư vị, chứ nói không chừng
quư vị phải vào ba ác đạo để hưởng
một chút si phước ấy. Ác đạo cũng có
trường hợp rất có phước, súc sanh đạo
có phước, chúng tôi đă thấy rất nhiều. Quư vị
thấy người ngoại quốc nuôi những con vật
cưng, chúng thật sự có phước! Chủ nhân hầu
hạ nó chẳng thiếu một điều nhỏ nhặt
nào, chết đi c̣n được chôn ở phần mộ
chung, [chủ nhân] c̣n thường đến cắm hoa, c̣n
đến thương tiếc chúng, đúng là có phước!
Những súc sanh ấy đều là kẻ đời
trước niệm Phật tu hành.
Chúng
ta lại xem đoạn kinh văn kế tiếp:
A
Nan! Nhữ đương thọ tŕ.
阿 難 汝 當 受 持。
(A Nan! Ông hăy nên thọ tŕ).
Câu
này rất quan trọng! Quư vị thấy mỗi đoạn
đều đặc biệt gọi A Nan, Thích Ca Mâu Ni Phật
vẫn chưa chỉ dạy, mà đă đặc biệt bảo
A Nan “nhữ đương thọ
tŕ”.
Quảng
vị đa chúng tuyên thuyết Phật ngữ.
廣 為 多 眾 宣 說 佛 語。
(Rộng v́ nhiều người
tuyên nói lời Phật).
Dặn ḍ ngài A Nan
phải truyền pháp.
Như
Lai kim giả, giáo Vi Đề Hy cập vị lai thế nhất
thiết chúng sanh, quán ư Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Dĩ Phật lực cố, đương đắc
kiến bỉ thanh tịnh quốc độ, như chấp
minh kính, tự kiến diện tượng, kiến bỉ quốc
độ cực diệu lạc sự, tâm hoan hỷ cố,
ứng thời tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
如 來 今 者。教 韋 提 希 及 未 來 世 一 切 眾 生。觀 於 西 方 極 樂 世 界。以 佛 力 故。當 得 見 彼 清 淨 國 土。如 執 明 鏡。自 見 面 像。見 彼 國 土。極 妙 樂 事,心 歡 喜 故。應 時 即 得 無 生 法 忍。
(Như Lai nay sẽ dạy Vi Đề Hy và hết
thảy chúng sanh trong đời vị lai quán Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Do Phật lực,
sẽ thấy cơi nước thanh tịnh ấy, như cầm
gương sáng tự thấy vẻ mặt. Thấy các sự
vui tột bậc mầu nhiệm trong cơi ấy, do tâm hoan hỷ,
nên ngay khi đó, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn).
Đặc
biệt phó chúc tôn giả A Nan thọ tŕ, hoằng
dương và tiếp nhận pháp môn này, tu học [pháp môn
này] sẽ đạt được công đức và lợi
ích chẳng thể nghĩ bàn. Đoạn văn này chứng
tỏ bộ kinh này là Viên Đốn đại giáo, v́ hành
nhân sẽ chứng Vô Sanh Pháp Nhân chẳng tuân theo thứ tự,
ngay lập tức bèn chứng đắc, nên thuộc loại
Đốn giáo, có cùng một ư nghĩa với “hoặc một ngày cho đến
bảy ngày nhất tâm bất loạn” trong kinh Di Đà.
Người tu hành dùng cái tâm chân thành của chính ḿnh để
cầu sanh Tịnh Độ, chúng sanh có cảm, Phật
bèn có ứng. Khi Phật ứng, Phật có thể hiện
thân, chứng minh cho quư vị, hiện tướng lành,
đó gọi là “hiện tiền,
tương lai, nhất định thấy Phật”. Ở
đây nói là “dĩ Phật lực
cố, đương đắc kiến bỉ thanh tịnh
quốc độ, như chấp minh kính, tự kiến diện
tượng” (Do Phật lực nên sẽ thấy cơi
nước thanh tịnh ấy, như cầm gương
sáng tự thấy vẻ mặt). Đây là thấy trước
khi được văng sanh. Giống như Huệ Viễn
đại sư trong quá khứ, trong một đời, lăo
nhân gia đă thấy Tây Phương Cực Lạc thế
giới ba lần, trông thấy trạng huống giống hệt
như trong kinh dạy.
Thuở
Viễn Công tại thế, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật
c̣n chưa được dịch ra, kinh A Di Đà cũng
chưa phiên dịch, lăo nhân gia căn cứ kinh Vô Lượng
Thọ, chỉ có kinh Vô Lượng Thọ. Trong Tịnh
Độ Tam Kinh, kinh Vô Lượng Thọ được
truyền đến Trung Hoa sớm nhất. Thuở ấy,
Viễn Công đại sư nương theo một bộ
kinh để tu tŕ, thành lập Liên Xă ở Lư Sơn, Tịnh
Độ Tông được thành lập tại đó. Những
người chí đồng đạo hợp, chuyên tu Tịnh
Độ cầu văng sanh thế giới Cực Lạc. Một
trăm hai mươi ba người niệm Phật ở
Lư Sơn. Lăo nhân gia ba lượt thấy Tịnh Độ,
kinh Lăng Nghiêm nói là “hiện
tiền thấy Phật”, Ngài thấy Phật ngay trong hiện
tiền. Trong quá khứ, người niệm Phật hoặc
là trong Định, hoặc trong niệm Phật đường,
hoặc trong khi chính ḿnh đang tu học, đi, đứng,
nằm, ngồi, thấy thánh tượng A Di Đà Phật,
thấy ao báu trong thế giới Tây Phương, thấy y
báo và chánh báo trang nghiêm của thế giới Tây
Phương, những chuyện này được ghi chép rất
nhiều. Thời cận đại, ít người [trông thấy]
hơn. Thời cận đại như tôi biết, tại
Cựu Kim Sơn, cư sĩ Cam Quư Huệ trong khi niệm
Phật thấy hoa sen, trên hoa sen có đề tên ông ta,
tương ứng với điều kinh đă nói. Đó
là Phật dùng thần lực chứng minh cho quư vị. Quư
vị tu hành đến một mức độ kha khá, bèn
hiện tướng chứng minh cho quư vị ḥng tăng
cường tín tâm.
Chúng
ta tu tŕ chẳng thấy tướng [tốt lành]; nói cách khác,
Phật biết quư vị chưa đủ mức. Nếu
Phật hiện tướng ấy, quư vị sẽ phát cuồng!
Vừa thấy tướng lành ấy, bèn tự cảm thấy
ta ghê gớm lắm, kiêu căng, ngă mạn: “Ta tu hành đă thành
tựu. Các ngươi xem đó, các ngươi chẳng có
công phu, nên đều chẳng trông thấy”. Người ấy
liền phát cuồng, phát cuồng là phiền năo sanh khởi,
tâm thanh tịnh ngay lập tức mất đi. Khi cổ
nhân trông thấy tướng lành, thấy mà như không thấy,
không chỉ hoàn toàn chẳng động tâm, mà cũng chẳng
kể với ai. Đến khi nào sẽ nói với người
khác? Khi người ấy văng sanh, mọi người
đưa người ấy đi văng sanh, người ấy
kể cho mọi người biết kinh nghiệm khi
trước. Như Viễn Công là lúc sắp văng sanh bèn bảo
các đồng tu: “Ta lại thấy
cảnh giới Tây Phương. Trong quá khứ, từng thấy
hai lần, nay lại trông thấy, ta sắp đi rồi”.
Khi đó mới tuyên bố, trước nay chưa hề kể
cảnh giới với người khác. Nay vừa thấy
đôi chút, ngay cả khi chỉ thấy một chút phưởng
phất, đă vội vă đi khắp nơi tuyên
dương, cứ sợ kẻ khác chẳng biết, c̣n phải
viết thành sách. Quư vị nói xem, c̣n làm sao được nữa?
Thậm chí c̣n có kẻ chẳng thấy, nhưng sợ
người ta nói chính ḿnh chẳng có công phu, vẫn muốn
lừa gạt kẻ khác, [bịa chuyện] ta thấy này
thấy nọ! Gạt người, bịa chuyện
đơm đặt! Chuyện này tại Trung Hoa lẫn
ngoại quốc quá phổ biến, quá nhiều!
Hễ
nghe thấy, quư vị phải chú ư, quyết định là
giả, quyết định chẳng thể là thật, v́
sao? Nếu là thật, lẽ nào người ấy chịu
khinh dễ nói với quư vị. Chẳng thể nào khinh
thường, dễ dăi nói cho quư vị biết. Thật sự
gặp cảnh giới ấy th́ có thể nói với ai?
Đại đa số là nói với thầy ḿnh, xin thầy
ấn chứng. Đối với đồng tham đạo
hữu b́nh thường cũng chẳng nói, làm sao chịu
tuyên bố với đại chúng cho được? Hễ
tuyên bố cùng đại chúng, nhất định là
đơm đặt, bịa chuyện, không ǵ chẳng nhằm
cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, nay nói là
“đánh bóng tên tuổi”. Dùng phương pháp ấy để
đánh bóng tên tuổi, lừa gạt hết thảy chúng
sanh, chắc chắn chẳng thể tin cậy được,
chúng ta phải biết điều này! Vô Sanh Pháp Nhẫn là
ǵ? Lần sau chúng ta sẽ lại nghiên cứu.
Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần
5 hết
[1] Phần chú giải của pháp sư
Đế Nhàn cũng rất sơ lược. Chúng tôi xin
trích dẫn như sau: “Một
ngàn hai trăm năm mươi người là nêu ra con
số. Ba anh em ngài Ca Diếp có một ngàn đệ
tử. Ưu Lâu: Cơi này dịch là Mộc Qua Lâm (rừng
đu đủ). Già Da, cơi này dịch là Thành. Na Đề,
cơi này dịch là Giang (sông). Xá Lợi Phất là tên, dịch
nghĩa là Châu Tử, cũng dịch là Thân Tử, họ
Câu Lật Đà. Mục Kiền Liên là họ, dịch là Tán
Tụng, c̣n dịch là Thái Phục Căn, hoặc dịch
là Hồ Đậu. Hai vị này có tất cả hai
trăm năm mươi người [đệ tử].
Các vị Ca Diếp, Xá Lợi Phất v.v… trước kia
thờ lửa, từ tà vào chánh, gian khổ đă nhiều
năm, chẳng có thành tựu ǵ. Vừa được
gặp Phật, liền đắc quả bậc
thượng, cảm ơn sâu của Phật,
thường theo hầu đức Phật, làm đại
chúng cùng nghe pháp”.
[2] Giáp cốt văn (甲骨文) c̣n gọi là Khế
Văn, Giáp Cốt Bốc Từ, hoặc Quy Giáp Thú Cốt
Văn là văn tự được khắc trên mai rùa (quy
giáp) hoặc xương thú (thú cốt) nhằm ghi chép những
sự tích hoặc dự đoán do bói toán thường là
vào cuối nhà Thương, cho đến đầu triều
Châu. Những văn tự này cung cấp tài liệu quư báu về
văn hóa Trung Hoa thời cổ, cũng như là tài liệu
để nghiên cứu cội nguồn của chữ Hán hiện
thời. Các văn tự này phần lớn được
phát hiện tại di chỉ Ân Khư (thuộc huyện An
Dương, tỉnh Hà Nam).
[3] Đề Bà Đạt Đa và A Nan là
con của Bạch Phạn Vương (Śuklodana).
Bạch Phạn Vương là em trai của Tịnh
Phạn Vương (Śuddhodana), con trai của Sư
Tử Tần Vương (Simhahanu).
[4] Trong sách ấy chú giải như sau
(trong đây, những chi tiết đă được ḥa
thượng Tịnh Không nhắc tới sẽ
lược đi không dịch): “Tần
Bà Sa La, cơi này dịch là Mô Thật, hoặc dịch là Kiên
Ảnh. Vi Đề Hy dịch là Tư Duy. A Xà Thế, cơi
này dịch là Vị Sanh Oán, hoặc Bà La Lưu Chi, cơi này
dịch là Chiết Chỉ (găy ngón tay)… Lúc chưa sanh,
thầy bói đoán: Sanh ra
đứa trẻ này, quyết định sẽ hại
cha, ư nói trong lúc c̣n ở trong thai, đă có tướng oán.
Do thầy bói tiên đoán, nên đặt tên như vậy.
Điều Đạt dịch là Thiên Nhiệt, c̣n dịch
là Thiên Thọ, là con vua Bạch Phạn, là em họ
đức Phật, là anh ruột A Nan, có ba mươi
tướng. Xuất gia tụng sáu vạn pháp tụ, măn
mười hai Vi Đà. V́ lợi dưỡng, nên
đến chỗ đức Phật, xin học thần
thông. Phật chẳng giảng nói, dạy ông ta quán vô
thường, sẽ được đắc
đạo…. Điều Đạt vào núi, học
được Ngũ Thông, tâm niệm: ‘Ai sẽ làm thí
chủ cho ta. Thái Tử A Xà Thế, có tướng
đại vương’, liền biến hiện thân h́nh
thành Tượng Mă Bảo… Lại lên cơi trời, lấy
hoa trời, thức ăn trời [ḥng lấy ḷng Thái
Tử]… Điều Đạt phá Tăng, Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên giáo hóa, [tăng chúng] lại ḥa
hợp. Ông ta đẩy [đá to từ] trên núi đè
Phật, Mật Tích Kim Cang dùng chày Kim Cang đỡ, đá
vỡ nát, [mảnh đá văng] làm ngón chân Phật bị
thương. Tỳ-kheo-ni Hoa Sắc quở trách,
Điều Đạt bèn đánh bà ta ḷi mắt.
Điều Đạt tạo ba tội nghịch, hăm vào
địa ngục trong khi c̣n sống… Xưa kia, vua Tần
Bà đi săn nai trong núi Tỳ Phú La, chẳng săn
được ǵ, gặp một vị tiên nhân đang
tĩnh tọa, bèn sai người xua đuổi, rồi
sai người giết đi. Lúc lâm chung, tiên nhân khởi ác
niệm, nguyện trong đời sau, ta sẽ giống
như ngày nay dùng tâm và miệng hại ngươi!”.
Vị tiên nhân ấy đầu thai thành thái tử A Xà
Thế.
[5] Quốc Phu Nhân là một danh xưng
để tôn xưng các mạng phụ (những phụ
nữ được triều đ́nh sắc phong). Ngày
xưa, các quan hoặc chư hầu được phong
vương th́ đất phong của họ thường
được gọi là “quốc” hoặc “quận
quốc”. Tương ứng, vợ của các vương
gia được phong là Quốc Phu Nhân. Có khi chính bản
thân người nữ đó được phong thực
ấp, chẳng hạn như Vũ Tắc Thiên đă phong
cho chị ḿnh là Vũ Thuận làm Hàn Quốc Phu Nhân, về
sau đổi thành Trịnh Quốc Phu Nhân. Thoạt
đầu, Quốc Phu Nhân chỉ dùng để gọi các
bà ngoại mạng phụ. Nội mạng phụ là
những người có liên hệ huyết thống
hoặc hôn nhân trực tiếp với hoàng đế
như hoàng hậu, hoàng thái hậu, thái hoàng thái hậu (bà
nội vua), các công chúa, trưởng công chúa (chị hay em
gái của nhà vua), thái trưởng công chúa (cô của nhà vua)
chưa lấy chồng. Đôi khi c̣n bao gồm vợ
cả của anh em họ nhà vua. Ngoại mạng phụ là
cáo mạng phu nhân, tức là các công chúa, trưởng công
chúa, thái trưởng công chúa đă lấy chồng, cũng
như chánh thất của những vương gia,
đại thần không thuộc hoàng tộc
được triều đ́nh sắc phong. Ở đây,
bà Vi Đề Hy được gọi là Quốc Thái Phu
Nhân với ư nghĩa hoàng thái hậu (theo nghĩa nội
mạng phụ), v́ lúc đó A Xà Thế đă làm vua, vua
Tần Bà đă trở thành Thái Thượng Hoàng.
[6] “Sao”
ở đây là gạo hoặc lúa mạch rang chín, nghiền
thành bột.
[7] Nhật Quỹ (Sundial) là một
loại đồng hồ dựa theo bóng nắng, thông
thường gồm một đĩa tṛn có khắc
vạch chỉ giờ, chính giữa là một cây kim
mỏng và sắc. Khi mặt trời di chuyển quanh
bầu trời, bóng nắng chiếu vào kim sẽ soi lên
vạch giờ tương ứng.
[8] Ngài Trí Giả chú giải: “Kỳ Bà, cơi này dịch là
Hoạt (sống). Lúc sanh ra, một tay cầm túi thuốc,
một tay cầm ống kim. Xưa kia đă thề làm
thầy thuốc, có thể trị bệnh cho người
khác. Do đức mà lập hiệu”.
[9] Tổ Trí Giả sớ giải: “[Trong] kinh này chẳng đáp,
nhưng các kinh khác có nói. Xưa kia vào thời Định
Quang Phật, Phật Thích Ca [có tên] là Ma Nạp, theo học
ở chỗ tiên nhân Trân Bảo. Học tập đă thành,
nghĩ muốn báo ân, nhưng tự xét chính ḿnh nghèo khó. Khi
ấy, ông Da Nhă Đạt muốn gả con gái, có ông Tu Ma
Đề mong được làm rể. Ông này thông minh, có
trí huệ, nhưng h́nh mạo xấu xí. Ma Nạp gặp mặt
[cùng Tu Ma Đề] nghị luận. Tu Ma Đề
biện luận thua cuộc, Da Nhă Đạt hoan hỷ,
giúp Ma Nạp rất nhiều trân bảo, gả con gái cho.
Tu Ma Đề sinh ḷng phẫn hận, phát thệ trong
vị lai đời đời gây năo hại. V́ nhân duyên
ấy, thường xúc năo ông ta”.
[10] Thật ra, đây không phải là tiên
đoán của giáo hội Công Giáo, Chính Thống Giáo hay các
giáo hội Cơ Đốc Tân Giáo (Tinh Lành, Phúc Âm, Cải
Cách, Giám Lư v.v...). Những tiên đoán này chỉ là ư kiến
của một số cá nhân, dựa theo cách họ diễn
dịch những ẩn dụ trong sách Khải Huyền
(Apocalypse, Revelation) của Kinh Thánh. Cứ mỗi lần
chuyển sang một thế kỷ mới, lại có dự
đoán thế giới sẽ tận diệt. Nhất là vào
năm 1999 là năm cuối cùng của thế kỷ 20, do
phát hiện một sai lầm trong hệ thống computer,
nhất là trong hệ thống Mainframe (do tiết kiệm
bộ nhớ, người ta chỉ ghi năm bằng hai
con số cuối, nên sang thế kỷ 21, nếu không sửa
lỗi trong các chương tŕnh đă sử dụng,
năm 2013 sẽ được máy tính hiểu là năm
1913. Điều này có thể gây nên những rối loạn
trong các hệ thống dịch vụ công cộng),
những nhà “tiên tri” bèn ầm ĩ tiên đoán năm 1999
hoặc năm 2000 sẽ tận thế. Họ
thường viện dẫn Nostradamus để chứng
minh cho lập luận này, nhưng khi xét đến nguyên
văn, chúng ta chẳng thấy Nostradamus khẳng
định năm nào. Những nhà “tiên tri” tiên đoán
ồn ào nhất về ngày tàn của thế giới vào
năm 1999 hoặc năm 2000 là James Gordon Linsay (1906-1973) (ông
này là người sáng lập học viện Christ For the
National Institute), Edgar Cayce, Sun Myung Moon (mục sư sáng
lập Unification Church của Đại Hàn, rất nổi
tiếng với những tṛ gây ồn ào như rửa
tội cho hàng ngàn người bằng ống tưới
để xịt thay v́ rảy nước thánh, hoặc làm
lễ kết hôn cho mấy trăm cặp cùng một lúc),
Ed Dobson (mục sư của Calvary Church tại Grand Rapids,
Michigan), Lester Sumrall, Harold Camping (ông này rất nổi
tiếng v́ đă tiên đoán rất nhiều lần và luôn
đoán sai be bét, vụ ầm ĩ nhất là ông tiên đoán
như thánh phán ngày 21 tháng Mười năm 2011 vừa qua
sẽ có động đất khủng khiếp và Chúa
sẽ mang 3% dân số trên thế giới về
nước trời mà thôi, những người c̣n lại
sẽ chết sạch). Ngay cả chuyện thế
giới sẽ tận diệt vào cuối năm 2012
được các nhà “tiên tri”, khoa học gia giả mạo
tiên đoán vừa qua cũng chẳng phải là chuyện
mới mẻ, v́ John of Toledo (giám mục xứ Proto and Santa
Rufina, mất năm 1275) đă từng tiên đoán thế
giới tận diệt vào năm 1186 do các hành tinh trong Thái
Dương Hệ xếp thẳng hàng. Điều đáng
trách là những đệ tử tại gia khi đọc
các tin từ Internet hay các sách vở mạo danh khoa học
đă thiếu thái độ nghiêm túc suy xét, nên đă cung
cấp những thông tin sai lạc cho Ḥa Thượng (v́
Ngài không đọc báo, xem TV, nghe radio, nên không thể
kiểm chứng tính chân xác của mỗi bản tin),
khiến cho trong các buổi giảng, với dụng ư khuyên
răn các đồng tu luôn tỉnh ngộ thế gian vô
thường, Ngài đă dẫn dụng các tin này, tạo
thành những hạt sạn trong các lời giảng,
khiến cho người nghe do thiếu suy xét, phán đoán,
chỉ lo chăm chú những chuyện vụn vặt
ấy mà quên đi những giáo nghĩa quan trọng,
những lời khuyên thiết thực trong bài giảng
của Ḥa Thượng.
[11] Lời chú giải trong sách Quán Kinh
Sớ Sao Diễn Nghĩa về tướng bạch hào
giữa hai mày đức Phật như sau: “Giữa hai lông mày của đức Như Lai có
tướng bạch hào, ví như kha tuyết, dài một
trượng năm thước. Bạch hào có tám cạnh,
chu vi năm tấc. Trong bạch hào rỗng không, uyển
chuyển xoay về bên phải, như ống lưu ly.
Từ đó tỏa ra quang minh, chiếu vô lượng cơi
nước, trở về trụ trên đỉnh
đầu đức Phật, biến thành đài vàng,
hiện rộng khắp các cơi nước, khiến cho bà Vi
Đề Hy thích sanh về cơi An Dưỡng. Sự phóng
quang này nhằm đáp ứng lời thỉnh xin chỉ
dạy về cơi sẽ sanh về”. Kha là một loại
ngọc quư, sanh từ một loại ốc trong biển
cả. Sách Nhĩ Nhă giảng Kha (珂) là một loại ốc lớn mặt
ngoài màu vàng pha đen, mặt trong trắng ngần, nên
từ ngữ “kha tuyết”
thường được dùng để h́nh dung những
ǵ trắng ngần, không tỳ vết, nhiễm bẩn.
[12] Ngũ Bất Hoàn Thiên
(Śuddhāvāsa), c̣n gọi là Tịnh Cư Thiên, là
nơi ở của các bậc thánh nhân trong Tứ Thiền
Thiên. Ngũ Bất Hoàn Thiên gồm năm tầng trời
là Vô Phiền Thiên (Arvha), Vô Nhiệt Thiên (Atapa), Thiện Sanh
Thiên (Sudrśa), Thiện Hiện Thiên (Sudarśana), và
Sắc Cứu Cánh Thiên (Aknistha).
[13] Xin lưu ư, trợ niệm ở đây
không phải là đến niệm Phật trợ duyên cho
người sắp mất theo cách hiểu thông
thường, mà có nghĩa là phân biệt Chánh Hạnh và
Trợ Hạnh. Ḥa Thượng Tịnh Không nói “tŕ danh chẳng phải là
trợ niệm, mà là chánh niệm” ngụ ư: Tŕ danh là
phương pháp, là hạnh chánh yếu trong cách niệm
Phật, chẳng phải là một hạnh phụ trợ
cho các cách tu niệm Phật khác.
[14] Giới Tỳ-kheo (Cụ Túc Giới) được chia thành bảy tiểu loại gọi là Thất Tụ, c̣n gọi là Thất Phạm Tụ, hay Thất Tội Tụ bao gồm:
1) Ba La Di (Pārājika), dịch là Đoạn Đầu, tức những giới căn bản trọng tội (giết, trộm, dâm, dối). Kẻ phạm những giới này hoàn toàn đánh mất tư cách tỳ-kheo, chẳng được ở chung với tăng chúng.
2) Tăng Già Bà Thi Sa (Samghāvaśesa), dịch nghĩa là Tăng Tàn, tội này nếu chí thành sám hối trước thanh tịnh chúng th́ c̣n có thể khôi phục tư cách tỳ-kheo. Chẳng hạn như hủy báng người khác th́ là tội này.
3) Thâu Lan Giá (Sthūlātyaya), dịch nghĩa là Đại Chướng Thiện Đạo, ư nói tội lỗi này tuy nhẹ hơn, nhưng chướng ngại thiện pháp sanh khởi. Kinh Đại Bát Niết Bàn có nêu một thí dụ: Như có người thấy tràng hoa cúng Phật đă héo, bèn tùy tiện tháo chỉ xâu hoa, đem cất riêng để sau này sử dụng, không xin phép Thường Trụ, th́ phạm tội Thâu Lan Giá.
4) Ba Dật Đề (Prāyaścittika), dịch là Xả Đọa.
5) Ba La Đề Xá Ni (Pratideśanīya), dịch là Hướng Bỉ Hối.
6) Đột Cát La (Duskrta), dịch là Ác Tác, như nói lời thô ác, có hành vi không đúng với oai nghi, nhưng chẳng phạm vào bốn tội trọng.
7) Ác Thuyết (Durbhāsita).
Bảy loại trên đây nếu nói gọn lại sẽ thành năm loại, gọi là Ngũ Thiên, tức Ba La Di, Tăng Tàn, Ba Dật Đề, Ác Tác và Ác Thuyết.
[15] Mân Nam là từ ngữ để chỉ
khu vực phía Nam tỉnh Phước Kiến, đối
diện eo biển Đài Loan, bao gồm các huyện
Chương Châu, Tuyền Châu và Hạ Môn. Nếu hiểu
theo nghĩa rộng c̣n bao gồm Bồ Điền, lưu
vực các sông Cửu Long Giang và Tấn Giang. Ngữ hệ
Hà Lạc (tiếng nói của vùng Tuyền Châu và
Chương Châu) chính là khởi thủy của tiếng
Đài Loan hiện thời.