A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 100
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Tịnh Không năm 1984
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh
Tiến, Huệ Trang và Đức Phong
Tập
199
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm lẻ ba:
(Sao)
Đại Bổn Phật tán bỉ quốc Bồ Tát chủng
chủng công đức, vi nhị thập tam dụ. Nhất,
kiên cố bất động như Tu Di sơn. Nhị, trí
huệ minh liễu như minh nhật nguyệt. Tam, quảng
đại như hải, xuất công đức bảo cố.
Tứ, xí thịnh như hỏa, thiêu phiền năo tân cố.
Ngũ, nhẫn nhục như địa, nhất thiết
b́nh đẳng cố. Lục, thanh tịnh như thủy,
tẩy chư trần cấu cố. Năi chí nhị thập
tam, như Từ Thị quán, đẳng pháp giới cố.
Mạt phục kết vân: “Kim vị nhữ đẳng cử
yếu ngôn chi, nhược quảng thuyết giả, nhất
kiếp bất tận”. Tắc tri Bồ Tát chi số vô
lượng vô biên, Bồ Tát công đức diệc vô
lượng vô biên dă.
(鈔) 大
本 佛 讚 彼 國 菩 薩 種 種
功 德,為 二 十 三 喻,一、堅 固
不 動 如 須 彌 山,二、智
慧 明 了 如 明 日 月,三、廣
大 如 海 出 功 德 寶 故,四、熾
盛 如 火 燒 煩 惱 薪 故,五、忍
辱 如 地 一 切 平 等 故,六、清
淨 如 水 洗 諸 塵 垢 故。乃
至 二 十 三,如 慈 氏 觀,等
法 界 故。末 復 結 云:今
為 汝 等 舉 要 言 之,若 廣
說 者 一 劫 不 盡。則 知 菩
薩 之 數 無 量 無 邊,菩 薩
功 德 亦 無 量 無 邊 也。
(Sao: Trong kinh Đại
Bổn, đức Phật tán thán các thứ công đức
của hàng Bồ Tát trong cơi ấy, đă dùng hai mươi
ba tỷ dụ. Một là kiên cố bất động
như núi Tu Di. Hai là trí huệ sáng suốt như mặt trời,
mặt trăng sáng ngời. Ba là rộng lớn như biển,
sanh ra của báu công đức. Bốn là hừng hực như
lửa đốt sạch củi phiền năo. Năm là nhẫn
nhục như đất v́ hết thảy b́nh đẳng.
Sáu là thanh tịnh như nước, rửa các bụi nhơ.
Cho đến tỷ dụ thứ hai mươi ba là như
ngài Từ Thị quán tưởng pháp giới b́nh đẳng.
Cuối cùng lại kết luận: “Nay ta v́ các ông nói những
điều chánh yếu. Nếu nói rộng răi, th́ [nói suốt]
một kiếp chẳng hết”. Do vậy biết số lượng
của Bồ Tát là vô lượng vô biên, công đức của
Bồ Tát cũng vô lượng vô biên).
Hai
mươi ba tỷ dụ được Liên Tŕ đại
sư trích dẫn vốn là chương thứ ba mươi
mốt, tức chương Chân Thật Công Đức trong
bản hội tập của cụ Hạ Liên Cư, nhưng
trong chương đó, cụ Hạ chẳng hoàn toàn trích lục
hai mươi ba tỷ dụ ấy. Trong hội [Vô Lượng
Thọ] Như Lai của kinh Đại Bảo Tích, tức
là nơi trang hai trăm bảy mươi bốn của bộ
Ngũ Kinh Độc Bổn có đoạn kinh văn ấy.
Kế đó, trong bản hội tập của cư sĩ
Vương Long Thư, hai mươi ba tỷ dụ đều
trọn đủ. Ấn Quang đại sư, cụ Hạ
Liên Cư và lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đều công
nhận: Hễ Sớ Sao trích dẫn kinh Đại Bổn,
đại đa số là dùng bản hội tập của
cư sĩ Vương Long Thư, tức là Đại A Di
Đà Kinh. Nay chúng tôi in chương ấy, chương ấy
có đầy đủ hai mươi ba tỷ dụ. Chương
ấy có tên là Bồ Tát Công Đức Phần Đệ Tam
Thập Tứ (phần ba mươi bốn, Công Đức
Của Các Bồ Tát). Chương ấy trích từ bản
của cư sĩ Vương Long Thư, chúng tôi cho sao chụp
in lại để cúng dường chư vị đồng
tu. Trong một chương kinh văn ấy, đức Phật
tán thán các thứ công đức của hàng Bồ Tát trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Chương ấy
rất đáng cho chúng ta đọc kỹ, v́ có quan hệ rất
lớn đối với sự tu học của chúng ta. Chúng
tôi lợi dụng cơ hội này để giới thiệu
đơn giản cùng các đồng học một chương
kinh văn ấy.
Phật
ngôn: A Di Đà Phật sát trung chư Bồ Tát chúng.
佛 言:阿 彌
陀 佛 剎
中 諸 菩 薩 眾。
(Đức Phật nói: “Các vị
Bồ Tát trong cơi của A Di Đà Phật”).
“
Dung
mạo nhu ḥa, tướng hảo cụ túc.
容 貌 柔 和 相
好 具 足。
(Dung mạo mềm mỏng, ôn ḥa, tướng hảo
trọn đủ).
Từ
Đại Kinh, chúng ta thấy điều này rất rơ ràng:
Dung mạo và tướng hảo đều giống như
A Di Đà Phật. V́ vậy, thế giới ấy là một
thế giới b́nh đẳng, thật sự b́nh đẳng.
Mười phương thế giới đều chẳng
b́nh đẳng, chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc
thế giới là b́nh đẳng. Mọi người đều
giống như nhau, màu da cũng như nhau, vóc dáng cũng
như nhau. Thế giới Tây Phương đích xác là chẳng
thể nghĩ bàn.
Thiền
Định trí huệ thông đạt vô ngại, thần
thông oai đức vô bất măn túc.
禪 定 智 慧 通
達 無 礙,神 通 威 德 無 不
滿 足。
(Thiền Định, trí huệ thông đạt vô ngại,
thần thông, oai đức, không ǵ chẳng trọn vẹn).
Đây
cũng là sự thật. Từ bốn mươi tám nguyện,
chúng ta từng đọc thấy điều này. Tuy là đới
nghiệp văng sanh, sanh trong hạ hạ phẩm, thậm chí
Ngũ Nghịch, Thập Ác lâm chung sám hối văng sanh, hễ
tới thế giới Tây Phương, trí huệ, thần
thông và đạo lực cũng đều chẳng sai khác
A Di Đà Phật cho mấy. Pháp môn Tịnh Độ được
gọi là “pháp khó tin”, khó ở chỗ nào? Ở ngay chỗ
này. Đó là sự thật. Không chỉ là lũ phàm phu chúng
ta khó tin, mà hàng Bồ Tát cũng [cảm thấy] khó tin. Chúng
ta thấy kinh Hoa Nghiêm nói “phải đạt tới Đăng
Địa Bồ Tát th́ mới chẳng hoài nghi pháp môn này”. Do
vậy có thể biết, các vị Bồ Tát thuộc địa
vị Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng) trong hội Hoa Tạng đều rất
khó tin tưởng pháp môn này! Đạt đến Đăng
Địa (từ Sơ Địa trở lên) th́ mới từ
đầu đến cuối chẳng ĺa niệm Phật,
mới thật sự phát nguyện tu học pháp môn này. Có
phải là Địa Thượng Bồ Tát và Đẳng
Giác Bồ Tát đă hoàn toàn hiểu rơ hay không? Cũng chưa
chắc! Vẫn c̣n cậy vào Phật gia tŕ. Nếu chẳng
được Phật lực gia tŕ, Đẳng Giác Bồ
Tát cũng chẳng có cách nào lư giải. Pháp môn này khó tin ở
chỗ này, v́ nó là cảnh giới thuộc về quả địa
của Như Lai.
Pháp
môn này chẳng tu từ nơi nhân, tám vạn bốn ngàn
pháp môn đều là tu nhân chứng quả, pháp môn này tu từ
nơi quả, chẳng tu từ nơi nhân, nên ngay cả Đẳng
Giác Bồ Tát đều chẳng hiểu rơ ràng. Chúng ta đọc
đến đây, [thấy kinh nói] tướng mạo [của
mọi người trong cơi Cực Lạc] giống hệt
như Phật, có lẽ c̣n miễn cưỡng tin tưởng,
chứ Thiền Định, trí huệ, thần thông và oai
đức ngay lập tức đều chẳng sai khác đức
Phật cho mấy, khó tin quá! Nhưng điều ấy xác
thực là sự thật, hạ hạ phẩm văng sanh
cũng là Thiên Nhăn thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe
thấu suốt, Tha Tâm biết trọn khắp, xác thực
là thần thông và đạo lực chẳng cách xa quả địa
của đức Phật cho mấy!
Thâm
nhập pháp môn, đắc Vô Sanh nhẫn.
深 入 法 門 得
無 生 忍。
(Thâm nhập pháp môn, đắc
Vô Sanh Nhẫn).
Kinh
Nhân Vương nói địa vị nào mới chứng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn? Vô Sanh Pháp Nhẫn có ba phẩm:
Hạ phẩm là Thất Địa Bồ Tát, trung phẩm
là Bát Địa Bồ Tát, thượng phẩm là Cửu
Địa Bồ Tát. Thập Địa Bồ Tát chứng
Tịch Diệt Nhẫn, cao hơn Vô Sanh Pháp Nhẫn một
cấp. Dẫu là hạ phẩm, công phu Thiền Định
rất sâu, cũng là từ Thất Địa trở lên. Cụ
Lư Bỉnh
Chúng
tôi tu học trong quá khứ, đă đi lầm đường.
V́ thế, mọi người nghe tôi giảng kinh, tốt
nhất là nghe những ǵ tôi đă giảng trong hai năm nay,
những ǵ đă giảng trước hai năm gần đây
đừng nên nghe. V́ sao? Trong ấy, có chẳng ít sai lầm!
Hai năm nay ít sai lầm hơn, chính ḿnh đă có tín tâm, chẳng
đi lạc đường, nhất định phải
tu tập từ tâm thanh tịnh. V́ lẽ đó, cái hay của
kinh Vô Lượng Thọ là từ tựa đề đă
nói rơ, phải thực hiện từ tâm “thanh tịnh, b́nh
đẳng”, hăy tu tập nơi “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”. V́ thế, tôi đặc biệt nhấn mạnh tánh
trọng yếu của việc đọc kinh, niệm Phật,
chẳng cần mong hiểu nghĩa. V́ sao chẳng cần mong
hiểu? Chúng ta chưa đoạn phiền năo tập khí,
chưa đoạn vọng tưởng, chấp trước,
tất cả hết thảy lư giải đều là tà tri
tà kiến, chẳng phải là chánh tri chánh kiến. Khi nào tâm
chúng ta đạt được thanh tịnh, tâm đạt
được b́nh đẳng, sự lư giải khi ấy sẽ
là trí huệ. Do đó, tâm thanh tịnh vô cùng khẩn yếu.
Đó là “thâm nhập pháp môn”.
Chỉ có tâm thanh tịnh th́ mới có thể thâm nhập. Tâm
càng thanh tịnh, nhập càng sâu.
Nếu
quư vị hỏi pháp môn này là pháp môn nào ư? Nếu nói theo
kinh Di Đà, sẽ là pháp môn “nhất
tâm bất loạn”, nói theo kinh Vô Lượng Thọ sẽ
là pháp môn “phát Bồ Đề
tâm, một mực chuyên niệm”. Quư vị càng thâm nhập,
tâm càng thanh tịnh, tâm càng b́nh đẳng. Độ sâu được
đo lường bằng tâm địa thanh tịnh, b́nh
đẳng; v́ thế, các Ngài mới có thể thấy hết
thảy các pháp bất sanh, bất diệt. “Vô Sanh” là hết thảy các pháp bất sanh, bất
diệt, quư vị đồng ư, chấp nhận, khẳng
định. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, quư vị chẳng
thể nào có sự nhận thức ấy. Dẫu thấy đức
Phật dạy như vậy, cũng là miễn cưỡng
tiếp nhận, có thật sự nhập cảnh giới ấy
hay không? Chẳng có! Chỉ là nghe nói mà thôi, chẳng thể
thấy cảnh giới trên thực tế. Ắt phải
là tâm địa có mức độ thanh tịnh kha khá th́ mới
nhận biết rơ ràng căn bản của nhân sinh và vũ
trụ.
Tri
thức và trí huệ trong thế gian này, nói thật thà th́ là
từ Đệ Nhị Nghĩa trở xuống, chẳng
phải là Đệ Nhất Nghĩa. Nhà Phật nói Đệ
Nhất Nghĩa, Đệ Nhất Nghĩa là nói tới ư
nghĩa căn bản. Các nhà triết học, khoa học, tôn
giáo hiện thời chẳng t́m thấy bản thể của
vũ trụ, cũng có nghĩa là tuy họ rất thông
minh, nhưng đối với vũ trụ và nhân sinh, đối
với khởi nguyên của vũ trụ, đối với
ư nghĩa và giá trị của nhân sinh, họ luôn nghiên cứu,
thăm ḍ suốt mấy trăm năm, vẫn chẳng có
kết luận, nguyên nhân ở chỗ nào? Chẳng kiến
tánh! Do t́m ṭi, khảo sát, họ đạt được
những kết luận, toàn là tà tri tà kiến. Trong Phật
pháp, chánh tri chánh kiến được nói bởi đức
Phật chính là ở chỗ nào? Ở ngay nơi tâm! Trong tâm
chẳng có một vọng tưởng nào, tâm sẽ chánh. Tâm
chánh th́ kiến giải bèn chân chánh. Tâm bất chánh, kiến
giải làm sao có thể chân chánh cho được? Toàn là vọng
tưởng. Trong Phật pháp, những vọng tưởng
ấy được gọi chung là Tục Đế. Chúng
ta gọi tri kiến của Như Lai là Chân Đế.
諸 佛 密 藏 究
竟 明 了。
(Hiểu rơ rốt ráo tạng bí
mật của chư Phật).
“Chư Phật” không chỉ là
một ḿnh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng chẳng
phải là riêng ḿnh A Di Đà Phật, mà là mười
phương ba đời hết thảy chư Phật. Hễ
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ
thảy đều hiểu rơ sự chứng đắc bí
mật của các Ngài. Chúng ta đọc câu kinh văn này, hăy
nên giác ngộ: Đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới là khẩn yếu! Trong cơi này,
đừng nói là chư Phật, suốt một đời
[chúng ta] vẫn chẳng hiểu rơ mật tạng của một
đức Phật, chẳng có cách nào hiểu rơ. Đừng
nói là một đức Phật, ngay như ư nghĩa uyên áo
của một bộ kinh c̣n chẳng thể thông đạt,
huống hồ hết thảy các kinh! Đó là lư do v́ sao phải
cầu sanh thế giới Tây Phương. Ở đây, tôi
lại muốn nói cho quư vị biết bí mật thật sự
của câu này. Mật tạng thật sự của chư Phật
là một câu A Di Đà Phật. Nay chúng ta có thể niệm
câu A Di Đà Phật. Chưa hiểu rơ ư nghĩa được
bao hàm [trong danh hiệu] A Di Đà Phật, mật tạng của
A Di Đà Phật xác thực là mật tạng của hết
thảy chư Phật. A Di Đà Phật có nghĩa là ǵ? Một
bộ kinh Vô Lượng Thọ nhằm giải thích bốn
chữ A Di Đà Phật. Kinh Di Đà và kinh Vô Lượng
Thọ là lược thích, tức là giải thích khái lược.
Nếu giải thích cặn kẽ th́ phải là Đại
Tạng Kinh. Một bộ Đại Tạng Kinh là để
giải thích cặn kẽ [ư nghĩa của] A Di Đà Phật.
Có phải là cặn kẽ nhất hay không? Chẳng phải!
Chúng ta vẫn chưa biết cặn kẽ nhất là ǵ? Chúng
ta nghe kể Long Thọ Bồ Tát trong cung rồng thấy Đại
Bổn Hoa Nghiêm Kinh, phân lượng là mười tam thiên đại
thiên thế giới vi trần kệ, một tứ thiên hạ
vi trần phẩm. Đừng nói là địa cầu, cả
hệ Ngân Hà đều chứa không nổi, đó là giải
thích bốn chữ A Di Đà Phật khá tỉ mỉ. V́ vậy,
bốn chữ ấy nghĩa lư sâu không đáy, rộng vô
biên, nhiếp trọn hết thảy các pháp môn, tổng tŕ
diệu pháp của chư Phật, chẳng phải là mật
tạng của chư Phật th́ là ǵ? Bởi lẽ đó,
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới th́
mới có thể hiểu rơ rốt ráo.
Điều
phục chư căn, thân tâm nhu nhuyễn.
調 伏 諸 根 身
心 柔 軟。
(Điều phục các căn,
thân tâm nhu nhuyễn).
Nay
chúng ta “điều phục”
chính là dùng Giới để rèn thân, dùng Định để
rèn tâm, bèn biết tầm trọng yếu của Giới và
Định! Nhất tâm hệ niệm là điều tâm, tŕ
giới niệm Phật là điều thân. “Thân tâm nhu nhuyễn” là thân tâm tự tại! Chúng
ta thua kém Bồ Tát là do nguyên nhân nào? Chúng ta chẳng biết
Thật Tướng của các pháp. Nói cách khác, chẳng nhận
thức chính ḿnh, mà cũng chẳng liễu giải hoàn cảnh.
V́ thế, dẫu chúng ta rất nghiêm túc điều phục,
kết quả đạt được vẫn là khá hữu
hạn, chẳng bằng Bồ Tát đă thật sự thông
đạt, hiểu rơ chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh. Thật ra, đức Phật trọn chẳng
giữ bí mật, chẳng giấu diếm những chân
tướng ấy, Ngài đă nói ra. Do Ngài đă nói ra, chúng
ta cũng biết nói, những chẳng thấu hiểu ư
nghĩa ấy. Kinh Kim Cang nói: “Phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”.
Đức Phật đă nói toạc ra: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn,
bọt, bóng, như sương, cũng như chớp, hăy
nên quán như thế”. Câu sau chính là đức Phật
khuyên chúng ta hăy coi nhân sinh và vũ trụ trước mắt
như mộng cảnh, huyễn ảnh. Coi chúng như mộng
cảnh, huyễn ảnh, chúng ta sẽ không chấp trước.
Không chấp trước th́ vọng tưởng ấy cũng
chẳng c̣n nữa, đó là tu học Đại Thừa. Đây
là một phương pháp rất xảo diệu.
Tất
cả đau khổ, điên đảo của chúng ta trong
hiện thời là do đă coi nhân sinh và vũ trụ là thật,
hỏng bét ở chỗ này! V́ lẽ đó, cứ lo được,
lo mất trong đó. Nếu thấy cảnh giới trước
mắt đều là mộng, là ảnh, cái tâm được
mất của quư vị sẽ chẳng c̣n nữa. Chẳng
có tâm được mất, tối thiểu là phiền năo
giảm bớt tám mươi phần trăm, lẽ nào quư
vị chẳng tự tại? Hiện thời, các nhà khoa học
phát hiện: Chẳng có vật chất. Hết thảy vật
chất là cảm nhận sai lầm của con người.
Họ nói: Trên sự thật, [vật chất] là chấn động
của sóng ánh sáng. Trong Đàn Kinh, câu này đă được
Lục Tổ đại sư diễn tả là “do tâm nhân giả động”.
Các nhà khoa học biết hết thảy hiện tượng
vật chất sanh từ dao động, nhưng sự dao
động ấy do đâu mà có, họ chẳng biết! V́
lẽ đó, sự nhận thức của họ là Đệ
Nhị Nghĩa, chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa.
Sóng [dao động] do đâu mà có? Sóng từ Chân Như bản
tánh mà có. Lục Tổ nói: “Do
tâm nhân giả động”. Kiến tánh, đó là Đệ
Nhất Nghĩa. Phải nhận biết Đệ Nhất
Nghĩa th́ mới có thể thực hiện viên măn“điều phục chư
căn, thân tâm nhu nhuyễn” (điều phục các căn,
thân tâm nhu nhuyễn).
An trụ
tịch tĩnh tận Bát Niết Bàn.
安 住 寂 靜 盡
般 涅 槃。
(An trụ tịch tĩnh trọn
hết Bát Niết Bàn).
“Tận” (盡) có nghĩa là viên măn, “Bát
Niết Bàn” là thanh tịnh tịch diệt. Tâm chúng ta phải
an trụ nơi đâu? Phải trụ tại chỗ nào? Dựa
theo tựa đề kinh Vô Lượng Thọ, quư vị an
trụ nơi “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác” là đúng. Ở đây, thanh tịnh b́nh
đẳng giác được gọi là “tận Bát Niết Bàn”.
Thâm
nhập chánh huệ, vô phục dư tập.
深 入 正 慧 無
復 餘 習。
(Thâm nhập chánh huệ, chẳng
c̣n thừa sót các tập khí).
“Tập” (習) là tập khí, “chánh huệ” là trí huệ Bát
Nhă, là trí huệ vốn sẵn có trong bản tánh. Hiện
thời, trí huệ của chúng ta chẳng thấu lộ, chẳng
thể khởi tác dụng, đức Phật bảo là do phàm
phu chúng ta có hai thứ ngăn chướng trí huệ. Hai
chướng là Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng.
Phiền Năo Chướng là những thứ như Thân Kiến,
Biên Kiến, tham, sân, si, mạn, nghi. Sở Tri Chướng
là quư vị biết chuyện thế gian và xuất thế
gian chẳng ít. Chúng đều là chướng ngại.
Giáo
học Phật pháp dạy chúng ta thực hiện từ chỗ
nào? Dạy chúng ta hăy thực hiện từ vô tri. Từ vô
tri nghĩa là sao? Phá trừ Sở Tri Chướng, sau khi đă
đoạn trừ Sở Tri Chướng, sẽ là không ǵ
chẳng biết. Nay v́ chúng ta có Sở Tri Chướng, nên
sẽ có những điều chẳng biết! Những thứ
không biết quá nhiều. V́ lẽ đó, sau khi đoạn
Phiền Năo Chướng, chứng Đại Niết Bàn,
tâm địa thanh tịnh tự tại, sung sướng
khôn sánh. Phá Sở Tri Chướng, hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian không ǵ chẳng biết. Nhưng
phá Sở Tri Chướng phải thực hiện từ vô
tri, Bát Nhă vô tri th́ mới là không ǵ chẳng biết. V́ thế,
biết nhiều thứ chẳng có lợi ǵ, Thanh Lương
đại sư bảo là “tăng
trưởng tà kiến”. Hiện thời, chúng tôi thể
nghiệm câu nói ấy thật sâu! Thật sự khai trí huệ,
tuyệt đối chẳng phải là có thể thành công
trong một thời gian ngắn ngủi. V́ vậy, Bồ
Tát tu hành phải trải qua bao kiếp dài lâu, phải tu học
trong một thời gian dài, phải có ḷng kiên nhẫn. Kiên
nhẫn là cơ sở của nhất tâm và tâm thanh tịnh.
Quư vị là người thiếu kiên nhẫn, hăy ngẫm
xem, làm sao có thể thành tựu Định cho được?
Nhẫn nhục là tiền phương tiện của Thiền
Định; chẳng thể nhẫn, kẻ ấy quyết
định chẳng đắc Định. Chẳng có Định
th́ nói cách khác, quyết định chẳng thể phá Phiền
Năo Chướng. Chẳng có Định, quyết định
là trí huệ Bát Nhă chẳng thể thấu lộ.
Tu học
không tuân theo thứ tự có được hay không? Không
được! Lục Độ là cương lănh tu hành,
mà cũng là thứ tự tu hành của Bồ Tát. Điều
thứ nhất là bảo quư vị buông xuống, bố thí là
buông xuống. Buông vọng tưởng xuống, buông chấp
trước xuống, buông tham, sân, si, mạn xuống, buông
hết thảy tri kiến xuống, trí huệ chân chánh bèn hiện
tiền, tức là Bát Nhă vô tri. Vô tri là Căn Bản Trí mới
có thể hiện tiền. Căn Bản Trí khởi tác dụng
là Hậu Đắc Trí, không ǵ chẳng biết! “Thâm nhập chánh huệ” ở
đây là nói tới Căn Bản Trí. “An trụ tịch tĩnh tận Bát Niết Bàn”
trong phần trước là đoạn Phiền Năo Chướng.
“Thâm nhập chánh huệ vô phục
dư tập” (Thâm nhập chánh huệ, chẳng c̣n tập
khí thừa sót) là Sở Tri Chướng cũng phá. Chúng ta đă
thật sự hiểu rơ: Học Phật th́ thực hiện
từ nơi đâu? Học từ nơi đâu? Trong hai năm
nay, tôi giảng điều ǵ cũng đều đề
xướng, khuyên lơn mọi người cứ đọc,
chẳng cần mong hiểu nghĩa, rất nhiều
người hiểu lầm, chê tôi nói nhăng nói cuội. Họ
rất khó tin tưởng, rất khó lănh hội điều
ấy. Trong quá khứ, tôi đă đi sai đường. Đối
với các kinh đă giảng trước kia, họ nghe rất
hoan hỷ, có thể tiếp nhận, v́ sao? Nói nhăng nói
cuội mà! Đầu óc họ đầy ắp tà tri tà kiến,
nên [đối với họ, những thứ tri kiến tạp
loạn ấy] rất tương ứng. Nay tôi đă quay đầu,
họ cảm thấy kỳ quái, đại khái là cảm
thấy tôi có vấn đề! Nay tôi đă thật sự t́m
được đường, thật sự hiểu rơ ràng!
Y Phật sở hành
Thất Giác Thánh Đạo.
依 佛 所 行 七
覺 聖 道。
(Nương theo Thất Giác Thánh Đạo đức
Phật đă hành).
“Hành” là hành vi trong cuộc sống.
Hành vi trong cuộc sống lấy Thất Giác Chi và Bát Thánh Đạo
làm tiêu chuẩn.
Tu
hành Ngũ Nhăn chiếu Chân đạt Tục, biện tài tổng
tŕ tự tại vô ngại.
修 行 五 眼 照 真 達 俗。辯
才 總 持 自 在 無 礙。
(Tu hành Ngũ Nhăn, chiếu soi lẽ
Chân, thông đạt lẽ Tục, biện tài tổng tŕ tự
tại vô ngại).
Ngũ
Nhăn là Phật nhăn, huệ nhăn, pháp nhăn, thiên nhăn, và nhục
nhăn. Người trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới ai nấy đều là “Ngũ
Nhăn viên minh”, nên có thể Thiên Nhăn thấy thấu suốt.
“Chiếu Chân đạt Tục”:
Chân là căn nguyên hoặc bản thể của vũ trụ
và nhân sinh, Tục (俗) là thế tục. Tư tưởng,
kiến giải, và hành vi của đông đảo chúng sanh
trong mười pháp giới các Ngài đều biết,
đó là “đạt Tục”. Do“biện tài tổng tŕ tự tại
vô ngại” th́ các Ngài mới có thể giáo hóa chúng sanh,
thành tựu biện tài.
Thiện
giải thế gian vô biên phương tiện.
善 解 世 間 無
邊 方 便。
(Khéo hiểu vô biên phương
tiện của thế gian).
Phật, Bồ
Tát giáo hóa chúng sanh chẳng ĺa khỏi phương tiện,
v́ sao? V́ chân thật th́ nói chẳng được, ngôn ngữ
dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt, hễ có thể
nói th́ hoàn toàn là phương tiện! V́ lẽ đó, Thích Ca
Mâu Ni Phật nói: Trong suốt bốn mươi chín năm,
Ngài chẳng thuyết pháp một câu nào! V́ sao? V́ những ǵ
đă nói trong bốn mươi chín năm đều là nói
pháp phương tiện, cũng chẳng nói một câu pháp
chân thật nào! Những pháp phương tiện được
nói ra đều nhằm mục đích dạy cho người
ta từ phương tiện bèn thấu hiểu chân thật.
Xét theo ư nghĩa này, chúng ta cũng có thể nói: Những câu
do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín
năm đều là nói pháp chân thật, phương tiện
chính là chân thật! Đó gọi là thiện xảo, là quyền
biến.
Sở
ngôn thành đế, thâm nhập nghĩa vị.
所 言 誠 諦 深
入 義 味。
(Lời nói chân thành, xác thực, thâm nhập nghĩa vị).
Đối
với lời đức Phật nói, nhất định
phải hiểu nghĩa thú thuyết pháp của Ngài; bởi
lẽ, những lời đức Phật nói, ư ở ngoài
lời! Quư vị phải lănh hội, quyết định chớ
nên chấp trước. Chấp trước ngôn ngữ của
Phật, chấp trước văn tự trong kinh điển
th́ sai bét mất rồi! Trong kinh, đức Phật đă
nói: “Y văn giải nghĩa,
tam thế Phật oan”, ba đời chư Phật đều
kêu oan uổng! Quư vị phải từ ngôn ngữ và văn
tự mà lănh hội, thấu hiểu nghĩa thú, như vậy
th́ mới có thể đắc đạo.
Phu
diễn Chánh Pháp, quảng độ hữu t́nh.
敷 演 正 法 廣
度 有 情。
(Phô diễn Chánh Pháp, rộng
độ hữu t́nh).
“Phu” (敷) là khai triển.
Triển khai giáo học rộng răi nhằm rộng độ
chúng sanh. Nên nói Chánh Pháp là như thế nào? Chánh pháp là chánh
tri chánh kiến. Dẫu đức Phật nói ra phương
tiện quyền xảo, Ngài vẫn dẫn dắt, khuyên dụ
chúng ta nhập chánh tri chánh kiến, đó là Chánh Pháp. Chánh
tri chánh kiến nói chung là phải có tiêu chuẩn, tiêu chuẩn
là “giác, chánh, tịnh” được nói trong Tam Quy Y. Nói đơn
giản về “giác, chánh, tịnh” th́ thứ nhất là chẳng
mê. Đối với chính ḿnh, nhân sinh, vũ trụ, lư sự,
nhân quả, đều có thể giác chứ không mê, chánh chứ
không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm, đó là Chánh Pháp.
Chúng ta phải luôn kiểm điểm điều này. V́ sao
khóa tụng sáng tối nhất định phải có Tam Quy
Y? Khóa tụng sáng tối, thứ ǵ khác cũng có thể chẳng
niệm, nhưng nhất định phải niệm Tam Quy
Y. Tam Quy Y nhằm dạy chúng ta sáng tối kiểm điểm,
phản tỉnh, kiểm tra chính ḿnh, ngày hôm nay ta có mê hay không?
Có tà hay không? Có nhiễm ô hay không? Nếu là mê, tà, nhiễm, sai
mất rồi, đó là tà pháp, chẳng phải là Chánh Pháp. Chúng
ta tiếp người đăi vật, những nhân vật ấy
đều có thể giúp cho chúng ta giác chánh tịnh. Đó là
Chánh Pháp.
“Phu diễn chánh pháp, quảng
độ hữu t́nh” th́ Phật, Bồ Tát là
đương nhiên [làm chuyện này]. Trừ Phật, Bồ
Tát ra, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
sáu trần thuyết pháp. Sáu trần trong thế gian này cũng
đều thuyết pháp. Tuy sáu trần thuyết pháp, chúng
ta chẳng hiểu. V́ sao không hiểu? V́ chúng ta mê quá sâu. Sáu
trần thuyết pháp, chúng ta không có cách nào lănh hội. Tâm địa
ắt phải đạt đến mức độ thanh
tịnh kha khá th́ mới có thể thấu hiểu! Bậc đại
đức trong Thiền Tông nghe tiếng mảnh ngói văng
vào thân trúc bèn khai ngộ; thấy nước chảy bèn khai
ngộ, nghe chim hót trên cành bèn khai ngộ. Đó chính là sáu trần
thuyết pháp. Do vậy có thể biết, tâm địa của
người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
thanh tịnh, nên đối với sáu trần, họ đều
có thể cảm xúc rất sâu; do từ chỗ này mà họ
có thể lănh ngộ Chân Đế. Chúng ta tâm ư thô tháp, hời
hợt, giảng cách nào cũng chẳng ngộ! Chẳng phải
là sáu trần trong thế giới này không thuyết pháp, hằng
ngày sáu trần đều thuyết pháp, nhưng họ chẳng
khai ngộ! Thắp nến mỗi ngày, mỗi ngày [nến]
đều thuyết pháp, có mấy ai thấy nến mà khai
ngộ hay chăng? Phạm vi của câu này hết sức rộng
lớn. Đó là rộng độ hữu t́nh.
Trừ
bỉ nhất thiết phiền năo chi hoạn.
除 彼 一 切 煩
惱 之 患。
(Trừ nỗi lo về hết
thảy các phiền năo cho họ).
Kiến
Tư, Trần Sa, Vô Minh dần dần đoạn sạch.
Đẳng quán
tam giới không vô sở hữu.
等 觀 三 界 空
無 所 有。
(Quán tam giới b́nh đẳng, rỗng không, vô sở
hữu).
Đây
là thấy Thật Tướng của các pháp. “Đẳng” (等) là b́nh đẳng,
“tam giới” là lục đạo.
Lục đạo là chuyện như thế nào? Lục
đạo “không, vô sở hữu”,
đây là nói thật với quư vị. Tâm Kinh đă dạy: “Sắc bất dị Không, Không bất
dị Sắc. Sắc tức thị Không, Không tức thị
Sắc”, rỗng không, chẳng có ǵ hết. “Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
diệc phục như thị”. Nếu nghe những lời
này không hiểu th́ Bách Pháp Minh Môn là chú giải của Tâm
Kinh. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức triển khai
thành một trăm pháp. Thọ, Tưởng, Hành, Thức là
Tâm Vương và Tâm Sở, tức là tám thức và năm
mươi mốt Tâm Sở. Sắc là mười một sắc
pháp, [gồm] năm căn và sáu trần, những pháp này đều
là pháp hữu vi. Kinh Kim Cang nói: “Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”,
rỗng không, chẳng có ǵ hết! Quư vị coi những thứ
đó là thật, chẳng phải là tự chuốc khổ
ư? Đó là mê, là tà. Ở trong ấy, phân biệt, chấp
trước, có lấy, có bỏ th́ gọi là nhiễm, tức
là mê, tà, nhiễm! Biết hết thảy các pháp rỗng không,
chẳng có ǵ, đó là trí huệ, là giác. Trong hết thảy
các pháp, chẳng lấy, chẳng bỏ, đó là tịnh, là
thanh tịnh. Quư vị cố ư bỏ đi th́ cũng là nhiễm
ô, v́ thế, hết thảy tùy duyên, đừng phan duyên. Phàm
phu “giữ lấy”, đă lệch về một bên. Người
Tiểu Thừa trừ bỏ, cũng lệch sang một bên.
Người Tiểu Thừa rớt trong Thiên Chân Niết
Bàn, thứ ǵ cũng đều chẳng cần. C̣n phàm phu
th́ thứ ǵ cũng muốn, người Tiểu Thừa th́
thứ ǵ ta cũng chẳng cần, đều sai! V́ sao? Rỗng
không, chẳng có ǵ, cần cũng là mê, mà không cần cũng
là mê. Hai bên lấy và bỏ đều trừ sạch, Bồ
Tát hành Trung Đạo th́ mới là thật sự hiểu rơ
chuyện này. Do đó, đối với cảnh giới,
chúng ta chẳng lấy, chẳng bỏ, hết thảy tùy
duyên.
Bồ
Tát du hư thần thông, chẳng coi nó là thật, nó chẳng có
thật. Ǵ là thật? Tâm thanh tịnh là thật; giác, chánh,
tịnh là thật. Hết thảy thời, hết thảy
chỗ, trong hết thảy cảnh giới, giữ vững
những thứ này, quyết định chẳng để
mất đi. Giác, chánh, tịnh là thật. Thật ra, chúng
ta chẳng làm được th́ một câu A Di Đà Phật
là thật. Trong mười hai thời, một câu A Di Đà
Phật chẳng bỏ, ức niệm không quên! Ức Phật,
niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất
định thấy Phật. Đó là thật, chẳng bỏ
điều này, hết thảy các pháp khác tùy duyên là được
rồi. Đó gọi là “đẳng
quán tam giới không vô sở hữu”.
Tri
nhất thiết pháp tất giai tịch diệt, vô tướng,
vô vi, vô nhân, vô quả, vô thủ, vô xả, vô phược,
vô thoát.
知 一 切 法 悉 皆 寂 滅,無
相 無 為 無 因 無 果,無 取
無 捨 無 縛 無 脫。
(Biết hết thảy các pháp đều là tịch
diệt, vô tướng, vô vi, vô nhân, vô quả, không lấy,
không bỏ, không trói buộc, không giải thoát).
Mấy
câu này là cảnh giới của Pháp Thân đại sĩ. Đă
gọi là “cảnh giới của Pháp Thân đại sĩ”
th́ quư vị chưa thấy Pháp Thân, sẽ chẳng thể
có được. Hễ thấy Pháp Thân, hết thảy sẽ
tự nhiên trọn đủ. Thấu lộ một ít tin
chính là trong tâm người ấy không hề vướng mắc
mảy may. Chẳng có vướng mắc, ưu lự, chẳng
có chấp trước, vọng tưởng,
đương nhiên là chẳng có phiền năo. Những thứ
ấy đều chẳng có, thưa cùng chư vị, sanh
tử luân hồi cũng chẳng có. V́ sanh tử luân hồi
là quả báo, c̣n những thứ này đều là nhân; nhân đă
chẳng có, lấy đâu ra quả? V́ thế, sanh tử
cũng chẳng có, luân hồi cũng chẳng có; không chỉ
chẳng có những thứ ấy, mà tam giới cũng chẳng
có, mười pháp giới cũng chẳng có. Rốt cuộc
Ngài trụ nơi đâu? Bất đắc dĩ nói là Ngài
trụ trong Nhất Chân pháp giới. Tự tại lắm!
Nếu
chúng ta muốn nhập cảnh giới này, hăy khéo niệm A
Di Đà Phật, niệm đến cảnh giới công phu
thành phiến, quư vị sẽ lănh hội đôi chút. Sự
lănh hội ấy chẳng phải là chứng đắc thật
sự, trong Tứ Gia Hạnh, [sự lănh hội ấy] được
gọi là Noăn Vị (煖位)[1],
[hàm nghĩa] chẳng thấy lửa, nhưng có nhiệt độ,
có độ ấm, quư vị đă lănh hội. Đạt đến
nhất tâm bất loạn, sẽ nhập cảnh giới
này. Đạt đến tâm địa thanh tịnh, tức
là khi công phu đă thành phiến, dần dần tiếp cận
cảnh giới này, quư vị có thể lănh hội, rất
tin tưởng, công phu là như thế đó! Nghiên cứu
kinh [ḥng mong đạt đến cảnh giới ấy] sẽ
không được! Đọc trọn khắp Đại
Tạng Kinh, nghiên cứu hết thảy các chú giải, chẳng
liên quan ǵ đến chuyện này, chạm đến ngoài ŕa
c̣n chẳng được! Càng tiếp xúc, càng rét run, chẳng
ấm áp, càng rét cóng, chẳng tiếp xúc được! V́
thế, hôm nay tôi nói lời thật cùng mọi người.
Tuy
tôi mua sách, thâu thập Đại Tạng Kinh, đó là v́ giúp
đỡ chúng sanh, tiếp dẫn chúng sanh, dùng làm tài liệu.
V́ chúng tôi nói với người khác, câu nào cũng đều
phải có căn cứ, chẳng thể bịa chuyện, đơm
đặt, nhằm tiếp dẫn mọi người nhập
môn. Sau khi đă nhập môn, phải chuyên tu Tịnh Độ,
chuyên niệm A Di Đà Phật, quư vị mới có thể đạt
thành tựu, quyết định chớ nên coi nhẹ chuyện
này! Chính ḿnh tu hành là thâm nhập một môn, để rộng
độ hữu t́nh th́ nhất định phải là phương
tiện thiện xảo, phải phô diễn chánh pháp. Chánh
pháp có phạm vi vô lượng vô biên, nguyên tắc của nó
là giác, chánh, tịnh, khuyên dụ, hướng dẫn ḷng người
hướng về giác, hướng về chánh, hướng
về thanh tịnh; đó là chánh pháp. V́ vậy, tà và chánh, nói
thật ra, rất dễ phân biệt.
Biết
hết thảy vạn pháp, pháp thế gian và xuất thế
gian, “vô tướng, vô vi, vô
nhân, vô quả”, tuyệt đối chẳng phải là bài
bác “không có nhân quả”. Phải đạt tới mức độ
nào? Phải cho tới khi trong tâm quư vị thật sự thanh
tịnh, chẳng khởi một niệm th́ mới là vô
nhân, vô quả, chẳng lấy, chẳng bỏ. Trong tâm quư
vị hăy c̣n khởi một niệm, nói cho quư vị biết,
[vẫn là] có nhân, có quả. Vô nhân vô quả là hạng người
nào? Nơi quả địa của Như Lai. Bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ vẫn chẳng ĺa nhân quả. Kinh Hoa Nghiêm nói ngũ
châu nhân quả (năm tầng nhân quả), kinh Pháp Hoa nói Nhất
Thừa nhân quả, chẳng rời ĺa [nhân quả]! Nơi
quả địa Như Lai mới là không nhân, không quả,
vô tướng, vô vi, triệt để liễu giải chân
tướng y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
thế gian và xuất thế gian.
Khử
chư phân biệt, viễn ly điên đảo.
去 諸 分 別 遠
離 顛 倒。
(Trừ các phân biệt, xa ĺa
điên đảo).
Đây
là chứng đắc cực quả, chỉ riêng thế giới
Tây Phương là thành tựu chuyện này trong một đời.
Trong các thế giới phương khác, sẽ là đời
đời kiếp kiếp, phải trải qua ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, hoặc vô lượng kiếp, chẳng
biết là đă bỏ thân, thọ thân, thay đổi bao
nhiêu thân th́ mới có thể hoàn tất! Tây Phương Cực
Lạc thế giới làm xong trong một đời. Điều
này cũng chỉ rơ lư do v́ sao hết thảy chư Phật
đều khuyên mọi người cầu sanh Tịnh
Độ, v́ chúng ta sẽ thành tựu viên măn ngay trong một
đời ở bên ấy.
Dưới đây
là hai mươi ba tỷ dụ được Liên Tŕ đại
sư trích dẫn, hôm nay, chúng tôi đặc biệt rút ra chương
kinh này [để giảng giải], tỷ dụ thứ nhất
là:
Kiên
cố bất động như Tu Di sơn.
堅 固 不 動 如
須 彌 山。
(Kiên cố, chẳng lay động
như núi Tu Di).
Ư nghĩa này vô cùng
sâu rộng! Chúng ta không cần hiểu mức độ sâu
rộng dường ấy, [v́ có cố gắng hiểu] cũng
chẳng thể thấu hiểu nổi, chúng ta chỉ dựa
vào đoạn kinh văn này để nghĩ xem chính ḿnh phải
ứng dụng trong sự tu học hiện tiền như
thế nào ḥng đạt được lợi ích cho bản
thân. “Kiên cố bất động”
là nói tới tín tâm, chúng ta đối với
bộ kinh điển này, đối với pháp môn này,
đối với y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, đối với
sự phát tâm văng sanh cầu sanh Tịnh Độ của
chính ḿnh, có tín tâm kiên cố bất động. Tín tâm ấy
quyết định chẳng bị dao động “như núi Tu Di”.
Trí huệ
minh liễu như nhật nguyệt lăng.
智 慧 明 了 如
日 月 朗。
(Trí huệ sáng tỏ như mặt
trời, mặt trăng rạng ngời).
Để
thấy rơ ràng, minh bạch chuyện này, chúng ta nh́n từ chỗ
nào? Nh́n từ Sự, quá khứ, hiện tiền có bao nhiêu
người văng sanh, đó là Sự. Trong những người
văng sanh ấy, nếu quan sát cặn kẽ, [sẽ thấy]
hàng tại gia rất đông. Lại c̣n có nhiều người
chẳng biết chữ, chẳng hiểu giáo lư, họ nhất
tâm niệm Phật đều có thể văng sanh. Người
chuyên tâm niệm Phật, có nhiều vị c̣n đứng
hay ngồi văng sanh, biết trước lúc mất, chẳng
ngă bệnh, quư vị có thể thấy những trường
hợp ấy bèn sanh trí huệ. Đó là thật, chẳng
giả. Đối với kẻ chỉ biết nói suông, quư
vị hăy xem họ trong tương lai khi chết sẽ chết
như thế nào? Nếu [quư vị thấy họ] khi chết,
vẫn nằm trên giường bệnh mà chết, quư vị
sẽ nói: “Những lời lẽ ấy của họ nói chưa
chắc đă đáng tin”. Như thầy Tu Vô đă nói, khi pháp
sư Đàm Hư mở giới đàn tại chùa Cực
Lạc ở Trường Xuân (Harbin), thầy Tu Vô đến
giúp chăm sóc người bệnh. Được một
vài ngày, Sư liền xin nghỉ v́ Sư phải về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, người ta
biết trước lúc mất, lại chẳng ngă bệnh.
Cuối cùng, người ta hỏi Sư: “Thầy Tu Vô! Thầy
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng
nên làm mấy bài kệ, lưu lại mấy bài thơ để
làm kỷ niệm cho chúng tôi”. Sư nói: “Tôi xuất thân quê mùa,
chưa từng học hành, không biết chữ, cũng chẳng
hiểu kinh giáo chi cả”. Cuối cùng, Sư nói: “Tôi có lời thật thà thưa
cùng quư vị, có thể dùng làm kỷ niệm: Nói được,
chẳng làm được, chẳng phải trí huệ thật!”.
Nói xong, Sư bèn tịch. “Nói được,
chẳng làm được” là những pháp sư giảng
kinh, chẳng phải là trí huệ chân thật. Trong Cận Đại
Văng Sanh Truyện và Niệm Phật Luận có chép chuyện
này. Chuyện này do đích thân lăo pháp sư Đàm Hư chứng
kiến.
V́ lẽ
đó, đọc Văng Sanh Truyện có thể khai trí huệ
nhanh hơn đọc các bộ đại kinh, đại
luận rất nhiều. Đại kinh, đại luận
khai trí huệ rất chậm, đă thế, người
đọc c̣n nửa tin, nửa ngờ, đôi khi c̣n biến
thành Sở Tri Chướng, há nhanh chóng, lẹ làng như đọc
Văng Sanh Truyện? Thấy gương của những vị
ấy, họ là thầy của chúng ta, nêu khuôn mẫu cho chúng
ta noi theo. Đó là trí huệ thật sự hiểu rơ. Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, Văng Sanh Truyện, và bộ
Thiện Nữ Nhân Truyện trong Đại Tạng Kinh là
những tác phẩm hay, đáng nên đề xướng.
Thậm chí trong một thời gian ngắn ngủi, người
ta thỉnh chúng ta giảng khai thị, bèn giảng ba bốn
mẫu chuyện cũng rất hợp, xác thực là có thể
giúp đỡ người khác. Bởi lẽ đó, sách Niệm
Phật Luận của Đàm Hư nói thật ra là tam chuyển
pháp luân, phần đầu là thị thuyết (giảng giải
chỉ dạy), phần giữa là khuyến thuyết (khuyên
bảo), cuối cùng nêu ra chuyện của ba người để
chứng minh, đó là chứng thuyết. Ngài kể chuyện
thầy Tu Vô là người xuất gia, ông Trịnh Tích Tân là
một nam cư sĩ tại gia, c̣n có bà Trương là nữ
cư sĩ, nêu gương ba người để chứng
minh. Ba người ấy Sư đều đích thân chính
mắt trông thấy. Ông Trịnh Tích Tân và bà Trương đều
là đệ tử quy y của Ngài.
Quảng đại
như hải, xuất công đức bảo.
廣 大 如 海 出
功 德 寶。
(Rộng lớn như biển,
xuất sanh của báu công đức).
“Quảng đại” là tâm
lượng rộng lớn. Tâm lượng rộng lớn,
vô lượng công đức sẵn có trong bản tánh bèn hiện
tiền. Tâm lượng nhỏ nhoi, tối đa là tu được
một chút phước đức, chẳng có công đức.
Lương Vũ Đế là một vị đại hộ
pháp trong Phật môn Trung Hoa, dựng hơn bốn trăm tám
mươi ngôi chùa, thành tựu người xuất gia mấy
chục vạn người. Đạt Ma tổ sư đến
Trung Hoa, vua hướng về Đạt Ma tổ sư thỉnh
giáo: “Công đức của trẫm có lớn hay không?” Trên
thực tế, Đạt Ma tổ sư cũng chẳng
nhạy bén cho lắm. Nếu Đạt Ma tổ sư phương
tiện vọng ngữ, vua có sức mạnh hộ pháp rất
lớn, nhất định sẽ hộ tŕ. Do Đạt
Ma tổ sư nói thẳng thừng, ư kiến không hợp
nhau, vua chẳng hộ pháp cho Tổ. Đạt Ma tổ
sư nói: “Trọn chẳng có
công đức ǵ!” V́ sao nói nhà vua chẳng có công đức?
Tâm lượng nhỏ hẹp, chỗ nào cũng chấp tướng!
V́ thế, hoàng đế không ngó ngàng tới Tổ, mà cũng
chẳng giúp đỡ Ngài. Tổ đành phải tới chùa
Thiếu Lâm nh́n vào vách, đợi một người là Huệ
Khả suốt chín năm. V́ vậy, tâm lượng phải
rộng lớn, chớ nên chấp trước, chớ nên
so đo, sẽ thành tựu công đức chân thật.
Xí thịnh
như hỏa thiêu phiền năo tân.
熾 盛 如 火 燒
煩 惱 薪。
(Hừng hực như lửa
đốt củi phiền năo).
“Xí thịnh” (熾盛) là trí huệ tinh
tấn, cũng có thể nói là Định Huệ tinh tấn,
giống như lửa cháy rất dữ dội. Lửa Định
và Huệ mới có thể đoạn phiền năo. Có Định
th́ mới có thể phá Kiến Tư phiền năo, có Huệ
th́ mới có thể phá Trần Sa và Vô Minh. Một là phá Sở
Tri Chướng, hai là phá Phiền Năo Chướng, phải
hừng hực tinh tấn th́ mới được! Quư vị
nh́n vào Lục Độ, Nhẫn Nhục cộng thêm Tinh Tấn
sẽ là xí thịnh th́ mới có thể đắc Thiền
Định, mới có thể đắc Bát Nhă, phá Phiền
Năo Chướng, phá Sở Tri Chướng.
Nhẫn
nhục như địa, nhất thiết b́nh đẳng.
忍 辱 如 地 一
切 平 等。
(Nhẫn nhục như đất,
hết thảy b́nh đẳng).
Tâm
giống như đại địa, thứ ǵ cũng đều
có thể nhẫn. Nói thật ra, học Phật th́ đầu
tiên phải là học nhẫn nhục. V́ thế, trong tứ
đại Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát được
xếp đầu tiên. Địa biểu thị đại
địa. Tâm chúng ta phải giống như đại
địa, có thể nhẫn, có thể hứng chịu, tốt
cũng hứng chịu, xấu cũng hứng chịu, lại
c̣n hứng chịu b́nh đẳng, học những điều
này. Học những điều ấy th́ sau đó mới có
thể đắc Định, mới có thể đắc
tâm thanh tịnh. Chẳng thể nhẫn nhục th́ người
ấy tu học Phật pháp, tối đa là trong tương
lai làm một nhà Phật học mà thôi, có thể nói đến
nỗi hoa trời rơi tán loạn, nhưng trong tương
lai đáng nên luân hồi như thế nào th́ vẫn luân hồi
đúng như thế ấy, chẳng có tác dụng ǵ cả.
Đúng như sư Tu Vô đă nói: “Nói được, chẳng làm được; chẳng
phải trí huệ thật”. Căn bản là chẳng có trí
huệ chân thật. V́ vậy, phải tu nhẫn nhục,
biết nhẫn nhục hết sức trọng yếu.
Trong kinh Kim Cang, đức Phật giảng về Lục Độ
đă nêu ra hai trọng điểm: Một là Bố Thí, hai
là Nhẫn Nhục. Bố Thí nhằm bảo quư vị hăy buông
xuống, tu tập, tích lũy công đức. Nhẫn Nhục
là thành tựu công đức, giữ vững công đức,
chẳng để mất đi.
Thanh
tịnh như thủy, tẩy chư trần cấu.
清 淨 如 水 洗
諸 塵 垢。
(Thanh tịnh như nước,
rửa các bụi nhơ).
V́ có
nhẫn nhục th́ tâm mới có thể thanh tịnh. Tâm
thanh tịnh sẽ rửa sạch phiền năo nghiệp tập
(nghiệp chướng, tập khí) từ vô thỉ kiếp
tới nay. Đó là sám hối thật sự. V́ thế, chúng
ta vọng tưởng ít đi, phân biệt giảm bớt,
tức là sám hối có hiệu quả, thật sự đạt
được lợi ích. Nếu tuy tu pháp sám hối ấy,
mà phiền năo tập khí chẳng đoạn, tức là đă
uổng công tu pháp sám hối ấy! Cũng có đồng tu
kể với tôi: Khi tu th́ [phiền năo] ít hơn, được
hai ngày rồi lại có. Tu bao nhiêu năm, phiền năo tập
khí vẫn chẳng đoạn, do nguyên nhân nào? Không đúng
pháp, kẻ ấy tu nơi Sự, chẳng tu nơi tâm địa!
Pháp môn này phải tu từ tâm địa; không chỉ là phải
tu, mà c̣n phải nghiêm túc ǵn giữ nó. Nói cách khác, chớ nên
đánh mất cái tâm thanh tịnh. Trong hết thảy mọi
lúc, hết thảy mọi chỗ, phải ǵn giữ cái tâm
thanh tịnh, ǵn giữ cái tâm b́nh đẳng. Quư vị có
thể ǵn giữ cái tâm b́nh đẳng, tức là thành tựu
Nhẫn Nhục Ba La Mật. Có thể giữ vững cái tâm
thanh tịnh, tức là thành tựu Thiền Định Ba
La Mật. Có công phu như vậy, chúng ta niệm Phật mới
có thể niệm đến nhất tâm bất loạn, mới
có thể niệm đến công phu thành phiến. Dẫu chẳng
thể chứng đắc nhất tâm bất loạn, nhưng
công phu thành phiến quyết định có thể chứng
đắc. Đạt đến công phu thành phiến th́
cũng là Niệm Phật tam-muội. Hạ phẩm Niệm
Phật tam-muội chắc chắn nắm chắc văng sanh.
Chính ḿnh có nắm chắc th́ chính ḿnh sẽ có tín tâm!
Như
hư không vô biên, bất chướng nhất thiết cố.
如 虛 空 無 邊
不 障 一 切 故。
(Như hư không vô biên v́ chẳng
ngăn trở hết thảy).
Câu
này diễn tả tâm lượng rộng lớn, có thể
bao dung hết thảy. “Tâm bao
thái hư, lượng châu sa giới”, phải mở rộng
tâm lượng. V́ sao? Đây là chân tâm, tâm lượng vốn
là như thế! Hiện thời, tâm lượng của chúng
ta rất nhỏ, chẳng thể bao dung, chịu đựng.
V́ sao xă hội động loạn ngần ấy? V́ đôi
bên chẳng thể bao dung nhau. Do chẳng bao dung, nên mới
có tranh chấp, mới có đấu tranh. Tâm lượng của
mỗi cá nhân đều rất lớn, đều có thể
bao dung, xă hội liền tốt đẹp, an tường,
ḥa hợp, hài ḥa, chẳng thể có tranh chấp. V́ lẽ đó,
tâm lượng phải rộng lớn. “Bất chướng nhất thiết” (chẳng
ngăn trở hết thảy), biết hết thảy các
pháp tất nhiên có đạo lư và phương pháp dung ḥa. Chẳng
thể dung ḥa th́ chỉ là xung đột nhất thời.
Sự xung đột ấy nhất định phải có nguyên
nhân. T́m ra nguyên nhân, tiêu trừ nguyên nhân ấy th́ sẽ dung
ḥa. Sở dĩ Phật pháp vĩ đại là do vĩ đại
ở chỗ này: Chẳng có pháp nào không viên dung, Lư Sự viên
dung, Sự Sự viên dung, hết thảy vô ngại!
Như liên hoa xuất
thủy, ly nhất thiết nhiễm cố.
如 蓮 華 出 水
離 一 切 染 故。
(Như hoa sen ngoi khỏi mặt
nước, ĺa hết thảy nhiễm).
Đây
là tỷ dụ. V́ vậy, chúng ta phải hiểu lẽ thiện
xảo trong sự thuyết pháp của đức Phật,
chớ nên chấp tướng. Chớ nên nghĩ là mỗi
vị Phật, Bồ Tát đều ngồi hoặc đứng
trên hoa sen, trong tương lai quư vị thành Phật hoặc
thành Bồ Tát có phải là cũng cần tạo ra hoa sen
hay không? [Nghĩ như vậy] là sai mất rồi! V́ sao? Chấp
tướng! Hoa sen biểu thị chẳng nhiễm trước,
mang ư nghĩa này. Chẳng phải là mỗi người đều
phải tạo một cái hoa sen để ngồi lên đó.
[Nghĩ như vậy th́] sai lầm mất rồi. Đó là
biểu thị pháp, hy vọng các vị đồng tu nhất
định phải ghi nhớ điểm này!
Hoa
sen mọc từ bùn lầy, nhưng chẳng nhuốm bẩn.
Bùn lầy biểu thị lục đạo, biểu thị
lục phàm. Phía trên bùn là nước trong; chẳng có nước,
hoa sen sẽ chết khô! Nó có nước trong, nước sạch
hơn bùn, tượng trưng tứ thánh, tức là Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Hoa nở phía trên mặt
nước biểu thị lục phàm lẫn tứ thánh đều
chẳng nhiễm. Hoa sen vượt khỏi mặt nước,
không chỉ chẳng bị thế gian pháp nhuốm bẩn,
mà pháp xuất thế gian cũng chẳng nhuốm bẩn,
cũng chẳng nhiễm Phật pháp! Như vậy th́ mới
thành công! Nếu quư vị chẳng hiểu ư nghĩa này, vẫn
nhất định chấp trước có tướng ấy,
có hoa sen, tức là hoàn toàn bị nhiễm trước. Dẫu
quư vị chẳng bị pháp thế gian nhiễm trước,
nhất định bị Phật pháp nhiễm trước.
Chư Phật thấy nông nỗi này, lẽ nào chẳng ứa
lệ? Quư vị đă hoàn toàn hiểu sai ư nghĩa của
các Ngài. Bởi lẽ, hoa sen biểu thị sự bất
nhiễm. Chúng ta thấy chư Phật, Bồ Tát đứng
hoặc ngồi trên hoa sen, phải hiểu ư nghĩa của
các Ngài, phải học theo các Ngài: Pháp thế gian và xuất
thế gian pháp đều chẳng nhiễm trước, đều
chẳng chấp trước. Cái tâm như vậy th́ mới
khôi phục sự thanh tịnh thật sự.
Có
chẳng ít kẻ học Phật chẳng nhiễm pháp thế
gian, nhưng bị Phật pháp nhiễm, vẫn tưởng
đó là chân thật, tưởng đó là Phật pháp. V́ thế,
họ chẳng thể đoạn phiền năo, chẳng thể
phá vô minh. Nguyên nhân ở chỗ nào? Họ bị Phật pháp
nhiễm ô! V́ thế, kẻ khéo dùng Phật pháp, sẽ đạt
được giải thoát nơi Phật pháp. Kẻ chẳng
biết dùng Phật pháp, sẽ bị Phật pháp ràng buộc.
V́ lẽ đó, người biết dùng Phật pháp, sẽ
đạt được công đức và lợi ích thù thắng
khôn sánh trong Phật pháp. Kẻ chẳng biết sử dụng,
sẽ bị Phật pháp hại chết, hại thê thảm!
Phật pháp có thể hại người! Chính là v́ quư vị
chẳng thật sự hiểu rơ Phật pháp, chẳng thật
sự biết sử dụng. Điều này có mối quan
hệ hết sức to lớn; do vậy, nhất định
phải hiểu v́ sao đức Phật phải trụ
trong thế gian? Cớ sao đức Phật phải v́ chúng
ta thuyết pháp? Đức Phật thuyết pháp có dụng
ư thật sự là ǵ? Đức Phật dùng phương
pháp nào để giúp đỡ chúng ta? Có thể giúp chúng ta
đến mức độ nào?
Tôi
muốn giới thiệu chương kinh văn này cùng chư
vị v́ nó hữu ích rất lớn đối với sự
tu hành của chúng ta. Nay đă hết thời gian rồi!
Tập
200
Chư vị đồng tu,
chúng ta mở xem trang giấy in lại [chương kinh có tựa
đề] là Bồ Tát Công Đức Phần Đệ Tam
Thập Tứ trong bản hội tập kinh Đại Bổn
của ông Long Thư. Liên Tŕ đại sư trích dẫn
hai mươi ba tỷ dụ trong chương kinh này; lần
trước, chúng tôi đă giảng tám tỷ dụ, hôm nay
bắt đầu từ tỷ dụ thứ chín:
Như lôi âm chấn hưởng xuất
pháp âm cố.
如 雷 音 震 響
出 法 音 故。
(Thốt ra pháp âm như tiếng
sấm vang rền).
Tiếng
sấm nghe vang xa, tỷ dụ âm thanh thuyết pháp của đức
Phật như sấm dội vào tai, mang ư nghĩa này. Sấm
có thể khiến cho vạn vật kinh động, cũng
nhằm tỷ dụ âm thanh thuyết pháp của đức
Phật có thể chấn động những kẻ đang
hôn mê, thường nói là “phá mê,
khai ngộ”, có thể kinh động, đánh thức hết
thảy chúng sanh trong đêm dài vô minh. Tỷ dụ thứ mười
là...
Như vân ái
đăi, giáng pháp vũ cố.
如 雲 靉 靆 降
法 雨 故。
(Như mây đen dầy, tuôn xuống
mưa pháp).
Tỷ
dụ đức Phật thuyết pháp như tuôn mưa móc,
nhuần thấm hết thảy chúng sanh. Đổ mưa
th́ chúng ta biết nhất định là có mây rất dầy,
chứa rất nhiều hơi nước th́ mới có thể
tuôn mưa lai láng. Đức Phật dùng chuyện này để
tỷ dụ việc thuyết pháp.
Như
phong động thụ, trưởng Bồ Đề nha cố.
如 風 動 樹 長 菩 提 芽
故。
(Như gió lay cây, tăng trưởng
mầm Bồ Đề).
Đối
với gió, chúng ta thường nói tới gió Xuân. Đến
mùa Xuân, tất cả thực vật đều nẩy mầm,
có ư nghĩa này. “Như phong
động thụ”, “phong”
là nói tới Xuân phong hoặc gió nhẹ thổi hây hẩy.
Khi ấy, vạn vật bắt đầu sanh trưởng,
tỷ dụ đức Phật thuyết pháp giống
như gió nhẹ thổi hây hẩy, đó gọi là “như mộc xuân phong” (如沐春風: như được
tưới gội bởi gió Xuân). Trước kia, để
ca ngợi thầy, [bèn nói] học tṛ dưới ṭa của
thầy “như mộc xuân
phong”, tăng trưởng trí huệ, có ư nghĩa này.
Như
ngưu vương thanh dị chúng ngưu cố.
如 牛 王 聲 異
眾 牛 故。
(Như tiếng trâu chúa, chẳng
giống tiếng của các con trâu khác).
Hiện
thời, tạp âm quá nghiêm trọng, ảnh hưởng
đến t́nh cảm trong cuộc sống của con người.
Trước kia, hoàn cảnh rất yên tĩnh, v́ sao? Những
thứ máy móc chưa được phát minh. Tạp âm lớn
nhất là tiếng trâu kêu, v́ trong gia đ́nh luôn nuôi các loài
gia súc. Trong các loài gia súc, tiếng trâu kêu to nhất. Xưa
kia, người xuất gia tu hành trụ tại A Lan Nhă (Araṇya). A Lan Nhă là tiếng Ấn Độ,
dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịch Tĩnh Chi Xứ
Sở (nơi chốn vắng lặng). A là Vô, Lan Nhă là âm
thanh. Nơi ấy rất an tĩnh, chẳng nghe âm thanh ồn
ào. Lấy ǵ làm tiêu chuẩn? Chẳng nghe thấy tiếng
trâu kêu bên ngoài, nơi ấy rất an tĩnh. Hiện thời,
tiếng xe cộ c̣n nghiêm trọng hơn tiếng trâu kêu rất
nhiều, hiện nay t́m một hoàn cảnh an tĩnh chẳng
dễ dàng. Đây là tỷ dụ âm thanh lớn nhất, “dị chúng ngưu cố” (chẳng
giống các con trâu khác), vua của loài trâu mà!
Như
long tượng oai nan khả trắc cố.
如 龍 象 威 難
可 測 故。
(Như long tượng oai thế
khó thể suy lường).
“Long tượng” có oai đức.
Chúng ta chưa thấy rồng, nhưng đă thấy voi. Quư
vị thấy voi dáng dấp rất an tường, giống
như nó luôn ở trong Định, tỏ lộ oai đức
của nó. Trong kinh, đức Phật thường dùng
điều này để tỷ dụ Thiền Định,
như câu nói: “Na Già thường
nhập Định, không lúc nào chẳng định”. Thiền
Định thật sự là đi, đứng, nằm, ngồi
đều ở trong Định. Na Già là tiếng Phạn,
dịch sang nghĩa tiếng Hán là “long tượng”. Chúng ta nhất định phải
giống như voi, không lúc nào, không chỗ nào, đi, đứng,
nằm, ngồi mà chẳng an tường, chẳng an định,
có ư nghĩa này. “
Như
lương mă hành thừa vô thất cố.
如 良 馬 行 乘
無 失 故。
(Như ngựa giỏi kéo xe chẳng
sai sót).
Thời
cổ, phương tiện giao thông tốt nhất là xe ngựa.
Ngựa giỏi kéo xe có thể khiến cho quư vị đến
mục tiêu b́nh yên, an ổn. V́ thế, coi chuyện đức
Phật thuyết pháp hướng dẫn hết thảy
chúng sanh hướng đến đại đạo Vô Thượng
Bồ Đề giống như ngựa giỏi. So với
các pháp môn khác, pháp môn Tịnh Tông thù thắng nhất. Nương
theo môn này tu học th́ mới có thể viên măn Bồ Đề
trong một đời.
Như
sư tử ṭa ly bố úy cố.
如 師 子 座 離
怖 畏 故。
(Như ṭa sư tử, ĺa sợ
hăi).
Đây
cũng là tỷ dụ đức Phật thuyết pháp.
Kinh thường tỷ dụ đức
Phật như sư tử rống. Sư tử rống
là tỷ dụ pháp âm, “sư tử
ṭa” là tỷ dụ oai đức của Phật. Sư
tử là vua của trăm loài thú, hết thảy các dă thú
đều sợ sư tử, nhưng sư tử chẳng
sợ hăi ǵ cả! Sư tử chẳng sợ điều
ǵ, nên nói là “ly bố úy” (ĺa
sự sợ hăi). Thân cận chư Phật, Bồ Tát tu học
Phật pháp có thể ĺa hết thảy sợ hăi. Nỗi sợ
hăi lớn nhất là sanh tử. Có thể liễu sanh tử,
thoát tam giới, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, nói
thật ra, Phật pháp là đường lối duy nhất.
Pháp môn trong Phật
pháp tuy nhiều, mỗi pháp môn đều có thể đạt
đến mục tiêu này; v́ thế nói: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”. Pháp
môn tuy nhiều, căn tánh của chúng sanh khác nhau, có những
pháp môn chúng ta có thể tu, có các pháp môn chúng ta tu học sẽ
cảm thấy khó khăn. Người khéo học phải
thuận theo căn tánh của chính ḿnh, đối với hết
thảy các pháp môn có sự lấy hoặc bỏ thích đáng.
Lấy hoặc bỏ thích đáng th́ có thể nói là tu học
rất nhiều thuận tiện, trong một thời gian
ngắn có thể thu được hiệu quả thù thắng.
Nếu lấy bỏ chẳng thích đáng, tất nhiên là tốn
công mà đạt được hiệu quả ít ỏi. Làm
nhiều mà hiệu quả ít ỏi th́ hăy c̣n may, sợ là đi
lạc lối, hậu quả chẳng thể nào tưởng
tượng được!
Đặc
biệt là trong thời đại này, giống như kinh Lăng
Nghiêm đă nói: “Tà sư thuyết
pháp nhiều như cát sông Hằng”. Phân biệt và lấy
bỏ như thế nào, thật sự chẳng phải là
chuyện dễ! Trong khi chúng ta chẳng có trí huệ phân biệt,
chẳng có năng lực lấy bỏ, th́ niệm A Di
Đà Phật là ổn thỏa, thích đáng nhất. Pháp môn
này được gọi là “thích
hợp khắp ba căn, thâu tóm trọn vẹn phàm lẫn
thánh”, chỉ có lợi lạc, chẳng có tác dụng phản
diện. Như Thiền và Mật rất dễ bị ma dựa,
Giáo Hạ dễ tăng trưởng Sở Tri Chướng,
chỉ riêng pháp môn Niệm Phật ổn định, thỏa
đáng. Thật thà niệm một câu Phật hiệu, niệm
tới khi công phu đắc lực, tự nhiên đoạn
phiền năo, phá vô minh. Trong hết thảy các pháp môn, nói đến
tánh chất ổn thỏa, thích đáng th́ chẳng có pháp môn
nào trỗi vượt pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn này
xác thực có thể khiến cho chúng ta ĺa hết thảy sợ
hăi.
Như
Ni Câu Đà thụ phú ấm đại chúng cố.
如 尼 拘 陀 樹 覆 蔭 大
眾 故。
(Như cây Ni Câu Đà che rợp
đại chúng).
Cây
Ni Câu Đà (Nyagrodha) là một loài thực vật của Ấn Độ,
dịch nghĩa là Vô Tiết Thụ (cây không có lóng đốt).
Lá cây ấy rất to rộng, bóng râm rất lớn, rất
mát mẻ. Vào mùa Hè, tất cả mọi người đều
thích đến hóng mát dưới cây này.
Như
Ưu Đàm Bát hoa nan trị ngộ cố.
如 優 曇 缽 花 難 值 遇 故。
(Như hoa Ưu Đàm Bát khó gặp
gỡ).
Tại
Đài Loan, chúng ta gọi hoa Ưu Đàm
Bát (Uḍumbara)
là
Đàm Hoa.
Hoa này chỉ vùng á nhiệt đới[2] mới
có. Thời gian nở hoa lại rất ngắn, thường
nói là “hoa Đàm thoáng hiện”.
Từ khi hoa nở đến lúc hoa tàn chỉ hơn một
tiếng đồng hồ, nên hết sức khó thấy. Tại
Đại Lục chẳng có loài hoa này. Trong quá khứ, chúng
tôi chỉ nghe nói “hoa Đàm
thoáng hiện”, đến Đài Loan mới thấy. Lại
c̣n phải ngắm vào nửa đêm. Hoa nở vào lúc nửa
đêm, sáng ra hoa đă tàn rụng. Dùng chuyện này để
tỷ dụ Phật pháp “nan trị
ngộ cố” (khó thể gặp gỡ), giống như
hoa Đàm không dễ ǵ gặp được. Đấy
chính là như câu nói: “Thân người
khó được, Phật pháp khó nghe”. Chúng ta phải
quư tiếc nhân duyên vô cùng thù thắng này!
Như
kim cang xử phá tà sơn cố.
如 金 剛 杵 破
邪 山 故。
(Như chày kim cang[3] đập nát núi tà).
Trong
các thứ binh khí thời cổ, chày kim cang sắc bén nhất.
Các binh khí khác đụng phải nó, nó sẽ cắt đứt
rời những món binh khí khác, mà chính nó chẳng bị đứt
găy. Đó là nói tới loại vũ khí kiên cố và sắc
bén nhất. “Phá tà sơn”, tà
sơn là núi cao tà kiến. Kinh Phật thường dùng Kim Cang
để tỷ dụ trí huệ. Trong kinh Bát Nhă, có kinh Kim
Cang Bát Nhă Ba La Mật (Vájracchedikā-prajñā-pāramitā-sūtra), dùng chày Kim Cang
làm tỷ dụ, nhằm sánh ví trí huệ dũng mănh có thể
trừ dẹp tà tri tà kiến. Núi cao tà kiến chỉ có ḿnh
Phật pháp là có thể dẹp trừ.
Như
Phạm Vương thân sanh Phạm chúng cố.
如 梵 王 身 生
梵 眾 故。
(Như thân Phạm Vương
sanh ra các thiên chúng trong cơi Phạm Thiên).
“Phạm” (梵) có nghĩa là
thanh tịnh. Ở đây, dùng Đại Phạm Thiên Vương
làm tỷ dụ. Thế giới của Đại Phạm
Thiên là một thế giới hết sức thanh tịnh. “Năng sanh Phạm chúng” (có thể
sanh ra Phạm chúng) là tỷ dụ Phật pháp có thể tịnh
hóa ḷng người, có thể tịnh hóa cơi nước. Tây
Phương Cực Lạc thế giới cũng là một
thế giới thanh tịnh.
Như
kim xí điểu thắng độc long cố.
如 金 翅 鳥 勝
毒 龍 故。
(Như chim cánh vàng chiến thắng
rồng độc).
“Độc long” tỷ dụ ba
độc tham, sân, si. Khắc tinh của rồng là Kim Xí Điểu
(Garuḍa). Kim Xí Điểu
ăn rồng, nên rồng sợ Kim Xí Điểu nhất.
Chúng ta chưa thấy Kim Xí Điểu, nhưng thấy
trong kinh Phật có nói: Loài chim này rất to, cánh giang ra rộng
đến mấy ngàn dặm, mấy vạn dặm. Trong
kinh, đức Phật nói như vậy, chúng ta cũng chẳng
cần phải khảo chứng, mà cũng chớ nên hoài
nghi, nhưng giảng kinh phải có phương tiện thiện
xảo. Đối với người hiện thời, khi
nói đến Kim Xí Điểu, chớ nên dùng cách h́nh dung tỉ
mỉ dường ấy như trong chú giải của cổ
nhân kẻo khiến cho đại chúng nghe rồi dấy lên
cảm giác khó chịu. Nói chung, hiện thời chẳng có
rồng, mà cũng chẳng có Kim Xí Điểu, chỉ có sách
cổ ghi chép. Ư nghĩa thật sự là đức Phật
dùng Kim Xí Điểu để tỷ dụ Định Huệ
có thể đoạn phiền năo.
Như
không trung cầm vô trụ tích cố.
如 空 中 禽 無
住 跡 故。
(Như chim chẳng lưu lại
dấu vết trong hư không).
Câu
này nói về tâm hạnh của Phật, Bồ Tát, cũng là
nói tới Thiền Định rất sâu: “Ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động
tâm”. Kinh Kim Cang dạy: “Hăy
nên chẳng trụ vào đâu để sanh tâm”. Câu này chính
là “Ưng vô sở trụ”
(chẳng nên trụ vào đâu),
tâm quư vị mới có thể thanh tịnh. Vô trụ vô
niệm là cảnh giới của Bát Địa Bồ Tát trở
lên, thánh nhân c̣n khó thể làm được, huống hồ
bọn phàm phu chúng ta? Nhưng chúng ta phải biết: Chỗ
thù thắng trong tông này chính là chỉ phương lập tướng,
chẳng phải là “vô trụ
tích cố” (chẳng có dấu vết). Tông này là có trụ,
tâm trụ nơi A Di Đà Phật, tu dễ dàng! V́ thế,
câu này là cảnh giới trong kinh Kim Cang, mức độ
thấp nhất là Sơ Trụ trong Viên Giáo. Các vị Bồ
Tát phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp
Thân th́ mới là cảnh giới này. Do lẽ đó, chúng ta phải
tinh tấn hướng đến mục tiêu này. Nói cách
khác, quư vị có thể buông pháp thế gian và xuất thế
gian xuống càng nhiều càng hay, phải buông chúng xuống,
chớ nên chấp trước, đừng ghim trong ḷng, cũng
có nghĩa là phải học đến mức tâm không vương
vấn. Tâm không vương vấn, sẽ chẳng trụ
vào đâu! V́ thế, “trụ” là
trong tâm quư vị c̣n có vướng mắc th́ trong tâm c̣n có
trụ; trong tâm chẳng có vướng mắc, tâm sẽ chẳng
trụ vào đâu. Chẳng trụ vào đâu để sanh tâm,
sanh cái tâm ǵ vậy? Sanh cái tâm phổ độ chúng sanh, đó
là đúng.
Như
Tuyết Sơn chiếu công đức tịnh cố.
如 雪 山 照 功
德 淨 故。
(Như núi Tuyết chiếu công
đức thanh tịnh).
Trong
kinh, đức Phật thường dùng Tuyết Sơn làm
tỷ dụ, v́ thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất
hiện tại Nê Bạc Nhĩ (Nepal) hiện thời, rất
gần núi Tuyết. Tuyết Sơn nay là núi Hỷ Mă Lạp
Nhă, quanh năm tuyết đọng chẳng tan chảy, tuyết
có màu trắng, thấy rất thanh tịnh, chẳng nhiễm
mảy trần. Đức Phật thường dùng Tuyết
Sơn để tỷ dụ thân tâm thanh tịnh. Thân tâm
thanh tịnh th́ gọi là công đức, chư vị phải
ghi nhớ điều này. Công đức và phước
đức khác nhau. Trong công đức, nhất định
có phước đức, v́ sao có phước đức? V́
công đức là kiến tánh, vốn trọn đủ
trong chân tánh. Phước đức cũng là vốn trọn
đủ. Do đó, trong công đức có phước đức;
trong phước đức chẳng nhất định có
công đức. Có thể nói là trong phước đức
chẳng có công đức! Một người tu phước
báo rất lớn, tâm chẳng thanh tịnh, c̣n có mê hoặc,
điên đảo. Do đó, đức Phật dạy chúng
ta phải tu công tích đức, chớ nên chấp tướng
tu phước. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại
sư đă nói rất hay: “Chấp
tướng tu phước, đến khi lâm chung, phước
chẳng cứu được”. Phước chẳng
có cách nào cứu quư vị vượt thoát luân hồi. Công
đức có thể giúp quư vị vượt thoát luân hồi,
phước đức chẳng được. V́ thế,
phải biết tu tập, tích lũy công đức đáng
quư! Cách tu như thế nào? Tựa đề Đại Kinh
nói “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm giác ngộ, những
điều ấy đều là công đức.
Như
Từ Thị quán pháp giới đẳng cố.
如 慈 氏 觀 法
界 等 故。
(Như ngài Từ Thị quán
pháp giới b́nh đẳng).
“Từ Thị” là Di Lặc Bồ
Tát. Di Lặc Bồ Tát từ bi b́nh đẳng. “Di Lặc” (Maitreya)[4] là
tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Từ Bi, dịch
ư bèn gọi là Từ Thị, tiếng Phạn là Di Lặc. Người
Hoa tạo tượng Di Lặc Bồ Tát toàn là tạo tượng
Bố Đại ḥa thượng. Bố Đại ḥa
thượng xuất hiện tại Trung Quốc vào triều
đại Nam Tống, nên tượng Di Lặc Bồ Tát tại
Trung Hoa chẳng giống tượng ở Ấn Độ
và Tây Tạng. Tượng Di Lặc Bồ Tát của Tây Tạng
hơi giống như tượng Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí, chẳng mập mạp, mà dong dỏng. Người
Hoa tạo tượng [Di Lặc Bồ Tát là tượng] Bố
Đại ḥa thượng. Khi Bố Đại ḥa thượng
viên tịch, tự ḿnh nói ra thân phận, Ngài bảo với
mọi người Ngài là Di Lặc Bồ Tát tái lai. Nói xong liền
viên tịch, đó là thật. Hiện thời, có rất nhiều
kẻ nói họ là Phật, Bồ Tát chi đó tái lai, nói xong
vẫn chẳng tịch. Nếu nói ra bèn tịch, chúng ta sẽ
tin tưởng là thật. Nói rồi vẫn sống nhăn,
chẳng đáng tin cậy! Các đại đức vào thời
cổ tại Trung Hoa, đích xác là có không ít vị là Phật,
Bồ Tát tái lai, hễ thân phân bộc lộ, chỉ cần
có người khác biết đến, các Ngài chắc chắn
chẳng trụ thế mà liền đi ngay. Đó là quy củ
trong Phật môn. Nói xong, chẳng ra đi, chẳng thể được!
Chúng ta tạc tượng Ngài với ư nghĩa từ bi, b́nh
đẳng. Đó gọi là “sanh
b́nh đẳng tâm, thành hỷ duyệt tướng” (sanh
tâm b́nh đẳng, tạo thành tướng vui vẻ). Di Lặc
Bồ Tát biểu thị pháp môn này. “Pháp giới đẳng cố”, “đẳng” (等) là b́nh đẳng,
Di Lặc Bồ Tát thật sự đại từ đại
bi. Ngài thấy mười pháp giới đều là b́nh
đẳng.
Đến
chỗ này, đă nói xong hai mươi ba tỷ dụ. Hai mươi
ba tỷ dụ đều nhằm tán thán công đức thù
thắng của tất cả hết thảy các vị Bồ
Tát trong thế giới Tây Phương, có thể nói là viên
măn trọn đủ. Chúng ta cũng đọc luôn đoạn
kinh văn kế tiếp.
Chuyên
nhạo cầu pháp tâm vô yếm túc, thường dục quảng
thuyết chí vô b́ quyện.
專 樂 求 法 心
無 厭 足,常 欲 廣 說 志 無 疲 倦。
(Chuyên thích cầu pháp, tâm chẳng
chán nhàm, thường muốn rộng nói, chí chẳng mệt
mỏi).
Câu
trước là hạnh tự lợi của Bồ Tát, câu
sau là hạnh lợi tha, tự lợi lợi tha. Nhưng
chư vị nhất định phải biết, nếu
muốn lợi tha, nhất định phải tự lợi
trước. Chính ḿnh chẳng đạt được lợi
ích chân thật, làm thế nào để có thể giúp đỡ
người khác? Chính ḿnh tâm chẳng thanh tịnh, làm sao có
thể giúp người khác đạt tới thanh tịnh
cho được? Chính ḿnh chẳng thể liễu sanh tử,
thoát tam giới, cũng chẳng có cách nào giúp người khác
liễu sanh tử, thoát tam giới. Đó là đạo lư nhất
định. V́ thế, phát Bồ Đề tâm, nhất
định phải là tu chính ḿnh trước. Hai câu này rất
quan trọng!
“Chuyên nhạo cầu pháp”, nhạo
(樂) là ưa thích, tâm chẳng chán nhàm. Phải cầu pháp
từ chỗ nào?
“Thường dục quảng
thuyết chí vô b́ quyện” (thường muốn rộng
nói, chí chẳng mệt mỏi). Đây là nói đến chuyện
giúp đỡ hết thảy chúng sanh, chính là như nhà Phật
có nói: “Trong cửa nhà Phật,
chẳng bỏ một ai”. Một người phát khởi
đạo ư chân thật, Bồ Tát có phải đến dạy
người ấy hay không? Phải đến! Bồ Tát
thuyết pháp, giáo học, tuyệt đối chẳng chú
trọng thính chúng phải đông đúc. Đông nhiều th́
thuyết pháp rất hoan hỷ, số người nghe ít ỏi
bèn thuyết pháp ỉu x́u, sai mất rồi! Đó là tâm chẳng
thanh tịnh, tâm bất b́nh đẳng. Thuyết pháp nhằm
mục đích dạy họ khai ngộ, dạy họ thành
tựu. Một người có thể ngộ, một người
có thể văng sanh, tuyệt diệu thay! Một đại pháp
hội, mấy ngàn người nghe hoặc mấy vạn người
nghe; nghe xong chẳng có người nào khai ngộ, chẳng
có một ai văng sanh, tức là nói phí công, chẳng có ư
nghĩa ǵ cả! V́ lẽ đó, thuyết pháp phải chú
trọng thành quả, có mấy người khai ngộ? Có mấy
người y giáo tu hành thật sự văng sanh? Nh́n vào thành
quả ở chỗ này, chẳng phải là coi xem thính chúng bao
nhiêu, cũng chẳng phải là xét coi cúng dường bao
nhiêu! Những thứ đó đều vô dụng, giả trất!
V́ thế, thuyết pháp chẳng mệt mỏi, chẳng ngăn
ngại, chẳng bỏ một ai!
Kích
pháp cổ, kiến pháp tràng.
擊 法 鼓 建 法 幢。
(Đánh trống pháp, dựng
pháp tràng).
“Kích pháp cổ” là tỷ dụ
tuyên truyền. Hiện thời nói là “tuyên truyền”. Trong quá
khứ, Phật môn có thuật ngữ là “chủng thiện căn”, tiếp dẫn chúng sanh,
v́ hết thảy chúng sanh mà gieo thiện căn. “Kiến pháp tràng” là thành lập
đạo tràng, tức đạo tràng giảng kinh, thuyết
pháp. Đạo tràng có hữu h́nh, và vô h́nh. Hữu h́nh là
thành lập tự, viện, am, đường.
Diệu
huệ nhật trừ si ám.
曜 慧 日 除 痴
暗。
(Mặt trời trí huệ rạng
rỡ trừ tối tăm ngu si).
Đây
là nói về hoằng pháp, v́ người khác thuyết pháp. Phật
pháp là trí huệ, bất luận dùng phương thức nào.
Đó là nói tới phương tiện thiện xảo. Vô
lượng pháp môn, ư nghĩa chỉ có một, đều nhằm
giúp người khác phá mê khai ngộ. “Diệu huệ nhật” (Mặt trời trí huệ
rực rỡ), huệ ấy chính là tự tánh trí huệ của
mỗi người. “Trừ si
ám”, si ám là vô minh. Tạo tăng thượng duyên, giúp họ
phá trừ vô minh, khơi mở trí huệ, tông chỉ thuyết
pháp là ở chỗ này. Sau khi phá mê khai ngộ, tiếp đó
là phải tu hành, tu hành là tu ǵ? Phá trừ tập khí. Cổ
đức thường nói: “Lư
có thể đốn ngộ, Sự cần phải trừ
dần dần”. “Đốn
ngộ” là hoảng nhiên khai ngộ, hiểu rơ. Sau khi đă
hiểu rơ, chẳng trừ hết tập khí, tập khí khó
trừ, cho nên:
Tu Lục
Ḥa Kính.
修 六 和 敬。
(Tu Lục Ḥa Kính).
“Lục Ḥa Kính” là pháp căn bản
trong Phật pháp, nhất định phải tu học. Đối
với người tu Tịnh Tông chúng ta, điều thứ
nhất trong Lục Ḥa Kính là Kiến Ḥa Đồng Giải.
Kiến giải của chúng ta nhất định phải dựa
trên kinh Vô Lượng Thọ, hoặc là dựa trên Tịnh
Độ Ngũ Kinh. Mọi người đều dùng kiến
giải trong kinh, tức là lấy cách nghĩ, cách làm [được
dạy trong kinh] làm cách nghĩ, cách nh́n của chính ḿnh,
tư tưởng và kiến giải liền nhất trí, liền
giống nhau. Giới luật cũng ở trong kinh Vô Lượng
Thọ. Từ chương ba mươi ba đến chương
ba mươi bảy trong bản hội tập của Hạ
lăo cư sĩ chính là giới luật, Giới Ḥa Đồng
Tu.
Thường vi
đạo sư.
常 為 導 師。
(Thường làm đạo
sư).
“Đạo
sư”
là thân phận Phật, trên thế gian chỉ có đức Phật
được mọi người tôn xưng là Đạo Sư,
hoặc gọi là Đại Sư. Ở đây, kinh tán thán
chư Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc đến
các thế giới ở phương khác giúp đỡ chúng
sanh, đáng nên dùng thân Phật để độ bèn thị
hiện thân Phật để xuất hiện. Thường
dùng thân phận Phật để xuất hiện trong hết
thảy các thế giới.
Vi thế
đăng minh tối thắng phước điền.
為 世 燈 明 最 勝 福 田。
(Làm đèn soi sáng và ruộng
phước tối thắng cho thế gian).
“Đăng minh” giống như
tháp hải đăng giữa biển trong hàng hải vào
ban đêm, chỉ cho hết thảy chúng sanh đang mê hoặc
một con đường sáng sủa. Phật, Bồ Tát muốn
làm mắt sáng cho hết thảy chúng sanh, và cũng là ruộng
phước chân thật của hết thảy chúng sanh. Nếu
chúng sanh muốn tu phước, nói thật ra, phước
báo thù thắng nhất là nơi Tam Bảo. V́ vậy, cúng
dường Tam Bảo là vô thượng phước điền.
Chỉ tu phước, chẳng thể giải quyết vấn
đề. Do đó, gieo phước, chúng ta nói là phước
điền. So sánh giữa các phước điền, phước
điền thù thắng nhất theo như phẩm Phổ
Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm
đă dạy, chính là pháp bố thí. Pháp bố thí vượt
trỗi tài bố thí! Trong pháp bố thí, thù thắng nhất
là “y giáo tu hành bố thí”. Chúng
ta có thể thật sự y giáo tu hành, không chỉ là phước
điền trọn đủ, mà công đức cũng trọn
đủ. Do vậy, đây là phước điền tối
thắng.
Phải
biết cách tu như thế nào? Kinh Vô Lượng Thọ đă
dạy chúng ta rất rơ ràng: “Giả
linh cúng dường Hằng sa thánh” (giả sử cúng dường
các vị thánh nhân nhiều như cát sông Hằng), “thánh” là thánh nhân, chư Phật,
Bồ Tát, cúng dường bao nhiêu? Nhiều đến Hằng
hà sa số, đức Phật bảo: “Bất như kiên dũng cầu Chánh Giác” (Chẳng
bằng dũng mănh, kiên cố cầu Chánh Giác). Cầu Chánh
Giác là y giáo tu hành cúng dường. Trước đó là tài cúng
dường, cúng dường các vị thánh nhân số nhiều
như cát sông Hằng đều chẳng bằng y giáo tu
hành cúng dường. Do vậy, tu phước điền tối
thắng, chẳng cần đến tiền! Có những kẻ
nói: “Nhà tôi rất nghèo, chẳng có tiền! Tôi thấy kinh dạy
phải tu phước điền tối thắng, tôi thấy
vậy chỉ đành hâm mộ, chính ḿnh chẳng có cách nào
tu”. Trọn chẳng biết phước điền tối
thắng chẳng phải tốn tiền, ai nấy đều
có thể tu. Người có tiền có thể c̣n bị chướng
ngại, chẳng thể tu phước điền này, họ
chỉ có thể tu một chút phước vụn vặt, đến
cúng dường thánh chúng số nhiều như cát sông Hằng
đó thôi [vẫn là phước báo chẳng đáng kể]!
Bạt
chư dục thích, dĩ an quần sanh.
拔 諸 欲 刺 以
安 群 生。
(Dẹp các gai dục để an ổn quần
sanh).
Câu
này nói đến công đức tŕ giới, vô úy bố thí. “Dục” là dục vọng, là căn
bản của phiền năo, nhất định phải giác
ngộ, phải trừ dẹp nó tận gốc. Cổ thánh
tiên hiền cũng biết điều này, bảo là “vô dục tắc cương” (không
có ḷng ham muốn, chí khí sẽ cứng cỏi), “hữu dung năi đại” (có
ḷng bao dung th́ mới thành tựu việc lớn). Những điều
này đều do người Hoa đă nói trước khi Phật
pháp truyền đến Trung Hoa. Chữ Dục là căn bản
của sanh tử luân hồi. Nếu chúng ta chẳng muốn
sanh tử luân hồi trong đời sau, đích xác là phải
trừ dẹp nó. Quư vị chẳng dẹp trừ, chắc
chắn chẳng thể vượt thoát luân hồi. Dẫu
tu hành Phật pháp tốt đẹp cách mấy, đời
sau vẫn phải luân hồi, biến sự tu học của
chính ḿnh thành phước báo trong cơi trời người, nói
theo cổ nhân th́ chính là “độc
dược”. Chúng ta học Phật, Phật pháp là đề-hồ.
Trong cái bát c̣n có một tí độc dược, sau khi đề-hồ
được rót vào, cả thảy đều biến
thành độc dược. Đây chính là nói rơ, chúng ta có tham,
sân, si, mạn, có dục, hễ c̣n có [những phiền năo ấy]
tồn tại tí ti, vô lượng công đức đă tu tập,
tích lũy đều biến thành phước báo hữu lậu
nhân thiên, bị biến chất, hết sức đáng tiếc!
Do đó, thứ tự tu hành trong Tứ Hoằng Thệ
Nguyện đă xếp đặt rất rơ ràng, nhất
định là trước hết đoạn phiền năo,
sau đấy là học pháp môn. Sự tu học trong pháp môn chính
là trí huệ chân thật. Chẳng đoạn sạch phiền
năo, vô lượng vô biên pháp môn đă tu đến cuối
cùng đều biến thành phước báo trời người,
chẳng phải là trí huệ chân thật.
Công
đức thù thắng mạc bất tôn trọng.
功 德 殊 勝 莫
不 尊 重。
(Công đức thù thắng,
không ai chẳng tôn trọng).
Đây
là tán thán các vị Bồ Tát ấy, công đức thù thắng
như đă nói trong hai mươi ba tỷ dụ trên đây.
Các vị Bồ Tát ấy ở trong thế giới Cực
Lạc, trong các thế giới phương khác, trên là từ
chư Phật, dưới là đến hết thảy
chúng sanh, chẳng có ai không tôn trọng các vị Bồ Tát ấy.
Giống như trong thế gian này, chẳng có ai không tôn trọng
Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí.
Cung
kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường
vị chư Phật sở cộng tán thán.
恭 敬 供 養 無
量 諸 佛,常 為 諸 佛 所 共
讚 歎。
(Cung kính cúng dường vô
lượng chư Phật, thường được
chư Phật cùng tán thán).
Bồ
Tát hằng ngày tự tu, hằng ngày giáo hóa chúng sanh, giúp
chư Phật tiếp dẫn hết thảy chúng sanh văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tâm hạnh
của các Ngài chính là bổn nguyện của hết thảy
chư Phật; v́ vậy, có vị Phật nào chẳng tán
thán. Tiếp dẫn hết thảy chúng sanh văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới là bổn nguyện
của A Di Đà Phật, là bổn nguyện của Thích Ca
Mâu Ni Phật, mà cũng là bổn nguyện của mười
phương ba đời hết thảy chư Phật Như
Lai. Hết thảy các pháp môn khác chẳng phải là bổn
nguyện của chư Phật, v́ bổn nguyện của
chư Phật là hy vọng quư vị thành Phật trong một
đời này. Kết quả là quư vị chẳng thành Phật,
mà thành Bồ Tát, hoặc thành A La Hán, được lắm,
cũng là khá lắm, nhưng chẳng phải là bổn nguyện
của các Ngài! Bổn nguyện là dạy quư vị thành Phật,
chúng sanh trong chín pháp giới chỉ có niệm Phật văng
sanh th́ mới thành Phật trong một đời. V́ vậy,
đấy là bổn nguyện của Như Lai. Chúng ta tu học
pháp môn này, dùng pháp môn này để khuyên người khác tu học,
đều là phù hợp bổn nguyện của Như Lai, người
như vậy nhất định được hết thảy
chư Phật cùng tán thán. Ở đây, chúng ta đă được
chứng minh, được ấn chứng. Quư vị học
pháp môn khác, khuyên người khác tu học, chẳng được
chư Phật tán thán.
Cứu
cánh Bồ Tát chư Ba La Mật.
究 竟 菩 薩 諸
波 羅 蜜。
(Rốt ráo các Ba La Mật của
hàng Bồ Tát).
Câu
này nêu rơ lư do v́ sao chư Phật tán thán. V́ sao Phật tán
thán? V́ những ǵ quư vị tu, đă truyền, đă dạy
cho người khác đều là thực hiện rốt ráo
các Ba La Mật của hàng Bồ Tát. Câu này xác thực nói lên
điều ǵ? Thưa cùng chư vị, xác thực là nói về
một câu Nam-mô A Di Đà Phật, sáu chữ hồng danh. Sáu
chữ hồng danh chính là “rốt
ráo Bồ Tát chư Ba La Mật”. Ba La Mật (Pāramitā) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng
Hán là Đáo Bỉ Ngạn (đến bờ bên kia). Đấy
là dịch sát theo văn tự, ư nghĩa thật sự là “rốt ráo viên măn”. Bồ Tát hạnh
rốt ráo viên măn, rốt ráo viên măn là Vô Thượng Bồ
Đề, mà cũng là một câu sáu chữ hồng danh A Di
Đà Phật.
Tu không, vô tướng, vô nguyện
tam-muội, cập bất sanh, bất diệt chư tam-muội
môn.
修 空 無 相 無 願 三 昧,及
不 生 不 滅 諸 三 昧 門。
(Tu không, vô tướng, vô nguyện
tam-muội, và các môn tam-muội bất sanh bất diệt).
Tiếp
đó, lại tán công đức chân thật của các vị
Bồ Tát. Câu trước là tổng thuyết (nói tổng
quát), c̣n câu tiếp theo này là biệt thuyết (nói riêng biệt,
nói chi tiết về một khía cạnh nào đó). “Không” là nói Chân Như bản tánh.
Tánh là không tịch. Bản tánh là chân tâm, chân tâm không tịch.
“Vô tướng” là chẳng
chấp tướng. Tướng là Có, nhưng tướng
là Giả Hữu, là Tương Tục Hữu, chẳng phải
là Chân Hữu. V́ thế, đối với hết thảy các
tướng đều chẳng chấp trước. “Không” là tâm địa thanh tịnh,
vốn chẳng có một vật; đối với tướng
của hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian đều chẳng chấp trước. “Vô nguyện” là chẳng có vọng
tưởng, chẳng có chấp giữ. Đó là Vô Nguyện.
Những vị Bồ Tát này trụ nơi tâm địa
thanh tịnh, chẳng chấp tướng, chẳng có vọng
tưởng, chấp trước, đó là Vô Nguyện. Tam-muội
là Chánh Thọ, tức là sự hưởng thụ b́nh thường,
chúng ta phải học tập điều này.
Nay
chúng ta tu hành, nói thật ra, chướng ngại quá nhiều,
nghiệp chướng sâu nặng! “Không, vô tướng, vô nguyện”, năm chữ ấy
chính là linh đơn để tiêu trừ hết thảy
nghiệp chướng, trong Phật môn cái được gọi
là Đại Tam Không tam-muội chính là một câu này. Nay chúng
ta hoàn toàn tương phản với năm chữ ấy.
Thứ nhất, trong tâm chúng ta là có, chẳng thể “không” được!
Không chỉ là có, mà c̣n có quá nhiều, vô lượng vô biên, có
tính đếm cũng chẳng thể tính đếm rơ ràng
được, có vô số điều vướng mắc.
Đó là Có, chẳng phải là Không! Đối với bên
ngoài bèn chấp tướng. Trong hết thảy muôn h́nh tượng,
[luôn cảm thấy] có cái ưa thích, có cái đáng ghét, chấp
trước đấy nhé! Do trái nghịch điều này
(Không), nên có nguyện, có cầu [tức là trái nghịch Vô Tướng,
Vô Nguyện]. Hoàn toàn trái nghịch năm chữ ấy nên
khổ sở!
Chư
Phật, Bồ Tát hoàn toàn tương phản với chúng
ta. Tâm địa các Ngài thanh tịnh, chẳng có vướng
mắc, đối với tướng của hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng
chấp trước. Các Ngài cũng chẳng có nguyện, mà
cũng chẳng có cầu. Độ chúng sanh chẳng phải
là có mong cầu độ chúng sanh, tưởng độ
chúng sanh, [nếu có mong cầu, nghĩ tưởng] th́ sai mất
rồi! Có thể độ chúng sanh bằng cách nào? Cảm
ứng đạo giao! Ví như thân chúng ta có chỗ nào bị
đau, bị ngứa, tay liền sờ găi ngay, tay có thường
nghĩ “ta phải giúp nó” hay không? Chẳng hề nghĩ!
Khi có chút đau ngứa th́ mới sờ. Chúng sanh có cảm,
Phật tự nhiên có ứng. Phật có nguyện hay không? Chẳng
có! Phật có tưởng hay không? Chẳng có. Chỉ có vô
nguyện, vô cầu th́ mới có thể cảm ứng đạo
giao, chẳng sót một chúng sanh nào. Hai tay chúng ta đối
với bất cứ bộ phận nào trên thân thể đều
chẳng có tưởng, chẳng có nguyện, chẳng có cầu,
hễ bộ phận nào ngứa th́ nó bèn găi, giúp đỡ
một chút, có cùng một đạo lư như vậy. Lỗi
lầm đặc biệt to lớn của chúng ta hiện
thời là nghĩ phải phổ độ chúng sanh! Các khuyết
điểm đều nẩy sanh từ chỗ này. Quư vị
nói: “Ta vô nguyện, vô cầu”, kẻ khác nhất định
sẽ nói: “Ngươi là kẻ thật sự tiêu cực,
một tí tâm từ bi cũng chẳng có!” Nói thật ra, [kẻ
nói như vậy] hoàn toàn chẳng hiểu nghĩa do đức
Như Lai đă nói, chẳng lănh hội được!
Đích xác là phải rất lắng ḷng suy tưởng, chú
tâm thấu hiểu điều này.
V́
sao kinh thường nói tới pháp môn Đại Tam Không tam-muội
“không, vô tướng, vô nguyện”? Nói thật ra, nếu muốn
khế nhập Thật Tướng, chứng đắc Lư
nhất tâm bất loạn, minh tâm kiến tánh th́ phải có
đầy đủ ba điều kiện này. Ba điều
kiện của Tịnh Độ Tông thấp hơn ba điều
kiện này rất nhiều, ba điều kiện trong Tịnh
Độ Tông là Tín, Nguyện, Hạnh bảo đảm quư
vị văng sanh, c̣n ba điều kiện này (không, vô tướng,
vô nguyện) bảo đảm quư vị đắc Lư nhất
tâm bất loạn, bảo đảm quư vị minh tâm kiến
tánh. V́ thế, khó lắm! Tuy khó, nhưng phải biết công
đức và lợi ích của chúng, phải phát tâm nghiêm túc
tu học. Muốn đạt tới mức có thể không vướng
mắc, hăy nên buông xuống. C̣n người nào chẳng thể
không vướng mắc, chư vị đồng tu xem bộ
Ảnh Trần Hồi Ức Lục của pháp sư
Đàm Hư, hăy khéo thấu hiểu. Khi đó, pháp sư
Đàm Hư vượt qua cửa ải ấy cũng khó
khăn lắm, cũng phải mất rất nhiều năm.
Cuối cùng, Sư nghĩ: “Vợ con, gia đ́nh, lỡ ta
chết đi, chẳng phải là họ vẫn phải sống
ư?” Sau khi nghĩ tới lúc [chính ḿnh] phải chết, mới
hạ quyết tâm xuất gia. Vốn là [tính] xuất gia mà
vẫn c̣n bị vướng mắc [chuyện vợ con],
bèn nghĩ: “Coi như ta đă chết”. Sau khi Sư xuất
gia, vợ con đều xuất gia, lại c̣n đều
có thành tựu. Đây là một vị pháp sư hiếm có
trong các vị cao tăng cận đại. Nếu quư vị
nghĩ đến cái chết, c̣n có ǵ chẳng thể không buông
xuống? Không buông xuống được cũng phải
buông, [v́] không buông xuống th́ cũng chẳng thể đem
theo! Nếu lại thâm nhập, quan sát, không buông xuống sẽ
có “sanh, già, chết” trong đời sau, vẫn phải noi theo
khuôn khổ đó. Nếu hết thảy đều buông xuống,
Hữu trong Thập Nhị Nhân Duyên chẳng c̣n nữa.
Trong Thập Nhị Nhân Duyên, có thể ra sức đoạn
trừ là Ái, Thủ và Hữu. Có thể đoạn Hữu
th́ Thập Nhị Nhân Duyên bèn đoạn, vượt thoát lục
đạo luân hồi. Đó là công phu thật sự.
Bồ
Tát chẳng giống lũ phàm phu chúng ta. Có lúc, Bồ Tát thị
hiện giống như phàm phu chúng ta, ḥa quang đồng trần,
chúng ta chẳng nh́n ra. Điểm thật sự khác biệt
là chúng ta có vướng mắc, các Ngài chẳng có vướng
mắc. Nói cách khác, chúng ta hữu t́nh, Bồ Tát vô t́nh, các Ngài
đă biến t́nh cảm thành trí huệ. Các Ngài là lư trí,
chúng ta là phàm phu dấy động cảm t́nh. Phàm phu chuyển
biến lư trí thành cảm t́nh, lư trí đă mê bèn gọi là cảm
t́nh, Cảm t́nh sau khi giác ngộ sẽ là trí huệ. Trong kinh
Đại Thừa, đức Phật thường nói “phiền năo chính là Bồ Đề”,
nó là một, không hai, là mê và ngộ. Ngộ th́ cảm t́nh phiền
năo bèn biến thành Bồ Đề; mê th́ Bồ Đề
liền biến thành phiền năo, biến thành cảm t́nh, là
do một niệm giác hay mê. Một niệm giác sẽ vượt
thoát lục đạo luân hồi; một niệm mê, chỉ
sợ là phải nhiều đời nhiều kiếp đọa
lạc trong tam đồ. Sự lợi hại, được
mất quá to!
Chúng
ta phải nhớ kỹ năm chữ này trong tâm. Đối
với Phật pháp, người học Phật ở trong thế
gian này, hết thảy tùy duyên, đừng phan duyên, ngàn muôn
phần phải ghi nhớ, xuất gia hay tại gia đều
như nhau, v́ mục tiêu của chúng ta đều nhất
trí là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Tâm không thanh tịnh, chấp tướng, có nguyện, có cầu,
đều chướng ngại quư vị văng sanh, chướng
ngại cái tâm thanh tịnh. Nói cách khác, v́ sao công phu niệm Phật
chẳng thể thành phiến? V́ sao chẳng thể đắc
nhất tâm? Quư vị truy t́m nguyên nhân th́ nguyên nhân chẳng
ngoài “không, vô tướng, vô
nguyện”. Quư vị hiểu tầm quan trọng của
năm chữ này, cho nên phải dốc trọn hết thảy
khả năng để thực hiện.
Có
thể nghiêm túc tu học như vậy, sẽ đạt được
quả báo [nói] kế đó: “Cập
bất sanh, bất diệt chư tam-muội môn” (Và các môn
tam-muội bất sanh, bất diệt). Thọ dụng bất
sanh bất diệt là từ không, vô nguyện, vô tướng
mà có. Ở đây, tôi báo cáo cụ thể cùng các đồng
tu, bất sanh, bất diệt là nói về một niệm,
một vọng niệm cũng chẳng sanh. Do chẳng sanh,
nên chẳng có diệt. Kinh luận đă dạy: “Tâm sanh th́ đủ mọi pháp sanh,
tâm diệt ắt đủ mọi pháp diệt”. Cái tâm quư
vị cũng chẳng sanh, mà pháp cũng chẳng diệt,
vạn tướng đều như như, đó là cảnh
giới ǵ? Là Nhất Chân pháp giới. Nói thật ra, Nhất
Chân pháp giới ở ngay trong hiện tiền! Chẳng có một
pháp nào không chân thật. Phàm tất cả tướng đều
là Thật Tướng, đó gọi là “bất sanh, bất diệt chư tam-muội môn”,
là đắc đại tự tại. Tâm Kinh nói “Quán Tự Tại Bồ Tát”, cảnh giới này giống
như Quán Tự Tại Bồ Tát, chẳng khác ǵ nhau!
Viễn ly Thanh
Văn, Duyên Giác chi địa.
遠 離 聲 聞 緣
覺 之 地。
(Xa ĺa các địa vị Thanh
Văn, Duyên Giác).
Thanh
Văn và Duyên Giác là Nhị Thừa. Nhị Thừa là “tự liễu hán” (自了漢: kẻ chỉ lo
giải thoát cho riêng ḿnh), c̣n có bệnh thái rất nghiêm trọng,
nên các Ngài chẳng độ chúng sanh. Tuy các Ngài đă thấu
hiểu phần nào Tánh Không, vẫn chấp tướng, c̣n
có chấp giữ, nên Thanh Văn và Duyên Giác đoạn Kiến
Tư phiền năo, chưa phá Trần Sa và Vô Minh. Trong ba
đức, tức là Pháp Thân, Bát Nhă và Giải Thoát, các Ngài
chỉ đạt được ít phần Giải Thoát,
chẳng có Bát Nhă, mà cũng chẳng chứng đắc Pháp
Thân, chẳng thể sánh bằng Bồ Tát. Những vị
Bồ Tát này vượt xa Thanh Văn và Duyên Giác, Thanh
Văn và Duyên Giác chẳng thể nào sánh bằng! Đoạn
cuối cùng là tổng kết. Đức Phật gọi
ngài A
A
阿 難,彼 諸
菩 薩,成 就 如 是 無 量 功
德。
(Này A Nan! Các vị Bồ Tát ấy
thành tựu vô lượng công đức như thế).
Chữ “như thị” chỉ những
điều đă nói trên đây, “bỉ”
là Tây Phương Cực Lạc thế giới. Câu này cũng
hết sức quan trọng, quyết định chớ nên
coi thường xem lướt qua. V́ sao? Bản thân chúng ta có
một phần trong ấy. Trong phần trên đă nói các vị
Bồ Tát có công đức nhiều ngần ấy, quư vị
có mong [chính ḿnh cũng được] trọn đủ
[giống như vậy] hay không? Nếu quư vị mong trọn
đủ, hăy niệm Phật cầu sanh Tây Phương, sẽ
thảy đều trọn đủ. Rất mong được
trọn đủ, mà lại chẳng chịu niệm Phật
văng sanh Tây Phương th́ có muốn cũng như không, vẫn
là vọng tưởng, chính ḿnh chẳng có phần!
“Bỉ chư Bồ Tát” (các vị
Bồ Tát ấy) thuộc trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Nếu chúng ta thật sự phát tâm, nhất
tâm nhất ư mong mỏi Tây Phương, tuy nay chúng ta c̣n chưa
đến, những công đức ẩn mật ấy chúng
ta cũng trọn đủ. Tuy dường như chưa
thấy công đức ấy, nhưng đối với khí
phận của những công đức ấy chúng ta đă
rất nồng đậm, c̣n chưa thấy lửa, đă
tiếp xúc với hơi ấm, đúng là như thế đó.
Tín nguyện chẳng mạnh mẽ, sẽ chẳng có khí
phận này, chẳng có cảm xúc này. Nếu tín tâm kiên cố,
nguyện thiết tha, mỗi lần quư vị đọc đoạn
kinh văn này, sẽ có niềm cảm xúc ấy, giống
như mỗi điều đều rất gần gũi
với chính ḿnh, dần dần tiến nhập cảnh giới
này. Bất quá, đức Phật nói đại lược
mấy thứ mà thôi; nói thật ra, nếu nói chi tiết, mỗi
thứ đều là vô lượng vô biên.
Ngă
đản vị nhữ cử yếu ngôn chi.
我 但 為 汝 舉
要 言 之。
(Ta chỉ v́ ông nói những
điều trọng yếu).
Thích
Ca Mâu Ni Phật nói những điều đă được
nêu trên đây bất quá là trần thuật đại lược
mấy điều trọng yếu đó thôi!
Nhược
quảng thuyết giả, tuy lịch nhất kiếp bất
năng cùng tận.
若 廣 說 者 雖 歷 一
劫 不 能 窮 盡。
(Nếu nói rộng th́ dẫu trải
cả một kiếp cũng chẳng thể nói cùng tận).
“Quảng thuyết” là nói cặn
kẽ. Nếu nói tỉ mỉ trọn đủ công đức
của các vị Bồ Tát trong thế giới Tây
Phương, nói hết một kiếp cũng nói không hết.
Những kẻ chẳng liễu giải Phật pháp thấy
những lời này, sẽ chẳng cho là đúng, sẽ nghĩ
Thích Ca Mâu Ni Phật thổi phồng sự thực quá đáng.
Lúc tôi mới học Phật, có quen một vị giáo sư
đại học ở Đài Loan. Ông ta xem một số
kinh Phật, bèn nói: “Trên thế giới này, người bốc
phét nhất, khoác lác nhất chính là Thích Ca Mâu Ni Phật”. Ông
ta nói những câu mà ngay cả chúng tôi b́nh thường cũng
chẳng nghĩ tới. Đó là hàng học giả xem kinh Phật,
đích xác là khó thể hiểu ư nghĩa do Như Lai đă
nói. Kinh Kim Cang thịnh hành tại Trung Hoa như vậy, ông
ta nói chính ḿnh đă từng xem. Tôi nói: “Ông thấy như thế
nào?” “Giống như hai cái thùng nước đổ qua, đổ
lại, chẳng có ư nghĩa ǵ cả”. Học giả là học
giả, hễ khác nghề bèn giống như cách nhau cả
một quả núi! Ông ta nghĩ kinh Kim Cang trùng lặp quá nhiều.
Thật ra, kinh Kim Cang từ đầu đến cuối
chẳng có một câu nào trùng lặp, ông ta đâu có thấy!
Chư vị đọc bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa
của cư sĩ Giang Vị Nông, sẽ biết mỗi một
chữ, tuy chữ trước và sau giống nhau, câu văn
giống nhau, nhưng trong ấy có một chữ khác nhau, ư
nghĩa sẽ hoàn toàn khác hẳn. Đúng như kinh Hoa
Nghiêm đă nói: “Phật pháp
không có người nói, dẫu có trí vẫn chẳng thể
hiểu”. Người thế gian dẫu thông minh, dẫu
có trí huệ đến mấy đi nữa, nếu chẳng
có ai giảng kinh cho người ấy, người ấy
cũng chẳng hiểu, cậy sức chính ḿnh để
xem th́ dẫu có xem vẫn chẳng hiểu!
Phật
pháp cần phải do hạng người nào nói? Có tu, có chứng.
Nếu chư vị hiểu rơ ư nghĩa của câu này, quư vị
sẽ biết: Nếu chúng ta cậy vào chú giải kinh luận
để nghiên cứu th́ kết quả của sự nghiên
cứu ấy sẽ giống như ông giáo sư nọ, hiểu
sai bét ư nghĩa! V́ thế, người nói Phật pháp phải
là không, vô tướng, vô nguyện, mức độ thấp
nhất là phiền năo nhẹ, trí huệ tăng trưởng.
Do đó, điều thứ nhất là phải đoạn phiền
năo, phải phá Ngă và Ngă Sở, sau đấy tri kiến mới
chánh đáng, hễ tiếp xúc Phật pháp, liễu giải
sẽ là chánh tri chánh kiến, là ư nghĩa chân thật của
Như Lai. Nay chúng ta có Ngă, Ngă Sở, có tham, sân, si, mạn, tà
tri tà kiến, chúng ta nghe, đọc, nghiên cứu đều
chẳng phải là nghĩa chân thật của Như Lai. Chính
ḿnh nhất định phải biết, phải giác ngộ
điều này. Đừng coi những điều chúng ta
suy nghĩ lung tung là nghĩa chân thật của Như Lai,
[dùng ư ḿnh để ức đoán nghĩa chân thật của
Phật] chính là báng Phật, báng pháp, lỗi lầm to lớn!
Giảng
đến đoạn kinh văn này, do đại sư
trích dẫn hai mươi ba tỷ dụ, chúng tôi bèn giới
thiệu chương này trong bản hội tập kinh Vô
Lượng Thọ của cư sĩ Long Thư. Nhân duyên
này cũng hết sức hiếm có. Nếu không, chúng tôi chẳng
thể giảng bản hội tập của ông Long Thư.
Qua chương này, chúng ta cũng có được rất
nhiều điều khơi gợi, chỉ dạy. Hôm nay
chúng tôi giảng đến chỗ này!
A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa
Phần 100 hết
[1] Noăn hiểu theo nghĩa đen là ấm
áp.
[2] Á nhiệt đới (Subtropics), c̣n
gọi là phó nhiệt đới, là vùng giáp ranh giữa ôn
đới và nhiệt đới (thường ở vào
khoảng từ hai mươi ba độ rưỡi
đến bốn mươi độ thuộc vĩ
độ Bắc hoặc
[3] Kim Cang Xử (Vájra), đôi khi c̣n
được phiên âm là Bạt Chiết La, Phạt
Chiết La, Phạt Xà La, dịch nghĩa là Giáng Ma Xử,
Bảo Xử v.v… Đây là thứ vũ khí của
Đế Thích Thiên, tượng trưng cho sấm sét (v́
thế, có sách dịch Kim Cang Xử là “lưỡi tầm
sét”), làm bằng chất Kim Cang, không phải là kim
cương (diamond) v́ Kim Cang không ǵ có thể phá hoại
được, có thể phá hoại mọi thứ, trong
khi kim cương có thể bị đốt cháy. Trong
Phật giáo, đây là vũ khí được cầm
bởi các vị hộ pháp như Mật Tích Lực Sĩ
nhằm biểu thị tính cách diệt trừ vô minh
mạnh mẽ nhất của trí huệ. Trong Mật Giáo,
Kim Cang Xử biểu thị Bồ Đề tâm, biểu
thị lực dụng mạnh mẽ của đại trí
huệ. V́ lẽ đó, phần lớn các vị tôn thánh
trong Mật Giáo cầm Kim Cang Xử, hoặc những
vật dụng liên quan đến Kim Cang như Kim Cang
kiếm, Kim Cang trượng, Kim Cang bổng, Kim Cang chùy, Kim
Cang câu, Kim Cang cung, Kim Cang tiễn v.v… Hành nhân tu Mật giáo
cũng cầm Kim Cang xử trong khi tác pháp (thực hành nghi
quỹ) để nhắc nhở chính ḿnh phải vận
dụng trí huệ đối trị ngu si, phiền năo. Kim
Cang Xử trong Mật Tông có thể làm bằng vàng, bạc,
đồng, đá, pha lê, hợp kim, sắt, gỗ quư, và có
nhiều loại: Hai nhánh, ba nhánh, bốn nhánh, năm nhánh,
chín nhánh (nhằm biểu pháp khác nhau, chẳng hạn chày
năm nhánh biểu thị Ngũ Trí Như Lai. Do chày năm
nhánh có hai đầu, nên biểu thị từ Ngũ Trí
Như Lai thể hiện thành Quyền Trí và Thật Trí,
tạo thành Thập Ba La Mật). Nhưng các loại
một nhánh, ba nhánh và năm nhánh phổ biến nhất,
đặc biệt là Mật Giáo Tây Tạng c̣n có loại
song kim cang xử, gồm hai chày kim cang đúc liền
khối giống như h́nh chữ thập, bốn
đầu, mỗi đầu có năm nhánh.
[4] Theo một số nhà nghiên cứu,
trước thời ngài Huyền Trang, kinh Phật
được các vị dịch sư mang đến
từ Tây Vực, có khá nhiều vị sử dụng
tiếng Tocharian là một ngôn ngữ thông dụng tại
các quốc gia Tây Vực thời ấy. Trong tiếng
Tocharian, danh xưng Maitreya được đọc
trại thành Metrak, nên khi phiên âm sang tiếng Hán đă
trở thành Di Lặc, bởi lẽ, phát âm tiếng Hán
trước thời Đường - Tống c̣n có
nhiều phụ âm tắc họng ở cuối chữ,
điều này có thể thấy rơ qua cách phát âm chữ Di
Lặc trong tiếng Nhật (Miroku), tiếng Đại Hàn
(Mireuk), tiếng Quảng Đông (Mei Lak), hoặc tiếng
Phước Kiến (Mî-le̍k).