A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 103
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh
Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến, Đức
Phong và Huệ Trang
Tập 205
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm lẻ
tám:
(Sao) Hựu Di Lặc Vấn Kinh vân: “Tự phần
kiên cố danh bất thoái, thắng tấn bất hoại
danh bất chuyển”. Kim dĩ “Đại Thừa, dĩ
đắc, vị đắc” tam nghĩa tham chi, tắc tiền
nhị đồng hồ tự phần, hậu nhất
đồng hồ thắng tấn dă.
(鈔) 又彌勒問經云:自分堅固名不退,勝進不壞名不轉。今以大乘已得未得三義參之,則前二同乎自分,後一同乎勝進也。
(Sao:
Lại nữa, kinh Di Lặc Sở Vấn có nói: “Tự phần
kiên cố th́ gọi là bất thoái, thắng tấn bất
hoại gọi là bất chuyển”. Nay dùng [đoạn kinh
văn trên đây] để xét ba nghĩa “Đại Thừa,
đă đắc, chưa đắc” th́ hai nghĩa trước
giống như tự phần, một nghĩa sau giống
như thắng tấn).
Phối hợp với ư nghĩa bất thoái và
bất chuyển trong kinh Di Lặc Sở Vấn[1],
Đại Thừa bất thoái và “đă đắc bất
thoái” trong phần trước tương đương với
kiên cố bất thoái trong kinh Di Lặc Sở Vấn,
“chưa đắc bất thoái” tương đương
với thắng tấn bất thoái.
(Sớ) Hựu đồng danh bất thoái, nhi hữu
thiển thâm, như Khởi Tín, Diệu Tông, cập Từ
Chiếu sở thuyết đẳng.
(疏) 又同名不退,而有淺深,如起信、妙宗及慈照所說等。
(Sớ: Lại nữa, tuy cùng gọi là bất
thoái, nhưng mức độ có cạn hay sâu như các
thuyết được nói trong Khởi Tín Luận, Diệu
Tông Sao và thuyết của pháp sư Từ Chiếu).
Tuy nói là bất thoái chuyển, nhưng quả
thật là có cạn hay sâu sai khác. Ở đây, nêu ra mấy
thí dụ, như [những nghĩa bất thoái] được
nói trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh Diệu Tông Sao và thuyết của pháp
sư Từ Chiếu.
(Sao) Khởi Tín Luận vân: “Sanh bỉ quốc giả,
thường kiến Phật cố, chung đắc bất
thoái”.
(鈔) 起信論云:生彼國者,常見佛故,終得不退。
(Sao: Khởi Tín Luận nói: “Người sanh trong
cơi ấy, do thường thấy Phật nên trọn được
bất thoái”).
Ba
câu này là nguyên văn trong Khởi Tín Luận. Sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, do chẳng ĺa A
Di Đà Phật, A Di Đà Phật thường ở cạnh
chúng ta. Có Phật chiếu cố th́ đương nhiên chẳng
bị thoái chuyển.
(Sao) Sớ minh bất thoái hữu tam vị.
(鈔) 疏明不退有三位。
(Sao: Sớ giải [Khởi Tín Luận] nói bất
thoái có ba địa vị).
“Sớ” (疏) là chú giải, trong phần chú giải của Khởi
Tín Luận có nói [điều này].
(Sao) Nhất giả tín hạnh vị bị, vị
đắc bất thoái, dĩ vô thoái duyên, danh bất thoái.
(鈔) 一者信行未備,未得不退,以無退緣,名不退。
(Sao: Một là tín và hạnh chưa đầy đủ,
chưa đạt được bất thoái, do chẳng
có duyên thoái chuyển, nên gọi là bất thoái).
Nói tới thứ tự sâu cạn khác nhau.
Như bọn lục đạo phàm phu chúng ta cầu văng
sanh, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, xác thực là tín hạnh
chưa đầy đủ. Tín và hạnh chưa đầy
đủ, cớ sao có thể văng sanh? Văng sanh nhất định
phải trọn đủ ba điều kiện Tín, Nguyện,
Hạnh th́ mới có thể văng sanh. Dẫu là hạ hạ
phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, ắt cũng
cần phải trọn đủ các điều kiện ấy.
Tuy có Tín, Nguyện, Hạnh, nhưng chưa hoàn toàn đạt
đến một mức độ kiên cố nhất
định, nên gọi là “vị
bị” (未備: chưa đầy
đủ). V́ sao chưa đạt tới? V́ đối với
hai công phu đoạn Hoặc và chứng Chân (chứng Chân
là kiến tánh), chúng ta đều chưa thể đạt
tới tiêu chuẩn. Ví như trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, kẻ có tŕnh độ giống như chúng ta văng
sanh, một phẩm phiền năo cũng chẳng đoạn,
một phần bản tánh cũng chẳng chứng đắc,
nên gọi là “tín và hạnh
chưa đầy đủ”. Nếu trong thế gian
này, hiện thời ba món tư lương Tín, Nguyện, Hạnh
đầy đủ, văng sanh sẽ chẳng thành vấn
đề, nhưng sau hai ba năm liền ngă ḷng. Có thể
thấy là tín tâm của chúng ta có thật sự thanh tịnh
kiên cố hay không, chính ḿnh cũng không dám bảo đảm!
Bao nhiêu người niệm Phật đến lúc lâm chung
bèn thoái chuyển, chẳng muốn về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, chúng tôi thấy [các trường hợp
như vậy] rất ư là nhiều. V́ vậy, đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, do công phu chẳng
đạt tới một tŕnh độ nhất định,
vẫn có thể bị thoái chuyển, nhưng v́ Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng có duyên
gây thoái chuyển, nên quư vị chẳng có chỗ nào lui sụt,
sẽ chẳng bị ngă ḷng. Đấy là sự thù thắng
nơi hoàn cảnh bên cơi ấy. “Duyên”
(緣) là nói tới hoàn cảnh nhân sự
và hoàn cảnh vật chất, đều có thể giúp quư vị
tu tŕ tinh tấn, chẳng bị thoái chuyển. Đây là nói
theo phương diện nông cạn.
(Sao) Nhị giả, Tín vị măn, nhập Thập Trụ,
đắc thiểu phần Pháp Thân, danh bất thoái.
(鈔) 二者信位滿,入十住,得少分法身,名不退。
(Sao: Hai là đă viên măn địa vị Thập
Tín, bước vào Thập Trụ, đắc chút phần
Pháp Thân, bèn gọi là bất thoái).
Thế giới Tây Phương là Đại Thừa,
chẳng phải là pháp Tiểu Thừa. Không chỉ là Đại
Thừa, mà c̣n là Viên Giáo Đại Thừa, chẳng phải
là Biệt Giáo Đại Thừa. Viên măn tâm Thập Tín trong
Viên Giáo Đại Thừa, chứng tỏ là Tín và Hạnh
đă đầy đủ, có thể thấy là đă thuộc
vào tŕnh độ “Tín và Hạnh đầy đủ”. Không
chỉ là đă đoạn Kiến Tư phiền năo, mà Trần
Sa và Vô Minh cũng phá, lại c̣n phá một phẩm vô minh, thấy
một phần chân tánh. Đó là Sơ Trụ Bồ Tát trong
Viên Giáo. Viên măn tâm Thập Tín, chứng nhập Sơ Trụ.
Thập Trụ là từ Sơ Trụ đến Thập Trụ,
có địa vị như thế. Trong bốn mươi mốt
phẩm vô minh, người ấy chỉ phá một phẩm,
nên chỉ thấy một phần Pháp Thân, “đắc thiểu phần Pháp Thân, danh Bất Thoái”
(đắc chút phần Pháp Thân, gọi là bất thoái).
Xác thực là ba món bất thoái, tức Vị Bất Thoái, Hạnh
Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái. Nhưng nếu so sánh với
các địa vị Bồ Tát sâu hơn, người thuộc
địa vị này vẫn là rất cạn, chứng
đắc chẳng đủ sâu. Đây là nói tới các vị
Bồ Tát thuộc Tam Hiền, tức Thập Trụ, Thập
Hạnh, và Thập Hồi Hướng, thuộc các địa
vị này!
(Sao) Tam giả Hiền vị măn, nhập Sơ Địa
dĩ khứ, chứng biến măn Pháp Thân, danh bất thoái.
(鈔) 三者賢位滿,入初地以去,證遍滿法身,名不退。
(Sao: Ba là viên măn địa vị Tam Hiền, đă
nhập từ Sơ Địa trở lên, chứng Pháp Thân
trọn khắp, gọi là bất thoái).
Cảnh giới này cao lắm, công phu đă sâu,
càng ngày càng gần với quả địa Như Lai. Viên
măn các địa vị thuộc Tam Hiền, [tức là
đă chứng nhập các địa vị thuộc] Thập
Trụ, Thập Hạnh, và Thập Hồi Hướng.
Viên măn Thập Hồi Hướng bèn dự vào Sơ Địa,
được gọi là “thánh
nhân”. Chúng ta thường niệm Bồ Tát Ma Ha Tát, vị
này thuộc hàng Ma Ha Tát. Ma Ha Tát (Mahāsattva) là đại Bồ
Tát. Từ Sơ Địa trở lên mới có thể gọi
là Ma Ha Tát. “Chứng biến măn
Pháp Thân” (Chứng Pháp Thân trọn khắp): Khác hẳn
người chứng chút phần Pháp Thân trong phần trên, vị
này thật sự bất thoái.
(Sao) Hựu Diệu Tông Sao vân: “Bất thoái hữu
tam. Nhược phá Kiến Tư, danh Vị Bất Thoái, tắc
vĩnh bất thất siêu phàm chi vị”.
(鈔) 又妙宗鈔云:不退有三,若破見思,名位不退,則永不失超凡之位。
(Sao: Sách Diệu Tông Sao lại nói: “Bất thoái có ba
loại. Nếu đă phá Kiến Tư th́ gọi là Vị
Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng đánh mất địa
vị vượt thoát phàm phu”).
Tông Thiên Thai nói phiền năo có tất
cả là ba loại lớn. Loại thứ nhất là Kiến
Tư phiền năo. Kiến Hoặc (見惑) là kiến giải sai lầm, nay chúng ta nói
đến vũ trụ quan và nhân sinh quan th́ “quan” (觀) là kiến giải. Vũ trụ quan và nhân
sinh quan đều sai lầm, đó chính là Kiến Hoặc.
Tư Hoặc (思惑) là sai lầm
nơi tư tưởng, quư vị suy nghĩ lẫn khởi
tâm động niệm đều sai lầm. Đức Phật
quy nạp Kiến Tư phiền năo thành mười loại
lớn. Sai lầm về kiến giải bao gồm Thân Kiến,
Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến,
và Tà Kiến, chia thành năm loại lớn ấy. Năm
loại lớn này chẳng vượt ngoài nhân sinh quan và
vũ trụ quan như chúng ta vừa mới nhắc tới.
Nói nhân sinh quan và vũ trụ quan là nói theo kiểu hiện
thời. Tư tưởng sai lầm cũng có năm loại
lớn là tham, sân, si, mạn, nghi, tức là tâm tham lam, nóng giận,
ngu si, ngạo mạn, hoài nghi. “Hoài
nghi” là hoài nghi thánh giáo, hoài nghi những điều Phật,
Bồ Tát đă giảng, hoài nghi những lời dạy của
cổ thánh tiên hiền. Nói theo cách hiện thời là “nẩy
sanh hoài nghi đối với truyền thống”.
Truyền thống có thể bị hoài nghi, [bởi
lẽ], đạo thống (giềng mối đạo học)
của Trung Hoa, truyền thống Đại Thừa Phật
pháp và các truyền thống học thuật tôn giáo khác trong
thế gian chẳng giống nhau. Nếu coi Đại Thừa
Phật pháp và đạo thống của Khổng Mạnh
cùng Đạo gia Trung Hoa [cũng b́nh thường] giống
y hệt
như các truyền thống học
thuật và tư tưởng của quốc gia dân tộc
khác, vấn đề này sẽ to lớn. [Nghi ngờ truyền
thống] chính là Nghi trong Tư Hoặc. Dùng danh từ Phật
pháp để nói th́ Nho, Phật, Lăo Trang là “hữu tu, hữu chứng”, tuyệt đối
chẳng phải là cảnh giới của kẻ b́nh phàm.
Chiếu theo những giáo huấn ấy để hành, chẳng
hoài nghi, chắc chắn là quư vị có thể đạt
được lợi ích, há nên hoài nghi? Chúng ta phải nhận
thức rơ ràng điều này. Hiện thời, thế giới
động loạn, chúng sanh khổ sở như vậy;
nói thật thà, gốc bệnh căn bản là do nghi. V́ hoài
nghi nên mới vứt bỏ truyền thống, coi truyền
thống là chướng ngại cho sự tiến bộ, [cứ
khăng khăng cho rằng phải] vứt bỏ truyền
thống th́ văn hóa mới có thể tiến lên được!
Chúng ta nghe nói kiểu đó, dường như cũng hết
sức có lư; thật ra, trong đó có rất nhiều vấn
đề. Nho gia nói “nhật
tân hựu tân” (mỗi ngày một mới hơn), nhà Phật
nói “tinh tấn”. Thử hỏi “nhật
tân hựu tân” và tinh tấn có lạc hậu hay chăng?
Có thể gây ra chướng ngại hay chăng? Nếu
chướng ngại văn hóa tiến cao hơn, sẽ
không thể gọi là tiến bộ! Tiến bộ trong Phật
pháp không chỉ là phải tiến cao hơn, mà c̣n phải là
tiến bộ tinh thuần. Nho gia nói: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân”, [nghĩa
là] mỗi ngày lại càng mới mẻ hơn, mỗi ngày
đều mong cầu tiến bộ. Khá nhiều kẻ nẩy
sanh hiểu lầm đối với truyền thống, chẳng
nghiêm túc nghiên cứu. Không chỉ là chẳng nghiên cứu
nghiêm túc, thậm chí là về căn bản, có lắm kẻ
chẳng hề đọc tụng, người khác bảo
sao bèn hùa theo làm vậy, tạo thành dư luận hết sức
đáng sợ!
Nếu phá Kiến Tư phiền năo, sẽ chứng
đắc Vị Bất Thoái. Thật đó! Đấy là
địa vị thánh nhân, tuyệt đối chẳng c̣n
đọa lạc thành phàm phu nữa. Đó là giới hạn
[của địa vị này]. Trong kinh, đức Phật
thường nói “phàm phu thành Phật phải tu hành ba đại
A-tăng-kỳ kiếp” chính là tính từ Vị Bất
Thoái. Nếu chưa chứng đến quả vị ấy,
chẳng thể nào tính được! Có thể nói là chúng
ta từ vô thỉ kiếp tới nay, đời đời
kiếp kiếp cũng đều tu hành, nhưng chưa có
lần nào chứng đắc quả vị ấy, quả
vị ấy là quả vị ǵ? Là Tiểu Thừa Sơ Quả,
hoặc là Sơ Tín trong Viên Giáo, giống như lớp Một
của bậc Tiểu Học. Cũng có nghĩa là [bọn
chúng ta] đời đời kiếp kiếp đều học
Mẫu Giáo, trước nay chưa hề học lớp Một
của bậc Tiểu Học. Quư vị nói xem có hỏng
bét hay không? V́ lẽ đó, thứ ǵ cũng đều chẳng
tính được! Tu hành từ vô lượng kiếp cho
tới nay, cũng đă từng cúng dường vô lượng
vô biên chư Phật Như Lai, nhưng cho tới nay, vẫn
chưa chứng đắc Sơ Quả. Nếu chứng
đắc Sơ Quả, chắc chắn quư vị là thánh
nhân, sẽ chẳng đọa lạc thành phàm phu. Tuy
chưa thoát khỏi tam giới, nhưng trong nhân gian và cơi trời,
chắc chắn quư vị chẳng đọa trong ba ác
đạo. Nói cách khác, chắc chắn là quư vị sẽ
chẳng tạo nghiệp nhân của ba ác đạo, thiện
căn sâu dầy. Do có thiện căn, có phước đức,
người ấy sẽ chẳng thể tạo tội
nghiệp ba ác đạo, cũng chẳng đọa trong
ba ác đạo; mức độ thấp nhất là nhân
đạo, tối đa là đọa lạc trong nhân đạo,
chẳng thể sanh trong ba ác đạo. Địa vị
này gọi là Vị Bất Thoái, “vĩnh
bất thất siêu phàm chi vị” (vĩnh viễn chẳng
đánh mất địa vị vượt trỗi phàm
phu). Nếu xét theo Tiểu Thừa, sẽ là Sơ Quả,
c̣n trong Viên Giáo th́ là địa vị Sơ Tín Bồ Tát;
đấy là một loại.
(Sao) Phục đoạn Trần Sa, danh Hạnh Bất
Thoái, tắc vĩnh bất thất Bồ Tát chi hạnh.
(鈔) 伏斷塵沙,名行不退,則永不失菩薩之行。
(Sao: Lại đoạn Trần Sa th́ gọi là Hạnh
Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng đánh mất Bồ
Tát hạnh).
Địa vị này sâu hơn địa vị
trước. Địa vị trước đoạn Kiến
Tư, tức là từ Sơ Quả cho đến A La Hán hoặc
Bích Chi Phật trong Tiểu Thừa đều thuộc
địa vị này, thảy đều là Vị Bất
Thoái. Nếu phá Trần Sa Hoặc, sẽ là địa vị
Bồ Tát, tuyệt đối chẳng c̣n thoái đọa
thành Tiểu Thừa, đó là Hạnh Bất Thoái.
(Sao) Nhược phá Vô Minh, danh Niệm Bất Thoái, tắc
vĩnh bất thất Trung Đạo chánh niệm.
(鈔) 若破無明,名念不退,則永不失中道正念。
(Sao: Nếu phá Vô Minh th́ gọi là Niệm Bất
Thoái, vĩnh viễn chẳng mất chánh niệm Trung Đạo).
“Phá vô minh” tức
là Bồ Tát minh tâm kiến tánh, phá một phẩm vô minh, thấy
một phần bản tánh. Khi ấy, niệm niệm đều
hướng đến Vô Thượng Bồ Đề, niệm
niệm hướng đến Phật quả viên măn, sẽ
chẳng bị thoái đọa, đó là Niệm Bất
Thoái. Đấy là ba loại Bất Thoái.
Điều này cho thấy, xác thực là Bất
Thoái có cạn hay sâu khác biệt. Ví như Vị Bất
Thoái, nói theo Tiểu Thừa th́ Sơ Quả, Nhị Quả
Hướng, Nhị Quả, Tam Quả Hướng, Tam Quả,
Tứ Quả Hướng, Tứ Quả (A La Hán), hoặc
Bích Chi Phật, có lắm địa vị ngần ấy.
Địa vị của Bồ Tát càng nhiều hơn. Nói
theo Biệt Giáo, Tam Hiền có ba mươi địa vị,
Thập Thánh cộng với Đẳng Giác thành mười
một địa vị; đó là Niệm Bất Thoái.
(Sao) Hựu Từ Chiếu Tông Chủ Tứ Độ
Đồ Thuyết, dĩ vị đoạn phiền năo,
sanh Đồng Cư độ, vi Nguyện Bất Thoái.
(鈔) 又慈照宗主,四土圖說,以未斷煩惱,生同居土,為願不退。
(Sao:
Trong bộ Tứ Độ Đồ Thuyết, Từ Chiếu
Tông Chủ lại coi đoạn phiền năo, sanh vào cơi
Đồng Cư là Nguyện Bất Thoái).
Từ Chiếu đại sư[2] là
một vị đại đức trong Tịnh Tông. Ngài
hoàn toàn căn cứ trên bốn cơi, ba bậc, chín phẩm
đă nói trong kinh để luận định Bất Thoái
Chuyển. “Vị đoạn
phiền năo, sanh Đồng Cư độ” (chưa
đoạn phiền năo, sanh vào cơi Đồng Cư), chữ
“phiền năo” chỉ Kiến
Tư phiền năo. Chưa đoạn Kiến Tư phiền
năo, giống như cảnh giới của chúng ta trong hiện
tại. Chưa đoạn phiền năo, làm sao có thể văng
sanh? Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă
nói: “Có thể văng sanh hay không là
do có tín nguyện hay không?” Chúng ta có tín tâm kiên định,
có đại nguyện rất sâu, cầu sanh Tịnh Độ,
nhất định có thể văng sanh. Sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, phẩm vị
cao hay thấp là do công phu niệm Phật của chúng ta sâu
hay cạn. Công phu sâu hay cạn
chính là đoạn phiền năo sâu hay cạn. Quư vị niệm
đến mức đoạn sạch Kiến Tư phiền
năo, bèn sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư. Niệm
đến mức Lư nhất tâm bất loạn, phá một
phẩm vô minh, sẽ sanh trong cơi Thật Báo. Đó là công phu
niệm Phật sâu hay cạn. V́ thế, có thể văng sanh
hay không, được quyết định bởi tín nguyện
có hay không!
Tín nguyện ấy, nói thật ra, chẳng phải
là tín nguyện b́nh phàm, mà thường gọi là “chân tín, thiết nguyện”.
Chân tín: Chỉ tin pháp môn này, những phương pháp tu học
của các pháp môn khác thảy đều buông xuống th́ quư
vị mới được coi là chân tín. Quyết định
chẳng thể nói: Ta ngă bệnh bèn vội vàng lễ bái
Dược Sư Như Lai, nghĩ A Di Đà Phật chẳng
thể quản chuyện này! Hễ có tai nạn, bèn vội
vă cầu Quán Âm Bồ Tát. Sợ niệm kinh Vô Lượng
Thọ hoặc kinh Di Đà vẫn chưa đủ, vẫn
phải niệm phẩm Phổ Môn, niệm kinh Kim Cang, thậm
chí c̣n niệm chú Lăng Nghiêm, c̣n lạy Đại Bi Sám,
Thủy Sám, Lương Hoàng Sám, phải làm những chuyện
ấy. Đó gọi là chẳng tin! Nhất tâm cầu sanh Tịnh
Độ; hễ c̣n cầu phát tài, c̣n cầu lên chức,
c̣n cầu con cái, tức là nguyện chẳng thiết tha,
nguyện ấy giả trất! Nguyện chân thật th́ thế
gian lẫn xuất thế gian thứ ǵ cũng đều
buông xuống, chỉ có một nguyện vọng là “cầu sanh Tịnh Độ, thấy
A Di Đà Phật”, như vậy th́ mới có thể thật
sự văng sanh. V́ thế, người niệm Phật rất
nhiều, chúng ta thấy người có Tín, Hạnh, Nguyện
rất nhiều, người thật sự văng sanh chẳng
mấy, do nguyên nhân nào? Tín và nguyện của họ chẳng
chân thật, lúc có, lúc không! Quư vị nói họ chẳng có, họ
có. Quư vị nói họ có, th́ trong đó xen tạp chẳng
ít thứ, chẳng thuần, chẳng tịnh, chướng
ngại họ văng sanh, chúng ta nhất định phải
biết điều này. Sanh vào cơi Đồng Cư, họ
có thể bất thoái, nói thật ra là do nguyện lực
duy tŕ, do bổn nguyện của chính ḿnh và đại nguyện
của A Di Đà Phật gia tŕ. Từ phần bốn
mươi tám đại nguyện trong Đại Kinh, chúng
ta đă từng đọc thấy chuyện này.
(Sao) Phá Kiến Tư, sanh Phương Tiện Độ,
vi Hạnh Bất Thoái.
(鈔) 破見思,生方便土,為行不退。
(Sao: Phá Kiến Tư, sanh trong cơi Phương Tiện
là Hạnh Bất Thoái).
Điều này dễ hiểu, nói giống
như Diệu Tông Sao. Trong Tịnh Tông, đoạn Kiến
Tư phiền năo được gọi là Sự nhất
tâm bất loạn. Công phu niệm Phật niệm đến
mức Sự nhất tâm bất loạn, sanh trong cơi
Phương Tiện, quyết định chẳng thoái chuyển
xuống địa vị Nhị Thừa. Nói thật ra,
Tây Phương Cực Lạc thế giới thuần túy
là Viên Giáo Đại Thừa, quyết định chẳng
có thoái chuyển.
(Sao) Phá Trần Sa, phần phá Vô Minh, sanh Thật Báo độ,
vi Trí Bất Thoái.
(鈔) 破塵沙,分破無明,生實報土,為智不退。
(Sao: Phá Trần Sa, phá một phần Vô Minh, sanh vào
cơi Thật Báo, th́ là Trí Bất Thoái).
Đây là Lư nhất tâm bất loạn, phá một
phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới là cơi Thật Báo
Trang Nghiêm. Đó là Trí, v́ sao? Chỉ có trí th́ mới có thể
phá Trần Sa Hoặc, mới có thể phá vô minh. Không giống
như trong phần trên; Sự nhất tâm trong phần trên
là Định. Niệm Phật tam-muội có thể đạt
tới Sự nhất tâm, không thể đạt tới Lư
nhất tâm, Lư nhất tâm nhất định phải khai
trí huệ. Chúng ta thường nói “do Giới sanh Định”. Đối với
người niệm Phật trong Tịnh Độ Tông, Giới
là ǵ? Tất cả hết thảy đều buông xuống,
nương theo một bộ kinh, một danh hiệu,
đó là Giới. Do điều này, quư vị mới có thể
đắc Định, Định là Sự nhất tâm, Giới
là công phu thành phiến, quyết định chuyên nhất.
Trong kinh này có nói “phát Bồ
Đề tâm, một mực chuyên niệm”, luôn luôn chuyên
niệm, tâm quư vị bèn thanh tịnh, công phu thành phiến.
Từ công phu thành phiến đạt đến Sự nhất
tâm bất loạn, đắc Định, thành tựu Niệm
Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội lại khai
trí huệ, trí huệ ấy bèn phá vô minh, chứng Pháp Thân.
Do vậy, ở đây, gọi [chuyện này] là Trí Bất
Thoái.
(Sao) Phá
Tam Hoặc tận, sanh Tịch Quang độ, vi Vị Bất
Thoái.
(鈔) 破三惑盡,生寂光土,為位不退。
(Sao: Phá sạch Tam Hoặc, sanh vào cơi Tịch Quang
là Vị Bất Thoái).
Địa vị được nói trong phần
trước giống như các địa vị được
nói trong Diệu Tông Sao, chính là Sơ Quả trong Tiểu Thừa,
hoặc Sơ Tín trong Viên Giáo. Vị Bất Thoái như
đang nói ở đây là địa vị Phật, thành Phật
th́ sẽ tuyệt đối chẳng lui sụt thành Bồ
Tát. Do đó, địa vị này hoàn toàn chẳng giống
các địa vị trong phần trước.
(Sao) Tắc bất thoái danh đồng, nhi thiển
thâm tự biệt, như cửu phẩm nghĩa.
(鈔) 則不退名同,而淺深自別,如九品義。
(Sao: Do vậy, tuy cùng gọi là Bất Thoái,
nhưng cạn hay sâu tự sai khác, giống như ư
nghĩa chín phẩm vậy).
Bốn cơi, ba bậc, chín phẩm trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới đều là ba
loại Bất Thoái, nhưng công phu và trí huệ trong các loại
Bất Thoái đều có cạn hay sâu khác biệt.
(Sớ) Hựu tứ giáo bất thoái, phi kim kinh
nghĩa.
(疏) 又四教不退,非今經義。
(Sớ: Lại nữa, bất thoái hiểu theo tứ
giáo chẳng phải là ư nghĩa [của bất thoái] trong
kinh này).
Tứ
Giáo là Tạng, Thông, Biệt, Viên được nói trong tông
Thiên Thai. Thiên Thai đại sư là Trí Giả đại
sư. Đối với Tạng, Thông, Biệt, Viên, Ngài
đều nói đến bất thoái, nhưng đấy chẳng
phải là ư nghĩa trong kinh này. Do đó, trong phần kế
tiếp bèn nói đại lược. Điều này thuộc
loại Phật học thường thức.
(Sao) Tứ giáo các minh bất thoái, vị Tạng Giáo
biệt tướng niệm bất thoái, Thông Giáo tánh địa
bất thoái, Biệt Giáo Thất Trụ bất thoái, Viên
Giáo Thất Tín bất thoái. Tắc tri tự thử dĩ
tiền, tấn thoái vị định. Kim niệm Phật
giả, đản sanh bỉ quốc, tuy ác nhân, súc sanh, tức
đắc bất thoái, khởi bất thắng diệu trực
tiệp, dị hồ chư giáo.
(鈔) 四教各明不退,謂藏教別相念不退,通教性地不退,別教七住不退,圓教七信不退。則知自此以前,進退未定。今念佛者,但生彼國,雖惡人畜生,即得不退。豈不勝妙直捷,異乎諸教。
(Sao:
Mỗi giáo trong bốn giáo đều nói đến bất
thoái, nghĩa là: Trong Tạng Giáo, đắc biệt tướng
niệm là bất thoái, trong Thông Giáo, tánh địa (địa
vị đă kiến tánh) là bất thoái, trong Biệt Giáo, bậc
đă đắc Thất Trụ bèn bất thoái, trong Viên
Giáo bậc Thất Tín bèn bất thoái. Do đó biết,
trước khi đạt đến những địa vị
ấy, sẽ là tấn thoái không nhất định. Nay
người niệm Phật, chỉ cần sanh về cơi
kia, dẫu là kẻ ác hay súc sanh liền đắc bất
thoái. Há chẳng phải là thù thắng, nhiệm mầu, thẳng
thừng, nhanh chóng, khác với các giáo ư?)
Trong Diễn Nghĩa có giải thích về bất
thoái trong tứ giáo, nếu chư vị muốn biết
nhiều hơn, hăy xem trong Thiên Thai Tứ Giáo Nghi. Nếu
đơn giản hơn một chút th́ trong Giáo Thừa Pháp
Số có đồ biểu, quư vị xem kỹ một
lượt sẽ có thể liễu giải. Ở đây,
tôi phải đặc biệt nhắc nhở: V́ sao những
điều đă nói trong Thiên Thai Tứ Giáo chẳng phải
là giáo nghĩa của kinh này? Kinh này hết sức đặc
thù, ở đây, Liên Tŕ đại sư cũng nói sơ
lược: “Đản sanh bỉ
quốc, tuy ác nhân, súc sanh” (Chỉ sanh về cơi ấy,
tuy là kẻ ác, hay súc sanh). Trong Văng Sanh Truyện, nổi tiếng
nhất là Trương Thiện Ḥa đời Đường,
suốt đời giết trâu, ông ta là một người
đồ tể, sát nghiệp rất nặng! Khi lâm chung,
ông trông thấy khá nhiều người đầu trâu
đến đ̣i mạng, chúng ta thường nói là “tướng địa ngục
hiện tiền”. Ông ta thấy hiện tượng ấy
liền kêu to cứu mạng, kể ra ông ta may mắn,
người thế gian chúng ta nói như vậy,
đương nhiên là ông ta có nhân duyên rất sâu, khéo sao có một
người xuất gia đi ngang cửa, nghe trong nhà gào cứu
mạng, liền bước vào xem t́nh h́nh như thế
nào! Trương Thiện Ḥa nói: “Tôi thấy nhiều gă
đầu trâu đến đ̣i mạng”. Vị xuất
gia ấy biết chuyện, bèn ngay lập tức đốt
một bó hương đưa cho ông ta: “Ông hăy gấp niệm
A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới”. Ông ta nghe lời ấy, tiếp nhận bó
hương đó, lớn tiếng niệm A Di Đà Phật.
Niệm chưa đến mười câu, bèn nói: “Chẳng
thấy người đầu trâu đâu nữa, chẳng
c̣n nữa”. Lại niệm mấy tiếng, A Di Đà Phật
hiện đến, ông ta theo A Di Đà Phật văng sanh.
Đây là lúc lâm chung, tướng địa ngục hiện
tiền bèn có thể chuyển nghiệp, có thể văng sanh.
Ác nhân văng sanh đấy nhé!
Kẻ ác trong hàng xuất gia là như pháp sư
Oánh Kha đời Tống. Vị xuất
gia này phá giới, chẳng tuân thủ Thanh Quy, nhưng
Sư là người cũng có đôi chút thiện
căn, biết tương lai nhất định đọa
địa ngục, xin đồng học giúp đỡ, thỉnh
giáo đồng tham đạo hữu có phương pháp nào
cứu Sư hay không. Đồng tham đạo hữu cho
Sư một quyển Văng Sanh Truyện. Sư đọc
Văng Sanh Truyện, đọc mỗi thiên sách bèn tự cảm
động ứa lệ. Sau khi đọc xong Văng Sanh Truyện,
Sư hạ quyết tâm cầu sanh Tịnh Độ.
Sư đóng chặt cửa liêu pḥng để niệm A Di
Đà Phật, niệm suốt ba ngày ba đêm, chẳng
ăn cơm, mà cũng không uống nước, cũng chẳng
ngủ nghê, liều mạng niệm, niệm cảm A Di
Đà Phật hiện đến. A Di Đà Phật bảo
Sư: “Ông hăy c̣n mười năm thọ mạng, hăy khéo
tu hành trong mười năm, đến lúc lâm chung, ta lại
đến tiếp dẫn ông”. Pháp sư Oánh Kha thưa: “Con
căn tánh kém hèn rất nặng, chẳng thể chống lại
sự dụ dỗ, mê hoặc, chẳng biết trong mười
năm đó sẽ tạo bao nhiêu tội nghiệp. Con chẳng
cần mười năm thọ mạng, nay con liền
đi theo Ngài”. A Di Đà Phật gật đầu, đồng
ư: “Được rồi! Ba ngày sau ta sẽ đến tiếp
dẫn ông”. Sư đáp: “Vâng ạ!” Hai bên ước định
ba ngày sau Sư sẽ văng sanh. Sư cũng chẳng sanh bệnh,
tới ngày thứ ba bèn thỉnh đại chúng trong tự
viện đừng tụng niệm khóa sáng theo lối b́nh
thường, mà hăy niệm kinh A Di Đà, niệm Phật
hiệu đưa Sư đi văng sanh. Niệm Phật hiệu
c̣n chưa được mấy câu, Sư bảo mọi
người, Sư thấy A Di Đà Phật hiện đến:
“Tôi theo Ngài văng sanh”. Đó là kẻ ác trong hàng xuất gia
văng sanh. V́ thế, kinh dạy chẳng sai, Ngũ Nghịch
Thập Ác chỉ cần có thể chánh tín th́ đều có
thể văng sanh. Nếu Ngũ Nghịch Thập Ác mà c̣n hủy
báng chánh pháp, sẽ chẳng thể văng sanh. Hủy báng là
ǵ? Quư vị chẳng tin tưởng! Nếu tin tưởng
pháp môn này, Ngũ Nghịch Thập Ác đều có thể
văng sanh.
Súc sanh văng sanh th́ trong sách Vật Do Như Thử
có chép mấy trăm chuyện động vật niệm
Phật văng sanh. Gần chúng ta nhất, vào thời đầu
Dân Quốc, khi pháp sư Đế Nhàn làm Trụ Tŕ chùa
Đầu Đà, trong chùa có một con gà trống niệm
Phật văng sanh. Chúng tôi đă kể câu chuyện này rất
nhiều lần, khá nhiều đồng tu đều rất
thông thuộc, chuyện này chẳng giả! Súc sanh niệm
Phật cũng có thể văng sanh, tùy thuộc nó có thể gặp
thiện tri thức hay không, [vị ấy] thật sự
v́ nó chỉ dạy, khuyên nó niệm Phật văng sanh. Kẻ
ác và súc sanh sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới cũng viên chứng ba thứ Bất Thoái, tứ
giáo của Thiên Thai chẳng thể sánh bằng! Sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là hạ
hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư
cũng viên chứng ba thứ bất thoái. V́ thế nói “khởi bất thắng diệu
trực tiệp, dị hồ chư giáo” (há chẳng phải
là thù thắng, nhiệm mầu, thẳng thừng, nhanh
chóng, khác với các giáo). “Chư
giáo” là Tạng, Thông, Biệt, Viên như tông Thiên Thai
đă nói. [Bất thoái trong cơi Tịnh Độ] vượt
trỗi Bất Thoái trong tứ giáo quá ư là xa!
(Sớ) Xứng Lư, tắc tự tánh thường trụ,
thị bất thoái chuyển nghĩa.
(疏) 稱理,則自性常住,是不退轉義。
(Sớ: Xứng Lư th́ tự tánh thường trụ
là ư nghĩa bất thoái chuyển).
Đoạn này hội quy tự tánh, cũng
chính là “tiêu quy tự tánh”
như trong Giáo Hạ thường nói. Cổ đức rát
miệng buốt ḷng dạy bảo chúng ta, dạy chúng ta
phương pháp tu học: Nghe kinh phải tiêu quy tự
tánh. Tiêu (消) là tiêu hóa, quy (歸) là trở về.
Sau khi nghe phải tiêu hóa, phải viên dung, trở về tự
tánh, như vậy th́ thật sự nghe đạt tâm đắc,
thật sự có thọ dụng. Thông thường, trong Phật
môn hay nói “đă khai ngộ”, [tiêu quy tự tánh là] sau khi
đă nghe bèn khai ngộ. Nhà Thiền nói “khai ngộ”, Giáo Hạ
nói “đại khai viên giải” đều có nghĩa là “trở
về tự tánh”, tiêu quy tự tánh. Khởi tác dụng ngay
trong cuộc sống hằng ngày th́ gọi là “tu hành”; tu hành
phải cốt sao chuyển thức thành trí. “Chuyển thức
thành trí” được hiểu như thế nào? Thức
là cảm t́nh, Trí là lư trí. Trong cuộc sống hằng ngày,
xử sự, đăi người, tiếp vật phải
chuyển biến cảm t́nh thành lư trí, đây là điều
quan trọng nhất trong tu hành. Sự hành tŕ của Phật,
Bồ Tát là lư tánh, sự hành tŕ của phàm phu là cảm
t́nh. Do cảm t́nh nên mới có phiền năo, khổ nạn,
chứ lư tánh sẽ chẳng có phiền năo. Lư tánh hiển lộ
trí huệ, vô lượng trí huệ, là công đức, chẳng
phải là phiền năo, mà cũng chẳng phải là đau
khổ. Liên Tŕ đại sư chú giải kinh Di Đà,
điểm đặc sắc lớn nhất là sau mỗi
đoạn kinh văn đều nêu ra báo cáo tâm đắc
của chính ḿnh. Xứng Lư chính là tâm đắc của Liên
Tŕ đại sư. Ngài tiêu quy tự tánh đoạn
văn này như thế nào, điều ấy đáng để
chúng ta học tập, hăy nên đặc biệt chú ư. Ngài chú
giải như vậy, khá nhiều bản chú giải
xưa nay chẳng có những đoạn như thế. Xứng
Lư là xứng tánh, tiêu quy tự tánh.
Trên thực tế,
“bất thoái chuyển” là “tự tánh thường trụ”.
Nh́n từ góc độ này, không chỉ là người giác
ngộ bất thoái chuyển, mà kẻ mê hoặc, điên
đảo cũng chẳng thoái chuyển, bất quá là chính
quư vị tự mê mất tự tánh. Chư Phật, Bồ
Tát nói phương tiện [sự mê mất ấy] là “thoái
chuyển”, thật ra thoái ở chỗ nào? Đúng như đức
Phật đă nói trong kinh Hoa Nghiêm hoặc kinh Viên Giác: “Hết thảy chúng sanh vốn
đă thành Phật”, lời ấy là thật. Quư vị vốn
là Phật, hiện thời quư vị có phải là Phật
hay không? Chư Phật thấy quư vị vẫn là Phật,
chỉ là bản thân quư vị chẳng thừa nhận chính
ḿnh là Phật, bản thân quư vị cũng chẳng có cách
nào thừa nhận chính ḿnh là Phật, v́ sao? Một thân
đầy phiền năo, óc chứa đầy vọng niệm.
Danh từ “vọng niệm” tuyệt lắm! Niệm là vọng,
vọng là chẳng thật. “Chẳng thật” th́ nói thật
ra, nó chẳng dính dáng đến chân tánh, [bởi lẽ],
trong chân tánh của quư vị chẳng có vọng niệm.
Nhưng hiện thời, quư vị đang mê ở chỗ
nào? Quư vị chẳng dùng chân tánh, mà dùng vọng niệm, rất
đáng tiếc, hỏng là hỏng ở chỗ này! Cũng
có nghĩa là quư vị dùng giả, chẳng dùng thật. Lại
nói khó nghe hơn là xử sự đăi người tiếp
vật đều dùng giả tâm, chẳng dùng chân tâm, đó
là phàm phu. Chư Phật, Bồ Tát dùng chân tâm, chẳng dùng
giả tâm. Nay chúng ta có chân tâm mà chẳng dùng, lại dùng vọng
tâm, cho nên là phàm phu. Tuy dùng vọng tâm, chân tâm của quư vị
chẳng tăng, chẳng giảm; chân tâm trọn chẳng
mất đi, mà cũng chẳng bị khuyết thiếu
chút nào! Do đó, Phật nh́n chúng sanh là nh́n vào chân tâm của
quư vị. Chân tâm của quư vị viên măn, nh́n từ chỗ
này, đó là bất thoái chân thật.
(Sao) Thí như hư không, tự cổ cập kim, bất
tằng thoái chuyển. Túng dục thoái chuyển, thoái chí hà
sở?
(鈔) 譬如虛空,自古及今,不曾退轉,縱欲退轉,退至何所。
(Sao:
Ví như hư không, từ xưa tới nay chưa từng
thoái chuyển. Dẫu muốn thoái chuyển th́ thoái đến
nơi đâu?)
Chân Như bản tánh chẳng tăng, chẳng
giảm, quư vị lui về đâu? Chẳng lui được!
Hễ mê th́ có tiến, có lùi. Đă ngộ bèn chẳng có tiến,
mà cũng chẳng có lùi. Xứng tánh là nh́n từ Tánh Đức
viên măn. Đó là Lư, mà cũng là Thể. Hiểu rơ đạo
lư này, nhận biết bản thể, mới hiểu bất
thoái vốn sẵn trọn đủ. Nếu là vốn sẵn
trọn đủ, vốn có, sẽ quyết định có
thể chứng đắc, chúng ta mới có thể đoạn
nghi sanh tín nơi Phật pháp, tín tâm mới có thể kiến
lập.
Nhị,
thượng thủ.
(Kinh) Kỳ trung đa hữu Nhất Sanh Bổ
Xứ, kỳ số thậm đa, phi thị toán số sở
năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ thuyết.
(Sớ)
Thừa thượng ngôn “sanh bỉ quốc giả”, khởi
duy bất thoái? Phục hữu Bổ Xứ Bồ Tát bất
khả thắng kỷ, thâm khuyến cầu sanh dă.
二、上首。
(經) 其中多有一生補處。其數甚多。非是算數所能知之。但可以無量無邊阿僧祇說。
(疏) 承上言生彼國者,豈惟不退。復有補處菩薩不可勝紀,深勸求生也。
(Hai là [nói về bậc]
thượng thủ [trong số các vị A Bệ Bạt
Trí Bồ Tát].
Kinh: Trong số đó có nhiều vị là Nhất Sanh Bổ
Xứ, số ấy rất nhiều, chẳng thể do
tính toán để có thể biết được, chỉ
có thể nói là “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”.
Sớ: Tiếp nối ư trong phần trên “người sanh về
cơi ấy” há chỉ là chẳng thoái chuyển, mà lại c̣n
có hàng Bổ Xứ Bồ Tát không thể kể xiết, nhằm
sâu xa khuyên [người nghe] hăy nên cầu văng sanh).
Không chỉ là văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, quư vị quyết định chẳng bị
thoái chuyển. Tôi nghĩ các đồng tu đều có thể
rất tin tưởng chẳng nghi lời này. V́ sao? Chúng
tôi đă giảng bộ Sớ Sao này đến lần thứ
ba, Yếu Giải cũng đă giảng rất nhiều lần.
Chư vị cũng nghe giảng kinh Đại Thừa Vô
Lượng Thọ rất nhiều lần. Tôi tin tưởng
quư vị chẳng đến nỗi lại có nghi hoặc
đối với những ư nghĩa trong kinh, xác thực là
[người văng sanh Cực Lạc] chứng trọn vẹn
ba món Bất Thoái. Càng khó có là trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, hàng Bổ Xứ Bồ Tát đông đảo,
đông đến nỗi quư vị chẳng có cách nào tính
toán được!
(Sao) Thâm khuyến cầu sanh giả.
(鈔) 深勸求生者。
(Sao: “Sâu xa khuyên hăy nên cầu sanh”).
Khuyên chúng ta hăy cầu sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
(Sao) Sanh giai bất thoái, dĩ siêu dư quốc.
(鈔) 生皆不退,已超餘國。
(Sao: Hễ văng sanh đều bất thoái, [điều
này] đă vượt trỗi các cơi nước khác).
“Dư quốc” là các cơi nước
của chư Phật. Thế giới này là cơi nước
của Thích Ca Mâu Ni Phật, tức thế giới Sa Bà.
(Sao) Phục đa Bổ Xứ, khả vị siêu việt
thù thắng, cực kỳ chí dă.
(鈔) 復多補處,可謂超越殊勝,極其至也。
(Sao: “Lại có nhiều vị Bổ Xứ”, có thể
nói là vượt trỗi thù thắng, đạt tới tột
bậc vậy).
Trong thế gian này, tôi tin tưởng là những
người đă dấn thân vào xă hội đều có cảm
xúc: Cư xử giữa con người với nhau rất
khó, làm việc đă khó khăn, làm người càng khó
hơn. Ngôn ngữ, động tác chỉ hơi thiếu cẩn
thận liền khiến cho kẻ khác hiểu lầm, tạo
thành mối hiềm khích trong tương lai, đem lại
nhiều nỗi khổ nạn. Nhỏ th́ là va chạm giữa
người với người, lớn là sự hiểu lầm
giữa các quốc gia. V́ thế, hoàn cảnh nhân sự tốt
đẹp th́ quư vị ở nơi đâu cũng đều
là người tốt, chuyện này chẳng dễ dàng! Hoàn
cảnh nhân sự trong thế giới Tây Phương là bậc
nhất, trong hết thảy các thế giới của
chư Phật đều chẳng có [hoàn cảnh tốt đẹp
như vậy], v́ sao? Hàng Bổ Xứ Bồ Tát đông
hơn những Bồ Tát thuộc các địa vị
trước đó. Bổ Xứ Bồ Tát là hạng người
nào? Đẳng Giác Bồ Tát, [tức là] những vị Bồ
Tát giống như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền
rất nhiều. Nói thật ra, các Ngài chẳng khác Phật!
Nếu chúng ta đă biết thế giới Tây Phương
có hoàn cảnh nhân sự tốt đẹp như vậy, cớ
sao chẳng mong đến đó? Hoàn cảnh vật chất
vẫn kém quan trọng hơn, hoàn cảnh nhân sự quan trọng
nhất. Nơi ấy là chỗ các vị thượng thiện
nhân nhóm họp cùng một chỗ, “thượng thiện” là nói tới các vị Bổ
Xứ Bồ Tát.
(Sớ) Bổ Xứ giả, chỉ thử nhất
sanh, thứ bổ Phật vị, tức Đẳng Giác Bồ
Tát dă.
(疏) 補處者,止此一生,次補佛位,即等覺菩薩也。
(Sớ: Bổ Xứ là chỉ một đời
này, đời sau sẽ bổ vào địa vị Phật,
tức là bậc Đẳng Giác Bồ Tát vậy).
Bổ Xứ là Hậu
Bổ Phật. Các Ngài là Đẳng Giác Bồ Tát, ở
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chờ
“bổ nhiệm vào địa vị Phật”. Người
đông như thế, đến năm nào mới có thể
tới lượt làm Phật? Chư vị phải hiểu,
địa vị Hậu Bổ Phật không nhất định
là sẽ nối tiếp ngôi vị Phật của Tây
Phương A Di Đà Phật. Chẳng phải vậy,
mười phương thế giới, nơi nào có Phật
nhập Niết Bàn, Bồ Tát thấy nơi ấy có duyên với
Ngài bèn đến đó làm Phật. Kinh Đại Thừa
Vô Lượng Thọ đă nói rất rơ ràng, tức là nói
thế giới Sa Bà có bốn mươi ức chúng sanh, các
chúng sanh nào vậy? Chính là chúng sanh như chúng ta trong hiện
tại, trong tương lai văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, tu hành trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới cũng trở thành Hậu Bổ Phật, đạt
đến địa vị Bổ Xứ Bồ Tát. Trong
tương lai, nơi nào trong mười phương thế
giới có duyên với quư vị, bèn đến đó làm Phật,
cùng có hiệu là Diệu Âm Như Lai. Trong kinh đă nói rất
rơ ràng! Do vậy có thể biết, “hậu bổ” có phạm vi hết sức rộng
lớn, chính là tận hư không khắp pháp giới hết
thảy các cơi Phật. Đoạn kinh văn cuối kinh Vô
Lượng Thọ ấy chẳng thể nghĩ bàn! Thông
thường, khu vực giáo hóa của một đức Phật
là một thế giới. Một ngàn vị Phật thuộc
Hiền Kiếp là vị này nối ngôi vị kia làm Phật.
Như Thích Ca Mâu Ni Phật th́ người nối ngôi vị
Phật của Ngài chính là Di Lặc Bồ Tát, Vi Đà Bồ
Tát là vị Phật cuối cùng trong một ngàn vị Phật
ấy. Các Ngài từng vị nối tiếp nhau, từ từ
bổ xứ trong cùng một thế giới. [Trong khi
đó, Hậu Bổ Phật trong] thế giới Tây
Phương là đến các thế giới của mười
phương chư Phật để làm Phật, ư nghĩa
này khác biệt rất lớn. Do điều này, có thể
chứng thực: Giáo khu của A Di Đà Phật là tận
hư không khắp pháp giới, chẳng phải là thế
giới Cực Lạc đơn độc, chúng ta nhất
định phải nhận thức rơ ràng điều này.
V́ thế, nói “mười
phương hết thảy chúng sanh v́ sao đều mong cầu
sanh về Tịnh Độ, hết thảy chư Phật
Như Lai đều khuyên người khác niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ”, trong ấy, nhất định
là có đạo lư to lớn. Đạo lư to lớn ấy
chính là ở ngay nơi đây, nhằm khuyên lơn chúng ta.
(Sao) Chỉ thử nhất sanh giả, thử độ
tu hành, xả thân, thọ thân, thiên sanh vạn sanh, vị hữu
cùng dĩ.
(鈔) 止此一生者,此土修行,捨身受身,千生萬生,未有窮已。
(Sao:
“Chỉ một đời này”: Tu hành trong cơi này, xả thân,
thọ thân, ngàn đời vạn đời chẳng có
cùng tận).
Nói
đến thế giới này, nói tới trạng huống
trước mắt, chúng ta xác thực là như vậy. Trong
thế giới Sa Bà, chúng ta chẳng có cách nào vượt
thoát! Đời đời kiếp kiếp tu hành trong thế
giới này, tu một khoảng thời gian, thọ mạng
đă hết. Thọ mạng chấm dứt, lại bị
luân hồi, chẳng biết luân hồi đến nơi
đâu! Nếu lại được làm thân người, lại
may mắn gặp gỡ Phật pháp, tu mấy chục
năm rồi lại hết chuyện. Từ vô lượng
kiếp tới nay đă làm theo kiểu đó, hễ bị
mê khi cách ấm bèn lại thoái chuyển, mỗi đời
đều khởi sự từ đầu! Đời
đời kiếp kiếp đều phải khởi sự
từ đầu. Trong đời quá khứ, chẳng biết
chúng ta đă tu bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp, tới nay vẫn
là t́nh trạng này, quư vị bèn biết tu hành trong thế giới
này khó khăn lắm!
(Sao) Năi chí chứng Tam Quả giả, do thượng
hữu sanh.
(鈔) 乃至證三果者,猶尚有生。
(Sao: Cho đến bậc đă chứng Tam Quả,
hăy c̣n có sanh).
Đây là nói theo Tiểu Thừa. Tiểu Thừa
chứng đắc Sơ Quả, bảy lần qua lại
trong nhân gian hoặc cơi trời. Chứng đắc Nhị
Quả bèn một lần tái sanh [nơi nhân gian]. Tam Quả ở
trong Ngũ Bất Hoàn Thiên thuộc Tứ Thiền của
Sắc Giới, vẫn chưa ra khỏi tam giới, nên nói
là “do thượng hữu sanh”
(hăy c̣n có sanh).
(Sao) A La Hán địa, phương đoạn hậu
hữu.
(鈔) 阿羅漢地,方斷後有。
(Sao: Địa vị A La Hán mới đoạn hết,
chẳng c̣n thân đời sau).
Nhất định phải chứng đắc
Tứ Quả La Hán th́ mới vượt thoát tam giới.
(Sao) Tuy đoạn hậu hữu, bất đắc
thành Phật.
(鈔) 雖斷後有,不得成佛。
(Sao: Tuy đă đoạn thân trong đời sau, chẳng
được thành Phật).
Tuy
A La Hán đă vượt thoát tam giới, Ngài có thể thành
Phật hay không? Không thể! V́ sao? Chỉ đoạn Kiến
Tư phiền năo, chứ Trần Sa và Vô Minh hăy c̣n. Chỉ
có Định, [tức là] có Cửu Thứ Đệ Định.
Định ấy sâu xa, sâu hơn Thiền Định thế
gian. Thế gian là Tứ Thiền Bát Định. Định
của [bậc La Hán] c̣n sâu hơn Định thế gian một
tầng, nên chúng ta gọi nó là Đệ Cửu Định,
đă vượt thoát. [Tuy có] Định mà chẳng khai huệ!
Nhất định phải khai trí huệ th́ mới có thể
phá Trần Sa và Vô Minh, mới có thể chứng Pháp Thân
thành Phật. V́ lẽ đó, A La Hán và Bích Chi Phật đều
chưa được thành Phật. Đây là nói tới sự
khó khăn do tu hành trong thế giới này.
(Sao) Kim thử duy dư nhất sanh, thứ tức bổ
Phật, tiền như Hộ Minh, hậu như Từ Thị,
Bồ Tát chi cực vị dă.
(鈔) 今此唯餘一生,次即補佛,前如護明,後如慈氏,菩薩之極位也。
(Sao:
Nay chỉ c̣n sót lại một đời này, đời kế
tiếp liền bổ xứ làm Phật, trước là
như ngài Hộ Minh, sau là như ngài Từ Thị, địa
vị tột bậc trong hàng Bồ Tát).
Nói đến Tây Phương Tịnh Độ,
người niệm Phật cầu sanh thế giới Cực
Lạc chỉ có một đời này, trong một đời
chúng ta bèn thực hiện viên măn chuyện này. Trong một
đời được bổ vào địa vị Phật,
có thể chứng đến địa vị Hậu Bổ
Phật th́ trong đời này chẳng có sanh tử luân hồi,
v́ sao? Tây Phương Cực Lạc thế giới là vô
lượng thọ. Sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh, thọ
mạng của quư vị giống như A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật vô lượng thọ, quư vị cũng
là vô lượng thọ. Do đó, từ địa vị
phàm phu măi cho đến khi thành Phật, trong một đời
bèn làm xong, chẳng cần qua đời khác!
Tiếp đó, Ngài nêu một tỷ dụ: “Tiền như Hộ Minh” (Trước
là như Hộ Minh). Hộ Minh (Prabhāpāla)
là Thích
Ca Mâu Ni Phật, [tức là] trước khi Thích Ca Mâu Ni Phật
thành Phật, Ngài làm Hậu Bổ Phật trong Đâu Suất
Thiên, có tên là Hộ Minh Bồ Tát. Hiện thời, trong
Đâu Suất Thiên, vị bổ xứ vào địa Phật
nối tiếp Thích Ca Mâu Ni Phật là Di Lặc Bồ Tát, Từ
Thị là Di Lặc Bồ Tát. Địa vị này là “Bồ Tát chi cực vị dă”,
tức là địa vị Bồ Tát cao nhất; nếu lên
cao hơn nữa, Ngài sẽ thành Phật. Chúng ta đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong
tương lai sẽ là địa vị này, ai nấy
đều chứng đắc địa vị Bồ Tát
viên măn tức là Bổ Xứ Bồ Tát, hoặc c̣n gọi
là Đẳng Giác Bồ Tát.
(Sao) Hựu Đại
Bổn vân.
(鈔) 又大本云。
(Sao: Kinh Đại Bổn
lại nói).
Lại nêu ra điều được nói trong
kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ.
(Sao) Sanh bỉ quốc giả, giai cụ tam thập
nhị tướng, cứu cánh thâm nhập diệu pháp yếu
nghĩa, giai đương nhất sanh toại bổ Phật
xứ.
(鈔) 生彼國者,皆具三十二相,究竟深入妙法要義,皆當一生遂補佛處。
(Sao: Người sanh trong cơi ấy đều có
đủ ba mươi hai tướng, rốt ráo thâm nhập
nghĩa lư trọng yếu của diệu pháp, đều sẽ
được bổ làm Phật trong một đời).
Đối với đoạn kinh văn này,
chúng ta có thể nói là bản hội tập kinh Vô Lượng
Thọ của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư là bản có
kinh nghĩa (nghĩa lư của một bản kinh) viên măn nhất.
Xem một quyển ấy tức là xem trọn năm bản
dịch gốc, ư nghĩa hoàn toàn được bao gồm
trong ấy. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, tướng hảo, quang minh, trí huệ và đức
năng đều như A Di Đà Phật. A Di Đà Phật
có ba mươi hai tướng, mỗi người chúng ta
đều có ba mươi hai tướng. Ba mươi hai
tướng và tám mươi thứ hảo đều là
đức Thế Tôn nói phương tiện, v́ lũ phàm
phu chúng ta trong thế gian mà nói [đại lược]. V́
nói nhiều với quư vị, tuy nhiều nhưng do quư vị
chẳng thấy, cũng chẳng tin tưởng! Thật
ra, A Di Đà Phật có vô lượng tướng, mỗi
tướng có vô lượng hảo, không chỉ là ba
mươi hai.
“Sanh bỉ quốc
giả” (Người sanh về cơi ấy) trên từ
Đẳng Giác cho tới dưới là chúng sanh trong ác
đạo, chỉ cần đầy đủ ba điều
kiện Tín Nguyện Hạnh sẽ quyết định
văng sanh. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới
bèn tương tự như Phật, tức là “cứu cánh thâm nhập diệu
pháp yếu nghĩa”. Câu này khó có! “Diệu pháp” là nói Đại Thừa Phật pháp.
“Cứu cánh thâm nhập” (rốt
ráo thâm nhập): Chẳng văng sanh, sẽ không thể rốt
ráo thâm nhập. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát
nói mười đại nguyện vương của Ngài
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mới
viên măn. Do vậy có thể biết, trước khi Phổ
Hiền Bồ Tát văng sanh, Ngài ở trong thế giới Hoa
Tạng. Trong thế giới Hoa Tạng, mười đại
nguyện vương của Ngài vẫn chưa thể viên
măn, vẫn phải tới Tây Phương Cực Lạc thế
giới th́ mới viên măn. Có thể thấy thế giới
Tây Phương mới thật sự là “rốt ráo thâm nhập”. Chúng ta cầu văng sanh, mỗi
người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, câu này là bổn phận của quư vị, quư vị
rốt ráo thâm nhập nghĩa lư trọng yếu của diệu
pháp. Do đó, pháp này được gọi là pháp khó tin.
Trong một bài kệ, Hạ lăo cư sĩ đă nói pháp này
là “ức vạn nhân trung nhất
nhị tri” (trong ức vạn người, [chỉ có] một
hai kẻ biết). Đừng nói là kẻ học Phật
b́nh phàm không biết, nhiều vị đại đức
tổ sư các tông phái trong Phật môn đều không biết,
có thể thấy là khó khăn, thật sự khó lắm!
Đă biết th́ nhất định chuyên tu, chuyên hoằng,
giống như kẻ thật sự hiểu biết rơ giá
trị, đă biết rơ giá trị, đương nhiên sẽ
chọn lấy món tốt nhất, lẽ đâu chọn món
kém cỏi hơn? Chẳng đem thứ tốt nhất bố
thí cho người khác, lại đem thứ kém hơn, hoặc
kém tệ hơn nữa cho người ta, lẽ nào chẳng
có lỗi với người khác? Đây là đạo lư nhất
định. Trừ phi kẻ ấy chẳng biết rơ giá
trị th́ chẳng có cách nào cả. Kẻ ấy ngỡ thứ
kém cỏi hơn hoặc thứ tệ hơn nữa là loại
bậc nhất, hiểu lầm mất rồi! V́ thế,
câu này nói thật hay!
“Giai
đương nhất sanh toại bổ Phật xứ”
(Đều sẽ được bổ làm Phật trong một
đời này). Thưa cùng chư vị, đây là công đức
lợi ích thù thắng nhất do sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Chẳng có ǵ vượt trội
thù thắng hơn điều này, thành Phật ngay trong một
đời! V́ vậy, pháp môn này là pháp môn thành Phật trong một
đời, đúng là khó tin, dễ tu! Dễ tu là so sánh hết
thảy các pháp môn, pháp này dễ dàng nhất. Dễ tu,
nhưng quư vị ắt phải buông hết thảy các pháp
thế gian và xuất thế gian xuống th́ mới quyết
định thành tựu. Bí quyết niệm Phật là “chẳng hoài nghi, chẳng gián
đoạn, chẳng xen tạp”, chư vị làm
được chín chữ ấy, sẽ quyết định
văng sanh, đó là “vạn người
tu, vạn người đến”. Quư vị hoài nghi pháp
này, hoặc công phu gián đoạn, hoặc xen tạp, sẽ
chẳng đáng trông cậy! Xen tạp là ǵ? Vừa niệm
kinh, vừa bái sám, lại làm pháp hội, c̣n muốn xem Phong
Thủy, đoán mạng, xem chuyện cát hung họa phước,
như vậy th́ chẳng có niềm kỳ vọng to lớn
chi cả, quyết định chớ nên xen tạp! Chẳng
xen tạp th́ gọi là thuần, chẳng gián đoạn là
tấn, tức là tinh tấn.
Trong
các đồng học chúng ta, tôi biết có mấy vị niệm
Phật khá lắm, có thể niệm đến mức
trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ Phật
hiệu chẳng gián đoạn. Họ có thể không ngủ
nghê, niệm đến mức tinh thần rất sung măn,
nghỉ ngơi qua loa một hai tiếng đồng hồ
bèn có thể làm việc, đó là công phu đắc lực,
xác thực là đă tiêu nghiệp chướng. Nghiệp
chướng là ǵ? Ngủ nghê là nghiệp chướng, mệt
mỏi là nghiệp chướng. Họ niệm đến
mức không mệt mỏi, không cần ngủ, đó là hiện
tượng nghiệp chướng tiêu trừ. Lần này,
tôi sang Bắc Kinh, có mấy vị đồng tu niệm Phật,
tôi cũng chẳng quen biết họ. Lần đầu
tiên họ nghe nói tới tôi, bèn đến t́m tôi. Họ đến
từ Thiên Tân Cư Sĩ Lâm, nghe băng thâu âm lời giảng
của chúng tôi thuở trước ở Đồ Thư
Quán, chỉ có nửa bộ đầu, chẳng có nửa
bộ sau. Sau khi nghe xong nửa bộ đầu, họ bèn
y giáo phụng hành, nghiễm nhiên cũng có người hai
mươi bốn tiếng đồng hồ chẳng gián
đoạn, chẳng xen tạp, nghiệp chướng tiêu
trừ giống y hệt, chẳng mệt, chẳng chán, rất
khó có! Họ nói: “Thưa pháp sư! Chúng con làm theo lời thầy
dạy, quả nhiên thầy chẳng lừa dối chúng
con. Những lời thầy đă giảng chúng con đều
chứng thực, nghiệp chướng tiêu trừ, phước
huệ tăng trưởng”. Họ rất phát tâm, lần
lượt lưu thông băng thâu âm ấy. Thâu nhập của
họ hết sức ít ỏi, mỗi tháng chỉ là hơn
một trăm Nhân Dân Tệ[3], họ
bớt ăn bớt xài để mua băng thâu âm lưu
thông, thật sự đáng kính phục! Tôi thấy vậy
vô cùng cảm động. Tiếp theo đây là nói theo tỷ
dụ.
(Sao) Cứ thử.
(鈔) 據此。
(Sao:
Dựa theo đó).
Căn cứ theo những điều Đại
Kinh đă nói.
(Sao) Tắc như trữ quân tạm tại Đông
Cung, tất thiệu nam diện, phi dư bách quan triển
chuyển thăng tấn, chỉ thị vị cực nhân
thần chi tỷ dă.
(鈔) 則如儲君暫在東宮,必紹南面,非餘百官展轉陞進,止是位極人臣之比也。
(Sao: Giống như thái tử ở tạm tại
Đông Cung, ắt sẽ nối ngôi hoàng đế[4], chẳng như
bá quan lần lượt thăng chức, [tối đa là]
chỉ đạt tới địa vị tột bậc
trong hàng bầy tôi mà ḥng sánh bằng).
Dùng chế độ trong quá khứ để
nói. Người cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới ví như hoàng thái tử. Hoàng thái tử tuy ở
Đông Cung, trong tương lai, sau khi hoàng đế đă
chết, nhất định sẽ kế thừa
vương vị. Trọn chẳng giống bá quan văn
vơ thông thường dần dần thăng chức,
thăng lên tới địa vị cao nhất cũng bất
quá là Tể Tướng mà thôi, không thể làm hoàng đế.
Chẳng thể sánh bằng! Đây là tỷ dụ điều
ǵ? Quư vị tu các pháp môn khác giống như văn vơ bá quan,
có thân phận như vậy. Quư vị cầu sanh Tịnh
Độ giống như thân phận vương thái tử[5].
Dùng chuyện này để tỷ dụ, chúng ta thấy rất
dễ hiểu! Cầu sanh Tịnh Độ và tu học
các pháp môn khác không thể cùng xếp ngang hàng để bàn
luận được, chẳng thể so sánh!
(Sao) Thử đẳng Bồ Tát, hàm giai văng sanh, bạc
liệt Tây Phương, bất sủy thậm hỹ.
(鈔) 此等菩薩,咸皆往生,薄劣西方,不揣甚矣。
(Sao: Các vị Bồ Tát ấy thảy đều
văng sanh. Những kẻ khinh thường Tây Phương
sao chẳng xét suy quá đỗi!)
“Thử đẳng Bồ Tát” (Các vị Bồ Tát
ấy) là nói tới các vị Đẳng Giác Bồ Tát, giống
như trong kinh Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền c̣n mong
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Văn Thù và Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát trong
thế giới Hoa Tạng, các Ngài đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới để làm ǵ?
Chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm, suy đi nghĩ lại, chỉ
thấy có một lư do: Để thành Viên Giáo Phật. Đẳng
Giác Bồ Tát nếu tiến lên cao hơn sẽ thành Phật.
Nếu chẳng v́ thành Phật, Ngài có lư do ǵ mà văng sanh thế
giới Tây Phương? Chẳng có lư do! Nói như vậy,
ngoài thế giới Tây Phương, [nếu ở trong] thế
giới Hoa Tạng sẽ chẳng thể thành Viên Giáo Phật
ư? Có lẽ cũng thành được, nhưng có thể
là thời gian rất lâu, chẳng được nhanh chóng
như trong thế giới Tây Phương. Có lẽ là cũng
có thể thành, nhưng Đẳng Giác Bồ Tát trong thế
giới Hoa Tạng có thể chẳng nhiều như trong
thế giới Tây Phương, thật đấy! Do
đó, chẳng có ai không hy vọng văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới. “Hàm giai
văng sanh”, chúng ta thấy hiện tượng như vậy,
vẫn chẳng phát nguyện cầu sanh Tây Phương th́
thầy Lư nói kẻ như vậy “chẳng phải là ngu si, th́ là cuồng vọng”,
đó là kẻ có vấn đề. Một người thần
trí rất b́nh thường, thấy hiện tượng
này, nhất định phát tâm cầu sanh Tây Phương. “Bạc liệt Tây Phương”: “Bạc liệt” (薄劣) là ǵ? Coi rẻ thế giới Tây Phương, thấy
thế giới Tây Phương thấp kém. Người
như vậy, nói theo kiểu hiện thời là “rất thiếu tự lượng
sức”. “Bất sủy thậm hỹ” (Chẳng suy xét
quá đỗi), quá sức thiếu tự lượng!
Hiện thời, [thiên hạ đa số] xem
thường thế giới Tây Phương, chẳng coi trọng,
nhất là bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ
của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, nhiều người
chẳng thèm ngó tới! Thế gian hiện thời là đời
loạn, chúng ta cũng chẳng thể miễn cưỡng
biện bác cùng kẻ khác. Gắng sức biện bác về
giáo pháp cùng kẻ khác chỉ tổn hại, chẳng có lợi
ích. Không biện bác vẫn tốt hơn! Lục Tổ
đại sư nói rất hay: Nếu chẳng phù hợp
căn cơ, chắp tay khiến cho kẻ ấy hoan hỷ,
chẳng cần phải tranh luận. Họ tu pháp của họ,
chúng ta tu pháp của chúng ta; như thế là tốt đẹp.
Chúng ta cung kính tán thán họ. Họ phê b́nh, chỉ trích, hủy
báng chúng ta, chúng ta vẫn cứ thật thà niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ. Chúng ta không bàn chuyện quá khứ,
thấy những người văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới trước mắt, đó là chứng
cứ, chẳng giả! Tại Đại Lục, tại
Hương Cảng, ở Tân Gia Ba cũng có, ở Đài
Loan nhiều nhất. Bốn mươi năm qua, bao nhiêu
người niệm Phật văng sanh. Đứng mất, ngồi
mất, biết trước lúc mất, không ngă bệnh mà mất.
Những chuyện ấy ngàn vạn phần xác đáng, tuyệt
đối chẳng phải là giả, rất ư là nhiều!
Nói thật ra, những người ấy đă hiện
thân thuyết pháp, [thế mà] vẫn chẳng tin th́ hết
cách! Tam chuyển pháp luân trong Phật pháp là thị chuyển,
khuyến chuyển, và tác chứng chuyển. Những
người ấy đă chứng minh cho quư vị, nhưng
quư vị vẫn chẳng tin, hết cách rồi! Thật sự
là phường Nhất Xiển Đề, chẳng có thiện
căn. Hôm nay tôi giảng tới chỗ này!
Tập 206
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm
mười hai:
(Sớ) Vấn: Bỉ xứ Quán Âm, thứ
đương bổ Phật, thứ năi Thế Chí. Thế
Chí chi hậu, bất văn bổ giả. Kim ngôn “Bổ Xứ
thậm đa”, hà nhật đương bổ? Hựu Bổ
Xứ giả, Bồ Tát địa tận, trụ Đẳng
Giác vị, như tinh trung nguyệt, hà đắc thậm
đa, nhi tại bỉ quốc?
(疏) 問:彼處觀音,次當補佛,次乃勢至,勢至之後,不聞補者,今言補處甚多,何日當補;又補處者,菩薩地盡,住等覺位,如星中月,何得甚多,而在彼國。
(Sớ:
Hỏi: Trong cơi ấy, ngài Quán Âm sẽ kế tiếp bổ
xứ làm Phật, rồi đến ngài Thế Chí. Sau ngài
Thế Chí, chẳng nghe nói có vị Bổ Xứ nào! Nay nói
“Bổ Xứ thật nhiều”, đến khi nào sẽ
được bổ nhiệm? Lại nữa, Bổ Xứ
là trọn hết địa vị Bồ Tát, trụ trong
địa vị Đẳng Giác, như vầng trăng giữa
các ngôi sao, cớ sao có thể hiện diện thật nhiều
trong nước ấy?)
Đoạn này nêu ra hai nghi vấn:
-
Thứ nhất là hoài nghi thế giới Tây Phương có
Bổ Xứ Bồ Tát nhiều ngần ấy, tới
năm nào, tháng nào họ mới được bổ làm Phật?
-
Vấn đề thứ hai là hoài nghi số lượng.
Thông thường, trong kinh điển chúng ta thấy trong một
thế giới Phật, Hậu Bổ Phật là một vị,
hai vị th́ quá lắm rồi! Cớ sao thế giới Tây
Phương có Hậu Bổ Phật đông đảo
như thế?
“Bỉ xứ” là nói đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tây
Phương Cực Lạc thế giới Quán Thế Âm Bồ
Tát là Hậu Bổ Phật trong thế giới Cực Lạc.
Trong tương lai, A Di Đà Phật nhập Bát Niết
Bàn, Quán Âm Bồ Tát liền thị hiện thành Phật
trong thế giới Tây Phương. Sau khi đă thành Phật,
Quán Âm Bồ Tát cũng có ngày nhập diệt. Sau khi Ngài nhập
diệt, Đại Thế Chí Bồ Tát liền hậu bổ
thành Phật. Sau Đại Thế Chí, [vị Bồ Tát nào
sẽ được bổ làm Phật], trong kinh Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng nói tới! [Đoạn
kinh nói tới] chuyện Quán Âm và Thế Chí hậu bổ
thành Phật được chúng tôi đưa vào Tịnh
Độ Ngũ Kinh Độc Bản, chư vị xem sẽ
biết. Người ta có nghi vấn ở chỗ này: Sau
ngài Đại Thế Chí, chẳng nghe nói thế giới
Tây Phương có Hậu Bổ Phật. Nay kinh nói thế
giới Tây Phương có Hậu Bổ Phật nhiều
ngần ấy, bèn hoài nghi: Vậy th́ họ phải đến
lúc nào mới tới phiên? A Di Đà Phật thọ mạng
vô lượng vô biên, Quán Âm Bồ Tát thành Phật thọ mạng
cũng là vô lượng vô biên, tuyệt đối chẳng
kém A Di Đà Phật. Thọ mạng dài như vậy mà nói
“đến cơi kia bèn chứng đắc Hậu Bổ Phật”,
cũng chẳng biết tới ngày nào mới được
bổ nhiệm?
Vấn
đề hoài nghi thứ hai là “Bồ
Tát địa tận”, đây là địa vị tột
đỉnh trong hàng Bồ Tát. Địa vị tột
đỉnh là địa vị Hậu Bổ Phật, chúng
ta gọi địa vị ấy là Đẳng Giác Bồ
Tát, giống như mặt trăng giữa các ngôi sao.
Đây là tỷ dụ, ví Phật như thái dương, ví
Hậu Bổ Phật như vầng trăng. Địa cầu
của chúng ta chỉ có một vầng trăng, chẳng phải
là rất nhiều. Đương nhiên cách nói này là nói theo
phía chúng sanh trên địa cầu. Đức Phật thuyết
pháp ở nơi này, nhất định ứng với
căn cơ của chúng sanh nơi đây, không thể nói
theo thế giới khác hoặc tinh cầu khác. Chúng ta biết
tinh cầu khác có đến mười mấy mặt
trăng, chẳng phải là không có, nhưng địa cầu
chỉ có một vầng trăng, chỉ có một vệ
tinh. V́ sao Tây Phương Cực Lạc thế giới có
nhiều Hậu Bổ Phật ngần ấy? Giống
như có nhiều vầng trăng dường ấy! Đó
là hai vấn đề, chúng ta xem lời giải đáp
như dưới đây.
(Sớ) Đáp: Bổ Xứ bất tất định
bổ Di Đà chi xứ. Thập phương thế giới
vô tận, chư Phật Niết Bàn vô tận, Bổ Xứ
Bồ Tát diệc vô tận, trụ bỉ quốc trung, nhi
đăi Bổ Xứ, hề vi bất khả!
(疏) 答:補處不必定補彌陀之處,十方世界無盡,諸佛涅槃無盡,補處菩薩亦無盡,住彼國中,而待補處,奚為不可。
(Sớ: Đáp: Bổ Xứ không nhất định
phải bổ làm Phật nơi chỗ Phật Di Đà.
Mười phương thế giới vô tận, chư Phật
nhập Niết Bàn vô tận, Bổ Xứ Bồ Tát
cũng vô tận, họ ở trong cơi ấy để
đợi Bổ Xứ, có ǵ là không thể được?)
Trong hết thảy các cơi Phật, chỉ riêng
thế giới Tây Phương là rốt ráo viên măn. Do vậy
có thể biết, từ đoạn kinh văn này, chúng ta
có thể suy tưởng: Hậu Bổ Phật trong mười
phương thế giới ở chỗ nào? Thảy đều
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới; do
vậy, Tây Phương Cực Lạc thế giới có Hậu
Bổ Phật đông đảo! Đông đến mức
độ nào? Kinh nói là chẳng có cách nào tính toán, vô lượng
vô biên! Những vị Đẳng Giác Bồ Tát ấy vốn
c̣n nhiều hơn số người văng sanh. Đó gọi
là “chư thượng thiện
nhân câu hội nhất xứ” (các vị thượng thiện
nhân ở chung một chỗ), chúng ta đă được
chứng minh. Câu này có nghĩa là: Hậu Bổ Phật trong
mười phương vô lượng vô biên các cơi Phật
đều tụ hội trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Tây Phương Cực Lạc là câu lạc
bộ của các vị Hậu Bổ Phật trong mười
phương cơi nước, các Ngài đều đến
đó. Đương nhiên là thế giới ấy thập
phần viên măn, hiếm có, khó gặp! Do vậy, những vị
Bổ Xứ Bồ Tát hoàn toàn chẳng phải là ở
nơi đó để chờ được bổ nhiệm
vào ngôi vị Phật của A Di Đà Phật, chẳng phải
vậy! Mười phương thế giới, nơi nào
có Phật nhập Niết Bàn, vị Bổ Xứ Bồ
Tát nào có duyên với thế giới ấy, đáng nên dùng
thân Phật để độ, bèn đến đó thị
hiện tám tướng thành đạo, thị hiện
thành Phật độ chúng sanh. Chuyện là như thế
đó. V́ thế, đối với chuyện Phật, Bồ
Tát ứng thế, kinh Hoa Nghiêm đă nói rất thấu triệt:
“Do chúng sanh cơ cảm”,
[nghĩa là] chúng sanh có cảm, những vị Bổ Xứ
Bồ Tát bèn có ứng. V́ lẽ đó, khi chúng ta tu hành
nơi nhân địa, phải kết pháp duyên rộng răi với
chúng sanh, v́ sao? Chẳng có duyên với chúng sanh th́ trong
tương lai quư vị thành Hậu Bổ Phật, đạt
đến Đẳng Giác Bồ Tát, mười
phương chúng sanh đều chẳng có cảm, quư vị
cũng vĩnh viễn chẳng làm Phật, v́ sao? Chẳng
ai cầu quư vị. Có thể thấy là kết pháp duyên rất
trọng yếu. Vấn đề thứ nhất đă
được giải quyết! Lại xem phần giải
đáp cho vấn đề thứ hai.
(Sớ) Hựu chư Phật thượng như vi
trần, vô hữu cùng tận, huống phục Bồ Tát, kỳ
số thậm đa, vô túc nghi dă, như Đại Bổn
trung thuyết.
(疏) 又諸佛尚如微塵,無有窮盡,況復菩薩,其數甚多,無足疑也,如大本中說。
(Sớ:
Lại nữa, chư Phật c̣n nhiều như vi trần,
chẳng có cùng tận, huống là Bồ Tát, số ấy
thật nhiều, há đáng nghi ư, như trong kinh Đại
Bổn đă nói).
Đại Bổn
là kinh Vô Lượng Thọ. Mười phương thế
giới, thế giới vô lượng vô biên, mỗi thế
giới đều có một vị Phật. Do thế giới
vô biên, nên chư Phật cũng vô lượng vô biên. Do Phật
là vô lượng vô biên, đương nhiên Bồ Tát
cũng là vô lượng vô biên. Chuyện này không đáng
để hoài nghi, kinh Vô Lượng Thọ đă nói rất
rơ ràng. Liên Tŕ đại sư trích lục chương cuối
cùng trong kinh Vô Lượng Thọ:
(Sao) Đại Bổn vân: Phật cáo Di Lặc: - Thử
thế giới trung, hữu thất bách nhị thập ức
Bồ Tát sanh bỉ, nhất nhất dĩ tằng cúng
dường vô ương số Phật.
(鈔) 大本云:佛告彌勒,此世界中,有七百二十億菩薩生彼,一一已曾供養無央數佛。
(Sao:
Kinh Đại Bổn nói: “Phật bảo Di Lặc: - Trong
thế giới này, có bảy trăm hai mươi ức Bồ
Tát sanh về cơi ấy, mỗi vị đă từng cúng
dường vô ương số Phật”).
Đây là Bồ Tát văng sanh, Bồ Tát nào vậy?
Đẳng Giác Bồ Tát. “Thử
thế giới” là thế giới Sa Bà. Có bảy trăm
hai mươi ức Đẳng Giác Bồ Tát văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Những vị
Bồ Tát ấy thiện căn vô cùng sâu dầy, “dĩ tằng cúng dường vô
ương số Phật” (đă từng cúng dường
vô ương số Phật).
(Sao) Như Di Lặc giả.
(鈔) 如彌勒者。
(Sao: Như Di Lặc).
Có địa vị giống như Di Lặc Bồ
Tát. Nói rơ: Đó là hàng Đẳng Giác Bồ Tát.
(Sao) Chư tiểu Bồ Tát, bất khả thắng
kỷ.
(鈔) 諸小菩薩,不可勝紀。
(Sao: Các vị tiểu Bồ Tát chẳng thể kể
xiết).
Tiểu Bồ Tát, tức là các vị Bồ Tát
thấp hơn Đẳng Giác, văng sanh chẳng thể kể
xiết. Số lượng quá nhiều, nói chẳng thể
hết được!
(Sao) Tha
phương thế giới, đệ nhất Quang Viễn
Chiếu Phật sở, hữu bát thập ức Bồ
Tát, giai đương văng sanh. Đệ nhị Bảo Tạng
Phật sở, hữu cửu thập ức. Đệ tam
Vô Lượng Âm Phật sở, hữu nhị bách nhị
thập ức. Triển chuyển chí thập tứ Phật
sát, dĩ cập vô lượng Phật sát, văng sanh giả
bất khả phục kế, đản thuyết Phật
danh, cùng kiếp bất tận, huống kỳ Bồ Tát
đương văng sanh giả, ngôn như Di Lặc, tắc
thậm đa Bổ Xứ, ích khả vi chứng.
(鈔) 他方世界,第一光遠照佛所,有八十億菩薩,皆當往生;第二寶藏佛所,有九十億;第三無量音佛所,有二百二十億;展轉至十四佛剎,以及無量佛剎,往生者不可復計。但說佛名,窮劫不盡,況其菩薩當往生者,言如彌勒,則甚多補處,益可為證。
(Sao:
Các thế giới phương khác, thứ nhất là ở
nơi Quang Viễn Chiếu Phật, có tám mươi ức
Bồ Tát sẽ đều văng sanh. Thứ hai là ở chỗ
Bảo Tạng Phật có chín mươi ức. Thứ ba
là ở chỗ Vô Lượng Âm Phật có hai trăm hai
mươi ức. Lần lượt cho tới cơi Phật
thứ mười bốn cùng với vô lượng cơi Phật,
người văng sanh không thể tính đếm được.
Chỉ nói danh hiệu Phật đă là trọn hết kiếp
cũng không thể nói hết, huống hồ là [nói tới
số lượng] các vị Bồ Tát văng sanh. Ví như
ngài Di Lặc, [trong cơi Cực Lạc] hàng Bổ Xứ Bồ
Tát rất đông, [điều này] càng chứng minh [rơ rệt
hơn]).
Chúng ta đọc đoạn kinh văn này trong
kinh Vô Lượng Thọ liền liễu giải: Nói thật
thà, hàng Đẳng Giác Bồ Tát sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới đông nhất, v́ sao? V́
Đẳng Giác Bồ Tát liễu giải y báo và chánh báo
trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
rơ ràng nhất. Nếu chẳng hiểu, trong hội Hoa
Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ
Tát, v́ sao các Ngài cầu văng sanh? V́ các Ngài biết hoàn cảnh
ấy quá rơ ràng! Nói theo phương diện tu học,
mười phương thế giới, hoàn cảnh tu học
trong bất cứ cơi Phật nào đều chẳng sánh bằng
Tây Phương Cực Lạc thế giới, cho nên đến
nơi đó (cơi Cực Lạc) để tu hành. Tuy ở
trong thế giới Tây Phương, nói thật ra, chẳng
ĺa cơi ḿnh, giống như Di Lặc Bồ Tát trong thế giới
này. Di Lặc Bồ Tát đang ngự trên Đâu Suất
Thiên, trong tương lai sẽ hạ sanh. Đấy là vị
Phật thứ năm trong Hiền Kiếp tại thế
giới Sa Bà, Phật Thích Ca là vị Phật thứ tư.
Hiện thời Ngài ở nơi đâu? Ngài ở trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, cũng là ở
trong Đâu Suất Nội Viện. Nói thật ra, các Ngài qua
lại trong ṿng một niệm. V́ thế, Đâu Suất Nội
Viện có Di Lặc Bồ Tát, mà Tây Phương Cực Lạc
thế giới cũng có Di Lặc Bồ Tát.
(Sớ) Như thượng y chánh nhị báo, hoặc
kinh văn trung hữu, bổn nguyện trung vô. Hoặc bổn
nguyện trung hữu, kinh văn trung vô, hỗ kiến vô ngại.
(疏) 如上依正二報,或經文中有,本願中無;或本願中有,經文中無,互見無礙。
(Sớ:
Đối với y báo và chánh báo như vừa nói trên
đây, hoặc là trong phần kinh văn có, nhưng bổn
nguyện không có, hoặc trong bổn nguyện có, nhưng
kinh văn chẳng có, xem đối chiếu lẫn nhau vô
ngại).
Đối với các thứ y báo và chánh báo của
thế giới Tây Phương như vừa nói trên đây
(y báo là hoàn cảnh vật chất, chánh báo là hoàn cảnh
nhân sự), hoặc là trong kinh nói cặn kẽ, có nhắc
tới, nhưng trong bốn mươi tám nguyện chẳng
nói, hoặc là trong bốn mươi tám nguyện có nói,
nhưng kinh văn chẳng nói đến. [Do đó], ắt
phải đối chiếu lẫn nhau.
Trong đoạn này, Liên Tŕ đại sư nêu
rơ: Thuở tại thế, Phật Thích Ca đă nhiều lần
tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ, mà kết tập
cũng là kết tập nhiều lần. Bởi lẽ,
nguyên bản tiếng Phạn của kinh này có nhiều loại,
chẳng phải chỉ là một loại được
truyền đến Trung Hoa. Cổ nhân khảo chứng,
đă thừa nhận là tối thiểu có ba bản gốc
bất đồng. Tại Trung Hoa, có mười hai bản
dịch. Nếu là cùng một bản gốc, cần ǵ phải
phiên dịch nhiều lượt như vậy? Do nguyên bản
bất đồng, [mỗi bản dịch trần thuật]
y báo và chánh báo tường tận hay đại lược.
Có điểm bản này có, bản kia chẳng có, hoặc bản
kia có, bản này chẳng có. Chính v́ như vậy nên mới
cần phải hội tập. Hiện thời, có rất
nhiều người phê phán bản hội tập, cho rằng
đọc kinh Vô Lượng Thọ th́ phải nên đọc
bản dịch gốc, chứ bản hội tập nói
chung là do người đời sau biên tập, thường
là chẳng đúng pháp cho lắm. Đọc kinh văn
nguyên bản có được hay không? Được chứ!
Đọc bản gốc th́ nhất định là phải
đọc cả năm loại bản gốc th́ ư
nghĩa mới viên măn. Quư vị đọc bản này, sẽ
sót mất câu kinh văn kia. [V́ lẽ đó], hội tập
là cần thiết. Đời Tống, cư sĩ
Vương Long Thư mở màn đầu tiên. Nếu quư vị
bảo bản hội tập sai lầm, là chuyện chẳng
nên làm, [thế th́] cư sĩ Vương Long Thư đứng
văng sanh, biết trước lúc mất. Đấy là lăo
nhân gia hiện thân thuyết pháp, nhằm nói rơ chính ḿnh chẳng
phạm sai lầm. Nếu ông ta đă phạm sai sót to tát
trong Tịnh Độ Tông, làm sao có thể văng sanh cho
được? Do đó, [điều này] chứng tỏ hội
tập chẳng sai!
Tuy hội tập là chuyện tất yếu,
nhưng trong các bản hội tập của cổ nhân có
chỗ đáng tiếc là những chỗ chọn lấy và
gạt bỏ chẳng thích đáng, có những phần kinh
văn rất quan trọng bị bỏ sót, chưa thể
thấy một bản hoàn chỉnh. Một điều
đáng tiếc nữa là [người hội tập]
thường sửa đổi chữ dùng trong nguyên
văn, điều này bị người đời sau phê
b́nh. Nay chúng ta xem bản này của lăo cư sĩ Hạ
Liên Cư, chư vị đối chiếu với năm bản
dịch gốc, [sẽ thấy bản hội tập của
cụ Hạ] lấy bỏ hết sức thích đáng. Nói
cách khác, [bản ấy] là tổng hợp viên thành của
năm bản dịch gốc. Y báo và chánh báo trang nghiêm, nguyện
văn và kinh văn đều đạt tới cảnh giới
viên măn, lại chẳng sửa đổi chữ nào, toàn là
kinh văn trích từ các bản dịch gốc. Do đó,
người đời sau đọc đến bản này,
tán thán là bản kinh Vô Lượng Thọ viên măn nhất,
hoàn thiện nhất. Sau khi bản này ra đời, trong giới
Phật giáo, người tán thán hết sức nhiều. Thuở
ấy, pháp sư Từ Châu dùng bản này để giảng
tại Tế Nam; Sư c̣n viết Khoa Phán. Bản này do lăo
cư sĩ Hoàng Lư Sơ đem từ Đại Lục
đến (sau này, cụ Hoàng theo pháp sư Từ Hàng xuất
gia, tức là pháp sư Luật Hàng), cụ mang đến
Đài Loan giao cho lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam. Lư lăo cư
sĩ giảng ở Đài Trung một lần, lại c̣n
viết lời mi chú đơn giản. Đọc đoạn
kinh văn này liền biết hội tập kinh Vô Lượng
Thọ xác thực là chuyện tất yếu. Đến hiện
thời mới có một bản hoàn thiện như vậy,
bản này khó có, đúng là Tam Bảo gia tŕ. Tại Đài
Loan, từ Nam đến Bắc [bản này] đều
được phổ biến tuyên dương, người
đọc tụng rất nhiều, người
nương theo phương pháp trong kinh điển này
để tu hành rất đông. Đây là một chuyện hết
sức hiếm có, là nhân duyên thù thắng.
(Sao) Nhược cứ mộ Phật phát nguyện,
măn nguyện thành Phật.
(鈔) 若據慕佛發願,滿願成佛。
(Sao: Nếu do ngưỡng mộ Phật mà phát
nguyện, nguyện viên măn sẽ thành Phật).
“Mộ” (慕) là ngưỡng mộ. Ngưỡng mộ Phật
pháp, phát nguyện học Phật, nguyện viên măn bèn thành
Phật.
(Sao) Tắc bỉ phương chủng chủng sở
hữu, giai bỉ Phật nguyện nguyện sở thành, tất
ưng khế hợp.
(鈔) 則彼方種種所有,皆彼佛願願所成,悉應契合。
(Sao:
Vậy th́ tất cả các thứ bên cơi ấy đều
do mỗi nguyện của đức Phật tạo thành,
nên ắt phải khế hợp).
Nguyện của A Di Đà Phật vô lượng,
y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới vô lượng. Nói thật ra, những
điều do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong năm bản
ấy để giới thiệu Tây Phương Cực Lạc
thế giới, cũng bất quá là một giọt nước
trong biển cả đó thôi. Có thể giới thiệu trọn
hết hay không? Giới thiệu hoàn toàn th́ nói suốt một
kiếp vẫn nói không xong, cho nên nói đại lược
những điều trọng yếu và khái quát. [Muốn biết]
t́nh h́nh thật sự chi tiết, ắt là chính ḿnh phải
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
th́ mới biết được.
(Sao) Kim minh hỗ vi hữu vô giả, dĩ văn tuy
tiểu thù, nhi ư tắc cụ túc dă.
(鈔) 今明互為有無者,以文雖小殊,而意則具足也。
(Sao:
Nay nói [giữa các bản dịch] lần lượt là có
hoặc không[6],
chính là nói “văn tự sai khác đôi chút, nhưng ư nghĩa
trọn đủ”).
Nói cặn kẽ hay đại lược khác
nhau, nhưng ư nghĩa đều viên măn, đầy đủ.
(Sao) Hựu như Pháp Tạng nguyện vân: “Ngă tác Phật
thời, sát trung chư thiên, nhân dân, nhất thiết vạn
vật, giai nghiêm tịnh quang lệ, h́nh sắc thù đặc,
cùng vi cực diệu, vô năng xưng lượng giả,
tuy đắc thiên nhăn, bất năng biện kỳ danh số”.
(鈔) 又如法藏願云:我作佛時,剎中諸天人民,一切萬物,皆嚴淨光麗,形色殊特,窮微極妙,無能稱量者,雖得天眼,不能辨其名數。
(Sao:
Lại như ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi tôi làm
Phật, chư thiên, nhân dân trong cơi nước và hết thảy
vạn vật đều trang nghiêm, thanh tịnh, sáng ngời,
đẹp đẽ, h́nh sắc thù thắng đặc biệt,
vi diệu tột cùng, không ai có thể diễn tả, suy
lường được. Dẫu đắc Thiên Nhăn,
cũng chẳng thể biện định tên gọi và số
lượng của chúng”).
Mấy câu này là lời nguyện trích từ phần
bốn mươi tám nguyện. Trong lời nguyện có nói
Thiên Nhăn của người trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới tối thiểu cũng là từ Thất
Địa Bồ Tát trở lên, chẳng phải là Thiên Nhăn
của phàm nhân; [thế mà] họ cũng chẳng thể
phân biệt y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Những điều khác lại càng
chẳng cần phải nói nữa!
(Sao) Quán thử, tắc chánh báo, y báo, nhiếp vô bất
tận, bất khả câu văn nhi hạn nghĩa dă.
(鈔) 觀此,則正報依報,攝無不盡,不可拘文而限義也。
(Sao: Xét theo đó, chánh báo và y báo bao quát không ǵ chẳng trọn
hết, chớ nên câu nệ văn tự để rồi
hạn cuộc ư nghĩa vậy).
Quyết định đừng nên chấp chết
cứng kinh văn, phải biết trong ấy bao hàm cảnh
giới rộng lớn vô biên. Y báo và chánh báo trang nghiêm chẳng
có cùng tận.
(Sớ) Xứng Lư, tắc tự tánh quyết định
thành Phật, thị Nhất Sanh Bổ Xứ nghĩa.
(疏) 稱理,則自性決定成佛,是一生補處義。
(Sớ: Xứng Lư th́ tự tánh quyết định
thành Phật chính là ư nghĩa Nhất Sanh Bổ Xứ).
Chúng ta thấy đại sư trích dẫn một
đoạn trong Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện
Phẩm Biệt Hành Sớ Sao của vị tổ thứ
năm trong tông Hoa Nghiêm là Khuê Phong đại sư. Lời
Sao do Khuê Phong đại sư soạn.
(Sao) Khuê Phong vân: “Kim tri tâm thị Phật tâm, định
đương tác Phật, nhiên nhi bổn lai thành Phật,
phi tác đắc cố”.
(鈔) 圭峰云:今知心是佛心,定當作佛,然而本來成佛,非作得故。
(Sao: Ngài Khuê Phong nói: “Nay biết tâm là tâm Phật, nhất
định sẽ làm Phật, nhưng là vốn sẵn
thành Phật, chẳng phải là do sẽ chứng đắc
mà làm Phật).
Người biết sự thật này chẳng
nhiều. Chúng ta tuy nghe nói, có phải là thật sự biết
hay không? Chưa chắc! V́ sao? Nếu thật sự biết,
quư vị sẽ có cái nh́n khác hẳn đối với
người, sự, vật. Nếu nói nông cạn, rơ ràng
hơn một chút, sẽ là chắc chắn quư vị chẳng
xử sự bằng cảm t́nh. Nếu quư vị xử sự,
đăi người, tiếp vật vẫn luôn bị t́nh cảm
chi phối, th́ nói cách khác, quư vị chẳng hiểu rơ chuyện
này. V́ chuyện này là tri kiến của Phật; nhập Phật
tri kiến là Phần Chứng Phật. Lẽ đâu Phần
Chứng Phật c̣n xử sự theo t́nh cảm? “Tâm thị Phật tâm” (Tâm là
tâm Phật). Tâm chúng sanh và tâm Phật là một, chẳng
hai. Nhà Thiền thường nói: “Nếu
người hiểu biết tâm, đại địa không
tấc đất”. Quư vị có thật sự nhận
biết cái tâm hay không? Nhận biết cái tâm là minh tâm, minh
tâm là kiến tánh, kiến tánh là thành Phật, nhà Thiền có
nói “minh tâm kiến tánh, kiến
tánh thành Phật”. V́ vậy, tâm xác thực là có, nhưng
bản thân chúng ta không biết. Nếu biết, chắc chắn
quư vị sẽ đối đăi vạn sự vạn vật
bằng cái tâm b́nh đẳng v́ tâm là b́nh đẳng. Y báo
và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, Tây
Phương Cực Lạc thế giới đều là vật
do tự tánh biến hiện, lẽ nào bất b́nh đẳng?
Đương nhiên là b́nh đẳng.
Nay cái tâm chúng ta bất b́nh đẳng đối
với hết thảy vạn vật, bất b́nh đẳng
là ǵ? Chính là vọng tâm, là tâm phân biệt, tâm chấp trước,
là tâm ư thức, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm là Phật
tâm, tâm chúng ta là vọng tâm. Vọng tâm là giả tâm, chính là
phàm phu tâm. Vọng tâm do đâu mà có? Vọng tâm do chân tâm bị
mê mất mà biến hiện. Chẳng mê th́ là chân tâm; đă
mê th́ chân tâm bèn là vọng tâm. Đă mê bèn xử sự theo
t́nh cảm, chẳng liễu giải chân tướng của
hết thảy sự thật. Đă giác ngộ, sẽ là xử
sự thuần túy bằng trí huệ, sẽ là Bát Nhă, chuyển
phiền năo thành Bồ Đề. Bồ Đề là giác
tâm, không mê. Nói theo kiểu này, chư vị vẫn thấy
rất khó lănh hội, chúng tôi lại giảng rơ ràng, giảng
rành rẽ hơn một chút. Mê là ǵ? Giác là ǵ? Phàm là niệm
nào cũng suy nghĩ v́ chính ḿnh th́ là mê. Niệm nào cũng
v́ ta, v́ nhà của ta, v́ đạo tràng của ta, đều
là mê! Niệm nào cũng v́ hết thảy chúng sanh, đó là
giác ngộ. Quư vị hăy tự kiểm điểm một
phen, quư vị là giác hay mê? Sẽ biết ngay! Cách kiểm
nghiệm này khá dễ dàng, cũng rất đáng tin cậy!
Quư vị khởi tâm động niệm là nghĩ v́ ḿnh hay
là nghĩ tới người khác? Mê hay ngộ phân định
ở ngay chỗ này!
Giác tâm trọn khắp hết thảy mọi
nơi. Đó là chân tâm. Tâm mê rất nhỏ, có phân biệt,
có chấp trước, đă mê rồi! Kinh Lăng Nghiêm nói
tâm giác ngộ giống như biển cả, tâm mê như một
cái bọt nước trồi lên trong biển. Kẻ ấy
chấp trước bọt nước là chính ḿnh, quên bẵng
biển cả. Khi nào bọt nước vỡ tan, mới
biết tâm lớn dường ấy. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh vốn
đă thành Phật” là nói theo góc độ này, nói từ
chỗ này. “Thành Phật phi tác
đắc cố” (Thành Phật chẳng phải là do chứng
đắc mà làm Phật): Thành Phật th́ quư vị có thật
sự làm Phật hay không? Có đạt được Phật
quả hay không? Chẳng có! V́ sao? Quư vị vốn là Phật.
Vốn là Phật, [nếu] lại đạt được
Phật quả, đó gọi là “trên
đầu chồng thêm cái đầu nữa”, lại mê
hoặc, điên đảo mất rồi!
(Sao) Tắc đản kiến Thỉ Giác tân lai, bất
tri Bổn Giác cố hữu, khả vị bổ tắc
quyết định bổ, thành tắc thật bất
thành!
(鈔) 則但見始覺新來,不知本覺固有,可謂補則決定補,成則實不成。
(Sao: Chính là chỉ thấy Thỉ Giác mới đạt
được, chẳng biết Bổn Giác vốn sẵn
có, có thể nói là “bổ xứ bèn quyết định là bổ
xứ, nhưng thành Phật th́ thật sự chẳng
thành”).
Phải chú tâm lănh hội lời này. Thỉ Giác
là bắt đầu giác ngộ. Xét từ phía phàm phu chúng ta
trong hiện thời, hiện tiền chúng ta có giác hay không?
Đương nhiên là có giác. Nếu quư vị chẳng có Thỉ
Giác, mà là bất giác, làm sao quư vị có thể đến
đây nghe kinh? Tối nay quư vị từ nhà đến
đây nghe kinh, chứng minh quư vị đă giác ngộ;
đó là Thỉ Giác. Quư vị hằng ngày đều giác ngộ;
v́ thế, mỗi ngày đều là Thỉ Giác. Từ phàm
phu măi cho đến Đẳng Giác Bồ Tát, vẫn là Thỉ
Giác. Đẳng Giác Bồ Tát thành Phật, Thỉ Giác hợp
với Bổn Giác. Đạt đến thành Phật viên
măn th́ hai chữ Thỉ Giác chẳng c̣n nữa, chẳng nói
được. Chưa thành Phật viên măn, mỗi ngày
đều đang giác ngộ. V́ lẽ đó, Thỉ Giác chẳng
phải là nói “bắt đầu vào một ngày nào đó”, mà
là “mỗi ngày đều là bắt đầu”. Đấy
là ư nghĩa của Thỉ Giác.
“Đản kiến
Thỉ Giác tân lai” (chỉ thấy Thỉ Giác vừa mới
đạt được): Trong quá tŕnh tu học, chúng ta mỗi
ngày giác ngộ, mỗi ngày có cảnh giới mới, mỗi
ngày có sự khải thị mới mẻ. Điều này hết
sức rơ rệt, quư vị mỗi ngày đều đang tiến
bộ. Hiện tượng tiến bộ nhất định
là phiền năo nhẹ đi, trí huệ tăng trưởng,
phân biệt, chấp trước, vọng tưởng ngày
càng ít hơn, thanh tịnh, b́nh đẳng, trí huệ ngày
càng tăng thêm; đó là cảnh giới tốt đẹp.
Nếu chẳng có cảnh giới này th́ chẳng được
rồi! Nói cách khác, quư vị học Phật chẳng phải
là ngưng tại đó, mà là đang thụt lùi. Có cảnh
giới ấy, mỗi ngày đều tiến bộ, cảnh
giới ấy là cảnh giới tốt đẹp.
V́ Bổn Giác là cố hữu, vốn sẵn
có, nên ở đây, cổ đại đức bảo
chúng ta “bổ tắc quyết
định bổ”, “bổ”
(補) là ǵ? Thị hiện. Đến
khi quư vị thành Phật, v́ chính quư vị có bổn nguyện
độ chúng sanh, nên sau khi thành tựu, chắc chắn sẽ
dùng hạnh để thực hiện nguyện ấy. Quư
vị sẽ thực hiện đại nguyện của
chính ḿnh. Nơi nào có chúng sanh mong mỏi quư vị tới
giúp họ, quư vị nhất định đến đó.
V́ thế, “bổ tắc quyết
định bổ”. “Thành tắc thật bất thành”:
Thành và bất thành đều chẳng có. V́ sao? Thành Phật
và chẳng thành Phật là hai pháp; Lục Tổ đại
sư nói: “Hai pháp chẳng phải
là Phật pháp, Phật pháp là pháp bất nhị”. Quư vị
có Thành th́ sẽ có cái tương phản của nó là “chẳng
thành”, đúng như nhà Phật đă nói: “Động niệm liền trật”, không cho phép
quư vị khởi tâm động niệm! Khởi tâm động
niệm c̣n chẳng thể, th́ ngôn ngữ đương
nhiên càng không thể đạt đến được.
Đó gọi là “mở miệng
bèn trật, động niệm liền sai”. Nhất
định phải hiểu rơ ư nghĩa chân thật này. V́ lẽ
đó, hết thảy ngôn thuyết đều là
phương tiện thuyết, có nói đến chỗ chân
thật hay không? Chẳng có! Chẳng nói một chữ nào!
Những ngôn ngữ nói ra đều là ḥn ngói để gơ cửa,
là cột mốc chỉ đường, quư vị phải
thấu hiểu nghĩa chân thật từ những điều
ấy. Nghĩa chân thật không ở trong ngôn ngữ,
cũng giống như vậy, nó chẳng ở trong văn
tự! Nghĩa chân thật nhất định là ĺa tướng
ngôn thuyết, ĺa tướng danh tự (ĺa văn tự),
ĺa tướng tâm duyên. Trong tâm chẳng thể tưởng,
hễ tưởng bèn lại chấp tướng. Phải
là “hết thảy đều chẳng chấp trước”
th́ mới có thể ngộ nhập. V́ thế, thật sự
khế nhập cảnh giới. Khế nhập cảnh giới
là nhập pháp môn Bất Nhị, nhập pháp môn Bất Nhị
là như kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Nhập
bất tư nghị giải thoát cảnh giới”. Cảnh
giới bất tư nghị giải thoát c̣n gọi là Nhất
Chân pháp giới. Trong Tịnh Độ Tông, đắc nhất
tâm bất loạn liền “nhập nhất”, [nghĩa là] từ
đấy trở đi, chẳng c̣n có hai! Hai là ǵ? Khởi
tâm động niệm là hai. Nói cách khác, trong hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, thật sự chẳng
khởi tâm, không động niệm. Chẳng khởi tâm,
không động niệm th́ vạn pháp như nhau, pháp nào
cũng đều đúng, pháp nào cũng đều như,
đó là thật sự b́nh đẳng. Do đó nói: “Thành tắc thật bất
thành”. Nếu chư vị lănh hội một chút ư
nghĩa này th́ quư vị mới có thể hiểu rơ lời
này. Câu này có ư nghĩa rất sâu!
Chánh thị nguyện hạnh linh tri tu chứng.
正示願行令知修證。
(Chỉ thẳng vào
nguyện hạnh khiến cho [người nghe] biết tu
chứng).
Khai thị đại nguyện và đại hạnh
của Phật Di Đà, nêu gương cho chúng ta, ḥng khiến
cho chúng ta hiểu rơ tu như thế nào, chứng như thế
nào. Kinh văn chia thành bốn đoạn:
Sơ phát nguyện, nhị khởi hạnh, tam cảm
quả, tứ kết khuyến.
(Kinh) Xá Lợi Phất! Chúng sanh văn giả,
ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc.
初發願,二起行,三感果,四結勸。
(經) 舍利弗。眾生聞者。應當發願。願生彼國。
(Một là phát nguyện,
hai là khởi hạnh, ba là cảm quả, bốn là tiểu
kết nhằm khuyên lơn.
Kinh: Này Xá Lợi Phất! Chúng sanh nghe vậy hăy nên phát
nguyện, nguyện sanh về cơi ấy).
Trong đoạn này, đức Phật rát miệng
buốt ḷng khuyên dạy chúng ta. Trong phần trên đă nói lắm
lời lẽ như vậy, mục đích là để
khuyên chúng ta cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.
(Sớ) Thượng trần y chánh nhị báo.
(疏) 上陳依正二報。
(Sớ: Trong phần trên đă trần thuật y
báo và chánh báo).
“Trần” (陳) là trần thuyết (陳說), nói rơ sự tốt đẹp nơi hoàn cảnh
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Y báo là
hoàn cảnh vật chất, chánh báo là hoàn cảnh nhân sự.
[Y báo và chánh báo] tốt đẹp đến tột cùng, chẳng
có tơ hào khiếm khuyết. V́ thế gọi là thế giới
Cực Lạc.
(Sớ) Kim ngôn chúng sanh đắc văn thử giả.
(疏) 今言眾生得聞此者。
(Sớ: Nay nói chúng sanh được nghe điều
này).
Chúng ta chẳng nghe nói sẽ không biết, vậy
th́ đành chịu; nhưng đă nghe, đă hiểu rơ, cớ
sao chẳng hâm mộ? Lẽ đâu chẳng nên cầu sanh?
(Sớ) Ưng đương phát khởi đại
nguyện, nguyện sanh bỉ quốc.
(疏) 應當發起大願,願生彼國。
(Sớ: Hăy nên phát khởi nguyện lớn, nguyện
sanh về cơi ấy).
Đại nguyện là ǵ? Nguyện sanh về
cơi ấy là đại nguyện.
(Sớ) Thị vi đệ nhất trùng khuyến, hậu
năi phản phúc thân minh.
(疏) 是為第一重勸,後乃反覆申明。
(Sớ: Đây là khuyên lần
thứ nhất, sau đó, lại lặp đi lặp lại
vấn đề ḥng giảng rơ).
Trong kinh này, đức Phật trước sau
ba lượt khuyến khích chúng ta cầu sanh Tịnh Độ,
đây là lần đầu tiên. Một rồi hai, hai rồi
ba, rát miệng buốt ḷng khuyên bảo. Lời Sao dưới
đây giảng rơ về ba lượt khuyến cáo.
(Sao) Đệ nhất trùng khuyến giả, kinh trung
phản phúc khuyến văn, khuyến tín, khuyến nguyện,
ước hữu tứ trùng.
(鈔) 第一重勸者,經中反復勸聞、勸信、勸願,約有四重。
(Sao: “Khuyên lần thứ nhất”: Trong kinh nhiều
lượt nhắc đi nhắc lại khuyên hăy nghe, khuyên
hăy tin, khuyên hăy nguyện, có khoảng bốn lần [như
vậy]).
Tôi vừa mới nói là ba lượt, trên thực
tế là bốn lần. Bốn lần khuyên lơn, khích lệ
chúng ta cầu sanh Tây Phương.
(Sao) Kim đương tối sơ.
(鈔) 今當最初。
(Sao: Nay là lần đầu tiên).
Đoạn kinh văn này là khuyên lần đầu
tiên.
(Sao) Thị văn y chánh trang nghiêm thắng diệu
công đức chi thuyết nhi phát nguyện dă.
(鈔) 是聞依正莊嚴勝妙功德之說而發願也。
(Sao: Tức là do nghe nói công đức thù thắng
nhiệm mầu nơi y báo và chánh báo trang nghiêm mà phát nguyện).
Nghe đức Phật nói đoạn kinh
văn trên đây bèn có thể phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ, đó là hạng người bậc nhất. Hạng
người bậc nhất là ai? Các vị Đẳng Giác
Bồ Tát trong mười phương thế giới. Các
Ngài vừa nghe liền lập tức phát nguyện cầu
sanh Tịnh Độ. V́ lẽ đó, trong thế giới
Tây Phương mới có nhiều vị Đẳng Giác Bồ
Tát như vậy! Có thể nói là các vị Đẳng Giác Bồ
Tát trong mười phương thế giới vô lượng
vô biên các cơi Phật đều tụ hội trong thế giới
Tây Phương. Các Ngài vừa nghe liền tin tưởng, hiểu
rơ, phát nguyện cầu văng sanh.
(Sao) Nhị ngôn văn thị thuyết giả, thị
văn nhất tâm tŕ danh quyết định văng sanh chi thuyết
nhi phát nguyện dă.
(鈔) 二言聞是說者,是聞一心持名決定往生之說而發願也。
(Sao: Hai là [chánh kinh] nói “người nghe nói như thế”
chính là [nói tới những người] nghe nói “nhất tâm
tŕ danh quyết định văng sanh” bèn phát nguyện).
Trong bốn lần khuyên, ở đây là tổng
thuyết (nói tổng quát), khi đến các phần kinh
văn trong phần sau, chúng ta sẽ đọc từng
đoạn. Lần khuyên thứ hai ở trong chương
này, đức Phật bảo chúng ta: “Nhất tâm tŕ danh, sẽ quyết định văng
sanh”, nghe điều tốt đẹp này, người ấy
bèn phát nguyện cầu sanh. Đó là hạng thiện
căn sâu dầy, chúng ta thường nói là bậc “thượng căn lợi trí”.
V́ sao? Từ địa vị phàm phu tu thành Phật quả
phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, kinh
thường nói như vậy. Nói theo kinh Hoa Nghiêm, sẽ chẳng
phải là ba A-tăng-kỳ kiếp, mà là vô lượng kiếp.
V́ sao trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói chẳng giống
với những kinh khác? Chư vị phải hiểu, thành
Phật th́ Phật có bốn loại là Tạng, Thông, Biệt,
Viên. Phật nói “ba đại A-tăng-kỳ kiếp thành
Phật” là nói tới Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật
và Biệt Giáo Phật, Hoa Nghiêm nói “vô lượng kiếp
thành Phật” tức là Viên Giáo Phật. Phật có rất
nhiều chủng loại, rốt cuộc quư vị thành loại
Phật nào? Cần thời gian dài ngần ấy, vừa
nghe kinh này nói “nhất tâm tŕ
danh quyết định văng sanh”, đó là thành tựu
ngay trong một đời, quư vị ngẫm xem, người
thông minh lẽ nào chẳng tuyển chọn pháp môn này?
Trước kia, tu hết thảy các pháp môn, [nay] nghe pháp môn
này, lập tức buông xuống, bỏ sạch, chuyên tu pháp
môn này, v́ sao? Pháp môn này dễ dàng, thành tựu rất nhanh
chóng, lại c̣n thành tựu ổn thỏa, thích đáng, quyết
định thành tựu. Người thông minh lợi căn
bèn chọn lựa pháp môn này.
(Sao) Tam ngôn văn thị kinh giả, thị văn
tŕ danh Phật hộ bất thoái Bồ Đề chi thuyết
nhi tín thọ dă, bất ngôn nguyện giả, tín thọ tức
nguyện cố.
(鈔) 三言聞是經者,是聞持名佛護不退菩提之說而信受也。不言願者,信受即願故。
(Sao: Ba là nói “kẻ nghe kinh này”, tức là [nói tới
những kẻ] nghe nói “tŕ danh th́ đức Phật sẽ
hộ tŕ khiến cho Bồ Đề chẳng thoái thất”
bèn tin nhận. Chẳng nói tới “nguyện”, v́ hễ
đă tin nhận bèn nguyện).
Khuyên lần thứ ba, nghe nói “niệm Phật,
mười phương chư Phật, Bồ Tát gia hộ
quư vị”, nghe có công đức và lợi ích thù thắng như
vậy mới phát tâm. Người Hoa nói “hộ” (護: bảo vệ,
ǵn giữ) là “bảo hựu”
(保佑). Niệm một
câu Phật hiệu A Di Đà Phật, mười
phương ba đời hết thảy chư Phật, Bồ
Tát đều gia hộ quư vị, v́ sao? V́ A Di Đà Phật
được hết thảy chư Phật tôn kính nhất.
Hết thảy chư Phật thành Phật đều do niệm
A Di Đà Phật mà thành Phật. V́ lẽ đó, quư vị
niệm A Di Đà Phật, đương nhiên chư Phật
hoan hỷ, đương nhiên là hộ niệm quư vị.
Nói thật thà, quư vị niệm Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh, chưa chắc chư Phật đă
gia hộ quư vị. Quư vị niệm kinh A Di Đà, niệm
kinh Vô Lượng Thọ, niệm A Di Đà Phật,
chư Phật nhất định gia hộ quư vị, thật
vậy! Quư vị niệm chú Đại Bi, niệm chú
Lăng Nghiêm, cũng chẳng thể nào được hết
thảy chư Phật đều gia hộ quư vị. Công
đức và lợi ích thù thắng như vậy đến
đâu để t́m cho ra? Kẻ b́nh phàm chẳng hiểu
chuyện này!
Do vậy, pháp môn này là pháp môn bậc nhất
để hết thảy chư Phật độ chúng sanh
thành Phật đạo. Trong một bài kệ, cụ Hạ
Liên Cư có viết: “Ức vạn
nhân trung, nhất nhị tri” (Trong ức vạn người,
[chỉ có] một, hai kẻ biết), nói lời này chẳng
sai chút nào! Nay quư vị tu pháp môn này, gặp một số
pháp sư đại đức khuyên quư vị đừng
nên tu pháp môn này, khuyên quư vị chớ nên niệm kinh này, lời
lẽ ấy có kỳ quái hay không? Chẳng kỳ quái! V́
sao? Trong ức vạn người, [chỉ] có một hai kẻ
biết. V́ sao họ biết? Huống hồ trong kinh luận
hoặc trong chú sớ, tổ sư đại đức
đă bảo ban chúng ta, như Thiện Đạo đại
sư đă nói: “Ba bậc chín
phẩm là hiện tượng nẩy sanh do chúng ta gặp
duyên bất đồng”. Quư vị gặp duyên thù thắng,
quư vị có thể là thượng phẩm thượng
sanh trong một đời này. Gặp duyên chẳng thù thắng,
sẽ là hạ phẩm văng sanh. Thù thắng là ǵ? Đối
với y báo và chánh báo trang nghiêm cùng hết thảy sự lư
đều có thể hiểu rơ Lư, tin sâu, chẳng nghi,
đó là thù thắng. Có thể gặp một vị thiện
tri thức giảng giải rành mạch, chúng ta nghe xong bèn
hiểu rơ, chẳng có mảy may nghi vấn nào, hoàn toàn tiếp
nhận, đấy là quư vị gặp duyên thù thắng. Nói
thật ra, các đồng tu đời này có duyên thù thắng
hơn cổ nhân trong quá khứ quá nhiều! Thù thắng ở
chỗ nào? Chúng ta gặp kinh này, đó là duyên trọng yếu
bậc nhất. Các vị đại đức từ
xưa có mấy vị xem trọn các bản dịch và bản
hội tập của kinh Vô Lượng Thọ? Nếu
không thể đọc trọn khắp, duyên ấy c̣n khiếm
khuyết, chẳng thù thắng. Lăo ḥa thượng Đạo
Nguyên suốt một đời hoằng dương Tịnh
Độ, kinh Vô Lượng Thọ có chín bản, Sư chỉ
được xem bốn bản, c̣n năm bản kia
chưa xem qua. Lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam suốt một đời
hoằng dương Tịnh Độ, cụ chỉ xem
năm bản, c̣n bốn bản chưa được
đọc, quư vị nghĩ xem: Gặp duyên khó lắm! Nay
chúng tôi thâu thập cả chín bản, in vào trong Tịnh
Độ Ngũ Kinh Độc Bản, mọi người
đều được xem, duyên của quư vị vượt
trội pháp sư Đạo Nguyên và cư sĩ Lư Bỉnh
Nam. Đặc biệt là bản hội tập của lăo
cư sĩ Hạ Liên Cư xuất hiện trong thế gian
c̣n chưa đầy năm mươi năm. Người
năm mươi năm trước chẳng biết có bản
này, người năm mươi năm sau biết đến
bản này cũng chẳng có mấy. Trong ṿng hai ba năm
nay, chúng ta cực lực tuyên dương, nên bản này
được đồng tu Đài Loan phổ biến biết
đến.
(Sao) Tứ ngôn “nhược hữu tín giả” thị
tổng kết văn dĩ thâm tín, tín hữu nguyện giả,
vô nhất bất sanh chi thuyết nhi phát nguyện dă.
(鈔) 四言若有信者,是總結聞已深信,信有願者無一不生之說而發願也。
(Sao: Bốn là nói “nếu có kẻ tin tưởng”
nhằm tổng kết chuyện nghe nói “đă nghe rồi
tin sâu, do đă tin bèn có nguyện, không một ai chẳng
văng sanh” bèn phát nguyện).
Hạng này xem như thiện căn kém cỏi
nhất, nhưng c̣n có tư cách văng sanh. Nếu chúng ta dựa
theo cấp bậc Giáp, Ất, Bính, Đinh th́ những
người này thuộc loại Đinh. Hạng Đinh c̣n
có thể văng sanh. Thấp hơn hạng Đinh sẽ chẳng
thể văng sanh. Họ tin tưởng “người có nguyện
th́ không một ai chẳng văng sanh”. Ta phát nguyện, phát nguyện
th́ sẽ văng sanh, đúng như vậy đó!
Hôm nay, có đồng học đến nói với
tôi, tại Đạm Thủy[7] có
một người niệm Phật văng sanh, suốt đời
chưa hề tiếp xúc Phật pháp. Đă thế, [người
ấy] phẩm tánh chẳng tốt, ác khẩu, suốt
đời tạo tội nghiệp rất nhiều. Khi lâm
chung, đầu óc ông ta rất tỉnh táo, có hai vị xuất
gia khuyên người ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Người ấy tiếp nhận, nghiễm
nhiên cũng biết trước lúc mất, nói với pháp
sư: “Lúc bốn giờ, A Di Đà Phật sẽ đến
tiếp dẫn tôi”. Họ bèn niệm đến bốn giờ.
Tới bốn giờ, Phật chẳng đến tiếp
dẫn, liền hỏi người ấy: “Sao ông lại lừa
người xuất gia?” Ông ta nói: “Bốn giờ sáng”. Họ
nghĩ là bốn giờ chiều. Đến ngày hôm sau
ư? Được rồi, lại tiếp tục niệm.
Quả nhiên chẳng sai, đến bốn giờ sáng ngày
hôm sau, ông ta văng sanh. “Do có ḷng
tin mà phát nguyện, không một ai chẳng văng sanh”,
người ấy thuộc về loại này. Thụy
tướng văng sanh là các đồng tu trợ niệm
đều ngửi thấy mùi hương lạ. A Di Đà
Phật đến tiếp dẫn người ấy,
người khác chẳng trông thấy, nhưng chính người
ấy trông thấy. Đă thế, A Di Đà Phật c̣n bảo
bốn giờ sẽ đến tiếp dẫn ông ta, tức
là cách lúc được tiếp dẫn mười mấy
tiếng đồng hồ, cũng coi như là ông ta biết
trước lúc mất. Đây là khi bệnh nặng, gặp
thiện hữu chỉ dạy, ông ta mới biết.
(Sao) Văn văn chuyển thâm, nguyện nguyện bội
thiết, ngữ tuy phản phúc, nghĩa bất lôi trùng, mẫn
vật t́nh thâm, hối nhân bất quyện.
(鈔) 聞聞轉深,願願倍切,語雖反覆,義不雷重,憫物情深,誨人不倦。
(Sao: Mỗi lần nghe lại càng sâu hơn, mỗi
lần nguyện càng thiết tha gấp bội. Lời lẽ
tuy lặp đi lặp lại, nghĩa
chẳng trùng lặp, ḷng thương xót chúng sanh sâu
xa, dạy bảo người khác chẳng mệt mỏi).
Mấy câu này là lời tán thán vô thượng đối
với Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức Phật rát miệng
buốt ḷng khuyên bảo chúng sanh, nói một lần rồi
nhắc lại lần thứ hai, nói lần thứ hai lại
nói lần thứ ba, nói lần thứ ba rồi nhắc nhở
lần thứ tư ḥng khuyên lơn, khích lệ chúng ta, hy vọng
chúng ta sẽ giác ngộ. Giác ngộ là ǵ? Thật sự
phát nguyện, nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, thưa cùng chư vị, đó chính là đại
triệt đại ngộ, là triệt để giác ngộ.
Thật sự phát nguyện văng sanh, ắt phải lạnh
nhạt đối với thế gian này, chẳng lưu
luyến thế gian này. Trước khi văng sanh, chúng ta tận
tâm tận lực hoằng dương pháp môn này, giúp người
khác nhận biết pháp môn này, giúp người khác phát nguyện
văng sanh. Đó chính là “thượng
báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”
(trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ
ba đường). Chúng ta hoằng dương pháp môn này
chính là “trên đền bốn ân”, hy vọng hết thảy
chúng sanh có được pháp môn này, mọi người
đều niệm Phật văng sanh, đó là “dưới cứu
khổ ba đường”. Chúng ta phải làm như vậy
th́ mới được! Trừ chuyện này ra, thế
gian này chẳng có chuyện ǵ là có ư nghĩa. Chỉ có báo Phật
ân, chỉ có giúp chúng sanh triệt để giác ngộ cầu
sanh Tây Phương, đó là chuyện có ư nghĩa, là chuyện
chúng ta phải nên làm. Nói cách khác, trừ chuyện này ra, những
thứ khác đều chẳng nên làm, chẳng có ư nghĩa
ǵ!
(Sớ) Hựu văn nhiếp tín nghĩa, nguyện
nhiếp hạnh nghĩa, tam sự tư lương, tất
bị ư thử.
(疏) 又聞攝信義,願攝行義,三事資糧,悉備於此。
(Sớ: Lại có nghĩa là “nghe bao gồm tín; nguyện bao gồm hạnh”. Ba sự tư
lương thảy đều đầy đủ trong ấy).
Ba điều kiện trọng yếu nhất
của Tây Phương Tịnh Độ là Tín, Nguyện, Hạnh.
Trong Văn (nghe) bao gồm Tín. Nếu nói nghe xong mà chẳng
tin, như vậy th́ chẳng gọi là Nghe. Cớ sao nghe
xong chẳng tin? Chẳng nghe rơ ràng, nghe chẳng hiểu rơ,
đó chẳng gọi là Nghe. Nhất định phải
làm cho đối phương thật sự triệt để
nhận thức, hiểu rơ, sanh khởi tín tâm, đấy mới
là nghe pháp, thật sự nghe. Trong Nguyện bao gồm Hạnh:
Nếu người ấy đă nguyện văng sanh, lẽ
đâu chẳng niệm Phật? Nguyện văng sanh mà không niệm
Phật, nguyện ấy chẳng phải là nguyện thật
sự. Trong mười hai thời, một câu Phật hiệu
quyết chẳng gián đoạn th́ mới là nguyện thật
sự. Tín Nguyện Hạnh “tam
sự tư lương, tất bị ư thử” (ba
sự tư lương đều trọn đủ trong ấy).
“Ư thử” là chỉ câu
kinh văn trong phần trên: “Chúng
sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện
sanh bỉ quốc” (Chúng sanh nghe rồi hăy nên phát nguyện,
nguyện sanh về cơi ấy). Trong một câu này, ba điều
kiện thảy đều đầy đủ.
(Sao) Văn nhiên hậu tín, phỉ văn tắc tín tự
hà sanh?
(鈔) 聞然後信,匪聞則信自何生。
(Sao: Nghe xong mới tín. Nếu không nghe, tín từ
đâu sanh ra?)
Do vậy có thể biết, nếu chúng ta muốn
hết thảy chúng sanh thật sự tin tưởng pháp
môn này, chỉ có một phương pháp: Phải giảng cặn
kẽ kinh điển này cho người khác nghe, v́ sao? Họ
mới có thể tin tưởng. Nếu quư vị chẳng
giảng cặn kẽ cho họ nghe, họ chẳng tin!
Phát nguyện hoằng kinh là pháp bậc nhất, thù thắng
nhất để báo ân Phật. Có lẽ sẽ có đồng
học nói: “Tôi rất ngu, chẳng đủ tŕnh độ,
làm sao có thể hoằng kinh? Làm sao có thể giảng kinh
được?” Người ở Nam Phổ Đà Phật
Học Viện kể với tôi: “Phật học viện ấy
có mười mấy vị đồng học đă tốt
nghiệp Đại Học, những người khác
đă tốt nghiệp Cao Trung (cấp ba, Trung Học Đệ
Nhị Cấp), hoặc có bằng chuyên khoa trở lên, tŕnh
độ cao, hay quá! Họ giảng cho tôi, tôi không màng, v́
sao? V́ tôi chẳng có tŕnh độ cao như vậy!” Thuở
ấy, thầy Lư mở lớp dạy chúng tôi học giảng
kinh, trong nhóm ấy, người đă học Đại Học
(vẫn chẳng biết là có tốt nghiệp hay chưa)
chỉ có một người, Cao Trung được hai ba
người, ngoài ra phần lớn là vừa xong Tiểu Học
hoặc tốt nghiệp Sơ Trung, có tŕnh độ
như vậy. Tuổi tác th́ sao? Từ ba mươi trở
lên là trẻ nhất. Tuổi cao th́ như bà Lâm Khán Trị
đă sáu mươi tuổi, học hết Tiểu Học,
tham dự lớp ấy với chúng tôi. Khi bà Lâm Khán Trị
học giảng kinh ở đó, cháu nội gái của bà là
cô giáo trường tiểu học quốc lập; bà Lâm
đă thuộc hàng bà nội mà c̣n bắt đầu học
giảng kinh với chúng tôi tại đó. Hai mươi mấy
người chúng tôi, trong hai năm được thầy
Lư huấn luyện, ai nấy đều lên bục giảng,
giảng vẫn khá lắm! Có thể thấy là chuyện này
chẳng cần tŕnh độ rất cao, tuổi cao trọn
chẳng trở ngại!
Khi đó, thầy Lư bảo chúng tôi, khuyến
khích chúng tôi như sau: “Học những thứ thuộc về
thế gian th́ đóng tuồng B́nh Kịch khó nhất”. Cụ
bảo: “Hát B́nh Kịch khó nhất, khó hơn giảng kinh rất
nhiều”. V́ sao? Hát B́nh Kịch, nói chung, quư vị chẳng
thể cầm kịch bản lên sân khấu đọc được,
quyết chẳng thể được! Khi giảng kinh,
có thể bày kinh bổn và chú giải trên giảng đài, dễ
dàng hơn! C̣n một điều nữa, khi diễn tuồng,
mỗi chữ, mỗi câu chẳng thể hát sai, lại c̣n
phải thuộc động tác, phải phối hợp nhịp
nhàng theo tiết tấu của thanh la và trống. Khó quá!
Không chỉ là khó gấp mười lần so với giảng
kinh. Cụ nói: “Chuyện đó mà c̣n có người có thể
học được, há c̣n có chuyện ǵ khó khăn nữa
ư?” Có thể học được hát tuồng như
thế nào? Cụ bảo: Xưa kia, tại Đại Lục,
gia cảnh rất nghèo hèn, con thơ nuôi không nổi, bèn bán
cho gánh hát để theo học tuồng. Bán cho gánh hát, trong
khế ước có một điều: “Đánh chết chẳng
đền mạng”. Lăo nhân gia nói: “Thiên hạ chẳng có ǵ
không học được”. V́ sao? Đ̣n vọt, khi bị
đánh quư vị liền ghi nhớ. Chỗ này quư vị nhớ
không được, bị đánh bèn đặc biệt
ghi nhớ. Trong lớp học giảng kinh của chúng tôi,
thầy Lư không chỉ chửi bới, mà c̣n đánh nữa.
Tuổi tác chúng tôi rất lớn, người ngoài nh́n vào
thấy khó coi. V́ vậy, chúng tôi lên lớp đều
đóng chặt cửa, không cho người khác xem. Không chỉ
là chẳng thể cho người khác xem, mà bên ngoài có sai
người ḍ la, chẳng cho họ tiếp cận, [bởi
lẽ], trong lớp học có đánh, có chửi! Chỉ cần
quư vị phát tâm, chẳng có ai không học được!
Không cần tŕnh độ rất cao!
Thuở trước, tại Hương Cảng,
pháp sư Diễn Bồi muốn thâu nhận mấy đồ
đệ, điều kiện của Ngài là: “Chỉ cần
thật thà, nghe lời, tốt nghiệp Sơ Trung là
được rồi”. Người ta hỏi Sư:
“Người khác nhận học tṛ đều phải là tốt
nghiệp Đại Học, hoặc là Tiến Sĩ xuất
gia. Sao lăo nhân gia ra điều kiện thấp như vậy?”
Cụ Diễn Bồi nói: “Tŕnh độ của tôi rất
thấp”. Nói lời ấy có lư lắm. Tŕnh độ cao, mắt
trợn ngược lên đỉnh đầu, không nghe lời,
thứ ǵ cũng chẳng thể học được! Thật
sự phát tâm, Tam Bảo gia tŕ. V́ vậy, chỉ cần có
nguyện, chẳng có ai không thành tựu!
Phải phát tâm hoằng kinh, giảng rơ ràng, minh
bạch kinh điển th́ mới có thể làm cho người
nghe dấy ḷng tin. Nếu quư vị giảng bộ kinh này,
thính chúng chẳng có một ai tin tưởng, quư vị
đă hoàn toàn thất bại. Nếu trong thính chúng có người
tin tưởng, quư vị đă thành công, chẳng uổng
công giảng kinh này, đó là bước đầu tiên, là
thành công nho nhỏ. Thành công bậc trung là trong số đó
có người phát nguyện. Thành công bậc thượng
là trong thính chúng có người văng sanh. Có người quyết
định văng sanh th́ giảng kinh như vậy có công
đức thượng thừa, đúng là tiếp dẫn
văng sanh. Điều này nhằm nói rơ tầm trọng yếu
của việc phát nguyện hoằng kinh.
(Sao) Nguyện nhiên hậu hành, vô nguyện tắc hạnh
hà diêu khởi? Hạ văn tín hạnh, thử vi bổn
nguyên.
(鈔) 願然後行,無願則行何繇起。下文信行,此為本原。
(Sao: Nguyện rồi sau đó bèn hành. Không có nguyện
th́ hạnh do đâu mà khởi được? Tín và hạnh
trong phần kinh văn phía sau có cội nguồn từ chỗ
này).
Nghe pháp là cội nguồn.
(Sao) Tín hạnh nguyện tam, Tịnh Độ tư
lương, sung túc vô khiếm.
(鈔) 信行願三,淨土資糧,充足無欠。
(Sao: Ba điều Tín Hạnh Nguyện là tư
lương Tịnh Độ được trọn đủ
chẳng thiếu hụt).
Ba điều kiện đầy đủ. Có
các đồng học phát tâm giảng kinh thường
đến hỏi tôi: Làm như thế nào th́ mới giảng
kinh này cho hay được? Chẳng có cách nào học
được điều này! Tôi thật thà bảo cùng mọi
người: Tôi học kinh với thầy Lư ở Đài
Trung, trước khi xuất gia, tôi theo thầy một
năm ba tháng, đường lối kỹ thuật và
phương pháp biểu diễn của thầy trên bục
giảng tôi đều biết hết. Điều này giống
như học binh pháp, tôi đă học binh pháp nhuyễn nhừ,
nhưng như thế nào? Chẳng thể đánh giặc!
Trên giảng đài, tôi không thể dùng được! Tôi ở
dưới phê b́nh, điều ǵ tôi cũng đều có thể
phê b́nh, v́ sao? Tôi biết. Nhưng khi tôi lên giảng đài,
chẳng thể sử dụng, v́ sử dụng chẳng
thích hợp. Sau khi xuất gia, tôi lại đến Đài
Trung, theo học với thầy bảy, tám năm. Trong bảy,
tám năm ấy, học những ǵ? Hoàn toàn quan sát, phỏng
theo thầy. Thầy giảng như thế nào th́ kinh này tôi
cũng có thể giảng. Ở trên bục giảng, tôi giảng
theo cách nào? Nghe theo thầy, thầy giảng theo cách nào? Tôi
nghe là nghe những thứ ấy, trọn chẳng phải
là nghe thầy giảng kinh văn. Phương pháp nghe kinh ấy,
trong các học tṛ của lăo nhân gia chẳng có người
thứ hai. Đối với nội dung của kinh điển,
cụ cũng tham khảo chú giải. Các bản chú giải
tôi đều có, thậm chí tôi thâu thập các bản chú giải
c̣n nhiều hơn cụ. Cụ lên bục giảng, diễn
giải những tài liệu ấy ra sao, tôi quan sát điều
ấy. Chư vị ngẫm xem, học lấy đường
lối, học phương pháp, trong hai giờ tôi học
hiểu; nhưng phải học sao cho trên giảng đài,
chính ḿnh có thể vận dụng linh hoạt, sử dụng
thuận theo ḷng muốn. Tôi quan sát thầy Lư suốt bảy,
tám năm, chính ḿnh luyện tập trên giảng đài
mười năm mới sử dụng theo đúng ḷng muốn,
mọi việc đều thuận lợi. Đây chẳng
phải là chuyện đơn giản, chẳng phải là
ai cũng có thể học được!
Tôi quy kết một trọng điểm, trọng
điểm chính là thái độ học tập, đó là
nhân tố quyết định. Phương pháp và sự
khéo léo kém quan trọng hơn, chúng đương nhiên là trọng
yếu, nhưng chẳng phải là quan trọng nhất.
Quan trọng nhất là thái độ tu học. Trong [giảng]
kinh, chúng tôi thường khuyên các đồng tu hăy buông bỏ
chính ḿnh, tuyệt đối chẳng v́ tiếng tăm, lợi
dưỡng của chính ḿnh, hết thảy nhằm báo ân
Phật ân, nhằm báo ân chúng sanh. Quư vị sử dụng
tâm thái như vậy th́ mới có thể cảm ứng
đạo giao cùng chư Phật, Bồ Tát, trên giảng
đài mới được chư Phật, Bồ Tát gia
tŕ, mới có thể giảng hay, giảng đến nỗi
có thể chạm đúng tiếng tơ ḷng của người
nghe.
Nói thật ra, chạm đúng tiếng tơ
ḷng của người nghe có phải là năng lực của
chính ḿnh hay không? Chẳng phải, đó là do Phật, Bồ
Tát gia tŕ! Không chỉ là người giảng được
Phật, Bồ Tát gia tŕ, mà người nghe cũng
được Phật, Bồ Tát gia tŕ. Nếu Phật, Bồ
Tát chẳng gia tŕ, làm sao quư vị nghe hiểu cho được?
Quư vị có thể nghe thông hiểu, nghe hoan hỷ là do Phật,
Bồ Tát gia tŕ. Điều này chứng tỏ thiện
căn từ vô lượng kiếp trong đời quá khứ
đă phát hiện. Quư vị chẳng có thiện căn, Phật,
Bồ Tát có muốn gia tŕ cũng chẳng thể gia tŕ!
Chính ḿnh thật sự có thiện căn, hiện thời
được Tam Bảo gia tŕ, người nói và kẻ
nghe mới có thể đạt được lợi ích
thù thắng. Lợi ích thù thắng là sanh khởi chân tín,
nguyện thiết, y giáo phụng hành, trong đời này quyết
định văng sanh thế giới Cực Lạc. Điều
hết sức quan trọng là phải bỏ sạch hết
thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng!
Tu Tịnh Độ, tuy Tịnh Độ có
năm kinh một luận, nhưng nếu chư vị thật
sự mong quyết định sanh về Tịnh Độ
trong một đời này th́ đối với năm kinh một
luận, chỉ có thể chọn lấy một thứ.
Năm kinh một luận là sáu thứ, chọn bất cứ
một thứ nào cũng đều được, đều
có thể quyết định thành tựu, thâm nhập một
môn. Sau khi đă thâm nhập một môn, năm thứ khác chắc
chắn sẽ thông suốt. Không chỉ là thông suốt
năm thứ khác, mà tất cả hết thảy Đại
Thừa Phật pháp cũng nhất định sẽ thông
đạt. Không chỉ là thông đạt Đại Thừa
Phật pháp, mà lại thưa cùng quư vị, hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có ǵ không
thông đạt. V́ sao? V́ hết thảy các pháp thế gian
và xuất thế gian đều là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”,
quư vị thật sự chứng được thanh tịnh,
b́nh đẳng, há lẽ nào chẳng thông đạt? Chứng
đắc thanh tịnh b́nh đẳng là chứng đắc
nhất tâm bất loạn, là minh tâm kiến tánh, là đại
khai viên giải. Sau khi đă thông đạt hết thảy,
khi đó, quư vị vẫn đại từ đại bi
hoằng dương một môn, v́ sao? Nêu gương cho kẻ
chưa ngộ, khiến cho họ có một con đường
chánh đáng để noi theo. Đó là từ bi. Chúng ta thấy
bao nhiêu vị tổ sư đại đức từ
xưa, suốt đời chuyên hoằng truyền một bộ
kinh, hoặc một bộ luận, tối đa là chẳng
vượt quá mười bộ. [Những vị hoằng
truyền] mười bộ hết sức hiếm có, quá nửa
là chuyên hoằng truyền một bộ hoặc hai bộ.
Các Ngài có thành tựu thù thắng ngần ấy, đều
nêu gương cho chúng ta, đấy cũng là các vị tổ
sư đại đức đại từ đại
bi; chẳng phải là các Ngài không biết, thứ ǵ các Ngài
cũng đều thông hiểu!
Nói
tới chỗ này, ba điều kiện đầy đủ.
Hễ ba điều kiện đầy đủ, chắc
chắn sẽ văng sanh. Phẩm vị văng sanh cao hay thấp,
tùy thuộc quư vị có công phu cạn hay sâu! Công phu là ǵ?
Công phu chẳng phải là niệm Phật hiệu bao nhiêu,
không do điều này, mà là độ thuần nơi cái tâm
thanh tịnh trong niệm Phật. Tâm càng thanh tịnh, càng
b́nh đẳng, công phu càng sâu. Công phu cạn hay sâu phụ
thuộc mức độ thanh tịnh của cái tâm; nói
theo kinh Vô Lượng Thọ sẽ là “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác”, ba chuyện này có mức độ cao thấp,
sâu cạn sai khác. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này.
A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa
Phần 103
hết
[1] Kinh này có tên gọi đầy
đủ là Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Kinh, c̣n
gọi là Phát Khởi Đại Thừa Bồ Tát Thù
Thắng Chí Nhạo Kinh, do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch
vào đời Đường, là một hội trong kinh
Đại Bảo Tích.
[2] Ngài Từ Chiếu tên thật là Mao
Tử Nguyên (1096-1166), pháp danh Từ Chiếu, hiệu là
Vạn Sự Hưu, người Côn Sơn, Ngô Quận (nay
thuộc tỉnh Giang Tô), sáng lập Bạch Liên Tông trong
niên hiệu Thiệu Hưng đời Nam Tống. Sư
mồ côi từ bé, năm mười chín tuổi xuất
gia tại chùa Diên Tường, thoạt đầu theo ngài
Tịnh Phạm thuộc tông Thiên Thai để tu tập
Chỉ Quán. Năm 1131, do hâm mộ di phong của tổ
Huệ Viễn, Sư sáng lập Bạch Liên Sám
Đường tại hồ Đĩnh Sơn trấn
B́nh Giang, tự xưng là Bạch Liên Đạo Sư,
chuyên tu Tịnh nghiệp. Sư lại phỏng theo giáo
nghĩa Thiên Thai, biên soạn bộ Viên Dung Tứ Độ
(tức là bộ Tứ Độ Đồ Thuyết) và
Thần Triêu Lễ Sám Văn (văn sám hối lúc sáng
sớm), lập ra một giáo nghĩa riêng trong Tịnh
Độ Tông, nên gọi là Bạch Liên Tông. Các đồ
đệ của Ngài phần lớn chỉ ăn chay, không
xuất gia, có thể lập gia đ́nh. Do có những
kẻ đệ tử mang dạ bất chánh, nhất là
Tiểu Mao Xà Lê, xuyên tạc giáo nghĩa để làm
bậy, lôi kéo tín đồ, biến Bạch Liên Tông thành tà
giáo, Ngài bị gán tội “ăn rau thờ ma, tụ tập
ngu phu ngu phụ làm chuyện xằng bậy trong chốn
rẫy bái” nên bị triều đ́nh đầy đi Giang
Châu cho đến năm Thiệu Hưng thứ ba (1133)
mới được ân xá. Năm Càn Đạo thứ hai
(1166), Sư được hoàng đế triệu vào cung
hỏi đạo, Sư phu diễn sâu xa pháp môn Tịnh
Độ, nên được vua ân tứ danh hiệu
Khuyến Tu Tịnh Nghiệp Liên Tông Đạo Sư
Từ Chiếu Tông Chủ. Ngài c̣n để lại các
trước tác là Liên Tông Triêu Thần Sám Nghi, Tịnh
Độ Thập Môn Cáo Giới, Di Đà Tiết Yếu,
Tây Hành Tập, Viên Dung Tứ Độ Tam Quán Tuyển
Phật Đồ v.v… Sau khi Ngài mất, do tín chúng đông
đảo, phổ cập sâu rộng, nhưng quy chế
quản trị tông môn lại lỏng lẻo, những
người kế thừa lại cho phép hàng tại gia
tự do thâu nhận tín đồ, truyền giới
loạn xạ, khiến cho những kẻ hoạt
đầu lợi dụng trà trộn, lôi kéo vây cánh,
đồng thời pha tạp những tín điều mê tín
xằng bậy ḥng dễ thu hút tín đồ. Thậm chí có
kẻ mạo nhận là Hoạt Phật Như Lai, hoặc
xưng là Phật Mẫu Đại Sĩ để
lừa bịp tín đồ, biến Bạch Liên Tông thành tà
giáo Bạch Liên Giáo, chuyển từ niềm tin vào Di Đà
Tịnh Độ thành thờ phụng Di Lặc Phật,
pha tạp rất nhiều giáo nghĩa của Minh Giáo. V́
thế, cuối cùng, Bạch Liên Giáo chọn h́nh ảnh hoa
sen trắng trong lửa đỏ để làm biểu
tượng, gần như trở thành một biến tướng
của giáo nghĩa Minh Giáo. Bạch Liên Giáo chính là cội
nguồn của các tà giáo sau này như Long Hoa Trai Giáo, La Giáo,
và gần đây nhất là Nhất Quán Đạo. Do
vậy, vào đời Nguyên, ngài Ưu Đàm Phổ
Độ phải viết bộ sách Liên Tông Bảo Giám
nhằm chấn chỉnh những quan niệm sai lầm và
trùng hưng giáo nghĩa chân chánh của Tịnh Độ.
[3] Nhân Dân Tệ (Renminbi, thường viết
tắt là RMB) là đơn vị tiền tệ do Trung Cộng
phát hành tại Hoa Lục, đồng tiền này được
phát hành từ ngày mồng Một tháng Hai năm 1948.
[4] Theo cổ lễ, ngồi ở phía
Bắc, ngoảnh mặt về phương Nam là tôn quư
nhất. V́ thế, thiên tử, chư hầu, khanh
đại phu khi tiếp kiến người khác
thường ngồi phía Bắc ngoảnh mặt về
phương Nam. Về sau, từ ngữ này chỉ được
dùng để nói về ngôi hoàng đế, và do đó có
thành ngữ “Nam diện xưng
cô” (ngoảnh mặt về phương Nam, xưng là Cô
(孤). Cô là tiếng
khiêm xưng của đế vương ư nói đức
hạnh kém cỏi, nên cô độc, trơ trọi v́
chẳng có đức hạnh chiêu cảm hiền
thần). “Thiệu nam diện”
(紹南面: Nối tiếp địa vị
ngoảnh mặt về phương Nam) tức là nối
ngôi vua.
[5] Trữ quân là danh xưng để gọi
hoàng thái tử, c̣n gọi là thái tử, hoàng trữ,
vương trữ, đại công trữ, vương thái
tử, đông cung. Con trai cả hoặc người nối
ngôi vua chư hầu không được phép gọi là thái tử
(太子: Thái có nghĩa
là to lớn), mà gọi là thế tử (世子). Trong nghĩa gốc,
Đông Cung là phía Đông của hoàng cung, nơi hoàng thái tử
có một tiểu triều đ́nh nhằm huấn luyện
thái tử học cách cai trị, chứ không có quyền hành
thật sự. Người đứng đầu các liêu
thần trong Đông Cung thường là một vị lăo thần
giàu kinh nghiệm do hoàng đế bổ nhiệm, thường
do Thái Phó (thầy dạy của thái tử) đảm nhiệm.
Do phương Đông thuộc Mộc trong Ngũ Hành, mà Mộc
có màu xanh, tượng trưng cho mùa Xuân, nên đôi khi
Đông Cung c̣n được gọi là Thanh Cung hoặc Xuân
Cung.
[6] Ư nói bản kinh này có chi tiết này,
bản kinh kia không có. Hoặc bản kinh kia có, mà bản này
không có.
[7] Đạm Thủy là một khu hành chánh
của thành phố Tân Bắc (một thành phố phụ
cận mở rộng của Đài Bắc). Khu này
được đặt tên theo sông Đạm Thủy.